Nợ Em Một Đời

Xin vui lòng click vào hình để đọc




Mẹ Tôi

TRÌNH  LÀNG

 “MẸ TÔI” là những mảnh hồi ức mà tác giả gom lại để viết ra thành một tuyển tập. MẸ TÔI hay QUÊ HƯƠNG TÔI cũng là một nghĩa, nó bàng bạc chập chùng lẫn lộn nhau trong hồn tác giả như những khúc mắc không thể tách rời, và từ trong những kỷ niệm gắn chặt vào đời sống, tác giả đã chắt chiu mang theo như một hành trang của ba lần tỵ nạn cộng sản.

Nhà văn Cao Hành Kiện (Gao Xing Jian) trong bài diễn văn tiếp nhận giải Nobel văn chương năm 2000 đã phát biểu:

“Văn học môt khi uốn thành tụng ca của quốc gia, kỳ xí của dân tộc, miệng lưỡi của chính đảng, hoặc phát ngôn của một giai cấp, môt tập đoàn, cho dù có thể mở rộng thủ đoạn tuyên truyền, mở rộng thanh thế, rợp trời kín đất chi nữa, cái loại văn học đó cũng chôn vùi mất bản tính, không thành văn học, mà biến thành công cụ của quyền lực hoặc lợi ích.

Văn học muốn bảo vệ lý do tồn tại của chính nó và không biến thành công cụ của chính trị thì không thể không quay về với tiếng nói của cá nhân, bởi văn học trước hết là cảm thụ của cá nhân mà ra, có cảm mới có phát.”

Chính vì ý tưởng không muốn làm công cụ tuyên truyền cho bất cứ quyền lực chính trị nào nên tác giả đã cố gắng đứng ở vị thế khách quan, tuy nhiên sự thật vẫn là sự thật không thể chối cãi, và đôi khi vì xúc động nên tác giả đã ngả theo quan niệm riêng bởi sự sống thực trong mỗi chế độ chính trị mà viết ra những cảm nghĩ của mình, âu đó cũng là tiếng nói cảm thụ của cá nhân, tiếng sóng động vỗ bờ của tâm hồn, và là tiếng gọi cho công bằng của con người trong tự do và yêu thương nhân bản.

Dĩ vãng tác giả là những trắc trở đau lòng của lớp trẻ sinh ra trong nạn đói 1943, trưởng thành trong chiến tranh khói lửa của quê hương để rồi tất cả tan rã như xác pháo trắng tay mộng vỡ, và mang trên lưng sự nhục nhằn dân nhược tiểu kéo lê kiếp sống tỵ nạn nửa đời.

Biết đâu trong những khúc mắc oan khiên này, tác gỉa cũng có sự trùng hợp ngẫu nhiên với độc giả, và nếu có thật thì “Mẹ Tôi” là những lời tâm tình độc thoại với độc giả trong những buổi chiều buồn nhớ tới quê hương xa xôi vạn dặm.

Rất mong quý độc giả thông cảm trong khi đọc cuốn hồi ức tuyển tập tuyện ngắn “MẸ TÔI”.

Một chút xúc động hay một chút suy tư  nếu có của quý vị thì đó cũng là nỗi niềm của quý vị đối với quê hương Việt Nam mà tôi đã thay quý vị viết ra, và kể như đó cũng là một mảnh tình quý vị lưu lại trong MẸ TÔI.

Xin thành thật cám ơn quý vị.

San Jose, April

Xin vui lòng click vào hình để đọc




CÕI ÂM

https://www.facebook.com/vth.ntt

1

Tôi tốt nghiệp đại học tài chính đúng lúc kinh tế Pháp xuống dốc. Kiếm việc lúc bấy giờ khó ơi là khó, nhớ lại mà rùng mình. Đã tưởng một khi cầm được mảnh bằng trong tay ắt đời phải phơi phới lên hương, thế mà rốt cuộc lũ sinh viên vừa ra trường vẫn phải chạy đôn chạy đáo để xin một việc làm bất kỳ mà không được, khốn nạn là thế. Tôi nộp đơn vào ngành bưu điện là ngành tréo cẳng ngỗng nhất hạng đối với chuyên môn của mình vì chẳng còn đường nào khác. Những người trên thông thiên văn dưới thông địa lý bảo: đó chính là nơi duy nhất tôi có cơ may được nhận.
Đơn gửi đi rồi, tôi dài cổ chờ. Một tháng. Rồi hai tháng. Đùng một cái, giữa tháng thứ ba, đang lui cui rửa chén ăn lương giờ cho một quán ăn Tàu, tôi nhận được giấy làm việc ở Sermages thuộc vùng Basse Normandie. Mừng khôn tả. Thiếu nỗi phát điên.
Sermages là một thị trấn nghèo, với hơn trăm ngàn dân, bé tẹo và già lão, nhà cửa ọp ẹp. Ở ven đô còn sót lại một cổng đá hộc đầy hoa phong lữ, một cái hào sâu tối om dưới bóng những gốc tiêu huyền rậm rạp, một pháo đài đổ nát không biết từ thế kỷ nào… Một thị trấn thích hợp với những ông già chờ chết, nhưng không phải với tôi.
Đồng nghiệp trong sở ăn vận chững chạc, nói năng điềm đạm, có điều rất chi hờ hững với thằng tôi lính mới cứ như thể tôi đã ở bên họ từ khươm mươi niên nào. Nói tóm lại, đó là dân Ăng Lê bên này biển Manche, những robots cổ cồn chính hiệu. Thôi thì đành tự thân vận động, được đến đâu hay đến đó, trời sinh voi trời sinh cỏ. Tôi lấy tạm một phòng hẹp gần sở, trả theo tuần, trong một nhà trọ tồi tàn, có rệp, được mỗn cái giá cũng phải chăng. Từ từ rồi sẽ kiếm cho mình một căn hộ, hoặc một ngôi nhà nhỏ, tôi tính thế. Đã đến lúc phải sống cho ra sống. Chẳng gì bây giờ mình cũng là một viên chức, dù là viên chức quèn. Sermages đâu phải nơi phồn hoa đô hội, giá nhà thuê không thể quá đắt. Vĩnh biệt những chambres de bonnes áp mái ở Paris, mùa hè như trong lò bánh mì, mùa đông tha hồ diện áo ấm trong nhà, nơi trú ngụ của bộ lạc sinh viên nghèo.
Tìm nhà ở đây tưởng dễ, hoá không phải. Lang thang đến vẹt gót giày trong cái tỉnh lỵ bằng cái giạng đái, nói ngoa theo cách người xưa, thế mà hai tháng qua cái vèo vẫn chưa kiếm được chỗ nào ưng ý. Nhà ở cũng như đàn bà, người mình ưng thì không ưng mình, người ưng mình thì mình lại không ưng.
May cho tôi gặp được Ngoạn.
Ngoạn cho biết: ngoài anh và tôi ra, ở chốn đèo heo hút gió này không có một người Việt nào khác. Giúp tôi là nghĩa vụ người đến trước, anh vỗ vai tôi đồm độp, nói bằng giọng đàn anh che chở. Được ăn nhiều thịt hươu thịt vượn từ tấm bé trước khi vượt biên đến xứ này, tôi nghe vậy biết vậy, chứ chẳng mấy tin.
Thấp, đen, cục mịch, với một sợi lông dài mọc ra từ một nốt ruồi trên má, Ngoạn giữ nguyên dáng dấp một ông phó cối vùng đồng bằng Bắc bộ ngày xưa, mặc dầu anh đã ở Pháp trên hai mươi năm. Ngoạn làm nghề sửa chữa vặt trong nhà, người Pháp gọi là plombier. Một thằng không bằng cấp, lại vợ đầm (tốn hơn vợ ta nhiều), hai con nhỏ (tốn hơn con ta nhiều), làm plombier là tốt nhất, anh bảo thế. Plombier là thợ đặt đường ống, theo nghĩa nguyên thuỷ, nhưng plombier làm tuốt tuột mọi việc linh tinh lang tang như mở khoá hóc, đặt hố xí, sửa chữa cửa rả, chạy dây điện ngầm…

  • Giờ công việc oải lắm, cậu ơi. Kinh tế mà đã xuống thì kiếm tiền bằng nghề chó nào cũng vất – Ngoạn tâm sự trong một quán cà phê, nơi mọi ghế ngoài vỉa hè đều xếp quay mặt ra đường, rất Paris – Cậu ngồi bàn giấy, trông thì bảnh, cơ mà chông chênh lắm… Mất việc lúc nào không biết. Ngay cả với nhân viên nhà nước.
    Tôi buồn rầu hình dung cái viễn cảnh ấy. Dễ như Ngoạn nói lắm.
  • Mất việc thì đi làm với tớ – thấy tôi thở dài, Ngoạn an ủi – Nghề tớ không sang, khó thì khó, vẫn còn có đồng ra đồng vào…
  • Anh Ngoạn ạ, gặp anh tôi thật may.
  • May cái con khỉ. Này, đừng gọi tớ là Ngoạn, phải gọi là Nô Ăng, theo cách bọn Tây gọi, chứ không thì đến con vợ tớ nó cũng không hiểu. Bọn Tây không phát âm được vần ng, chúng nó đổi béng cái tên của tớ thành Noan. Cho tiện. Được nghe cậu gọi tớ bằng tên cúng cơm, thấy đã con ráy.
    Tôi kể nông nỗi đi tìm nhà. Anh gật gù, suy nghĩ.
    Một tuần sau anh gọi điện cho tôi biết đã tìm được một căn nhà ngoại ô.
  • Mình xem mấy cái, ưng được cái này. Một đôi thì vừa xinh. Một mình thì quá rộng. Ở lâu được, không phải kiếm chỗ khác.
  • Nhà nhiều phòng?
  • To đùng.
  • Tôi chưa định lấy vợ. Nhà to thì tiền to, hãi lắm.
  • Đã biết là bao nhiêu mà rộn. Rẻ rề hà.
    Tôi chờ Ngoạn cho tôi biết tiền nhà, nhưng anh không vội nói ra.
    Anh miêu tả căn nhà, bảo:
  • Không sang, được cái rẻ.
    Anh xướng lên giá thuê. Tôi trợn mắt.
    Làm sao Ngoạn có thể tìm được ngôi nhà với giá hời đến thế?
  • Làm plombier chẳng khác gì làm anh cắt tóc, tha hồ nghe, đủ chuyện tào lao thiên tôn. – Ngoạn nhẩn nha giải thích – Chủ nhà nào cũng thế, cũng hay tâm sự vụn trong lúc ngó nghiêng mình làm việc. Nhất là các ông bà già. Mình nói có ông bạn cần nhà, thế là người nọ mách, người kia mách, chỉ còn có việc nhấc điện thoại mà hỏi. Giỏi gì đâu.
    Những ngôi nhà tôi đã xem cái nào cũng đắt, giá thuê nếu không gấp ba trung bình thì cũng gấp đôi. Tiếc nỗi, từ căn nhà ngoại ô này đi bộ đến sở tính ra mất gần một tiếng, gặp xe buýt thì cũng phải hai mươi phút. Xe buýt ở đây thưa, nửa giờ một chuyến, lại hay đỗ vặt.
    Nhà sẵn đồ đạc, nhiều nữa là khác. Đến nỗi Ngoạn định sẻ cho tôi một ít đồ dùng ở nhà anh, rốt cuộc chẳng phải mang đến thứ gì.
    Đưa cho tôi chìa khoá, ông già chủ nhà dặn:
  • Mọi thứ ở đây ông cứ việc dùng. Điều kiện duy nhất là đồ đạc trong nhà xin ông đâu để nguyên đó, đừng xê dịch. Nếu ông không chịu thì coi như vụ này không thành.
    Tôi chấp nhận điều kiện ấy ngay lập tức, như bất cứ người thuê nhà gặp giá rẻ nào. Thế này là tốt quá rồi, khỏi phải lang thang các siêu thị, rẽ vào các cửa hàng đồ cũ, tha lỉnh kỉnh trăm thứ bà rằn về nhà.

2

Thế mà rồi tôi quên bẵng lời hứa.
Ở được vài hôm, thấy cái giường đặt ở vị trí đối diện lò sưởi là không phải lối, tôi quyết định dịch nó ra bên cửa sổ, vừa có nhiều khí trời, vừa nhiều ánh sáng, đi làm về có thể nằm ườn ra đọc sách mà không cần phải bật điện. Cái tivi cổ lỗ, thuộc thế hệ tivi màu đầu tiên, to như một tủ lạnh, cũng cần đẩy qua bên phải một chút, xoay lại vị trí để cái màn hình đã bạc phếch không bị phản quang do ánh sáng từ cửa sổ chiếu vào.
Một đêm, chợt thức giấc, tôi thấy có bóng người ngồi thu lu trong chiếc ghế bành đặt bên lò sưởi. Nửa tỉnh nửa mê, tôi nhận ra đó là một người đàn ông đứng tuổi vận áo choàng đen, đội mũ phớt. Tôi nổi da gà. Tôi ở một mình, cửa đóng then cài, làm sao có người vào được?
Trong ánh sáng mờ mờ của sao trời chiếu qua cửa sổ tôi thấy người đó không có vẻ một tên trộm. Trộm gì mà bình thản đến thế trong căn nhà nó đột nhập?
Những gì tôi đọc được thì trong tình huống như thế này cách xử sự khôn ngoan nhất là vờ ngủ say. Người vờ ngủ say, cả trong nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, trong mọi mối quan hệ cá nhân cũng như quan hệ xã hội, người sống theo nguyên tắc ba không – không biết, không nghe, không thấy – bao giờ cũng tìm được lối thoát an toàn.
Mắt hé mở, tôi nhìn thấy tên trộm yên vị một lúc lâu trong bóng tối. Ngồi chán, hắn đứng lên, đi đi lại lại, dáng suy nghĩ, đầu hơi cúi, bàn tay phải đưa lên gãi cằm. Rồi đến bên lò sưởi, hắn nhấc từng thứ trên đó lên mà ngắm nghía. Đầu tiên, hắn ngó nghiêng quan sát kỹ tượng cô vũ nữ pha lê với cánh tay trần bị gãy đã được gắn lại bằng keo trong, rồi đến cái bloc lịch bằng gỗ mà thời gian chết cứng với ngày tháng không đổi, thứ lịch không có năm nên không thể biết được nó dừng lại từ năm nào… Trên lò sưởi là cả một lô một lốc đồ không tên, không biết có tự bao giờ, không hiểu được dùng vào việc gì, tất cả chen chúc nhau trên một diện tích bé nhỏ. Cái nào cũng được tên trộm nhấc lên xem xét với vẻ trìu mến. Đáng ngạc nhiên là hắn không bỏ bất cứ thứ gì vào túi. Xem xong cái nào hắn lại nhẹ nhàng đặt vào chỗ cũ. Cái đáng giá nhất trong số những đồ vật ấy là cái ví của tôi, thì hắn thậm chí không thèm cầm lên.
Sau đó tên trộm đi một vòng căn nhà. Rồi lặng lẽ nhìn về phía giường tôi bằng cái nhìn không mấy thiện cảm, tôi không nhìn rõ nhưng cảm thấy thế bởi điệu bộ lầm lì của hắn.

  • Hừ.
    Hắn phát ra một tiếng duy nhất kể từ lúc tôi thấy hắn.
    Thế rồi hắn bắt đầu cúi xuống. đẩy cái tivi trở lại chỗ cũ. Sau cái tivi là cái ghế bành. Công việc rõ ràng nặng nhọc, tôi nghe hắn thở phì phò. Xong cái ghế, hắn tiến về phía chỗ tôi nằm. Một bầu không khí lạnh lẽo trùm lên tôi, càng lúc càng lạnh hơn, cùng với bước chân nhẹ như bước chân mèo của hắn. Trong khi hắn cố gắng đẩy, tôi có cảm giác thân hình hắn phình to dần, to mãi, trùm lên cả cái giường đang nhích đi từng chút một. Trong bóng đêm dày đặc ở chỗ tôi nằm, cặp mắt hắn gắn chặt vào mặt tôi.
    Tôi hét lên, chồm dậy, giơ tay vớ công tắc đầu giường.
    Đèn bật sáng. Tên trộm biến mất. Tôi run rẩy, mãi mới xỏ chân được vào dép, nhìn quanh căn phòng trống rỗng. Thở hổn hển, người lạnh toát vì sợ, tôi quỳ xuống, ngó vào gầm giường. Chẳng có quái gì hết.
    Tôi đi sang phòng ăn, vào bếp, vào phòng ngủ vẫn để trống từ khi tôi dọn đến. Không có gì hết. Kiểm tra lại mọi khoá cửa thấy vẫn y nguyên.
    Tôi ngồi phịch xuống giường, toàn thân ướt đẫm mồ hôi lạnh.

3

Tôi không kể cho Ngoạn nghe chuyện xảy ra. Tôi ngượng. Khi người đàn ông sợ ma, thiên hạ sẽ nhìn hắn như con nít.
Câu chuyện ban đêm tôi vừa kể không phải đến đấy là hết. Sau lần ấy là những lần khác.
Bây giờ tôi đã biết đích xác tên trộm là ai – một hồn ma. Ma thật sự. Các nhà bác học đeo kính trắng trong các phòng thí nghiệm giải thích hiện tượng hồn ma theo đủ mọi cách, thậm chí với những sở cứ có vẻ khoa học, tôi đã đọc. Nhưng tôi là thằng thực tiễn – tôi thừa nhận cái tôi thấy, giải thích cách gì đối với tôi cũng bằng thừa.
Khốn nạn cho tôi là ở chỗ, sau khi thừa nhận sự hiện hữu của con ma nọ, tôi chẳng biết phải làm gì nó? Đánh nhau với nó thì không được rồi – ai cũng biết ma chỉ là cái bóng. Chỉ còn nước bỏ ngôi nhà này mà đi? Để rồi bắt đầu lại, một lần nữa, cuộc lùng kiếm chỗ ở mới, rất mất thời giờ, nghĩ đến đã phát ớn?
Hồn ma nọ còn hiện về vài lần nữa, lần nào cũng như lần nào, với những cử chỉ lặp lại. Hắn rõ ràng chẳng có ý làm khó cho tôi. Hắn lẳng lặng làm công việc hắn muốn làm, và chỉ có thế. Như tôi đã kể, hắn hiền lành cầm các đồ vật lên ngắm nghía, hì hục đẩy các đồ bị xê dịch về chỗ cũ, một cách bực dọc và hoàn toàn vô tích sự – hôm sau tôi vẫn thấy chúng ở nguyên chỗ. Hắn có vẻ một hồn ma đứng đắn. Mọi cử chỉ của hắn đều khoan thai, chững chạc.
Thôi thì thây kệ, tôi nghĩ, mặc cho hắn làm cái việc hắn muốn. Xét cho cùng, sự hiện diện của hắn đâu có gây ra điều gì tệ hại cho tôi? Nếu hồn ma không đủ sức đẩy đồ vật thì hắn có thể làm được gì với tôi, một thằng người trên sáu chục kí lô?
Có điều sau mấy lần quan sát hắn đánh vật với mấy thứ bị tôi dịch chuyển, tôi đâm ra ái ngại cho hắn. Hắn quá vất vả. Mà hoài công. Nếu là tôi, tôi sẽ vứt ngay cái công việc vô tích sự và mất sức ấy. Hì hục như thế để làm gì cơ chứ?
Còn tôi, tại sao tôi không thể giúp hắn một chút? Gì thì gì, để hắn khốn khổ thế là không nên. Làm người phải có lương tâm. Nghĩ rồi, tôi làm liền, tức là đẩy trả lại mấy đồ vật về chỗ mà hắn muốn.
Đêm đến, hồn ma nghiêng ngó ngắm nghía cái tivi, cái ghế bành, cái giường. Hắn phát hiện ra sự thay đổi vị trí. Hắn tỏ vẻ hài lòng. Thay vì kiểm lại những đồ vật trên lò sưởi, hắn đi bách bộ trong phòng. Trông dáng đi của hắn, nhẹ nhàng chứ không uể oải, hơi nhún nhẩy nữa là khác, tôi biết hắn vui. Hình như hắn còn huýt sáo miệng nữa.
Cuối cùng, xoa hai tay vào nhau, hắn quyết định đi về phía tôi nằm.

  • Này ông bạn!
    Tôi nghe hắn dừng lại ở chân giường.
  • Đừng có giả vờ, tôi biết thừa…
  • Hừm, – tôi ọ ẹ – Tôi ngủ hay tôi thức mắc mớ gì tới ông?
  • Ông bạn này – hắn định đặt tay lên vai tôi, nhưng nghĩ sao, hắn rụt tay lại – Dậy đi!
  • Hừm – tôi lại nói.
    Lạ một cái là tôi không cảm thấy sợ như lần đầu thấy hắn. Nhìn vóc dáng hắn thì thấy hắn đã ở tuổi về già. Hắn có vẻ hiền lành, không phải là loại trẻ để có thể giở trò nghịch ngợm vô trách nhiệm.
  • Ông bạn tốt hơn là tôi nghĩ đấy.
  • Hừm – tôi đáp, vẫn nằm yên chỗ.
  • Này – hắn gọi tôi – nhà có cà phê không?
  • Cà phê hử? Có – tôi che miệng ngáp, vẫn giả giọng ngái ngủ.
  • Tuyệt! – hắn nói, lại xoa hai tay vào nhau, vẻ hài lòng.
  • Capuccino, được không? – tôi hỏi hắn một cách không nhiệt tình.
  • Capuccino? – hắn hỏi lại.
  • Có hộp capuccino hoà tan đấy. Ở trong tủ…
    Hắn nhún vai:
  • Capuccino hoà tan? Ồ, không, tôi không bao giờ xài loại ấy.
  • Tôi không có thứ nào khác.
  • Cả đời tôi chỉ uống expresso. Không dễ gì mà bỏ một thói quen lâu ngày như thế.
    Đúng là một hồn ma Pháp. Hồn ma Anh sẽ không đòi cà phê, mà trà sữa.
  • Ờ, thói quen là thứ không dễ bỏ – tôi lầu bầu – Nhưng đào đâu ra expresso bây giờ? Phải ra tận ga mới có một quán cà phê đêm, ông ơi. Mà là cà phê Thổ, loãng toẹt.
  • Đi uống cà phê vào giờ này ấy à? Có mà điên. Nhà có cà phê bột không?
  • Có. Tôi mới mua, hàng hạ giá. Pha kiểu Thổ ư?
    Hắn lắc đầu:
  • Không. Tôi không thích. Trong nhà có máy pha expresso, ông không biết à?
  • Không.
  • Có đấy. Để tôi chỉ cho ông bạn. Hoá ra ông là một thằng lười – hắn càu nhàu – Ở trong nhà ngần ấy thời gian mà không thèm biết có thứ gì, ở đâu…
  • Cái đó đúng, tôi vốn lười.
  • Dậy đi!
    Tôi uể oải ngồi dậy. Trong phòng tối om. Tôi sờ soạng tìm công tắc điện. Hồn ma giơ tay ngăn:
  • Đừng bật đèn. Tôi không thích ánh sáng. Thắp nến đi, nếu ông muốn. Ông biết nến ở đâu chứ?
  • Không.
    Hắn cười hí hí, hoặc tôi có cảm giác như thế. Tôi nghe thấy tiếng của tôi phát ra, chứ tiếng của hắn thì không. Tưởng chừng nghĩa của câu nói phát ra từ miệng hắn đi thẳng vào nhận thức của tôi, thứ lời nói không mảy may làm rung động không khí.
    Hắn dẫn tôi vào căn phòng nhỏ, thứ phòng chứa đồ, mà tôi chưa hề ngó tới vì sự ngổn ngang trăm thứ bà rằn trong đó. Hắn chỉ cho tôi chỗ để mấy hộp nến. Rồi hắn chỉ tiếp cho tôi lấy ra trong hộc một cái tủ xiêu vẹo, một cái máy pha cà phê Krups nằm bên dưới đủ thứ đồ tập tàng. Thứ máy cổ lỗ sĩ này chẳng còn ai dùng, áp suất hơi của nó quá thấp.
    Tôi vào bếp, bật ga, đun nước. Hắn uống cà phê, còn tôi sẽ uống trà đen. Uống cà phê lúc này có mà thức đến sáng.
    Hắn đứng gần tôi, ngay bên cạnh. Tôi rất muốn nhìn xem mặt hắn thế nào, mà ngại. Biết chỗ để nến rồi tôi cũng không muốn thắp lên là vì thế. Tôi sợ nhìn thấy một cái đầu lâu với hai hố mắt sâu hoắm như những hồn ma trong phim kinh dị của Mỹ. Những hồn ma Mỹ thường giống nhau, chắc hẳn do người Mỹ tiết kiệm, phim nọ dùng lẫn chế vật của phim kia. Một cái đầu lâu dưới vành mũ sùm sụp chắc hẳn rất gớm ghiếc. Hình như hắn dễ coi hơn, dưới vành mũ là một cái mặt chứ không phải một cái đầu lâu, tôi nhác thấy nó trong một thoáng, do vô tình, lúc chúng tôi đi song hàng.
    Hắn hài lòng thưởng thức ly expresso. Hắn uống chậm, từng hớp nhỏ. Với tư cách chủ nhà, tôi hài lòng thấy khách hài lòng. Chúng tôi ngồi cách nhau mấy bước, hắn – trong ghế bành, tôi – trên ghế tựa.
  • Ông bạn, e hèm, biết nói thế nào nhỉ, ừm…
  • Sao?
    Hắn gãi đầu:
  • Tức là, tôi muốn nói, ông là người, hì hì … kể ra… cũng được đấy!
  • Ông quá khen.
    Hồn ma gật gù:
  • Trước hết, tôi phải cảm ơn ông.
  • Ơn huệ gì!
  • Ơn chứ. Rốt cuộc, rồi ông đã chiều theo ý tôi trong việc trả lại mấy thứ nọ về chỗ cũ. Tính tôi thế: tôi không thể nào chịu được khi thấy đồ đạc bị di chuyển khỏi chỗ mà tôi đã chọn cho chúng.
  • Có thể đó là một tính tốt. Ít nhất thì nó cũng là một cái quyền mà người ngoài không nên xâm phạm.
    Hắn cười.
  • Tôi không nghĩ rằng ông làm việc tốt cho tôi nhờ lý trí mách bảo. Ông hiểu chứ? Hừm, biết nói thế nào nhỉ, ở ông ấy, trong việc làm tốt đối với tôi có sự dự phần của tấm lòng, nhờ vào khả năng biết cảm thông với tha nhân, hay nói cách khác, khả năng tìm ra cách hành xử phải đạo do biết đặt mình vào vị trí kẻ khác….
    Lời khen của hắn làm tôi bối rối. Tôi ngượng.
  • Đó chẳng qua là sự lui bước của tôi trước sự kiên trì đáng nể của ông thôi. Hoặc là sự thoả hiệp với tình thế bất khả kháng…
    Hắn nhún vai:
  • Ông khiêm tốn. Điều đó có lợi cho ông. Nhờ khả năng đáng quý ấy ông vượt qua được cảm giác sợ…
  • Tôi chưa hiểu ý ông.
  • Có gì mà không hiểu. Ông thú nhận đi, lần đầu ông thấy tôi ông đã sợ tôi, sợ muốn chết…
    Hắn dùng thời quá khứ khi nói rằng tôi đã sợ hắn. Quả thật bây giờ, không hiểu sao, cảm giác ấy không còn. Tự nhiên, tôi không thấy sợ hắn nữa.
    Nghĩ cũng lạ, thoạt đầu tôi còn hơi sợ một tí, giờ thì không sợ chút nào. Tôi lý luận: nếu không phải một vật thể, cái bóng ngồi trước mặt tôi kia chỉ là một khái niệm. Sợ một khái niệm là dở hơi. Ma, với tôi, và với rất nhiều người, chỉ là một khái niệm. Còn hơn thế, một khái niệm rất đỗi mù mờ.
  • Vâng, tôi đã sợ ông. – tôi gật đầu – Đúng thế. Nhưng khi thấy ông quá vất vả xử lý mối mâu thuẫn giữa hai ý muốn của tôi và của ông, thì tôi đâm ra ái ngại.
  • Hay thật!
  • Khi tôi ái ngại thì cảm giác sợ hãi biến dần. Rồi hết. Ở đời, ông ạ, xét cho cùng, có lắm cái đáng sợ hơn nhiều…
  • Chính xác – hắn gật gù.
  • Có thể còn có một nguyên do khác. Ông không biết chứ tôi đã từng sợ, sợ nhiều thứ, sợ bóng sợ gió, sợ tất cả, sợ lắm lắm.
  • Mon Dieu, Trời ạ.
  • Không phải mình tôi, cả thế hệ chúng tôi sợ, còn hơn thế, cả một giống nòi tôi sợ, ông hình dung nổi không: cả-một-giống-nòi? Không hả? Chúng tôi được huấn luyện từ tấm bé để mà sợ.
  • Có chuyện ấy à?
  • Kết cục là chúng tôi không phải chỉ sợ cái đáng sợ, chúng tôi còn sợ cả những cái chẳng có gì đáng sợ nữa. Trong ngôi nhà của mình, chúng tôi đi lại len lén. Trong thành phố của mình, trong nhà của mình chúng tôi nói chuyện với nhau bằng giọng thì thào, nhìn trước nhìn sau, chúng tôi theo dõi những câu nói của chính mình, lúc nào cũng e phạm phải điều gì cấm kỵ, và lo lắng nhỡ điều đó bị phát giác, bị bẩm báo…
  • Khiếp. Đến thế kia ư?
  • Hì hì, tôi biết mà, ông mù tịt về cái đó, ai không nếm trải nỗi sợ ấy người đó chắc chắn không hiểu nổi. Cả ông nữa, ông cũng không phải ngoại lệ, cho dù ông có là… – tôi định nói “cho dù ông có là ma”, nhưng kịp kìm lại – Tuy nhiên, cái gì cũng có giới hạn. Khi sợ quá nhiều và quá lâu, người ta ắt trở thành dạn dĩ, chẳng sớm thì muộn…
    Nhìn hơi nước lởn vởn trên miệng tách cà phê của hắn, tôi nhắc:
  • Ông uống đi kẻo nguội.
  • Tôi đang uống đây. – hắn nói và cúi xuống nhắp một ngụm – Phải thú thực với ông: khi thấy ông sợ tôi, tôi cũng khoái. Đến khi ông không sợ nữa, thì, ông biết không, tôi hơi buồn một chút. Con người ta bao giờ cũng khoái được thấy người khác sợ mình. Ông nói tiếp về cái sợ của ông đi.
    Hắn nói “con người ta” ngon lành, như thể hắn không phải là ma.
  • À, cái sợ… Nó khủng khiếp một cách âm thầm. Tức là, người ta sợ đấy, mà bề ngoài thì như không. Tôi biết có người chỉ nói hớ có một câu xét cho cùng là vô thưởng vô phạt, vậy mà anh ta sợ đến phát khùng, anh ta cứ đinh ninh rồi sẽ phải trả giá đắt cho câu nói ấy, anh ta dỏng tai nghe ngóng mọi phản ứng, cho đến khi biết chắc rằng chẳng ai nghe thấy nó hết…
  • Sợ là một xúc cảm tồi tệ. Tệ hơn bất cứ cảm xúc nào – hắn trầm ngâm – Nó hạ thấp con người.
  • Đúng thế. Điều khả dĩ có thể an ủi ta là kẻ bắt người sợ mình xét cho cùng lại chính là kẻ cũng sợ… một kẻ khác chẳng hạn. Thật vớ vẩn, phải không ông?
    Tôi triết lý vụn, rồi cười cái triết lý của mình. Hắn gật gù cười theo.
  • Ông có thể kể cho tôi nghe đôi điều về cái mà chúng tôi gọi là cõi âm của ông không? – cà phê kích thích tôi, hay là cái gì khác: nỗi buồn man mác chợt đến trong đêm, hay nỗi chán ngán một cái gì không biết và còn hơn thế, không hiểu – Với tôi, câu trả lời của ông hẳn sẽ rất thú vị.
  • Ông nói ông lười cả tò mò cơ mà.
  • Tôi vẫn lười, cả trong sự tò mò này. Nếu ông không muốn kể, tôi sẽ chẳng vật nài. Tôi không tò mò đến cùng. Tôi chỉ tò mò nhân tiện mà thôi.
    Hắn có vẻ suy nghĩ. Trong bóng tối tôi vẫn chưa thấy mặt hắn. Nửa trên bị vành mũ che khuất, còn nửa dưới thì lẫn vào màu đêm.
  • Chẳng có gì đặc biệt đâu ông ơi. – hắn nói sau một ngụm cà phê – Nó, cõi âm, chỉ là cái âm bản của sự sống mà ông biết. Các ông sống, còn chúng tôi sống lại cái sự sống đã qua. Những cư dân của cõi âm không bao giờ biết đến cái gọi là tương lai. Đối với chúng tôi tất cả đều là quá khứ. Chúng tôi sống trong cái khuôn của thời hiện tại-quá khứ nơi mỗi người.
  • Tại sao lại như thế?
    Hắn cười hích hích:
  • Tại sao, tại sao? Ông cứ như một đứa trẻ vậy.
  • Nhưng mà tại sao chứ?
  • Tại vì chúng tôi đã có tất cả những gì chúng tôi từng có, từ điểm khởi đầu cho tới chỗ kết thúc. Chúng tôi chỉ tồn tại bên trong biên cương của cái khoảng ấy mà thôi.
  • Thế thì chán quá nhỉ?
    Hắn có vẻ phật ý:
  • Không chán hơn nơi người sống đâu. Ông không gặp những người còn sống phây phây mà cuộc đời lại gắn chặt với quá khứ đến nỗi gỡ không ra à?
  • Ờ, cái đó quả có thật. Chẳng hạn như lão tổng thống quá cố của chúng tôi, những năm cuối đời lão ta chẳng biết làm gì khác ngoài việc vỗ ngực khoe những việc lão làm… Mà có tốt đẹp gì cho cam.
  • Tôi biết lão – hắn ngắt lời – Ở cõi âm chúng tôi di chuyển nhanh lắm, như chớp ấy, hoặc nói theo cách bây giờ, nhanh hơn ánh sáng, ông không tưởng tượng nổi đâu. Nhưng tôi không khoái chơi với lũ ngợm ấy. Tôi tởm. Có một thằng cha lúc nào cũng lảm nhảm “Bóp chết từ trong trứng! Cho tuốt vào nhà đá! Bắn bỏ!”, hắn la hét suốt. Khốn nạn, có hồn ma nào buồn nghe hắn đâu. Tuy nhiên, về một mặt nào đó, chúng tôi giống nhau, đáng chán là thế … Tuy chúng tôi không sống bằng quá khứ như hắn, nhưng tựu trung mọi hồn ma đều là những kẻ sống trong quá khứ…
  • Thế còn cháo lú? – tôi rụt rè hỏi – Chuyện đó thế nào?
  • Cháo lú? – hắn hỏi lại – À, tôi hiểu rồi. Ông muốn nói cái món súp miễn phí ở đầu đường vào cõi âm.
    Tôi ngạc nhiên:
  • Vào cõi âm cũng phải đi qua một cái ngưỡng, tựa hồ biên giới giữa các quốc gia sao?
    Hắn nhìn tôi, tủm tỉm:
  • Đại khái vậy. Nhưng cõi âm là một quốc gia đặc biệt, ở đấy không có bất cứ sự phân biệt nào trong mọi nhóm dân cư của nó, không màu da, không chủng tộc, không giàu nghèo, không có sự phân biệt giữa VIP và dân thường. Đi vào đó không phải trình hộ chiếu có visa…
  • Có phải ăn cháo lú xong thì linh hồn sẽ quên sạch mọi sự đời?
  • Không một thứ thuốc an thần nào có thể sánh với nó, cái cháo lú ấy – hắn nói với giọng pha chút khoe khoang – Ông tưởng chỉ ở cõi âm mới có cháo lú sao? Ở cõi dương cũng có đấy. Nó được trộn lẫn vào các bài báo, các làn sóng phát thanh, các chương trình truyền hình, các cuốn sách…
  • Ồ, cái đó thì tôi biết quá đi chứ!
  • Ở cõi dương cháo lú còn có một chút lừa mà người tỉnh táo biết được, ở cõi âm người ta không lừa ai. Ai chả biết rằng cuộc đời nào cũng vậy, chẳng nhiều vui thú, húp một đĩa cháo lú là sẽ quên sạch mọi ưu sầu. Nó chẳng qua là thứ cháo thí cho những linh hồn đau khổ. Chao ôi, ông không tưởng tượng nổi đâu. Các linh hồn xô đẩy, chen lấn, tranh nhau thứ cháo miễn phí ấy. Cảnh tượng phải nói là khủng khiếp. Thậm chí họ còn xô đẩy nhau để được nhận suất cháo phát chẩn, nhà bếp luôn tay múc không kịp…
  • Còn ông?
  • Không. Tôi không húp.
  • Tức là, không bắt buộc?
  • Đâu có. Bắt buộc chứ. Nó là cái lệ cho tất cả.
  • Nhưng bằng cách nào ông không…
  • Dương sao âm vậy, ông ơi, đã không muốn thì cũng có cách để tránh. Mấy anh chàng trông coi vụ phát chẩn cũng như những công chức, họ chắp tay sau lưng đứng nhìn, thỉnh thoảng la hét vài tiếng lấy lệ. Chỉ cần láu cá một chút, lăng xăng thay đổi chỗ xếp hàng, làm ra vẻ mình đã húp rồi… Bọn lãnh tụ, vua quan mà tôi nói ấy, sở dĩ còn nhớ quá khứ là vì chúng vẫn giữ nguyên thói trí trá khi còn sống.
  • Hay nhỉ? Tôi hiểu. Vì không ăn, ông nhớ được tất cả?
    Hắn gật. – Ờ… Tôi giả vờ húp vội húp vàng cho xong – im lặng một lát, hắn tiếp -Lừa lúc thiên hạ không để ý thì quay mặt đi mà nhổ ra.
  • Nhưng ông vừa nói: thứ cháo đó tốt. Nó có mục đích nhân đạo.
  • Ông nói “nhân đạo”? Những kẻ chế ra cháo lú, ở cõi dương cũng như ở cõi âm đều muốn mọi người nghĩ chúng nhân đạo, chúng làm tốt cho mọi người. Ông hãy hình dung một con người không nhớ gì hết, không còn phân biệt tốt xấu hay dở, không biết mình là ai…
  • Ờ nhỉ, thế thì chán thật.
  • Tôi không húp vì tôi còn mấy việc dang dở. Tính tôi thế, làm cái gì chưa xong thì trong lòng bứt rứt. Chẳng hạn như cái tượng vũ nữ ba lê này. Tôi rất thích nó. Đặt nó lên đĩa hát đang quay, trông nó sống lắm, cứ như nó đang múa thật. Một hôm tôi vô ý đánh rơi, làm nó gãy một tay. Tôi đã thử gắn lại bằng mọi thứ keo, chẳng cái nào cho hiệu quả ưng ý. Ông nhìn kỹ thì thấy cái tay gãy tôi gắn hơi lệch.
  • Ông muốn làm nốt những việc ấy?
  • Phải. Nhưng tôi nhầm.
  • Ông không gắn lại được?
    Hắn buồn bã thở dài:
  • Nhầm là nhầm thế này. Đã vào trong cõi âm rồi thì mọi việc trần thế là xong tuốt, chẳng còn cái gì làm tiếp, làm thêm, được nữa. Chỉ có thể nhớ lại thôi. Nhưng nhớ tuốt tuồn tuột quá khứ, cái gì cũng nhớ, thì ngán lắm. Những bước gian truân mình đã nếm trải nay lại trở về với nó lần nữa, rồi lần nữa, như một cuốn phim phải xem đi xem lại… Hay một cuộc tình đã xa, nay tự nhiên phải nhớ lại, chẳng cần ai nhắc cũng nhớ, với đầy đủ chi tiết, và hàng trăm lần y như nhau… Ối giời, mệt vô cùng. Người tình của mình thì đã húp sạch sành sanh đĩa súp lú, gặp mình, nàng ngơ ngác: “Ủa, ông là ai”?
    Một đêm khác, tôi hỏi hắn:
  • Ông bạn này, một con ma, xin lỗi, tôi muốn nói một linh hồn, có thể phù hộ cho một con người không?
  • Ông định lợi dụng tôi đấy hử? – hắn chặn ngang, cười hích hích – Ông định nhờ tôi cái gì đây? Một dãy số loto độc đắc? Một áp phe có lợi?
  • Không, ông hiểu nhầm rồi – tôi vội vã cải chính – Tôi không có ý ấy. Tôi chỉ tò mò thôi.
  • Ông tò mò hơi nhiều – hắn hấm hứ.
  • Chả là tôi muốn kiểm chứng điều thiên hạ tin – đành phải phân trần với hắn – Ông không thấy những người đến với Chúa, với Phật cùng mọi thứ thần thánh trong mọi thứ đền thờ không phải chỉ để tỏ lòng ngưỡng mộ, sùng kính hay sao? Ông không biết rằng họ đến đấy chỉ để mua bán sao? Họ mặc cả với tất tần tật các thứ đấng thiêng liêng: nếu tôi được hưởng ân huệ của các vị, tôi hứa sẽ cúng các vị cái này cái kia. Cái này hay cái kia ấy bao giờ cũng phải lớn tương xứng, hoặc nhiều hơn, so với ân huệ mà họ chờ đợi được hưởng… Ân huệ to thì vật hiến tế phải to.
  • Tôi biết chứ – hắn nhún vai – Nói đến cái lũ khốn nạn ấy làm gì!… Bậy! Bậy hết. Lũ ấy nghĩ về thần thánh của chúng, hệt như thần thánh là những chủ tiệm ở chợ trời, có thể mặc cả thoải mái.
  • Cũng có người nhờ cầu khẩn mà được đấy.
  • Đó là sự trùng hợp của những ngẫu nhiên. Người chết rồi, linh hồn, hay là ma, không trừ cả thần thánh, cũng y như tôi đây này, chẳng có sức lực gì hết, chẳng làm nổi cái gì hết. Ông thấy rồi đấy, chỉ đẩy một cái ghế dịch đi một li mà tôi cũng không làm nổi…
    Lời thú nhận của con ma thực thà na ná một dạng báng bổ.
  • Tôi hiểu rồi, vì thế ông chỉ còn cách ngắm nghía các đồ vật xưa cũ cho hết ngày, à quên, hết đêm, phải không?
  • Tôi còn biết làm cái gì khác hở ông bạn thân mến? – hắn nhún vai trước câu hỏi, theo hắn là dớ dẩn – Nó là cái nghiệp của tôi. Đồng thời, khốn nạn cho tôi, cũng lại là thú vui của tôi.
    Nghe giọng hắn thì biết hắn lại bực mình. Lý luận gì mà lăng nhăng, cù nhầy, chắc hắn nghĩ thế.
  • Ông không thấy những người sống cũng có cái thú vui ấy ư? – hắn nói tiếp, không phải hắn hỏi – Có một thằng cha ở gần đây này, tôi không quen hắn, nhưng tôi quen bố hắn. Hắn viết được độc một cuốn sách, đưa ra những ý tưởng điên rồ, lạ tai lạ mắt, bằng cách chửi khắp thiên hạ, gây ra được một sự ồn ào khá lớn ở những kẻ đần độn, hắn khoái lắm. Nói cho đúng, người khen thì ít, người chê thì nhiều. Thiên hạ bình phẩm thế nào hắn tuyệt nhiên không biết, không thèm biết. Thấy người ta chửi nhiều, hắn càng đinh ninh hắn là nhà tư tưởng lớn. Là nhà tư tưởng lớn thì tất nhiên không phải ai cũng hiểu. Thiên hạ càng chửi nhiều hắn càng thích. Hắn cần cái đó – càng bị chửi nhiều thì càng nổi tiếng, một thứ quảng cáo không công mà. Lâu không thấy có ai chửi thì hắn buồn xo. Cả ngày hắn bận bịu với việc cắt những dòng tán dương hắn trong những bức thư độc giả gửi cho hắn để dán vào một cuốn vở dày cộp, ký tên vào những cuốn sách, bìa cứng hẳn hoi, để gửi cho những người hắn có thể gửi mà không bị trả lại. Hoặc kỳ cạch gõ những lời giáo huấn cho những độc giả còn ngưỡng mộ hắn.
  • Hay nhỉ?
  • Đêm nào hắn cũng hí hoáy làm công việc đó, đến nỗi một ông bạn tôi nhầm, tưởng hắn cũng là ma như mình, mới hiện ra bắt quen. Chỉ đến khi thấy hắn hét lên, lăn đùng ra bất tỉnh nhân sự, ông bạn tôi mới biết hắn là người sống…
    Con ma cười ha hả, tay liên tục vỗ đùi, nhưng không thành tiếng.

4

Rốt cuộc rồi tôi cũng phải thú thật với Ngoạn về hồn ma nọ sau mấy lần anh nhận xét về sức khoẻ sa sút của tôi.

  • Sắc mặt cậu xấu lắm. Xanh, má hóp. Sao vậy?
  • Dạo này tôi kém ngủ.
  • Phải tìm ra nguyên nhân mà giải quyết.
    Chúng tôi đã trở thành thân tình hơn kể từ sau khi anh kiếm chỗ ở cho tôi. Mỗi khi có công việc nặng, cần người phụ, vào những ngày nghỉ cuối tuần anh gọi tôi giúp anh. Gọi là giúp chứ công việc xong anh thanh toán đàng hoàng. Anh hơn tuổi tôi, anh tự cho phép anh gọi tôi bằng “cậu”. Chị Jeanette, vợ anh, và hai cháu thì toa moa với tôi, như người trong nhà.
    Đúng là tôi có ít ngủ thật. Những buổi trò chuyện với hồn ma thường kéo dài. Chứ âm khí âm khiếc quái gì đâu. Ngủ ít thì má hóp. Không thể đổ lỗi cho hồn ma. Hắn đâu có đòi nói chuyện với tôi. Những hôm bận công việc ở sở, về đến nhà, tôi ăn xong là lăn ra ngủ, hắn cũng chẳng đánh thức. Nửa đêm tỉnh dậy, thấy hắn thì chúng tôi cũng chỉ chào nhau một tiếng như hai người láng giềng lịch sự. Tôi mới là kẻ chủ động gợi chuyện, trong khi hắn lại là kẻ kiệm lời. Những câu chuyện với hắn, mỗi khi có, đều thú vị.
    Nghe tôi kể, anh hỏi:
  • Hắn không làm gì cậu thật?
  • Không.
    Ngoạn mở to mắt.
  • Không doạ nạt?
    Tôi lắc.
  • Không.
  • Hắn có làm gì khác không?
    Câu hỏi làm tôi phải suy nghĩ. Hắn còn làm gì nữa nhỉ? Không, hắn chỉ chuyện vãn, thế thôi.
  • Hoàn toàn không!
  • Hoàn toàn không?
    Tôi lại lắc.
  • Vô lý.
    Ngoạn ra chiều suy nghĩ.
  • Cậu phải tìm một cái nhà khác – anh bảo – Ở đấy nguy hiểm. Âm dương cách biệt, người là người, ma là ma, ở lẫn với nhau không được.
  • Tôi nghĩ không cần thiết – tôi nói – Hắn chẳng làm gì hại tôi.
  • Cẩn tắc vô áy náy. Không sao, tôi lại tìm nhà cho cậu lần nữa.
    Anh quyết định ngủ lại nhà tôi một đêm xem hư thực ra sao.
    Nửa đêm, con ma đến, chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên thấy có người lạ mặt ở trên giường tôi. Ngoạn nằm im thin thít.
    Sáng ngày ra anh bảo tôi:
  • Nói không biết cậu có tin không, hoá ra tôi đã gặp con ma này.
  • Bao giờ?
  • Lâu rồi. Dễ trên chục năm trước. Hồi mới lập gia đình, tụi tôi nghèo lắm. Đêm đến tôi luôn lượn lờ trong khu nhà giàu – họ thường vứt đồ cũ ra hè. Để kiếm cái dùng, vậy đấy. Có nhiều thứ người ta vứt không phải cũ hẳn, nhưng ở đây thế, cứ dọn đến nhà mới là người ta thay tất tật. Cũng có khi là đồ dùng của người vừa chết, thân nhân không muốn giữ lại, không phải họ tin nhảm, mà vì không thích để những nhìn thấy những đồ vật của người thân đã qua đời, nhiều thứ còn mới nguyên, mà có cũ đôi chút thì cũng còn tốt chán với mình. Đi nhặt mấy thứ đồ bỏ ấy không ai đi ban ngày, xấu hổ chết được…
  • Anh đã gặp con ma này trong những lần đi kiếm đồ Tây quăng?
  • Đúng hắn, với cái mũ phớt sùm sụp, với dáng dấp ấy, như đêm qua tôi thấy. Không lẫn được. Tôi không nghĩ hắn là ma.
  • Hồi đó hắn còn là người sống.
  • Có thể lắm.
  • Hắn chắc cũng đã nhận ra anh, nếu gặp?
  • Hừm, biết đâu đấy, chúng tôi chạm trán luôn, nhưng cố tránh không nhìn mặt nhau. Dân đi nhặt đồ đều thế. Họ không bao giờ chào nhau, gặp vài lần cũng cứ lờ đi, không coi nhau là đã quen… Thậm chí vớ được thứ đồ tốt một mình không khuân nổi cũng không dám nhờ nhau, cứ đứng canh đấy cho tới khi vắng người mới chạy đi tìm cabin điện thoại báo cho người nhà biết để ra khiêng cùng…
  • Anh có thấy hắn nhặt gì không?
  • Không. Hắn cứ lượn lờ quanh đám đồ bỏ, tôi chưa thấy hắn nhặt thứ gì. Con ma này phải trị mới được.

5

Con ma cũng nhận ra Ngoạn.
Hắn bảo tôi, cười hì hì:

  • Ông Nô Ăng. Tôi biết ông ấy quá mà. Tôi giả vờ không nhận ra ông ấy thôi. Chúng tôi gặp nhau luôn. Tôi hồi ấy là một anh ký quèn ở sở hoả xa. Ông biết cái ga Sermages rồi. Gọi là ga cho nó oách, chứ ga ghiếc cái quái gì một khối bê tông xám xịt chỉ nhỉnh hơn trạm biến thế một chút. Ông Nô Ăng bạo gan đấy. Có điều ông kể cho ông ta nghe về tôi làm gì?
  • Có cần phải giữ bí mật về ông không?
    Hắn lắc đầu:
  • Không. Không cần. Tôi là cái có đấy mà không đấy. Nói cách khác, tôi là cái vừa hiện hữu vừa không hiện hữu. Nói về tôi hay không nói về tôi thì cũng thế mà thôi. Chỉ người sống mới có bí mật. Ở chỗ chúng tôi mọi linh hồn đều như cởi truồng trong một cái lồng kính, linh hồn này biết hết về linh hồn kia…
  • Chán quá nhỉ?!
    Hắn cười hích hích.
  • Nhưng các linh hồn thường chỉ biết về những gì linh hồn khác đã làm khi họ còn ở cõi dương… Và chỉ ở những linh hồn không húp hết đĩa cháo vô vị.
  • Ông bảo: các linh hồn chỉ lặp lại những gì họ làm khi còn sống?
  • Ý tôi là: linh hồn chỉ lặp lại thói quen. Những gì họ làm trong cõi âm các linh hồn có thể biết mà cũng có thể không biết, tựa như ở cõi dương vậy – người này không thể biết tất tần tật về người kia. Đôi khi linh hồn cũng làm một cái gì đó chứ, nhưng nó chỉ làm được cái ấy nếu như khi còn sống nó từng làm. Linh hồn, ông bạn ạ, chỉ là cái bóng mờ của quá khứ. Nó khoái lắm nếu có ai tưởng nó có khả năng hành động. May cho các ông, những người sống. Chứ không à? Cứ thử nghĩ mà xem, nếu những thằng đểu chết rồi vẫn tiếp tục đểu được với người sống, thì sao?
    Tôi hoàn toàn đồng ý với hắn:
  • May thật!
  • Ông không nên kể về tôi với ông Nô Ăng.
  • Ông đã nhắc tôi rồi.
  • Ông ấy là người tốt, nhưng ông ấy không vượt qua được định kiến: một con ma là một con ma. Ma là cái người ta không hiểu được. Khi không hiểu được thì người ta nghĩ nó xấu xa, nó không tốt.
  • Tôi không nghĩ ông bạn tôi tồi đến thế. Ông ấy chỉ lo cho tôi thôi…
  • Ông ấy hiểu lầm do không hiểu biết. Nhưng lại tưởng mình biết hết. Trong thực tế, cái ông ấy tưởng mình biết lại là cái hiểu lầm mượn của người khác…
  • Ông có những ý nghĩ hay đáo để.
    Hắn cười khà khà. Cảm giác là thế, chứ không có tiếng.
  • Ông khác, ông không có định kiến. Một ưu điểm đấy. Ông lại còn biết thông cảm nữa…
    Hắn nói tiếp, đượm chút buồn rầu:
    -… dù là thông cảm với một con ma…

7

Ngoạn nói anh sẽ mời một đội bắt ma thiện nguyện để tống con ma khỏi nhà tôi.
Tôi phản đối kịch liệt.
Tôi phản đối vì, xét cho cùng, con ma chẳng làm điều gì xấu cho tôi. Ngược lại, nó còn là một bạn chuyện thú vị. Hà cớ tôi lại xử xấu với nó? Nhưng Ngoạn khăng khăng: phải diệt nó. Đó là một người cứng đầu, đã nghĩ ra cái gì là phải làm cho bằng được.
Đội bắt ma thiện nguyện tha các thứ đồ đạc lỉnh kỉnh của họ đến nhà tôi vào một chủ nhật. Họ lăng xăng đi lại, còn tôi thì ngồi yên trong ghế bành, nơi con ma thường ngồi, với bộ mặt nặng chịch. Ba người trong đội bắt ma – một mục sư về hưu, hai sinh viên trẻ gày nhẳng, cả ba đeo kính cận loại nặng. Với các máy móc đo từ trường, đo nhiệt độ, mọi cái đều là loại cực nhạy. Họ rà soát mọi ngóc ngách – gầm giường, gầm bàn, gầm ghế, gầm tủ, với vẻ mặt nghiêm trang của sứ giả nhà trời đi xuống địa ngục. Kim trên những mặt đồng hồ đặt giữa nhà lắc lư lờ đờ.

  • Con ma này ban ngày không ở đây. – ông mục sư trầm ngâm – Ta sẽ túm được nó ban đêm.
    Tôi giật mình. Đúng là tôi chỉ gặp con ma vào ban đêm.
    Đội bắt ma rất mẫn cán. Hôm sau cả ba lại đến cùng một lúc , lập tức bắt tay vào việc. Mấy người đàn ông đứng tuổi, mặt mũi nghiêm trang ngồi trầm ngâm trước những mặt đồng hồ, mắt dán chặt vào những cái kim. Tôi để mặc họ muốn làm gì thì làm.
    Đúng 12 giờ đêm, nhưng cái kim bắt đầu chuyển động, lúc đầu chậm, sau nhanh dần, rồi lắc loạn xạ. Ông mục sư phán:
  • Nó đến đấy.
    Trống ngực đánh thình thịch, tôi thầm lo cho ông bạn ma của tôi.
    Ngoạn ngồi bên tôi, theo dõi nét mặt tôi bằng cái nhìn dò xét.
    Nhưng khi ông mục sư giơ cao thánh giá đi về góc, theo kim chỉ của một cái máy đặt nằm, thì những cái kim đồng hồ lại lờ đờ trở về chỗ cũ. Ông mục sư lắc đầu:
  • Con ma này khôn phết.
  • Nó lẩn tài lắm. – anh sinh viên cao kều cúi xuống thì thào với anh bạn thấp hơn.
  • Khôn mấy thì khôn, rồi ta cũng sẽ tóm được nó. – mục sư nói to, giọng quả quyết.
    Đúng vào lúc ấy tôi nghe thấy giọng con ma bên tai:
  • Ông bạn ông tệ thật, ông ta dẫn mấy tay này đến đây làm gì cơ chứ?
  • Tôi xin lỗi, tôi đâu có muốn thế – tôi lẩm bẩm trả lời, cốt để Ngoạn khỏi nghe tiếng.
  • Ông có thấy ông Nô Ăng nhà ông là đa sự không?
    Tôi gật đầu.
  • Có điều họ chẳng làm gì được tôi đâu – con ma nói.
  • Thật không?
  • Ông đừng lo cho tôi.
  • Tôi vẫn lo đấy – tôi thì thào – Thật không sao chứ?
  • Thật. Không ai có thể bắt được cái không có.
    Tôi thở ra.
    Ngoạn ngờ vực nhìn vào mặt tôi. Anh kêu lên với ông mục sư đang cảnh giác nhìn quanh trong phòng:
  • Con ma đang ở đây này.
  • Đâu? Nó đâu?
    Ông mục sư quên bẵng mình là người bắt ma, nghĩa là mình phải thấy được con ma trước những người khác.
    Ngoạn chỉ vào tôi:
  • Nó ở bên ông bạn tôi đây này.
    Tôi cãi:
  • Tôi đây, chứ ma nào.
    Ba nhân vật bắt ma xô lại phía tôi. Họ quăng một cái lưới bằng sợi gai hôi hám lên người tôi. Ông mục sư đổ cả bình nước thánh lên đầu tôi. Hẳn ông ta nghĩ nước thánh với liều lượng càng lớn thì hiệu quả càng cao. Rốt cuộc tôi bị ướt như chuột lột, toàn thân bị trói chặt trong tấm lưới gai, còn con ma thì chẳng thấy đâu.

8

Sau cái lần bắt ma bất thành, đội bắt ma đi thẳng. Trong những trường hợp như thế bao giờ cũng có những lý do được đưa ra để bào chữa, kiểu như “trên chủ trương đúng, dưới thực hiện sai”; “trên bảo, dưới không nghe”, theo cách nói quen thuộc ở nước tôi.
Con ma sau đó xuất hiện ít hơn, không phải vì sợ cái gì, mà vì hắn bận bịu chuyện gì đó. Cuối cùng rồi hắn cũng bật mí điều bí mật của hắn:

  • Ông có tin ở thuyết luân hồi không?
  • Tôi chẳng có bằng cớ gì để tin. Một expresso nhá?
  • Không, cảm ơn. Giờ tôi phải đi ngay.
  • Hồn ma cũng biết bận?
  • Không. Hồn ma không bao giờ bận. Nhưng nó cũng có việc phải làm. Ông có muốn đi chơi một lần với tôi không?
    Tôi ngần ngừ.
  • Ông sợ?
  • Không. Nhưng đi đâu?
  • Cứ đi với tôi. Ông sẽ không hối tiếc đâu.
    Chúng tôi đi.
    Về sau này, nhớ lại chuyến đi chơi ban đêm với ông bạn ma, tôi thấy ông ta chẳng hề có ý lừa tôi – chuyến đi thực thú vị.
    Dắt tôi vùn vụt đi qua biên giới hai cõi âm dương không có lính biên phòng mặt lạnh, không có cửa hải quan với những cái nhìn soi mói, qua chỗ các âm hồn bách tính tụ tập húp cháo lú, tây ta lẫn lộn, đen trắng không phân biệt, ông ta đưa tôi tới một thành phố lúc nhúc những hồn ma là hồn ma. Tôi không nhớ là ở đó có cửa hàng cửa hiệu gì không, nhưng tôi gặp khá nhiều hồn ma quen. Có người chết đã lâu, có người mới chết. Họ hoàn toàn không nhận ra tôi. Thậm chí viên cai ngục nổi tiếng ác độc thời tôi ở tù dưới quyền hắn còn nhoẻn cười thân thiện với tôi. Trong tay hắn vẫn có cây roi bằng da xoắn, cũng nổi tiếng không kém gì hắn. Cây roi da ấy, những người tù lưu niên kể, đã lập công xuất sắc – ít nhất đã có ba người tù chết vì nó. Nhưng hắn vẫn giữ nguyên dáng đi ngày trước, cái đầu hơi cúi, cặp mắt láo liên soi mói, cái roi trong tay đập đập vào cẳng chân, sẵn sàng vung lên để quất vào ai đó. Ở một chỗ khác, tôi gặp tên lừa đảo có hạng đã từng lừa không ít người, trong đó có tôi, bằng những lời đường mật về những món lãi kếch xù, nếu chung vốn với hắn. Hắn bị một ông quan mà hắn lừa bắn chết, nghe nói là chết oan, đúng vào lúc hắn mang tiền lãi đến nộp cho ông ta. Hắn cũng không nhận ra tôi, chực sán lại để rỉ tai tôi về một kế hoạch thu lợi cực lớn. Thấy tôi lờ, hắn cũng chẳng giận, lại sán đến người khác, xin lỗi, tôi muốn nói: một hồn ma khác.
    Ông bạn ma của tôi dẫn tôi tới một chỗ có mấy vị lãnh tụ mà tôi quen mặt nhờ những bức chân dung được treo trên tường mọi nhà ở quê tôi. Tôi đồ rằng những vị này cũng gian như ông bạn tôi, không chịu húp cháo lú, hoặc húp rất ít, vì thế họ mới có thể quần tam tụ ngũ bên nhau. Nhưng cái giống lãnh tụ nọ là để sống trong thế giới của những kẻ tuân phục, những kẻ rạp mình trước họ, chứ cả một đống lãnh tụ ở cùng một chỗ với nhau thì ngán lắm. Tất cả bọn họ đều ra lệnh cùng một lúc, mà không biết ra lệnh gì, ra lệnh cho ai, chẳng anh nào chịu nghe anh nào, kể cả anh lãnh tụ bị bắn chết cùng với bà vợ, ngực còn toác hoác vết đạn, vẫn tiếp tục vung tay về phía trước, trong dáng điệu của nhà hùng biện trước đám đông há hốc mồm nghe huấn thị.
  • Ê, anh kia, lại đây!
    Vị lãnh tụ quen thuộc của tôi ngồi ủ rũ trên một bệ đá hoa cương thời cổ La Mã, giữa một đám đông chính khách com lê com táo chỉnh tề lăng xăng đi lại. Ông vẫn trong bộ quần áo bình dân cố hữu, y như một lão nông. Hồi còn sống, ông nổi bật trong các chính khách quốc tế nhờ bộ quần áo này. Trong những cuộc họp long trọng ông là ngôi sao sáng. Tiên phong đạo cốt, ông đi những bước nhẹ nhàng trên trần thế, ban phát bên phải bên trái đủ thứ lộc lớn lộc bé, bằng hiện vật cũng như bằng khen, giấy khen. Bây giờ trông ông giống một anh nhà quê ra tỉnh. Trong đống lãnh tụ xênh xang, ông có một vị trí kém cỏi mà giờ đây người ta ưa dùng chữ khiêm tốn thay vào. Chợt nhận ra tôi là đồng hương, ông vồ lấy tôi, nắm tay tôi kéo lại gần để ân cần hỏi han về đời sống của nhân dân. Cứ như thể thiếu ông trên đời mọi người sẽ khốn khổ lắm, côi cút lắm. Không hiểu sao, lúc ấy tôi lại xúc động đến luống cuống, lễ phép chắp tay trả lời ông như một thần dân ngoan ngoãn. Tôi thưa rằng tôi xa nước lâu rồi, lại chưa về thăm nhà lần nào, tôi không thể báo cáo với ông điều gì.
    Ông bạn ma lập tức túm lấy tôi, lôi xềnh xệch đi chỗ khác:
  • Sao ông lại làm thế?
  • Làm thế là thế nào?
    Ông bạn ma cằn nhằn:
  • Thằng cha ấy là cái quái gì mà trước mặt hắn, nói ông tha lỗi, ông lại phải khúm núm? Ông không thấy rằng hắn chẳng hề quan tâm tới nhân dân nhân diếc gì hết sao? Hắn chẳng cần biết ông là ai, đang ở đâu, làm gì, hắn chỉ lặp lại một thói quen thâm căn cố đế mà thôi. Ố là là, ông này hay thật đấy! Rõ vớ vẩn.
    Tôi ngượng ngùng:
  • Hề hề, tôi cũng không ngờ những thói quen lại sống lâu đến thế.
  • Thế thì khi xuống đây ông đừng có theo gương tôi, nhớ mà húp hết khẩu phần cháo lú của mình. Xem ra nó có ích cho ông đấy.
    Giọng ông ta nửa giận dỗi, nửa khinh miệt.
    Ông ta còn dẫn tôi đi nhiều nơi, cho tôi thấy nhiều điều thú vị khác, viết ra phải một cuốn sách. Tôi thì lại không biết viết văn, tôi viết thì sẽ rất dây cà ra dây muống, toàn những “thì” “là” “mà”, làm khổ người đọc. Điều đáng tiếc là ông ta không đưa tôi đến nơi tôi có thể gặp những người thân trong gia đình. Ông ta bảo cái đó không phải mục đích của chuyến đi.
  • Ông nói đến thuyết luân hồi là có ý nghĩa gì? – trên đường về tôi hỏi ông ta.
  • Là tôi sẽ chia tay với ông, để sống một kiếp khác.
  • Tức là luân hồi là có thật?
    Ông ta nhún vai:
  • Tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ biết lần này tôi phải xực hết một khẩu phần cháo lú. Lầnnày khó mà tránh được. Nghe nói chẳng ai thoát. Tôi sẽ đi khỏi cõi này. Đi đâu, tôi không biết. Có lẽ là để sống kiếp khác. Ăn cháo lú rồi, tôi sẽ không biết ông là ai, người ta bảo vậy, ông cũng không thể nhận ra tôi…
  • Nhưng những vị Lạt Ma ở Tây Tạng đầu thai trong kiếp sau vẫn nhớ chuyện kiếp trước đấy thôi. Người ta thuật lại chuyện đó không phải một lần trong những cuốn sách đứng đắn.
  • Ồ, cái đó thì tôi chịu, thật thế hay không, tôi không biết. Có thể, đó là vì những vị Lạt Ma là những người đặc biệt. Những bậc chân tu. Những vị thánh. Tôi không dám nói họ có thể là những tay đại láu cá.
    Tôi tỉnh dậy trên giường. Vạt nắng sớm lọt qua cửa sổ chảy lênh láng trên sàn.
    Có nghĩa là suốt đêm qua tôi chẳng hề đi đâu. Nhưng cảm giác thực của cuộc du hành với ông bạn ma còn nguyên, hệt như trong sách của Bồ Tùng Linh.
    Khác ở chỗ hồn ma của Pháp không giống hồn ma của Tàu, nó chẳng làm hại gì tôi. Mà cũng có thể những hồn ma Tàu trong Liêu Trai đều là đàn bà, còn đây là một hồn ma đàn ông.
    Tôi thì lại không phải một tên đồng ái.

8

Từ đó tôi không bao giờ gặp lại ông bạn ma nữa. Chắc hẳn ông ta đã đầu thai vào một nhà nào đó và đang bĩnh ra tã.
Tôi cũng hơi ân hận một tí. Chơi với nhau bằng ấy thời gian mà chẳng biết tên họ ông bạn là gì. Hình như ông ta mang cái họ rất phổ biến là Dupont mà tôi thấy được ghi trên một món đồ. Chiết tự ra, Dupont có nghĩa là từ chỗ cây cầu, ở nơi gần cầu. Dòng họ Dupont có từ những thế kỷ xa xưa, cũng như dòng họ Dubois với nghĩa từ khu rừng, ở miền rừng. Nước Pháp có vô số cầu, cầu qua sông, cầu qua suối, ai biết được những người thuộc dòng họ này đến từ cái cầu nào. Trên lò sưởi không có cái ảnh nào của ông ta, mà tôi thì vì sợ nên không dám nhìn vào mặt hồn ma, thế là chẳng biết mặt ngang mũi dọc ông bạn mình ra sao.
Ngoạn rồi cũng ít đến tôi. Anh bận nhiều việc, tôi đồ thế.

  • Này, cậu phải cẩn thận mà giữ lấy chỗ làm – anh dặn tôi – Cái nghề khốn nạn của tôi vậy mà bây giờ thiên hạ cũng tranh nhau xông vào. Tôi phải liên tục hạ giá để giữ khách. May mà họ đã quen mình. Hai đứa con càng lớn càng phải chi nhiều, đủ thứ. Sống như thế này vất vả quá. Chết có khi còn sướng hơn…
    Những lời than thở về cuộc sống không thể gọi là chuyện giữa hai kẻ tha hương. Ở với bà vợ đầm lâu ngày, anh dường như không nhớ gì tới đất nước. Nó xa xôi.
  • Tôi bây giờ có muốn giúp cậu cũng chẳng được – anh nói.
    Tôi rất biết ơn Ngoạn đã giúp tôi nhiều khi còn chân ướt chân ráo đến Sermages, nhưng đúng là chúng tôi không biết nói gì với nhau nữa – chúng tôi không còn những đề tài chung để mà trò chuyện. Cũng phải thôi. Ngoạn là một con người bình thường đúng nghĩa, tức là người chẳng quan tâm tới cái gì khác ngoài cuộc sống hằng ngày của gia đình mình. Những vấn đề chính trị xa lạ với anh. Đối với Ngoạn thế giới nào cũng cũ, tức là thế giới nào cũng thế mà thôi cho một kiếp người với tất cả những lo toan tầm thường của nó. Còn tôi thì dù muốn dù không vẫn cứ vướng vào ba cái chuyện chính trị, như nhiều đồng hương đa sự.
    Khi nghe tôi nói chuyện về tình hình đất nước, hoặc tình hình thế giới, Ngoạn thường ngáp vặt, lúc đầu còn lịch sự giấu giếm, sau thì cố ý cho tôi biết mà chuyển sang chuyện khác. Khi không còn đề tài chung để nói chuyện, người ta rất dễ xa nhau. Có người nói anh dạo này hay ốm vặt, nhưng tôi cũng ngại gọi điện hỏi thăm. Tôi ngại những cuộc điện đàm theo phận sự.
    Một đêm tôi đi dự sinh nhật một bạn đồng nghiệp về, thấy ở bên đường gần nhà tôi người ta vứt lỏng chỏng đồ bỏ có nhiều thứ còn tốt, mới dừng lại xem. Ở đây người ta vứt đồ theo ngày, khu này thứ bảy, khu kia chủ nhật. Tôi chọn được một cây đèn bàn có chân bằng đồng, một thứ đồ cổ, kiểu cây đèn thần trong Nghìn Lẻ Một Đêm. Đã toan kẹp nó vào nách mang về, thì chợt thấy một dáng quen quen đang lúi húi gần đấy.
    Trong ánh đèn đường mờ mờ tôi nhận ra cái bóng ấy: Ngoạn. Dễ là anh lắm, với cái áo khoác tàng tàng, dáng đứng hơi gù. Nhưng tôi không dám chắc trăm phần trăm là anh. Thoáng bắt gặp ánh mắt của tôi, người ấy quay ngoắt.
    “Dân đi nhặt đồ đều thế. Do ngượng ngùng, họ không bao giờ chào nhau, gặp vài lần rồi cũng cứ lờ đi, không coi nhau là đã quen…”
    Ngoạn có lần nói với tôi như thế. Nhưng đó là những người gặp nhau lần này lần khác trong những chuyến đi nhặt đồ, chứ không phải là những người quen nhau như tôi với anh.
    Khi thấy tôi chăm chú nhìn, cái bóng càng lúng túng.
  • Anh Ngoạn hử? – tôi gọi khẽ.
    Cái bóng đứng sững khi nghe tiếng gọi. Nhưng không đáp lại, dù bằng một cái gật đầu.
  • Tôi đây mà – tôi nói.
    Cái bóng vẫn nín lặng.
    Tôi rùng mình vì một ý nghĩ chợt đến. Hay là, nói dại, Ngoạn không còn nữa, mà chưa ai kịp báo tin cho tôi? Anh đã trở thành một con ma. Như Dupont.
    Tôi dụi mắt để nhìn cho kỹ hơn. Chẳng lẽ tôi nhầm?
    Đến lúc ấy thì cái bóng mà tôi ngờ là Ngoạn liếc trộm tôi rất nhanh, rồi quầy quả bỏ đi. Nói nó lướt đi thì đúng hơn, bởi vì vừa thấy nó đấy đã chẳng thấy đâu. Nó tan biến. Trong màn đêm mờ mờ ánh đèn đường và khói sương.
    Ngày mai thể nào tôi cũng phải gọi điện cho Ngoạn. Không, tôi chắc mình nhìn nhầm. Cũng có thể không phải là Ngoạn. Dám thế lắm. Nếu là anh, chắc chắn anh sẽ gọi tôi. Chúng tôi đâu có phải là những người xa lạ đến nỗi phải tránh mặt nhau khi làm cái chuyện có vẻ đáng xấu hổ này. Rất có thể không phải Ngoạn. Nếu anh chết, chị Jeanette ắt đã gọi điện cho tôi – ít nhất thì vào lúc anh qua đời ắt chị phải nhớ rằng anh từ đâu đến và ở Sermages có một người cũng đến từ quê hương anh. Nhưng cũng có thể Jeanette đã quên không báo cho tôi biết trong cơn bối rối. Hoặc ngày mai chị mới báo. Hoặc chị không tìm ra sổ địa chỉ.
    Tôi xua đuổi ý nghĩ rằng Ngoạn đã chết. Nhưng ý nghĩ ấy cứ bám chặt lấy tôi. Sinh hữu hạn tử bất kỳ mà. Ai nói trước được? Anh xuất hiện trước mắt tôi lờ mờ như một bóng ma, nhất định không nhận tôi, nói với tôi một câu. Hoặc giả tôi nhầm, bóng ma ấy lại là Ngoạn thật, còn sống? Mừng rồi lại buồn – sao mà mình tệ thế, đến nỗi không phân biệt nổi người sống với hồn ma?
    Tôi bùi ngùi nhìn vào bóng đêm đã mất dấu bạn mình mà thở dài. Tôi hình dung ra anh trong cái cõi âm đáng ngán – hẳn từ nay anh sẽ phải sống, như cái ông Dupont nọ, quẩn quanh trong giới hạn chật hẹp của một kiếp người từ sinh tới tử, để rồi lặp lại trong suốt đời âm của mình những thói quen cố hữu của đời dương?
    Tôi cầm lấy cây đèn, không nhìn về phía cái bóng vừa biến mất, quay gót về nhà.

2005




ĐÔI GUỐC TRẮNG

Nhật Tiến 

đăng trong Văn Hóa Ngày Nay – Tập 2 – Tháng 7, 1958

Tôi đứng trên vệ đê nhìn xuống. Chuối xanh cả một vùng ven sông. Nắng lấp loáng trên những tầu lá. Vào buổi trưa, bốn bề êm ả quá. Chỉ có tiếng gió rì rào, tiếng chim chiêm chiếp và mơ-hồ có tiếng một nhà máy ở xa xa vẳng lại.

Qua những gốc chuối, bên kia là mặt sông. Nước xanh ngắt. Sóng nước nhòe trong ánh nắng loang-loáng như bạc.Tôi đi xuống dưới ấy. Lối cát trong vườn chuối phẳng lì. Hơi đất phù sa từ mé sông đưa lên âm ẩm. Quanh tôi đầy bóng mát; ánh nắng nghiêng nghiêng trên những tầu lá xanh và mỏng. Những bẹ chuối đang nở hoa.

Có vết chân ai đi trên lối cát. Tôi nhìn ra bờ sông. Bốn bề vắng lặng. Vết đi in sâu xuống thành một hố xinh xinh. Những vết guốc gót nhỏ với bàn chân thon. Tôi lại chăm chú nhìn ra bờ sông. Nắng nhấp nháy chói mắt. Không có ai ở ngoài ấy cả.

Vết guốc quanh co trong vườn chuối. Tôi nghĩ đến một thiếu nữ có mái tóc đen dài, có cặp môi mộng đỏ. Lần theo vết guốc ấy, tôi tưởng tượng đến một cuộc đi chơi của hai người trong bóng mát.

Vết guốc mất dấu ở ven sông. Cát ở đây đẫm nước nên mịn hẳn. Sóng giạt lên bờ rồi rút ra xa. Mấy lớp bọt vàng bị bỏ rơi lại, sùi lên rồi ngấm xuống.

Tôi nhìn vào những lùm cây chìa ra mặt nước. Mấy quả sung chín rơi lõm bõm. Và có một đôi guốc. Đôi guốc trắng nằm ở ven sông, lấm-tấm đất phù sa đỏ.

Tự nhiên tôi hồi hộp. Ở đây không phải có một mình tôi. Có hai người. Tôi và một thiếu nữ đang tắm ở sau bụi cây sung; tôi nhìn về phía ấy, và tưởng tượng sau bụi cây phải là một tà áo trắng mắc vào cành, gió đưa phơ phất. Tôi không nghĩ đến một mảnh quần lụa vo tròn trên bờ cỏ, nhưng nghĩ đến một mái tóc đen dài giãi trên mặt sóng, một thân hình óng ả đang đắm mình dưới làn nước veo. Có tiếng chim hót gần đây. Tôi ước gì mình được là con chim.

Ngoài mặt sông, sóng vẫn nhấp nhô rồi giạt lên bờ cát. Trời xanh lơ lơ. Khúc sông lấp loáng ánh nắng, lượn mình quanh những lùm cỏ, bụi cây. Bờ bên kia là ruộng mía. Đằng sau tôi là lối cát đi trong vườn chuối. Lối cát in những vết guốc lốm đốm chạy vòng lên chân đê.

Ở đây không có mình tôi. Có hai người. Hai đứa. Tôi mỉm cười, trầm ngâm.

Nhưng rồi tôi cũng phải ngược lại lối cũ. Bịn rịn đấy, nhưng cũng đành. Nếu không tôi sẽ xấu hổ với những con chim đang hót ở bờ sông.

Tôi bỏ lại phía sau đôi guốc trắng. Đôi guốc trắng nằm trên lòng cát mịn, có lấm tấm đất phù sa đỏ. Giá mang về được một chiếc để sau này khi quen nhau, lấy nhau rồi hai đứa cùng giở ra xem. Yêu biết mấy.

Và rồi tôi lại đứng trên vệ đê nhìn xuống dưới ấy. Chuối xanh cả một vùng ven sông. Nắng lấp loáng qua những tầu lá. Có những con chim đang chuyền cành. Có một mái tóc đen dài giãi trên mặt sóng và có một đôi guốc trắng nằm ở bờ sông.

Đôi guốc mà chẳng bao giờ còn có người đi.

Vì sáng hôm sau… có tin một thiếu nữ trầm mình ở chỗ ấy.

Nhật Tiến




MỘT CƠN GIẬN

Một buổi tối mùa đông, chúng tôi ngồi trước lò sưởi, trong một căn buồng ấm áp. Tự nhiên trong câu chuyện, một người nói đến những cơn giận tự nhiên đến tràn ngập cả tâm hồn ta và có khi gây nên nhiều cái kết quả không hay. Rồi mỗi người đều bày tỏ ý kiến riêng của mình.
Anh Thanh, từ nãy đến giờ vẫn lặng yên có vẻ trầm ngâm, cất tiếng nói:

Sự giận dữ có thể sai khiến ta làm những việc nhỏ nhen không ai ngờ. Tôi biết hơn ai hết, vì chính tôi đã trải qua sự đó. Tôi sẽ kể các anh nghe một câu chuyện mà cái kỷ niệm còn in sâu trong trí nhớ tôi.

Cũng một buổi chiều mùa đông như hôm nay, tôi ở tòa báo ra về, trong lòng chán nản và buồn bực. Có những ngày mà tự nhiên không hiểu tại sao, ta thấy khó chịu, và hay gắt gỏng, không muốn làm việc gì. Tôi đang ở vào một ngày như thế mà chiều trời hôm ấy lại ảm đạm và rét mướt càng khiến cho cảm giác đó rõ rệt hơn.

Tôi đi vài bước trên con đường phố vắng người. Một cái xe tay dằng xa đi lại, anh phu xe co ro vì rét, hai tay giấu dưới manh áo tơi tàn. Theo lệ như mọi khi, tôi mặc cả:

-Xe đi không? Bốn xu về gần nhà bò Yên Phụ.

-Thầy cho sáu xu.

-Không, bốn xu là đúng giá rồi.
Tôi vừa nói vừa bước đi. Người phu xe đã có tuổi, cứ kéo cái xe theo sau tôi mà lẩm bẩm: “Bốn đồng xu từ đây về nhà bò”. Cái tiếng nhà bò anh ta nhắc đi nhắc lại làm cho tôi khó chịu. Tôi biết đó là một cách của các phu xe cứ đi theo sau khách để làm cho người ta bực tức, tôi lại càng ghét và quay lại gắt:

-Có đi hay không thì thôi! Đừng có theo sau người ta mà lải nhải.
Thấy tôi gắt, người phu xe đứng lại, không dám theo nữa. Nhưng để tôi đi một quãng xa, anh ta ới gọi:

-Lại đây đi mà.
Rồi anh ta hạ càng xe xuống, cứ đứng yên chỗ ấy đợi chứ không kéo lại phía tôi. Cái cử chỉ ấy làm tôi sinh ghét thêm, đã toan không đi, nhưng lúc ấy không có cái xe nào khác. Tôi giận dữ bước mạnh lên xe, vừa mắng:

-Anh thật là lắm chuyện, không đi ngay lại còn vẽ.
Anh xe cãi lại:

-Từ đây về đấy thầy cho được bốn đồng xu thật rẻ quá!

-Thì ai bảo anh đi? Không có tôi đã gọi xe khác.

Người phu xe khẽ thở dài, yên lặng nhấc xe lên. Lúc bấy giờ tôi mới ngả mình ra phía sau, nhưng thấy cái đệm cứng như gỗ đập vào lưng, tôi cúi xuống bên nhìn cái tay xe.
Tôi đoán không sai, chính là một cái xe hiệu “con lợn” cái tên hiệu cũng xứng đáng một hạng xe tàng ở ngoại ô mà tôi vẫn phải đi. Anh xe này đã vào đây kéo trộm, vì xe ngoại ô không được phép vào thành phố đón khách, nếu không tuân lệnh thì bị phạt từ ba đến bốn đồng bạc. Sự tồi tàn của cái xe làm tôi càng ghét anh xe nữa.

-Xe khổ thế này mà anh lại còn đòi cao giá.

Xe thế mà thầy chê thì còn thế nào nữa!
Anh xe bướng bỉnh cũng không chịu kém. Tôi nói câu gì là anh ta đối lại liền. Sau cùng, giận quá, tôi dẫm mạnh chân xuống sàn xe, gắt:

-Thôi, câm họng đi, đừng lải nhải nữa.
Sự giận dữ làm cho tôi quên rằng anh xe cũng chỉ có trả lời những câu mắng của tôi mà thôi, và chính tại tôi gắt với anh ta nhiều quá. Nhưng lúc bấy giờ tôi chỉ thấy tức người xe ấy đến cực điểm, vì hắn dám cãi lại tôi mà không sợ.

Xe đi khỏi nhà máy nước thì gặp một người đội xếp tây đi xe đạp lại, theo sau một người đội xếp ta. Tôi nhận thấy anh xe kéo tôi có ý luống cuống và sợ hãi. Có lẽ vì thế mà người cảnh sát để ý, đi giáp vào cái xe kéo để xem dấu hiệu.

-Ê! Đứng lại!
Người kéo xe dừng chân… Anh ta quay lại tôi hớt hải van xin:

-Lạy thầy… thầy nói giúp con… thầy làm ơn…

Dưới ánh đèn tôi thấy mặt anh xe tái mét. Những vết răn in sâu xuống trên mặt già nua hốc hác, chân tay người khốn nạn ấy run bật lên và tôi thấy cái rung động chuyển cả vào chiếc thân xe.
Người cảnh sát tây đến, nói bằng tiếng ta hơi sõi:

-Mày chết nhé! Mày sẽ bị phạt!

Người phu xe ấp úng nói thì ông ta khoát tay bảo im, rồi quay lại tôi hỏi, lần này bằng tiếng Pháp.

-Người này kéo ông từ trong phố ra hay ông đi khứ hồi?

Tôi liếc mắt nhìn anh kéo xe. Trong bóng tối của vành nón qua ngang mặt, tôi thấy hai mắt anh ta long lanh nhìn tôi, như khẩn cầu van xin yên lặng. Tôi biết lời nói của tôi sẽ làm anh ta bị bắt hay không. Những khi nói chuyện với các phu xe khác, tôi được biết rằng nếu người khách nói là đi khứ hồi từ ngoại ô, thì người xe không việc gì. Nhưng lúc ấy, lời van xin của anh xe kia không làm cho tôi động lòng, mà lại làm cho tôi ghét anh thêm. Tôi trả lời người đội xếp:

Tôi đi từ phố hàng Bún.

-Vậy phiền ông xuống xe.
Rồi anh ta nhìn anh phu xe, cười một cách tinh quái:

-Allez! Đi về bót!
Khi anh phu xe run sợ và hai người cảnh sát đã khuất đầu phố, tôi mới quay đi thong thả trên bờ hè. Cơn giận của tôi đã hết rồi. Sự hối hận dần thấm thía vào lòng tôi, tôi thấy một cái chán nản bực tức rung động trong người.

Tôi rung mình nghĩ đến số phận của anh xe khốn nạn. Ba đồng bạc phạt! Anh ta phải vay cai xe để nộp phạt; nhưng ba đồng bạc nợ ấy, bao giờ anh ta trả xong, sau những ngày nhịn đói, bị cai xe hành hạ, đánh đập vì thù hằn?

Tôi càng nghĩ đến bao nhiêu lại càng khinh bỉ tôi bấy nhiêu. Qua ô Yên Phụ, nhìn thấy những thợ thuyền tấp nập làm việc dưới ánh đèn trong những căn nhà lá lụp xụp, tôi rảo bước đi mau, hình như trông thấy tôi họ sẽ biết cái hành vi khốn nạn và nhỏ nhen đáng bỉ của tôi ban nãy.

Những ngày hôm sau thực là những ngày khổ cho tôi. Lòng hối hận không để tôi yên. Hình như có một cái gì nặng nề đè nén trên ngực làm cho tôi khó thở, và lúc nào hình ảnh anh phu xe cũng hiển hiện ra trước mắt.

Tôi nhất đinh đem tiền đến cho người xe kia để chuộc tội lỗi của mình. Đến phố hàng Bột hỏi dò những người chung quanh xưởng xe, tôi biết được anh xe bị phạt đêm hôm ấy là tên Dư, và ở trong một dãy nhà quá ngã tư Khâm Thiên.

Lần ấy là lần đầu tôi bước vào một chỗ nghèo nàn, khổ sở như thế. Các anh thử tưởng tượng một dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một đời khốn nạn những người gầy gò, rách rưới như những người trong một cơn mê.

Người phu xe Dư ở trong ấy. Một bà cụ già gầy giơ xương ngồi cắn chấy ở vệ hè chỉ cho tôi một cái cửa thấp bé ở đầu nhà. Tôi cúi mình bước vào, chỉ thấy tối như bưng lấy mắt và thấy hơi ẩm lạnh thấm vào tận trong mình. Có tiếng người đàn bà khẽ hỏi:

-Bẩm thầy muốn gì?

Khi mắt mắt đã quen tối, tôi nhận thấy người đàn bà vừa hỏi, một bà già ở mép một chiếc giường tre mục nát kê ở sát tường. Sau lưng bà này, một người đàn bà nữa ngồi ôm trong lòng một vật gì hơi động đậy. Cả hai cùng ngước mắt lên nhìn tôi một cách ngạc nhiên và đầu họ chạm vào mái nhà thấp, đầy những mảng giẻ rách nát vắt trên xà.

-Bác Dư có nhà không ?

Bẩm, chú nó đi về quê vắng từ hôm nọ.
Một vẻ sợ hãi thoáng qua trên mặt đủ tỏ cho tôi biết họ không nói thật, tôi giảng giải:

-Không, cụ cứ nói thật cho tôi biết. Tôi đến để giúp bác ta chứ không có ý gì khác.
Bà cụ nhìn tôi nghĩ ngợi một lát rồi nói:

-Thế thầy đã biết việc chú nó bị bắt xe hôm nọ?
Tôi gật đầu ra hiệu cho bà cụ cứ nói:

Hôm ấy cai nó phải đem tiền lên nộp phạt để chuộc xe về. Chú nó đã xin khất với cai để rồi trả dần số tiền đó. Nhưng nó nhất định không nghe, bắt phải trả một nửa ngay. Khốn nạn, thì lấy đâu ra mà trả. Thế là bị nó lột quần áo đánh một trận thừa sống thiếu chết thầy ạ. Khi về đây lê đi không đuợc nữa. Thế mà nó còn bắt mai phải trả ngay.
Người đàn bà ngồi trong cất tiếng ốm yếu nói theo:

-Nó còn bảo hễ không trả nó sẽ bắt lấy thẻ.

-Thế bây giờ bác ta đâu?
Bà cụ trả lời:

Đi ngay từ hôm ấy, mà không biết đi đâu. Đã ba hôm nay chúng tôi dò mà không thấy. Chắc là sợ cai không dám về nữa, dù có về mà không có tiền cũng chết với nó. Thật cũng là cái vạ, nghe đâu chú nó nói hôm ấy tại người khách đi xe không biết nói với người đội xếp thế nào mới bị bắt, chứ không cũng chẳng việc gì.
Tôi yên lặng, trong lòng náo nức
Bà cụ chép miệng, chỉ người đàn bà ngồi sau:

-Tội cho vợ con chú đây, ốm đã mấy ngày hôm nay không có thuốc. Đứa cháu không biết có qua khỏi được không?

Tôi đứng lại gần xem. Trên cánh tay người mẹ, chỉ còn là một dúm thịt con đã nhăn nheo: đứa bé há hốc miệng thở ra, măt xám nhợt. Người mẹ thỉnh thỏang lấy cái lông gà dúng vào chén mật ong để bên cạnh, phết lên lưỡi của đứa bé.

Cháu nó sài đã hơn một tháng nay. Hôm nọ đã đỡ. Mấy hôm nay vì không có tiền mua thuốc lại tăng. Ông lang bảo cháu khó qua khỏi được.
Người mẹ nói xong nấc lên một tiếng rồi nức nở khóc. Bà cụ già lê nhích lại gần, cúi xuống khe khẽ kéo lại những cái tã rách như xơ mướp.

Cái cảnh đau thương ấy làm tôi rơm rướm nước mắt. Một cảm giác nghẹn ngào đưa lên chẹn lấy cổ. Tôi lấy tờ giấy bạc năm đồng đưa cho người mẹ, rồi vội vàng bươc ra cửa, để mặc hai người nhìn theo ngờ vực.
Qua ngưỡng cửa, tôi va phải một người đàn ông ốm yếu tay cắp một cái áo quan con bằng gỗ mới. Đến bên đường, tôi nghe thấy trong căn nhà lụp xụp đưa ra tiếng khóc của hai người đàn bà.
Đứa bé con đã chết.
Anh Thanh lặng yên một lát như nghĩ ngợi, rồi nói tiếp:

Cái kỷ niệm buồn rầu ấy cứ theo đuổi tôi mãi mãi đến bây giờ, rõ rệt như các việc mới xảy ra hôm qua. Sự đó nhắc cho tôi nhớ rằng người ta có thể tàn ác một cách dễ dàng. Và mỗi lần tôi nghĩ đến anh phu xe ngoại ô kia, lại thấy đau đớn trong lòng, như có một vết thương chưa khỏi.

THẠCH LAM




CHỊ NGUYỆT CỦA ANH

“CHỊ NGUYỆT CỦA ANH”

Chị tên Nguyệt, lúc đó chị khoảng 13 tuổi, còn tôi khoảng 11. Theo lời người ta kể thì chị mồ côi cha mẹ được vợ chồng người hàng xóm đem về nuôi. Ông Bà Chín không có con nên họ xem chị như con cái trong nhà, cho chị đi học. Đổi lại, chị phải dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc Ông Bà Chín. Chị học trên tôi hai lớp, tôi đệ thất, còn chị lớp đệ ngũ. Theo như chị kể lại, quê chị ở Tân Thành bị Việt Cộng về chiếm làng, ba má chị mất tích chỉ hai ngày sau đó. Người cậu của chị phải dẫn cả gia đình chạy di tản ra quận lỵ nơi tôi ở. Họ dẫn chị theo nhưng không đủ điều kiện nuôi cả gia đình gần 10 người nên cho Ông Bà Chín làm con nuôi.

Nhà chị đối diện nhà tôi trên đường dẫn ra bờ sông Tiền Giang. Buổi sáng đầu tiên tôi gặp chị trong bộ bà ba đen cũ đã ngả màu phèn vàng úa và đôi dép đứt quai phải nối lại bằng giây kẽm. Chị đang quét nhà, từ trong ra ngoài thì bị bà Chín rầy, bảo phải quét từ ngoài vào trong. Bà giải thích quét ra là đẩy hết cái phước ra ngoài, phải quét vô để nhận được phước. Tôi thấy hai mắt chị long lanh nước mắt như muốn khóc nên vội chạy tới hỏi:

-Bộ mầy mới tới đây làm cho bà Chín hả?

Chị trả lời:

-Hông phải, tao là con nuôi của ba má Chín.

Tôi nói với chị:

-Tui tên Bình, nhà tui bên đó.

-Tao tên Nguyệt, mầy mấy tuổi?

-11

-Tao 13, mầy phải gọi tao bằng chị.

-Ừ, chị Nguyệt hé.

Vậy là tôi làm quen được với chị từ đó. Năm chị học hết đệ tứ thì phải thôi học do Ông Chín bịnh nặng rồi qua đời, Bà Chín một mình không đủ điều kiện cho chị tiếp tục đi học. Mỗi ngày chị ra sạp vải ngoài chợ tiếp Bà Chín buôn bán. Năm tôi 15 tuổi phải xa nhà lên tỉnh tiếp tục học thi tú tài một, rồi tú tài hai nên ít khi được gặp lại chị. Sau khi đậu tú tài hai chuẩn bị vào đại học thì nghe tin Bà Chín cũng vừa qua đời, bỏ lại ngôi nhà cũ nát vì không có người đàn ông chăm sóc. Lúc này tôi đang rảnh rang nên tình nguyện giúp chị sửa sang lại căn nhà của chị được thừa hưởng. Mỗi ngày trước khi chị ra sạp vải, chị hay hỏi tôi cần mua vật dụng gì để chị gọi người đem tới, tôi khỏi phải mua. Sau ba tháng hè, tôi cũng tạm sửa lại căn nhà của chị, tuy không khéo nhưng cũng không dột trước hổng sau.

Khi cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, tôi bị động viên, vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Ngày ra trường về thăm ba má thì gặp lại chị Nguyệt. Lúc nầy chị đã là gái đôi mươi, có rất nhiều chàng trai đang theo đuổi nhưng chị vẫn phòng không gối chiếc. Nhiều lần chị tâm sự với má tôi:

-Con trai cái quận nầy sao mà như công tử bột, tối ngày chỉ biết lo tán gái, nhậu nhẹt, nhìn như cọng bún thiu, cô nào vô phước mới rước họ về làm chồng.

Hai tuần phép qua rất nhanh. Ngày tôi chuẩn bị trình diện sư đoàn, chị đem tượng Phật nhỏ qua đưa cho tôi, bảo giữ trong người làm vật hộ thân. Hai mắt chị long lanh nước mắt như muốn khóc. Tôi vội nói:

-Vài bữa có phép thường niên tôi về thăm chị. Chị ráng giữ gìn sức khỏe.

Bình đi mạnh giỏi, Nguyệt mỗi đêm sẽ đọc kinh cầu xin Trời Phật che chở cho Bình.

Tôi hơi giật mình khi chị xưng Nguyệt chứ không còn mầy tao như ngày xưa. Thật sự mà nói, lúc nào tôi vẫn xem chị như người thân trong gia đình, không có một chút tình cảm trai gái giữa tôi và chị.

-Cảm ơn chị lo lắng cho tôi.

Tôi ra đi biền biệt. Hơn mười tháng sau tôi trở về thăm nhà sau khi xuất viện do bị thương chân phải. Đêm đầu tiên vừa về tới nhà là chị qua thăm, hỏi như muốn khóc:

-Sao Bình bị thương mà không cho Nguyệt hay để đi thăm?

-Vết thương không có gì trầm trọng lắm đâu chị, vả lại tôi không muốn chị lo lắng, lặn lội đường xá xa xôi nguy hiểm cho chị.

-Bình nói vậy coi Nguyệt như người dưng sao?

-Đâu phải vậy chị, tôi thương chị như người thân trong nhà mà.

-Ừ nhớ đó nhe, thương như người thân trong nhà.

Trong những ngày phép dưỡng thương đó nhiều khi chị làm bộ gọi tôi qua sửa dùm cây đèn dầu hay đóng lại chân bàn bị lung lay. Chị nấu đủ món cho tôi ăn, bảo là tẩm bổ để khi trở lại đon vị có đủ sức đi hành quân. Có ngày chị đóng cửa sạp vài, lấy cớ mệt về nhà nghỉ. Chị bảo muốn về để gần gũi, tâm sự với tôi trước khi về đơn vị. Không biết ba má tôi nghĩ gì mà cứ thỉnh thoảng hỏi khi nào tôi lập gia đình. Tôi viện cớ đang thời chiến tranh chưa muốn lập gia đình.

Lần lượt hai đứa em gái tôi lấy chồng phương xa, bỏ lại ba má tôi già yếu. Thằng em trai còn đi học viện đại học Cần Thơ, được miễn dịch phải bỏ học về nuôi ba má. Tôi thì ra đi biền biệt, cả năm mới về thăm nhà. Mỗi lần về chỉ năm ba hôm rồi lại ra đi. Chị thì vẫn phòng không đơn chiếc. Có lần tôi hỏi:

-Sao chị chưa chịu lấy chồng để có người lo lắng trước sau cho chị?

-Bình nhìn chung quanh đây xem ai là người xứng đáng cho Nguyệt nâng khăn sửa túi? Nguyệt thà ở giá suốt đời chứ không muốn chung chăn với những người hèn nhát, chạy chọt giấy tờ trốn quân dịch.

-Vậy có người đàn ông như thế nào chị mới chịu?

-Người ấy phải giống như Bình, sống đời trai hiên giang lo giúp nước, diệt giặc, bảo vệ quê hương.

-Vậy để tôi tìm ông nào trong đơn vị giới thiệu cho chị nhe.

-Đồ quỉ, đừng có chọc Nguyệt như vậy nữa, Nguyệt nói thiệt mà.

Cuộc đời cứ thế trôi đi. Ngày 30 tháng 4 1975. Tôi bị bắt rồi đi tù trại “cải tạo” Vườn Đào. Năm sau chị đến thăm tôi. Chị cho hay thằng em tôi bị bọn công an phường bắt tội phản động. Nó rải truyền đơn bị bắt. Họ đánh nó chết trong tù. Hai đứa em gái theo chồng vượt biên ngày đất nước rơi vào tay cộng sản, không biết tin tức gì cho đến nay. Ba má tôi quá đau buồn bịnh nặng không đi thăm tôi được nên nhờ chị đi dùm. Chị còn kể là sạp vải của chị đã bị xung vào hợp tác xã. Bây giờ chỉ sống nhờ chăm sóc khu vườn nhỏ của ba má tôi kiếm huê lợi nuôi sống ba má tôi và chị. Nhìn chị già đi rất nhiều so với ngày xưa. Mắt chị hoằn đen, hốc hác, tiều tụy đi. Tôi cũng không hơn gì chị sau một năm tù đày, lao động, thiếu ăn.

Ba má tôi lần lượt qua đời không có một đứa con về để tang. Chị phải bán ngôi nhà của chị để có tiền chôn cất ba má tôi. Đều dặn mỗi ba tháng là chị đến thăm một lần tiếp tế cho tôi thêm chút thức ăn phụ vào phần ăn ít ỏi của người lính tù thất trận. Bốn năm sau thì họ thả tôi. Ngày ra trại với vài chục đồng chi phí xe cộ và mảnh giấy ra trại. Tôi với năm người bạn tù đi bộ ra đến chợ Mỹ Phước Tây đón xe ra Cai Lậy. Mấy bà bán hàng trong chợ nhìn chúng tôi trong bộ quần áo rách bươm liền gọi:

-Mấy cậu vô đây ăn sáng rổi hãy đi, 2 tiếng nữa xe mới chạy.

Họ đem cho chúng tôi 6 dĩa cơm sườn bì và sáu ly cà phê đen. Đó là bữa cơm ngon nhất trong bốn năm đời tù “cải tạo” của tôi. Mọi người chung quanh bu nhau kẻ cho trái bắp, người cho gói xôi bảo là để dành đi đường ăn đỡ đói. Chúng tôi nhìn họ mà nước mắt cứ tuôn tràn không nói nên lời, dù chỉ một tiếng cám ơn. Khi đến giờ xe chạy, người tài xế xe nhất định không lấy tiền cho dù chúng tôi cố dúi tiền vào tay anh. Tôi nhớ lại tên quản giáo Ba Phần lên lớp chúng tôi:

-Các anh có tội rất lớn với nhân dân. Chúng tôi giữ các anh trong vòng rào kẽm gai là để bảo vệ các anh vì nhân dân sẽ trả thù cho những tội ác các anh đã gây ra.

Nhân dân chợ Mỹ Phước Tây đã trả thù chúng tôi với những dĩa cơm sườn, những gói xôi, những trái bắp mà họ có thể để dành cho người thân của họ trong lúc cả nước phải thắt lưng buộc bụng trong thời kỳ bao cấp, củi quế gạo châu này.

Khi xe đến Cai Lậy thì khoảng 2 giờ chiều . Năm người bạn tù chờ xe về Sài Gòn, còn tôi về miền Tây. Anh lơ xe chạy ra ngã ba Cai Lậy ngoắc xe lại gởi tôi lên chuyến xe cuối cùng. Trước khi lên xe, anh đưa cho tôi một ổ bánh mì thịt rồi chào tay kiểu quân đội. Như cái máy, tôi chào lại vì theo phản ứng tự nhiên của một người lính VNCH dù đã thất trận. Anh nói vội rồi chạy vào trong chợ Cai Lậy.

-Ông thầy đi đường bình an.

Tôi nhìn theo anh lơ xe, cố nhớ gương mặt anh để khi nào có dịp tôi sẽ trả lại ơn nghĩa anh đã dành cho chúng tôi. Một lần nữa, anh tài xế nhất định không chịu lấy tiền xe. Mấy người đàn bà trên xe nhìn tôi với ánh mắt thông cảm. Họ nhường cho tôi một chỗ ngồi hàng ghế cuối xe.

Tôi về đến nhà khoảng 10 giờ đêm. Ngôi nhà cũ kỹ cửa đóng im lìm. Tôi gõ cửa.

-Ai mà gõ cửa ban đêm ban hôm vậy?

Tiếng chị Nguyệt đang ngái ngủ từ bên trong.

-Bình đây chị.

Tôi nghe tiếng chân trần chạy hấp tấp ra cửa. Chị Nguyệt mở cửa rồi ôm lấy tôi khóc:

-Nguyệt không biết Bình về hôm nay. Có đói không để Nguyệt hâm cơm lại cho Bình ăn?

-Trên đường về tôi được người ta cho ăn nhiều lắm, đến giờ còn no lắm.

Tôi đến trước bàn thờ ba má, quì lạy xin lỗi tội bất hiếu không về chịu tang ngày hai người mất. Tôi nhìn khói nhang quyện vòng theo cây đèn dầu le lói như ba má về thăm thằng con xấu số mới ra tù. Tôi quì trước bàn thờ mà nước mắt cứ tuôn tràn.

-Ba má tha tội cho con, vì hoàn cảnh tù đày mà con không về để tang cho ba má.

Chị đặt tay lên vai tôi:

-Hai bác rất hiểu cho Bình, đừng quá đau buồn, hãy ráng lên để đối đầu với những ngày sắp tới.

Và những ngày sắp tới đến với tôi trong khổ cực của “thằng sĩ quan Ngụy”. Họ bắt tôi trình diện hàng tuần, không được đi xa khỏi xã. Tất cả những hành vi của tôi đều bị theo dõi. Đôi khi bọn công an xã đến gõ cửa ban đêm để kiêm tra, xét nhà và muốn biết chắc chắn là có tôi trong nhà. Tôi sống như người bị giam lỏng trong nhà tù lớn.

Tôi nhìn chị chăm sóc cho tôi từng miếng ăn, giấc ngủ như một người vợ lo cho chồng mà nghĩ đến cái vô tình của tôi.

-Chị Nguyệt.

-Gì đó Bình?

-Tôi muốn hỏi chị chuyện nầy.

-Ừ, Bình nói đi.

Ngập ngừng một hồi tôi nói:

-Chị nhớ lúc mới quen, chị bảo tôi phải gọi chị hay không?

-Nhớ chớ sao không. Những ngày vui đó qua mau quá.

-Chị còn muốn tôi gọi chị nữa hay không?

-Vậy Bình muốn gọi tôi gì đây?

-Tôi gọi chị là vợ tôi được không?

Chị Nguyệt nhìn tôi với ánh mắt rất ngạc nhiên rồi đổi sang mừng rỡ:

-Em chờ câu nói đó của anh lâu lắm rồi.

Hai tháng sau chúng tôi làm đám cưới. Tiệc cưới rất đơn giản, chỉ mời bà con lối xóm. Hai năm sau Nguyệt cho tôi đứa con trai đầu lòng. Tôi đặt tên Nhẫn để nói lên cái nhẫn nại của chị dành cho tôi. Năm sau nữa thì chị cho tôi thêm đứa con gái, chị đặt tên nó là Cam để nói đến cái cam khổ của vợ chồng chúng tôi.

Một hôm đầu năm 1990, chị chạy hớt hải về nhà:

-Anh ơi! Họ muốn cho mình đi định cư bên Mỹ.

-Em lại mơ tưởng viễn vong. Ai lại cho thằng sĩ quan Ngụy như anh đi khỏi Việt Nam.

-Đây nè, coi đi.

Chị đưa cho tôi xem tờ báo cho biết Bộ Ngoại Giao và Quốc Hội Mỹ chấp thuận cho tù nhân chính trị được đi định cư tại Mỹ ký ngày 30/7/1989. Lòng vòng lo nạp đơn, lót tiền cho họ ký giấy cũng hơn hai năm. Tôi dỡ mộ đem xương cốt ba má thiêu rồi đem gởi vô chùa vì tôi biết là sẽ lâu lắm mới trở lại quê hương nầy. Tuy đã nuôi tôi lớn lên, tuy nhiều người vẫn còn tình người sẵn sàng đùm bọc che chở người thất trận. Nhưng tôi phải ra đi để con tôi có tương lai hơn, có nhiều cơ hội để vươn lên với đời hơn.

Bao nhiêu tiền chúng tôi dành dụm đều cạn sạch. Ngày gia đình tôi lên máy bay đi Mỹ, trong túi còn đủ 200 đồng đô la sau khi bán nhà, bán đất của cha mẹ để lại. Đáp xuống phi trường JFK thành phố New York. Cả gia đình hai đứa em gái tôi có mặt đầy đủ đón gia đình tôi. Ba anh em chúng tôi ôm nhau khóc sau hơn 17 năm xa cách. Mấy đêm đầu tiên tôi không ngủ được, vừa lạ chỗ, vừa lo lắng cho tương lai sắp đến. Mình phải làm gì lo cho gia đình, cho con cái đi học, và đủ mọi chuyện cứ liên tục hiện lên trong đầu. Từ quê hương bỏ lại sau lưng, từ quê hương thứ hai sẵn sàng bao dung cho người lính thất trận.

26 năm sau, nhìn lại từ ngày đến đất nước Mỹ giàu lòng nhân đạo nầy, hai đứa con tôi đã ra trường đi làm xa. Vợ chồng tôi nghỉ hưu dời về vùng đất ấm Florida. Chị Nguyệt nay đã gần 70 nhưng vẫn còn nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam luôn lo cho chồng, cho con. Sáng nào tôi cũng có ly cà phê sữa nóng ít sữa, còn chị thì vẫn một ly trà cúc đường phèn. Nhiều lần tôi nói lời cảm ơn chị đã cưu mang ba má tôi khi tôi còn trong tù cải tạo. Chị chỉ cười đưa hàm răng khểnh rồi nói:

-Em kết anh từ lúc mình mới gặp nhau lần đầu.

-Vậy tại sao bắt người ta kêu bằng chị?

-Làm chị cho nó oai chút chơi mà …

-Lúc nào em cũng là chị Nguyệt của anh.

Cửu Long

Viết theo lời kể của một HO)





Cây Đắng Nở Hoa – truyện ngắn

Cây Đắng Nở Hoa

Thế Giang

… Từ giờ cho tới trung tuần tháng Mười, bác sẽ có hai, ba dịp được rượu chè, đãi đằng… đầu tháng Mười Một sẽ có tin vui thật lớn. Tin nầy sẽ thay đổi hoàn toàn cuộc đời bác… Bệnh nặng nhưng sẽ qua đựợc, không lo, số bác được nhờ con cái…

– Tháng Mười ta hay tây?

Người đàn ông trạc ngoài 50 bồn chồn hỏi.

– Tháng Mười dương, tôi bói bài Tây nên nói theo dương lịch.

– Như vậy có nghĩa trong tuần tới nầy?

– Vâng, bài nó hiện lên như vậy. Bác còn muốn hỏi chuyện gì nữa không?

Người đàn bà mặc áo cánh trắng hơi khó đoán tuổi, có vẻ dân kẻ chợ, ngồi xếp chân vòng tròn trên cái phản độc nhất trong căn nhà lá xốc lại cỗ bài. Người đàn ông tần ngần dấp nước bọt vào ngón tay để rút tiếp con bài cái: “Được uống rượu thì đúng rồi, trong tháng nầy làng có đám giỗ của ông Cả Hương, ông Thuận cuối xóm mới “đi” năm ngoái… Còn ai nữa nhỉ? Đám liệt sĩ chống Mỹ thì cha mẹ, vợ con túng thiếu đã thôi giỗ từ hai, ba năm nay… À, còn thím Tuất xóm Gạch, chồng mới chết bên Kăm-phu-chi-a…thảo nào mà mình không nhớ, chứ cả năm có ngần ấy dịp để uống rượu mà quên sao được.”

– Đây nầy, tôi nói có sai đâu, thế nào rồi con ách rô cũng hiện ra mà. Cam đoan trong tháng nầy sẽ có tin vui lớn…, từ con cái và tài lộc còn vượng phát nữa.

Người đàn ông nhấp nhổm người trên phản, chiếc quần đùi đã tụt xuống dưới rốn để lộ ra cái bụng răn reo. Chùi tay vào manh vải độc nhất trên người đó, ông táy máy sờ vào con bài đỏ nằm bên con bản mệnh của mình.

– Phỉnh người già là mang tội lắm đấy, không lẽ tháng nầy thằng Sơn nó gửi quà cho tôi. Tháng vừa rồi nhận thư nghe nó than ở bên Nga cũng túng thiếu lắm, tiền học bổng mua sách học còn không đủ nữa là…

– Cái nhà bác nầy, nói thế mà nghe được à, bài nó nói sao thì tôi nói vậy chứ ăn tiền ăn bạc gì của nhà bác mà tôi nói sai nói quàng?

– Ý bà muốn chê mấy buồng chuối của tôi đắt không muốn mua nên tưởng tượng ra như vậy chứ gì?

– Trời Phật ơi! Bác ăn nói như vậy không sợ Trời vật hay sao? Thuận mua vừa bán, làng nầy thiếu gì chuối mà tôi phải đi ép uổng bác cơ chứ?

Người đàn ông còn chưa yên tâm nên thử tiếp:– Ý bà muốn bao nhiêu?

– Thì vẫn như hồi đầu tôi mà cả với bác ấy. Cái chuyện “mua non” chuối nầy tôi cũng không muốn lắm đâu, nó thất đức làm sao ấy mà nhỡ ra xấu trời là mất sạch vốn.

– Ấy ấy, sao bà lại nói thế, tôi có dám nghĩ gì đâu… mà bà vẫn mua đấy chứ?

– Tôi mua là để giúp bác, lãi lời là bao nhiêu… mà số bác cũng khá tới nơi rồi…

– Vị chi tất cả là bảy buồng, nhân cho 18 là 126 đồng. Bà có mang theo tiền không?

Sợ kéo dài thêm, bà hàng chuối sẽ đổi ý nên người đàn ông vội kết thúc câu chuyện.

Người đàn ông vừa nhẩm tính trong đầu: bốn cân gạo nhân cho 20 là tám chục đồng, hai cút rượu 16 đồng, số còn lại mua nửa cân lạc về nhấm và rang mặn để ăn dần. Phải rồi, mua gạo ngay chứ chần chừ, nấn ná là mình lại uống rượu hết. Mình khô mép cũng lâu rồi, hai cút không biết có đủ cho hai bữa không. Trời hôm nay mát uống rượu sẽ ngon lắm đây.

Bữa giỗ năm nay bà cả Hương làm thật linh đình. Ngay từ sáng hôm qua đứa con dâu đã đạp xe lên tận chợ huyện để mua thịt lợn và đậu phụ. Chợ làng thường chỉ có lợn nhỏ và bệnh nên người ta mới giết. Tuy vậy bà cũng gióng giả với làng nước rằng sẽ mua vét cho hết nếu ai ra sau 8 giờ sáng.Ông bí thư xã nghe thấy vậy ngứa tai lắm, nhất là khi vợ rỉa rói đay nghiến làm sao ông lại để yên chuyện hủ lậu giỗ gả nầy trong địa hạt cai quản của mình, định bụng sẽ triệu tập dân làng họp về nếp sống văn minh, lành mạnh và tiết kiệm vào ngay tối hôm trước ngày giỗ để ngăn chặn.Nhưng bà cả Hương thật khéo lo xa, khi cái công văn mời họp còn thảo dở để trên bàn thì bà đã xởi lởi chui vào cổng nhà ông, tay xách cái thủ lợn được bọc kín trong mấy lớp lá chuối. Chị vợ hít mùi máu lợn liền nháy mắt cho chồng. Ông hiểu ý nên lỉnh qua bên Văn hóa thông tin xã cho các bà tiện nói chuyện.

Không khí giỗ chạp rạo rực đến từng nhà. Các lão ông lo lắng không biết bà quả phụ ông cố chủ nhiệm hợp tác xã mua rượu ở đâu. Rượu của làng này nấu thì tệ lắm, chua loen loét mà uống mãi vẫn chưa ngọt được cuống họng. Đám trẻ con băn khoăn về chỗ ngồi của chúng. Năm ngoái cô con dâu trưởng của bà Hương đã lùa tất cả xuống bếp, mà mâm trẻ con thì thiếu đủ các món nên chúng vừa ăn vừa tranh thủ nhét xôi nhét thịt vào túi áo.

Lát nữa khi những đứa dại khờ còn đang thòm thèm đứng mút tay nhìn lén qua khe cửa xem người lớn uống rượu thì chúng thong thả kéo nhau ra đình, vừa đi vừa nhấm nháp chỗ xôi thịt vừa thủ được.

– Nhớ mời bằng được bác Đặng con nhé. Tội nghiệp cái ông nhạc sĩ lỡ thời, cho ông ấy một hai cút rượu vào là chuyện trò rôm rả, nổi đình nổi đám. Thật bốn thằng mõ ngày xưa pha trò không bằng một mình bác ấy. Cái chân giò u cất trong khạp gạo lát nữa nhớ gói về cho bác. Cấm quân bay không được phạm vào!

Cô con gái phàn nàn rằng vụ cà chua, khoai tây năm nay chưa chắc được mùa, u làm giỗ tốn kém quá, khéo không kéo lại được.

Bà Hương cười mát giảng giải cho con gái:

– Quân bay nông cạn lắm; một vốn bốn lời, tao làm bữa giỗ nầy đấm mõm cả làng, đến kỳ đại hội xã viên tới chúng nó sẽ dồn phiếu cho anh cả mày vào chức chủ nhiệm hợp tác xã. Nhìn đấy, cơ nghiệp nhà nầy tạo nên chỉ trong ba năm thầy mày làm chủ nhiệm đó thôi.

Tuy được u giải thích như vậy, song đám đàn bà trong nhà vẫn thông mưu với nhau cùng giấu bớt rượu thịt.

– Rước cụ xơi rượu…

– Vâng bác cứ để mặc em… hình như mâm ta còn thiếu món giò bò?

Ông Mưu “lác” buông đũa nhỏm người nhìn qua bên cạnh, nơi các ông bí thư, chủ tịch, công an xã đã bắt đầu từ trước đó nửa giờ.

– Giò bò chỉ cho các chức sắc thôi, cánh ta xơi tạm giò thủ vậy. Kìa, còn có cả ông Huyện đội nữa nầy… Thằng con trai út bà Hương đợt nghĩa vụ quân sự nầy được hoãn… hèn gì mà có giò bò…

Nhưng rồi thì đám mâm thấp vế cũng cho qua đi cơn ganh tị. Đĩa thịt lợn luộc ngộn mỡ, đĩa cá trôi rán nguyên con đang mở mắt nhìn chòng chọc thế kia thì bố ai mà lo nghĩ chuyện xa xôi cho được.

Khi tiệc rượu vừa lên đến cao trào, tiếng mời rượu, tiếng gọi món ăn và tăng tẳng đâu đây tiếng đàn miệng đang đi dạo cho khúc quan họ thì cô con gái bà Hương tay bưng bát canh miến nóng hỏi vọng từ ngoài sân, lướt qua mấy chục cài đầu người đang nhấp nhô lượn sóng:

– Có ai là ông Đặng Đình Hưng ở đây không? Ra có người cần gặp.

– Hưng nào. Đặng Đình Hưng nào? Làng nầy làm gì có ai tên Đặng Đình Hưng?

Có tiếng người thắc mắc hỏi lại:

– Đặng Đình Hưng phải không? Đúng rồi, cái nhà bác nhạc sĩ Đặng ở ven đê đó.

Ông công an xã xác nhận lại.

– Mà ai cần gặp? Ông hỏi tới.

– Cháu không rõ, họ đi xe Volga từ Hà Nội về đang đỗ chờ ngoài đình làng đấy.

– Xe Volga hả? Thôi thế thì đúng rồi, thằng cháu trai tôi đang làm lái xe cho ông Bộ trưởng nên đánh xe về làng đấy.

Ông Tươi “ba toác” đặt mạnh chén rượu xuống, ẵm vội cái tin đáng hãnh diện đó vào lòng.

– Ai! Ai? Cái thằng Toan lại rước “các ông” về đấy à? Thôi chết tôi rồi, nhà còn mỗi con gà mái đẻ, thịt nốt thì lấy ai mà ấp trứng…?

Bà vợ ông Tươi đang vừa cho con bú vừa vê nắm xôi thất thanh hỏi: Xe Volga màu gì?

Ông bí thư xã cài vội cái khuy áo ngực,vuốt lại mái tóc, cắt ngang lời bà:

– Có phải xe màu đen không?

– Vâng, xe màu đen ông ạ.

Cô con gái bà Hương xác nhận lại.

– Bỏ mẹ rồi, ông bí thư tỉnh uỷ chứ không phải ai đâu… mà có đúng xe màu đen không hay mày nhầm với màu xanh đậm?

– Cháu nhìn phớt qua nên không chắc lắm.

– Đám thanh niên đâu rồi?

– Chi đoàn xã sáng nay đi hội diễn văn nghệ trên huyện chiều mới về.

Có ai đó nhanh nhảu báo cáo.

– Gọi ngay cho tôi đám dân quân!

– Chúng nó còn đang uống rượu.

– Rượu với chè cái gì, bố chúng nó về thăm mà chúng nó còn rung đùi ngồi uống à? Nổi kẻng báo động chiến đấu cấp một lên cho tao!

Đám trai làng lầm bầm chửi, song vẫn lốc nhốc đứng dậy.

– Chia làm hai cánh, một xuống ao hợp tác xã đánh mươi cân cá. Chỉ lấy cá chép trên một ký thôi nghe không. Cánh còn lại vào “vườn cây nhớ ơn Bác” hái hai xọt cam về đây. Mẹ tiên sư, về mà không báo trước hai ba hôm cho người ta kịp chuẩn bị.

– Ao hợp tác xã tát hết vào tuần trước rồi, chả còn gì đâu mà bắt.

Anh xã đội trưởng làu bàu.

– Xuống ao cá bác Hồ!

– Ao đó “bác” dặn chỉ để cho gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng.

– Ông bí thư tỉnh uỷ không đẻ ra cả cách mạng ấy à. Quân bay có muốn chết cả lũ không? Ông mà chết thì chúng mầy cũng chết!

Khi kẻng báo động vừa khua vang ngoài đầu xóm thì hai người khách lạ đã thập thò trước sân.

– Chúng tôi muốn gặp ông Đặng Đình Hưng…

– À, ra thế là các ông; các ông muốn gặp ông Đặng? Các ông là ai? Gặp có việc gì?

Ông công an xã đưa mắt nhìn ông bí thư thở phào rồi xoi mói nhìn khách.

– Chúng tôi ở trên Bộ Văn Hoá về gặp ông ấy có chút việc riêng.

– Việc riêng không thể nói ra đây được à?

– Tôi là Huy Du, bí thư đảng đoàn Hội nhạc sĩ, yêu cầu ông mời hộ ông Hưng ra cho chúng tôi nói chuyện!

– Dạ… dạ, bác Hưng ngồi ở góc kia…, đó ông có nhìn thấy không? Thôi để tôi vào gọi hộ cho.

Vừa thoáng nghe đến cái tên Huy Du. ông Hưng đã xây xẩm mặt mày. Bao nhiêu rượu uống từ đầu bữa tới giờ toát hết hơi lạnh sau gáy. Nhè miếng giò đang nhai dở trong miệng vào bát, ông ngồi thừ ra lo nghĩ. Ông công an xã sốt ruột bèn xốc nách ông đứng dậy.Chân nam đá chân xiêu, quên cả xỏ guốc, ông lảo đảo vịn vai đám khách đang ngồi bệt dưới đất lần ra ngoài. Huy Du cái tên gợi lại cho ông những hình ảnh đấu tố của Bộ Văn hoá 20 năm về trước. Huy Du, bạn ông; Huy Du, người ngưỡng mộ ông; Huy Du đầu thú; Huy Du thủ trưởng; Huy Du, người phát động đấu tố Nhân Văn Giai Phẩm; Huy Du, cơn ác mộng của nửa đời ông… và bây giờ Huy Du lại về đây…

Ông còn lúng túng chưa biết xưng hô làm sao thì hắn ta đã ào tới ôm lấy vai, nụ cười gắn sẵn trên môi.

– Sao có khoẻ không Hưng? Bệnh tật vậy mà vẫn còn sức uống rượu à?

Ông cảm thấy nhột nhạt và lo sợ về cử chỉ thân mật bất ngờ nầy. Đã bao lần người ta êm ái, ân cần, nhân danh sự giúp đỡ khuyên vợ ông bỏ ông… và đẩy ông vào tù.

– Nghe tin cậu bị ung thư anh em rất lo. Hôm qua anh Trần Độ điện thoại hỏi thăm và yêu cầu mình về đón cậu đi nhà thương. Anh ấy nhường cả chiếc xe Volga thường ngày đi làm để cho cậu đấy.

Chúng nó vẫn để ý theo dõi mình? Vẫn chưa buông tha… sao chúng nó biết mình ung thư?

– Đời sống dễ chịu không? Chắc cũng khó khăn nhiều phải không? Nhưng giờ thì khá rồi! Cậu biết không, tay đại sứ của mình từ Ba Lan vừa điện về nhà xin ý kiến nên chuyển 30.000 đô-la tiền thưởng vào Ban tiếp nhận viện trợ trung ương hay chuyển vào ngân quỹ của sứ quán. Tụi mình chạy vội lên ông Phạm Văn Đồng xin giúp đỡ… Và thế là Thủ tướng ký lệnh trả lại cho thằng bé số tiền đó.

– Tiền gì? Thằng bé nào…?

– Thì thằng Sơn nhà cậu ấy. Cậu chưa biết chuyện gì xảy ra à? Thằng Sơn giật giải nhất thi Chopin ở Vác-sa-va ba ngày nay, báo chí đài phát thanh phát ầm lên mà cậu không hay sao?

– Tôi có cái đài cái đóm nào đâu mà biết… Sao? Nó đoạt giải nhất Chopin à?

– Ồ… ở đây sao người ta lại lười đọc báo, nghe đài quá! Các địa phương chả bao giờ nắm vững tình hình được…

Ông đã bắt đầu yên tâm với chiều hướng của câu chuyện, nhưng lòng vẫn còn bán tín bán nghi.

– Được ba ngày rồi à? Thế lúc nầy cháu nó ở đâu?

– Hiện cháu đã về lại Nga rồi. Nửa tháng nữa sẽ nghỉ phép về thăm nhà.

– Về Hà Nội à?

– Ừ, về Hà Nội. Sao? Cậu thấy trong người thế nào? Phải thu xếp lên ngay Hà Nội ngay bây giờ, tớ đã liên hệ với bệnh viện K, họ hứa sẽ thu xếp ngay cho cậu một chỗ nằm.

– Chả hy vọng gì đâu, xin cứ để tôi được yên ở đây. Cái bệnh nầy giỏi lắm cũng chỉ năm sáu tháng nữa là cùng, mà đừng có đụng dao kéo gì tới thì mới được…

– Cậu bệnh nầy lâu chưa?

– Nửa năm nay rồi…

– Bậy thật, thế mà chúng tớ có biết gì đâu, mãi đến hôm kia Thủ tướng điện hỏi thăm xem thằng Sơn là ai, cha mẹ nó làm gì v.v… tụi mình mới hay.

Họ sánh vai nhau đi trên đường làng. Huy Du ôm riết lấy vai ông bạn cũ, thỉnh thoảng lại ghé tai nói nhỏ điều gì rồi cười lên rinh rích. Những lúc đó, ông Hưng dừng lại, chờ cơn cười của Huy Du qua đi, hai bàn chân đi đất gãi gãi vào nhau cho đỡ ngứa rồi đi tiếp.

– Đi đây, rẽ đây… đường làng chật quá, tớ phải cho lái xe đỗ tuốt ngoài đầu đình… cậu đi đâu vậy? Tớ nhận được chỉ thị của anh Trần Độ là phải đưa cậu lên Hà Nội ngay lập tức!

– Cho tôi về nhà cái đã… còn nửa cút rượu uống dở giắt trong vách nhà… mà tôi bỏ quên đôi guốc ở đâu rồi?

– Lấy rượu thôi nhé… đồ đạc không cần, lên Hà Nội lấy quần áo của tớ mặc cho nó tươm tất một chút…

***

Gió Thu lờ lững vờn quanh dẫy nhà hai tầng quét vôi mầu vàng. Hàng sấu già mọc giăng hàng trước cửa đài phát thanh sướng run lên vì được vuốt ve.

Mở toang cửa sổ của văn phòng điều trị, ông Hưng vươn cổ uống lấy từng cơn gió. Bữa cơm chiều ba món nấu đơn giản nhưng đầy chất lượng của bệnh viện dành cho những con người tuyệt đường sinh lộ đang óc ách trăn trở trong bụng ông. Ăn uống kham khổ lâu ngày đã quen bỗng dưng từng khối thịt cá như đạn trái phá nã thẳng vào dạ dầy đâm ra hỏng bét hết cả. May mà ông nghe lời bác sĩ không ăn thêm món thịt ngỗng quay không biết của ai mua ở phố Hàng Buồm gửi vào. Quà cáp thật nhiều, của người quen có, của những cái tên lạ hoắc cũng có.

Sau cái trò Phạm Tuân lên vũ trụ, giờ lại tới tin con trai ông trở thành đệ nhất dương cầm thế giới đang gây dư luận sôi nổi trong cả nước. Quán rượu, quán cà phê, nước trà, đang khi chen chúc nhau trên xe buýt, người ta kháo nhau về cái tin bất ngờ đó. Nhiều gã thanh niên sau khi thêm thắt một vài chi tiết chung quanh cuộc thi rồi xuống giọng trầm buồn kể về cuộc đời gian truân đầy éo le của bố nó 

– Tôi vẫn thường uống rượu với ông Đặng Đình Hưng mà! – Một chi tiết đáng giá bảo đảm cho sự quen biết đối với bậc danh nhân. Ngay cả đến ông hàng xóm thật, hồi mà thiên tài của thằng Sơn còn mong manh trong vỏ trứng, đã một ngày hai bận sang đấm cửa nhà nó yêu cầu câm ngay cái âm thanh không thích hợp với rau muống, chuyện đấu đá ở cơ quan, để cho ông được yên tĩnh, cũng ngậm ngùi oán trách sự ngược đãi của chế độ đối với nhân tài.

Thôi cũng chả sao; bất mãn đang là cái mốt của người Hà Nội mà. Giới văn nghệ sĩ thì sung sướng ra mặt. Gặp nhau ngoài đường anh nào anh nấy mặt mũi tưng tửng làm như mình là người đoạt giải vậy. Xưa nay vốn bị coi khinh bạc, bị coi như một thứ xướng ca, mõ làng cho đảng giờ cũng đẻ ra được một cái gì, y như nàng thứ phi bỗng dưng sinh hạ cho chúa thượng một đấng con trai bèn lên mặt với đám thê thiếp. Cái đất nước quá nghèo nầy suốt đời ngửa cổ chờ đón tin trúng số độc đắc và những phen có dầu… hụt của tổng cục dầu khí, giờ đang nở mặt nở mày với thế giới.

Nhưng “Trung Ương” thì không được hài lòng lắm. Thật là một cú bất ngờ, xưa nay đã trót kìm kẹp đè nén khiến bao tài năng bị sinh non đẻ bậy, giờ lại phải ngậm đắng nuốt cay ẵm ngửa một cuộc đời đã thoát khỏi quỹ đạo của đảng bay ra ngoài giao du với thế giới. Việc nhọc lòng đầu tiên là ông Phạm Hùng buộc phải ký lệnh hết hiệu lực cái án phát vãng lưu vong cho ông bố thằng Sơn. Thứ đến là Sở quản lý nhà đất phải lo cho ông cái buồng để ở. Rồi đây, khi quan trên trông xuống, người ta trông vào, gia đình nó cũng phải có một chỗ trú thân cho tươm tất. Giới lãnh đạo văn nghệ lại phải lựa lời để thay đổi cách xưng hô. 

“Tên đồ tể Đặng Đình Hưng” (?) không hiểu ông nhạc sĩ Huy Du, bí thư đảng đoàn Hội Nhạc Sĩ lấy đâu ra lòng căm giận để nguyền rủa người bạn thân, kẻ đã can tội nhỏ nước mắt cho những oan hồn cải cách ruộng đất mà khi đó chính ông ta cũng là thành viên của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Và cũng chính ông Huy Du nầy, khi thằng Sơn đã học hết những cái gì có được của trường nhạc Việt Nam bèn lên giọng lập trường quan điểm đe bác bỏ đề nghị gửi nó đi Nga học. May mà có dịp ông Na-ta-xon, giáo sư dương cầm Nga, ghé Hà Nội, giữa rừng âm thanh bát nháo, ông đã lọc ra tiếng đàn thằng Sơn. Nhưng ba năm liền Hà Nội vẫn lì ra với lời yêu cầu gửi thẳng nó qua cho ông dạy. Đến độ ông nổi cáu, sát hạch lại trình độ tất cả học sinh được gửi sang, đuổi về một mớ và dọa sẽ đuổi tất cả nếu không cho thằng Sơn đi. Bị dồn vào bước đường cùng nên anh đội cẩm Huy Du đành duyệt cho qua lý lịch của nó.

“… Con bị ốm nặng bố ạ, có lẽ vì hành trình đi Vac-sa-va quá dài mà con đi bằng xe lửa. Sứ quán bác đơn xin tiền lộ phí của con để đi thi, họ cũng khước từ bảo hộ cho danh xưng của con trong cuộc thi. Nhưng con quyết định liều và giáo sư Na-ta-xon một lần nữa lại giúp con, ông ấy cho con tiền đi đường, tiền thuê dàn nhạc đệm và tiền trọ… 

Trong cơn sốt 39.5 độ, con đã chảy nước mắt ròng: Các nước tham dự cuộc thi đều được chào cờ và cử quốc ca của mình, mà Việt Nam thì không có – Con tham dự với tư cách thí sinh tự do… Nhưng cũng nhờ sự cay đắng đó mà con gặp đươc Chopin – Những nỗi đau giao thoa với nhau đã bật lên tiếng đàn của hồn ông…”

Ông hiểu con ông như hiểu chính mình. Nó vẫn cô đơn và đầy dũng cảm như cha nó. Nhưng ngôi sao bản mệnh của nó vững hơn nên đi hết được con đường ông đã dắt nó vào và bỏ dở. Buông rơi lá thư tay nóng hổi của con trai gửi về, ông liếc mắt xuống tờ báo Nhân Dân: 

“Công-cua Sô Phanh – Công-cua gốc mít.” 

Hàng tít lớn chạy dài cắt ngang tờ báo – “…Đặng Thái Sơn, tiếng đàn vọng lên từ những căn hầm trú ẩn. Tiếng đàn bay cao hơn tiếng bom Mỹ nổ. Tiếng đàn vọng lên từ dưới những gốc mít của các trại sơ tán của trường nhạc Việt Nam. Đặng Thái Sơn, những nỗi đau của một dân tộc đấu tranh đòi độc lập…”. 

Cái thằng Thép Mới nầy “rỉ” quá rồi. Thi sĩ Tố Hữu vừa dồn hết cảm hứng cho Phạm Tuân vào vũ trụ nên chưa lấy lại được hơi sức. Cũng may! Ông nhớ lại hình ảnh của những đứa trẻ con đá bóng trên đường phố trong đêm khuya, từng bầy công an bịt chặt các ngã đường – như đánh trận – để đuổi bắt chúng. Những đứa trẻ ở trần mồ hôi trơn láng, khó bắt thì ngáng chân! Rồi mai đây khi những đứa bé gẫy răng, đổ máu đầu để nứt đất chui lên thành Thế Anh, Cao Cường v.v… (hai cầu thủ nổi tiếng) thì con mẹ mìn đó lại ẵm vội vào lòng. “Nhờ sự quan tâm vun trồng của đảng!”…

Ông thấy thương con ông, ông thương những đứa trẻ. Nó chỉ có một con đường, cắm đầu mà đi, đằng sau không có lối về. Khi đụng đến bức tường cuối đường thì úp mặt vào, đợi tiếng lên đạn…

Nhưng lần nầy thì đạn nổ ngược, nó đã nhảy bật qua khỏi bức tường bay thoát ra thế giới bên ngoài. Ông nhẩm đếm những xác người đã ngã gục dưới bức tường đó. Trần Dần, Phan Khôi… những Đoàn Phú Tứ lẩn thẩn suốt đời đi dép lệch, những Lê Đạt lầm lũi chui trong đêm như con cóc, người quen gặp không dám chào vì sợ liên luỵ, những thằng họa sĩ sau khi buộc lòng học nghề thợ mộc trong tù nhìn bàn tay phế thải cứng như thợ đóng cối của mình mà trào nước mắt… Còn biết bao nhiêu cuộc đời bị rút phép thông-công đẩy vào bóng tối như mình?

Ông nhớ lại những trại nuôi bò mà người ta đã lùa ông và bạn bè ông lên đó để “lấy lại tình thương, lập trường giai cấp từ những con vật!…”. Để Văn Cao bây giờ suốt ngày đi ngoài đường thơ thẩn như con bò. Còn Hoàng Cầm nữa, nó yêu từ gốc rạ toả hơi ấm sớm mai, ngơ ngẩn hỏi “lá diêu bông” ở đâu… chứng nào vẫn tật nấy, còn ngứa ngáy với thơ thì lại rũ xương trong tù mà thôi.

Khuôn mặt vợ ông từ từ hiện lên. Nàng vẫn sống mà ông như nhớ về người đã chết. Hơn chục năm rồi không gặp lại kể từ lần cuối ra toà li dị. Tất cả đã đổ vỡ, đổ vỡ từ nàng Thái Thị Liên đẹp mơ mộng, có tiếng đàn lãng mạn như tình yêu đối với ông. Người ta không thể chịu được bà trưởng hệ Piano lại là vợ của “thằng Nhân Văn Giai Phẩm.” Nàng cũng không thể chịu được con người ngày hôm qua còn là đấng tao nhân hào hoa phong nhã ngước mắt nhìn trời là nhạc ý tuôn theo mây, nay thành kẻ phẫn chí nát rượu. Con cái nàng không thể ngóc đầu lên được nếu ngày nào còn là con “thằng Nhân Văn Giai Phẩm…”. Và ông đành gạt nước mắt chia tay vợ ở tòa án rúc về xó quê hẻo lành đợi tuổi già đến khuân đi. Nghĩ đến, ông vẫn còn tủi giận. Ông vẫn còn yêu, hằng đêm ông vẫn còn nhớ. Nhưng trời đày làm sao để những con người xa thì nhớ thương mà lại gần thì thấy ghét. Một cơn ho xé phổi kéo giật ông xuống giường. Người nữ y tá trực vội xô cửa chạy vào.

– Ông lại uống rượu phải không?

– Không, tôi có uống nữa đâu, có lẽ tại lạnh, làm ơn đóng hộ cái cửa sổ.

Ông cố giơ tay chỉ ra phía sau mình.

– Ông tệ lắm, cấm thế nào vẫn lén uống. Ông Huy Du đã chỉ cho chúng tôi mánh khoé giấu rượu của ông mà vẫn không sao ngăn được.

Có tiếng lao xao trò chuyện ngoài hành lang.

– Tôi chỉ vào năm phút thôi, tôi là cháu họ của ông ấy mà…

Anh đó cố vật nài.

– Đã bảo không được là không được mà!

Tiếng đàn ông xẵng giọng đáp lại.

– … Tôi đã nói với các người rất nhiều lần rồi, người bệnh cần được tĩnh dưỡng. Yêu cầu 4 giờ rưỡi chiều mai trở lại!

Ông nhận ra giọng nói của nhạc sĩ Huy Du. 

– Cái thằng nầy thật lắm nghề, khi méo khi tròn, nó định làm bầu gánh hát cho cha con nhà nầy hay sao vậy? –. Cô y tá vừa khép cánh cửa lại là ông vùng dậy liền. Ngắm nghía bộ quần áo của Huy Du đưa, ông tắc lưỡi rồi trút bỏ bộ đồ bệnh nhân, mặc nó vào. Tụt người khỏi bệ cửa sổ, ông bò xuống đường. Khi chân vừa chấm đất thì chợt vang lên một hồi kẻng. Ông giật mình đứng sững người lại để định thần. À, hoá ra tiếng kẻng đổi gác của hỏa lò Hà Nội. Nháy mắt với chú công an đang bồng súng trợn mắt nhìn mình trong chấn song sắt, ông đi cứ như chạy đến quán rượu của Hoàng Cầm.

– Thằng Sơn nó về là mình có quyền xoá tên trong “sổ thiên tào” của ông bạn vàng rồi. Tiên sư nó, mỗi lần ghi nợ mình là nó xướng to lên cho vợ nghe thấy rồi lẳng lặng dúi thêm cho nửa lít mang về.

Thế Giang

( Nguồn: Trích từ CÂY ĐẮNG NỞ HOA trong tập truyện ngắn Thằng Người Có Đuôi; Nhà xuất bản Người Việt, 1987).

Image may contain: 2 people, people sitting
Văn Cao và Đặng Đình Hưng



Bài Ca Vọng Cổ

Bài Ca Vọng Cổ

Tôi vượt biên một mình rồi định cư ở Pháp. Năm đó tôi mới 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm, đến đâu người ta cũng chê là tôi già! Vì vậy, một hôm, khi chải tóc, tôi nhìn kỹ tôi trong gương. Tôi bỗng thấy ở đó có một người có vẻ quen nhưng thật ra thì rất lạ: mắt sâu, má hóp, mặt đầy nếp nhăn trên trán, ở đuôi mắt, ở khóe môi, mái tóc đã ngà bạc cắt tỉa thô sơ như tự tay cắt lấy. Từ bao lâu nay tôi không để ý, bây giờ soi gương vì bị chê già, tôi mới thấy rằng tôi của hồi trước “Cách mạng thành công” và tôi của bây giờ thật không giống nhau chút nào hết. Tôi già thiệt, già trước tuổi. Cho nên, tôi nhìn tôi không ra. Từ đó, mỗi ngày tôi… tập nhìn tôi một lần, nhìn kỹ, cho quen mắt!

Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte d’Ivoire (Phi châu) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn còn thất nghiệp, bèn giới thiệu cho tôi Công ty Đường Mía của Nhà nước. Không biết anh ta nói thế nào mà họ nhận tôi ngay, còn gửi cho tôi vé máy bay nữa!

Xưa nay, tôi chưa từng quen một người da đen gốc Phi Châu nào hết. Và chỉ có vài khái niệm thô sơ về vùng Phi châu da đen như là: Ở đó nóng lắm, đất đai còn nhiều nơi hoang vu, dân chúng thì da đen thùi lùi, tối ngày chỉ thích vỗ trống, thích nhảy tưng tưng v…v… Vì vậy, tôi hơi… ngán. Nhưng cuối cùng rồi tôi quyết định qua xứ da đen để làm việc, danh dự hơn là ở lại Pháp để tháng tháng vác mặt Việt Nam đi xin trợ cấp đầu nọ, đầu kia.

Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một cái làng nằm cách thủ đô Abidjan gần 800 km! Vùng nầy toàn là rừng là rừng. Không phải rừng rậm rì cây cao chớn chở như ở Việt Nam. Rừng ở đây cây thấp lưa thưa, thấp thấp cỡ mười, mười lăm thước… coi khô khốc. Không có núi non, chỉ có một vài đồi trũng nhưng đồi không cao và trũng, không sâu…

Nhà nước phá rừng trồng mía… Ruộng mía ngút ngàn! Nằm ở trung tâm là khu nhà máy, khu cơ giới, khu hành chánh, khu cư xá v…v… nằm cách nhau cỡ vài cây số. Muốn về thủ đổ Abidjan, phải lái xe hơi chạy theo đường mòn xuyên rừng gần ba chục cây số mới ra tới đường cái tráng nhựa. Từ đó, chạy đi Touba, một quận nhỏ với đông đảo dân cư. Từ đây, lấy máy bay Air Afrique về Abidjan, mỗi ngày chỉ có một chuyến. Phi trường Touba nhỏ xíu, chỉ có một nhà ga xây cất sơ sài và một phi đạo làm bằng đá đỏ, mỗi lần máy bay đáp lên đáp xuống là bụi bay… đỏ trời!

Tôi hơi dài dòng ở đây để thấy tôi đi “đi làm lại cuộc đời” ở một nơi hoang vu hẻo lánh mà cảnh trí thì chẳng có gì hấp dẫn hết! Thêm vào đó, tôi là người Á Đông duy nhất làm việc chung với Tây trắng (chỉ có năm người) và Tây đen (đông vô số kể).

Ở đây, thiên hạ gọi tôi là “le chinois” – thằng Tàu. Suốt ngày, suốt tháng tôi chỉ nói có tiếng Pháp. Cho nên, lâu lâu thèm quá, tôi soi gương rồi… nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt, trông giống như thằng khùng! Chưa bao giờ tôi thấy tôi cô đơn bằng những lúc tôi đối diện tôi trong gương như vậy.

… Một hôm, sau hơn tám tháng “ở rừng”, tôi được gọi về Abidjan để họp (đây là lần đầu tiên được về thủ đô!). Anh tài xế đen đưa tôi ra Touba. Chúng tôi đến phi trường lối một giờ trưa. Sau khi phụ tôi gởi hành lý, anh tài xế nói:

– Tôi ra ngủ trưa ở trong xe. Chừng Patron (ông chủ) đi được rồi, tôi mới về.

Ở xứ đen, họ dùng từ “Patron” để gọi ông chủ, ông xếp, người có địa vị, có tiền, người mà họ nể nang v…v.. Nghe quen rồi, chẳng có gì chói lỗ tai hết! Tôi nói:

– Về đi! Đâu cần phải đợi!

Hắn nhăn răng cười, đưa hàm răng trắng tốt:

– Tại Patron không biết chớ ở đây, lâu lâu họ lại hủy chuyến bay vào giờ chót, nói tại máy bay ăn-banh (en panne) ở đâu đó. Máy bay cũng như xe hơi vậy, ai biết lúc nào nó nằm đường.

Rồi hắn đi ra xe.

Tôi ngồi xuống một phô-tơi, nhìn quanh, hành khách khá đông. Nhiều người ngồi với một số hành lý như thùng cạc-tông, bao bị, va-li v…v… Không phải họ không biết gửi hành lý, nhưng vì những gì họ đã gửi đã đủ số ký-lô dành cho mỗi hành khách, nên số còn lại họ… xách tay, cho dầu là vừa nhiều món vừa nặng, vừa cồng kềnh!

Không khí nóng bức. Mấy cái quạt trần quay vù vù, cộng thêm mấy cây quạt đứng xoay qua xoay lại, vậy mà cũng không đủ mát. Thiên hạ ngủ gà ngủ gật, tôi cũng ngã người trên lưng ghế, lim dim…

Trong lúc tôi thiu thiu ngủ thì loáng thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rồi thở dài, nghĩ: “Tại mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy.” Rồi lại nhắm mắt lim dim… Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần nầy nghe rõ câu ngân nga trước khi “xuống hò”:

Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng… đang vươn lên ngọn khói… á… lam… à… chiều….

Đúng rồi! Không phải ở trong đầu tôi, mà rõ ràng có ai ca vọng cổ ngồi kia. Tôi nhìn ra hướng đó, thấy xa xa dưới lùm cây dại có một người đen nằm võng. Và chỉ có người đó thôi. Lạ quá! Người đen đâu có nằm võng. Tập quán của họ là nằm một loại ghế dài bằng gỗ cong cong. Ngay như loại ghế bố thường thấy nằm dưới mấy cây dù to ở bãi biển… họ cũng ít dùng nữa.

Tò mò, tôi bước ra đi về hướng đó để xem là ai vừa ca vọng cổ lại vừa nằm võng đong đưa. Thì ra là một anh đen còn trẻ, còn cái võng là cái võng nhà binh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa hồi xưa. Tôi nói bằng tiếng Pháp:

– Bonjour!

Anh ngừng ca, ngồi dậy nhìn tôi mỉm cười, rồi cũng nói “Bonjour”. Tôi hỏi, vẫn bằng tiếng Pháp:

– Anh hát cái gì vậy?

Hắn đứng lên, vừa bước về phía tôi vừa trả lời bằng tiếng Pháp:

– Một bài ca của Việt Nam. Còn ông? Có phải ông là “le chinois” làm việc cho hãng đường ở Borotou không?

Tôi trả lời, vẫn bằng tiếng Pháp:

– Đúng và sai! Đúng là tôi làm việc ở Borotou. Còn sai là vì tôi không phải là người Tàu. Tôi là người Việt Nam.

Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng có một chút lơ lớ:

– Trời ơi! …. Bác là người Việt Nam hả?

Rồi hắn vỗ lên ngực:

– Con cũng là người Việt Nam nè!

Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng tôi kiềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại “trôi sông lạc chợ” đến cái xứ “khỉ ho cò gáy” nầy mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt.

Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên:

– Trời ơi!… Con mừng quá! Mừng quá! Trời ơi!… Bác biết không? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt… con mừng “hết lớn” bác à!

Rồi hắn kéo tôi lại võng:

– Bác nằm đi! Nằm đi!

Hắn lại đống gạch “bờ-lốc” gần đấy lấy hai ba viên kê bên cạnh võng rồi ngồi lên đó, miệng vẫn không ngừng nói:

– Con nghe thiên hạ nói ở Borotou có một người Tàu. Con đâu dè là bác. Nếu biết vậy, con đã phóng Honda vô trỏng kiếm bác rồi! Đâu được tới bây giờ.

Hắn móc gói thuốc, rồi mời tôi:

– Mời bác hút với con một điếu.

Hắn đưa gói thuốc về phía tôi, mời bằng hai tay. Một cử chỉ mà từ lâu tôi không còn nhìn thấy. Một cử chỉ nói lên sự kính trọng người trưởng thượng. Tôi thấy ở đó một “cái gì” rất Việt Nam.

Tôi rút điếu thuốc để lên môi. Hắn chẹt quẹt máy, đưa ngọn lửa lên đầu điếu thuốc, một tay che che như trời đang có gió. Tôi bập thuốc rồi ngạc nhiên nhìn xuống cái quẹt máy. Hắn nhăn răng cười:

– Bộ bác nhìn ra nó rồi hả?

Tôi vừa nhả khói thuốc vừa gật đầu. Đó là loại quẹt máy Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép, đầu đít có nét cong cong. Muốn quẹt phải lấy hẳn cái nắp ra chớ nó không dính vào thân ống quẹt bằng một bản lề nhỏ như những quẹt máy ngoại quốc. Hắn cầm ống quẹt, vừa lật qua lật lại vừa nhìn một cách trìu mến:

– Của ông ngoại con cho đó! Ông cho hồi ổng còn sống lận.

Rồi hắn bật cười:

– Hồi đó ổng gọi con bằng “Thằng Lọ Nồi”.

Ngừng một chút rồi tiếp:

– Vậy mà ổng thương con lắm à bác!

Hắn đốt điếu thuốc, hít một hơi dài rồi nhả khói ra từ từ. Nhìn cách nhả khói của hắn, tôi biết hắn đang sống lại bằng nhiều kỷ niệm. Tôi nói:

– Vậy là cháu lai Việt Nam à?

– Dạ. Má con quê ở Nha Trang.

– Rồi má cháu bây giờ ở đâu?

Giọng của hắn như nghẹn lại:

– Má con chết rồi. Chết ở Nha Trang hồi năm 1975.

– Còn ba của cháu?

– Ổng hiện ở Paris. Tụi nầy nhờ có dân Tây nên sau 1975 được hồi hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà nội. Con sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi ruột thúi gan luôn!

Tôi nhìn hắn một lúc, cố tìm ra một nét Việt Nam trên con người hắn. Thật tình, hắn không có nét gì lai hết. Hắn lớn con, nước da không đến nỗi đen thùi lùi như phần đông dân chúng ở xứ nầy, nhưng vẫn không có được cái màu cà phê lợt lợt để thấy có chút gì khác. Tóc xoắn sát da đầu, mắt lồi, môi dầy. Tôi chợt nói, nói một cách máy móc:

– Thấy cháu chẳng có lai chút nào hết!

Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng nghiêm trang:

– Có chớ bác. Con có lai chớ bác.

Hắn xòe hai bàn tay đưa ra phía trước, lật qua lật lại:

– Bên nội của con là nằm ở bên ngoài nầy đây nè.

Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim: “Còn bên ngoại nó nằm ở bên trong. Ở đây, ở đây nè bác.

Bỗng giọng hắn nghẹn lại:

– Con lai Việt Nam chớ bác!

Trong khoảnh khắc, tôi xúc động đến quên mất màu da đen của hắn, mà chỉ thấy trước mặt một thanh niên Việt Nam, Việt Nam từ cử chỉ tới lời lẽ nói năng. Tôi vỗ nhẹ lên vai hắn mấy cái, gật đầu nói:

– Ờ… Bác thấy. Bây giờ thì bác thấy.

Hắn mỉm cười:

– Ở đây, người ta nói con không giống ai hết, bởi vì con hành động cư xử, nói năng không giống họ. Bà nội con cũng nói như vậy nữa! Còn con thì mỗi lần con nhìn trong kiếng, con vẫn nhận ra con là người Việt Nam. Bác coi có khổ không?

Rồi nó nhìn tôi, một chút trìu mến dâng lên trong ánh mắt:

– Bây giờ con gặp bác rồi, con thấy không còn cô đơn nữa. Gặp một người mình, ở cái xó xa xôi hẻo lánh nầy, thiệt là Trời còn thương con quá!

Tôi im lặng nghe hắn nói, nhìn hắn nói mà có cảm tưởng như hắn đang nói cho cả hai: cho hắn và cho tôi. Bởi vì cả hai cùng một tâm trạng.

Hắn vẫn nói, như hắn thèm nói từ lâu:

– Nhớ Sài Gòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn. Hồi nãy bác lại đây là lúc con đang ca bài “Đường Về Quê Ngoại” đó bác.

– Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.

Giọng nói hắn bỗng như hăng lên:

– Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Âu, lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua. Bác thấy không? Bởi vậy, không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.

– Bác cũng vậy.

Tôi nói mà thầm phục sự hiểu biết của hắn. Và tôi thấy rất vui mừng có một người như vậy để chuyện trò từ đây về sau.

Có tiếng máy bay đang đánh một vòng trên trời. Chúng tôi cùng đứng lên, hắn nói:

– Nó tới rồi đó. Con phải sửa soạn xe trắc-tơ và rờ-mọt để lấy hành lý. Con làm việc cho hãng Air Afrique, bác à.

Rồi hắn nắm tay tôi lắc mạnh:

– Thôi, bác đi mạnh giỏi. Con tên là Jean. Ở đây ai cũng biết “Jean le Vietnamien” hết. Chừng về bác ghé con chơi, nghen.

Bỗng, hắn ôm chầm lấy tôi siết nhẹ rồi giữ như vậy không biết bao nhiêu lâu. Tôi nghe giọng hắn lạc đi:

– Ghé con nghe bác… Ghé con…!

Tôi không còn nói được gì hết. Chỉ vừa gật đầu vừa vỗ vỗ vào lưng hắn như vỗ lưng một người con.

Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má của hắn ướt nước mắt. Tôi quay đi, lầm lũi bước nhanh nhanh về nhà ga mà nghĩ thương cho “thằng Jean le Vietnamien”. Hồi nãy nó ôm tôi, có lẽ nó đã tưởng tượng như là nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ.

Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến “thằng Jean”, rồi tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô đơn nữa!

Bây giờ, viết lại chuyện “thằng Jean” mà tôi tự hỏi: “Trong vô số người Việt Nam lưu vong hôm nay, còn được bao nhiêu người khi nhìn trong gương vẫn nhận ra mình là người Việt Nam? Và có được bao nhiêu người còn mang trong lòng bài ca vọng cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nguyên trong đó?

Tiểu Tử (Trần Hoài Nam)




Ở Cuối Hai Con Đường

Ở Cuối Hai Con Đường

Những năm “cải tạo” ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.

Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.

See the source image

Ngày nhập trại, sau khi “biên chế” xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái lán lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ “đồng chí cán bộ quản giáo” đến tiếp nhận.

Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào lán. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: “Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ?”

Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.

Bằng một giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi “báo cáo” môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản “lý lịch trích ngang”.

Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ “tội” dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm – bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm – bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:

–  Trong này có anh nào thuộc Sư Đoàn 23?

Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:

–  Thưa cán bộ, có tôi ạ.

–  Anh ở trung đoàn mấy.

–  Trung Đoàn 44.

–  Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?

–  Vâng, có ạ.

Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên:

–  Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.

Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:

–  Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?

–  Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư Đoàn 320.

Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:

–  Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.

–  Sau đó cán bộ được trao trả? Tôi hỏi.

–  Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.

Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi lán được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:

–  Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.

Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.

Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong lán, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.

Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:

–  Tôi để một giỏ cá đằng sau lán. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.

Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.

Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp “Hoàng Cầm” để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh “chuẩn bị đi về”, anh em tức khắc giấu hết “tang vật” xuống một cái hố đã đào sẵn.

Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no – dù chỉ là no sắn.

Không biết tối hôm ấy, trong giờ “giao ban”, quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?

Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ:

–  Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.

Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em:

–  Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư Đoàn 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.

Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.

–  Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? Một anh tù hỏi.

–  Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố giấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằn vặt mãi cho đến hôm nay.

Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.

Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.

* * *

Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 50 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.

Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị “hạ tầng công tác” ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.

Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.

Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.

Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nở, đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.

Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen cho biết bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.

Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.

Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thuở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: “Ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn”. Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.

Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.

Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.

Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ -20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe. Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.

–  Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.

–  Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.

Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:

–  Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?

–  Ông Thà, Nguyễn văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan?

–  Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.

–  Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.

Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.

Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng nhiều lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.

–  Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.

–  Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.

–  Ba cháu bây giờ làm gì?

–  Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.

Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.

Tôi nhớ tới một người bạn Ba-Lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.

Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.

Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.

Anh đưa tôi đến gặp cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.

Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.

Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.

* * *

Các Anh thân quý

Khi ngồi viết những dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: “Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại để chăm lo cho bộ lông của mình”. Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.

Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người.

Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.

Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba-Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.

Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quý giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che cho ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian…”

* * *

Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: “Xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?”

August 27, 2008

phạm tín an ninh




CÓ MỘT NGƯỜI TÊN V. HUY

CÓ MỘT NGƯỜI TÊN V. HUY

                     ĐỖ DUY NGỌC

Hắn tên là V. Huy, thật ra tên đầy đủ của hắn là Nguyễn Phúc Vĩnh Huy, vốn là con cháu giòng họ vua chúa triều Nguyễn.
  Bố hắn là giáo sư tiến sĩ, từng chữa bệnh cho ông Hồ.
  Ông nội hắn là Thượng thư bộ Lại trong triều vua gì đó của nhà Nguyễn.
  Mẹ hắn cũng là giáo sư nhưng hình như bên ngành Luật, tốt nghiệp từ bên Tây, nghe lời ông Hồ về nước tham gia đánh giặc.
  Lí lịch của hắn quá ư là đẹp, vừa quí tộc vừa cộng sản, không chê vào đâu được.
  Hắn tốt nghiệp Tiến sĩ ngành ngoại giao ở Liên Xô, cũng nghe nói là bằng đỏ đàng hoàng, và chắc chắn là bằng thật.

Thế mà hắn lại xổ toẹt cái lí lịch đó, đái lên cái truyền thống đẹp như mơ đó. Hắn không bao giờ chịu thổ lộ cái tên trong khai sinh cho bất kì ai, và luôn luôn tự xưng tên tôi là V. Huy, cắt đứt mọi liên hệ với cái gia đình danh giá.
  Cũng chẳng biết tại sao. Và mọi người cũng không rảnh thì giờ để điều tra chuyện đó.

Tôi gặp hắn lần đầu trong quán cà phê. Quen qua quen lại mà thành thân gần tám năm nay.
    Hắn là một thằng có cá tính. Mà lại là cá tính quái dị. Tôi cũng vốn là một người quái đản – theo mọi người chung quanh bảo thế – nên khi gặp hắn là thành thân ngay, đi đâu cũng có nhau. Ngưu tìm ngưu, mã tìm mã mà.

Hắn có khuôn mặt của John Lennon: ngây thơ mà tinh quái. Cũng nét mặt gầy, mũi thẳng, tóc xoăn để dài đến bờ vai, chỉ khác là tóc màu đen.
    Hắn cũng đeo kính cận gọng tròn, nặng độ, dày như đít chai. Lúc nào hắn cũng kè kè cái ba lô nặng trĩu chứa tùm lum nào sách, nào khăn, nào đủ thứ như một túi rác. Nhưng hắn bảo hắn chứa cả càn khôn trong đó.

Hắn chỉ có độc một bộ đồ, chiếc áo jean bạc màu, áo jacket màu cứt ngựa có nhiều túi và cũng nhiều fermature. Chiếc quần jean rách ở đầu gối và sờn ở hai mông đít. Đôi giày lính Mỹ cao cổ loang lổ và ám bụi đường. Hắn không bao giờ giặt áo quần, cứ mặc cho đến tả tơi lại đi tìm bộ khác cũng y như thế. Công nhận hắn cũng giỏi săn lùng vì suốt tám năm quen hắn, tôi có cảm tưởng hình như hắn chẳng bao giờ thay kiểu quần áo.

Hắn là một thằng thông minh, rất thông minh. Và cũng uyên bác, rất uyên bác.
    Tôi là người rất ngạo mạn, ít khen ai và cũng ít nể ai, luôn khinh khi những thằng tiến sĩ dỏm nhiều như quân Nguyên chạy đầy đường.

  Nhưng gặp hắn, quen hắn, biết hắn thì tôi phải khen ngợi hắn thật lòng. Hắn nói tiếng Anh như dân xuất thân từ Oxford , đúng giọng và ngữ điệu. Hắn vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra. Hắn nói tiếng Ý như mưa rào và tiếng Nga thì thôi rồi, nghe không khác gì Putin. Hắn cũng giỏi tiếng Hán, viết thư pháp như múa, đặc biệt là chữ thảo, đọc toàn sách cổ văn, đọc tiếng Đức ầm ầm như bão tố
    . Ngoài ra hắn còn giỏi tiếng Bồ Đào Nha, đọc kinh Phật bằng tiếng Pali và nói thông thuộc tiếng Khmer. Hay nhất là dù hắn có mười mấy năm ở nước ngoài, có bằng Tiến sĩ ở Nga nhưng lại nói tiếng Việt rất chuẩn, tròn vành rõ chữ và dùng từ thì không chê vào đâu được.
    Nói tóm lại, xét về mặt ngôn ngữ, hắn là thằng trùm thiên hạ.

Không biết chính xác hắn ở đâu. Lúc thì bảo ở quận tư, có khi lại ở quận tám.
  Tóm lại hắn là thằng giang hồ. Một thằng trí thức nhất trong những thằng trí thức đúng nghĩa của Việt Nam đang là kẻ không nhà.
    Hắn là thằng ma – cà – bông. Cứ khoảng chín giờ sáng là có mặt hắn ở quán cà phê, kêu li đen và ngồi rít thuốc liên tục.

  Bất cứ vấn đề gì hắn cũng có thể nói được, và nói rất sâu. Gặp những từ ngữ cần chính danh, hắn có thể lấy giải nhĩa từ nguyên chữ Hán và có khi từ chữ gốc của tiếng La tinh. Hắn có thể nói từ chuyện văn chương kim cổ cho đến những phát minh từ xưa đến nay của loài người. Hắn giảng về Socrate, Platon cho đến các triết gia cận đại. Hắn nói về Mác thì ai cũng ngóng cổ lên mà nghe bởi vì toàn những vần đề mà những ngài tuyên huấn cộng sản không bao giờ biết đến và phân tích nổi. Khi hắn phân tích cách mạng Trung Hoa, cách mạng Việt Nam, rồi tương lai của toàn thế giới thì mọi người há mỏ nghe không ngậm lại được, mặt ai cũng nghệch ra như ngỗng ỉa. Trong mọi cuộc bàn luận, hắn trở thành trung tâm. Khi chưa có mặt hắn ở khu vực này, tôi được mọi người phong cho là bách khoa toàn thư, chuyện gì cũng biết. Nhưng từ khi có hắn, tôi như đèn dầu le lói mà hắn thì sáng như đèn pha. Ngay như chuyện chó mèo, chim cò, rắn rít, thú hoang hắn cũng rành như ông giáo sư Võ Qúy. Chuyện gì hắn cũng biết, mà biết rõ ngọn ngành rành mạch mới siêu chứ. Khi hắn đã nói thì chẳng còn ai có thể cãi lại hắn được. Với cái đầu của hắn, nếu được làm lãnh đạo hắn có thể là người lãnh đạo giỏi hay ít nhất đất nước sẽ nở mày nở mặt khi hắn tiếp xúc với năm châu bốn bể.

    Nhưng hắn lại là thằng lang thang, sống bằng những bài dịch tin nước ngoài cho mấy tờ báo lá cải. Trong khi mấy thằng ngu thì chức cao quyền trọng, ghế cao chót vót. Đời là vậy đấy! C’est la vie!!

Theo những tin tức vỉa hè thì hồi mới về nước thì hắn cũng đi làm ở Bộ Ngoại giao. Là nhân viên của một cục, một vụ gì đấy.
    Nhưng vì hắn quá giỏi lại quá ngông, không chịu nghe theo những chỉ thị ngu xuẩn của lãnh đạo nên cuối cùng bị đẩy xuống làm anh chạy văn thư.
  Vì cảm thấy nhục, hắn cũng kiện tụng tùm lum mà chẳng đi đến đâu nên bỏ sở mà làm kẻ lang thang.
    Tôi nghĩ tánh khí ngang tàng không khuất phục chính là nguyên nhân bi kịch chối từ gia đình của hắn.

Cách đây mấy năm, tôi có người bạn Pháp, một chuyên gia sưu tầm cổ vật Đông phương sang Việt Nam mua được một chậu sứ Trung Hoa rất cổ, hình như là đời đầu Minh. Chậu sứ vẽ cảnh mục đồng chăn trâu men xanh rất đẹp. Nét vẽ uyển chuyển và tinh tế của một nghệ nhân bậc thầy. Ông bạn tôi mấy lần mang về Pháp đều bị chận lại vì hải quan không cho mang cổ vật ra khỏi nước. Chuyện đến tai hắn, hắn bảo sẽ mang đi được với điều kiện bạn tôi mua vé khứ hồi cho hắn kèm theo 1500 Euro cho hắn tiêu mấy ngày ở bên đó.

    Bạn tôi ok ngay. Và hắn mang đi được thật mà chẳng cần xin xỏ, khai báo gì cả.. Dịp đó hắn đi hết mấy nước châu Âu; gần hai tháng sau hắn mới về. Hỏi hắn làm sao, hắn bảo có khó đéo gì đâu, vào đến phi trường tớ đến ngay quầy bán hoa lan của Đà Lạt, mua một giỏ hoa lan có cả chậu, vào ngay phòng vệ sinh, bỏ chậu ra, lấy chậu sứ thay vào.

  Thế là ung dung xách giò lan bước lên máy bay chẳng thằng nào, con nào hỏi một tiếng. Ai cũng bảo hắn giỏi. Hỏi hắn ở bên đó hai tháng lấy gì mà ăn, hắn bảo hắn làm hướng dẫn viên du lịch.
    Đến thành phố nào cứ thấy mấy thằng du khách ngơ ngác thì hắn sấn tới làm quen sau đó hướng dẫn người ta đi tham quan. Hỏi hắn chưa bao giờ đi qua đó, biết đếch gì mà hướng dẫn.
      Hắn gào lên xin lỗi mọi người à, trước khi đi tôi đã học thuộc mấy cuốn sách hướng dẫn du lịch của hơn mười nước Châu Âu rồi. Nghe sợ chưa?

Có lần tôi với hắn đi nghe một tay giáo sư người Mỹ nói chuyện văn chương, trong giờ giải lao, hắn bước đến nói chuyện với tay giáo sư đó.
  Chẳng biết nó nói những gì mà khi trở lại sân khấu để tiếp tục câu chuyện, tay giáo sư người Mỹ mời hắn lên ngồi chung và giới thiệu hắn với cử tọa bằng những lời rất trân trọng.
  Lần đó hắn bị công an văn hóa mời lên mấy lần để nói rõ mối quan hệ giữa hắn và tay người Mỹ. Hắn chỉ bảo là hắn không đồng tình một số ý của diễn giả và người giáo sư nể hắn. Thế thôi. Bắt nó làm tường trình, nó bảo chẳng có đéo gì mà phải tường với trình, không tin thì cứ đi hỏi tay giáo sư người Mỹ chứ tại sao lại hỏi hắn. Cuối cùng huề, chẳng có chuyện gì mà ầm ĩ.

Hắn chưa bao giờ kể cho tôi nghe về mối quan hệ của hắn với phụ nữ.
    Thế mà có một lần, có một người đàn bà đẹp đến tìm hắn ở quán cà phê. Tôi ngỡ ngàng khi gặp người phụ nữ này, bởi vì cô ấy quá đẹp. Một sắc đẹp đài các, duyên dáng và rất trí thức. Một khuôn mặt mà thi ca và hội họa suốt đời ca tụng.
    Bữa đó không có mặt hắn ở quán và tôi tiếp chuyện với người đàn bà đẹp đó. Nàng tên là Bạch Huệ – hoa huệ trắng- cái tên nghe có vẻ hơi cải lương, nhưng cô gái đó nói chuyện rất thông minh và rất có trình độ. Nàng đi tìm hắn đã lâu rồi, và rồi không biết ai đó đã hướng dẫn nàng đến đây.
  Cô gái kể sơ cho tôi nghe về mối quan hệ giữa hắn và nàng. Yêu nhau từ ngày còn ở bên Nga, nàng là con gái rượu của đại sứ Việt Nam ở đó. Một mối tình đẹp và môn đăng hộ đối. Hai người về Việt Nam và dự định khi ổn định cuộc sống sẽ làm lễ cưới. 

    Nhưng rồi hắn chửi lãnh đạo, mất việc, bị bố nàng nói nặng nhẹ đụng chạm tự ái sao đó, hắn chửi ông bố vợ tương lai một trận ra trò và bảo các ngài chỉ là một lũ ngu rồi bỏ đi không dấu vết. Nàng đau khổ đi tìm. Vô vọng. Mò kim đáy bể.
    Cuối cùng nghe theo lời bố lấy chồng. Chồng nàng bây giờ là thứ trưởng một bộ rất quan trọng.
  Tôi bảo thế thì bây giờ cô còn tìm hắn làm gì, khi đã trở thành hai tầng lớp khác nhau, vị trí xã hội cũng đã không còn như xưa nữa. Cô ấy bảo là tìm để xem hắn sống ra sao, tìm lại hình ảnh mối tình xưa đã không còn nữa và quan trọng nhất là cô ấy vẫn còn yêu hắn.

Khi tôi kể lại cho hắn nghe cuộc gặp gỡ, hắn không nói gì chỉ lẩm bẩm chửi thề, chửi thề là thói quen của hắn, nên tôi không biết hắn đang chửi cái gì. Chửi số phận hay chửi mối tình của hắn. Sau đó hắn lầm lì mấy ngày rồi vắng mặt gần mười mấy hôm, cũng chẳng biết hắn đi đâu…..

Hắn xuất hiện trở lại chốn giang hồ với một cọc tiền khá lớn, hắn bảo hắn vừa lãnh tiền công viết luận án tiến sĩ cho một đồng chí lãnh đạo thành phố.
    Hắn nói đây là đồng tiền tanh hôi, đồng tiền đã làm lụn bại đất nước, nhưng nếu hắn không nhận làm thì thằng khác cũng làm, xã hội bây giờ thiếu gì thằng trí thức sẵn sàng làm thuê.
    Hắn gom mấy đứa trẻ bán báo, đánh giày, bán vé số lại. Thuê một chiếc xe mười lăm chỗ ngồi, chở hết mấy đứa trẻ vào thành phố, mua sắm áo quần, đồ chơi, sách vở. Lại còn cho mỗi đứa mấy trăm ngàn. Cả đám trẻ sung sướng. Còn hắn thì hả hê. Chưa bao giờ thấy khuôn mặt của hắn sướng đến như vậy. Mấy bà bán dạo quanh quán cà phê bảo hắn điên, hắn cười sảng khoái, gật gù: điên, điên, đúng là điên.

Tối hôm đó hắn đi vào bar Mưa Rừng, vừa bước vào cửa, mấy gã bảo vệ nhìn bộ dạng của hắn, định ngăn không cho vào.
    Hắn rút ra mấy tờ bạc giúi vào tay chúng. Hai gã bảo vệ nghiêng mình, mở cửa. Hắn vào bàn, ngoắc một em phục vụ ăn mặc nóng bỏng lại, kêu cho ly sữa tươi.

  Em cave nhìn hắn định cười khi dễ thì hắn đã rút hai tờ năm trăm nhét vào tay cô gái và bảo, em mua giúp anh ly sữa tươi.
Dĩ nhiên là cô gái thực hiện ngay. Ai dại gì từ chối bán ly sữa tươi giá một triệu bạc bao giờ
. Hắn uống một hơi hết ly sữa. Lại ngoắc em gái lần nữa và rút thêm một xấp tiền, bảo: vú em nhỏ quá, anh cho em chục triệu đi bơm vú to lên mà làm cho đời thêm tươi.

  Cô gái há hốc mồm không kịp nói gì thì hắn đã lẳng lặng rời ghế, đi về. Chuyện này được kể lại với nhiều tình tiết ly kỳ hơn, kéo dài mấy tháng trong giới cave, sau này trở thành giai thoại, báo chí cũng có đăng.
  Mọi người kháo nhau hắn là tỷ phú đóng vai kẻ nghèo vì chán cảnh giàu sang nhung lụa. Bữa đó hắn đi bộ về, vừa đi vừa khóc, chẳng ai hiểu tại sao?

Hắn lại mất hút. Cả tháng rồi tôi không gặp hắn. Cho đến hôm qua, lúc trưa, tôi nhận được điện thoại của công an hỏi tôi có phải là người thân của hắn không? Tôi ừ. Đồng chí công an bảo phát hiện hắn đã chết đêm hôm qua, trong tay có mảnh giấy ghi tên và số điện thoại của tôi
.Tôi chạy ngay đến đồn, họ chở tôi đến một căn nhà nhiều phòng ở một chung cư tại quận tư.

  Hắn nằm đó, khuôn mặt thanh thản và bình yên, trên môi phảng phất nụ cười. Chung quanh giường và tràn ngập căn phòng là những cành huệ trắng. Màu trắng của huệ, màu trắng của chiếc drap giường và bộ đồ trắng lần đầu tiên tôi thấy hắn mặc làm cho căn phòng tinh khiết lạ lùng và cũng tang tóc vô cùng.
  Trên đầu giường có một bức tranh sơn dầu nhỏ vẽ chân dung một cô gái cũng mặt chiếc váy trắng. Khuôn mặt trong hình rất quen. Đó là chân dung của Bạch Huệ. Thì ra hắn tự tử bằng hoa huệ. Hắn đã chất đầy căn phòng hoa huệ trắng, đóng kín cửa và hắn từ từ chết trong hương thơm ngào ngạt của loài hoa huệ trắng.

  Trong tờ giấy hắm nắm trong tay lúc ra đi, ngoài tên và số điện thoại của tôi, hắn còn ghi thêm hai dòng nữa.
    Dòng đầu hắn cho biết là hắn tự kết liễu đời mình, không liên lụy đến ai. Dòng sau hắn ghi là hắn không còn cha mẹ, anh em, bà con ruột thịt nên nhờ tôi hỏa tang thân xác hắn và rải tro xuống sông để cho hắn được trôi ra biển lớn. Tôi đưa tay chào như chiến sĩ, như một lời chia tay.

Ba hôm sau, tôi nhận được mail của hắn. Nhìn thấy tên hắn là tên người gởi, tôi lạnh dọc sống lưng. Sao hắn chết ba hôm rồi, than xác hắn đã thành tro bụi rải xuống sông rồi. Sao lại còn có thư của hắn gởi.

Hắn viết:

“Gởi anh.

Đã đến lúc tôi cảm thấy mình thừa thãi trong cuộc đời này. Tôi không còn lí do để tồn tại nữa. Phải biết đúng lúc để rút lui là người khôn ngoan. Tôi đã làm tròn phận sự và tôi phải ra đi. Biết đâu ở thế giới khác sẽ vui hơn trần gian điên dại này? Xem như không có V. Huy ở cuộc đời này, quá khứ cũng như tương lai.

Anh ở lại hãy sống vui.

V. Huy

Tái bút: Tôi nhờ anh đến địa chỉ…lấy một số vật dụng của tôi và đốt tất cả giúp tôi. Đốt hết và đừng giữ lại gì. Cám ơn anh.

Anh đừng sợ hãi khi nhận được thư này. Tôi gởi thư theo chế độ hẹn. Tôi hẹn ba ngày sau khi tôi ra đi, máy mới gởi thư đi”.

Tôi đến địa chỉ hắn đã ghi, người ta giao cho tôi một thùng to, vất vả lắm tôi mới chở được về nhà. Những gì trong đó làm tôi kinh ngạc đến sững sờ:

  • 18 cuốn nhật ký hắn ghi từ lúc bảy tuổi cho đến trước ngày hắn chết một tuần lễ với nhiều suy nghĩ gây sửng sốt.
  • 72 bản dịch những cuốn tiểu thuyết của nhiều nhà văn nổi tiếng trên thế giới.
  • 4 bản dịch sang tiếng Đức cuốn Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Thơ các thiền sư đời Lý và cuốn Đoạn trường vô thanh.
  • 3 tập phê bình và nhận định những sai lầm của chủ nghĩa Mác viết bằng tiếng Anh.
  • 2 cuốn nói về sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong thế kỉ 21 viết bằng tiếng Pháp.
  • 43 cuốn phân tích và phê bình về các tác giả Việt Nam từ thơ ca đến tiểu thuyết.
  • 12 cuốn viết về các danh nhân văn hóa Trung Quốc và sự ảnh hưởng của họ.
  • 5 cuốn dịch thơ Đường sang tiếng Việt.
  • 3 cuốn chép tay kinh Phật bằng tiếng Pali.
  • 1 cuốn dịch nhạc Trịnh Công Sơn sang tiếng Tây Ban Nha.
  • 8 tập thơ hắn viết từ hồi 15 tuổi cho đến năm ngoái, tức là cả năm nay hắn không còn làm thơ.
  • 1 cuốn luận án tiến sĩ của hắn với tiêu đề: “Tìm hiểu chính sách ngoai giao của nhà nước Việt Nam từ đời Lý đến 1945”..với nhiều lời phê khen ngợi.

Và nhiều bằng cấp giấy khen của nhiều trường học, tổ chức trong và ngoài nước. Nhiều bài báo của hắn viết trên nhiều tạp chí chuyên ngành của nhiều tổ chức khoa học tiếng tăm trên thế giới.

Một gia tài đồ sộ chứng tỏ sự uyên thâm cùng sức làm việc khủng khiếp của hắn.

Tôi mất gần cả năm nay mà vẫn chưa đọc hết những gì hắn đã viết, và tôi sẽ tiếp tục đọc để hiểu hắn hơn, để càng thêm cảm phục hắn.
Một thiên tài đã sinh nhầm nơi chốn. Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ..

Tôi không đốt như ý nguyện của hắn. Tôi đóng một tủ sách khá đẹp, đem tất cả tác phẩm hắn đã viết sắp xếp thứ tự. Ngoài mặt tủ, tôi đi thuê khắc dòng chữ: “CÓ MỘT NGƯỜI TÊN V. HUY“

               ĐỖ DUY NGỌC     




Cô gái Dao đầu hai xoáy tung vó ngựa trời Âu

Cô gái Dao đầu hai xoáy tung vó ngựa trời Âu

Phạm Xuân Nguyên

Một cô gái dân tộc Dao Tuyển ở thôn Ngám Xá, xã Nậm Chạc, huyện Bát Xát (Lào Cai) sát biên giới Việt Trung đã trở thành người đầu tiên trong bản đậu đại học và cũng là người đầu tiên ở xã vùng cao này đi du học châu Âu. Năm 2016, sau khi tốt nghiệp xuất sắc trường Đại học Lâm Nghiệp Việt Nam và đi làm hai năm, cô đã giành được học bổng toàn phần Erasmus Mundus trị giá 50.000 USD đào tạo thạc sĩ ngành quản lý tài nguyên rừng bền vững của Trường đại học Gottingen (Đức) và Trường đại học Padova (Italia). Cuốn sách mang tên “Đường ngược chiều từ bản người Dao đến học bổng Erasmus”. Và tên tác giả là Chảo Yến.

This image has an empty alt attribute; its file name is Sach-cogai-Dao-hocbong-Eramus-1.jpg

Đường ngược chiều của Chảo Yến là đi ngược lại những định kiến, quan
niệm, thái độ của dân bản, kể cả bố mẹ và những người thân nhất trong họ
hàng, gia đình, cho rằng con gái thì không nên học lắm làm gì, con gái
người dân tộc thiểu số thì càng không mong học cao vì học sao lại người
Kinh. Cô bé đi học sớm tuổi khi được mẹ cho đi theo cùng chị đến trường
ngày khai giảng và rồi từ ngày đó, việc học của cô là chuỗi ngày vật lộn
với cái sự ăn đói mặc rách và đủ mọi sự thiếu thốn của một gia đình
nông dân nghèo vùng cao.

Hãy nghe cô thạc sĩ hiện nay ở thủ đô kể lại cái ăn của cô bé là mình hồi nhỏ ở quê: “Tôi
khai vị bữa sáng bằng lá me rừng, món chính là lá xuyến chi, có hôm đổi
sang lá tàu bay cho phong phú. Tôi kết thúc bữa sáng bằng món tráng
miệng là lá chó đẻ, có nơi gọi là sam hôi. Tôi chào đón bữa trưa bằng
món nộm lá thập cẩm: lá chó đẻ, lá tàu bay, lá me rừng, lá xuyến chi và
nhiều loại “rau thơm” khác có nguồn gốc xuất xứ không từ trên cành cây
thì cũng dưới mặt đất. Bữa tối của tôi sẽ hoành tráng hơn vì tôi được ăn
ở những nơi yêu thích của loài lợn như chuồng lợn hoặc các bụi rậm và
tất nhiên, các món ăn cũng không kém phần đặc sắc. Tất cả các bữa ăn của
tôi đều được ăn kèm với một loại gia vị mà gia đình người Việt Nam nào
cũng có, đó là muối trắng”
 (tr. 41).

Cứ thế,  bố mẹ suốt ngày lên nương rẫy, cô bé sống tự nhiên như cây
cỏ cùng chúng bạn và đi học hồn nhiên như đi chơi. Nhưng cô đã được Trời
phú cho trí thông minh nên học giỏi. Học giỏi nhưng hết năm lớp 9 thì
cô đành phải ở nhà cùng anh trai theo bố mẹ lên rẫy phát nương hoặc chăn
trâu, lấy củi dù cô rất muốn được xuống huyện dự thi vào lớp 10. Thầy
giáo thương trò đến nhà thuyết phục bố mẹ cho cô đi học tiếp cũng không
được và cô sau khi nghe lỏm xong câu chuyện của người lớn lòng đầy buồn
bã đã ra ngồi chuồng lợn khóc ròng bỏ cả bữa tối. Để nguôi ngoai nỗi
thèm học, cô tranh thủ những lúc chăn trâu lại đứng nấp ghé lớp học mà
mình đã học qua đến nỗi thầy giáo cũ lại cho vào lớp ngồi cùng để có dịp
ôn lại kiến thức cũ mong năm sau đi thi. Hy vọng lại nhen nhóm trong
cô. Nhưng rồi nó lại nhanh chóng bị dập tắt bởi những lời bàn ra tán vào
của bà con xóm bản để cuối cùng bố mẹ cô quyết định dứt khoát và lạnh
lùng là cô phải ở nhà đi rẫy thay vì đi học tiếp. Đó là sự ngược chiều.

Ba năm ở nhà cô đã những muốn ruồng bỏ, quên đi ước mơ đến trường học
tiếp, nhất là khi cô phải chứng kiến cảnh các chủ nợ đến nhà mình giằng
từng bao lúa mới tuốt xong để trừ vào món nợ bán lúa non mà bố cô đã
ứng trước để có tiền lo việc học cho các con. Cô đã tìm cách vào rừng
lấy măng phơi khô bán chợ, đã thử mua rau đưa sang Trung Quốc bán, đã
liều sang bên kia biên giới làm công kiếm tiền.

Và cô tưởng đã yên phận như bao cô gái vùng cao khác. Nhưng rồi ước mơ lại bùng cháy trong cô, “lần này không còn chỉ là đơn giản là thích đi học nữa mà là khát vọng thoát nghèo”
(tr. 212). Và người thầy giáo cũ đã khích lệ cô, đã lại đến nói chuyện
với bố mẹ cô. Rồi cô được xuống huyện thi vào lớp 10 và thi đậu vào
Trường Trung học Phổ thông số 2 Bát Xát. Cô được vào lớp 12A4 là lớp cá
biệt của trường. Cô được bầu làm lớp trưởng cả ba năm học. Cô được nhận
học bổng của tổ chức Global Care cho học sinh vượt khó học giỏi ngay năm
học đầu cấp.

Vượt qua những khó khăn nghịch cảnh cô đã bước đầu chứng tỏ được
mình. Nhưng cùng lúc, sự ngược chiều lại tăng lên với cô mỗi khi về nhà
thấy bố mẹ không vui, thấy những người bà con chòm xóm mỉa mai, dè bỉu
việc học của mình, thấy sự độc ác hồn nhiên của mọi người. “Tôi thật
sự sợ con đường về nhà! Sợ cái bản làng tôi yêu từng ngóc ngách, sợ
những con người mà tôi từng rất yêu quý. Bản làng lúc đấy đã có điện
lưới quốc gia, nhưng đường về nhà thì lại bị mất điện, nên chúng tôi
chẳng muốn tìm đường về”
(tr. 230) – cô gái lúc đó đã nghĩ vậy.

Nhưng cô vẫn quyết ngược chiều. Tốt nghiệp phổ thông, cô thi đậu vào
Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, tiếp tục phát huy năng lực học tập
của mình, chinh phục được tiếng Anh, từ đó mở ra cho mình con đường đi
đến châu Âu, vươn ra thế giới. Cô đã chủ động nắm lấy vận mệnh mình và
biết “căng buồm đợi gió” khi vận may đến. Cô chọn ngành học về rừng vì
cô sống ở rừng, biết nỗi đau của rừng khi bị con người phá hủy và nỗi
đau của người khi vì phá rừng mà bị thiên nhiên trừng phạt. Hiện giờ
Chảo Yến đang làm việc tại Trung tâm Con người và Thiên nhiên (Hà Nội).
Cô gái tuổi Ngọ (1990) đã thực sự tung vó ngựa vượt qua những rào cản
ngược chiều để phi tới những miền xa khát vọng, những đỉnh cao mơ ước,
cống hiến sức lực và năng lực của mình cho lợi ích cộng đồng.

Cuốn tự truyện “Đường ngược chiều từ bản người Dao đến học bổng
Erasmus” đọc thích vì giọng điệu kể chuyện. Chảo Yến kể lại cuộc đời
tuổi trẻ của mình bằng lời văn hồn nhiên, tinh nghịch, mang chất tuổi
mới lớn (teenage) tạo được sự đồng cảm yêu mến nơi người đọc dù chuyện
bố mẹ, bản làng và của chính cô nhiều buồn bã, đau xót. Những trang kể
về buổi khai trường, về buổi học cấp hai đầu tiên, về cuộc đi chợ huyện,
về cảnh tranh mót mía với bầy lợn, về cậu bạn tên Hộp, về chuyện
“cave”, về hình ảnh người bố trong buổi lễ tri ân trưởng thành của con
gái, về chuyến đi của bố con lần đầu xuống Hà Nội… đọc lên có thể cười
khóc được.

Đặc biệt trong truyện kể của Chảo Yến hiện lên sinh động những con
người quanh cô, đã giúp cô dám làm hành trình ngược chiều đi tới ước mơ.
Đó là những người thầy ở cấp trung học và đại học. Đó là anh chị em
trong nhà. Và trên hết là người mẹ của cô. Mẹ hay quát mắng, phát mông,
đánh đòn con gái mỗi khi cô nghịch ngợm. Mẹ đã có lúc cùng bố muốn con
gái thôi học ở nhà. Nhưng chính mẹ sau hôm nói chuyện với thầy giáo đã
quyết định cho con gái xuống huyện thi vào lớp 10 bất chấp ý bố không
muốn. Mẹ tin ở đứa con gái “đầu hai xoáy” của mẹ. Mẹ đã truyền cho con
gái quyết tâm đi tới từ lời tâm sự: “Cuộc đời mẹ từ bé đã vất vả,
tám tuổi mẹ đã phải đi làm thuê cùng bà ngoại để mua thuốc phiện cho ông
ngoại. Sau ông ngoại mất, mẹ lại phụ bà ngoại nuôi các cậu, các dì. Mẹ
cũng rất muốn được đi học, đến lúc lấy bố con mới được ông nội dạy để
biết đọc báo. Mẹ mà được đi học mẹ chắc chắn cũng học giỏi như con,
nhưng đời mẹ coi như bây giờ chỉ có các con thôi. Nên con hãy nhớ những
gì mẹ kể, những gì người ta đối xử với bố, với mẹ, với nhà mình, để cố
gắng học. Con tuyệt đối không được thất bại, con phải cho mọi người thấy
con đường mình đi là đúng”
(tr. 229). Nghe những lời này của mẹ,
cô gái biết không thể tự cho phép mình bỏ cuộc. Cô đã dấn bước tiếp trên
con đường đã chọn, đã quyết tâm leo hết con dốc Khó Khăn để được “rã
rời” trong hạnh phúc tột độ khi lên tới đỉnh dốc.

Khép lại cuốn tự truyện của mình, Chảo Yến viết: “Tôi không dám
nói tôi là người thành công, nhưng với tôi nụ cười tít mắt của bố mẹ
khoe khắp nơi rằng “Con gái tôi sắp đi Đức học thạc sĩ”, nụ cười của
thầy Lee, thầy Dũng khi nói “Congratulations! Well done, I’m proud of
you”, hay chỉ đơn giản là quyết tâm đi học của một vài em nhỏ ở trường
cấp hai trên bản, đó chính là sự thành công. Thành công còn là cả khi
tôi dám thoát khỏi lớp vỏ bọc, dám mơ ước được bay cao, bay xa như bao
người. Hay đúng hơn, tôi vốn đã thành công ngay từ giây phút tạo hóa cho
tôi được làm con của bố mẹ. Dù có nghèo, có vất vả, nhưng chính hoàn
cảnh đó đã tôi luyện tôi thành một người kiên cường”
(tr. 276).

Có lẽ cả cuốn sách và những lời này của tác giả sẽ truyền được cảm
hứng cho nhiều người đọc. Chảo Yến đã có dự định trích 10% lợi nhuận từ
cuốn sách này để lập một quỹ học bổng dành cho các học sinh nghèo ở quê
mình và cho các sinh viên ở Trường Đại học Lâm Nghiệp nơi cô từng học.




Hạnh Phúc Xót Xa

Hạnh Phúc Xót Xa

Tôi
vô cùng ngạc nhiên, khi nhận được một thiệp mời đám cưới gởi qua đường
bưu điện, danh tánh nhà trai, nhà gái và cả cô dâu chú rể đều xa lạ. Gần
nửa giờ ngồi “điểm danh” tất cả bà con, bè bạn xa gần, vợ chồng tôi và
mấy đứa con cũng chẳng tìm ra “tông tích” họ là ai. Nghe bạn bè kể lại,
một số không ít người Việt mình thích có nhiều thực khách tham dự tiệc
cưới của con cháu. Khách càng đông càng chứng tỏ được thế giá của gia
đình. Vì vậy có người chỉ gặp ai ở đâu đó một lần thoáng qua, cũng có
thể trở thành “quan viên hai họ”. Hơn nữa, ở cái vương quốc nhỏ bé và
hiền lành này, muốn tìm ai cứ việc mở cuốn điện thoại niên giám hoặc vào
guleside gõ cái tên là có ngay số phone và địa chỉ. Cũng có thể là do
một ông bà khách nào đó được mời nhưng hồi báo không thể tham dự được
nên vợ chồng tôi được chọn để “điền vào chỗ trống cho có đầy đủ ý
nghĩa”?

Địa
điểm tổ chức tiệc cưới là một nhà hàng Tàu sang trọng nằm ngoại ô thành
phố Oslo, không xa nơi tôi ở. Ngày đám cưới còn hơn một tháng, nhưng
lại đúng vào ngày mà vợ chồng tôi phải sang London thăm vợ chồng cô con
gái và mừng thôi nôi thằng cu cháu ngoại. Vé máy bay đã “búc” rồi. Vợ
chồng cô con gái cũng đã lấy hè để đón chúng tôi. Nên dù có biết cha mẹ
hay cô dâu chú rể có tên trong thiệp mời chăng nữa, chúng tôi cũng không
thể tham dự được, huống hồ lại là một người nào đó không quen. Thấy tôi
phân vân, bà xã cầm tấm thiệp màu hồng vất vào kệ sách, lắc đầu bảo
“forget it!”

Sáng
thứ Bảy, một tuần sau đó, khi đang sửa soạn hành lý, nghe điện thoại
reo, tôi bốc máy lên nghe, nhưng không thể nhận ra người bên kia đầu
dây. Một người đàn bà, tự giới thiệu tên Bích, rất lễ phép khi hỏi đúng
cả tên lẫn họ của tôi.

–  Vâng, đúng là tôi, nhưng chị có thể nói rõ hơn về chị không ạ, vì xin lỗi tôi không nhớ ra.

– 
Em là Bích Kiều đây, Lê Thị Bích Kiều, mà khi mới sang Na-uy, anh làm
thông dịch giúp em đó. Tên em trong thiệp mời đám cưới là Yvonne Bich,
chắc anh chị đã nhận được. Em đổi tên này sau khi có quốc tịch Na-uy.

Tôi
giật mình nhớ ra ngay. Mặc dù trong thời gian làm thông dịch, giúp khá
nhiều bà con người Việt mới đến định cư, có biết bao nhiêu cái tên làm
sao nhớ hết. Hơn nữa cũng đã hơn 25 năm rồi còn gì. Nhưng đặc biệt, Lê
Thị Bích Kiều thì tôi không thể nào quên.

Sau
khi thăm hỏi, Bích Kiều xin được đến thăm vợ chồng tôi vào lúc bốn giờ
chiều. Cô bảo, gặp nhau sẽ có biết bao nhiêu điều muốn nói.

Thời
gian còn ở trại tỵ nạn Bataan bên Phi Luật Tân, tôi may mắn được chọn
làm phụ giảng cho các lớp học tiếng Na-uy. Được thầy cô dạy kèm riêng,
và nhờ phụ giúp mỗi ngày trong các lớp học cũng như làm thông dịch bất
đắc dĩ cho những thuyền nhân mới đến đảo, nên tôi có một số vốn liếng
tiếng Na-uy, một thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với hầu hết người Việt nam
lúc ấy. Và cũng nhờ cái vốn bì bõm này, khi sang định cư ở Na-uy, tôi
được chọn làm thông dịch tạm thời cho Phòng Xã Hội và Sở Cảnh Sát thị
xã, nơi gia đình tôi tạm cư. Thời gian này Na-uy nhận một số lượng khá
đông thuyền nhân được tàu Na-uy vớt trên biển và một số trường hợp nhân
đạo khác.

Nói
là thông dịch chứ thực ra chỉ giúp bà con làm hồ sơ, khai lý lịch ở Sở
Cảnh sát, xin trợ cấp ở Phòng Xã Hội, hoặc gặp bác sĩ, nha sĩ, hay vào
bệnh viện khám và chữa bệnh. Cũng qua công việc này, tôi mới thấy rõ
Na-uy là một quốc gia giàu lòng nhân đạo, mở rất rộng vòng tay, đối xử
quá tốt với những người tỵ nạn mà họ cứu vớt, cưu mang. Công việc nhàn
nhã mà lương bổng cũng khá, lại còn được cơ hội trau dồi ngôn ngữ mới,
nên sau này, khi đã được chính thức nhận vào học và đi làm trong ngành
ngân hàng bưu điện, tôi vẫn xin giữ cái “job” phụ này, nhưng chỉ làm
thêm ngoài giờ hành chánh.

Tuy
nhiên, bên cạnh những điều vui ấy, tôi cũng bị “tai nạn nghề nghiệp”
không ít. Đặc biệt khi phải thông dịch cho những bà con mà tàu của họ bị
bọn hải tặc tấn công. Nghe họ kể những cảnh nghiệt ngã, thương tâm trên
biển, tôi vừa không nén được xúc động vừa ngại ngùng khi phải thông
dịch lại bằng tiếng Na-uy. Hơn nữa lúc ấy tôi cũng chưa có đủ ngôn từ để
diễn đạt những điều “tế nhị”. Ngày ấy có một Viện Tâm Thần dành riêng
cho người tỵ nạn, nằm trong Viện Đại Học Oslo, do bác sĩ Hauff, cũng là
một giáo sư tâm lý học, điều hành. Ông là vị bác sĩ có lòng nhân hậu và
rất tận tâm với nghề nghiệp. Những người tỵ nạn gặp điều không may, bị
hải tặc đánh đập hãm hiếp, hay bị mất người thân trên đường vượt biển,
đều được ông tận tình thăm nom, chăm sóc cũng như can thiệp Cơ quan Di
Trú cho ưu tiên bảo lãnh gia đình và Sở Xã Hội cấp thêm nhiều phương
tiện sinh hoạt, giải trí. Tôi sợ nhất là những lúc phải làm thông dịch
để ông tâm tình, khuyên giải, an ủi nạn nhân, mà thời gian có khi kéo
dài cả một vài ngày. Bởi vốn liếng tiếng Na-uy còn quá nghèo nàn, làm
sao tôi có thể truyền đạt được những gì ông muốn nói. Có lần nghe ông
dặn dò:

– 
Đây không phải một cuộc nói chuyện bình thường mà là một ca điều trị.
Có điều, những bệnh nhân này chúng ta không chữa bằng thuốc mà chữa bằng
ngôn ngữ.


ngôn ngữ của tôi thuộc loại ăn đong, thì làm sao giúp ông chữa loại
bệnh đặc biệt trầm kha này. Nhiều lần tôi xin từ chối, nhận mình không
đủ khả năng, nhưng Phòng Xã Hội không tìm được người thông dịch khác, và
bác sĩ Hauff cứ gật đầu bảo là ông tin tưởng ở tôi. Cuối cùng tôi phải
yêu cầu ông nói thật chậm và dùng những từ ngữ tương đối đơn giản để tôi
hiểu rõ, và nhất là không hiểu lầm những gì ông nói.

Một
hôm tôi được Văn Phòng Xã Hội cho biết, phải đi theo bà Kari Mette ra
phi trường Fornebu đón một người tỵ nạn đặc biệt, được Na-uy nhận nhân
đạo từ một trại tỵ nạn Thái Lan. Người này được đưa thẳng từ Thái Lan
đến Na-uy, mà không qua trại tỵ nạn chuyển tiếp Bataan, như những người
khác. Bà Kari Mette làm việc cho một nhà thờ công giáo, nhưng vì có
nhiều khả năng và uy tín, nên được yêu cầu kiêm nhiệm đại diện cho Sở Tỵ
Nạn trong khu vực thị xã.

Chúng
tôi được vào tận cửa gate máy bay. Người mà chúng tôi đón hôm nay là
một cô con gái trẻ, ngồi trên xe lăn, trên người choàng một tấm chăn
mỏng, được một cô tiếp viên hàng không đẩy ra giao cho chúng tôi cùng
túi hành lý nhỏ và một phong bì đựng hồ sơ có in huy hiệu (logo) Cao Ủy
Tỵ Nạn LHQ. Trông cô ta tiều tụy, xanh xao. Tôi giới thiệu và dịch vài
lời chào mừng của bà Kari Mette. Khi đưa tay nhận bó hoa hồng từ bà, cô
gật đầu, lí nhí hai tiếng cám ơn. Theo sau bà Kari Mette, tôi đẩy cô gái
theo một lối đi riêng, không phải qua kiểm soát. Một chiếc xe tản
thương và cô ý tá chờ sẵn bên ngoài. Khi phụ dìu cô gái lên nằm trên một
băng ca trong xe, tôi mới biết là cô ta đang mang bầu. Theo yêu cầu của
cô ý tá, tôi ngồi luôn trên xe tản thương, tháp tùng về bệnh viện. Bà
Kari Mette lái xe chạy theo sau.


phòng nhận bệnh, khi nghe bà Kari Mette nói chuyện với vị bác sĩ, tôi
mới biết cô gái này có tên Lê thị Bích Kiều, 21 tuổi, bị hải tặc giam
giữ ở một hoang đảo ngoài khơi Thái Lan gần một năm, trước khi được một
lực lượng tuần cảnh phối họp với hải quân Thái cứu thoát. Cô ta đang
mang thai hơn năm tháng, sức khỏe rất yếu. Việc ưu tiên phải làm là giúp
cô sớm hồi phục sức khỏe và bảo vệ thai nhi.

Khi
trả lời một số câu hỏi của bác sĩ, cô luôn nhìn tôi bằng đôi mắt thật
buồn và ái ngại, một vài câu hỏi cô ngại ngần không muốn trả lời. Tôi từ
tốn bảo cô cứ yên tâm, nếu điều nào chưa muốn nói ra, cô không cần
thiết phải trả lời, tôi sẽ liệu cách để nói lại với bác sĩ. Nhưng sau
đó, tôi mới hiểu ra, người cô ngại chính là tôi chứ không phải ông bác
sĩ. Mặc dù trước khi bắt đầu làm việc, tôi đã nói với cô là những người
làm thông dịch như tôi đều phải ký giấy cam kết taushetsplikt (bổn phận
bảo mật). Cô được y tá đưa vào phòng tắm rửa và thay áo quần bệnh viện.
Khi trở ra, cô tươi tỉnh hơn, bây giờ nhìn kỹ tôi thấy cô có khuôn mặt
khá xinh, đôi mắt thật buồn. Theo y tá đưa cô lên một phòng riêng ở tầng
ba, tôi bảo y tá bật cao đầu chiếc giường và đỡ cô ngồi dậy theo yêu
cầu của cô, dịch cho cô nghe những điều dặn dò của bác sĩ, hỏi cô thích
ăn uống những gì để tôi nói lại với cô y tá, rồi chào cô ra về, sau khi
chúc cô ăn ngon và tối nay có một giấc ngủ thật bình yên. Cô nhìn tôi,
nói cám ơn rồi vội vàng cúi xuống. Thoáng qua đôi mắt, tôi biết cô băn
khoăn lo lắng, khi phải ở lại một mình. Tôi ghi số điện thoại trên mảnh
giấy nhỏ đưa cô y tá. Bảo là trường hợp bệnh nhân hay y tá cần điều gì,
cứ gọi cho tôi.

Kể
từ hôm ấy, ngoài bổn phận thông dịch tôi còn là người thân quen duy
nhất của cô. Hôm nào cô ngỏ ý thèm các thức ăn Việt nam, tôi bảo bà xã
tôi làm rồi mang đến cho cô, cùng mấy tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong, và tập
truyện của ông Duyên Anh mà cô thích đọc.

Sau
một tuần lễ, sức khỏe của cô khá hơn, nhưng y tá cho biết tâm trí chưa
ổn định, cô thường giật mình thức giấc rồi la hét, khóc lóc lúc nửa đêm.
Cứ vài ngày, bác sĩ Hauff từ Viện Tâm Thần đến thăm, cho cô quà, an ủi
và khuyên cô hãy đọc sách, xem TV, cần nghĩ tới đứa bé sắp chào đời, dù
gì nó cũng là giọt máu của mình. Có điều gì cần, hoặc cảm thấy nặng nề
trong lòng, cô cứ nói ra mỗi lần ông đến thăm.


không phải đến Sở Cảnh Sát để làm hồ sơ di trú như những người tị nạn
khác, mà do yêu cầu của Sở Tỵ Nạn, vị trưởng phòng Cảnh sát ngoại kiều
đã đích thân đến bệnh viện để gặp cô sáng hôm sau. Qua làm việc, tôi
được biết cô gái sinh ra và lớn lên ở Đà Lạt. Trước 75, mẹ cô là cô giáo
và cha là một sĩ quan cấp tá, bị mất tích tại Đà Nẵng khi Vùng 1 di
tản. Vượt biên từ Rạch Giá cùng vị hôn phu. Anh là con trai lớn của một
người bạn cùng khóa Võ Bị với cha cô. Chiếc thuyền nhỏ chở theo 47
người, ra khơi ba ngày thì gặp hai chiếc ghe đánh cá của Thái Lan chặn
lại. Cả bọn gần 20 tên mang dao búa và cả súng nữa, xông lên thuyền uy
hiếp. Anh tài công bị giết đầu tiên bằng búa đánh vào đầu, một vài thanh
niên khỏe mạnh có ý chống cự, liền bị chém chết. Chúng chia nhau lục
soát trên tàu và trên từng người để cướp vàng bạc, đồng hồ. Trước khi
rời khỏi thuyền, chúng phá hỏng máy, và bắt theo khoảng mười cô gái. Khi
hai tên trong bọn kéo Kiều đi, người vị hôn phu của Kiều xông đến định
giật lại Kiều, bị chúng bắn bị thương rồi đạp xuống biển, trước tiếng la
khóc thất thanh của Kiều cùng những cô gái khác

Vừa
mới lên tàu, bọn hải tặc luân phiên hãm hiếp những cô gái bị chúng bắt
theo. Tiếng van xin la khóc quyện vào âm thanh của những ngọn sóng dường
như cũng đang thét gào phẫn nộ. Chỉ duy nhất có Kiều được thoát, không
bị hiếp, nhưng bị cột cả hai tay vào phía sau phòng lái, và phải chứng
kiến hành động dã man, bỉ ổi của bọn dã thú, cùng những khuôn mặt sợ hãi
đau đớn uất hận tột cùng của những cô gái nạn nhân.

–  Tại sao cô lại được tha, không bị chúng hiếp? Anh cảnh sát ngạc nhiên hỏi.

– 
Làm sao được tha. Có lẽ thấy tôi có chút nhan sắc, nên tên thuyền
trưởng dành riêng tôi cho hắn. Khi ấy hắn đang lái tàu! Cô gái sụt sùi.

Tối
hôm ấy, cô đã bị cướp đi đời con gái. Qua một ngày kinh hãi, biết mình
không thể chống cự, cô đã nằm im phó thác cho số phận. Trong khi thân
xác bị dày vò, cô nghĩ đến cảnh người yêu vừa bị giết tức tưởi trưa nay,
cắn chặt lưỡi giữa hai hàm răng ứa máu.

Tay
thuyền trưởng hải tặc không đánh đập hành hạ cô như những cô gái khác.
Hắn săn sóc, mang cho cô một tô cháo cá nóng, nhỏ nhẹ dỗ dành cô ăn,
nhưng cô không thể nào nuốt nổi, dù bụng đang đói. Nằm thiếp đi cả một
ngày trong phòng lái, khi nghe tiếng ồn ào gọi nhau của bọn hải tặc,
giật mình thức dậy, cô thấy tàu cặp vào một hòn đảo.

Sau
khi ra lệnh cho đám thuộc hạ quăng neo, tay thuyền trưởng cõng cô trên
lưng, lội vào bờ. Cô ngạc nhiên rùng mình khi không thấy các cô gái
khác. Số phận họ ra sao? Cô bịt kín hai tai, nhưng tiếng van xin kêu
khóc hãi hùng của ngày hôm qua như muốn vỡ tung đầu óc. Cô tưởng tượng
họ bị hiếp cho đến chết, rồi quăng xác xuống biển. Thật thảm thương tội
nghiệp. Nhưng dù sao họ cũng không phải sống cả một đời thừa thải trong
nỗi dày vò, mặc cảm và vô vọng như cô. Biển xanh sẽ ôm ấp vỗ về cả thân
xác lẫn linh hồn họ. Là cánh hoa tả tơi duy nhất còn sót lại sau một
ngày đêm giông bão, cô ví mình chẳng khác nào rác rưởi tắp vào một nơi
hoang vắng. Cô tự hỏi, đó có phải là điều may mắn?

Anh
cảnh sát ngồi bất động nghe cô kể, thỉnh thoảng ngước mặt lên trần nhà
để giấu những giọt nước mắt. Tôi thầm tội nghiệp cho cô gái và cho cả
anh ta, một người sinh ra và lớn lên trên một vương quốc an bình, giàu
có, hà cớ gì phải khóc cho nỗi đau thương, bất hạnh của dân tộc tôi.
Chúng tôi dừng lại khi thấy cô gái sụt sùi. Tôi đứng dậy đi lấy mấy tờ
giấy soft cho cô lau nước mắt và mời cô một ly nước saft.

–  Rồi đời sống của cô trên đảo ra sao trước khi cô được cứu thoát? Anh cảnh sát hỏi.

– 
Tôi được đưa vào một cái hang đá khá lớn, có sẵn một số thức ăn, nước
uống và cả áo quần cùng nhiều vật dụng mà có lẽ bọn họ cướp được từ
những lần trước.

Đó
là một đảo hoang. Một trong những “hậu trạm”. Cứ bốn, năm hôm, có khi
cả tuần lễ, bọn hải tặc trở về đây nghỉ ngơi đôi ngày, chia chác “chiến
lợi phẩm”, rồi lại ra đi. Tiếp tục những chuyến làm ăn khác, hoặc vào bờ
lấy thêm nhiên liệu, lương thực. Tay thuyền trưởng cao lớn, tóc phủ tới
lưng, cả ngày chỉ mặc một cái quần short ố vàng, phơi tấm thân trần đen
đúa với đầy những hình xâm. Không biết vì nghĩ là cô không hiểu tiếng
Thái hay là bản tính ít nói, cả ngày hắn lầm lì, chỉ thỉnh thoảng mỉm
cười. Hắn luộc tôm cá tươi ép cô ăn và bắt cô uống rượu. Miệng hắn lúc
nào cũng nồng nặc mùi rượu. Đôi mắt đỏ ngầu. Rượu giúp hắn trở thành con
hổ đói cuồng bạo trên tấm thân liễu yếu của cô. Hắn lột hết áo quần cô,
làm nhiều cách hầu tạo kích thích, nhưng cả thân xác và tâm hồn cô đã
trở thành gỗ đá, lạnh lùng, không còn cảm giác. Chỉ biết nhắm mắt chịu
đựng đau đớn, để cho hắn ta mặc tình hành hạ.

Bọn
họ ra đi từ lúc trời chưa sáng. Khi cô thức dậy chung quanh vắng lặng,
ngoài tiếng sóng biển rì rào. Cảm giác da thịt rã rời. Phải ngồi khá lâu
mới đứng dậy được. Cô chui ra khỏi hang, trèo xuống hốc núi tìm đường
ra biển. Hôm nay trời nắng, biển êm. Nhìn biển mênh mông, trong gió nghe
như có tiếng gọi tên mình, cô giật mình nghĩ tới người yêu và những cô
gái đồng hành bất hạnh. Cô xăn quần lội xuống, vốc một vốc nước rửa mặt.
Nước biển làm rát khóe mắt, nhưng giúp cô tỉnh táo. Bỗng cô nghĩ đến
cái chết. Chỉ cần lội ra xa để cho sóng cuốn đi là cô sẽ gặp lại người
tình ở đâu đó dưới đáy đại dương và sóng biển có thể rửa bớt phần nào
nhơ nhớp trên tấm thân, mà bao nhiêu lần, mẹ đã ôm cô dặn dò phải cố giữ
gìn, trước lúc từ biệt ra đi. Chợt nhớ tới mẹ, nhớ các em, cô đứng bất
động nghe lòng dạ bồi hồi.

Gió
từ biển khơi thổi tới như muốn an ủi vỗ về, giúp cô tìm lại một chút
yên ả. Cô bước lên đi dọc theo bờ biển. Tiếp tục nghĩ đến mẹ và hai đứa
em nhỏ dại. Giờ này không biết họ ra sao. Có biết mình đang lưu lạc trên
một hoang đảo xa lạ giữa trời biển mênh mông với tấm thân hoen ố ê chề,
hay là vẫn đang hy vọng đứa con gái, người chị của mình đã đến được một
xứ thiên đường nào, để có thể cứu sống cả gia đình đang ở bước đường
cùng. Bao nhiêu vốn liếng chắt chiu dành dụm được, kể cả chiếc nhẫn cưới
và sợi dây chuyền vàng mà bà ngoại đã đeo lên cổ mẹ ngày vu quy, cũng
chỉ đủ gom góp mua một cây vàng, và phải năn nỉ lắm mới được đóng trước
một nửa cho chủ tàu, nửa còn lại khi nào đến nơi sẽ trả. Sau ngày cha cô
vĩnh viễn không về, cùng nhiều đồng đội gởi xác thân ở một nơi vô danh
nào đó, rồi cả miền Nam đang trù phú, hạnh phúc một thời, bỗng dưng trở
nên đói nghèo, chia ly tan tác, cũng như những gia đình sĩ quan công
chức khác, mẹ con cô đã trải qua bao tháng năm cùng cực. Cô đã phải bỏ
học, phụ mẹ buôn tảo bán tần, mà cả nhà vẫn bữa đói bữa no. Nghĩ đến
tương lai mịt mờ của mấy đứa con, mẹ bàn với cô, chỉ còn cách duy nhất,
là cô phải ra đi. Bao lần tìm được mối, nhưng lo cho thân gái dặm
trường, có biết bao điều bất trắc, cuối cùng bà rất vui mừng khi có
người yêu của cô, cũng là con của một người bạn cùng khóa với chồng,
cùng đi với con gái. Trước ngày đi, hai gia đình gặp nhau, tổ chức một
lễ đính hôn rất vội vàng, đơn giản.


bước đi những bước vô hồn trên những bọt sóng xô bờ, hình dung tới tuổi
ấu thơ và cả một thời cùng gia đình sống trong hạnh phúc. Nhớ mấy năm
cha cô được đổi về làm huấn luyện viên trường Võ Bị Đà Lạt, nơi ông đã
gặp mẹ cô, khi còn là một sinh viên sĩ quan trai trẻ, từng đứng trên
đỉnh Lâm Viên với hào khí ngút trời. Nơi ông cùng bè bạn đồng môn, đã
quỳ xuống vũ đình trường trong ngày mãn khóa, giữa không khí uy linh,
đưa tay thề quyết bảo vệ núi sông. Cô cũng nhớ tới đám bạn bè một thời
nhỏ dại. Không biết những cánh chim non hồn nhiên ngày ấy, giờ tản mác
trôi dạt về đâu sau cơn bão lửa. Cũng như cô, tất cả đã mất rồi, cả một
bầu trời xanh bao la với bao nhiêu ước vọng thuở nào. Không bao giờ còn
tìm lại được!

Đầu
óc mơ hồ, tưởng mình đang đi tìm dấu vết tuổi thơ bên bờ hồ Xuân Hương
thơ mộng. Khi nghiêng mình để tìm ngôi nhà Thủy Tạ, nơi lần đầu hò hẹn
người yêu, cô bỗng giật mình nhận ra tảng đá trên hoang đảo, nơi cô bị
giam lỏng từ mấy hôm nay. Giấc mơ xưa ngắn ngủi vỡ tan như bọt biển.
Ngồi bệt xuống cát, thẫn thờ gọi mẹ, gọi em, và gọi tên người tình. Cô
gọi đến khan cả cổ, để chỉ nghe tiếng mình dội lại từ đại dương mênh
mông xa thẳm, không tìm thấy chân trời. Cô đã bật khóc.

Tôi
định đưa tay bảo cô ngừng kể, để tôi kịp dịch lại cho anh cảnh sát,
đang hồi hộp ngồi chờ, nhưng chợt thấy cô cũng đang khóc. Anh cảnh sát
đứng lên nháy mắt, làm dấu cho tôi cùng bước ra ngoài để cho cô được tự
nhiên. Khi trở vào, anh cảnh sát nhờ tôi hỏi, nếu cô muốn bảo lãnh cho
mẹ và các em còn ở Việt Nam, anh sẽ trình lên Sở Ngoại Kiều, lập hồ sơ
cho cô được ưu tiên. Có thể trong vòng từ sáu đến tám tháng, cô sẽ được
đoàn tụ với gia đình. Suy nghĩ một chập, cô lắc đầu:

– 
Em chưa chuẩn bị được tâm lý, không muốn mẹ và các em sẽ đau buồn vì
những gì em đã trải qua, và nhất là cái thai trong bụng, em vẫn còn đang
giấu mẹ. Chờ sinh đẻ xong, em mới bình tĩnh mà quyết định được. Mặc dù
em rất nhớ mẹ và các em.

Ngần
ngừ một lúc cô ngõ ý muốn được Phòng Xã Hội cho mượn một số tiền để gởi
về giúp gia đình, sau này đi làm cô sẽ trả. Anh cảnh sát gật đầu, hứa
sẽ nói việc này với Phòng Xã Hội. Anh bắt tay cô, chúc sớm bình phục,
gặp nhiều may mắn, và hẹn sẽ trở lại thăm cô để xin hỏi thêm cô ít điều
bổ túc hồ sơ.

Hai
hôm sau, qua điện thoại từ Phòng Xã Hội, tôi đến nhận số tiền 10.000
kroner (khoảng 1.200 USD), để giao lại cho cô và yêu cầu cô ký tên vào
biên nhận.Tôi cũng mang đến biếu cô mấy trái xoài chua, lần trước cô bảo
là cô rất thèm. Gặp lại tôi, cô tỏ ra mừng rỡ. Lần đầu tiên tôi thấy cô
nhoẻn miệng cười. Cô bảo cô rất buồn và thấy cô đơn, vì không có tôi cô
chẳng biết trò chuyện cùng ai. Cô ngạc nhiên và thoáng một chút xúc
động khi tôi đưa cho cô số tiền của Phòng Xã Hội, và bảo đó là tiền cô
được cấp, chứ không phải mượn. Tôi giải thích thêm về những trợ cấp khác
dành cho người tỵ nạn lúc ban đầu và hằng tháng sau này, cũng như trợ
cấp việc sinh đẻ và nuôi con. Tôi bảo cô yên tâm, đừng lo lắng gì về
chuyện tiền bạc. Cô càng vui và tỏ ra thân thiện hơn khi nghe tôi bảo
trước đây tôi cũng là lính, sau gần 8 năm tù trở về, vợ con cũng khốn
cùng như gia đình cô. Tôi kể chuyện gia đình tôi vượt biên nhưng may mắn
được tàu Na-uy vớt, mới đến Na-uy tám tháng, nhưng mọi việc tạm thời ổn
định. Cô nhớ tới cha cô, đôi mắt sáng lên và say sưa kể cho tôi nghe
những ngày cô theo cha ra đơn vị, hoặc cùng mẹ vào trường Võ Bị tham dự
các buổi lễ ra trường. Khi tôi đứng dậy cáo từ, cô viết tên và địa chỉ
của mẹ cô, nhờ tôi gởi hết số tiền còn nguyên trong bì thơ về cho mẹ.
Trong mắt cô sáng lên niềm vui.

Một
lần cô ngỏ ý muốn học tiếng Na-uy để giết thì giờ. Tôi bảo là ở Na-uy
vừa mới có cuốn tự điển Nauy-Việt, tôi sẽ liên lạc Phòng Xã Hội để xin
cho cô. Hai hôm sau, tôi mang cuốn tự điển đến, chỉ cho cô cách sử dụng,
nói và viết vài câu đơn giản. Cô khá thông minh nên hiểu rất nhanh. Cô
còn nhờ tôi viết cho cô vài câu tiếng Na-uy. Trong đó có một câu cô bảo
là lời một bản nhạc nào đó mà cô rất thích: “Ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”.

Khi
được biết là sẽ sinh con trai, cô vui lắm, nhưng ngay sau đó tôi thấy
cô ngồi thẫn thờ, suy nghĩ mông lung. Gần tới ngày cô sinh, tôi xin phép
cô cho bà xã tôi đến thăm, để hướng dẫn chỉ vẽ cho cô ít nhiều kinh
nghiệm sinh đẻ mà vợ tôi đã trải qua. Hơn nữa, khi sinh đẻ, có một người
đàn bà thân quen bên cạnh cũng an tâm. Biết cô ái ngại, nên tôi nói
trước là vợ tôi hoàn toàn không biết gì về hoàn cảnh của cô, và tất
nhiên tôi không hề tiết lộ điều gì. Tôi sẽ nói với vợ tôi là chồng cô
còn ở trại tị nạn Thái Lan, sẽ được định cư sau. Ngần ngừ một lúc, cuối
cùng cô gật đầu.

Cuối
tuần, vợ chồng tôi đến thăm. Vợ tôi mang đến cho cô một ít thức ăn Việt
nam và mấy bộ áo quần con nít. Đàn bà dễ thông cảm với nhau, nhất là vợ
tôi sinh mấy đứa con cũng không có mặt chồng, vì tôi bận tham dự hành
quân, không về kịp. Tôi ra ngoài, để cho hai người đàn bà dễ nói chuyện
sinh đẻ.


sinh vào ban đêm, lúc trời đã vào đông. Tuyết rơi kín cả khung trời. Vợ
chồng tôi đến phòng sinh lúc cô đau bụng. Vợ tôi ở bên cạnh cô, còn tôi
ngồi ngoài phòng đợi. May mắn là cô sinh rất nhanh. Khoảng hơn 30 phút,
tôi đã nghe tiếng con nít khóc. Khi mọi việc đã xong, nghe tiếng vợ
gọi, tôi bước vào chúc mừng cô. Thằng bé đang nằm trên ngực mẹ. Tôi thấy
cô khóc. Không biết đó là những giọt nước mắt xót xa hay hạnh phúc.

Sau
một tuần ở bệnh viện, mẹ con cô chuyển đến một khách sạn, được phòng xã
hội mướn cho cô tạm trú một thời gian, vì chưa tìm được căn nhà thích
hợp cho cô. Khách sạn khá sang trọng, nằm không xa bệnh viện, để tiện
cho các y tá đến thăm và chăm sóc mẹ con cô.

Mấy
ngày sau, tôi đến khách sạn cô ở. Không phải để thăm cô mà để làm thông
dịch cho bác sĩ Hauff và nhân viên phòng xã hội. Họ mang đến cho con cô
nhiều quà tặng. Ai cũng ngạc nhiên và thích thú khi thấy cô biết nói
vài câu ngắn bằng tiếng Na-uy. Bác sĩ Hauff hỏi là cô có cần ông giúp
điều gì nữa không, cô bập bẹ trả lời: “Tôi sẽ nói với ông sau”. Tuy không đúng hẳn, nhưng mọi người đều hiểu được.

Ngày
đầy tháng, vợ tôi nhớ và nhắc tôi đến thăm mẹ con cô. Chúng tôi ghé
siêu thị chọn mua một món quà mừng thằng bé. Bấm chuông phòng, cửa không
mở. Gõ nhẹ cũng không thấy lên tiếng. Tôi đến văn phòng khách sạn hỏi.
Họ cho biết là cô vừa mới chuyển đi. Tôi gọi hỏi Phòng Xã Hội, họ cho
biết là cô đã chuyển đi một thành phố rất xa, và theo yêu cầu của cô, họ
không tiết lộ địa chỉ mới cho bất cứ một ai. Sau một thoáng ngạc nhiên,
tôi chợt nhớ đến lời một bài ca nào đó mà cô đã nhờ tôi viết ra bằng
tiếng Na-uy và chỉ cho cô đọc đi đọc lại nhiều lần: “Ngày mai, tôi muốn bỏ đi thật xa”.
Trên đường về, bà xã tôi thắc mắc tại sao cô lại chuyển đi sớm và không
cho chúng tôi hay. Tôi lắc đầu, mặc dù tôi đã vừa mới hiểu ra.

Từ
hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại cô. Vài lần nhớ tới cô, tôi định hỏi
thăm qua một số người quen ở các thành phố khác, hoặc gọi cho Sở Tỵ Nạn.
Nhưng rồi tôi quyết định không tìm, vì có lẽ cô không muốn gặp lại tôi,
một người biết quá nhiều về cô.

* * *

Bích
Kiều đến đúng giờ hẹn. Khi thấy chiếc taxi đỗ ngay trước cổng nhà, vợ
chồng tôi chạy ra đón. Tôi cũng nóng lòng muốn xem lại dung nhan của
người con gái xinh đẹp nhưng găp phải điều bất hạnh của 25 năm trước.
Bây giờ chắc tuổi cũng đã 45, 46. Vợ chồng tôi ngạc nhiên khi thấy Bích
Kiều vẫn còn trẻ đẹp. Cặp kiếng cận làm tăng nét tao nhã quí phái. Cô ôm
chầm chúng tôi, rồi lấy kiếng xuống để chùi nước mắt.

– 
Không ngờ Kiều bây giờ còn đẹp hơn hồi xưa nhiều lắm. Sao đi có một
mình ên còn ảnh thì giấu kỹ ở đâu rồi không cho trình diện?

Câu nói đùa của bã xã tôi làm cô bớt xúc động, nở nụ cười sau một thoáng thẹn thùng:

–  Em vẫn còn độc thân mà! Hôm nay xuống đây nhờ anh chị làm mai đây.

Chúng
tôi đi quanh khu vườn sau nhà. Bà xã muốn khoe mấy cụm hồng vàng vừa
mới nở hoa, trước khi dắt tay cô bước vào phòng khách. Tôi mang nước ra
mời và ngồi nghe hai người đàn bà nói chuyện trang điểm phấn son xong
mới lên tiếng:

– 
Vậy là Kiều đang ở Trondheim. Tôi thấy địa chỉ trong tấm thiệp cưới.
Ngày ấy, tự dưng Kiều biến mất, làm bọn tôi cứ nghĩ là nàng trích tiên
đã ngao ngán cảnh trần gian mà bay lại về trời rồi chứ.

Cô cười bẽn lẽn:

– 
Hôm nay đến cũng để xin lỗi anh chị đây. Ngày ấy lòng em còn đau xót
lắm, nên muốn đi đến một nơi thật xa, không muốn gặp bất cứ người Việt
nào và nhất là những ai đã biết về mình. Mặc dù em rất thương quí và
mang ơn anh chị.

Tôi cười:

– 
Tôi biết, nên chỉ thương chứ có nỡ lòng nào mà trách. Chắc Kiều còn nhớ
cái câu tiếng Na-uy “Ngày mai tôi muốn bỏ đi thật xa” mà Kiều nhờ tôi
viết ra và chỉ cho Kiều đọc đi, đọc lại bao nhiêu lần. Khi ấy Kiều bảo
rất thích câu ấy trong một bài hát mà Kiều hay hát? Nhờ đó mà tôi hiểu
được, nên không có ý tìm Kiều.

Đúng
là cô đã đi thật xa, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi thành phố Ålesund. Ở
đó không có một người Việt nào sinh sống. Chính quyền và dân chúng rất
tốt. Mẹ con cô được chăm sóc chu đáo. Một năm sau cô bảo lãnh mẹ và hai
cậu em sang đoàn tụ. Gia đình sống trong hạnh phúc. Đứa bé lớn lên trong
vòng tay yêu thương của mọi người. Cháu được đặt tên Trần huy Bách, và
trong giấy khai sanh có cha là Trần Huy Trác. Tên người vị hôn phu của
Kiều. Anh đã bị chính cha ruột của thằng bé giết chết thảm thương rồi
vất xác xuống biển. Kiều giấu kín mẹ và các em điều đau thương này, nên
đến lúc qua đời, mẹ cô vẫn tin đứa cháu ngoại duy nhất của mình là con
của Trác. Bà mất đột ngột sau cơn bệnh tim, khi sang Na-uy được mười sáu
năm.

Được
chính phủ trợ cấp, cho học bổng, và nhờ mẹ giúp trông con cùng mọi việc
trong nhà, nên Kiều và hai em được đi học. Cả ba chị em đều xong đại
học. Hai cậu em đang là kỹ sư, còn cô làm y tá trong bệnh viện. Khi hai
cậu em được nhận vào trường NTH, một đại học kỹ thuật bách khoa nổi
tiếng tại thành phố Trondheim, miền trung Na-uy, cả nhà đã di chuyển về
đây sau sáu năm ở Ålesund. Cháu Huy Bách, con của Kiều cũng vừa tốt
nghiệp ở trường này mùa hè năm ngoái.

– 
Vợ chồng tôi mừng cho Kiều, cho sự thành công của mẹ con Kiều cùng hai
cậu em, và cũng xin chia buồn về việc bà cụ đã ra đi. Tiếc là chúng tôi
không có dịp được gặp bà.

Đang vui, bỗng Kiều xúc động:

– 
Tất cả đều nhờ mẹ em. Cả một đời thiệt thòi, chịu đựng vất vả với con
cháu. Em vẫn ân hận là em đã phải nói dối với bà về chuyện của cháu
Bách.

– 
Tôi nghĩ Kiều làm như thế là đúng. Ít nhất là không làm đau lòng thêm
những người ruột thịt vốn đã chịu quá nhiều nhục nhằn, khốn khổ. Tôi tin
là bác ra đi thanh thản, không có trách gì Kiều về sự việc ấy đâu. Tôi
nói để an ủi.

Bà xã tôi nãy giờ không hiểu hết những gì chúng tôi trao đổi, hỏi Kiều:

– 
Sao cô lại không giữ tên Kiều mà lấy tên Bích. Tôi thấy tên Bích Kiều
đẹp lắm. Ngày xưa gần nhà tôi ở Nha Trang cũng có tiệm uốn tóc Bích
Kiều. Mấy cô con gái đều đẹp. Tôi quen cả hai chị em.

– 
Dạ, em thấy cuộc đời nàng Kiều của ông Nguyễn Du sao mà ba chìm bảy nổi
quá, mà dường như cũng đã vận vào em, em sợ nên đổi tên Bích, cũng là
chữ lót của em.

Tôi cười phụ họa:

– 
Nàng Kiều nào cũng đã chết rồi. Bây giờ, đang ngồi trước mặt tôi là
Bích. Một cô Bích hoàn toàn khác. Chúng tôi rất mừng được như vậy. Xin
lỗi, đáng lẽ ra không nên gọi cô là Kiều nữa. từ bây giờ chúng tôi gọi
tên Bích nghe.

– 
Có sao đâu anh. Hai đứa em của em cũng gọi em là chị Kiều mà. Ngoài gia
đình, chỉ có anh chị là biết cái tên này của em. Chuyện xưa cũng đã qua
rồi. Em muốn anh chị cứ gọi em là Kiều như ngày trước. Hơn nữa, em
biết, ngày ấy anh chị cũng thương yêu cô Kiều đó lắm, phải không?

Cả ba chúng tôi đều cười.

Kiều
nhìn đồng hồ trên tường, khi nghe tiếng chuông báo giờ. Không biết vì
không muốn nhắc lại chuyện cũ, hay là sợ không còn nhiều thời gian, cô
bắt đầu một câu chuyện khác. Cô mở xách tay lấy ra mấy tấm ảnh đưa cho
chúng tôi xem. Ảnh của Bách, con trai cô vừa chụp với cô vợ tương lai
trong ngày lễ đính hôn hơn ba tháng trước. Một cô gái Việt nam. Cả hai
cô cậu đều đẹp, mũi cao, đôi mắt to, vầng trán thoáng lên nét thông
minh.

–  Hai cháu rất xứng đôi vừa lứa! Vợ chồng tôi khen.


cho biết cô dâu tương lai là một dược sĩ vừa mới tốt nghiệp, con gái út
của vợ chồng một vị giáo sư trước 75, được con bảo lãnh sang Na-uy, và
bây giờ lớn tuổi đã về hưu. Ông bà đang sống ở Oslo. Gia đình nề nếp,
đạo đức, có năm người con, tất cả đều thành đạt. Cô nhờ vợ chồng tôi,
tuổi tác ngang với cha mẹ cô dâu, đứng ra thay mặt nhà trai trong ngày
đám cưới. Nhưng điều quan trọng hơn, theo cô, là để cho cháu Bách, và
chính cô nữa, được tự tin, ấm áp hơn về phía gia đình mình. Bởi vợ tôi
là người chứng kiến khi Bách ra đời, còn tôi là người đồng hương duy
nhất biết rõ về Bách, về những tình huống để có Bách hiện diện trên thế
gian này.

– 
Sự có mặt của anh chị trong ngày đám cưới cháu Bách, là một kỷ niệm
thiêng liêng quý giá đối với mẹ con em. Bởi vì khi nhìn thấy anh chị, em
sẽ có cảm giác như là đang có anh Trác bên cạnh. Xin lỗi anh chị, em
cũng đã nói dối với cháu Bách, anh là người duy nhất ở Na-uy này biết
chuyện Trác, và tội nghiệp, cháu Bách vẫn tin anh Trác là ba của nó. Em
thường bắt gặp cháu đứng thật lâu trước tấm ảnh của anh Trác trên bàn
thờ.

–  Vậy nhỡ cháu Bách hỏi tôi về Trác, tôi biết nói gì với cháu?

Nghĩ ngợi một lúc, Kiều lên tiếng:

– 
Em chỉ nói với cháu Bách, là ngày xưa anh ở trong quân đội, nên biết ba
của anh Trác là ông nội cháu, thế thôi. Chứ lúc ấy anh Trác còn nhỏ
lắm. Em thiết tha mong anh chị giúp em. Vì trong lúc này, em cảm thấy
thật lo sợ và cô đơn. Những hình ảnh hãi hùng ấy cứ tưởng đã quên được
từ lâu rồi, vậy mà bây giờ nó lại hiện lên liên tục, ngay cả trong giấc
ngủ của em. Thú thực, ban đầu em không có ý định gặp anh chị, nhưng càng
gần ngày đám cưới cháu, em càng thấy lòng bất an. Cuối cùng bất ngờ em
đã nghĩ đến anh chị, người đã biết tường tận hoàn cảnh của mẹ con em,
bỗng dưng em thấy nhẹ nhàng, như vừa giải tỏa được những gì cứ phải chôn
giấu, đè nặng mãi trong lòng.

Nhớ tới hai người em trai của cô, vợ tôi hỏi:

–  Còn hai cậu em của cô bây giờ ra sao. Đã có gia đình riêng hay vẫn ở chung với cô?

– 
Cậu lớn sống chung với cô bạn gái người Na-uy hơn hai năm thì chia tay,
còn cậu út vẫn chưa lập gia đình. Tuy nhiên, hai cậu đều ở riêng.

Cuối
cùng, vợ chồng tôi quyết định hủy bỏ chuyến đi London. Phải gọi sang
xin lỗi và giải thích cho vợ chồng cô con gái, bảo đây là một việc ba má
cần làm để giúp cho những người bất hạnh có thể tìm lại ít nhiều hạnh
phúc.

Lễ
thành hôn được tổ chức buổi sáng thứ Bảy. Chúng tôi đến khách sạn Royal
Christiania khi trời vừa mới trải qua một cơn mưa hạ. Ánh nắng bắt đầu
chói chang rọi qua những tàn cây tạo thành những vệt lung linh trên các
bãi cỏ xanh điểm những chấm vàng rực rỡ của hoa løvetann đang mùa nở rộ.
Họ nhà trai dùng khách sạn này, nơi mẹ con Kiều và hai cậu em đang ở
mấy hôm nay, làm “điểm xuất phát”. Từ Trondheim xuống, nên họ chỉ có bốn
người. Thêm một cậu người Na-uy ở Oslo, bạn học của Bách làm phụ rể. Vợ
chồng tôi đến với hai cô con gái và ba đứa cháu, để bưng các mâm lễ
vật, theo yêu cầu của Kiều. Lần đầu tiên chúng tôi gặp Bách. Cậu bé ra
đời vào một đêm đông tuyết giá, trong nỗi cô đơn và xót xa của mẹ, chỉ
có vợ chồng tôi, hai người đồng hương xa lạ, có mặt và nghe tiếng khóc
đầu đời, bây giờ là một thanh niên tuấn tú, có học, chân thật hiền lành.
Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là Bách nói tiếng Việt rất giỏi. Bất
giác, tôi nhớ tới những điều Kiều kể với vị cảnh sát ngoại kiều trước
kia trong bệnh viện. Đầu óc như mơ hồ có tiếng sóng biển thét gào phẫn
nộ, và hình dung tới gã hải tặc Thái Lan có mái tóc phủ xuống lưng, trên
người đầy những hình xâm với đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu trong men
rượu. Bỗng tôi giật mình, có cảm giác như vừa làm điều phạm tội. Cố gắng
hướng tâm trí tới những điều thánh thiện, tốt đẹp khác để xua đuổi hết
những hình ảnh đen tối ấy vào giờ phút mọi người đang cần có niềm vui và
hạnh phúc.

Lễ
thành hôn đã diễn ra tốt đẹp. Ông bà sui của Kiều đều là nhà giáo, hiểu
biết và tôn trọng nề nếp cũ. Mọi nghi thức hôn lễ theo tập tục do ông
bà hướng dẫn khá tỉ mỉ. Con cháu đều thành đạt, lễ phép. Tôi mừng cho
Kiều, và nhất là cho cháu Bách đã may mắn là con rể của gia đình này. Có
lẽ thấu hiểu hoàn cảnh của Kiều với lòng mến mộ, sau khi lạy ông bà
trên bàn thờ gia tộc, ông giáo hướng dẫn cô dâu chú rể đến dâng rượu và
xin lạy mẹ của Bách hai lạy. Ông giải thích, một lạy cảm tạ công ơn sinh
thành dưỡng dục của mẹ, mất chồng từ khi còn rất trẻ, nhưng không bước
thêm một bước nào nữa mà dành hết cuộc đời cho đứa con duy nhất của
mình. Một lạy xin mẹ nhận thay cha, để hai con tưởng nhớ đến người cha
bất hạnh, sớm lìa đời khi chưa thấy mặt con.

Khi
vợ chồng cháu Bách mời rượu, nói những lời cám ơn thật cảm động, Kiều
âu yếm nhìn hai con, định nói điều gì, nhưng rồi nghẹn ngào. Sau một lúc
mới nở được nụ cười trong ràn rụa nước mắt. Tôi thấy lòng bâng khuâng.
Thầm mong đó không phải là những giọt nước mắt xót xa mà là niềm vui của
hạnh phúc.

Không
khí bỗng lắng xuống. Mọi người đều xúc động. Kiều ngước lên, đúng vào
lúc tôi quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt của chính mình.

phạm tín an ninh




CON THÚ BỊ RUỒNG BỎ

CON THÚ BỊ RUỒNG BỎ

Một truyện ngắn của Nguyễn Dậu

Mỗi năm vào dịp sang thu, tôi lại được mời lên Ba Vì một lần. Đây là một vùng gò đồi rất đẹp. Hàng ngàn quả đồi nõn nuột cỏ xanh, tròn trịa như một mâm xôi. Rồi kế đến là vùng đồi dứa, đồi sim, đồi sơn, đồi trẩu. Càng vào sát chân núi, rừng càng rậm rạp dần, thâm u dần, để trở thành rừng già trùm lấp những tảng đá nguyên sinh nổi tiếng trên non Tản.

Bạn tôi, thiếu tướng Nguyễn Hồng Quyền đã nghỉ hưu và định cư tại nơi đây. Trang trại của ông – có thể gọi như vậy – gồm gần hai chục nóc nhà làm bằng gạch và gỗ, nằm trên một trái đồi hình yên ngựa, xung quanh có hai ba dòng suối nhỏ uốn lượn vây bọc. Xa hơn nữa, một dòng sông mênh mang đỏ rực phù sa, đang cuồn cuộn chảy xuôi, mất hút vào giữa những eo núi hẻo lánh.

Thật ra mảnh đất này không phải là đất tổ của Quyền. Năm 1948 chúng tôi có dịp chiến đấu chống Pháp ở đây. Rồi tới năm 1953 lại một phen nữa, đơn vị chúng tôi nhận nhiệm vụ phá bung hành lang trung du của địch mở lối thông thoát ở miền đồng bằng lên Việt Bắc, qua nẻo Hòa Bình, Sơn Tây, Phúc Thọ. Trong một tối lửa trại liên hoan quân dân, trung đoàn trưởng Nguyễn Hồng Quyền được một cô gái xinh đẹp nhất vùng Bất Bạt say đắm. Ở anh có nét điển xảo của trai Hà Nội, có tư thế hiên ngang, có ngựa hồng, côn-bát là hình ảnh “trai thời loạn” rất dễ làm xao xuyến những trái tim thiếu nữ thời bấy giờ. Họ thành vợ thành chồng. Con cái của họ giờ đã khôn lớn, hầu hết đi công tác ở nơi xa. Cố nhiên họ đã nên ông nên bà, và có một đàn cháu nội cháu ngoại khá đông đúc.

Thiếu tướng là một con người sởi lởi, hào phóng, chí tình chí cốt với họ hàng và bầu bạn. Nhưng ông mắc bệnh gia trưởng quân phiệt một cách nặng nề. Ông yêu thương mọi chiến sĩ, nhưng cậu nào bướng bỉnh, ông cho đi an dưỡng hoặc cho thuyên chuyển tới đơn vị khác không thương tiếc. Ông đùm bọc họ hàng đến hết mình, nhưng chớ nên để ông phật ý. Chỉ một giận dữ nhỏ, ông thù ghét rất lâu, thậm chí đáng buồn là ông ghét họ suốt đời.

Như nhiều người khác, ông cũng mắc bệnh nghề nghiệp. Nghĩa là ông ưa mọi ý muốn của ông phải được chấp hành, mọi rắp tâm phải được thực hiện. Bởi vậy, con dâu về ở cạnh ông đã đành. Con rể cũng phải về ở cạnh ông nữa. Rồi dần dần, một số con cháu trong họ cũng thiên cư đến đây quây quần cùng ông, cho “tre ấm bụi”. Không cần phải khéo léo cho lắm, ở cương vị ấy, người ta dễ dàng “ngói hóa” cho cả xóm. Thế là cái xóm nhỏ gồm toàn con cháu của ông, trở thành trang trại. Sau khi về hưu thì vị thiếu tướng nghiễm nhiên trở thành chòm chóp của trang trại này.

Mới sáu mươi hai, thiếu tướng còn trẻ khỏe hơn tuổi tác. Ông cao lớn đẫy đà hồng hào, dáng đi mạnh mẽ, giọng nói oang oang, tiếng cười rồ rộ, tràn trề sức sống. Tuy đầu óc ông không còn thích nghi với một đơn vị chính quy hiện đại nữa, song ông quá thừa năng lực điều khiển việc sản xuất kinh doanh của trang trại, để cho nó ngày một phồn vinh sung túc.
Ngoài công việc điều hành trang trại, thiếu tướng đặc biệt ham thích săn bắn, câu cá, cờ tướng. Đôi khi, cao hứng lên, ông cũng làm thơ. Những bài thơ Đường luật, lổn nhổn những từ ngữ xửa xưa: sơn hà, tráng sĩ, vung gươm, thôn nữ cửi canh, chinh phụ, bồi hồi v.v…

Bởi tôi cũng thành thạo vài ngón như bắn súng, câu cá và ham cờ, nên vừa là niềm vui vừa là tai họa, mỗi năm ông bạn già ấy lại “buộc” tôi phải lên chơi với ông một lần, thậm chí, ông có lúc còn chèo kéo tôi lên định cư hẳn cùng ông, làm quân sư quạt mo cho ông trên một số lĩnh vực.

Lần này, Nguyễn Hồng Quyền xuống tận Bất Bạt để đón tôi. Thiếu tướng không dùng xe máy “Ban căng” như mọi lần. Thay vào đó, ông cưỡi một con ngựa trắng đực tơ, bốn vó khá dài. Trên tay ông dong theo dây cương một con ngựa hồng cái, có bộ lông rất mượt, có cặp mắt màu vàng chanh, và bộ lông bờm màu hồng thật không gọt xén. Trao cương ngựa cho tôi, ông vừa vỗ về con Hồng, vừa nhìn tôi cười ha hả:
– Sao? Ngạc nhiên lắm à? Có gì đâu, tớ muốn chúng mình lại cùng nhau phóng ngựa, như ngày xưa trẻ trung đã phi ngựa trên thảo nguyên Hoa Bắc ấy mà. Xương sống lưng của tớ thì tuyệt rồi. Mà xương sống của ông thì chắc cũng chẳng kém gì đâu. Đồng ý chứ?
Tôi tỏ vẻ hân hoan. Bởi vì cái gì dính tới thời son trẻ cũng gây cho tôi một niềm ham thích.

– Đồng ý thôi. Chỉ phiền cái xắc du lịch của mình hơi nặng.
– Cứ ghì vào sau yên ấy. Con Hồng không chịu nhường bước con Bạch đâu. Rồi ông sẽ thấy nó phi nước đại hay đến mức nào. Phải tháo kính trắng ra bỏ vào túi áo, kẻo văng mất đấy.
– Cặp ngựa này ông sắm từ bao giờ vậy? Năm ngoái tôi không thấy chúng.
– À, mới lên Lạng Sơn tậu đấy. Lúc thường thì dùng chúng kéo máy ép mía, máy ép dầu. Lúc cần thì đi săn. Săn thú mà không có ngựa tốt để cưỡi thì nguy hiểm lắm. Ông quá rõ điều đó còn gì? Thôi, lên ngựa đi!
Chúng tôi cùng lên ngựa. Quyền huýt gió một tiếng chói tai. Từ bụi cỏ gần đấy, một con chó to lớn mầu trắng đen loang lổ, băng lại cạnh chân ngựa. Nó ve vẩy đuôi, giương cặp mắt xanh thau, chờ lệnh chủ.

Thiếu tướng hể hả, hất hàm hỏi tôi:
– Ông vẫn nhớ nó chứ?
– Làm sao tôi quên được con Tuýt của ông. Không phải chó nữa, mà thực sự là con cọp rừng. Năm nay nó đến bốn chục kilô đấy nhỉ?
Vị chòm chóp của trang trại cười rung cả yên ngựa:
– Bẩy mươi bẩy kilô đấy!
Thế còn con Múc?
– À, Con Múc, cái con trời đánh ấy ông nhắc đến nó làm gì? Rồi thì tôi sẽ cho ông rõ mọi chuyện. Ê, này Tuýt! Mày không kính chào bạn của chủ mày à?

Con Tuýt ngoáy tít cái đuôi dài, “oẵng” một tiếng hùng dũng. Đoạn nó đứng thẳng lên bằng hai chân sau, hai chân trước chụm lại, hướng về tôi mà vái ba vái.

– Thôi, đủ rồi – Chủ nó ra lệnh – Hãy dẫn đường cho chúng tao.
Con Tuýt vọt lên trước. Con ngựa Bạch lao theo. Không chờ giật cương, con Hồng cũng băng lên, phi song song cùng bạn nó. Chúng tôi vùn vụt phi lên đèo, lượn quanh suối rồi lại vượt dốc, băng đèo. Sau lưng chúng tôi, bụi đỏ của vùng đồi đá ong bốc lên cuồn cuộn.

Con Tuýt xứng đáng được chủ nó cưng chiều. Nó bỏ xa đầu ngựa hàng trăm mét. Có lúc nó tạt sang sườn trái, có lúc nó lại vòng bên sườn phải chúng tôi. Bốn chân nó thoăn thoắt, mờ mờ không còn rõ hình hài. Bộ lông khoang của nó như kẻ một đường thẳng trên ngọn cỏ. Đôi lúc, nó đánh hơi thấy một mùi hoang thú nào đó. Nó lập tức rống lên, rẽ ngang vào rừng sơn. Song dù máu săn của nó nóng tới đâu, nó vẫn nghe lệnh chủ mà quay ngoắt trở lại, rồi vun vút băng vọt lên dẫn đầu. Đôi ngựa chúng tôi đang cưỡi đây, cũng rất hăng máu non tơ, dường như muốn đuổi vượt con chó Tuýt. Chúng thở ra hơi trắng, bốn vó dồn dập sải dài nước đại. Sỏi đá, cây cỏ dưới mặt đường, như kéo thành vệt, loang loáng trôi về sau lưng. Nhưng không ổn. Chẳng nói gì ngựa thồ, ngựa ép mía, ngay đến ngựa chiến cũng không thể theo kịp tốc độ của chó săn. Con Tuýt láu lỉnh hiểu ý đôi ngựa. Ngựa phi nhanh, nó tăng tốc nhanh hơn. Ngựa chậm dần, nó hãm đà phóng, cứ lững thững ở mé trước như trêu như chọc.

Quả thật đây là những giây phút sung sướng lành mạnh trong đời tôi. Thuở trai trẻ, chúng tôi được dịp ngồi trên yên những con ngựa cao lớn mà bay vút trên thảo nguyên bao la. Những con ngựa ấy, tôi chỉ đứng ngang bả vai chúng, rất xứng đáng với những cái tên rất kêu: “Thiên-lý-Hoa-lưu”, “Tích-tuyết-ô-truy”, “Xiển-điện-hoàng-phiêu”… so với chúng, thì hai con ngựa nhiệt đới mà chúng tôi đang cưỡi đây, chỉ đáng gọi là những con nghẽo xoàng xĩnh. Song tôi vẫn thấy chứa chan hào hứng. Tôi thầm cảm ơn bạn già, cảm ơn đội ngựa, cảm ơn con Tuýt tinh thông, cảm ơn đất trời mênh mông và cảnh sắc của thiên nhiên hào hùng xung quanh… Tất cả đã khuấy lại trong tim tôi những kỷ niệm đẹp đẽ đã trôi qua, những sôi nổi chỉ còn âm ỉ của một thời xuân sắc đã lướt vào dĩ vãng.
Vị chòm trại đột ngột chụm môi rúc còi lanh lảnh ra lệnh cho chó và ngựa dừng lại bên bìa rừng trẩu.
– Được nửa đường rồi, chúng ta tạm nghỉ một lát. Thế nào, ông bạn, cảm giác về sống lưng ra sao?
Cả hai chúng tôi cùng nhảy xuống. Cương ngựa được cột chặt vào gốc trẩu. Chúng lúc lắc đầu, quạt mạnh đuôi, gõ móng ngựa thậm thịch xuống nệm cỏ, tỏ ý còn muốn được rong ruổi nữa, tuy rằng hơi thở của chúng đã khá nặng nề.

Chúng tôi ngồi xuống nệm cỏ mật, giữa hai hàng trẩu non. Thiếu tướng rót rượu mật ong ra. Chúng tôi cùng nhau tợp vài ngụm rồi hút thuốc lá, loại thuốc sợi vàng óng, đặc sản của Ba Vì. Riêng Quyền, ông nhồi vào tẩu. Ông đã quen dùng tẩu từ mấy chục năm rồi.

Tôi lim dim mắt, hỏi bạn già.
– Tình hình các cháu nội ngoại của ông ra sao? Nhất là cái con Quỳnh ấy?
– Chúng nó đều ăn khỏe, ngủ khỏe. Riêng cháu Quỳnh thì ngoài phần học văn hóa ra, cháu vẫn thích đi chơi trên đồi rừng, vẫn thích làm thơ về rừng. Từ ngày không còn con Múc, nó ít đi rừng hơn. Và tôi cũng cấm cháu nữa.
– Nghĩa là, anh không hề thấy con Múc quay trở về?
– Con Múc trở về ấy à? – Thiếu tướng mỉm cười, lắc đầu nhè nhẹ – Về con Múc, anh sẽ được thấy mọi điều. Hiện giờ tôi không muốn nói cùng anh vội. Nhớ rằng tôi mời anh lên đây lần này khác hẳn những lần trước. Dù rằng anh không ưa săn bắn, tôi vẫn ép anh phải dự cùng tôi một cuộc săn bắn bằng được.
– Một con thú đặc biệt mới xuất hiện chăng?
– Ồ, bí mật quân sự!

Tôi không hỏi gì nữa. Tính nết đến khỉ của cái ông già này là vậy! Khi không, tự dưng ông nói tộc toạc đủ mọi điều. Lúc thích hỏi, thì ông ta lì lì ngậm tăm.

Con Tuýt nằm duỗi chân cách chủ nó chừng nửa mét. Lười thè dài, mầu đỏ hồng có điểm những chấm đen lấm tấm. Thân nhiệt của nó, được xả ra từ đầu lưỡi, bốc thành hơi trắng nóng hầm hập. Hàm răng của nó trắng bóng. Bốn chiếc răng nanh cửa dài và cong, sáng nhoáng đến dễ sợ. Chẳng rõ từ ngày nó ra đời rồi trưởng thành đến nay, bộ nanh ghê gớm kia đã cắn xé biết bao gà lôi, với chim đa-đa, thỏ và chồn, hươu và hoẵng, gấu và cáo. Kinh dị hơn, chủ nó đã đôi lần tường thuật cho tôi nghe những trận ác đấu của nó với gấu ngựa và báo đen. Trong những cuộc cắn xé sinh tử đó, phần lớn nó đã chiến thắng, dù đẫm máu nhưng huy hoàng. Có nhiều phen nó đã sắp bị kẻ thù xé xác, nhờ nòng súng thiện xạ của ông chủ, nó được cứu thoát. Chủ và chó đều có ân huệ sâu xa với nhau.

Nếu như chủ đã cứu chó thoát khỏi cửa tử nhiều phen, thì chó cũng đã dăm bảy bận đưa chủ trở về cõi sống.
Trong các cuộc săn đuổi gay cấn và hấp dẫn lạ lùng kia, thiếu tướng đã hai phen bị báo gấm vồ lén, đã một lần bị gấu ngựa quật ngã. Mỗi lần ngặt nghèo vậy, con Tuýt mới được dịp bộc lộ hết tài năng của nó. Nó nhanh chóng chọn chỗ yếu của hoang thú, để tìm hướng lao vào. Không do dự trù trừ, không hấp tấp sai lệch, nó chồm tới, ngoạm rất chính xác vào cổ họng ác thú mà xé rách bằng hai ba cái quẫy đầu mạnh mẽ. Ác thú bị đòn chí tử, không còn kịp gây thương tích cho chủ nó nữa.

Nguyễn Hồng Quyền thường đắc ý nói với tôi:
– Anh rõ chăng, lúc nó mới chào đời, tôi đã thấy “tướng lạ” của nó. Dưới hàm của nó có ba sợi lông dài màu xanh biếc. Chỉ người sành chọn chó mới hiểu thế nào là “tam tu vi long, nhị tu vi hổ”. Đấy, thế đấy. Chó của tôi thì kém đếch gì một con beo? Này, anh có nhớ thượng tướng Th. không? Cái ông già gàn dở nổi tiếng toàn quân về phong thái “hiên ngang” ấy mà, đã gạ tôi đổi con Tuýt lấy một cặp béc-giê Sibêri đấy. Ồ, xin lỗi! Ngài hãy đổi cho tôi một cặp rồng thực sự, tôi cũng xin kiếu ngài thôi.

Trong các cuộc săn đuổi gay cấn và hấp dẫn lạ lùng kia, thiếu tướng đã hai phen bị báo gấm vồ lén, đã một lần bị gấu ngựa quật ngã. Mỗi lần ngặt nghèo vậy, con Tuýt mới được dịp bộc lộ hết tài năng của nó. Nó nhanh chóng chọn chỗ yếu của hoang thú, để tìm hướng lao vào. Không do dự trù trừ, không hấp tấp sai lệch, nó chồm tới, ngoạm rất chính xác vào cổ họng ác thú mà xé rách bằng hai ba cái quẫy đầu mạnh mẽ. Ác thú bị đòn chí tử, không còn kịp gây thương tích cho chủ nó nữa.

Nguyễn Hồng Quyền thường đắc ý nói với tôi:
– Anh rõ chăng, lúc nó mới chào đời, tôi đã thấy “tướng lạ” của nó. Dưới hàm của nó có ba sợi lông dài màu xanh biếc. Chỉ người sành chọn chó mới hiểu thế nào là “tam tu vi long, nhị tu vi hổ”. Đấy, thế đấy. Chó của tôi thì kém đếch gì một con beo? Này, anh có nhớ thượng tướng Th. không? Cái ông già gàn dở nổi tiếng toàn quân về phong thái “hiên ngang” ấy mà, đã gạ tôi đổi con Tuýt lấy một cặp béc-giê Sibêri đấy. Ồ, xin lỗi! Ngài hãy đổi cho tôi một cặp rồng thực sự, tôi cũng xin kiếu ngài thôi.

Vốn thâm giao, thường niên gặp gỡ, lẽ cố nhiên tôi hiểu rõ lai lịch con Tuýt vô giá kia. Tổ của nó vốn nòi chó săn Na-uy băng giá. Trong trận tiêu diệt đồn Đại Bục năm xưa, giữa hàng trăm chiến lợi phẩm quan trọng, trung đoàn trưởng Nguyễn Hồng Quyền chỉ mừng rỡ khi đoạt được con chó săn này, vốn là kẻ “cận vệ” của tên Pháp đồn trưởng. Ông gởi về nhà, giao cho vợ ông trông nuôi. Trong đàn con cháu của nó, ông Quyền chọn lựa được một con chó cái mầu trắng như tuyết, không pha tạp một sợi lông màu nào. Và ông đặt cho nó một cái tên rất âu yếm: Bạch Ngọc!

Bạch Ngọc có đôi tai nhỏ, dựng đứng. Ức nó nở, bụng nó thon, toàn thân nó chắc nịch như thỏi giò bó. Đôi mắt của nó mang màu da cam, le lói tia sáng. Nó không sủa inh ỏi như chó nhiệt đới, mà lặng lẽ tiếp cận đối thủ, và chỉ tấn công khi nó biết chắc sẽ có một cú đợp chí mạng.

Năm trước một lần về phép thăm nhà, thiếu tướng lấy làm lạ lùng thấy con Bạch Ngọc thường hay lặng lẽ băng mình vào rừng sâu những lúc xế chiều. Ông xỏ ủng da vào chân, xách khẩu AR15, loại tiểu liên cực nhanh, rồi cũng lặng lẽ đi vào rừng, theo hướng đi của con Bạch Ngọc.

Từ xa, dưới một góc trám già nua, ông đã thấy Bạch Ngọc đang đùa giỡn với một con chó rừng vạm vỡ, có bộ lông đen bóng như lụa lĩnh. Ông rón rén vòng theo hướng ngược chiều gió, dần dần tới gần đôi chó bằng động tác đi cực kỳ êm nhẹ của thợ săn lành nghề. Và ông nằm phục xuống quan sát.

Đôi chó quá vui vẻ, nên không hề phát hiện con người đã gần chúng. Nòng súng AR15 đã được nâng lên. Song, chỉ một tích tắc ngắn ngủi, vị thiếu tướng tinh ranh đã quyết định không bóp cò. Ông chỉ rê đầu súng theo hoạt động của con chó rừng đen tuyền kia, mà chờ đợi.

Con chó rừng và con Bạch Ngọc ngửi hít nhau, đùa rỡn vật lộn nhau. Sắp đến lúc phấn khích, con chó rừng rụt cả đầu, cả thân mà chạy thành vòng tròn rộng xung quanh con Bạch Ngọc. Đôi lúc nó ngẩn cao đầu, tru lên từng hồi dài, rồi tung vọt người lên không, nhảy vút từ tảng đá này sang tảng đá khác với niềm cuồng say ghê gớm. Con Bạch Ngọc cũng nhảy nhót, nhưng dường như nó chỉ xoay mình trên tâm điểm. Cuối cùng nó hứng khởi cắn nhẹ vào má con chó rừng, rồi đứng im với tư thế mời mọc.

Quả như ông thiếu tướng dự kiến. Một hiện tượng thiêng liêng của tự nhiên đã diễn ra. Con chó rừng hăm hở làm cái việc gắn đuôi con Bạch Ngọc. Biết chắc rằng đôi chó rừng không thể mau chóng tách rời nhau, thiếu tướng đứng lên, nhẹ nhàng lùi dần ra cửa rừng. Ông ngồi trên một khúc gỗ ẩm ướt, mồi lửa vào tẩu thuốc và ngâm nga một câu thơ gì đó. Ông vui! Một cuộc phối giống vô cùng hiếm hoi mà có dụng ý đến đâu người ta cũng không dám mong ước. Thiên nhiên yêu chiều ông đến thế là cùng.

Chừng nửa tiếng sau, con Bạch Ngọc êm như ru chạy ra. Nhác thấy chủ, nó ngạc nhiên nhưng mừng quýnh. Đôi mắt sung sướng của nó lấp lánh như bốc lửa. Ông Quyền đập nhẹ bàn tay lên đầu nó, nói với nó vài lời trìu mến, khi nhìn thấy từ cục thịt dưới đuôi nó rỉ ra vài giọt máu tươi. Đoạn, cả chủ cùng chó, với niềm hoan hỉ, chậm bước quay về trại. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất, con người say sưa sát phạt kia đã không nổ súng vào một con thú rừng.

Trước khi lên xe, trở lại đơn vị, ông dặn dò cặn kẽ vợ con cách chăm sóc và bồi dưỡng Bạch Ngọc, đồng thời phải biên thư báo cho ông biết diễn biến của nó từng tuần một. Bà Quyền ngoan ngoãn vâng lệnh chồng! Bà chỉ âm thầm buồn bực vì xưa nay chưa bao giờ chồng bà quan tâm như thế tới bà, tới con gái và con dâu mỗi kỳ thai nghén sinh nở.

Con Bạch Ngọc đã không phụ lòng ông chủ. Nó đẻ lứa đó được bốn con chó con. Con đầu khoang đen trắng, tức con Tuýt. Con thứ hai hoàn toàn đen kịt, có cặp mắt tóe lửa giống mẹ, được đặt tên là Múc, còn hai con kia mang mầu lông xám đậm. Tuy tiếc đứt ruột, vị thiếu tướng vẫn phải tặng một con cho một ông Bộ trưởng có ân sâu dìu dắt ông tự thuở thiếu thời.

Khi Tuýt và Múc được tám tháng tuổi, cũng là lúc ông tướng già được về hưu. Ông dốc hết sức mình vào việc dẫn dắt trang trại ngày một phồn vinh trên đường kinh doanh. Cũng với sự tận tình như vậy, ông chăm sóc, huấn luyện con Tuýt, con Múc cùng một bầy năm sáu con chó săn khác. Tuýt và Múc càng lớn càng khác biệt nhau. Cùng vạm vỡ, cao lớn, cùng ngông cuồng với thiên chức săn đuổi tìm diệt, song con Tuýt được chủ nó yêu quý hơn con Múc nhiều. Tuýt biết phán đoán, ửng xử hầu hết ý chủ. Nó gần như hiểu tiếng người. Ngoài chức trách dữ dằn, quyết liệt và man rợ trong săn bắt, nó rất dịu dàng, quấn quít con người. Chỉ cần dạy bảo đôi lần, nó biết mừng đón và biết vái chào, biết canh phòng và làm vui lòng chủ. Nếu cần sai nó lấy đôi dép, lấy con dao, lấy chiếc điếu cày, nó làm rất khéo. Nếu cần thúc nó trừng phạt gia cầm và gia súc, nó tuyệt đối làm vừa ý chủ.
Con con Múc thì hoàn toàn ngược lại.

Nó không hề thua kém Tuýt về khoản săn đuổi, vật lộn và cắn xé. Nhưng chỉ thế thôi. Nó dửng dưng với những việc mà con Tuýt say mê. Nó không quẩn quanh bên chân chủ, không biết chào đón, lại càng đần độn với những việc chủ muốn sai khiến. Trong cái trại đông đảo người này, nó chỉ thân thiết và gắn bó với riêng cháu Quỳnh. Mỗi lần cháu Quỳnh lên đồi sim, hoặc vào rừng, nó thường đi theo, nửa bước không rời. Những lúc tiễn cháu Quỳnh đi học rồi, nó thường quay về nằm duỗi dài chân ở đầu thềm dỏng tai nghe, chăm chú nhìn. Nó nghe gió ngà, nghe suối reo, nghe mọi động tĩnh trong rừng sâu. Đầu mũi ướt bóng của nó luôn luôn nhún động, để như nắm bắt, như phân biệt, như tận hưởng mọi thức hơi lạ theo gió lùa tới.

Nó thờ ơ như vậy, dần dà, nó bị ông chủ ghẻ lạnh. Ông quên đi những công lao của nó, chỉ còn biết cáu gắt quát tháo mỗi khi nó lỳ lợm không chịu xua đuổi đàn gà quấy phá vườn rau, hoặc không chịu xua đuổi lũ gia súc đang tứ tán trên đồi. Tình hình xấu đến nỗi, ông đã quất cho nó vài ngọn roi da, khi nghi ngờ nó xơi tái mất hai con gà trống Đông Cảo, mà ông lận đận về mãi miền Từ Hồ mới mua được.

Trong nghề săn bắn và nuôi dưỡng chó săn, ai cũng biết rằng người ta tuyệt đối tránh ngược đãi chó của mình. Sự trung thành sẽ mất đi, nếu con chó bị trừng phạt oan uổng. Một con người tinh ranh và sáng suốt như thiếu tướng Hồng Quyền mà cũng phạm phải sai sót đó, thật đáng buồn biết chừng nào.
Sở dĩ ông thù ghét nhưng chưa nỡ ruồng bỏ con Múc vì hai lý do. Thứ nhất, ông sợ cháu Quỳnh buồn. Ông yêu thương và quý báu cháu Quỳnh, còn cháu Quỳnh thì lại trìu mến con Múc như một bạn nhỏ thân thiết. Thứ hai, hồi đầu năm, con Múc lập được một chiến tích có thể xem là phi thường được.

Những ngày đầu xuân, mưa phùn và nắng ấm, làm cho rừng già trở nên tươi rói vì những búp nõn và chồi non. Tại các nẻo đồi mươn mướt từng đợt cỏ xanh mềm như nhung lụa. Muông và thú trong rừng sau đợt nghỉ đông hoặc ngủ đông dài dặc, bây giờ bừng tỉnh, nhộn nhịp đi kiếm ăn, tìm đôi, phối giống, và sinh sản.

Một đàn lợn rừng từ bên kia sông Đà, đã ùa sang bên này. Các đồi lạc, đồi dứa của trang trại bị lợn rừng tàn phá nặng nề. Ông Quyền cùng Quý, con trai thứ ba, quyết định rủ nhau đi săn bắt đàn lợn rừng tệ hại kia. Lợn rừng chậm chạp, chỉ cực kỳ hung dữ khi bị dồn vào tử địa. Có khoảng sáu con họp thành đàn, đang trũi húc vào các luống lạc. Khi phát hiện ra có người và chó vây bủa, chúng mở đường máu lao về phía sông Đà. Chúng đi, tựa sườn vào nhau, hai nanh dưới to bằng ngón tay trỏ, nhe ra, lông bờm dựng đứng. Đàn chó phân vân, không biết nên tấn công đàn lợn bằng cách nào. Những mảnh đạn ghém tuy trúng đích cũng không khiến chúng ngã được, bởi lớp mỡ quá dày.

Bản thân vị thiếu tướng cũng có phần lúng túng, chưa có cách nào để đạt kết quả tối ưu. Trong khi đó, đàn lợn vẫn rất trật tự, tựa sườn vào nhau mà lần lượt xuống sông bơi đi hết. Riêng có con đầu đàn, khổng lồ, không hiểu sao nó lại không lao xuống nước. Nó dừng chân bên bụi lau, và quay đầu trở lại. Đôi mắt nhiều lòng trắng của nó long sòng sọc. Nó tru hộc lên, những chiếc lông cứng và dài như lông nhím dựng đứng suốt từ gáy tới lưng. Hai chiếc nanh trước trắng bóng, cong cong của nó chĩa ngược lên trời với vẻ đe dọa không thể không làm ta rùng mình.

Con Tuýt bị chủ thúc xông lên. Chính nó cũng chần chừ. Bởi vì giống chó săn thường chỉ đánh vào điểm yếu nhất của đối thủ là hầu họng. Các loại hoang thú thường để lộ cổ họng, dù có lớp mao bao bọc. Với lợn rừng lại là chuyện khác. Nó hầu như không có cổ. Lớp mỡ dầy đặc ứ bự xung quanh vùng mặt, nối liền bả vai và xương ức.

Bị hối thúc vì lệnh chủ, con Tuýt nhảy vào. Nó ngoạm đúng phần má của con mồi. Nhưng nó đã bị trừng trị trở lại. Con lợn rừng chỉ hất mạnh cái mũi lên, hai chiếc nanh nhọn đã đóng ngập vào xương sườn con Tuýt. Con Tuýt rống lên đau đớn, nhưng nhanh nhẹn, nó vùng thoát rồi chạy về bên chủ, máu chảy đầm đìa. Ông thiếu tướng kinh hoàng vì đấu sĩ số một của ông chiến bại. Ông lập tức nâng khẩu AR15 lên. Cùng lúc ấy con Múc đã xông tới. Ông liền ngừng lại để xem bản lĩnh của con Múc. Con Múc hiểu rằng, qua cú đòn đau của con Tuýt, nó không thể ngoạm cổ con lợn rừng được. Nó liền chạy vòng quanh con mồi. Con lợn rừng hung tợn và lỳ lợm cũng xoay tròn thân mình, đôi mắt trắng sáng không rời con Múc. Bất thình lình, đang đà chạy bình thường, còn Múc nhảy vào con lợn. Nhưng khi gần tới cổ lợn, nó ngoặt người đổi hướng và đợp rất chính xác vào cẳng chân sau của con mồi. Tiếng xương gãy nghe ròn lắc rắc. Con mồi rống lên, nhưng con Múc đã vọt được ra xa. Lợn rừng hung tợn lên gấp trăm lần. Nó khập khiễng nhưng nhanh nhẹn xông vào tấn công bất kỳ ai. Cũng may hôm ấy tất cả đều ở trên mình ngựa, nên bầy ngựa nhảy dạt ra khá nhanh nhẹn. Cơ hội tốt đẹp đó tạo thuận lợi cho Múc. Trong khi con lợn xông theo con ngựa của ông Quyền, thì từ mé sau, con Múc băng tới, và ngoạm vỡ xương chiếc chân bên kia của con lợn. Lúc này con lợn mới rống lên thảm thiết. Gãy hai cẳng giò mé sau, nó không còn sức bật sức dướn nữa. Nó nằm bẹp xuống, điên cuồng dũi răng nanh vào đất đá, làm cho đất đá bị lõm thành một hố sâu. Phần còn lại, Múc dành cho người và bầy chó kia kết thúc. Nó đứng im, vừa thở vừa ngắm nghía con mồi bị nó đánh gục.

Sau cái chuyện đó, ông Quyền, với con mắt người đi săn thấy rằng ở con Múc còn nhiều tiềm năng ghê gớm, mà chỉ khi lâm sự nó mới bộc lộ ra. Còn với cặp mắt của người chủ, ông vẫn không xóa bỏ được mối ác cảm đối với “tên đày tớ” ương bướng này.

Trở về trại, ông chăm sóc chu đáo vết thương con Tuýt, nhưng việc cần phải làm là ban thưởng cho con Múc thì ông không làm.
Năm trước lên thăm và ở chơi cùng ông Chòm Trại, tôi đã thân ái nhắc nhẹ ông về tính công bằng, và sự cần thiết phải gạt bỏ thành kiến. Song, ông bạn già của tôi vốn không thể cao cả hơn thượng đế được, mà chính thượng đế rất bảo thủ. Ông cười, chế nhạo lại tôi:
– Trừng phạt và ưu ái là hai mặt của sự chăm sóc và gây dựng. Nếu con Múc muốn tôi ưu ái nó thì nó hãy ngoan ngoãn như con Tuýt. Tôi có hẹp hòi gì đâu? Mà, có nực cười không nhỉ, khi anh thấy cần giảng dạy cho tôi về mặt nuôi dạy chó săn?

– Về việc đào tạo chó săn thì anh hơn tôi không chỉ một, mà là hàng vạn lần. Tôi chỉ lưu ý anh về tính di truyền sinh vật. Theo anh kể, bố nó là giống chó rừng thuần chủng. Còn mẹ nó là nòi giống của loại chó tinh quái có nguồn gốc hàn đới xa xôi, đã được thuần hóa. Con Tuýt được thừa hưởng cái gien máu của mẹ nó quá nhiều. Còn con Múc thì ngược lại, nó giống bố nó từ thể hình, màu lông và tính cách. Ở nó tính “rừng” đậm hơn tính “nhà”.
Thiếu tướng cười

vang vọng, đắc thắng:
– Theo ý anh thì con hổ và con voi rừng có mang tí tính “nhà” không? Vậy mà người ta dạy nó làm xiếc được đấy. Vấn đề là nó có ngoan ngoãn không? Có phục tùng không?
– Nhưng anh đã có tình thương yêu và tính kiên nhẫn của những nhà dạy thú chưa?

Ông tướng già quen với việc ra mệnh lệnh lúc này mới im bặt. Ông trầm ngâm giây lâu, đoạn vỗ vai tôi:
– Này, mình tặng con Múc cho ông đấy!
– Tặng tôi?
– Mình rất thực tâm. Có lẽ ở cùng ông thích hợp cho nó hơn.
– Ôi, cảm ơn tình bạn của anh. Nhưng, tôi biết dùng nó vào việc gì? Chả lẽ để nó canh chừng những con sâu mọt đục phá cái bàn viết của tôi à? Vả chăng, tôi biết kiếm đâu ra thịt sống để nuôi nó, trong khi chính tôi cũng chả có thịt mà ăn?

Chúng tôi lại cười, và cùng cười rồ rộ. Nguyễn Hồng Quyền không phải con người lúc nào cũng cố chấp, ông ta chỉ bướng bỉnh lúc nào bị sự ngu dốt xúc phạm. Trộn lẫn trong tim ông có tính hồn nhiên, phóng khoáng, tự phụ và hiếu thắng, nên nói chung, ông ta không giận bực lâu. Sự hào phóng và khoáng đạt vẫn là phong thái chủ chốt của ông.

Tuy chưa hoàn toàn gạt bỏ sự căm ghét con Múc, song ông xem chừng cũng muốn mối quan hệ xấu ấy được đổi khác đi. Một hôm, để con Tuýt ở nhà, ông gọi riêng con Múc ra sông tắm cùng ông. Chủ và chó cùng bơi lội đùa nghịch. Ông ôm con Múc vào vòng tay, ngắm nghía những sợi lông dưới cằm nó. Ông sờ nắn những cái móng đã thoái hóa ở cổ chân nó, (phương đông gọi là huyền đề).

Lúc đầu con Múc le lói ánh mắt đề phòng người chủ. Chưa khi nào nó được ông gần gũi, xoa vuốt như lần này. Nên, với bản chất rừng, nó hoang mang nghi ngờ ông. Cử chỉ của nó rất e dè, thận trọng. Có lúc tưởng chừng như nó sắp sửa muốn liếm tay, liếm mặt ông nữa, nhưng khi gần sát ông, nó liền đứng khựng và trở lùi. Lưỡi nó lè dài, mắt nó rừng rực ngắm thẳng vào mắt ông. Người và thú cùng dò xét nhau và cùng chưa xóa bỏ được định kiến. Con Múc không biết nói gì, cái đó đã hẳn. Những cử chỉ để giải tỏ lòng trung, nó cũng không thạo nữa. Nó biết làm sao đây để ông chủ hiểu rằng mặc dù bị ông ghẻ lạnh, ruồng rẫy, nó vẫn yêu mến ông, vẫn muốn gắn bó với cái trang trại này, cái cơ ngơi này.

Một đêm mưa rét, khi con Tuýt và bầy chó săn kia đi tìm nơi ấm áp ngủ ngon, con Múc đã phát hiện thấy một con báo gấm đang quẩn quanh ngoài hàng rào mắt cáo, tìm lối vào trại. Nếu là con Tuýt hoặc chó khác, đã sủa ngậu lên, báo hiệu cho chủ. Với Múc, nó không ồn ào thế. Nó xù lông, nhảy vút tới bên bờ rào, đôi mắt tóe lửa. Con báo gấm, một ác thú nham hiểm bậc nhất ở rừng sâu, vừa gầm gừ nhè nhẹ, vừa chạy đi chạy lại tìm một lỗ hổng to rộng. Con Múc cũng gầm gừ nhè nhẹ, bám sát con báo gấm từng bước chân để ngăn chặn. Nếu không có hàng rào tre khỏe khoắn, chắc chắn đã diễn ra một cuộc cấu xé đẫm máu, mà phần bi thảm hẳn thuộc về con Múc. Bởi vì chó rừng, dù hung hãn, đồ sộ tới mức nào cũng không phải là đối thủ của báo gấm. Khi đói khát, bị cơn đói cồn cào kích thích, báo gấm dám liều lĩnh tấn công và cắn xé cả cọp rừng.

Cứ như vậy, hai con thú trong cái thế đối chọi qua lớp rào tre, suốt đêm mưa gió. Đã mấy lần báo gấm định leo trèo hàng rào cao. Nhưng nó biết rằng khi leo rào, nó sẽ bị phơi bụng ra. Một ác thú nham hiểm đâu có dại dột vậy.

Lúc trời tang tảng sáng, con báo gấm đành rống lên một tiếng căm hờn, vút thẳng vào rừng. Con Múc ướt sũng, mệt mỏi bơ phờ, trở về nằm dài ở cửa buồng cháu Quỳnh.

Chính cái lần ấy, khi thấy con Múc rũ rượi, thảm hại vì suốt đêm căng thẳng, ông chòm trại đã chỉ vào mặt nó mà mắng:
– Mày giấu đôi gà Đông Cảo của tao ở góc nào, hang hốc nào. Đêm qua mưa gió lẻn đi làm một bữa hả hê phải không?
Chiến công quật ngã lợn rừng đầu đàn làm cho mối quan hệ chủ và chó có phần đẹp hơn. Nếu cứ cái đà ấy, cái đà mà chiến tích của Múc ngày càng vượt trội Tuýt, thì số phận của nó sẽ đẹp đẽ nhường nào. Nhưng hỡi ơi, định mệnh của nó nghiệt ngã, số kiếp của nó có chứa sẵn một kết cục ảm đạm, nên đã xảy ra một việc cực kỳ phi lý như sau:

Vào độ rằm tháng bảy, khắp nơi người ta náo nức sửa soạn cúng lễ vong hồn tiên tổ. Về phần mình, ông thiếu tướng với cương vị chòm chóp của trại, ông làm hẳn cỗ thái lao, để trước là tỏ lòng tri ân tổ tiên, sau là ban ân cho con cháu. Thái lao, theo tục cổ là lễ tam sanh, gồm có một trâu trắng, một ngựa trắng và một dê trắng. Ông Quyền không thể quá ư nệ cổ, nên biến báo đi chút ít: một lợn trắng, một dê trắng và một gà trắng. Thế, e là cũng quá linh đình rồi. Dê và lợn đã được quay hồng. Gà thì được rán chín cả con. Tất cả bầy đặt trên bàn thờ tổ.

Con Tuýt quanh quẩn dưới gầm bàn thờ. Mùi vị thịt rán kích thích tì vị nó dữ dội, xưa nay nó chỉ biết mùi thịt sống và cũng chỉ ăn toàn thịt sống. Người nuôi chó săn thường dùng máu nồng và thịt gây để kích thích tính hăng say xâu xé. Chưa bao giờ Tuýt được ngửi hít hương vị thơm tho lạ lùng đến thế.

Trên gian thờ tổ vắng ngắt.
Cánh mũi của Tuýt phập phồng nở rộng, nước rớt nước dãi của nó lều rều theo đầu lưỡi xuống đất. Bằng một động tác còn nhanh hơn ma quỷ, con Tuýt nhảy lên ban thờ, ngoạm chắc lấy con gà quay, rồi vọt ra cửa. Nó toan tính phóng thẳng ra nơi vắng vẻ bên bờ suối.
Tại hiên hè, nó gặp con Múc đang nằm ở buồng cháu Quỳnh. Cũng lúc đó, tiếng đế ủng của ông chủ thậm thịch nơi xa. Nó vội nhả con gà quay ra, nhảy tót vào cửa ngách, rồi êm như động tác của mèo cái, nó vọt qua cửa sổ, mất hút.

Ông thiếu tướng tròn xoe mắt nhìn con gà thái lao có vết răng chó bập vào, rồi ông trừng mắt nhìn con Múc nằm gần đó. Giận sôi sùng sục, ông vào nhà ngang lên tiếng gọi vợ con. Đoạn, ông rút chiếc roi gân bò, chạy đến bên con Múc.

Múc không hiểu người ta định làm gì, song nó linh cảm thấy sự chẳng lành. Nó đứng phắt dậy toan mừng chủ chút ít thì một loạt roi da xiết bỏng trên lưng nó. Con vật rú lên thê thảm, nhảy vọt ra sân, nhưng vẫn còn bàng hoàng ngơ ngác, chưa dám chạy xa hẳn. Chỉ đến lúc nhác thấy ông chủ giằng lấy khẩu súng hai nòng trên tay cậu Quý, thì nó hiểu rằng không thể chậm trễ chút nào. Từ cái “gậy” sắt ấy nó đã thấy tóe lửa nhiều lần. Sau lúc lửa tóe, có bao muông thú giãy giụa tan xác.

Bởi vậy, nó dồn hết sức lực vào bốn cẳng, luồn lỏi qua dãy chuồng gà, chuồng lợn, rồi vượt qua cửa rào, nó lao thẳng về phía rừng. Sau lưng nó, vang lên những tiếng nổ đoàng đoàng, tiếng chiu chíu xé gió bên tai nó. Bản năng sinh tồn giục nó chạy miết. Cũng chưa khi nào nó chạy tinh khôn như lần này. Không kẻ chỉ, không thẳng băng, mà ngoằn ngoèo đổi hướng. Có lúc tiếng đạn sát sạt trên lưng, nó nằm lăn ra, giả tảng chết. Rồi thình lình lại vọt lên, băng đi như một vệt đen mờ ảo.

Vào tới rừng, nó đứng lại quay nhìn xóm trại. Nó thoáng thấy ông Quyền và cậu Quý trên yên ngựa. Dẫn đầu đàn chó săn tầm thường là con Tuýt – anh ruột nó, kẻ xảo quyệt đáng ghê đối với nó. Thế là nó chạy thẳng, chạy mãi vào rừng sâu, sang tận bên kia núi Ba Vì.

Từ đó nó trở về cuộc sống hoang dại mà tổ tiên nó xưa kia hằng sống.
Ngồi một lúc, chúng tôi cùng nghiêng người, nằm chống tay trên nệm cỏ. Xa xa, ba đỉnh núi màu lam sẫm như lách qua những dải mây trắng mà chĩa chọc nền trời xanh. Núi non Ba Vì thuần một màu đen sẫm của rừng già. Đó đây từng vệt lá cây màu vàng màu, đỏ xỉn, và màu xanh nõn nuột của rừng cọ, rừng son.

Thiếu tướng Quyền gõ gõ tẩu thuốc, gảy hết lượt tàn tro, đoạn nạp thêm mồi sợi mới. Ông nheo mắt nói với tôi:
– Lúc nãy anh cứ gặng hỏi xem tôi mời anh lên để săn bắn con thú gì. Tôi nói thật ra, e rằng anh ngạc nhiên.
– Con Múc?
– Chính thế. Anh nhanh ý đấy.
– Quả thật không còn gì khiến tôi kinh ngạc hơn. Con Múc vẫn còn sống, anh cứ để cho nó sống. Nó đã giúp ích anh không ít. Anh hãy rộng lượng cho nó được tự do.
– Tôi cũng có ý quên nó đi. Nhưng nó làm hại tôi quá chừng. Tôi không thể không diệt nó.
– Làm hại?
– Chừng một năm nay, nó thường xuất hiện ở bìa rừng. Có lúc nó còn mò vào trại. Thậm chí nó còn dám xông vào buồng cháu Quỳnh.
– Thế thì có gì là tai hại? Nếu như là nó muốn quay về với chủ cũ thì sao? Chuyện ấy xưa nay thường xảy ra.
– Ông bạn ơi, ông quá đồng cảm với nó đấy. Một năm nay tôi đã mất hai chục con gà, bốn đầu lợn và hai con dê sữa đấy. Để khi nào tôi găm vào mình nó trọn băng đạn AR15, rồi tha hồ ông thương xót nó.
– Nếu là do cầy cáo và báo beo vồ bắt thì sao? Chẳng có chó rừng nào khênh nổi dê lợn đâu, nhất là lại khênh qua hàng rào tre nhà anh.
Thấy mình đuối lý, ông chòm trại đỏ mặt, châm thuốc hút:
– Cứ cho là beo báo tha dê và lợn đi, còn những con gà? Anh không thấy là con Múc nó rất háu thịt gà à? Đôi gà Đông Cảo và con gà Thái Lao… anh đã rõ rồi đấy!
Đến lượt tôi đuối lý. Tôi im lặng hồi lâu. Lòng tôi bồn chồn và buồn bã. Tôi chợt thấy tiếc công tiếc việc ở dưới Hà Nội. Té ra tôi lên đây là để chứng kiến cái kết cục mạng sống của con Múc.
Thiếu tướng hỏi tôi:
– Sao, ông nghĩ ngợi gì vậy?
– Không, à, con Múc giờ đây nó thế nào? Ông đã đích mắt nhìn thấy nó chưa?
– Rồi. Tôi lại bắn trượt nó hai lần nữa. Thật là một con chó quái quỷ lạ lùng. Nó to lớn gấp rưỡi, hung dữ gấp mười, còn nhanh nhẹn thì gấp trăm.
– Để sinh sống và tồn tại giữa bầy ác thú trong rừng sâu, nó cần phải trưởng thành như vậy. Nó không thể không độc dữ hơn.
– Anh vẫn cứ bênh nó chằm chặp.
– Tôi tiếc rằng anh đã bất công với nó. Trong trường hợp bị hắt hủi, bị hằn thù như vậy, đến con người cũng không thể không biến đổi tính cách, huống chi một con thú.

Chúng tôi lại lên ngựa. Con Tuýt lại dẫn đường. Có thể do cách nói năng bộc trực của tôi, khiến bạn già không vui. Dọc đường ông chẳng nói một câu nào. Bởi vậy, tôi biết mình sai lầm. Định kiến của con người quen bệnh quyền uy kia là không thể thay đổi. Tôi tỏ lòng thương tiếc con Múc nhiều quá, điều đó chỉ khiến ông Quyền càng tăng thêm quyết tâm hạ sát nó mà thôi.

Thấy chúng tôi phi ngựa về đến cổng trại, bà Quyền và đàn con cháu ra tận sân chào đón. Bà năm nay đã ngót sáu mươi. Vóc người mảnh mai, nhỏ nhắn, nên trông bà không đến nỗi già nua như tuổi tác. Trên vẻ mặt thanh tao của bà vẫn còn những đường nét vốn xưa xinh đẹp. Song, ở bà, điều hấp dẫn người ta chính là phong thái đôn hậu, hiền từ. Cạnh bà là cháu Quỳnh, cũng mảnh mai hiền từ, cũng gương mặt trái xoan, trông cháu giống bà ngoại như đúc.

Cháu nhảy bổ vào lòng tôi:
– Cháu chào ông trẻ. Ông có khỏe không ạ?
Tôi nâng bổng cháu lên, rồi hạ cháu xuống:
– Cảm ơn cháu! Ông trẻ vẫn khỏe. Còn cháu cứ mỗi năm lên đây, ông lại thấy cháu như ăn nhầm phải bột nở ấy. Cao bằng bà rồi đây này.
Cả nhà cùng cười giòn giã. Bà Quyền hào hứng nói:
– Ấy, ông cứ quở cháu thế. Cháu lại bé đi mất!
– Nghe nói cháu bị con Múc làm cho sợ hãi, phải không?
Cháu Quỳnh cười như nắc nẻ:
– Cháu chả việc gì phải hãi con Múc cả – Cháu ghé sát tai tôi, thì thào – Rồi cháu sẽ kể mọi điều về con Múc cho ông trẻ nghe. Chứ mỗi lần nhắc đến con Múc, ông ngoại cháu ghét lắm!
Thiếu tướng Quyền quát to:
– Quỳnh, mày nói gì ông phỏng?
Cháu Quỳnh vội vàng “không ạ” rồi lẻn ra nấp sau lưng bà. Bà Quyền xót cháu, cằn nhằn chồng:
– Khiếp cho ông! Làm cháu mật xanh mật vàng chạy cả lên mắt thế này này – Bà quay sang phía tôi, cười – Lên đây, ông giúp tôi một tay, cạo cho ông ấy bớt cái nóng nảy đi.

Ông Quyền hỏi vợ:
– Cạo tôi? Cạo đầu tóc, hay cạo râu ria?
– Cạo cái cặp mắt gườm gườm của ông ấy!
Ông già cười khà khà.
Một chút xung đột ý kiến không làm sứt mẻ tình bầu bạn giữa chúng tôi. Chỉ vài câu chuyện vui vui, hoặc vài ván cờ là tất cả sẽ qua đi như mưa rào ngày hạ. Nói chung thì, theo ý tôi, Nguyễn Hồng Quyền là một người biết chơi đẹp, biết ăn ở, biết cư xử. Trên đời còn nhiều những mẫu người đáng chán hơn; hãnh hợm một cách ngu si, thông thái trong tưởng tượng, hào phóng có điều kiện, và ngủ say li bì trên hào quang giả trá.

Chúng tôi đi bơi, đi câu cùng nhau. Ông dắt tôi đi xem tận mắt những máy ép mía do ngựa kéo, rồi máy ép dầu lạc, dầu sả. Ông còn dự định chế tạo một loại xà phòng dùng nguyên vật liệu địa phương. Tôi vui mừng và chúc mừng ông về tất cả mọi điều ấy. Ở ông hiện rõ những ham muốn vật dục chủ nghĩa. Nhưng, dẫu sao cũng là còn muốn làm việc, còn muốn sáng tạo, muốn sinh lợi. Thế chẳng có ích cho đời hơn là chỉ ngồi ôn lại quá khứ hào nhoáng đã xa xôi sao?

Duy có điều tôi mong được biết là kế hoạch vây bủa con Múc. Ông già chỉ tinh quái, lim dim mắt, cười ruồi, rồi lảng sang chuyện khác. Tôi làm sao yên tâm được. Tôi biết rằng chỉ khi nào găm đủ cả băng đạn vào mình con Múc, ông Quyền mới có thể ăn ngon ngủ yên. Lay chuyển ý định phi lý trong đầu ông thiếu tướng, có lẽ còn khó hơn vần đá tảng ngược tới Ba Vì.
Người được gặp gỡ con Múc nhiều nhất lại chính là cháu Quỳnh.
Chuyện đáng buồn xảy ra với con Múc khiến cháu giận dỗi ông ngoại. Cháu khóc liền mấy ngày, bỏ ăn mất ba bữa, và ngẩn ngơ thương tiếc không lúc nào nguôi.

Hơn nửa năm sau. Một hôm cháu lên đồi kiếm sim chín và hoa rừng thì bất ngờ cháu gặp con Múc đứng ngay trước mặt cháu và ve vẩy đuôi chào mừng. Quỳnh không tin vào mắt mình nữa. Cháu nhìn chó, sợ hãi. Con Múc lông lá sồm soàm, bẩn thỉu và dữ tợn quá. Thấy con thú cứ ngoáy tít đuôi mãi, cháu bạo dạn hỏi nó:
– Mày có phải là Múc không? Nếu là Múc thì lại đây với mình! Nào!
Nói xong cháu ngồi xuống, giang hai tay ra. Con Múc xô vào người Quỳnh hơi mạnh, làm cháu suýt ngã ngửa ra. Đôi bạn thân thiết ấy, làm mọi cử chỉ có thể làm để tỏ tình thương nhau. Con Múc hôi tanh nồng nặc, nhưng Quỳnh cứ để mặt nó liếm lên má, lên tóc cháu. Cháu ứa nước mắt, hỏi nó:
– Bạn ở rừng sâu à?
-!
– Bạn có khổ với lũ hổ báo không?
-!
– Bạn có bị đói luôn không?
Con chó chỉ biết rít ứt trong họng, cà sát bộ lông vào người cô chủ của nó. Phải nửa tiếng sau, Quỳnh mới buồn rầu rời chó.
– Bạn không về được đâu. Ông mình sẽ giết chết!
Con chó hiểu ý ấy. Nó oẳng nhẹ một tiếng. Đôi mắt của nó nhoáng ánh lửa, ve vẩy đuôi một lần nữa, liếm bàn tay Quỳnh một lần nữa, rồi băng vút về rừng.

Từ đó, cứ cách vài buổi, cháu Quỳnh lại lên đồi sim một lần. Lần nào con Múc cũng đợi sẵn. Mỗi lần vậy, đôi bạn lại trìu mến ve vuốt nhau, rồi lại bịn rịn chia tay.
Nếu tôi là một cây bút giàu sức tưởng tượng và không biết kiềm chế, tôi sẽ lợi dụng đặc thù của văn chương mà viết vài đoạn thật hay. Tôi sẽ thêu dệt rằng: Một lần cháu Quỳnh gặp gấu ngựa ở trong rừng, con Múc đã tung hết sức lực ra để vật lộn với gấu cứu cô chủ. Hoặc giả là: Có lần cháu Quỳnh bị trăn quấn. Con Múc đã bật vọt lên cao. Khi buông mình rơi xuống nó ngoạm đúng “thất thốn” là tử huyệt của giống trăn. Nó cắn xé đến nỗi con trăn phải từ từ nới bỏ vòng quấn, cô chủ nó thoát nạn. Cũng có thể lãng mạn hơn, tôi viết rằng: Có lúc người và chó ngồi dưới ánh trắng bên bờ suối, rồi con Múc rúc lên lanh lảnh từng hồi, gọi bạn tri âm của nó cùng một đàn chó xinh xắn ra chào mừng cô chủ.

Nhưng bởi vốn có tính thận trọng một cách hủ lậu, tôi không thể bịa đặt như vậy. Về mối quan hệ lạ lùng kia, tôi chỉ có thể nói thêm điều này. Một lần, cháu Quỳnh bị cảm cúm nặng. Hơn chục ngày liền, cháu không thể ra đồi sim gặp con Múc. Nửa đêm cháu nghe thấy có tiếng cào cửa quen thuộc. Cháu vui mừng chạy ra tháo chốt cài. Con Múc tọt vào, âm thầm quấn quýt cháu Quỳnh. Không may cho nó, con Tuýt và lũ chó săn kia phát giác đã sủa nhặng lên, rồi chặn kín cửa ra vào. Con Múc nhe nanh xông thẳng vào con Tuýt như một ánh chớp. Con Tuýt không ngờ rằng con Múc đã biến đổi mạnh mẽ dữ dội nhường ấy. Bị cắn xoạc bả vai, nó lăn ra sủa rống lên. Bày chó kia kinh hãi không dám nhúc nhích. Con Múc nhảy vọt qua đầu lũ chó săn, biến vào đêm tối.

Ông Quyền đã gạn hỏi cháu gái đủ điều. Cháu Quỳnh chỉ khóc thút thít, không hé lấy nửa lời. Ông liền tuyên bố với cả nhà:
– Con Múc lọt vào trại để trả thù. May có con Tuýt không thì cái Quỳnh bị xé xác ra rồi. Từ nay cả nhà phải cẩn thận lưu ý. Cái giống chó đã thù là thù dai lắm đấy!
Ông băng bó vết thương cho con Tuýt, ban thưởng cho nó khá hậu hĩnh: một ký thịt nai rất tươi.

Dù sao trẻ thơ vẫn là trẻ thơ, ông cháu vẫn là ông cháu. Cháu Quỳnh sợ tính ông nghiêm nghị, giận ông xử nặng con Múc, nhưng nó vẫn rất yêu ông ngoại. Ông cháu làm lành với nhau, thân thiết với nhau vì sợi dây huyết thống bí ẩn ràng buộc.
Vào dịp rằm tháng tám, ông Quyền dùng xe máy đưa cháu Quỳnh đi Hà Nội sắm đồ chơi trung thu cho các em nhỏ. Ông còn đưa cháu đi vào lăng viếng di hài Bác Hồ. Cháu sung sướng. Cháu hớn hở. Trong một phút bồng bột hồn nhiên. Cháu nũng nịu vòi vĩnh ông ngoại:
– Ông ơi, ông cho cháu đón con Múc về nhé?
– Ừ, ông đồng ý, nếu cháu tìm thấy nó?
– Cháu tìm được thì sao nào?
Ông thiếu tướng cười phì:
– Đến mười cái thằng bố mày, đến mười cái thằng ông mày cũng chả tìm nổi, nữa là…

Qua vẻ mặt và ánh mắt của cháu gái, ông chòm trại dường như phát hiện ra điều gì. Ông bèn gặng hỏi cháu gái:
– Cháu thấy nó rồi phải không?
– Vâng ạ.
– Ở đâu?
– Nhưng ông phải hứa với cháu là không giết nó cơ.
– Ừ, ông hứa!
Cháu gái hào hứng kể cho ông ngoại nghe hết mọi điều đoạn kết luận:
– Cháu thấy là nó, con Múc ấy, nó chẳng có lỗi gì đâu ông ạ.
– Nó ăn gà, ăn dê, ăn lợn…
– Cháu chả thấy tận mắt khi nào. Nhà mình có nhiều chó hư. Sao ông chỉ nghi ngờ mình nó thôi?
– Nó không vâng lệnh. Nó không chịu sai khiến như con Tuýt, thế cũng là tội to rồi. Những quân bướng, cần phải nghiêm trị.

Ngày hôm sau cháu Quỳnh lên đồi sim với con Múc. Ông già chòm trại lặng lẽ xách súng đi theo cháu gái, cách chừng ba trăm mét. Cháu Quỳnh không thấy con Múc đâu. Còn ông già thì thoáng thấy. Tuy không nhìn rõ hình thù nó, song ông thấy các bụi sim lay động ràn rạt, ông biết rằng con Múc đã nhìn rõ ông. Nó chuồn biến như tăm cá mất hút dưới đáy sông. Cháu Quỳnh hoàn toàn không rõ gì về việc ông nó đi theo mé sau cả.

Những lần sau, mỗi khi cháu Quỳnh lên đồi sim, ông già thường gói cho cháu một ít thịt rán tẩm bột, bảo đem cho con Múc. Cháu gái cảm động ứa nước mắt, tưởng rằng ông ngoại đã thực sự hồi tâm chuyển ý, sẽ cho đón con Múc về. Còn ông già cũng rất vui sướng khi cháu gái khoe với ông rằng con Múc đã ngốn sạch sành sanh gói thịt rán, đến nỗi không còn tí mỡ dính lá chuối.

Một buổi chiều, tôi sang làng Ngọc Nhi, thăm mấy người bạn cũ trở về. Vào đến sân, tôi ngạc nhiên khi trước mắt tôi là quang cảnh sửa soạn đi săn: người ngựa, súng ống, dây chão và đòn khiêng. Bày chó săn ngồi thành vòng tròn chờ đợi chủ. Con Tuýt lăng săng chạy đi chạy lại. Nó ve vẩy đuôi, đứng nghếch nghếch mắt nhìn chủ, chờ đợi sai khiến, hoặc đi giám sát từng con ngựa, cứ y như là một viên phó quan của cuộc săn vậy.

Thiếu tướng với vẻ mặt đỏ gay, cặp mắt lóng lánh có nhiều sợi lông mày bạc trắng cong rủ xuống quanh mi. Mỗi lần mở cuộc săn bắn, ông thường có vẻ say sưa, kích động như vậy.
Tôi hỏi lại ông:
– Săn gì vào cái giờ chiều này?
– Chó rừng!
– Con Múc phải không? Anh miễn cho tôi can dự vào cuộc sát phạt này nhé.
– Không được! Anh phải tận mắt thấy tôi sẽ chiến thắng sau hai ba lần thất bại.
– Bạn ơi, anh cầm chắc thắng lợi đến thế nào?
– Như cầm tỏi gà trong tay vậy.

Lòng tôi buồn rầu, nhưng tính tò mò thúc giục. Vả chẳng, tôi muốn xem sẽ kết thúc ra sao, cái trò quái gở giữa một bên quyết ý tìm diệt và một bên tinh quái né tránh. Chúng ta, con người, loại động vật cao cấp nhất, nhờ có hai bàn tay lao động đã phát triển được trí thông minh. Nhưng sau khi rời bỏ rừng sâu, tiến về đồng bằng, xây dựng nên những trung tâm văn hóa, chúng ta đã quay lưng lại, đã phũ phàng và độc ác với rừng sâu. Chúng ta đã tàn hủy cái nôi sinh ra mình. Chúng ta đã săn bắn, tiêu diệt các sinh vật còn nương tựa vào rừng, mà ngu ngốc không hiểu rằng chúng ta đã tàn hủy tự nhiên và phá hoại thế cân bằng sinh thái. Các sinh vật, dữ và lành, tồn tại được nhờ rừng rậm. Rừng rậm tồn tại và phát triển được cũng đã nhờ sự sinh sôi của muông thú. Và cuối cùng, nếu muông thú và rừng rậm không tồn tại nữa, thì làm sao chúng ta có thể tồn tại được?

Thuở xa xưa, con người sống đơn giản hơn. Người ta chỉ biết rằng điều quý nhất ở trên đời là mưa nắng trăng sao, điều quý ở dưới đất là ngũ cốc dồi dào, điều quý ở trong nhà là cháu thảo con hiền. Nhưng ngày nay, điều quý lại là châu báu vàng bạc, là uy thế lộng quyền, là sát phạt muông thú và sát phạt lẫn nhau. Hôm qua tôi đau đớn anh đấm tôi. Ngày hôm nay, tôi sung sướng được hành hạ nó. Ngày mai nó hả hê vì trừng trị kẻ khác… Một cơn lốc luẩn quẩn xoáy sâu vào ngõ cụt. Biết bao giờ mới tỉnh ngộ, mới tháo gỡ, mới đồng cảm và yêu thương?

Đoàn săn bắn rầm rập phóng lên đồi sim. Tôi và ông thiếu tướng sóng vai nhau. Cậu Quý và người anh rể vòng ra mé sau đồi. Con Tuýt ngông cuồng hăng say dẫn đầu đàn chó – những con chó có hình thể tuyệt đẹp, băng băng nhảy nhót giữa các làn cây bụi cỏ.
Chỉ chớp nhoáng sau, gọng kìm vây bủa đã xiết chặt quả đồi. Tôi kinh hoàng khi thấy cháu Quỳnh đang ngồi khóc. Con Múc nằm duỗi thẳng cẳng dưới chân cháu.

Cháu Quỳnh chạy lại bên ông ngoại khóc nức nở:
– Ông ơi, ông. Con Múc ăn xong gói thịt là nó lăn ra. Nó sắp chết mất rồi. Làm sao lại thế, hả ông?
Ông già cúi xuống an ủi cháu gái:
– Không sao đâu, nó không thể chết được. Thuốc ngủ chỉ vừa liều lượng thôi mà.
– Ông trộn thuốc ngủ vào thịt…? Trời ơi…

Con chó rừng mềm rũ rượi. Song đôi mắt rực lửa của nó vẫn trừng trừng ngắm nhìn tất cả. Nó hiểu rằng nó đã bị bịt hết mọi ngách sống. Thuốc ngủ liều cao làm tê liệt thần kinh và gân cốt nó. Nhưng từ nơi xa xăm nào không rõ, có thể là từ rừng sâu, có thể là trong từng tế bào máu, nảy sinh ra một ý chí mãnh liệt giục nó phải vượt lên, phải sống còn. Nó rống to lên một tiếng, vọt mình lên, phóng cẳng lao đi.

Lập tức con Tuýt đuổi sát mé sau. Con Múc vừa chạy vừa ngã. Nó lồm cồm bò dậy, được vài bước lại ngã rúi rụi. Cuối cùng không chạy nữa, nó quay phắt lại, nhe bộ răng nanh ghê gớm, chờ đợi. Con Tuýt và cả bầy chó đã hiểu sức mạnh khủng khiếp của con Múc, chỉ chờn vờn nhảy nhót ở khoảng xa, không dám tiếp cận.

Để khỏi mất thì giờ, ông chòm trại nâng nòng súng AR15. Một loạt đạn ngắn gọn rít lên, hòa cùng một tiếng thét xé trời đất của cháu Quỳnh. Con Múc lăn ra đất, không chút giãy giụa. Nó nhận đủ cả băng đạn từ cổ trở xuống. Máu nó xối tuôn, đỏ sẫm cả bộ lông đen. Đôi mắt nó mở to, vẫn màu lửa nhưng dịu hơn, trong đó có nhoáng lồng ánh mây trắng, trời xanh, rừng sẫm và ngọn Ba Vì uy nghi mầu tím đậm.

Có lẽ đã được huấn luyện đầy đủ, nên, khi con mồi gục xuống rồi, bày chó săn đua nhau lăn sả vào, mỗi con đợp cho con Múc một miếng để làm vui lòng chủ, với dáng dấp bẩn thỉu hèn mạt quá chừng.

Cháu Quỳnh chạy đến cạnh tôi. Thấy quanh cảnh thương tâm ấy, lòng dạ trẻ thơ không chịu đựng nổi. Cháu lả đi trong vòng tay tôi. Không rõ phải tôi hoa mắt hay bị hoang tưởng, tôi thấy vầng trán mịn màng của cháu bỗng như gợn nhiều nếp hằn sâu, còn mái tóc xanh đen của cháu bỗng như bạc trắng đi.
Thiếu tướng tiến lại, kéo vai áo tôi:
– Về thôi, anh. Cháu Quỳnh làm sao thế?
Tôi nói như mình trong mộng:
– Anh bắn giỏi thật đấy. Một cú “đúp” tuyệt vời! Anh hạ sát cả con Múc lẫn cháu Quỳnh.

Ông chòm trại bàng hoàng, kêu lên:
– Bậy nào! Không thể thế được. Cháu Quỳnh có làm sao không?
Tôi nâng cháu Quỳnh lên, đi về phía con ngựa, đoạn nhảy lên yên:
– Tôi đưa cháu Quỳnh về trước đây. Ông cứ yên tâm. Thân thể cháu Quỳnh vẫn nguyên vẹn. Nhưng băng đạn mà ông bắn vào lòng nhân ái, vào tình yêu thiên nhiên của cháu Quỳnh thì không thể nào cứu chữa nổi.
Tháng 8 – 1988

Nguyễn Dậu (1930-2002): tham gia cách mạng từ 1946, từng là chiến sĩ pháo binh, sau năm 1954 làm việc trong Phòng Văn nghệ thuộc Tổng cục chính trị, biên tập viên báo Văn Nghệ, cán bộ Sở Văn hoá Hà Nội, rồi làm thợ cắt tóc, rồi giải chiếu bán giày dép rong ở bên đền Ngọc Sơn, thấy công an hay quản lý thị trường từ xa thì… chạy. Một văn tài ít được nhắc đến.




HUẾ XƯA KHÓC MỘT MÙA XUÂN

HUẾ XƯA KHÓC MỘT MÙA XUÂN

Đáng lẽ con đường cái chạy từ đầu đến cuối xóm tên là Hồ Xuân Hương, nhưng ngưòi ta vẫn quen gọi là đường Chùa Bà, chắc tại đầu xóm có cái chùa. Lúc thằng Cọp bắt đầu lớn lên, tung tăng khắp xóm và đọc được dòng chữ “Khuôn An Lạc”, nó đã thắc mắc tại sao không gọi là đường Khuôn An Lạc? Với lại Khuôn An Lạc có cả đức phật Thích Ca chứ nào phải chỉ thờ Phật Bà Quan Âm mà gọi là Chùa Bà? Tuy nhiên nó cũng không buồn tìm hiểu thêm làm gì. Chỉ biết đây là đường Chùa Bà, và xóm nó ở cũng được gọi là xóm Chùa Bà.

Đáng lẽ con đường cái chạy từ đầu đến cuối xóm tên là Hồ Xuân Hương, nhưng ngưòi ta vẫn quen gọi là đường Chùa Bà, chắc tại đầu xóm có cái chùa. Lúc thằng Cọp bắt đầu lớn lên, tung tăng khắp xóm và đọc được dòng chữ “Khuôn An Lạc”, nó đã thắc mắc tại sao không gọi là đường Khuôn An Lạc? Với lại Khuôn An Lạc có cả đức phật Thích Ca chứ nào phải chỉ thờ Phật Bà Quan Âm mà gọi là Chùa Bà? Tuy nhiên nó cũng không buồn tìm hiểu thêm làm gì. Chỉ biết đây là đường Chùa Bà, và xóm nó ở cũng được gọi là xóm Chùa Bà.
Xóm Chùa Bà có khoảng chừng trên năm mươi nóc gia rải rác theo con đường chính. Nhà Cọp ở gần giữa. Đúng ra thì đây là nhà ông nội Cọp. Nhà thiệt của ba mạ Cọp ở thành phố, gần chợ Đông Ba. Mạ Cọp bán vải ở chợ. Cọp ở với ông nội vì trường học gần nhà đi bộ cho tiện. Mỗi chiều thứ Bảy sau khi tan chợ, mạ Cọp đi xích lô về xóm Chùa Bà đón Cọp về nhà. Cọp cũng thương mạ và hai chị của nó lắm, nhưng mỗi cuối tuần phải về ở với gia đình, cực chẳng đã nó phải đi. Ai nói ở thành phố vui chứ với Cọp thật buồn lắm. Ở đó Cọp chỉ lủi thủi một mình. Ba Cọp đi lính ở xa lâu lâu mới về. Mạ Cọp buôn bán ở chợ từ sáng đến tối mịt. Hai chị thì hơn Cọp đến bảy tám tuổi, dù thương cũng không biết nói hay chơi gì với Cọp, cùng lắm là dắt Cọp ra phố ăn kem. Cho nên đến mỗi chiều Chủ Nhật, mặt trời chưa lặn là Cọp đã bồn chồn mong được “về nhà”.

Về nhà, tức là về xóm Chùa Bà, giang sơn của Cọp. Có những lần mạ Cọp muốn giữ nó ở lại qua đêm Chủ Nhật, sáng thứ Hai sẽ đưa nó tới trường luôn.
Cọp ngồi khóc tỉ tê.
Mạ hỏi
– Con không thương mạ à?
– Dạ có
– Rứa răng con cứ đòi về nhà?
– Con không biết.
Hình như Cọp biết mang máng, nhưng không làm sao diễn tả hết nỗi niềm.
Ở xóm Chùa Bà, Cọp được tất cả mọi người thương mến. Dĩ nhiên Cọp phải ngoan, nhưng còn một lý do nữa: nó là cháu nội của vị Đông y sĩ nhân đức và rất mát tay chữa bệnh mà cả xóm cũng như những vùng lân cận đều trọng nể. Trước kia khi ông nội Cọp còn hành nghề, ông thường cứu giúp kẻ nghèo khó. Bây giờ đã già, ông về dưỡng lão tại đây.Tiếng là hồi hưu, nhưng ông vẫn thình thoảng trở lại nghề cũ để cứu giúp những bệnh nhân chung quanh hay một số thân chủ cũ tìm đến.

Một trong những thân chủ quen thuộc vẫn nhờ ông nội Cọp bổ thuốc Tể hàng tháng là bà Tham.
Bà Tham ở căn nhà lớn nhất cuối xóm. Không ai biết tên thật của bà là gì, chỉ quen gọi là bà Tham theo chức quan của ông cụ thời sinh tiền. Cụ Tham làm quan trong những năm cuối cùng của triều Nguyễn, nổi tiếng là ông quan nghiêm khắc và chính trực. Đó là lý do mà cả xóm cho đến nay vẫn còn kính trọng và nể vì. Nhà bà to và đẹp lắm. Vào cổng sau khi qua hai cột trụ cao và cổ kính, bên dưới có hai con sư tử bằng đá nhe răng múa vuốt, là con đường nhỏ trải đầy sỏi trắng, hai bên là hàng rào đầy các loại hoa. Cuối con đường đến khoảng sân trước nhà có những cái chậu bằng đá thật nặng đầy rêu phủ trồng sen. Hai bên hông và phía sau là khoảng vườn rộng mênh mông đầy các loại kiểng cũng như cây ăn trái. Đặc biệt có hai cây cau cao vút lên trời.

Tuy nhà bà Tham lớn như vậy nhưng không có mấy người. Bà ở với đưá cháu ngoại trạc tuổi Cọp, một ông quản gia trung thành từng theo hầu cụ ông ngày trước, và một chị người làm lo việc bếp núc, các việc lặt vặt khác. Bà vốn hiếm muộn, chỉ có một người con gái thì lại theo chồng vào nam. Dù con bà đã nhiều lần muốn bà dọn vào Nam ở, nhưng bà đã cương quyết ở lại xóm Chùa Bà để giũ gìn hương hỏa bên chồng. Được cái tuy chỉ một con gái, nhưng bà lại có rất nhiều cháu ngoại. Trà là đưá con út mà con gái bà để lại Huế cho bà cháu hôm sớm có nhau, tuổi già bớt quạnh quẻ.

Bà Tham không làm gì cả. Của cải do cụ ông để lại cùng lợi nhuận từ vườn cây sau nhà đủ cho bà sống thoải mái. Đó là chưa kể con gái bà vốn rất khá giả và vẫn thường chu cấp thêm thường xuyên cho mẹ. Công việc duy nhất để bà đi ra khỏi nhà hằng ngày là cùng ngồi xích lô đưa cháu đi học mỗi trưa, chiều lại đón về.Còn ngoài ra bà chỉ ở nhà tụng kinh niệm phật. Mọi việc giao dịch khác đã có người quản gia chu tất.

Tuy bà sống thanh đạm và giản dị như vậy, nhưng danh tiếng của một mệnh phụ phu nhân vẫn không hề suy suyển. Cả xóm Chùa Bà đều kính nể và coi bà như thuộc về một tầng lớp khác. Đến cả ông nội Cọp cũng không ngoài lệ đó, dù bà là bệnh nhân vẫn nhờ ông hốt thuốc hàng tháng.
Cọp gặp bà Tham mấy lần trong nhà khi bà đến cho ông nó bắt mạch. Những lần đó Cọp chỉ dám đứng xa xa quan sát và thắc mắc không hiều bà đáng sợ ở chỗ nào. Bọn con nít trong xóm như Cọp leo trèo phá phách ở đâu cũng phải chừa lại vườn nhà bà Tham. Đến như lũ chim kia hình như cũng biết đó là nơi an toàn nên đã từng đàn tụ về. Cọp và các bạn chỉ biết đứng ngoài thèm thuồng nhìn những trái chín mọng trong vườn và lũ chim líu lo rộn rả bên trong.

Cơ hội đã đến với Cọp vào một buổi trưa oi ả khi Cọp đang đội nắng đến trường. Chiếc xích lô chở bà Tham đưa cháu ngoại đi học rà đến bên cạnh. Từ trên xe bà hỏi vọng xuống:
– Này con. Con là cháu ông Khánh phải không?
– Dạ. Cọp rụt rè trả lời.
-Tội nghiệp! Trời nắng như ri mà đi bộ bịnh chết. Con lên đây đi với bà luôn thể.
Câu nói của bà Tham làm Cọp ngẩn người không biết trả lời ra sao. Ngồi xe xích lô tới trường giữa trời nắng gắt như vầy còn gì sướng bằng. Khỏi mỏi chân và đỡ khát nước. Nhưng Cọp vẫn ngần ngừ. Bà Tham đối với nó vẫn là một người đáng nể sợ. Hơn nữa lại có con Trà trên xe. Cọp biết con Trà từ lâu. Nó học bằng lớp Cọp, nhưng ở dãy con gái. Cả trường Cọp có khoảng bốn hay năm đứa thuộc loại “quý tộc” như con Trà. Chúng nó thuờng chơi chung với nhau. Thực ra thì tụi con Trà cũng đâu có kiêu kỳ làm cao làm dáng gì đâu. Tụi nó khi nào cũng muốn gia nhập cuộc chơi với chúng bạn khác. Nhưng mà chỉ nội cái tiếng tăm của gia đình và lối đi học bằng xe đưa rước mỗi ngày cũng đủ làm cho lũ học trò bình dân như Cọp cảm thấy thua kém và cách biệt.

Thấy Cọp cứ đứng ngẩn tò te, bà Tham bước xuống nắm tay nó kéo lên xe. Bà bảo con Trà sang ngồi trong lòng bà và nhường chỗ cho Cọp. Xe đã chuyển bánh mà Cọp cứ suy nghĩ. Con Trà lơ đãng nhìn Cọp. Nó không biểu lộ vể phản đối hay đồng ý nào cả. Hôm nay Trà đi học mặc áo đầm hồng mới tinh, tóc thắt nơ đỏ, đi giày Tây đàng hoàng. Con nhỏ đúng là một tiểu thơ tý hon. Bỗng nhiên Cọp thấy mắc cở quá. Chưa bao giờ Cọp thấy mình dơ dáy hơn lúc này. Bên cạnh con Trà sạch sẽ trắng trẻo, nó bỗng trở nên đen như cột nhà cháy.Tệ nhất là trên đầu nó mấy bữa nay mọc cục Sài. Ông nội Cọp phải cạo khoảng tóc chung quanh để dán miếng thuốc dán hiệu con Rắn vàoCọp ngồi yên lặng suốt quảng đường. Bà Tham có hỏi nó chỉ thưa dạ cho qua, tuyệt nhiên không nói gì với con Trà. Khi xe đến trường, bà Tham mua hai cây cà rem cho hai đứa. Cọp cầm cà rem chạy ù vào đám bạn đang bắn bi trước cổng trường, quên cả cám ơn.

Hôm sau bà Tham cho xe đến đón Cọp tận nhà. Bà ngồi ngoài, để con Trà vào kêu Cọp đi học làm ông nội ngạc nhiên. Cọp thì dị quá trốn trong bếp khiến ông nội phải kéo nó ra tận nơi. Cực chẳng đã Cọp đành leo lên.
Kể từ hôm đó, Cọp chính thức đi học bằng xe xích lô với con Trà. Mấy hôm đầu nó còn ngượng ngùng, dần dần Cọp quen đi. Bà Tham đâu có gì…ghê gớm như nó vẫn tưởng.

Mỗi lần hỏi chuyện Cọp, bà kêu con thật ngọt ngào và hiền hậu. Giọng bà lơ lớ âm hưởng tiếng nam, vì bà vốn sinh ra trong đó. Cọp có nghe nói đến Sài Gòn, hòn ngọc viễn đông mà nó từng học trong một bài tập đọc. Đối với Cọp, miền nam là Sàigòn, Sàigòn là miền nam. Bà Tham phong độ quý phái có lẽ vì bà từ Hòn Ngọc Viễn Đông ra đây( ?).
Mỗi chiều tan học, xe bà Tham đậu chờ sẵn ở cổng trường. Thông thường con Trà thuộc dãy con gái ra trước, Cọp ra sau. Mỗi khi Cọp leo lên xe, bà Tham thường hỏi
– Bữa ni Cọp được mấy điểm?
– Con được 10 điểm.
Nó hí hửng khoe. Bà Tham xoa đầu khen
– Cọp giỏi quá. Ráng học bà thương nghen con.
Do đó, khi sự nể sợ bà Tham đã dần thay thế bằng lòng kính mến, thân mật thì mối cách biệt tiểu thư- dân dã giữa Cọp và Trà cũng không còn nữa. Ngồi trên xe, hai đứa thường khoe điểm và cãi nhau tíu tít trước sự thích thú của bà Tham. Thỉnh thoảng bà phải làm trọng tài để phân giải nữa. Trà và Cọp trở nên thân nhau tự lúc nào. Cọp hoàn toàn thay đổi quan niệm về bọn “quý tộc” trong trường. Bấy lâu, tụi Cọp chỉ mặc cảm và tạo sự cách biệt, chứ bọn con Trà có bao giờ làm cao như bọn Cọp vẫn nghĩ. Ngược lại, Cọp còn thấy tội nghiệp dùm con Trà. Hai đứa bằng tuổi nhau, ở chung xóm, mà trong khi Cọp tung tăng làng trên xóm dưới tham dự đủ mọi trò vui, thì con Trà vẫn ở trong nhà, kín cổng một mình với bà ngoại.

***
Xóm Chùa Bà ở ngoại thành. Từ trung tâm thương mại chính là chợ Đông Ba, qua khỏi cầu Gia Hội, theo con đường Chi Lăng khoảng 2,3 cây số theo hướng về phía chợ Dinh là đến. Cho nên đây chỉ là vùng ngoại ô chứ chưa quá xa xuống các vùng quê. Dân trong xóm không ai gọi là quá nghèo. Mỗi nhà đều có vườn cây ăn trái phụ vào việc buôn bán, nên cuộc sống tương đối ấm no, và hầu như cả xóm đều quen biết nhau.
Từ lúc có óc nhận xét, Cọp cảm thấy xóm Chùa Bà là quê hương bất khả chia lià của nó. Những ngày Chủ Nhật cuối tuần phải về với mạ và chị, nó coi như một bổn phận. Một ngày ở thành phố là một ngày buồn bã. Cọp chỉ lủi thủi giữa bốn bức tường chật hẹp. Cho nên khi mạ hỏi có thương mạ không, Cọp bảo rằng thuơng mà không thể giải thích tại sao cứ đòi về xóm Chùa Bà.

Cọp còn quá nhỏ để diễn tả nỗi lòng của mình. Nó muốn nói rằng ở xóm Chùa Bà, dọc theo con đường Hồ Xuân Hương là hai dãy cỏ xanh mướt. Mỗi chiều có những con trâu hững hờ gặm cỏ. Có những đứa mục đồng là bạn chung trường với Cọp ngồi trên lưng trâu thơ thẩn nghêu ngao. Cọp thường lên lưng trâu với bạn đi sâu vào làng, vào tận các rẩy mương, được gặm mía, ăn khoai nướng, cơm vắt…

Có những buổi sáng mùa Đông, Cọp dậy thật sớm uống trà cùng ông nội. Giữa cái lạnh sớm mai và tiếng mưa rơi tí tách bên ngoài, hai ông cháu bên chiếc bàn nho đối ẩm. Cọp bắt chước ông bưng tách trà lên miệng, thổi nhè nhẹ và nhấp một ngụm nhỏ rồi thở “phaaà” một cái. Vừa uống trà , ông vừa ư ử ngâm thơ. Cọp chưa thương ai hơn thương ông nội. Nó mong sau này lớn lên sẽ nối nghiệp ông để cứu nhân độ thế.

Từ ngày đi học chung với con Trà, Cọp là đưá đầu tiên trong xóm được xâm nhập vùng “ cấm địa”, tức vườn nhà bà Tham..

Đối với Cọp, vườn nhà bà Tham là vườn Địa Đàng. Khu vườn thật rộng, ít nhất cũng gấp ba, bốn lần vuờn nhà nó, đầy những ổi, đào chín nặng trĩu cành. Lũ chim trong vườn cũng rất dạn dĩ. Chúng đã quen với sự an toàn ở đây nên không có vẻ gì e sợ sự hiện diện của Cọp. Cọp thích nhất là được leo lên một cành ổi lớn, ngồi cheo leo trên cành thưởng thức vị thơm ngọt của trái Xá Lị mới hái, vừa nhìn lũ Chào Mào, Se Sẽ ca hát, rỉa lông cho nhau, thỉnh thoảng hái một trái chín quăng xuống cho con Trà phía dưới. Có hôm thằng Cọp rủ con Trà lén trốn ra đuờng đón mấy đứa mục đồng bạn của nó cho con Trà cởi trâu ra rẫy chơi. Lần đầu tiên cô tiểu thư đài các được …đi chăn trâu khoái quá, bất kể bộ quần áo thơm tho bị vấn mùi trâu khi về phải vội vàng đi tắm. Thằng Cọp còn bắt Chuồn Chuồn cho cắn vào rốn con Trà rồi dắt nó ra ao sau vườn tập bơi. Quả nhiên mấy ngày sau con Trà cũng bơi ra phết.

Nhưng không phải chỉ mình Cọp biết bày trò đâu nha. Trà cũng có những mục riêng mà Cọp chưa hề biết đến. Trà có một bộ đồ chơi thật đẹp dạy trẻ em xếp nhà mà anh nó đang du học ở Pháp gởi về. Bộ đồ chơi gồm những miếng nhựa hình khối chữ nhật màu vàng ngà tương tự như quân cờ Mạc Chược của ông nội Cọp. Trên mỗi miếng đều có vẻ hình một cái cửa lớn hoặc cửa sổ. Chúng nó cứ lấy ra sắp thành những toà lâu đài theo ý thích và sự tưởng tượng riêng của mình. Con Trà cũng có một bộ đồ chơi nấu ăn đẹp nhứt xóm. Cọp chẳng thích gì ba trò nấu ăn của con gái. Nhưng đưọc cái là con Trà … nấu thiệt. Nghĩa là muốn nấu chè, con Trà vô bếp lấy đậu và đường đốt lửa nấu đàng hoàng chứ không phải lấy lá cây giả bộ như mấy đứa con gái khác. Cọp chiều ý con Trà, đợi nó nấu xong, dù sống hay chín, Cọp đều thanh toán hết. Con Trà chỉ nhấm nháp chút đỉnh và hả hê nhìn Cọp thưởng thức sản phẩm của mình.

Một lần hai đứa được bà Tham dắt đi coi tuồng Phạm Công Cúc Hoa do một gánh cải lương từ Sài Gòn ra trình diễn. Khi về, con Trà khóc suớt mướt.
Hôm sau không biết đưá nào rủ trước, cùng nhau diễn lại đoạn hai đứa trẻ mồ côi được mẹ Cúc Hoa hiện hồn về bắt chí. Cọp đóng vai Tấn Lực, con Trà làm Nghi Xuân. Sẵn có tượng Phật Bà Quan Âm khá lớn trong nhà cũng mặc đồ trắng giống Cúc Hoa, nên cả Nghi Xuân và Tấn Lực tân thời thi nhau tới trước tượng gào thét “Mẹ ơi, mẹ ơi…” một cách say sưa và thê thảm, nhập vai đến độ nước mắt nước mũi ngồm ngoàm đầy mặt, và bà Tham đứng sau lưng hồi nào không biết.

Bà không la còn vỗ tay khen:
– Ui chao ơi. Hai đứa mi hát cũng hay quá.
Nghi Xuân đỏ mặt ôm bà phụng phịu, còn Tấn Lực thì dị quá vừa chùi mũi vừa cắm đầu chạy một mạch về nhà.
***
Cọp về thành phố đón tết đã được mấy ngày. Mạ Cọp nghỉ chợ từ hôm 27. Ba Cọp cũng về nhà. Không khí vui vẻ và đầy đủ của gia đình làm Cọp tạm quên xóm Chùa Bà, tạm quên con Trà. Nó đã đếm từng ngày mong chóng đến mùng một để được mặc đồ mới theo ba mạ về chúc tết ông bà nội, và đi mừng tuổi bà Tham.
Tết.
Cọp nằm thấp thỏm mong trời mau sáng. Càng về khuya, pháo còn nổ lớn ròn rã. Trước còn không phân biệt, nhưng dần dần đã nhận ra tiếng súng. Mạ Cọp hỏi ba
– Chắc cháy kho đạn?
Ba Cọp lắng nghe và lắc đầu
– Không phải kho đạn. Lạ thiệt, hưu chiến ăn tết mà!
– Mô Phật. Tết nhứt mà đánh nhau chi kỳ rứa không biết.

Súng nổ dữ dội càng lúc càng gần vào thành phố. Ba Cọp mở radio nghe tin tức, nhưng những bản nhạc Xuân mới mấy tiếng đồng hồ trước còn inh ỏi, nay thay thế bằng tiến u u vô nghĩa. Súng nổ lúc càng gần hơn đầy đe dọa. Xen lẫn những tiếng tạch – tạch – đùng là một tiếng ẦM thật lớn làm rung chuyển cả nhà cửa, bụi bay tứ phía văng cả vào mắt Cọp. Đến gần sáng, radio bỗng nhiên hoạt động. Ba Cọp thất thần khi nghe “Đây, tiếng nói của mặt trận giải phóng miền nam…”
Hai chị của Cọp cũng biết và thì thầm với nhau:
– Chết cha! Việt Cộng mi ơi.
Trời sáng. Cả thành phố im lìm. Tiếng súng đã lặn dần chỉ còn lại lẻ tẻ đâu đó như đang răn đe hơn là hiến đấu. Nhà nhà đều đóng cửa kín mít. Bóng tối bao trùm…

Một buổi sáng, Cọp thức dậy vì tiếng ồn ào ngoài đường. Hình như có một nhóm người đi từng nhà đập cửa kêu gọi gì đó. Cứ khoảng mười phút thì tiếng đập cửa lại vang lên, từng nhà, từng nhà mỗi lúc mỗi gần hơn. Ba mạ Cọp nhìn nhau lo ngại. Hai chị của nó thì sợ quá trùm mền kín mít không dám nghe. Cuối cùng rồi chuyện gì đến cũng sẽ đến. Tiếng đập cửa vang lên ngay nhà Cọp. Họ kêu lớn “ 73 Chi Lăng, mở cửa!”. Đúng là số nhà nó. Ba Cọp đành đứng dậy đi ra.

Sau hơn một tuần đóng kín, cửa nhà Cọp phải mở để đón người lạ vào. Cọp lén nhìn ra thấy sáu bảy người đàn ông sầm sập đi vào. Việt Cộng đó sao? Cọp suýt kêu thành tiếng khi thấy người đàn ông đứng ở cửa. Thầy Tường ! Thầy dạy lớp nhất ở trường nó. Cọp tưởng mình trông lầm, nhưng rõ ràng là thầy Tường nổi tiếng hiền nhứt trường. Khác một điều là lúc này thầy lạnh lùng, ôm khẩu súng, tay áo có mang miếng băng đỏ. Cọp líu cả lưỡi, tay chân run rẩy. Thầy Tường là Việt Cộng? Nếu không tận mắt nhìn thấy, không đời nào Cọp tin nổi.

Ba nói chuyện một hồi, đi vô bảo mạ:
– Anh đi với họ.
– Đi mô?
Mạ Cọp thất thanh.
Một người có vẻ là trưởng nhóm tiến lại:
– Chúng tôi mời ông đi nghe chủ trương chính sách của chính phủ cách mạng. Tối ông về thôi.
Ba Cọp nhìn mạ ra dấu có muốn từ chối cũng không được. Ông yên lặng xoa đầu Cọp và bước ra khỏi nhà cùng mấy người đàn ông nọ
Đến tối quả nhiên ông về thiệt. Mạ Cọp mừng đến mếu máo:
– Anh đi mô?
Ba lắc đầu không nói. Mạ hỏi tiếp
– Họ nói chi rứa?
Ba chỉ xua tay và nặng nề ngồi xuống. Hình như ông vừa trải qua một sự kiện gì ghê gớm lắm nhưng không muốn cho mạ nó biết.

Liên tiếp mấy tuần nữa, Huế vẫn đắm chìm trong bóng đêm. Chợ Đông Ba bốc cháy cũng không ai cứu chữa, cho tới khi một cơn mưa đổ xuống dập tắt, để lại những cột khói u ám cả bầu trời. Mạ Cọp ngẩn ngơ nhìn sản nghiệp tiêu tan theo làn khói. Lần đầu tiên Cọp thấy mạ khóc và cảm thấy thương mạ hơn bao giờ hết. Cọp biết hàng vải của mạ là do bà ngoại để lại. Từ bấy lâu nay mạ Cọp một tay nuôi nấng đàn con cũng nhờ nó. Nay coi như đã hết.
Chưa bao giờ Cọp thấy buồn bả và chán nản hơn lúc này.
Tết chi mà kỳ cục. Suốt ngày chỉ ru rú trong nhà tăm tối.

Thình thoảng Cọp ngồi tư lự. Nó nhớ xóm Chùa Bà quá. Nó ngồi tưởng tượng hai dãy cỏ xanh mướt dọc theo con đường Chùa Bà và những thằng bạn chăn trâu nghèo khổ của nó. Súng bắn dữ như hôm rồi, không biết tụi nó có được bình yên? Còn những con trâu lừ đừ và châm chạp. Tụi nó có biết tìm chỗ tránh đạn? Cọp cũng nhớ con Trà và bà Tham. Bỗng nhiên Cọp khám phá ra một điều: ngoại trừ ông nội, con Trà là người nó thương và nhớ nhiều nhứt. Cọp không hiểu tại sao, nhưng hể nhắm mắt lại là nó thấy ông nội, con Trà, và bà Tham.
Nhớ thì nhớ, thương thì thương, Cọp cũng phải bó gối trong nhà và thả hồn lơ lững về xóm Chùa Bà.

***
Súng lại nổ vang. Lần này súng nổ ròn rả hơn, quyết liệt hơn. Cọp ôm
đầu than: “Trời ơi,,Việt Cộng mô mà cứ tới hoài rứa !” Nó lại thấy mạ
lâm râm niệm Phật, nhưng không để ý nét vui mừng ẩn hiện trên đôi mắt
thâm quầng của ba.
Súng nổ thật dữ dội đầu hôm và im dần khi trời
vừa sáng. Cọp giật mình thức dậy và thấy ánh nắng chói chan rọi vào nhà.
Lạ quá, tại sao nhà nó lại mở cửa? Ba mạ và chị nó đâu? Nó lại nghe
tìếng cười nói huyên thuyên bên ngoài nên vùng chạy ra.
Lính.
Lính mình.
Nhiều lính lắm, đang rầm rập đi đầy đường.
Cọp chạy lại nắm tay ba. Ông nói
– Mình tái chiếm rồi con.
Tái chiếm? Nghĩa là không còn Việt Cộng nữa. Nghĩa là nó sắp được về lại xóm Chùa Bà tiếp tục những ngày vui !
Cọp bỗng cười toe toét, ngẩng đầu hỏi lại;
-Mình tái chiếm rồi hả ba?

***
Chỉ vài tháng sau ngày tái chiếm, Cọp khăn gói theo gia đình vào
SàiGòn. Ba Cọp quyết định đưa vợ con về nơi an toàn. Cọp cũng không lưu
luyến xóm Chùa Bà nữa. Ông nội nó đã mất vì bệnh tim tái phát sau nhiều
ngày đêm chịu đựng tiếng dội của bom đạn. Một lý do nữa là ba Cọp đã trở
về từ địa ngục. Sau này kể lại, ông cho hay hôm mấy tên Việt Cộng trong
đó có thầy Tường dẫn đi, ông bị còng tay ra nơi tập trung có những cái
hố đào sẵn. Phước đức từ ông nội nên có một tên việt cộng là bạn học cũ
của ba. Nhà hắn từng chịu ơn ông nội Cọp cứu giúp năm xưa nhận ra, lén
cởi trói cho ba Cọp trốn về. Ba là người duy nhứt thoát được. Số người
bị bắt chung hôm đó tất cả đã bị vùi sâu chôn sống hết dưới những hố hầm
định mệnh.

Đưa đám ông nội Cọp, con Trà đi cùng bà Tham …trên chiếc nạng gỗ. Một mảnh đại bác oan khiên cắt ngang chân trái của Trà.
Tự do đã trở lại, nhưng hậu quả khốc liệt của một tháng trời bị tạm
chiếm vĩnh viễn không thể phai mờ. Ban đêm Cọp phải qua ngủ với mạ để
tìm cảm giác an toàn mỗi khi thức giấc nghe tiếng chó tru xa xa vọng
lại.
Mùa Xuân năm ấy, Huế nhuộm một màu tang !
Khi Cọp trở lại
xóm Chùa Bà lần cuối để chào từ giã bà Tham và con Trà trước ngày lên
đường, bà Tham mếu máo ôm Cọp trong lòng như không nỡ rời. Con Trà cũng
đứng đó, không khóc, không nói, chỉ ngẩn ngơ nhìn Cọp nửa bùi ngùi, nửa
xa vắng.

***
Thư một người chị của Cọp từ quê nhà gởi sang có đoạn “Em còn nhớ Trà, cô bạn nhỏ năm xưa của em ở Huế không? Chị mới gặp lại. Không ngờ cô ta vẫn còn nhớ đến em và gởi lời hỏi thăm…”
Chữ “Trà” trong thư của chị gợi lại Cọp bao kỷ niệm thời thơ ấu tưởng đã chìm sâu trong tâm tưởng, bỗng sống dậy cuồn cuộn như sóng trào. Rời Huế từ năm ấy, Cọp chưa lần nào trở lại dù chỉ một lần để thăm viếng. Sài Gòn -Huế nào có bao xa mà như vĩnh quyết. Huống chi bây giờ thêm cả một đại dương!

Hương Trà, cô tiểu thư, người bạn nhỏ thuở xưa. Cô đã sống ra sao trong suốt thời gian qua với chiếc nạng gỗ cay nghiệt đó!
Cọp cúi đầu.
“Lạy trời cho nàng một cuộc sống bình yên”
./.
ThaiNC

Xóm Chùa Bà có khoảng chừng trên năm mươi nóc gia rải rác theo con đường chính. Nhà Cọp ở gần giữa. Đúng ra thì đây là nhà ông nội Cọp. Nhà thiệt của ba mạ Cọp ở thành phố, gần chợ Đông Ba. Mạ Cọp bán vải ở chợ. Cọp ở với ông nội vì trường học gần nhà đi bộ cho tiện. Mỗi chiều thứ Bảy sau khi tan chợ, mạ Cọp đi xích lô về xóm Chùa Bà đón Cọp về nhà. Cọp cũng thương mạ và hai chị của nó lắm, nhưng mỗi cuối tuần phải về ở với gia đình, cực chẳng đã nó phải đi. Ai nói ở thành phố vui chứ với Cọp thật buồn lắm. Ở đó Cọp chỉ lủi thủi một mình. Ba Cọp đi lính ở xa lâu lâu mới về. Mạ Cọp buôn bán ở chợ từ sáng đến tối mịt. Hai chị thì hơn Cọp đến bảy tám tuổi, dù thương cũng không biết nói hay chơi gì với Cọp, cùng lắm là dắt Cọp ra phố ăn kem. Cho nên đến mỗi chiều Chủ Nhật, mặt trời chưa lặn là Cọp đã bồn chồn mong được “về nhà”.
Về nhà, tức là về xóm Chùa Bà, giang sơn của Cọp. Có những lần mạ Cọp muốn giữ nó ở lại qua đêm Chủ Nhật, sáng thứ Hai sẽ đưa nó tới trường luôn.
Cọp ngồi khóc tỉ tê.
Mạ hỏi
– Con không thương mạ à?
– Dạ có
– Rứa răng con cứ đòi về nhà?
– Con không biết.
Hình như Cọp biết mang máng, nhưng không làm sao diễn tả hết nỗi niềm.
Ở xóm Chùa Bà, Cọp được tất cả mọi người thương mến. Dĩ nhiên Cọp phải ngoan, nhưng còn một lý do nữa: nó là cháu nội của vị Đông y sĩ nhân đức và rất mát tay chữa bệnh mà cả xóm cũng như những vùng lân cận đều trọng nể. Trước kia khi ông nội Cọp còn hành nghề, ông thường cứu giúp kẻ nghèo khó. Bây giờ đã già, ông về dưỡng lão tại đây.Tiếng là hồi hưu, nhưng ông vẫn thình thoảng trở lại nghề cũ để cứu giúp những bệnh nhân chung quanh hay một số thân chủ cũ tìm đến.
Một trong những thân chủ quen thuộc vẫn nhờ ông nội Cọp bổ thuốc Tể hàng tháng là bà Tham.
Bà Tham ở căn nhà lớn nhất cuối xóm. Không ai biết tên thật của bà là gì, chỉ quen gọi là bà Tham theo chức quan của ông cụ thời sinh tiền. Cụ Tham làm quan trong những năm cuối cùng của triều Nguyễn, nổi tiếng là ông quan nghiêm khắc và chính trực. Đó là lý do mà cả xóm cho đến nay vẫn còn kính trọng và nể vì. Nhà bà to và đẹp lắm. Vào cổng sau khi qua hai cột trụ cao và cổ kính, bên dưới có hai con sư tử bằng đá nhe răng múa vuốt, là con đường nhỏ trải đầy sỏi trắng, hai bên là hàng rào đầy các loại hoa. Cuối con đường đến khoảng sân trước nhà có những cái chậu bằng đá thật nặng đầy rêu phủ trồng sen. Hai bên hông và phía sau là khoảng vườn rộng mênh mông đầy các loại kiểng cũng như cây ăn trái. Đặc biệt có hai cây cau cao vút lên trời.

Tuy nhà bà Tham lớn như vậy nhưng không có mấy người. Bà ở với đưá cháu ngoại trạc tuổi Cọp, một ông quản gia trung thành từng theo hầu cụ ông ngày trước, và một chị người làm lo việc bếp núc, các việc lặt vặt khác. Bà vốn hiếm muộn, chỉ có một người con gái thì lại theo chồng vào nam. Dù con bà đã nhiều lần muốn bà dọn vào Nam ở, nhưng bà đã cương quyết ở lại xóm Chùa Bà để giũ gìn hương hỏa bên chồng. Được cái tuy chỉ một con gái, nhưng bà lại có rất nhiều cháu ngoại. Trà là đưá con út mà con gái bà để lại Huế cho bà cháu hôm sớm có nhau, tuổi già bớt quạnh quẻ.
Bà Tham không làm gì cả. Của cải do cụ ông để lại cùng lợi nhuận từ vườn cây sau nhà đủ cho bà sống thoải mái. Đó là chưa kể con gái bà vốn rất khá giả và vẫn thường chu cấp thêm thường xuyên cho mẹ. Công việc duy nhất để bà đi ra khỏi nhà hằng ngày là cùng ngồi xích lô đưa cháu đi học mỗi trưa, chiều lại đón về.Còn ngoài ra bà chỉ ở nhà tụng kinh niệm phật. Mọi việc giao dịch khác đã có người quản gia chu tất.

Tuy bà sống thanh đạm và giản dị như vậy, nhưng danh tiếng của một mệnh phụ phu nhân vẫn không hề suy suyển. Cả xóm Chùa Bà đều kính nể và coi bà như thuộc về một tầng lớp khác. Đến cả ông nội Cọp cũng không ngoài lệ đó, dù bà là bệnh nhân vẫn nhờ ông hốt thuốc hàng tháng.
Cọp gặp bà Tham mấy lần trong nhà khi bà đến cho ông nó bắt mạch. Những lần đó Cọp chỉ dám đứng xa xa quan sát và thắc mắc không hiều bà đáng sợ ở chỗ nào. Bọn con nít trong xóm như Cọp leo trèo phá phách ở đâu cũng phải chừa lại vườn nhà bà Tham. Đến như lũ chim kia hình như cũng biết đó là nơi an toàn nên đã từng đàn tụ về. Cọp và các bạn chỉ biết đứng ngoài thèm thuồng nhìn những trái chín mọng trong vườn và lũ chim líu lo rộn rả bên trong.

Cơ hội đã đến với Cọp vào một buổi trưa oi ả khi Cọp đang đội nắng đến trường. Chiếc xích lô chở bà Tham đưa cháu ngoại đi học rà đến bên cạnh. Từ trên xe bà hỏi vọng xuống:
– Này con. Con là cháu ông Khánh phải không?
– Dạ. Cọp rụt rè trả lời.
-Tội nghiệp! Trời nắng như ri mà đi bộ bịnh chết. Con lên đây đi với bà luôn thể.
Câu nói của bà Tham làm Cọp ngẩn người không biết trả lời ra sao. Ngồi xe xích lô tới trường giữa trời nắng gắt như vầy còn gì sướng bằng. Khỏi mỏi chân và đỡ khát nước. Nhưng Cọp vẫn ngần ngừ. Bà Tham đối với nó vẫn là một người đáng nể sợ. Hơn nữa lại có con Trà trên xe. Cọp biết con Trà từ lâu. Nó học bằng lớp Cọp, nhưng ở dãy con gái. Cả trường Cọp có khoảng bốn hay năm đứa thuộc loại “quý tộc” như con Trà. Chúng nó thuờng chơi chung với nhau. Thực ra thì tụi con Trà cũng đâu có kiêu kỳ làm cao làm dáng gì đâu. Tụi nó khi nào cũng muốn gia nhập cuộc chơi với chúng bạn khác. Nhưng mà chỉ nội cái tiếng tăm của gia đình và lối đi học bằng xe đưa rước mỗi ngày cũng đủ làm cho lũ học trò bình dân như Cọp cảm thấy thua kém và cách biệt.

Thấy Cọp cứ đứng ngẩn tò te, bà Tham bước xuống nắm tay nó kéo lên xe. Bà bảo con Trà sang ngồi trong lòng bà và nhường chỗ cho Cọp. Xe đã chuyển bánh mà Cọp cứ suy nghĩ. Con Trà lơ đãng nhìn Cọp. Nó không biểu lộ vể phản đối hay đồng ý nào cả. Hôm nay Trà đi học mặc áo đầm hồng mới tinh, tóc thắt nơ đỏ, đi giày Tây đàng hoàng. Con nhỏ đúng là một tiểu thơ tý hon. Bỗng nhiên Cọp thấy mắc cở quá. Chưa bao giờ Cọp thấy mình dơ dáy hơn lúc này. Bên cạnh con Trà sạch sẽ trắng trẻo, nó bỗng trở nên đen như cột nhà cháy.Tệ nhất là trên đầu nó mấy bữa nay mọc cục Sài. Ông nội Cọp phải cạo khoảng tóc chung quanh để dán miếng thuốc dán hiệu con Rắn vàoCọp ngồi yên lặng suốt quảng đường. Bà Tham có hỏi nó chỉ thưa dạ cho qua, tuyệt nhiên không nói gì với con Trà. Khi xe đến trường, bà Tham mua hai cây cà rem cho hai đứa. Cọp cầm cà rem chạy ù vào đám bạn đang bắn bi trước cổng trường, quên cả cám ơn.
Hôm sau bà Tham cho xe đến đón Cọp tận nhà. Bà ngồi ngoài, để con Trà vào kêu Cọp đi học làm ông nội ngạc nhiên. Cọp thì dị quá trốn trong bếp khiến ông nội phải kéo nó ra tận nơi. Cực chẳng đã Cọp đành leo lên.
Kể từ hôm đó, Cọp chính thức đi học bằng xe xích lô với con Trà. Mấy hôm đầu nó còn ngượng ngùng, dần dần Cọp quen đi. Bà Tham đâu có gì…ghê gớm như nó vẫn tưởng.

Mỗi lần hỏi chuyện Cọp, bà kêu con thật ngọt ngào và hiền hậu. Giọng bà lơ lớ âm hưởng tiếng nam, vì bà vốn sinh ra trong đó. Cọp có nghe nói đến Sài Gòn, hòn ngọc viễn đông mà nó từng học trong một bài tập đọc. Đối với Cọp, miền nam là Sàigòn, Sàigòn là miền nam. Bà Tham phong độ quý phái có lẽ vì bà từ Hòn Ngọc Viễn Đông ra đây( ?).
Mỗi chiều tan học, xe bà Tham đậu chờ sẵn ở cổng trường. Thông thường con Trà thuộc dãy con gái ra trước, Cọp ra sau. Mỗi khi Cọp leo lên xe, bà Tham thường hỏi
– Bữa ni Cọp được mấy điểm?
– Con được 10 điểm.
Nó hí hửng khoe. Bà Tham xoa đầu khen
– Cọp giỏi quá. Ráng học bà thương nghen con.
Do đó, khi sự nể sợ bà Tham đã dần thay thế bằng lòng kính mến, thân mật thì mối cách biệt tiểu thư- dân dã giữa Cọp và Trà cũng không còn nữa. Ngồi trên xe, hai đứa thường khoe điểm và cãi nhau tíu tít trước sự thích thú của bà Tham. Thỉnh thoảng bà phải làm trọng tài để phân giải nữa. Trà và Cọp trở nên thân nhau tự lúc nào. Cọp hoàn toàn thay đổi quan niệm về bọn “quý tộc” trong trường. Bấy lâu, tụi Cọp chỉ mặc cảm và tạo sự cách biệt, chứ bọn con Trà có bao giờ làm cao như bọn Cọp vẫn nghĩ. Ngược lại, Cọp còn thấy tội nghiệp dùm con Trà. Hai đứa bằng tuổi nhau, ở chung xóm, mà trong khi Cọp tung tăng làng trên xóm dưới tham dự đủ mọi trò vui, thì con Trà vẫn ở trong nhà, kín cổng một mình với bà ngoại.

***
Xóm Chùa Bà ở ngoại thành. Từ trung tâm thương mại chính là chợ Đông Ba, qua khỏi cầu Gia Hội, theo con đường Chi Lăng khoảng 2,3 cây số theo hướng về phía chợ Dinh là đến. Cho nên đây chỉ là vùng ngoại ô chứ chưa quá xa xuống các vùng quê. Dân trong xóm không ai gọi là quá nghèo. Mỗi nhà đều có vườn cây ăn trái phụ vào việc buôn bán, nên cuộc sống tương đối ấm no, và hầu như cả xóm đều quen biết nhau.
Từ lúc có óc nhận xét, Cọp cảm thấy xóm Chùa Bà là quê hương bất khả chia lià của nó. Những ngày Chủ Nhật cuối tuần phải về với mạ và chị, nó coi như một bổn phận. Một ngày ở thành phố là một ngày buồn bã. Cọp chỉ lủi thủi giữa bốn bức tường chật hẹp. Cho nên khi mạ hỏi có thương mạ không, Cọp bảo rằng thuơng mà không thể giải thích tại sao cứ đòi về xóm Chùa Bà.
Cọp còn quá nhỏ để diễn tả nỗi lòng của mình. Nó muốn nói rằng ở xóm Chùa Bà, dọc theo con đường Hồ Xuân Hương là hai dãy cỏ xanh mướt. Mỗi chiều có những con trâu hững hờ gặm cỏ. Có những đứa mục đồng là bạn chung trường với Cọp ngồi trên lưng trâu thơ thẩn nghêu ngao. Cọp thường lên lưng trâu với bạn đi sâu vào làng, vào tận các rẩy mương, được gặm mía, ăn khoai nướng, cơm vắt…

Có những buổi sáng mùa Đông, Cọp dậy thật sớm uống trà cùng ông nội. Giữa cái lạnh sớm mai và tiếng mưa rơi tí tách bên ngoài, hai ông cháu bên chiếc bàn nho đối ẩm. Cọp bắt chước ông bưng tách trà lên miệng, thổi nhè nhẹ và nhấp một ngụm nhỏ rồi thở “phaaà” một cái. Vừa uống trà , ông vừa ư ử ngâm thơ. Cọp chưa thương ai hơn thương ông nội. Nó mong sau này lớn lên sẽ nối nghiệp ông để cứu nhân độ thế.
Từ ngày đi học chung với con Trà, Cọp là đưá đầu tiên trong xóm được xâm nhập vùng “ cấm địa”, tức vườn nhà bà Tham..

Đối với Cọp, vườn nhà bà Tham là vườn Địa Đàng. Khu vườn thật rộng, ít nhất cũng gấp ba, bốn lần vuờn nhà nó, đầy những ổi, đào chín nặng trĩu cành. Lũ chim trong vườn cũng rất dạn dĩ. Chúng đã quen với sự an toàn ở đây nên không có vẻ gì e sợ sự hiện diện của Cọp. Cọp thích nhất là được leo lên một cành ổi lớn, ngồi cheo leo trên cành thưởng thức vị thơm ngọt của trái Xá Lị mới hái, vừa nhìn lũ Chào Mào, Se Sẽ ca hát, rỉa lông cho nhau, thỉnh thoảng hái một trái chín quăng xuống cho con Trà phía dưới. Có hôm thằng Cọp rủ con Trà lén trốn ra đuờng đón mấy đứa mục đồng bạn của nó cho con Trà cởi trâu ra rẫy chơi. Lần đầu tiên cô tiểu thư đài các được …đi chăn trâu khoái quá, bất kể bộ quần áo thơm tho bị vấn mùi trâu khi về phải vội vàng đi tắm. Thằng Cọp còn bắt Chuồn Chuồn cho cắn vào rốn con Trà rồi dắt nó ra ao sau vườn tập bơi. Quả nhiên mấy ngày sau con Trà cũng bơi ra phết.

Nhưng không phải chỉ mình Cọp biết bày trò đâu nha. Trà cũng có những mục riêng mà Cọp chưa hề biết đến. Trà có một bộ đồ chơi thật đẹp dạy trẻ em xếp nhà mà anh nó đang du học ở Pháp gởi về. Bộ đồ chơi gồm những miếng nhựa hình khối chữ nhật màu vàng ngà tương tự như quân cờ Mạc Chược của ông nội Cọp. Trên mỗi miếng đều có vẻ hình một cái cửa lớn hoặc cửa sổ. Chúng nó cứ lấy ra sắp thành những toà lâu đài theo ý thích và sự tưởng tượng riêng của mình. Con Trà cũng có một bộ đồ chơi nấu ăn đẹp nhứt xóm. Cọp chẳng thích gì ba trò nấu ăn của con gái. Nhưng đưọc cái là con Trà … nấu thiệt. Nghĩa là muốn nấu chè, con Trà vô bếp lấy đậu và đường đốt lửa nấu đàng hoàng chứ không phải lấy lá cây giả bộ như mấy đứa con gái khác. Cọp chiều ý con Trà, đợi nó nấu xong, dù sống hay chín, Cọp đều thanh toán hết. Con Trà chỉ nhấm nháp chút đỉnh và hả hê nhìn Cọp thưởng thức sản phẩm của mình.

Một lần hai đứa được bà Tham dắt đi coi tuồng Phạm Công Cúc Hoa do một gánh cải lương từ Sài Gòn ra trình diễn. Khi về, con Trà khóc suớt mướt.
Hôm sau không biết đưá nào rủ trước, cùng nhau diễn lại đoạn hai đứa trẻ mồ côi được mẹ Cúc Hoa hiện hồn về bắt chí. Cọp đóng vai Tấn Lực, con Trà làm Nghi Xuân. Sẵn có tượng Phật Bà Quan Âm khá lớn trong nhà cũng mặc đồ trắng giống Cúc Hoa, nên cả Nghi Xuân và Tấn Lực tân thời thi nhau tới trước tượng gào thét “Mẹ ơi, mẹ ơi…” một cách say sưa và thê thảm, nhập vai đến độ nước mắt nước mũi ngồm ngoàm đầy mặt, và bà Tham đứng sau lưng hồi nào không biết.
Bà không la còn vỗ tay khen:
– Ui chao ơi. Hai đứa mi hát cũng hay quá.
Nghi Xuân đỏ mặt ôm bà phụng phịu, còn Tấn Lực thì dị quá vừa chùi mũi vừa cắm đầu chạy một mạch về nhà.
***
Cọp về thành phố đón tết đã được mấy ngày. Mạ Cọp nghỉ chợ từ hôm 27. Ba Cọp cũng về nhà. Không khí vui vẻ và đầy đủ của gia đình làm Cọp tạm quên xóm Chùa Bà, tạm quên con Trà. Nó đã đếm từng ngày mong chóng đến mùng một để được mặc đồ mới theo ba mạ về chúc tết ông bà nội, và đi mừng tuổi bà Tham.

Tết.
Cọp nằm thấp thỏm mong trời mau sáng. Càng về khuya, pháo còn nổ lớn ròn rã. Trước còn không phân biệt, nhưng dần dần đã nhận ra tiếng súng. Mạ Cọp hỏi ba
– Chắc cháy kho đạn?
Ba Cọp lắng nghe và lắc đầu
– Không phải kho đạn. Lạ thiệt, hưu chiến ăn tết mà!
– Mô Phật. Tết nhứt mà đánh nhau chi kỳ rứa không biết.
Súng nổ dữ dội càng lúc càng gần vào thành phố. Ba Cọp mở radio nghe tin tức, nhưng những bản nhạc Xuân mới mấy tiếng đồng hồ trước còn inh ỏi, nay thay thế bằng tiến u u vô nghĩa. Súng nổ lúc càng gần hơn đầy đe dọa. Xen lẫn những tiếng tạch – tạch – đùng là một tiếng ẦM thật lớn làm rung chuyển cả nhà cửa, bụi bay tứ phía văng cả vào mắt Cọp. Đến gần sáng, radio bỗng nhiên hoạt động. Ba Cọp thất thần khi nghe “Đây, tiếng nói của mặt trận giải phóng miền nam…”
Hai chị của Cọp cũng biết và thì thầm với nhau:
– Chết cha! Việt Cộng mi ơi.
Trời sáng. Cả thành phố im lìm. Tiếng súng đã lặn dần chỉ còn lại lẻ tẻ đâu đó như đang răn đe hơn là hiến đấu. Nhà nhà đều đóng cửa kín mít. Bóng tối bao trùm…

Một buổi sáng, Cọp thức dậy vì tiếng ồn ào ngoài đường. Hình như có một nhóm người đi từng nhà đập cửa kêu gọi gì đó. Cứ khoảng mười phút thì tiếng đập cửa lại vang lên, từng nhà, từng nhà mỗi lúc mỗi gần hơn. Ba mạ Cọp nhìn nhau lo ngại. Hai chị của nó thì sợ quá trùm mền kín mít không dám nghe. Cuối cùng rồi chuyện gì đến cũng sẽ đến. Tiếng đập cửa vang lên ngay nhà Cọp. Họ kêu lớn “ 73 Chi Lăng, mở cửa!”. Đúng là số nhà nó. Ba Cọp đành đứng dậy đi ra.

Sau hơn một tuần đóng kín, cửa nhà Cọp phải mở để đón người lạ vào. Cọp lén nhìn ra thấy sáu bảy người đàn ông sầm sập đi vào. Việt Cộng đó sao? Cọp suýt kêu thành tiếng khi thấy người đàn ông đứng ở cửa. Thầy Tường ! Thầy dạy lớp nhất ở trường nó. Cọp tưởng mình trông lầm, nhưng rõ ràng là thầy Tường nổi tiếng hiền nhứt trường. Khác một điều là lúc này thầy lạnh lùng, ôm khẩu súng, tay áo có mang miếng băng đỏ. Cọp líu cả lưỡi, tay chân run rẩy. Thầy Tường là Việt Cộng? Nếu không tận mắt nhìn thấy, không đời nào Cọp tin nổi.
Ba nói chuyện một hồi, đi vô bảo mạ:
– Anh đi với họ.
– Đi mô?
Mạ Cọp thất thanh.
Một người có vẻ là trưởng nhóm tiến lại:
– Chúng tôi mời ông đi nghe chủ trương chính sách của chính phủ cách mạng. Tối ông về thôi.
Ba Cọp nhìn mạ ra dấu có muốn từ chối cũng không được. Ông yên lặng xoa đầu Cọp và bước ra khỏi nhà cùng mấy người đàn ông nọ
Đến tối quả nhiên ông về thiệt. Mạ Cọp mừng đến mếu máo:
– Anh đi mô?
Ba lắc đầu không nói. Mạ hỏi tiếp
– Họ nói chi rứa?
Ba chỉ xua tay và nặng nề ngồi xuống. Hình như ông vừa trải qua một sự kiện gì ghê gớm lắm nhưng không muốn cho mạ nó biết.
Liên tiếp mấy tuần nữa, Huế vẫn đắm chìm trong bóng đêm. Chợ Đông Ba bốc cháy cũng không ai cứu chữa, cho tới khi một cơn mưa đổ xuống dập tắt, để lại những cột khói u ám cả bầu trời. Mạ Cọp ngẩn ngơ nhìn sản nghiệp tiêu tan theo làn khói. Lần đầu tiên Cọp thấy mạ khóc và cảm thấy thương mạ hơn bao giờ hết. Cọp biết hàng vải của mạ là do bà ngoại để lại. Từ bấy lâu nay mạ Cọp một tay nuôi nấng đàn con cũng nhờ nó. Nay coi như đã hết.

Chưa bao giờ Cọp thấy buồn bả và chán nản hơn lúc này.
Tết chi mà kỳ cục. Suốt ngày chỉ ru rú trong nhà tăm tối.
Thình thoảng Cọp ngồi tư lự. Nó nhớ xóm Chùa Bà quá. Nó ngồi tưởng tượng hai dãy cỏ xanh mướt dọc theo con đường Chùa Bà và những thằng bạn chăn trâu nghèo khổ của nó. Súng bắn dữ như hôm rồi, không biết tụi nó có được bình yên? Còn những con trâu lừ đừ và châm chạp. Tụi nó có biết tìm chỗ tránh đạn? Cọp cũng nhớ con Trà và bà Tham. Bỗng nhiên Cọp khám phá ra một điều: ngoại trừ ông nội, con Trà là người nó thương và nhớ nhiều nhứt. Cọp không hiểu tại sao, nhưng hể nhắm mắt lại là nó thấy ông nội, con Trà, và bà Tham.
Nhớ thì nhớ, thương thì thương, Cọp cũng phải bó gối trong nhà và thả hồn lơ lững về xóm Chùa Bà.

***
Súng lại nổ vang. Lần này súng nổ ròn rả hơn, quyết liệt hơn. Cọp ôm
đầu than: “Trời ơi,,Việt Cộng mô mà cứ tới hoài rứa !” Nó lại thấy mạ
lâm râm niệm Phật, nhưng không để ý nét vui mừng ẩn hiện trên đôi mắt
thâm quầng của ba.
Súng nổ thật dữ dội đầu hôm và im dần khi trời
vừa sáng. Cọp giật mình thức dậy và thấy ánh nắng chói chan rọi vào nhà.
Lạ quá, tại sao nhà nó lại mở cửa? Ba mạ và chị nó đâu? Nó lại nghe
tìếng cười nói huyên thuyên bên ngoài nên vùng chạy ra.
Lính.
Lính mình.
Nhiều lính lắm, đang rầm rập đi đầy đường.
Cọp chạy lại nắm tay ba. Ông nói
– Mình tái chiếm rồi con.
Tái chiếm? Nghĩa là không còn Việt Cộng nữa. Nghĩa là nó sắp được về lại xóm Chùa Bà tiếp tục những ngày vui !
Cọp bỗng cười toe toét, ngẩng đầu hỏi lại;
-Mình tái chiếm rồi hả ba?

***
Chỉ vài tháng sau ngày tái chiếm, Cọp khăn gói theo gia đình vào
SàiGòn. Ba Cọp quyết định đưa vợ con về nơi an toàn. Cọp cũng không lưu
luyến xóm Chùa Bà nữa. Ông nội nó đã mất vì bệnh tim tái phát sau nhiều
ngày đêm chịu đựng tiếng dội của bom đạn. Một lý do nữa là ba Cọp đã trở
về từ địa ngục. Sau này kể lại, ông cho hay hôm mấy tên Việt Cộng trong
đó có thầy Tường dẫn đi, ông bị còng tay ra nơi tập trung có những cái
hố đào sẵn. Phước đức từ ông nội nên có một tên việt cộng là bạn học cũ
của ba. Nhà hắn từng chịu ơn ông nội Cọp cứu giúp năm xưa nhận ra, lén
cởi trói cho ba Cọp trốn về. Ba là người duy nhứt thoát được. Số người
bị bắt chung hôm đó tất cả đã bị vùi sâu chôn sống hết dưới những hố hầm
định mệnh.

Đưa đám ông nội Cọp, con Trà đi cùng bà Tham …trên chiếc nạng gỗ. Một mảnh đại bác oan khiên cắt ngang chân trái của Trà.
Tự do đã trở lại, nhưng hậu quả khốc liệt của một tháng trời bị tạm
chiếm vĩnh viễn không thể phai mờ. Ban đêm Cọp phải qua ngủ với mạ để
tìm cảm giác an toàn mỗi khi thức giấc nghe tiếng chó tru xa xa vọng
lại.
Mùa Xuân năm ấy, Huế nhuộm một màu tang !
Khi Cọp trở lại
xóm Chùa Bà lần cuối để chào từ giã bà Tham và con Trà trước ngày lên
đường, bà Tham mếu máo ôm Cọp trong lòng như không nỡ rời. Con Trà cũng
đứng đó, không khóc, không nói, chỉ ngẩn ngơ nhìn Cọp nửa bùi ngùi, nửa
xa vắng.

***
Thư một người chị của Cọp từ quê nhà gởi sang có đoạn “Em còn nhớ Trà, cô bạn nhỏ năm xưa của em ở Huế không? Chị mới gặp lại. Không ngờ cô ta vẫn còn nhớ đến em và gởi lời hỏi thăm…”
Chữ “Trà” trong thư của chị gợi lại Cọp bao kỷ niệm thời thơ ấu tưởng đã chìm sâu trong tâm tưởng, bỗng sống dậy cuồn cuộn như sóng trào. Rời Huế từ năm ấy, Cọp chưa lần nào trở lại dù chỉ một lần để thăm viếng. Sài Gòn -Huế nào có bao xa mà như vĩnh quyết. Huống chi bây giờ thêm cả một đại dương!
Hương Trà, cô tiểu thư, người bạn nhỏ thuở xưa. Cô đã sống ra sao trong suốt thời gian qua với chiếc nạng gỗ cay nghiệt đó!
Cọp cúi đầu.
“Lạy trời cho nàng một cuộc sống bình yên”

ThaiNC




ĐÒ XƯA

ĐÒ XƯA

Truyện Ngắn Thai NC

-Thằng đang bơi, qua bên ni chị nhờ chút.
Đang bơi thỏa thê trên sông, Cọp nghe tiếng gọi từ con đò đang đậu gần đó và thấy chị Lành đang đứng đầu mủi đưa tay ngoắc.
Cọp biết đây là đò bán chè của chị Hiền và chị Lành. Hai người tuy ở chung đò nhưng không phải là chị em vì rất khác nhau. Chị Hiền lớn hơn chị Lành vài tuổi, cao và có nước da ngăm ngăm, giọng chị mang âm hưởng Quảng Nam, trong khi chị Lành thấp và trắng hơn, nói đặc giọng Huế.

Lý do nào hai cô gái không phải chị em thân thuộc, không cùng quê quán lại cùng chung sống trên một chiếc đò thì Cọp không biết, và không cần biết. Cọp chỉ biết rằng mấy tháng trước hai chị cùng chèo đò tới cập bến tại đây để bảng bán chè. Ban ngày hai chị chèo đò bán dạo ở đâu không biết, chiều thường trở về bến ở xóm Chùa Bà nhà Cọp nấu cơm ăn, giặt giủ. Tối đến hai chị lại chèo đi bán chè dạo trên sông.
Cọp biết tên chị Hiền chị Lành vì thỉnh thoảng nghe người ta gọi chè hai chị từ trên bờ, nhưng họ không biết Cọp là ai. Buổi chiều Cọp thường ra bơi sông gần chỗ hai chị neo đò. Cọp chưa bao giờ mua chè chị Hiền chị Lành nên chưa quen nhau.

Cọp bơi lại gần và thấy chị Lành đang đứng kiển chân ở mủi đò cầm cái sào khá dài cố vớt cái quần đen đang dần trôi xa ra khỏi tầm với của chị. Quàn áo mấy chị giặt phơi bị gió thổi xuống sông đây. Không chần chờ, Cọp bơi qua lấy cái quần đưa lại. Chị Lành mừng quá rối rít:
-Cám ơn cu hí. Cu tên chi?
-Tên Cọp.
Chị Lành cười
-Ui cha tên chi mà dữ rứa ? Nhưng thấy cu hiền khô dễ thương ghê.
-Ai rứa ? Có tiếng chị Hiền từ bên trong
– Cái quần Mỹ Á mới may bị gió xuống sông may nhờ thằng cu ni bơi vớt lên chơ không là trôi mất rồi.
– May chưa tề ! Kêu hắn lên cho hắn chén chè.
-Ừ hí, em quên. Cu lên đò chị cho chè ăn nì. Cu chi? Cọp phải không? Cọp lên đây chị múc chè ăn. Không tính tiền mô.
Nghe nói được cho chè, Cọp thích lắm, nhưng đành chịu, nguợng nghịu lắc đầu.

Chị Lành hiểu ngay khi nhìn Cọp qua dòng nước, cười nói vào bên trong
-Hắn lên không được mô Hiền ơi. Hắn đang bơi ở lổ. Hắn dị, hí hí!
-Bày đặt. Con nít con neo ai thèm dòm mà dị !
Chè thì thích thiệt, nhưng làm sao dám tồng ngồng lên gặp hai chị. Nó quảy mình bơi lẹ ra sông, và nghe tiếng chị Lành vói theo
-Ngày mai Cu mặc quần rồi lên đò chị ăn chè nghe.
***

Hôm sau Cọp đã chuẩn bị nên bơi… có mặc quần đàng hoàng và lên đò chị Hiền chị Lành làm một bụng chè thỏa thê.
Kể từ hôm đó Cọp đã quen thân với cả hai chị. Không cần vớt quần vớt áo chi cả, Cọp khi nào cũng được ăn chè không tốn tiền. Không phải chỉ chè mà thôi. Chị Hiền chị Lành thỉnh thoảng kêu bún bò hay cơm Hến vô ăn cũng đều để dành cho Cọp một tô…

Một bữa Cọp bơi đến con đò và thấy chị Lành ngồi một mình thọc hai chân xuống nước. Cọp mon men bơi lại nhưng không leo lên đò như mọi khi mà chỉ đứng dưới.
Đang nói chuyện Cọp để ý chị Lành xắn chiếc quần đen đang mặc lên tới tận đầu gối, thòng cả hai cái chân xuống đong đưa vọc nước. Cọp cứ nhìn sửng đôi chân đến nổi chị Lành ngạc nhiên hỏi
-Mi nhìn chi dưới nước?

Cọp bẽn lẽn nói nó nhìn hai cái chưn chị đong đưa như vậy giống như hai con cá đang lượn đùa nhau.
-Hi hi, chị Lành cười. Thằng ni tưởng tượng ghê hí. Ừ, chừ cho hai con cá bơi đua nghe.

Nói xong, chị phát ra miệng mấy tiếng kêu “ ron-ron- ron…” như tiếng xe máy đang rú ga. Bên dưới chị dùng chưn trái lượn qua qua lượn lại rất lã lướt. Chưn phải cũng lượn rượt theo liền phiá sau. Hết bên trái tới bên phải, cứ như vậy chị cho hai con cá đuổi nhau thật sôi động. Thỉnh thoảng một con hứng chí bay lên khỏi mặt nước, con kia cũng bay theo lên liền không chịu kém.

Thằng Cọp thích quá hò reo hưởng ứng. Chị Lành nghĩ ra trò đua cá thiệt hấp dẫn.
Bỗng nhiên chị Lành cho con cá chưn trái chậm lại để cá chưn phải bắt kịp. Chị xoè ngón chân cái và ngón trỏ ngoạm một cái ngay gót chân, rồi la lên
-Bắt được mi rồi. Bắt được mi rồi…
Xong chị lấy ngón chưn cái của con cá sau ịn một cái vô con cá trước và nói tiếp:
-Bắt được rồi cho hun một cái.
Thằng Cọp cười ngặt nghẻo nhìn chị Lành đạo diễn màn đua cá, nhất là màn cuối bắt được rồi cho hun một cái.
Chị Lành nhìn Cọp nói
-Chừ tau với mi chơi. Tau bơi, còn mi đuổi theo nghe chưa. Cho mi dùng tay làm cá đó.

Cọp chịu. Chị Lành co một chưa lên bờ, chưa kia vẫn để dưới nước và bắt đầu rà tới rà lui.Miệng chị vẫn “ron – ron- ron” rú ga giống như hồi nãy đầy vẻ thách thức. Cọp đâu chịu kém. Nó cũng “ ron- ron-ron” rú ga giống như chị Lành, và nhanh như chớp bất thần cả hai tay chụp xuống dưới nước. Chưa kịp chuẩn bị và không ngờ Cọp mới chịu là …làm liền, nên con cá Lành bị chụp cứng ngắt không kịp phản ứng.

Chị la bai bải
– Ăn gian.! Thằng ni ăn gian. Tau chưa chuẩn bị. Mà mi không được dùng hai tay. Tau một con mi cũng một con thôi. Chừ bắt đầu lại .
Trò chơi lại bắt đầu. Lần này chị Lành đã chuẩn bị, và Cọp chỉ được dùng một tay nên cuộc đua sôi nổi hào hứng hơn. Mỗi lần Cọp chụp hụt là chị Lành lại cười ré lên khoái chí. Nhưng sau nhiều lần chỉ vồ nước sông, Cọp đã nghĩ ra cách chụp cá. Nó không nhắm bàn chưn chị Lành nữa mà nhè ngay… đầu gối chị để chụp. Chỗ này thì dính chắc vì chị đâu có di động được. Từ đầu gối, mặc cho chị Lành vung vẩy dữ dội Cọp vẫn cứ bám lấy và lần mò theo bắp chưn của chị xuống phía dưới cho đến khi nắm được bàn chưn con cá Lành là chị hết đường cục cựa. Chị Lành cười nắc nẻ.
-Mi chơi ăn gian, nhưng mà thôi, cho mi thắng đó. Chừ bắt được rồi cũng hun một cái.

Cọp đang ngơ ngác, chị Lành co chân lên khỏi mặt nước lúc lắc ngón chân cái. Hiểu ý, Cọp bắt chước như hồi nãy dùng ngón tay ịn vô chưn của chị để …hun một cái. Cả hai cười như nắc nẻ khoái chí.
Đang cười, chị Lành bỗng ngưng lại,nhìn Cọp hỏi
-Mi thấy chưn tau đẹp không?
Nói xong chị đưa cái chưn tới sát ngay mặt. Như phản xạ tự nhiên, Cọp dùng cả hai tay bưng chưn chị Lành rồi ngơ ngẩn nhìn. Một tay Cọp đỡ ngay gót, tay kia vân vê những ngón chưn. Cọp nhận ra chưn của chị Lành trắng phau phau. Bàn chưn của chị nhỏ nhắn nhưng đầy đặn không một sợi gân. Đẹp nhứt là năm ngón e ấp tụm lại với nhau chứ không xòe ra như cánh quạt của hầu hết những người khác mà Cọp thấy. Điều đặc biệt là gót chưn của chị tròn lẵn, không một vết nứt nẻ nào. Cọp chưa từng thấy ai có bàn chưn đẹp như ri.

Bỗng nhiên Cọp thấy thèm một cây cà-rem , cây cà rem đậu xanh Cọp thích nhứt, giữa buổi trưa hè… Nó đau đáu nhìn những giọt nước từ bàn chưn chị Lành tụ lại ở đầu ngón và rơi xuống sông, tưởng tượng cây cà-rem …
Cọp thèm một cây cà rem chi lạ !
-Chưn tau đẹp không?
Tiếng chị Lành lặp lại. Cọp thẩn thờ gật đầu.
-Mi thích không?
Cọp lại gật đầu
-Thích thì…cho hun một cái đó.

Hồn vía Cọp lúc nầy như đã bị con Ma Hớp Hồn hớp mất, nó lấy ngón tay tính để ngón chưn của chị để hun như lúc nảy, nhưng chị Lành gạt ra và nói
-Không phải hun rứa. Hun thiệt. Hun bằng miệng.
Chị Lành nói xong đưa chưn tới sát ngay trước mặt Cọp.
Cây cà rem đậu xanh sữa nhúc nhích, nhúc nhích. Cọp nhìn chị Lành thấy chị vừa cười vừa gật gật đầu. Nó mân mê cái chưn trắng ngồn ngộn của chị Lành trong tay, rồi bỗng nhiên như có một sức mạnh nào thúc đẩy, nó đưa mũi tới sát và hít một hơi thiệt mạnh. Chưa bao giờ Cọp hít mạnh như vậy. Nó có cảm tưởng không phải chỉ bàn chưn, mà cả cái chưn của chị, cả người chị Lành, đang chui tọt vô mủi nó.

Không phải chỉ chị Lành.
Con đò,
Dòng sông,
Cả thế giới chung quanh như đều bị Cọp hít hết cả vào người. Chị Lành bật cười sằng sặc làm Cọp bừng tỉnh. Nó dị quá, thả vội cái chưn ra và quay mình chạy vô bờ.
– Chuyện chi rứa? Tiếng Hiền hỏi từ bên trong.
-Thằng Cọp chơ ai. Tui mới chọc chút mà hắn dị hắn chạy rồi.
-Con khỉ ! Hắn còn nhỏ, mi chọc chi rứa?
Tiếng chị Lành cười khanh khách phía sau….

***
Từ giả dòng Hương giang hiền hòa, Cọp rời Huế một sáng trời mưa bay bay, hành trang mang theo là những kỷ niệm.
Kỷ niệm một cái chưn trắng nỏn nà của cô gái bán chè trên sông Hương đã cho Cọp cái cảm giác rạo rực đầu tiên trong đời.
./.

Image may contain: night and outdoor



Lòng Mẹ Bao La

Lòng Mẹ Bao La – Nguyễn Văn Sâm

Thể chất tôi èo uột ngay từ lúc mới ra đời nên người nuôi rất cực khổ. Ba tôi mất sớm, gánh nặng đó chuyển lên vai của má. Tôi thường bị bịnh ban cua, lưi trắng, bên trong miệng lại có đẹn nên ăn gì cũng đau rát, không muốn nhai nuốt, thường phun nhả. Những ai trông coi thường đánh tôi vì chuyện đó, nhưng má tôi thì không bao giờ, bà xuýt xoa, dỗ dành, khuyên tôi cố gắng ăn uống. 

<!>

Tôi mới 4, 5 tuổi, chẳng hiểu gì nhiều nhưng cảm nhận những lời ngọt ngào và cử chỉ thương mến của bà, thích cái vỗ tay của bà khi tôi cố gắng nuốt nên khoái được má đút cơm. Bà kiên nhẫn, còn tôi thì gượng đau rát. Mỗi bữa cơm là một cực hình cho cả hai má con, tốn nhiều thời giờ ít ỏi của bà, nhưng tôi chưa bao giờ thấy bà bực mình vì chuyện đó.
Người ta nói tôi bị ban khỉ vì bịnh làm cho chưn tay tôi trở nên khẳng khiu và dài sọc, mặt mày ốm trơ xương, giống như mặt khỉ già.
Mỗi tuần hai ngày má cõng tôi trên lưng khom khom đứng đón xe ngựa đi lên nhà thuốc Ông Tạ để được bắt mạch hốt hai thang thuốc đem về. Xe ngựa chật, ngộp, bó rọ trong lòng má, tôi thường khóc giảy khiến bà phải dỗ dành và xoa xoa lưng tôi mới cảm thấy dễ chịu mà nín khóc. Xe ngựa ngừng ở ngoài đường lớn, má lại cỏng đi vô đường đất đỏ cả một đoạn dài, lắm khi trơn trợt sau cơn mưa. Nhiều lần bà té lên té xuống nhưng lúc nào tôi cũng cảm nhận là bà che chỡ cho tôi khỏi ướt, khỏi dơ còn bà sao cũng được, nhiều khi tới nơi rồi thì sình bùn đã hơi khô khô, dính vô cái áo túi của bà từng mảng, từng mảng. Trong khi chờ đợi được kêu tới số thẻ của mình, bà từ tốn lột quăng ra xa. Phòng chờ đợi quá đông nên nóng hầm, tôi thưng đòi chạy ra sân, nhưng má tôi sợ con té, lạc đường hay bị chó cắn, bà thường giằng lại trong lòng, cam chịu sự giảy dụa, bất bình của tôi. Lúc nhỏ mình chỉ biết làm cho đã nư, lớn nên nghĩ lại, nhớ ánh mắt thương mến của bà khi nhìn tôi mà cảm động và thương má muộn màng, nghĩ là có chết cũng chẳng đền bù được.
Vậy đó, tôi sống còn, tuy đau yếu, chậm lớn, nhỏ con, nhưng trong tim tôi chứa đầy ánh mắt bao dung và lòng thương mến bạt ngàn của má mà trời biển cũng còn nhỏ hơn. 
Còn nhớ năm đầu đi học lớp Năm, hầu như mỗi ngày đi học tôi đều khóc, và má phải cỏng tôi tới trường, đứng lúp ló ngoài cửa lớp hèn lâu rồi mới len lén đi về. Trưa tan trường, trống chưa đánh tôi đã thấy bóng dáng má tôi với cái nón lá và cái áo bà bà quen thuộc.
Lúc học năm thứ hai trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn thì ý định đi vào đường nghiên cứu văn học Việt Nam đã rõ nét sau khi đã sưu tập được một số tài liệu quan trọng cũng như đã khởi thảo được một vài tác giả cơ bản. Tất cả tư liệu và bản thảo đều được xếp vào một thùng giấy trước đây người ta dùng đựng sửa hộp, thời đó gọi đơn giản là thùng sửa, đêm đêm tôi lôi ra đọc đọc viết viết cần cù quên mệt mỏi. Má tôi học ít, chỉ đọc được chậm chạp những hàng chữ lớn trên báo hằng ngày mà thôi, thấy con mình quí thùng sửa giấy rách đó và say mê công việc nên bà thường yên lặng đặt kế bên con một ly nước trà đá chanh đường cũng như sẵn sàng xếp lại gọn gàng mỗi khi tôi bày binh bố trận.
Năm đó, khi đang ngồi ở Thư Viện Quốc Gia ở đường Gia Long học bài thì nghe tin lửa cháy bên kia Cầu Ông Lãnh, khu nhà tôi ở phía đó, xóm Vĩnh Hội. Tôi lật đật kiếm đường về mà không được, các cầu đi về hướng có đám cháy đều bị ngăn chặn, đò ngang cấm không được cặp bến để cho lính chửa lửa làm việc và nhân viên công lực ngăn ngừa trộm cắp.
Nóng ruột về tài liệu khó kiếm chắt mót bấy lâu nay, về quyển sách coi như đã hoàn thành được hơn một nữa, lòng tôi bồn chồn, lăng xăng lên xuống bên Bến Chương Dương ngó ngọn lữa mà thở dài, nhiều khi muốn cỗi áo lội qua sông nhưng thấy có nhiều nguy hiểm nên đành đứng trong đám đông bên nầy trơ mắt ngó.
Gần sáng, khi đám cháy tàn, tôi lò mò về khu nhà cũ. Mọi thứ đều hoang tàn, mấy cây dừa xưa lã ngọn nên thơ giờ chỉ còn trơ gốc đen xì giáp mép bùn khô, buồn bã. Cầu khỉ cầu ván đi vào hư vô, ao rạch cạn cùn phơi đáy trơ vơ những góc ván ngựa nám đen ai đó trong khi quính quáng đã chùi vội xuống nước. Tôi nôn nóng tìm má thì ít mà lo cho số phận thùng sách của mình thì nhiều. Biết bao nhiêu công trình tìm tòi và suy nghĩ. Biết bao nhiêu thời gian lục lọi nằn nì. Mất nó chắc tôi bỏ cuộc luôn chuyện viết lách mới nhen nhúm đầu đời.
Khi gặp má tôi đương ngồi đăm chiêu, mệt mõi, gương mặt lấm lem vài vệt lọ nghẹ, câu hỏi đầu tiên của thằng con là thùng sách của mình. Má tôi vui cười chỉ thùng báu vật của con mà bà đương ngồi trên đó, ý chừng để ngăn ngừa bọn hôi của đương hoành hành đâu đó. Tôi nhớ mình vì quá mừng, lính quính nên đã quên hỏi má về những vật dụng của riêng bà.
Gần mười năm sau quyển sách đầu đời của đứa con vô tâm được in thì má nó đã đi vào nơi hằng cữu một vài năm trước. Cầm quyển sách đầu tiên thơm mùi giấy mực tôi không vui mà chỉ buồn nhớ má, mắc cở  cho thái độ của mình ngày xảy ra đám cháy. Tôi nói thầm: Má ơi. Má viết quyển sách nầy chớ không phải con! Nếu má không cứu cái thùng sửa thì ngày nay đâu có sách.. Mỗi khi cầm sách nầy lên là con nhớ hình bóng má với ly nước trà đá chanh hay cử  chỉ  chịu đựng khi dọn dẹp tài liệu  bừa bãi của con ngày trước… Con cám ơn và xin lỗi má dầu muộn màng!
Vậy mà chẳng phải chỉ lỗi lầm đó với má tôi thôi, còn nhiều lỗi lầm khác nữa. Cũng dàng trời mây luôn. Chỉ xin đơn cử một trường hợp.
Từ khi cưới vợ và ra ở bên nhà vợ, tôi ít khi về thăm má mình. Vợ giàu không thích về thăm má chồng nghèo nên tôi chỉ về thăm má một mình, năm khi mười họa.
Một hôm rảnh rang, bỗng nhiên nhớ tới má, tôi lái xe hơi về xóm nhỏ thăm bà. Quẹo vô cái chợ chồm hổm tự phát đầu xóm tôi nhói tim khi thấy má ngồi trước cái ông lò than đỏ đương nướng trỡ  bánh tráng, bánh phồng. Dáng má khẳng khiu, ốm o, hốc hác. Tôi ngừng xe trước hai rỗ bánh đầy ấp của má. Má vội vã giải thích rằng bà kiếm thêm chút đỉnh, ngồi không chẳng ích gì. Đi bán cho vui, ở nhà tù túng thêm bịnh.
Tôi thương má gần như muốn khóc, năn nỉ bà về, bỏ hết ba cái thứ lỉnh kỉnh đó đi, má bán lời bao nhiêu một ngày, con sẽ đưa cho má tiền lời một lần bằng năm bảy tháng bán. Má nói bán lời chút nào hay chút nấy, tiền con để con xài. Năn nỉ hoài má cũng không chịu về, tôi đưa tay đè nhấn bể hết hai rỗ bánh tráng nướng của bà, tôi bắt gặp ánh mắt tiếc rẻ của bà mà xót ruột. Thấy chuyện dằn co, người bán hàng kế bên khuyên má tôi nên về và hứa sẽ đem thúng mũng lại nhà chiều nay. Má tôi về nhưng nhứt định không lên xe hơi. Bà quơ cái khăn rằn choàn lên đầu, trước khi bước đi không quên ngó ngoái lại lò than nướng bánh tráng của mình.
Má tôi vậy đó, không bao giờ đi xe hơi của con, dầu tôi năn nỉ bao nhiêu cũng vậy thôi, nhiều lắm bà chỉ rờ rờ khen xe đẹp mà từ chối lên xe với lý do đi không quen, chóng mặt, khó chịu, nếu đi rồi sẽ nhức đầu cả buổi…
Bữa đó tôi ở nhà má, được ăn bánh tráng nướng, bánh phồng kẹo, những món tôi rất thích khi còn nhỏ mà nước mắt rưng rưng. Tôi đã bỏ bê má mình để chạy theo những công danh phù phiếm bấy lâu nay. Tôi hứa với lòng là sẽ thăm viếng má nhiều hơn. Tôi móc đưa bà tất cả số tiền có trong túi như nhiều lần trước. Má nhận với gương mặt thoáng ưu tư, ngần ngừ, không cười cười như những lần trước.
Nhưng rồi tôi không có dịp thăm viếng má nhiều, má mất sau đó ít lâu. Anh Hai đưa tôi một gói giấy dầu cuộn tròn, mở ra mới thấy từng xấp từng xấp tiền, vẫn còn y nguyên như những lúc tôi đưa cho má mình trước đây. Phía dưới cùng của xấp tiền có tờ giấy xé ra từ tập học trò, chữ rất xấu của má: trịnh má thương con nhiều con không có lỗi gì với má hết. Má tôi viết không chấm, không phết, không viết hoa, chẳng ngay hàng nhưng tôi đọc được trong đó lòng bao la của má tôi, giờ đây kể lại chuyện nầy mà tôi vẫn còn muốn khóc.
Chuyện đời đưa đẩy, tôi vào quân đội, vô Sư Đoàn 7 Bộ Binh, mỗi khi hành quân tôi đều vái van má tôi trước, coi như vị Bồ Tát bổn mạng của tôi. Người ta kẻ đeo bùa cà tha, kẻ mang nanh heo rừng hay ngậm răng cọp, tôi thì mang hình ảnh má mình trong tim với lời xin lỗi muộn màng. Vậy mà đạn tránh tôi nhiều lần, lúc thì trợt trên nón sắt, lúc thì tránh trái tim, chỉ xuyên qua bả vai. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Chuyện lớn là chuyện lúc tôi linh đinh trên biển mới đáng nói.
Cho nghỉ uống miếng nước thấm giọng nghen! Nói nhiều khô cổ quá! Nhỏ tới giờ mang hình ảnh mẹ trong lòng, hôm nay xin cám ơn Dì Chưởng với Chú Hoạt đã cho tôi có dịp nói lên lòng mình. Nói mà tôi cảm thấy bóng dáng má thấp thoáng trước mặt. Nhiều khi tôi ước ao, dầu thấy rằng vô lý, là phải chi mỗi người có cả chục người má, mới thỏa được cái tình má con. Nói tóm lại, tôi thèm tình mẹ, cho đến ngày nay dầu đầu bạc cổ lai hy, tôi vẫn không hiểu hết chiều sâu trong trái tim của Mẹ.
Trở về chuyện vượt biên.
Năm nào đó tôi được biệt phái về lại nhiệm sở cũ là Trường Trung học nhỏ trong quận Cần Đước. Má tôi quá vảng cũng đâu được mấy năm rồi. Dạy học thì cũng thường thôi, vai trò của thầy giáo dạy Việt Văn tôi làm nhiệm vụ chuyển tải những kiến thức văn học trung thực cho học sinh chẳng liên quan vì đến chánh trị đương thời. Sau biến cố 75 thì tôi bị cho ra ngoài biên chế, không được lưu dụng vì môn dạy của mình. Giữa một đất nước mọi thứ trao đổi kinh tế đều bị cấm đoán, không việc làm có nghĩa là thiếu thốn cùng cực và bị dòm ngó nặng nề. Chứng kiến thêm những bất công hằng ngày chung quanh, tôi phải bỏ đi thôi nếu không thì có ngày mang khổ lụy vì phản ứng trước những bất công.
Và tôi vượt biên. Bốn ngày linh đinh trên biển, một đêm kia trong khi phần đông khách đi tàu đương ngồi ngủ chồm hổm dưới khoang tàu tối đen như mực thì một đóm lửa của cụm nhang do chủ tàu chuyền tay cho khách với giọng ai đó vừa ai oán vừa chịu đựng:
“Bà con cầm một cây nhang cho gia đình mình, còn bao nhiêu chuyển cho người kế bên nha. Ai đạo Phật thì cầu Phật Bà, ai đạo Chúa thì cầu Đức Mẹ, tàu mình bị vô nước, tối quá không thấy chỗ lủng. Tàu sẽ chìm trong vài giờ nữa…”
Có tiếng ai đó nhẹ nhàng nhưng trong hoàn cảnh nầy nghe hơi bi hài:
“Còn tôi đạo Cao Đài thì sao?”
“Thì vái Phật Mẫu!” Tôi vẫn không biết tại sao mình buột miệng mau như vậy. Lại còn nói thêm: “Tên gọi thế nào thì  cũng chỉ là một thôi, cũng là tạo thành bằng yếu tố Tử Bi. Từ Bi mà, bà con biết đó!”
Tôi tiếp nhận cụm nhang, lấy riêng cho mình một cây, trao cho vợ một cây, còn bao nhiêu đưa cho người ngồi kế bên. Nước lên ướt đít lạnh lạnh. Tôi vái Phật Bà, tôi van vong hồn má tôi cho chúng tôi người lớn chết hết cũng được, không ân hận gì, nhưng các con tôi và tất cả con nít khác trên tàu xin được cứu sống, chúng vô tội, chưa từng hưởng điều sung sướng nào trên cỏi đời nầy. Nước từ từ ngập tới háng, tôi cố gắng ngồi nhón chưn cho thân mình cao hơn, buồn ngủ quá, tôi thiêm thiếp trong mơ màng.
Thời gian trôi qua, trong đêm tĩnh lặng chỉ có tiếng gió biển rít trong không gian, tới một lúc tôi nghe văng vẳng chủ tàu nói  mơ hồ là tìm được lổ lủng rồi, yêu cầu bà con có áo quần dư chuyển sang phía bánh lái tàu để bịt lổ. Tôi không còn sức để mở mắt, mà dầu có mở lớn mắt cũng không thấy gì, hầm tàu tối đen như đêm ba mươi, thỉnh thoảng cảm thấy ai đó chuyển quần áo đụng vô mặt mình hôi hám dơ dáy. Trong mơ hồ tôi thấy hình ảnh Đức Phật Bà Quán Thế Âm và gương mặt vui vui của má tôi. Ánh mắt hai người đều hiền từ. Rồi giống như trong kỷ thuật điện ảnh, hình ảnh hai bà từ từ chồng khít lên nhau để rồi cũng một bức hình đó khi thì hiện lên má tôi, khi thì hiện lên đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tôi hứa với lòng là sẽ thờ Phật Bà khi sống sót, lập một cái trang thờ mẹ và kỵ giỗ long trọng hằng năm. Vậy mà suốt thời gian hơn hai mươi năm sống ở đây tôi mãi chạy theo công ăn việc làm lại không làm được cái trang thờ dầu chỉ là một tấm ván nhỏ đóng lên tường có dựng hình mẹ và một lư hương. 
Đứa con trai tôi mua nhà trước khi cưới vợ, hôm đám cưới nó dọn hình ảnh ba má tôi lên chừng độ hơn hai giờ đồng hồ rồi ngay sau khi đàng gái vừa ra về khỏi cửa nó với vợ mới cưới liền đem hình ông bà nội xuống. Nhà là nhà của nó, tôi không thể mở miệng nêu ý kiến gì, nói ra thêm dư lời mà chắc chắn không kết quả. Chúng sẽ xúm lại công kích tôi vụ hình thức, tôi còn quá Việt Nam nên chú ý tới chuyện nhỏ mọn, chuyện tào lao. Nhà của tôi còn bị chê bày biện sao nhà quê giống Việt Nam ruộng, huống chi nhà nó. Tôi chiêm bao thấy má mình nhiều lần nhưng chưa lần nào nghe má tôi nhắc đến lời tôi hứa lập trang thờ.
Khi vô sống ở nhà Dưỡng Lão nầy, ngồi buồn tôi nhớ hình ảnh chồng lấp của má và Đức Quán Thế Âm, tôi nghiệm ra rằng má ta là Đức Bồ Tát của ta, là sự Từ Bi rót lên đời ta ngay từ lúc mới sơ sanh để ta sống sót. Phật Bà nói chung là má của tất cả mọi người. Má của người nào là Phật Bà mà chỉ có đứa con mới cảm nhận được thôi.
Gần đất xa trời tôi mới cảm nghiệm được chơn lý đơn giản nầy. Tiếc quá!
Tiếc nhưng biết làm sao hơn, nhân loại sanh ra để va vướng vào những mê lầm muôn thuở mà dầu ta có học xong bài học và được phép mầu làm cho trẻ lại nhiều lần đi nữa thì cũng mắc mê lầm lại y chang như cũ, cũng hờ hững và không thấu được lòng mẹ bao la…..



Phan Thanh Tâm : Về Việt Nam – Về Mỹ ?

Ngoảnh mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa, Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi và Cứ tự mình dán băng keo vào miệng / Yêu tổ Quốc chỉ còn nghe ú ớ. Có thật vậy không? Kỳ này, mắt thấy tai nghe mong sẽ biết VN nhiều hơn là qua thế giới ảo. Nhờ bạn bè, bà con xa gần, tôi đã thực hiện một chuyến đi ta ba lô thích thú viếng Hà nội, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Qui Nhơn, Vũng Tàu, Bến Tre.

Về Việt Nam – Về Mỹ ?

Phan Thanh Tâm

 

Gềnh Ráng – Quy Nhơn 12/12

Đi với Về cũng một nghĩa như nhau?(1) Không. Đi là di chuyển đến một nơi khác Về là trở lại chốn cũ, nơi mình có nhiều quan hệ. Một người Mỹ gốc Việt có hai nơi để về. Về Việt Nam thăm mồ mả cha ông, gặp lại người thân, nhìn lại đường xưa lối cũ; con đò, bờ sông, nón lá, mấy nhịp cầu tre, con trâu, cái cò, núi đồi, đồng ruộng; được ăn những món đặc sản ngay tại địa phương; được hít thở không khí quê nhà và được nghe những âm thanh quen thuộc. Nhưng rồi phải quay về Mỹ. There’s no place like home. Our home is where our heart is. Không đâu bằng mái ấm gia đình. Nơi này có công ăn việc làm, có tự do. Tôi có thể nói những gì tôi muốn nói; làm những gì tôi muốn làm.

Hồi cuối năm 2011 tôi đã về VN một tháng. Bay trên mây, nhìn trời xanh, tôi nghĩ đến mấy câu thơ trên mạng của Bùi Minh Quốc và Thanh Thảo mô tả VN ngày nay: Ngoảnh mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa, Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi và Cứ tự mình dán băng keo vào miệng / Yêu tổ Quốc chỉ còn nghe ú ớ. Có thật vậy không? Kỳ này, mắt thấy tai nghe mong sẽ biết VN nhiều hơn là qua thế giới ảo. Nhờ bạn bè, bà conxa gần, tôi đã thực hiện một chuyến đi ta ba lô thích thú viếng Hà nội, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Qui Nhơn, Vũng Tàu, Bến Tre. Tôi cũng đã cùng với gia đình Đỗ Lê Minh, hiện dạy toán ở Đại Học UCLA (University of California, Los Angeles), theo tour viếng Đế Thiên Đế Thích, một kỳ quan thế giới ở Siem Reap thuộc Campuchia trong ba ngày.

Đây là lần thứ hai về VN vì lý do gia đình. Lần thứ nhất cuối năm 2006. Sau 1975 tôi đành phải rời xa đất nước vì sống không nổi dưới chế độ độc tài toàn trị dù tôi đã yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời. Lúc bấy giờ hầu như dân miền Nam đều muốn bỏ xứ ra đi. Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) là thực dân thứ thiệt; rất giỏi trong việc bóc lột, dối trá, bưng bít và còn ngụy biện bằng khẩu hiệu yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa. Tôi đã vượt biên trong một đêm không trăng sao tối đen như mực. Trên ghe 13 người kể cả một bé nhỏ sáu tháng. Sao lại có người gan liều bồng con trôi giạt một tháng như vậy? Theo nhà văn Phạm Phú Minh các bà mẹ Việt Nam đánh hơi thấy nếu không ra đi thì con mình sẽ bị suy tàn về thể chất, dốt nát về trí tuệ và thui chột về đạo đức.

Phần lớn thời gian về VN tôi ở Saigon. Trước 1975 đây là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) giờ có tên mới viết là TP (thành phố hay tội phạm?) Hồ Chí Minh, thay đổi rất nhiều. Quận nào cũng có xây cất nhưng không được qui hoạch đàng hoàng. Mạnh ai nấy làm, kiểu cách, cao thấp, trồi sụt bất thường. Chỉ có khu bên kia sông là khá qui củ. Sau chầu cà phê với Thân Trọng Minh ở Chợ Lớn tôi theo Vũ Thị Ái đồngnghiệp trước 1975 đến Việt Tấn Xã, sở cũ cạnh Dinh Độc Lập. Chúng tôi đi bộ, ra vẻ thăm dân cho biết sự tình. Tôi như lạc vào chỗ lạ. Không hình dung ra nơi chốn vì mặt tiền mấy nơi đi qua khác hẳn, không còn nhận ra đường nào với đường nào. Buổi trưa trời nắng, nóng nực quá chừng. Saigon bị lây Hà nội rồi. Thành phố không có vỉa hè.

Hồn Việt Nam Cộng Hoà và Phạm Duy

Ngồi bệt ở một cái sạp bán nước bên vệ đường, tôi uống hai trái dừa xiêm, no cành hông, thiệt đã. Vô tình thấy tờ Saigon Giải Phóng, có bài Dành Vỉa Hè Cho Người Đi Bộ trong mục Sự Kiện Vấn Đề của tác giả Phạm Phương Thảo. Đi bộ khó thật vì không phải vỉa hè nào cũng có chỗ đi, có khi phải đi xuống lòng đường và việc đi bộ còn gặp khó bởi không ít vỉa hè dùng vào việc buôn bán, đậu xe. Xe gắn máy cứ lách lên vỉa hè mà chạy. Việc đi bộ qua các ngã tư không dễ dàng cho dù có đèn xanh, đèn đỏ. Mặt khác bộ mặt của vỉa hè có nơi vẫn còn tình trạng tiểu tiện bừa bãi. Nhìn dòng xe chạy chen lấn, len lách tôi thấy dường như ai cũng nghĩ mạnh ai nấy đi. Qua đường là một thửthách. Hà nội cũng y như vậy. Kinh khủng. Terrible. Chữ của một người ngoại quốc nói với tôi và cũng của một người bạn ở Hà nội khi cùng đi qua đường.

Dấu vết Saigon xưa chỉ còn lại chợ Bến Thành, đường Nguyễn Huệ, Lê Lợi. Chính quyền mới muốn xóa mọi hình ảnh cũ. Sinh hoạt thời VNCH làm họ bực tức, khiến chữ giải phóng mất ý nghĩa, biến thành phỏng dái. Nhưng hồn VNCH vẫn còn trong lối sống, vương vọng qua mấy bản nhạc trên xe taxi, ở quán đầu hẻm, trong nhà từ nam chí bắc; và ngay cả thủ đô Hà Nội, cái nôi xã hội chủ nghĩa VN. Nhà hát Lớn Hà Nội đã bị làn sóng nhạc “sến” tấn công. Tuấn Vũ chiếm lĩnh hàng chục đêm, rồi các live show của Quang Lê, Mai Quốc Huy (được xem là “truyền nhân” của vua nhạc sến Chế Linh)…gần đây nhất là ca sĩ Thanh Tuyền. Nếu không có những rắc rối trong tổ chức, vua nhạc sến Chế Linh cũng đã cất cao giọng hát tại lâu đài âm nhạc giữa thủ đô. Một tờ báo ở VN đã viết như vậy.

Tại sao có hiện tượng đó? Nhạc cách mạng vừa dở vừa lỗi thời không ai muốn nghe nữa. Tác giả Phan văn Minh trong bài “Đừng Làm vấy bẩn ca từ tiếng Việt” trên Hồn Việt ngày 28/12/11 viết, lời ca một số bản nhạc mới là một sự kém cỏi về văn hóa, trí tuệ; một sự phỉ báng đối với ngôn ngữ mẹ đẻ. Về chuyện Chế Linh bị hủy không cho trình diễn tiếp, theo nhạc sĩ Phạm Duy, họ làm ầm ĩ quá. Khiêm tốn thì được.
Phạm Duy có vẻ không được khỏe lắm, cho biết, những buổi trình diễn của ông rất thành công. Ghé thăm ông tại nhà ở Phú Thọ, nhạc sĩ có cả ngàn bài ca nói, trở về VN là đúng với luật tự nhiện: lá rụng về cội. Ông muốn khi mất sẽ mất ở Saigon. Sau đó, các con sẽ dời mộ bà Thái Hằng về luôn. Giờ không còn sức ngồi máy bay gần 20 tiếng trở qua Mỹ.

Cuộc sống hiện nay thế nào? Nhạc sĩ Phạm Duy cười trả lời, rất thoải mái. Lẽ dĩ nhiên phải có tiền và mũ nỉ che tai. Câu nói của nhạc sĩ 90 tuổi cũng là triết lý sống của nhiều người trong nước. Có đủ tiền chi tiêu; không nghe, không thấy, không bàn về bất kỳ điều gì coi là nhạy cảm có hại đến chế độ. Nhưng Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, một trong những người chủ trương trang mạng Bauxite VN, nói với đài BBC hồi cuối năm rằng nhà cầm quyền đã đối xử với 85 triệu dân như những con bò. Có lẽ vì vậy, khi một số khoa bảng VN được nhà nước đãi ngộ hơn kẻ khác, đươc trao hoa, cho quà, ban chức, phong tước, họ mừng rơn về hùa với chế độ; thay vì phẫn nộ, đòi hỏi công bằng, công lý, cho những người bị phân biệt đối xử, bị nhiều thiệt thòi.

Ngoài ra, để định hướng dư luận, đảng CSVN quyết nắm chặt các phương tiện truyền thông. Tất cả báo chí đều một giọng, một điệu. Coi văn nghệ sĩ như tôi tớ, gọi dạ, bảo vâng. Lâu lâu xoa đầu khen thưởng hay rầy la. Ký giả Đoan Trang trong bài Giọt Nước Mắt Của Lề Phải viết trên mạng, dưới chế độ Cộng Sản nhà báo không khác gì con chó; bảo sủa thì sủa; bảo im thì im. Nhìn chung, có vẻ đảng CSVN thành công trong việc thuần hóa đám đông. Công an có mặt khắp nơi. Con đường tiến thân là nhớ lời Bác. Qua báo chí thấy một xã hội ổn định. Muốn vào Internet, cửa sổ nhìn ra thế giới bên ngoài phải vượt tường lửa. Chỉ người nào muốn hiểu biết, có phương tiện mới tiếp cận được với nhiều nguồn tin khác nhau.

Ngô Công Đức Tự Bạch: Hối Hận

Trước khi cái thiện thắng cái ác của thời bao cấp, tức trước khi đổi mới trở về cái cũ hồi cuối thập niên 80, con đường tương lai là đi ra biển. Thời này khác, thay vì vượt biên, cha mẹ cho con du học hay  theo học trường ngoại trong nước. Nền giáo dục VN hỏng lâu rồi. Nhưng thay đổi thế nào? Bỏ bác, bỏ đảng, bỏ mác, bỏ lê? Hồi xưa ra ngõ gặpanh hùng bị gạt. Ngày nay, ra ngõ gặp tiến sĩ giấy, quán cà phê hay trẻ em lang thang bán vé số, đánh giày. Báo Tuổi trẻ (3/12/11) cho biết, theo Nhóm Young Lives (Những cuộc đời trẻ thơ), một chương trình nghiên cứu quốc tế thì có 1,2 triệu trẻ em không đến trường; còn Bộ Giáo Dục Đào Tạo thì chỉ có 200,000 thôi; nhưng cả hai đều đồng ý nguyên nhân chính là vì chán học và kinh tế khó khăn.

Ngô Công Đức (1936 – 2007), dân biểu đối lập thời VNCH, một nhà báo tên tuổi, sáng lập tờ Tin Sáng trước và sau 1975, rồi bị CSVN dẹp luôn năm 1981, trong cuốn Tự Bạch, phổ biến hạn chế viết, Tôi là người ủng hộ Cách Mạng, cảm thấy đau lòng và hối hận trước cảnh khốn khổ của người dân. Quan liêu, tham nhũng, hà hiếp dân có hệ thống mà người ta đổ lỗi cho cơ chế, đã gây tủi hổ cho những ngưòi Cộng Sản chân chính, và tôi cũng hổ thẹn lây vì từng đứng bên cạnh họ. Hai chữ Anh Hùng đã bị bôi bẩn. Thống nhất là một may mắn lớn. Rồi Miền Nam phải rước lấy một chế độ đã từng được áp đặt bao nhiêu thập niên ở miền Bắc, gây nhiều chết chóc đau thương oan uổng, gây nghi kỵ gian dối, gây nghèo đói giữa một dân tộc thông minh và cần cù.

Tập Tự Bạch 16 trang viết xong ngày 21/11/2006 thố lộ thêm, Nếu không thống nhất đất nước ai quả quyết được miền Bắc không giống như CHDCND Triều Tiên. Người Cộng Sản được sống ở miền Nam đã làm thay đổi suy nghĩ của Đảng Cộng Sản. Công cuộc đổi mới đất nước chính là cuộc giải  phóng miền Bắc khỏi một chế độ đã thất bại từ trước và đưa miền Nam về dần với tính năng động đã có trước đây ở miền Nam. Kết quả hôm nay có được sự đổi mới này, chính là nhờ sực đấu tranh của nhân dân cả hai miền. Đức độ của Hồ Chủ Tịch sao không dạy được cấp dưới noi theo? Hôm nay được nghe lời kêu gọi đoàn kết – hòa hợp. Nhưng đoàn kết hòa hợp thật hay chỉ là sự tiếp nối của lời kêu gọi thiếu lòng thành trong 30 năm qua. Để rồi phải tiếp tục kêu gọi đoàn kết? Ngoài tập này, tác giả còn có Cuốn Hồi Ký, chưa ấn hành.

Đến Hànội mà không ngồi ở Hồ Hoàn Kiếm và Hồ Tây là một thiếu sót. Nhìn mặt hồ gợn sóng lăn tăn, in bóng hàng liễu rũ cho ta cái thú của một kẻ nhàn du, tha hồ mơ xa rồi lại nghĩ gần. Thủ đô có hai cái đẹp: mấy viên ngọc bích thủy thiên nhiên, in bóng trời xanh mây trắng và buồng phổi của 36 phố phường, mấy hàng cây cổ đại cành lá xum xuê, phủ mát lòng đường. Hồi niên thiếu, tôi thấy Hà nội lãng mạn trong Tự Lực Văn Đoàn, trong các lời ca của các nhạc sĩ năm 54; rồi thấy Hà nội nghèo khổ, thiếu thốn thời bao cấp qua lời kể của người được ra Bắc sau 75 trong đó có nhà tôi; và Hà nội ngày nay, ầm ầm, ào ào, lúc nào cũng chộn rộn. Hai bản nhạc hay về Thăng Long là Giấc Mơ Hồi Hương của Vũ Thành và Mùa Thu Hà nội của Trịnh Công Sơn.

Một cái thú khác khi viếng Thủ đô, có hơn 1,000 năm lịch sử, khai sinh từ vua Lý Thái Tổ (1009-1028), là bước vào những tiệm ăn uống xưa cũ, bình dân để biết thêm về văn hóa ẩm thực vùng này. Một người quen, anh B. dân Hànội đưa tôi vào quán Cà phê Lâm, ở phố cổ. Thời bao cấp khách hàng quen thuộc của quán là văn nghệ sĩ Hà Thành. Cà phê đen đặc quánh nổi tiếng từ thập niên 50. Ngồi trên ghế gỗ thấp, tôi hình dung sinh hoạt tiệm; nơi treo nhiều tranh cũ từ nửa thế kỷ trước mà tác giả là những họa sĩ đã để lại vì ghiền mùi cà phê của ông. Tôi cũng đã được ăn phở ở phố cổ vừa rẻ, vừa ăn được, hơn hẳn phở trong khách sạn năm sao ngay tại Hà nội; giá 10$ US một tô. Khunày lúc nào cũng tấp nập từ sáng tinh mơ cho đến quá nửa đêm.

Võ khí mềm: hộ khẩu và cái loa

Sau ngày 30/4/75, Hà nôi là trung tâm quyền lực của cả nước. Phía thắng ai cũng nôn nao muốn vào Nam để nhận hàng khi thấy từng đoàn xe đầy ắp chiến lợi phẩm chở về Bắc. Trong khi đó, dân miền bại trận muốn được yên thân tìm người để nhận họ hay âm thầm nhào ra biển.
Nhằm củng cố việc cai trị, CSVN đem vào hai võ khí mềm: giấy hộ khẩu và loa phóng thanh, gắn khắp phường khóm. Giấy hộ khẩu chủ yếu nắm bao tử. Loa phóng thanh định hướng dư luận. Nó còn dùng để phá đạo.
Nhớ lại, khi viếng chùa Thiên Mụ ngắm cảnh, tìm sự yên tịnh hay tiếng chuông ngân, tôi bị sốc khi nghe từ trong xóm cái giọng Huế nặng nói về công ơn của Bác Đảng. Lải nhải cả ngày kiểu này, Chúa Phật chắc cũng bỏ chùa, bỏ nhà thờ mà chạy huống chi người phàm.

Rời Hà nội, tôi về miền trung đến Huế qua ngõ sân bay Phú Bài. Phi trường này chẳng được sửa sang gì hơn với thời VNCH. Trong ba ngày ở cố đô, tôi đã có dip thả bộ qua lại nhiều lần hai cầu An Cựu, nơi mà dòng sông nắng thì đục, mưa thì trong và cầu Trường Tiền, sáu vài 12 nhịp. Bao nhiêu nước chảy qua cầu từ dạo ấy mà Huế vẫn vậy, ít thay đổi. Cảnh cũ, đường xưa không khác bao nhiêu. Chỉ có các món ăn là dở đi nhiều; còn đâu bánh khoái, bánh bèo, bánh nậm? Người Huế bỏ xứ đã mang theo hết cả nghệ thuật ẩm thực rồi sao? Sau khi thăm mồ mả bà con trong đó có mộ hai ông cố Phan Tôn, Phan Liêm mà chị Phan Thanh Gia Lai đã thêm chữ quốc ngữ trên hai bia xây từ cuối thế kỷ 18 toàn  chữ nho, tôi đã vào thăm trường Quốc Học.

Trường xưa nhưng bạn cũ đâu hết rồi? Đường đời vạn nẻo, ai còn ai mất? Nhìn dãy lớp thuở nào, tôi vừa thấy xa lạ vừa thấy thân thương; bồi hồi nhớ lại một thời đã qua. Ngồi lặng cả giờ ở một ghế đá trong sân trường, được thành lập ngày 23/10/1896 theo chỉ dụ của vua Thành Thái, giao cho ông Ngô Đình Khả làm trưởng giáo với tôn chỉ pháttriển giáo dục, đào tạo nhân tài; tôi ở trong trạng thái nhớ nhớ, buồn buồn khi nghĩ tơi một số bạn cùng lứa, cùng lớp và cùng bàn đã ngã xuống trong cuộc nội chiến: Huỳnh Sửa, Huỳnh Sảnh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Đức, Hồ Đắc Cung, Hồng Dũ Thiều… và gia đình Trần Như Thông, mất tích khi vượt biên. Tôi đã chán chường khi thấy tượng Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh cắp sách đi học, ngay chỗ cột cờ.

Tiến sĩ Sử Học Hoàng Ngọc Thành, cưụ học sinh Quốc Học, trong cuốn Công và Tội Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945-2006 Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam, in năm 2009 cho rằng, ông Hồ Chí Minh, đã đặt cái không tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa trên quyền lợi quốc gia hay lợi ích dân tộc. Ông Hồ Chí Minh có công rất lớn với Liên sô và Trung Cộng nhưng đối với dân tộc VN, ông và đảng cộng sản phạm tộiphản bội tức phản quốc. Cũng vẫn theo Giáo sư sử nhiều trường Đại học ở Saigon trước 75, thường các vụ thống nhất đất nước là có công, nhưng vụ thống nhất VN sau 18 năm chiến tranh 1957-1975 là có tội vì mục tiêu chính là phục vụ Liên Sô, Trung Cộng và vì ý thức hệ Cộng
Sản. Ông Hồ từng khoác lác, tôi dẫn năm châu tới đại đồng.

Một bạn cũng học ở Quốc học hiện ở Saigon nói quá nhục nhã khi tôi nhắc tới cái tượng và tấm bia ngay ở cổng vào ghi tên các công thần gộc của chế độ. Chế Lan Viên viết: MậuThân 2000 người xuống đồng bằng, chỉ một đêm còn sống có 30, ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó. Tôi! vì những câu thơ tôi làm người ấy xung phong. Năm 1999 Thứ Trưởng Bộ Thương Binh Xã hội Nguyễn văn Quảng cho Đài TruyềnHình Nhật NHK biết có 800,000 đồng chí hy sinh Tết đó. Đến nay, nhiều gia đình vẫn còn tìm kiếm hài cốt người thân. Hỏi ai? Hãy níu áo Võ Nguyên Giáp; ông tướng cầm quân như tay đánh bạc không bao giờ sợ hết tiền. Còn Phạm văn Đồng ký công hàm 14/9/58 về Hoàng Sa, Trường Sa khó thoát tội Việt gian rành rành.

Dẫn xe tăng CSBV ủi Dinh Độc Lập

Một kỷ niệm đáng nhớ là đã cùng đồng nghiệp thời VNCH, Nguyễn Vạn Hồng (NVH) đạp xe dọc bờ biển trên đường Hoàng Sa & Trường Sa, từ núi Sơn Trà đến Ngũ Hành Sơn, còn gọi là núi Non Nước. Tôi đạp lạng quạng không hiểu vì ngây ngất trước cảnh trời biển bao la với từng đợt sóng từ xa ùa vào bờ hay vì mùi muối mằn mặn trong không khí và cái lành lạnh ban mai? Làm sao có chuyện một phóng viên Việt Tấn Xã dẫn xe tăng CSBV ủi cổng dinh Độc Lập ngày 30/4/75? Theo NVH, trên đường về làng báo chí đón vợ con, khi đến cầu Thị Nghè thì gặp xe tăng tiến qua; nép vô lề. Vài anh bộ đội trên xe hỏi đường trong đó có sĩ quan Bùi Quang Thận, cầm súng lục bắt dẫn tới dinh Độc Lập. Tôi quay xe chạy trước. Họ theo sau đến cổng rồi ủi vào cửa sắt.

Sau 75, NVH nổi tiếng với bút hiệu Cung Văn, làm cho tờ Saigon Giải Phóng; hiện còn giữ cờ lệnh xe tăng của sĩ quan Thận. Người quen nói với tôi, vì thấy toàn là dối trá nên NVH bỏ về Đà nẵng, sống nhờ vợ.
Thành phố này rất phát triển. Chúng tôi viếng Đại Học Phan Châu Trinh, có 1200 sinh viên, lập năm 2007 ở Hội An, một thành phố cổ thu hút du khách nhờ Chùa Cầu, do người Nhật xây từ thế kỷ 17. Tôi gặp nhà văn Nguyên Ngọc, một giới chức của trường, đã có một buổi ăn trưa đáng nhớ bên dòng sông Thu Bồn: món đặc sản cá đối kho dưa gan. Theo nhà văn, cũng là cựu học sinh Quốc Học, cuộc chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc đẹp. Có lẽ nhờ vậy, Hoa Kỳ mới là cường quốc; mới là nơi tụ hội của nhiều nhân tài từ khắp năm châu.

 

Chùa Cầu, do người Nhật xây từ thế kỷ 17
Trước khi đưa ra ga xe lửa rời xứ Ngũ Phụng Tề Thi về Qui Nhơn, vợ chồng NVH đã đãi tôi một bữa ăn mì quảng lươn ngon lành. Dù rằng nhà thờ bên ngoại tộc Lê ở Hà nội và bên nội chánh quán ở Bến Tre, và chẳng có kỷ niệm gì về thành phố này, tôi vẫn về đây vì gia đình tôi và mồ mả cha mẹ chị em trước 1945 ở Bình Định. Dịp này, tôi đã không quên đến Ghềnh Ráng viếng Đồi Thi Nhân, nơi an nghỉ rất đẹp của Hàn Mặc Tử. Tuy mất lúc còn trẻ 28 tuổi năm 1940 vì bệnh cùi, ông hãy còn được giới văn nghệ nhắc đến: Đây Thôn Vỹ Dạ, Gái Quê.. Có hai con đường trong hai thành phố Qui Nhơn, nơi trưởng thành, và Đồng Hới – Quảng Bình, nơi sinh ra, mang tên thi sĩ của trăng. Phạm Duy và Trần Thiện Thanh đều có phổ nhạc thơ Hàn Mặc Tử.

Trong một tháng tôi đã đi từ Nam ra Bắc, rồi vào Trung, đã cùng chị Phan Thanh Gia Lai, thuộc nhánh Phan Liêm đi Bến Tre thăm mộ Phan Thanh Giản, được gặp nhiều bà con bạn bè, được đón tiếp nồng hậu với tình cảm thắm thiết, được thăm viếng nhiều nơi, được ăn nhiều món đặc sản quí hiếm; không hề bị phiền nhiễu gì về giấy tờ, tiền bạc; nhưng tôi vẫn thấy không thể sống hẳn ở VN. Về đây ở mình sẽ như chui vào một cái trại; mà đã lọt vô rọ rồi thì phải ngậm mà nghe. Vả lại, thời gian rồi tôi như cỡi ngựa xem hoa. Rất rất nhiều người nói với tôi rằng, để sống dễ dàng phải tập làm quen với những điều chướng tai gai mắt, phải mũ nỉ che tai. Tôi muốn nói với các ông bà nào, còn vọngbác thì hãy về đây đi anh. Đừng có chân trong, chân ngoài.

Chư Hầu rồi?

Chuyến về VN có ba thời khắc chắc tôi nhớ hoài. Đó là một giấc ngủ trưa tuyệt vời, sau bữa cơm chay, nằm trên ghế đá, trong vườn chùa im vắng, dưới bóng mát cây sa la, lơ mơ nhìn trời xanh mây trắng, nghe gió hiu hiu thôi, thỉnh thoảng vọng về tiếng gà gáy nơi xa. Chùa Tuần Chính Thiền Viện nằm giữa một cánh rừng tràm, do Ni Sư Thích Nữ Huệ Niệm trụ trì, xây năm 1986 tại một vùng kinh tế mới thuộc huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Lần thứ hai, ngồi lặng trên ghế đá ở sân trường Quốc Học, vào một buổi chiều âm u buồn, nhớ về một thời đã qua. Lần thứ ba, ngồi ở một quán bên bờ sông Saigon, lúc xế trưa, nghe tiếng còi hụ, nhìn đám lục bình bồng bềnh theo dòng nước đục mà không hiểu rồi nó sẽ tấp vào bến bờ nào?

Tôi có một anh bạn, hàng năm đôi ba lần về VN bằng tiền nhà, giúp hoàn thành một số dự án hay dạy học và bảo trợ cho nhiều sinh viên sang Mỹ lấy tiến sĩ. Anh du học thời VNCH, hiện là giáo sư của một trường lớn ở Mỹ, có nhiều bằng sáng chế, một hôm tâm sự, nước mình đánh nhau hàng chục năm để rồi chẳng có điểm nào coi được. Tệ như vậynhưng CSVN vẫn thống trị thì tại sao? Theo tôi, về kinh tế, một phần nhờ chín tỷ đô la, hải ngoại gửi cho gia đình ở trong nước. Phần khác, VN ổn định được vì dựa vào hậu phương lớn phía Bắc như bài hát Việt Nam Trung Hoa có từ thời 1960: núi liền núi, sông liền sông, chung một biển đông, chung một ý, chung một lòng, chúng ta sống chung, nghe tiếng gà gáy cùng; muôn năm Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông.

Thời gian tôi ở VN là thời gian báo chí nói tới sửa đổi Hiến Pháp 1992. Sau hơn 20 năm làm Hà nội xác xơ, rồi sau khi thống nhất đất nước, CSVN để hơn 30 năm cho cán bộ gộc ăn no nê thành tư bản đỏ, giờ mới lập một ủy ban để Tìm Thông Điệp Chung Về Quyền Con Người và Tổ Chức Quyền Lực. Họ bàn tới quyền công dân, vai trò lãnh đạo của đảng, đổi mới chế độ bầu cử. Một người am tường việc này cho tôi biết, chưa chắc Bộ Chính Trị đồng ý với bản dự thảo. Ông tâm sự, ông bị thương khi vào Nam “giải phóng”. Tôi cho ông hay là tôi bị Việt Cộng bắn rớt máy bay. Ông cười: anh em mình bắn nhau. Ông tặng tôi tập san Nhà Nước và Pháp Luật. Tôi hỏi, nếu đảng chịu sửa Hiến Pháp nhưng Trung Quốc không đồng ý thì sao? Ông không trả lời. Như vậy là chư hầu rồì? Ông nhìn tôi, rồi tự nhiên nói: Ngày mai trời lại sáng.

Đương nhiên, có ngày mai nào cứ tối mãi? Nhưng chừng nào 14 ông vua tập thể của Xã Hội Chủ Nghĩa VN mới sáng mắt sáng lòng không còn đồng hoá chế độ và đất nước; vứt bỏ cái cơ chế lỗi thời lai căng Nga Tàu, do Hồ Chí Minh mang về. Thật khó, khi Bộ Chính trị vì quyền lợi, đồng sàng đồng mộng với Trung Quốc, quyết duy trì ngôi vương. Tuy nhiên, nếu họ tiếp tục hèn với giặc phương Bắc rồi sẽ có ngày người dân ở HồGươm nổi dậy như sóng, ở sông Hương xuống đường như lũ và ở Saigon bừng dậy như hỏa diệm sơn; cho dù CSVN có nêu lên 16 chữ vàng: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai; và bốn tốt: láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, để nhờ Trung Quốc cứu cũng không ngăn dẹp nổi.

Đền bù đất đai không thực tế; luật pháp không minh bạch; xảy ra nhiều bản án oan sai, Luật sư gặp nhiều khó khăn cùng nạn chạy án của thầy cãi. Đó là tình trạng tư pháp ở VN mà tôi được nghe qua trong cuộc trò chuyện tại Saigon với Luật sư Nguyễn Bính Châu, tác gỉả mấy bài báo trên mạng BBC. Ngoài ra, theo tờ Nhà Nước và Pháp Luật, bằng hành vi pháp lý, người ta tạo ra sư hỗn độn của pháp luật. Các khẩu dụ thành quy tắc xử sự có hiệu lực cả bên ngoài cơ quan nhà nước. Ông Châu cho rằng để Pháp Luật không là cây đèn thần khủng bố, VN cần có Dân chủ. Nhưng tôi chắc CSVN không dám thực hiện điều này vì lúc đó họ sẽ hết còn vừa đá banh vừa thổi còi và sợ ông Hồ có trăm tên ngàn
mặt sẽ bị soi rọi, tênh hênh ra đó thì còn gì nữa đâu?

Dân ca Khmer và Ngậm Ngùi của Huy Cận

Nhân dịp về VN tôi đã đi Siem Reap viếng Đế Thiên Đế Thích, không xa Saigon. Trên phi cơ rời Tân Sơn Nhất, ngồi cạnh chị Phạm BíchThủy, có cuốn Về Sân Khấu Truyền Thống Khmer Nam Bộ của Sở Văn Hoá tỉnh Sóc Trăng; tôi mượn đọc thấy có mấy câu dân ca Khmer: Lời ru thành ngọn gió đưa; Quạt anh ve vuốt giấc mơ vợ hiền; Chìa tay anh, em gối lên; Xoã ngực anh, mái tóc mềm của em, khiến tôi nhớ đến bài Ngậm Ngùi của Huy Cận: Sợi buồn con nhện giăng mau; Em ơi ! Hãy ngủ. anh hầu quạtđây; Lòng anh mở với quạt này; Trăm con chim mộng về bay đầu giường. Ngủ đi em, mộng bình thường; Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ. Thơ Huy Cận in trong Lửa Thiêng năm 1940. Còn mấy câu dân ca của Khmer có từ lúc nào?

Đế Thiên Đế Thích hay Angkor Wat và Angkor Thom có một quá trình kỳ lạ. Hiện nay nó là một cảnh quan thế giới, thu hút rất nhiều du khách. Trước đó nơi này là chốn trú ẩn của Khmer đỏ, đám quân đã giết hơn hai triệu đồng bào mình. Không ai biết tại sao nó bị bỏ hoang 4, 5, trăm năm để cho rừng cây che lấp. Cuối thế kỷ 19 người Pháp mới khám phá ra phế tích và tìm cách bảo tồn. Theo các nhà khảo cổ những điện chính được xây từ thế kỷ thứ VI và tiếp tục cho đến đời vua Suryavarman II (1113-1150). Công trình kéo dài làm tốn biết bao nhân lực, vật lực nhưng cũng thể hiện nghệ thuật tuyệt đỉnh về chạm, đục, khắc và vẽ hình trên đá của nền kiến trúc Khmer. Tất cả chỉ để làm nơi thờ thần hay tổ tiên của vua chúa; rồi sau trở thành linh đền thờ Phật.

 
Viếng thăm Đế Thiên Đế Thích ngoài việc biết dân tộc Khmer đã có một thời hưng thịnh, có một nền văn minh sáng chói; còn cho thấy đời sống tâm linh của dân tộc nước láng giềng thật kỳ bí bởi các hình tượng thần voi, sư tử, bò, rắn, chạm khắc trong các đền đài đầy huyền ảo; tuy hiện phần lớn họ theo đạo Phật, phái tiểu thừa. Hình ảnh in sâuđậm khác trong trí nhớ du khách là rừng cây hùng vĩ ở nơi này đã có thể nuốt trọn cả đền đài. Có những thân cây cổ đại 3, 4 trăm năm to bự ba bốn người ôm cũng không xuể, cao vời vợi, ngự trên đỉnh tháp với hàng chục rễ trắng nhợt, láng cứng như xi măng, dài hàng chục thước thòng xuống đất, ôm xoắn lấy chân tháp như con bạch tuột đang giữ lấy mồi.

Phan Thanh Tâm
Saint Paul, MN.
(1) Đi với Về cũng một nghĩa như nhau là nhan đề một tập thơ của Du Tử Lê

Phan Thanh Tâm
Theo: Diễn Đàn Net




Cụ Nguyễn Văn Tuyết : THƯ TÌNH VIẾT MUỘN!

bác sĩ cũng vừa báo cho biết họ sẽ “búc” vé cho anh. Như vậy là mọi việc đã sẵn sàng tốt đẹp, anh không mang theo gì cả. Khi nào có vé thì anh sẽ gọi phôn cho em biết để mở cửa cho anh vào. Nếu em nghe không rõ tiếng người mà chỉ thoáng phì phò tiếng gió thì biết đó là lúc anh đã cất cánh.Hẹn gặp em một ngày rất gần.Vĩnh biệt các con và các cháu cùng các chắt.


THƯ TÌNH VIẾT MUỘN!

Cụ Nguyễn Văn Tuyết
(cụ vừa mới từ trần ở Paris, hưởng thọ 91 tuổi)

Paris ngày 14 tháng 10 năm 20xx

 

Bà nó à!
À mà thôi, gọi là EM đi cho tình tứ như ngày xưa chúng mình cùng chung giường chung gối, chung cả đường đi lẫn lối về em nhá. Dù rằng nay đôi ta mỗi người một ngả, lại đông con nhiều cháu mà còn xưng hô “anh em” thì e rằng con cháu nó cười. Nhưng đây là tình thư của anh gửi tới em, lá thư đầu tiên và cũng là lá thư cuối cùng. Anh viết thư này từ ngày 14/10/20xx, mỗi ngày vài dòng, khổ nỗi mỗi khi viết đến tên em là như có hơi nước che mờ cặp kính nên anh đành phải buông bút, dụi mắt thở dài! Viết lâu rồi đấy mà chưa nói được gì với em! Chuyện tình trong 60 năm dễ gì nói trong vài trang giấy, kể trong vài ngày.
Thôi thì thế này nhá, nếu không xong để gửi qua đường bưu điện thì anh sẽ mang đến nơi em đang ở để trao tận tay. Anh biết nơi em ở rồi, kể từ khi em dọn về bên ấy, anh đã rất nhiều lần đi vòng quanh bên ngoài để ngắm một căn nhà 2 tầng(*) nhỏ-nhắn, xinh-xắn, mà nghe đâu em khoe với hàng xóm rằng:
– “Tôi ở tầng dưới, còn tầng trên để dành cho nhà tôi”…

 

****************
Em à!
Nhớ lại ngày nào em là thiếu nữ 16 tuổi xinh tươi làng Vạn, hoa khôi huyện Yên Phong, còn anh là trai làng Đại Lâm, chúng mình cùng tỉnh Bắc Ninh, nhưng anh theo gia đình ra Hà Nội học nên không có dịp “thả thơ”
Em còn nhớ những vụ “thả thơ” này không? Dì Phách, cô em gái của em nói rằng em đẹp lắm lại là con nhà có của nên trai huyện trai làng nhiều người ngấp nghé, mỗi khi em đi chợ thì họ len lén bỏ thư vào cái làn mây em xách tay, khi về nhà mới biết, thế là mấy chị em đọc thư tỏ tình của các chàng nhát gái mà cười bò ra, nghe cũng vui đấy nhỉ. Nhưng anh thì chưa có dịp thả thơ như thế.
Khi bố anh cần người giúp ông trong việc kinh doanh nên đã bắt anh lập gia đình sớm, anh có quen biết nhiều cô gái ở Hà Nội nhưng không thương ai. Thế rồi một hôm bố anh bảo diện vào rồi đi chợ huyện Yên Phong với ông, anh hỏi bố rằng con đi chợ làm gì thì bố nói:
– Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân.
Khi đến chợ rồi mới biết ngày đó em cũng đi chợ, có lẽ người lớn đã sắp xếp cho chúng mình trông thấy nhau. Nghĩ lại cũng buồn cười nhỉ, bây giờ khác xưa rồi, trai gái quen biết và yêu rồi mới dẫn cha mẹ hai bên gặp nhau.
“Anh trông thấy em đi chợ anh thương”. Bố chưa kịp hỏi ý kiến anh có bằng lòng “cô ấy” hay không thì anh vội nói trước:
– Chưa gặp đã bén hơi. Tại duyên số rồi bố ơi!
Thế là bố khuyên anh “cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” nên anh vội nhờ người đem tặng em “một thúng xôi vò, một con lợn béo một vò rượu tăm. Tặng em đôi gối em nằm, cái chăn em đắp..” năm đó chúng mình vừa tròn 17.
Họ hàng nhà trai khen em xinh gái và có duyên, nhưng bố anh thì nói: “vợ chồng cùng tuổi nằm duỗi mà ăn”, và để cho con đừng có ỷ lại nằm duỗi mà ăn nên ông cụ đã giao cho vợ chồng mình xưởng sửa chữa và cho thuê xe xích-lô.

 

* Yêu em mãi mãi

Nhạc Từ Công Phụng – Cố NT/KQ Vũ Văn Ước trình bầy

 

Khởi đầu là thế, mình sống đầm ấm bên nhau, không vất vả về kinh tế nên năm 1941 em sinh con gái đầu lòng, anh đặt tên con là Trinh. Rồi lần lượt có thêm con Thục, con Thuý, cả ba xinh gái giống mẹ. Sau 3 cô con gái là em sinh liền cho anh 4 cậu con trai, tên các con là Phong, Tuấn, Quang, Anh. Đời sống gia đình đang thanh bình ấm êm, các con đi học có xích lô đưa đón thì bỗng “trời đất nổi cơn gió bụi”, em má hồng chịu nỗi chuân chuyên, bụng mang dạ chửa mà phải cùng gia đình di cư vào Nam. Vừa đến Hải Phòng thì em sinh con gái thứ tư nên mình đặt tên con là Nguyễn Thị Hải, và Hải là đứa con thứ tám cùng theo bố mẹ di cư 1954 vào vùng đất lạ.
Cưới năm 1939 tới 1954 khi di cư mới được có 8 con nên em nói còn ít. Nhớ hôm dẫn em vào bảo sanh viện, anh nắm tay em an ủi thì em mỉm cười nói:
– Anh còn phải đưa em vào bảo sanh viện tám lần nữa, vì thầy tướng số nói em sẽ có 16 người con tất cả”.
Nghe em nói xong anh cười to khiến mấy bà bầu ngồi ở phòng chờ đợi quay sang nhìn vợ chồng mình, chắc họ tưởng mình vui vì mới có con đầu lòng. Nghĩ vậy nên anh ghé vào tai em thì thầm:
– Bao nhiêu cũng được, chỉ sợ vất vả cho em thôi, còn anh thì ..lo tất.

 

************
Vào tới Saigon, gia đình mình ở số nhà 247 đường Thành Thái, Chợ Lớn, gần ngã tư Trần Bình Trọng. Em vẫn tề gia nội trợ, còn anh, xoay đủ nghề. Từ mở trường dạy lái xe hơi lúc mới vào rồi làm tôm đông lạnh ở Rạch Giá, lập trại trồng nấm rơm ở suối Lồ Ồ Dĩ An, thầu xây dựng với anhThúc, làm cho USOM, và như em biết đấy, công việc cuối cùng của anh là làm việc ở tòa Lãnh Sự Pháp Saigon, nhờ đó mà sau 30/4/1975 gia đình ta đi định cư tại Paris.
Tuy nhiên anh đã không giúp em được toại nguyện theo như lời khuyên của thầy tướng số nên trong thời gian ở Saigon, vợ chồng mình chỉ thêm được có 4 “cậu” là Tiến, Thắng, Thụy, Xương và 2 “cô” Loan, Hà, vị chi là 14 mụn con gồm 6 gái, 8 trai, còn thiếu 2 vì thế em mới nuôi thêm 2 cháu ngoại là Yến và Việt, con của Thúy để cho đủ 16 đứa.

Nay tuy không được vuông tròn trọn vẹn nhưng tất cả đã ổn định cả rồi. Hiện tại ở Mỹ có 3 cô 2 cậu, ở Pháp có 4 cậu, 3 cô. Con nào cũng có gia đình hạnh phúc một vợ một chồng và đã tặng cho em rất đông cháu nội ngoại và đã hơn 10 chắt rồi đó. Duy chỉ còn cô út Thu Hà, đẹp, thông minh hoạt bát, nhiều chàng ngấp nghé lắm nhưng con gái út của chúng mình lơ là chuyện này mà lại siêng năng nghiên cứu kinh sách nhà Phật. Tại duyên số thôi.

 

Anh rất hài lòng vì các con, trai gái thì hiếu thảo con dâu nào cũng coi như con đẻ, nhất là Yến, vợ Quang, hiện là chị dâu trưởng, là gương mẫu cho các em. Còn con rể ư? Các cụ xưa gọi con rể là tế-tử nên anh thấy tế-tử nào cũng tử tế cả, các anh ấy là người biết điều, lo toan mọi bề cho vợ con, lại hiền lành. Duy chỉ có chồng của Thúy, tức bố của Yến-Việt là quân nhân nên vất vả và luôn phải xa gia đình, nghèo và hơi ngang. Em nhớ không, lần đầu tiên hắn đến nhà mình thăm con Thúy mà lại ngồi gác chân mang giầy nhà binh lên bàn! Anh giận quá! Nhưng bù lại, nay mỗi lần anh sang Mỹ thăm con cháu, thì bố Việt chở anh ra khu chợ ABC mua bánh ngọt, đi ăn hủ tíu Mỹ Tho, lại còn bảo vợ chồng Việt “niềng” răng cho ông ngoại, anh thấy vui vui nên nói:
– “Khỏi niềng, răng của ông còn rất tốt và đẹp nữa, con chỉ cần bỏ vào ly nước ngâm với thuốc sát trùng cho ông là được

rồi.”
Anh nói tới đâu rồi nhỉ? Thế đấy, còn minh mẫn nhưng hơi lộn xộn nên thư viết cho em cứ chuyện nọ xọ sang chuyện kia. À nhớ ra rồi, tới chỗ vuông tròn.
Anh nói không được vuông tròn trọn vẹn là vì con gái đầu lòng đã ra đi khi vừa tới Mỹ, và hai con trai hy sinh cho Tổ Quốc, cậu cả Phong bị thương ở Ban-Mê-Thuột rồi hy sinh, cậu Tuấn thì tử trận trên biển, chìm theo hộ tống hạm HQ10 trong trận hải chiến để bảo vệ Hoàng Sa chống lại quân xâm lược Trung Cộng vào ngày 19 tháng 1 năm 1974.
Em à, anh không muốn nhắc chuyện xưa làm đau lòng em khi mất đi 2 đứa con trai tuổi còn quá trẻ, nhưng cũng là một đóng góp cho đất nước như biết bao các gia đình khác. Mới đây ông HQ Đặng Thanh Long đã thay mặt Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tổng Hội Hải Quân Hải Ngoại đem cuốn Hải Sử Tuyển Tập và Hải Sử HQVNCH đến tặng gia đình ta với bút tích ghi ở trang đầu như sau:
“Kính biếu gia đình liệt sĩ Hoàng Sa HQ Nguyễn Văn Tuấn”.

 

*************
Thấm thoát thời gian mau thế đấy em nhỉ, chả cần nói nhiều thì các con cũng biết từ lúc có đứa con đầu lòng ở Hà Nội rồi có thêm cô Út Hà ở Saigon rồi gia đình ta di tản, bảo lãnh, vượt biển vượt biên mà được thế này cũng là tạ ơn trời đất lắm rồi. Nhưng bất hạnh thay, em lại bỏ anh mà đi! Dễ chừng gần chục năm rồi chứ ít sao? Lúc trước anh nhớ chính xác ngày giờ năm tháng em ra đi, nhưng sau lần anh bị té dập đầu thì trí nhớ không còn tốt. Thôi để anh mở sổ ra xem ngày nào em bỏ anh ra đi. Đây rồi, ngày 14 tháng 10 năm 2002, và anh viết lá thư này cho em cũng vào ngày 14 tháng 10, em đi đã được 8 năm rồi đó.

 

Em à! Anh nhớ rõ là em bị bệnh thận, đang lọc máu thì bị té dập xương chậu và sau một thời gian ngắn thì em ra đi! Ngày đó mắt anh đã khô, khi thấy con cháu vây quanh mẹ, quanh bà nức nở khóc làm anh nghẹn cổ họng.
Thôi thế cũng xong, vì hiện nay em luôn được mạnh khỏe, không còn lo lắng về bệnh tật, cuộc sống mới lại bình an, thảnh thơi mãi mãi. Nhưng cẩn thận nhá, mỗi lần “vân du” em nhớ mang theo áo ấm và gài dây an toàn kẻo gió mạnh lại thổi bay mất thôi.
Em nhớ không? Lúc sinh thời mỗi lần mang thuốc và nước đến cho em thì anh chỉ nói vắn tắt: “thuốc đây, bà uống đi”! Nay anh muốn gọi tiếng EM, nói thật nhiều lời thương yêu thì giọng anh đã khò khè, thở không ra hơi! Hối hận quá!
Khi em đi rồi mà đàn chim bồ câu cứ đúng giờ nó lại bay về đậu trên thành cửa sổ, cái của sổ của căn phòng trên tầng thứ 15 của tòa biu-dinh thuộc thị xã Alfort Ville, ngó ngay ra bờ sông Seine, từng đôi chim gù-gù sát cánh bên nhau chờ những miếng bánh mì mà em bẻ vụn ra rồi rắc cho chúng ăn.

 

Ngày đó anh cằn nhằn em hoài vì cái việc cho chim ăn, nó ăn rồi ị, sương mù và mưa phùn làm bánh mì thừa ướt nhão nhẹt ra rồi mốc xanh lên khiến anh lại phải dọn. Bực mình anh la thì em nhỏ nhẹ nói: “tội nghiệp chúng nó”. Thôi đành cứ để em cho chim ăn rồi anh dọn phân và thức ăn thừa kẻo gió lùa vào phòng mình hôi cứt chim. Khi em về trên đó rồi, mình anh ở lại mỗi ngày phải nhìn từng đôi chim gù gù tỉa cánh cho nhau mà nhớ em vô vàn. Đó là lý do thầm kín anh không muốn rời căn phòng này để về ở với con cháu.

 

************
Có những chiều Hè hoàng hôn nắng úa, đứng ngắm hình em treo trên tường, anh thì thầm: “sao em không nói với anh” rồi ngó qua cửa sổ anh bỗng thấy như có mưa phùn chiều Đông, thì ra mắt anh mờ và anh cảm thấy lạnh lẽo!
Tất cả đồ dùng của em còn để nguyên chỗ cũ, nhìn đâu cũng thấy em vì thế các con xin dọn cho gọn gàng thì anh không cho. Bẩy cô cậu thay nhau thuyết phục bố về ở với các con nhưng anh nhất định không muốn rời xa nơi này, tuy không còn là tổ ấm nhưng còn cái ghế em ngồi, còn cửa sổ mà em đứng rắc bánh mì cho chim ăn. Anh không thổ lộ những điều thầm kín đó mà chỉ nói:
– “Bố còn khỏe, tự lo cho mình được mà, các con cứ yên tâm”.
Mà anh còn khỏe thực, mỗi sáng không còn lái xe ra Paris 13 để ăn hủ tíu và mua báo Văn Nghệ Tiền Phong nữa thì anh đi bộ quanh phòng, đi dăm ba bước anh dừng lại nghỉ dăm phút, cứ như thế mỗi giờ cũng đi được hơn một vòng. Anh cũng vẫn ăn được, mỗi ngày cô Hải mang cơm nóng canh sốt sang cho bố rồi dọn dẹp nhà của, Hải về thì cô út Hà sang lo mọi việc giấy tờ về sức khỏe của bố. Cậu cả Quang tuy ít nói nhưng phân công đâu ra đó cho các em trai Thắng Thụy Xương luân phiên trực đêm bên bố và chở bố đi Paris 13, khu phố Việt, phố Tàu.

 

Tuy sống độc thân nhưng anh không cô độc, mỗi thứ Bẩy và Chúa Nhật là con trai gái dâu rể, cháu nội ngoại kéo nhau về tụ họp trong căn phòng nhỏ này. Khi trước còn khỏe thì anh nấu một nồi phở thật to, nay thì mỗi con mang theo một thứ, căn phòng không chỉ ấm cúng mà còn nóng lên nữa ấy chứ. Những lúc đó thì anh lại nghĩ đến em, để cho con cháu vui chơi, anh lẳng lặng đi nằm, ứa nước mắt vì sung sướng nghe tiếng cười của con cháu nhưng cũng ứa nước mắt khi thiếu tiếng em! Thì ra “con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”, ông nuôi bà.
Cách nay khá lâu, anh đang vịn tường để đi vào phòng tắm thì bị té, các con vội đưa đi cấp cứu, bệnh viện khám phá ra một mạch máu trong đầu bị nghẽn khiến anh té chứ không phải tại anh vô ý.
Nhớ mãi hôm ấy thấy em đến thăm anh trong bệnh viện, anh vội vàng ngồi dậy, ba chân bốn cẳng chạy ra đón em và anh bị vấp té, choàng mở mắt thì biết anh vừa nằm mơ và giận quá tại sao mình không cẩn thận để bị té rồi tỉnh lại mà không được nắm tay em. Vừa lúc đó anh nghe cô ý tá nói:
– Từ nay cụ phải dùng cái này.
Ngó xem thì ra là cái gậy chống, ở cuối có 4 chân bịt cao su. Nếu anh chống gậy này mà đi thăm em thì đúng là “ba chân bốn cẳng rồi”.! Anh không thích chống gậy, trông giống ông cụ quá! Đối với anh, em vẫn còn khỏe và còn trẻ, người cõi tiên thì “trẻ mãi không già” mà.

 

Nằm bệnh viện được mấy ngày thì anh đòi về nhà, nhớ căn phòng quá, nhưng các con không cho, lựa khi các con không có mặt, anh “ba chân bốn cẳng” vào phòng bác sĩ trực năn nỉ xin xuất viện và họ “đắc-co”
Về nhà được mấy ngày thì anh lại “ba chân bốn cẳng” mang hoa đến tặng em, nhưng gõ của hoài mà không nghe tiếng ai trả lời, hình như mấy cô tiên đưa em vân du trên cẩu Vồng hay du Nguyệt Điện thì phải. Rõ chán! Cả đời ở bên nhau, anh chưa bao giờ tặng em một cánh hoa, tại anh thấy em là hoa đẹp rồi. Anh mong sớm có ngày được đoàn tụ cùng em nắm tay nhau tung mây lướt gió.

 

* Một mai tôi qua đời

Nhạc Phạm Trọng Cầu – Mỹ Linh trình bầy

 

Sống với nhau hơn 60 năm, “sáu mươi năm cuộc đời” được 14 mặt con mà mình chưa bao giờ “to tiếng” với nhau, cằn nhằn thì có, nhưng chưa một lần em phải buồn phiền vì anh uống rượu, hút thuốc, đánh bạc và lăng nhăng, vì anh không thích những thứ đó, vì anh đã có em. Tính đến nay xa em đã 8 năm, thời gian cũng quá đủ suy ngẫm về thói đời hay coi thường hạnh phúc đang có sẵn trong tay mà không biết vun quén. Anh đang mong ngày tái ngộ.
Cầu được ước thấy, mới tuần trước đây anh đang đứng vịn tường tập thể dục thì tự động ngã, bệnh viện cho biết những mạch máu li ti trên đầu bị vỡ, các con bao quanh lo lắng và bác sĩ họ đang cố gắng nối lại, nhưng anh nói:
_ “Thôi”.
Sống với con cháu như vậy là quá đủ rồi, lo cho các con như vậy cũng tạm ổn, nhìn lên không bằng ai nhưng nhìn xuống thì không ai bằng. Tuy các con không giầu có gì, nhưng đủ ăn và hạnh phúc, nhất là các con một vợ một chồng, như đũa có đôi và anh chị em thương yêu nhau. Anh nói với các con:
_ “Các con như đũa có đôi, để ba về với mợ chứ, căn phòng trên lầu nơi mợ ở dành cho ba đã có sẵn tiện nghi rồi, các con đừng lo lắng và bịn rịn nữa. Chúc các con ở lại bình an, đùm bọc và thương yêu nhau như từ trước tới nay”.

 

Em à! Hôm nay là ngày 14 tháng 9 năm 2010, chỉ còn đúng một tháng nữa là trùng vào ngày em đi, 14/10, bác sĩ cũng vừa báo cho biết họ sẽ “búc” vé cho anh. Như vậy là mọi việc đã sẵn sàng tốt đẹp, anh không mang theo gì cả. Khi nào có vé thì anh sẽ gọi phôn cho em biết để mở cửa cho anh vào. Nếu em nghe không rõ tiếng người mà chỉ thoáng phì phò tiếng gió thì biết đó là lúc anh đã cất cánh.
Hẹn gặp em một ngày rất gần.
Vĩnh biệt các con và các cháu cùng các chắt.
Nguyễn văn Tuyết.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(*) Mộ 2 tầng, ai đi trước nằm tầng dưới, ai đi sau nằm tầng trên

Cụ Nguyễn Văn Tuyết
Theo: Diễn Đàn Net




LM Nguyễn Trung Tây : dark valley , Thung Lũng Tối

Dù bước đi tới, nơi thung lũng tối,Con không lo lạc lối,Vì có Chúa sánh bước với con.(Thánh Vịnh 23

Nguyễn Trung Tây, SVD
meditation picture
dark valley

Though I walk to the dark valley,
I fear no evil,
For you’re walking besides me.
(Psalm 23)


                                                http://www.nguyentrungtay.com/darkvalley.html
In December 2009, the owner of the spiritual pub in town (whose domain name is www.nguyentrungtay.com) left Melbourne for his new missionary assignment in Alice Springs.

Because of her own charming characters and special location in Central Australia, Alice Springs has become an idea spot for many young people in the world to go on backpack. Some of them, especially guys from the Far East countries, don’t speak English. Noticing that some Asian Catholic who attend Sunday mass are limited with English, the owner comes up with a church project, called English As Second Language, for those would like to learn and improve their speaking skills. The class meets every Saturday between 2 until 3pm in the Presbytery, and is free of charge. Normally there are six or seven students from Korea, Hong Kong, Malaysia, East Timor, India, the Philippines and Viet Nam attend the ESL class.

In August 2010 the class welcomed a Korean student, a Catholic young man in his early twenties. In English the owner calls the new student Coby. Coby later calls the owner Bố Quang (Daddy Quang). When he first came to Alice Springs, Coby worked in Desert Palms Resort during the day and attended the afternoon mass at 5:30pm. On occasion Bố Quang rode Coby to the Indigenous Chapel to attend the Sunday mass at 11am, or took him out for Aussie meals in local restaurants or a glass of Guinness, a thick and flavorful Irish beer, in the pub nearby the Presbytery. Some times on Saturday, the owner invited his friends to the Presbytery for dinner. After finishing cooking meal, Bố Quang texted his son, “R u free for 2nite dinner?” If not committed with overtime schedules, Coby quickly rode his bike to the front door of the Presbytery, calling from his mobile phone, “Bố Quang, here is Coby. Please open the door.” Twice, one time on late Saturday night, another in the late Sunday afternoon, while Coby was with Bố Quang, Alice Springs Hospital sent “distress signals” to the owner, asking for the sacrament of healing for patients in critical conditions. The owner brought Coby along, so Coby could experience life from different aspects, in particular life in hospital.

After the ESL class or the mass, when the situation allowed, Coby stayed behind, having chats with Bố Quang. Coby normally shared with Bố Quang his concerns about life, particularly the new life he now faced in Alice Springs. Bố Quang advised Coby to join the Youth Group that meets every Friday at 6pm in the Presbytery so Coby would make new friends and at the same time to improve his English conversations.

And, out of a sudden, Bố Quang did not see Coby anymore. Just as water evaporating from the scorching heat, Coby disappeared from church activities as if he had never been in Alice Springs.

Christmas’ Eve 2010 came. The OLSH Church again held the Midnight Mass. Nevertheless, being scheduled to celebrate Christmas Mass at 7:30am, the owner excused himself not to concelebrate midnight mass, but retreated to his room about 10pm, locked the door, and spent the rest of the night on bed, ready for having a pleasant dream. Right at the moment the owner began hearing his own snoring sound, he heard another sound as if someone were knocking on his door. The owner almost wanted to ignore the unexpected sound, but he eventually gave up. Opening the door, the owner saw his SVD neighbor who informed him, “Your Korean friend wants to see you.” “Korean friend?”, the owner repeated. “Who’s it?”, he asked himself while carefully stepping down from the staircase to the Presbytery.

And to his surprise there was his son, Coby, who was waiting to deliver the Christmas card to his daddy. Having seen Bố Quang, Coby greeted jubilantly, “Merry Christmas, Bố Quang.” His son scratched his hair, saying recently he worked for three jobs. So busy!!!… Well, well, well! Dad and son exchanged conversations for a while. But, celebrating the Christmas mass tomorrow at 7:30am was still a reality that Bố Quang couldn’t ignore. After promising to contact Coby after Christmas, Bố Quang excused himself and returned to his room to catch up the dream interrupted by his son’s unannounced visit. However, out of curiosity, while lying in bed, he opened Coby’s Christmas card to read the Christmas greetings. Believe it or not, Coby composed to Bố Quang one of the most beautiful Christmas greetings that he had never received in life. Bố Quang’s eyes almost began filling with tears while reading, “Dear Bố Quang, you are the most precious person to me in Alice Springs. Through you I can feel the love of Jesus Christ and my parents. Even after I return to Korea, I will never forget you. Merry Christmas and Happy New Year. Coby”

Three days later, 27 December, as promised, Bố Quang and Coby went out for Christmas and New Year dinner. Before meal, daddy and son rode to Simpsons Gap to enjoy the sunset scenery. The sunlight on that late afternoon seemed to be brighter when discovering Bố Quang and Coby on Darken Drive to the famous gap of Northern Territory. Because the gap was located to the west of Alice Springs, the sun by the late afternoon in the clear blue sky reddened the right hill but darkened the left one of the gap, while transforming the bright green of the grass by the sides of the road to faded yellow; a perfect shot of Simpsons Gap. About five more kilometers from the gap, Bố Quang pulled the car over. Coby asked, “Bố Quang, what happened?”. Bố Quang asked, “Are you ready to be a movie star?”. Bố Quang directed Coby to stand in the middle of the road, to rise up his hands and to smile for a best shot.


Coby Bae, Photographed by NTT

After Coby’s, the owner captured another view of Simpsons Gap.

And the meditation picture of Dark Valley is born to Bố Quang and now displayed in the spiritual pub in town.

 

Thung Lũng Tối

Dù bước đi tới,
nơi thung lũng tối,
Con không lo lạc lối,
Vì có Chúa sánh bước với con.
(Thánh Vịnh 23

Tháng Mười Hai năm 2009, chủ quán nước đầu làng rời bỏ Melbourne cho công tác mục vụ truyền giáo mới tai Alice Springs.

Alice Springs, thị trấn nhỏ nằm giữa Úc Châu, có mật độ dân số khoảng hai mươi tám ngàn người. Thị trấn sa mạc nổi tiếng thị trấn du lịch. Du khách tới Central Australia để thăm viếng sa thạch Uluru hoặc phong cảnh nổi tiếng của Red Centre thông thường bay tới Alice Springs nghỉ ngơi một vài ngày trước khi khởi hành tới Uluru chiêm ngắm kỳ quan thiên nhiên của thổ dân ngời sáng màu đỏ vào lúc hoàng hôn và bình minh. Trong thời gian tạm trú tại thị trấn, du khách cũng có thể thả bộ trên con lộ chính Todd Mall lựa chọn cho mình một vài tranh sơn dầu của người thổ dân, hoặc lái xe tới Alice Springs Old Telegraph tìm hiểu hồi mới tới người Úc liên lạc với nhau và thế giới như thế nào. Du khách cũng có thể giảm bớt độ nóng hừng hực mùa hè bằng cách dìm chân xuống dòng nước lạnh của con lạch Trephina Gorge trên hương lộ Ross, hoặc chuẩn bị tinh thần cho màn trình diễn tuyệt vời của hòn đá Uluru bằng cách chiêm ngắm cảnh chiều hoàng hôn của Simpsons Gap, một trong những núi chẻ tuyệt đẹp đứng đầu của rặng núi phía Đông MacDonnell, được tạo ra bởi trận địa chấn và khí hậu thay đổi của triệu triệu năm về trước…

Bởi nét duyên dáng và vị thế đặc biệt của thị trấn sa mạc, Alice Springs trở thành địa điểm lý tưởng du lịch cho nhiều người trẻ. Một vài người, nhất là thanh niên từ miền Viễn Đông, không nói tiếng Anh. Nhận ra rất nhiều tín đồ Công Giáo Á Châu tham dự thánh lễ Chúa Nhật với tiếng Anh còn giới hạn, chủ quán đề nghị nhà thờ tổ chức một lớp tiếng Anh, dành cho những người muốn trau giồi khả năng đàm thoại. Lớp học ngày thứ Bẩy từ 2 cho tới 3 giờ chiều tại nhà xứ, và hoàn toàn miễn phí. Thông thường lớp có từ sáu tới bẩy học sinh từ Đại Hàn, Hồng Kông, Mã Lai, Đông Timor, Ấn Độ, Phi Luật Tân và Việt Nam tham dự.

Tháng Tám năm 2010 lớp chào đón một học sinh Đại Hàn, người Công Giáo ở tuổi hai mươi. Trong tiếng Anh, chủ quán gọi học sinh mới với tên Coby. Coby về sau gọi chủ quán là Bố Quang. Hồi mới tới Alice Springs, Coby đi làm ban ngày tại Desert Palm Resort, sau đó tham dự thánh lễ chiều cử hành lúc 5:30. Đôi khi Bố Quang mang Coby tới nguyện đường Thổ Dân tham dự thánh lễ Chúa Nhật lúc 11 giờ sáng, hoặc ra những quán ăn địa phương nếm thức ăn nấu kiểu Úc Thòi Lòi, hoặc ra quán bia gần nhà xứ uống một ly bia Guiness đặc như sữa của người Ái Nhĩ Lan. Có những buổi chiều thứ Bẩy, chủ quán mời bạn tới nhà xứ ăn tối. Sau khi nấu nướng xong xuôi, Bố Quang gọi Coby bằng “máy nhắn” di động, “Tối nay có rảnh hay không, tới ăn tối”? Nếu không bận làm thêm vào ngày cuối tuần, Coby nhanh nhẹn lái xe đạp tới trước cửa nhà xứ, gọi điện thoại di động, “Bố Quang ơi, Coby đây. Làm ơn mở cửa”. Đã hai lần, một lần vào buổi tối thứ Bẩy, lần kia vào buổi chiều Chúa Nhật, trong khi Coby đang có mặt tại nhà xứ, bệnh viện Alice Springs gọi chủ quán qua tần số khẩn cấp, xức dầu cho bệnh nhân đang trong tình trạng nguy cập. Chủ quán mang Coby đi theo để Coby học thêm những kinh nghiệm khác về đời sống, đặc biệt đời sống trong bệnh viện.

Sau giờ học ESL hay sau thánh lễ, khi điều kiện thuận tiện, Coby hay ở lại nói chuyện với Bố Quang. Coby chia sẻ với Bố Quang về những băn khuăn trong đời sống, đặc biệt về đời sống mới tại Alice Springs. Bố Quang cũng khuyên Coby nên tham gia nhóm Thanh Niên của giáo xứ để có thêm bạn và đồng thời trau dồi thêm tiếng Anh.

Và thật là bất ngờ, Bố Quang không thấy Coby đâu nữa. Như nước bốc hơi bởi gió nóng sa mạc, Coby biến mất như chưa bao giờ có mặt tại phố Alice Springs.

Chiều Giáng Sinh 2010 đã tới. Nhà thờ OLSH một lần nữa lại tổ chức thánh lễ nửa đêm. Nhưng bởi phải cử hành thánh lễ Giáng Sinh vào sáng ngày hôm sau lúc 7:30, chủ quán kiếu không đồng tế thánh lễ nửa đêm, nhưng khoảng 10 giờ tối rút lui vào phòng, khóa cửa lại, leo lên giường chuẩn bị cho một giấc ngủ say. Sau khi chủ quán nghe được tiếng ngáy của chính mình trong vòng một vài phút, tự nhiên chủ quán nghe có tiếng động giống như có người đang gõ cánh cửa phòng mình. Chủ quán đã muốn làm lơ, nhưng cuối cùng đầu hàng. Mở cửa, chủ quán nhận ra người anh em hàng xóm Ngôi Lời, Sư Huynh nói, “Có người bạn Đại Hàn đang kiếm cha.” “Bạn Đại Hàn”, chủ quán lập lại. “Ai vậy cà?”, chủ quán tự hỏi trong khi bước những bước chân cẩn thận xuống cầu thang dẫn tới nhà xứ. Thật là ngạc nhiên, đó là ông con Coby, đang đợi tặng Bố tấm thiệp Noel. Thấy Bố Quang, Coby reo to, “Merry Christmas, Bố Quang”. Ông con trai của chủ quán gãi gãi tai nói gần đây con phải đi cày ba “job”. Bận ơi là bận!!! Well, well, well!

Bố con nói chuyện một hồi. Nhưng thánh lễ ngày mai lúc 7:30 sáng vẫn là một thực tế Bố Quang không thể làm ngơ. Bố đành hẹn với ông con sẽ gặp lại sau ngày Giáng Sinh, rồi bỏ về phòng đi ngủ. Nhưng, thật sự là bởi tò mò, vừa nằm trên giường chủ quán lôi tấm thiệp ra đọc. Không thể ngờ, Coby viết những hàng chữ chúc mừng Noel tuyệt vời chưa bao giờ Bố Quang nhận được trong đời. Thế là Bố Quang long lanh nước mắt trong khi đọc những hàng chữ, “Bố Quang mến, ở Alice Springs, Bố là người con quý nhất. Bởi Bố, con cảm nhận được tình thương của Chúa Giêsu và Bố Mẹ. Con sẽ không bao giờ quên Bố, ngay cả sau khi đã quay về Đại Hàn. Chúc mừng Giáng Sinh. Coby”.

Ba ngày sau, 27 tháng 12, như lời đã hứa, Bố Quang và Coby ăn Giáng Sinh và Năm Mới. Trước khi ăn, bố và con lái xe tới Simpsons Gap ngắm cảnh hoàng hôn. Những chùm tia sáng mặt trời hoàng hôn ngày hôm đó dường như sáng rực rỡ hơn khi nhìn thấy Bố Quang và Coby trên đường Darken dẫn tới Gap. Bởi địa thế nằm về hướng đông của Alice Springs, từ trên bầu trời xanh mặt trời buổi chiều hôm đó chiếu đỏ rặng núi bên tay phải nhưng bôi tối rặng núi tay trái, trong khi tô vàng những bụi cỏ màu xanh nằm dọc theo hai bên đường; một bức tranh tuyệt vời của Simpson Gap. Khi còn cách rặng núi khoảng năm cây số, Bố Quang bẻ tay lái tắp vào lề đường. Coby thắc mắc, “Bố Quang, sao vậy”? Bố Quang nói, “Đã sẵn sàng làm tài tử màn bạc hay chưa”? Bố Quang đạo diễn Coby đứng giữa đường, hai tay giơ cao, miệng cười tươi cho một tấm hình tuyệt vời.

Sau Coby, chủ quán chụp thêm một tấm nữa, cùng một góc độ. Và hình Chiêm Niệm Thung Lũng Tối ra đời, giờ này được treo trong quán nước đầu làng.

Nguyễn Trung Tây, SVD

Alice Springs, a small town in Central Australia, is populated by approximately twenty eight thousand inhabitants. The desert town has her frame as a tourist town. Tourists who travel to Central Australia to visit the sandstone Uluru and famous sceneries of Red Centre usually fly to Alice Springs and stay here for a few days before departing to Uluru to see the iconic natural wonder of the Indigenous glowing red by sunset and sunrise. While being in town, tourists can walk on Todd Mall to collect for themselves some Indigenous canvases drawn by Aboriginal artists; or ride to Alice Springs Telegraph Station to see how the early Caucasian Australians communicated with the rest of Australia and the world. Tourists can also cool themselves off from the intense heat during summer by dipping their feet into the cold water of Trephina Gorge via Ross Highway, or preparing themselves for the spectacular sunset show of Uluru by contemplating the sunset view of Simpsons Gap, one of the most gorgeous and prominent gaps of the West MacDonnell Ranges, caused by a massive erosion and climate changes over million years ago…

LM Nguyễn Trung Tây
Theo: Văn Thơ Lạc việt




Những Trang Hồi Ký ….

Đám Ăn Cháo Đá Bát. Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm TRỊNH CÔNG SƠN VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG NẰM Thép Đen 1 2 Ði tìm thời gian đánh mất Cái Mốc Lịch Sử

 

Nhng Trang Hi Ký ….

* TT Ngô Đình Diệm

(Đám Ăn Cháo Đá Bát. Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm)

http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/NgoDinhDiem/TTNDDiem.htm

 

* Hoàng Sa …  

http://www.motgoctroi.com/StLichsu/Quansu01/HoangSa.htm

* Tác Giả – Tác Phẩm (Nói về Nguyễn Văn Thiệu)

http://motgoctroi.com/HoiKy/TacGia_TacPham.htm

 

* Phóng Sự

http://motgoctroi.com/Phongsu/Phongsu.htm

 

 

 

TRỊNH CÔNG SƠN VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG NẰM VÙNG   1   2   3

Liên Thành

http://motgoctroi.com/HoiKy/BienDongMT/TCS_Lienthanh_01.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/BienDongMT/TCS_Lienthanh_02.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/BienDongMT/TCS_Lienthanh_03.htm

 

Thép Đen  1  2  (pdf)  Audio

Đặng Chí Bình

http://motgoctroi.com/HoiKy/ThepDen/Thep_Den_1.pdf

http://motgoctroi.com/HoiKy/ThepDen/Thep_Den_2.pdf

Ði tìm thời gian đánh mất

Nguyễn Văn Lục

http://www.motgoctroi.com/HoiKy/NVLuc/Dttgdmat_NVL.htm

Cái Mốc Lịch Sử 

Võ Long Triều

http://motgoctroi.com/HoiKy/VolongTrieu/Hoiky_VLT.htm

Đường ra xứ Bắc (Đỗ Lệnh Dũng)

Lê Thiệp

http://www.motgoctroi.com/HoiKy/DoLenhDung_LThiep/Hoiky_DLDung.htm

TRẠI KIÊN GIAM (Audio)

Nguyễn Chí Thiệp

http://www.vlink.com/traikiengiam/

Ngàn Giọt Lệ Rơi

Giao Chỉ

http://www.motgoctroi.com/HoiKy/NganGiotLeRoi.htm

VỀ VÙNG CHIẾN-TUYẾN

Lê Xuân Nhuận

http://motgoctroi.com/HoiKy/LXNhuan/VVCTuyen_hk.htm

Tôi Tìm Tự Do

Hữu Nguyên

http://motgoctroi.com/HoiKy/NHuu/ToitimTuDo.htm

NGƯỜI TÙ KIỆT XUẤT

Phan Lạc Phúc

http://www.motgoctroi.com/HoiKy/NtKietXuat_PLP.htm

Tôi Phải Sống

Lm Nguyễn Hữu Lễ

http://motgoctroi.com/HoiKy/NHLe_TPSong/Hoiky_TPS_NHL.htm

MẸ VIỆT NAM ƠI! DÂN TA CÓ TỘI TÌNH GÌ? (VIETNAM, QU’AS TU FAIT DE TES FILS?)

Tác giả: Pierre Darcourt — Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa

http://nhd18.esmartweb.com/mevietnam/index.html

 

Dòng Họ NGÔ ĐÌNH, Ước Mơ Chưa Đạt

Nguyễn Văn Minh

 

http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nmnnnmn1n31n343tq83a3q3m3237nvn&AspxAutoDetectCookieSupport=1

17 năm trong các trại cải tạo  (Audio)

KALE

http://motgoctroi.com/HoiKy/KH_KALE/HK_caitao_KaLe.htm

Biến Động Miền Trung

Liên Thành

http://motgoctroi.com/HoiKy/BienDongMT/BienDongMienTrung.htm

Tướng Nguyễn Văn Hiếu

Nguyễn Văn Tín

http://nguyentin.tripod.com/HieuVMluc-u.htm

Giấc Mơ Lãnh Tụ (Thích Trí Quang)

NVL

http://www.chinhnghia.com/giacmolanhtu.htm

(There are links Giấc Mơ Lảnh Tụ 1 to 62 at the end of this page)

Câu chuyện đời tôi

Nguyễn hữu Hanh

http://www.motgoctroi.com/HoiKy/NHHanh.htm

CẢNH-SÁT-HÓA

Lê Xuân Nhuận

http://motgoctroi.com/HoiKy/LXNhuan/CanhSatHoa.htm

Hà Nội 1945  1  2  3  4  5

Trần Ðỗ Cung

http://motgoctroi.com/HoiKy/TDCung/Hanoi1945_1.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TDCung/Hanoi1945_2.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TDCung/Hanoi1945_3.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TDCung/Hanoi1945_4.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TDCung/Hanoi1945_5.htm

 

Ký Ức & Suy Nghĩ  1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11

Trần Quang Cơ

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_01.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_02.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_03.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_04.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_05.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_06.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_07.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_08.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_09.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_10.htm

http://motgoctroi.com/HoiKy/TQCo/TQCo_11.htm

 

Hồi Ký Lê Xuân Nhuận

http://motgoctroi.com/HoiKy/LXNhuan/VVCTuyen_hk.htm

 

Nhiều tác gỉa
Theo: Diễn Đàn Net




Thanh Thương Hoàng : Chiếc xích lô chở mùa xuân

Mãi Tân mới kiếm được một việc tương đối “độc lập tự do” và hợp với “khả năng” của đa số tù cải tạo về: đạp xích lô. Tuy “lao động” vất vả cực nhọc lại không ”vinh quang” chút nào Tân cũng kiếm được đủ ngày hai bữa ăn và thuê một cái buồng nhỏ trong xóm nhà lá để đêm về có chỗ ngủ.

Chiếc xích lô chở mùa xuân
Tác Giả: Thanh Thương Hoàng

1
Tân ngồi vắt vẻo trên chiếc xích lô ngước nhìn những tảng mây trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh thẫm, lòng bâng khuâng nhớ tới những ngày tháng cũ. Lúc ấy vào khoảng mười giờ sáng. Từ khi đạp xe ra khỏi nhà sáng sớm tới giờ anh vẫn chưa kiếm được một “cuốc” nào. Nếu đến trưa vẫn không có khách thì coi như mất toi nửa ngày tiền thuê xe và tất nhiên phải nhịn ăn luôn bữa trưa.

 

 

Chỗ Tân đậu xe góc đường Lê Lợi – Tự Do, anh cho là rất “địa lợi”, vì phía chéo bên kia đường là khách sạn Đại Lục, nơi có nhiều khách ngoại quốc tới ở. Họ thường bao luôn cả xe ngày để đi “tham quan” khắp Saigon Chợ Lớn. Đồng thời nơi này cũng là nơi có nhiều kỷ niệm với Tân – những ngày tháng cũ trước 75 – anh đã gặp “người yêu lý tưởng” của mình và sau đó cưới làm vợ. Cuộc sống lứa đôi tràn ngập hạnh phúc cho tới ngày 30 tháng 4 đen tối sầu thảm. Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn một điếu. Vừa phập phèo mấy hơi để dĩ vãng tan theo khói thuốc, thì anh nghe tiếng gọi xích lô bên kia đường. Tân vội quay nhìn. Một người đàn bà đưa tay vẫy gọi. Tân vứt vội mẩu thuốc hút dở, rời khỏi nệm xe, nhẩy phóc lên yên xích lô đạp nhanh tới bên kia vệ đường (vì chỗ này thuộc phạm vi “lãnh thổ” của khách sạn nên họ cấm xích lô đậu. Anh em xích lô chỉ có thể “đột kích” đón khách rồi phóng đi ngay).

“Cô muốn đi đâu?” Tân hỏi bằng tiếng Anh giọng rất chuẩn, rất Mỹ làm cô khách ngạc nhiên. Cô đặt mình lên xe thong thả nói:
”Anh muốn chở tôi đi đâu cũng được. Chạy chậm chậm thôi nhé!”

Tân hỏi lại: “Nghĩa là cô muốn mở một cuộc du lịch bỏ túi trong thành phố?”
“Đúng!”

Trước khi cho xe chuyển bánh, Tân nói: “Cô chưa cho biết sẽ trả tôi bao nhiêu tiền. Chúng ta nên sòng phẳng dứt khoát trước khi bắt đầu.
” Cô khách đáp: ”Tôi sẽ trả anh như đã trả cho những người trước anh.”
“Nghĩa là…?”
“Nghĩa là mỗi giờ tôi trả anh hai đô la.”
“Cô trả vậy hơi nhiều đấy!”

Cô khách nhắc lại câu hỏi của tôi khi nãy:
“Nghĩa là…?”
“Tôi tính cô một đô la một giờ thôi.”

Cô khách một lần nữa tỏ ra ngạc nhiên nhưng không nói gì.

Hôm qua cô trả cho anh xích lô đúng như giá anh ta đòi, thế mà khi trả tiền còn nằn nì xin thêm. Còn anh xích lô này thì lại xin bớt. Con người xứ sở này có vẻ phức tạp, khó hiểu thật.

Tân từ từ đạp xe về phía chợ Bến Thành. Tới nơi, anh hỏi khách:
”Cô đã biết chợ Bến Thành này chưa?” Và không chờ khách khách trả lời, anh nói tiếp:
“Đây là ngôi chợ lớn nhất của thành phố Saigon và có một bề dầy lịch sử.”

Cô khách mỉm cười. Từ lúc lên xe tới giờ. Tân mới thấy khách cười:
“Tôi biết. Hôm trước một người bạn Việt-Nam đã dẫn tôi vào trong chợ ăn món bún thịt nướng, lạ miệng và ngon lắm! Nhất là cái món nước “sốt” mặn mặn với ngọt ngọt và hơi cay.
“Cô ăn được cả nước mắm?”
“Cũng hơi… khó chịu một chút lúc đầu.”

Thấy sự trao đổi nói năng có vẻ thân mật cởi mở, Tân hỏi:
“Tôi hơi tò mò, xin lỗi trước. Cô tới Saigon du lịch hay làm việc?”
“Tôi tới Saigon có chút việc riêng, tiện thể làm chuyến du lịch luôn.”
“Cô tới đây lần đầu?”

Khách khẽ gật và đôi mắt xanh biếc của cô chớp chớp. Bây giờ Tân mới có dịp quan sát người đẹp. Cô khoảng dưới ba mươi tuổi, thân hình thon thả dong dỏng cao bó gọn trong chiếc áo pull trắng và chiếc quần gin mầu xanh đậm. Mớ tóc vàng óng ả của cô chẩy dài buông xõa xuống cái lưng ong. Nước da cô trắng hồng mịn màng. Những sợi lông tơ trên hai cánh tay trần tròn lẳn gợi cảm. Tân cũng đã có dịp vuốt ve những cánh tay như thế, nhưng xa xôi lắm rồi. Theo sự nhận xét sơ khởi của tân thì nhan sắc cô nàng ở mức trung bình nhưng khá quyến rũ ố hình như cô có cái duyên ngầm của các cô gái phương Đông.
“Cô mới từ Mỹ tới?” Tân hỏi.

Khách khẽ gật.
“Tôi đoán cô là người miền Đông nước Mỹ, Nếu không ở Washington DC. thì cũng bang nào vùng đó.”

Lần này cô nàng ngoái hẳn mình về phía sau nhìn Tân:
“Anh căn cứ vào đâu mà đoán tôi là người miền Đông?”

Tân hóm hỉnh cười:
“Giọng nói của cô và nhất là nước da của cô. Chỉ có những người sinh sống ở xứ lạnh mới có nước da trắng hồng như cô.” Tân nói nịnh thêm. “Đúng là nước da lý tưởng các cô gái mơ ước.”

Cô khách càng thêm ngạc nhiên. Một anh đạp xích lô, tức thuộc giới lao động bình dân thất học, mà lại có vẻ hiểu biết những sự việc ngoài tấm mắt của anh ta. Rồi còn biết cả nịnh đầm ố món “võ” của bọn đàn ông có học. Cô cười nhẹ trả lời Tân:
“Anh đoán giỏi đấy! Tôi sinh ra ở thành phố Charlotte bang North Carolina. Lớn lên đi học đi học và sống ở Washington DC.”

Tới chợ bến Thành cô bảo anh ngừng xe để cô vào chợ mua một món gì đó. Cô hỏi anh có đợi được không. Anh gật đầu. Mươi phút sau cô trở ra trên tay cầm một cái gói bọc giấy nhỏ.
“Bây giờ cô muốn tôi chở cô đi đâu?”
“Tùy anh.” Tân suy nghĩ một chút:
“Cô đã vào Chợ Lớn chưa?”
“Hay đấy! Tôi nghe bạn bè nói Chợ Lớn là thành phố của người Hoa như ở Hồng Kông vậy. Nên đi coi cho biết.”
“Cô đã đến Hồng Kông?”
“Tôi đến đó hồi còn là con nhóc đi với bố mẹ.”

Tân có vẻ ngập ngừng trước khi nói:
“Xin lỗi, cô đã lập gia đình?”
“Phải, tôi đã lập gia đình gần mười năm. Vợ chồng tôi có một con gái.”

Nói xong, cô khẽ thở dài, mặt thoáng buồn, đôi mắt xanh biếc đăm đăm như nhìn vào cõi xa xăm mơ hồ nào đó. Tân thấy vậy không hỏi nữa. Anh lặng lẽ đạp xe trên đường Trần Hưng Đạo rộng dài, dưới trời nắng bắt đầu gay gắt. Những chiếc xe gắn máy của bọn trẻ gầm rú phóng vùn vụt, đôi lúc cô khách sợ hãi kêu lên vì tưởng nó đâm nhào vào mình. Từ đường Đồng Khánh, cô bỏ Tân ngừng xe trước một tiệm tạp hóa. Lúc trở ra cô khoe với Tân một vật nhỏ:
”Anh thấy đẹp đấy chứ?” Tân thốt lên:
“Tưởng gì, cái này bên Mỹ đâu thiếu.”
“Phải, bên Mỹ không thiếu, nhưng đây là thứ tôi mua ở Chợ Lớn Việt Nam làm kỷ niệm, đồng thời làm quà tặng con gái tôi.”

Dứt lời cô khách lên xe ngồi, Tân đạp tiếp. Chợt cô quay lại hỏi Tân:
“À, tôi quên hỏi anh. Sao anh biết thứ tôi vừa mua bên Mỹ có nhiều?”
“Vì tôi đã ở bên đó và có mua nước tặng người yêu. Cái cô vừa mua là do người Tàu Chợ Lớn làm nhái theo đồ của Mỹ.”
“Ồ, anh đã ở bên Mỹ?” “Đi du lịch hay du học?”
“Tôi đi học.”

Cô lại thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên và nhắc lại:
“Đi học? Thì ra anh sang Mỹ du học!”
“Không phải! Tôi đi lính được tuyển sang Mỹ học lái máy bay. Tôi sang Mỹ với tư cách sinh viên sỹ quan Không Quân!”

Cô khách người Mỹ đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Cô có vẻ thích thú nghe những điều Tân nói. Cái con người lam lũ nghèo khổ đạp xích lô này đã từng là sỹ quan Không Quân và đã sang Mỹ học? Cô nửa tin nửa ngờ, dò đường:
“Anh sống ở Mỹ lâu không? Bang nào nhỉ?”

Tân đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Chiếc áo cũ mỏng mầu đen nhiều miếng vá anh mặc ướt đẫm mồ hôi. Tân cảm thấy bắt đầu mệt và khát nước. Chén xôi bắp nhỏ ăn từ sáng sớm, giờ đã tiêu hết. Anh trả lời khách không mấy hào hứng sốt sắng như lúc đầu:
“Tôi học lái máy bay tại Pensacola bang Louisiana vào năm 1967. Thời gian huấn luyện khoảng năm rưỡi. Tới năm 1972 tôi lại có dịp đi tu nghiệp ở Texas hơn tám tháng.”
“Anh còn nhớ tên khóa huấn luyện?”
“Khóa 67A. Khóa này tôi được huấn luyện cùng với bọn Pilot Hải Quân Mỹ.”

Sau khi thảng thốt kêu lên tiếng “ô”, cô ngưng hỏi và im lặng một lúc lâu.

Tân cũng chẳng quan tâm đến sự im lặng của cô khách. Anh đang mải lo đối phó với những xe cộ chạy hỗn độn, vô trật tự trên đường phố. Chỉ cần sơ ý một chút, có thể gây ra tai nạn thương tích cho người ngồi trên xe. Hai bên lề đường Đồng Khánh, người người đi lại tấp nập. Hàng hóa của các tiệm bầy tràn ra cả lề đường. Rồi những gánh hàng quà rong, những xe bán nước ngọt, trái cây, tạo nên một cảnh hoạt náo vui mắt. Cô khách có lẽ vui lây với không khí nhộn nhịp này, nhất là nhìn những người đàn bà Hoa mặc những bộ quần áo mỏng, giản dị. Cô hỏi Tân:
“Họ chắc không phải là người Việt?”
“Vâng, họ là người Hoa. Thành phố này là thành phố của người Hoa dù dưới thời Việt Nam Cộng Hòa hay thời Cộng sản cai trị cũng vẫn thế. Khó mà thay đổi được họ!”
“Không phải riêng nước anh. Ở bên Mỹ cũng vậy. Một thời gian nào đó, người Hoa sẽ cai trị thế giới.”

Ngưng chút cô nói tiếp: “Cả về chính trị và kinh tế. Vì thời đại chúng ta, kinh tế đang chi phối thống lĩnh toàn cầu!” Tân cãi:
“Tôi không đồng ý với cô. Người ta đã dùng kinh tế để làm cái roi cai trị, nhưng theo tôi nhất định Cộng sản sẽ thất bại cả về chính trị lẫn kinh tế.”
“Tôi nghĩ với Cộng sản thì chỉ có thể dùng vũ lực.”
“Dùng vũ lực, Mỹ đã thất bại ở Cuba trước đây. Chỉ có Cộng sản mới triệt được Cộng sản thôi. Sức tác động bên ngoài không đủ mạnh bằng sự tự hủy hoại từ bên trong.”

Cả buổi trưa hôm đó, cô khách người Mỹ và anh xích lô đạp mải mê tranh luận về nhiều vấn đề thời sự, chính trị, học thuyết, triết lý, chiến tranh, hòa bình, cộng sản, tư bản… quên cả đường phố chật chội xe cộ chen lấn bừa bãi. Năm đó là năm 1985, thành phố Saigon còn nhiều xe đạp, xe gắn máy, ít xe hơi. Riêng anh đạp xích lô quên cả mệt và đói. Anh đang hào hứng. Đã lâu lắm anh không hề dám nói năng thảo luận với bất cứ ai những vấn đề húy kỵ trên. Nói với cô khác lạ này không sợ báo cáo, không sợ xuyên tạc, chụp mũ. Tân yên tâm tự nhủ mình như vậy nên anh “phát ngôn mạnh bạo xả ga”. Gần xế chiều, Tân đạp xích lô chở cô khách Mỹ về khách sạn Đại Lục. Bước xuống khỏi xe khách mới hỏi:
“Nãy giờ tôi cứ thắc mắc mãi. Anh là sỹ quan Không Quân từng sang Mỹ học lái máy bay, sao lại… lại đi đạp xích lô?”

Tân phì cười trước câu hỏi này. Đúng là một người Mỹ ngây ngô, chẳng biết gì về làn sóng đỏ đang tràn ngập tràn phá hủy hoại khốc liệt cả miền Nam. Anh trả lời:
“Vì tôi bị Cộng sản bắt đi tù.”
“À, ra thế!” “Anh bị tù có lâu không?”
“Gần mười năm.”
“Trời! Anh được tha lâu chưa?”
“Mới sáu tháng.”
“Ô là! Ở tù Cộng sản chắc là khổ lắm?”
“Tất nhiên. Chúng tôi đã trải qua những năm tháng sống thời Trung Cổ.”
“Tại sao các anh không vùng lên phản kháng, chống đối? Dân tộc anh là một dân tộc có cả một lịch sử oai hùng về ý chí quật cường, về truyền thống tranh đấu…”

Tân cười nửa miệng:
“Đồng thời dân tộc tôi cũng có truyền thống nhẫn nhục chịu đựng gian khổ.”

Cô khách người Mỹ mở bóp lấy hai tờ giấy năm đô la đưa cho Tân và hẹn sáng mai tới đón cô đi chơi tiếp. Tân cầm hai tờ giấy bạc ngần ngừ. Anh định đưa trả lại một tờ thì cô khách Mỹ đã bước vào trong khách sạn..

Sáng hôm sau đúng chín giờ, Tân đạp xe tới góc đường Lê Lợi – Tự Do đã nhìn thấy cô khách đứng chờ.. Cô giơ tay vẫy chào anh rồi bước lại ngồi lên xe.
“Hôm nay cô muốn đi đâu?”
“Đi đâu cũng được. Tôi muốn có nhiều thì giờ để trò chuyện với anh.”
“Hôm qua cô trả tôi nhiều tiền quá. Công của tôi chỉ đáng nửa số tiền ấy thôi! Thế là hậu hĩnh lắm rồi. Hôm nay tôi sẽ đạp để trừ vào số tiền cô trả dư hôm qua.”

Cô khách Mỹ chỉ cười và chớp chớp đôi mắt xanh biếc không có ý kiến gì, nhưng trong đầu cô nẩy một câu hỏi: sao lại có anh chàng gàn dở thế nhỉ? Đã nghèo khổ mà lại còn chê tiền?

Còn Tân bây giờ mới nhìn thấy đôi mắt xanh mầu ngọc bích và trong sáng như mắt mèo đẹp tuyệt vời của cô. Trong đôi mắt ấy anh đọc thấy nhiều thứ lắm: hiền hòa, dịu dàng, nhân bản và cả nỗi đau tiềm tàng ẩn sâu. Đúng, đôi mắt là linh hồn của con người. Các cụ mình xưa nhận xét thật tài tình tinh vi. Xe chạy ra bờ sông Saigon trước khách sạn Majectic. Cô khách ngỏ ý muốn ngồi chơi nơi vườn hoa. Tân nói đùa:
“Tuy ngồi chơi, tôi vẫn tính tiền cô theo giờ đạp xe đấy!”
“Tốt thôi, không có gì đáng phải bàn cãi!”

Để an toàn, khỏi lo lắng, Tân đặt chiếc xích lô ngay cạnh chỗ ghế ngồi và khóa bánh xe lại bằng dây xích. Anh nói với cô khách Mỹ:
“Cho chắc ăn!”

Cô khách cười: “Xe để sát bên cạnh anh, còn kẻ nào dám cả gan lấy cắp!”
“Bần cùng sinh đạo tặc cô ạ! Dân Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ này. Mà bây giờ thì cả nước đều “bần cùng” nên bất cứ việc gì cũng có thể “sinh đạo tặc”. Họ không ăn cắp nữa mà là ăn cướp. Đã tới mức ăn cướp thì họ đâu còn sợ cái gì. Lão Lê-Nin nói đúng đấy, nếu mất, họ chỉ mất cái cùm thôi!”

Cả hai cùng cất tiếng cười vui vẻ. Bờ sông Saigon lúc nào cũng tụ tập đông người. Thấy khách ngoại quốc, bọn trẻ nhỏ chuyên bán những đồ lặt vặt rẻ tiền cho du khách, xúm lại vây quanh hai người mời mọc, gạ gẫm, nài nỉ. Chúng nói những câu tiếng Mỹ bồi ngây ngô ngộ nghĩnh. Rồi đám bán hàng rong xúm xít như ruồi bu. Tân khó chịu lắm, luôn tay xua đuổi thì bị mắng trả tục tĩu. Còn cô khách Mỹ cứ cười cười lấy làm vui thích hoạt cảnh này. Cô mua một gói đậu phụng rang cho mình, một gói cho Tân và mỗi người một chai côca -cola. Lâu lắm Tân mới uống lại thứ nước ngọt của “đế quốc Mỹ” này. Sao mà ngon ngọt đến thế. Mười mấy năm trời khi ở trong tù và cả lúc về ngoài đời anh chưa một lần được uống lại. Tiền ăn còn lo chưa nổi lấy đâu tiền uống côca -cola. Khi bóc gói đậu phụng, anh thất vọng. Nó đã bị hư từ lâu, nhưng người ta vẫn đem bán. Cô khách nói:
“Nếu ở bên Mỹ, nhà sản xuất bị kiện sặc gạch đấy!”

Vứt hai gói đậu phụng hư xuống sông xong, hai người ngồi nhìn trời đất. Một lúc lâu cô khách chợt hỏi:
“Trong khi ở Mỹ, anh có quen thân người bạn Mỹ nào không?”
“Có chứ! Bạn cùng khóa thì nhiều lắm, nhưng thân thiết thì chỉ một hai người.”
“Anh còn nhớ tên?”
“Nhớ chứ. Một anh tên là Tom Hamilton Một anh tên là Edward Carter. Không biết anh chàng này có họ hàng gì với lão Tổng Thống Jimmy Carter không!”

Cô khách Mỹ nói nhanh: “Edward Carter! Anh có nhớ sai tên không? Anh ta người ra sao?”

Tân vỗ vỗ trán như gọi những hình bóng cũ trở về:
“Anh ta cao lớn hơn tôi một chút và cũng tuổi tôi, năm nay được ba mươi sáu tuổi. Anh em cùng khóa thường nói đùa nếu cái mũi tôi cao một chút, dài hơn một chút, và nước da trắng thì đúng là anh em sinh đôi với Edward Carter.
” Cô khách Mỹ chăm chăm nhìn thẳng vào mặt Tân như quan sát, như dò xét. Rồi cô không giấu được một cái thở dài. Tân ngạc nhiên hỏi:
“Sao, nếu tôi đoán không lầm thì có thể cô quen biết hoặc có họ hàng với anh chàng Edward Carter này.
” Cô khách không trả lời. Cô lơ đãng nhìn sang phía bên kia bờ sông. Miệng cô lầm bầm mấy tiếng gì đó, Tân nghe không rõ. Tân móc túi lấy gói thuốc rê vấn hút.
“Anh hút thuốc gì mà có mùi khét thế?” Cô khách Mỹ hỏi.
“Đây là thuốc rê. Thứ thuốc rẻ tiền nhất của người Việt Nam. Lúc ở trong tù, đối với chúng tôi thuốc này là loại quý đấy cô ạ! Chúng tôi còn hút cả lá chuối khô và rễ cây nữa kìa!”
“Khổ cực vậy, thiếu thốn vậy mà các anh chịu đựng được để còn giữ được mạng sống trở về đời, tài thật!”
“Không ai, kể cả chúng tôi cũng không tin là mình sống nổi. Nhưng như vừa nói với cô đấy. Dân tộc tôi có sức chịu đựng gian khổ, bền bỉ dẻo dai. Hơn trăm năm nay chưa lúc nào dân tộc sống trong thanh bình yên ổn, trong no ấm sung sướng. Chiến tranh cứ tiếp diễn liên miên, hết ngoại xâm lại tới nội chiến, rồi cả nước chịu ảnh tù đầy đói rách nhục nhã. Nếu như người Mỹ của cô thì ít ra cũng chết nửa nước.”
“Sao anh không lái máy bay chạy ra ngoại quốc như một số người đã làm?”
“Tôi còn cha mẹ già. Cha mẹ tôi nhất định không chịu rời bỏ quê hương. Biết rằng ở lại sẽ phải chịu cảnh tù đầy và có thể bị giết chết nữa, nhưng tôi không thể bỏ mặc cha mẹ. Hơn nữa tôi còn con nhỏ mới sinh.”
“Bây giờ chắc con anh đã khá lớn. Thế còn vợ anh? Chị ấy vẫn một lòng đợi anh về? Tôi đọc sách báo thấy họ hết lời ca ngợi người đàn bà Á-Đông lúc nào cũng giữ trọn vẹn tình nghĩa vợ chồng. Dù chồng chết, còn trẻ vẫn ở vậy thờ chồng nuôi con.
” Tân lắc đầu thở dài, vứt mẩu thuốc xuống đất: “Tôi không có cái diễm phúc ấy. Sau khi tôi bị tù, vợ tôi để lại con cho cha mẹ tôi nuôi, đi lấy chồng khác.”
“Ồ, tôi xin lỗi. Tôi không có ý khơi lại sự đau buồn của anh. Nhưng tôi hơi tò mò, thế anh có oán hận người vợ không?”
“Cô ấy còn trẻ nên phải lấy chồng khác, đó là sự thường, có gì mà oán hận. Chỉ có điều hơi buồn là cô ấy lấy kẻ thù của chúng tôi.
” Đôi mắt xanh biếc của cô khách Mỹ chớp chớp. Cô có vẻ xúc động về chuyện riêng tư của Tân.
“Còn cha mẹ anh?”

Tới lượt Tân thở dài nuốt nước bọt như cố nén nỗi đau buồn xuống đáy lòng:
“Cha mẹ tôi đều mất khi tôi còn ở trong tù!”

Cô khách Mỹ kêu lên: “Thế còn đứa nhỏ?”
“May mắn cho nó được ông bà ngoại thương xót đem về nuôi, mặc dù ông bà cũng rất nghèo khổ. Ít ra thì cũng còn có những đốm lửa trong đêm tối phải không? “.

Và lần này chính Tân ngạc nhiên trố mắt nhìn cô khách Mỹ. Cô lấy khăn giấy chậm nước mắt. Cô khóc. Rồi cô đưa đôi mắt xanh biếc đẫm nước mắt nhìn Tân nói:
“Tôi tên Jacqueline Hunter. Còn anh?”
“Tôi là Tân, Đỗ Tân, cựu đại úy phi công Việt Nam Cộng Hòa. Rất hân hạnh được quen biết cô.”

Sau một lúc suy nghĩ đắn đo, Jacqueline nói:
“Anh có thể cho tôi địa chỉ để khi về Mỹ may ra tìm được mấy người bạn cũ của anh. Biết đâu họ chẳng hết lòng lo giúp đỡ can thiệp cho anh.”
“Cám ơn Jacqueline. Tôi ở số nhà…. Hẻm…. Đường…. Thành phố Saigon.”

Họ còn ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Jacqueline có ý mời Tân đi dùng bữa trưa, nhưng anh từ chối, mặc dù bụng đang đói. Xuống xe cô móc bóp rút ra tờ giấy một trăm đô đưa Tân, nói:
“Anh cầm lấy để chi dùng. Rất tiếc tôi không thể giúp anh hơn.
” Tân từ chối ngay: “Cám ơn Jacqueline. Tôi cũng rất tiếc không thể nhận số tiền này. Tôi không muốn nhận một sự thương hại, hay một sự bố thí.”
”Không, đây là một tấm lòng. Anh hãy nhận lấy ở đây một tấm lòng.” Dứt lời Jacqueline nhét tờ giấy bạc một trăm đô vào tay Tân và bước nhanh vào trong khách sạn. Trước khi khuất hẳn, cô quay lại nói với Tân:
“Tạm biệt Tân, người bạn mời quý mến của tôi.”

Tân nhìn tờ giấy bạc một trăm đô nằm trong tay sững sờ. Một số tiền quá lớn và quá bất ngờ đối với anh. Chừng như định thần lại được, Tân phóng mình bước nhanh như chạy vào khách sạn, miệng gọi lớn: “Jacqueline! Jacqueline! Tôi không thể! Tôi không nhận số tiền này. Tôi xin trả lại cô!”

Nhưng Jacqueline đã mất hút. Anh bảo vệ khách sạn thấy gã xích lô chạy xồng xộc vào trong khách sạn miệng la lối ầm ĩ liền chặn Tân lại, nói lớn, giọng hách dịch:
Anh kia! Ra khỏi đây lập tức!”

Tân giơ tờ giấy một trăm đô nói:
“Tôi đưa tiền trả cô khách Mỹ!”
“Cái gì?ạ Cô ta đánh rơi tiền à?”
“Không, cô ấy trả tiền cuốc xe cho tôi một trăm đô, trong khi giá chỉ có năm đô.”

Anh bảo vệ ngẩn người ra nói:
“Lạ nhỉ? Đi cuốc xe có năm đô mà trả một trăm đô? Có khi là đô giả đấy! Đưa đây tôi coi nào!”

Nhưng Tân không đưa làm anh bảo vệ khách sạn nổi giận:
“Thôi, cút cha anh đi. Một trăm đô mà chê à? Anh đạp xe cả năm liệu có kiếm được nổi số tiền này không? Gặp con mụ Mỹ điên khùng vớ món bở thì hãy chuồn mau đi, không nó đổi ý ra đòi lại, thì chỉ có nước ăn cám, anh bạn ạ!”

Tân cầm tờ giấy bạc một trăm đô chậm rãi bước ra khỏi khách sạn. Một trăm đô, đúng là số tiền không nhỏ, nhưng công sức của anh bỏ ra đâu có xứng đáng để nhận sồ tiền này. Thôi sáng mai tới trả cô ta vậy. Cả đêm đó Tân không ngủ được. Anh cứ trằn trọc “đánh vật” mãi với tờ giấy bạc một trăm đô. Tại sao lại có thể như thế nhỉ? Đi cuốc xe áng giá năm đô, cô ta trả một trăm đô. Chẳng lẽ là bạc giả như anh chàng bảo vệ khách sạn nói? Không! Nhất định không phải rồi! Cần gì cô ta phải làm cái việc lươn lẹo dối trá, Vậy tại sao cô ta trả cho mình cả một trăm đô? Thương hại? Bố thí? Một tấm lòng? Dù có là gì đi chăng nữa thì sáng mai cũng vẫn phải trả lại tiền cho cô ấy.

Tân thở dài. Tắt đèn. Bật đèn. Vuốt ve ngắm nghía tờ giấy bạc một trăm đô. Tờ giấy mầu xanh lá cây như sáng rực trong đêm. Một trăm đô đâu có nhỏ. Có khác gì tiền từ trên trời rơi xuống. Nhưng nhất định ngày mai phải trả lại cô ta, cô Jacqueline quý hóa: Tôi rất trân trọng tấm lòng của cô nhưng tôi không thể nhận số tiền này. Chúng ta chỉ mới có hai ngày quen biết, đâu đã có ân tình nghĩa trọng gì. Cám ơn lòng tốt của cô. Cám ơn người đàn bà ở phương trời xa đến. Nghĩ tới những người cùng chung nòi giống sống quanh tôi, cô làm tôi thấy đau đớn tủi nhục.

Hôm sau mới tám giờ sáng, Tân đã đạp xe tới chỗ cũ để đợi Jacqueline, mặc cho một người khách Tây phương đang vẫy tay gọi xe bên kia đường. Anh sốt ruột chờ, đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, thỉnh thoảng thọc tay vào túi quần để yên trí tờ giấy bạc một trăm đô vẫn còn nằm trong đó. Chín giờ đã tới. Rồi chín giờ mười phút. Chín giờ mười lăm phút. Không thấy bóng dáng Jacqueline đâu cả. Chín giờ hai mươi phút. Tân thấy anh bảo vệ khách sạn hôm qua bước lại phía anh. Chẳng lẽ tên này gặp mình kiếm cớ gây sự để đoạt tờ giấy một trăm đô? Tiền bạc làm con người mờ mắt dễ trở thành bất lương. Anh bảo vệ khách sạn tới bên Tân dừng lại và hỏi vẫn giọng hách dịch:
“Có phải anh là người hôm qua chở cô khách Mỹ?”

Tân gật. Anh ta đưa Tân một mảnh giấy:
”Này cầm lấy! Thư của cô ta đấy!” Dứt lời anh ta bước về khách sạn.

Thư là một mảnh giấy nhỏ có in tiêu đề khách sạn. Jacqueline viết bằng tiếng Anh:
“Tân mến! Hôm nay tôi có việc bất thần phải đáp máy bay đi Hà Nội. Chúc vui khỏe. Hẹn gặp lại.”

Cô ký tên một chữ tắt “J”.

 

2
Những ngày và cả những tháng sau đó Tân vẫn thường đậu xe góc đường Lê Lợi – Tự Do có ý chờ người đẹp Mỹ Quốc bất thần xuất hiện. Anh biết vô vọng nhưng vẫn cứ mong, cứ đợi. Rồi Tân tự an ủi đó là một giấc mơ, một giấc mơ đẹp có thật và sẽ không bao giờ hiện ra lần nữa. Anh chợt nhớ hai câu thơ của nhà văn Duyên Anh mà anh được nghe trong trại tù: “Đời rất hiếm hoi lần Bụt hiện. Cho nên đoạn kết thảm vô cùng.” Đời mình chưa đến đoạn kết, nhưng đến nước này thì đúng là “thảm vô cùng” rồi, còn chờ còn mong gì nữa “lần Bụt hiện”. Rồi anh lại lẩn thẩn nghĩ tới bốn chữ “Hồn Bướm Mơ Tiên” – tên một cuốn truyện của nhà văn Khái Hưng. Hồn Bướm Đỗ Tân đang mơ tới nàng tiên Jacqueline Hunter. Tiên đã về vùng đất Thiên đường của Hạ giới, còn bướm thì vẫn mơ màng nơi chốn địa ngục trần gian. Buổi tối, lúc ấy gần mười hai giờ đêm Tân mới về tới nhà. Hôm nay xui xẻo chỉ chạy được ba “cuốc” xe ngắn, vừa đủ tiền chi cho hai bữa ăn. Tới trước cửa nhà Tân thấy chị chủ nhà đứng ngay trước cửa có vẻ đợi anh. Tân hơi chột dạ. Hôm nay là ngày mùng năm đầu tháng nhưng anh vẫn chưa có tiền trả tiền thuê buồng. Bà ta đợi mình về để đòi đây. Số tiền Jacqueline cho anh đã tiêu hết, “tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Tân định cất tiếng xin khất ít ngày thì chị chủ nhà đã tươi cười đưa anh một tờ giấy, nói:
“Chú Tân có tin vui nè!” Tân cười nhạt:
“Tin vui? Tôi làm gì có tin vui. Giỡn làm chi chị Tư?” Chị cho tôi nợ tiền thuê buồng mấy ngày nữa nghe!”

Chị chủ nhà vẫn cười cười nói:
“Tôi nói thiệt mà! Giấy gọi chú lên Tân Sơn Nhứt lãnh quà từ Mỹ gửi.”

Tân sửng sốt: “Quà ở Mỹ gửi? Lạ nhỉ?” Từ ngày ra tù về Tân chưa hề nhận được một lá thư nào từ ngoại quốc gửi về, nói chi đến việc nhận quà! Anh có nghe tin cánh Không Quân bên Mỹ tổ chức quyên góp tiền bạc cứu trợ, nhưng chưa tới tay anh. Có lẽ vì anh chưa liên lạc được với họ. Tân khấp khởi mừng thầm yên trí đây là quà của “các bạn ta” gửi. Anh cầm tờ giấy báo tin vui bước vào nhà đến bên ngọn đèn điện vàng vọt yếu ớt. Chị chủ nhà bước theo sau luôn miệng hỏi:
“Sao? Quà của ai gửi vậy?”

Bỗng Tân đưa tay trái đặt lên ngực. Tim anh đập nhanh, dồn dập. Anh coi lại tờ giấy báo tin lần nữa Thật bất ngờ ngoài cả sức tưởng tượng của Tân. Người gửi quà là Jacqueline. Số quà nặng tới hai mươi ký. Ngày hôm sau Tân phải chạy vạy mới mượn được đủ tiền dự phỏng để đóng thuế. Tất nhiên trong số tiền này có cả tiền của chị chủ nhà. Chị cứ luôn miệng lẩm bẩm:
“Trời đâu có phụ kẻ hiền lành.”

 

3
Washington DC. ngày… tháng… năm….

Tân thân mến,

Khi nhận được thư này tôi hy vọng Tân đã nhận được gói quà tôi gửi. Chắc Tân ngạc nhiên lắm? Những quần áo, vật dụng, radio, cassette không phải của mình tôi đâu mà còn là của một số bạn bè phi công cùng khóa với Tân gửi đấy! Khi ở Hà Nội về nước, tôi liền liên lạc ngay với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth ở Dallas nên có được một số địa chỉ các bạn đồng khóa với Tân. Biết tin anh họ mừng lắm. Sau khi nghe tôi kể hiện cảnh của anh, họ buồn rầu khổ sở và tức tốc hè nhau góp gửi cho anh một số tiền cũng như vật dụng quần áo. Về tiền được hơn một ngàn đô. Tôi đang tìm cách gửi sao cho sớm đến tay anh mà không bị mất. Tôi mong anh sẽ hài lòng về số quà tặng “đó là những tấm lòng của bạn bè” chứ không phải “sự thương hại hay bố thí” như một lần anh đã hiểu lầm. Sở dĩ chúng tôi gửi tiền và mua những món đồ cho anh là do một người bạn Việt Nam chỉ dẫn. Anh ta bảo những thứ này ở Việt Nam đang bán được giá cao. Bây giờ tôi xin nói một chút về tôi chắc anh sẵn lòng nghe? Tôi đến Việt Nam không phải để du lịch. Tôi đến Việt Nam với mục đích duy nhất tìm kiếm tung tích chồng tôi. Chồng tôi chính là Đại Úy Phi Công Edward Carter thuộc Lực Lượng Hải Quân Hoa Kỳ, người học cùng khóa và là bạn thân của anh.”

 

 

Coi tới đây Tân ngừng lại. Bất ngờ quá! Anh cố hình dung lại người bạn phi công cùng khóa Edward Carter. Sau khi mãn khóa về nước, Tân có thư từ qua lại với anh ta, nhưng chỉ được hai năm sau đó mất liên lạc. Anh nhớ mang máng là Edward Carter được thuyên chuyển tới Đệ Thất Hạm Đội ở Thái Bình Dương. Lúc học ở Mỹ, Tân và Edward Carter có nhiều kỷ niệm, nhất là những buổi cuối tuần được nghỉ đi kiếm bồ bịch, mải vui quá ngày phép, hai người bị kỷ luật. Tân thở dài. Mới đó đã mười mấy năm trôi qua. Tân coi tiếp thư:

“Trong một phi vụ oanh tạc vùng Thanh Hóa, máy bay của chồng tôi bị bắn hạ. Anh được báo cáo mất tích.” Tân lại ngưng coi và đặt lá thư xuống cái bàn gỗ nhỏ cũ kỹ đặt nơi đầu giường. Anh chống tay lên cằm, suy nghĩ trong xúc động. Edward bị bắt sống hay bị chết? Nếu bị bắt sống thì nhất định Jacqueline đã biết tin, vì tất cả tù binh Mỹ đều bị nhốt trong “khách sạn Hilton ” ở Hà Nội. Tân cầm thư coi tiếp:

“Tôi không tin thông báo của chính phủ. Bản danh sách quân nhân Mỹ mất tích còn quá dài. Tôi phải tự đi tìm chồng tôi vì tôi tin chồng tôi chưa chết. Chúng tôi mới lập gia đình có một đứa con gái. Khi chồng tôi mất tích nó được hai tuổi.

Tôi đến Việt Nam lần vừa rồi là lần thứ hai. Lần trước tôi đến Hà Nội và đi nhiều nơi, kể cả Thanh Hóa. Mất hơn một tháng chẳng kiếm được tin tức gì. Một người bạn viết thư cho tôi biết ở Saigon có một “tuy-ô” cung cấp người Mỹ mất tích rất đáng tin cậy. Thế là chẳng cần đắn đo suy nghĩ, tôi vội vã book vé bay sang Việt Nam liền. Tôi đã bị lừa nhưng được gặp anh. Đúng như người bạn Mỹ của anh nhận xét. Nếu cái mũi cao thêm một chút, dài thêm một chút, và nước da trắng thì anh đúng là bản sao của chồng tôi. Sao lại có thể có hai người giống nhau như thế và sao lại có sự tình cờ gặp gỡ giữa tôi và anh như thế nhỉ? Hôm đầu tiên ngồi trên chiếc xích lô của anh, tôi ngoái lại nhìn anh, không khỏi giật mình sửng sốt. Suýt chút nữa thì tôi kêu tên chồng. Anh có biết không, trong lúc liên lạc với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth tôi mới biết thêm anh là người đạt số điểm cao nhất ở khóa đó. Ông chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện già đã về hưu vẫn còn nhớ tới anh và không ngớt lời ca ngợi anh một thanh niên thông minh giầu nghị lực, một phi công đầy triển vọng tài ba. Nói để anh mừng nhé. Các bạn người Mỹ của anh đang vận động với chính phủ can thiệp cho anh sang Mỹ định cư đấy. Công việc này tất nhiên rất khó khăn và nhiều trở ngại, nhưng ai có quyền cấm người ta hy vọng nhỉ, có phải thế không? Từ nay tôi sẽ liên lạc thường xuyên với anh qua thư từ. Anh cần những gì có thể cho tôi biết để tôi và các bạn anh cố gắng giúp. Dưới đây là một số địa chỉ các bạn cùng khóa với anh. Anh nhớ viết thư cho họ nhé. Có mấy người mang cấp bậc Đại Tá rồi đấy. Họ sẽ có thư cho anh, nếu không có gì trở ngại về phía anh.

Chúc anh vui khỏe.
J.

Ít ngày sau, đúng như thư Jacqueline viết, có một người lạ đem đến cho Tân hơn một ngàn đô. Tân cầm số tiền trong tay mà vẫn ngỡ như mình nằm chiêm bao. Anh không nén được xúc động, tay cầm cây bút run run khi viết mấy chữ biên nhận tiền. Rồi anh thấy đôi mắt mình cay cay… Anh đã không cầm được nước mắt. Đêm đó Tâm nằm mơ thấy mình chở Jacqueline trên xe xích lô. Tới một quãng vắng vẻ Jacqueline bảo anh ngừng xe lại rồi nàng rời khỏi xe, bất thần ôm chầm lấy anh hôn thắm thiết. Khi Tân giật mình thức giấc anh cảm thấy như mùi nước hoa, mùi da thịt của nàng còn phảng phất đâu đây.

 

4
Tân đi tù khoảng hơn năm thì vợ anh đi lấy chồng khác, một cán bộ ngoài Bắc vào. Chính chị đã dẫn người này lên tận trại tù ép buộc Tân ký giấy ly dị với hứa hẹn sẽ can thiệp cho anh về sớm. Tân chẳng tin vào cái sự hứa hẹn này nhưng với một người vợ sớm thay lòng đổi dạ như vậy, anh không còn gì để lưu luyến cầm giữ. Anh chỉ lo ngại cho đứa con nhỏ mới ba tuổi. Nhưng anh yên tâm phần nào khi biết con mình được ông bà ngoại đem về nhà nuôi. Khi Tân từ trại tù vùng cao nguyên trở về Saigon, anh tới ngay nhà ông bà già vợ. Con gái anh đã hơn mười tuổi, gầy và hơi xanh. Nó ôm chầm lấy bố khóc như mưa. Tân định ở nhờ ông bà già vợ ít ngày nhưng căn phòng quá nhỏ hẹp mà lại chứa những năm người: ông bà già vợ, vợ chồng người em vợ và con gái Tân nên không còn chỗ cho anh. Sau bữa cơm đạm bạc chỉ có rau muống muối mè (để đãi mừng chàng rể ở tù về), Tân phải kiếm cớ đi chỗ khác ngủ, mặc dù ông bà già vợ cố giữ lại “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu”. Đêm đó, đêm đầu tiên được sống tự do ngoài đời, Tân đã phải nằm ngủ trong mái hiên của một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô và phải chen chúc với đám ăn mày, xì ke ma túy. Sáng dậy gói quần áo nhỏ Tân mang từ trại tù về cũng bị “chôm” mất. Tân đi kiếm nhà một người bạn tù về trước anh và được người này giới thiệu việc làm: rửa chén đĩa một tiệm phở. Làm được mấy ngày chưa kịp lãnh lương tuần Tân bị thôi việc. Anh đã làm sứt mẻ và vỡ quá nhiều chén đĩa trong khi rửa.

 

 

Mãi Tân mới kiếm được một việc tương đối “độc lập tự do” và hợp với “khả năng” của đa số tù cải tạo về: đạp xích lô. Tuy “lao động” vất vả cực nhọc lại không ”vinh quang” chút nào Tân cũng kiếm được đủ ngày hai bữa ăn và thuê một cái buồng nhỏ trong xóm nhà lá để đêm về có chỗ ngủ. Hôm nào chạy được khá tiền một chút, anh mời cả gia đình bố mẹ vợ và cô con gái đi làm một chầu phở bình dân. Cuộc sống khó khăn chật vật nhưng Tân vẫn lấy làm hài lòng vì dù sao vẫn còn hơn gấp trăm lần trong trại tù cải tạo, có làm không có ăn. Tân cho rằng khi con người đã trải qua cuộc sống trong tù cải tạo của cộng sản rồi thì tất cả mọi sự trên cõi đời này đều… nhẹ như lông hồng!

Có được số tiền “ngoại viện” Tân đem một nửa “phân phối” cho bố mẹ vợ, bạn bè và cả chị chủ nhà. Riêng cô con gái Tân dẫn đi may một lúc mấy bộ quần áo và mua cho chiếc xe đạp để đi học. Tân viết thư gửi Jacqueline bầy tỏ lòng biết ơn. Với các bạn bè người Mỹ cũng vậy. Và cứ thế mỗi tháng Tân nhận được một lá thư của Jaqueline cùng một số tiền hoặc hàng hóa, có lần có cả đồ hộp thức ăn, sữa. Tạm thời qua cơn bĩ cực nhưng Tân vẫn không chịu rời chiếc xích lô. Hàng ngày anh vẫn đạp xe ra phố, không phải để chở khách như trước mà là phương tiện để anh đi đó đây thăm bạn bè ăn nhậu. Thỉnh thoảng anh đạp xe tới góc phố Lê Lợi – Tự Do tưởng nhớ tới Jacqueline và những ngày đầu gặp gỡ. Đôi mắt xanh biếc và mái tóc vàng óng ả chẩy dài xuống lưng của Jacqueline hình như lúc nào cũng hiển hiện trước mắt Tân. Có lý nào cô nàng yêu mình? Tân băn khoăn, thắc mắc, khắc khoải mãi với câu hỏi này. Và đôi lúc anh thấy nhoi nhói nơi tim khi nghĩ rằng chẳng qua cô nàng thương hại mình thôi. Trong những lá thư gửi Jacqueline, Tân đã bóng gió viết về tình cảm của mình đối với nàng, nhưng có lẽ nàng không hiểu sự tế nhị này của người Á Đông. Trong thư hồi âm, Jacqueline vẫn viết nhiều về những ngày ở Việt Nam và hỏi Tân về lịch sử, phong tục, tập quán, phong cảnh và những món ăn của người Việt. Rồi cô hỏi Tân thích nhất món ăn gì của Mỹ và nếu được sang Mỹ định cư thích sống ở đâu. Mỗi lần nhận được thư Jacqueline là buổi tối hôm đó Tân nằm mơ thấy mình sống trên đất Mỹ. Lúc thì lái máy bay, có lúc thì đi hộp đêm với bạn bè người Mỹ nhẩy đầm nhậu nhẹt say khướt. Nhưng nhiều nhất vẫn vẫn là mơ thấy sóng đôi với Jacqueline, hết đi ngắm tuyết ở vùng đồi trắng xóa miền Đông, tới shopping ở các chợ miền Nam Cali nắng ấm. Khi thức giấc Tân thấy tiếc và muốn giấc mơ cứ thế kéo dài mãi.

Buổi sáng hôm đó Tân sửa soạn đạp xích lô đi “tiếu ngạo giang hồ” có một anh công an tìm gặp. Anh ta trố mắt ngạc nhiên khi thấy người mình đi tìm gặp lại là một anh đạp xích lô. Anh ta hỏi đi hỏi lại mãi có đúng tên là Đỗ Tân không rồi mới cho biết lý do. Có ông dân biểu Mỹ muốn gặp. Tân choáng người. Một dân biểu Mỹ muốn gặp anh? Rồi trực giác bén nhậy của Tân cho biết đây là một tin lành. Tân đạp xích lô theo anh công an đến khách sạn Đại Lục nơi trước đây Jacqueline ở. Mọi người làm trong khách sạn đều nhìn Tân với cặp mắt nghi ngờ và kiêng nể. Thì ra ông dân biểu Mỹ là cựu phi công học cùng khóa với Tân. Máy bay của ông bị bắn trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc và bị nhốt “khách sạn Hilton ” hơn năm năm thì được thả. Về Mỹ ông ứng cử và đắc cử dân biểu. Jacqueline đã gặp ông trình bầy hoàn cảnh Tân và nhờ ông can thiệp với chính phủ cộng sản Việt Nam. Ông sang đây với một phái đoàn bàn thảo chương trình viện trợ nhân đạo cho Việt Nam, trong đó có “chút việc riêng tư” là can thiệp cho Tân sang Mỹ định cư. Trước khi gặp nhà chức trách, ông muốn gặp Tân để “nhận diện” người bạn đồng khóa năm xưa.

 

5
Anh Hoàng thân quý,
Sau khi chia tay anh ở phi trường Tân Sơn Nhất. thấm thoát thế mà đã hơn ba tháng trôi qua. Sở dĩ hôm nay mới viết thư cho anh vì khi đặt chân tới đất Mỹ, khỏi kể nhiều anh cũng thừa biết là tôi bận lắm. Sau khi nghỉ ngơi cho tỉnh người, đồng thời cũng là để gột sạch “bụi bậm xã hội chủ nghĩa” (còn bám chút đỉnh nơi thân thể), tôi và Jacqueline lo tổ chức lễ cưới. Rồi chúng tôi đi Washington DC tới bức tường đá đen ghi tên các chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.Chúng tôi dành ít phút cúi đầu tưởng niệm dưới hàng chữ ghi tên Carter.Sau đó chúng tôi đi hưởng tuần trăng mật ở Honolulu. Tiếp theo chúng tôi đi thăm chỗ tôi học lái máy bay năm xưa ở hai bang Lousiana, Texas và các bạn phi công cùng khóa. Ông bạn cựu phi công đương kim dân biểu đã giới thiệu cho tôi một job hợp với khả năng: lái máy bay cho một đồn điền. Còn Jacqueline vẫn tiếp tục nghề cũ y tá bệnh viện. Con gái tôi được Jacqueline và con gái cô quý mến lắm. Hai đứa ngoài giờ học cứ quấn quýt bên nhau như hai chị em ruột. Như anh biết đấy, khi ra đi tôi đã mang theo chiếc xích lô mà tôi phải mua lại với một giá mắc người chủ mới chịu bán. Cứ chủ nhật hoặc những ngày nghỉ lễ, tôi đạp xích lô chở Jacqueline và hai đứa nhỏ chạy lòng vòng trên các đường nhỏ trong thành phố. Đây là một chiếc xe độc đáo duy nhất có ở thành phố này, nên đạp tới đâu cũng được người Mỹ vui vẻ ngắm nghía và trầm trồ giơ tay chào. Có nhiều người bắt tôi xuống xe để cho họ đạp thử và suýt nữa thì làm lật cả xe. Lâu dần người Mỹ quen mắt với chiếc xe xích lô của tôi. Chúng tôi đặt chiếc xích lô ngay trong phòng khách. Nhờ nó, tôi và Jacqueline thành duyên chồng vợ nên chúng tôi vô cùng quý và trân trọng giữ gìn nó.

Hiện tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc. Mùa xuân của cuộc đời tuy đến muộn nhưng chúng tôi bằng lòng lắm với những gì mình đang có, đang sống. Thiên đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi đang tắm trong suối nguồn tươi mát của Thiên Đường.

Xin chúc anh và gia đình mọi điều tốt đẹp. Thỉnh thoảng rảnh rỗi anh nhớ viết thư cho tôi nhé.

Quý mến,
Đỗ Tân.

Thanh Thương Hoàng
Theo: Văn Thơ Lạc Việt




Joyce Anne Nguyen : BÀI VIẾT KHÔNG CÓ TỰA

Nhưng.. Đừng bảo tôi im vì tôi sống ở Na Uy. Đừng bảo tôi im vì tôi 16 tuổi. Đừng bảo tôi im và bảo tôi chưa đủ trải nghiệm. Đừng bảo tôi im và bảo tôi thiếu hiểu biết. Đừng bảo tôi im và kết tội tôi chỉ copy và paste. Đừng bảo tôi im vì bạn im.

BÀI VIẾT KHÔNG CÓ TỰA

 

Joyce Anne Nguyen

 

 

Wednesday, March 3, 2010 at 2:42am

 

Có đôi khi suy nghĩ, tôi chợt cảm thấy có lẽ mình nên bỏ tất cả. Bỏ tất cả việc viết lách này. Có rất nhiều lý do để tôi ko nên tiếp tục viết.
Tôi 16 tuổi, ở tuổi này như những người đồng trang lứa tôi nên chú tâm học hành và có những mối quan tâm phù hợp với lứa tuổi.
Tôi ko bị ép buộc phải lên tiếng, và tôi ko đủ tư cách để lên tiếng và kêu gọi người khác phải đứng dậy tranh đấu cho quyền lợi cá nhân và thay thế 1 chế độ khác với những nhà cầm quyền khác, bởi dù gì tôi cũng đang sống ở nước khác, tôi là kẻ hèn nhát đứng từ xa hò hét kêu gọi, khi có chuyện tôi ko phải cam chịu gì cả, và tôi nói gì cũng được, gào gì cũng được.
Có đôi khi tôi cảm thấy nhục nhã và ghê tởm với bản thân. Và có lẽ sự im lặng là lựa chọn tốt hơn cho tôi. Có nhiều lúc tôi cảm thấy như vậy. Dù tôi có viết hàng trăm, hàng ngàn bài, cũng ko có điều gì xảy ra. Mọi việc đều diễn ra như vậy. Vô số người đã viết, vô số người đã lên tiếng, vô số người đã đấu tranh và cống hiến cho phong trào đấu tranh dân chủ, nhưng cũng ko có gì thay đổi. Việc viết lách của tôi nói chung cũng ko có lợi gì. Ko tạo nên 1 sự thay đổi. Cũng ko thuyết phục hay lôi kéo được ai. Rất nhiều người cũng đã bảo VN ko cần những người như tôi, và thay vì chê bai chế độ, ko đóng góp, có lẽ tôi nên ngậm họng và sống cho đất nước tôi đang sống.
Có đôi khi tôi cảm thấy mình là 1 kẻ hèn nhát. Dĩ nhiên khi ở VN, tôi ko viết, ý tôi là tôi có viết về những bức xúc trong xã hội nhưng ko viết về chính trị chẳng phải vì tôi sợ, mà trong nước tôi chưa kịp thấy nhiều để ý thức được người dân trong nước ko may mắn như thế nào. Chỉ khi được đến 1 đất nước khác và đi 1 số nơi, tôi mới thấy 1 số điều và so sánh, tôi mới bắt đầu viết về chủ đề này. Nhưng có lẽ tôi nói chung cũng vẫn là 1 kẻ hèn nhát to miệng, kêu gọi người dân trong nước đứng lên phản kháng, trong khi mình đã an toàn.
Có lẽ tôi nên im lặng. Và mọi người cùng im lặng.
Chúng ta hãy cùng ngồi yên và chấp nhận hoàn cảnh, với suy nghĩ mọi nước đều có vấn đề, khó khăn riêng, và mỗi chế độ đều có cái tốt cái xấu của nó.
Chúng ta hãy cùng im lặng và lờ đi những vấn nạn của đất nước, với an ủi rằng đất nước dù sao cũng đang tiến bộ.
Chúng ta hãy cùng im lặng và tin tưởng rằng việc im lặng chấp nhận sẽ giúp đất nước bình yên.
Chúng ta hãy dùng từ “nhạy cảm” để né tránh mỗi khi bất kỳ ai đề cập đến vấn đề an ninh lãnh thổ.
Chúng ta hãy tập trung học hành, làm việc và đừng quan tâm đến chính trị.
Chúng ta hãy ngồi yên đó, để TQ kéo sang tiến hành dự án bauxite ở Tây Nguyên, hủy hoại môi trường sống, giết chết sinh vật, gây bệnh tật cho đồng bào ta, và từ từ chiếm phần trung tâm của đất nước ta.
Chúng ta hãy ngồi yên đó, để TQ thuê rừng đầu nguồn và chấp nhận tất cả những hậu quả của nó như sự ảnh hưởng đến sinh thái và lũ lụt, và để dân TQ kéo sang VN sống.
Chúng ta hãy ngồi yên đó, và để đồng bào ta bị đánh cướp hoặc giết chết ngoài biển Đông.
Chúng ta hãy ngồi yên đó, để tấm bản đồ lưỡi bò đi khắp TG, và mọi người dần dần tin rằng biển Đông thuộc về TQ, HS- TS thuộc về TQ.
Chúng ta hãy nhắm mắt lại, và ngưng việc đọc báo đi, để tưởng tượng rằng ko có điều gì tồi tệ xảy ra và đất nước vẫn đang phát triển.
Nhưng liệu tôi, và bạn có thể làm được thế ko?
Nếu muốn, tôi có thể quên VN đi. Tôi có thể chỉ nên sống cho Na Uy. Và bất kỳ cái gì khác. Bạn cũng vậy. Nhưng liệu chúng ta có thể làm được như thế ko?
Mọi chuyện có lẽ sẽ trở nên đơn giản hơn rất nhiều nếu ko có những vấn đề với TQ. Bây giờ ai cũng biết tình hình giữa TQ và VN đã nghiêm trọng như thế nào. Ko, đừng nói với tôi VN là nước nhỏ. Ko, đừng nói với tôi VN xui xẻo nằm quá gần 1 đất nước đầy tham vọng bá quyền như TQ. VN ko phải là nước nhỏ duy nhất phải chống chọi với 1 nước lớn. VN ko phải là nước duy nhất nằm gần TQ. Tôi biết tôi ko thể làm được gì cả. Tôi là 1 cá nhân, và 1 cá nhân chỉ là được những việc nhỏ nhặt trong giới hạn của 1 cá nhân. Nhưng nếu nhiều cá nhân gộp lại? “Don’t wait for leaders; do it alone, person to person.”- Mother Teresa. Nếu VN phải đối mặt với TQ, nếu nhân dân VN phải đối mặt với nguy cơ mất nước, ai sẽ cứu VN ngoài chính người dân VN? Mỹ ư? Ồ ko bạn ạ, người Mỹ chỉ làm những gì tốt nhất cho nước Mỹ, đừng quên Mỹ đang mắc nợ TQ, và đừng quên ko có lý do cụ thể nào để Mỹ phải giúp đỡ VN. Hay 1 vị Bụt hiện ra hỏi “Vì sao con khóc?” và phẩy cây phất trần biến điều ước trở thành hiện thực? Phật có câu “No one saves us but ourselves. No one can and no one may. We ourselves must walk the path.”
“It’s a dirty world out there, but if no one agrees to do the cleaning, the whole country goes down a shit house.”- Vikas Swarup.
Tôi đủ tỉnh táo để hiểu những bài viết của tôi ko đem lại 1 sự thay đổi cụ thể nào. Có 1 số người đã hỏi thẳng, tôi nhận được bao nhiêu tiền để viết. Tôi cảm thấy hổ thẹn cho họ. Tôi sẽ ko giải thích, tôi chỉ đơn giản trích 1 câu của Isabel Allende “How can one not write about war, poverty and inequality when people who suffer from these afflictions don’t have a voice to speak?” Nếu bạn hoàn toàn cho rằng việc viết lách là vô bổ, đừng quên trong chiến tranh ko phải ai cũng tham gia chiến đấu, có những người chiến đấu bằng ngòi bút. Có những người đóng góp theo cách riêng của họ.
Mọi người biết việc viết lách ko đem lại ích lợi gì nhiều. Vô số người đã viết. Vô số người đã lên tiếng. Ko có gì được thay đổi. Bản kiến nghị phản đối dự án bauxite được rất nhiều người ký tên cuối cùng cũng bị bỏ mặc. Những người biểu tình phản đối TQ bị bắt. Blogger bị bắt và bỏ tù. Ko có gì được thay đổi. Nhà nước vẫn tiếp tục làm việc của họ. Họ vẫn chặn facebook. Họ vẫn kiểm soát thông tin. Họ vẫn cấm nhắc tên Hoàng Sa Trường Sa trên game online. Họ vẫn treo băng rôn chúc mừng quốc khánh TQ. Họ vẫn xử tù người bất đồng chính kiến. Họ vẫn tiến hành dự án bauxite Tây Nguyên. Họ vẫn tiến hành dự án điện hạt nhân. Họ vẫn cho thuê TQ thuê rừng đầu nguồn. Họ vẫn.. Họ vẫn…
Nhưng thay vì đặt câu hỏi tại sao tôi lại viết dù biết việc lên tiếng ko đem lại ích lợi, tại sao bạn ko hỏi vì sao đã rất nhiều người lên tiếng nhưng vẫn ko có điều gì thay đổi? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi họ hoàn toàn ko quan tâm đến nhân dân? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi họ ko cho phép nhân dân biểu tình hoặc chỉ đơn giản là cất tiếng nói? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi họ gạt ngang ko đếm xỉa đến bản kiến nghị phản đối 1 dự án gây tác hại trầm trọng đến môi trường, sự sống, và cả an ninh, lãnh thổ đất nước? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi họ chặn blog, chặn website? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi dân oan khiếu kiện, họ ko bao giờ giải quyết? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi họ ko đầu tư công sức vào nền giáo dục, tiếp tục những trò cải cách chạy vòng quanh ko cần thiết, bằng cách lấy kiến thức năm này đắp vào năm khác và quay vòng? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi họ ko giải quyết vấn đề tham nhũng trầm trọng và giải thích VN ko phải là nước tham nhũng nhất TG và quốc gia nào cũng có? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi họ ko màng đến vấn đề giao thông, để hàng chục ngàn người chết mỗi năm vì tai nạn giao thông, và phần lớn vì đường sá chật chội, đầy “lô cốt”, kém chất lượng và gây ra nhiều cái chết phi lý? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi họ xem nhân dân là con cái ko được phép cãi lời và “hàng xóm” ko cần can thiệp? Họ là những người lãnh đạo như thế nào mà họ lên nắm quyền khi nhân dân ko biết họ là ai để bầu cho họ? Họ là những người lãnh đạo như thế nào mà họ dù làm bất kỳ điều gì, vẫn tiếp tục giữ cái ghế của mình? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi họ e ngại mọi sự so sánh và kết luận đó là vọng ngoại và phản quốc? Họ là những người lãnh đạo như thế nào khi họ ko dám nhìn thẳng vào khuyết điểm và huyễn hoặc nhân dân rằng mọi đất nước đều có vấn đề riêng và đất nước ta đang ngày càng tiến bộ?
Ở đây tôi chỉ muốn nói lên vấn đề ý thức. Tôi ko có ý định tung hô nước ngoài như nhiều người sẵn sàng chụp mũ. Tôi chỉ đưa ra 1 vài so sánh. Trong ý thức người dân cũng như người lãnh đạo ở những quốc gia có tự do dân chủ, nhà nước được nhân dân bầu lên, và tồn tại vì lợi ích của nhân dân và đất nước. Nhân dân đóng thuế nuôi các ông lãnh đạo, và khi các ông làm việc ko tốt, các ông phải nghe phê bình, và có thể bị phế truất. Có rất nhiều người vẫn thường lầm lẫn giữa khái niệm yêu nước và yêu nhà nước. Tất cả đơn thuần chỉ là trò chơi đánh tráo khái niệm. 1 kiểu áp đặt thường thấy. Quốc gia dân tộc là cái trường tồn. Nhà nước là cái tồn tại tạm thời. Khi 2 cái đi ngược nhau, tôi ko nghĩ tôi nên chọn cái ngắn thay vì cái dài. Có nhiều người sẽ bảo tôi là kẻ vô ơn. Rằng tôi sinh ra và lớn lên dưới chế độ này, tôi ăn cơm trong chế độ này, tôi đi học trong chế độ này, tôi phải mang ơn thay vì phản chủ. 1 lần nữa phải nhấn mạnh, đây chỉ là vấn đề ý thức. Ko biết vì lý do gì, dường như người dân VN có thói quen thường sợ hãi và mang ý thức mình đang mang ơn nhà nước. Trong khi thực tế nhà nước lập ra để lèo lái đất nước, và đại diện cho quyền lợi của nhân dân. Tôi phải biết ơn à? Tôi đã nhìn thấy các ông lãnh đạo như thế nào. 1 tờ báo chính thức trong nước từng viết, phải mất 175 năm để VN đuổi kịp Singapore, với điều kiện Singapore đứng yên- điều này là ko thể. GDP cũng tụt hàng trên TG. Tôi phải biết ơn đất nước vì đã độc lập, tự do, hạnh phúc à? Ta độc lập mà ta ko dám nhắc đến mối quan hệ VN- TQ? Ta độc lập mà ta ko dám biểu tình chống TQ? Hạnh phúc? Hạnh phúc mà sau này vô số người vẫn tìm cách bỏ đi, bằng cách này hay cách khác, hôn nhân, du học, lao động hợp tác, làm giấy tờ giả…? Hạnh phúc mà đa phần những người đã đi đều ko muốn về nước sống?
Tôi sẽ bị xem là kẻ hèn nhát. Tôi ko dám ở ngay trong nước hô hào. Tôi thừa nhận, có nhiều lúc tôi đã tự cảm thấy mình là 1 kẻ hèn nhát. Tôi đi. Tôi ko ở lại. Nhưng cách đây ko lâu, ở trường tôi có buổi giới thiệu về 1 số trường ĐH ở Na Uy và ở những nước khác như Anh, Úc, Mỹ, New Zealand… có 1 tấm bảng có dòng chữ lớn: “Do something for your country: LEAVE.” May mắn được đi, tôi có những quyền tôi ko thể có trong nước. May mắn được đi, bằng những bài viết, dù có thể là vô bổ, tôi đóng góp 1 phần nào đó. May mắn được đi, tôi có cơ hội mở rộng tầm nhìn, và so sánh sự khác biệt giữa 2 TG (tôi thích nói là 2 TG). Những người e ngại sự so sánh ko thể nhìn thẳng vào những khuyết điểm và hạn chế của bản thân để chỉnh sửa và tiến bộ. So sánh là cần thiết. So sánh dẫn đến cạnh tranh. Cạnh tranh giúp phát triển. Thử tưởng tượng, nếu cả 1 khu vực bạn sống chỉ có 1 tiệm giày. Bạn ko còn lựa chọn nào khác, dù đẹp dù xấu bạn cũng phải vào đó mua giày. Nhưng nếu có khoảng chục tiệm giày, à ko nhất thiết, có 2 tiệm giày thôi cũng được, bạn được quyền lựa chọn vào tiệm A hay tiệm B, và để thu hút khách hàng, mỗi tiệm dĩ nhiên phải cạnh tranh và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tương tự với chính trị. Ồ vâng bạn sẽ nghĩ tôi là đứa tâm thần khi so sánh chính quyền với tiệm giày, nhưng tôi chỉ đang phân tích. Nếu có nhiều đảng, các đảng phải cạnh tranh nhau, đưa ra nhiều chính sách vì nhân dân và đất nước, và người dân dĩ nhiên sẽ bỏ phiếu cho cái đảng có nhiều chính sách tối ưu hơn. Nhưng nếu chỉ có 1 đảng duy nhất, và đặc biệt những người lãnh đạo ko bao giờ bị bắt lỗi, ko bao giờ bị phê bình, ko bao giờ bị phế truất, các ông muốn làm bao lâu cũng được, ngồi đó bao lâu cũng được. Ko phải rõ ràng là trong trường hợp đó, cái đảng duy nhất này có thể làm bất kỳ điều gì, kể cả những việc có hại cho đất nước sao?
Trong bài viết “Ai ko muốn được tự do?”, tôi đã có đề cập đến sự tự do. Vấn đề chỉ là khái niệm về tự do. Khi con người đã sống quá lâu trong 1 xã hội nơi họ ko được phép có tư duy độc lập và phát biểu ý kiến thực sự của mình, họ dần dần quên mất lẽ ra là con người, họ nên có quyền cất tiếng nói. Trong nghệ thuật, nếu có khuôn mẫu định sẵn và 1 dây xích kìm hãm, người nghệ sĩ ko thể làm việc với toàn bộ khả năng của mình. Thiếu tự do, con người bị kìm hãm, khả năng bị giới hạn. Cũng như trong đời sống. Albert Camus từng nói “A free press, of course, can be good or bad, but most certainly, without freedom, a press will never be anything but bad.” Nói mỗi nước đều có tự do dân chủ, chỉ là chế độ khác biệt nên sự dân chủ có màu sắc khác nhau chỉ là lối né tránh cái thực tế chẳng có tự do dân chủ. Nói mỗi nước đều có vấn đề, ko có chế độ nào hoàn hảo chỉ là 1 lối lấp liếm ko dám nhìn thẳng vào những khuyết điểm của mình.
Đúng, ko có chế độ nào 100% hoàn hảo. Nhưng cho đến nay, qua thời gian, đến sự tiến bộ hiện nay của loài người, chế độ dân chủ được xem là lựa chọn tốt nhất. Nhưng có lẽ con chim bị nhốt quá lâu trong lồng khi nhìn thấy cửa mở cũng rụt lại ko dám bay ra TG rộng lớn bên ngoài. Có lẽ con người sợ hãi sự thay đổi. Thay vì góp sức vào 1 sự thay đổi, thay vì đứng lên bảo vệ cho quyền lợi của chính bản thân mình, họ ngồi yên chấp nhận thực tế và họ cách lơ đi những vấn nạn của đất nước. Erich Fried có câu nói nổi tiếng được viết ngay trên phần còn sót lại của bức tường Berlin tôi đã may mắn có dịp thấy tận mắt: “He who wants the world to remain as it is doesn’t want it to remain at all.”
Nếu muốn, tôi có thể đáp máy bay về nước, có thể để bị bắt và ngồi tù, lúc đó mọi người sẽ biết đến tôi, sẽ cuối cùng công nhận tôi chứng minh được những gì mình đang nói thay vì khoác lác phô trương, sẽ cuối cùng ban cho tôi 1 danh hiệu, hay 1 tấm bằng khen để sau này ra tù tôi treo trong nhà và tự hào giới thiệu mỗi khi khách đến, nhưng liệu điều ấy có giúp ích được gì ko? Ý tôi ko phải bảo việc ngồi tù là vô bổ. Tôi rất nể trọng và kính phục những người đã dám lên tiếng và chấp nhận việc ngồi tù là 1 cái giá của việc tranh đấu của mình. Tôi thực sự rất nể trọng họ. Và cảm thấy những gì mình làm chẳng là chút gì so với những gì họ đã làm. Và nhiều lúc cảm thấy bản thân là 1 kẻ hèn nhát đáng ghê tởm.
Nhưng..
Đừng bảo tôi im vì tôi sống ở Na Uy.
Đừng bảo tôi im vì tôi 16 tuổi.
Đừng bảo tôi im và bảo tôi chưa đủ trải nghiệm.
Đừng bảo tôi im và bảo tôi thiếu hiểu biết.
Đừng bảo tôi im và kết tội tôi chỉ copy và paste.
Đừng bảo tôi im vì bạn im.

Joyce Anne Nguyen
2/3/2010

Joyce Anne Nguyễn

Uploaded with ImageShack.us

Cách đây vài ngày tôi đọc lại 1 bài viết cũ của mình, “Bài viết không có tựa”, hay còn được biết đến với tên “Đừng bảo tôi im” do bác Hoàng Cơ Định đặt. Và nhận ra đã 1 thời gian rồi tôi gần như không viết gì. Nhìn sang xung quanh, tôi cũng thấy rất nhiều người đã ngưng bút, và bỏ cuộc. Tôi không nói về những người khác, nhưng riêng phần tôi, tôi biết tôi không có quyền than thở. Tôi không có quyền nói mình mệt mỏi. Hiện tại tôi không còn ở VN, nhưng tôi vẫn luôn mang dòng máu VN, và nhìn chung tôi không làm được gì nhiều, thế nên tôi không thể bỏ cuộc. Tôi sẽ tiếp tục viết. Và làm gì đó, theo cách này hay cách khác.
Tôi không cần viết, hiển nhiên. Tôi có thể chỉ đơn giản tiếp tục học và làm những việc đúng với tuổi tôi, tiếp tục đời sống tại Na Uy, đôi khi đi chơi đây đó tìm hiểu những đất nước khác, như lúc này đang lang thang Roma trước khi trở lại trường. Thế nhưng, nói như Isabel Allende, làm sao 1 người có thể không viết về những nghèo khổ và bất công trong xã hội khi những người đang cam chịu những điều đó không có quyền cất tiếng nói? Viết không chỉ cho bản thân. Viết cho những người bị buộc phải im lặng. Viết cho những người mất gần như mọi thứ chỉ vì khát vọng tự do. Viết cho những người đã ngã xuống. Viết cho những người đấu tranh cô độc. Viết cho những người còn đang sống và không biết mình bị thiệt thòi và thiếu các quyền sống cơ bản của con người. Viết cho những người đang vô cảm hoặc không biết nhiều về tình hình đất nước. Viết cho dân tộc. Viết cho những phần lãnh thổ lãnh hải đã mất. Viết cho lịch sử. Viết cho những người đã khuất, đang sống và những thế hệ tiếp sau. Viết không phải là tuyên truyền. Viết không phải là hô hào nhân dân xuống đường còn mình an toàn ngồi ở nước khác. Viết là viết ra cảm xúc và sự thật. Viết là viết những gì đã nhìn thấy. Viết là nói về những bất công đang diễn ra. Viết là viết về những khác biệt giữa nước ta và nước khác, để thay đổi, tiến bộ và đấu tranh cho những quyền sống cơ bản. Viết là làm thức tỉnh, là kêu gọi sự quan tâm.
Hãy trả lời tôi.
Bạn cảm thấy gì khi mỗi ngày ra đường thấy kẹt xe, khói bụi, “lô cốt” khắp nơi và các hệ thống làm đường kéo dài từ năm này sang năm khác? Bạn cảm thấy gì khi ngày ngày mở báo ra đọc, nhìn thấy hàng loạt thông tin về tai nạn giao thông (do kẹt xe, vấn đề đường sá…), sập cầu, cháy nhà…? Bạn cảm thấy gì khi những nhà cầm quyền thản nhiên tiến hành dự án bauxite tại Tây Nguyên bất chấp các tác hại và bản kiến nghị? Bạn cảm thấy gì khi biết các ông lãnh đạo cho TQ thuê rừng đầu nguồn? Bạn cảm thấy gì khi chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nói VN và Cuba canh giữ hòa bình cho thế giới? Bạn cảm thấy gì khi bà Tôn Nữ Thị Ninh so sánh nhân dân với con cái khi tuyên bố tại buổi họp mặt với Hoa Kỳ “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi”? Bạn cảm thấy gì khi người ta bảo bạn phải biết ơn Đảng, Đảng là chân lý, bạn không được quyền phê bình, dù cha mẹ bạn nuôi bạn ăn học, đóng học phí cho bạn, bạn đi học lên lớp nhờ công sức bạn học và thi đậu, rồi lớn lên cũng chính bạn kiếm việc kiếm tiền nuôi chính bạn và gia đình bạn, nhà nước không cho giáo dục miễn phí và cũng không có chế độ y tế nào đảm bảo cho bạn, khi thất nghiệp bạn chẳng có trợ cấp, khi bạn già chẳng ai nuôi bạn ngoài con cháu, khi thình lình bạn chết gia đình cũng chẳng có 1 xu hoặc rất ít, trong khi đó ở nhiều quốc gia khác người dân được trợ cấp rất tốt nhưng không bao giờ xem những người lãnh đạo là cha mẹ? Bạn cảm thấy gì khi bạn được học là nước ta có thừa dân chủ, nhưng sau 1 ngày vừa nói về sự kiện 2 nhà báo bị bắt do vụ PMU18, ngày hôm sau tất cả các báo đồng loạt im lặng, bản thân thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng gần đây phát biểu “Nước ta không có phản biện, phản biện là phản động”, những người bất đồng chính kiến chưa gây nguy hại cụ thể nào đã bị bắt giam, các bloggers mất việc, 1 tờ báo du lịch khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa bị đình bản và khi bạn thử đứng trong lớp hỏi về Hoàng Sa, Trường Sa thì câu trả lời bạn nhận được là “Đây là vấn đề nhạy cảm không nên bàn tới.”? Bạn cảm thấy gì khi trong trường lớp bạn luôn được dạy là chế độ tư bản đang giãy chết bên bờ vực thẳm nhưng các nước tư bản vẫn đang phát triển giàu mạnh và các nước theo chế độ cộng sản đều đã sụp đổ ngày nay chỉ còn lại TQ, VN, Bắc Hàn, Cuba? Bạn cảm thấy gì khi chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng công ty Than và Khoáng sản, ông Đoàn Văn Kiểng, nói về dự án bauxite:“Lỗ hay lãi chỉ là dự đoán. Chúng tôi nói có lãi, các nhà khoa học bảo không. Khoa học và thực tế bao giờ cũng là 50:50. Vậy thì tốt nhất hãy làm đi, rồi mới kiểm nghiệm được. Thực tế sẽ trả lời.”? Bạn cảm thấy gì khi bạn du lịch sang nước khác và người ta chỉ nói “Ni hao” hoặc “Konnichiwa” với bạn? Bạn cảm thấy gì khi đọc tin công an đánh chết dân? Bạn nghĩ sao khi 1 ủy viên chi bộ tuyên bố “Hoàng Sa, Trường Sa là bãi hoang chim ỉa.”? Bạn cảm thấy gì khi đọc tin ngư dân bị hải quân TQ đánh cướp và giết chết, báo chí VN ban đầu chỉ nói là tàu lạ, rồi sau đó mới thừa nhận? Bạn cảm thấy gì về bài báo phân tích VN phải mất 175 năm để theo kịp Singapore, với điều kiện Singapore không phát triển? Bạn cảm thấy gì khi thử so sánh sự chênh lệch trong mức tiền thưởng Tết của 1 công nhân bình thường và 1 quan chức ở nước ta? Bạn cảm thấy gì và theo bạn vì nguyên do gì người VN luôn tìm cách ra khỏi nước dù phải chịu cực khổ và tủi nhục khi sang nước người bằng những con đường kết hôn với chồng Đài Loan, sang lao động tại Malaysia hay Đông Âu, hoặc du học và ở lại?…
Bạn nhìn thấy cả. Những bất công đang diễn ra và bạn nhìn thấy tất cả. Nhưng bạn đã lựa chọn: im lặng. Bạn im lặng vì những người khác im lặng. Bạn im lặng và bạn muốn mọi người đều im lặng. Bạn cũng muốn tôi phải im lặng. Bạn chất vấn tôi, hỏi tôi nhận bao nhiêu tiền để viết, và tại sao tôi phải viết khi tôi hoàn toàn có quyền quên đi và bắt đầu 1 cuộc sống mới tại nước khác, nhưng tôi tin bạn đã biết câu trả lời tại sao.

Gần 1g sáng, 8/8/2010, Roma, Ý.
Viết tặng những người bạn trên facebook, những bloggers đang viết, đã ngừng viết và những bloggers sẽ bắt đầu viết.

Joyce Anne Nguyen
Theo: Diễn Đàn Net