TƯỞNG NIỆM NHÀ VĂN MINH ĐỨC HOÀI TRINH – KIỀU MỸ DUYÊN

Nhà văn Nguyễn Quang, nhà văn Khánh Lan, Kiều Mỹ Duyên, nhà văn Việt Hải

          Chị Minh Đức Hoài Trinh mới mất đây mà đã 4 năm, nhưng gia đình và bằng hữu vẫn nhớ đến chị, làm lễ tưởng niệm chị. Buổi tưởng niệm được tổ chức ở nhà hàng Diamond Seafood, thành phố Westminster sau dịch cúm vô cùng cảm động. Ba thế hệ tham gia buổi lễ tưởng niệm, đồng thời cũng nhân ngày của Cha. Phụ nữ trong những tà áo dài màu sắc sặc sỡ, tha thướt như ngày nào còn là nữ sinh trung học. Nhà văn Việt Hải, trưởng ban tổ chức, nói về lý do buổi tiệc hôm nay. Lệ Hoa, vợ của Việt Hải vẫn đẹp như ngày nào nhưng không đi bên cạnh chồng lúc Việt Hải phát biểu ý kiến. Giọng nói của Việt Hải rất mạnh, tinh thần minh mẫn mặc dầu đã qua cơn bạo bệnh. Người có tâm huyết thì nhất định phải sống lâu trăm tuổi để làm việc cho cộng đồng.

          Lời nói của Việt Hải nhắc về nhà văn Minh Đức Hoài Trinh rất tình cảm và chân thành. Người đi thì đã đi nhưng người ở lại nhớ mình là một điều rất khó. Nhà văn Minh Đức Hoài Trinh đã ra đi nhưng để lại nhiều bài viết rất xuất sắc. Thơ của chị đã được phổ thành nhạc ở Âu Châu và Mỹ Châu. Bài hát Ai trở về xứ Việt do nhạc sĩ Phan Văn Hưng phổ thơ của chị Minh Đức Hoài Trinh được hát khắp nơi trong các cuộc họp mặt hoặc các buổi cắm trại sau năm 1975 ở Âu Châu và Úc Châu.

Nhà văn Thụy Lan, Việt Hải, Khánh Lan

          Nhà văn Việt Hải nói ít nhưng phát biểu đầy ý nghĩa. Nhà văn Nguyễn Quang, phu quân của chị Minh Đức Hoài Trinh nhắc về những kỷ niệm của anh chị từ ở Pháp sang Hoa Kỳ định cư. Nhạc sĩ Võ Tá Hân, con trai Đại Tá Võ Sum, cũng phổ nhạc nhiều bài hát từ thơ của thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh. Nhạc sĩ Võ Tá Hân gọi thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh là cô. Trong một gia đình có nhiều văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ Linh Bảo cũng được nhắc nhở đến n

          Trong buổi họp mặt chủ nhật ngày 13/6/2021 có sự hiện diện của các bậc trưởng thượng như Đại tá Lê Thương (Chỉ huy trưởng Pháo binh SĐ2 Bộ binh), Đại tá Lê Bá Khiếu (Tỉnh trưởng Quãng Ngãi), Trung Tá Hà Văn Thức (Chỉ huy trưởng quân nhu bốn vùng chiến thuật), Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhường (Tiểu đoàn 34 Pháo Binh), Giáo sư Dương Ngọc Sum, Bác sĩ Nguyễn Trọng Việt, Giáo sư Lê Tinh Thông, ông Nguyễn Đức Luận. Ban hợp ca cất tiếng hát lảnh lót, đa số là nữ ca sĩ, chỉ có một nam ca sĩ, là nhà văn Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm, tươi sáng như gươm lạc giữa rừng hoa.

          Các diễn giả phát biểu ý kiến xen những bài hát được phổ nhạc từ thơ của Minh Đức Hoài Trinh, làm cho buổi tưởng niệm nhà văn Minh Đức Hoài Trinh thêm phần hào hứng. Lúc đầu, nhà văn Việt Hải nói dự trù khách tham dự chừng 50 người, không ngờ cuối cùng hàng trăm người đến dự. Buổi lễ rất vui, khai mạc đúng giờ, các MC gồm 3 cô luân phiên điều hợp chương trình là các ca sĩ Mộng Thủy, Khánh Lan và Thụy Lan, những người điều khiển chương trình duyên dáng, tha thướt trong chiếc áo dài nhu mì không kém phần thời trang. Các nàng người nào cũng ăn mặc đẹp, bận rộn trình diễn ca nhạc và tiếp khách. Nhà thơ Dương Hồng Anh (cháu nội của danh sĩ Dương Khuê) tươi cười và có sách, thơ in hàng năm tặng bằng hữu, sách không bán. Sự lạc quan của các thi văn sĩ trong những bài hát làm cho những người trẻ hiện diện thích thú. Nếu đến đám đông mà nghe rên than thì tuổi trẻ không thích, nhiều người trẻ phát biểu ý kiến như thế. Ban Tổ Chức cố gắng dung hòa giữa những thế hệ. Buổi lễ được Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian  thực hiện, đây là do sự kết hợp bởi 2 nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật chuyên về thi ca văn học và nhóm Tiếng Thời Gian chuyên về âm nhạc và ca kịch, ca vũ nghệ thuật. Tổ chức ra đời được gần 7 năm, với nhân số hội viên hơn 70 người.

Nữ sĩ Dương Hồng Anh ký tên tặng sách.

          Giáo sư Quyên Di nói về ngày của Cha rất có ý nghĩa, với năng khiếu thuyết trình trong phong thái ý nhị và dí dỏm khi trình bày đề tài. Giáo sư Quyên Di hát về Cha giống như ca sĩ chuyên nghiệp, được vỗ tay nồng nhiệt nhưng lại hát có mấy câu, chờ lần sau hội ngộ.

Kiều Mỹ Duyên kể lại những kỷ niệm đẹp với chị Minh Đức Hoài Trinh

          Kiều Mỹ Duyên nhớ về chị Minh Đức Hoài Trinh là gặp chị ở trong thang máy đến nơi họp báo của hòa đàm Paris, năm 1969. Chúng tôi bàn với nhau về việc đặt câu hỏi với phái đoàn Bắc Việt về biến cố Mậu Thân. Tại sao các ông giết 6 giáo sư người Đức sang Việt Nam dạy học trong chương trình trao đổi văn hóa quốc tế? Câu hỏi này được sự thu hút của giới truyền thông quốc tế, nhất là ký giả người Đức. Tối hôm đó, chúng tôi lại gặp nhau tại buổi tiệc của Liên Hợp Quốc. Chị em có cơ hội ngồi gần nhau. Sau này, chúng tôi gặp lại, chị kể chị du học ở Trung Quốc. Khi Trung Quốc biến thành Cộng Sản, chị sang Hồng Kông, nhờ người bạn bán cây đàn dương cầm để giúp chị đi sang Pháp. Ở Pháp, chị học về báo chí.

          Chị kể cho chúng tôi nghe rất nhiều về cuộc đời của chị, rất sống động và đầy hứng thú. Xa quê hương, nhưng năm nào chị cũng về Việt Nam vào gần Tết để giẫy mã cha mẹ. Chị Minh Đức Hoài Trinh cuối đời được phước có anh Quang chăm sóc cho chị. Chị định cư ở Hoa Kỳ, tại Midway City, Orange County. Thỉnh thoảng, tôi đến thăm chị. Chị dạy đàn tranh và thường cùng học trò trình diễn đàn tranh trong đại hội. Tôi rất thích nghe tiếng đàn của chị vì tiếng đàn rất lạc quan.

          Có nhiều người trong buổi tiệc là góa phụ. Không hiểu tại sao sang đây đàn ông đi trước nhiều hơn đàn bà?

          Nhiều người thương nhà văn Minh Đức Hoài Trinh và ca ngợi nhà văn Nguyễn Quang vì anh đã chăm sóc chị cho đến cuối đời. Có bao nhiêu đàn bà được hưởng hạnh phúc như thế?

Nhà văn Nguyễn Quang, phu quân của chị Minh Đức Hoài Trinh nhắc về những kỷ niệm của anh chị từ ở Pháp sang Hoa Kỳ định cư.

          Nhà văn Quyên Di nói về Cha rất ý nghĩa và thâm thúy, cảm động nhất là đoạn chót. Đàn ông cũng khóc nhưng nói mình chảy nước mắt là do mùi hành.

          Kiều Mỹ Duyên thì cho rằng đàn ông Việt Nam người nào cũng làm vua vì được hầu, những bàn tay của phụ nữ hiện diện vỗ tay như pháo.

          Sau đây tôi xin trích đoạn một phần mà Giáo sư Quyên Di kể chuyện về Minh Đức Hoài Trinh: “Mở đầu sách Đại Học, tức là một trong Tứ Thư của Nho giáo, chúng ta đọc được câu: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện,” có nghĩa là: Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ vô cùng chí thiện. Khi được gợi ý và rồi chấp nhận tên Minh Đức làm bút hiệu, cô thiếu nữ có tên thật là Võ Thị Hoài Trinh đã có một chí lớn, noi theo gương Triệu Thị Trinh: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ.” Tuy nhận tên Minh Đức nhưng cô thiếu nữ ấy không quên gốc gác của mình, bởi vậy đã thêm vào bút danh hai chữ Hoài Trinh để trở thành Minh Đức Hoài Trinh. Hoài là ôm ấp, giữ gìn. Hoài Trinh là ôm ấp, giữ gìn một lòng trung trinh, chung thuỷ với quốc gia dân tộc.

          Minh Đức Hoài Trinh sinh ở Huế ngày 15 tháng 10 năm 1930; trở về với Đại Ngã tại Cam Thành ngày mồng 9 tháng 6 năm 2017 (tức là cách đây 4 năm.) Trong 87 năm tại thế, Minh Đức Hoài Trinh đã làm những việc lớn lao. Năm 1964, Minh Đức Hoài Trinh sang Pháp, theo học đại học lừng danh Sorbone, ngành Báo Chí và Hán Văn. Tốt nghiệp năm 1967, Minh Đức Hoài Trinh trở thành phóng viên đài truyền hình Pháp. Năm 1972, MĐHT được cử theo dõi để tường trình về hoà đàm Paris.

          Đây là những công việc hết sức khó khăn đối với một người nữ, với thân hình mảnh mai, xinh đẹp. Nhưng Minh Đức Hoài Trinh đã vượt qua tất cả để thực hiện được.

          Năm 1974, Minh Đức Hoài Trinh về nước, làm giáo sư ngành báo chí tại Đại Học Vạn Hạnh. Năm 1975, Minh Đức Hoài Trinh sáng lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và là chủ tịch tiên khởi. Ngoài ra, như tôi được biết, Minh Đức Hoài Trinh còn được đề cử vào ban tuyển lựa những tác phẩm của giải Nobel Văn Chương.

          Những việc làm lớn lao Minh Đức Hoài Trinh làm một mình, âm thầm mà làm, nhưng đã làm rực sáng lên con người Minh Đức Hoài Trinh. Những công việc này không phải dễ dàng để ai cũng làm được, nhưng Minh Đức Hoài Trinh đã làm được.

          Hôm nay chúng ta tưởng niệm Minh Đức Hoài Trinh. Nghiêng mình trước di ảnh của bà, tôi rất xúc động và lấy làm hãnh diện vì nữ giới Việt Nam có một người như Minh Đức Hoài Trinh.

          Trong lúc này, tự dưng tôi nhớ đến một bài hát của Nguyễn Đức Quang. Anh viết du ca rất nhiều, trong đó có một bài không phổ biến lắm, nhưng đã nghe hay đã hát thì ai cũng thích. Đó là bài “Chiều Quan Tuy Hoà.” Bài này được viết trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam khốc liệt. Một ngày nào đó, nhạc sĩ đến Tuy Hoà, thấy cảnh xơ xác của đồng quê Việt Nam. Tuy nhiên trong đêm đen xơ xác đó, nhìn lên bầu trời, chúng ta thấy lấp lánh một vì sao. Tôi xin hát một đoạn, để chúng ta “thưởng thức” tâm tình của Nguyễn Đức Quang. Tôi hát đoạn này vì thấy có cái gì liên quan đến Minh Đức Hoài Trinh. Đoạn ấy như sau:

“Rồi khi tia nắng phía non tây tàn,

Người đây như cũng như dần tan.

Nhịp đêm tiếng súng đong đưa ngoài ngõ,

Người qua song chắn ngó nhìn trời xa.

Ôi, đỉnh trời lấp lánh trong đêm dài,

Mình tu chưa chín nên nào hay.”

          Minh Đức Hoài Trinh như là một vì sao sáng trong đêm dài, nhưng có khi chúng ta chưa nhìn thấu được cái lấp lánh đó. Một lấp lánh của mong ước Việt Nam được hoàn toàn tự do, nhân quyền, dân chủ. Và ước vọng của Minh Đức Hoài Trinh, bà đã từng thổ lộ với tôi và nhiều người khác, là dựng lại cờ vàng tại Việt Nam.

          Những điều đó làm sao chúng ta không cảm phục được.  Một mình mà làm, âm thầm mà làm, nhưng…”.

          Phải chăng Minh Đức Hoài Trinh đã ra đi, nhưng sự ngưỡng mộ và luyến tiếc vẫn ở mãi với nhiều người.

Ảnh chụp kỷ niệm nhân Giỗ 4 năm của nhà văn Minh Đức Hoài Trinh, 13/06/2021.

          Những buổi tiệc vui và nhớ về người đã ra đi là cơ hội gặp gỡ nhau, nghe nhạc, hàn huyên, nhắc về quá khứ và nói đến tương lai.

          Nhà văn Minh Đức Hoài Trinh suốt đời tranh đấu cho Việt Nam có Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Chị là Chủ Tịch văn bút Việt Nam.

          Bây giờ chị đã về với ông bà. Xin chị linh thiêng phù hộ cho người Việt Nam tị nạn có ngày về khi Việt Nam thật sự có Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền.

Sinh viên Minh Đức Hoài Trinh đang đi trong khuôn viên  Sorbonne, Paris, 1955.
Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh và phu quân Nguyễn Quang sinh hoạt với Liên nhóm, 2016

Orange County, 13/6/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)




NGÀY CỦA CHA – Kiều Mỹ Duyên

KIỀU MỸ DUYÊN

Thân phụ của Kiều Mỹ Duyên

Viết về cha, viết hoài, viết mãi, không bao giờ hết chuyện. Cha tôi hiền và ít nói. Có một điều đặc biệt ở cha tôi là cha tôi hứa điều gì thì làm điều đó, suốt cuộc đời của ba tôi hình như không bao giờ thất hứa với ai điều gì . Ba tôi hứa giúp ai việc gì thì làm việc đó một cách tận tình. Vì ít nói, nghe nhiều nên ba tôi ít làm mất lòng người thân. Ba tôi giỏi võ nhưng khiêm tốn. Lúc tôi còn nhỏ, đêm đêm ba tôi dạy võ dưới ánh trăng. Tôi còn nhớ những đường quyền ba tôi đi vun vút, người nào trúng phải đường quyền của ba tôi thì toi mạng.

          Ba tôi rất hiếu thảo với ông bà, cha mẹ. Ông bà nội tôi chết sớm, năm nào gần Tết, ba tôi đi giẫy mã (tảo mộ) cho ông bà nội tôi. Ba tôi thăm viếng, phát cỏ dại, chặt cây cối quanh mộ, sửa sang, tu bổ mộ phần của ông bà nội tôi và thường đưa chúng tôi cùng đi thăm mộ ông bà. Ba tôi dạy:

Con người có tổ có tông

Như cây có cội, như sông có nguồn.

          Ba tôi thường kể chuyện về ông bà nội. Ông bà nội tôi thương ba tôi và chú tôi lắm. Ba tôi chỉ có 1 người em trai duy nhất là chú tôi. Ba tôi kể rằng khi tôi ra đời, tôi là con cả của ba má tôi nên được ông nội thương lắm. Ông nội thường ẵm tôi, hát cho tôi nghe những bài dân ca. Bà nội tôi mất sớm, khi tôi sinh ra đời chỉ còn ông nội. Ông bà ngoại tôi cũng qua đời sớm, nên tôi được các dì thương lắm.

          Ba má tôi đều giống tính nhau, giúp gì được cho ai thì giúp tận tình không bao giờ từ chối, giúp thì giúp ngay không đợi ngày mai. Nhà của tôi có vườn rộng, cây trái xung quanh, tàng cây che phủ sân nhà, sân rộng để ba tôi dạy võ. Bây giờ mỗi lần đến Minh Đăng Quang Tịnh Xá ở thành phố Santa Ana, thấy các võ sinh đi những đường quyền nhanh như gió, tôi thấy hình ảnh của ba tôi hiện về trong những đường quyền thấp thoáng này.

Đêm đêm, ba tôi dạy võ dưới ánh trăng, những đường quyền ba tôi đi vun vút.

Ba tôi là võ sư, rất khiêm tốn, không khoe khoang, không kiêu ngạo, không bao giờ nói về mình. Trong những võ sinh học với ba tôi có 2 trò là Mau và Khá, con ông xã Mo (ngày xưa gọi là ông xã, bây giờ là thị trưởng). Ba tôi thương 2 trò này vì họ học rất giỏi, học rất nhanh, có lòng nhân đạo, quảng đại, con nhà giàu nhưng rất khiêm tốn (thật ra tất cả những học trò võ đều có tánh khiêm tốn). Ba tôi nhất định không cho con gái học võ vì sợ sẽ không ai “rước”. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao cha mẹ cứ sợ con gái của mình không ai “rước”.

          Ông bà mình thường nói:

          – Con là nợ, vợ là oan gia, cửa nhà là tội báo.

          Nhưng có ai trên cõi đời này mà không mơ có một ngôi nhà để ở, có vợ, có con để buổi tối sau khi đi làm về có mái ấm gia đình, có ánh đèn thấp thoáng xa xa đợi mình trở về. Con là nợ nhưng vẫn thích có nợ, vợ là oan gia nhưng vẫn thích oan gia, ôi thói đời này là như thế?

          Con gái thường theo cha. Ông bà mình thường nói con gái giống cha giàu ba họ, nhưng không hiểu tại sao tôi không giàu như truyền thuyết nhân gian nói. Không biết có đúng không, nhưng nếu con mà giống cha thì bên nội thương lắm, hãnh diện lắm. Nhiều người thường nghe người này khoe với bạn của mình:

          – Anh chị thấy không, cháu nội của tôi giống ba của nó quá.

          Cháu của mình không giống mình mà giống ông hàng xóm thì phiền lắm, buồn lắm.

          Ba tôi có giọng nói hiền lành, ấm áp, nhưng mỗi lời nói của ba tôi là lệnh, con cháu răm rắp nghe theo, không ai dám cãi, chưa bao giờ tôi thấy ba tôi phẫn nộ hay lớn giọng với bất cứ người nào.

          Ba tôi bệnh nhưng không bao giờ rên. Ba tôi có 1 em trai duy nhất. Chú tôi có 3 người con trai, còn ba má tôi có 4 con gái. Sau này, mẹ tôi đi chùa cầu khẩn mới được 1 con trai để nối dõi tông đường. Tôi là con cả nên được cưng lắm, chưa bao giờ tôi bị đòn, với lại tôi chạy rất nhanh, dù có bị đòn thì tôi cũng chạy nhanh không ai đuổi kịp.

Ba là cả Trời yêu thương.

          Ba tôi không cho con gái học võ thì tôi nhất định phải học võ. Không học võ với ba tôi thì tôi đi học với võ sư khác. Võ đường tôi bái sư học võ là võ đường Aikido của giáo sư Đặng Thông Phong, du học ở Nhật về, mở võ đường ở đường Hiền Vương. Tôi học vào buổi sáng sớm, võ đường trên lầu, tôi rất say mê võ nghệ. Tôi học chuyên cần, sáng nào mặt Trời còn ngủ thì tôi đã thức dậy đến võ đường, lạy sư tổ, bái sư phụ, sư huynh, sư tỉ rồi bắt đầu học võ. Những ngày đầu té ngã rầm rầm bầm mình, người ê ẩm như ai cầm búa bổ vào thân thể mình, nhưng dần dần quen. Về nhà, tôi dạy các cháu, con của người chị. Các cháu té ngã trên sàn gạch, anh chị không hề la tôi một tiếng. Các cháu rồi cũng say mê học võ, khỏi đến võ đường vì có tôi dạy cho các cháu. Nhà chị tôi có người làm, người làm cũng thích học võ, nhưng người làm mập quá, té ngã mấy cái đã bỏ cuộc. Các cháu nhỏ của tôi tiếp tục học Aikido, tôi học được bài học nào thì về dạy các cháu bài học đó.

          Nói về ba tôi thì nói hoài không hết. Khi tôi ra tranh cử Dân Biểu của Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa thì ba tôi đi vận động cho tôi khắp nơi. Lúc đó tôi còn rất trẻ, vừa đủ tuổi để tranh cử vào Quốc Hội. Tôi thất cử, thua người thắng cử vài ngàn phiếu. Ba tôi không buồn dù ba tôi bỏ công sức vào việc vận động này rất nhiều. Ba tôi tỉnh bơ như không có việc gì xảy ra mặc dù ba tôi tốn tiền, dốc sức đi vận động cho tôi, ba tôi đi cả ngày từ sáng đến chiều vận động cho tôi. Tôi được nhiều phiếu ở những đơn vị quân đội, trại gia binh, chùa và nhà thờ. Tôi được phiếu ở nhà thờ, vì mẹ tôi buôn bán làm ăn với những người ở nhà thờ, ai cần gì thì má tôi giúp đỡ họ. Ba má tôi thường làm việc xã hội, có lẽ tôi lớn lên trong gia đình thích làm việc xã hội, có dòng máu di truyền làm việc xã hội. Nhà của tôi rất sùng đạo Phật nhưng không phân biệt tôn giáo, ba má tôi thường nói tôn giáo nào cũng tốt, vị lãnh đạo tinh thần nào cũng dạy những điều tốt lành. Niềm tin mãnh liệt về sự mầu nhiệm tôn giáo trong gia đình của chúng tôi, bên nội cũng như bên ngoại.

          Có niềm tin tôn giáo, cuộc sống hạnh phúc hơn. Ba mẹ tôi sùng đạo, chúng tôi nhìn việc làm của ba mẹ chúng tôi mà noi theo, giúp người nào được thì giúp, giúp một cách chân tình. Cậu tôi mất sớm, mẹ tôi đem cháu về nuôi, cho ăn học, tới khi lập gia đình, ba mẹ tôi lo cưới gả các anh chị yên bề gia thất.

          Ba tôi mất lúc tôi ở Mỹ, nhìn hình ảnh từng đoàn người đi đưa đám tang, tôi xúc động vô cùng. Bà con đưa đám tang ba tôi rất đông, 6 con chó chạy theo quan tài của ba tôi. Ba tôi rất thương chó, chó rất thông minh. Tôi nghe người lớn kể lại rằng sau khi mọi người đưa đám tang ra về hết, mấy con chó vẫn còn ở lại mộ của ba tôi. 6 con chó nằm cạnh mộ của ba tôi mấy ngày rồi trở về nhà. Tôi cũng thấy lạ, nếu đi theo quan tài, theo đoàn người đưa tang thì chó biết đường mà đi, nhưng tại sao mấy hôm sau chó lại biết đường về nhà? Tôi nghe chuyện chó có tình nghĩa rất cảm động.

          Ngày xưa, ông nội tôi có nuôi một người thiểu số đến từ cao nguyên Trung phần. Sau đó, ông nội tôi mất, người này làm một cái chòi nhỏ ở trong nghĩa trang gần bìa rừng, ở đó báo hiếu ông nội tôi 3 năm, rồi trở lại miền Thượng.

          Ở đời này mình làm gì cho người khác thì khi hữu sự sẽ có người khác giúp lại mình. Ba tôi có lòng quảng đại và được mọi người thương mến. Ba tôi thương con cháu và tất cả mọi người xung quanh. Hàng năm, ba tôi về làng Bưng Cầu, tỉnh Bình Dương giẫy mã cho ông cố tôi. Ở đó còn nhà thờ tổ, nhiều đời, ông tổ của ba tôi từ miền Trung vào, lấy vợ Nam rồi ở luôn miền Nam lập nghiệp. Thật ra cháu của ba tôi hàng trăm người ở làng Bưng Cầu, đâu cần ba tôi về giẫy mã cho ông bà vào những ngày Tết. Thường mỗi năm, con cháu ở đó làm việc này, nhưng tất cả các con cháu đều về tề tựu trong những ngày trước Tết.

          Sau này, tôi trở về, tôi cũng thăm nhà thờ Tổ. Nhà thờ Tổ khang trang, nhiều tượng trước nhà, mộ sau vườn, 5 căn nhà cùng một dãy, từ xa lộ trở vào. Nhà thờ Tổ không ai ở nhưng lúc nào cũng bóng loáng, không một hạt bụi. Trên bàn thờ có bài vị từ đời thứ nhất đến đời thứ năm. Tôi thuộc đời thứ sáu. Bác tôi viết gia phả từ đời thứ nhất, từ 3 anh em ông Tổ của chúng tôi từ miền Trung theo vua Quang Trung vào Nam, cho tới đời sau này.

          Ba má tôi thường dạy chúng tôi giúp ai được gì thì nên giúp ngay, hứa điều gì thì phải làm điều đó. Má tôi dạy con gái đừng nhờ người ta nhiều quá. Thiếu nợ người khác nhiều quá, kiếp sau người ta làm Hoàng Tử, còn mình làm tỳ nữ, suốt đời cứ hầu trà, hầu nước, không dám ngước mặt lên nhìn ông chủ.

          Lúc nghe mẹ tôi nói, tôi cười trong bụng và tự nhủ với lòng nếu sinh ra làm tỳ nữ thôi đừng sinh ra đời cho xong. Thuộc lòng những điều cha mẹ dạy bảo sao tôi cứ nhờ người này việc này, nhờ người kia việc kia, lạ thật? Tôi thích quen người giỏi để học những điều hay của người đó, tôi nhờ ai việc gì tôi nhờ thiệt tình, quen người nào có kiến thức uyên thâm, tôi như bắt được vàng, nhờ và nhờ mãi, nhờ cho hết kiếp này.

Đêm đêm thắp ngọn đèn trời,

Cầu cho CHA MẸ sống đời với con.

          Nói về ba tôi, nói hoài không hết, cho nên gặp người có tính giống ba tôi, tôi ngưỡng mộ và kính nể vô cùng. Tôi cũng nhờ nhiều người làm nhiều việc hữu ích cho cộng đồng nhưng cũng xin Thượng Đế kiếp sau đừng bắt tôi trả nợ.

          Ba tôi qua đời 46 năm nhưng tôi cứ tưởng ba tôi vẫn còn hiện diện nơi đây, quanh quẩn bên tôi. Hình ảnh đẹp nhất của ba tôi là một người hiền lành, có tấm lòng quảng đại, hạnh phúc trong việc giúp người khác, dù một việc rất nhỏ. Quen người nào có tính tình giống ba tôi, tôi rất kính mến và trang trọng như một Đặc Ân của Thượng Đế.

          Hạnh phúc thay cho những người còn ông bà, cha mẹ, hạnh phúc cho những người nào tổ chức tiệc ngày của cha, của mẹ. Người nào không còn ông bà, cha mẹ thì những ngày lễ hiền mẫu, hiền phụ nên cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ mình ở cõi Vĩnh Hằng.

Orange County, ngày 8/6/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)




BIỂN VÀ NGƯỜI ĐẦY SỨC SỐNG: Kiều Mỹ Duyên

BIỂN VÀ NGƯỜI ĐẦY SỨC SỐNG

KIỀU MỸ DUYÊN

Kiều Mỹ Duyên (biển ở Đan Mạch)

          Tôi yêu biển. Tôi yêu biển từ bao giờ tôi cũng không nhớ, có lẽ từ lâu lắm, từ khi tôi còn bé. Trường tiểu học của chúng tôi thường tổ chức cho học trò đi cắm trại ở biển Vũng Tàu, có lẽ tôi yêu biển từ lúc đó. Khi vượt biên, sóng gió hãi hùng, nước biển gần tràn vào thuyền, những người trẻ thay nhau tát nước, thuyền nghiêng nghiêng gần chìm, nhưng tôi không nhớ biển đáng sợ khi đó bằng tình yêu muôn đời của tôi đối với biển. Tôi yêu màu xanh của biển và tôi yêu những đàn chim trắng bay bay trên biển.

          Người trai trẻ hỏi:

          – Má ở đây mấy chục năm, có bao giờ má đến biển này chưa?

          Tôi cười cười:

          – Con giỏi thật, con là luật sư làm việc ở xa, sao con biết biển đẹp này?

          – Mỗi năm con thường đi biển, lên rừng. Má làm việc đầu tắt mặt tối, má không có thì giờ thưởng thức cảnh đẹp.

          Có những lúc tôi tội cho chính tôi, biển đẹp, rừng đẹp, sông hồ, thiên nhiên đẹp, phải có lúc mình phải sống với thiên nhiên chứ. Mình sinh ra đời cũng do sự tình cờ, mình đâu có quyền chọn lựa được sống ở đâu, được sinh ra trong gia đình nào, quen với ai, thương ai? Tất cả đều ngoài tầm tay của mình. Mình có chọn lựa cuộc đời của minh được không hay tất cả đều có sự sắp xếp của Đấng Tối Cao?

          Tôi yêu biển. Nhà tôi không xa biển lắm, sao tôi không đến biển mỗi ngày? Tôi yêu biển, sao tôi không mua nhà gần biển dù tôi có khả năng có một ngôi nhà nho nhỏ ở gần biển hoặc ở trên đồi nhìn xuống biển? Việc làm ở thành phố làm cho tôi tối tăm mặt mũi không còn thì giờ nghĩ hay làm điều gì cho chính mình.

Tôi thích câu châm ngôn: “Cuộc đời là biển cả, ai không bơi sẽ chìm.”

          Đường ra biển Crystal Cove phải qua những khu rừng nho nhỏ với cây xanh, sóng biển chập chùng. Phải lên đồi nhìn xuống biển, phải đậu xe rồi bước xuống từng bậc thang bằng gỗ. Hàng ngàn người ở biển, ánh nến lung linh chiếu xuống mặt biển. Hình như biển buổi tối chỉ dành cho người trẻ, tiếng cười nói vang vang, sức sống của người và biển, một khung trời thơ mộng và lãng mạn.

          Tôi vẫn thưởng thức gió biển với những người trẻ. Một cô gái trẻ rất lãng mạn, thích biển Corona Del Mar. Đến đây, đậu xe trên đồi cao, rồi đi dọc theo bờ biển, nhìn lên những ngôi nhà lộng lẫy, uy nghi tráng lệ trên đồi. Cô gái nói:

          – Em mơ ước có một căn nhà như vầy.

          Cô gái vừa nói vừa đưa tay chỉ căn nhà 2 tầng sát bờ biển, đẹp lộng lẫy với vườn hoa rực rỡ.

          Tôi nói:

          – Nhà này chắc khoảng 50 triệu.

          Nhiều lâu đài không có người ở, người mua rồi để đó, lâu lâu về nghỉ mát, trong lúc xã hội này có nhiều người không nhà.

          Tôi yêu biển nhưng cũng thấy sự bất công của xã hội. Người thì không nhà ở, lang thang, sống màn Trời chiếu đất, nhưng có người có nhà không ở, vẫn phải mướn người chăm sóc nhà của mình, quét dọn, tưới cây cỏ. Vườn hoa của những ngôi biệt thự trên đồi nhìn xuống biển đẹp lộng lẫy, màu sắc rực rỡ, hoa nở quanh năm, làm cho người bất hạnh mơ ước phải chi mình được làm hoa ở sân của những nhà giàu để được quan tâm, được chăm sóc hàng ngày? Là con người có ai mà không thích được quan tâm chứ?

          Tiếng thì thầm của biển như lời ca bất tận. Những chiếc thuyền xa xa ngoài khơi nghiêng nghiêng theo gió như thách thức sóng biển, đẹp quá!

          Niềm mơ ước của cô gái trẻ đẹp về ngôi biệt thự 50 triệu Mỹ kim đâu có gì là khó, khó là ở chính mình. Nếu mình quyết tâm có ngôi nhà ở biển thì sẽ được thôi? Thời gian còn dài, tương lai trong tay của chính mình? Buổi chiều nhìn ánh hoàng hôn rực rỡ trên biển cả, ngắm mặt trời lặn trên biển rất đẹp. Hàng ngàn người ở biển, tiếng cười, tiếng nói hạnh phúc không che được lời thì thầm của sóng biển. Biển vẫn ở đó, sóng biển vẫn thì thầm, biển đem đến cho mọi người sự tĩnh lặng, bình yên. Yêu biển là yêu đời, buồn phiền gì cũng biến mất khi chúng ta đứng trước biển.

          Biển đem đến niềm vui cho mọi người, biển là sức sống cho người đang phiền muộn. Hãy yêu biển như yêu người. Trong trái tim của chúng ta có hình ảnh của người mình yêu nhất thì trong trái tim của chúng ta cũng nên có biển. Biển đẹp, gió biển mát rười rượi, biển đem lại hạnh phúc cho người nào yêu biển.

          Biển mênh mông, biển vô tận như tình thương của cha mẹ đối với con cái. Công ơn cha mẹ như Trời, như biển. Yêu biển, yêu cha mẹ, cha mẹ đến tuổi nào đó sẽ về với ông bà, nhưng biển ngàn năm vẫn còn đây. Biển đem sự bình yên cho mọi người. Khi chúng ta buồn, hãy ra biển, hưởng gió biển. Khi ta muốn khóc, hãy ra biển, khóc với tiếng thì thầm của biển, nhìn mặt Trời mọc trên biển, nhìn hoàng hôn rực rỡ trên biển để cảm thấy lòng mình hòa nhịp với biển cả, nỗi muộn phiền tan biến. Biển đưa người tị nạn đến bến bờ Tự Do, biển cũng vùi hàng trăm ngàn xác người trong lòng đại dương. Nhìn sóng biển, nhìn biển mênh mông vô tận mới cảm nhận được thân phận con người quá nhỏ bé. Biển xanh, biển đẹp. Nếu người nào có người tình mà chiều chiều nắm tay nhau dạo trên bờ biển, nghe sóng vỗ rì rào thì chắc sẽ nhớ nhau trọn đời?

Nhìn biển mênh mông vô tận mới cảm nhận được thân phận con người quá nhỏ bé.

          Tôi yêu biển, biển không phản bội người, chỉ có người phản bội người. Ngàn đời biển vẫn ở đó, vẫn một màu xanh biếc. Tôi yêu biển, gió biển ngàn đời vẫn mát. Những người dân ở biển khỏe mạnh, vô tư, yêu đời, yêu người. Nhìn những đứa bé con của người chài lưới vác bao muối thật nặng đi thoăn thoắt, miệng tươi cười, vừa đi vừa huýt gió, tiếng huýt gió vui như tiếng nhạc. Tôi yêu biển, ngàn đời tôi vẫn yêu biển, tôi đi biển nhiều nơi trên thế giới. Biển ở Monaco, sóng biển, nước biển đến tận đất liền không có bãi cát ngăn cách. Biển ở Nice làm cho những chàng không quân Việt Nam du học ở Pháp nhớ về biển Nha Trang. Biển ở Costa Rica, Jamaica, Bricillia, Thụy Sĩ, Bỉ, Đài Loan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Đan Mạch, Hòa Lan, Phần Lan, v.v., biển nơi nào cũng đẹp, nhưng có lẽ biển ở Việt Nam (Vũng Tàu, Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết) là đẹp nhất.

Biển đẹp Nha Trang, Việt Nam

          Tôi còn nhớ lúc tôi là ký giả đi làm phóng sự ở miền Trung, tôi ở Hải học viện Nha Trang, sát biển. Tiếng sóng biển như tiếng nhạc ru tôi vào giấc ngủ. Mấy năm sau đó, tôi ở lại nhà ba má của chị bạn, gần bờ biển. Buổi sáng, chúng tôi thức dậy rất sớm, chạy ra biển, vừa chạy vừa hát bài Khỏe Vì Nước. Bài ca này tôi còn nhớ mãi cho đến bây giờ.

          Biển là một phần sự sống của người yêu biển. Nếu trong tử vi của người hợp sống ở biển thì nếu được sống ở biển, họ sẽ sống khỏe mạnh, vui vẻ, sống lâu hơn và hạnh phúc hơn.

          Hy vọng người yêu biển sẽ được sống ở biển, dù sống ở cuối đời của mình.

          Biển đẹp lắm, biển có sự sống hùng vĩ của biển, biển yêu người, người yêu biển.

          Tôi yêu biển, tôi yêu biển và mãi mãi tôi yêu biển.

Orange County, 2/6/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)




OPEN HOUSE SAU MÙA DỊCH CÚM

OPEN HOUSE SAU MÙA DỊCH CÚM COVID-19

KIỀU MỸ DUYÊN

          Làm nghề buôn bán nhà cửa, nếu lạc quan lúc nào cũng vui, tin rằng sống chết có số, buôn bán cũng có số. Trong suốt mùa dịch cúm Covid-19, văn phòng Ana Real Estate không đóng cửa ngày nào, nhưng khách đến văn phòng phải đeo khẩu trang, đứng cách nhau 2 mét. Cửa ra vào, phòng tiếp khách phải lau chùi cẩn thận. Khách hàng rời khỏi văn phòng, chúng tôi phải lau chùi cửa ra vào, phòng khách, cứ thế ngày nào cũng phải lau chùi. Khẩu trang đeo mỗi ngày cũng thường xuyên thay mới. Ai vào văn phòng lấy báo cũng phải đeo khẩu trang. Mùi thuốc khử trùng nồng nặc, thật là khó chịu vì thuốc khử trùng hơn là bệnh và chết.

          Thứ sáu tuần trước, chúng tôi vừa được cho phép OPEN HOUSE, nhiều broker gọi đến để xin OPEN HOUSE nhà của văn phòng chúng tôi được khách hàng giao cho bán.

          OPEN HOUSE có nghĩa là gì?

          Thưa, nhà để lên thị trường bán, chuyên viên địa ốc phải mở cửa mời khách hàng có ý định mua nhà đến xem nhà. Họ tự động đến không cần có chuyên viên địa ốc đưa đi. Thường thường, OPEN HOUSE nhà vào thứ bảy và chủ nhật. Bảng OPEN HOUSE đầy đường với mũi tên dẫn đến nhà để bán. Chuyên viên làm sẵn các tờ bướm in các thông tin về căn nhà, giá tiền, nhà rộng bao nhiêu square feet, đất rộng bao nhiêu square feet, nhà mấy phòng, v.v.

          Chủ nhật tuần rồi, chúng tôi OPEN HOUSE 4 căn nhà. Một căn ở Placentia, cách đại học Fullerton không xa, nhà có hồ, ở góc đường, 2 tầng, hàng xóm tốt, nhà tương đối mới, xây năm 1992. Căn thứ hai ở Anaheim, 2 tầng lầu, có hồ bơi, chủ sửa nhà rất đẹp. Căn thứ ba ở Garden Grove, góc đường, đất rộng, xây thêm 1 căn phòng ở sau nhà có giấy phép của thành phố. Căn thứ tư ở Long Beach, góc đường, nhà này cũng đã sửa rất đẹp.

          OPEN HOUSE mở ra lúc 1pm. Khách đến đúng hẹn, nhiều người không hẹn mà tới. 3 chuyên viên địa ốc tiếp khách không kịp. Nhà ở Garden Grove chỉ trong vòng 3 phút, 9 nhóm đi xem. Nhà này do 2 chuyên viên địa ốc Minh Văn và Phương Vũ tiếp tân. Khách hàng rất lịch sự, đa số là vợ chồng cùng đi với nhau, người này đợi người khác đi ra rồi mới vào, có những người khách xem rất kỹ. Các chuyên viên địa ốc Thu Anh, Hạnh Vũ, Phương Vũ và An Nguyễn trả lời những câu hỏi của khách hàng. Khách hàng nào cũng xin flyer và họ đọc rất kỹ.

          Những chuyên viên khác OPEN HOUSE nhà ở Placentia là Thảo Đoàn và Hiếu Mạnh, ở Long Beach có Kỳ Lê và Thu Vân. Tất cả chuyên viên địa ốc đều tiếp khách rất ân cần niềm nở.

          Đi xem nhà OPEN HOUSE cũng rất thú vị, vì khách hàng muốn ở bao lâu thì ở, muốn ngắm hoa đang nở, hay nghe tiếng chim hót líu lo trong vườn thì cứ tự nhiên xem như nhà của mình.

          Tony Mai gắn 16 tấm bảng OPEN HOUSE ở mọi ngả đường dẫn đến nhà ở Anaheim. Khi trở về, Tony Mai nói:

          – I  love OPEN HOUSE.

          Tony Mai là dược sĩ đang làm việc toàn thời gian, chỉ làm real estate cuối tuần. Người trẻ này rất chịu khó học về luật địa ốc với luật sư hay với những chuyên viên các ngành nghề khác nhau huấn luyện ở văn phòng Ana Real Estate. Làm nghề địa ốc phải học hỏi không ngừng vì luật lệ nhiều quá, năm nào cũng có thêm luật mới mà chuyên viên địa ốc phải học, phải hiểu, không học thì không biết gì hết. Tony Mai sang Hoa Kỳ lúc còn rất nhỏ, học ở miền Đông, tiếng Việt không rành nhưng làm việc với cộng đồng người Việt từ từ sẽ giỏi tiếng Việt nếu chịu khó học.

          Thu Anh cùng OPEN HOUSE với Tony Mai nói:

          – Khách xem nhà đông lắm cô ơi.

          Đông là nhờ cắm bảng khắp các nẻo đường, nếu chỉ cắm bảng trước cửa nhà thì đâu có ai biết mà tới?

          Chuyên viên địa ốc nào đi OPEN HOUSE về cũng vui vì khách đến rất đông. Kỳ Lê và Thu Vân OPEN HOUSE nhà ở Long Beach nói:

          – Cô ơi, nhiều khách lắm. Con viết offer cho khách và có thể sẽ mở Escow ngay thứ hai.

          Ngày xưa, khi vừa đậu bằng broker, lúc đó tôi vừa tốt nghiệp đại học Cal State Fullerton, tôi đến một công ty Mỹ xin việc, họ nhận vào làm việc ngay. Trong lúc còn học huấn luyện để thành chuyên viên địa ốc, mỗi chuyên viên địa ốc đặt mua 40 tấm bảng OPEN HOUSE. Làm việc với những công ty nổi tiếng, nếu mình không làm việc theo những điều họ dạy thì chuẩn bị lấy giấy thôi việc.

          Một giáo sư thường nói với chúng tôi:

          – Nếu làm việc toàn thời gian 3 tháng mà không bán được căn nhà thì chuẩn bị ra đi, nếu không đi thì hãng cũng gửi giấy mời đi. Cho nên  mọi người phải cố gắng, cố gắng học hỏi không ngừng.

          Làm bất cứ việc gì cũng cần có sự đam mê, học hỏi không ngừng mới đưa đến thành công. Hàng tuần, đồng hương đưa nhà cho chúng tôi bán hay cho thuê. Chúng tôi quảng cáo trên tivi, radio và báo. Làm việc tận lực để đưa đến kết quả tốt đẹp, làm việc nhiều hơn mới có thành tựu tốt đẹp hơn.

          OPEN HOUSE một ngày cuối tuần, chỉ 3 giờ đồng hồ, nhưng 8 chuyên viên của chúng tôi chuẩn bị cả tuần: đăng trên MLS, làm flyer, đi phát flyers, cắm bảng, lo nước uống, bàn bạc chia nhau từng công việc, v.v. Họ  làm việc không ngừng nghỉ cho 4 căn nhà này. Chuyên viên của chúng tôi rất siêng năng, lúc nào cũng làm việc với nụ cười thật tươi, làm việc và làm việc không cần ăn uống. Cũng nhờ Trời thương và đồng hương thương nên việc làm không bao giờ hết. Cảm ơn đồng hương, cảm ơn những người làm chung sở với đồng hương giới thiệu khách hàng đến với chúng tôi mà chúng tôi không biết những ân nhân để tạ ơn, thôi thì cầu nguyện cho những vị tốt bụng được sức khỏe tốt, may mắn và hạnh phúc.

          Quý đồng hương có nhà muốn giao cho chúng tôi, chúng tôi sẽ OPEN HOUSE, quảng cáo trên tivi, radio và báo, giúp nhà của quý vị bán càng sớm càng tốt. Nếu quý đồng hương có cần thông tin miễn phí về việc làm từ thiện hay các sinh hoạt tôn giáo muốn gởi thông báo, hãy gọi đến văn phòng, chúng tôi sẽ thông tin miễn phí cho quý vị trên tivi, radio và báo hàng tuần.

          OPEN HOUSE cũng là bài học cho chuyên viên địa ốc, phải cắm bảng đúng nơi quy định, tùy theo thành phố: cột bảng OPEN HOUSE vào gốc cây của thành phố Garden Grove là bị phạt hay bỏ flyer vào thùng thư của chủ nhà cũng bị phạt vì hộp thư của chính phủ chứ không phải của tư nhân.

          Ở văn phòng Ana Real Estate có một chuyên viên OPEN HOUSE vào bậc nhất là Nguyễn Phương Lan. OPEN HOUSE một căn nhà ở Josephine mà cắm bảng từ Bolsa, Magnolia, chạy đến đường Garden Grove rồi tới Josephine. Khách hàng cứ theo mũi tên chỉ mà đến nhà đang OPEN HOUSE. Chủ nhà rất hài lòng khi thấy chuyên viên địa ốc Phương Lan làm việc hết lòng hết dạ của mình. Một hôm, Phương Lan đang cắm bảng nhà sắp OPEN HOUSE thì chủ nhà bên cạnh chạy tới nói:

          – Nhà tôi muốn bán, cô vào nhà tôi xem để bán nhà cho tôi nhé.

          Thế là Phương Lan lại có thêm một căn nhà nữa để bán. Một người làm việc tận tụy và có sáng kiến thì mọi người biết ngay. Văn phòng của chúng tôi có nhiều người thích OPEN HOUSE. Việc gì cũng vậy, thích thì mới làm được một cách tốt đẹp, còn làm việc miễn cưỡng thì người khác nhìn vào biết ngay. Sự thành công của con người cần có sự tận tụy, chịu khó, làm việc không ngừng nghỉ, học hỏi không ngừng, nhưng có người học xong, chữ nghĩa đi mất vì trong lúc học không tập trung, học mà đầu óc để ở đâu thì làm sao mà nhớ được?

          Có người OPEN HOUSE thì cả trăm người đến xem nhà, có người OPEN HOUSE chỉ vài người đến vì không cắm nhiều bảng OPEN HOUSE, không rao trên tivi, radio, báo và MLS ngày giờ OPEN HOUSE để cho người có ý định mua nhà tìm đến. Cho nên giàu nghèo cũng tự do mình, làm việc tận lực, hết lòng hết dạ vào công việc mình làm thì chắc chắn một điều ai cũng biết là mình sẽ không có thì giờ để xài tiền. Mình không có thì giờ để xài tiền thì người phối ngẫu xài dùm. Nếu không xài tiền thì đầu tư vào địa ốc sinh lời, hay mua nhà cho cha mẹ ở, hữu ích lắm.

          Đất Mỹ là đất của cơ hội. Biết bao nhiêu người từ tay trắng mà đến đất nước này, không bao lâu đã trở thành triệu phú. Người Việt Nam tị nạn cũng có người thành tỷ phú, như Trung Dung, người Việt gốc Chăm, bán cổ phần trị giá 1,8 tỷ khi đó ông chưa đến 30 tuổi. Còn triệu phú thì nhiều lắm, nhiều lắm. Người trẻ, người già, ai cũng có thể thành triệu phú nếu muốn. Nếu muốn thành triệu phú thì phải làm việc. Một việc nhỏ xíu như cắm bảng OPEN HOUSE mà làm không xong thì làm việc gì bây giờ? OPEN HOUSE mà người mua nhà không tới thì OPEN HOUSE làm gì?

          Lúc nào tôi cũng khuyên các chuyên viên của văn phòng Ana Real Estate làm việc gì cũng phải tận lực, nếu không thì đừng làm. Làm việc gì cũng phải làm hết lòng, hết dạ của mình. Làm việc cho khách hàng phải tận lực như làm việc cho chính mình và gia đình mình. Phải học hỏi không ngừng, sự thành công nhất định sẽ đến.

          100 người vào nghề địa ốc nhưng thành công chừng 10 người, nhiều người bỏ cuộc vì nhiều lý do. Cho nên làm bất cứ nghề nào không thành công thì phải tự hỏi mình: mình đã làm việc tận lực chưa? Mình có học hỏi về nghề của mình liên tục để có sự tiến bộ không?

          Chúc tất cả quý đồng hương làm việc gì cũng thành công và thành công vượt bậc.

Orange County, 25/5/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)




BÌNH YÊN TRONG TÂM HỒN

BÌNH YÊN TRONG TÂM HỒN

KIỀU MỸ DUYÊN

Ký giả Kiều Mỹ Duyên

Tìm về thiên nhiên, tìm sự thanh thản, an nhiên cho tâm hồn.

          Làm bất cứ nghề gì cũng mong có sự bình yên trong tâm hồn, tối về nhà phải ngủ ngon, muốn thế phải học hỏi không ngừng, học ở trường không chưa đủ, phải học ngoài đời, học từ những người có nghề nghiệp có kiến thức uyên thâm. Tốt nghiệp đại học 4, 6, 8 năm ai cũng có thể học được, nhà nào cũng có con tốt nghiệp đại học, nhưng học ở đại học thì học lý thuyết nhiều hơn là thực tế, thực tế là phải học từ những người có kinh nghiệm truyền dạy.

          Văn phòng của chúng tôi, Ana Real Estate có lớp hàng tuần huấn luyện cho chuyên viên địa ốc trở thành chuyên nghiệp. Muốn không bị thưa kiện thì phải học không ngừng nghỉ, học để hiểu biết, học để làm việc với khách hàng một cách thuyết phục và nhận được sự tin tưởng từ khách hàng. Khách hàng nói chuyện với chuyên viên địa ốc chừng 5- 10 phút là biết ngay chuyên viên địa ốc đó có kiến thức  hay không?

          Chúng tôi thường mời những chuyên viên liên quan đến nghề địa ốc đến văn phòng để hướng dẫn các chuyên viên của chúng tôi. Các chuyên viên cũ hay mới cũng phải học, học không ngừng nghỉ. Chúng tôi huấn luyện chuyên viên nghe nhiều hơn nói. Nếu nói nhiều quá rồi không biết mình nói gì? Lắng nghe nhiều hơn là nói, phải biết khách hàng mình cần gì, muốn gì, họ ao ước có cái nhà để ở, người khác thì muốn bán nhà nhanh, v.v.

          Thứ bảy, chủ nhật nào văn phòng của chúng tôi cũng có lớp. Sự học hỏi rất cần thiết cho người cầu tiến, mong làm việc với khách hàng một cách hữu hiệu. Nếu đồng hương muốn bán nhà, chỉ cần đặt vài câu hỏi với chuyên viên là biết ngay họ có kiến thức hay không?

          – Anh chị làm nghề địa ốc bao lâu rồi? Học bao nhiêu lớp huấn luyện sau khi có bằng địa ốc? Học với ai? Những lớp học đó tên là gì? Hằng năm có tiếp tục học những luật mới của địa ốc không?

          – Anh chị bán được bao nhiêu căn nhà rồi? Nhà đó ở thành phố nào?

          Chuyên viên địa ốc hỏi người đi mua nhà làm lương bao nhiêu, cho xem giấy tờ khai thuế, tiền để trong nhà băng, tín chỉ bao nhiêu điểm, v.v.? Tại sao người mua nhà không hỏi lại chuyên viên địa ốc chứ?

Các chuyên viên địa ốc văn phòng Ana Real Estate được các chuyên gia training mỗi tuần. (Trong hình: Duke Nguyen, Cảnh Sát tư pháp, nguyên là ứng cử viên Cảnh Sát Trưởng của Orange County(áo cam) huấn luyện các agents cách tự vệ và bảo vệ khách hàng khi đi xem nhà)

          Nếu ai có hỏi tôi rằng chị bán được bao nhiêu căn nhà? Tôi sẽ trả lời ngay những nha tôi đã bán ở các thành phố khác nhau như ở các quận Los Angeles, San Jose, Riverside, San Bernardino và Orange County.

          Ngày xưa, tôi mới vào nghề địa ốc mấy tháng có người hỏi tôi rằng chị làm nghề địa ốc, chị khuyến khích đồng hương mua nhà, vậy thì chị mua nhà chưa?

          Tôi trả lời ngay, tôi vừa làm nghề địa ốc mấy tháng tôi mua nhà ngay. Tháng đầu tiên, tôi đã bán và list 23 căn nhà, chiếm giải thưởng của miền Nam California. Đó cũng là nhờ có gia đình giúp đỡ, cắm bảng open house, in tờ bướm, phát tờ bướm và nhiều thứ nữa. Nếu không tin, tôi sẽ cho địa chỉ nhà, quý vị có thể tìm ra ngay nhà đó là nhà của tôi. Trước khi vào nghề địa ốc, tôi tin tưởng rằng tôi có khả năng làm nghề này, và có khả năng mua nhà trong thời gian rất ngắn. Đúng vậy, ngụ ngôn của Pháp rằng muốn thì được (Vouloir, c’est pouvoir). Người nào quyết tâm làm việc gì đó sẽ được và sẽ thành công nếu cố gắng và học hỏi không ngừng, và yếu tố quan trọng sống làm sao để cho đồng bào thương. Người ta thương mình thì không bao giờ sợ đói, không ai chết đói vì thiếu ăn, nhưng chết vì thiếu tình thương.

          Càng lớn tuổi chúng ta mới cảm nhận được tình thương quan trọng nhất trên đời này. Nhiều người không sợ thiếu cơm, thiếu áo mà sợ cô đơn, cô độc .       

          Làm bất cứ việc gì cũng mong sự bình yên trong tâm hồn, tiền rừng bạc biển mà tối ngủ không ngon thì cũng chết sớm.

          Ai cũng mong được thương yêu, muốn người ta thương mình, mình phải thương mình trước. Làm việc tối tăm mặt mũi không có thì giờ để ăn thì không nên. Phải ăn uống điều độ, phải nghỉ ngơi. Có nhiều người lớn tuổi làm việc tận lực vì biết mình không còn sống bao lâu trên thế gian này. Điều đó không nên, nếu mình biết giữ sức khỏe, ăn uống điều độ, ngủ đúng giờ, ngủ ngon giấc, biết đâu mình sống lâu hơn, giúp người khác nhiều hơn.

          Tôi thường khuyên người thân của mình sống làm sao để được mọi người thương thì không bao giờ sợ đói. Dù đi đến đâu hay ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng không bao giờ sợ đói, đói là do mình mà thôi. Sống để người ghét mình thì sợ không toàn mạng chứ đừng nói đến việc người ta cho mình ăn.

          Tình thương vô hình nhưng cần thiết trong đời sống của mọi người. Nhiều người cho rằng người ở Việt Nam có nhiều tình cảm đậm đà, sâu sắc vì người ở Việt Nam có nhiều thì giờ hơn người ở Mỹ. Người ở Mỹ làm việc tối tăm mặt mũi không còn thì giờ để nghĩ đến người khác? Nói như thế cũng không đúng. Mình phải tự hỏi mình là ai? Mình có trong trái tim của người nào đó không? Một ngày có 24 giờ, người nào cũng có bao nhiêu đó thời gian, sở dĩ người này không nghĩ đến người kia vì trong trái tim của họ không có mình.

Hãy trao nhau yêu thương và sự quan tâm.

          Tôi có nhiều người bạn tuyệt vời, dù bận rộn thế nào bạn tôi vẫn gọi thăm tôi thường xuyên, không bao giờ bạn tôi nói: tôi bận quá, tôi không có thì giờ. Tại sao mình có thì giờ ăn một ngày 3 bữa, có thể ngủ một đêm 8  giờ mà không có vài ba phút để gọi thăm bạn mình, vì mình không có trong trái tim của bạn mình. Đã là bạn thì không bao giờ than không có thì giờ. Đến lúc nào đó, người ta không cần cơm áo gạo tiền mà chỉ cần đến tình thương và sự quan tâm.

          Tôi đã từng nuốt nước mắt vào tim khi nhìn những người già trong viện dưỡng lão không thân nhân thăm viếng, chỉ trừ những người làm việc thiện nguyện. Họ là những người một thời vang bóng, có thanh danh trong xã hội, nhưng khi về già sống cô đơn trong viện dưỡng lão. Hơn 40 năm nay, tôi có mặt thường xuyên trong các viện dưỡng lão ở miền Nam California. Tôi nghe ông bà cụ tâm sự về con cháu, về quá khứ của họ mà tôi xúc động.

          Tình thương, tình thương và tình thương cần lắm, rất cần cho mọi người. Tình thương người với người vô giá, sống vui với tình thương của những người trong gia đình, trong cộng đồng, với những người xung quanh. Buổi chiều về nhà, thấy ánh đèn long lanh, nghe tiếng cười của trẻ thơ, nhìn ánh mắt ấm áp của người lớn tuổi đã thấy ấm lòng. Thương yêu và sống vui vẻ, hạnh phúc thì còn gì bằng?

Càng lớn tuổi, tôi càng tin vào thuyết Nhân Quả của nhà Phật.

          Càng lớn tuổi, tôi càng tin vào thuyết Nhân Quả của nhà Phật, người nào làm việc xấu thì gặp việc xấu đến, người nào làm việc tốt thì mọi sự tốt lành sẽ đến. Sống làm sao được bình yên trong tâm hồn là đủ, giàu nghèo sang hèn đâu có gì quan trọng, sống mình biết đủ là đủ. Hãy nhìn tính tốt của người khác, người nào cũng có tính tốt, tại chúng ta không nhìn thấy mà thôi?

          Quan niệm của tôi không nghe việc xấu của người khác, không thấy việc xấu của người khác và không nói việc xấu của người khác. Cuộc sống bình yên, đi làm về tối sẽ ngủ ngon, thắc mắc việc của người khác sẽ khổ thôi, tại sao mình phải mang cái khổ vào thân? Cha mẹ sinh ra con, thương yêu con, nhịn ăn để cho con ăn, tại sao không thương cha mẹ là rước khổ vào thân?

          Biển đẹp, rừng cây đẹp, tiếng chim hót líu lo trên cành, hoa lá màu sắc rực rỡ, rung rinh trong gió tuyệt đẹp. Hãy ngắm nhìn cảnh thiên nhiên đẹp tuyệt vời, vô tư, khong thù oán thì đời đẹp lắm.

          Yêu thiên nhiên, sống với thiên nhiên, sống với tiếng hót của loài chim với giọng cười của con suối, hạnh phúc lắm.

          Muốn bình yên đâu phải lúc nào cũng được bình yên, nhưng khi bị nhức đầu quá thì phải làm sao? Uống thuốc đau đầu ư? Không nên uống thuốc đau đầu, phải tìm đến một vị thần hộ mệnh của mình, vị thần hiện hữu ở trần gian mà mình kính mến để nhờ giúp đỡ. Sự giúp đỡ của vị thần sống là điều tốt đẹp nhất trần gian, vị thần sống biết lắng nghe, biết nói và biết giải quyết vấn đề thực tế, vấn đề rắc rối ở trên cõi trần gian này. Mong rằng mọi người đều có thần hộ mệnh cho mình.

Cầu xin Đức Mẹ hiển linh hằng cứu giúp.

          Hãy tận hưởng những gì mình có, không thắc mắc, không oán thù bất cứ người nào. Sống yêu thương thấy đời đẹp lắm.

          Hy vọng mọi người được yêu thương, sống an vui, hạnh phúc và bình yên. Hãy cho nhau tình thương, mong lắm thay!

Orange County, 18/5/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)




TÌNH MẸ TUYỆT VỜI

KIỀU MỸ DUYÊN

Mẹ Kiều Mỹ Duyên và cô Hoàng Minh Thúy, Chủ báo Xây Dựng, Houston

          Mẹ tôi đã qua đời năm 1996. Mẹ tôi đã đi xa nhưng mẹ tôi vẫn còn ở đây, trong trái tim của tôi. Tôi cứ tưởng mẹ tôi đi du lịch, và mẹ tôi sẽ trở về. Nhiều khi tôi nhìn những bụi cây trước nhà, tôi cứ tưởng mẹ tôi đang chăm sóc  hoa và cây kiểng.

          Sáng nay trời rất đẹp, gió dìu dịu, những con chim sẻ ngoài vườn vô tư nhảy nhót và hót líu lo, chuyền từ cành cây này đến cành cây khác. Đời rất đẹp, thanh bình, vui tươi với nắng ấm chói chang cho một ngày đẹp bắt đầu.

          Cháu tôi, Hưng Nguyễn, con của em ruột hỏi:

– Cô hai uống cà phê không?

– Uống, nhưng cà phê phải thật nhạt. Tôi đáp.

Hưng Nguyễn nói tiếp:

– Có trái cây nhiều lắm, cô hai ăn đi.

          Giọng nói của cháu lúc nào cũng reo vui. Ai mà giận Hưng nhưng nghe thấy tiếng nói reo vui và tiếng cười giòn tan vô tư của cháu là hết giận ngay. Hưng đang học Tiến Sĩ, vất vả còn hơn cày bừa. Buổi sáng cháu thức dậy thật sớm, ăn sáng, uống cà phê rồi lên đường, đường từ Orange County đến Los Angeles không xa nhưng nếu kẹt xe thi phải đi thật sớm hoặc sẽ bị  kẹt xe trên xa lộ hàng giờ. Một chuyến đi mỗi ngày mất 3- 4 giờ thật quá nhiều. Cái bằng Tiến Sĩ phải trả bằng tiền, thì giờ, và sức lực.

          Hưng cầm trái chuối vàng óng ả đưa cho tôi và nói:

– Cô hai ăn đi. Con nhớ bà nội nói thứ gì ngon mới mời người khác, nhà mình ngày xưa nhiều trái cây lắm.

Hưng Nguyễn, Tiến Sĩ kinh tế

Tôi nhớ nhà chúng tôi trên khu đất rộng. Trước nhà có hàng dừa xanh mướt, lúc nào cũng quằn trái, cành lá xanh mướt làm cho căn nhà trở thành màu xanh. Chúng tôi sinh ra và lớn lên ở ngôi nhà này, hàng ngày uống nước dừa ngọt lịm, hái xuống ăn ngay, ăn cơm dừa và uống cả nước. Nước dừa ngọt lịm, bên hông nhà là hàng rào trúc, sau nhà và xung quanh nhà lá ổi xanh rì, mãng cầu, đu đủ, mía lau, xoài cát, và chuối. Trước nhà có cây vú sữa thật to, cao, cành lá xum xuê, quanh năm có trái ngọt lịm.

          Hồi nhỏ tôi thường trèo lên cây vú sữa hái trái. Trước sân nhà mẹ tôi trồng nhiều loại hoa: thược dược, hoa cúc, hoa mai cao hơn đầu của tôi, mùi thơm ngào ngạt. Tôi không ở nhà, tôi sống với cô của tôi gần trường, gần quận, mỗi tuần về một lần. 

          Hồi chị em tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường hái trái cây, rửa thật sạch để cúng Phật ở trên bàn thờ và bàn thiên, đem trái cây vào chùa. Mẹ tôi đi nhiều chùa khác nhau, thường là những ngôi chùa nhỏ và nghèo. Mẹ tôi thường giúp nhiều người, đem cháu về nhà nuôi. Anh tư Tốt, con của cậu tư chúng tôi, mẹ anh mất sớm nên mẹ tôi đem về ở với chúng tôi. Rồi chị Thức, con của người cậu khác cũng về ở với chúng tôi.

          Ba mẹ tôi thương cháu như con ruột của mình. Lòng thương yêu của ba mẹ tôi được những người cháu này đáp lại bằng cách học hành rất giỏi, dễ thương, các anh chị lớn hơn chúng tôi nhưng không ai ăn hiếp chúng tôi, một lòng nhường nhịn và thương yêu nhau.

Mẹ tôi thường dạy chúng tôi:  

– Mình tặng trái cây cho ai thì phải chọn thật ngon, thật tươi, khi mời ai ăn cũng vậy.

Một nồi bắp vừa chín, đổ ra khỏi nồi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên, người nào bưng dĩa bắp mời từng người trong nhà, phải để người ta chọn trước, mình chọn sau. Và người chọn trước bao giờ cũng chọn trái nhỏ nhất, để người sau trái lớn nhất. Chúng tôi sống trong gia đình vui vẻ từ sáng đến tối. Buổi tối, mẹ tôi thường nấu chè khoai môn, có nước cốt dừa, em gái tôi gần gũi với mẹ tôi thường hơn tôi nên sau này em tôi nấu chè và nấu ăn rất ngon.

          Tôi học được tính của cha mẹ tôi là giúp gì cho người khác là làm ngay không đợi người ta năn nỉ nhưng không hiểu sao tôi không học được tính nấu nướng rất ngon của mẹ tôi, có lẽ tôi thiếu tính nhẫn nại và tỉ mỉ. Nấu một nồi phở 6- 8 giờ, nấu cho bắp cải, củ cải thành nước lèo thật ngọt, ngọt vị xương thịt hay vị rau cải, tôi không làm được. Có lẽ trời sinh ra người nào thích ở ngoài đường, thích ở vận động trường, thích ở hồ bơi, ở sân tennis, bàn ping pong thì không thể nào nấu ăn ngon, không biết có đúng hay không? Có lẽ vì thế tôi nhận thấy phụ nữ nào nấu ăn cũng ngon, tôi thường được mời đến nhà bạn bè ăn. Tôi ăn xong, lúc nào tôi cũng khen chưa bao giờ chê, bởi vì các bà, các cô người nào cũng giỏi hơn tôi gấp vạn lần. Tôi ăn uống rất dễ, ăn cho xong một bữa, sống không phải để ăn tôi quan niệm như thế.

          Mấy chục năm nay ăn chay, lại càng dễ hơn, một chút nước tương, một dĩa rau tươi, một chén cơm trắng là xong một bữa ăn. Dễ quá ai cũng có thể mời tôi ăn tối dễ dàng cho một ngày.

          Mẹ tôi thường dạy chúng tôi rằng phước đức là do mình làm nên, chứ không phải phúc đức là đi xin. Mẹ tôi cũng dạy rằng nên làm việc từ thiện. Hạnh phúc là giúp đỡ cho người khác, chứ không phải nhận sự giúp đỡ của người khác.

          Khi tôi sinh ra, ông bà ngoại đã qua đời, tôi chưa một lần được nhìn thấy ông bà ngoại, bà nội cũng qua đời, chỉ còn ông nội, nhưng một thời gian sau rất ngắn thì ông nội cũng qua đời, lúc tôi được mấy tháng gì đó. Tôi là cháu nội đầu tiên của ông bà nội tôi. Ba tôi là con trưởng trong gia đình có 2 anh em, tôi không được diễm phúc  như những đứa trẻ khác có ông bà nội, ông bà ngọai để được hưởng tình cảm của ông bà dành cho mình. Tôi chỉ còn tình cảm của ba mẹ tôi và dì tôi. Mẹ tôi sinh ra trong gia đình có 9 anh chị em. Dì sáu tôi lập gia đình rất sớm, chồng chết, dì đem một người con gái con của dì bảy về nuôi, dì thương chúng tôi vô cùng. Dì là người mẹ thứ hai của chúng tôi, chúng tôi cũng thương dì nhiều lắm.

          Dì thương chúng tôi lắm, cháu nào dì cũng thương, nhưng có lẽ trong những người cháu của dì, tôi gần gũi dì nhiều nhất. Mỗi lần muốn làm việc từ thiện, tôi không có tiền thì tôi xin tiền mẹ tôi và dì tôi. Dì tôi hiền như mẹ tôi, ít nói, dễ thương và phúc hậu. Mẹ tôi hiền lắm, hay giúp người. Mẹ tôi và dì tôi làm việc từ thiện thường xuyên. Ba tôi dạy võ miễn phí cho trai trẻ trong làng. Mẹ tôi hay thương người, nhà tôi có cái giếng đào quanh năm nước trong vắt, mỗi lần có tân binh quân dịch tập luyện ở bãi tập, mẹ tôi gánh nước cho anh em uống. Sau này khi tôi lớn lên hình ảnh làm việc thiện tuyệt vời của mẹ tôi in vào đầu tôi, một người phụ nữ hiền lành, ốm yếu, nụ cười thật tươi gánh nước cho tân binh quân dịch uống. Quý vị khó tưởng tượng được nhưng đây là sự thật đã xảy ra thập niên 50 quý vị ạ. Những tân binh này còn sống sót cũng lớn tuổi hơn chị em chúng tôi nhiều.

Mỗi lần có tân binh quân dịch tập luyện ở bãi tập thì mẹ tôi gánh nước cho anh em uống.

          Kỷ niệm về mẹ tôi nhiều lắm. Chúng tôi sống trong ngôi nhà rộng, đất rộng. Nhà đầu tiên được xây trên đất của ông nội chúng tôi để lại. Sau này, ba mẹ tôi mua một miếng đất khác rộng rồi xây nhà. Xung quanh là cây xanh, yên tĩnh, chúng tôi lớn lên trong ngôi nhà này, bình yên và hạnh phúc, ngôi nhà có tiếng cười suốt ngày. Nhà chúng tôi nuôi nhiều chó, có những con chó thật to, chó giữ nhà, chó thương chủ nhà, chó đưa chủ nhà ra tận cổng khi chủ nhà đi chợ hay đi đâu đó, chó đón chủ nhà trở về. Có một điều rất lạ mà chúng tôi không hiểu nổi khi thấy một đàn chó chạy ra cổng mừng rỡ đón chủ nhà trở về mà không có tiếng sủa, nhưng nếu có người lạ đến là chó cất tiếng sủa rất to.

Mẹ tôi chỉ cần nói một tiếng rất nhỏ:

– Đi vào các con.

Đàn chó ngoan ngoãn đi vào sau vườn ngay. Mẹ tôi không bao giờ lớn tiếng với con cháu và các con. Các cháu đều nghe lời mẹ tôi, không ai cãi lại một lời.

          Trước khi vào lớp học gặp người lớn là chúng tôi cúi đầu chào, và rời khỏi lớp học cũng vậy, gặp người lớn cũng cúi đầu chào hỏi rất lễ phép.

          Mẹ tôi thường cúng Phật ở nhà, trên bàn thờ lúc nào cũng có trái cây tươi, hoa tươi và nước lọc.Trái cây ngoài vườn, hoa ngoài vườn hái đem vào cúng Phật. Mẹ tôi thường đi chùa đem trái cây, hoa quả cúng Phật và mẹ tôi cũng làm công quả ở chùa. Mẹ tôi là Phật tử thuận thành, mẹ tôi cầu nguyện mỗi ngày, cầu nguyện cho gia đình, cho người thân và cầu nguyện cho người nghèo, mẹ tôi ăn chay ngày rằm, ngày lễ.

           Nói về mẹ tôi nói hoài không hết. Mẹ tôi hay giúp người đó là điều đặc biệt không bao giờ tôi quên. Tôi giống tính mẹ tôi nhất ở điểm này. Vào chùa, mẹ tôi thấy việc gì làm việc đó, từ trong nhà bếp ra ngoài vườn, mẹ tôi thích nấu nướng, dọn dẹp trong bếp, ngoài vườn. Mẹ tôi thích chăm sóc cây cỏ, nên đến chùa nào mẹ tôi cũng có nhiều việc lắm.

          Mẹ tôi thường nói:

– Người ta ăn thì còn, mình ăn thì hết, nên giúp người.

          Hồi tôi còn nhỏ xíu, tôi cũng biết xung quanh mình cũng có nhiều trẻ em không cha không mẹ, có người vừa sinh ra là mất cha, có người vừa sinh ra là mất mẹ, ít có ai được một gia đình có ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại,và cha mẹ đầy đủ bên cạnh cho đến khi khôn lớn.

Gia đình nào đầy đủ mọi người là điều hạnh phúc nhất trần gian, là phúc đức. Tôi không được như thế cho nên thấy gia đình nào còn ông bà thì tôi thèm lắm, thôi thì kiếp sau vậy.

          Mẹ tôi nhỏ người, gầy nhưng sức chịu đựng và làm việc không thể tưởng được. Tôi vượt biên trước, sau đó có thẻ xanh, tôi bảo lãnh mẹ tôi và em tôi sang Hoa Kỳ. Tôi cầu nguyện cho mẹ tôi và em tôi được định cư thì tôi ăn chay để trả ơn Trời Phật gia hộ. Sau đó mẹ tôi bệnh, tôi cầu nguyện cho mẹ tôi hết bệnh và sau này mẹ mất, tôi cầu nguyện cho mẹ tôi siêu thoát và tôi ăn chay luôn cho đến bây giờ, thoáng mà đã mấy chục năm rồi.

          Những ngày ở Việt Nam, sau 1975, gia đình tôi khổ, mọi người cùng khổ. Tôi có cháu, con của người anh họ du học ở Pháp, tôi nhờ cháu chuyển tiền về Việt Nam để giúp gia đình, nhưng sau này tôi biết được gia đình tôi cũng ăn bo bo, khoai sắn trộn cơm như mọi người vì mẹ tôi không dám xài tiền, vì không biết ngày mai ra sao? Người phụ nữ Việt Nam nào cũng lo xa, sợ con cháu của mình đói, nhất là sống trong xã hội chủ nghĩa không biết chuyện gì sẽ xảy ra, nên dành dụm là tốt nhất.

          Tôi có 4 chị em gái, chết 2 còn lại một em và tôi. Sau này, mẹ tôi sinh được một đứa con trai. Em trai của tôi rất thông minh, thích binh chủng Không Quân nên sau này vào Không Quân được du học ở Mỹ 2 lần sửa máy bay F5. Em trai tôi cưới vợ làm nghề dạy học và sinh được 2 con, một trai một gái. Đứa con trai đầu lòng của em tôi mẹ tôi nâng niu như trứng. Nó cũng biết là được bà nội thương lắm, cho nên nó nhớ nhiều nhất là bà nội. Bà nội ẵm bồng cháu trên tay khi cháu còn nhỏ xíu. Cháu trai này mang tính nhà binh của bố, khi nó vừa ra đời tôi ẵm nó ở nhà thương. Tôi nói:

– Mai này con lớn lên đi nhiều như cô hai nghen con.

Không ngờ lời nói của tôi thành sự thật. Sau này, nó đi làm nhiều quốc gia khác nhau: Á Châu, Anh, Úc. Nó sinh con ở Úc, và hiện nay ở Hoa Kỳ, đang học Tiến Sĩ ở Los Angeles mà chúng tôi vừa kể đến ở trên là Hưng Nguyễn.

Nó nhớ bà nội và nói:

– Mời người ta ăn phải chọn thứ gì ngon nhất, cho người ta trái cây cũng phải chọn trái cây nào ngon nhất.

Hưng Nguyễn trong lễ tốt nghiệp Tiến Sĩ kinh tế ngày 22/06/2018

Hưng Nguyễn bên gia đình trong lễ tốt nghiệp Tiến Sĩ kinh tế ngày 22/06/2018

Bây giờ, Hưng đỗ Tiến Sĩ kinh tế. Ngày nhận bằng tốt nghiệp, đầy đủ mọi người trong gia đình đến chúc mừng: cô hai, cô ba, mẹ, vợ và con gái, nhưng chỉ thiếu bà nội. Hưng nói ước gì bà nội còn sống đến dự lễ và chung vui với con hôm nay. Con muốn tặng bà nội bó hoa này để cảm ơn bà nội luôn thương yêu và khuyến khích con cháu học hành. Tấm bằng danh dự này có công sức của bà nội và gia đình luôn bên cạnh ủng hộ con. Con cảm ơn bà nội và nhớ nội nhiều lắm, nội biết không?

          Cha mẹ nào cũng có nhiều đề tài để con cháu viết truyện, viết sách. Mẹ tôi cũng vậy, sự mộc mạc chất phát của mẹ tôi, tình thương người của mẹ tôi cũng đủ để tôi viết dài dài.

       Tôi chờ đợi hơn 10 năm, mẹ và em tôi mới được định cư ở Hoa Kỳ. Ngày mẹ đến phi trường, chúng tôi đón mẹ tôi và em gái tôi, trên đường về nhà mẹ tôi nhìn hai bên đường chăm chú, mẹ tôi không nhìn thấy những cánh đồng xanh mướt như ở Việt Nam. Mẹ tôi không nói gì, nhưng về nhà tôi, mẹ đi ngoài vườn và nói:

– Nhân viên của con về thăm mẹ, nói con khá lắm, vườn rộng lắm, nhưng đi bộ có chút là đụng bức tường.

          Đất gần 1/4 mẫu, mẹ tôi vẫn thấy nhỏ so với đất rộng mênh mông nhà của tôi ở Việt Nam. Vậy là đúng rồi.

          Mẹ tôi là người hoạt động, không bao giờ ngồi yên, thấy nhà tôi cỏ xanh mướt, mẹ tôi muốn trồng rau, trồng cây ăn trái cũng không nói.Sau này, mẹ tôi ở nhà riêng tôi mới biết điều này, vì sau này mẹ tôi trồng mía, đu đủ, giàn nho, đào, ớt, cam, quýt, khế.

          Ai đến nhà thăm mẹ tôi cũng hái trái cây tặng, hái ngay ngoài vườn tươi lắm, tặng liền, mẹ tôi rất hiếu khách, ai đến nhà mẹ tôi ân cần niềm nở như người thân trong gia đình. Bạn tôi rất thương mẹ tôi nên có những người bạn của tôi như vợ chồng Hoàng Minh Chính, Lê Hiếu Nghĩa thăm mẹ tôi nhiều hơn thăm tôi. Gia đình Báu Nguyễn ở Riverside cũng thường xuyên thăm mẹ tôi. Mẹ rất thương mến bạn của chúng tôi, ai đến nhà mẹ tôi và em gái tôi hay mời dùng cơm và cho trái cây đem về. Những người già ngày xưa là như thế, như đến ăn đám giỗ, sau đó mỗi người đều xách thức ăn đem về.

          Mẹ tôi và em gái tôi có nhà riêng ở Little Saigon, đi bộ ra Bolsa và Magnolia. Nhà này tôi mua lâu lắm rồi để đợi mẹ tôi và em gái tôi sang có nơi trú ngụ. Mẹ tôi và em gái của tôi sang ở với chúng tôi hơn một năm trước khi ra ở riêng.

          Mẹ tôi lúc nào cũng tươi cười. Tôi rất biết ơn thầy Minh Mẫn, viện chủ của chùa Huệ Quang, thành phố Santa Ana, đã bảo bọc cho mẹ và em gái tôi. Tôi cũng không quên cám ơn các cụ trong chùa chăm sóc cho mẹ tôi, dù ở trong chùa 1 tuần lễ nhưng mẹ tôi nhớ mãi những ngày mới sang. Ngày nào cũng có người đến chùa làm công quả, tiếng cười tiếng nói reo vui suốt ngày.

          Người nào trong cũng rất tử tế với mẹ tôi, ân cần thăm hỏi vì họ biết mẹ tôi mới định cư ở Hoa Kỳ.

          Tôi còn nhớ ngày mẹ tôi vừa đến phi trường John Ways, chúng tôi đi đón, rất cảm động. Lê Châu Trí, một chuyên viên địa ốc của chúng tôi thu hình mẹ tôi và em gái tôi ốm nhom, ốm ngoài sức tưởng tượng của tôi, nhưng những bước đi vẫn thoăn thoắt và trí óc vẫn minh mẫn.

          Mẹ tôi có trí nhớ rất tốt. Anh Trần Bảo ở Úc sang chơi có mua tặng mẹ tôi một cây ăn trái, khi có trái chín, mẹ tôi nói với em tôi:

– Gởi trái cây này cho chú Bảo.

          Và một  anh  sinh viên khóa 4 trường đại học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt tặng cho mẹ tôi một cây ớt. Ớt quằn trái suốt năm tháng, mẹ tôi thường nhắc đến người sĩ quan này.

Mẹ tôi cùng 2 cháu Quý và Thu tÚc sang thăm. Cây hoa phía sau do mẹ tôi trồng.

Một bà Phó Đại Sứ Niagara ở Jamaica ghé thăm ở lại vài ba ngày, bà chọn ở lại nhà với mẹ tôi hơn là ở nhà tôi, có lẽ gần Little Saigon để tiện cho bà thăm phố Bolsa một mình. Ngôn ngữ bất đồng nhưng hai người rất vui vẻ, ngôn ngữ bằng tay cũng đưa đến sự cảm thông. Bà Phó Đại sứ thường ăn sáng và ăn tối với mẹ tôi, còn trưa thì bà đi dạo phố. Bà đòi dẫn mẹ tôi đi phố, mẹ tôi lắc đầu vì còn chăm sóc vườn tược. Mẹ tôi tụng kinh mỗi ngày từ 3-6 giờ chiều, bà cụ vừa tụng kinh vừa lần tràng hạt, đều đặn như thế mỗi ngày chờ đến khi em tôi đi làm về.

          Kỷ niệm về mẹ thì nhiều lắm. Những ngày mẹ tôi bệnh, em tôi và một chị họ túc trực bên giường bệnh 24/24. Em tôi về thì tôi đến, tôi ở lại ban đêm ngủ trên cái ghế nhỏ, bệnh viện cũng tốt không đuổi tôi ra khỏi bệnh sau giờ hết cho thăm viếng bệnh nhân.

          Bây giờ, mỗi lần đi ngang bệnh viện Fountain Valley tôi nhớ mẹ vô cùng.

Mỗi lần nhìn các cụ trong chợ, ngoài phố, người nào ốm nhom là tôi nhớ mẹ tôi.

          Hồi nhỏ, Mẹ dạy chúng tôi bài thơ Con Cò. Tôi thấy hình ảnh Mẹ trong đó: tần tảo, chịu thương, chịu khó, lặn lội nuôi con, nhưng luôn giữ tấm lòng trong sạch và thanh cao.

“Con cò mà đi ăn đêm,

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.

Ông ơi! Ông vớt tôi nao,

Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.

Có xáo thì xáo nước trong,

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.”

          Niềm vui của người già là đi lễ, và đi mua quà để gửi về Việt Nam cho thân nhân còn ở lại quê nhà. Mẹ tôi rất cẩn thận và kỹ lưỡng. Bao giờ mua quần áo mới, xong về nhà phải giặt, ủi cẩn thận, rồi mới tặng cho người nhà. Quần áo trẻ con để một bên, người lớn để một bên. Cháu nội còn ở Việt Nam. Mẹ tôi thương cháu nội lắm. Cháu là “cục vàng” của bà nội. Chúng tôi thường tặng tiền cho mẹ tôi, để mẹ tôi cần gì thì cứ mua. Bao giờ mẹ tôi cũng dành dụm để mua quà gửi về Việt Nam. Mẹ tôi thích đi chùa làm công quả. Vào chùa, thấy việc gì cũng làm, như lặt rau, bào cà rốt, quét rác ở sân chùa. Mẹ tôi làm việc liên tục, không nghỉ ngơi. Tôi nhớ ơn Hòa Thượng Minh Mẫn, Viện Chủ chùa Huệ Quang. Khi mẹ và em tôi mới sang, tôi vẫn phải đi làm cả ngày. Tôi sợ mẹ tôi và em tôi buồn, nên đưa mẹ tôi và em tôi vào chùa Huệ Quang. Tôi vừa ngỏ ý, tôi muốn mẹ và em tôi vào chùa để làm Phật sự, thầy Minh Mẫn nhận lời ngay không một chút do dự, mặc dù chùa lúc đó rất nhỏ. Thầy mua một ngôi nhà nhỏ bên cạnh cho thiện nam, tín nữ ở xa đến viếng chùa, có thể ở lại chùa. Tôi rất cảm động vì sự giúp đỡ của thầy. 

          Mẹ tôi đi chùa Huệ Quang, Huê Nghiêm, Hương Tích, Bát Nhã, Minh Quang tịnh xá, A Di Đà, Bảo Quang, chùa Việt Nam, tu viện Hoa Nghiêm, Trúc Lâm, chùa Phật Tổ, chùa Vĩnh Nghiêm, Như Lai Tự ở San Diego, Quốc Tế Học Viện ở Venture, và đi nhiều chùa lắm.

          Mẹ tôi hay rầy tôi:

– Ở nhà lúc nào cũng có thức ăn chay, sao con không ăn mà vào chùa ăn làm chùa tốn kém.

          – Mẹ đừng lo, con hay ăn vậy chứ hễ thầy nhờ điều gì con làm việc tận lực lắm.

          Nói như thế cho mẹ tôi vui, chứ ăn hay không ăn ở chùa nhưng bất cứ chùa nào nhờ thông báo lễ lạc hay bất cứ điều gì mà tôi có thể làm được không bao giờ tôi từ chối.

          Viết về mẹ viết ngàn năm cũng không hết, suốt đời con gắn liền với mẹ, mẹ tôi qua đời nhẹ nhàng, một tay tôi nắm tay mẹ tôi như muốn níu kéo không cho mẹ tôi đi, nhưng chân mẹ tôi đã lạnh tôi cũng biết việc gì sẽ đến, một tay tôi gọi điện thoại để gọi em tôi trở vào bệnh viện.

          Mẹ tôi đi thanh thản, bác sĩ Hùng Nguyễn vào bệnh viện tức khắc, đầu mẹ tôi còn ấm, thế là chị em tôi đứng lặng người, không khóc, không có tiếng nói.

Mẹ tôi đi nhưng hình ảnh mẹ tôi vẫn còn đây, vẫn còn ngồi trước bàn Phật tụng kinh mỗi buổi chiều, và tiếng reo vui của mẹ tôi khi tôi hỏi:

– Má đi chùa không?

– Đi. Để mẹ sửa soạn.

          Tiếng của mẹ tôi thật to, reo vui và rất hạnh phúc.

          Mẹ tôi đi chùa bao giờ cũng mặc áo dài rất trang nghiêm, hái trái cây và rau tươi đem vào chùa, mẹ tôi trồng 37 loại rau và trái cây, vườn nhỏ nhưng xum xuê bóng cây xanh mướt.

          Mẹ tôi hiền từ, không bao giờ lớn tiếng với bất cứ người nào. Mẹ tôi thường xuyên đi chùa. Mẹ tôi gật đầu đi chùa ngay mỗi khi tôi hỏi:

          – Mẹ đi chùa không ?

          Không kể trời nắng hay mưa, mẹ tôi nhanh nhẹn trả lời :

          – Đi chứ!

          Thế là mẹ tôi thay áo dài ngay lập tức. Hình như mẹ  tôi sợ chậm một chút là các con đổi ý. Lúc nào mẹ tôi cũng hái rau, trái cây, rửa thật sạch,đợi tôi đến hay gọi em gái  tôi đi làm về là đi chùa, chỉ cần chúng tôi mở miệng hỏi:

          – Mẹ đi chùa không ?

          Chỉ một câu thôi là mẹ tôi lập tức đi mặc áo dài, có lẽ cả ngày, cả tuần mẹ tôi chỉ chờ đợi có thế! Mẹ tôi biết chúng tôi bận rộn với công việc làm, nên không bao giờ bảo chúng tôi chở mẹ tôi đi chùa. Mẹ tôi chỉ chờ chúng tôi hỏi mẹ có đi chùa hay không? Khi được hỏi câu mẹ có đi chùa không? Chỉ cần câu hỏi ngắn và gọn đó là mắt của mẹ tôi rực sáng, chứa chan hạnh phúc, đong đầy trên mặt của mẹ tôi.

          Nếu mẹ tôi còn sinh tiền, chắc chắn ngày nào tôi cũng hỏi mẹ câu này. Tôi muốn thường xuyên đưa mẹ tôi đi chùa hơn! Đi chùa như một nhu cầu cần thiết của những tín đồ Phật giáo, trong đó có mẹ tôi.

          Mẹ tôi thường đem rau, trái cây do chính mẹ tôi trồng, đến chùa hàng tuần. Mẹ tôi trồng đủ loại rau: rau húng cây, rau dền, rau lang, rau muống, ngò, cần tây, và nhiều loại cây trái khác, như là nho, mía, táo, đu đủ, tắc. Tổng cộng hơn 36 loại rau trái.

          Mẹ tôi nâng niu từng trái một. Trái nào thì đem cúng, trái nào nhỏ xíu thì để ở nhà ăn. Mẹ tôi thích từ tay mình hái trái cây, tự tay mình rửa rau, rửa trái cây. Mẹ tôi làm việc này với hạnh phúc. Việc gì làm được cho người khác thì mẹ tôi không bao giờ từ chối.                                        

          Bây giờ thì mẹ tôi đã đi rồi, không còn ở với chúng tôi, nhưng tôi thương mẹ tôi lắm.

          Mẹ tôi qua đời gần 26 năm nhưng tôi cứ tưởng mẹ tôi vẫn còn quanh quẩn đâu đây. Tôi thương mẹ tôi lắm, tôi cũng biết mọi người thương mẹ của mình lắm, hạnh phúc thay những ai còn cha còn mẹ? Thương cha mẹ nên làm việc phúc đức để hồi hướng công đức cho cha mẹ của mình.

Orange County, 4/5/2021

KIỀU MỸ DUYÊN




PHAN HÀ: Bài Học Thiên An Môn và Một Tia Hy Vọng




THIÊN AN MÔN – PHAN HÀ




TUỔI TRẺ VƯƠN LÊN –

TUỔI TRẺ VƯƠN LÊN

KIỀU MỸ DUYÊN

          Người già nghĩ về quá khứ, còn người trẻ nghĩ đến tương lai. Người trẻ Việt Nam đã có mặt trong chính quyền, làm việc ở phủ Tổng Thống, ở Quốc Hội, là Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ, Chánh Án của liên bang, của tiểu bang, làm Tướng và giữ những chức vụ quan trọng ở Bộ Quốc Phòng. Tuổi trẻ Việt Nam là khoa học gia, là thương gia, là giáo sư đại học. Người trẻ có mặt khắp nơi, ở Mỹ, Úc, Á, Âu Châu. Người trẻ Việt Nam tiến rất nhanh.

          Ngày Quốc Hận năm nay, tôi không viết về quá khứ đau buồn, mà tôi viết về tuổi trẻ với tương lai rực rỡ trước mắt.

          Đi đến quốc gia nào trên thế giới, tôi cũng gặp người Việt Nam với tương lai sáng lạn, tôi đã từng tham dự đại hội giới trẻ thế giới ở Mỹ, Âu Châu, Á Châu, tôi có niềm tin ở người trẻ Việt Nam. Một em trẻ 14 tuổi tham dự đại hội ở Hoa Kỳ, không nói được tiếng Việt, nói bập bẹ như người ngoại quốc nói tiếng Việt, nhưng sau 3 năm tôi gặp lại người trẻ này tại đại hội tổ chức ở Mã Lai, người trẻ này đã nói tiếng Việt thông thạo. Vì sau khi dự đại hội về, em tự học tiếng Việt để 3 năm sau em sẽ nói tiếng Việt thông thạo như các bạn trẻ khác tham dự đại hội. Ông bà, cha mẹ cho con cháu mình dự đại hội để có  cơ hội học hỏi và nói tiếng Việt.

          Hỡi tuổi trẻ Việt Nam hãy hãnh diện mình là người trẻ, người trẻ Việt Nam nói tiếng Việt thông thạo, lúc nào cũng nhớ mình là người có dòng máu Việt Nam, muôn đời cũng phải nói tiếng Việt thông thạo, dù họ sinh ra và lớn lên ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

          Người trẻ học giỏi, giỏi toán, giỏi sinh ngữ, giỏi khoa học. Người trẻ làm khoa học gia chế tạo phi thuyền lên cung trăng cũng chưa đủ, hãy hãnh diện mình là người Việt Nam có hơn 4000 năm văn hiến. Ông cha của mình đã đánh đuổi quân Tàu về nước của họ. Người trẻ hãy tranh đấu cho Việt Nam thật sự có Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Bảo Toàn Lãnh Thổ, Lãnh Hải.

          Người trẻ Việt Nam hãy cầu nguyện cho Việt Nam thoát khỏi sự ảnh hưởng của Tàu Cộng, để cho người dân Việt Nam có cơ hội học hỏi không ngừng, phát triển kinh tế mạnh mẽ như các quốc gia trên thế giới.

          Người lớn tuổi hãnh diện về thế hệ trẻ, những ước mơ của thế hệ trước chưa thành thì hy vọng vào thế hệ trẻ nối bước ông cha làm nên sự nghiệp. Người Âu Châu di dân sang Hoa Kỳ thuở khai sơ đâu có ai giàu, nhưng một thời gian sau thì họ rất thành công, giàu cả dòng họ, nắm chánh quyền cả dòng họ, hết đời này đến đời khác. Quý vị nhìn đi dòng họ giàu nhất hiện nay ở Hoa Kỳ từ đâu đến? Họ từ Âu Châu. Họ giàu từ đời này đến đời khác, họ làm chủ ngân hàng, làm chủ đất đai, khu mua sắm và Hollywood, v.v.

          Ở Mỹ, người giàu thì giàu thêm. Ông cha giàu, con cháu giàu và mãi mãi giàu. Người di dân đến từ Âu Châu giàu được thì tại sao người đến từ Việt Nam không giàu chứ? Hiện nay có 9 tỷ phú người Mỹ gốc Việt Nam.  Người Việt Nam giàu vẫn làm từ thiện ở khắp nơi, nhất là ở Việt Nam, giúp người nghèo, trẻ con mồ côi, người cùi, v.v.

          Người Việt Nam giàu hay nghèo vẫn làm việc từ thiện, vẫn đóng góp cho xã hội mà họ đang định cư và giúp cho bà con của họ ở quê nhà đang đói rách. Giúp ai được việc gì thì giúp, người Việt Nam hào phóng thích giúp đỡ người khác, giúp người và giúp đời.

Người trẻ Việt Nam ở Mỹ được tiếp cận với nền tri thức hàng đầu Thế Giới, những tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng trong việc giảng dạy và học tập

          Người trẻ Việt Nam định cư ở hải ngoại sống lạc quan vì may mắn hơn người trẻ trong nước. Ở đây, họ muốn đi đâu thì đi, không sợ hãi, miễn là đừng làm việc gì bất hợp pháp. Muốn nói, muốn viết những gì mình suy nghĩ thì cứ thực hành theo nguyện vọng của mình. Tôi thương những người có lý tưởng ở Việt Nam. Họ viết lên những tâm tư của mình về Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Bảo Toàn Lãnh Thổ, Lãnh Hải thì bị bắt bớ, bị giam cầm, bị hành hạ. Đời sống của tuổi trẻ Việt Nam không có tương lai. Ngay cả những người tốt nghiệp đại học không có công ăn việc làm phải đi lao động ở nước ngoài.

          Những kỷ niệm đáng nhớ của tôi là tham dự hội nghị quốc tế ở các nước Bắc Âu và Á Châu. Khi dự hội nghị ở Á Châu, tôi thường thức rất khuya để nói chuyện với các người trẻ Việt Nam đến từ Việt Nam. Họ đi từ Thái Lan, Singapore, Hồng Kông, Úc, v.v. rồi từ đó mới đến Mã Lai. Nhưng than ơi, khi họ về đến Việt Nam thì bị giữ lại để hỏi cung, và sau này họ không được xuất ngoại nữa.

Kiều Mỹ Duyên trò chuyện với các sinh viên tham d Đại Hội Thanh Niên SinhViên Kỳ VI Mã Lai (6/1/2008)

          Có những người trẻ đi xe đò đến Cambodia, rồi từ đó đi dự hội nghị ở các nước khác. Tôi thương những người trẻ này, họ rất nhiệt huyết, có lòng với đất nước. Họ mong cho đất nước khá hơn.

          Có những người trẻ từ Mỹ đi đến Thượng Hải với phái đoàn từ thiện quốc tế, sau đó đến Việt Nam bằng xe đò, vì qua biên giới không đòi hộ chiếu. Người quyết tâm thì làm gì cũng được, còn là sinh viên bầu nhiệt huyết mạnh mẽ lắm.

          Hỡi tuổi trẻ Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới hãy luôn luôn hướng về Việt Nam, hãy làm việc gì cho một Việt Nam phú cường. Ông cha mình đã từng đánh đuổi quân xâm lược Tàu về nước Tàu thì người trẻ Việt Nam sẽ làm được những gì mà ông cha mình đã làm để giữ vững bờ cõi nước Việt Nam.

Hy vọng nước Việt Nam sẽ phú cường, giàu mạnh, có Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền

          Hỡi hồn thiêng của các chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc phù hộ cho người trong nước và người hải ngoại đoàn kết, thương yêu nhau, đùm bọc nhau để giữ nước, đừng để kẻ thù xâm chiếm nước ta bằng văn hóa hay bằng kinh tế.

          Hy vọng nước Việt Nam sẽ phú cường, giàu mạnh để đồng bào Việt Nam đừng khốn khổ, đừng đi làm lao động ở xứ người. Mong những người trẻ du học trở về cứu nước và giúp nước.

          Gặp những người trẻ Việt Nam khắp nơi trong các cuộc biểu tình đòi Nhân Quyền cho Việt Nam, trong các cuộc hội thảo quốc tế, trong các buổi cắm trại hè, các em từ 13, 14 tuổi trở lên, tôi có niềm tin người trẻ Việt Nam ở hải ngoại sẽ có chỗ đứng với các quốc gia trên thế giới, vì họ được ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo huấn luyện một cách tận tình để trở thành những nhà lãnh đạo thế giới.

Các sĩ quan người Mỹ gốc Việt trong Quân Lực Hoa Kỳ, gồm cấp Tướng, cấp Tá và cấp Úy, tại đại hội ở Anaheim.

          Ngày xưa khi chúng tôi đến nước Mỹ chưa có các đoàn thể, vì mọi người ở xa nhau. Sau này mới thành lập nhiều đoàn thể, hội đoàn, cộng đoàn sinh hoạt chung với nhau. Tổ chức ngày 30 tháng 4 mấy chục ngàn người tham dự, cờ vàng ba sọc đỏ rực rỡ cả một khu phố. Little Saigon được thành lập. Nhiều chùa của người Việt Nam, các nhà thờ Việt có Linh Mục là người Việt Nam, Thánh Thất Cao Đài, Hòa Hảo, trụ sở Phật Giáo được thành hình. Chợ, quán ăn, cơ sở thương mại được thành lập. Đi khắp nơi đều thấy bảng hiệu cơ sở thương mại bằng tiếng Việt.

          Đồng hương ở khắp nơi, từ những làng quê hẻo lánh đến Orange County thăm Little Saigon. Ở đây, sách cũ sách mới được in thường xuyên, nhạc không thiếu một đĩa nào từ xưa, và những ca sĩ nổi danh đều về Little Saigon để có cơ hội hát cho đồng bào thưởng thức.

20210219_123819 (1).jpg

Kiều Mỹ Duyên bên 2 người trẻ lớn lên ở Mỹ tại võ đường Aikido, Westminster của võ sư Đặng Thông Phong. Các em đủ tài, trí, lực và nhiệt huyết để phát triển cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại

          Tuổi trẻ Việt Nam là tương lai, là hy vọng của cộng đồng, của đất nước. Người già sẽ ra đi, người trẻ tiếp tục thay thế ông cha của mình làm nên đại sự.

          30 tháng 4 năm nay, nhìn về tương lai, tôi có niềm tin tuổi trẻ Việt Nam sẽ làm nên đại sự, sẽ chung tay góp sức để Việt Nam thật sự có Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền, Bảo Toàn Lãnh Thổ, Lãnh Hải.

          Xin hồn thiêng sông núi và các chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ Quốc phù hộ cho tất cả đồng bào Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại, thương yêu, đùm bọc nhau để thực hiện lý tưởng của mình.

Orange County, 21/4/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)




Cuộc Di Tản đầy Máu và Nước Mắt

Không phải mãi hai ngày sau người Mỹ mới biết lý do đằng sau vụ di tản rút quân bỏ miền Trung. Vào buổi tối ngày 17.3.1975, tại bữa cơm đãi một số Viên Chức cao cấp Mỹ và Việt Nam tại nhà ông Thomas Polgar, Trưởng CIA, ở Sài Gòn, Tướng Ðặng Văn Quang Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu, đã lật trang sử khi giải thích quyết định của ông Thiệu. Rất giống người Nga tiêu diệt đội quân của Nã Phá Luân vào năm 1812 bằng cách bỏ đất để câu giờ hầu chấn chỉnh tổ chức quật ngược thế cờ, Tướng Quang cho rằng quyết định của ông Thiệu đi theo chiến lược đó sẽ đánh bại quân Bắc Việt. Tướng Quang nói ‘’Có thể mùa mưa sẽ giúp chúng tôi như thể Ðại Tướng mùa Đông đã giúp người Nga’’.

Tại Cao Nguyên Trung Phần, dân chúng không chờ giải thích. Họ thấy rõ quá rồi nên tự lo lấy.Khi quân Bắc Việt pháo kích Kontum, con đường dẫn xuống Pleiku tràn ngập dân di tản chạy trốn pháo kích. Trong khi các Ðơn Vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu rời các vị trí ở Pleiku và các phi cơ vận tải bay lên bay xuống phi trường suốt ngày đêm, người dân biết ngay đến lúc chạy theo Quân Ðội.

Vào đêm Chủ Nhật, một đoàn xe vận tải dài thòng âm thầm rời khỏi Pleiku từng cái một đèn sáng choang. Phóng viên Nguyễn Tư nghĩ nó ‘’giống như một đoàn xe đi chơi cuối tuần trở về nhà’’. Phía sau, những tiếng nổ lớn phát ra từ các kho đạn bị phá và bầu trời đen nghịt khói từ các bồn xăng đốt cháy.

Trong khi đoàn xe tiến về hướng Nam tung lên những đám bụi đỏ mờ mịt, từng đoàn người dân đi bộ dài như rắn bò hai bên Ðường Quốc Lộ song song với đoàn quân xa. Một vị Nữ Tu Công Giáo nhớ lại ‘’trẻ thơ và trẻ em được chất lên xe bò và người kéo đi. Mọi người đều hoảng hốt. Người ta cố thuê mướn xe bằng mọi giá’’. Trong ba ngày 16, 17, 18, tháng ba, cuộc di tản di chuyển êm thắm khỏi Pleiku và giữa các đoàn quân xa là hàng trăm dân sự đi theo cuộc di tản. Và cũng từ đó bắt đầu một đoàn công voa di tản đầy máu và nước mắt.

Ði được nửa đường tiến ra Duyên Hải, đoàn xe bị khựng lại để cho Công Binh Quân Ðoàn II cố làm xong chiếc cầu nổi ngang qua sông Ea Pa cách đèo Cheo Reo (Phú bổn) vài cây số. Tướng Phạm Văn Phú tiên liệu hai ngày sẽ sửa xong con Ðường số 7 nhưng mãi ba ngày vẫn chưa sửa xong cây cầu. Ðến chiều tối ngày 18.3, xe cộ và lính tráng đã đi được ba ngày và một đám dân tỵ nạn khổng lồ bị khựng lại dọc theo con đường và dồn cục tạm nghỉ ở chung quanh châu thành Tỉnh Phú Bổn. Cái châu thành nhỏ bé cheo leo này làm sao cung cấp đủ nhu cầu cho đoàn di tản này, nhiều người bỏ nhà ra đi chỉ có bộ đồ trên người.

Vì hoảng sợ, địch đe dọa phía sau, đói khát và có những băng lính không còn Cấp Chỉ Huy nữa sanh đạo tặc, đoàn người đòi cứ tiến đi không cần biết hậu quả ra sao. Trước tình thế hỗn quân hỗn quan này, các giới chức lãnh đạo không thể nào thuyết phục dân chúng và điều động xe cộ vũ khí thành một phòng tuyến phòng thủ. Và y như xảy ra khi quân Ðức bao vây khóa chặt Paris năm 1940, dân châu thành cũng chạy trốn, làm tắc nghẽn mọi con đường, Quân Ðội không thể nào di chuyển để bảo vệ họ trước kẻ địch. Tình hình đe dọa hỗn loạn. Cần phải có những bàn tay tổ chức. Nhưng Tướng Lê Duy Tất vẫn còn ở Pleiku với đoàn hậu vệ Biệt Ðộng Quân, trong khi Ðại Tá Lý bị kẹt ở giữa đoàn xe, đã phải bỏ xe đi bộ đến Bộ Chỉ Huy ở Cheo Reo.

Khi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu di chuyển xuống Quốc Lộ số 7, Tướng cộng sản Văn tiến Dũng cũng đã bị đánh lừa theo kế hoạch của Tướng Phú. Trước khi khởi sự chiến dịch 275, Dũng đã chỉ vẽ nhiều lần cho tư lệnh sư đoàn 320 về những con Ðường Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không thể nào dùng nó như là lối thoát sau cùng. Tuy nhiên, sau khi nghe tin Tây Phương nói dân chúng đang bỏ Pleiku, các chuyến bay từ Pleiku về Nha Trang tấp nập và Hà Nội đánh tín hiệu ngày 16.3 báo cho biết Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II đã di tản về Nha Trang, Dũng mới bắt đầu nghĩ lại xem có con đường nào khác cho địch quân rút được không.

Ðến 4 giờ chiều cùng ngày, công điện của Hà Nội đến báo, tình báo Bắc Việt báo một đoàn xe dài từ Pleiku tiến về phía Nam xuống Ban Mê Thuột. Tin này làm cho Tướng cộng sản bối rối. Phải chăng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phản công hay là chạy trốn? Tình báo của Dũng cho ông ta câu trả lời ngay sau đó, đúng như tình hình diễn biến ở trên. Ðến lúc này bộ chỉ huy cộng sản mới dở bản đồ ra, chiếu đèn pin và dùng kiếng phóng đại dò tìm địch quân. Kiểm điểm lại, Tướng Dũng và Tướng Kim Tuấn, tư lệnh sư đoàn 320, mới biết bị Tướng Phú lừa ngay trước mắt, Tướng Dũng khiển trách Tướng Kim Tuấn, đồng thời phối trí các đơn vị di chuyển về tụ điểm Quốc Lộ 7 để tiêu diệt đoàn công voa di tản về Tuy Hòa.

Ðoàn xe Quân Dân miền Nam cầu mong sao cho thời gian chậm lại để đi kịp về miền biển không bị cộng sản tấn công. Nhưng không kịp nữa, khi màn đêm buông xuống ngày 18.3 lúc đoàn xe kẹt ở Cheo Reo, quân cộng sản bắt đầu pháo kích vào đám đông dân di tản. Họ hết còn bí mật nữa và kẻ thù ở trong tầm tay. Ðêm ngày 18.3, những đơn vị tiền phong của sư đoàn 302 đụng độ với đoàn xe Quân Ðoàn II ở Cheo Reo. Cùng lúc các đơn vị khác đụng độ với Ðoàn Quân hậu bị Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân ở Thị Trấn Thành An ngã tư Quốc Lộ 14 và Quốc Lộ 7. Ðại Tá Lý đi bộ mãi rồi cũng tới Bộ Chỉ Huy Cheo Reo kịp lúc để giúp điều động Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vào vị trí phòng thủ chống các cuộc xung phong của quân Bắc Việt ở lối vào Thị Trấn phía Tây. Ðồng thời, pháo binh Bắc Việt rót vào. Ðoàn xe cái đầu ở Cheo Reo nhưng cái đuôi vẫn còn ở Pleiku. Việt cộng tha hồ pháo kích. Sáng hôm sau, xác chết và xác bị thương lính tráng và dân nằm la liệt trên Ðường Phố Cheo Reo (Phú Bổn) cùng với hàng trăm xe cộ bị phá hủy hoặc bỏ rơi. Một phi công trực thăng Không Quân Việt Nam báo cá ‘’Khi tôi bay thấp, tôi có thể nhìn thấy hàng trăm xác chết nằm rải rác dọc theo con đường cạnh các xe còn cháy’’.

Mặc dù lực lượng cộng sản đã chiếm được Phi Trường Phú Bổn, Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân vẫn còn giữ được lối vào châu thành và cây cầu phía Nam sửa xong. Ðây là một cú cải tử hoàn sinh, Ðại Tá Lý và các Cấp Chỉ Huy của ông có cơ hội ra lệnh cho đoàn xe lên đường trở lại với 2.000 xe nổ máy ầm ầm lăn bánh. Nhưng đoàn xe di chuyển không bao lâu, Tướng Phú cho trực thăng đến đón Ðại Tá Lý ra khỏi Cheo Reo. Thế là đầu không còn ai Chỉ Huy chỉ có Tướng Tất Chỉ Huy ở phía sau. Từ ngày 19 trở đi, Chỉ Huy đầu đoàn công voa là những Ðơn Vị Trưởng cấp Tiểu Ðoàn, Ðại Ðội mạnh ai lấy ra lệnh.

Bất kể hỏa lực của cộng sản, trực thăng của Không Quân Việt Nam bắt đầu đáp xuống bốc những người Lính và dân bị thương dọc theo con đường. Khi những người di tản được trực thăng chở đến Phi Trường Tuy Hòa, họ kể những chuyện khủng khiếp xảy ra cho họ. Ngày 19.3, đầu đoàn xe đã đến Sông Côn chỉ còn cách Tuy Hòa 40 km. Nhưng ở đoạn đuôi nửa đường giữa Cheo Reo và Sông Côn, quân Bắc Việt lại đánh ngang hông đoàn xe, lần này ở khoảng Thị Trấn Phú Túc. Không Quân Việt Nam được gọi đến oanh kích chặn tiến quân của địch nhưng đã nhầm lẫn bỏ bom xuống Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân (Làm tổn thất gần 1 Tiểu Ðoàn). Nhưng Liên Ðoàn này vẫn tiếp tục chiến đấu giữ cho con đường mở.

Ðoàn xe chạy qua Cheo Reo cho đến ngày 21.3 thì quân Bắc Việt chọc thủng các vị trí cố thủ của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, vượt qua chiếm châu thành và cắt đứt con đường. Trong số khoảng 160.000 người của đoàn xe di tản, nhiều người dân bị cô lập với Lính của Ba Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Theo lệnh Tướng Phú, Tướng Tất, vẫn còn ở phía sau đoàn xe, phải bỏ mọi vũ khí và quân trang nặng để chạy khỏi Phú Bổn càng nhanh càng tốt. Hàng ngàn người chạy vào rừng. Lính tráng với vợ con bên cạnh bị rượt bắt và tấn công nhiều lần. Một số ít giơ cờ lên được trực thăng đáp xuống bốc. Nhưng đa số cầm chắc bị đói và bị bắt.

Những người may mắn, các bà mẹ trẻ dính máu, các cụ già và phụ nữ người mặc áo dính bùn, và những người lính gào khóc, chân không, bước xuống trực thăng trước khi các phóng viên bủa ra hỏi thăm tin tức tại phi đạo Tuy Hòa. Các trực thăng bắt đầu chở thực phẩm và nước cho đoàn xe vẫn còn dài thòng di chuyển như con rắn vì đã có nhiều người đói.

Trong khi ở đuôi đoàn xe bị tấn công dữ dội và Tướng Tất cùng các Ðơn Vị còn lại cố chống trả bọc hậu, các Ðơn Vị đầu đoàn xe đã tiến vào ranh giới Tuy Hòa, trên con Sông Ba, cách Thị Trấn 20 cây số. Chiếc cầu nổi mà Tướng Cao Văn Viên hứa cũng đến kịp lúc, nhưng không kịp với lực lượng cộng sản đã đắp mô các ngã đường nằm giữa Sông và Tuy Hòa. Chiếc cầu không thể nào chở xe nổi đến chỗ Bắc nên phải mượn 4 phi cơ C-47 của Quân Ðoàn IV chở từng khúc đến.

Ngày 22.3, đúng một tuần sau khi đoàn xe di tản đầy máu và nước mắt rời Pleiku, chiếc cầu được bắc xong, đầu đoàn xe vội vã vượt qua con sông quá nặng làm chiếc cầu phao lật, người trong xe cộ phải lội sông. Nhưng đến cuối ngày, đoàn xe vẫn tiếp tục vượt qua khi chiếc cầu được sửa lật lại. Ngay cả đến thời thiết cũng tiếp tay cho cộng sản để làm cho đoạn cuối đoàn xe đến Tuy Hòa chưa hết nạn.

Trời nắng đột nhiên trở thành mưa gió lạnh lẽo cho người di tản. Không những thời thiết thay đổi xấu gây ra bệnh tật mà nó còn làm cho phi cơ quân sự không bay lên yểm trợ, chống trả những cuộc tấn công dưới đất của việt cộng. Từ ngày 22.3, Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân bị kẹt đánh trong một trận đánh bọc hậu vừa đánh vừa lui trước nỗ lực rượt theo rất rát của quân cộng sản. Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân đã thu góp xe tăng và pháo binh để bảo vệ con đường ở khúc quẹo thung lũng gần cầu nổi. Họ đánh câu giờ để cho người di tản và Lính kịp vượt qua sông.

Ðồng thời, những Ðơn Vị đi đầu đã vượt qua Sông Ba rồi phải phá mô việt cộng để tiến vào Tuy Hòa. Liên Ðoàn 7 Biệt Ðộng Quân chỉ còn ít quân sống sót đã gom góp được hơn chục thiết giáp M-113 vừa đánh vừa ủi các mô tiêu diệt các vị trí cộng sản. Ðến ngày 25.3, vị trí cuối cùng của quân Bắc Việt bị tiêu diệt nốt, Biệt Ðộng Quân bắt tay được với Lực Lượng Ðịa Phương Quân ở phía Ðông Tuy Hòa.

Ðoàn xe khập khễnh tiến vào Tuy Hòa như một đoàn xe ma. Xấp xỉ 60.000 người dân đến đích, hai phần ba hay hơn 100.000 người bị bỏ lại dọc đường, chết sống không ai biết. Về phía Quân Ðội, 20.000 quân tiếp vận và yểm trợ, chỉ còn 5.000 người đến nơi. Sáu Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân 7.000 người, chỉ còn 9.00 đến Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn II ở Nha Trang và đóng chốt bảo vệ Thành Phố. Một vị Tướng ở Bộ Tham Mưu đã buồn bã nói: ‘’70% lực lượng tác chiến của Quân Ðoàn II gồm Sư Ðoàn 23 Bộ Binh, Biệt Ðộng Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh Chiến Ðấu và các Ðơn Vị Truyền Tin đã bị tan rã từ ngày 10 đến 25.3’’. Vì thế chuyện phản công tái chiếm Ban Mê Thuột không thể giao phó cho Quân Ðoàn II.

Canh bạc Tướng Phú chọn Quốc Lộ 7 có thể đã an toàn nếu các cầu nổi được bắc kịp thời và Tướng Viên đổ lỗi cho vị Tư Lệnh Quân Ðoàn II. Tướng Viên tin rằng Tướng Phú phải hoãn cuộc di tản ít ngày để cho các Kỹ Sư Công Binh kịp bắc cầu. Tướng Viên cũng tin rằng hoãn lại cho phép điều động sắp xếp kỹ hơn nhất là kiểm soát dân chúng. Theo một vị Tướng Mỹ thông thạo các Sĩ Quan cao cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lỗi lầm không những ở kế hoạch di tản của Tướng Phú mà ở ngay chính Tướng Phú và lỗi lầm đầu tiên và quan trọng nhất là để mất Ban Mê Thuột. Một vị Tư Lệnh Quân Ðoàn cương quyết hơn không cần phải rút quân như vậy. Một Sĩ Quan Tùy Viên Mỹ tuyên bố: ‘’Một vị Tư Lệnh mạnh như Tướng Toàn (Trước đó là Tư Lệnh Quân Ðoàn II) có thể phản công tái chiếm Ban Mê Thuột, sử dụng toàn bộ Hải, Lục, Không Quân có trong tay đã có thể kềm hãm quân Bắc Việt, cố thủ thêm một năm nữa’’.

Nhưng ngày 25.3.1975,không còn cơ hội đó. Cuộc di tản tự làm cho mình thất bại đau đớn, như lời Tướng Viên mô tả, hoàn tất, gây một cơn ác mộng tâm lý và chính trị to lớn cho ông Thiệu, cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và cho dân chúng Việt Nam Cộng Hòa. Một dư luận đồn thổi khắp nước và cả ở những viên chức dân sự và quân sự cao cấp nói rằng: Tổng Thống Thiệu và người Mỹ, trong một thỏa hiệp mật của Hiệp Định Paris, đã cố kết với nhau cho cộng sản chiếm một phần lớn lãnh thổ Nam Việt Nam. Tại sao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu can trường suốt hai mươi năm không thua đột nhiên bị ra lệnh rút khỏi Cao Nguyên, bỏ Pleiku và Kontum không một tiếng súng giao tranh ?

Tinh thần đổ vỡ vì mất bốn Tỉnh trong ba tháng và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh nặng và vô ích không tái chiếm nổi Ban Mê Thuột đã làm cho dân chúng Nam Việt Nam hết còn tin tưởng Tổng Thống Thiệu có thể bảo vệ họ. Vậy ai khác có thể làm được? Phe đối lập ông Thiệu vô tổ chức, đứng ngoài chờ thời cơ và người Mỹ tiếp tục làm ngơ. Chỉ có ông Thiệu là người phải tìm ra cách nào để lấy lại tinh thần cho Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng trước khi ông tìm ra hướng đi hợp tình thế thì tin xấu từ Quân Ðoàn I bay về. Cũng lại di tản và cuộc di tản Quân Ðoàn I bi thảm không kém để kết thúc ngày 30.4.1975.

Đại Tá Trịnh Tiếu




Nếu Mẹ Trẻ Lại

Tôi vội vàng bỏ vào giỏ xách quả cam và miếng bánh bông lan để chuẩn bị đi thăm mẹ. Nursing Home chỉ cách nhà 15 phút lái xe rất tiện cho tôi đến thăm mẹ mỗi ngày.
Tưởng rằng về hưu tôi sẽ có nhiều thì giờ thong thả hơn để thăm mẹ thế mà vẫn thường có lý do bận rộn, không chuyện này thì chuyện kia, lần nào cũng hấp ta hấp tấp.

Hôm nay tôi vừa đi dự đám sinh nhật cháu một người bạn nên về nhà trễ, thế là đi thăm mẹ cũng trễ theo.
Ký tên ở ngoài bàn security ngay cửa ra vào của Nursing Home xong tôi vào thang máy lên lầu hai.

Bước vào phòng mẹ thấy hai chiếc giường trống vắng, mẹ tôi và bà “bạn” cùng phòng vẫn chưa về, chắc là hai bà đang ở phòng ăn hoặc phòng khách.
Không biết cố tình hay ngẫu nhiên mà họ sắp xếp hai bà già Châu Á nằm chung phòng, bà kia người Phi Luật Tân, nhưng dù bà là người gì, Mỹ đen, Mỹ trắng, Mỹ da đỏ hay Ả Rập thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhau vì cả hai bà đều mất trí, ngơ ngẩn, chẳng ai nói với ai một lời nào.
Hai giường nằm gần nhau, chỉ cách nhau một tấm màn mà hai thế giới xa xăm vời vợi.

Tôi đến phòng ăn thì thấy mẹ vẫn đang ngồi trong chiếc xe lăn bên sát bàn ăn, trên bàn là những mẩu bánh mì sandwich xé nhỏ nằm trong vũng sữa lênh láng, mẹ tôi đã bốc mẩu bánh mì từ vũng sữa ấy bỏ vào miệng nhai, nhưng có lẽ bà chẳng biết là đang ăn cái gì.
Sữa từ bàn chảy vào áo mẹ, sữa dính nhoe nhoét trong bàn tay mẹ. Thấy mà thương.

Mấy năm mẹ nằm trong Nursing Home, hầu như ngày nào tôi cũng đến thăm mẹ nên từ nhân viên an ninh ngoài cửa đến supervisor và các nhân viên chăm sóc người gìa người bệnh trong này ai cũng quen mặt tôi

Thấy vẻ mặt bất bình không vui của tôi người nhân viên đứng gần đó vội trình bày:
– Bà ấy vừa làm đổ ly sữa ra bàn tôi bận phía này nên chưa kịp lau.
Bao giờ họ cũng có lý do chính đáng, những người gìa người bệnh trong Nursing Home nếu không mất trí nhớ thì cũng lẩm cẩm, cũng ốm đau có ai hiểu gì, có ai còn sức mà lên tiếng trách chê,
cho nên họ được chăm sóc thế nào tùy theo lương tâm hay tâm trạng vui buồn của những nhân viên chăm sóc này mà thôi.

Tôi đẩy xe lăn đưa mẹ về phòng, đi qua mặt bà Ann. người cùng phòng với mẹ tôi. Bà Ann đang ngồi gục đầu trong xe lăn trông thật tội nghiệp, bà Ann khoảng 80 tuổi, trẻ hơn mẹ tôi gần chục tuổi mà tình trạng sức khỏe chẳng khá hơn là bao, bà cũng bị mất trí nhớ, cõi mê âm u, cõi tỉnh thì chỉ trong phút giây mơ hồ huyền hoặc.

Thỉnh thoảng tôi gặp con gái bà đến thăm, chúng tôi nói chuyện tôi được biết bà Ann trước kia là dược sĩ. Nhìn nét mặt sáng sủa thông minh của bà tôi đã hình dung ra cô dược sĩ xinh đẹp của mấy chục năm về trước.
Chắc cô Ann đã từng có những hạnh phúc, tiền bạc trong tay, nhưng giờ đây là bà Ann lú lẩn chẳng biết gì.

Có lần tôi hỏi bà Ann, bà là dược sĩ phải không, gương mặt đờ đẫn ấy nhìn tôi rồi gật đầu, giây phút hiếm hoi mong manh ấy bà Ann đã chợt nhận ra mình.
Mẹ tôi cũng thế, từ một cô gái xinh đẹp đã làm say đắm nhiều chàng trai bây giờ là bà già ngớ ngẩn.
Về đến phòng tôi mới phát giác ra mẹ đã “làm xấu” đầy trong tã lót, thế là tôi đỡ mẹ nằm lên giường để lau chùi và thay tã lót cho mẹ..

Kể từ khi gởi mẹ vào Nursing Home tôi đã làm được nhiều việc như những nhân viên chăm sóc đã làm, tôi thay được khăn trải giường, thay tã lót ngay lúc mẹ tôi nằm trên giường.
Tôi đã quen với mùi già, mùi hôi thối, mùi bẩn, mùi thuốc men của các cụ già…

Chính tay tôi lau chùi vệ sinh cho mẹ nếu gặp đúng lúc như thế này, hoặc mỗi khi vào thăm mẹ, trước khi ra về tôi đều lau chùi lại mặt mũi, mình mẩy mẹ cho thật sạch sẽ thì mới yên tâm..
Mẹ nằm ngoan ngoãn như một đứa trẻ để yên cho tôi chăm sóc. Khi xong việc tôi sẽ cho mẹ ăn bánh bông lan hay vài múi cam đã bóc hết các lớp vỏ. Bà không còn răng, móm mém nhai và nuốt được tí nào hay tí ấy.

Khi tôi đang đút mẩu bánh bông lan thì đột nhiên mẹ cầm lấy tay tôi giọng reo vui:
– Cái vòng đẹp quá, cho … em đi
Nãy đi đám sinh nhật về tôi chưa kịp tháo dây chuyền, tháo vòng tay thế mà mẹ già mất trí của tôi cũng nhận ra, mẹ lắp bắp vòi vĩnh tiếp:..
– Cho em… cái vòng tay đi, em… muốn đẹp.

Tôi bất ngờ quá, hiếm khi mẹ cất tiếng nói, hôm nay mẹ lại nói được hai câu và xưng “em” với chính con gái của mẹ. Thật ngộ nghĩnh và đáng yêu.
Có điều gì sâu thẳm trong tâm hồn gìa nua mất trí ấy vừa le lói thức dây?

Tôi chiều mẹ tháo chiếc vòng tay đeo vào cổ tay gầy guộc của mẹ. Bỗng dưng tôi chạnh lòng, cổ tay này xưa kia mẹ đã đeo bao nhiêu lần chiếc vòng tay để làm đẹp rồi..
Tuổi già gần đất xa trời mẹ vẫn có nét đẹp của tuổi, khuôn mặt thanh thoát, chân tay dài thon thả. Vậy mà cả đời mẹ hình như chưa được hưởng hạnh phúc.
Được đeo chiếc vòng tay mẹ có vẻ hài lòng ăn hết miếng bánh bông lan và ăn thêm vài miếng nữa.
Chỉ vài phút sau thì mẹ quên cả chiếc vòng và nhắm mắt đi vào giấc ngủ.

Tôi tự hỏi mẹ có thấy gì trong giấc ngủ không, một quãng đời thanh xuân của mẹ?
Tôi lấy lại chiếc vòng vì luật trong Nursing Home các bệnh nhân không được đeo trang sức.
Khi tôi đang chuẩn bị ra về thì người nhân viên đẩy xe lăn bà Ann về phòng, anh ta trải lại giường và đỡ bà Ann lên nằm, bà co rúm người lại trong hai cánh tay mạnh khỏe của người nhân viên.
Hình như bà Ann cũng biết mắc cỡ bên người khác phái lạ lẫm.

Cô Ann dược sĩ trẻ trung ngày xưa làm sao hình dung ra được cảnh này, cô sẽ thành một bà gìa bệnh hoạn, tàn tạ, mọi sinh hoạt đời thường của cuộc sống hoàn toàn lệ thuộc vào người khác.
Tôi về đến nhà chồng tôi hỏi thăm như thường lệ:
– Mẹ vẫn khỏe chứ em.
Tôi khoe:
– Nhưng hôm nay có một chuyện lạ anh ạ, mẹ thấy em đeo vòng tay mẹ thích lắm đòi đeo và xưng “em” với em. Hay là mẹ bắt đầu… tỉnh trí hả anh?
– Có thể nhìn cái vòng đeo tay vùng ký ức của mẹ bất chợt lóe lên một hình ảnh xa xưa nào đó.
– Ừ nhỉ… ngày xưa mẹ em hay diện, đeo vòng tay…
Chồng tôi trêu đùa:
– Ngày xưa mẹ em đẹp thế mà con gái mẹ ích kỷ không cho mẹ đi lấy chồng.
Chồng tôi vẫn đùa thế, nhưng lần này lòng tôi chợt đau khi nhớ lại nét mặt vui mừng của mẹ được tôi đeo chiếc vòng tay.

Mẹ tôi lấy chồng năm 20 tuổi, là con gái duy nhất trong một gia đình giàu sang được cha mẹ hết mực thương yêu chăm sóc.
Sinh được hai chị em tôi, năm mẹ mới 24 tuổi thì cha tôi qua đời vì bạo bệnh, mẹ mang hai con về ở chung với cha mẹ.

Ông bà ngoại tôi nề nếp và cổ hũ phong kiến, nghiêm ngặt khuyên con gái góa của mình phải ở vậy thờ chồng nuôi con.
Bà ngoại luôn “tâm lý chiến” thủ thỉ với mẹ tôi:
– Con còn muốn gì nữa, danh vọng tiền tài và con cái con đều có đủ. Chồng con mất đi thiên hạ vẫn gọi con là bà bác sĩ, con có gia tài của chồng để lại, con có hai con xinh đẹp đủ nếp đủ tẻ.
Nếu con tái giá thì liệu có giữ được mãi những điều này không? Hai con của con sẽ khổ vì cha ghẻ, sẽ hờn giận mẹ đã san sẻ tình thương cho người khác, con có yên tâm mà hưởng hạnh phúc với chồng mới không?

Người góa phụ xinh đẹp trẻ trung đã được nhiều chàng trai dòm ngó, họ đến nhà thăm mẹ thì đến lượt ông ngoại tôi ra tay ngăn cản bằng hành động.
Khách ngồi nói chuyện với mẹ thì ông cầm chổi lông gà….phất bụi trên tủ, trên kệ trước mặt khách hết sức lộ liễu khiến không ai dám ngồi lâu. Thậm chí khi họ chào ông để ra về ông ngoại đã đáp lại không cần nể nang lịch sự gì cả:
– Phải, mời anh về.

Tôi lớn dần lên và về phe với ông bà ngoại nhất định không muốn mẹ đi lấy chồng, chỉ muốn mẹ mãi là của riêng mình.
Năm tôi lên 10 đã biết cầm chổi lông gà phất lên mặt tủ thờ ngoài phòng khách để… đuổi khách của mẹ về.
Tôi còn nhớ có ông tên Thảo, là một thanh niên có học thức, con nhà giàu chưa từng lấy vợ, yêu mẹ tôi và sẵn sàng chấp nhận gá nghĩa đá vàng với người góa phụ hai con.

Thế mà ông bà ngoại tôi vẫn không hề cảm động, giữ vững lập trường muốn con gái ở vậy thờ chồng nuôi con suốt đời.
Tôi ghét ông Thảo không thua gì ông bà ngoại đã ghét. Mỗi lần nghe mẹ nhắc tên ông Thảo là mặt tôi sưng xỉa lên và tôi khóc ầm ĩ làm mẹ phải năn nỉ dỗ dành.

Mẹ tôi đã buồn, đã khóc vì cha mẹ và con cái ngăn cản. Cuối cùng tình cảm gia đình vẫn cao hơn tình riêng, mẹ tôi từ chối lời cầu hôn của người mình yêu để sống cho trọn vẹn tiết trinh với người chồng quá cố, làm đẹp lòng cha mẹ và con cái.
Tuổi xuân của mẹ lặng lẽ trôi qua, hai chị em tôi lớn lên có nghĩa là mẹ đã già đi, tôi nào biết mẹ tôi đã từng khóc thầm vì cô đơn, vì khao khát một tình yêu với mối tình không bao giờ đến đoạn cuối như mong muốn của mẹ.

Năm cuối cùng trung học, trong một dịp theo trường đi cắm trại ở Vũng Tàu tôi đã quen một anh. Anh chàng lính hải quân hào hoa đẹp trai, tàu anh đang cặp bến Vũng Tàu.
Anh đã làm quen với tôi khi tôi đang ngồi trên bờ biển nghịch cát. Anh ngồi xuống cạnh tôi:
– Chào cô bé, cho anh chơi chung với nhé…
Tôi ngỡ ngàng chưa kịp đáp thì anh tiếp:
– Em muốn gì cứ… sai anh, anh sẽ làm cho em.
Tôi lấy lại bình tĩnh và chanh chua Bắc Kỳ:
– Anh xây giùm em căn nhà trên cát và bắt giùm em mấy con dã tràng.
– Ôi, cô bé mắng anh hão huyền chứ gì, không cho anh làm quen chứ gì.

Anh cũng là Bắc Kỳ nên quá hiểu con gái Bắc. Anh cứ lì thế mà chẳng công dã tràng tí nào cả, chẳng phù du như xây nhà trên cát gì cả, cuối cùng anh đã quen được tôi, xin địa chỉ nhà và hứa khi nào về Sài Gòn anh sẽ đến thăm tôi.
Trời… quả báo tôi. Hôm anh hải quân đến nhà, bà ngoại tôi nhìn anh chăm chăm từ đầu đến chân với vẻ ác cảm như nhìn một…. quân thù, làm như chàng thanh niên xa lạ này sẽ đến bắt cóc đứa cháu gái xinh của bà.

Ông ngoại lại cầm chổi lông gà…. phất bụi trên tủ thờ ngoài phòng khách như những năm xưa đã đuổi khéo khách của mẹ tôi làm tôi vô cùng ái ngại thương cho bộ quần áo hải quân trắng toát của chàng và thương chàng đang lúng túng không dám nói năng gì vì có ông bà ngoại lù lù đứng gần.

Chàng chịu hết nổi bèn đứng dây kính cẩn chào ông bà ngoại tôi:
– Xin phép ông bà cháu về ạ.
Ông ngoại đáp thẳng thừng, câu nói y chang như ngày xưa với bạn trai của mẹ tôi:
– Phải! Mời anh về.
Bà ngoại thì “tử tế” hơn, dặn dò::
– Ừ, cháu về chạy xe cẩn thận nhé.

Khách về rồi ông bà ngoại mắng mẹ tôi đã không để ý đến con gái, nó chỉ theo trường đi cắm trại ở biển Vũng Tàu vài hôm đã… dắt về nhà một thằng hải quân chẳng biết nguồn gốc lai lịch con cái nhà ai Thế lỡ nó đi cắm trại trong rừng dắt về nhà… một thằng mán thằng mường chúng ta cũng phải tiếp à.
Rồi ông bà ngoại đe dọa tôi liệu cái thần hồn học cho bằng được cái nghề dược sĩ hay bác sĩ như người cha qúa cố của tôi rồi mới được lấy chồng.

Nhưng mối tình đầu của tôi với anh hải quân càng ngày càng thắm thiết, tôi khóc lóc, tôi đe dọa tự tử và đe dọa… sẽ bỏ nhà đi theo anh ta. Thế là ông bà ngoại đành chịu thua đứa cháu gái bướng bỉnh.
Mẹ tôi thì dịu dàng nói với tôi:
– Con làm đúng khi bảo vệ tình yêu của mình, như mẹ lỡ một đời…

Tôi trở về hiện tại khi chồng tôi cầm tờ tuần báo từ phòng trong đi ra.
– Em đang nghĩ gì thế, anh đọc cho em nghe một mẩu tìm bạn bốn phương nè.
– Biết rồi, em đọc mục này thường xuyên.
– Anh cũng đọc thường xuyên, nhưng hôm nay anh bỗng suy nghĩ ra một điều. Này nhé một bà goá phụ 65 tuổi đang cô đơn cần tìm một người đàn ông nếu hợp sẽ… dìu nhau đi nốt quãng đường còn lại.
Tôi bật cười châm biếm:
– Dìu nhau là phải rồi vì cả hai cùng già, cùng lạng quạng đi đứng không vững. Sao đã ở vậy đến tuổi 65 mà không tiếp tục cho hết đời luôn nhỉ, lại còn… dở chứng??

– Ban đầu anh cũng nghĩ như em, nhưng bây giờ thì khác, người ta tìm nhau để cuộc sống không cô độc lẻ loi, mà cô độc lẻ loi thì buồn tủi lắm em ơi. Khi ta có đôi, đi đâu ở đâu ta cũng nghĩ ở nơi kia vẫn có người chờ đợi ta về sẽ thấy đời ấm cúng hẳn lên.
Tôi băn khoăn:
– Có phải anh suy nghĩ thế khi lúc nãy em vừa kể anh nghe mẹ em chợt tỉnh ra trong giây lát khi bà thấy cái vòng đeo tay của em, món trang sức ngày xưa bà thường dùng làm dáng, làm đẹp không?
– Chính thế. Ngày ấy mẹ em mới 24 tuổi, trẻ đẹp và nồng nàn tình xuân, thế mà hết cha mẹ đến con cái đã ngăn cản bà tái giá. Em có lỗi một phần trong cuộc đời mẹ cô độc thiếu vắng một người đàn ông, một vòng tay âu yếm, một bờ vai nương tựa ..
Tôi nói như rên rỉ:
– Nghe anh nói em đau lòng quá! Em thật đáng tội.
Hình ảnh mẹ tôi ngày xưa hiện ra khi tôi độ lên 10, mẹ tôi xinh đẹp hay làm duyên làm dáng đeo chiếc vòng tay bằng cẩm thạch lên nước trong xanh.

Thì ra hôm nay trong tiềm thức sâu thẳm lãng quên của mẹ tôi chút kỷ niệm nào đó vẫn còn. Bất giác mắt tôi cay cay…
Chồng tôi giục:
– Thôi em đi tắm, thay đồ rồi nghỉ ngơi, hôm nay em về muộn để anh sẽ thu gom quần áo em thay và đi giặt ….
Thật ấm áp khi bên cạnh tôi luôn có người đàn ông cùng chung vui buồn, chăm sóc lo lắng cho nhau. Thế mà mẹ tôi đã không có những tình cảm này suốt cả một cuộc đời son trẻ.

Tôi đã từng hiểu ra điều này suốt bao nhiêu năm từ khi tôi lấy chồng, hạnh phúc êm ấm bên chồng.
Đôi khi tôi thấy lòng áy náy thương mẹ, hối hận ngày xưa tôi đã ngăn cản mẹ lấy chồng, nhưng tôi lại tự an ủi và kiêu hãnh mẹ là người phụ nữ thanh cao lý tưởng trong mắt mọi người, là người mẹ tuyệt vời, người mẹ đáng kính nể và ngưỡng mộ của chị em tôi.

Chưa bao giờ tôi cảm thấy ân hận và bị dày vò như ngày hôm nay.
Nếu như tôi cũng cô đơn như mẹ, nếu như đời tôi không có một người đàn ông yêu thương bên cạnh, cuộc đời sẽ chông chênh và buồn lắm.
Ngày xưa tôi yêu anh và lấy anh làm chồng thật xứng đáng, ông bà ngoại tôi đã lo ngại “thằng hải quân” đi lênh đênh khắp nơi, mỗi bến bờ quen một cô, cháu sẽ khổ cả đời.
Nhưng ông bà đã đoán sai rồi, tiếc rằng ông bà ngoại không sống đến ngày nay để thấy anh hải quân của tôi vẫn là người chồng, người cha tốt.

Anh đi vào phòng tắm ôm ra một rổ quần áo dơ để vào phòng giặt. Thấy tôi vẫn ngồi yên anh ngạc nhiên đến gần:
– Em sao thế?
Tôi ngước lên nhìn anh, đôi mắt cay cay đã long lanh giọt nước mắt:
– Anh ơi, anh có biết em đang nghĩ gì không? Nếu… nếu…. mẹ trẻ lại như xưa…
Anh nghe lầm nên hỏi ngược lại:
– Nếu em trẻ lại như xưa hả? Vậy em còn muốn yêu anh nữa không? Hay lại chê “thằng hải quân lông bông” như ông bà ngoại em đã chê?
Đến bây giờ anh vẫn nhớ cái cảm giác khi lần đầu gặp ông bà ngoại em, nếu tàu anh ra khơi có… đụng độ tàu địch ngay trước mặt anh cũng chưa bối rối đến thế..
– Anh nghe kỹ đây, không phải em mà là mẹ em. Nếu mẹ trẻ lại như xưa, khi em 10 tuổi em sẽ không bắt chước ông ngoại cầm chổi lông gà phất buị trên tủ để đuổi khách của mẹ đâu, em sẽ không đành hanh ghét ông Thảo đâu, em sẽ bảo mẹ đi lấy chồng. Em ân hận lắm. Ôi, nếu mẹ trẻ lại…. nếu mẹ trẻ lại….….
Anh hiểu ra, an ủi tôi:
– Chúng ta không thể lấy lại quá khứ, em đừng tự trách mình như thế, hãy sống với hiện tại, chăm sóc mẹ tận tình để báo hiếu mẹ đã hy sinh cả một thời xuân xanh nuôi con khôn lớn.
Tôi lau nước mắt mỉm cười:
– Vâng, chiều mai em vào thăm mẹ, em lại đeo vào tay mẹ chiếc vòng này để mẹ có khoảnh khắc vui như thiếu phụ còn xuân đang làm đẹp cho mình, cho người tình mình thương mến, dù chỉ là một niềm vui ngớ ngẩn.

Chồng tôi nhắc nhở:
– À, em nhớ thăm bà Ann bên cạnh luôn nhé, con cái bà bận rộn không vào thăm thường xuyên như em.

Thanh Duong




Chuyến Đi Biền Biệt

Xin quý vị click vào hình để đọc.




Tâm Pháp Khí Công

ÂM DƯƠNG KHÍ CÔNG – MỘT PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TÂM TRÍ – KHÍ – LỰC CỦA VIỆT NAM NGUYÊN LÝ: KHÍ BÌNH => TÂM BÌNH; TÂM BÌNH => SÁNG SUỐT. ÂM DƯƠNG KHÍ CÔNG LÀ GÌ ? Âm Dương Khí Công là công phu luyện thở, nhằm điều chỉnh hai khí Âm và Dương trong hai mạch Nhâm và Đốc.
Xin quý vị click vào hình để đọc.




Những Mùa Xuân Trở Lại.

Mùa Xuân là sự bắt đầu của thời gian theo chu kỳ hàng năm, nhưng theo tập quán tống cựu nghênh tân của dân Việt Nam, Xuân là mùa của hy vọng có những tin vui, những sự tốt lành của năm mới. Trong tinh thần đó, tôi lựa ra những bài tôi đã viết về Mùa Xuân kể từ khi đến định cư tại nước Mỹ để tạo thành tuyển tập này.

Xin quý vị click vào hình để đọc.




GIỌT NƯỚC MẮT CỦA LÍNH

Tác giả: DHT.

LTS: Đây là một chuyện thật, không có một chút nào hư cấu, chúng tôi là một người lính tác chiến, chiêm nghiệm, có một sự huyền bí mà không giải thích được trong việc trùng phùng giữa cha con sau 40 năm, người SQ/BĐQ hoàn toàn không biết mình đã có một đứa con, TCDV chỉ hiệu đính các lỗi “hỏi ngã”, còn giữ nguyên toàn bộ lời kể của người trong cuộc.
TCDV cho đăng câu chuyện hi hữu này, để riêng tặng cô Hoàng Mai, chủ Snack-Bar tại mũi Nhà Bè các năm 1969, 1970 và các bạn Mũ Nâu đã từng đóng quân nơi này.
Germany, 12.03.2016
– Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
– Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN (TĐ51/LĐ6BĐQ/QLVNCH)Giọt nước mắt của lính– dht –

Đây là chuyện thật của người bạn học cũ của tôi và người lính Biệt Động Quân VNCH, sau 40 năm thất lạc nhau vì chiến tranh, một bất ngờ duyên trời đã cho anh chị gặp lại nhau, và tôi được nghe anh chị kể cho tôi về một phần đời của họ đầy vui, buồn, sợ hãi, chán chường của một người con gái đẹp đã vì hoàn cảnh mà ra nông nỗi ấy, của một người trai thời loạn thất chí, vì không làm tròn trọng trách đối với núi sông. Hôm được anh chị mời đến nhà chơi, qua một tách trà sen Huế (anh chị và tôi đều gốc Huế), anh nhìn vợ, âu yếm bảo:

– Em kể lại chuyện tình mình cho Mousti ( nick của tôi ) nghe đi, anh nghĩ Mousti sẽ thích chuyện tình đẹp của mình, đẹp như một cổ tích…và chị bắt đầu kể, anh ngồi nghe, lâu lâu thêm vào một vài chi tiết..

Anh nhìn tôi, tay vuốt tóc chị, nói với tôi:

– Cánh Hoa Thời Loạn. Xong quay lại nói với chị:

Anh phải đem em về lại Huế ngày nào đó nhé cưng.
Hạnh phúc thật là nhỏ bé mà đồng thời cũng thật lớn vô cùng.
Gặp nhau chỉ có một giờ
tình yêu bất tận chẳng ngờ tái sinh…( Thơ của anh )

*
Tôi mất anh đã hơn 40 năm rồi, ngày mà quê hương còn rền vang tiếng súng, tiếng đại bác.. của những trận chiến ác liệt như Pleime, Đồng Xoài, Bình Giả…

Lúc đó tôi còn là một người đàn bà 25 tuổi, mở một quán rượu gần đồn lính, thời bấy giờ không biết làm gì để nuôi cuộc sống còn của mình, cha mẹ chết, có người yêu đi lính cũng đã gục ngã trên chiến trường, nhà cửa tiêu tan vì chiến tranh, buồn quá, nhân có con bạn học cũ hoàn cảnh gần như tôi, nhưng nó còn đau hơn tôi là chồng nó bỏ gia đình đi tập kết ra Bắc, bỏ lại vợ con nheo nhóc buôn thúng bán bưng sống qua ngày. Hai đứa tôi, nhìn vẫn còn mặn mà lắm, ngày còn đi học là hai hoa khôi của Gia Long. Bây giờ nghĩ lại thời gian đẹp này chỉ còn trong hoài niệm. Tôi bây giờ đau đớn nói ra, mình đã là một cô gái giang hồ, nôm na là gái điếm. Khách của Vân và tôi gần như là lính, vì thành phố tôi đang ở gần một trại lính. Vân rủ tôi mở quán rượu ở đây vì vậy, lính là những người không có tương lai, sống chết không biết ngày nào nên họ ăn chơi bạt mạng, hễ cuối tháng lãnh lương ra là đến quán nhậu, rượu chè, gái…họ sống như vậy, lao mình vào những ly rượu mạnh hay những cuộc truy hoan để quên nỗi sợ những tiếng súng, những tiếng đại bác, những hầm chông cọc nhọn đang chờ, quên đi tử thần đang rình đâu đó.. Cũng may là Vân và tôi không còn gia đình, nếu không tôi không biết phải ăn nói làm sao với cha mẹ mình về cái nghề tôi đang làm! Lúc mới đầu chưa quen với nghề này, tôi ghét lắm những bàn tay vô tình để lên không đúng chỗ trên thân tôi, hay tiếng đùa giỡn quá trớn của những anh lính uống say, khi tôi đi ngang qua bàn, víu vai tôi xuống, ôm mặt tôi đặt chiếc hôn nặc nồng mùi rượu… có lúc tôi chán nản, muốn bỏ nghề đi tìm một nghề khác dù không đủ tiền nuôi mình, nhưng sau đó, ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi cũng bắt đầu quen. Tuy vậy nhiều khi nhì Vân ngả ngớn với mọi người, ăn mặc hở hang, lắm lúc nó ngồi luôn trên chân khách, ỏn ẻn như muốn làm tình luôn ngay tại chỗ. Tôi nhìn những cử chỉ ấy, rồi thấy tởm cho chính mình luôn. Có những chàng lính trẻ khuôn mặt còn non, có thể nặn ra sữa được, phần đông là học sinh bị rớt Tú Tài, đến tuổi phải đăng lính thì nhiều lắm là cỡ tuổi em trai út mình thôi, vậy mà phải chịu đựng khói thuốc trong căn phòng bẩn không mấy sạch, vì làm gì có thời gian để thay đổi chiếu, chăn, nhiều đêm phải tiếp vài người khách là gần trắng đêm rồi, vì họ cho rằng tiền trao cháo múc, có những lần tôi gọi là xáp lá cà vì sự hùng hục không chút dịu dàng, sao cho thoả mãn sinh lý là được, không tình cảm trong đó, chính tôi, tôi cũng chẳng muốn có tình cảm, tôi tuy là một gái điếm nhưng tôi vẫn trọng phần hồn mình, chuyện làm tình với bất cứ ai chỉ là chuyện kiếm cơm mỗi ngày, không ăn thua gì đến trái tim mình cả, quan niệm tôi là vậy. Tôi cũng không bao giờ hy vọng hay ước mong ngày nào đó sẽ có một người sẽ đến yêu tôi và đưa tôi ra khỏi chốn bùn nhơ này. Rồi ngày tháng vẫn trôi qua, cuộc đời của Vân và tôi vẫn vậy, vẫn nhịn nhục chiều chuộng những người đàn ông thoáng qua đời chúng tôi trong vài giờ ngắn ngủi rồi ra đi, không để lại chút gì luyến tiếc. Tiền trao cháo múc mà! Rất hiếm những lần truy hoan có người nhìn tôi âu yếm, hay cử chỉ dịu dàng, chỉ có vừa mới chưa kịp cổi đồ là mình đã như con vật bị lên bàn mổ vậy, hùng hục, hùng hục, đúng như nghĩa của chữ này vậy, xong rồi, nằm thở dốc, hút điếu thuốc, mặc lại quần áo và mở cửa bước ra, không một lời chào hay một cái ngoắc tay từ giã…. Toán lính này đi, toán lính khác đến, không có gì thay đổi trong cuộc sống, không biết Vân nghĩ thế nào, phần tôi, tôi nhầy nhụa thêm như mình đang lội trong vũng bùn cuộc đời vậy.

Vậy mà, một hôm anh đến, anh vừa đổi đến đơn vị này; hôm ấy là ngày phép của anh, anh theo đồng bạn đến quán, gọi một chai martell thứ nặng nhất, mắc nhất uống với nhau. Con Vân đi ngang bàn, ngả ngớn với bạn anh, vuốt tóc anh, anh để tự nhiên cho Vân làm, chỉ mỉm cười chào lịch sự. Bàn anh gọi thức nhậu, Vân lo tán tỉnh với bạn anh, nó ngoắc tay nhờ tôi làm giùm. Tôi mang mấy dĩa đồ nhậu đến bàn anh, tôi thấy ánh mắt anh đậu lại trên mắt tôi một khắc, mỉm cười cám ơn; cả bàn gom tiền lại trả, anh móc túi cho riêng tôi một số tiền khá, anh cầm tay tôi, mở tay tôi ra, đặt tiền vào đó và đóng tay tôi lại, rồi thôi.
Chiều ấy, anh nói với Vân muốn tôi tiếp anh, tôi bằng lòng, đưa anh lên phòng. Trong lúc anh ngồi trên ghế, tôi lấy drap và áo gối mới thay, vì chăn chiếu cũ đã có nhiều người nằm trên ấy, mùi thuôc lá, mùi đàn ông, những dấu vết vàng vàng của những lần làm tình trước dơ dáy.

Không hiểu vì sao tôi lại đối với anh đặc biệt như vậy, tôi cũng tự đang hỏi mình. Anh có một khuôn mặt thật…tôi không biết tả ra sao, cái nhìn ấm áp khi anh nhìn tôi. Sửa soạn giường gối sạch sẽ, tôi như bình thường, mời anh lại giường, tôi đứng cởi đồ trước mặt anh, xong tôi dìu anh nằm dài xuống, và từ từ cởi quần áo cho anh, anh để yên cho tôi làm, xong tôi ngồi xuống giường, nằm xuống cạnh anh, anh dang tay anh ra cho tôi đặt đầu lên, xong quay lại vuốt tóc tôi, hôn lên môi tôi dịu dàng, làm tôi hụt hẫng, bất ngờ trước những cử chỉ trìu mến ấy, rồi anh bắt đầu cuộc chơi. Tôi thú nhận là lần đầu tiên từ ngày tôi làm điếm, tôi có cảm tưởng như tôi là người con gái còn trinh được người yêu yêu mình lần đầu, có một rung động không tên chuyền vào tôi, tôi đáp trả lại anh, tôi không gọi lần này là cuộc truy hoan của một người đàn ông và cô gái điếm. Xong cuộc, anh lấy tấm khăn để trên bàn lau cho tôi và anh, xong anh bảo tôi nằm yên đó, anh chồm dậy lấy bao Capstan châm lửa hút, chợt anh nghe tôi ho, anh dập tắt ngay điếu thuốc chưa kịp hút.

– Tôi làm em ho? Em không chịu được khóí thuốc?

Tôi giật mình xin lỗi nói không phải vì khói thuốc mà ho mà tại tôi có cái tật từ nhỏ là nhạy cảm, và lúc nào bị xúc động là tôi ho. Nghe tôi trả lời, anh ôm đầu tôi lại gần và hôn tôi như anh đang hôn người tình của anh vậy. Rồi hứng lên, anh lại đưa tôi vào cuộc chơi thứ nhì.
Sau lần yêu này, anh đặt đầu anh giữa hai vú tôi, hôn lên đó, và hai vai anh bỗng rung lên, anh khóc nức như đứa trẻ làm tôi sửng sốt. Tôi ôm đầu anh, trìu mến, hỏi anh nguyên do nhưng anh không muốn trả lời…

Anh và tôi nằm yên như vậy một lúc lâu, tôi không còn nghe anh khóc nữa, tôi nhìn anh, anh đang ngủ trên ngực trần tôi. Tôi lấy tay gỡ nhẹ đầu anh, đặt đầu anh lên gối, nhìn anh ngủ, lòng tôi chùng xuống, một tình cảm mới mẻ hiện ra trong tôi không có tên.

Tôi đứng dậy đi tắm và trước khi xuống quán, tôi nhìn anh ngủ, tôi cúi xuống đặt lên môi anh một chiếc hôn hình như có thương yêu trong đó, tôi cũng không hiểu luôn cử chỉ này tại vì sao nữa! Từ ngày hành nghề, tôi luôn tránh nếu có thể những chiếc hôn môi, cái cảm giác lợm giọng hôi nồng nặc thuốc lá và rượu làm tôi muốn ói, nhiều khi khách hôn mình, tôi muốn đấm vào mặt khách một cái, đạp cái thân thể trần truồng xuống đất và chồm dậy mặc nhanh áo quần, chạy trốn như vừa gặp phải ma. Vậy mà chính tôi lại hôn anh.

Tôi xuống quán xem Vân có cần đến tôi không, nhưng tối nay ít khách nên Vân để cho tôi yên.

Tôi xuống bếp làm vài món ăn đem lên phòng, anh đã tỉnh, vẫn nằm yên trong tư thế con nhộng,trên môi một nụ cười hóm hỉnh, nhìn tôi như nói:

– Em thẹn thấy anh trần truồng phải không? Tôi cười nhẹ không trả lời, trả lời sao bây giờ trong hoàn cảnh tôi, một cô gái điếm mà lại mắc cỡ đứng trước người đàn ông trần truồng như gái nhà lành!

Tôi nói anh đi tắm rồi ra ăn cơm với tôi. Trong lúc anh tắm, tôi lại giường, nằm xuống úp mặt lên gối, ngửi mùi tóc anh và mùi mồ hôi anh còn thoảng trên đó, có chút gì thật dễ thương khó quên!

Xong buổi cơm chiều, hai đứa cởi hết đồ, ôm nhau nằm trên giường, chợt nghe anh thở dài, tôi hỏi anh tại sao và anh chưa hề hỏi cho biết tên tôi cũng như tôi chưa biết tên anh, anh nói:

– Anh với em, mình không có tương lai, mai anh đi rồi, biết sống chết ra sao, và em cũng vậy, ngày anh may mắn còn sống trở về, chắc gì mình còn gặp lại nhau, thì thôi nếu em có chút tình cảm cho anh thì cứ giữ vậy làm kỷ niệm, anh không hề xem em là cô gái giang hồ, chỉ xem em là người con gái bất hạnh của cuộc đời trong chiến tranh mà thôi.

À, mà đây, vừa nói anh vừa tháo ở cổ anh sợi dây chuyền vàng có miếng mề đay nhỏ bằng vàng hình trái tim, có khắc số quân của anh. Tôi ngơ ngác, giương mắt nhìn anh:

– Đó là quà cuối cùng của Mẹ anh cho anh trước khi bà mất trong Tết Mậu Thân Huế, bà cho thợ vàng khắc số quân của anh khi lỡ anh chết trận, có trên cổ anh vừa tấm thẻ bài lính và số quân này, như vậy chắc ăn hơn, bà nghĩ vậy. Bây giờ anh gửi tặng em, giữ lấy như quà cưới, vì hôm nay anh không ngờ trước một sự gặp gỡ dễ thương và đáng nhớ như vầy, xem như hôm nay là ngày cưới anh và em, và đêm nay là đêm động phòng của mình. Anh cảm nhận được tình cảm em qua mấy lần yêu nhau chiều nay, em đã đặt tình cảm em trong đó; anh hiểu rõ lắm, vì trước đây, anh cũng đã sống trong trụy lạc, mê đắm trong thuốc lá, trong rượu, cùng gái điếm với những đêm truy hoan nhưng thú thật em, chỉ vì lâu ngày thèm khát đàn bà, với em hôm nay, anh không thèm khát chuyện xác thịt, lúc đầu anh cũng nghĩ sẽ như những cuộc truy hoan với những cô gái giang hồ khác (trong cuộc nói chuyện, anh vẫn tránh chữ gái điếm, và tôi thầm cảm ơn, sự tế nhị này của anh.) nhưng hôm nay thì không, anh có cảm tưởng người đang nằm bên anh là người yêu của anh.
Anh xem em như người bạn đời của anh dù chỉ gặp nhau trong một đêm, và cuộc tình ngắn ngủi này sẽ theo anh suốt dọc quãng đường anh đi tiếp. Tôi tháo chiếc nhẫn bạc kỷ niệm sinh nhật 18 tuổi của mình, đeo vào ngón tay út anh.

Tôi tắt đèn, và hai đứa lại lao vào những trận yêu bỏng cháy đầy tình cảm…

1. CHÚT QUÀ GỬI EM

Liên tiếp tuần sau đó, tôi gặp lại người lính không tên này ngày chủ nhật. Anh đến quán cùng với vài người bạn lính khác, các anh và anh, nhất là anh vẫn oai hùng trong bộ quân phục với áo hoa rừng và chiếc mũ nâu, cũng vẫn khuôn mặt dễ mến mà từ tuần trước khi anh ra về, tôi ra điều kiện với Vân, nếu Vân còn muốn tôi giúp Vân trông nom quán tiếp Vân, tôi sẽ không tiếp khách nữa. Vì hình như tôi vẫn đợi anh đến, tình cảm tôi hình như có sư đổi thay, và hình như tôi có linh tính là cuộc đời tôi đang đến một ngã rẽ khác.

Anh ngồi chơi với bạn, uống một chai bia lạnh hiệu 33, trong không khí đầy khói thuốc lá, mùi rượu, những mẩu chuyện lính đầy tính chất gái giang hồ, và sexe; tôi lén để ý anh, anh chỉ ngồi cười nghe bạn, không hoà đồng vào với bạn, Vân lăng xăng ôm cổ người này đến người khác, bằng lòng cho khách hôn hít, sờ soạng…

Tôi đứng yên sau quầy rượu, giả vờ lau ly, cốc… Anh quay lại nhìn tôi, mỉm cười chào nhẹ bằng một nụ cười thật hiền và dễ thương. Anh làm hiệu cho tôi đến gần anh, anh đứng dậy kéo ghế cho tôi ngồi cạnh. Nhiều bận mấy đồng đội anh định giở trò ờm ờ, những cử chỉ như đối với Vân, anh đưa tay như bảo họ stop, và lạ lùng nhất là họ nghe anh răm rắp, tôi nghĩ trong toán lính này, anh là huynh trưởng của họ, vai vế lớn hơn.

Sau đó, chiều lại, mấy người lính kia đứng dậy đi về trại, anh ngồi lại quán, hỏi Vân với tôi có thể cho anh ăn cơm chiều ở đây không, Vân cười nhìn tôi, ý là cô nàng hiểu anh muốn gì.

Vân đứng dậy dọn ly cốc và vỏ chai không trên bàn, đem đổ tàn thuốc, đưa mắt cho tôi như bảo: Mày lo cho chàng đi. Mâm cơm chiều này tự tay tôi nấu, ngon hay vì cảm tình anh dành cho tôi mà anh thấy ngon?

Chiều nay anh uống hơi nhiều một chút, rồi ngà ngà say, Vân và tôi không để anh về một mình, giữ anh lại cho anh ngủ lại đây.

Sáng hôm sau, khi anh ấy dậy, tôi pha nước cho anh tắm, bưng điểm tâm lên phòng cho anh vì tôi muốn hưởng trọn với anh ấy những giờ phút cuối trước khi anh ấy trở về đơn vị.

Anh kéo ghế sát lại, bảo tôi ngồi cạnh anh, một tay anh cầm cốc café, tay kia anh ôm ngang người tôi, tôi cảm nhận được hơi nóng từ thân thể anh thấm vào người tôi, lòng tôi nhũn ra, nước mắt muốn ứa nhưng không dám vì sợ anh buồn biết tôi đang buồn.

Anh ôm tôi chặt trong vòng tay mạnh mẽ của anh, chặt nhưng trìu mến chứ không như lũ khách tôi thường gặp.

Rồi cũng phải đến giờ xa nhau. Anh cầm tay tôi, quàng cổ tôi đi xuống cầu thang, tôi không để ý đến bao thuốc Capstan anh quên trên bàn. Xuống quán, anh hôn má Vân từ giã, và hôn tôi nồng nàn, môi tôi và anh như bị gắn chặt bởi một thứ keo đặc biệt mà thiên hạ gọi là keo sơn. Vân hỏi anh bao giờ anh ghé ngang, anh chỉ cười, đưa tay lắc lắc như nói không biết được, rồi anh đi. Tôi nhìn theo bóng anh, tim tôi muốn ngất đi vì thương nhớ.

Tôi bỏ Vân một mình vì sớm quá, quán chưa đông, tôi lên phòng, đóng cửa định ngồi khóc cho đã, chợt nhìn thấy trên bàn gói Capstan anh quên, nhưng tôi biết anh xa rồi nên thôi. Tôi mở gói thuốc xem còn thuốc nhiều hay không, chợt tôi khựng lại; trong bao thuốc có một bao giấy gói, tôi mở ra xem: một photo anh ngày còn sinh viên chắc, vì trẻ lắm, một số tiền và một lá thư ngắn có theo một bài thơ.

– Em giữ hộ anh nhé khoản tiền lương tháng này anh vừa lãnh, vì lúc này anh chưa cần đến, và anh tặng em hình chụp ngày anh vừa 17 tuổi như một kỷ niệm. Em giữ số lương anh đến khi nào gặp lại anh em hãy đưa trả anh, còn nếu rủi không gặp nữa, em cứ giữ lấy phòng thân vì không ai biết ngày mai như thế nào với chiến tranh,

2. GỬI EM CHÚT QUÀ

(Bài thơ này anh viết trong đêm khi em ngủ ngon giấc bên cạnh, anh ngồi dậy viết vội tặng em.)

mai lên nớ bao giờ gặp lại
ta biết em trong phút si cuồng
thằng lính trận thấy lòng ấm lại
tình của mình dù chỉ một đêm….

mai lên nớ thèm môi nào ngọt
phút hiến dâng như cả đời mình
ta bỗng chốc thành thằng ngu độn
chín bệ vàng hoàng hậu nương nương

mai lên nớ say cùng chiến trận
dòng chữ ghi ân hận chút tình
bao giấy thuốc thơm tình lính trận
gửi cho người tấc dạ trung trinh

mai lên nớ nhớ thân thể nóng
em rướn người vào bóng trăng tan…..

Người lính không tên…
*
Trước khi anh đi, Anh hỏi tôi có tấm hình nào không? Tôi mở tủ, tìm được một tấm hình mặc áo dài trắng có gắn huy hiệu bông mai của trường Gia Long, hình này tôi giữ kỹ vì để nhớ thời gian mình còn là một nữ sinh trong trắng chưa vướng bụi đời. Tôi đưa cho anh, anh bảo như vậy những khi nhớ tôi anh sẽ nhìn cho nhớ mặt tôi vì hình lúc 10 năm về trước và tôi bây giờ không khác nhau bao nhiêu, tôi ngồi thừ trước hình anh… nước mắt chan hoà..

Sáng hôm sau, anh dậy sớm trở về trại vì đã hết phép. Anh hôn tôi nồng nàn, từ giã Vân và tôi. Tôi nhìn theo anh…hình như tôi vừa mất một cái gì thật thương qúi…

3. GIỌT NƯỚC MẮT BIẾT ĐAU

Quán Vân và tôi bây giờ khách thật đông, ngoài trại lính bên cạnh, tấp nập khách thương di chuyển hàng ngang thành phố, thêm gia đình vợ con lình cũng lên đây để thăm viếng chồng, anh, em trai cho tiện. Quán bây giờ không còn là ổ gái giang hồ mà là quán café và quán ăn. Vân cũng chán cái nghề mà thiên hạ vẫn gọi là nhơ nhớp và đê tiện. Vân trở về với đời sống bình thường, ngày ngày lo công việc rót rượu và các thức uống, mướn thêm người để tiếp khách, phần tôi vì tôi giỏi về nấu ăn nên Vân để trọng trách này cho tôi đảm đương.

Cuộc đời tôi không ngờ lại có sự thay đổi bất ngờ không tính trước, vì vài tháng sau, tôi đang thái rau cải, bỗng cơn buồn nôn thúc tôi chạy vào nhà sau ói, và tắt kinh: tôi mang thai với người lính không biết tên.

Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là tôi sẽ lên chức mẹ, nhận ra tôi đã yêu thương anh ta vô cùng và tôi muốn giữ cái bào thai này như một kỷ niệm đẹp của đời mình, lo là không biết rồi đây cái thai lớn lên, rồi tôi sẽ làm gì và đi đâu, tôi kể cho Vân nghe, tôi muốn bỏ quán đi về quê quán để sinh nở nhưng Vân cản lại, Vân bảo thứ nhất là tôi mang thai, không chồng lại mang tiếng đồ gái chửa hoang, thứ hai tôi lấy gì để sống và nuôi cháu bé,

Vân bảo tôi hãy ở lại với Vân, nó rất tốt với tôi, thương tôi như ruột thịt, ở lại đây, dù sao tôi vẫn sống qua ngày được, tôi mềm lòng, cảm ơn Vân và tiếp tục công việc của mình.

Đêm đêm trước khi ngủ, tôi vẫn lấy hình người lính không biết tên ra nhìn, nhớ anh ấy như nhớ người tình hay người chồng của mình. Nhiều khi tôi nghĩ dại, lỡ anh chết ở chiến trường, chắc tôi khóc đến giọt nước mắt cuối cùng, và vui là biết bây giờ tôi còn thêm một kỷ niệm sống với anh sau mấy đêm thương yêu nhau thật như hai người tình.

Ngày tháng cứ theo nhau trôi qua, cuộc sống tạm ở quán Vân và tôi cũng đắp đổi qua ngày. Bây giờ tôi đã sinh nở xong, cháu bé trai ra đời trong tình thương của tôi và Vân. Tôi đặt tên cho cháu là Việt Nam, gọi Vân là dì Vân giùm cho cháu bé. Mỗi lần tôi ngồi cho con bú, tôi nhớ anh ấy kinh khủng, không biết bây giờ tiểu đoàn của anh đã trôi nổi ở chiến trường nào.

Quán chúng tôi bây giờ rất đông đảo, tấp nập đủ hạng khách, nhất là lính. Nhưng lúc này tôi cảm nhận hình như có gì không yên ổn lắm; trên gương mặt của những đám lính đến uống nước ở quán, lúc này có vẻ lo âu, tôi nghe lóm ở họ những tiếng di chuyển, thuyên chuyển, nào những địa danh như Đồng Xoài, Bình Giả…Pleime.

Tiếng máy bay trực thăng rền trên đầu, ngoài đường cái những xe tăng, xe cứu thương, xe jeep, từng đoàn convoi chở đầy lính không biết đi đâu… và càng ngày càng nghe tiếng súng, tiếng đại bác, tiếng bom gần lại. Tôi đâm lo, tôi nói với Vân, Vân cũng nghĩ như tôi, thấy tương lại bấp bênh quá.

Trong toán lính còn đóng ở đơn vị cạnh quán, có một người mặt mày thật chân hậu, dễ mến, xem ra hình như rất cảm nàng Vân và nàng ta cũng vậy, Vân đối với anh ta rất đặc biệt. Thấy anh mặc áo hoa rừng, trên vai có mang chữ V, tôi hỏi nhỏ một người lính bạn anh, anh ấy trả lời, ah, Hậu nó mang lon trung sĩ mà chữ nghĩa lính gọi là cánh gà đó chị.

Một trưa quán ít khách, tôi ngồi ru cháu bé ngủ ở nhà sau, để cho Vân và Hậu (anh ta tên là Nghĩa Hậu) nguyên buổi trưa. Lúc Hậu trở về đơn vị, Vân gọi tôi tâm tình, Vân thổ lộ với tôi là hai anh chị mết nhau lắm, và Hậu bảo Vân, Hậu muốn cùng Vân thành vợ chồng ngày Hậu mãn lính. Vân bằng lòng chờ đợi anh. Vân thú hết với Hậu về đời Vân, nhưng Hậu bảo Hậu không nề hà dĩ vãng của nàng, Hậu bảo Vân và tôi là hai sắc hoa trong thời loạn. Vân rất vui và cảm động tấm lòng độ lượng của Hậu, Vân nói nhưng làm sao anh giới thiệu Vân với gia đình của Hậu ở Đà Lạt lần tới khi anh được nghỉ phép vài ngày, Hậu trả lời không cần phải nói rõ Hậu gặp Vân ở đâu, hơn nữa, anh lớn rồi và anh là lính cuộc đời nay sống mai chết nên anh muốn cho Vân hưởng hạnh phúc cùng anh cho dù vài tháng, vài ngày, vài giây….Vân hứa sẽ lấy Hậu làm chồng và sau đó sẽ gửi quán lại cho tôi trông nom.

Tuần sau đó, Vân bảo tôi Vân sẽ về thăm người dì ruột ở Quảng Trị và hôm rồi sẽ trở về với tôi trông coi quán và chờ Hậu về. Nhưng Vân sẽ không bao giờ về với mẹ con tôi nữa. Chuyến xe đò trong đó có Vân đã trúng mìn, tất cả xe đều chết hết.

Thế là tôi lại bơ vơ thêm lần nữa, mất người bạn thiết, lạc người lính không biết tên mà tôi đã đem lòng yêu thương, tôi khóc hết nước mắt. Hậu cũng đi rồi, không biết phải ra chiến trường nào! Nhiều lúc nghe tiếng súng và đại bác gầm trong đêm, tôi ước có viên đạn lạc nào đó lấy luôn sự sống của tôi cho rồi, nhưng khi tôi nghe tiếng khóc con thơ bên cạnh, tôi sực tỉnh cơn ác mộng. Tôi đã tự hứa với mình là tôi sẽ nuôi cháu cho thành người vì tôi vẫn có hy vọng có thể ngày nào đó mẹ con tôi sẽ gặp lại người xưa.

Tôi vẫn tiếp tục ngày ngày cho quán, nhưng rồi cũng bối rối quá vì hình như có cái gì đó không ổn. Ngoài đường bây giờ từng đoàn người tay nải, tay bế tay bồng chạy, mà chạy đi đâu, không hỏi ai được, rồi thêm vào đó xe chở lính đầy đường, máy bay trực thăng bay rền trời, tôi cũng đâm hoảng, lúc này không còn thấy lính đến uống nước nữa.

Cuối tháng Tư 75.

Đang hoang mang chưa biết phải làm gì thì ngay sáng hôm đó, Hậu không biết từ đâu chạy bay vào quán, réo tôi bảo thu xếp vài thứ cần thiết cho cháu bé, bảo hai cô gái giúp quán cũng vậy, tôi đang còn tần ngần không biết đem gì bỏ gì thì Hậu hét to lên bỏ hết, bỏ hết, mau lên, xong Hậu bồng thằng Nam, một tay nắm tay tôi dắt ra cửa, hai cô gái một cô dùng dằng không chịu đi vì em ấy còn mẹ già và em trai nhỏ, bảo chúng tôi cứ đi, để quán lại em lo tiếp.

Hậu bồng Nam ra xe, trao cháu cho người lính ngồi trên xe, đẩy tôi và cô gái tên Uyên lên xe rồi nhảy phóc lên chỗ tay lái, cho xe chạy thẳng. Trên đường bây giờ thiên hạ như tổ ong vỡ, vừa chạy vừa gào vừa khóc, không còn biết chạy hướng nào nữa. Chiếc xe jeep Hậu phải lách tránh vừa người, vừa  convoy lính, phải tay lái cừ lắm mới không đụng ai và cán ai, có nhiều người muốn níu xe lại xin cho quá giang, như Hậu không ngừng, thì giờ khẩn cấp quá rồi. Tôi như con ngáo, hỏi Hậu là thế nào, mới hay là miền Nam đã mất vào tay cộng sản, và chúng tôi đang tìm đường thoát.

Tội thằng Nam, chắc nó cũng cảm được gì đó không an, nó ngồi êm rơ trong lòng người lính. Xe chạy như vậy không biết đã bao lâu và hướng nào vì đi từ sáng sớm tinh mơ, giờ đã tối thui. Hậu bảo chúng tôi là sắp đến Vũng Tàu. Tôi và cô gái cũng không dám hỏi thêm.

Sau cùng, tôi nhận ra bãi biển Vũng Tàu với những hàng dừa như ngái ngủ bây giờ bị dựng đầu dậy bởi tiếng khóc, tiếng réo, tiếng cầu cứu loạn xà ngầu của đám người chạy loạn cũng đang tìm cách thoát ra khơi bằng đủ cách. Vì Hậu hình như đã tính toán sẵn trước nên khi vừa đến Bãi Trước, anh hối mọi người theo anh chạy xuống mé biển, ở đấy đã có sẵn một chiếc tàu quân sự nhỏ đang chờ chúng tôi, anh để người lính bạn nhảy lên tàu trước, đưa Nam cho anh ta, xong đến cô gái, đến tôi và Hậu cuối cùng, chiếc tàu nhổ neo chạy vọt ra khơi.

Chiếc tàu chúng tôi chạy ra xa, và tiếng máy hình như vừa ngừng lại, trước mắt là một chiếc tàu lớn của binh chủng Mỹ vì có treo cờ Mỹ. Chiếc tàu dừng hẳn lại, trên tàu Mỹ, có mấy người lính Mỹ thả xuống một cái thang bằng dây. Hậu bảo người lính bạn leo lên, Hậu buộc cháu Nam trên lưng anh ta, xong Hậu đỡ tôi leo lên sau, rồi đến phiên cô gái và Hậu.
Thường ngày, leo thang bằng dây như vậy thật là khó khăn, nhưng hôm nay, sự lo lắng và sợ hãi đã làm cho tôi như mọc cánh, leo thật dễ dàng.

Lên đến tàu rồi, thấy Hậu lăng xăng nói chuyện với mấy người lính Mỹ anh gặp. Trong lúc đó tôi nhìn quanh, chiếc tàu lớn này chở có lẽ đến 5, 6 ngàn người vừa lính Mỹ, vừa quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, vừa đám người tị nạn như tôi, vợ con quân nhân…những người đầy may mắn chạy thoát đặc biệt như vầy.

Qua khỏi cơn kinh hoàng, bất chợt tôi vừa nhận ra mình sẽ rời xa mãi Việt Nam thân yêu, tôi quay lại nhìn về phía Vũng Tàu, xa lắm nên tôi không còn thấy và nghe tiếng đám người chạy loạn, chỉ thấy lửa; toàn lửa đỏ cả một góc trời và đám khói đen nghịt bốc cao, Vũng Tàu vừa bị đốt. Tôi thở dài, thế là quê hương thân yêu tôi đã bỏ lại sau lưng mình!

Tôi tìm anh lính để cám ơn anh đã lo cho Nam, tôi tìm Hậu để muốn nói một lời nào đó, và để hỏi Hậu về tin tức mình sẽ đi về đâu…Hậu thấy tôi đến gần, anh nhìn tôi, nở một nụ cười đón tôi nhưng thật buồn, rồi thôi, hai chúng tôi đứng bên nhau không nói thêm gì nữa, tôi thấy mắt Hậu nhìn về phia tôi cũng vừa nhìn lúc nãy, đôi mắt anh chứa một nỗi buồn kín đáo, trầm lặng, tôi biết anh đang nghĩ đến quê hương vừa bỏ mất, đến Vân, tình yêu đầu đời của anh nay chỉ còn là một hoài niệm khó quên, hình ảnh của những mảnh thịt da tan tác đó đây, nhầy nhụa máu cùng đất đỏ cao nguyên của Vân, của những người lính đồng đội của anh đã nằm xuống, của những người dân chết vì một viên đạn, một mảnh bom vô tình rơi trúng trên một quãng đường nào đó của quốc lộ…

4 – GIỌT NƯỚC MẮT TRỞ HỒNG LONG LANH
( Tiếp theo giọt nước mắt biết đau )

Trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ chở dân tị nạn chúng tôi bây giờ bớt người, vì đến đảo Subic Bay, có khu trục hạm khác đang đậu chờ để chia bớt số dân di tản chia làm hai ra, dân trên tàu chúng tôi thấy tàu kia tản bớt còn ít người nên ùn ùn xuống bớt tàu nầy qua bên tàu kia. Không biết là chiến hạm này sẽ đi Canada hay Úc thì tôi không rõ lắm.

Thấy bớt được người, Hậu bảo anh bạn lính, Uyên và tôi cứ ở lại đây vì Hậu bảo tàu này chắc sẽ qua thẳng đảo Guam.

Tôi mở ngoặc nói về người Mỹ một chút, những ngày trên tàu, hầu hết lính Mỹ đối với đám dân tị nạn chúng tôi rất tốt, chúng tôi mỗi ngày vẫn nhận được 3 bữa ăn có cơm chỉ khổ là họ không biết biết nấu kiểu Việt Nam, nhiều nước quá nên cơm nhão, nhưng dù sao khi đói ăn gì vẫn thấy ngon, đồ ăn toàn là đồ hộp như thịt hộp…các cháu bé thì được phát thêm sữa bột Mỹ…Tôi cám ơn những người Mỹ đã đón nhận chúng tôi với nỗi thông cảm sâu sắc tình người.

Vì bớt người nên chúng tôi không còn nằm như cá mòi sắp lớp nữa, Hậu tìm được cho bọn con gái chúng tôi một chỗ trên boong, thoải mái. Những người lính Mỹ đem cho chúng tôi mỗi người một tấm nệm bằng cao su,một tấm mền.vừa ấm cũng vừa êm nên cũng đỡ khổ cho tấm lưng gầy, mấy hôm nay bị cong vì nằm hụt chỗ.

Đêm nay, đêm bình yên đầu tiên tôi nhìn thấy trăng, bao ngày lênh đênh trên biển, sự lo âu và đau buồn vì cớ cái chuyện rời bỏ quê hương đang bị dày xéo bởi chế độ khắc nghiệt độc tài sau chiến tranh. Nhớ cái chết thảm thương tội nghiệp của Vân, tôi như người ngồi trên lửa và mắt tôi như mù đi. Đêm nay ngồi ôm cho bé Nam ngủ, tôi ngồi cạnh Hậu, Sang – anh lính chưa quen và Uyên, tôi chợt thấy trên nền trời đêm xanh trong, có mặt trăng và những ngôi sao lấp lánh, chợt tôi nhớ đến 4 câu thơ của người lính không biết tên đọc cho tôi nghe lúc anh nằm cạnh, anh vuốt tóc tôi âu yếm:

Giữa khuya tay gối đợi chờ
em đi vào giấc mơ đời lênh đênh
trăng vào xiêm áo nhẹ tênh
oằn thân ngà ngọc cong vênh cội nguồn….

mắt tôi chợt ướt, tôi lắc đầu cho quên đi kỷ niệm, vì giờ này đâu còn là lúc để nhớ mà chỉ lo ngay ngáy ngày mai mình và con sẽ ra sao, tương lai sẽ đi về đâu…

Lênh đênh trên biển như vậy, sau 11 ngày, thì chiến hạm đến hải phận của đảo Guam. Trước khi cho chúng tôi sang những chiếc tàu nhỏ của tuần dương hạm để vào đảo, họ phát cho chúng tôi ít quần áo, các người đàn ông mỗi người một chiếc sơ mi chim cò kiểu người Phi Luật Tân .

Bỗng tôi nghe có tiếng thét từ trên boong cao, tôi đưa cháu Nam cho Uyên, đưa mắt tìm Hậu nhưng không thấy, tôi chạy vội leo lên boong, thấy Hậu và một nhóm người đang nhìn xuống biển, tôi vội vàng chạy đến tìm Hậu, đưa mắt hỏi. Chỉ nghe Hậu thở dài và đám người kia phần nhiều là quân nhân VNCH, mặt họ thật buồn.

Hậu kể cho tôi nghe câu chuyện từ đâu có tiếng thét nhói tim người nghe lúc nãy: Lúc mọi người được phát cho quần áo, chiếc áo sơ mi chim cò kiểu Phi Luật Tân vẫn mặc. Như mọi người quân nhân khác, Hậu cầm chiếc áo trong tay, tần ngàn không biết nên cởi bộ quân phục đang bận trên người để thay, chợt Hậu thấy đằng xa một anh quân nhân cầm trên tay chiếc áo, vẻ mặt như đang nghĩ ngợi một điều gì quan trọng, có lẽ anh ta đang đối diện với một sự thật tàn nhẫn không thể chối bỏ hay quên được: Đó là danh dự tổ quốc, lý tưởng của người làm trai đã hy sinh cả cuộc đời, tuổi trẻ, gia đình để bảo vệ miền đất tự do của anh đã mất hết. Trong một khắc ngắn, như đã quyết định, anh leo lên bờ boong tàu, lao mình xuống biển mà sóng đã nuốt chửng mất hút thân anh trong biển mênh mông trong lúc Hậu chưa kịp làm một cử chỉ gì để giữ anh lại! Vậy là bao nhiêu chí lớn trong một khắc ngắn đã chìm theo những bọt sóng vô tình….Hậu nắm tay tôi, ngậm ngùi cho hoàn cảnh của những người cầm súng không giữ được quê hương! Hậu nghĩ trong đầu, khi cầm chiếc áo chim cò anh vừa nhận được, anh cảm thấy lòng anh rất thẹn, thẹn vì anh thấy mình thật bất lực, anh là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong tay anh cầm súng cùng với anh em chiến hữu cố chiến đấu đến phút cuối cùng, vậy mà không làm tròn được sứ mạng của người trai lúc quê hương đang gặp nguy biến, không ngăn chận được kẻ thù, anh cũng đã nghĩ đến chỉ có cái chết mới có thể xin tạ lỗi cùng quê hương, nên anh rất hiểu tâm trạng người quân nhân vừa đã nhảy xuống biển tự vẫn vừa rồi.

Tôi nhìn Hậu, thấy sự xót xa trong mắt Hậu, tôi vội bấu chặt lấy cánh tay Hậu:

– Hậu, Hậu đừng làm vậy, đã không có ích gì mà còn làm cho Vân dưới suối vàng buồn thêm, và còn những người còn sống, đồng bạn Hậu, mẹ con chị còn cần đến Hậu.

Vào đến đảo, chúng tôi cũng được đón tiếp đàng hoàng. Mỗi gia đình được chia cho một căn lều vải. Chúng tôi là những người gần như đầu tiên đến đảo, được đối đãi rất tốt. Mỗi ngày nhận được 3 khẩu phần. Cuộc sống trên đảo cũng tạm qua ngày trong lúc chờ đợi Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc quyết định cho tương lai của những người di tản.

Trên đảo có một văn phòng đại diện Liên Hiệp Quốc, họ cần những người biết tiếng Pháp, tiếng Anh để làm thông dịch viên. Hậu và tôi tình nguyện vào làm vì chúng tôi nói thạo 3 thứ tiếng.

Sau đó thấy Hậu độc thân, họ hỏi anh muốn đi đâu và có thân nhân ở đâu, Hậu bảo anh đã liên lạc được với vợ chồng em gái anh ở Mỹ và chịu bảo trợ cho anh, và anh đã được đồng ý cho đi Hoa Kỳ. Sau đó đến tôi, thấy tôi thạo tiếng Anh, và có con nhỏ, họ bảo tôi được quyền ưu tiên chọn xứ, và sau đó do sự bảo trợ của nhà thờ, họ tìm được cho tôi một gia đình hai vợ chồng người Mỹ cao tuổi đang cần một người giúp việc nhà, họ liên lạc với gia đình này và tôi được nhận.

Cuộc đời mẹ con tôi đến một ngã rẽ may mắn, nhiều khi nghĩ lại, tôi cũng tự hỏi có phải tôi đẻ bọc điều không, hay định mệnh do Trời Phật xếp đặt.

Ông bà Mỹ đối với mẹ con tôi như người nhà. Ngoài những giờ làm việc, bà chủ cho tôi theo học lớp tiếng Anh cho người ngoại quốc, vì dù tôi thạo tiếng Anh, nhưng ở Mỹ họ nói mau quá khó nghe vì nuốt chữ. Và vì chợ búa, món ăn tôi chưa thạo việc lắm, chỉ có cái vui là ông bà rất thích đồ ăn Việt nên mê những món tôi nấu.

Ở đây có nhiều hội từ thiện các nhà thờ, thường cho mẹ con tôi quần áo …có mặc rồi nhưng chưa cũ lắm, cháu Nam thì ban ngày được đi mẫu giáo, tóm lại, cuộc đời tôi không đến nỗi nổi trôi lắm nếu hai ông bà Mỹ không mất đi. Từ đó, tôi lại phải lo tìm việc khác để làm nuôi con.

Tôi nhờ nhà thờ tìm cho tôi chỗ làm, và tôi được nhận vào nấu ăn cho một nhà hàng Việt, với sự dành giụm, mấy năm sau tôi mua được một căn nhà nhỏ đủ cho mẹ con tôi ở. Tôi tiếp tục như vậy và nuôi con cho đến lúc nó ra đại học. Bây Giờ Nam đã là một luật sư. Nó tìm được chỗ làm tốt cùng với một luật sư người Mỹ gốc Việt.

Hiên nay tôi đã ngoài lục tuần. Tôi vẫn sống độc thân nuôi con, dù có rất nhiều người thương và xin cưới tôi. Trong tim tôi, bao giờ cũng chỉ có một hình bóng duy nhất của người lính không biết tên mà tôi vẫn xem anh như chồng mình. Tôi cứ cầu nguyện Trời Phật cho tôi gặp lại anh ấy dù chỉ một lần là đủ mãn nguyện rồi. Nam từ nhỏ vẫn hỏi cha nó đâu, tôi giải thích cho con cha nó là một người lính trước đây của binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà.

40 năm sau
…….

Buổi tối hôm đó, tôi đi dự đám cưới con của bạn, tôi không thể nào ngờ là mình đã gặp lại người xưa. Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.

Trong một bữa tiệc cưới con trai bạn, tôi đi dự hôm đó, mặc chiếc áo dài tím như thời còn là học trò nhưng hở cổ, thân người vẫn mỏng mảnh, và nhìn chung sắc diện cũng còn dễ coi, chưa bị thời gian hằn những nếp nhăn mặc dù đời tôi quá ê chề lúc trẻ. Trên cổ trắng ngần của mình, sợi dây chuyền người lính không biết tên đã tặng vẫn nằm yên cùng chỗ khi người ấy đeo vào cho tôi. Tôi đang đứng nói chuyện với mẹ cô dâu, chợt thấy có một người đàn ông tóc hơi hoa râm nhìn tôi chăm chú, tôi cố nghĩ tìm xem có quen không, thì người ấy đã đi về phía tôi, nhìn đăm đăm vào khoảng cổ trần của tôi:

– Xin lỗi bà về tội tôi đường đột sắp hỏi một câu, nếu có gì thấy thất lễ, mong bà lượng thứ cho. Chưa kịp trả lời bằng lòng hay không, ông ta tiếp theo:

– Xin lỗi bà, làm sao bà có sợi dây chuyền này?

Bất giác tôi nhìn tay ông ta đang cầm cốc rượu, một chiếc nhẫn bạc quen thuộc trên ngón tay út, cả hai người, ông ta và tôi đánh rơi hai cốc rượu xuống đất cùng một lần theo sau hai tiếng như thoát ra từ ngực mỗi người:

– Anh

– Em…

Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.

Hôm ấy tôi làm một bữa cơm thật giản dị nhưng để hết thương yêu vào những món mà ngày anh đến quán Vân tôi đã tự tay nấu cho anh và nhân thể tôi gọi Nam đến ăn cơm nhưng chưa cho con biết vì sao, tôi căn dặn con là phải đến. Hôm nay tôi cũng sửa soạn làm đẹp một chút và nhìn gương, tôi rất tự hào mình vẫn còn những nét xưa.

Nghe chuông cửa reo, tôi vội vàng ra mở cửa, thấy anh ôm trên tay một bó hồng đỏ và chào tôi bằng một nụ cười thật tươi, tôi sững hết một phút, ban ngày nhìn rõ, nụ cười đó của anh vẫn dành cho tôi những ngày ngắn ngủi thương yêu nhau ngày xưa. Anh đưa cho tôi bó hồng, anh bảo có 40 đoá hoa, tôi hỏi tại sao lại 40 đoá hoa?

– Vì đã 40 năm anh chưa gặp lại em. Và mỗi một đoá hồng là một năm tròn anh nhớ em đó em.

Nước mắt tôi ứa ra vì cảm động. Tối qua ở tiệc cưới, anh bảo anh vẫn ở một mình đến bây giờ vì cũng thầm mong ngày nào đó gặp lại tôi.

Tôi mời anh vào nhà, mời anh vào salon, mời anh ngồi ở chiếc ghế bành một chỗ bên tay trái tôi, tôi mở chai champagne, rót vào hai cốc, mời anh uống rượu khai vị. Anh nắm tay bảo tôi ngồi xuống cạnh anh, anh ôm tôi hôn nồng nàn như đêm đầu tiên mới gặp.

Qua hết những phút cảm xúc, tôi đứng dậy, đi lại bàn viết, mở hộc tủ lâu nay tôi vẫn khoá, tôi lấy bao thuốc lá Capstan cũ đưa cho anh, anh ngạc nhiên nhìn tôi, tôi ra dấu cho anh mở đi.

Anh cầm bao thuốc, mở ra, anh như sững lại: trong bao thuốc anh để lại trên bàn khi anh trở về đơn vị còn y nguyên số tiền lương tháng cuối cùng anh để lại cho tôi, tấm ảnh cũ của anh và bài thơ anh viết vội tặng tôi trước khi anh lên đường. Anh lặng người đi mấy phút, xong anh kéo tôi lại, dang tay ôm trọn tôi trong vòng tay anh.

– Sao em lại để dành số tiền này vậy?

– Vì đó thuộc về những kỷ niệm ít oi anh để lại cho em trước khi anh đi.

– Anh bảo em nếu em cần thì tiêu, không thì ngày gặp lại, em trả lại anh cũng được

– ???

– Vì em không phải cần đến số tiền đó nên…

Ngay lúc ấy, cửa nhà mở, cháu Nam bước vào, thấy anh, nó khựng lại một giây, xong bước lại gần, đứng cụp hai chân với nhau và đưa tay phải lên trán chào anh theo kiểu nhà binh.Thấy anh bỡ ngỡ, Nam lên tiếng trước:

– Con chào Ba, rồi đến gần hôn anh trên má.

Anh ngạc nhiên nhìn Nam rồi nhìn tôi, tôi chưa kịp lên tiếng thì Nam đã giành nói:

– Thưa, con biết là Ba, vì khi con vừa bước vào phòng khách, thấy Ba ngồi trên chiếc ghế mà Mẹ con không mời ai ngồi trên ấy, kể cả bạn bè của Mẹ hay ngay cả chú Hậu, vì Mẹ con vẫn nói với con là người đàn ông nào bước vào nhà và được Mẹ con mời ngồi vào chiếc ghế này sẽ là cha của con mà thôi, vì vậy mà con biết là Ba.

Anh nhìn tôi, tôi hiểu ra, tôi nói :

– Mấy tháng sau khi anh đi, em đã có thai, và đây là con trai chúng mình đấy anh, con tên là Nam, Nguyễn Việt Nam, em khai họ mẹ vì không biết anh tên gì và họ gì, anh cười thật tươi:

– Anh là Cường, Nguyễn Việt Cường.

– Còn em là Trầm Hương, anh trả lời hộ tôi, vì phía trong chiếc nhẫn em tặng anh đêm đó, anh đọc thấy tên em khắc trong nhẫn : Tôn Nữ Trầm Hương, rồi ôm tôi âu yếm…Hạnh Phúc thật bất ngờ còn đến với những người bạc hạnh như tôi.

đht




Ca Dao Thời Cộng Sản.

Tác phẩm Ca Dao Thời Cộng Sản đã được edit và update đầy đủ
bao gồm quyển Một & Hai.
Tại sao có tác phẩm này: Sau khi cha tôi mất, tôi rất e ngại phải đưa mẹ tôi về Việt Nam thăm các cô con gái của Mẹ.
Tôi xuống Cần Thơ thăm bà cô và hỏi thăm cậu bé bán kem lối đi tới bến Ninh Kiều. Cháu bé bán kem nói với tôi: Đ. M. ông không biết bến Ninh Kiều ở đâu à. Tôi lắc đầu – Tôi biết trước 1975 nay quên rồi…
cháu bán kem bỗng đọc câu ca dao:
“CẦN THƠ CÓ BẾN NINH KIỀU,
ĐỨNG QUANH TƯỢNG BÁC ĐĨ NHIỀU HƠN DÂN” ai chả biết bến Ninh Kiều ở đâu…!
Tôi giật mình và sau đó về Sài Gòn gặp nhà văn đàn anh Vũ Ngọc Đĩnh. hỏi anh và cùng anh nghĩ tới cuốn Ca Dao Thời Cộng Sản.
Anh viết được 2/3 cuốn tác phẩm thi qua đời năm 2016… và để lại cho tôi tiếp theo những ghi lại của anh về những câu “CA DAO THỜI CỘNG SẢN” còn dang dở cho trọn bộ gồm hai quyển Một và Hai, quyển hai đang layout….
thành thật cám ơn quý vị…!
Xin quý vị click vào hình để đọc Ca Dao Thời Cộng Sản (quyển một).




Nhóm LM Nguyễn Kim Điền

Cuộc đời đấu tranh cho Tôn Giáo và Dân Chủ Nhân Quyền.

Xin quý vị click vào hình để đọc




NHÌN LẠI LỊCH SỬ BÁCH VIỆT VÀ QUÁ TRÌNH HÁN HÓA BÁCH VIỆT

08 Tháng Chín 201612:00 SA(Xem: 5056)
Trần Gia Ninh

Tượng Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia
ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN.

 
Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây? (1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.

 Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?

 Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.
Bách Việt là ai và ở đâu?

 Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa) (2).

 Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).

 Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.

 Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.
 Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.

Sách Lộ Sử của La Bí (1131 – 1189) người đời Tống viết (3): Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú, Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt. 
Hán Hóa Bách Việt – Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán

 Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô – Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 – 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 – 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry (4).

 Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên (5) thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc – Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 – 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết (6): Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương (Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký – thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di (7). Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân – Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất. Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 – con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 – hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô – Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.

 Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh – tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa.  
Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán

 Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam… gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…

 Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán.

 Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần – Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc (10) là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu (11) không có nói đến Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau (12). Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆” (13). Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.

 Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh – Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.

 Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí” (14): “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt (15), hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng) (16), xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y (17).

 Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.

 Theo quyển “Việt sử lược” (18), của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.

 Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng (19) “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép (20) “Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành (21). Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam (22).

 Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng” (23). Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại (24). Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt (25). Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia (26) thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.
Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?

 Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm:

1 – Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người.

2 – Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác. (27) Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:
 * Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.
 * Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.
 * Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!

 Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:
 * Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.
 * Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.

 Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm:
 * Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.
 * Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.
 * Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.
 (Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).

 Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.
 1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.
 2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.
 3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.

 Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt.

 Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.

 Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng” (28).

 Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần… Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…

 Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1

CHÚ DẪN

 1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml
 越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?” http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html

 2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵 âm đọc giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ Vu 于, người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là 亏, hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên thành 雩. Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越 đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ 隶, chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨 đặt trên chữ Vu亏.
 3 “路史” 罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑, 且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。
#4 http://www.sino-platonic.org/complete/spp176_history_of_yue.html The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina

 5 史記-司馬遷 (145 – 86 TCN)
  6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Đế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.
 7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt thời nhà Thương.
 8 Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.
 9 五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚 (Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu).
 10 Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ 雒,骆 thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước.
 11《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”.
 12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn Đế: “ đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa thân (ý nói đóng khố cởi trần).
 13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。” Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn (Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.
 14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển 3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).
 #15“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ Xuyên.
 16 叶榆水
 17岱依人
 18《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi, thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”.
 19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.
20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.
21 So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo sách cổ nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ 碓, 雄, 雒 (bộ thủ “chuy 隹 “) nguyên chỉ là chữ 雒 (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các 各thành chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả!22 Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書 thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác.
 23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”.
24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách này-TGN).
25 Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó.
#26 Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán, thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên
27Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? – http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf.
28 Đại Việt sử ký toàn thư – NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.

* Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây.




LM Nguyễn Văn Lý

Kính mong quí vị hổ trợ bằng mọi phương tiện, để
phát huy tinh thần tranh đấu bất bạo động của nhóm
Linh mục Nguyễn Kim Điền, hầu sớm có tự do tôn
giáo và nhân quyền trên quê hương.
Kính chúc quí vị an bình.
Chinh Nguyên

Xin quý vị click vào hình để đọc




Đội Đập Đá

Xin vui lòng click vào hình để xem sách




Tản Mạn về Mùa Thu và Thi Nhân

Xin vui lòng click vào hình để đọc sách

https://www.youtube.com/watch?v=0Gs75l7E6Vk



Thorn In The Heart

Mrs. Salle Hayden MA, NLP. 
Author, Editor và publish.

Lời bình của bà Salle Hayden, về tác phẩm “THORN IN THE HEART” của tác giả Chinh Nguyên.
Thank you so much for sharing this book with me. 
Your feeling is quite clear. I know that there are many “kids” in the Vietnamese community who do not really know their parents’ and grandparents’ suffering. This book is an introduction to understanding the human tragedy that Vietnam had been for so long. 
I’m not sure that it has changed so much under the Communists, but we can’t see into that window, can we?
I appreciate your skill and fervor.

Salle Hayden
Tác phẩm “Thorn In The Heart” dầy 576 trang.
Quý vị mua sách xin liên lạc:
Chinh Nguyên E-mail cnchinhnguyen7@gmail.com.
phone : 1(669) 225-6043 Gía: $30.00 Mỹ Kim.
Hoặc xin quý vị click vào hình để đọc trọn bộ.
Please, click on the picture below to read the novel