Hồi đó vào khoảng đầu thập niên 80 thế kỷ trước, tôi đã gọi là xong hết mọi việc dính tới chuyện tù cải tạo nên thong dong đi chơi như bạn bè không thuộc nguỵ quân, nguỵ quyền Sài Gòn, tức là họ không phải đi tù tập trung như tôi.
Mỗi buổi sáng, tôi thường rời nhà ở khu nhà thờ Ba Chuông, đi bộ tà tà lên hướng Lăng Cha Cả trên con đường gọi là Trương Minh Ký, nối dài đường Trương Minh Giảng phía trên.
Tới ngã tư đường Thoại Ngọc Hầu thì rẽ phải đi một đoạn ngắn nữa, gặp đường nhỏ Nguyễn Minh Chiếu cắt ngang, rẽ trái đến số nhà 328 (gần cuối đường) bên tay mặt, tôi đứng trước cổng lớn của biệt thự Úc Viên.
Tôi đến chơi với nữ sĩ Mộng Tuyết – Thất Tiểu Muội như cơm bữa vì cũng chẳng có việc chi làm. Một hôm nghe tiếng chuông nhè nhẹ từ ngoài cổng biệt thự Úc Viên vọng vào.
Nữ sĩ Mộng Tuyết ngó đồng hồ rồi nói: Ông Khai Trí đến đó, đúng hẹn quá ha. Bà nói tôi ra mở cửa, đồng thời có định gặp ông Khai Trí thì bà giới thiệu…
Ông Khai Trí ở Sài Gòn trước 30 – 4 – 1975 ai mà không biết… Ông là giám đốc nhà sách Khai Trí ở đường Lê Lợi. Về sau ông vừa làm nhà xuất bản, tổng phát hành nên bộn bề công việc nhưng càng thêm uy tín và thân tình với đông đảo văn nghệ sĩ. Không ai không cảm phục ông về tấm lòng yêu quý sách từ thủa còn đi học.
Những hoạt động mua bán sách và giao tế tuyệt vời của ông với các tác giả cũng như khách hàng mà đa số là sinh viên học sinh thì khỏi nói.
Tôi chỉ đề cập tới một chuyện rất tầm thường nhưng lại… bất thường, chứ không nói tới chữ phi thường vì lớn lao và khôi hài quá!
Số là những ngày ông bị tập trung cải tạo ở Z30C Hàm Tân, cùng trại với anh rể tôi, trong vấn đề phân phối lao động…
Ai đã đi tù chính trị Cộng Sản đều biết cái điều mỗi lần chia tổ lao động, nó đòi hỏi tự nguyện, rồi mới chỉ định.
Thế thì nhà tổng phát hành sách vở, chữ nghĩa cứ thơm phưng phức hàng ngày vui cùng thiên kinh, vạn quyển kia nay tự sung vào cái tổ gánh phân rồi hoà tan thành nước phân bón tưới các rẫy vườn rau, đậu ngoài trại ấy.
Làm như thế thì chỉ phải lao tác nửa ngày, còn nửa ngày cọ rửa cho thân thể sạch sẽ trở lại con người… nhân bản được chút nào hay chút nấy. Khốn nạn cho cái xã hội khốn cùng đó.
Ở ngoài Bắc, dù không đi tù cải tạo người ta vẫn làm cái việc phân bón… thiên nhiên này, đến nỗi cả người lớn lẫn trẻ em đều bị cái bệnh tệ hại nhất thế giới là những cái bụng sán lãi bự chảng, mặt mũi xanh lét.
Ông Khai Trí đã từ ngoài cổng Úc Viên vô tới nửa hành lang, tay dắt xe đạp, trên ghi đông xe đạp còn treo một cái bị cói hơi cũ đựng sách truyện và những thứ cần thiết…
Chẳng biết đường trường kách mệnh của Hồ lão tặc sẽ vượt lên thượng tầng kiến trúc thế nào, chứ cái màn khốn khổ khốn nạn XHCN diễn đi diễn lại khiến cho con người đang từ phong nhã, hào hoa trở thành bần hàn ti tiện làm sao.
Nhưng người lịch thiệp thì cho dẫu đã trở lại bước đường hoa gấm ngày xưa, ông Khai Trí vẫn nhẫn nhịn, hoà nhã, chịu đựng đến độ thành bụt lúc nào không hay.
Cơ ngơi tài sản ông mất nhiều, mất ít thì tôi không rõ, nhưng những năm tháng sau cùng ở Sài Gòn, ông vẫn đi xe đạp, treo giỏ cói ở ghi đông với một nụ cười mà không biết phải diễn tả thế nào mới đúng: hoà đồng, khổ luỵ, buồn thương, chán chường…
Song vẫn đầy nghị lực, vẫn mong ước, chờ đợi một ngân hàng sách, một hệ thống phát hành ở khắp nước Việt Nam để từ đó cái xã hội sách bất khả của họ tự giẫy chết trong nghĩa địa sách mà họ lầm tưởng là có thể để đời…
Tuy nhiên đầu thập niên 90 tiếp theo, ông vẫn đi Hoa Kỳ.
Mộng làm giàu cho sách, chứ không phải sách làm giàu cho ông, vì giai đoạn này các con ông đã nên danh phận và ông đã già (1926 – 2005).
Thế mà có một buổi trưa kia, trên chiếc xe buýt chuyển trạm đường Brookhurst, ông Khai Trí đã khệ nệ bước xuống với mấy bao, giỏ sách thật nặng nề vừa đeo trên vai, vừa ôm trước ngực, vừa… thở hổn hển, mà vẫn tươi cười.
Tôi hỏi sao ông di chuyển sách nặng làm gì khổ thế. Là vì ông phải đi từ Los Angeles xuống ga chuyển Fullerton, rồi từ Fullerton qua buýt khác xuống thủ đô tị nạn Bolsa mà tôi gặp đó, rồi ông sẽ đi một chuyến buýt thứ ba về nhà ông. Thật cực khổ. Năm đó 1993, ông đã gần bảy chục tuổi.
Vài năm sau, ông quyết định về Sài Gòn ở luôn. Sinh hoạt văn chương theo ý ông cùng các văn nghệ sĩ nửa cũ, nửa mới cho tới khi qua đời.
Thời gian ông Khai Trí xây dựng sự nghiệp sách khai phóng và điều hành cái cơ sở đồ sộ những chữ cùng… nghĩa, tôi nghĩ quý vị tác giả biết ông và thân tình với ông nhiều cách khác nhau…
Qua gần 10 năm, sau khi ông đi tù cải tạo về tới trước khi đi Mỹ, tôi được hân hạnh quen biết ông chững chạc hơn, trong giao lưu chưa thật hết văn hoá cũ đã phải tiếp nhận văn hoá mới.
Đó là cái xã hội miền Nam sau 30 – 4 – 1975, ô dề một cách hầm bà lằng…
Sự thực lớp người như ông Khai Trí chẳng… sợ ai gọi là ở chế độ mới. Chưa kể những người từ rừng về mang cảm giác thua kém trước… rừng sách, hay ít nhất một người đủ góc độ nói về văn hoá, văn học, cho nên ông vẫn được số đông người họ Mác, họ Lê, họ Hồ kính nể.
Mặt khác ông vẫn có ý giúp quý văn nghệ sĩ cũ bị kẹt lại hay đi tù cải tạo ra gặp hoàn cảnh khó khăn.
Ngày thi sĩ trung tá Hoàng Ngọc Liên từ tù về, ông Khai Trí đã đeo vào ngón tay cho quan năm thất thế đó chiếc nhẫn một chỉ vàng 24 carat gọi là mừng bạn, chẳng lẽ nói để anh ăn bù thời gian đói khát tù đày vừa qua.
Buồn quá, mỗi lần một người quen mãn phần hay thất lộc thì bâng khuâng rồi, nhưng ông Khai Trí ra đi về cõi vĩnh hằng thì quả là giống như ai đang cầm cuốn sách hiếm quý bị người điên giật lấy rồi xé bỏ trước mặt họ…
CAO MỴ NHÂN
Kaizen – Cải Tiến Liên Tục, Liên Tục… – Tưởng Niệm Anh Hùng Trần Văn Bá – Mai Thanh Truyết
THƠ, VĂN, YouTube … Thi Thân Hữu Sương Lam
Bài Tình Ca Tháng Chạp
Đây là bài số năm trăm chin mươi bốn (594) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ Oregon Thời Báo, Portland, Oregon.
Bây giờ là Tháng 12 dương lịch năm 2021, nhưng văn hoá Việt Nam thường gọi tháng 12 là Tháng Chạp.
Người viết là người Việt Nam (dĩ nhiên rồi) nên cũng xúc cảnh sinh tình viết bài thơ Bài Tình Ca Tháng Chạp để đánh dấu tháng cuối cùng của một năm, đặc biệt có ngày Lễ Giáng Sinh chào đón Chúa sinh ra đời đem tin yêu và hy vọng đến với tất cả mọi người nơi trần thế.
Xin mời Bạn cùng đọc với người viết nhé
Bài Tình Ca Tháng Chạp
*
Tháng Chạp đến với đèn hoa rực rỡ
Người người mừng chào đón Lễ Giáng Sinh
Trời mùa Đông nhưng vẫn thấy ấm tình
Tình Nhân Loại, Thương Yêu và Bác Ái
*
Thiện Tâm ấy nào phân chia tông phái
Chúa trên cao hay Phật ngự tòa sen
Thương kẻ trần không phân biệt sang hèn
Khuyên người phải biết thương yêu, giúp đỡ
*
Quen hay lạ vẫn nụ cười cởi mở
Đưa bàn tay nắm lấy một bàn tay
Trao cho nhau lời chúc tốt đẹp này :
“Chúc tất cả được bình an dưới thế”
*
Trang sử Việt dẫu bao lần hưng phế
Giang sơn dầu có thay chủ đổi ngôi
Thủy triều kia dù lên xuống sụt trồi
Nhưng hai chữ Tình Thương không thay đổi
*
Chúa hay Phật không bao giờ nói dối
Dạy con người nên gìn giữ thiện tâm
Khuyên chúng sinh sửa đổi những lỗi lầm
Hiểu “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”
*
Trời lắng dịu sau cơn mưa giông bão
Xuân sẽ về sau Đông lạnh âm u
Nắng sẽ lên khi thoát khỏi mây mù
Người hiểu Đạo sẽ tâm bình trí lạc
*
Năm cũ hết sẽ bước sang năm khác
Chúc mọi người được trí lạc thân an
Lòng Thiện Tâm rất đáng giá ngàn vàng
Chúa Phật sẽ ban phúc lành cho Bạn
*
Sương Lam
Mời quý thân hữu thưởng thức Thơ Nhạc Bài Tình Thơ Tháng Chạp- Thơ Sương Lam – Trinh Huỳnh thực hiện ảnh thơ
We wish you Merry Christmas Happy New Year Piano
Thứ Sáu vừa qua vì phải đi lảnh thực phẩm do Nhóm Sinh Hoạt Người Việt Portland phụ trách, nên người viết đành phải rời khỏi cuộc họp mặt thân hữu rất vui trên Zoom của Group Cô Gái Việt sớm hơn giờ kết thúc. Sau đó, người viết đi chợ Việt Nam để mua thực phẩm cho 2 tuần lễ sắp tới để giảm bớt việc ra đường trong thời buổi dịch Covid 19 vẫn còn đang hoành hành ở Portland nói riêng và ở xứ Mỹ nói chung.
Trên đường đi chợ, người viết nhìn thấy một bà cụ già khập khiễng bước chầm chậm đến trạm xe buýt với chiếc ghế đẩy có bánh xe lăn cô đơn một mình thật tội nghiệp vô cùng!
Người viết tự hỏi không biết bà cụ già này có con cháu gì không mà phải tự một thân một mình di chuyển khó khăn như thế khi tuổi già sức yếu. Nhìn hình ảnh đó, nguời viết thấy rằng đời sống con người không thể nào thoát khỏi vòng sinh, lão, bịnh, tử. Khi còn trẻ thì sức khỏe sung mãn, trí óc sáng suốt, tinh thần minh mẫn. Khi về già thì sức khỏe suy yếu, bịnh tật đủ thứ, trí nhớ sa sút, tinh thần hỗn loạn, bi quan.
Đời sống và cách suy nghĩ của con người cũng thay đổi tùy theo văn hóa, môi trường xã hội mình đang sống. Có nhiều bậc cha mẹ Việt Nam sống ở hải ngoại vẫn khư khư giữ lấy quan niệm, giá trị đạo đức Khổng Mạnh là con cái phải biết vâng lời cha mẹ, phải phụng dưỡng cha mẹ già với quan niệm “Dưỡng nhi đãi lão” hay “Trẻ cậy cha, già cậy con” ngày xưa, như thế mới là con có hiếu. Trong khi đó con cái lớn lên, học hành và trưởng thành nơi xứ người, hấp thụ cách giáo dục Tây Phương rất thực tiễn, tôn trọng đời sống cá nhân nên sự thông cảm giữa cha mẹ và con cái không thể nào đúng như lòng mong muốn của hai giới già và trẻ.
Người già thì bịnh tật, tinh thần yếu ớt, tình cảm cô đơn, thích được gần gũi con cháu nhưng con cái cũng có những lo lắng về gia đình, công ăn việc làm của chúng nên cũng không thể nào săn sóc cha mẹ chu đáo được nên cũng đành phải đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão mà thôi.
Trong hiện tại cứ hãy vui lên mà sống, còn viết văn làm thơ được thì cứ làm thơ viết văn, còn cắt cỏ làm vườn được thì cứ làm vườn cắt cỏ coi như mình đang tập thể dục cho khỏe người, còn đi “tiếu ngạo giang hồ” được thì cứ đi ta bà thế giới cho vui, kẻo mai kia chân giò yếu đuối, bịnh hoạn liên miên không đi đâu được nữa thì hối tiếc nhé. Smile!
Chúng tôi vẫn thường bàn với nhau “nhà ta, ta ở” cho đến khi nào già quá không thể tự chăm sóc cho mình được thì vào viện dưỡng lão ở vì đó là giải pháp tất yếu của hầu hết chúng ta. Kẻ trước người sau rồi cũng phải vào đó hết để chờ ngày đi đoàn tụ với ông bà, chạy đâu cho khỏi.
Chúng tôi cũng thường bàn nhau với bạn bè là có nên về ở chung với con cái hay không thì đa số cũng có cùng một ý kiến rất “cấp tiến” với tôi là “nhà ta, ta ở” vẫn hơn.
Xin mời bạn đọc cùng đọc với người viết đoạn văn như sau được người viết sưu tầm trên internet coi có đúng không nhé.
Nhà ta ta ở
“Trong đầu óc chúng tôi – những hội viên của hội lão này – cụ nào cũng có một vài ba cái kinh nghiệm của bà con, của bạn bè về những vụ ở chung với con cái. Chuyện nào cũng chẳng có happy ending gì hết, mà đều là bẽ bàng, dại dột. Bố hay mẹ góa, nghe lời ngon ngọt của con – trai hay gái – bán nhà, đem tiền về gửi con, rồi ở với con với cháu cho chúng nó có thì giờ trả hiếu. Nhưng chỉ chừng vài ba tháng trăng mật, khi chúng rút hết tiền trong két nhỏ cũng như «công» lớn, chúng bèn nhắc nhở, khách ở trong nhà giống y hệt như cá như tôm, chỉ đến ngày thứ ba là ươn, là thối sình lên rồi. Thế là ông bà già tức tưởi, khăn gói quả mướp ra đi với hai bàn tay trắng theo đúng nghĩa đen cũng như nghĩa trắng. Hỏi đến tiền chúng cứ tảng lờ như không hiểu bố mẹ nói gì. Cụ nào cũng tắc lưỡi nói, vẫn biết đây là chuyện hàng xóm, con mình chả đến nỗi thế, nhưng nó ở nhà mình thì mình là chủ nhưng nó vẫn coi là nhà của nó, nhưng mình ở nhà nó là không được, vì nhà nó là nhà nó, không phải là nhà mình, nó là chủ mà mình là người ở nhờ” (Ngưng trích Bà Ba Phải-Ở với ai?).
Người viết nói vòng vo tam quốc đã đời ở trên rồi chắc bạn cũng đã suy nghĩ và đã có ý kiến “Già Rồi Tôi Ở Với Ai” rồi chứ nhỉ? Hy vọng bạn sẽ chọn lựa đúng nhé.
Chúng ta sẽ chào mừng Chúa Giáng Sinh ra đời đem niềm vui và hạnh phúc đến cho muôn người Và Năm Mới sắp đến. Hy vọng những bậc cha mẹ đang ở nhà riêng hay đang ở viện dưỡng lão sẽ được con cháu đón về nhà sum họp gia đình vui vẻ bên nhau hay ít nhất con cháu hãy đến thăm cha mẹ già đang sống cô đơn nơi viện dưỡng lão nhé. Mong lắm thay!
Hy vọng những người con có cha mẹ già đang ở viện dưỡng lão đọc và suy nghĩ về cảm nghĩ của nhà văn Huy Phương dưới đây:
“Cứ vào “Pet-Abuse.com” chúng ta sẽ tìm thấy hàng nghìn trường hợp công dân Mỹ, già và trẻ, đàn ông lẫn đàn bà bị tù tội, phạt tiền vì bạc đãi, bỏ đói, đánh đập hoặc giết những con vật thân yêu trong nhà. Bỏ quên một bà mẹ già trong nhà dưỡng lão nhiều năm có phải là một trường hợp ngược đãi không? Chẳng lẽ là không? Vì nếu có, luật pháp đã bắt đứa con phải phạt vạ hay vào nhà tù”
Nhân mùa Giáng Sinh và Năm Mới sắp đến, người viết xin chúc tất cả quý bạn có những phút vui và hạnh phúc với người thân trong buổi tiệc sum họp gia đình của quý bạn. Bạn nhé!
Xin mời thưởng thức một Toutube vui về Xmas với hình ảnh dễ thương, vui vẻ để chúng ta có thể sống lạc quan thêm một tí nhé vì đời vẫn còn đẹp sao. Smile!
We Wish You A Merry Christmas | Super Simple Songs
Vợ chồng người viết cũng xin kính chúc quý thân hữu Một Mùa Giáng Sinh Vui Vẻ và Một Năm Mới nhiều sức khỏe, hạnh phúc nhé.
Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 594-ORTB 1019-122221Sương Lam
Vườn tao ngộ của quân trường Quang Trung
“Vườn tao ngộ” của quân trường Quang Trung năm xưa trong bài hát của nhạc sĩ Khánh Băng: “Vườn tao ngộ em đến thăm anh…”
Những người yêu nhạc vàng, đặc biệt là yêu các ca khúc viết cho lính, không ai không biết đến ca khúc Vườn Tao Ngộ được nhạc sĩ Khánh Băng viết với bút danh Nhật Hà. Ca khúc này trước năm 1975 cũng được những người quân nhân và người yêu của lính rất yêu thích.Vườn Tao Ngộ thuộc Trung tâm huấn luyện Quang Trung, là nơi mà người yêu, người vợ và gia đình các tân binh đến thăm những người lính trẻ đang được huấn luyện, sau những ngày gian khổ nơi quân trường.
Quân trường Quang Trung nằm trên một khu vực rộng lớn ở khu vực quận 12 ngày nay. Cùng với Trung tâm 3 tuyển mộ nhập ngũ thì quân trường Quang Trung trải dài từ Xa lộ Đại Hàn đến ngã 4 An Sương qua đến ngã 4 Trung Chánh.Nhắc đến quân trường Quang Trung là nhắc về 3 tháng thao trường của những chàng tuổi trẻ đã vi nước mà xếp bút nghiên theo nghiệp đao binh. Trung tâm huấn luyện Quang Trung là quân trường cấp quốc gia, nơi chuyên đào tạo và huấn luyện đến 80% các tân binh để cung cấp cho các quân, binh chủng của miền Nam.Vườn tao ngộ có tên chính thức là Vườn Cộng Hòa, là khu tiếp tân của quân trường là nơi ghi lại những hình ảnh rộn ràng, cảm động nhất vào mỗi ngày chủ nhật. Nơi đây đã chứng kiến những nụ cười, những giọt nước mắt lưu luyến của người tình, của cha mẹ, anh em, vợ con của người lính. Có thể nói tình yêu trong thời chiến là mối tình thiết tha nhất, vì nó mang cả tâm tình của người hậu phương gửi trao cho người ra tiền tuyến. Người lính không chỉ là người thân, người yêu, họ là niềm hãnh diện của gia đình và các người tình thiếu nữ. Trong cái nắng đổ lửa của quân trường, bóng người tân binh bên những tà áo dịu dàng của các thiếu nữ chợt ngọt ngào như một lời ước hẹn.
Vườn tao ngộ rộng khoảng 3-4 ha, có vài chục gian nhà và vườn hoa, và khi người thân đến thăm quá đông còn phải ngồi trải ra cả bãi cỏ mới đủ chỗ. Ở đây có gian nhà bán tạp hóa, giữa khu là rạp hát to với sân khấu rộng. Còn giữa sân trong cổng là sân khấu có hình giống như tháp eiffel lưng chừng để khán giả ngồi tứ phía xung quanh dự khán đều thấy rõ. Vào tối cuối tuần, sân khấu có tổ chức văn nghệ phục vụ cho thân nhân của tân binh. Vì thân nhân từ tứ phương miền trung, miền tây lặn lội đến thăm nên phải đến vào ngày hôm trước. Vì thế trong này có dựng những dãy nhà tiếp tân cho thân nhân từ xa tá túc qua đêm.
Mỗi ngày chủ nhật, tại vườn tao ngộ này, lính trẻ và thân nhân tha hồ mở lòng tâm sự cho bõ nhớ thương những ngày xa cách… khung cảnh này nhộn nhịp hơn cả ngày hội chợ tết:
Hôm nay ngày chủ nhật, vườn tao ngộ em đến thăm anh,
Đường Quang Trung nắng đổ xa xôi
Mà em đâu có ngại khi tình yêu ngun ngút cao lên dần…
Để đến được quân trường Quang Trung, thân nhân sẽ đi dọc theo con đường Quang Trung, rồi đường nối dài (nay là đường Tô Ký đi Hóc Môn). Từ những năm thập niên 1960, con đường này ít có cây to che bóng mát, lại rất vắng và thuộc vùng ngoại ô của đô thành nên “nắng đổ xa xôi”, nhưng bấy nhiêu thì đâu có làm chùng lòng được người con gái mang nhiều nỗi nhớ nhung.
Những cách trở đó có đáng là bao nếu so với sau này, sau khi xong 3 tháng quân trường thì người lính mới phải ra đơn vị, đường trần chia 2 lối xa xôi cách trở hơn rất nhiều lần:Ta nhìn nhau bâng khuâng,
đâu biết rằng chuyện đôi ta sẽ vui hay buồn?
Ngày mai ra đơn vị đường trần hai lối mộng thôi từ đây biết ra sao?
Nếu chúng mình ước hẹn, ngày tao ngộ xa quá anh ơi!
Thời gian xin lắng đọng đợi chờ để đôi tim ướp mộng đem tình thương tô thắm đôi môi hồng.
Những người thụ huấn ở quân trường Quang Trung thường rất trẻ, chưa bao giờ biết mùi của tử khí nơi chiến địa, chỉ vừa mới rời mái trường không lâu, nên cuộc đời vẫn còn pha chút sắc hồng, làm sao chịu nỗi những cô đơn hiu quạnh nơi quân trường khắc nghiệt, nắng dãi mưa dầm.
Đây một phong thư xanh trao đến người để quên đi những đêm quân trường sầu cô đơn hiu quạnh, vùi đầu bên chén trà tìm đọc thư em. Khi đó, tình yêu dành cho người em gái nhỏ chỉ vừa xa cách đôi ngày sẽ trở thành niềm an ủi cho người lính. Nếu ngày mai phải dầm mình trên chiến địa hãi hùng, thì lời hứa đợi chờ của người yêu phương xa trở thành động lực để chinh nhân cố gắng, hy vọng và mơ một ngày về trong thái bình: Anh ơi! Dù non sông cách trở.
Xin anh đừng quên bao kỷ niệm ngày nao hai đứa mình cùng nhau chung mái trường tuổi học sinh đẹp như gấm hoa.Anh đi ngày mai trên chiến địa.
Nơi đây, tình yêu em vẫn đợi.
Cầu xin non nước mình được yên vui thái bình, tìm trao ước hẹn hò.Trung tâm huấn luyện Quang Trung được người Pháp thành lập ngày 1 tháng 4 năm 1953, nằm tại vùng Quán Tre, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định, nên có tên ban đầu là Trung tâm Huấn luyện Quán Tre. Trên danh nghĩa là Quân trường của Quân đội Quốc gia nhưng vẫn do Quân đội Pháp điều hành huấn luyện và Chỉ huy trưởng. Đến năm 1954 mới chuyển cho Quân đội Quốc gia điều hành và huấn luyện.
Ngày 1 tháng 6 năm 1955, Trung tâm được đổi tên thành Trung tâm Huấn luyện số 1. Ngày 1 tháng 6 năm 1957, để kỷ niệm vị Anh Hùng Dân tộc vua Quang Trung, Tổng thống Ngô Đình Diệm ra quyết định cải danh Trung tâm thành Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Quang Trung. Sau đó con đường nối từ Ngã 5 Chuồng Chó đến trung tâm này cũng được đặt tên là Quang Trung. Cái tên này được giữ nguyên cho đến ngày nay.
Khoảng cuối thập niên 1960, cứ vào mỗi chủ nhật hàng tuần, nhạc sĩ Khánh Băng đều vào quân trường Quan Trung để thăm một người em họ đang thụ huấn tại đây. Ông đã chứng kiến những buổi tao ngộ đầy cảm xúc của các đôi tình nhân nơi đây nên đã ghi lại thành bài hát Vườn Tao Ngộ.
Ca khúc Vườn Tao Ngộ được ca sĩ Giao Linh hát trước năm 1975, rất được công chúng yêu thích. Nhưng phiên bản hay nhất của bài này có lẽ là Tuấn Vũ và Sơn Tuyền với phần hòa âm của Asia
Người Mẹ vĩ đại -Bài Đọc Cảm Động Tận Đáy Tim
Bài Đọc Cảm Động Tận Đáy Tim – Khuyết Danh
Không ai muốn đến gần, nhưng tình yêu của cô bị bịnh aids đã khiến tôi bật khóc!
Thông tin bệnh nhân AIDS chuẩn bị nhập viện sinh con đã khiến cả khoa sản náo loạn. Các y tá đồng thanh nói: “Ai sẽ chịu trách nhiệm trong trường hợp bị lây nhiễm?” Ngay cả một số bác sĩ cũng phản đối: “Nếu bệnh nhân khác bị lây nhiễm qua dụng cụ phẫu thuật và giường chiếu thì phải làm thế nào?”.
Sau một hồi tranh luận, cuối cùng bệnh nhân cũng được sắp xếp vào chiếc giường số 13, phòng cách ly đặc biệt của khoa sản. Khi trưởng khoa phân công trực ban, không ai muốn nhận vào trong đó. Cuối cùng chỉ còn lại tôi – một y tá vừa tốt nghiệp ba tháng, nơm nớp lo sợ bước vào căn phòng. Vừa vào tới phòng, người mẹ sắp sinh mỉm cười với tôi. Tôi cứ nghĩ rằng những phụ nữ mắc loại bệnh này hẳn sẽ phấn son trang điểm lòe loẹt. Nhưng không phải vậy, cô cũng như những người phụ nữ bình thường khác, khuôn mặt hiền từ, mái tóc dài ngang vai, chân đi đôi giày búp bê…“Cảm ơn cô!” Một giọng nói trong veo và nhẹ nhàng, cô là một phụ nữ bình thường nhưng lại mắc căn bệnh không hề bình thường chút nào.
Thì ra người mẹ trẻ tại giường số 13 này là một cô giáo trung học phổ thông. Một hôm trên đường từ trường về nhà, cô bị tai nạn xe hơi. Vì mất quá nhiều máu nên cô phải truyền máu gấp và không may bị nhiễm HIV. Đến tận khi cô đi khám thai, bác sĩ mới phát hiện cô đã mắc phải căn bệnh thế kỷ. Cuộc đời cô đã bước sang một ngã rẽ mới, ảm đạm và mờ mịt với kết cục buồn phía trước. Đáng thương nhất là đứa bé trong bụng, nguy cơ bị lây nhiễm cũng rất cao, xác suất không dưới 20% đến 40%. Người mẹ không còn hệ thống miễn dịch, vì thế các biến chứng trong quá trình sinh là vô cùng nguy hiểm.
Khi chồng cô đến đã khiến cho cả khoa một phen kinh ngạc. Chồng của một phụ nữ bị AIDS thì trông thế nào nhỉ? Khác xa với tưởng tượng của chúng tôi, chồng cô là một nhân viên văn phòng giỏi máy tính, đeo kính cận, cao ráo, lịch sự, và có phong thái rất đĩnh đạc. “Anh à, anh đoán xem con chúng ta sẽ giống em hay giống anh hơn?” Tôi đang trải ga giường, nghe thấy những câu nói nhỏ nhẹ nỉ non của đôi vợ chồng trẻ thì sống mũi cay cay, nước mắt bắt đầu rơm rớm. Thì ra họ là một gia đình hạnh phúc. “Tất nhiên là giống anh rồi, nếu là con gái thì mới giống em chứ!” Cô vợ nghe vậy còn phụng phịu làm nũng ra điều không chịu. Khi tôi bước ra khỏi phòng bệnh, nước mắt tôi chảy dài, trái tim tôi chua xót vô cùng.
Hàng ngày cô ấy phải uống nhiều loại thuốc khác nhau để kiểm soát lượng virus HIV, hầu như ngày nào cũng phải lấy máu và truyền dịch. Hai cánh tay đầy đặn, nõn nà nay đã chi chít những vết kim tiêm. Tôi là y tá mới ra trường, vốn sống còn ít ỏi lại khá “nhát gan”. Nhất là những lúc lấy máu, tôi vẫn thường làm cô ấy đau đến chảy nước mắt, nhưng cô chưa bao giờ nổi cáu với tôi, chỉ âm thầm cắn răng chịu đựng, thỉnh thoảng còn mỉm cười nói ‘không sao’.
Chỉ vài ngày sau khi cô nhập viện, tôi dần dần rất thích cô ấy.
Tuy còn vài ngày nữa mới đến ngày sinh, nhưng cả khoa đã chuẩn bị sẵn sàng. Cô năm nay đã 31 tuổi lại mang trong mình căn bệnh AIDS, nên bệnh viện cả trên lẫn dưới đều trong trạng thái đề phòng cao độ.
Nhưng bản thân cô lại rất bình tĩnh, hàng ngày đều đọc sách và nghe nhạc, còn viết thư tình hoặc vẽ tranh tặng con yêu.
Một hôm tôi đánh bạo hỏi, tại sao cô lại sinh đứa bé ra, rằng cô có biết nguy cơ lây nhiễm là rất cao? Cô vừa mỉm cười vừa trả lời tôi: “Con tôi đã đến với tôi, đó là duyên nợ, hơn nữa tôi không có quyền cướp đi sinh mệnh của bất kì ai.” Tôi do dự, nhưng vẫn quyết đinh hỏi: “Nếu cháu bị nhiễm HIV thì sao?” Cô ấy im lặng một lúc, sau đó tiếp tục nói: “Nếu không thử thì con tôi sẽ không có cơ hội sống nào.” Tâm trạng tôi vừa buồn vừa xót xa, không khí trong căn phòng trở nên ngột ngạt.
Khi tôi chuẩn bị ra ngoài, cô đã nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi, đôi mắt rưng rưng và nói:“Tôi muốn nhờ cô một việc, khi tôi sinh con dù có xảy ra chuyện gì, chồng tôi nhất định sẽ cứu lấy tôi. Nhưng tình trạng của tôi cô cũng biết rồi đó, vì thế nếu thực sự xảy ra chuyện xấu, xin hãy cứu lấy con tôi.” Tôi cảm động ôm cô và khóc, cô đúng là một người mẹ thực sự.
Dưới ánh đèn huỳnh quang nhạt màu, cô nằm yên lặng trên bàn mổ, thân dưới không ngừng chảy máu, nước ối vẩn đục đã ộc ra. Điều này có nghĩa là thai nhi đang lâm vào tình trạng nguy hiểm vì thiếu oxy. Thể chất của cô vô cùng đặc thù, không hề có phản ứng với thuốc tê, chỉ có thể chọn mổ sống để lấy thai nhi ra và chấp nhận hy sinh người mẹ. Hai là tiêm thuốc gây mê, nhưng đợi khi thuốc có tác dụng thì em bé trong bụng đã bị ngạt thở hoặc bị sốc vì liều gây mê quá cao, nhưng chỉ như vậy mới có hy vọng cứu được người mẹ. Cả hai trường hợp đều khiến bệnh viện và gia đình lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan.
Cô nắm chặt tay tôi, đôi mắt nhìn tôi như van nài, giọng nói yếu ớt nhưng rất kiên quyết: “Cứu lấy con tôi, nhanh cứu lấy con tôi, không cần phải quan tâm đến tôi…!”Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến cái nhìn tuyệt vọng đến vậy, trong một căn phòng cũng tuyệt vọng như thế. Một người phụ nữ không thể gây tê, cũng không thể gây mê khi mổ đẻ, bao nhiêu bác sĩ đứng đó đều bất lực.
Con dao phẫu thuật nhanh chóng được đưa xuống bụng dưới, lớp da, lớp mỡ, lớp cơ, niêm mạc rồi tử cung… Người mẹ co giật từng cơn, toàn thân giãy giụa, quằn quại, mắt trợn ngược, khuôn mặt biến dạng vì đau đớn, miệng cắn chặt chiếc khăn trắng và rên lên từng cơn xé lòng. Tôi không thể chịu nổi khi chứng kiến những giọt nước mắt của cô rơi xuống lã chã. Và tôi biết, đó không chỉ là đau đớn mà còn là tình yêu của người mẹ. Đến tận hôm nay tôi mới hiểu vì sao làm con phải hiếu thảo với cha mẹ. Bởi mỗi đứa con chào đời là biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu nhọc nhằn, thậm chí là hy sinh cả tính mạng của mẹ. Cuối cùng, thai nhi đỏ hỏn cũng được đưa ra và khóc lên tiếng khóc yếu ớt đầu đời. Người mẹ vừa ngất lịm đi, đột nhiên nghe thấy tiếng khóc của con nên cô cố gắng hé mở đôi mắt liếc nhìn về phía con yêu, nhưng rồi mí mắt sưng húp nặng trịch lại vội vã cụp lại. Tôi vội vàng tháo đai cố định ở chân và tay cho cô, vì gồng mình vật lộn với cơn đau, cổ tay cổ chân cô đều rớm máu. Hai mắt tôi đẫm lệ, trái tim tôi cũng như thắt lại…
Thật khó để tin rằng đây là một người mẹ AIDS, lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng nhìn thấy con trai của mình. Đôi mắt cô nhắm lại và sẽ không bao giờ còn mở ra được nữa. Cô bị nhiễm trùng nặng và không thể cầm được máu nên đã mãi mãi ra đi. May mắn là em bé âm tính với virus HIV. Tôi tin rằng ở trên cao kia, cô cũng đang mỉm cười mãn nguyện.
Khi làm vệ sinh phòng bệnh, tôi đã tìm thấy một lá thư dưới gối của cô, bên trong còn vẽ một bức tranh ông mặt trời, bên dưới mặt trời là một đôi tay nhỏ. Cô viết cho con trai rằng: “Con yêu, cuộc sống giống như mặt trời, hôm nay lặn xuống ngày mai nhất định sẽ lại lên.” Tôi không thể ngăn những giọt nước mắt, cuộc sống thật quá mong manh và cũng thật mạnh mẽ. Người mẹ nào mà chẳng thương con? Vậy cớ sao chúng ta lại phải phân biệt đối xử?
Cuối cùng tôi đã hiểu, cô cũng như những người mẹ bình thường khác, dũng cảm để giành lấy sự sống cho con.
Khi đứa bé được xuất viện, cháu nằm yên bình trong vòng tay cha. Ban đầu đứa trẻ khóc rất to, giống như biết mẹ nó sẽ không bao giờ còn quay về nữa. Nhưng nó chợt ngừng khóc khi tôi đặt bức thư lên ngực. Dường như trong lòng bé cũng đang mỉm cười khi nhận lấy cuộc sống vĩnh cửu này. Mai này lớn lên em sẽ biết rằng, mẹ của em là người mẹ vĩ đại nhất trên đời.
Khuyết Danh
Vài Cảm Nghĩ Về Cơ Sở “Văn Thơ Lạc Việt”
Tôi gia nhập làm hội viên của Văn Thơ Lạc Việt từ cuối năm 2016.
Được biết Văn Thơ Lạc Việt thành lập năm 1992 do các nhà văn, thi sĩ: Hoàng Anh Tuấn, Hà Thượng Nhân, Dương Huệ Anh, Thượng Quân và Chu Toàn Chung. Ban cố vấn gồm có: nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, nhà văn Vũ Văn Lộc, Bình luận Gia Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, nhà thơ Ngô đình Chương và nữ sĩ Trùng Quang.
Có bốn thời gian thay đổi chức vụ chủ tịch, bao gồm:
Nhà văn Dương Huệ Anh 1992_ 2000 (Tổng Thư Ký: Thi sĩ Song Linh).
Nhà thơ Đông Anh 2001_ 2008 (Tổng thư ký: Chinh Nguyên)
Nhà văn Chinh Nguyên 2009_ 2019 (Tổng thư ký: văn thi sĩ Thanh Xuân)
Nhà báo Lê văn Hải 2020 (Tổng thư ký: VTS Thanh Xuân)
Khi tôi bắt đầu tham gia thì nhà thơ Chinh Nguyên là Chủ tịch của cơ sở Thơ Văn Lạc Việt. Thời điểm này có tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng (phó ban ngoại vụ), nhà báo Lê văn Hải (phó ban nội vụ), thầy Phạm Thái (lo kỹ thuật phụ trách mục in ấn sách), nhà thơ Lê Tuấn (trưởng ban Media) quay phim làm video, anh Đom Đóm phụ thêm phần chụp hình, nhà thơ Mạc Phương Đình hổ trợ gom hình, quay phim làm phóng sự, anh có trang nhà Mây Bốn Phương cũng như Suối Nguồn Tươi Trẻ giới thiệu thơ văn thêm rộng rãi. Cô Thanh Xuân (tổng thư ký) bàn góp ý tưởng rất hay nhằm tạo sự thân mật trong hội, tổ chức sinh nhật mỗi quý (3 tháng) cho hội viên. Chị Thuý Nga trưởng ban văn nghệ tìm kiếm ca sĩ địa phương giúp phần ca nhạc trong các buổi ra mắt sách hoặc các buổi họp mặt sinh nhật. Anh Hoàng Thưởng lo phần nghi lễ chào cờ Việt Mỹ và tưởng niệm, chưa kể đến cô Tina thường đi vận động tài chánh từ những mạnh thường quân có cơ sở thương mại.
Kể về anh Nguyễn Hồng Dũng là người tài giỏi, thường hướng dẫn chương trình với lối ăn nói khéo léo tài tình, anh ăn chay trường tâm Phật, ý Phật nên từng lời nói luôn hoà nhã, hiền hoà đầy thiền đạo, bên cạnh đó cô MC Hạnh Thảo tươi đẹp duyên dáng phụ phần giới thiệu.
Hội trưởng Chính Nguyên có nét mặt rất hiền hậu luôn sáng tạo những điều tốt đẹp cho hội viên, cũng như sốt sắng giới thiệu các tác phẩm của văn nhân thi hữu…Làm sao quên được những đêm mùa đông lạnh lẽo, anh Chinh Nguyên đã nhờ Thầy Thái mở lớp dạy Computer cho hội viên, lúc mượn địa điểm nơi này, khi mượn nơi khác. Trời giá lạnh bên ngoài, tuy thầy Thái đi dạy nhiều nơi mệt nhọc, đến giờ cơm tối cũng chưa về nhà, vẫn cố gắng đến chỉ vẽ hướng dẫn cách làm sách và in ấn. Anh Chinh Nguyên luôn có mặt kèm nụ cười thân thiện khuyến khích hội viên. Sau buổi học (9 giờ PM) anh CN mời thầy Thái đi dùng cơm tối vì lo lắng bao tử Thầy đang gào đói, thầy Thái xua tay và cả hai cùng cười trong niềm hân hoan ngầm rằng đã làm điều bổ ích cho đời. Thời gian sau anh Chinh Nguyên đích thân sang sửa lớp học tại nhà, kể thêm nhà thơ Lê Tuấn cũng đem tài năng làm video, quay phim của mình muốn truyền đạt cho hội viên kèm sau giờ học của thầy Thái.
Cựu Hội Trưởng Chinh Nguyên và phu nhân
Những buổi hội họp, anh Thái NC và chị Thanh (phu nhân hội trưởng Chinh Nguyên) nhận nhiệm vụ đi đưa đón các bậc tiền bối đến dự như bác Trường Giang, bác Dương Huệ Anh, bác Diệu Tần nay đã lớn tuổi. Đối với tôi đây là những người góp công với tấm lòng đầy nhân hậu đáng quý, và cảm kích hơn nữa là hội trưởng Chinh Nguyên luôn quý trọng “ôn cố tri tân” những bậc trưởng bối đi trước.
Tôi thầm phục thêm tài tổ chức của hội trưởng Chinh Nguyên, ngoài các ban còn có ban xã hội do chị Lê Diễm làm trưởng, rất tình nghĩa đẹp mắt khi thấy ban điều hành gởi vòng hoa cũng như thăm đám nhà Quàn, hay quà bánh trái cây thăm người bệnh lớn tuổi.
Chưa hết… anh Chinh Nguyên còn tìm kiếm xã giao với đài VNA (Vietnamese America Tivi) được đài cho free nửa tiếng vào thứ ba, thứ bảy lúc 9 giờ tối (channel Nam Cali 57.3, Las Vegas 26.9 và San Jose 16.10), mục đích đưa những hình ảnh sinh hoạt của Văn Thơ Lạc Việt, hoặc những buổi phỏng vấn tác giả & tác phẩm thơ văn đến quý độc giả, mọi điều thật may mắn và hữu ích đối với VTLV.
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng, Tân Hội Trưởng Lê Văn Hải, cựu Hội Trưởng Chinh Nguyên nhận bằng khen từ Dân Biểu Tiểu Bang David Cortese
Đầu năm 2021 nhà báo Lê văn Hải (phó ban nội vụ) theo sự bầu báng lên nhận trách nhiệm làm hội trưởng cơ sở Văn Thơ Lạc Việt, vì anh Chinh Nguyên trải qua cơn bệnh không thể điều hành tiếp, dù anh đã lái con thuyền gần 10 năm, nhưng không vì vậy anh lui vào bóng tối, mà anh còn cố vấn cũng như giúp đỡ nhiều mặt sau lưng hội trưởng mới.
Biết anh Hải từ lâu trong cộng đồng tỵ nạn tại miền thung lũng hoa vàng, qua những lần anh tổ chức ngày Thương Phế Binh và ngày Lễ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 6, cũng như tổ chức phát quà, phát thức ăn mỗi tháng hai lần cho homeless. Tâm anh rất rộng rãi và tình cảm đầy ắp, anh làm ra tiền nhưng muốn cả làng đều hưởng ké, nên mỗi quý sinh nhật (3 tháng) tổ chức cho hội viên, anh bao thầu đãi nhà hàng, cùng quà cáp tặng thành viên có ngày sinh nhật. Mùa Lễ Giáng Sinh anh làm ông già Noel đứng phát quà và chơi sổ xố. Lúc ra mắt sách anh vẫn muốn tiếp tục đãi nhà hàng nhưng các anh chị cản ngăn thì anh lại tổ chức tại quán cà phê Lover bao nước uống và bánh ngọt. Mùa hè vừa qua anh thấy nhớ hội viên vì Covid ngăn cản đã lâu gần một năm rưỡi, nên muốn họp mặt và đã đãi tiệc trịnh trọng như tiệc cưới tại nhà hàng Phú Lâm.
QUÂN TỬ
(Trânkính tặng vị Mạnh Thường Quân ẩn danh của Văn Thơ Lạc Việt)
Thung Lũng Hoa Vàng, chốn địa linh
Cali Miền Bắc, đất ân tình
VĂN THƠ hải ngoại phò thăng tiến
LẠC VIỆT nhà Nam giúp trưởng sinh
Quân tử hùng tâm bừng rỡ rỡ
Hiền tài tráng chí tỏa minh minh
Thi ân danh nặc, rời khen tụng
Làm nghĩa không tên, né hiển vinh
Phương Hoa
Họa
Văn Thơ Lạc Việt
Hoa vàng thung lũng đẹp huyền linh
Buổi tiệc trao nhau đậm nghĩa tình
Lạc Việt ra công gìn sống tốt
Thi đàn cố sức giữ tồn sinh
Văn chương khỏa bút tràn mây rực
Điệu phú đua ngòi ngập ánh minh
Hai chín năm tròn mùa kỷ niệm
Người hùng hổ trở chẳng cầu vinh
Minh Thuý Thành Nội
Nghĩ nghĩa cử hào phóng rộng rãi của anh Hải làm tôi nhớ thêm nhiều chuyện… Có đêm đi dự tiệc chay tại nhà hàng Phú Lâm do Chùa Thiên Trúc tổ chức gây quỹ, ngồi bàn trong tôi thấy anh đội chiếc mũ lụp xụp đứng nơi quầy, tưởng anh cũng dự tiệc chung, ai dè tôi phải về sớm nhà anh Chinh Nguyên dự họp thì thấy một giàn thức ăn bày trên bàn, mới hiểu anh lo dùm bao tử của hội viên. Chưa hết, một lần trong màn cuối buổi lễ QLVNCH lúc người tham dự còn ở lại đông, anh Hải nhảy lên khán đài mời bà con đến phở Bằng dùng trưa free. Kể thêm chuyện Cộng Đồng…tuy anh Hải yêu cầu giấu tên, nhưng rồi ai ai cũng biết anh là “mạnh thường quân” luôn ủng hộ nhiều hội đoàn hay những nhóm hoạt động thiện nguyện hoặc việc ý nghĩa như thời gian vừa qua.
Tánh tình anh rất khiêm nhường và hoà nhã, đôi khi có tiếng chày tiếng bấc từ đâu đem đến nhưng anh luôn im lặng không muốn hơn thua ai, ngoại trừ nhắc đến Việt Cộng mới nghe anh phát âm hơi mạnh.
Thời gian anh Chinh Nguyên làm hội trưởng và anh Hải hội phó, cơ sở VTLV đã cho ra đời mỗi năm một tuyển tập thơ văn gồm:
Tuyển Tập “Đoàn Kết Và Xây Dựng” (năm 2017)
Tuyển Tập “Bảo Tồn Việt Tộc” (năm 2018)
Tuyển Tập “Văn Thơ Lạc Việt” chủ đề “Áo Dài” (năm 2019)
Tuyển Tập “Quê Hương Và Nỗi Nhớ” (năm 2020)
Gồm bài vở từ những nhà thơ nhà văn tiền bối nổi tiếng cũng như các thân hữu, hội viên của cơ sở Thi Đàn tham gia đóng góp thành tâm thành ý liên tục. Hơn nữa là công lao của ban điều hành tiếp tay góp ý và năng nổ hoạt động cũng như sự hy sinh công sức, hổ trợ về mặt tài chánh để đạt thành quả tốt đẹp.
Điều đặc biệt khi anh Hải lên làm hội trưởng thì cô Tracy Trần giữ chức vụ thủ quỹ, và được sự trợ duyên lớn là thầy Thái làm trưởng Ban Biên Tập cùng chị Phương Hoa làm Phó Ban Biên Tập. Thầy Thái hiền lành ít nói chỉ bày tỏ chân tình qua công việc. Chị Phương Hoa tài năng xuất chúng, thơ một kho và văn một núi, đã từng đoạt nhiều giải nhất từ Văn Thơ Lạc Việt và Việt Báo mục “Viết Về Nước Mỹ”. Đối với người càng già trí óc chất xám càng giảm, nhưng chị Phương Hoa càng lớn tuổi càng thông minh sáng láng, đó là phước báu trời cho dễ mấy ai có được. Thầy trò hợp lực nhanh chóng kêu gọi bạn bè hội viên đóng góp bài vở về chủ đề Xuân, cố công đêm ngày trong thời gian ngắn cho ra đời Đặc San Xuân Tân Sửu 2021 được in bìa và trình bày rất mỹ thuật cùng nội dung phong phú.
Thầy Phạm Thái và Văn Thi Sĩ Phương Hoa
Giữa năm theo gợi ý thầy Tuấn về đề tài Thiền, ban Biên Tập cũng như Ban Điều Hành và hội viên, nhất là hội trưởng Lê Văn Hải đã ủng hộ hết mình về tài chánh, cổ võ tinh thần mọi người đóng góp bài vở. Anh theo đạo Công Giáo nhưng rất tôn kính về đề tài này …Khi cuộc sống đang gặp nạn Covid hoành hành khắp thế gian, bao nhiêu tai họa đổ ập xuống loài người, mọi sinh hoạt gần như ngưng hoạt động, tâm tư con người đầy lo âu rối loạn, thì đề tài về “Thiền” như dòng suối mát cho ta được ngâm mình dịu vợi theo những áng thơ, những câu văn xoa dịu tinh thần biết bao nhiêu, há chẳng phải là điều lợi lạc hay sao?!!!
Cho nên tuyển tập “Sống Với Tâm Nhàn” được thành hình ra mắt chiều Chủ Nhật ngày 26 tháng 9 năm 2021 tại quán Cà phê Lovers nằm trên đường Aborn thuộc thành phố San Jose, được nhiều văn nhân thi sĩ đóng góp bài vở. Điều biết ơn sâu sắc là nhờ thầy Thái, thầy Tuấn, chị Phương Hoa đã ngày đêm gom bài vở từ mọi nơi, edit và trang trí hình ảnh trang nhã trông thật mát mắt và phẩm lượng đầy giá trị.
Tại đây tôi tìm được thật nhiều niềm vui, được trao đổi thơ văn, được đọc những bài giá trị mở mang kiến thức và học hỏi thêm về thi phú từ các tiền bối. Cuộc sống nơi xứ người trong những ngày tháng lo toan cơm áo gạo tiền, giờ tìm được ngôi nhà đầy ánh nắng ấm áp che chở, những tâm hồn đồng điệu về thi phú cũng như chung chí hướng chống Cộng và giữ gìn nâng niu chữ quốc ngữ thân yêu. Một cơ sở văn học bảo tồn tiếng Việt trên xứ người nhưng đồng thời cũng là một mái ấm tình thương mà các hội viên được đối xử thân tình như trong gia đình.
Có Những Niềm Vui
Có những niềm vui mát mộng đời
Lan vào tim mạch khó nhoà vơi
Ân tình một sớm tràn chim hót
Vạt nắng thu phai đẹp cuối trời
Có những niềm vui dệt nụ hồng
Hương lùa gió quyện thả mênh mông
Hạt nhân hạnh phúc đường hoa nở
Kết nối yêu thương nghĩa phủ lồng
Có những niềm vui thật nhẹ nhàng
Như cung nhạc trỗi dậy đàn vang
Chung lòng gắn bó câu đoàn kết
Hợp sức tài văn bút phú tràn
Có những niềm vui chứa ảnh hình
Sách, quà sổ số thật xinh xinh
Màu Lan sắc thắm nồng chan chứa
Hội ngộ tương giao quý mến tình
Có những niềm vui trọn vẹn đầy
Văn Thơ Lạc Việt lắm trò, Thầy
Cùng nhau sát cánh gìn ngôn ngữ
Tiếng mẹ quê mình quyết bảo xây
Minh Thuý Thành Nội
LẠC VIỆT VĂN THƠ (Góp vui cùng MT)
LẠC VIỆT VĂN THƠ giúp đẹp đời
Cho dù năm tháng thể nào vơi
Trời thu man mác tình ngan ngát
Họp mặt niềm vui rực đất trời
LẠC VIỆT VĂN THƠ đẹp sắc hồng
Ảnh hình ghi nắng trải mông mông
Nâng ly ta chúc lời thân ái
Chào đón PHAN LANG gió quyện lồng
LẠC VIỆT VĂN THƠ bước nhịp nhàng
Thi văn nhạc họa tiếng lành vang
Bốn mùa muôn sắc hoa đua nở
Năm tháng niềm vui tỏa ngập tràn
LẠC VIỆT VĂN THƠ chốn điển hình
Kỳ hoa dị thảo ngập vườn xinh
Cùng nhau vun bón luôn tươi thắm
Huynh đệ đối nhau rất trọn tình
LẠC VIỆT VĂN THƠ hợp đủ đầy
Thi nhân, văn sĩ, đến cô, thầy
Bảo tồn Quốc Ngữ dân Hồng Lạc
Hải ngoại tình người kết nối xây.
Phương Hoa
Từ trái: AnhChinh Nguyên, chị Thuý Nga (trưởng Ban văn nghệ), nhà thơ Mạc Phương Đình, cô Tina (Vận động Tài Chánh), anh Hồng Dũng và anh Hải.
Từ trái Cựu Chủ Tịch Chinh Nguyên và Phu Nhận, Cô Tổng Thư Ký Thành Xuân và Phu Quân, cô MC Hạnh Thảo và Cô Tuyết Nhung (nhiếp ảnh gia)
Xuân Hạ Thu Đông lần lượt đi qua theo bước thời gian, phút rộn ràng buổi ra mắt sách, phút hân hoan lãnh quà sinh nhật, những buổi chung hưởng niềm vui dự lễ kỷ niệm 28 năm thành lập Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, những năm dự buổi phát giải thưởng sáng tác thi văn tràn hãnh diện, cảm giác luôn đọng mãi, lâng lâng niềm an ủi của đứa con xa quê hương, mồ côi cha mẹ, nhưng tìm được bóng mát nương tựa đầy ấm áp nơi tha phương, tôi chỉ biết nói lời chân thành
Cám ơn Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt
Hội Viên
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 12/202
VĂN – HÃY KHÓC CHO QUÊ HƯƠNG- Phạm Đoan Trang- Giao Chỉ San Jose
MÙA XUÂN LÀ MÙA HY VỌNG – Kiều Mỹ Duyên
***
MÙA XUÂN LÀ MÙA HY VỌNG
KIỀU MỸ DUYÊN
Hoa mai rực rỡ đón chào mùa Xuân, mùa hy vọng.
Thời gian qua rất nhanh, không đợi chờ mà Xuân cũng đến. Mọi người chuẩn bị đón Xuân, đêm 30 Tết đón Giao Thừa, đến chùa, nhà thờ hay những nơi tôn nghiêm để cầu nguyện cho người thân của mình. Những ngày trước Tết ai cũng bận rộn, Tết Việt Nam khác với Tết ở hải ngoại, nhiều khi không vào ngày cuối tuần thì vẫn đi làm, có người xin nghỉ việc, có người mới vào làm không dám xin nghỉ việc, sợ mất việc thì khổ. Từ Giáng Sinh đến Tết nhà nào cũng sửa soạn thật đẹp, cây thông, hoa ở vườn, hay trái cây ở vườn đợi cho chín, hái cúng ông bà của mình, mua sắm hàng giảm giá, mục này hấp dẫn nhiều người, những người lớn tuổi không quan tâm quà cho chính mình nhưng phải để ý con cháu hay người thân của mình cho nên cũng đi mua sắm, say mê mua sắm thì tốn tiền, lấy tín chỉ ra mua rồi suốt năm làm trả nợ. Thường thường thì vào những ngày lễ, ngày Tết ai cũng nghĩ đến người thân của mình và những người làm ơn cho mình suốt năm qua, dù nghèo hay giàu cũng phải có những món quà nho nhỏ, tỏ tấm lòng biết ơn của mình. Chúng tôi làm thương mại mấy chục năm qua, cũng nhờ sự thương yêu của đồng hương mà mới tồn tại cho đến ngày hôm nay, nếu nói về ân nghĩa thì kể sao cho hết, từ các vị lãnh đạo tôn giáo, đến những người làm việc với mình, bao giờ Tết chúng tôi cũng đi đổi tiền mới, không bao giờ mua vé số, vì tôi biết mình không trúng số đâu và lại nhìn thấy những người trúng số sự bất hạnh chợt đến cho nên cũng không mua vé số và cũng không mong trúng sổ số, thỉnh thoảng có người tặng nhưng chỉ trúng $10 mà thôi. Quan tâm đến tất cả mọi người xung quanh, người bỏ báo mỗi buổi sáng, người quét dọn văn phòng, người làm vườn cắt cỏ, người sửa xe, nhạc sĩ, ca sĩ, cho tôi nhạc, những tác giả cho tôi những sáng tác mới hay những quyển sách dịch hay, những người bạn ở xa về Orange County thường cho tôi những món quà quý báu ở địa phương đang ở. Ân tình làm sao kể hết! Bệnh nhân ở bệnh viện, viện dưỡng lão cho tôi những nụ cười thật tươi trong những buổi chiều tôi vào thăm. Những vị lãnh đạo tinh thần mỗi lần nói chuyện xong bao giờ cũng nói: – Tôi cầu nguyện cho sức khỏe của chị. Những lời quý báu, vô giá, tiền không mua được lời cầu nguyện. Tôi thường nói với nhân viên của mình: – Ở làm sao cho đồng bào thương thì mình không bao giờ đói. Đói làm sao được ở xứ này? Một xứ sở của cơ hội, cơ hội học hỏi, cơ hội làm giàu. Người Việt tị nạn không có nhiều tỷ phú nhưng triệu phú thì nhiều lắm, đếm không hết như một chàng trai trẻ, 32 tuổi ở Floria từ hai bàn tay trắng trở thành triệu phú nhanh nhất thế giới, đó là Peter Nguyễn, 18 tháng lợi tức 100 triệu Mỹ Kim. Tỷ phú Trung Dung, 30 tuổi bán cổ phần một tỷ 850 triệu.
Tỷ phú Trung Dung và Kiều Mỹ Duyên
Có lần Trung Dung nói với tôi: – Chị hỏi em ít thôi, 5 phút, em chỉ làm việc được, mà không nói nhiều. Em là người Chàm. Còn rất nhiều người Việt Nam giàu lắm, mà tôi được hân hạnh phỏng vấn cho đài truyền hình, cho đài phát thanh và báo chí. Rất nhiều di dân giàu, tị nạn giàu ở Mỹ hay đến từ các quốc gia khác. Ở đây chúng tôi muốn nói những người giàu là người Việt Nam, vẫn hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, vẫn mộ đạo và có lòng nhân ái. Dù ở đâu trên rừng sâu, núi thẳm hay ở biển cả, nếu có lòng thì với hai bàn tay và khối óc nhỏ bé của mình vẫn giúp người khác được, giúp những người xung quanh mình và bà con thân nhân mình đang ở Việt Nam. Một hôm, tôi đến chùa Điều Ngự vào buổi tối để thu hình. Chùa đang xây cất, nhưng Phật Tử ra vào tấp nập, người thì lo nấu ăn, người thì lo xếp ghế cho buổi cầu nguyện sắp tới. Phu nhân của cố luật sư Phạm Kính Vinh, hiền lành, làm việc không ngừng nghỉ, ít nói, nhưng tận tình với công việc. Sáng nào chị cũng đến chùa làm công quả, tối về nhà và cứ như thế làm việc từ ngày này qua ngày kia không mệt mỏi, không than phiền. Nhiều nữ Phật tử từ xa như Los Angeles, Riverside, San Diego cũng đến. Lòng mộ đạo của mọi người làm cho tôi cảm phục. Nhiều người nói: Hòa Thượng Viên Lý và Hòa Thượng Viên Huy có phước, Phật tử nhiều nơi xa về đây cúng đường, lễ Phật. Các thầy bận lắm, nhất là cầu nguyện cho những gia đình có người thân vừa qua đời. Người lãnh đạo tôn giáo không bao giờ nghỉ ngơi, vì ngày nào cũng có Phật tử mất, càng ngày thì đám tang càng nhiều. Viện chủ của chùa đâu thể bỏ Phật tử của mình mà không lo, nhất là cầu siêu cho người qua đời, cầu an cho người đang nằm bệnh viện, bao nhiêu thứ phải lo. Vất vả nhất là những vị viện chủ đang xây chùa, hàng trăm thứ phải lo, giấy phép, tiền để xây cất, nhiều thứ làm quý vị ơi. Chúng tôi cầu nguyện và mong mọi sự tốt đẹp sẽ đến cho các chùa đang xây cất, tốn tiền nhiều lắm. Mong trời Phật phù hộ cho những vị có lòng, cho ân nhân, cho viện chủ của chùa, cho Phật tử bình yên, sức khỏe để lo Phật sự. Thỉnh thoảng chúng tôi đi theo phái đoàn Phật Tử của chùa Bảo Quang ở Santa Ana đi cho cơm cho những người không nhà ở công viên. Người không nhà gồm đủ thành phần: già trẻ, đàn ông, đàn bà, v.v. Họ nằm dưới cỏ, ngồi dưới gốc cây, nói chuyện vui vẻ, di chuyển từ nơi này đến nơi khác hàng tuần. Nhiều phái đoàn Việt Nam cho cơm, như chùa Bảo Quang thì có cơm chay, gồm nhiều món, cơm chiên, nước ngọt, trà, nước lọc. Người không nhà đứng xếp hàng tử tế, không ai chen lấn, nói năng lịch sự, có người bồng con nhỏ trên tay. Với 31 năm quen người không nhà, cảm nhận được thân phận con người, có ai mà không mong có công ăn việc làm, mái ấm nhà êm, nhưng không phải ai cũng được như thế? Tôi đã từng đi theo các phái đoàn cho cơm cho người không nhà ở San Jose, Santa Ana, Garden Grove, nhiều nơi tôi đến, tôi đều được nghe những tiếng nói reo vui, tiếng cười rộn rã, sống hôm nay không biết ngày mai ra sao nhưng họ vẫn cười, không có gì để lo, ăn ngày hôm nay no bụng đã ngày mai sẽ tính sau. Những người nấu cơm ở chùa Bảo Quang rất dễ thương, mùa hè có khi trời rất nóng nhưng họ vẫn vui vẻ làm việc từ thiện với trái tim của mình. Có người nấu cơm rồi đến tận nơi công viên xới cơm cho người homeless, có người nấu cơm rồi về nhà, vì mệt quá không đi nổi nữa. Người nấu cơm vui vẻ, người ăn cơm miễn phí vui vẻ, tất cả đều hòa điệu như hơi thở, như nhịp đàn, tình thương nhân loại đưa người nấu cơm và người ăn cơm gần với nhau thông cảm và thương yêu nhau. 31 năm cho cơm cho người không nhà, thời gian này dài lắm, nhưng chùa Bảo Quang và Phật tử của chùa vẫn tiếp tục làm việc, tôi nhìn thấy có người đem bầu, bí, mướp, trái cây, rau cải đến chùa tặng cho người không nhà. Trong những người làm việc công quả này có người đã qua đời, có người tiếp tục làm việc từ thiện, người này đi thì có người khác đến. Một lần, chúng tôi mời Hồ Đắc đến thăm người không nhà, từ đó Hồ Đắc tiếp tục đến chùa hàng tuần, dù làm chủ một văn phòng bảo hiểm nhưng đến ngày thứ ba thì để cho nhân viên làm việc, Hồ Đắc đi làm việc từ thiện, bưng thùng cơm thật nặng lên xe. Làm việc từ thiện đâu phải đợi đến già mới làm, người trẻ vẫn làm được. Tôi rất mong những người trẻ và những người có lòng để một chút thì giờ làm việc thiện, làm bất cứ việc gì hữu ích cho người khác thì làm. Ông Trời rất công bình cho chúng ta người nào cũng có 24 giờ mỗi ngày, nếu mình biết dành dụm thì giờ thì cũng có thể vào thăm bệnh nhân ở bệnh viện, viện dưỡng lão, hay mỗi tuần có thể thăm người không nhà ở các công viên. Chùa Huệ Quang ở Santa Ana, cứ ngày rằm và ngày mùng 1 tặng cơm chay cho những người nào thích ăn chay, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, ai thích ăn chay thì cứ đến chùa, miễn phí, 2 năm nay rất đông thực khách đến. Nếu những ngày đó rơi vào cuối tuần, hoặc ngày lễ thì thực khách đến đông lắm, hơn 500 người, và ngày thường cũng 300 người, càng ngày số người ăn chay càng nhiều, ăn chay để giữ cho sức khỏe tốt, ăn chay để tránh sát sinh. Người nào làm việc tốt cũng được nhiều người ngưỡng mộ. Tôi ngưỡng mộ rất nhiều người, đêm đêm trời lạnh về mưa đông vẫn có người đến chùa, nhà thờ cầu nguyện, sức mạnh của sự cầu nguyện không ai có thể tưởng tượng được. Người nào có niềm tin ở tôn giáo thì đời sống sẽ phong phú hơn.
Christina Lê (đứng bên trái) và Tuấn Lưu (nón xám) đang phát thực phẩm cho người không nhà. (Ảnh do Kiều Mỹ Duyên chụp)
Mỗi lần cho cơm cho người không nhà bao giờ tôi cũng rủ những người trẻ đi cùng, Thảo, Vân, Christina Lê, Tuấn Lưu. Khi trở về chắc chắn các người trẻ này sẽ nhớ ơn công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ mình, vì nếu cha mẹ sinh con ra đem quăng cho người khác nuôi thì nhất định các cháu không có được ngày hôm nay. Tôi thường khuyên những người trẻ đi chùa, đi nhà thờ và làm việc xã hội, mình được như ngày nay là có phúc lắm, có cha có mẹ có anh em và được cắp sách đến trường, cũng vào giờ này biết bao nhiêu đứa trẻ không có cơm ăn áo mặc, không được đến trường, đâu ai muốn như thế? Mùa xuân, tôi mơ ước nhiều lắm, mơ ước mọi người trên thế giới buổi tối trước khi đi ngủ bụng không đói, và tất cả những đứa trẻ được đến trường học, được thương yêu, được chăm sóc, trẻ em Việt Nam, Cambodia, chúng tôi đã gặp nhiều em không được đi học, vì cha mẹ nghèo quá. Làm sao bây giờ? Thôi thì mình làm được bao nhiêu hay bấy nhiêu, làm hết khả năng của mình. Tôi mơ ước hòa bình, không có máu đổ, đầu rơi. Nếu trong gia đình mỗi người thương yêu nhau, ông bà, cha mẹ, con cháu thương yêu nhau, hàng xóm tốt, trường học tốt, trẻ con tốt, cộng đồng thương yêu nhau, gặp nhau ai cũng chào nhau bằng nụ cười thân thiện, quốc gia giàu giúp quốc gia nghèo phát triển, nếu được như thế thì sẽ không có chiến tranh, đâu có chết chóc? Một người chết để lại đau khổ cho gia đình và dòng họ, đâu có ai thích nhìn nước mắt rơi, mà chỉ thích nhìn nụ cười của người đối diện. Có những người lớn tuổi làm việc xã hội suốt cả đời mà lúc nào cũng tươi cười như cố trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhân lo cho thương phế binh, cô nhi quả phụ ở Việt Nam, không bao giờ tôi thấy chị nhăn mày nhíu mặt. Tôi mong người lớn tuổi nào cũng sống hữu ích và vui vẻ như thế. Mong tất cả người lớn tuổi khỏe mạnh giúp người, giúp đời. Giúp cho ai cũng là giúp cũng tốt, miễn có lòng tốt giúp người là tốt. Thương người như thể thương thân, thấy người đói khổ thì thương, đâu cần phải là thân nhân của mình, mình cũng thương. Mình thương người thì người sẽ thương mình, làm thế nào khi đi khắp nơi trên thế giới nơi nào cũng có người giúp đỡ, sẽ không sợ đói, sẽ có đời sống hạnh phúc.
Mùa Xuân trên đất Mỹ.
Tôi có duyên được đi nhiều. Nhiều nơi tôi đến như Bắc Âu lạnh cóng xương sống, nhưng vẫn gặp nhiều người nở nụ cười thật tươi khi nghe chúng tôi nói tiếng Việt ở phi trường Đan Mạch, Phần Lan, Hòa Lan, khi nhận diện ra chúng tôi là người Việt Nam thì được mới về nhà ăn cơm Việt Nam, thật là cảm động. Người Việt Nam vốn tình cảm nồng nàn, không biết người đó từ đâu đến miễn là nói tiếng Việt là nhận ra đồng hương là đối xử nồng hậu ngay. Tôi mơ ước được trở lại những nơi tôi đã đi qua như Đắc Tô Đắc Sút, điạ đầu giới tuyến cao nguyên trung phần, biên giới Việt Cambodia, Việt Lào, Tha La xóm Đạo, v.v. Quê hương yêu dấu, nơi nào cũng đẹp, miền Thượng đẹp tuyệt vời với những sơn nữ với tiếng ca thánh thót, với những đôi mắt ngây thơ, với dòng sông trong vắt, nơi nào cũng đẹp, nơi nào người đến rồi cũng đi với nhiều kỷ niệm đẹp, nơi mà tôi đã đến có còn như xưa? Cảnh cũ người xưa bây giờ ra sao, nào ai biết? Lũ lụt, tàn phá rừng, rừng còn xanh hay cây rụng? Rừng cao su, rừng cà phê, biển hồ Pleiku, tôi mong được trở về.
Mùa Xuân trên miền Thượng.
Mơ ước thì nhiều mà thực hiện bao nhiêu nào ai biết? Mỗi ngày tôi viết ra nhiều việc để làm, nhưng đến tôi khi trở về nhà những việc đã viết ra chưa làm hết? Cũng như mơ ước tận trong trái tim của mình biết bao giờ thực hiện được? Những đứa trẻ trong các cô nhi viện vẫn lớn theo thời gian, trong sự đói khổ, các em không đủ ăn, không đủ áo ấm mùa đông những vẫn phải sống như những người bình thường. Mong xã hội có nhiều người có lòng nhân để cho người khổ bớt khổ, trẻ con đỡ đói. Một bao gạo $10, 10 bao gạo $100, nếu người nào cũng từ tâm mỗi tháng tặng 10 bao gạo thì không có trẻ em nào đói trên quả địa cầu này.
Kiều Mỹ Duyên mua gạo cho trẻ em mồ côi Việt Nam
Xin Trời Phật, xin Thượng Đế phù hộ cho những người khốn khổ, cho những người lòng nhân ái giúp đỡ người khác. Cầu nguyện thật nhiều và thật chân thành, xin những lời cầu nguyện của mọi người được có kết quả tốt đẹp. Mùa Xuân xin mọi người cầu nguyện thật nhiều cho nhau, cho tất cả sự bình yên đến với nhân loại.
Orange County, 15/12/2021
KIỀU MỸ DUYÊN
(kieumyduyen1@yahoo.com)
Ngày Má Mất – TS Mai Thanh Truyết
*Mời quý độc giả click vào mũi tên góc trái, dưới, để lật trang.
Đoản Văn – Mùa Của Vần Điệu – Như Hoa Ấu Tím
“Tháng Mười chưa cười đã tối” nay đã cuối tháng 11 trên con đường về nhà đã không còn ánh nắng nhạt cuối ngày, ánh nắng thoi thóp cũng không. Tháng mười đã qua, tháng mười một cũng đang qua, cuối năm đang đến. Lá cũng gần cạn trên cây vòm lá vàng thưa dần, dưới gốc xác lá nhiều hơn những khoảng tròn chung quang tán cây những con đường ngập lá. Mùa lễ Đông đang đến cái lạnh se sắt khô da thường làm lòng người ta chùng xuống. Ở tuổi đôi tám chưa ai nghĩ đến những vết chùng, chỉ là những âm thanh bay bổng bốc hơi.
Mấy hôm nay tin tức nói đến chứng khoán nổi trôi, địa ốc chao đảo thiên tai bão lụt, động đất vỡ trời, họ nói đến những chính trị gia những nhân vật phục vụ cộng đồng, những linh tinh lang tang trong đời sống. Không có những linh tinh lang tang ấy, thì làm sao có xã hội. Kinh khủng nhất là Covid 19
Nhìn cuộc đời ở khía cạnh khác, truyền thống Tạ Ơn tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, tổng thống đã thả con gà Tây đẹp nhất để nó được sống đến già trong nông trại quốc gia, cùng với khoảng hai trăm con gà đã được thả từ trước – tôi đếm có mấy mươi ông tổng thống nhiệm kỳ bốn năm một ông, có ông làm việc hai nhiệm kỳ thì số gà được thả mỗi năm gom lại, chắc vào con số đó không tính con cái cháu chắt của nó nếu có. Đàn bà tính toán đơn giản như thế, sai đúng chuyện vài trăm con gà chắc chắn chẳng chết ai cả, nhưng có một điều chắc hơn bắp là sau con gà được tổng thống thả làm phúc là cả triệu con gà bị làm thịt, để được các bà nội trợ bày biện bàn ăn bữa tối ngày lễ Tạ Ơn.
Cách đây hơn hai mươi lăm năm, ngày lễ Tạ Ơn tôi có một lúc hai con gà tây đông lạnh, tủ lạnh phải tháo bớt ngăn để có chỗ cho chúng nó vào chờ tan đá. Lần đầu được nấu cả một con gà tây lành lặn tôi còn nhớ cảm giác sợ sợ khi phải thọc tay vào bụng nó để rửa cho sạch máu, cảm giác sờ sợ ấy giống y như lần đầu tôi phải giết con lươn nấu cháo cho chồng tôi nhậu cùng bạn, cái điều mà thời con gái không thể nào tôi tưởng tượng ra mình có thể làm được! Ai đã biết làm thịt lươn, hẳn nhớ máu lươn hẳn nhớ hình ảnh những con lươn ngo ngoe, nhô đầu trườn lên cái thùng sắt, người bán dùng đựng nó để bán ngoài chợ, nhìn thùng đựng cá lóc cá trê không sao, nhìn thùng đựng lươn tôi sợ đến chết ngất. Hai con gà tây vào tay tôi lần đầu ấy, một con được tôi làm ruốc (thịt chà bông) con thứ hai tôi quay trong lò, cái lò sang trọng đốt bằng ga, cái lò tôi không thể tưởng tượng mình có, khi còn ở Việt Nam năm 1990. Tôi nhớ món gà nướng muối hột, con gà cổ lùn chân vàng sau khi làm sạch lông, nó bé bỏng chỉ bằng một phần năm của con gà tây. Cho hành vào bụng nó xong, để vào nồi tôi đã đổ muối hột rang nóng vào, sau đó là than trên than dưới khoảng bốn mươi phút. Con gà mái tơ bé bỏng nằm giữa muối hột thấm tháp đậm đà chết cũng vui, vì trở thành món ăn ngon cho gia đình của tôi, gia đình thiếu thịt trong khoảng thời gian nghèo khó.
Từ con gà bé bỏng, tôi nấu con gà vĩ đại, từ cái lò than trên than dưới, tôi dùng cái lò nấu bằng ga, cái lò có cửa có đèn, thì chắc chắn kết quả phải có điều gì đó không hoàn hảo. Điều không hoàn hảo khi tôi nướng con gà tây lần đầu, chỉ có những người bạn đã hưởng lễ Tạ Ơn nhiều lần mới biết, còn phần gia đình tôi, chồng con tôi không ai biết cả, vì cũng như tôi lần đầu được nấu gà tây, chồng con tôi cũng lần đầu được ăn gà tây. Ăn gà tây lần đầu tôi khóc, khóc vì nhớ nhà, khóc vì đã thoát và khóc vì không sao gởi bớt gà tây về Việt Nam được, người ta cho nhiều gà quá, tôi chỉ còn hai con gà là vì không muốn nhận thêm. Lúc ấy biết gia đình tôi mới đến định cư, nên nơi chồng tôi làm việc người ta cho gà, nơi tôi đi học người ta cho gà, các con cũng được cho gà, nếu nhận hết gia đình tôi có những năm con gà, phải ăn mấy năm mới hết. Mỗi năm mỗi nướng gà, tôi nướng ngon hơn, theo đúng bài bản hơn, biết mua cái bao nhựa bọc gà để thịt gà không bị khô, biết mua cái đồng hồ nhiệt độ cắm vào đùi gà để biết chắc thịt gà đã chín, mua cả cái dụng cụ giống như thứ dùng để nhỏ thuốc vào mắt to thật to, để rưới nuớc sốt lên thịt gà trong lò, nói chung là tôi biết đủ mọi cách thức để nướng con gà tây sao cho ngon, cho giống với người ta, thì là lúc tôi thôi không muốn làm nữa, chồng con tôi đã không còn muốn ăn gà tây nữa. Không ăn gà tây nữa, không phải là thôi không Tạ Ơn nữa, hình thức con gà tây không ảnh hưởng gì đến tấm lòng của gia đình tôi luôn ghi nhớ Tạ Ơn những điều mình đã có, những ân tình của anh chị em bè bạn, của người xa kẻ lạ. Cái túi áo lạnh được cho tại phi trường, những tấm đệm được cho con nằm, những con gà được cho ngày lễ, những căn phòng được chia cho để ở. Những bắt đầu từ số không giống như tô bột mì chưa là gì cả, phải thêm trứng thêm men chút đường chút muối mới có thể trở thành ổ bánh mì nuôi sống con người.
Tôi nhớ ơn từ ông tài xế xe buýt đã chở tôi đi học, đoạn đường gần hai tiếng đồng hồ vòng vo trong phố, tôi nhớ ơn cô giáo Linda Vidal của tôi, người đã dậy tôi nghề chuyên môn tôi chọn, tôi nhớ ơn các nhân viên làm việc trong văn phòng nhà trường nơi tôi đến ghi danh lần đầu, câu chào tiếng Anh của tôi họ không thể hiểu, mà họ vẫn nhẫn nại hướng dẫn tôi cách thức để thi vào học khi biết tôi vừa định cư trên đất nước của họ hai tháng, tôi nhớ ơn những ân nhân đã cho tôi học bổng để mua sách, mua đồng phục, mua xăng. Các con tôi đã được đi học đã nên người. Tôi nhớ ơn bạn bè tôi, các anh các chị đã cho chúng nơi cư ngụ thân tình, những bài học để sau đó chúng tôi cùng các anh các chị giúp đỡ các gia đình mới đến định cư tại Mỹ. Còn nhiều nhiều nữa tôi không biết phải kể đến bao giờ mới hết.
Đời sống luôn chứng minh thuyết tương đối trong mỗi phút giây ngắn ngủi, trong mỗi mùa đổi thay, trong từng con người có tư duy buồn vui sướng khổ, trên hết là sự biết ơn và trả ơn bằng cách lập lại những điều mình đã được nhận.
Cuối cùng tôi tạ ơn những con gà tây, không có chúng ngày lễ tạ ơn buồn lắm nhỉ. Và có lẽ chú gà tây tôi không hóa kiếp mùa lễ này cũng hiểu cho tôi: “Con sông quay về nguồn, con người trở về cội” tôi đi tìm con gà cổ lùn chân vàng, đi tìm lại cái lò than trên than dưới, nướng gà trong những hạt muối vàng tìm quên những linh tinh lang tang đời sống.
Sau Tạ Ơn là Giáng Sinh, có một số người tha cho con gà Tây đang nhìn ngắm những khối thịt hun khói, tôi đang suy nghĩ mình có thể dọn gì lên bàn ăn mà không cần chúng nó! Đậu phụ 7 món chăng?
On Mon, Nov 8, 2021 at 10:41 AM Chinh Nguyên <cnchinhnguyen7@gmail.com> wrote: Xin chào quý vị trong ban web site, in ấn và Cô Nàng Như Hoa Ấu Tím. Như vậy là web site lại có thêm bài của Như Hoa Ấu Tím.}vươn nhà VTLV thêm bông hồng Tím thật lạ và đẹp.. Xin chúc cả nhà VTLV vui vẻ hạnh phúc..
Trẻ trung nhưng đã là bà… Can qua mấy độ cháu ba bốn người Bà nội, bà ngoại thơ rơi Dăm ba năm nữa tóc đời muối tiêu… cháu con, non nước một chiều…
Như Hoa Ấu Tím
Mùa Của Vần Điệu
Ai có thể hờ hững khi nhìn thấy cây thay áo, màu áo Thu nhẹ nhàng quyến rũ, như vàng như bạc như bạch kim những màu sắc ấy lung linh thành hạt kim cương từ sương đêm nhỏ xuống được ánh dương soi rọi.
Mùa của năm nay khác với mùa năm trước – tình năm nay cũng khác với tình năm trước, mọi sự thay đổi theo từng sát na
Nhất sát na vi nhất niệm. Nhị thập niệm vi nhất thuấn. Nhị thập thuấn vi nhất đàn chỉ. Nhị thập đàn chỉ vi nhất la dự. Nhị thập la dự vi nhất tu du. Nhất nhật nhất dạ hữu tam thập tu du.
và thơ tôi cũng thế cũng theo mùa mà thay màu áo – không nức nở nhớ thương thảm thiết không khóc vì Thu nhớ vì Thu mà chỉ an nhiên ngắm sợi tơ nhện giăng qua lá – ngắm giọt sương đọng long lanh chóp lá sắp lìa cành – nét đẹp chỉ thấy được không tả được – chỉ biết thốt lên: “Yêu quá đất trời ơi!” 0.018 giây giọt sương lìa lá – hình ảnh tôi giữ được trong tâm!
Ngày xưa nhìn lá đếm buồn Bây giờ nhìn lá nhớ người ngất ngây Lá tìm nơi nghỉ thân gầy Tình vươn cao vút trời mây nhỏ sầu Giọt đọng trên nhánh khô cằn Giọt đọng trên má nếp nhăn tháng ngày Ừ thì Thu đến Thu đi Ừ thì yêu dấu đã ghi khó mờ Dù cho Thu đến Thu đi Cỏ Trân Lan vẫn ôm ghì lá Thu!
Và sáng nay mưa tiếng tí tách rất nhỏ, chiếc đèn tự phát sáng khi nhận được tín hiệu bay nhảy của lá ngoài hiên, khung cửa sổ bỗng thành bức tranh thật đẹp, mùi cà phê thơm ngào ngạt, hơn sáu giờ rồi mà trời tối đen như mực, nơi tôi ở rất cần mưa vì đang khô hạn, nghe tiếng mưa lòng cũng reo theo tí tách vui, nhất là hôm nay là ngày tôi được sinh ra.
Tháng Mười của tôi luôn bắt đầu bằng những ngày tưởng nhớ hai đấng sanh thành – sinh nhật của cô em thứ ba và chính tôi, ngắm nhìn bạn hữu những người chọn mùa Thu để chào đời tôi nhận ra một điều rất chung là: Mùa Thu nhiều màu sắc trộn lẫn giữa bắt đầu và kết thúc cho nên chúng tôi có rất nhiều điều để thụ hưởng tự thuở lọt lòng, mẫn cảm với chung quanh thích hết tất cả từ trắng đến đen, khéo pha màu dù tương phản hay hòa hợp và yêu tha thiết mọi điều nhất là mau nước mắt cho dù chỉ là nuốt vội vào trong! Vì những lý do ấy nên thượng đế cũng rất công bằng hay ban phát cho chúng tôi những điều rất vụn vặt khéo léo tỉ mỉ từ giọng hát đến nhừng góc nhìn nghệ thuật ngay cả kể lể bằng chữ bằng vần. Tôi hôm nay góp thêm được một chiếc lá nừa vào hộp tuổi đời, hộp đã gần đầy tôi phải dùng bàn tay vỗ về ép nó xuống bảo nó phải nằm im đừng chao đảo khiến xương cốt tôi đau nhức.
Tôi nhớ như in thời xuân trẻ không bao giờ tôi biết đến chữ sinh nhật cho đến năm có người nhắc nhở và tặng cho tôi chùm hoa thiên lý! Khi còn trẻ ai thèm nghĩ đến tuổi làm chi, nhắt là ở Việt Nam lo cái ăn cái mặc đã mệt cha mẹ nào nghĩ đến chuyện mừng ngày con chào đời kia chứ vì cứ sòn sòn “năm một hay ba năm hai” theo đúng câu chúc ngày tân hôn – vu quy: “Đầu năm sinh gái cuối năm sinh trai!” Lại thêm 30 năm nội chiến từng ngày, cha nơi biên ải mẹ ngồi ru con có đâu mà lo tiệc tùng sinh nhật, nghĩ đến bữa cơm vắng chồng ngày đi sinh nó cũng một mình vượt cạn quên đi thì hơn! Hoặc may mắn được chồng đưa đến bến vượt cạn cũng “đi biển” một mình vì chồng bị đứng ngoài hàng ba chờ nghe tiếng khóc, sau đó lại khăn gói lên đường, kể ra thôi đã sợ nên chuyện sinh nhật các con Mẹ ít khi nhắc đến, chỉ có giỗ chạp là không thể phiên phiến mỗi năm!
Thời niên thiếu đi học mải lo nghịch ngợm thì giờ nào nghĩ đến ngày sinh, chưa kể chiến tranh cũng làm nhòa đi phần nào sự náo nức được đọc trong sách được thấy trong hình người ta thổi nến cầu xin được này được khác! Bây giờ mà khoe hồi đó mỗi năm mỗi mừng sinh nhật là kể xạo!
Đến lúc biết nghĩ suy tự hỏi: “Tại sao có ta – ai cho mình xuống thế và vì lý do gì!” cộng thêm những quyển sách triết lý lung tung, cùn cũng có bén cũng có bơm vào đầu những câu hỏi chẳng ai thèm trả lời thế là tự mình làm bánh tự mình thắp một ngọn nến loại nến đốt đèn trung thu thổi chơi trong góc nhà ban đêm không ai thấy, dĩ nhiên sẽ có bài thơ hay một đoạn văn chi đó trong quyển nhật ký “ba xu”, ừ bây giờ đọc lại thấy chỉ đáng “ba xu” chứ nửa thế kỷ trước là thiên thiên vạn vạn cơ đấy vì có vẽ cả hoa cả bướm cả đôi mắt to đen còn thêm giọt nước mắt cho mặn mà trang giấy!
“Dỗ hộ em hồn triền miên sóng vỗ Trôi lang thang không ngại thác hay ghềnh Vì tình em không được vướng chân anh Tóc không phải dây tơ tình vướng víu!” Thật sự khi ấy chẳng có anh nào mà thơ đã “ghê” đến thế!
Hôm nay cũng như mọi hôm, tạ ơn chồng cho mình ly cà phê bốc khói, tạ ơn Bố Mẹ đã sinh ra dạy dỗ điều hay lẽ phải dù mình không nhận được nhiều vì đã mất hai đấng sinh thành quá sớm, tạ ơn Chúa tạ ơn Mẹ Maria Mẹ Hằng Cứu Giúp, cho nơi nương tựa khi không biết phải sống thế nào sống ra sao trong khoảng thời gian chông chênh bất định của đất nước Việt Nam 1975, tạ ơn bạn bè thân thiết nguồn năng lực giúp mình giữ nụ cười trên môi và không chịu thua khốn khó! Cám ơn các con các cháu cho mình niềm vui để sáng dậy hít thở điều hòa, vươn vai dưỡng sức mong “sống đời với con” mà chúng nó không cần chăm sóc đẩy xe – suy nghĩ thế thôi chứ sao thì cũng phải tùy theo vòng xoáy cuộc đời có thế nào sẽ nương theo thế không ngại thác hay ghềnh, vì biết không sao chống được lão, dĩ nhiên cũng không thể chống lại bệnh, vì phải có bệnh mới tử được đúng không nào!
Nên tôi tự mừng tôi tuổi mới an lành vì tình yêu nhận được từ trời từ đất và từ những người chung quanh, bạn đọc đến đây sẽ biết rằng tôi đang cảm ơn bạn nữa đó.
Như Hoa Ấu Tím
HAPPY THANKSGIVING – Lê Văn Hải – Lê Tuấn – Phương Hoa
Lời Chúc Đến Quý Niên Trưởng, Quý Anh Chị Trong Văn Thơ Lạc Việt Nhân Mùa Lễ Tạ Ơn – Happy Thanksgiving 2021
Trong tinh thần Mùa Tạ Ơn, Hải và Gia Đình xin gửi lời cầu chúc tốt đẹp nhất đến tất cả Quý Niên Trưởng, Quý Anh Chị và Gia Quyến:
Một ngày Lễ Tạ Ơn hạnh phúc, an lành, mọi điều may mắn. Xin Cảm tạ Trời, Người, Đời, sau 75, mang thân phận Người Tị Nạn CS, đã cho chúng ta được sống trên Quê Hương thứ hai, nước Mỹ này, với đầy đủ tự do no ấm, dân chủ và quyền làm người.
Không quên nhắc nhở, hoa Tự Do được nở, là do tưới bằng máu của những người Chiến Sĩ Hoa Kỳ đã nằm xuống, xin dâng những bông hồng cảm tạ trong ngày lễ này.
Cũng xin Tạ Ơn tình thương tình mến, của những tấm lòng, trong mục đích chung “bảo vệ và phát huy tiếng Mẹ” để Văn Thơ Lạc Việt vẫn trường tồn và hoạt động mạnh mẽ, hữu hiệu trên 30 năm qua.
Tâm tình Cảm Tạ là giữ truyền thống tốt đẹp:
Khi còn ở Việt Nam, chúng ta mừng Năm Mới với ba ngày Tết, cũng là ba ngày Tạ Ơn. Mồng Một dành để tạ ơn Đất Trời và Cha Mẹ. Mồng Hai dành để tạ ơn Thầy Cô và bà con thân quyến. Và Mồng Ba dành cho Bạn Bè.
Như thế từ thuở còn bé, truyền thống và phong tục nơi quê nhà, đã chỉ cho ta biết tạ ơn Trời, tạ ơn Người và tạ ơn Đời.
Nay trên xứ người, lại còn có ngày Lễ Tạ Ơn, cộng với truyền thống tốt đẹp của Cha Ông, trong tinh thần “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây.” Đặc biệt, xin cám ơn tất cả những giúp đỡ chân tình dành cho Hải trong chức vụ Hội trưởng gần một năm qua, cảm tạ những ân tình đáng quý mến này.
Một lần nữa, xin cầu chúc tất cả Quý Vị và Gia Quyến: Một Lễ Tạ Ơn an bình, tràn ngập tình người, ơn phước từ Trời Cao.
Mừng Lễ Tạ Ơn – Happy Thanksgiving 2021
Lê Văn Hải
Nhóm Mõ Nhân Ái Mang Không Khí Lễ Tạ Ơn 2021 Sớm Đến Với Người Không Nhà (Homeless)
(San jose) Thứ Năm tuần sau mới đúng là ngày Lễ Tạ Ơn, nhưng Thứ Năm tuần này, ngày 18 tháng 11 năm 2021, lúc 8 giờ 30 sáng, Anh Hải đã diện Nhóm Mõ Nhân Ái, đem chút không khí ngày lễ đến những người không nhà, tại sân cỏ gần thư viện Tully, San jose.
Với 5 hộp quà, cho tiết mục xổ số lấy hên, trên 50 bao lì xì, tiền mặt gấp đôi những ngày bình thường, tặng cho Homeless. Đây là những mục vui, cộng thêm vào Bữa cơm truyền thống mừng lễ Tạ Ơn.
Không khí chợt vui nhộn hẳn lên, một khách không nhà với nụ cười tươi, ôm anh Hải nói lời cám ơn: “Nhờ Quý Anh Chị, chúng tôi đã hưởng được chút không khí thương yêu của ngày lễ. Happy Thanksgiving! Chẳng có Nhóm nào đối xử nặng tình người như Nhóm các anh cả.”
Buổi cơm, phát quà, cộng vào những tiết mục chơi vui, diễn ra trong tình thân mật gia đình, ấm cúng tình người, trong một buổi sáng chớm đông se lạnh.
Một khách không nhà khá trẻ, người VN tâm sự: “Cám ơn Quý Anh Chị Nhóm Mõ Nhân Ái và nhiều ân nhân. Không có sự giúp đỡ của quý vị thời gian qua, nhiều người tụi em sống không nổi! Khổ sở thân xác đau một, cảm giác bị xã hội bỏ rơi, đau đớn hơn nhiều!” Câu tâm sự này, có lẽ là món quả an ủi quý báu nhất cho những người đã có thiện chí, thiện tâm phụng sự, vì nhận thấy có kết quả giúp đỡ thiết thực.
Nhân đây, trong tinh thần Mùa Tạ Ơn, tôi xin đại diện Nhóm, chân thành gởi lời cảm tạ đến với tất cả Quý Ân nhân đã góp tay trong công tác nhân ái này. Xin Thượng Đế trả công bội hậu cho Quý Vị và Gia Quyến, vì những điều tốt đẹp mà quý vị đã thực hiện nhằm giúp đỡ tha nhân. Phần thưởng đầu tiên quý vị nhận được từ Thượng Đế, đó là niềm vui an bình trong tâm hồn. “Bình an dưới thế cho người thiện tâm!” Cám ơn tất cả! đặc biệt năm dịch bệnh Covid khó khăn vừa qua, vì tấm lòng mà Quý vị yểm trợ, mà chương trình đã đi được đoạn đường dài trên 28 năm!
LÊ VĂN HẢI
VĂN: Kỷ Niệm Phan Văn Song -Người Bạn, Người Đồng Chí – Mai Thanh Truyết
VĂN – LÀM MẸ – Sưu Tầm -Trương Thị Thanh Hiền
LÀM MẸ
Tôi vượt biển một mình, đau quằn quại đến không còn thiết sống. Tôi như đi trong sương mờ, mải miết vươn đến chỗ mẹ tôi đang vẫy gọi. Tôi thèm được vùi vào lòng bà, khóc nức nở như một đứa trẻ thơ để quên hết những nỗi đau thể xác và tâm hồn. Bà mở rộng vòng tay ôm lấy tôi.Tôi khóc nức lên và choàng tỉnh dậy. Mẹ tôi đã tan biến, chỉ có dì đang ôm tôi.
Tôi gào lên:- Dì làm gì vậy? Tại sao dì dám ôm tôi?
Dì lật bật lùi ra xa, lắp bắp :- Dì xin lỗi. Dì thấy con đau quá mà không biết làm gì. Dì thấy tội nghiệp con quá…
– Ai cần dì tội nghiệp. Tôi đã bảo dì đừng vào đây mà. Hãy để cho tôi một mình, tôi không cần ai hết.
– Làm sao dì để cho con một mình được. Ba con không đi đến được, em trai thì đi mất. Không có dì con làm sao đây?
– Dì quan trọng quá nhỉ? Vì ai mà em tôi thành bụi đời, ba tôi buồn rầu mà sinh bệnh, còn tôi thì bị tống cổ ra khỏi nhà?
– Con nghĩ sao cũng được nhưng bổn phận làm mẹ dì phải lo cho con.
– Làm mẹ à! – tôi hét lên – Dì lấy tư cách gì làm mẹ của tôi? Dì tự xem lại mình có xứng với hai tiếng ấy không? Dì làm tổn thương đến vong linh của mẹ tôi đấy. Dì đi đi, dì ở đây làm tôi đau đớn hơn. Ôi, mẹ ơi, sao mẹ lại bỏ con, mẹ ơi!
Hoảng sợ trước lời kêu khóc của tôi, dì lóng ngóng chạy ra ngoài.
***Năm tôi mười lăm tuổi mẹ tôi qua đời.
Mẹ tôi là một phụ nữ tài năng, xinh đẹp. Chính vì vậy mà năm năm sau khi ba tôi cưới dì, một y tá lỡ thời, cục mịch, quê mùa, tôi bị sốc thực sự. Điều đó không chỉ làm tổn thương đến tâm hồn non trẻ của tôi mà còn xúc phạm đến vong linh của mẹ tôi.Đối với tôi, dì là một người thuộc tầng lớp khác nếu không muốn nói là thấp hèn hơn. Ba tôi là một bác sĩ giỏi lại rất tài hoa. Ba và mẹ là một cặp xứng đôi đến nỗi trong cả triệu cặp vợ chồng chắc mới có một. Vì vậy sự khập khiễng giữa ba và dì làm tôi lúc nào cũng sôi sục, hễ cứ gặp mặt dì là mọi uất ức dâng lên trong tôi. Tôi không cấm ba lấy vợ kế nhưng biết bao người xứng đáng ba không chọn, lại chọn một bà y tá lỡ thời, quê mùa, thất học.Em tôi còn phẫn uất hơn tôi nên đã bỏ nhà đi hoang, không tìm lại được. Tôi nói năng hỗn xược, xúc phạm cả ba lẫn dì, bị ba giận đuổi đi vào một đêm mưa tầm tã. Rồi ba hối hận chạy đi tìm tôi nhưng tôi nhất định không chịu về, đến ở hẳn nhà bạn trai. Trong ngày đám cưới của tôi, một cuộc hôn nhân ba không chấp nhận, ông bị lên huyết áp và bị liệt nửa thân người. Tôi sớm rời trường đại học, sống vất vưởng với một cuộc hôn nhân vội vã bốc đồng và chẳng mấy chốc cũng ly hôn khi đang bụng mang dạ chửa.
Khi con gái tôi ra đời, chẳng rõ chầu chực ở đâu sẵn, dì lao vào bệnh viện với nào tã, nào nón, nào khăn chẳng biết dì sắm sửa từ bao giờ. Chẳng đếm xỉa gì đến vẻ tức giận của tôi, dì nâng con bé lên nựng nịu :
– Ôi, cháu của ngoại, cục cưng của ngoại. Ngoại mong cháu từ lâu lắm rồi, viên kim cương của ngoại. Nào, nào mẹ cho bé mum tí nào.Dì lăng xăng líu xíu ủ chân tay cho tôi, lấy nước nóng chườm bụng rồi lại chạy băng về nhà vừa báo tin mừng cho ba tôi, vừa mua thức ăn tẩm bổ cho tôi.
Biết không thể xua đuổi được dì, tôi đành phải chấp nhận sự săn sóc của dì với vẻ xa cách lạnh lùng. Ngày hôm sau ba tôi đi xe lăn vào. Nhìn thấy ông, tôi bật khóc. Vị bác sĩ phong độ ngày nào nay tàn tạ vì bệnh tật, vì gia cảnh tan nát.
Ông chỉ điềm đạm nói với tôi:
– Ba không bắt con phải vì ba, phải vì dì cũng không vì bản thân con mà phải vì con bé này. Con đã tạo ra nó trong sai lầm của mình thì cũng đừng để nó lớn lên trong sự sai lầm. Hãy trở về với ba, cho con của con những gì tốt đẹp nhất dù bản thân con có phải đối diện với những thử thách đau lòng. Mẹ con mãi mãi là một hình ảnh đẹp không ai có thể làm hoen ố hình ảnh ấy.Những lời ông nói cứ thấm vào lòng tôi đau buốt. Ôi, con gái của tôi, lẽ nào vì tôi mà cuộc đời nó cũng chẳng tốt đẹp gì hơn.Tôi trở về nhà, lòng lạnh giá hơn. Dì là người vui nhất. Tôi chẳng hiểu được nỗi vui mừng ấy. Lẽ ra dì phải vui khi tống được cái gai nhọn như tôi ra khỏi nhà mới phải. Tôi nhận sự chăm sóc rất mực chu đáo của dì như nhận một thói quen, thậm chí như một sự ban ơn. Dì không chú ý gì đến vẻ xa cách, kẻ cả của tôi mà chỉ tìm mọi cách để tôi vui.
Dì lăng xăng suốt ngày, quần xắn đến gối, mắt lấp lánh tia cười, miệng líu ra líu rít.
– Hoàn ơi, con xem con bé này đã biết cười rồi đấy.- Ấy, ấy, con đừng đi sãi chân như vậy, khép chân lại nào. Này, quấn cái khăn lên đầu, gió lùa đấy.- Dì đã giặt đồ cho cháu rồi. Giặt đồ cho em bé không nên vắt, sẽ làm em vặn vẹo suốt đêm.- Ôi cục vàng của ngoại sao lại khóc… Bé khó chịu hả? Ứ ừ, em không chịu nằm nữa à? Thế ngoại bế con ra sân chơi nghen?Suốt ngày nhà chỉ văng vẳng tiếng dì.
Dì tự hỏi rồi cũng tự trả lời. Dì đoán được ý của tất cả mọi người, từ ba tôi đến con bé chỉ biết khóc kia. Dì phục vụ tất cả chúng tôi với lòng tận tâm hồ hởi. Nhưng có lúc dì lại ngồi thần người ra, vẻ ủ dột trầm ngâm. Rồi không nén nổi, dì thở dài:
– Tội nghiệp thằng Quang, mưa gió thế này không biết nó ở đâu.Quang là em trai tôi, mười tám tuổi. Tôi lén nhìn dì, nỗi đau của dì giống hệt nỗi đau của người mẹ xót thương con. Nếu là mẹ tôi hẳn cũng chỉ đau khổ đến thế là cùng.Đêm đêm sau khi làm xong mọi việc, dì lại quày quả đi tìm Quang. Dì đã đi tìm nó suốt hai năm qua. Ba tôi và tôi đã không còn hy vọng vì rõ ràng biết nó còn quanh quẩn đâu đây nhưng nó không muốn gặp ai trong gia đình. Nó đã không muốn gặp, không muốn trở về nhà thì dù có tìm được nào có ích gì.
Nhưng dì không nản lòng – Một ngày kia dì chộp được nó khi nó ngủ gà ngủ gật trong công viên. Nói đúng ra khi nó đang đói ma túy. Thế là từ đó cả nhà tôi, hay đúng hơn là chỉ có dì, chiến đấu giành giật lấy nó từ tay của nàng tiên nâu.Dì trói nó vào góc nhà, áp dụng đủ mọi phương cách, mọi bài thuốc từ tây lẫn ta, bồi bổ cho nó đủ mọi thứ sơn hào hải vị. Khi mập mạp béo tốt trở lại, nó lại bỏ nhà ra đi. Dì tiếp tục cất công đi tìm và lại tìm thấy khi nó đang thân tàn ma dại ở đâu đó. Lại cột nó ở góc nhà, lại những bài thuốc, những món ăn ngon… Cái vòng luẩn quẩn ấy cứ lặp lại không biết bao nhiêu lượt. Đến như tôi cũng phát chán, còn ba tôi thì gần như đã buông xuôi, đau đớn vì bác sĩ như mình mà không cứu nổi con.
Chỉ riêng dì vẫn cứ bền bỉ đi tìm nó mãi.- Hoàn này – dì rụt rè bảo tôi khi thằng Quang bắt đầu một vòng cai nghiện mới – con phải nói điều gì với em chứ. Dì là người quê mùa, chỉ biết làm, không biết nói gì để khuyến khích động viên nó. Còn con là người có kiến thức, lại hiểu biết tâm lý của em, con phải giúp em con vượt qua những thử thách này. Con không thấy em con còn quá trẻ sao? Lẽ nào chúng ta để cho nó chôn vùi cả cuộc đời…Tôi tìm thấy Quang đang nằm úp mặt khóc trên giường.
Tôi không vỗ về nó mà ngồi xuống mép giường, đều đều nói:- Mẹ không mong muốn chị em mình trở thành như thế này. Chị đã sai lầm và em cũng vậy. Ta có thể giữ nguyên những cảm nghĩ của mình về dì mà không cần hủy hoại bản thân mình. Đứng dậy đi em, xây cho chính mình một tương lai mà không cần phụ thuộc bất cứ điều gì. Hãy làm sao cho xứng đáng với mẹ.Tôi nói với nó cũng là đang nói với chính mình.
Rồi tôi trở lại giảng đường đại học. Nó cũng đã thoát khỏi vòng kềm tỏa đáng sợ của nàng tiên nâu. Dù thực tế công sức của dì đối với chị em tôi rất lớn nhưng tôi vẫn không muốn thừa nhận.
Dì nuôi con cho tôi đi học. Dì chăm sóc từng li từng tí cho Quang để nó có đủ sức khỏe trở lại trường. Dì lại là hộ lý của ba. Nhiều khi trong thâm tâm tôi chợt chạnh lòng thương dì.
Làm sao dì có thể làm ngần ấy công việc trong một ngày, phục vụ cả bốn con người. Nhưng rồi niềm kiêu hãnh trong tôi lên tiếng: đó là nhiệm vụ của dì. Dì không có tài để làm những việc lớn lao thì phải làm những việc vặt ấy. Như đọc được suy nghĩ của tôi – nhiều khi tôi rất kinh ngạc về khả năng đọc được suy nghĩ người khác của dì – dì bảo:- Dì đã quen với những công việc này rồi. Ai chẳng muốn an nhàn nhưng cuộc sống bắt buộc mình phải sống hết mình với nó.Tôi mở to mắt nhìn dì; câu nói của dì không phải của một y tá tầm thường mà là của một triết nhân.
Ngôn ngữ của dì càng lúc càng khác xa con người dì. Một lần nữa dì lại đọc được suy nghĩ của tôi: – Con tự hỏi tại sao dì lại nói năng văn hoa như vậy phải không? Dì là người không được học hành đến nơi đến chốn. Nhưng mấy mươi năm qua chiến tranh đã dạy cho dì từng con chữ, từng lời nói, từng cách cư xử…
Dì học ở khắp nơi, bên chiến hào, trong nhà dân, trong nhà tù… Mấy năm làm y tá trong bệnh viện, làm việc dưới quyền ba con dì cũng học hỏi được rất nhiều. Con hãy ráng học lên, sự học làm người ta mở lòng với nhân loại hơn.Trời ơi! “Sự học làm người ta mở lòng với nhân loại hơn”. Một người như dì lại có thể nói câu đó ư? Tôi vụt chạy vào phòng ba, thảng thốt nhìn ông :
– Ba, rốt cuộc dì là người thế nào? Làm sao ba có thể quên mẹ để yêu dì được?- Con ngồi xuống đi con gái – ba dịu dàng bảo – Tuổi trẻ các con hay có một quan điểm tuyệt đối. Không có cái gì là tuyệt đối cả. Tại sao con lại nghĩ ba lấy dì nghĩa là ba đã quên mẹ con? Tại sao con lại nghĩ vẫn yêu mẹ thì ba không thể lấy dì?
Cuộc đời là thế giới muôn màu. Vì sao con chỉ nhìn vào tài sắc của mẹ con mà cho rằng dì không xứng với ba, chứ không đánh giá dì bằng chính con người dì. Mẹ con là một thế giới khác, dì là một thế giới khác. Và – không ai dám cho rằng thế giới nào đầy màu sắc và thế giới nào đầy bóng đêm.
Dì đã trải qua nhiều nỗi gian truân nhưng không hoàn cảnh nào có thể đánh gục được dì. Điều đó không dễ gì có được ở lớp người như ba, như mẹ, như con. Con thấy đấy, mẹ con là một bác sĩ, an ủi nâng đỡ cứu sống không biết bao nhiêu người nhưng khi biết mình bị bệnh thì suy sụp hẳn, không gượng dậy nổi. Khi mẹ chết, nếu không có dì chắc ba cũng đã trở nên bệ rạc, bê tha. Còn con, tự cho mình là thông minh, bản lĩnh nhưng chỉ vì một việc bất như ý mà thả trôi cuộc đời mình.
Còn dì là người vào sinh ra tử, vào tù ra khám, từng làm vợ làm mẹ nhưng bị tước hết những quyền thiêng liêng ấy.- Dì từng làm vợ, làm mẹ? – tôi ngỡ ngàng.- Con lạ lùng lắm sao? Nỗi đau ấy dì giữ cho riêng mình, không mấy ai biết được. Chồng của dì đã hy sinh, đau đớn quá dì đã sinh non và đứa bé đã chết sau khi sinh vài giờ. Dì đã đem nỗi đau mất chồng, mất con vào cuộc hành trình lặng lẽ của mình. Dì đã đem tình thương của người vợ người mẹ dành cho tất cả mọi người, cho ba, cho các con với lòng cao cả vô biên.
Dì đã sống cho người khác, vậy mà khi có ai khác sống cho dì thì con lại bảo dì không xứng đáng. Huống chi đây không phải là sự hy sinh của ba mà là sự đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu. Con hãy đem tấm lòng mình để gần gũi với dì hơn, khi đó con sẽ thấy ba không nói quá đáng. Những gì ở ba ở mẹ không có thì ở dì có, vậy không phải là bổ sung cho nhau sao? Con còn đòi hỏi nơi dì điều gì nữa?
Tôi đòi hỏi gì ư? Tôi được sinh ra bằng mối tình tuyệt diệu của ba mẹ, lớn lên trong tình yêu nhưng rốt cuộc lại trở thành một người không có tình thương yêu dù với một người đã xem mình còn hơn đứa con rứt ruột đẻ ra. Tôi sắp trở thành một bác sĩ nhưng lại không đủ lòng nhân ái của một y tá bình thường như dì.
Tôi cứ mãi đau đớn vì mối mâu thuẫn giằng xé nên thường ngồi lì trong thư viện không về nhà sau buổi học. Dì lại tất tả tìm tôi. Cái vẻ hốt hoảng lo âu của một người mẹ vừa làm nhói lòng tôi vừa làm tôi uất hận. Tôi không biết mình hận cái gì? Hận dì sao không là một người tầm thường cho tôi căm ghét mãi?
Hận dì sao dần dần rõ nét một nhân cách lớn làm tôi thấm thía sự nhỏ nhoi của mình.Tôi theo dì vào nhà. Bé Uyên sà vào lòng tôi, líu lo đủ mọi chuyện. Dì bảo:
– Con đừng quá mải mê với công việc, với những ý thích riêng mình mà bỏ quên cái quyền làm mẹ.Dì không bảo “Bổn phận làm mẹ” mà lại bảo “Quyền làm mẹ”. Tôi ngước mắt nhìn dì. Dì lại đọc được câu hỏi trong mắt tôi, cười đôn hậu:- Con không thấy được làm mẹ là một hạnh phúc lớn hay sao?Tôi thấm thía câu ấy. Dì bị tước đi cái quyền làm mẹ từ khi rất trẻ và được ban trở lại khi tuổi về già nên dù chị em tôi đã đối xử thật tệ bạc với dì nhưng dì chỉ thấy niềm hạnh phúc được sống với thiên chức của người mẹ.
***Mừng Quang thi đậu vào đại học, dì thưởng cho cả nhà một chuyến đi picnic xa bất chấp con bé Uyên quấy dì suốt cuộc hành trình, bất chấp ba tôi mới tập đi lại được, chân rất yếu, lúc nào cũng cần dì dìu đỡ. Chỉ có niềm vui bất tận của một gia đình hạnh phúc trong chuyến đi chơi ấy. Tôi hỏi dì:- Cái gì làm dì vui nhất hôm nay?- Dì vui vì Quang đã đủ bản lĩnh để trở lại đời. Dì vui vì đã trả lại cho mẹ con những đứa con nguyên vẹn như ngày nào, còn lời thêm cục vàng này nữa nè – dì cười chỉ vào bé Uyên.
Ngày tôi xúng xính lên nhận bằng tốt nghiệp, dì dẫn theo một chàng trai trẻ lên tặng hoa cho tôi. Trẻ là vì anh ta chưa có vợ, so với tôi đã có con gái lên năm, chứ thật ra anh ta đã hơn ba mươi tuổi, là một bác sĩ trong khoa của ba tôi, đã âm thầm theo đuổi tôi từ nhiều năm nay. Mắt dì lấp lánh vẻ tinh nghịch và bí hiểm của bà mẹ đang mưu toan kiếm chồng cho con gái. Tôi vừa buồn cười vừa… tức, ngùng ngoằng bỏ đi:- Con không thích cái trò mai mối ấy. Con đâu có sợ lỡ thì..
.- Ây dà, cái giọng này dì đã nghe ở rất nhiều cô gái tân thời rồi. Nhưng cuối đời nhiều người mới nuối tiếc vì bỏ qua cơ may hạnh phúc gia đình. Con ơi! nghe dì đi. Con còn lỡ dở vầy mãi dì không yên tâm. Khi nào con với em Quang có gia đình yên ấm hết thì dì mới hả lòng.
***Ước mơ của con người quá nhiều. Ước mơ của bà mẹ dành cho con còn nhiều hơn. Dì trù liệu đủ mọi kế hoạch cho tôi, cho em Quang. Dì còn tính sẵn một tương lai dài thăm thẳm cho con bé Uyên vừa tròn năm tuổi, cho cả ông già gần đất xa trời là ba tôi, chỉ riêng mình dì không dự định một điều gì.
Một buổi sáng đẹp trời, mọi người đều đã tỉnh giấc, chỉ riêng dì đi vào cõi vĩnh hằng. D
ì từ giã cuộc đời nhẹ nhàng bình yên đến nỗi cả ba, cả tôi – hai bác sĩ trong nhà, đều không muốn truy lùng nguyên nhân để không làm tổn hại đến thân xác dì.
Dì đang ngủ yên lành hay dì đang đi tìm mẹ tôi, hãnh diện khoe với bà rằng dì đã làm xong ước nguyện của bà.
Bên mộ dì, thằng Quang gào khóc nức nở. Khi mẹ tôi chết, nó còn quá bé để có thể đau đớn thống thiết như thế. Còn tôi – cả hai đám tang tôi đều không khóc. Chỉ có những giọt lệ chảy trong tim tôi không ai thấy được. Vì nó đọng ở trong tim nên lòng tôi luôn nhức nhối..
TRƯƠNG THỊ THANH HIỀN
VĂN – Mùa Của Vần Điệu – Như Hoa Ấu Tím
Mùa của Vần Điệu
Ai có thể hờ hững khi nhìn thấy cây thay áo, màu áo Thu nhẹ nhàng quyến rũ, như vàng như bạc như bạch kim những màu sắc ấy lung linh thành hạt kim cương từ sương đêm nhỏ xuống được ánh dương soi rọi.
Mùa của năm nay khác với mùa năm trước – tình năm nay cũng khác với tình năm trước, mọi sự thay đổi theo từng sát na
Nhất sát na vi nhất niệm. Nhị thập niệm vi nhất thuấn. Nhị thập thuấn vi nhất đàn chỉ. Nhị thập đàn chỉ vi nhất la dự. Nhị thập la dự vi nhất tu du. Nhất nhật nhất dạ hữu tam thập tu du.
và thơ tôi cũng thế cũng theo mùa mà thay màu áo – không nức nở nhớ thương thảm thiết không khóc vì Thu nhớ vì Thu mà chỉ an nhiên ngắm sợi tơ nhện giăng qua lá – ngắm giọt sương đọng long lanh chóp lá sắp lìa cành – nét đẹp chỉ thấy được không tả được – chỉ biết thốt lên: “Yêu quá đất trời ơi!” 0.018 giây giọt sương lìa lá – hình ảnh tôi giữ được trong tâm!
Ngày xưa nhìn lá đếm buồn Bây giờ nhìn lá nhớ người ngất ngây Lá tìm nơi nghỉ thân gầy Tình vươn cao vút trời mây nhỏ sầu Giọt đọng trên nhánh khô cằn Giọt đọng trên má nếp nhăn tháng ngày Ừ thì Thu đến Thu đi Ừ thì yêu dấu đã ghi khó mờ Dù cho Thu đến Thu đi Cỏ Trân Lan vẫn ôm ghì lá Thu!
Và sáng nay mưa tiếng tí tách rất nhỏ, chiếc đèn tự phát sáng khi nhận được tín hiệu bay nhảy của lá ngoài hiên, khung cửa sổ bỗng thành bức tranh thật đẹp, mùi cà phê thơm ngào ngạt, hơn sáu giờ rồi mà trời tối đen như mực, nơi tôi ở rất cần mưa vì đang khô hạn, nghe tiếng mưa lòng cũng reo theo tí tách vui, nhất là hôm nay là ngày tôi được sinh ra.
Tháng Mười của tôi luôn bắt đầu bằng những ngày tưởng nhớ hai đấng sanh thành – sinh nhật của cô em thứ ba và chính tôi, ngắm nhìn bạn hữu những người chọn mùa Thu để chào đời tôi nhận ra một điều rất chung là: Mùa Thu nhiều màu sắc trộn lẫn giữa bắt đầu và kết thúc cho nên chúng tôi có rất nhiều điều để thụ hưởng tự thuở lọt lòng, mẫn cảm với chung quanh thích hết tất cả từ trắng đến đen, khéo pha màu dù tương phản hay hòa hợp và yêu tha thiết mọi điều nhất là mau nước mắt cho dù chỉ là nuốt vội vào trong! Vì những lý do ấy nên thượng đế cũng rất công bằng hay ban phát cho chúng tôi những điều rất vụn vặt khéo léo tỉ mỉ từ giọng hát đến nhừng góc nhìn nghệ thuật ngay cả kể lể bằng chữ bằng vần. Tôi hôm nay góp thêm được một chiếc lá nừa vào hộp tuổi đời, hộp đã gần đầy tôi phải dùng bàn tay vỗ về ép nó xuống bảo nó phải nằm im đừng chao đảo khiến xương cốt tôi đau nhức.
Tôi nhớ như in thời xuân trẻ không bao giờ tôi biết đến chữ sinh nhật cho đến năm có người nhắc nhở và tặng cho tôi chùm hoa thiên lý! Khi còn trẻ ai thèm nghĩ đến tuổi làm chi, nhắt là ở Việt Nam lo cái ăn cái mặc đã mệt cha mẹ nào nghĩ đến chuyện mừng ngày con chào đời kia chứ vì cứ sòn sòn “năm một hay ba năm hai” theo đúng câu chúc ngày tân hôn – vu quy: “Đầu năm sinh gái cuối năm sinh trai!” Lại thêm 30 năm nội chiến từng ngày, cha nơi biên ải mẹ ngồi ru con có đâu mà lo tiệc tùng sinh nhật, nghĩ đến bữa cơm vắng chồng ngày đi sinh nó cũng một mình vượt cạn quên đi thì hơn! Hoặc may mắn được chồng đưa đến bến vượt cạn cũng “đi biển” một mình vì chồng bị đứng ngoài hàng ba chờ nghe tiếng khóc, sau đó lại khăn gói lên đường, kể ra thôi đã sợ nên chuyện sinh nhật các con Mẹ ít khi nhắc đến, chỉ có giỗ chạp là không thể phiên phiến mỗi năm!
Thời niên thiếu đi học mải lo nghịch ngợm thì giờ nào nghĩ đến ngày sinh, chưa kể chiến tranh cũng làm nhòa đi phần nào sự náo nức được đọc trong sách được thấy trong hình người ta thổi nến cầu xin được này được khác! Bây giờ mà khoe hồi đó mỗi năm mỗi mừng sinh nhật là kể xạo!
Đến lúc biết nghĩ suy tự hỏi: “Tại sao có ta – ai cho mình xuống thế và vì lý do gì!” cộng thêm những quyển sách triết lý lung tung, cùn cũng có bén cũng có bơm vào đầu những câu hỏi chẳng ai thèm trả lời thế là tự mình làm bánh tự mình thắp một ngọn nến loại nến đốt đèn trung thu thổi chơi trong góc nhà ban đêm không ai thấy, dĩ nhiên sẽ có bài thơ hay một đoạn văn chi đó trong quyển nhật ký “ba xu”, ừ bây giờ đọc lại thấy chỉ đáng “ba xu” chứ nửa thế kỷ trước là thiên thiên vạn vạn cơ đấy vì có vẽ cả hoa cả bướm cả đôi mắt to đen còn thêm giọt nước mắt cho mặn mà trang giấy!
“Dỗ hộ em hồn triền miên sóng vỗ Trôi lang thang không ngại thác hay ghềnh Vì tình em không được vướng chân anh Tóc không phải dây tơ tình vướng víu!” Thật sự khi ấy chẳng có anh nào mà thơ đã “ghê” đến thế!
Hôm nay cũng như mọi hôm, tạ ơn chồng cho mình ly cà phê bốc khói, tạ ơn Bố Mẹ đã sinh ra dạy dỗ điều hay lẽ phải dù mình không nhận được nhiều vì đã mất hai đấng sinh thành quá sớm, tạ ơn Chúa tạ ơn Mẹ Maria Mẹ Hằng Cứu Giúp, cho nơi nương tựa khi không biết phải sống thế nào sống ra sao trong khoảng thời gian chông chênh bất định của đất nước Việt Nam 1975, tạ ơn bạn bè thân thiết nguồn năng lực giúp mình giữ nụ cười trên môi và không chịu thua khốn khó! Cám ơn các con các cháu cho mình niềm vui để sáng dậy hít thở điều hòa, vươn vai dưỡng sức mong “sống đời với con” mà chúng nó không cần chăm sóc đẩy xe – suy nghĩ thế thôi chứ sao thì cũng phải tùy theo vòng xoáy cuộc đời có thế nào sẽ nương theo thế không ngại thác hay ghềnh, vì biết không sao chống được lão, dĩ nhiên cũng không thể chống lại bệnh, vì phải có bệnh mới tử được đúng không nào!
Nên tôi tự mừng tôi tuổi mới an lành vì tình yêu nhận được từ trời từ đất và từ những người chung quanh, bạn đọc đến đây sẽ biết rằng tôi đang cảm ơn bạn nữa đó.
THƠ: Đổi Giờ – VĂN: TRONG CUỐN SÁCH – Cao Mỵ Nhân
ĐỔI GIỜ . CAO MỴ NHÂN
Đêm chi dài thế hở trời
Ngày chi nắng sáng chưa tươi đã rầu
Người chi chẳng thấy anh đâu
Buồn chi kéo mãi cơn sầu ra thôi
*
Đổi giờ, biết tự lâu rồi
Thời gian thay đổi như tôi đây này
Tình chi vừa ở trong tay
Chưa ôm cho chặt, đã đầy tối câm
*
Cali 6 tháng âm thầm
Los Angeles cứ lầm Utah
Chưa gần, anh đã vội xa
Thì thôi, cuối biển em ra Đan Hồ
*
Hải âu bỏ xứ điên rồ
Nhớ anh, cứ phải làm thơ một mình
Chờ xuân rực nắng hồi sinh
Mới mong ấm lại cuộc tình của em …
*
CAO MỴ NHÂN
*******
TRONG CUỐN SÁCH. CAO MỴ NHÂN
Trong một cuốn sách mà tôi đọc được ở chỗ kia, khi tôi đang ngồi đợi anh, dù chẳng hẹn hò…
Anh cười phát sặc, hỏi mình : ” Đang đọc truyện gì đó, không bắt đền tui chớ, có hẹn nhau mô, răng cứ chờ tui hoài rứa?
Rồi, sẽ suốt trăm năm, chúng mình chẳng hề dặn dò nhau một lời, sao mình ngồi đợi quên cả ngày tháng, và chờ giờ kết thúc cuộc tình thơ mơ mộng, mong manh.
Biết thế, nhưng sao anh với mình có vẻ như cùng đợi…
Mình cho anh biết cuốn truyện này của một tác giả ngoại quốc, hình như đã được dựng thành phim.
Truyện mô tả một thanh niên đã tự buồn, tự khổ vì nhận diện ra thanh niên đó, không thích hợp với thời đại đang sống, mà lúc đầu thanh niên đó nghĩ cuộc sống chung quanh không thích hợp với chàng ta …
Anh trầm tư, xem mình định nói gì, hay muốn gài điều gì vào sự liên hệ giữa anh với mình.
Mình lắc đầu, giữa anh với mình chẳng có điều gì mâu thuẫn cả.
Chưa kể sự liên hệ của mình với anh rất hài hoà, csvn gọi là tâm đắc, mình ghét cái tiếng ” tâm đắc”, nó là sự đảo lộn của 2 chữ ” được lòng “, thì sao không nói thẳng ra
“được lòng”, vừa trong sáng, vừa chính xác ?
Nhân vật thanh niên trong cuốn sách truyện ấy bực mình quá, đã mấy lần muốn huỷ hoại thân xác, nhưng chàng ta, thanh niên trong truyện lại rất tôn sùng Thượng Đế, không muốn từ chối công ơn Thượng Đế đã tạo dựng ra mình, nên vẫn hiện diện trong cuộc đời mà thanh niên ấy ghét cay, ghét đắng.
Đó là cuốn tiểu thuyết ” luận đề ” về cuộc sống, nó, cuốn sách bị thanh niên dằn vặt trong mọi lúc khác nhau, cả khi ăn lẫn lúc vào giấc ngủ …
Mẹ chàng ta bảo rằng: ” Con hãy không nghĩ tới, dứt khoát không để tâm vào nó nữa, một thời gian con sẽ quên thôi.”
Đúng rồi, không nghĩ tới, sẽ quên thôi.
Nhưng thanh niên không thể không nghĩ tới sự hiện diện của mình trong cuộc sống, vì thanh niên vẫn sinh hoạt kiểu tối thiểu nhất, là ăn uống vv…để duy trì cuộc sống…bình thường như mọi người.
Đồng thời với sự việc nêu trên, thì chàng ta bắt đầu hư hao sức khoẻ, tâm tình khó chịu, ngay với mẹ cậu, thanh niên nói :
” Tại mẹ sanh ra con, lẽ ra mẹ đừng sanh ra con thì không có hoàn cảnh này, con rất tiếc là để mẹ phải buồn, con muốn hoàn toàn không có mặt của con trên cõi đời này, để mẹ không phải yêu thương.”
Người mẹ ” tiếu lâm ” không kém, cười nụ :
” Con an tâm đi, từ nay chúng mình không liên quan nhau nữa, lỡ có ở chung một nhà, cũng coi như xa lạ…”
Anh lặng lẽ hỏi mình : ” Thế Bạn muốn thế nào ? ”
Chẳng lẽ mình trả lời như thanh niên nêu trên, một thứ khùng trí thức :
” Muốn mình không có anh, để không phải si cuồng mê đắm, vì chung quanh không phải của mình, mà anh lại là một nhân tố thiết thực của chung quanh, đám đông, thời đại” .
Ố ô, mình đâu dại thế, mà không phải là dại nữa. Mình là người quanh quẩn trong đám đông, mình thích cái xã hội chung quanh kìa, không hề chán ghét như thanh niên sầu tư hận đời nơi truyện kể, mình lại còn hăm hở, chan hoà sống giữa thiên hạ vv…
Thế có phải mình đã kéo anh ra khỏi đám đông, như con trăn gió ở rừng Phú Quốc xưa, hồi ba mình đi thành lập phi trường Dương Đông từ vài năm sau cuộc di cư 1954.
Mình hết hồn khi thấy con trăn quấn chặt một thân cây, tới chán nó mới rời thân cây, rồi quất vô sâu thẳm rừng hoang.
Anh cười : ” Đó thấy chưa, đừng đổ hô cho tui nha, tui thánh thiện đến tận cùng bằng số …”
Anh như thân cây cao ngất từng xanh, đôi khi mình chỉ là con rắn nước, lặng lẽ bò lên bờ, loanh quanh gốc cây, trời khô hạn quá, lại quay về thuỷ cung lạnh lẽo, chơi vơi…
Thượng Đế quyền phép tối cao, ngài đã sinh ra muôn muôn vàn vàn sinh linh, nhưng không có nghĩa là kẻ trọng, người khinh, để khiến phải ưu tư, ẩn ức, từ chối cuộc sinh tồn mà Thượng Đế đã an bài cho mỗi phần số cuộc đời.
Tha thiết với cuộc đời, lẽ sống quá, đôi khi cũng khiến chúng bạn xem thường, cho là mình dễ dãi chấp nhận.
Mình cảm thấy buồn cười chi lạ, xưa đã làm công tác xã hội ở 1/4 lãnh thổ miền nam , không trải lòng ra… thì làm sao giúp đỡ ai được . Song cũng đừng thái quá thân tình, lại mang hoạ vào thân …
Anh sắp đi xa rồi, con trăn gió vô hình, nó sẽ cuốn không gian lại, nghe hơi thở nóng một hồi, rồi tự quất về đâu…
Kiếp đời này, rồi kiếp đời khác …chàng thanh niên trong cuốn
sách, không thả mình vào mùa xuân tuổi trẻ, không cảm nhận những yêu thương của nhân thế, thì dẫu có từ chối kiếp nhân sinh này, cũng chẳng vui tươi hân hoan gì nơi cõi đời khác được …
Nên chi đối với mình, tất cả sự việc cứ để xẩy ra, cho dẫu là con trăn gió cuốn mình trong không gian, mê đắm nhiệt tình, rồi cũng phải bỏ đi nơi khác, vì nó, con trăn, cũng có lúc nó phải thả dài thân xác nghỉ ngơi, chuẩn bị cho cuộc lột xác hay chết đi … như bất cứ một sinh vật nào …
CAO MỴ NHÂN
NGƯỜI TÌNH CỦA CHAPA.
CAO MỴ NHÂN
Mới sáng ngày ra, tôi đã nghe thấy tiếng réo gọi từ thâm tâm, chàng A Phủ muôn đời ở Chapa xưa, mà tôi không thể nào quên được dáng hình thô kệch, ngốc nghếch, ngơ ngác …bên tai, cùng tiếng gió hú nhẹ thôi, lẫn trong hơi thở dài toàn mùi thuốc lá rừng .
Tôi tung mền ngồi dậy, nhìn ra cửa sổ, mặt trời hôm nay mầu vàng, không thật đỏ thắm như mấy tuần trước đây, có nghĩa là khí lạnh của sương đêm còn bao phủ .
Đó là mầu mặt trời ở lâm nguyên nhiều cây cao và ghê hồn như lúc nào cũng có ma đứng cạnh …
Và đó cũng là mầu mặt trời đẹp nhất, vào những ngày trong sáng nhất, ấm áp nhất ở nơi tôi đã được sinh ra, CHAPA, vâng , tôi muốn kể hay chỉ cần nhắc lại thời thơ ấu, niên thiếu, quanh ngôi nhà có 3 mặt tường là kiến thật dày, còn vách tường phía sau đã áp vô đá núi .
Đó là hình ảnh đầu tiên tôi thường thấy mỗi năm vào dịp xuân về, cùng hình ảnh chàng a phủ bất biến trong tâm tư tôi, mỗi mùa xuân tôi trở lại gặp chàng, người tình cổ quái của Chapa thủa đệ nhất bán thế kỷ 20 vừa qua, nghĩa là trước cái năm đất nước VIỆT NAM chia đôi, 1954.
Tôi phải dựa vào chàng ta, một nhân vật thực hư ẩn hiện trong ký ức 70 năm qua.
Ông này, chàng a phủ bây giờ rất buồn, và rất nhiều năm rồi đã rất buồn mỗi lần người mán mường ấy cô đơn đi trên con đường không còn một dấu vết cũ .
Chàng a phủ Chapa, phải chỉ danh rõ ràng là người Mèo mới đúng. Cho dẫu sau này , tôi được biết không còn danh xưng Mèo nữa , mà nào là H ‘Mong, nào Miêu, Dao,thậm chí còn kêu chàng là Miu gì đó …
Nhưng là chi thì là, với tôi thủa ở Chapa trước khi phải về châu thổ sông Hồng Hà, tôi vẫn thấy dân chúng sinh sống ở lâm nguyên này, vẫn chỉ nói với nhau 2 chữ : người Mèo .
Thế thì đã hơn một lần tôi kể với quý vị là người Mèo, mà trong đó có chàng a phủ chung chung kia, cư ngụ trên những vạt núi cao nhất, phía tầng thấp hơn của núi non là xã hội của người Mán .
Rồi cứ như thế, càng gần thế giới người Kinh, tức Việt tộc văn minh, tiện nghi là các sắc tộc cơ bản như : Mường, Tày , Nùng ( còn gọi là Nông ? ) , Sáng sủa đẹp mắt vẫn là người Thái ( Thái trắng, Thái đen ) .
Trở lại Chapa như tôi muốn kể hôm nay về chàng a phủ cùng những gì chung quanh chàng ta…
Sáng nay A Phủ nhắc rằng : ” Có thấy mùa xuân sắp về không , cho dẫu còn mùa trăng đông rét mướt nữa , nhưng trong khắp các buôn bản, nhất là ở lũng Mường Hoa, không khí sinh tồn rất lạ . ”
Còn những hơn trăm ngày nữa mới thấy mặt mùa xuân, sao bản Mường Hoa mừng rỡ điều chi vậy chứ ? ”
À, họ ra sức thay đổi những luống hoa, họ ra sức dệt thổ cẩm đủ mầu như sắc hoa ngoài trời , nhất là họ tự may những xiêm y sặc sỡ , không phân biệt tuổi tác, họ thảnh thơi sống giữa thiên nhiên …
Thì vốn từ xưa vậy rồi, có chi khác hơn đâu ?
Hơn chứ, hơn nhiều lắm , dù không phải hơn theo tiếng hú vượn xa, tiếng chim gần nhà vv… mà chúng ta không thể tìm thấy một Chapa thơ mộng, thần thoại nữa .
Tôi rời Chapa đi lâu quá rồi, tôi không hiểu những điều bạn nói a phủ à.
Thế này nhé, chữ CHAPA, đã chỉ còn trong ký ức những ai sống ở đó mấy chục năm xưa rất xưa thôi. Chapa nay kêu là SA PA, vâng SA PÁ , chính là Sa PÁ nguyên bản của H’ MONG đấy, người Trung Hoa lại làm rõ nghĩa ra SA PA là Bãi Cát .
Thế thì từ đây, chúng mình cứ kêu BÃI CÁT cho hiểu ngay nha.
Được, cũng có nghĩa là ngày xưa, tôi được sinh ra nơi Bãi Cát ư ? Thì có sao đâu.
Đừng liên tưởng máy móc vậy, bạn vừa nói ngôi nhà thủa bé thơ bạn ở với cha mẹ, là ngôi nhà ” thần thoại ” toàn vách tường bằng kiến cơ mà, ô nhà như các lâu đài trong chuyện cổ tích vậy nhỉ ?
A , đó chỉ là ” Nhà chức vụ ” ba tôi được cấp từ thời Tây, ba tôi không làm công việc giám đốc sở máy điện kiêm sở máy nước Chapa, sẽ không được ở nhà đó nữa .
Một loạt những vị công chức cao cấp ở Chapa thời đó như ba tôi, đều có nhà ở như vậy , bởi lẽ Chapa là làng nghỉ mát của những ông tây bà đầm người Pháp sống trên toàn cõi Đông Dương thời Pháp thuộc, nên không lạ khi Chapa mang mầu sắc Âu Châu từ buổi đầu tiên khai sáng, đầu thế kỷ 20 vừa qua.
Đứng trước một rừng đào cánh kép tươi vui, rực rỡ, người ta dễ quên đi những bộn bề ý thức, tư duy mà sau này có thể hiểu phạm trù ý thức hệ, thì Chapa thủa đó chính là ngưỡng cửa của thiên đường nơi hạ giới Việt Miên Lèo, mà thực dân Pháp tóm gọn trong 2 chữ Đông Dương quen tai.
Và nếu quý vị cần biết chi tiết về một SA PA, hậu thân của CHAPA xưa, lập tức có hằng trăm phương tiện giúp quý vị đi tới một SA PA, không phải CHAPA, nơi sanh quán của tôi.
Do đó tôi không tổng hợp công việc của một hướng dẫn viên du lịch, tôi lại thầm thì với chàng a phủ già nua, hay có thể gọi là lão phu miền núi Fan Si Pan, tiếng Mèo là Hua Si Pan, được hiểu là Núi Đá Khổng Lồ , cao 3143 m, coi như cao nhất Đông Dương đấy .
Nhưng với a phủ lỗi thời, thì hàng loạt a phủ hiện đại với quần jean, áo khoác da bò, hút thuốc Ăng Lê 3 số 5 , túi thổ cẩm để làm dáng với các cô gái thị thành từ nam ra bắc, quý vị sẽ không thể thấy được những đoạn đường rừng lá to bản , có ngàn loài hoa hiếm, độc, mà sắc hoa anh túc tuyệt vời tự nó thích hợp với cảm quan khách mộ điệu : không giới hạn mầu sắc, và không bó buộc hình thể.
Bởi đó là loài hoa làm say đắm, huyễn hoặc …lòng người , hoa nha phiến, hay hoa thuốc phiện vậy .
Lớp a phủ xa xưa không bị loài hoa trên làm đắm chìm cuộc sống, vì một lý do rất dản dị, nó từ cây độc nở ra, nhưng nó chỉ ví như hoa dại ở núi cao, rừng thẳm.
Nếu không có ánh sáng văn minh, không có phong thái huyễn hư, nha phiến hoa không được biết đến .
Song khi loài hoa anh túc đó được thế nhân chính thức đánh giá về sắc mầu hoa bướm thiên nhiên, hoa thuốc phiện mới xứng danh là hoa khôi thẩm mỹ .
Có ai mang nó về nhà làm tươi đẹp khuôn viên, sảnh đường không ? Nó, hoa anh túc ấy, lại bị lẫn lộn với hoa phù dung ở các vùng đồng bằng .
Hoá cho nên người ta chỉ mượn một chút danh nghĩa ” phù dung ” nơi các bàn đèn thuốc phiện : Khói phù dung.
Cái chất khói phù dung này đã quấn quýt, vấn vương không ít những thi sĩ, chính khách đi tìm một thế giới hoang tưởng .
Người a phủ cuối cùng, có lẽ vậy thật, vì lớp tuổi ông ta trẻ nhất đã sắp tròn trăm năm, ông ta thở dài chỉ cho tôi cái biên giới hoa đào dù đẹp thế , từ Lai Châu tới Cao Bằng cả trăm năm trước, nhất là từ nửa thế kỷ nay, đã phạt ngang .
Việt Nam là Việt Nam, Vân Nam là Trung quốc , không phải vì hoa mà chín bỏ làm mười , người ta đã thực sự không thương tiếc mầu hoa đỏ như ánh rạng đông nữa .
Biên giới hoa đào đã lở loét trầm kha .
Bên này vực hào sâu là cây gỗ lớn, để thay thế mỗi 5 hay 10 năm sinh lợi.
Đôi nơi còn trải thảm hoa trắng xoá, đó là hoa ban dưới trạm đường vô định ở chân núi Hoàng Liên .
Cũng ở dưới lớp hoa ban trắng mầu tang đó, là những nấm mồ sĩ quan VIỆT NAM CỘNG HOÀ bị đi tù tập trung cải tạo, bị chôn vùi nông cạn, không có giọt nước mắt thân nhân rớt thấm ướt thân tàn, vì đường trường cách trở .
Nghĩ cho cùng, SA PA hay SA PÁ bây giờ, đã qua thế kỷ mới , 1/5 của kiếp người xa lạ, còn gì nơi ngưỡng cửa thiên đường đông nam châu Á nhỉ .
Chứ nếu không quý vị sẽ hỏi là, nếu cái BÃI CÁT Sa Pa đó cứ mặc nhiên trước thăng trầm xã hội, qua những biến thiên lịch sử, thì chúng ta có gì hay tìm gì nơi Làng Chapa ( Village Chapa ) còn được dịch ra là Xã Xuân Viên, huyện Chapa
Tỉnh Laokay, bây giờ gọi là thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai đó .
Như vậy, làm thế nào dịch sát tên cái Bãi Cát SA PA thuộc Phố Cổ ( Lao Cai tiếng Hoa là Lão Nhai , để nam thanh nữ tú ra Chợ Tình gặp gỡ, hẹn hò, nên duyên chồng vợ .
Ngoài rặng núi Fan Si Pan cao ngất ngưởng mà đa số dân sắc tộc quanh vùng tây bắc kêu là ” Tảng Đá Khổng Lồ,
hiện nay người ta khai thác thành những điểm du lịch được xếp vào hạng nhất VN, trên đó có đỉnh Hàm Rồng, sân Ngắm , sân Mây vv…
Cùng những khoanh ruộng xanh mướt bò vòng quanh sườn núi cũ, tôi tìm thấy được một chút xíu vùng Cát Cát xưa, đoạn đường đèo không dài lắm .
Sương mù không đặc lắm, nên pha ánh nắng có chỗ mầu hồng lạt, có chỗ lại vàng anh như mầu mật ong.
Tôi nói với a phủ, ngày tôi còn bé, mẹ tôi cho đi chơi Cát Cát để mua rau gì đó, cùng những trái bắp to hột mầu vàng, nhưng luộc thì mềm và bở ra, ăn thật ngọt và bùi lắm .
A phủ lắc đầu: ” Bây giờ không có và không cần nữa, người ta thích những cái khác, người ta muốn mầu sắc Hanoi, Saigon, và cả bên Mỹ ” .
Tôi có vẻ như đi tìm một cái bóng của mình.
Tôi thấy tôi không giống ngày xưa, và càng không giống bây giờ, buông tiếng thở dài nhẫn nhịn, a phủ ngô nghê thế mà cũng hiểu ra điều khó diễn tả của tôi.
Cũng chẳng nên buồn, vì thời gian là cái thước đo đúng nhất, và còn là gói thuốc nhuộm muôn mầu .
Không phải như thời đệ nhất bán thế kỷ trước, người Mèo
dệt thổ cẩm là để bán cho du khách, cho nghệ sĩ trình diễn, người bản địa này thích mặc đồ thời đại như quần bò, áo thung có chữ Mỹ ghi dưới hững hình ảnh rất tây phương cơ.
Chúng tôi trở lại thành phố, để đi đúng con đường thủa ấu thơ, từ dưới dốc lên cao, dãy nhà 2 bên đường đổi thay hoàn toan, nhưng điều may mắn nhất, là khu nhà thờ đá vẫn hình thức vậy, chung quanh làm thêm cơ ngơi khác.
Khách quan thì Nhà Thờ Đá Sa Pa là điểm du lịch nặng ký nhất .
Chị MỸ tôi, khi mới 4 tuổi đã được cha xứ làm lễ rửa tội ở nhà thờ đá này .
Nhà Thờ Đá ở down town Sa Pa bây giờ là viên ngọc quý, là tài sản …duy nhất của xưa thì kêu Làng, nay kêu Phường Sa Pa , thuộc Thị xã Sa Pa, tỉnh Lao Cai, nơi chỉ rộng 9274 m vuông với dân số cơ bản là 8975 người, thống kê năm 2009 , không kể du khách thay đổi thường ngày .
Vẫn đứng ở khu Nhà Thờ Đá SA PA, tôi ngó lên cái dốc trước mặt, lưng chừng độ 2/3 con dốc là nhà ba tôi xưa, 1/3 lên đỉnh núi, và tất cả phần đất chung quanh núi là khu rừng đào cánh kép, mùa xuân hoa nở bạt ngàn như xác pháo toàn hồng ở miền suôi.
Ngoài cửa lớn từ đường đi vào lòng nhà thờ là cội đào cố hữu , hay cây đào cựu cảm , bởi chưng ai biết Sa Pa rành rẽ cho bằng A Phủ, người tình vĩnh cửu của CHAPA trong rất xa xăm huyền thoại bản Mèo thân quen, đã mất hút…
CAO MỴ NHÂN
NGÀY GIỖ Cố Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM – Mai Thanh Truyết
TRUYỆN HALLOWEEN: Bà Phù Thủy và Bữa Tiệc Ma – Phương Hoa
Hà vừa đi làm về thì nhận được điện thoại của bà Định, mẹ chồng nàng. Cũng như mọi khi, bà hỏi con dâu với giọng nói có chút e dè, gần như là năn nỉ:
– Cuối tuần này tụi con có nhà không? Mẹ muốn bắt xe buýt xuống thăm để chơi với thằng Cay, nhớ nó quá! Với lại, bữa trước mẹ đã hứa với thằng Cay là sẽ dắt nó đi xin kẹo trong ngày lễ Ma năm nay…
Thằng cháu nội năm tuổi tên Keith mà bà Định cứ một điều Cay hai điều Cay, làm cho Hà vốn đã không có cảm tình với bà lại càng thêm ác cảm. Bà nói chưa dứt câu nàng lập tức gạt phăng:
– Thôi đi mẹ ơi! Thăm viếng làm chi hổng biết nữa! Mẹ già rồi, ở nhà đi cho nó khỏe thân, cuối tuần này tụi con sẽ đưa nó đi chơi xa.
Nói xong Hà gác máy cái rụp, sợ phải nghe bà mẹ chồng tiếp tục ca cẩm làm cho đổi ý.
Sự thật thì Hà không đi đâu cả. Nàng đã hứa với Keith là cuối tuần vào ngày lễ Ma nàng sẽ dắt nó đi xin kẹo.
Đôi lúc Hà cũng cảm thấy áy náy và bất nhẫn khi đối xử với mẹ chồng như thế. Nhưng mỗi lần nghĩ đến việc bà tìm cách ngăn cản không cho Đạt kết hôn với nàng là cái cục tức nó lại trào lên cổ. Hà không bao giờ quên được chuyện người ta nói lại với nàng, có lần bà Định kêu nàng là “Phù Thủy,” đã làm cho Đạt mê mẩn không chịu cưới con gái người bạn thân thuở còn đi nuôi tù bên Việt Nam của bà, theo sự hứa hẹn từ lâu giữa hai người.
Hà tức lắm. Sau khi cưới nhau rồi có con, Hà rắp tâm trả thù bà mẹ chồng, tìm cách để tách bà ra khỏi gia đình nhỏ bé của nàng. Nhưng Đạt là người rất có hiếu và thương mẹ, Hà biết vậy nên cũng không dám tỏ ra là cô con dâu quá quắt trước mặt chồng. Nàng chỉ tỏ những cử chỉ khó chịu khi nào không có mặt Đạt. Bà Định cũng biết thế nên cam chịu buồn một mình, chứ không muốn làm khó xử cho thằng con. Và cũng vì bà rất thương thằng cháu nội Cay. Sau năm 75, bà đã vất vả vừa nuôi con, vừa thăm nuôi chồng, bị hà hiếp đủ điều mà bà vẫn tồn tại cho đến ngày ông Định ra tù rồi sang Mỹ diện HO. Sá gì chuyện khó chịu của cô con dâu! Bà nghĩ thế nên luôn nhẫn nhục dằn lòng để tỏ thái độ ôn hòa. Bây giờ ông Định đã mất, bà không muốn mất luôn thằng con và đứa cháu nội.
Sau khi Đạt cưới vợ, bà Định nhận ra sự ác cảm của cô dâu nên không muốn sống chung, sợ xảy ra chuyện chẳng hay. Bà dọn ra cái chung cư một phòng ngủ gần đó để tiện việc chạy qua chạy lại thăm thằng con trai độc nhất. Khi Hà sinh thằng Cay, bà mừng vô kể và thường qua chơi với cháu. Hà miễn cưỡng để cho bà Định qua lại, nhưng đến khi hai vợ chồng đủ điều kiện mua nhà, Hà nhất định đòi Đạt mua nhà ở thành phố khác, để bà Định khỏi phải lui tới nhiều, chướng mắt. Đạt không muốn xa mẹ, nhưng cũng chẳng muốn gia đình lục đục, sẽ ảnh hưởng cho thằng con. Cuối cùng, Đạt chịu mua cái nhà ở thành phố kề bên, để anh có thể ghé thăm mẹ thường xuyên, và cũng để bà Định có thể lấy xe buýt đi thăm cháu.
Bà phù thủy. “Chiến thắng” này làm Hà hả hê, vui sướng lắm. Nàng vô hãng khoe với con bạn thân người Mỹ Laura, là đã thành công trong việc tách rời bà mẹ chồng ra xa thằng con của mình. Hà cứ ngỡ người Mỹ khô khan tình cảm, lợt lạt tình gia đình giữa các “In-Law,” mẹ vợ mẹ chồng, con dâu con rể với nhau và việc này sẽ làm Laura vui lắm. Không ngờ nghe xong Laura cười ngất:
– “Youre a bitch!” (Mày là đồ sói cái!) Không ngờ một người hiền lành như mày mà cũng “dở chiêu” phù thủy ra!
Lại “Phù Thủy”!
Hà tái mặt, nỗi đau của nàng đã bị chạm vào làm nàng nổi giận:
– Nhưng tao không thích bà ấy!
– Thích hay không thích là việc của mày. Nhưng mày “cấm cửa” bà già chồng thăm cháu, coi chừng bị kiện đấy!
– Kiện? Hà trề môi: – Nó là con của tao, tao muốn cho ai gặp thì cho. Ở đó mà kiện!
Laura lắc đầu:
– Mày sai rồi! Đối với luật pháp, ông bà cũng có đặc quyền viếng thăm cháu của họ! Bà hàng xóm của tao năm ngoái đã thưa con dâu về tội cấm không cho bà thăm cháu nội. Và tòa đã xử bà thắng kiện, buộc cô con dâu để cho bà nội đến đưa mấy đứa cháu đi chơi mỗi hai cuối tuần một lần. Bây giờ bà ấy không cần hỏi “ý kiến ý cá” gì cả, cứ cuối tuần là đến gõ cửa. Và mẹ chúng phải chuẩn bị sẵn sàng quần áo, sách vở, đồ chơi… để cho bà chở tụi cháu đi, đến chiều Chúa Nhật chở về trả lại.
Hà nghe thế cũng hơi ngan ngán. Cái nước Mỹ thật là kỳ cục, luật lệ gì mà lại chui vào xử chuyện trong nhà của người ta kia chứ. Nhưng mẹ chồng nàng rất hiền lành và tiếng Anh tiếng u đâu có bao nhiêu mà sợ bà thưa với kiện. Mỗi lần cảm thấy có chút gì áy náy Hà thường đổ lỗi cho bà để lương tâm đỡ cắn rứt.
Cuối tuần là lễ Halloween. Vợ chồng Hà mới dọn về thành phố này chỉ vài tháng, và đây là cái lễ Ma đầu tiên nơi chỗ ở mới. Hôm qua Hà nói chuyện với Lily bà hàng xóm Mỹ nhà bên cạnh và nghe mấy đứa con bà bàn tán về một “điểm hẹn” tụi nhỏ không bao giờ bỏ qua trong ngày lễ Ma, đó là ngôi nhà màu hồng to lớn và thật đẹp ở góc đường của bà “Phù Thủy.”
Lại Phù Thủy!
Có lẽ Hà bị ám ảnh nên mỗi khi “đụng” phải hai từ này là Hà chột dạ. Lũ trẻ còn kháo nhau nhà bà Phù Thuỷ năm nay trang hoàng lễ Ma rất nguy nga, “ngầu” nhất thành phố. Hà định bụng thế nào cũng đưa thằng cu Keith đến xin kẹo để xem cho biết “bà Phù Thủy” mặt mũi ra sao.
Tính vậy nhưng Hà không chờ được. Buổi sáng cuối tuần, một ngày trước lễ Ma, trong khi cha con Đạt còn ngủ nướng, Hà đi bộ tập thể dục bên ngoài. Vừa tới góc đường là đụng ngay ngôi nhà mầu hồng nổi tiếng của “bà Phù Thuỷ”. Tưởng đâu xa, hoá ra bà ta cũng là hàng xóm. Tiện thể nàng quyết định dừng chân thăm ngôi nhà màu hồng xem thử.
Sống ở Mỹ cũng đã một thời gian dài, Hà từng đi xem rất nhiều cảnh Halloween và hóa trang độc đáo. Nhưng chưa bao giờ Hà được tận mắt chứng kiến “Ngôi nhà Ma” nào kinh khủng hơn là ngôi nhà màu hồng này. Mới bước lại gần, Hà đã sợ hết hồn vì những gì hiện ra trước mắt. Quả thật là một sự trang trí vô cùng khủng khiếp. Gọi là khu nhà Ma thì cũng chưa đúng, mà phải kêu là “ngôi nhà Ma trên nghĩa địa” thì chính xác hơn.
Trước sân, tại một gốc cây xanh là con quỉ đỏ mình người đầu sói đứng há miệng nhe răng. Xung quanh nhiều con Ma khác lớp trắng lớp đen cũng đang vung nanh múa vút hù người khách không mời mà đến. Hà đang đứng tròn mắt sững sờ nhìn vào đám bia mộ dựng xung quanh như một khu nghĩa trang thì “bà Phù Thuỷ” bước ra chào. Bà không có hoá trang, và Hà nhận ra bà Phù Thuỷ mà tụi nhỏ đồn đãi lại là một phụ nữ xinh đẹp còn rất trẻ, chỉ khoảng trong ngoài bốn chục.
– Chào chị. Cô ta nói -Welcome chị ghé thăm.
Hà cũng chào lại, tự giới thiệu, và người hàng xóm cho biết tên là Andra. Khi biết Hà là hàng xóm mới, Andra đưa Hà đi khắp nơi để xem trưng bày, giải thích cho biết tên của từng “con Ma Boo” được chưng trong vườn, như con Ma sói “Wilma Werewolf,” bà Phù Thủy “Willow Witch,” và ma cà rồng “Lily Vampire…”
Sau khi cho Hà xem hết trang trí bên ngoài, Audra nói:
– Chị Hà này, chiều nay năm giờ chị có rảnh mời chị trở lại đây dự buổi tiệc Ma với chúng tôi, chị sẽ được thưởng thức những món ăn độc đáo “có một không hai.” Hàng năm nhà tôi đều có chuẩn bị cho buổi tiệc miễn phí nhưng linh đình này, một ngày trước ngày lễ chính.
– Nhưng chúng ta mới biết nhau lần đầu, mà sao chị đối xử ưu ái với tôi như vậy?
Hà ngạc nhiên hỏi. Người hàng xóm Mỹ cười và trả lời:
– Chúng tôi mời hết tất cả mọi người, quen biết hay không cũng đều có thể vào chung vui. Nhưng chị là hàng xóm mới, và cũng chính vì tôi rất thích làm bạn với người Việt Nam. Rồi cô kể Hà nghe cô đã từng có một người bạn Việt Nam rất thân trước đây nhưng giờ đã dọn đi xa.
Con ma trong vườn. Vì lời mời thật lòng của Andra nên đến chiều Hà rủ Lily người hàng xóm bên cạnh đến dự tiệc ở ngôi nhà màu hồng để xem cho biết buổi tiệc Ma. Hai người để bọn trẻ con ở nhà với cha chúng, ngày mai mới dắt tụi nó đi xin kẹo. Hà chỉ vì tò mò muốn biết “bữa tiệc Ma” ra sao nên định đi một tí rồi về. Khi họ đến thì nhà đã rất đông khách khứa. Người ta đang ăn uống cười nói râm ran, từ bên ngoài vào đến bên trong. Bà Phù Thủy bây giờ đã “lên khuôn” hóa trang y hệt bà phù thủy chưng trước cửa. Thướt tha, nhưng…ghê rợn với khuôn mặt trắng bệt trong chiếc áo chùng đen, tay cầm cây chổi, bà Phù Thủy ra tận cửa tiếp đón và dẫn khách vào nhà.
Vừa bước qua khỏi cửa, Hà giật mình tái mặt khi nhìn thấy một cỗ quan tài đỏ chóe đặt ở góc nhà cạnh chiếc ghế sofa. Trong quan tài là xác chết nằm thẳng cẳng của một phụ nữ mặc áo đầm dài bằng lụa đen óng ánh, đầu đội mũ đen có băng đỏ hai tay gác trên bụng. Nhìn quanh phòng khách, Hà rùng mình khi thấy những chiếc đầu lâu to đùng nhe hàm răng trắng ởn với hốc mắt đỏ lòm như máu, trên tường nhiều tranh ảnh ma quỷ đủ loại nhìn giống như khu địa ngục mà Hà từng thấy trong các bức tranh minh họa
ma quỉ kỳ dị. Thấy Hà nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài và xác chết, Andra nói:
– Tôi đang kêu người đóng một cỗ quan tài thật bằng gỗ đó chị, chắc là đến Halloween năm sau sẽ có.
– Trời đất! Hà kêu lên. -Quan tài thế này cũng đủ làm cho tôi sợ mất vía rồi, mà chị còn đóng quan tài thật thì trông… khiếp đến chừng nào!
– Phải vậy mới đúng là để…hù ma chứ chị. Andra cười ha hả. -Đây là sở thích của tôi!
Thật là một sở thích quái đản. Hà thầm nghĩ.
Bao nhiêu đó cũng đã đủ làm cho Hà sợ đến “vỡ mật” rồi, nhưng khi Andra đưa Hà và Lily vào nhà bếp thì Hà còn “rợn tóc gáy” hơn. Trên bàn, từ ly tách đĩa bát đến thau chậu rổ rá đều là những hình tượng không đầu lâu thì cũng quỷ dữ, hoặc là ác thú ma vương. Andra giới thiệu bọn họ với ba người đàn bà bạn của gia đình, một người Hoa, một Mễ, và một người Mỹ trắng, đang phụ giúp lấy thức ăn vào đĩa, để sẵn ra bàn. Thomas, chồng Andra đứng ngay cửa nhà bếp, đưa cho mỗi người khách bước vào một đĩa thức ăn để họ bưng ra vườn hay trước sân vừa ăn vừa thưởng thức những cảnh tượng ma quái.
Chào hỏi Thomas và mấy người bạn của Andra xong, Hà nhìn kỹ bàn tiệc. Khi thấy các thức ăn trên bàn, ruột gan nàng bỗng cồn cào, phát ói. Một bộ óc người còn tươi roi rói nằm trên đĩa như mới vừa cắt ra. Bàn tay, bàn chân của xác chết tái xanh có dấu mới chặt từ khoảng chân ngay mắt cá. Một cái đầu lâu còn dính đầy máu nằm nhe răng trên cái khay màu đen. Rồi những hàm răng trắng ởn, mấy ngón tay da dẻ nhăn nheo, bộ xương sườn người chết… Hà run run vịn vào bàn, ráng định thần để khỏi bị té xỉu.
Các món ăn trên bàn tiệc ma.
Thế nhưng, những người khách lại rất hào hứng. Vừa nhận đĩa thức ăn là họ dùng nĩa gắm một món cho vào miệng ngay, và trầm trồ khen “Tuyệt vời!” trước khi quay bước đi ra để cho người kế kiếp bước vào. Một bà khách còn nói, “Ăn một lần là nhớ cả đời, nên mỗi năm tôi đều ghé lại đây!” Thì ra tất cả các món ăn kinh dị này đều được làm bằng vật liệu của bánh kem và chocolate, thơm ngát mũi. Dù vậy, Hà cũng chẳng thể nào có gan để nếm thử. Nàng chỉ nhặt vài chiếc kẹo rồi ngậm cho đỡ buồn nôn. Thấy Hà không dám ăn, Andra như đọc được suy nghĩ của nàng nên nói:
– Chị ra đây với tôi! Ra vườn sau cho mát.
Bước theo sau bà “Phù Thủy,” Hà càng lúc càng thấy lạnh mình. Đây quả là chốn “âm ty,” là một khu nghĩa trang với rất nhiều ngôi mộ mới đắp nằm rải rác trong vườn, dưới các gốc cây, bên cạnh hàng rào, gần vách tường của nhà mát. Mỗi ngôi mộ đều có dựng bia đàng hoàng, y như mộ thật. Andra cho biết chính tay cô đã vun đất thành những nấm mồ và dựng bia lên trong tuần lễ đầu tiên của tháng Halloween. Hà bước ra phía cây hồng um tùm bên trái, và sém chút nữa thì té bật ngửa khi đụng phải một con rắn to dài thoòng treo mình từ trên cây xuống đất. May mà Hà kịp nhìn thấy chiếc đầu người trên mình rắn nên mới nhớ ra đó là rắn giả.
– Chị Hà qua đây tôi cho chị xem cái này! Andra nói xong bước lại mở cửa nhà kho b góc khu vườn. Hà đi theo ghé mắt nhìn vào, và há hốc mồm vì sửng sốt. Trong nhà kho không biết cơ man nào là những con Ma cao lớn nhìn rất gớm ghiếc. Thôi thì đủ loại từ rắn rết, đến Ma Vương, Phù Thủy… Andra cho biết cô có một trang web hẳn hoi để bày bán những mặt hàng Halloween này. Đây là những con “ma vương giả” cao cấp, giá bán từ một trăm lên đến nhiều trăm.
– Tôi dùng hết cả những thời gian rảnh để làm ra chúng đấy! Cô hãnh diện khoe.
– Trời ơi! Hà kêu lên. –Vậy thì tiền chị để đâu cho hết.
– Chúng tôi không hề xài số tiền này, Andra nói. -Mà là dùng chúng vào mục đích khác.
Rồi cô cho biết, cô dùng số tiền “bán Ma” để bảo trợ, cấp thức ăn nuôi trẻ em nghèo bên Châu Phi và Philippines. Mỗi đợt cô bảo trợ bốn đứa, hai đứa bên Phi Châu và hai đứa bên Phi, cứ mỗi sáu tháng một lần, Andra đi gửi tiền và bốn thùng quà gồm quần áo sách vở đồ chơi cho lũ trẻ. Cho đến khi tụi nhỏ được mười tám tuổi, đủ tuổi đi làm thì hội từ thiện sẽ chuyển cho Andra những hồ sơ khác để cô tiếp tục bảo trợ.
– Vui lắm chị ạ! Andra nói. – Tụi nhỏ viết thư hồi âm gửi hình ảnh chúng cho tôi và kêu tôi bằng mẹ, dễ thương vô cùng. Hôm nào tôi sẽ cho chị xem thư và hình chúng nó. Vợ chồng tôi không thể có con, nên lấy niềm vui từ những đứa trẻ này làm niềm hạnh phúc.
Hà nghe Andra kể chuyện mà lòng xúc động vô vàn. Bây giờ nhìn Andra Hà có cảm giác đây là bà Tiên hiền dịu chứ không phải là một “bà Phù Thủy.” Nàng chợt nao lòng nghĩ đến những khuôn mặt hốc hác của các đứa trẻ Phi Châu đen nhem nhẻm, gầy gò, trơ xương vì đói thường chiếu trên TV, rồi nẩy ra một sáng kiến. Nàng nói với Andra:
– Sau này khi nào rảnh, tôi sẽ qua đây phụ với chị. Tôi có chiếc máy may rất tốt và còn nhiều cuộn chỉ lớn, cùng các loại vải vóc đủ màu mà ngày xưa anh chị tôi mở shop may, rồi dọn đi tiểu bang khác còn để lại cho tôi. Chúng ta sẽ cùng làm thêm nhiều sản phẩm mới cho bộ sưu tập của chị. Tôi muốn góp phần vào giúp cho tụi trẻ. Tôi hy vọng ở bên chị, tôi cũng có thể khát triển hơn năng khiếu sáng tạo của mình!
– Ồ! Andra kêu lên sung sướng. –Chị tốt quá! Tôi sẽ nói lại với Thomas, chắc anh ấy cũng sẽ vui lắm.
Con ma trong vườn. Khi hai người vào lại trong nhà thì đã thưa bớt thực khách ra vào. Andra bỗng bỏ đi đâu mất. Bà hàng xóm Lily thì vẫn còn mải mê thử cho hết các món thức ăn Ma trên bàn. Hà ngồi không chẳng biết làm gì nên bắt chuyện cùng bà bạn Mễ của Andra tên Angela. Angela kể, đã chơi với Andra từ khi còn học High School. Công việc hiện nay của Andra là làm quản lý cửa hàng “Health Food Store” chuyên bán các loại thuốc nam, cây lá và thực phẩm “organic” gần giống như tiệm thuốc Bắc của người Tàu hay người Việt. Chồng của Andra, Thomas, là một kỹ sư ống nước cũng đang có việc làm rất tốt. Khi Hà khen vợ chồng Andra còn trẻ mà đã tạo dựng được sự nghiệp và làm chủ ngôi nhà đẹp nhất khu xóm này, thì Angela nói:
– Đó là do công sức vợ chồng họ tự gầy dựng lên. Hai người làm việc rất vất vả để có được ngày hôm nay.
Angela còn kể, ngày trước bố của Thomas rất giàu có, nhưng ông chẳng hề giúp họ một tí gì. Ông là người gốc Đức, rất khôn ngoan và thành công trong lĩnh vực kinh doanh, nhưng tính tình cũng rất độc tài. Ông giận Thomas không nghe lời theo học kinh tế để về làm việc với công ty chứng khoán của ông, vì Thomas mê ngành ống nước. Đám cưới của đứa con trai độc nhất ông cũng chẳng cho đồng nào. Nhưng không may cho ông, trong thời kỳ kinh tế tuộc dốc, ông đã bị phá sản. Bây giờ về già ông bị trắng tay.
Hai người đang mải mê trò chuyện, bỗng nghe tiếng nhiều người xôn xao. Hà nhìn qua thì thấy một ông già đang điều khiển chiếc xe lăn từ trong phòng ngủ chạy ra. Andra bước theo sau cười tươi rói. Thì ra cô đi làm công việc hóa trang. Ông già với trang phục áo choàng trắng dài lùng nhùng phủ cả chiếc xe, đầu đội mũ chóp nhọn trắng có dải băng đen. Bộ tóc giả trắng toát dài ma quái lấp lánh dưới ánh đèn, tỏa ra hai bên má phủ xuống ngực. Mắt ông được tô vẽ đen ngòm, cái mũi thì vàng chóe, còn xung quanh miệng được sơn đỏ lòm nhìn thấy rộng hoang như là miệng một con quỷ. Tuy hóa trang nhìn dữ tợn vậy, nhưng ông già trông có vẻ ốm yếu.
Andra đưa ông đến cạnh bàn ăn, lấy đĩa gắp mỗi món một ít, và bưng lại đưa cho ông già, nói bằng một giọng rất dịu dàng:
– “Try a little bit!” Thử một chút đi. Nếu cha ăn được con sẽ lấy thêm mấy món khác cho cha.
Nói xong Andra vẹt mấy sợi tóc giả hai bên miệng ông già, sửa lại chiếc mũ nhọn cho chỉnh. Nhìn cô giống như đang chăm sóc cho một em bé. Rồi cô đứng dậy, nói bằng giọng tran trọng:
– Năm nay, đặc biệt gia đình chúng tôi xin giới thiệu với các bạn một thành viên mới, ông cụ là bố của Thomas, chúng tôi vừa đón ông về từ Ohio, và từ nay ông sẽ sống với chúng tôi.
Trong khi mọi người vỗ tay rôm rả thì Hà ngồi lặng lẽ.
Cử chỉ của Andra đã khơi dậy trong tâm nàng một nỗi ân hận sâu xa lẫn cảm giác xấu hổ khiến nàng ngạt thở. Người cha chồng giàu có của Andra đã từng bỏ rơi vợ chồng cô, vậy mà lúc cuối đời ông già ốm yếu vợ chồng cô vẫn đem về chăm sóc. Còn Hà, chỉ một lời nói vu vơ khi chưa cưới của bà mẹ chồng, mà nàng mang mãi nó trong lòng để cho hận ghét làm cách xa tình bà cháu, nghĩa mẹ con…
Trên đường về, Lily nói chuyện rôm rả, khen các món ăn trong buổi tiệc Ma. Hà im lặng bước đi, trong lòng nghĩ đến việc ngày mai dắt thằng Keith đi xin kẹo.
Về đến nhà, Hà lấy điện thoại gọi ngay cho mẹ Đạt:
– Mẹ ngủ chưa?
Đây là lần đầu tiên từ ngày về làm dâu nàng nói chuyện với mẹ chồng bằng một giọng nói dịu dàng. –Mẹ chuẩn bị để mai con lên chở mẹ xuống chơi với thằng Keith, rồi tối lại mấy mẹ con bà cháu mình dắt nó đi xin kẹo nhé!
Nói xong Hà vội vàng gác máy, để lại đầu dây bên kia bà Định xúc động đến sững sờ.
Đêm đó Hà đã có một giấc ngủ thật ngon. Và đó cũng là lần đầu nàng cảm thấy nhẹ lòng khi nghĩ đến mẹ chồng. Sáng dậy, Hà trở lại ngôi nhà màu hồng của Andra, mua bộ đồ hóa trang Phù Thủy cho nàng và một bộ áo choàng mũ trái bí đỏ cho “nội thằng Keith.”
Phương Hoa
VĂN – Bênh Bồng Như Mây – ĐỖ DUNG
Bềnh Bồng Như Mây
Đỗ Dung
Tiếng chuông đồng hồ báo thức reo vang. Sáu giờ sáng, trời mùa đông Cali tối đen. Hôm nay tôi phải có mặt tại nhà thương Stanford trước tám giờ để làm thử nghiệm. Bác sĩ sẽ luồn một ống thật nhỏ qua tĩnh mạch chính ở chân, ống sẽ theo dòng máu dẫn lên để thông tim, khám phổi. Trời thật lạnh, mặc áo len, khoác áo ngoài mà vẫn không đủ ấm. Hai vợ chồng tôi ra xe, im lặng, không nói một lời và hình như cả hai cùng trĩu nặng âu lo. Trong lòng xe được sưởi ấm, tiếng hát Ý Lan vang lên nhẹ nhàng tha thiết: “Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên…”
Đầu óc tôi bềnh bồng trở về những ngày tháng cũ xám xịt, thê lương. Những nhục nhằn, khổ đau của những người đàn bà còn ở lại, phải đối phó với những kẻ đang vênh vang thắng thế, phải đương đầu với những hoàn cảnh khắt khe.
Căn nhà mẹ tôi mua ở Long Thành để có nơi chốn hồi hương cho khỏi bị lùa đi kinh tế mới. Ao rau muống nước đục ngầu mà thằng bé con rơi tòm xuống tưởng chết. Những luống khoai mì ốm yếu xiêu vẹo vì không người bón tưới thường xuyên. Căn nhà thấp lè tè, tối om chỉ nhỏ như một cái buồng, mái tranh, vách lá, nền đất nện… Mẹ tôi ở đó một mình, như bị đầy đọa, ra vào im lìm như cái bóng.
– Mẹ ơi, Mẹ lấy sẵn cho Bố tiền qua cầu!
Tiếng nói của nhà tôi lôi tôi về thực tại. Bầu trời đã loãng ra, trắng nhờ nhờ và mưa lất phất.
– Mẹ đừng lo, chỉ mấy tiếng đồng hồ là xong ngay mà. (Chúng tôi quen xưng hô với nhau như thế sau khi sanh thằng bé út).
Thấy tôi ngồi yên lặng, chắc lòng anh cũng đang hoang mang, lo lắng. Anh nói trấn an vợ hay để tự làm yên lòng mình.
Sau thủ tục nhập viện, đường đến nơi thử nghiệm hơi xa nên nhà tôi lấy xe lăn cho tôi. Mọi khi ngồi trên chiếc “wheelchair” cho chồng đẩy tôi luôn miệng đùa cợt, trêu chọc bác phu xe:
– Thiên bất dung gian nhé! Lấy vợ trẻ để mong về già được hầu, bây giờ phải đẩy xe cho vợ… hihihi…
– Hà hà…có anh giáo gian tưởng được vợ đấm lưng ai dè phải đấm lưng cho vợ!
Hôm nay tôi cười không nổi. Nhìn bóng in vào những cửa kính khi đi ngang, anh đã mang nét lụ khụ, lưng hơi còng xuống chứ không phưỡn ngực như thời trai trẻ, như những ngày chúng tôi mới quen nhau.
Ngày ấy cô nữ sinh mười tám tuổi cắp sách đi thi Tú Tài hai. Ông bố đã sửa soạn sẵn cho con gái chiếc áo dài trắng nội hóa sạch sẽ, thơm tho, phẳng phiu và buổi sáng đã hò hét bảo con em sửa soạn xe sẵn để đưa chị. Cô thí sinh cả đêm không ngủ, đọc nguyên cuốn Luận Lý Học dày cộm như đọc tiểu thuyết, không dám nói một lời, chỉ sợ những chữ mới nhét vào đầu sẽ rớt ra. Đến trường Gia Long, lần theo bản đồ chỉ dẫn, lần theo số báo danh, cô thí sinh đi tìm chỗ. Giờ đầu tiên là giờ thi Triết. Chỗ ngồi thi ngay đầu bàn nhất, phía bàn giáo sư, y như chỗ ngồi của cô trong lớp nhất A1 ở Trưng Vương. Đề thi vừa được viết trên bảng, con nhỏ thiếu điều rú lên vì… trúng tủ. Giở gói ô mai để ngay trước mặt và con nhỏ bắt đầu phóng bút.
– Thưa Thầy cho con xin thêm tờ giấy!
Con nhỏ đã viết lấp đầy tờ giấy thứ nhất. Thầy giáo coi thi đưa thêm tờ thứ hai, vuốt thẳng và trịnh trọng để trên bàn. Thỉnh thoảng con nhỏ nhón cục ô mai cắn một miếng rồi lại cắm cúi viết, đâu biết rằng người thầy giáo coi thi ấy đang chăm chú nhìn và cứ tủm tỉm cười.
Cái thuở ban đầu, cái buổi gặp gỡ đầu tiên chỉ giản dị như thế.
– Bà Nguyễn, mời bà theo tôi vào đây! Người y tá trẻ vui vẻ ra đón.
Sau khi thay y phục nhà thương, tôi lên giường nằm, bịch thuốc treo trên cao nhỏ từng giọt vào mạch máu, mũi được cắm ống Oxygen. Từng đợt y tá đến, đo máu, lấy máu, gắn máy đo nhịp tim. Nhà tôi vẫn được phép ngồi cạnh tôi, chưa phải ly cách.
Bác sĩ Z, người vẫn săn sóc tôi đến cùng hai bác sĩ trẻ, một nam một nữ. Cả hai đều chưa đến ba mươi. Cô gái xinh xắn, người tầm thước, tóc vàng, da trắng nõn, cặp mắt mở to trong veo màu hạt dẻ. Cô ta tự giới thiệu tên M, giải thích tiến trình và cho biết cô sẽ là người trực tiếp thực hiện cuộc thử nghiệm này. Một thoáng ngần ngừ, tôi nhớ lời dặn dò của một người bạn: “Mổ xẻ hay thử nghiệm quan trọng mi phải yêu cầu bác sĩ chính làm, mi đừng để sinh viên thực tập. Có chuyện gì là hối không kịp đó”. Bác sĩ Z người Ấn Độ, trưởng phân khoa phổi. Mặt ông thật tươi, hai tai dài, đẹp. Mỗi lần đến khám bệnh tôi thường gọi đùa ông là Ông Phật, ông chỉ mỉm cười. Nếu tôi từ chối, cô bác sĩ trẻ này sẽ buồn và nếu ai cũng từ chối thì làm sao sinh viên có cơ hội thực tập. Ý nghĩ lướt nhanh trong đầu và tôi vui vẻ trả lời là tôi rất hân hạnh được cô lo cho tôi. Như đọc được tư tưởng tôi bác sĩ Z nói:
– Bà Nguyễn, tôi sẽ có mặt trong suốt tiến trình này. Bà sẵn sàng chưa?
– Bố ngồi ở phòng đợi, họ đưa Mẹ ra là Bố vào ngay.
Khẽ gật đầu, mắt tôi cũng cay cay.
Người y tá đẩy tôi qua một hành lang dài hun hút. Tôi thật sự cô đơn. Như mấy lần thử nghiệm trước, tôi sẽ được chích thuốc mê, tôi sẽ được đưa vào cơn chết tạm và khi tôi tỉnh dậy thì mọi sự đã xong. Nếu lần này tôi không dậy nữa… hình ảnh các người thân của tôi hiện ra, mặt mẹ tôi rõ nét, rồi đến chồng tôi, mấy đứa con, mấy đứa cháu bé bỏng, chị em, bạn bè… Tự nhiên nước mắt tôi ứa ra. Và như phản xạ từ tiềm thức, tôi niệm Phật.
Hai người y tá nhẹ nhàng chuyển tôi sang chiếc bàn dài phủ giấy trắng dưới chụp đèn trắng sáng, màu trắng sáng chói lòa. Căn phòng trắng lạnh lẽo. Mấy người xúm lại làm những sửa soạn cuối cùng, lại đo máu, đo nhiệt độ, đo Oxygen, lại lằng nhằng những dây cùng nhợ. Bác sĩ Z và hai bác sĩ trẻ đến, họ đã đội mũ và mang khẩu trang, chỉ còn hở cặp mắt. Tiếng dụng cụ khua chạm lanh canh. Tôi yên lặng tập trung tinh thần niệm Quan Thế Âm Bồ Tát.
Một y tá đưa tôi ly nước và viên thuốc:
– Bà Nguyễn, thuốc này sẽ làm bà thanh thản, thuốc làm bà thoải mái thôi, không phải thuốc mê.
– Tôi không bị mê, tôi vẫn tỉnh à?
– Đây là loại thuốc an thần, bà sẽ cảm thấy êm dịu, nhẹ nhàng, không phải thuốc mê. Nào, bà sẵn sàng chưa, chúng ta bắt đầu nhé!
Tiếng bác sĩ Z dịu dàng giải thích.
Bác sĩ M đến bên nói tiếp:
– Chúng tôi sẽ làm tê ngay chỗ đưa ống thử vào người, bà sẽ không cảm thấy đau đớn gì đâu.
Bấy giờ tôi mới quan sát quanh phòng, ngoài chiếc màn hình ghi nhịp tim và nồng độ oxygen trong máu ngay đầu giường còn một màn hình to bằng chiếc TV 52 inches treo trên tường.
Uống viên thuốc được một lát người tôi lâng lâng, chơi vơi như những cụm mây trắng và tôi chìm dần trong vùng mây trắng bềnh bồng trôi.
Mây bay, mây cứ bay… một thảm cỏ xanh hiện ra rồi đến khu vườn đầy hoa trước biệt thự nằm trên đường Cộng Hòa Đà Lạt. Một đám trẻ nô đùa, hái hoa, bắt bướm, chạy đuổi nhau, những tiếng cười khanh khách, giòn tan. Bồn hoa Quỳ, Hướng Dương đầy hoa vàng tươi đang chào nắng, những cánh Pensée mỏng manh rung rinh và những vạt hoa cúc vàng, cúc trắng nở rộ như reo cười. Hàng rào song sắt bao quanh biệt thự như được bọc bằng những khóm hoa hồng đủ màu sắc… Hình ảnh chị em tôi thời thơ ấu, mỗi năm được lên nhà bác ở Đà lạt nghỉ hè. Rồi như khúc phim được chuyển cảnh, tôi như đang nhìn thấy tôi với chàng tay trong tay trong khu rừng thông ven Hồ Than Thở, những cội thông già vươn cao, thẳng tắp. Tiếng lá reo vi vu. Khung cảnh thật tịch lặng. Nắng hanh hanh, gió se lạnh, tôi như đắm chìm trong hạnh phúc êm đềm và như quyện mình trong hơi ấm mới quen của người chồng mới cưới.
Chợt đau nhói, tôi vùng mình ú ớ.
– Bà Nguyễn, bà có sao không?
Tiếng bác sĩ Z.
Tôi nhẹ lắc đầu trở về thực tại. Tôi đang nằm trên chiếc bàn trắng trong bệnh viện, đang ở trong trạng thái chập choạng mơ màng, nửa mê, nửa tỉnh và tôi đã được trở về một quá khứ đẹp đẽ xa xưa.
Ngước nhìn lên màn hình, quả tim tôi đang đập phập phồng và hai lá phổi hiện ra với những đường chằng chịt như rễ cây. Tôi không phải soi vào nội tâm mà tôi đang nhìn vào bên trong thân xác và tôi thấy thật rõ một đường nhỏ giống như sợi chỉ đang luồn lách.
Tôi lại chìm đắm… tôi nhìn thấy người thiếu phụ trẻ trong bộ đồ đen bế thằng bé con chưa đầy một tuổi. Tôi lại nhìn thấy tôi trong Sài Gòn sau ngày mất nước. Tôi bế thằng bé đến một căn nhà ở đường Gia Long, căn nhà được tiếp thu để làm văn phòng ban cải tạo phường thuộc quận một. Tầng dưới kê một bàn giấy, mấy người ngồi làm việc. Tôi được chỉ lên tầng trên. Một căn phòng trống trơn, mắc độc một chiếc võng. Một người đàn ông khoảng năm mươi, cởi trần mặc chiếc quần dài bộ đội đang nằm toòng teng, một chân trên võng, một chân thả xuống đất để đu đưa. Tôi dợm mình quay xuống cầu thang.
– Chị kia, phải chị tới khiếu nại không? Chị vào đây!
Nhận ra ông ta là người đã lên lớp giảng chính sách của nhà nước về kinh doanh bữa trước tại thương xá Tam Đa, tôi bồng con quay lại, rón rén ngồi xuống ngay ngạch cửa. Cũng may khi được gọi đi, mẹ tôi đã cẩn thận dặn bế thằng bé theo để nếu có bề gì người ta phải trả thằng bé về nhà và mẹ tôi biết đường mà đi kiếm.
– Đâu, có chuyện gì chị nói đi!
– Thưa ông…
– Khỏi, chị khỏi gọi tôi bằng ông.
Tôi ngập ngừng:
– Thưa bác… Thưa chú…
Thấy ông ta yên lặng tôi nói tiếp:
– Thưa chú, cháu làm thợ may ở thương xá Tam Đa.
– Chị là chủ hay chị làm công?
– Dạ, cháu mướn tiệm, nhận may gia công.
– Rồi sao?
– Cán bộ đến nhà kiểm kê tịch thu của cháu cái máy may, máy vắt sổ và mấy xấp vải của khách đưa may.
– Chị là chủ tiệm, họ tịch thu là đúng rồi, mai mốt các cửa tiệm vào quốc doanh hết, các chị sẽ vào tập thể, nếu làm thợ may chị có máy của cơ quan, chị đâu cần máy riêng.
Nỗi uất dâng lên tới đỉnh đầu, tôi ráng dằn lòng nhỏ nhẹ:
– Thưa chú, nhà nước nói rõ là chỉ tịch thu những tư liệu kinh doanh, không tịch thu tư liệu sản xuất. Máy để cháu may mướn. Cháu đâu có bán máy may!
Ông ta gườm gườm nhìn tôi:
– Ai nói chị điều đó?
Tôi điềm tĩnh trả lời:
– Chú! Chính chú đã giảng điều đó. Cháu nhớ rất rõ. Cháu đã chăm chú nghe vì chú giảng hay lắm. Chú nói hay lắm.
Ông ta châm một điếu thuốc và rít một hơi dài nhìn tôi đăm đăm. Tôi lạnh cả gáy đợi phán quyết.
– Được rồi, chị để giấy tờ đây, chị về đi tôi sẽ cứu xét trường hợp của chị.
Đặt thằng bé vào chiếc ghế con gắn sau ghi đông chiếc xe đạp mini. Tôi đạp xe đi mà muốn òa lên khóc. Khóc cho vơi đi những ấm ức, những tủi nhục phẫn uất. Những con đường Sài Gòn che phủ bởi những hàng cây sao cao vời vợi, tiếp đến những con đường ngợp lá me xanh… Tôi chẳng còn thấy gì thơ mộng, nghĩ đến chồng đang trong trại tù cải tạo, tôi nhớ quay quắt và cùng cực trong nỗi cô đơn.
Màu trắng của mây lại bềnh bồng và tôi lại thấy tôi đang ngụp lặn trong màu xanh bát ngát của biển, từng đợt sóng nhấp nhô, nhấp nhô tung bọt trắng xóa vào bờ. Tôi đang ở bãi biển Galang. Tôi đang thở hít không khí tự do. Đầu óc thật thanh thản và hân hoan nghĩ đến tương lai tốt đẹp ở vùng đất hứa. Tôi dẫm chân lên cát ấm và chạy tung tăng trong gió. Gió quấn quít quanh tôi. Tôi ưỡn ngực hít một hơi thật dài.
Choàng tỉnh giấc, tôi mở mắt ra, chạm vào khuôn mặt bác sĩ M đang cúi xuống:
– Bà Nguyễn, bà tỉnh dậy nào. Mọi việc xong rồi. Bà là bệnh nhân thật tốt. Chúc bà mau bình phục.
Mấy người y tá xúm lại tháo dây, lau chùi và mặc áo lại cho tôi. Ba bác sĩ chào tôi và hẹn sẽ cho biết kết quả vào kỳ khám bệnh tới.
Họ lại chuyển tôi sang chiếc giường khi nãy và đẩy tôi về phòng hồi sức. Tôi phải nằm yên trong một tư thế, cứ một lát lại có người đến khám vết thương và ấn thật mạnh để khỏi tụ máu bầm. Sau ba giờ, chiếc nệm cứng dưới lưng khiến tôi mỏi mệt rã rời, người anh ách nước, miệng khô đắng và bụng thì đói meo.
Hai người khán hộ đến giúp tôi làm những vệ sinh cá nhân, nâng đầu tôi dậy cho uống nước, bón tôi từng thìa canh, tôi cảm thấy yếu đuối như trẻ con. Tôi mệt mỏi ngủ thiếp một giấc dài không mộng mị. Thức dậy, cô y tá đẩy tôi sang phòng cũ nơi tôi nằm chờ khi sáng và tôi lại nhìn thấy khuôn mặt thật thân quen.
Đỗ Dung
HỒI KÝ – Hoàng Mai Nhất & Bằng Hữu Hiệp Phan
Nguồn hình: Internet
Có ai còn nhớ không:
Ngày xưa đi học Tiêủ Học (1955-1960), cứ mỗi cuối năm phát thưởng cho những học sinh học giỏi (giỏi về học vấn, giỏi về hạnh kiểm); thì trong số những quà thưởng ấy, bao giờ cũng có những quyển tập 100 trang hay 50 trang, mà điều đặc biệt là bìa sau của những tập vở ấy, luôn luôn có truyên hình bằng tranh màu như: Phạm Công Cúc Hoa, Tấm Cám, Hai bà Trưng, Bà Triệu Ẩu cởi voi đánh giặc Tàu chạy có cờ; Vua Quang Trung đại thắng quân Thanh, Tướng Lý Thường Kiệt phạt Tống bình Chiêm; anh hùng Lê Lợi; Ngô Quyền và Dũng Tướng Trần Bình Trọng của nhà Trần lúc chống quân Mông Cổ bị bắt; đã nói một câu nói để đời đi vào lịch sử dân tộc Việt:“Thà làm quỷ nước Nam chớ không thèm làm Vua phương Bắc “…v…v…
Ngày ấy tôi rất thích những tâp vở có truyện tranh ấy mỗi khi được lãnh thưởng. Và những câu chuyện bằng hình ảnh ấy đã đi theo suốt cuộc đời tôi cho đến bây giờ và mãi mãi không bao giờ quên. Tôi rất là trân quý, kính trọng tinh thần yêu nước của tiền nhân để hun đúc cho mình một tinh thần ái quốc và hãnh diện là mình đã được làm con dân nước Việt (VNCH).
Hoàng Mai Nhất (Lê Anh Thượng) Seattle, WA 25/10/21
Xin giới thiệu: Mời đọc bài của Hiệp Phan
Hồi ký của “cậu bé Biên Hòa”
Tôi sinh ra và lớn lên tại Biên Hòa, một tнàин phố hiền hòa nằm bên cạnh dòng sông Đồng Nai thơ mộng.
Nhà tôi ở gần вệин viện Pнạm Hữu Chí (nay là вệин viện Đồng Nai) – một nhà тнươиɢ thí nơi chuyên chữa вệин miễn phí cho mọi người, nơi đây kнôиg hề phân biệt người có tiền hoặc kнôиg, kнôиg hề từ cнốι chữa вệин cho người dân dù phí tổn cao như thế nào. Mọi người вệин đều được đối χử bình đẳng như nhau. Tôi nhớ có một lần bị đạp phải gai nhọn trong lòng bàn chân, bị mưng mủ, đᴀu nhức kinh кнủиɢ, mẹ tôi đưa tôi vào вệин viện này, các y tá & bác sĩ, tiếp chúng tôi một cách ân cần тử tế, với thái độ tôn trọng người вệин mà kнôиg hề hách ᴅịcн hay gợi ý vòi tiền hoặc quà cáp từ người nhà của tôi. Trên tường вệин viện, tôi kнôиg hề thấy có khẩu hiệu “Lương y như từ mẫu” nào cả, nhưng thái độ cư xử hòa nhã của nhân viên y tế ở đây kнôиg khác chi là mẹ hiền. Ngoài cổng вệин viện có một bảng hiệu cấm bóp kèn cho các loại xᴇ cộ để kнôиg ảnh hưởng đến người вệин.
Ngày xưa, thời niên thiếu của tôi đã từng có một hệ thống нàин cнíɴн gọn nhẹ, phục vụ người dân hữu hiệu và lịch sự như vậy, chứ kнôиg phải “нàин” dân là cнíɴн.
Ngày xưa, tôi đã từng biết về một xã hội мαng đầy tình nhân văи qua cách ứng χử của mọi người:
Tôi còn nhớ khi cha tôi mất vào năm 1973, khi xᴇ tang đưa linh cữu ông đến nơi an nghĩ sau cùng, ngồi trên xᴇ tang tôi quan ѕáт thấy các anh cảnh ѕáт, quân cảnh đang làm nhiệm vụ trên các giao ʟộ, khi gặp xᴇ tang đi ngang qua, các anh đứng nghiêm chào theo nghi thức quân cách. Và một điều ngạc nhiên lý thú khác là tôi thấy những người dân mà gia đìɴн tôi kнôиg quen biết, khi họ đi xᴇ gắn máy hoặc xᴇ đạp vượt qua xᴇ tang, kнôиg ai bảo ai, họ đều giở nón cúi đầu chào tiễn biệt cha tôi. Hình ảnh này đã cho tôi một ấn tượng và cảм xúc thật mạnh mẻ. Sau này tìm hiểu, tôi mới biết đó là lề thói ứng xử tнông тнường của mọi người để tỏ lòng tôn trọng đối với người đã khuất.
Vào thời ấy, mỗi khi ngồi học bài khuya, đến 10 giờ, tôi тнường nghe từ radio hoặc TV nhắc nhở mọi người nên điều cнỉnh âm thanh vừa đủ nghe để kнôиg phiền lòng hàng xóm.
Tôi còn nhớ mỗi sáng thứ hai chúng tôi làm lễ chào cờ ở trường tiểu học Nguyễn Du, khi quốc kỳ được kéo lên trong tiếng quốc ca vang lên của toàn thể học sinh, tôi thấy phía bên ngoài cổng trường: chú xích lô dừng xe lại, những người bộ нànн đi ngang dừng lại và bà bán hàng rong cũng bỏ quang gánh, tất cả tự giác đứng nghiêm cнỉnh hướng về quốc kỳ cùng hát quốc ca cho đến khi lễ chào cờ kết thúc .Ý thức công dân của người dân miền nam Việt Nam thời ấy là như thế.
Khi có dịp đi Saigon, tôi để ý thấy tại các giao lộ, các loại xe cộ đều tự giác dừng lại khi đèn đỏ cho dù kнôиg có cảnh ѕáт. Lúc ấy, kнôиg hề có chuyện vượt đèn đỏ cнạy bạt мạnɢ khi kнôиg có người kiểm soát.
Trong giao tế, cảм ơn và xιɴ lỗi là câu nói тнường xuyên của người dân thời ấy.
Ngày xưa thời niên thiếu của tôi đã từng có một xã hội tuy còn nhiều bất cập nhưng rất là văn minh và có được một nền dân trí cao như vậy.
Ngày xưa, tôi đã từng thụ hưởng một nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng. Nền giáo dục này đã dạy tôi làm người trước khi dạy tôi học thức.
Năm 1966, tôi vào học lớp năm (nay là lớp một) tại trường tiểu học Nguyễn Du, trên tường của lớp học vỡ lòng này có một câu cách ngôn “Tiên học lễ hậu học văn” treo cố định suốt cả một năm học .Sau này lớn lên, tôi mới hiểu đó là tiêu chí căn bản của nền giáo dục VNCH.
Tôi đã từng có những thầy cô ở bậc tiểu học tận tâm giảng dạy cho tôi những bài học rèn luyện nhân cách qua sách giáo khoa như: Em tập tính tốt, Các bài tập đọc, sử ký, địa lý, khoa học thường thức, những bài học thuộc lòng từ quốc văn giáo khoa thư, Gia huấn ca, Nhị thập tứ hiếu, Tâm hồn cao thượng ….Các giáo trình này đề cao các giá trị lịch sử, dân tộc, tự chủ, nghệ thuật, văn hóa …để rèn luyện cho học sinh giỏi về kiến thức tổng quát và có tấm lòng nhân hậu yêu nước thương nòi, có lòng biết ơn mọi người trong xã hội.
Bậc tiểu học, hàng tuần thầy cô giáo đều viết lên bảng câu cách ngôn của tuần từ các ca dao tục ngữ ẩn chứa triết lý tình thương để in sâu vào tâm khảm của học sinh. Hàng tháng thầy cô thiết lập bảng danh dự để xếp нạng học sinh theo điểm số. Ngày ấy chất lượng học sinh được phân loại rõ ràng cнíɴн xác chứ kнôиg hề có tình trạng nhà trường cнạy theo thành tích với tỷ lệ 100% học sinh giỏi không có yếu kém !!
Năm 1970, tôi vào trường Trυng học công lậᴘ Ngô Quyền sau một kỳ thi tuyển sinh đệ thất (nay là lớp 6) đầy gay go nhưng cũng rất công bằng. Ở bậc trυng học, tôi đã có những vị giáo sư tận tâm truyền đạt cho tôi kiến thức tổng quát, ý thức công dân và dạy cho chúng tôi về Công pháp quốc tế, Tam quyền phân lậᴘ, về giá trị của một xã hội tự do, dân chủ. Khi học lớp 9, chúng tôi đã được thầy luyện cho kỹ năng thuyết trình trước đám đông, tập tính phản biện và biết phân tích, so sánh đối chiếu , biết tranh luận trước những vấn đề mà chúng tôi kнôиg đồng ý, chứ kнôиg phải răm rắp cúi đầu nghe theo một chiều từ người khác như bầy cừu mà kнôиg dám ᴘнản kháng.
]Ngày xưa Biên Hòa quê tôi có nhà sách Huỳnh Hiệp bán đủ mọi thể loại sách rất đa dạng phong phú từ nhiều tác giả khác nhau, từ nhiều quan điểm khác nhau, kнôиg có vùng cấm. Ở nơi ấy, kнôиg cần mua sách, nhưng tôi có thể tự do thoải mái đọc “cọp” tất cả các loại sách mình ưa thích mà kнôиg bị trở ngại nào. Chúng tôi тнường gọi nhà sách này là тнư viện tri thức cho học sinh nghèo.
Thời niên thiếu đã đem lại cho tôi nhiều kỷ niệm tuyệt vời và tự hào về một xã hội tươi đẹp mà tôi đã từng sống.
Nhưng một thời hoa mộng ấy đã thật sự kết thúc một cách oᴀɴ nghiệt vào cuối tháng 4 năm 1975 khi tôi 16 tuổi.
Giờ đây, khi thời gian qua nhanh tuổi đờι đã xế, trí nhớ đôi lúc cũng còn lẫn lộn, nhưng quên gì thì quên, tôi kнôиg thể nào quên được những năm tháng được sống trong một xã hội hiền lương tốt đẹp , dù ở trong thời kỳ chιến tranh khốc liệt nhất. Tôi kнôиg thể nào quên được ngày xưa tôi đã từng có một thời niên thiếu như thế. Tôi cũng sẽ kể lại cho con tôi là tôi đã từng sống trong một nước Việt Nam Cộng Hòa văn minh và nhân bản như thế trong quá khứ, mà thế hệ con cháu tôi ngày nay kнôиg thể nào tìm lại được các giá trị ấy ngay trên chính quê hương của tôi .
Hiep Phan
VĂN – Chiều Bệnh Viện – Cao Mỵ Nhân
CHIỀU BỆNH VIỆN. CAO MỴ NHÂN
Khi tôi đến thành phố đó, mặt trời bắt đầu lên một lượt với ngày, vạt núi thả dần ánh nắng mầu vàng, đổ chứa chan trên khắp nẻo, tôi nói xe dừng lại ngắm nhìn …
Anh mỉm cười trong tâm thức tôi, vì anh có đang ở cạnh tôi đâu, đó chỉ là những ngôn từ không thoát ra tiếng nói, hay đó chỉ là mơ mộng lâu ngày trở thành …quán tính.
Tôi muốn nói với anh rằng : Anh không cần phải thốt lên âm thanh, chúng ta đang là những nhân vật nổi trong một bức tranh tĩnh .
Anh biết tôi từng phút giây đang làm gì, vì mỗi ngày tôi viết thư cho anh, kể hết ngọn nguồn . Không đòi hỏi một hồi âm, dù thì thầm như hơi gió mùa thu, lẫn với sương bay, khói toả…
Tại sao có một người biết tôi từng giọt nước mắt rơi ra, từng tia nhìn lặng lẽ, mà anh lại …chậm hiểu thế chứ ?
Anh cười một cách xót xa: ” Thì suy tư của M có lạnh mấy, như gió mùa thu, cũng chỉ mát thôi . ”
Đúng rồi, có cần chi đốt lửa chờ khí ấm, bởi gió mùa thu đã lẫn trong hơi thở M rồi …người tình tịnh ngôn thân kính ạ.
Thế là mình đã mấy ngày ” nín lặng ” trong cái nhà thương ở thành phố Thiên Thần Gabriel, trong tư thế bắt buộc phải ngồi bó gối nơi chiếc ghế dành cho người thăm, kê ở cạnh giường bà chị đang đau thập tử nhất sinh.
Cả một đại dương cách trở thân tộc, chỉ có bà chị với mình ở xứ sở này, hai chị em đều đang tuổi thu vàng, ngắm cây phong bắt đầu thưa lá… nghe hơi thu lùa qua thân áo, và nỗi buồn tênh thấm vào từng chân tơ kẽ tóc mỗi người .
Bà chị ngó mông lung, nói thật nhỏ nhẹ :
” Nằm nhà thương 4 ngày, chờ thuốc chưa về, giống như là chờ chết.”
Bà chị yên lặng, rồi tiếp:
” Hình như phải có thật nhiều tiền, ở MỸ tư bản mà, để chưa hay không được cơ quan y tế chấp thuận cách chữa hay thuốc hiếm kiểu ” Mê đi Mê đi “, là bỏ tiền ra ngay . ..
” Không .” Tôi trả lời : ” Vẫn phải đi theo hành lang y tế vạch sẵn, bởi có ôm bịch tiền, cũng chẳng kéo được bịnh có tên có tuổi dữ tợn đó, ra khỏi cơ thể đâu . ”
Bà chị tội nghiệp của tôi bấy giờ đang bị nghi là ung thư bạch huyết cầu, những vết nám thoạt mầu hồng , sau sậm dần, rồi nổi những cục u, đau nhức .
” Mê đi – Mê đi ” của chị đang chưa cho phép tiến hành hoá trị…đau nhức và tái tê về cuộc sống chênh vênh trên đường đời .
Chồng chị mất năm ngoái, chị đau năm nay, không con cháu. Nhà thương là nơi chị đang tạm trú mấy hôm nay, nhưng chị với tôi đều có cảm tưởng là lâu quá rồi .
Cái viễn ảnh trước mặt mang mầu sắc thê lương chi lạ, nhưng chị yêu đời quá, chị muốn sống cảnh “độc thân ” thêm vài năm để đi chơi cho biết đó, biết đây…
Chị bảo có lên Thiên Đường đi nữa, thì cũng phải biết hạ giới này đẹp đẽ đến thế nào chứ.
Sở dĩ có hiện tượng này, thèm được sống để ngắm trời đất chung quanh ta thôi.
Chị biết tôi sẽ hỏi : ” Chị muốn sống cho ai ? ”
Và tôi biết chị sẽ trả lời : ” Muốn sống cho bản thân chị .”
Tôi cũng yêu đời như chị, nhưng lại hay so sánh các hoàn cảnh khác, của các đối tượng khác.
Tôi không đặt ước hẹn với đất trời khiêm cung như chị, xin Thượng Đế có 2 năm ( hai năm quay đi quay lại là hết ) .
Tôi không xin Ngài kiểu lương thiện thế, tôi xin cho cuộc tình tôi thơ mộng suốt trăm năm.
Buổi chiều thứ bảy ở nhà thương, khi ánh nắng bắt đầu lên lại chín tầng mây buồn nản, tôi không dám nhớ anh giờ phút này, nó làm như không gian hấp hối, như tôi đang kể, nhất là ở nhà thương, không có người thân kẻ thích.
Tôi lặng lẽ ngồi trong phòng khách lớn, nhìn thân nhân và khách ra vô thăm viếng .
Đủ giới người, đủ tuổi tác, đủ sắc tộc …
Có tiếng khóc thầm, khóc nhỏ, hay chỉ sụt sịt trong lỗ mũi, nhưng cũng có tiếng la to vì bịnh nhân đau quá .
Ngày nghỉ nên lượng người thăm viếng đông hơn ngày thường, tuy nhiên chẳng thấy ai cười rỡn, như thế là rất biết tôn trọng bịnh nhân .
Y tá tới thông báo cho chị tôi biết rằng tối , dù ai cũng nghĩ và lo là không có thể có thuốc làm xạ trị cho chị ấy, nhưng thuốc đã về, chị tôi sẽ được chuyển lên lầu 4, để làm “ki mô” như mong đợi được chữa trị .
Tôi định nói với chị nhà xa quá, chắc tôi không tới được thường xuyên đâu. Nhưng nhìn vẻ buồn nản, đôi khi hốt hoảng, tôi lại sợ chị tôi mang cảm giác tuyệt vọng về sức khoẻ không phục hồi .
Cảm giác tuyệt vọng thì khởi sự đều giống nhau, hư hao sức khoẻ như nêu trên, suy thoái tinh thần dẫn đến bất lực trầm trọng, mất niềm tin trong cuộc sống, phá sản, vô hiệu hoá tài năng và khả năng. Muốn biến khỏi thế gian này .
Sau ngồi phân tách từng trường hợp một, mới thấy là mọi chuyện đều đi tới 2 giải pháp bắt buộc tự nhiên, mà quý cụ xưa thường nói là : ” cùng tắc biến, biến tắc thông ” .
Có điều cái ” thông ” đó, nó bi quan hay lạc quan .
Cuối cùng trong chẩn trị cũng vậy, gặp thầy gặp thuốc thì khỏi bịnh thôi, và đó là cái “thông ” quý giá nhất mà ai đau ốm kinh niên, trầm kha cũng đều mong mỏi .
Chị ơi, chị thân yêu ơi, ngày mai trời sẽ sáng, chúng ta hãy cầu nguyện cho thế giới bình an, cho chị hanh thông êm đềm , hy vọng chan hoà trong bình minh rực rỡ, chị tôi cười héo hắt, còn tôi thì tràn ngập nỗi nhớ, niềm thương bao la, nhưng tuyệt vọng vô cùng, vì hình ảnh này cứ bị cắt xén dần, cho tới khi mất hút .
Bây giờ thì đúng là không còn gì trước mặt tôi, kể từ buổi chiều hôm đó, sân bệnh viện Thiên Thần Gabriel vẫn nắng mưa sương gió, năm này sang tháng khác, những người đến, những người về, song cũng đã biết bao người đến không về, mà đi mất hút, vâng , họ đã đi mất hút, kể cả chị tôi.
Tôi cúi xuống nhìn lớp lá vàng, lá đỏ, lá khô …ở một công viên nơi thành phố đó .
Có lẽ chị tôi chưa bao giờ dư thì giờ như tôi, là tới một công viên, để nghe lòng mình xa xót buồn thương …
Từ tâm thức, lại cũng chỉ từ tâm thức thôi, anh gọi tôi, anh bảo rằng : ” Cuộc đời hữu hạn là vậy, cho dẫu có níu kéo thời gian cho đủ một trăm năm, chúng ta cũng không có thêm tháng ngày tuyệt vời em hỡi …”
Chị tôi mất vào đúng buổi giao mùa vãn hạ qua thu 31/8 cách đây hơn 3 năm .
CAO MỴ NHÂN
KHÓC BẠN
Ấu Oanh
“Bác Dương thôi đã thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta…”
Từ thuở ấu thơ, anh em chúng tôi đều được mẹ ru bằng bài thơ Khóc Bạn của cụ Tam nguyên Yên Đổ khóc ông cố nội chúng tôi là cụ Nghè Dương Khuê. Bài thơ trở thành bài ca dao nằm trong ký ức tôi từ ngày đó, hơn 40 năm sau lại bật ra như những lời nhớ thương tha thiết của tôi với người bạn thân: Vũ Hoàng Oanh. Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê lúc tuổi đời đã xế chiều nên nỗi nhớ chỉ là ngậm ngùi, còn tôi khóc bạn khi tuổi đời chưa tới 50 là cái khóc xót thương vô hạn.
Ngày còn học Trưng Vương thì Oanh học trên tôi một lớp. Chúng tôi chỉ biết nhau nhưng chưa phải là bạn. Mãi đến khi thi vào trường Sư Phạm, vô tình làm sao, hai đứa trùng tên nên có số báo danh kế nhau. Gặp nhau ở trường thi, lại ngồi cạnh nhau thì không quen cũng thành quen huống chi chúng tôi cùng là dân TV lại biết nhau từ trước. Dĩ nhiên hai đứa tôi mau chóng kết hợp với nhau, cóp qua cóp lại bài nhau nên kết quả là hai đứa cùng đậu và còn được xếp chung vào một lớp. Tôi và Oanh trở thành bạn thân từ đấy.
Oanh không đẹp nhưng dễ thương với đôi má bầu bĩnh, đôi mắt hơi đượm buồn, lúc nào cũng như vướng vất một câu hỏi gì chưa được giải đáp.Nhưng điều mà bạn bè nhớ nhất ở Oanh là tính tình đôn hậu, chiều bạn và tử tế với mọi người.
Đời học trò, dẫu rằng lớp học trò này đang chuẩn bị làm người lớn, vẫn có biết bao niềm vui nỗi buồn non trẻ để chia sẻ cùng nhau. Đôi khi thấy bạn bè có người yêu đến đón hoặc ghé thăm, đôi mắt hỏi han cuả Oanh chợt tối lại, vương một chút buồn bã. Tôi gạn hỏi, Oanh chỉ lắc đầu, nhiều lần sau nữa, chẳng đặng đừng, Oanh cười mỉm chi đáp “Nhớ bồ” “Thế bồ đâu rồi” “Bồ thuộc người khác rồi”, rồi nhanh chóng Oanh lảng ngay “Thôi khỉ ạ, đừng hỏi nữa, chuyện xưa rồi”.
Thời gian trôi thật nhanh. Gần đến ngày ra trường, chúng tôi gấp rút học thi và ráo riết chuẩn bị các bài thi thực tập. Một hôm, gặp phải bài thi hóc búa, tôi hỏi mượn Oanh một bài mẫu vì Oanh rất chăm chỉ trong việc sưu tầm các bài dạy mẫu, còn tôi là con cháu họ lười nên rất chểnh mảng. Oanh đang hí hoáy viết nên bảo “Mở cặp ra, ngăn bên trái đó”. Tôi mở cặp lục lọi. Bài mẫu chẳng thấy đâu, tôi vớ ngay được một lá thư. Quên béng ngay bài dạy, tôi len lén kéo nhẹ tờ thư ra khỏi bao và liếc thật nhanh vài giòng. “Ồ, thư tình”, tôi thầm kêu trong đầu. Vừa lúc đó Oanh quay sang, thấy vậy, Oanh vội vã quăng ngay cây bút, soài người giựt lại lá thư, miệng la bài hải “Ố́í, ối, trả đây, trả đây”. Lá thư không dài và cũng không có những lời lẽ yêu đương hoa mỹ nhưng đọc thì biết ngay đó là thư tình, thư tình cuả một nhà văn. Ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ cuả một người viết văn thì có muôn ngàn cách để bày tỏ tình yêu. Tôi mừng thấy bạn bẽn lẽn cất lá thư. Một chút ửng hồng trên đôi má bầu bĩnh… Từ đó tôi thấy Oanh hay cười hơn.
Trong khi chờ đợi kết quả sắp hạng ra trường, chúng tôi phải đi khám sức khoẻ tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Hôm đó Oanh chở tôi bằng chiếc Vélo Solex mượn được. Chỉ còn cách bệnh viện khoảng 100m thì bất ngờ xe đang chạy ngon trớn bỗng đâm xầm vào một đống đá xanh đổ ngay giữa lòng đường. Xe mất thăng bằng đổ ập xuống, quăng hai đứa chúng tôi ra hai nơi. Lúc đó tôi đang có thai cháu đầu lòng khoảng 4 tháng. Hốt hoảng, Oanh bật dậy lao ngay về phía tôi mà không thấy rằng 1 đầu gối quần bị rách để lộ vết thương rướm máu và 1 bàn tay bị đá xanh đâm nát máu thấm đỏ cả. Oanh lính quýnh ôm nâng tôi dậy, mặt tái mét, miệng líu lại “Oanh, Oanh có sao không? Có đau bụng không?” Tôi tuy cũng rất lo sợ cho cái thai nhưng thấy Oanh quá lo lắng cho tôi, tôi thấy lòng cồn cào thương bạn nên vội trấn an “Mình không sao, đừng lo. Thôi mau nhấc xe dậy, vào ngay bệnh viện nhờ họ băng bó cho Oanh”.
Ra trường, tôi về dạy ở Gia Định, còn Oanh xuống Biên Hoà. Như một xui khiến của số mệnh, người yêu của Oanh, nhà văn Dương Hùng Cường, còn có bút hiệu là Dê Húc Càn đồng thời là một quân nhân cũng đang làm việc tại phi trường Biên Hoà. Họ đã được gần nhau, cuộc tình dẫn đến kết cuộc tốt đẹp là cái đám cưới vào năm 1964. Năm sau, 1965, Oanh sinh cháu đầu lòng Dương Mạc Thi rồi tiếp theo Oanh sinh liền 7 cô công chúa trong vòng 10 năm. Khi anh Cường đổi về làm việc tại Sài gòn thì Oanh cũng được thuyên chuyển về dạy học taị trường Hồng Bàng (sau năm 1975 thì dạy tại trường Hùng Vương, cùng thuộc quận 5). Chúng tôi lại có dịp gần gũi nhau.
Vào khoảng năm 74 tôi thấy Oanh ngoài giờ dạy ở trường công còn dạy thêm ở 2 trung tâm tư nữa. Thấy tôi thắc mắc sao Oanh dạy quá nhiều, không còn thời giờ dành cho các con nữa thì Oanh tâm sự: “Ông Cường giành phần chăm mấy đứa nhỏ. Ông ấy bảo, ổng ru con hay hơn mình”, rồi Oanh xuống giọng “Mình phải dạy thêm lấy tiền cho ông Cường in truyện”.
Nói là chăm sóc con chứ thật ra thì lúc đó gia đình nào cũng có người giúp việc, lo cơm nước, giặt giũ, bế bồng trẻ nhỏ rồi. Tôi thông cảm với Oanh vì thời gian đó, lương hai vợ chồng gom lại, dẫu rằng anh Cường còn viết báo thêm cũng chỉ đủ chi tiêu cho một gia đình mười mấy miệng ăn mà thôi. Muốn in sách truyện, Oanh phải cật lực giúp chồng.
Thế là bao nhiêu tiền bạc dành dụm được đều đổ dồn vào việc cho ra đời đứa con tinh thần “Vĩnh biệt Phượng”.
Thương thay, sách vừa xuất xưởng, chưa kịp phân phối ra ngoài thì ngày 30 tháng 4 như một cơn cuồng phong ập đến, xoá tan hết bao ước mơ, bao xây đắp cuả cả một miền Nam thân yêu trong đó có 2 gia đình chúng tôi. Ông xã tôi cũng như anh Dương Hùng Cường đều trở thành tù nhân cuả chế độ mới và 2 gia đình chúng tôi trở thành những nạn nhân như trăm ngàn gia đình quân nhân công chức chế độ cũ, luôn luôn bị soi mói, rình rập, theo rõi, lúc nào cũng sống trong phập phồng, lo lắng, sợ sệt… Với đồng lương chết đói, chúng tôi vẫn phải cố bám vào trường lớp để khỏi phải bị đuổi đi vùng kinh tế mới. Hai đứa tôi cùng chia nhau cái ngậm ngùi cuả số phận. Oanh 7 con và tôi 6, gia tài chỉ là hai bàn tay trắng với cõi lòng đầy ắp âu lo. Chúng tôi càng gắn bó với nhau hơn. Hai đứa lăn lưng ra làm đủ mọi việc
Thoạt đầu là bán sách. Lúc bấy giờ chủ trương của chế độ mới là thiêu hủy hết số sách báo của miền Nam được gọi là văn hoá đồi truỵ, tàn dư Mỹ ngụy. Chúng tôi lại thuộc các gia đình văn nghệ sĩ, càng bị để ý, bị lục xoát thường xuyên hơn. Nếu trái lệnh sẽ bị ghép vào đủ thứ tội tình. Để được yên thân nuôi con và cũng là để che mắt thế gian, chúng tôi gom góp hết số “tàn dư Mỹ ngụy” trong nhà, nhờ người quen dẫn giắt lên chợ sách Nguyễn Huy Thiệp bày bán. Nhìn những cuốn sách mình từng nâng niu yêu quý từ từ đội nón ra đi, lòng tôi bùi ngùi khôn tả. Cầm cuốn “Chạy trốn Tự do” mà ông xã tôi mới dịch trước đó không lâu, tôi thầm tự hỏi: “Tại sao laị dịch cuốn sách mang cái tên oan nghiệt này?” Cuốn “Vĩnh Biệt Phượng” cuả anh Dương Hùng Cường cũng cùng chung số phận, phơi mặt trên 1 tấm ni lông trải dưới mặt đường con phố NHT. Tôi và Oanh thủ 2 cái nón rộng vành, hễ liếc xa xa thấy người quen kẻ thuộc hay bạn bè gần xa cuả chồng thì lập tức cái nón được kéo sụp xuống. Ôi thời thế có ai học đến chữ ngờ!
Một hôm vào khoảng xế trưa, hai đứa đang ngồi vêu ra thì một cháu gái cuả Oanh đạp xe lên tìm mẹ, báo tin em bé út vừa phải vào nhà thương. Khi đó cháu Dao Tiên mới non 1 tuổi. Oanh hốt hoảng ra về. Hôm sau, rồi hôm sau nữa cũng không thấy Oanh lên tôi đoán chắc Oanh phải ở trong bệnh viện với con. Ba, bốn hôm sau Oanh trở lại, cặp mắt còn sưng, oà khóc, nói “Oanh ơi, cháu Dao Tiên mất rồi. Cháu mất vì thiếu dinh dưỡng, vì đói ăn đó Oanh ạ!”
“Nghề” bán sách cuả chúng tôi do thời cuộc mà tự sinh thì cũng do thời cuộc mà tự diệt. Ch́úng tôi học quấn thuốc lá, vào bao rồi đem vô Chợ Lớn bán nhưng cũng chẳng được bao lâu thì chợ thuốc lá cũng bị càn quét. Tôi nhờ biết may vá từ nhỏ nên quay ra may quần áo con nít đem giao các chợ, còn Oanh thì đi bỏ mối bánh kẹo cho các căn tin trường học. Cứ thế, chúng tôi lần hồi sống qua ngày.
Ngoài lúc đi kiếm cơm, chúng tôi còn rủ nhau đi kiếm chồng tù. Hai năm trời biền biệt không chút tin tức, chúng tôi lo sợ cho số phận các ông chồng. Dò la, thăm hỏi chẳng có kết quả, chúng tôi đánh bạo rủ nhau lên tận ban Quân quản Thành phố để hỏi han. Câu trả lời cũng chỉ như bao nơi khác: “Cứ yên tâm chờ đợi”. Cuối cùng thì cuối năm 1977 cũng có tin về sau hơn 2 năm kể từ ngày các sĩ quan cuả chế độ cũ nghe lời đường mật “Chuẩn bị đồ ăn uống và vật dụng cá nhân trong vòng 10 ngày để đi trình diện”. Ông xã tôi bị nhốt ở trại Hàm Tân, còn anh Cường thì ở Long Khánh. Cứ 3 tháng chúng tôi được phép thăm nuôi tiếp tế thức ăn và thuốc men 1 lần. Hai đứa lại có dịp chỉ bảo nhau làm món gì để được lâu, thuốc nào cần nhất v..v.. để mang lên trại.
Tôi còn nhớ thời gian đó, mỗi chiều tối, sau giờ tan trường, Oanh thường ghé tôi, có khi ở đến tận khuya. Các con Oanh ở nhà đã có cô cháu gái mà Oanh cưu mang từ sau năm 75 chăm nom cơm nước. Chúng tôi ngồi bên nhau chia sẻ mọi điều. Tôi hiểu Oanh nhiều nỗi lo lắng vì nợ nần thúc giục mà không có phương cách giải quyết. Tôi đỡ hơn Oanh một chút là tôi còn có mẹ. Đôi khi hai đứa ngồi bên nhau hàng giờ mà chẳng nói với nhau một tiếng nhưng chúng tôi đều hiểu rằng chúng tôi đang chia nhau nỗi sầu khổ âm thầm.
Một hôm, khoảng sau Tết năm 1978 Oanh ghé tôi theo lệ thường, nhưng hôm đó vẻ mặt Oanh rất bần thần, ngồi hoài không nói. Tôi hỏi:
– Hôm nay Oanh có chuyện gì không mà như mất hồn vậy?
Oanh vẫn ngồi yên không nói. Tôi đứng dậy rót cho bạn 1 ly nước, đến ngồi gần bên ân cần:
– Có việc gì hả Oanh?
Sau một phút ngập ngừng, Oanh nói khẽ thật khẽ như sợ có ai nghe thấy:
– Ta nói cái này, đừng giật mình nhé…Mình có bầu.
Tôi giật thót mình, hai lỗ tai lùng bùng.
– Oanh nói gì? Ai có bầu?
– Mình.
– Hả?
– Mình có bầu thật đấy, vừa đi khám bác sĩ về xong.
Tôi trân trối nhìn Oanh, vẫn không tin ở hai tai mình. Biết vậy, Oanh mới tỉ tê khai:
– Hôm Tết rồi đi thăm ông Cường, trại cho ở lại một đêm…
Tôi thở phào như trút được cho chính mình gánh nặng nghìn cân. Oanh nói tiếp:
– Oanh ơi, dẫn mình đi phá đi, mới được khoảng hai tháng thôi, phá chắc dễ.
Tôi ngỡ ngàng hỏi lại:
– Phá? Sao lại phá?
– Chứ để thì làm sao coi được. Ai đời cô giáo có chồng đi tù mà lại mang bầu. Đâu có ai hiểu…
– Thì nói ra cho mọi người biết.
– Ai tin? Bạn bè, rồi còn học trò nữa chứ. Eo ôi, nghĩ đến là ta rùng mình rồi.
Tôi chợt thấy Oanh có lý. Ừ, ai mà tin nổi, nhất là thời buổi này. Toàn ban giám hiệu đều là người cách mạng, họ sẽ có cớ để bêu riếu, để bôi tro trát trấu lên đầu lên cổ vợ con “ thằng ngụy”. Tôi thở dài:
– Ừ, để mình tính xem.
Nói vậy cho Oanh yên lòng chứ thật ra tôi cũng chẳng biết tính làm sao. Tối đến, trong bữa cơm gia đình, tôi nói chuyện với mẹ tôi về việc Oanh muốn tôi chia sẻ.
Mẹ tôi bảo:
– Ngày mai Oanh có ghé, con gọi mẹ, mẹ hỏi cô ấy một tí.
– Mẹ hỏi gì hả mẹ?
– Có phải Oanh toàn con gái không?
– Vâng, 7 đứa, bỏ 1 còn 6, toàn là gái cả.
– Mẹ muốn tính xem lần này có bầu, Oanh sẽ sinh trai hay gái.
– Trai hay gái thì thay đổi được gì hả mẹ. Cũng bia miệng mà thôi.
– Mình sẽ nghĩ cách giùm cô ấy. Vả lại, vì sợ bia miệng mà phá bỏ đi một đứa con của mình thì sẽ mang tội con ạ.
Mẹ tôi đặc biệt có một cách tính rất tài tình để biết người mẹ sẽ sinh trai hay gái. Cụ có dạy cho tôi một bài toàn chữ Hán, tôi học mãi không thuộc (vì mình có biết tí teo chữ Hán nào đâu). Tôi đã chép vào 1 cuốn sổ để dành nhưng qua hết đợt bố ráp này đến đợt bố ráp khác nó đã không cánh mà bay.
Dẫu rằng cả Oanh và anh Cường đều không mang tư tưởng “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô” nhưng cha mẹ nào mà chả mong ước mình có đủ cả trai lẫn gái.
Sau khi gặp mẹ tôi, Oanh mừng lắm, không còn nghĩ đến việc phá thai nữa vì tin tưởng rằng lần này sẽ sinh được một quý tử.
Thông thường, cứ mỗi đầu tháng, các giáo viên chúng tôi đều phải họp toàn trường để kiểm điểm công việc dạy và thực hiện các chỉ thị của Phòng hoặc Sở giáo dục. Tôi xúi Oanh trong phiên họp kỳ này lấy cớ báo cáo 1 công việc gì đó rồi bôi mặt cám ơn nhà nước đã cho chúng tôi được gặp mặt, tiếp tế cho chồng ở trại giam lại còn gia ân cho ở lại trại 1 ngày 1 đêm nhân dịp Tết vừa qua nữa. Việc đó quả nhiên hiệu nghiệm. Oanh tuy bị trêu chọc song đã thoát được cơn hiểm nguy. Cũng may mắn cho Oanh, chỉ vài tháng sau khi cái bụng bầu của Oanh lộ rõ thì anh Cường được về.
Một hôm tôi vừa từ chợ về nhà thì đã thấy anh Cường ngồi đợi. Không kịp để tôi hỏi han câu nào, anh đã vào đề liền:
– Oanh sinh rồi chị, ở Bệnh viện Hùng Vương, con trai.
– Ồ, chúc mừng anh. Chắc là Oanh vui lắm. Kỳ này hai ông bà có quý tử, phải ăn mừng thôi
Không trả lời câu nói đùa của tôi, anh chìa ra mảnh giấy cỏn con nói:
– Oanh gửi chị cái này.
Tôi vội vàng mở mảnh giấy đọc “Oanh ơi, cứu bồ, cho mình mượn 50 đồng để đóng tiền bệnh viện nhé”.
Tôi vừa đi giao hàng về nhưng cũng chỉ có trong tay 30 đồng. Tôi vội vã đạp xe lại ngay nhà chị bạn cùng trường. Tuy chẳng giầu có gì nhưng chị tương đối khá giả hơn chúng tôi vì những tháng ngày xa xưa trước 75, chị là con kiến biết lo xa, ki cóp mua vàng để dành, (trong khi tôi lại là con ve, kêu ra rả hết muà hè, chỉ biết rong chơi ca hát, cho nên khi đông về thì đói rã răng). Chị lại có lòng tốt nên bạn bè khi cơ nhỡ chị đều sẵn sàng san sẻ.
Trao cho anh Cường năm chục bạc xong, tôi biết ngày mai không có tiền chợ cho con song trong lòng vẫn vui vì mừng cho bạn, càng mừng hơn vì thấy cách tính của mẹ tôi thật chính xác, không làm cho Oanh mừng hụt. Nhưng người mừng nhất ắt hẳn là anh Dương Hùng Cường. Anh đặt tên cho cháu là Phụng Hoàng, Dương Phụng Hoàng, con chim quí.
Khoảng 3,4 năm sau khi ra tù, anh Cường liên lạc được với nhà văn Trần Tam Tiệp đang cư ngụ tại Pháp xin lên tiếng kêu gọi Văn Bút Quốc Tế can thiệp và giúp đỡ cho một số các gia đình văn nghệ sĩ Miền Nam còn kẹt lại quê nhà, đang gặp rất nhiều khó khăn cả về 2 mặt vật chất lẫn tinh thần. Ít lâu sau đó, mỗi năm gia đình chúng tôi nhận được từ 1 đến 3 thùng thuốc tây gửi từ Pháp về (nhưng có lẽ đó là do chính tiền cuả anh TTTiệp, chứ không phaỉ của VBQT). Song song với thùng quà đôi khi còn có cả 1,2 tờ báo Kháng Chiến nữa. Rồi anh bảo anh em bên nhà viết bài gửi sang. Những thùng quà tuy ít ỏi này cũng đã giúp được gia đình chúng tôi qua những cơn vô cùng bĩ cực. Nhưng oan nghiệt thay, cũng chính những thùng quà này lại đưa chồng tôi, Khuất Duy Trác, anh Dương Hùng Cường và một số các văn nghệ sĩ khác như các nhà văn Dzoãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thuỷ, Hiếu Chân, các nhà thơ Lý Thụy Ý, Trần Ngọc Tự… vào tù lần thứ hai. Bọn Công an thành phố còn viết nguyên một cuốn truyện đầy tính bịa đặt và vu cáo có tên Những Tên Biệt Kích Cầm Bút, hòng bôi bẩn và hạ giá nhóm văn ngệ sĩ trên, sửa soạn dư luận cho một bản án thật nặng nề. Chúng đem giam một số tại nhà giam Chí Hoà, số còn lại tại trại giam Phan Đăng Lưu, có ông xã tôi và anh Cường. Oanh và tôi lại có cùng một địa chỉ để tới lui. Số phận chúng tôi cứ gắn chặt với nhau trong những hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.
Do từ việc bỏ bánh kẹo cho các căn-tin trường học, Oanh lần hồi biết được cách thức để đấu thầu toàn bộ cả căn-tin cuả mỗi trường. Oanh rủ tôi làm công việc này. Thế là hai chúng tôi cùng khởi sự tại một ngôi trường Tàu trong Chợ Lớn. Sau này rành rẽ rồi thì mỗi đứa làm ở mỗi trường khác nhau.
Cứ vào cuối mỗi năm học, giáo viên các trường đều phải điều chỉnh lại tờ lý lịch đã khai từ những ngày đổi đời 30/4/75. Năm 1980, con gái thứ hai của tôi đi vượt biên, tôi không khai. Đến khi ông xã tôi bị bắt lại lần 2 tôi cũng không khai. Ban giám hiệu nhà trường chắc hẳn không biết nên tôi vẫn được yên thân. Bất ngờ, vào đầu năm 87, hiệu trưởng mời tôi lên nói chuyện. Bà hỏi han tôi về tình hình gia đình, chồng con, công việc v..v.. và cuối cùng bà hỏi tôi có up to date lý lịch đầy đủ cho mỗi năm không. Tôi manh nha thấy điều gì đó không ổn. Tuần lễ sau tôi xin nghỉ bệnh và tuần kế tiếp tôi tống tiếp lá đơn xin thôi việc. Ở thời điểm này, chiến dịch tống khứ gia đình vợ con tù cải tạo đi kinh tế mới đã chấm dứt vì hoàn toàn thất bại. Từ các vùng kinh tế mới, biết bao gia đình đói rách tả tơi, bệnh hoạn, người sống kẻ chết, lũ lượt kéo về thành phố, nằm la liệt tại các công viên, chợ, nhà thờ, chùa…chính quyền không thể xua đuổi vì họ không còn nơi chốn để dung thân nữa. Do đó tôi không còn lo sợ vì phải lên rừng lập nghiệp. Lại nữa tống khứ đi được một con vợ “ngụy”, cũng nhẹ gánh lo cho ban giám hiệu nên họ nhận đơn mà không hỏi han gì cả.
Thời gian này rộ lên rất nhiều tin tức về việc Mỹ sẽ đón các sĩ quan QLVNCH bị tù cải tạo. Tuy rằng chỉ là tin đồn miệng, chẳng có một nguồn xác thực nào nhưng chúng tôi vẫn cứ nuôi hy vọng trong lòng để tiếp tục sống và tiếp tục chịu đựng.
Một ngày đầu tháng 12 năm 1987, lúc đó khoảng 2-3 giờ trưa tôi đang ở nhà thì cô cháu gái cuả Oanh đến, mặt mũi phờ phạc, nói như đứt hơi: “Cô ơi, chú Cường mất rồi, cô con đang xỉu ở nhà, cô xuống mau đi cô”
Khi tôi bước chân vào đến nhà thì thấy Oanh đang vật vã vừa khóc vừa gào: “Tôi không sống một mình đâu, trời ơi là trời. Anh Cường ơi, em không sống một mình đâu!!” Tôi ôm lấy tấm thân gầy guộc của bạn, lòng đau xót từng cơn và nước mắt cứ mặc tình tuôn chảy… Không biết bao lâu sau, khi kêu gào đã quá mệt, tôi đỡ Oanh nằm xuống giường rồi bảo với các con Oanh: “ để yên cho mẹ nghỉ một chút”.
Hàng xóm xung quanh nghe tiếng khóc, vài ba người lấp ló ngoài cửa.
Bình tâm trở lại, tôi hỏi thăm cháu Linh, cháu tỉ tê kể: “Sáng nay cháu ở nhà, công an khu vực tới đòi gặp mẹ. Cháu bảo mẹ đang dạy ở trường, anh ấy nhắn bảo mẹ ra phường gấp có giấy báo cuả bố. Khi cháu ra trường bảo cho mẹ biết thì mẹ vẫn nghĩ là tin mừng. Mẹ bảo chắc bố được thả…ồ, hay là…Mỹ đón. Mẹ bảo cháu về trước, chuẩn bị đồ vest cho Bố. Đến khi hai mẹ con ra đến phường nhận giấy mới vỡ lẽ…Họ bảo sáng ra đến giờ tập họp, không thấy bố ra, đến đập cửa phòng cũng không thấy bố cháu trả lời, họ mở khoá ra thì thấy bố cháu đã mất rồi.”
Oanh được phép đến trại giam Phan Đăng Lưu để nhận diện xác chồng trước khi được phép chôn cất. Đám tang phải làm gấp ngày hôm sau và chỉ cho 2 người mang áo quan vào lấy xác tại khám Chí Hoà mà thôi. Hôm sau tôi đi cùng với Oanh nhưng phải ngồi chờ ngoài gốc cây trước cổng trại cùng với các con nhỏ cuả Oanh. Số bạn bè và họ hàng thân thuộc đến đưa tiễn đều không được tập trung một nơi mà phải phân tán rải rác dọc theo con đường Hoà Hưng, chờ đợi khi xe tang ra đến đầu đường rồi mới được tháp tùng theo. Ôi, quân Cộng sản sao mà độc ác. Người sống chúng không tha đã đành, người chết chúng cũng không cho chôn cất tử tế…Huyệt mộ đã lấp lại rồi nhưng Oanh vẫn đứng trơ trơ như một bức tượng. Nước mắt đâu?
Có lẽ nó đã chảy ngược vào lòng. Tôi chợt nhớ đến bài thơ “Đi nhận xác chồng” của Lê Thị Ý:
Thật tội nghiệp cho bạn tôi. Cũng thật tội nghiệp cho những người phụ nữ trót sinh ra trong thời đại chúng tôi.
Vết thương tang chồng chưa ngưng chảy máu thì 3 tháng sau Oanh lại phải rứt ruột đẩy đứa con gái đầu lòng thân yêu, Dương Mạc Thi, ra đi trong một chuyến vượt biển với bao bất trắc chờ đợi. Than ôi, đó cũng là lần cuối cùng Oanh nắm đ̣ược bàn tay nhỏ bé cuả con: chuyến tàu chở cháu Thi đã không bao giờ tới bến. Chỉ trong vòng 4 tháng Oanh đưa hình hai người thương yêu nhất đời mình lên chùa…
Rồi dòng đời lại tất bật trôi đi. Oanh vội vã bịt kín những vết thương, giấu chặt nó vào tận cùng trái tim để ngày ngày phải đối mặt với những cam go của cuộc sống, với tương lai cuả bầy con còn lại. Thời gian sau này chúng tôi ít gặp nhau hơn vì mỗi đứa thầu riêng mỗi trường mà công việc thì quá đa đoan, tất bật, cần đến rất nhiều thời gian, Oanh lại vẫn theo đuổi công việc dạy học.
Mùa hè năm 1989, giữa chúng tôi có vài chuyện không vui, tôi giận Oanh. Biết mình không đúng, xin lỗi tôi không xong, Oanh nhờ một cô bạn khác đến năn nỉ, tôi vẫn gan cùng mình không chịu làm hoà. Gần 2 tháng trời chúng tôi không gặp nhau. Một buổi trời đã chạng vạng tối, một anh bạn tù cuả ông xã tôi, hốt hoảng đến báo tin Oanh bị đụng xe, đã đưa vào bệng viện Trưng Vương, nhưng tình trạng hình như không được ổn. Tôi tức tốc vào thẳng nhà thương trong tâm trạng rối bời và thật hồi hộp.
Oanh nằm đó, bất động, đôi mắt đã khép lại vĩnh viễn…Tôi bật lên khóc nức nở, nắm lấy tay bạn, sờ lên mặt bạn, vuốt trên người bạn, tôi muốn gào lên “Oanh ơi. Oanh ơi, mình đây, mình đang ở bên Oanh đây, mình không còn giận Oanh nữa đâu, tỉnh dậy đi Oanh ơi!!!” Tôi đưa tay bứt mớ tóc trên đầu xem mình có thật sự tỉnh không, có phải đây là sự thật không…Nỗi hối hận trong tôi trào lên, tôi giận tôi, tôi ghét tôi, tôi là con bạn tồi, sao tôi cố chấp thế…Tuy đã cố dằn vì chỗ đông người, cổ họng tôi vẫn bật lên tiếng gọi “Oanh ơi. Oanh ơi. Dậy đi, mình thương Oanh lắm, có nghe mình nói không?”
Tôi ngồi bên Oanh như thế, nước mắt tiếp tục chảy không thôi, biết bao điều muốn vuột ra khỏi trái tim nên lồng ngực đau thắt… Lâu lắm, chợt nghe tiếng bà dì Oanh nói “Cô phụ tôi thay quần áo cho Oanh nhé. Người bây giờ còn mềm, thay dễ”.
Tôi nâng đầu Oanh dậy tay chạm ngay vết thương sau ót, máu còn dính bết vào tóc. Đến lúc thay áo lại phát hiện ra phần dưới cũng bị thương, hình như vỡ xương hông thì phải. Ôi, đau đớn biết bao!
Mãi sau này các cháu con Oanh mới kể rằng, sáng hôm đó, một cậu nhỏ mới quen đến chở Oanh về Thủ Đức để đi hỏi vợ giùm cho cậu ta. Buổi chiều, trên đường về, đã gần đến nhà, đang băng qua con lộ Lý Thường Kiệt để vào ngõ thì bị một xe hơi do người tài xế say rượu đâm phải.
Oanh là thế đấy, hay làm chuyện bao đồng để giúp người.
Oanh mất đi bỏ lại bầy con 5 đứa. Con chim quý, Phụng Hoàng, của vợ chồng Oanh sinh bất phùng thời, mới 10 tuổi đầu đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhưng như một định luật bù trừ, hai con lớn cuả Oanh tiếp tục công việc của mẹ, không những đã duy trì được mức sống đầy đủ cho gia đình mà các cháu còn dìu dắt nhau học hành tới nơi tới chốn nữa. Nếu người ta tin có linh hồn thì chính linh hồn người Mẹ, day dứt lúc ra đi đã quay trở lại thế gian này để phù trợ cho các con vươn lên trong cuộc sống.
Hôm nay ngồi viết những dòng hồi tưởng này về một phần đời không nhỏ của bạn tôi, Vũ Hoàng Oanh, người phụ nữ tâm tính hiền lành, hay giúp đỡ người khác nhưng số phận cay nghiệt đã dành cho cuộc đời bao tang thương, oan trái. Khi sống, tâm tư luôn mòn mỏi vì lo toan cơm áo, còn mang nặng những vết thương không cơ hàn gắn. Đến lúc lià đời, lại ra đi trong một cơn mê khốc liệt với thân thể đớn đau, với cõi lòng đứt đoạn vì bầy con thơ dại.
Oanh ơi, những dòng hồi ức hôm nay cũng còn là những nén hương muộn màng mình thắp lên để nhớ đến Oanh, nhớ đến một quãng đời hai chúng ta cùng chung bước trải dài từ tuổi học trò cho đến khi vĩnh biệt.
Ngủ đi Oanh, hỡi bạn hiền, Ngủ cho say nhé, triền miên giấc nồng Chuông chùa vọng giữa thinh không Đưa hồn an lạc về vùng tịnh yên.
Ấu Oanh Hai mươi năm, ngày giỗ bạn, 21.6.1989 – 21.6.2009
Tiểu sử nhà văn Dương Hùng Cường
Sinh ngày 1-10-1934 tại Hà Nội, gia nhập Không Quân thụ huấn cơ khí viên tại Pháp năm 1953, trở thành hạ sĩ quan cơ khí phục vụ tại nhiều đơn vị. Từ giữa thập niên 1960 phục vụ tại Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Không Quân với cấp bậc Chuẩn Úy. Là một cây bút nổi tiếng trong giới văn nghệ, báo chí Sài Gòn, ông có 3 tác phẩm đã xuất bản: Lính Thành Phố, Buồn Vui Phi Trường và Vĩnh Biệt Phượng. Sau năm 1975, bị tù cải tạo tới năm 1979. Năm 1984, bị bắt giam với tội danh gián điệp do viết bài gửi ra nước ngoài và qua đời tại nhà tù T20 Phan Đăng Lưu, Gia Định năm 1987.