TRANG TƯỞNG NIỆM – VĂN SĨ VĂN QUANG – Lê Văn Hải & THƠ Đưa Tiễn – Của Phương Hoa

THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA VĂN SĨ

VĂN QUANG

*

VĂN QUANG từ giã bút nghiên rồi

Mất một nhân tài thương tiếc ôi!

“Trời Tím” đẫm buồn, mây quyện gió

Tầng xanh nghẹn tiếc, lệ pha lời

“Tơ Lòng” đà dứt, tâm an lạc

“Cuồng Vọng” không còn, ý thảnh thơi

Kính tiễn thăng thiêng miền Cực Lạc

Người đi tác phẩm mãi lưu đời.

*

Phương Hoa – MAR 16th 2022

Hôm Nay: Nhà Văn Văn Quang Vừa Tử Giã Chúng Ta!

Lại Thêm Một Vị Sao Trên Bầu Trời Văn Nghệ Miền Nam Vừa Vụt Tắt!

Nhà Văn Văn Quang Vừa Từ Giã Chúng Ta!

Lê Văn Hải

Tin Buồn Tháng 3!

Tin từ một thân hữu cho hay, Nhà văn Văn Quang, đã qua đời lúc 10 giờ 20 phút, ngày hôm nay! Thứ Ba, 15 tháng 3 năm 2022, tại tư gia, đường Nguyễn Thiện Thuật, thành phố Sài Gòn, Hưởng thọ 90 tuổi.

Tuy Nhà văn Văn Quang ở Sài Gòn từ sau ngày mất nước, nhưng những bài viết của Ông, xuất hiện thường xuyên trên khắp các báo chí Hải ngoại, từ cuối thập niên 90, cho tới khoảng năm 2017. Cuối cùng với bài viết, giã từ bạn đọc, sau bài này, Ông “gác bút” vì không còn sức mang “nắng mưa Sài Gòn” đến với “những người muôn năm cũ!”

Ông được coi như “tai mắt” tường trình mọi biến chuyển, thay đổi về thành phố thương yêu, của một thời “Sài Gòn, đẹp lắm, Sài Gòn ơi!” trước 75.

Ông là nhà văn duy nhất ở trong nước, mà lại có tình thân thiết nhất với rất nhiều người đọc tiếng Việt bên kia vòng trái đất.

Sự ra đi của Ông, làm biết bao người thương nhớ, nuối tiếc! một Nhà văn thân yêu của Miền Nam.

Nhà Văn Văn Quang Và Tôi

Trước 75, tôi chỉ là người Lính, với cấp bậc vào hàng “củ lũ nhí” nhất, thì làm sao có cơ hội quen biết đến hàng sĩ quan cấp tá, lại mang chức Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội như Ông.

Nhưng tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của Ông, văn ông nhẹ nhàng, trong sáng, đầy tính nhân bản. Mang nỗi u uẩn, đau thương người dân, người trai, khi đất nước trong thời chinh chiến.

Khi tác phẩm Chân Trời Tím dựng thành phim, do Đạo diễn Quốc Phong và Liên Ảnh sản xuất. Tôi đã là những người đầu tiên, đứng xếp hàng trước rạp Văn Hoa Dakao để chờ xem. Thổn thức với Hùng Cường, Kim Vui của mối tình trong cuộc chiến. Lòng quặn thắt với Nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau, sáng tác của Trần Thiện Thanh, dành riêng cho phim này, qua tiếng hát vút cao của Thái Thanh.

Sau Tháng Tư Đen tan tác,

Khoảng cuối thập niên 90, lúc đó tôi đã giữ một tờ tuần báo, một cây viết của tờ báo, cũng là nhân viên tòa soạn, bút hiệu “Điền Tuấn” Cũng là người bạn thân thiết với Nhà văn Văn Quang, đã đưa ra một đề nghị với tôi:

-“Có một nhóm văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, vừa mới từ cải tạo về, muốn viết bài cho tờ báo mình, để có chút tiền cà phê, cà pháo, anh em có cơ hội gặp mặt cho vui”

Tôi đồng ý ngay, chỉ thắc mắc:

-“Nhưng trả tiền nhuận bút bằng cách nào? Có ảnh hưởng gì đến người trong nước không?”

-“Dừng lo, chúng tôi có đường dây!”

Từ đó, tờ báo tôi, xuất hiện rất nhiều bài báo, từ những cây viết trong nước, nhưng nhiều nhất, vẫn là những bài của Nhà văn Văn Quang!

Thời gian này, người Việt Hải ngoại, mang thân phận của một kẻ lưu đầy, chưa bang giao, nên nghĩ vĩnh viễn không có đường về quê hương! Những bài viết kể chuyện nắng mưa Sài Gòn, nơi chôn bao nỗi nhớ, là những bài “ăn khách” nhất của tờ báo.

Khi Nhà văn Tô Ngọc qua Mỹ, Ông đến tòa soạn ngay ngày hôm sau, thông báo với tôi: “Anh em gởi lời cám ơn, “bịch thuốc bổ,” gởi về mỗi tháng, để Anh em mới có cơ hội gặp nhau vui lắm, chưa kể giúp được những trường hợp khó nghèo!”

Tôi rất vui mừng, không ngờ chuyện nhỏ, mà có kết quả quá vui, thật to lớn như thế! Từ đó, tôi có cơ hội thăm hỏi Ông qua thư từ.

Sau này, mừng cho Nhà văn Văn Quang, vì đã cộng tác với rất nhiều tờ báo của Hải ngoại. Có vẻ từ đó, đời sống Ông cũng dễ thở hơn chăng.

Vài Dòng Tiểu Sử”

Nhà văn Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm 1932 tại Thái Bình.

Năm 1953, ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong nhiều đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Geneve năm 1954.

Từ năm 1957, Văn Quang chuyển sang ngành Tâm lý chiến, với nhiệm vụ Trưởng phòng Báo chí Quân Đội thuộc Cục Tâm lý chiến, Tổng cục Chiến tranh Chính trị QLVNCH. Cũng là Trưởng ban biên tập của các tờ báo Quân Đội VNCH.

Tác phẩm đầu tay của Văn Quang là “Tiếng Tơ Lòng” được đăng trên nhật báo Thanh Dân, Hà Nội. Cuối năm 1953, tác phẩm thứ nhì ra đời, là tập truyện ngắn Thùy Dương Trang, do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.

Từ đó cho đến 30 Tháng Tư 1975, Văn Quang cộng tác thường xuyên với rất nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí tại Sài Gòn.

Văn Quang có hơn 28 tác phẩm được xuất bản. Các tác phẩm của ông hầu hết là truyện dài, trong số có những tác phẩm, gây được nhiều tiếng vang như: “Nét Môi Cuồng Vọng”, “Nguyệt Áo Đỏ”, “Người yêu Của Lính” Ông đã có bốn tác phẩm được chuyển thành phim: “Ngàn Năm Mây Bay”, “Chân Trời Tím”, “Đời  Chưa Trang Điểm”, “Tiếng Hát Học Trò”.

Sau 75, Ông trải qua 13 năm rưỡi đi tù cải tạo. Khi ra tù, Văn Quang trở về Sài Gòn, sau đó từ chối ra đi theo diện HO, quyết định tiếp tục ở lại Việt Nam, Nhà văn duy nhất cộng tác với rất nhiều báo chí Việt ngữ tại hải ngoại.

Trong bài chia tay với độc giả, với tâm tình thật cảm động: “Hơn 60 năm cầm bút, tôi không có gì đáng tự hào, bởi chỉ như người Lính khi ra trận, không biết mình đã bắn được bao nhiêu viên đạn! Tất cả chỉ vì ba lời thề “TỔ QUỐC – DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM!”

Thương tiếc Nhà Văn thân thương vừa rời bỏ chúng ta, xin mời cùng thưởng thức một bài Tạp Ghi của Ông, như nén hương tưởng nhớ, để “nhắm mắt cho tôi tìm!” thấy… Ông!

CÁI MUỖNG

Văn Quang

I.

Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng tôi “học tập cải tạo”, chỉ biết rằng đã có những người “quen” với những ngày tháng cực khổ, dài lê thê trong những căn nhà giam được “xây dựng” bằng đủ thứ kiểu giữa những vùng rừng núi âm u. Ở Sơn La thì “trại” được làm trên những nhà tù từ thời xa xưa, chỉ còn lại những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách đất trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.

Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị, rồi một thời gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến tranh đã có khi người ta dùng làm “công binh xưởng” chế tạo lựu đạn. Vì thế nên thỉnh thoảng chúng tôi nhặt được một cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Vĩnh Phú thì nhà tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu “biệt kích” gồm vài căn nhà “xây dựng kiên cố” bằng gạch lợp tôn xi măng. Chúng tôi “được học tập cải tạo” trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại

là khu này trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó. Muốn vào khu này phải qua hai lần cổng có tường gạch bao quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì khác, còn khi chúng tôi “được giam” ở đây có vẻ như “cởi mở” hơn vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ để cho chúng tôi đi lao động hàng ngày cho khỏi phải mở ra mở vào.

Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người ta cũng phải quen. Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu thốn và trong những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật và quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm chí cấm cả đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm nữa. Chỉ còn những thứ đã thành “luật” thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm “mua bán đổi chác linh tinh”, cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và cấm tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có anh tù nào lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy. Mua bán đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút xử dụng hàng ngày nhưng đó là những thứ đã được “cải biên” thành dao kéo mini nhỏ nhắn cho dễ cất giấu. Nó là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị bắt thì cũng chỉ bị tịch thu chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy theo tội– đưa vào “thiên lao” tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.

II.

Ngày qua ngày, cái “không khí êm ả” của trại giam trở nên phẳng lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ “an tâm, hồ hởi phấn khởi” mà bất kỳ anh “trại viên” nào cũng cứ phải viết khi phải làm những “bản kiểm điểm”, mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai tin.

Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị xáo trộn. Vào một buổi sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa trại, chuẩn bị gọi tên từng đội đi lao động để “một ngày lại vinh quang như mọi ngày” thì bỗng đâu toán lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như ra trận, súng ống chĩa về phía “quân thù”, mặt mũi “khẩn trương” rõ rệt. Họ sộc thẳng vào phòng giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.

Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở trò gì. Có những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có một ai đó trốn trại? Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi người tù có được trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một vài gói đồ bị tịch thu được vác lên “phòng thi đua”. Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng đó chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ “quốc cấm” của trại đã quy định.

Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những “trại cải tạo” thường dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh ra những “tiêu cực”. Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có những vụ xúi giục “tuyệt thực”, bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối thì có hàng trăm thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức vô lý, sự trù dập của một vài anh “quản giáo”, sự hỗn hào của mấy anh lính võ trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ phải làm cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề phòng, lúc nào họ cũng “đề cao cảnh giác”, lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với mọi “mưu đồ”.

Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên đâu. Cứ sau mỗi lần như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được một anh nào đó giấu những thứ vớ vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng ngoài quy định. Tất nhiên sẽ có những cuộc “kiểm điểm, phê bình” mà chúng tôi gọi là những “buổi tối ngồi đồng” để từ đó hy vọng lòi ra một vài cái “tội”. Đội nào khôn ngoan thì cứ ngồi im, ai “phê” thì cứ mặc, còn cãi là còn “ngồi đồng”. Đi làm suốt một ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng, còn “phê bình” còn “kiểm thảo” thì chịu sao nổi. Nay “làm chưa xong” thì mai lại ngồi tiếp, ngồi cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo tình hình của từng thời điểm.

Thời điểm “căng” thì vào nhà kỷ luật đặc biệt nằm “treo một chân”, thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và họ sẽ có những biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội khác để phòng tránh những chuyện thông đồng, những tổ chức, những phe nhóm có thể gây nguy hại đến an ninh của trại tù.

Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái tinh thần “tưởng rằng yên ổn” của mấy anh “trại viên” còn tỏ ra cứng đầu, còn có mưu toan lôi kéo người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những yêu sách hoặc toan tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù cũng rối tung lên và làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào tinh thần bè bạn càng thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi trò gì cũng thành quen và đối với một số người “chẳng có gì để mất” thì họ trơ như đá, muốn làm gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà chết cũng chẳng sao.

Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy của những anh bạn trẻ, bởi tôi cũng chẳng có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất tất cả rồi, chẳng có gì phải lo. Đôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở Sàigòn gửi cho cái gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu không có ông anh rể tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ “caritas” như một số anh em ở trong trại tù rồi. Tức là những người chẳng có ai thăm nuôi.

Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người ở trong tù mà lại tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người còn vui mừng khi thấy vợ mình bước đi bước nữa với một anh nào đó đưa các con ra được nước ngoài. Tôi nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai trong hoàn cảnh cay nghiệt này. Theo tôi thì những anh “mồ côi” không ai thăm nuôi trong trại tù mới chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái “thú đau thương”.

III.

Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán lính chạy sồng sộc vào trại. Đó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch chừng vài ngày. Đây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước những ngày lễ tết lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ yên trí rằng chẳng có gì để mất, chẳng có gì quan trọng.

Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất chỉ là rau. Mùa này thiếu rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được, chỉ còn rau cải và trồng cải thì lâu ăn và năng suất không cao, cho nên có được tí rau là hạnh phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống su hào, đó là thứ “thực phẩm cao cấp” nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ su hào bắt đầu to hơn nắm tay nằm tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi chúng vì cái công sức tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một tác phẩm nào đó mà tôi đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm thì coi nó là tác phẩm vậy, để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những thứ quanh mình.

Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống su hào, có khi là một cái tên nghe có vẻ “lả lướt” như tôi đã gặp ở phòng trà tiệm khiêu vũ, có khi là một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò “nghịch ngầm” giữa vùng rừng núi âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi của tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến, dù 12 luống su hào còn non chưa đến ngày “thu hoạch” nhưng cần thức ăn trong ba ngày Tết nên họ sẽ nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu để đến mùa xuân. Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du này.

Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung quanh đang xôn xao, kẻ bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn nhơ vì tôi chẳng có gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng thật ra chỉ có đúng một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng, nhưng những người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói “Vừa ăn xong mà vẫn cứ tưởng như mình chưa ăn”. Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế mới là khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái muỗng tre nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng ăn rả rích suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác đói, đó là cách tự đánh lừa mình.

Tôi cũng “ăn dè hà tiện” nhưng tôi ăn bằng muỗng. Cái muỗng rất đặc biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi rửa sáng bóng. Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để cái muỗng ở nhà. Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp sữa được chế biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù, nó có thể dùng “trăm công ngàn việc” từ đựng các loại thức ăn, thức uống đến đun nấu, câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, tắm rửa đánh răng, rửa mặt. Nhưng hôm nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong buổi khám xét trại sáng nay.

Đây là thứ “gia bảo” tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm nay chưa hề lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi nằm ngủ. Có thể ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi, một thứ đã thành thói quen bám vào cuộc sống.

Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm đó tôi quyết định đến gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng chỉ là một “trại viên”, nhưng trước đây anh ta là cán bộ, “thoái hóa tiêu cực” sao đó nên bị đi tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi là “phạm binh phạm cán” tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một chế độ đãi ngộ riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin cậy của giám thị.

Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực dẫn chúng tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh ta chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng “cậu huyện Nhụ nằm ở đó”.

Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện Nhụ, anh ta nói là cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn gia đình anh vốn là nông dân nên ở lại miền Bắc.

Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở tòa án Sài Gòn và tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ xa. Cụ làm tri huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể cho Dực nghe đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau này đi “cải tạo” cụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm được ăn một cái bánh dò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì ghé qua Hà Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh dò mang lên thì cụ mất rồi.

Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ chịu hơn. Nhưng dĩ nhiên cái khoảng cách giữa một bên là “ngụy” một bên là “cán” thì khó mà san lấp được…

Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa tôi không gặp được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị cho những ngày Tết tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm văn hóa xem những thứ bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn để trong kho lẫn lộn với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông anh tôi gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày. Mà cái thứ thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với nghệ nên không công hiệu. Tôi có thứ thuốc “cao cấp” hơn là Maalox, uống vào là cơn đau dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của nó tốt thì cứ thích, có sao đâu.

Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:

– “Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế? Bây giờ để trong kho, chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào nhà đá.”

Tôi nằn nì:

– “Đấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết không, tôi mất nhiều thứ lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự điển.Nhưng tôi không cần, chỉ cần cái muỗng thôi.”

Dực nhìn tôi nghi ngại:

– “Hay là mày giấu tiền trong đó?”

Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng mày tôi cũng không tự ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó gọi tôi bằng mày tôi cũng cho qua luôn.

– “Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu tiền được?”

Dực nửa đùa nửa thật:

– “Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày chẳng làm được. Chưa biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim trong đó cũng nên. Tao nghe nói mày có sách làm phim phải không?”

– “Đúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta lấy làm phim chứ tôi biết cái cóc khô gì.”

– “Vậy sao mày chỉ đòi lấy cái muỗng, mày mua chuộc tao bằng hai vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không chết cả đám. Tao không chơi.”

Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Chiều hôm đó, Dực lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết. Tôi đang loay hoay dán mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực kéo tôi xuống. Nó bảo tôi đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế, trang trí thành khu đọc sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ “có văn hóa”. Nhưng nếu coi thư viện thì không được ăn tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay dù biết rằng sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh em trong phòng và mất cái thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do chúng tôi tự làm lấy.

Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó. Tôi đành kể cho Dực nghe:

– “Buổi sáng hôm tôi phải đi “học tập cải tạo”, vợ tôi chuẩn bị một số đồ dùng hàng ngày đưa vào túi xách. Đứa con gái của tôi, khi đó mới hơn ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt, thuốc men… nó đang ăn sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và dặn: “con cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy”.

Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả. Nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay này có thể là vĩnh viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày về vì có biết ngày nào về đâu mà hẹn!

Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những bữa ăn, suốt trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên qua cái muỗng đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái, bên những người thân. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không bao giờ thành hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.

Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng hắn vỗ vai tôi:

– “Thôi được, nếu đã là như thế thì tôi giúp cậu. Tối nay, khi ngồi coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi cậu xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban thi đua lên phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa vào lấy, có gì thì cậu chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết này đấy, chưa biết chừng suốt mùa xuân.”

Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách “ăn trộm” này. Tối đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà ngoài hắt vào, vừa đủ soi sáng cái đống hầm bà làng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa bị thu mấy hôm trước. Tôi sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh bạn tù của tôi có lắm trò chơi thật.

Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những ống hỏa châu hoặc những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc gọt rất tinh vi. Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người yêu, làm bằng nhôm được khắc những cái tên “Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…” nghe nao cả lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có hoa lá cành xinh xắn. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.

Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ lộn xộn. Cái mà tôi kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi không dại gì mà không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp, vừa hồi hộp vừa phải thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ cũng khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng không còn ở đó nữa. Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày cộm của “thằng chết tiệt” nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận ra nó ngay. Lúc đó tôi có cảm tưởng như “con có ở xa hàng cây số thì bố cũng cứ nhận ra con như thường”.

Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi nhìn cái hoa văn chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái nét mặt con gái tôi khi nó “nhí nhảnh” đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là một chuyện vui, bố đi chơi rồi mai bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong nụ cười mếu máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao trong lúc gay cấn như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp. Tôi vọt ra khỏi phòng khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về “khu biệt kích”. Thoát nạn! Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của tôi, dù tôi đã phải hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi thì tôi cứ phải quanh quẩn trong cái “phòng đọc sách” chẳng có ma nào thèm ngó đến ấy.

Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như chuyện được ăn một bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo. Nhưng quả là tôi thấy hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi, còn cần gì vui chơi nữa. Đó chính là mùa xuân của tôi.

Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải “cứu lấy” cái vật gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu rồi cứu lại được cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi không phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi trong những năm qua, người đồng minh đó đã “gan dạ” cuốn cờ chạy nhanh và chạy xa quá rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.

Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa lớn. Chỗ chúng tôi làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường nó cạn, dòng nước trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh. Chúng tôi thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước từ những triền đồi vây quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là con suối trở nên hung hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những khúc gỗ lao băng băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi con suối trở thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng chọang làm đổ cái túi đồ đựng những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng khe đá nên tôi không ngần ngại nhoài người xuống mò. Anh bạn nhảy dù, la lên:

– “Bộ ông điên sao?”

Tôi điên thật, hy vọng mình mò được. Nhưng nước chảy xiết quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài chiến trường, rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút và khom người xuống, thò một tay ra cái khe hòn đá là tìm được lại cho tôi được cái muỗng. Đôi mắt anh rất tinh, anh mỉm cười:

– “Tôi biết ông mất cái gì rồi.”

IV.

Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi đã trở về, nhưng chưa trả lại cái muỗng cho con tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, định cư ở nước ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa hề gặp lại con gái tôi. Tính đến năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu đã lập gia đình ở Miami Florida.

Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn. Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng lửng lẫn lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi dự đám cưới. Tôi thì không, chẳng hẹn hò được điều gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có cảm giác như mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó về Sàigòn, chính tay tôi gửi được tấm thiệp mừng con gái. Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để cháu hiểu rằng lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố con còn ở bên nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa và tôi còn ở lại Sàigòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.

Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất rõ là từ khi cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái gì, xa vắng một cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống như cái cảm giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi buồn lâng lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền mãi mãi tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người ta chỉ còn lại cái tình. Cái tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi khi lại mạnh mẽ và sâu sắc hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật đó trên đời không gì có thể so sánh được.

Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng 9/2002 nhân dịp cháu lập gia đình. Nhưng tôi ngồi mãi trước computer, không gõ được chữ nào, đầu óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt, thế thôi! Đúng là chuyện của người thì nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.

Văn Quang




THƠ XƯỚNG HOẠ: “Trong Khám Chí Hòa”- VŨ HOÀNG CHƯƠNG – CAO MỴ NHÂN – PHƯƠNG HOA. VĂN: “DUY LAM, NÓI MÃI KHÔNG CÙNG” Cao Mỵ Nhân.

TRONG KHÁM CHÍ HOÀ 

  (Bài Xướng)

Thấm thoát vào đây tháng đã tròn

Lông hồng gieo xuống nhẹ như non 

Một manh chiếu nát, thân tơi tả

Nửa bát cơm hôi,  xác mỏi mòn 

Ngày đến bữa ăn thường nhớ vợ

Đêm về giấc ngủ lại thương con

Dẫu bao nước chảy qua cầu nữa 

Hồ dễ gì phai được tấc son ? 

  Thi sĩ VŨ HOÀNG CHƯƠNG 

                 1976. 

BUÔNG CÂU THẤT VẬN  

(Bài Hoạ) 

Nào ai tính được chuyện vuông tròn

Vàng có phai đâu, đá thử non

Lòng dạ người dưng như thiếu hụt

Tâm hồn khách lạ thấy hao mòn

Mong nhiều chẳng đạt niềm tin lớn

Ước mãi không thành giấc mộng con

Nên cứ bâng khuâng câu thất vận

Mệnh trời giữ vẹn trái tim son …

   Hawthorne  3 – 2022

         CAO MỴ NHÂN 

NÉT SON THI BÁ

(Kính cẩn họa)

Cá chậu tuy không dệt mộng tròn

Nhưng ngầm chất chứa những mầm non

Vì chưng quý sách văn nào cạn

Cũng bởi yêu thơ bút chẳng mòn

Sớm tối một lòng vun núi lớn

Tháng ngày quyết chí đóng thuyền con

Chờ khi thoát cảnh chim lồng ấy

Chữ nghĩa tung hoành điểm nét son

Phương Hoa – MAR 3rd 2022

THƠ CAO MỴ NHÂN: Hương Sắc Cũ

HƯƠNG SẮC CŨ  

 CAO MỴ NHÂN 

Tháng ba rồi , vạt nắng đổ hoang liêu

Trên mênh mông đại dương thêu trước mặt 

Có phải là sóng lang thang ấp yêu

Đã dội về, hẹn em nhiều mất mát

Biển Đan Hồ lắng nghe bao tiếng hát 

Tóc anh phai hay vẫn biếc tươi mầu 

Em đợi sóng trôi xa, vun bờ cát 

Đang chập chờn theo sát bước hải âu

Sáu năm qua, ôi tình tự trôi mau

Vòng tay anh hơn một lần khép lại 

Nhưng chúng ta  vẫn chưa ở bên nhau

Khiến phương nam mây về thay áo mới 

 Anh mỉm cười : tháng ba em đang tới 

Cho anh xin gặp gỡ sắc hương xưa

” Hương sắc cũ ” nồng nàn, em ngóng đợi 

Một ngày vui, nào phải nhớ nhung thừa …

        CAO MỴ NHÂN 

DUY LAM, NÓI MÃI KHÔNG CÙNG.    CAO MỴ NHÂN 

Vốn thân thiết với 2 cặp anh chị Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn  – Chu Thị Thịnh và Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng – Thuý Sơn, nên hình như là tôi hay được nghe các anh chị trên kể cho nghe về nhiều kỷ niệm trong đại gia đình Nguyễn Tường, họ ngoại, và Nguyễn Kim, họ nội, của 2 nhà văn tên tuổi Duy Lam và Thế Uyên trong làng văn Việt Nam cuối thế kỷ thứ 20 vừa qua . 

Nhà văn Duy Lam cứ khuyến khích tôi viết lại một số kỷ niệm về mấy nhân vật trong dòng họ ” rất văn nghệ ” của 2 dòng họ mà tôi có dịp quen biết . 

Những vị tôi thường lui tới, cùng đi chơi đây đó vv…

Nhưng tôi cứ lững lờ năm tháng trôi qua, nhà văn Duy Lam bảo rằng : 

” Cô có cả kho tài liệu về chúng tôi, hậu duệ của Tự Lực Văn Đoàn, nhất là thời gian cuối thế kỷ trước đây, qua 10 năm đầu thế kỷ sau này, khi còn ông chú tôi ( lẽ ra kêu bằng cậu ) là bác sĩ Nguyễn Tường Bách, bút hiệu Viễn Sơn, thủa cụ còn ở trong nước, chăm sóc báo chí của Tự Lực Văn Đoàn, trước khi cụ Nguyễn Tường Bách bôn ba qua Tàu, lánh nạn Việt Minh thủa 1945 ” . 

Nhà văn Duy Lam nói điều trên, khi anh chị Duy Lam còn ở nam tiểu bang California , và khi cụ Bách còn tại thế. 

Tôi ậm ừ vì nhiều thứ lý do lắm . 

Hậu duệ quý vị dòng họ Nguyễn Tường vẫn có một số  khá đông quý ông cầm bút, hay sinh hoạt văn học, văn hoá xã hội vv…như Nguyễn Tường Tâm, con cụ Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Thiết, con cụ Nguyễn Tường Tam ( Nhất Linh ), Nguyễn Lân, con cụ Nguyễn Tường Long ( Hoàng Đạo ) bác sĩ Nguyễn Tường Giang, con cụ Nguyễn Tường Lân ( Thạch Lam ) vv…

Song, điều hôm nay tôi muốn kể về Nhà văn Duy Lam, trưởng nam của cụ Nguyễn Kim Hoàn, Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn và phu nhân ông, bà Chu Thị Thịnh, mà chúng tôi hay gọi Thịnh Chu, chị còn lấy bút hiệu là An Nhiên . 

Mỗi lần nhắc tới anh chị, thì trong lòng tôi cứ nghẹn ngào thương tiếc lắm . 

Số là thủa …trước cuộc đổi đời bi thảm ở miền nam VN 30-4-1975, thì gia đình anh chị Duy Lam cư trú ở Đà Nẵng . 

Thoạt thì Nhà Văn Duy Lam, tức Đại uý Nguyễn Kim Tuấn ( sau lên Trung Tá ) theo đại tá Hoàng Xuân Lãm ( sau lên Trung Tướng ) từ trung ương ra  giữ Sư Đoàn 2 Bộ Binh đồn trú ở Khu 12 Chiến thuật ( bên này đèo Hải Vân ) .

Đại uý Nguyễn Kim Tuấn là Chánh văn phòng  Tư Lệnh Đại tá Hoàng Xuân Lãm . 

Một thời gian sau, qua nhiều năm, Đại tá Hoàng Xuân Lãm đã thăng cấp Trung Tướng , Đại uý Nguyễn Kim Tuấn đã thăng cấp Trung tá, và cùng thuyên chuyển lên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I – Quân Khu 1 , đồn trú ở Đà Nẵng . 

Trung tướng Hoàng Xuân Lãm giữ chức Tư lệnh QĐI/ QKI từ 

1966 – 1972, Trung tá Nguyễn Kim Tuấn tức Nhà Văn Duy Lam cũng song song làm Chánh Văn Phòng Tư Lệnh, nhưng ngoài việc quân binh, ông phải trọng trách tất cả các việc hành chánh và nhất là các sinh hoạt về chính trị, văn hoá xã hội của 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và 2 Thị xã Huế, Đà Nẵng . 

Lý do rất đơn giản, là thời buổi chiến tranh đó, Trung tướng Hoàng Xuân Lãm phải dồn mọi nỗ lực vào việc quân binh, nên vị Hoàng Tư Lệnh đã giao các việc nêu trên cho Trung tá Nguyễn Kim Tuấn, người có uy tín làm công tác văn hoá xã hội rộng lớn và phức tạp bên ngoài doanh trại . 

Tất nhiên để tổ chức và điều hành công tác hành chánh cùng các phần việc linh tinh khác, Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn đã phối hợp với nhiều quý vị dân sự cùng các huynh đệ chi binh chuyên ngành trong cũng như ngoài đơn vị thuộc Bộ Tư Lệnh QĐI/ QKI như : 

Quý ông Giáo sư Thái Doãn Ngà 

Quý ông giáo sư Phan Du

Quý ông giáo sư Nguyễn Văn Xuân 

Quý ông Tỉnh trưởng và các giáo sư trong Tỉnh Quảng Nam , thị xã Đà Nẵng để thành lập Đại Học Đà Nẵng . 

Các Câu lạc bộ Văn Học Nghệ Thuật . 

Báo chí, triển lãm tranh ảnh vv…

Với sự tiếp tay của các văn nghệ sĩ Quân Đội và dân sự trẻ thời bấy giờ như : Thi sĩ Thái Tú Hạp, Thi sĩ Luân Hoán, Hoạ sĩ Cao Bá Minh, Hoạ sĩ Lâm quang Phước  vv… 

Cụ bà Nguyễn Thị Thế là em thứ 5 của  quý cụ Nguyễn Tường Thuỵ, Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam ( Nhất Linh ) Nguyễn Tường Long ( Hoàng Đạo ) và là chị của quý cụ Nguyễn Tường Lân ( Thạch Lam ) Nguyễn Tường 

Bách ( Viễn Sơn ) thuộc dòng họ Nguyễn Tường . 

Cụ bà Nguyễn Thị Thế là phu nhân của cụ ông Nguyễn Kim Hoàn. 

Cụ ông Nguyễn Kim Hoàn,  người lo phần ” nội vụ các sự việc cho 2 tờ báo Phong Hoá – Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn  “, điều này do Nhà Văn Thế Uyên kể cho người viết nghe. 

Trở lại gia thế cụ bà Nguyễn thị Thế và cụ ông Nguyễn Kim Hoàn . 2 cụ Nguyễn Thị Thế và Nguyễn Kim Hoàn có 7 người con .

3 ông con trai là : Nguyễn Kim Tuấn ( Duy Lam ), Nguyễn Kim Dũng ( Thế Uyên ), Nguyễn Kim Sơn .

 4 bà con gái là : 

Nguyễn Thị Châu, Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Thị Tuyết, và Nguyễn Cao Thị Liễu . 

Có thể nói cụ bà Nguyễn Thị Thế, vai thứ 5 trong dòng họ Nguyễn Tường, đã là người quán xuyến việc nhà giữa 4 ông anh và 2 ông em của cụ thế nào, thì khi cụ có gia đình riêng , cụ cũng lo cho các con, các cháu y như thế . 

Do đó 2 nhà văn Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn và Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng cũng trong không khí chiều hướng như vậy, nhất là đối riêng với gia đình anh chị Duy Lam . 

Khi anh Duy Lam  bị đi tù cải tạo sau 30-4-1975, thì chị Duy Lam và 3  cháu gái của nhà văn Duy Lam phải từ Đà Nẵng về Đà Lạt tá túc với cụ bà nội . 

Và mặc dầu Nhà văn Thế Uyên có 5 con trai, anh vẫn nói rỡn với tôi, Phương Lan con gái đầu lòng của anh chị Duy Lam là ” đích tôn ” của cụ bà nội nêu trên . 

Cách nói đùa để chứng tỏ bà nội trực tiếp lo cho 3 cháu gái 

Phương Lan, Lan Anh , Anh Phương con nhà văn Duy Lam đang được bà nội chăm sóc từ A tới Z . 

Nhà văn Duy Lam đi tù cải tạo đã đành , chị Duy Lam ít lâu sau cũng đi tù cải tạo với lý do là chống phá cách mạng .

Quý vị sẽ hỏi tôi rằng : nhà văn Duy Lam tức Trung Tá Nguyễn Kim Tuấn mới phải đi tù cải tạo vì thuộc quân cán chính chế độ cũ , chứ bà Duy Lam thì cũng bình thường như các bà phu nhân sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà , sao lại bị tù đày vậy ? 

Xin thưa : Sau khi Nhà văn Duy Lam đi tù cải tạo rồi, bà Duy Lam và 3 cháu Tý li, Bé ti và Xu, tên ở nhà của các cháu nêu trên, phải đi vùng Kinh Tế Mới cũng thuộc địa hạt Đà Lạt , Lâm Đồng, thì chị Duy Lam bị trù dập kinh khủng . 

Thịnh Chu, phu nhân nhà văn Duy Lam rất đẹp, tính thẳng thắn, trong lúc phải lao động khổ nhọc, chị than thở, điều đó  bình thường thôi, nhưng chị đã dẫn chứng câu danh ngôn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là : 

” Đừng Nghe những gì Cộng Sản Nói, mà Hãy Nhìn những gì Cộng Sản Làm ” . 

Đối phương bắt chị nhắc lại để truy tội chống cách mạng . 

Phu nhân nhà văn Duy Lam cũng kiên cường như nhà văn Duy Lam, bà bình tĩnh, thản nhiên nhắc lại câu trên, không sai một dấu phẩy . 

Sau đó, chị phải đi tù nhiều năm . 

Ra khỏi trại tù,  chị ” bình tĩnh ” thêm nữa, viết nhiều thư từ gởi  Văn Bút Quốc Tế, trình bầy và nhờ can thiệp cho Trung tá Nguyễn Kim Tuấn, tức Duy Lam sớm trở về.

 Duy Lam từ các trung tâm cải tạo ngoài Bắc, chuyển vô Hàm Tân để chuẩn bị ra trại, chị ra thăm anh ở trại Z.30 , Nhà văn Duy Lam và phu nhân gặp nhau sau nhiều năm xa cách , thản nhiên ôm nhau với cử chỉ thân ái . Anh chị đã bị cúp phép thăm nuôi tức khắc . Nhà văn Duy Lam bị nhốt ngay sau đó vì vi phạm nội quy trại, không hề ghi trên văn bản . 

Nhà văn Duy Lam bị tù cải tạo 12 năm, ông trở về đoàn tụ gia đình năm 1987 . 

Sau đó chương trình HO, gia đình ra đi tị nạn # 1990 nhưng chỉ 2 cháu Lan Anh và Anh Phương được theo cha mẹ đi thôi, cháu Phương Lan sau có gia đình, phải ở lại VN, Anh chị Nhà văn Duy Lam đã bảo lãnh cho gia đình cháu này ít năm sau đó.

Hiện nay cả 3 cháu con Nhà văn Duy Lam đã ổn định cuộc sống, đều có gia đình và công ăn, việc làm . 

Phu nhân nhà văn Duy Lam mệnh chung cách đây 2 năm . 

Nay được tin Nhà văn Duy Lam qua đời 4-2-2021 tại Vỉginia sau khá nhiều năm Nhà văn Duy Lam không viết lách nữa , mà lại thích vẽ . 

Ông có nhiều bức hoạ từ cách đây ba chục năm. Qua miền đông, ông còn vẽ nhiều hơn, nhưng vẽ để thoải mái tinh thần, không định để làm gì cả, kể cả thơ, nhà văn Duy Lam muốn thử nghiệm cho …vui . 

Ngay đến văn là bộ môn chuyên nghiệp của ông, những năm cuối cùng, Nhà văn Duy Lam nói : 

” Bây giờ không viết nữa, chỉ đọc lại thôi …” 

Thực ra viết về Nhà văn Duy Lam thì ” Nói mãi cũng khôngcùng …” Lý do ông sinh hoạt nhiều ngành văn chương, nghệ thuật, văn hoá xã hội, giáo dục, đảng phái chính trị …vv.

Nhà văn Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn là một nhân vật chức sắc trong đại gia đình Việt Nam Quốc Dân Đảng  VN . 

Riêng với tôi, thì anh chị Nhà văn Duy Lam mang hình ảnh toàn vẹn cả về nhân cách lẫn tài hoa . 

Không ai có thể ngờ là lúc Nhà Văn Duy Lam trên 60 tuổi, ông còn lái xe chở phu nhân ông từ Cali qua Vỉginia . Hay đi mổ mắt, ông đã tự lái xe về nhà ở đoạn đường xa gần 2 tiếng đồng hồ . 

Tôi thường đùa ông vốn giỏi võ thuật yoga, bà là Huấn luyện viên Dưỡng Sinh sau tôi một khoá, nên chuyện thao tác thể dục dưỡng sinh quen thuộc với ông bà . 

Thi Sĩ Thái Tú Hạp, dịch giả Ái Cầm sửng sốt báo tin cho Cao Mỵ Nhân tôi, chúng tôi và anh chị Duy Lam gắn bó thân tình từ hơn nửa thế kỷ nay, những ngày Trung tá Nguyễn Kim Tuấn và chúng tôi cùng phục vụ quân đội tại Quân Đoàn I / Quân Khu I .

Trung tá Nguyễn Kim Tuấn mãn phần ngày 4 – 2 – 2021, hưởng thọ 89 tuổi ( 1932 – 2021 ) . 

Xin thắp nén hương lòng, tưởng nhớ về quá khứ xa xôi, cầu nguyện hương linh nhà văn Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn được sớm  phiêu diêu miền vĩnh cửu vô cùng .

      CAO MỴ NHÂN 




VĂN: Thanh Thản – CAO MỴ NHÂN

Có những chuyện thật mà kể ra cứ tưởng trong tiểu thuyết kinh dị, hoặc tưởng tượng, chứ làm sao sự thể lại như vậy.

Mới cách đây một giờ, trời còn chút nắng chiều, tôi vừa nghe cú điện thoại từ Houston gọi về. Bà chị dâu bên chồng tôi tên tạm gọi Diệm Hồng, nói rất bình tĩnh là:

Thím có khoẻ không, phone cho thím để báo tin chị sẽ đi lúc một giờ đêm nay, mệt mỏi quá rồi…. Tôi nghe không hề có tiếng sụt sịt khóc cảm thương thân phận hay là oán trách gì ai.

Tại sao lại thế, chị còn khoẻ mạnh, tươi đẹp và mới ngoài bảy chục chút thôi mà?

Người báo tin sẽ chết thì bình thản, mà người nghe tin buồn thảm là tôi thì hốt hoảng, sợ hãi, tôi cứ hỏi dồn: Chị Hồng, chị Hồng, chị có đau ốm gì đâu, có chuyện gì vậy? Tại sao vậy?

Là vì người ta có thể biết trước thảm hoạ bi thiết khi bác sĩ hay bệnh viện nói cho gia đình hay, thí dụ bệnh nhân ung thư phổi này cao lắm là khoảng vài tháng nữa… đi tong chẳng hạn.

Nhưng có lẽ hiếm ai tự đi báo tin sẽ chết trong mấy giờ nữa. Song rõ ràng tôi mới nghe tức thì thôi. Chị Diệm Hồng thủ thỉ một cách ma quái, là chị thanh thản đi trước lúc 1:00 AM.

Chị nói bắt đầu nhỏ lời hơn: Chị có đau nhiều, mới ở hospital ra. Thôi, chị Hồng sẽ đi trong thanh thản, mệt quá rồi, chào em..

Thế là cái gì? Một mạng sống, một cuộc đời chấm dứt như vừa qua phiên chợ vậy sao?

Tôi vẫn chưa khóc, vì chưa biết hồi kết của đoạn phim chị Diệm Hồng vừa chiếu hàm thụ cho tôi coi. Lòng mông mênh quá, bấm điện thoại cả chục lần cho các số phone liên hệ tới nhà chị và bản thân chị, không có phản hồi.

Tôi kêu thử một cô em bên nhà chồng tôi, nhưng phone cũng chẳng được đáp ứng. Tôi đang cư ngụ ở Los Angeles, chị ở Houston, không thể chạy tới thăm chị được và càng không thể nhờ cảnh sát vì chị có nói chị bị bức tử hay là muốn tự chết đâu. Vả chăng chị có cả chục con trai, gái, dâu, rể, không kể hàng cháu nữa.

Thế thì cũng gọi là lạ đấy. Tôi lan man nghĩ về một hoàn cảnh tương tự qua cái ý chí, không phải sự chết mà sự muốn thay đổi sinh hoạt sống, hoặc giả muốn thử thời vận xem có như ý hơn không?

Đó là chuyện cắt tóc tới sát da đầu, hay nói văn hoa là xuống tóc, mà nói không cần giải thích là cạo trọc cái mái tóc, vốn như một điểm hẹn thề riêng tư với chính mình.

Còn gọi là hứa nguyện cho một nguyện ước sắp tới, có khi lại là đã đạt điều mong ước, cần giải lời ước thệ ban đầu.

Thí dụ nếu tôi đạt được ước nguyện sẽ ăn chay bao lâu, sẽ thí phát (nhưng không quy y).

Thủa còn ở Việt Nam, trong năm năm kể từ 1980 tới 1985, không phải mình tôi mà bạn bè chúng tôi đã chứng kiến nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp hai lần xuống tóc.

Lần thứ nhất có lẽ là chị đạt nguyện đã có tin tức của hai con trai chị ở Mỹ.

Lần thứ hai khi chị quyết định sắp xếp chuyện cho các con gái và cả cuộc sống riêng tư của chị nữa.

Thế nhưng ai hỏi, chị vẫn nói là trời Sài Gòn nóng quá, cắt tóc thật sát da đầu cho mát…

Mỗi lần rời nhà, chị vẫn có một tấm khăn hoa rất đẹp, rất trang nhã đội trên đầu, kể cả lúc tới các hội thơ ngâm nga, tới các chùa chiền, v.v..

Không phải thí phát để quy y của các tăng sinh, tăng sĩ, người dân miền Nam thường có những chú nguyện đơn giản như ăn chay có thời hạn hoặc vô thời hạn, tức là hy sinh cả những niềm vui ăn uống ngon lành, mặn mà, có thể giảm thiểu một số thực phẩm bổ dưỡng.

…đến xuống tóc để chú nguyện cũng là một trạng thái tâm thần trong cuộc sống. Vì hy sinh cả mái tóc, nếu là phụ nữ, thiếu nữ thì mất hẳn vẻ đẹp của một góc con người rồi còn gì. Cái răng cái tóc là góc con người (tục ngữ Việt Nam).

Thành ra, nghĩ lại con người mà Thượng đế sinh ra là sinh vật thượng đẳng số một trong danh sách sinh hoá của Ngài, Thượng đế, vạn vật muôn hình, muôn ảnh…

Sự sống với sự chết có những hỗ tương ràng buộc từng thế hệ nhân sinh xen kẽ nhau. Để sinh tồn mãi mãi nghĩa là cuộc đời không bao giờ chấm dứt, chỉ có chuyển hoá khác đi thôi.

Tuy nhiên vẫn có những lý giải thần học là đấng tối cao tối đại vẫn có thể xoá đi trong chớp mắt trái đất này, hiển nhiên nhất vẫn là nỗi chết của bất cứ con người nào… không tránh được, chỉ có sớm hay muộn thôi.

(viết trước ngày Halloween 2016)
CAO MỴ NHÂN




VĂN: NHỚ ANH BA DƯƠNG HUỆ ANH- Tùy Bút HỒNG THỦY

NHỚ  ANH BA  DƯƠNG HUỆ ANH
     Tùy Bút   HỒNG THỦY

                                                

Lẽ ra theo đúng phép tôi phải gọi Thi Sĩ lão thành DƯƠNG HUỆ ANH là bậc tiền bối, nhưng ông đã nhận tôi là cô em nhỏ và cho phép tôi gọi thân mật là anh BA. Tình anh em tôi bắt đầu khi cô em văn nghệ thân quí của tôi là VĂN THI SĨ PHƯƠNG HOA rủ rê tôi gia nhập VĂN THƠ LẠC VIỆT. Mới chân ướt chân ráo bước vào ngưỡng cửa VTLV đã được các đàn anh gửi MAIL chào đón. Trong số đó có một email vô cùng dễ thương của THI SĨ lão thành DƯƠNG HUỆ ANH. Ông gọi tôi là “bạn cố tri”, và kể ông biết tôi qua Báo CỎ THƠM từ lâu lắm, chỉ chưa có dịp chuyện trò thôi. Tôi thầm phục trí nhớ của ông, còn tôi thì quá tệ, cảm thấy tên ông rất quen thuộc mà chưa nhớ ra ông cũng có Thơ đăng trên CỎ THƠM từ lâu.

Ngay sau đó, tôi mời ông gia nhập VĂN BÚT VÙNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ (VBVĐBHK), Ông vui vẻ nhận lời ngay. Từ đó thỉnh thoảng anh em tôi nói chuyện qua điện thoại. Ông tâm sự làm thơ từ năm 1954. Tôi nói năm đó tôi chỉ là con bé con mới 13 tuổi và là năm phải rời bỏ miền BẮC thân yêu để di cư vào NAM. Biết tuổi tôi rồi, ông gọi tôi là cô em nhỏ. Trong VBVĐBHK có Thi sĩ LÃO MÃ SƠN lớn tuổi nhất, chúng tôi tôn ông là anh HAI. Người lớn tuổi thứ nhì sau Thi Sĩ LÃO MÃ SƠN là Thi SĨ DƯƠNG HUỆ ANH nên tôi xin phép tôn ông là anh BA cho thân mật, ông vui vẻ bằng lòng ngay. Từ đó trên DIỄN ĐÀN VBVĐBHK chúng tôi luôn gọi ông là anh BA DƯƠNG HUỆ ANH. Ông rất hiền hòa, dễ thương, hòa đồng, thân mật với em út. Dạo sau này ông không được khỏe, nhưng nguồn thơ vẫn lai láng và sáng tác vẫn rất dễ dàng nhanh chóng.

Lâu không thấy ông gửi Thơ để tôi giới thiệu lên DIỄN ĐÀN VBVĐBHK, đang định phôn thăm ông và nhắc nhở, Không ngờ ông bỏ đàn em ra đi quá nhanh, không một lời từ giã. Anh BA ơi, anh em mình còn hẹn sẽ gặp nhau khi dịch bệnh yên lành, em sẽ qua SAN JOSE dự họp mặt VTLV để anh em mình có dịp được gặp nhau. Vậy mà anh đã quên lời hẹn  với em rồi. Cám ơn anh đã dành cho em gái nhỏ những tình cảm vô cùng quí giá. Bài thơ kỷ niệm anh đăng trong Tuyển tập VĂN BÚT VÙNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ anh đã ưu ái nhắc tới tên rất nhiều em út Văn Nghệ, trong số đó có em. Chúng em sẽ nhớ anh BA của chúng em mãi mãi.

Cầu xin anh thanh thản trên nước Trời. Tiếp tục vui với văn chương thơ phú  bên những người thân yêu.

Sau đây xin mời quí vị thưởng thức bài thơ tràn đầy tình văn hữu quí hóa của ANH BA chúng tôi. 

             THEO AI…                       

Thơ Dương Huệ Anh 

     

Thuở nào, ta khổ vì yêu,       

Theo nàng áo tím,

lớp chiều…trường xa!       

Rồi, người tú nữ kiêu sa,       

Lên xe với bạn…bye, tà áo bay!       

Để rồi ngơ ngẩn, theo mây.       

Biển đông, xe cát, mộng xây…dã tràng!       

Không còn gặp lại,bẽ bàng…       

Còn chăng, kỷ niệm…ngàn trang thơ buồn!       

Theo ai… tật xấu vẫn còn,       

Lên trời( net) gặp…những thơ tròn, thơ vuông…       

Truyện dài, truyện ngắn…ơi thương,       

Người chưa thấy, muốn vấn vương, có kỳ?       

Phương Hoa, Minh Thúy…bộn bề       

Bao sân, đồ họa…cũng chì thật thôi!       

Cung Lan, Hồng Thủy…yêu người,       

Trước, sau gắn bó, lối ngoài tầm phương…         

…Truyện thơ nhớ Nguyễn Thanh Dương,       

Tiểu Thu, Dung Đỗ, Phan Lang,bao người…**       

Kiều Mỹ Duyên, thạo việc đời,       

Viết văn, làm báo… góp lời, dựng xây       

Gặp nhau, trao đổi, có ngày…        

** Những tên tiếp theo muốn kể…

Huynh LÃO MÃ SƠN,THÁI LAN, SAO KHUÊ,

MỸ NGA, DAO THANH L, KIM OANH LÊ,

Ý NGA, NGUYỄN KINH BẮC,

THANH KIM LÊ, TRẦN QUỐC BẢO,

PHAN KHÂM, NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG,

NGỌC AN, LÂN NGUYỄN,

KIM LOAN, LUÂN TÂM, THƯ KHANH,

NGUYỄN MINH NỮU, XUÂN TIÊN…

                 (9-1-2021) DƯƠNG HUỆ ANH




LÊ VĂN HẢI – 02-22-2022: NGÀY ĐẶC BIỆT – TẢN MẠN: Như Hoa Ấu Tím – THƠ LÊ TUẤN

Hôm nay: Thứ Ba, Ngày 22 Tháng 2 Năm 2022. Đây là ngày rất là đặc biệt!

-Phải đến 200 năm nữa, hay 1 ngàn năm nữa, mới có một ngày, có một dẫy số 2 như ngày hôm nay! Có nghĩa là đời bạn có may mắn lắm, cũng được thưởng thức, hưởng 1 lần, những giây phút “huyền diệu” như ngày hôm nay!

-Có tên là “Pallin drome” gọi là ngày “trước sau như một!” có viết xuôi ngược gì, cũng là 5 con số 2! 22/2/22.

22222 nhiều người tin là con số “Thiên Thần!” ước gì trong ngày này, cũng đạt được!

-Người Trung Quốc thì tin tuyệt đối ngày hôm nay, họ gọi là “Ngày Đẹp Nhất Ngàn Năm!” Theo báo cáo từ thành phố Trùng Khánh cho biết: Hôm nay 22222, có con số nam nữ đăng ký Kết Hôn, làm Đám Cưới kỷ lục! nhiều nhất trong năm.

-Bạn có thầm ước gì trong ngày hôm nay không? 200 trăm năm mới có một ngày, như ngày hôm nay đó! 200 năm đã thấy mù mịt sương khói, nhiều người còn nói, phải chờ đến…nghìn năm!

Bỏ qua ngày hôm nay, Bạn phải chờ ít nhất vài chục kiếp sau!

BÀI VIẾT CỦA LÊ TUẤN:

Hôm nay là ngày đặc biệt nhất (vài trăm năm mới có một lần) đó là ngày 02-22-2022 ngày “Palindrome”, ngày trước sau như một rất hiếm thấy. Ngày Palindrome chỉ xảy ra khi người ta đọc con số thời gian dù theo chiều xuôi hay chiều ngược, con số đó vẫn không hề thay đổi, vẫn y nguyên như vậy. Trên các tờ tin tức quốc tế đã đưa tin về ngày hôm nay (22/02) như một ngày đặc biệt trong năm 2022.
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong ngày này, lễ cưới thường được tổ chức nhiều hơn. Bởi theo quan niệm của nhiều người thì đây là một ngày vô cùng đặc biệt, rất dễ để nhớ và được xem là ngày đẹp. Các cặp đôi hy vọng họ sẽ gắn kết cùng nhau mãi mãi không đổi như ý nghĩa của ngày này, trước sau như một.

Tôi xin gửi đến diễn đàn những vần thơ chia sẻ cùng quý vị Văn Thi Hữu xa gần cho phong phú thêm một diễn đàn hội tụ những thi nhân. Nếu được xin chia sẻ rộng rãi.Chúc vui và bình an

Lê Tuấn

image.png

hình minh hoạ

Vạt Nắng Xuân Tình

Vạt nắng vướng tà áo xuân

Theo em mất dấu, tần ngần hoa treo

Bóng con chim lạc bay vèo

Mùa xuân sao lại, buồn heo hắt buồn.

Thả rơi một tà áo buông

Bờ vai lưng hở, màu sương trắng mờ

Cho tôi ngồi đợi, đứng chờ

Mới hay em đã, buông tơ nghìn trùng.

Môi mềm, mắt ướt nhẹ rung

Lệ ngân ngấn ướt, ngập ngừng gọi tên

Mắt môi em gợi ưu phiền

Tôi còn phiêu bạt, qua miền lưu vong.

Bước chân, vàng lá rừng phong

Theo em lên đỉnh mây hồng đợi nhau

Tìm theo dấu vết ban đầu

Cỏ vàng phía trước, ngàn sau bụi mờ.

Tình còn tiếc mãi giấc mơ

Xuân về hoa nở, hững hờ vàng phai

Bài thơ thêm tiếng thở dài

Ngân lên tiếng nấc nhớ hoài cố nhân.

Đồi xuân cỏ lấp dấu chân

Xa kia nắm đất, mộ phần chia phôi

Lá hoa hướng ánh mặt trời

Để thương, để nhớ một đời có nhau.

Tiếng chim kêu đỉnh tình sầu

Câu ngân chất ngất, đậm sâu chân tình

Tôi về nhìn lại đời mình

Nhớ về em, một bóng hình thế thôi.

Lê Tuấnimage.png

Buồn Vu Vơ

Cuộc tình mây nước mênh mông

Gió buồn thổi những phiêu bồng trong mơ

Cuối đời đứng giữa bơ vơ

Ngắm qua biển rộng bến bờ xa nhau.

Một thời ly biệt qua mau

Đổi thay vận nước trước sau nghìn trùng

Biển xô sóng vỗ tận cùng

Đôi bờ bọt trắng ngượng ngùng hỏi thăm.

Lòng còn day dứt trăm năm

Đêm về sầu đối gương nằm nhớ quên

Xa xa tiếng gọi quen tên

Xót xa dòng lệ gửi miền quê xưa.

Lê Tuấnimage.png

hình mih hoạ

Thơ SayLoạng choạng thành sầu quên rồi lại nhớ
Một khoảng trời xa, ngơ ngẩn biết yêu
Gặp gỡ em trong khoảng tối mưa chiều
Xin cạn chén sầu, cô liêu muốn khóc.

Quên và nhớ là hai điều nghịch lý
Trời đất quay hay tâm trí ta say
Uống chén rượu, quên và nhớ đêm nay
Dáng em gầy, mảnh lụa cuốn gió bay.

Tình yêu đến, sao hồn ta cô độc
Chút men say, loạng choạng bước lang thang
Say tình yêu, men rượu sẽ hoang đàng
Tìm dĩ vãng, tình hoá thành quên lãng.

Lê Tuấn

BÀI VIẾT CỦA NHƯ HOA ẤU TÍM

22-02-2022 – con số tuyệt đẹp trên dưới trái phải giống như chơi lò cò trên dưới bàn đạp: Palindrome Day! Từ điều này người ta tin rằng ngày này nên có đôi có cặp – đừng tưởng là đúng mà ngồi mộng mơ nghe quý bằng hữu – đọc thật to lên nhé – hai hai không hai hai không hai hai hai – loạn cả lên – theo cách bói cộng các số thì bằng 12 = 1 cộng hai =3 – úi trời bấm quẻ số ba này là bù trớt: – Một người đi với một người – một người đứng lặng buồn hiu đứng nhìn . . . hát to lên nghen!Theo cách bói trừ thì con số 0 to tướng – đôi cặp chỗ nào kia chứ – chỉ là khủng hoảng của con số thế thôi – đừng tin mà tìm nơi chốn tựa nương mà lầm chết, vì những lời bói toán đường mật mà trăm ngàn giọt lệ tuôn thành “biển mặn” cũng vì những điều bói toán mà trăm ngàn linh hồn biến thành những chấm li ti chớp chớp trên “bầu trời đêm” ngày em thắp sao trời . . . có yêu ngọt ngào tìm rồi chết bên nhau thật là hồn nhiên chi đó của cặp “Lê Uyên Phương” Mình vội vã viết đôi điều để khuyên quý bằng hữu Hoa Giáp – Thất thập cổ lai có nhờ nhàng duyên phận cảm thấy đơn côi đừng tin điều bói toán mà vội vàng tấp bờ tấp bụi mà khóc than không kịp đó, sáng ngày mình bấm quẻ giúp đời vì quá chừng tin nhắn gởi đến với ý là: nhanh với chứ vội vàng lên với chứ!” hôm nay là ngày hoàng đạo giờ hoàng thiên tiết hoàng tuyền phải kết bạn ngay sẽ trường sinh giai lão – Ối! Ông Bà Cha Mạ ơi! May mà mình biết bấm độn tra ra đằng sau con số đẹp đẽ này là tai ương khủng khiếp, khôn gần 70 năm bỗng vì một con số được cho là đẹp mà dại vài giây, không lâu đến vài giây đâu, chỉ một cái chớp mắt thôi là . . . tiêu tiêu tiêu dao miền đau khổ . . . tình trường!Lời cảnh báo này cũng dành cho các cháu còn “che chẻ” độ tuổi trung niên “tam thập nhi lập” – luôn cả “nhị thập tứ hiếu” nữa đó, ba mươi mà đọc được lời cảnh báo này chắc chắn là Việt Nam, thì đôi khi bị gia đình bè bạn chê “ế” – hai mươi thì vì bị cột vào tứ hiếu muốn vùng vẫy bẻ rào cũng rất dễ bị cuốn vào ba cái vụ hối thúc ngày đẹp lứa đôi!Thế nhá, vì phúc phần nhân loại mà gióng lời cảnh tỉnh, con số chỉ là con số chỉ có thật khi biết YÊU thôi nhé – khi nao rảnh rỗi mình sẽ bấm tiếp độn số về ba chữ này . . . .

Như Hoa Ấu Tím




KIỀU MỸ DUYÊN – SỰ THÀNH CÔNG CỦA NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN




KIỀU MỸ DUYÊN: VALENTINE, NGÀY CỦA TÌNH YÊU

VALENTINE, NGÀY CỦA TÌNH YÊU

KIỀU MỸ DUYÊN




VĂN: Một Quảng Đời Đã Qua – Nguyễn Phúc Vĩnh Đương

Một Quảng Đời Đã Qua

Nguyễn Phúc Vĩnh Đương

Sau khi đưa tờ giấy hẹn gặp Counselor cho người thư ký tại Văn phòng, tôi chọn một chỗ ngồi cuối dãy hành lang chờ đợi tên mình được gọi. Mấy hàng ghế đầu là một tốp sinh viên trẻ đang líu lo trò chuyện về việc chọn môn học cho mùa Fall này. Tôi nghĩ đến những môn mà tôi đã ghi danh để theo học không giống ai cả như lớp Máy lạnh xe hơi (Air Conditioning) lớp Chụp hình căn bản (Photo basic) lớp Pháp Văn căn bản (French 180). lớp ESL 1…Sở dĩ tôi chọn những môn học này đều không phải bỏ nhiều thì giờ để làm bài hoặc học bài, vì tôi phải còn đi làm để kiếm tiền nuôi gia đình nữa. Về môn tiếng Pháp thì tôi ghi cho có lớp, chứ trước kia tôi đã học chương trình Pháp và đã đậu bằng Trung học Pháp (Brevet) rồi. Dù cho học hết các lớp của môn này đối với tôi cũng không khó khăn gì. Còn môn Anh Văn thì tôi cũng đã từng đi dạy ở các Trung Tâm ở Sài gòn hơn mười mấy năm sau khi đi tù cải tạo về.

Tôi đang lo không biết ăn nói làm sao với Counselor  đây khi cô ta hỏi “Major” của tôi trong việc chọn lựa môn học cho mùa Fall này. Tôi ghi danh học không phải để tiến thân hoặc lấy cấp bằng mà mục đích duy nhất là lấy tiền trợ cấp (Financial Aid).

Đang suy nghĩ miên man thì bà thư ký gọi tên, và chỉ tôi vào cái phòng trước bàn giấy của bà ta. Tôi gõ cửa bước vào, hơi mát của phòng máy lạnh làm tôi cảm thấy thoải mái dễ chịu. Counselor của tôi, cho đến lúc này, tôi mới biết là người Việt, vì trong giấy hẹn gặp Counselor, tôi chỉ biết rằng hôm nay, giờ này, tôi phải có mặt tại trường để gặp Ms.Vanessa.

Tôi chưa kịp chào cô ta thì cô ta đã làm cho tôi thật ngỡ ngàng khi đứng lên nói :

“ Chào thầy ! Thầy còn nhớ em không?”

Tôi cố hết sức để nhớ lại, nhưng thật sự tôi không còn nhớ nỗi nữa, chỉ thấy quen quen…

Sau những năm tháng trong các trại cải tạo, sau những ngày cơ cực, vật lộn với cuộc sống đã làm cho trí nhớ của tôi cùn đi, không còn được như xưa nữa. Có thể cô ta là một học sinh của tôi trước đây, mà học sinh trước hay sau 1975. Trước 75 trong thời gian dạy tại trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà lạt tôi cũng từng dạy nhiều trường tư như Trí Đức, Việt Anh, Văn Học, Quang Trung, còn sau khi đi tù cài tạo về, ngoài những trường công lập ở Sài gòn, tôi còn dạy cho các trung tâm Anh Văn của Hội Trí Thức Yêu Nước, của Trung Tâm Nghiên Cứu Dịch Thuật.

Học trò có thể nhớ thầy, nhưng thầy thì không thể nhớ hết học trò của mình trong suốt mấy chục năm đứng trên bục giảng với phấn trắng bảng đen.

Để đánh tan sư ngạc nhiên và bối rối của tôi, cô ta nói tiếp :

“Em là Vân Huyền học trò thầy ở lớp 12 trường Văn Học ở Đà lạt.”

Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tôi nghĩ rằng có thể nào cô học trò trước năm 75 đã một lần đi chơi với tổ hợp lâm sản và đã gặp tôi ở Nha Trang ngày nào, nay lại là Counselor của tôi ? Huyền đã khác xưa nhiều lắm, từ phong cách cho đến thể hình và cách ăn mặc, nên tôi không nhận ra, duy chỉ có đôi mắt đen, to và ươn ướt như hồi còn đi học.

-“Chắc thầy ngạc nhiên lắm khi gặp lại em ở đây. Chuyện còn dài em sẽ kể cho thầy nghe sau.”

Huyền nói tiếp :

-“Khi bà thư ký đưa giấy hẹn của thầy, em thấy tên thầy, em nghĩ không biết có phải  là thầy hay không, cái tên hai chữ của thầy làm thế nào em quên được, cho nên em đã đi ra để nhận diện mà thầy không hay biết. Đúng là thầy ! Thầy già đi nhiều, không còn phong độ và đẹp trai như ngày xưa nữa.”

Tôi mỉm cười :

– “Già rồi ! mấy chục năm rồi còn gì !”

Huyền nói :

– “Thôi, bây giờ thầy và em ra ngoài này nói chuyện.”

Huyền dẫn tôi ra khỏi phòng, đến ngay bàn bà thư ký, giới thiệu với bà ta, tôi là thầy cũ của Huyền ở Việt Nam. Bà ta bắt tay chào hỏi tôi một cách thân mật, rồi Huyền và bà ta trao đổi với nhau một vài câu gì đó mà tôi không nghe rõ. Huyền đưa tôi ra một tiệm McDonald’s phía bên kia đường. Vừa đi Huyền vừa hỏi về đời sống của tôi hiện tại :

-“Thầy qua đây đã lâu chưa ? Hiện giờ thầy làm gì ? Em biết thầy đi học chỉ để lấy tiền ‘Financial Aid’ mà thôi. Ai qua đây, mới đầu cũng vậy hết. Thầy dạy Anh Văn mà lại ghi học ESL1”

Tôi tình thiệt nói với Huyền là tôi đang làm Assembler cho một hãng điện tử, cái nghề tay chân, không cần bằng cấp và tay nghề, mà phần đông những người mới qua làm để kiếm tiền trong những ngày đầu định cư tại Mỹ, trong khi chờ kiếm được một công việc khá hơn. Lương tiền không đủ để trả tiền thuê apartment nên tôi phải ghi danh đi học vào những giờ nghỉ hay buổi tối để được tiền Financial Aid.

Vào đến tiệm, Huyền chọn một cái bàn trong góc, mời tôi ngồi rồi đi ngay đến quầy hàng…                                                                  

Những hoài niệm cũ ngày xưa phút chốc trở về…tràn ngập trong trí nhớ của tôi. Ngày đó, thời gian đó là những tháng năm nhàn nhã và đẹp nhất của tôi ở Đà lạt. Ngoài hai giờ dạy môn Luật và Kinh tế cho SVSQ trường VBQGVN mỗi ngày, thời gian còn lại chỉ đi uống cà phê, uống rượu, lang thang khu Hoà Bình. Đêm nào không ứng chiến hay trực  lại đánh bài, xoa mạt chược…có khi thức trắng hai đêm liền. Để bớt rong chơi và kiếm thêm thu nhập một số Sĩ Quan Giáo Sư đã xin phép để được đi dạy thêm ở các trường tư thục. Huyền lúc đó là học sinh của tôi ở lớp 12 trường Văn Học, một trường tư nổi tiếng ở Đà lạt. Tôi còn nhớ rất rõ Huyền ngồi ở bàn cuối lớp. Huyền có đôi mắt đen, to và ươn ướt, lúc nào cũng như muốn khóc, ít nói và trầm buồn… Huyền không đẹp lắm nhưng nhờ có mái tóc dài nên có nét quyến rũ liêu trai.

Hằng ngày tôi đi dạy bằng chiếc xe jeep cũ mà tôi đã mua từ Nha Trang, nhưng đến năm 72 khi Hiệp Định Paris được ký kết, quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, vật giá bắt đầu gia tăng, nhất là nhiên liệu. Giá xăng lên vùn vụt, tôi không thể dùng xe đó để làm phương tiện di chuyển nữa. Khi một tổ hợp lâm sản có ý định thuê lại, tôi bằng lòng ngay. Hàng tháng họ trả tiền cho tôi sòng phẳng, ngoài ra họ thường rủ tôi đi ăn nhậu hoặc đi chơi xa trong những ngày cuối tuần hay những ngày nghỉ lễ.

Một buổi sáng Thứ Bảy, từ trường Võ Bị ra, tôi gặp Sơn, tổ trưởng tổ lâm sản, rủ tôi ra Nha Trang tắm biển, chiều Chủ Nhật về. Tôi nhận lời ngay, vì muốn thay đổi không khí và không muốn hai ngày nghỉ lại ngồi xoa mạt chược nữa.

Chiều hôm đó Sơn đến đón tôi tại khách sạn Thủy Tiên 2, cư xá giáo sư độc thân của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam .

Chúng tôi đến Nha Trang sau 4 giờ lái xe. Sơn đã đặt sẵn phòng cho tôi ở khách sạn Grand Hotel nằm trên đường Trần Quí Cáp. 

Tối hôm đó Sơn đã đẩy Huyền vào phòng tôi. Vừa nhận ra tôi Huyền biến sắc tôi thấy ngay sự bối rối và tình huống khó xử của Huyền, lanh trí tôi trấn an Huyền trước :

-“Em cũng quen anh Sơn à ? Em ra đây lúc nào vậy ?” Huyền như vớ được phao, lí nhí trả lời :

-“Em ra đây với mấy người bạn của anh Sơn vào buổi sáng.”…

Suốt đêm hôm đó Huyền đã thành thật kể cho tôi nghe hết những gì xảy ra cho Huyền trong những năm qua. Huyền cho tôi biết cha của Huyền cũng là một Sĩ Quan, xuất thân từ trường Bộ Binh Thủ Đức và đã hy sinh trong một cuộc giao tranh ác liệt khi Huyền mới 10 tuổi. Từ đó Huyền được bà Nội đem về nuôi dưỡng, để cho mẹ rảnh tay đi buôn bán kiếm sống qua ngày. Bốn năm sau, bà nội mất và mẹ của Huyền cũng tái giá với một thương gia người Hoa giàu có, Huyền lại về sống với mẹ. Người dượng ghẻ là một tay thu mua gạo ở các tỉnh miền Tây, ông ta xin cho mẹ Huyền một môn bài bán gạo ở chợ Bình Tây trong Chợ Lớn. Ông ta thường đi đây, đi đó, ít khi về nhà.

Huyền kể: “Năm em 16 tuổi, một hôm mẹ phải đi nhận gạo ở tỉnh,  ông ta bất ngờ trở về nhà lúc nửa đêm và đã dùng vũ lực để cưỡng bức  em…Ấn tượng đó trong đời em không bao giờ có thể quên được. Em đã nói hết cho mẹ em nghe, mẹ em sợ tai tiếng nên không làm lớn chuyện, cắn răng chịu đựng, âm thầm đau khổ. Đến bây giờ em mới thấm thía khi nghe những lời người ta thường ru con ngủ:

Trời mưa bong bóng phập phồng

Mẹ đi lấy chồng con ở với ai

Con đói thì con ăn khoai

  Đừng ở với dượng điếc tai láng giềng…

Sau đó mẹ em gửi em lên Đà lạt ở với người dì, không chồng con, bán rau quả ở chợ để tiếp tục đi học lớp 10. Hàng tháng mẹ gửi tiền ăn học cho em. Nhưng một năm sau đó, trong một cuộc gây lộn kịch liệt với ông dượng quý hóa kia, và cũng vì bệnh cao áp huyết, thêm buồn phiền về chuyện của em, mẹ em đã bị tai biến mạch máu não rồi mất sau hai ngày hôn mê ở bệnh viện.

Mẹ em mất không để lại gì, từ đó Dì em chỉ lo đủ cho em cơm ngày hai bữa, tiền học thì tháng có tháng không, nhiều lúc em phải tự xoay xở lấy. Lúc đó em đang theo học lớp 11, em tự nhủ là phải lấy cho bằng được bằng Tú Tài để đi tìm việc nuôi thân. Em tỏ ra bất cần đời, buông xuôi mọi thứ. Thỉnh thoảng em đi chơi xa với nhóm anh Sơn mà thôi…”

Tôi cũng kể cho Huyền nghe về cuộc đời cơ cực, trôi nổi và tự lập của tôi từ nhỏ để an ủi và thông cảm với Huyền. Tôi khuyên Huyền cố học để thi cho đậu, nếu gặp khó khăn trong vấn đề học hành hay tài chánh thì cho tôi biết, tôi sẽ giúp Huyền trong khả năng của tôi.

                                            *****

Tuần lễ kế tiếp, vào lớp dạy, tôi không thấy Huyền đi học. Tôi muốn hỏi hai nữ sinh ngồi cạnh Huyền, nhưng ái ngại. Sau khi viết đề bài lên bảng cho học sinh làm, tôi mở sổ điểm danh và sổ điểm để xem Huyền không đi học giờ của tôi hay tất cả các môn khác nữa. Huyền đã nghỉ học 2 ngày rồi.

Chiều hôm đó, trong lúc lang thang trên khu phố Hòa Bình, tôi thấy Huyền từ dưới chợ đi lên. Gặp tôi quá bất ngờ Huyền không thể tránh được, miễn cưỡng gật đầu chào. Tôi nhìn thẳng mặt Huyền và hỏi ngay:

 -“Tại sao em nghỉ học ? chỉ còn 2 tháng nữa thôi em sẽ phải thi rồi, không thể bỏ ngang xương như vậy được. Trong mọi hoàn cảnh chứng tỏ khả năng. Hãy quên đi mọi chuyện, để nghĩ đến tương lai. Lời khuyên cuối cùng của tôi đó.”

Huyền không dám nhìn thẳng mặt tôi, cúi đầu nói :

-“Mấy hôm nay dì của em bệnh, em phải ở nhà để giúp cho dì, ngày mai em sẽ đi học lại. Cám ơn thầy đã khuyên bảo em.” rồi xin phép đi.

Tôi biết Huyền nói dối vì chiều hôm qua tôi và một người bạn ghé sạp của dì Huyền mua một bắp sú để về xào trứng cho buổi ăn tối. Nhưng thôi, tôi biết Huyền đang bị khủng hoảng tinh thần, và mặc cảm vì người biết rõ chuyện thầm kín của Huyền chính là tôi. Hôm sau Huyền đi học lại, vào lớp Huyền cũng như tôi không còn được tự nhiên như trước. Tôi tránh  nhìn Huyền và Huyền cũng vậy.

                                            *****

 Hai tuần sau kỳ thi Tú Tài, Huyền đã đến tìm tôi tại cư xá Thủy Tiên 2, báo cho tôi biết Huyền thi đậu và mời tôi đi ăn cơm tối. Thực sự tôi đã biết trước khi thầy Hiệu Trưởng lấy danh sách học sinh của trường thi đậu đem về, Huyền là một trong 3 học sinh của trường đậu hạng Bình thứ. Trường Văn Học có tỷ lệ đậu khá cao trong niên học này. Thầy Hiệu Trưởng có vẻ hài lòng, tỏ ra vui vẻ với giáo sư hơn các ngày thường.

Huyền và tôi đi bộ xuống Chic Shangai, một tiệm ăn khá thanh lịch, ngay dưới dốc cư xá, cạnh khu phố Hòa Bình. Trong bữa ăn, Huyền cho tôi biết ý định muốn về Sài gòn tìm việc làm, và nếu có phương tiện, thì sẽ học thêm Anh ngữ. Huyền còn nói nhiều về “Thủy Tiên 2” cư xá của những Sĩ Quan Giáo Sư Văn Hóa Vụ, đối diện Ký Túc Xá của nữ sinh viên Viện Đại Học Đà lạt. Tôi thật không ngờ Huyền biết tên của nhiều người bạn của tôi ở cùng khách sạn và cả tên ông bạn già của tôi nữa. Thường đã cùng tôi đi mua Lan mỗi buổi sáng do người thượng đem ra bán ở khu Hòa Bình). Không những Huyền biết tên mà còn biết cả biệt danh (nickname) của từng người nữa.

 Huyền nói :

 -“Em biết các bạn thường gọi thầy là ‘Râu hay Nhím’ có đúng không vậy? ” Tôi mỉm cười hỏi lại :

– “Sao em biết ?” Huyền không trả lời câu hỏi của tôi mà nói tiếp :

-“Em có con bạn nó mết thầy lắm, nó khen thầy đẹp trai. Nó thích nhất là khi thầy mặc bộ Jaspé, bộ quân phục dạo phố mùa Đông mà vào lớp dạy, những lúc đó trông thầy giống Robert Taylor trong phim La valse dans l’ombre (Điệu Vũ Trong Bóng Mờ). Hôm ấy trông Huyền vui vẻ và nói hơi nhiều…

Sau bữa cơm, trước khi từ giã Huyền, với những kinh nghiệm của riêng trong cuộc sống, tôi chân thành khuyên Huyền cố gắng quên đi những buồn phiền, những gì không tốt đẹp trong một quảng đời đã qua, để vươn lên. Tôi nói :

-“Không ai thương mình bằng chính mình. Trong mọi hoàn cảnh chứng tỏ khả năng. Cuộc đời là một chuỗi ngày tháng tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân mình, trên con đường dài ấy có mấy ai chưa từng vấp ngã. Giá trị của con người không nằm trên sự vinh hiển thuận buồm xuôi gió, mà ở chỗ có vượt qua được những tai ương bất hạnh hay không. Nếu em muốn thành công , em sẽ thành công.” Huyền có vẻ bùi ngùi, trước khi về Huyền nắm chặt tay tôi. Rồi từ  đó tôi không gặp lại Huyền nữa.

Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, quân Bắc Việt đã chiếm hầu hết các tỉnh miền Trung, và khi nghe Đà Nẵng thất thủ, tôi và nhiều SVSQ đã khóc. Vận nước nổi trôi, cái ngày đau thương nhất của Miền Nam Việt Nam đã đến -ngày 30 tháng 4 năm 1975- Tôi cùng với hàng trăm ngàn Quân, Cán, Chính khác đã khăn gói vào trại tập trung.

Sau hơn 3 năm trong các trại cải tạo Trảng Lớn, Đồng Bang, Kà Tum, Bùi Gia Mập, Phước Long, tôi đã được thả. Về địa phương trình diện, chính quyền không cho tôi tạm trú mà chỉ định cho tôi vào một nông trường tận mãi Cà Mau. Hằng ngày phải ngâm mình trong các mương rạch để đốn cây đước đem về cất nhà cho cán bộ. Tôi quyết định trốn về Sài gòn, trong thâm tâm tôi nghĩ rằng nếu có bị bắt lại, đưa vào trại cải tạo một lần nữa vẫn còn dễ thở hơn ở đây.

Về Sài gòn tôi không dám về nhà vì sợ liên lụy đến gia đình bên vợ, tôi lang thang đi xin việc làm tại một tổ hợp đóng thùng gỗ của một tư nhân trong Chợ Lớn cùng với một người bạn dạy Võ Bị vừa mới ra trại, và anh đã chết một năm sau đó. Ban đêm, với một tấm vải nhựa, có khi tôi ngủ tại nhà ga xe lửa ở đường Phạm Ngũ Lão (khi nhà ga chưa dời qua Bình Triệu), khi thì ngủ dưới mái hiên của những tiệm buôn dọc theo đường Lê Lợi, khi thì về tá túc nhà bạn thân (Khoa Nhân Văn) ở Phú Nhuận. Thỉnh thoảng tôi đến đưa mấy đứa con của một người bạn cùng Khoa Luật và Lãnh Đạo (đã chết vì đói trong trại cải tạo ở miền Bắc) đi sở thú. Tôi đã sống như vậy trong hơn hai năm trời…

Cho mãi đến khi Thành Ủy ra quyết định những người có văn bằng Đại Học được ở lại thành phố, tôi ra trình diện và được chấp thuận cho tạm trú, sau hơn một giờ xét hỏi văn bằng, giấy tờ, hạch hỏi và đe dọa. Mấy ngày sau tôi ghi danh vào Hội “Trí Thức Yêu Nước” mà chúng tôi thường đùa khi thêm một chữ Ngoài sau chữ Nước, vì chính giáo sư Hội Trưởng Lê Văn Thới cũng đã vượt biên mà không lọt.

Tôi được cho theo học một lớp “Bồi Dưỡng Trí Thức” để được đi dạy lại.

Trong thời gian này tôi vừa đi học vừa đi bán rượu lậu để sinh sống. Ngày nào cũng vậy, tôi đi học với hai thùng rượu nếp than 40 lít sau xe đạp, học xong là “tranh thủ” đi bỏ mối ngay. Để được ra cổng bất cứ lúc nào tôi cũng phải “hối lộ” cho bảo vệ mỗi tuần một lít.

Chỉ còn 2 tháng nữa thì mãn khóa học, một người bạn của tôi cũng là giáo sư Văn Hóa Vụ vừa được ra trại đến thăm và rủ tôi vượt biên bằng đường bộ khi nghe người bạn cùng khoá  với tôi là anh TĐH làm trưởng khoa Thể Chất của trường đi trót lọt. Không may tôi bị bắt và bị giam tại Campuchia. Hai tháng sau được đưa về khám Chí Hòa, tôi đã nghĩ tình trạng xấu nhất sẽ đến với tôi nên yên chí với số phận hẩm hiu của mình.

Trong khi đó, ở lớp học bồi dưỡng, một người bạn thân cùng học không những điểm danh‘có mặt’cho tôi hàng ngày,mà còn làm bài thi cuối khóa cho tôi nữa! (Tôi thành thật biết ơn bạn Trần Đình Ph, một Sĩ Quan Không Quân hiện cư ngụ tại San José, vì tình bạn đã làm công việc táo bạo này. (A friend in need is a friend indeed)

Tôi được bố trí dạy Anh Văn cho một trường Trung Học tại Quận 1, trong khi tôi còn đang nằm trong tù. May mắn thay, sáu tháng sau tôi được thả ra, có lẽ nhờ khai man lý lịch…

Cầm quyết định bổ nhiệm của Sở Giáo Dục, tôi đến trình diện trường để nhận nhiệm sở. Nhờ có 3 tháng nghỉ Hè nên tôi chỉ trễ một tháng. Tôi lấy lý do bị bệnh thương hàn phải nằm bệnh viện, để chứng minh tôi lấy mũ ra cho ông Hiệu Trưởng thấy cái đầu vừa mới mọc tóc của tôi (thật sự tôi đã bị cạo trọc khi ngồi tù)

Trong thời gian dạy ở trường công, lương giáo viên không đủ sống, tôi đầu quân vào Trung Tâm Nghiên Cứu Dịch Thuật và Hội Trí Thức Yêu Nước để dạy các lớp luyện dịch ở Hội, trường Cao Đẳng Sư Phạm. Nói về khả năng Anh ngữ, tôi không thể so sánh được với các anh trong Khoa Anh Văn của TVBQGVN như anh NVS, TVT, và các giáo sư khác, nhưng các lớp luyện dịch của tôi học viên rất đông. Sở dĩ được như vậy vì học viên của tôi đậu khá nhiều trong các kỳ thi tuyển vào Đại Học, nhờ tôi đã dùng giáo trình của Bộ Giáo Dục Xã Hội Chủ Nghĩa.

Tôi đã giúp học viên dịch thật nhiều đề tài thời sự nóng bỏng, liên quan đến chính trị, kinh tế, các bài diễn văn, lời phát biểu của các Tổng Bí Thư. của ‘Bác Hồ’ đúng vào trọng điểm lúc bấy giờ, với lối dịch và dùng từ khá đặc biệt của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Như muốn dịch “Đảng Cộng Sản Việt Nam” thay vì “The Vietnamese Communist Party” thì phải dịch “The Communist Party of Viet Nam”. Theo họ nước ta là một nước lớn, không được dùng tên nước làm tỉnh tự (adjective). Như câu “Việt Nam là một nước nhỏ nằm bên bờ Thái Bình Dương” thì chữ NHỎ phải dịch “đất không rộng, người không đông” chứ không được dùng chữ NHỎ.

Một hôm, trong lớp luyện dịch 6 của tôi, khi học về “possessive case” dùng với “reciprocal pronouns” tôi đã viết một câu : “Những hoàn cảnh khắc nghiệt đã xô đẩy tôi vào tay người này đến tay người khác” lên bảng cho cả lớp dịch. Khi học viên đang chăm chú dịch, nhìn xuống lớp, tôi bắt gặp một đôi mắt nhìn tôi có vẻ trách móc, tôi nhận ra ngay chính là Huyền. Tôi đâu có ngờ gặp lại Huyền trong lớp của tôi 10 năm sau. Câu tôi cho học viên dịch không nhằm ám chỉ ai cả, và nếu biết có Huyền trong lớp thì tôi không bao giờ cho dịch một câu như vậy. Giờ giải lao, Huyền đến chào tôi nói chuyện, tôi xin lỗi Huyền vô tình đã khơi lại một quảng đời đã qua. Huyền cho tôi biết đã lấy chồng và đang làm việc cho một xí nghiệp nhà nước.

Chồng của Huyền là con của một thương gia giàu có trước kia. Gia đình chồng phần đông đều ở Mỹ. Vợ chồng Huyền đang chờ đi theo diện bảo lãnh, trong thời gian chờ đợi cả hai vợ chồng đi học thêm Anh Văn. Huyền đang theo học một lớp đàm thoại và một lớp luyện dịch tại đây. Đó là lần thứ hai tôi gặp lại Huyền và mãi cho đến ngày tôi được qua Mỹ theo diện HO gặp lại Huyền trong một bối cảnh khác. Huyền nay là Counselor của tôi…Ngày xưa Huyền được đẩy vào phòng tôi tại khách sạn, hôm nay tôi lại phải trình diện Huyền tại một văn phòng cố vấn của một trường Đại Học Mỹ. Tôi nhớ đến mấy câu trong bài thơ “Nghe Em Vào Đại Học”của Giang Nam :

Ngày xưa anh dạy em học chữ

Bây giờ anh về, em lại dạy chữ cho anh

Không phải bằng than đen vẽ gạch thềm đình

Không phải phập phồng giữa vòng đai giặc                                          

Trở lại bàn với hai khay thức ăn, Huyền nói :

-“Em order trứng và chả lụa cho thầy, nhưng tiệm Mỹ không có chả nên thế bằng bacon, thầy dùng tạm vậy. Em biết thầy hay ăn món này vì hồi ở Đà lạt, em biết đêm nào đánh bài ăn là sáng hôm sau thầy và các bạn thường ra quán chị Sáu, ở dưới bến xe uống cà phê và ăn món này.”

Tôi không hiểu sao mà Huyền biết được những chuyện như vậy. Trong buổi ăn sáng, Huyền nhắc lại những kỷ niệm ngày xưa ở Đà lạt, thành phố đối với Huyền có rất nhiều sầu, nhiều luyến thương, thành phố với buổi sáng, buổi chiều mây bay sương phủ. Huyền cho biết một tháng sau khi gặp lại tôi trong lớp luyện dịch, hai vợ chồng Huyền đã nhận được giấy đi Mỹ. Vì gia đình chồng tương đối khá nên cả hai đã được đi học lại. Huyền đã lấy văn bằng Master về Counseling, còn chồng là một kỹ sư điện tử, đang làm cho một hãng computer. Vợ chồng đã có hai con, một trai một gái.

Huyền nói :

-“Em luôn nhớ lời khuyên và sự khích lệ của thầy để thực hiện những gì em muốn. Sự quả cảm đã giúp em ngẩng đầu cao để đối diện khó khăn và bất hạnh.”

Huyền rút trong ví ra một danh thiếp đưa cho tôi và nói tiếp :

-“Đây là địa chỉ của em, khi nào rảnh mời thầy đến nhà cho biết, thầy cho em số phone của thầy luôn. Em sẽ tìm cho thầy một việc thích hợp với khả năng của thầy hơn”

Ăn xong Huyền đưa tôi đến bãi đậu xe của nhà trường, trước khi tôi vào xe, Huyền còn nhắc lại lời bài hát “Tạ Ơn Đời” của Phạm Duy : “…biết bao nhiêu lần gian dối, biết bao eo sèo nhân thế, đời vẫn ban cho ngọt bùi, thầy ạ !”

Tôi phụ theo :

-“Em nói đúng, nhưng điều đáng khâm phục nhất của đời người là biết vươn lên sau khi ngã”

Huyền mỉm cười, nhìn tôi, cảm thông và đồng tình với ý tưởng tôi vừa nói.

Một tuần sau Huyền gọi điện thoại hẹn tôi đến trường để đi xin việc với Huyền. Huyền đã xin được cho tôi làm “Teacher Aid” tại một trường Juvenile High School, trường quản chế những thanh thiếu niên phạm pháp (từ 12 đến 18 tuổi) của Tòa Án trên đường Yale ở thành phố Santa Ana.

Tôi đến để bà Hiệu Trưởng interview, lương $10.75 một giờ (gấp 2 lần lương của tôi lúc bấy giờ) và đầy đủ benefit. Sau hơn 30 phút khảo sát, bà Hiệu Trưởng nhận tôi ngay, nhất là khi bà ta biết tôi trước đây đã dạy lính ( SVSQ/TVBQGVN)  Tôi cám ơn Huyền về sự quan tâm tìm việc cho tôi.

Ngay tuần sau đó tôi nhận lớp, thành thật mà nói tôi đã dạy một trường có kỷ cương như trường VBQGVN nay phải đứng trước một lũ học trò “đầu trộm, đuôi cướp” thì tôi không chịu nổi, nên sau khi lãnh cái paycheck đầu tiên cũng là lúc tôi đưa đơn xin nghỉ việc.

Một quảng đời đã đi qua, thành công hay thất bại đều do chính mình. Huyền cũng như tôi đều lấy câu của Dale Carnegie làm châm ngôn cho cuộc sống “Believe that you will succeed and you will”.

Nguyễn Phúc Vĩnh Đương (K.17)                            

(Cali mùa của Trời gửi tình cho Đất)




CAO MỴ NHÂN – ĐOẠN ĐƯỜNG MÒN

ĐOẠN ĐƯỜNG MÒN.    CAO MỴ NHÂN     

Cuộc sống phải thế nào mới có ý nghĩa ? Buổi đó tôi đi bộ một mình trên bờ sông Rạch Bắp, đoạn đường ngắn độ 1 Km thôi …chạy ngang yếu khu tam giác sắt , mà quý quan với quân lên đường, đều đã tới tham chiến, hành quân , hay nghe đồn thủa binh đao trước 30 – 4 – 1975. 

Tôi phải dừng lại ở chỗ đợi đò, mà quen miệng dân quanh đó gọi là ” Bến đò “, để chờ đò ngang chở qua bên kia sông, vô địa phận Quận Củ Chi. 

Cái đoạn đường 1 Km  đó, trong 2 năm trời tôi thường tới lui thật vắng vẻ, nếu nói đúng ra là hoang vu dễ sợ . 

Một bên là sông có viền cỏ dại, cao tới gần đầu người , một bên là cây rừng nhiệt đới, tức cây cối tự mọc lên vô tổ chức, chằng chịt vào nhau.

Lối mòn từ khá lâu năm, mới biến thành lối đi trơn bóng đất đỏ mầu hổ phách, không một sợi cỏ chằng qua …

Đó là đường trong,sát bờ sông …

Còn đường ngoài chạy song song với nó, đường trong, mặt trải nhựa cũng từ lâu rồi, nên lỗ chỗ ổ gà . Đường ngoài này có xe hơi cọc cạch, chỉ bộ máy bằng sắt thép, còn toàn bộ thùng xe bằng gỗ .  

Xe chạy từ Bình Dương lên Rạch Bắp, một chuyến duy nhất trong ngày, nên ai có việc, hay không việc, hoặc rảnh việc, đều có thể chọn con đường nhỏ này tới bến qua sông …

Đoạn đường 1 cây số ấy, không gây cho bất cứ ai sự lo lắng, nỗi phiền buồn gì …

Ngoài những con cuốn chiếu rừng, mầu đen nhẫy , có độ dài khoảng 20 phân tây, chúng đủng đỉnh bò từ bìa rừng bên này…băng qua  lối mòn, tới mép sông bên kia …thì không còn sinh vật nào khác nữa …

Thoạt đầu tôi sợ rắn rít lắm, kế tới sợ người ta, biết đâu mà lần, bất trắc là lẽ dĩ nhiên …

Nhưng sau chả thấy gì, chỉ có cái bóng mình in trên lối mòn đó, bâng khuâng, bơ vơ chi lạ …

Một cây  bằng lăng trổ hoa mầu tím, sao tôi thấy lúc nào cũng như có hoa trên vòm lá thấp đó .

Đứng bên thân cây bằng lăng nhiều lần để đợi đò, tôi vẫn chưa trả lời được thế nào cuộc đời mới có ý nghĩa cho riêng mỗi con người . 

Cũng chẳng tự hỏi mình là: Sẽ ở nơi buồn bã đó tới bao lâu mới rời hẳn đi …

Đoạn đường 1 Km ngây ngô, vô tư hay đã thực sự vô cảm với người đời …Nó, đoạn đường đau khổ, tuyệt vọng vì ai, vì đâu . 

Nó thực sự vô tư, vô cảm trước hành trình tôi sắp bỏ về xa …tôi phải về sống dưới mái nhà ấm áp của tôi, chứ sao lại ở mãi trong ngôi nhà trên lưng chừng đồi với 7 người của 7 gia đình khác nhau, họ có là 7 chú lùn đâu mà tôi trở thành cô Bạch Tuyết .

Buổi đó là ngày cuối cùng tôi thấp thoáng trên đoạn đường 1Km, lối mòn kỷ niệm rồi …

Đứng ở Bến đò một lúc, ngó lại vạt đồi chênh vênh như cuộc đời của mình …mấy mái tranh buồn nhớ …người, đúng là một phần tâm trạng bài ” Quê Nghèo ” của Phạm Duy 

Tôi đã thực sự sống như vậy 2 năm ở nông trường Tây Nam, Rạch Bắp, để trồng cây xuất khẩu ”  Hạt Điều ” do chỉ định hậu cải tạo, không phải là nằm mơ…

Nếu có nằm mơ cũng chỉ là giấc mơ bình thường của những người nghèo khổ, bất lực, bế tắc bởi nỗi khó khăn của xã hội gọi là ” Xã hội Chủ nghĩa.” 

Chiếc đò nhỏ tức xuồng ba lá cập Bến, bà lái đò cất giọng nói lớn vì nghĩ chỗ trống vắng loãng khí  trời, tôi không nghe được chăng …

Tôi lầm lũi xuống chỗ đất lài, rồi lên đò …

Lại cũng chỉ có mình tôi qua đò …như trước đó mình tôi đi bộ trên lối mòn đoạn đường 1 Km . 

Bà lái đò hỏi thăm: ”  sao hôm nay cô đi một chắc dzậy , mấy người kia đâu rồi  ? ” .

Tôi ngó mặt sông, nước đang dâng đầy, sóng gợn thầm thì như tiếng thở dài xót xa…

…Ồ , mấy người kia mắc công việc nông trường, tôi về thành phố để mua thức ăn cho họ. 

Bà đò hỏi tiếp : chiều hay mai lên ? 

Tôi định trả lời không bao giờ lên nữa, nhưng sợ bà đò hỏi tiếp, tôi nói : ” chưa biết ” . 

Quả là tôi không lên Rạch Bắp nữa, cho tới bây giờ lại càng xem như chuyện dở hơi nếu tôi trở lại đoạn đường mòn 1 Km ấy . 

Có lẽ ở trên đời , còn rất nhiều đoạn đường mòn, ngắn hay dài tuỳ theo nơi cư trú của mình, nhớ hay quên tuỳ theo nỗi buồn vui của mình…

Kể cả những con người dẫu có ở cạnh nhau, hay suốt kiếp chưa hề biết mặt nhau …vẫn phải chấp nhận sự chia tay vĩnh  viễn …vì thời gian tưởng là dài thê thiết , có đâu ngờ chớp mắt đã trăm năm …

Qua sông rồi, là mênh mông bãi hố bom xếp lên nhau chồng chất, năm đó 1980, năm năm chưa đủ san bằng một nghịch cảnh bi thương của lịch sử …

Đi qua cánh đồng hố bom này, còn đầy bất trắc, nguy hiểm hơn đoạn đường mòn 1 Km trên bờ sông vừa mới đi qua …

Bởi vì, bom rơi, đạn bắn … từ hồi đó, lúc chiến tranh, chưa kịp nổ, hoặc giả nó không nổ nổi tại sao đó, ai đâu mà hỏi, ngoại trừ quý ông làm ra nó, xử dụng nó, bom đạn không đủ độ sát thế nhân chẳng hạn . 

Bao nhiêu mộng mơ biến sạch, chỉ còn sự chết nếu sơ ý, hay tới hồi sui tận mạng, một ngòi nổ nào tự tháo gỡ , nổ tung lên …thế là xong, là hết …

Tôi không dám để cho tim thổn thức vì ai , vì đâu, những cánh chim bay soải cánh  mịt mù sông nước …

Mà , mắt phải dán chặt vào con đường gập ghềnh trước mặt để kịp thời tránh né hiểm nguy…dù vẫn biết chiến tranh là vậy, tất cả đều bình thường, chỉ có một điều bất thường, không thường …đó là sự xếp đặt của Thượng Đế mà loài người phải biết …để cầu nguyện thôi…

       CAO MỴ NHÂN 




VĂN – Trước Tiệc Rượu – CAO MỴ NHÂN

Trước tiệc rượu

Đó là một hội thơ rất quy mô được ông bà nhà giáo tên tuổi Thanh Vân – Nguyễn Duy Nhường tổ chức tại biệt thự, sau đổi thành thư viện Minh Minh Thư Uyển, số V10 bis cư xá Bắc Hải, nay là đường Hương Giang, quận 10 Sài Gòn cũ, vào năm 1985.

Thường trên danh nghĩa một người giới thiệu, tôi hay đặt tên cho những buổi hội thơ sau này ở thành phố bị bạo quyền tước đoạt rồi áp đặt cho một cái tên mà hỏi trăm người như một đều ghét cay ghét đắng vì nó chẳng hay ho gì mà còn thêm mắc cỡ mỗi lần đi năm châu thế giới nói về thành Hồ.

Nên hôm đó tôi cứ giả vờ mán mường, giới thiệu với khách dự là buổi giới thiệu cuốn Truyện Nà Khê của nữ sĩ Như Hiên, phu nhân giáo sư Nguyễn Duy Nhường, vị học giả nguyên hiệu trưởng trường trung học Tương Lai, Nha Trang.

Học giả, giáo sư Thanh Vân – Nguyễn Duy Nhường ( 1919 – 2010 ) là tác giả một cuốn tự điển Hán Việt, thường làm thơ cổ điển, viết cuốn Nụ cười gừng mới xuất bản.

Năm 1985 đó, tại tư thất Minh Minh Thư Uyển nêu trên, giáo sư Thanh Vân đã mời khá đông khách thuộc giới văn học nghệ thuật, đặc biệt có mấy vị sĩ quan cấp tá QL VNCH mới từ trại tù cải tạo về.

Tôi chỉ đan cử số khách chính mà tôi còn nhớ: quý vị đại tá Lê Kim Ngô (Công binh ), đại tá Nguyễn Sùng (Quân nhu) và phu nhân, trung tá Phạm Xuân Ninh tức nhà thơ Hà Thượng Nhân, ông Khai Trí, v.v..

Phía văn nghệ sĩ tên tuổi như nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp, ca nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cùng đi với một người bạn được giới thiệu là dịch giả, nhà thơ Thái Bá Tân.

Phần khách cơ hữu vẫn là toàn bộ hội viên hội thơ nữ lưu Quỳnh Dao với quý nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, Vân Nương, Uyển Hương, Tôn Nữ Hỷ Khương, v.v. và nữ sĩ Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền, tức phu nhân của học giả giáo sư Thanh Vân Nguyễn Duy Nhường, cũng là tác giả cuốn Truyện Nà Khê sắp giới thiệu.

Nhưng bài này cũng không đi sâu vào chi tiết cuốn truyện Nà Khê, chủ yếu chỉ ghi lại chút Kỷ niệm đặc biệt về hai nhân vật tên tuổi đã quá cố: nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp và ca nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Hội hè đình đám nào cũng mở đầu bằng việc giới thiệu quý khách dự…

Hầu như xướng tên quý khách buổi Nà Khê hôm ấy rất O.K nếu không có sự lưu ý của đại tá VNCH Nguyễn Sùng.

Đại tá Nguyễn Sùng vốn tốt nghiệp cử nhân luật bên Pháp, về miền Nam đồng hoá vào chức vụ Hành chánh Tài chánh, sau chuyển làm chỉ huy trưởng Quân nhu QL VNCH.

Song tôi cứ đinh ninh ông cũng viết lách, vì là bạn của chủ nhân Minh Minh Thư Uyển, tôi giới thiệu:

Nhà thơ Nguyễn Sùng…

Tôi thấy ông lắc đầu, bèn đưa ra vài danh xưng khác nhưng ông vẫn lắc đầu.

Tôi chợt hiểu ra ông đang căm tức bọn quỷ phiệt đã khiến ông khổ sở trong tù cải tạo, bèn nghiêm trang giới thiệu:

Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với quý vị, đại tá VNCH Nguyễn Sùng, mới từ trại tù cải tạo về.

Nguyễn tiên sinh cười gật đầu. Thế là ai nấy cười ồ lên. Chị Hồ Điệp cười tươi nhất vì thấy hội thơ hôm ấy phóng khoáng vô cùng.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẫn nụ cười cố hữu của ông là chan hoà riêng biệt, nhân diện rất vô tư, như trong đời ông chưa hề đau khổ, tức giận bao giờ.

Bấy giờ tôi mới để ý tới người khách ngồi bên cạnh nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ông ta mặc quần tây màu nâu cà phê sữa, áo sơ mi tay dài màu trắng, dáng hình hơi mập, lưng hơi còng hay tại ngồi chả biết, nhân diện ôn nhu. Ông ta luôn nhìn xuống nhưng thẳng thắn.

Tôi thực sự chưa biết ông là ai, bạn của Trịnh Công Sơn thì ai cũng biết rồi, mới cùng đi với nhau chứ.

Trịnh Công Sơn thấy tôi ngó ông bạn của nhạc sĩ, anh ta đỡ lời ngay: Thái Bá Tân .

Người bạn tên Thái Bá Tân của Trịnh Công Sơn hơi vui vẻ, kín đáo, gật đầu chào mọi người.

Tất cả khoảng 40 khách dự ngồi trên những chiếc chiếu trải kín sàn phòng khách lớn trên lầu ba biệt thự Minh Minh Thư Uyển đó.

Ở Việt Nam, sau cuộc đổi đời đi xuống hầu như chiếu được sử dụng thay cho bàn ghế rắc rối. Bất cứ ở khuôn viên nào cũng xài chiếu mời khách quần tam, tụ ngũ, nên mọi chuyện trở thành thói quen, rất tự nhiên và còn có vẻ thân mật nữa.

Tất nhiên xướng ngôn viên, ca nhạc sĩ cũng ngồi trình bầy mặc dầu có hay không có micro.

Hội thơ trên những chiếc chiếu trải xít nhau nhưng vẫn giữ được vẻ lịch sự riêng và cũng là một tính chất đặc biệt chỉ xảy ra sau ngày Bên cướp cuộc hiện diện ở miền Nam.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã ôm cây ghi ta sẵn sàng cất tiếng hát trong phong cách một nhạc sĩ trẻ dù đã 46 tuổi, quần jeans, áo sơ mi kẻ sọc xám trắng, lúc nào cũng giữ nụ cười lạc quan.

Nhưng tôi vẫn phải điều hành theo thủ tục một buổi lễ hội bình thường, là vẫn có những mục, tiết tấu để đưa quý vị thi khách nêu trên vào nội dung buổi giới thiệu Truyện Nà Khê của tác giả Như Hiên.

Đó là đọc và tóm tắt câu chuyện của một gia đình người Tày ở thượng du Bắc Việt trước 1954.

Rồi mời khách dự góp ý, thật ra là sự bày tỏ riêng tư về tác giả cùng gia đình chủ nhân Thư Uyển nhiều hơn, sách được trình bày qua loa.

Tất nhiên tôi không quên mời ông bạn Trịnh Công Sơn là Thái Bá Tân cho ý kiến.

Không ngờ tôi mời tịch xướng, Thái Bá Tân hơi giật mình, Trịnh Công Sơn đỡ lời ngay rằng anh Thái Bá Tân chỉ chuyên phê về lãnh vực nghệ thuật. Tức là việc phê phán tác phẩm Nà Khê của nhà văn Như Hiên không thuộc việc của ông ta.

Thực ra, ra mắt sách kiểu bỏ túi ở Việt Nam sau 1975 nơi các nhà quen chế độ cũ chỉ là chuyện thứ yếu, còn chính là họp nhau ăn uống một chút cho vui, hát hò ngâm vịnh lai rai, cho đời bớt ưu tư thời thế thôi…

Năm 1985 chính là năm ông Nguyễn Văn Linh lên đài tuyên bố chính sách Đổi mới.

Các tụ điểm ca nhạc ngoài phố đã bắt đầu hát mấy bài tiền chiến, đôi khi mấy bài mang âm hưởng gió mưa thời thế cũng được thấp thoáng vang đưa từ các ngõ hẻm…

Tôi phải giới thiệu xen kẽ hai tiết mục thơ và nhạc do chỉ hai nhân vật tên tuổi trước 1975 ở miền Nam là ngâm sĩ Hồ Điệp và Trịnh Công Sơn thay phiên trình bày.

Có điều là tới buổi đó Trịnh Công Sơn mới biết giọng ngâm Hồ Điệp. Anh ta nói với tôi một câu đùa mà chị Hồ Điệp trả lời là phạm thượng, ý nói Trịnh Công Sơn còn trẻ hơn chị. Năm đó nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp 55 tuổi nhưng rất trẻ trung.

Nghệ sĩ trình diễn nào cũng thích độc quyền thả giọng bay bổng không ngừng nên khi Trịnh Công Sơn đã ôm đàn là định hát hai, ba bài, chị Hồ Điệp thì ngâm một số bài thơ hơi dài nên Trịnh Công Sơn cứ vừa cười vừa lắc đầu, chị Hồ Điệp vừa cười vừa ngâm.

Khiến có lúc tôi phải giả vờ ngắt giọng của nhị vị, vì tôi thì rất được bạn thơ ca nể chút, vì là người giữ chương trình cho buổi hội ngộ được chan hoà vui vẻ.

Sau hết là lời cám ơn và thay mặt chủ nhân mời quý khách hạ sơn dự tiệc rượu.

Mọi người lục tục xuống thang gác, hai lối đi trong và ngoài Thư Uyển Minh Minh ấy.

Chiếc bàn dài được trang trọng với những món ăn gia đình chủ nhân nấu, đủ thịt thà tôm cá song đặc biệt nhất vẫn là những chai rượu Tây đắt tiền, vì học giả giáo sư Thanh Vân Nguyễn Duy Nhường có trưởng nam ở Paris đã mấy chục năm trước rồi.

Nghe tiếng nói cười rộn ràng, tôi kịp thấy nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở chỗ ngồi ghế giữa bàn tiệc, nhưng không thấy người bạn Thái Bá Tân.

Tôi hỏi Trịnh Công Sơn bạn ấy đâu rồi, nhạc sĩ trả lời:

Anh ấy có việc đi rồi.

Thực ra có lẽ Thái Bá Tân nghĩ chúng tôi đều ở bên kia giới tuyến của ông, ngại không cụng ly vì chẳng lẽ trong bàn tiệc ông cũng không nói năng gì như lúc ở chiếu bình văn thơ trước đó sao.

Sân biệt thự Minh Minh Thư Uyển chật nghẹt xe honda. Tôi nhìn ra cửa lớn, Thái Bá Tân vừa lên xe phóng đi thì phải…

CAO MỴ NHÂN




KIỀU MỸ DUYÊN – Xuân Họp Mặt




VĂN: Nốt nhạc rớt trên đồi – Cao Mỵ Nhân

Nốt Nhạc Rớt Trên Đồi

**

Thế rồi con cái ai cũng lớn lên.

Mimi đã lên 17 tuổi, chuẩn bị thi vô đại học.

Tôi thì chưa 40, phải vui mới đúng, đằng này tôi có cảm tưởng mình già đến nơi, bắt đầu làm thơ buồn…

Đó là thời gian hậu tù cải tạo, lại cũng đã đi xây dựng nông trường hai năm, quá đủ điều kiện để về thành phố.

Năm đó tôi cố gắng tổ chức cho con gái đầu lòng một cái tiệc sinh nhật, tất nhiên trong điều kiện… quê mùa Việt Nam thôi, nhưng vẫn đặt một ổ bánh kem khá hấp dẫn.

Ngoài số bạn gái cùng lớp con tôi, tôi thấy có một cậu bé cùng trang lứa mặt mũi rất là đẹp trai, còn dắt thêm đứa em trai nhỏ độ 10 tuổi, giới thiệu là em trai út tên Giang Châu.

Mimi cười nói luôn miệng, lộ vẻ sung sướng vì thủa đó khoảng giữa thập niên 80, liến thoắng hỏi tôi:

Ở trong quân đội má có biết trung tá Vũ Văn Sâm không? Ông ấy là nhạc sĩ Thục Vũ?

Biết, mà sao hỏi thăm ổng chi vậy?

Vì đây là Nguyên, con trai thứ hai của bác nhạc sĩ ấy, học cùng lớp chúng con. Bé Giang Châu sanh vào mùa hè đỏ lửa. Ngày bác Thục Vũ ra đi tù cải tạo, Giang Châu mới 3 tuổi.

Tôi ngắm Giang Châu rồi bỗng nhớ tuồng tích Tàu Tư Mã Giang Châu… Nghệ sĩ nào ở cấp ông gì cũng bảng lảng hồn thơ…

Mimi nói với tôi:

Anh Đan Kỳ vượt biên hụt nên công an phường xoá hộ khẩu, nay trốn ở nhà quen trong khu nhà thờ Ba Chuông này. Vậy mai mốt má cho mẹ Nguyên tới đây gặp anh Kỳ nhé.

Tức là tôi để mẹ Nguyên, phu nhân trung tá Vũ Văn Sâm gặp con trai cả của mình ở phòng khách nhà tôi.

Tôi nói được chứ. Mimi thưa bác cứ tự nhiên, xem như khách, không ai để ý đâu.

Vài ngày sau Đan Kỳ tới nhà tôi trước, đợi mẹ cậu đến để thăm hỏi chuyện nhà và hỗ trợ, v.v..

Phu nhân nhạc sĩ Thục Vũ – trung tá Vũ Văn Sâm có dáng vẻ đài các, sang trọng. Bà còn buôn bán tháo vát, có sạp chạp phô trong chợ Bà Chiểu, quận Bình Thạnh.

Sau vài lời xã giao, bà phu nhân cười vui vẻ, hỏi tôi vì biết tôi làm thơ:

Chị có biết Lệ Khánh không?

Có nghe tên nhưng không quen.

Ấy, ông Sâm nhà này ưa lắm đấy, cô ta có mấy tập thơ “Em là con gái trời bắt xấu” đó.

Tôi chỉ ừ ào, vì sự thực tôi không quen nhà thơ Lệ Khánh.

Sau tôi có dịp tới lui quán Gió Bấc, một cái chòi khá lớn có mặt tiền trên đường Công Lý cũ, nay kêu là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, của bà Mỹ Phụng cựu hoa khôi Hồng Kông, Trùng Khánh gì đó từ thời vua Bảo Đại. Bà còn là chủ nhà hàng Mỹ Phụng trên sông Sài Gòn trước 30 – 4 – 1975.

…mới biết là Lệ Khánh vừa qua giai đoạn bán bánh chưng chiên ở cửa quán Gió Bấc.

Lệ Khánh cũng phải tảo tần để nuôi đứa con trai duy nhất mà nhạc sĩ Thục Vũ – trung tá Vũ Văn Sâm kỷ niệm cho… nàng thơ năm 1967.

Quán Gió Bấc là nơi quần tam tụ ngũ giới văn nghệ sĩ Sài Gòn kẹt lại sau 30 – 4 – 1975 và cả các văn nghệ sĩ Cộng sản cũng có thể ghé…

Tất nhiên phe ta nếu không dính tới chính quyền Việt Nam Cộng Hoà thì vẫn ngang nhiên ngồi thả hồn ngó mây bay, nên nào là Phạm Thiên Thư, nào là Trụ Vũ, v.v. vẫn có thể lai rai ở Gió Bấc.

Đặc biệt mấy năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước, nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp thường ghé Gió Bấc vì buồn và âm hưởng thi ca Tao Đàn xưa vẫn còn đồng vọng.

Với một không khí tạp lục như thế, xét ra chỉ có tôi là liều mạng. Nghĩ mình cũng đã xong tù cải tạo nên ghé Gió Bấc thường xuyên.

Tôi hay cùng chị Hồ Điệp ngồi đợi những đợt dân Sài Gòn đi lãnh đồ Mỹ do thân nhân gởi về trên những chiếc xe xích lô máy phóng bạt mạng vì sợ kẻ gian cướp thùng quà dọc đường đi ngang cửa quán.

Bấy giờ chị Hồ Điệp thì chờ quà của con trai, còn tôi thì chờ quà của ông xã, nhưng đều thất vọng vì hằng ngày cứ biệt vô âm tín tin thân nhân của mình. Chúng tôi chưa đói, chưa rách nhưng nhìn vào hai chị em là biết nỗi tuyệt vọng tới đâu rồi.

Mấy năm sau xa nhau, rồi mấy năm sau nữa liên tiếp nhiều sự đổi thay… song không thuộc phạm vi bài này.

Mặc dầu gia đình nhạc sĩ Thục Vũ – trung tá Vũ Văn Sâm đã nhờ cô con gái lanh lẹ, tháo vát xin vô làm nhà hàng trên bến cảng Sài Gòn, rồi nhờ khách quý giúp trốn đi vượt biên thành công, nhập cư ở Canada rồi bảo lãnh cho cả mẹ và ba em trai Đan Kỳ, Quang Nguyên, Hà Giang, Giang Châu đi đoàn tụ.

Nhưng miền Nam Việt Nam là chỉ có đi… chia ly, gần như chỉ có số ít người cả nhà, cả họ được đoàn tụ, chứ không nhiều thì ít gia đình có những cuộc chia ly mới.

Phu nhân chỉ đưa hai cậu bé Hà Giang, Giang Châu qua Canada, còn hai cậu lớn Kỳ Anh, Quang Nguyên thì có gia đình, phải ở lại…

Mùa xuân năm 1996, tôi được bạn bè ở Denver, Colorado mời qua ăn cưới con gái nhưng quý vị ấy lại kết hợp tổ chức ra mắt sách Chốn bụi hồng cho tôi.

Tại buổi tôi gọi đùa là Sơn Bắc mãi Văn cuốn Chốn bụi hồng của mình, một niên trưởng huynh đệ chi binh là trung tá Mai Quỳ, cựu trào Tâm lý chiến Trường Bộ binh Thủ Đức từ thủa tôi còn đi học nói với tôi:

Này Cao Mỵ Nhân, ông nhạc sĩ Thục Vũ – trung tá Vũ Văn Sâm chết trong tù Hoàng Liên Sơn quê cô đấy. Thục Vũ chôn ở ngọn đồi toàn hoa ban trắng ghê rợn lắm. Tôi đứng chứng kiến cái chết của Vũ Văn Sâm. Nhớ viết một bài đi.

Hôm đó tôi lại bận quá, chưa kịp hỏi thăm thêm gì, rồi sau còn bận thêm nữa nên không phải là quên, mà vẫn nhớ nhưng sự lười biếng cứ chồng chất lên nhau mãi…

Niên trưởng Mai Quỳ nói với thi sĩ trung tá Hoàng Ngọc Liên nhắc Cao Mỵ Nhân là có về thăm quê Sa Pa của cô ấy thì tìm thăm mộ trung tá Vũ Văn Sâm ở đồi hoa ban trắng, nơi đồi hoa ban xem như nghĩa địa của tù cải tạo ở trại Hoàng Liên Sơn.

Thật buồn khi tưởng tượng một vạt đồi hoa ban trắng toát với những làn sương mỏng bay lượn lờ trong âm khí lạnh tanh, phảng phất những linh hồn của huynh đệ chi binh lảng vảng, u hờn xa cách thân nhân hàng vạn dặm trường…

Cao Mỵ Nhân




VĂN: BAY ĐƠN- Cao Mỵ Nhân

BAY ĐƠN

Trong Quân lực VNCH, chuyện đoàn trực thăng bay nhiều chiếc, nhiều chuyến là rất bình thường vì công tác chuyển quân của các đơn vị ra chiến trường.

Còn chuồn chuồn cánh quạt bay đơn hay bay đôi chỉ xảy ra nơi những công tác hằng ngày của quan chức tư lệnh hay yếu nhân đi thị sát mặt trận, di chuyển cần thiết khắp lãnh thổ trách nhiệm hoặc các phái đoàn đi công tác không có tính cách tác chiến.

Những chuyến bay đơn như máy bay loại nhỏ L19, L20, Cessna, H34, HUIB gì đó thì ai trong chúng tôi thời chiến đi công tác đều có thể xin phi vụ hay theo phi vụ bay tới các vùng trời thân quen hoặc xa lạ để làm nhiệm vụ.

Những chiếc máy bay nhỏ này có khi bay đơn, có khi bay đôi tuỳ theo giới chức xin phương tiện di chuyển.

Tôi nhớ khoảng giữa thập niên 60 thế kỷ trước, vì nhu cầu công tác xã hội ở vùng hỏa tuyến quá bộn bề, chúng tôi buộc phải di chuyển ngang vùng địch chiếm bằng máy bay các loại nhỏ như Cessna hay trực thăng.

Cũng khoảng thời gian giữa thập niên 60 đó, Bộ Tư lệnh SĐ2BB phải di chuyển từ An Hải, Đà Nẵng vô Quảng Ngãi để nhường cơ sở doanh trại cho Quân đoàn 24 Hoa Kỳ trú đóng.

Bấy giờ tôi đang phụ trách phòng Xã hội SĐ2BB nhưng mới thuyên chuyển từ SĐ9BB Sa Đéc về nên không thể sắp xếp gia đình được, đành phải đi đi về về Đà Nẵng – Quảng Ngãi như… cơm bữa. Đúng ra không phải hằng ngày mà hằng tuần.

Cứ mỗi cuối tuần là tôi ra sân bay Quảng Ngãi ngồi chầu rìa ở trạm tiếp liên chờ máy bay nào đó về Đà Nẵng xin quá giang ngon lành. Đi miết trở thành khách lính quen.

Thế là thay vì lên trực thăng cùng bốn, năm người khác, có khi may mắn lại được ngồi Cessna sang trọng, không bị ngồi cạnh cửa trực thăng lúc nào cũng trống toác, gió phần phật khiếp đảm.

Cũng nhờ đi trực thăng nhiều mà đã mấy lần tận mắt thấy ông súng máy khạc trọn dây đạn xuống vũng lầy, đồng cát trên đường trường vì nghi ngờ địch sắp ngẩng mặt lên ngắm chuồn chuồn…

Rồi cuối ngày Chủ Nhật hay chậm lắm là sớm tinh sương thứ Hai đầu tuần lại kiếm đường bay nào có pilot hay copilot hào hoa cho ké vô tàu rời đô thị lớn về tỉnh lỵ buồn tênh với sông Trà, núi Ấn. Miệt mài công tác cả tuần năm này tháng khác y như thế.

Do đó tôi biết được hằng ngày xuất phát từ Đà Nẵng bay đi có chuyến bay dành cho việc rải truyền đơn của quân ta vào vùng địch.

Công việc đó của phần hành Tâm lý chiến và Thông tin Chiêu hồi. Tôi vốn là bạn khá thân của quý vị binh vận dân vận vừa nêu nên sau là khách bay của bóng dáng L.19, L.20, hình như thời Pháp còn gọi là máy bay bà già, hay máy bay do thám.

Những chiếc L này đừng tưởng là cô đơn lò dò bay nhé. Quý L mà phát hiện được dấu địch ở đâu là lập tức trình báo quý đấng thẩm quyền rót pháo ngay đúng hướng chẳng chơi…

Một lần tôi lên L.20, ông pilot ngồi ghế bay quay cổ xuống nói: Hôm nay vô trong xa đấy, độ nửa giờ thôi. Ông này là phần hành thả truyền đơn, thả hết cái mớ giấy kia xuống xong là có thể về Quảng Ngãi ăn sáng. Thằng U nó đợi tôi. Cô rảnh thì đi theo điểm tâm rồi về chào cờ cũng không muộn.

Tôi im lặng vì chỉ muốn vô Quảng Ngãi cho yên chuyện đi mây về gió Đà Nẵng thăm con còn trứng nước.

Ông bay nghĩ tôi ừ cả làng, lượn vút lên không, cứ bay theo… quán tính, người thả truyền đơn cứ thả để VC tìm về tổ ấm VNCH xong là rời không phận Ba Tơ, Trà Bồng đi Quảng Ngãi.

Bạn ông bay đã ngồi ghế lái xe Jeep chờ sẵn. Tôi nhanh mắt nhìn thấy chiếc H34 vừa đậu, đại uý trưởng phòng ANQĐ SĐ2BB với cặp mắt kiếng đen quen thuộc cũng hướng về hướng tôi đứng.

Tôi nói với ông bay L.20 hẹn ăn sáng ngày khác, bây giờ tôi theo xe sư đoàn về làm việc thôi. Thế là hợp lý quá, lại chẳng mất lòng ai, lại đúng ý mình, an tâm làm việc tới cuối tuần.

Trên xe jeep, đại uý Đoàn M. hỏi: Mỗi tuần Cao Mỵ Nhân mỗi về Đà Nẵng hả?

Tôi trả lời thật lòng: Mới đổi về Sư đoàn, chưa biết tính sao nữa, vả lại tiện dịp thì về thăm nhà thôi ạ.

Tất nhiên đại uý ANQĐ chả bao giờ tin ai ngay, nhưng ANQĐ với tôi lại thân thiện thì cứ như thăm hỏi xã giao vui vẻ.

Đại uý Đoàn M. chẳng hề bỏ mắt kiếng đen ra bao giờ. Ông nói ông quen một vài pilot có gia đình ở Đà Nẵng như ông với tôi, nếu tôi cần ra vô Đà Nẵng – Quảng Ngãi thì nói với ông, ông sẽ nhờ máy bay trực thăng đó cho.

Bay đơn nếu bình thường thì như chim được cất cánh, nhất là bay những đường gần.

Có lần phái đoàn gọi là CTCT, nhưng thành phần chỉ có ba người: trung tá Trần Hữu Phước trưởng phòng Chính huấn, tôi trưởng phòng Xã hội và một cô nhân viên xã hội, đi từ Đà Nẵng vô Quảng Tín (Tam Kỳ) bằng chiếc Cessna.

Máy bay như du lịch, chỉ có một pilot là thiếu tá Không quân tên Th. Tôi đã đổi về QĐI/QKI rồi, đây là đi công tác.

Hôm đó bầu trời quang đãng, rất đẹp, nắng thật vàng rực rỡ.

Thường làm việc với nhau lâu biết hết tính nhau luôn là trung tá Trần Hữu Phước chỉ dã ngoại khi trời trong sáng như pha lê. Ông vốn có tiệm may Tây lớn ở Đà Nẵng xưa, tới khi bận việc quân cơ, ông cho dẹp lâu rồi.

Nhưng trời sanh ra ai có năng khiếu hay khả năng gì thì thường méo mó nghề nghiệp, nên chi cứ nhìn vào quân phục là biết ngay ông chăm chút quân trang super 100%.

Điều quân phục thẳng nếp đến không thể bẻ gẫy được một ly đã khiến quan tư Không quân xốn mắt.

Lượt vô thì vì thể diện quốc gia, quan tá tư để quan tá năm ngay ngắn đứng trước ba quân nói nói năng năng rất là thơm phưng phức.

Tới lượt về, cha ơi, máy bay chuyển dạ. Cessna cứ hết nhịp ba lại tới nhịp bảy lướt ngang, lượn dọc, cứ như cô Kiều gảy đàn: Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày…

Quan năm Trần Hữu Phước thoạt thì ngỡ ngàng sau sinh bẳn gắt, vài sợi gió chiều loáng thoáng đong đưa lá cành, chứ có phải dông gió lên khơi đâu.

Song tới Đà Thành là vừa kịp trang sách Buồn nôn của Jean Paul Sartre (1905 – 1980) khép lại âm thầm.

Bay đơn, có lẽ theo tôi chỉ có những phi vụ tưởng là thường nhật của trung tướng Ngô Quang Trưởng tư lệnh Quân đoàn I / Quân khu I đi thị sát chiến trường do đại uý pilot Kim cùng chiếc trực thăng không đẹp không xấu nhưng chắc phải tốt là ý nghĩa vô cùng.

Vị tướng lúc nào nhân diện cũng trầm tư, lênh bênh trên lãnh thổ miền Trung, tình cảm hướng về Trị Thiên như một tri âm tri kỷ, còn người pilot thì mến thương kính trọng tướng nên cũng lặng lẽ, bâng khuâng…

CAO MỴ NHÂN




Nhớ Về Chiến Thắng Đống Đa! Lê Văn Hải – Minh Thúy – Hoàng Mai Nhất – Phương Hoa

“Đón Xuân này, tôi nhớ Xuân Xưa!”

Truyền thống những ngày Đầu Năm, nhắc nhở chúng ta, tưởng nhớ đến giây phút vinh quang của Mùa Xuân Lịch Sử năm 1780.

Mồng Năm Tết! nhớ về Đại Đế Quang Trung. Với chiến thắng Gò Đống Đa lẫy lừng, đập tan 20 vạn quân Tầu nhà Thanh.

Noi theo tấm gương Ngài, để hun đúc lòng yêu nước, chống CSVN, đang bán nước cho Tàu cộng.

Nhớ lại chiến thắng Đống Đa hào hùng, đã cứu nguy Đại Việt thoát ách nô lệ Tầu năm nào.

Bài học lịch sử đang lập lại, nước Việt chúng ta hiện nay hoàn cảnh không khác gì. Đang bị bọn độc tài Việt Cộng cầm quyền, bán đất, bán biển, dành các đặc khu cho Tàu cộng.

Trung cộng đang giết hại đồng bào chúng ta bằng mọi hình thức thâm độc, từ buôn người, kinh tế, đến thực phẩm. Dân tộc chúng ta đã, đang và sẽ bị tiêu diệt, nếu Tàu cộng còn chiếm cứ trên Quê Hương Việt Nam, trước sau gì cũng mất nước mà thôi.

Cùng nhau cất lên bài ca chiêu Hồn Nước, hun đúc một lòng quyết chiến đấu:

Ngàn quân Tàu vượt cầu, như nước tràn hàng ngàn,

Hàng ngàn quân Tàu vượt cầu trong gió ngàn,

Ngàn quân Tàu sập cầu tô thắm màu Nhị Hà,

Nhị Hà nước về đỏ ngầu thây chất tràn!

Nào ngờ đâu bao mộng tan tành

Vạn giặc Thanh như là mây khói

Và từ đây nước Việt yên lành

Ngàn đời sau Bắc Bình còn vang danh!”

Xuân Nhâm Dần 2022

Lê Văn Hải

Peach Blossome background frame vector illustration

ĐỜI TƯỞNG NHỚ QUANG TRUNG

(Hoạ đảo lộn 4 vần)

Mồng Năm Kỹ Dậu nước An Nam,

Đại đế Quang Trung chống ngoại xâm.

Dẹp sạch quân Thanh loài thảm hận,

Đánh tan giặc Bắc lũ tàn tham !

Oai hùng chiến sử đầu voi sát,

Rạng rỡ tài danh ngọn sóng tràn !

Muôn thuở Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ…

Đời đời con cháu tạc thâm ân !

Liêu Xuyên




VĂN – Chiêm Bao Xuân – CAO MỴ NHÂN

CHIÊM BAO XUÂN

*

Vừa ca tụng thu hôm nào, tuy mới thoáng sương bay thôi, mà sao chẳng thấy heo may, lá vàng . 

Vốn từ xưa mình không thích mùa thu buồn…trong lòng đã không vui rồi, dan díu nỗi buồn làm chi, nhất là có năm nhuận 2 tháng sáu âm lịch, sắc hạ chưa phai trên môi thắm, thu cứ việc chậm về . 

Anh lững lờ như một cánh chim rời tổ ấm, đi tìm địa đàng, 

Rồi lại rời địa đàng, tìm về tổ ấm, hơn 3 tháng rồi, e gần 4 tháng, mà cánh dù cứ tít tắp bay xa…

Mình buộc phải thân thiết với thơ, nói chuyện thì thầm với thơ cho vơi niềm thương nhớ …

Ố ô, bây giờ mình …hết cả giai đoạn nhớ nhung một hiện trạng rõ rệt, như là nhớ quê hương, nhớ gia đình, nhớ học đường, hay nhớ  công ăn, việc làm như ngày xưa, thủa mới lớn, nhớ một hình ảnh ai đâu đó  vv…

Bây giờ mình nhớ tổng quát, nhớ ôm đồm. Sư kiện gì, nhân vật nào hay ho, mình cũng có thể nhớ, hay là nhớ kiểu nhớ  …

chùa.   

Tức là nhớ đấy, nhưng không phải mất mát, không phải thiếu thốn, khốn khổ vì nhớ, vì tiếc, vì thương trời ạ, nói một cách văn chương bình dân học vụ của mình, thì nếu trong lòng thấy như trống vắng, thiết tha một …yếu tố gì đó,  kiếm cách giải tỏa được là OK liền à. 

Cái tính dễ dãi cho tình cảm bộc phát, mình thấy lúc này mình gần gụi thơ Bùi Giáng dễ sợ. 

Thí dụ như trưa nay, ngó về phương nam, nắng nồng nàn, chan chứa yêu thương, mình ngẫm nghĩ tới cái điều mình đang yêu thương gì đó nhất. 

Đơn giản, mình trả lời chính mình, yêu thương cuộc sống này . 

Nếu ai hỏi tại sao, cuộc sống này cũng bình thường, còn có thể tầm xoàng thế mà yêu với thương nỗi gì ? 

Thì mình sẽ trả lời là tại quý vị nào đó, nghĩ nó tầm xoàng thì xoàng xĩnh thôi. Chứ tôi vốn trân trọng nó, cái cuộc sống tầm xoàng của tôi, tôi yêu thương nó trên cả kim đá quý, thậm chí quên cả bổn mệnh nữa, dễ sợ chưa? 

Nếu ai đó hỏi gặng thêm: rằng hiểu vậy thôi, nhưng bên trong  cuộc sống ấy, nó có gì cụ thể mà người nào ngó thấy cũng phải gật đầu: ” Đúng quá !” 

Thì ra lại muốn chứng minh cái cuộc sống đẹp hay vừa ý của mình, ấy là mỗi ngày viết thư cho anh ít nhất một lần, dù vài dòng, và nghe thơ Bùi Giáng lúc nào cũng được, hân hoan, hồn nhiên: 

Xin chào nhau giữa con đường 

Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau … ( Bùi Giáng ) 

Tôi nhớ cuối thập niên 60 thế kỷ trước, một sự tình cờ, ở đâu thì tôi quên bẵng, nhà thơ Viên Linh bảo rằng : ” Ở VN, tức miền nam, Văn thì chỉ cần ông Võ Phiến, Thơ thì Bùi Giáng là đủ ” . 

Như vậy, chứng tỏ một thi sĩ cũng khá tiếng tăm rồi, như Viên Linh, mà khen thơ một thi sĩ khác, và nhận định thơ Bùi Giáng là đã đủ cho nền thi ca VN . 

Ngay thời đó, tôi  mang một tập thơ Bùi Giáng từ Saigon về  Đà Nẵng, và thú thật, ngày ấy chắc tôi chưa đủ trình độ đánh giá được cái hay của thơ Bùi Giáng : 

Em sẽ bảo rằng anh say rượu quá

Anh say sưa từ bấy tới bây giờ 

Anh huậy mãi cuồng điên anh đập phá

Anh điên rồ anh có rõ hay không ? 

Anh đáp lại rằng anh rất say rượu 

Anh mê man chẳng rõ ràng rằng 

Từ vạn đại tới thiên thu bừng nở

Một mùa xuân thịnh vượng vốn thường hằng 

Đó là 2 đoạn thơ xem như tiêu biểu cuộc đối đáp giữa 2 người trong một cuộc nhậu, mà vẫn chỉ Bùi Giáng viết lại vào khoảng đầu thập niên 90 thế kỷ trước, khi ông đã thực  sự …điên rồi . 

Trong cơn say, khi điên, ông còn tỉnh táo viết một bài thơ 8 chữ dài trên một trăm câu, với 2 câu lục bát  làm lời kết: 

Tuyệt trù non biển vời trông

Tần thân thổ lộ vân mòng đã xa…

( Ghi rằng viết tại Lê gia trang  1991 )

Câu chuyện giữa một người được thi sĩ Bùi Giáng tôn phong là đại ca  Ngô Văn Tao, còn thi sĩ tự xưng là Bùi Văn Trẫm . 

Ngay trong cơn say, nhà thơ điên loạn vẫn có những câu thơ xuất thần và biểu lộ lòng chân thành với cuộc đời ông: 

Anh đã định sẽ yêu đời suốt kiếp

Suốt thiên từ vạn thuở phiêu bồng

Rồi anh chợt thấy mình luôn liên tiếp

Nửa điên cuồng nửa rồ dại bông lông 

            ( Bùi Giáng.   1991. ) 

Nghĩa là nhà thơ Bùi Giáng biết ông điên trong nỗi điên lạ kỳ, biết điên rồ, muốn tỉnh lại nhưng không tỉnh được  vì cuộc đời ông là những phiêu bồng, điên cuồng, rồ dại , bông lông. 

Trong thơ ca điên của Thi sĩ Bùi Giáng nó mang cái chất hay của điên, huống hồ bài thơ viết khi ông còn tỉnh táo, thì đúng là thi sĩ của cả miền nam thi sĩ cộng lại : 

Hỏi  rằng người ở quê đâu

Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà . 

Đó là cái giọng văn, giọng thơ Bùi Giáng, không thể lẫn lộn với thơ ai được . 

Song không phải thơ Bùi Giáng đứng lại nơi thềm hoang toàn những ngữ ngôn ngô nghê, dân giã …như vậy. 

Thơ ông, Bùi Giáng, người thi sĩ tài hoa trong ngôi  đền văn chương, có những vần thơ hết sức truyền thuyết hoang đường, huyền thoại…Đan cử là bài thơ ” Chiêm bao” mà tôi đã nhắc nhở  tới nhiều lần…

Anh thân kính ơi, rõ ràng cuộc sống là cái mốc cho người đời chúng ta, hay là quý vị và chúng tôi, tìm thấy niềm vui ở  bất cứ lứa tuổi nào. Nó,cuộc sống, sẽ kèm theo hoài bão hay ước mơ của mỗi người dù tỉnh dù say .

Không phải là tham sinh uý tử, nhưng ngay từ lúc Thượng Đế 

sanh ra ta, Ngài có muốn chúng ta phải tự hủy diệt bao giờ. 

Vì thế cho nên dẫu có thể bất như ý tình cờ, thi sĩ Bùi Giáng vẫn là người yêu đời nhất,lạc quan tin vào cuộc sống

một cách … trầm mê, hồn nhiên tự tại …

Trong thơ thi sĩ Bùi Giáng  luôn chứa đựng mùa xuân và chiêm bao, với mình anh cũng là mùa xuân và chiêm bao, nên mình rất thích những huyễn ảo, hoang đường này …

                 CAO MỴ NHÂN 




Nhớ Về Một Nhơn Sĩ Miền Nam – Cố Tổng Thống Trần Văn Hương – MAI THANH TRUYẾT

Cố Tổng Thống Trần Văn Hương




VĂN – KHUNG TRỜI ĐẠI HỌC – MÓN NỢ…CÁI BAND AID – MỘT MÙA XUÂN RẤT XA… Tác giả: Thái Nữ Lan

KHUNG TRỜI ĐẠI HỌC– TháiLan/ nữlan

Thương tặng các bạn cư xá Jeanne d’Arc & Xavier, của một thời vàng son yêu dấu…

&&&&&&

… Trường Đại Học Khoa Học. Năm Dự Bị . Có vài sinh hoạt liên lớp chung, biết được nhiều anh chị em sắp ra trường, hoặc mới vào năm thứ nhất…  

-“Thiên An ơi, có thư nè.- Của ai vậy?- Còn ai trong khoai đất này nữa.”

 Người bạn cùng lớp đưa tôi một tờ giấy học trò xếp thành cái súng,..Bữa ni thì là cây súng, có bữa thì cái hoa, hình trái tim, hình tam giác…

 – “Cám ơn Trực nghe!” Tôi mỉm cười, không biết mình đang nghĩ gì?.. Người viết thư ở cùng phòng cư xá nam với Trực, 3, 4 lần/tuần nhờ chim xanh trao thư cho tôi…Tôi cố không dám nghĩ đến lá thư, vì hình như tôi cũng đã quen với những lời dễ thương trong ấy…câu…

  “Anh có thể viết cho bé được không”… – “Bé thích hình nào?..”

Tôi nghiêm chỉnh nghe thầy giảng bài. Hôm nay là giờ học về Tâm lý của Tuổi Trẻ. Đây là một trong những môn quan trọng cho tất cả các sinh viên, làm người “Gõ đầu trẻ” **(1) tương lai, hoặc làm việc ở bất cứ nơi nào, những môn chính của  sinh viên. Không thể “lọt danh sách” ở kỳ thi cuối năm được! Từ lớp tiểu học, tôi đã là một học sinh có hạng trong các lớp, nay không vì những chuyện “không nhỏ” ấy làm chi phối việc học tập của mình, Công Cha Nghĩa Mẹ Ơn Thầy thật bao la trời biển..

Sau buổi học, tôi và Lan Thanh, cô bạn thân nhiều năm nay, rảo bước về cư xá nữ sinh do các “sơ (soeurs) quản lý. Hai đứa ở chung phòng với Điểu, một cô bạn học Y Khoa , vì cô nàng giỏi những môn không phải là văn chương nên tính tình bộc trực như con trai. Lan Thanh thì hiền thục đoan trang, tôi thì ở giữa hai nàng, có lúc ngỗ nghịch, có lúc ít phá hơn, chỉ đôi khi trèo tường buổi sáng cùng với vài đứa nữa để  chạy ra bờ sông bơi lội rồi về bằng cửa nhỏ mà các sơ để cho giáo dân vào xem lễ ở nhà nguyện nhỏ trong cư xá…  đánh vũ cầu dưới sân rồi mới lên phòng sửa soạn đi học…

 Ôi cái thời sinh viên thật đáng quý làm sao!

 Thời trung học thì không dám đi mô hết, vì rất sợ không cầm được mảnh bằng Tú Tài… Bi chừ thì cũng phải cố gắng , nhưng cũng không đến nỗi lo nhiều như xưa… Với lại bi chừ thì mình cũng… hơi lớn rồi, tim cùng đập loạn xạ khi có đứa bạn khác phái ngồi sau lưng giả bộ mượn tập chép bài vì “Thầy nói nhanh quá, bạn ghi không kịp..” để vẽ bất cứ bức hình gì mà tôi rất thích, mà anh ta vẽ giỏi thiệt, trong vài chục phút mà hoàn thành hình ban nhạc Beatles là thần tượng của bao giới trẻ thời ấy..  hình nhỏ bằng nửa trang vở thôi, nhưng rất giống, rất đẹp, hoặc hình cô gái…kèm theo vài lời dễ thương…”Tại răng mà mắt buồn..?”….”Tại răng mà răng khểnh?”…

 Đợi lúc hai cô bạn ra hành lang hóng mát, tôi mở lá thư ra đọc:

 ” Thiên An ơi, nhớ trả lời cho anh nhé, anh có thể gặp mặt bé chiều mai, sau giờ học, ở phòng khách được không?”…

 Tôi ôm lá thư vào lòng, đây là thư thứ 5 rồi, những lần trước anh chỉ viết vài câu…

 Tôi phải vội vàng viết mấy chữ trả lời:  “Dạ cám ơn anh, nhưng có lẽ để ít lâu nữa được không anh?”

Vì tôi rất sợ đám bạn và các chị em đông đúc trong cư xá, đứng trên lầu tôi đã chứng kiến nhiều màn chọc phá của họ mỗi khi cô sinh viên nào bước xuống , đi dần ra phía phòng khách…

Hẹn lần hoài hoài như rứa,… đến hai tuần sau, tôi cũng phải “gánh chịu” cảnh vừa đi vừa liếc nhìn trên lầu xem nàng nào đang đứng chọc mình… để ra phòng khách tiếp anh … Ngồi nói chuyện, có một sơ đang ngồi làm việc sổ sách cách đó không xa… (Chắc làm bộ làm việc thôi, còn thì chủ yếu là lắng nghe “tụi hắn” nói cái chi…!)

Trước khi nhận lời tiếp chuyện anh, tôi cũng đã viết thư hỏi Ba Me tôi, vì cũng có một anh chàng không quân, rồi một anh dược sĩ…

 Tất nhiên Ba Me tôi bảo nên chọn anh dược sĩ, nhưng rồi sao tôi thấy anh Nhật  rất hiền hậu – tôi nghe nói các anh lái máy bay thì rất bay bướm, còn những anh “sĩ, sư” thì ít trung thành… Sau buổi nói chuyện, anh Nhật  vẫn tiếp tục nhờ Trực mang thư đến lớp cho tôi, có khi kèm theo ô mai là món tôi rất mê (Không hiểu tại sao anh biết món tủ của tôi hè??)…

Anh bảo cho anh gặp vài lần nữa vì hè năm nay ra trường có thể anh sẽ phải nhận nhiệm sở thật xa..- Anh học trên tôi ba lớp -… Gia đình tôi thì ở xứ sương mù, tôi lại phải đi học ở thành phố khác, gặp nhau chắc khó lắm…

 Tôi rất quý sự từ tốn, dễ mến của anh… và

“Một người rất gan lì, luôn muốn đứng đầu, làm lãnh tụ, mà chừ phải chịu thua một cô bé học trò trường mẫu giáo Lê Lợi, bé ơi…”

(Anh đã nói như rứa khi em viết cho anh về tháp đèn của trạm phát sóng Truyền hình: “Anh à, nhìn giống như ông khổng lồ hút thuốc quá, phải không anh?” – buổi tối, sau khi học bài xong, nhìn ra bầu trời xám, chỉ  có một chóp đỏ trên cao của tháp truyền hình, lúc tắt lúc sáng,…có khi có vài đám mây lơ lửng chung quanh như khói thuốc …, )

…Mà cũng rất nồng nàn:

Tôi hỏi anh tại sao anh xếp hình cái súng, cho con trai mà… Anh trả lời:

Vì trong bài hát “Bang Bang”- “Khi xưa ta bé”… Có câu “Em bắn ngay tim”, em đã bắn trúng tim anh rồi , bé ạ, tim anh từ đó chỉ đập khi có em …

Những tháng ngày sắp đến hè, thi cuối khóa, tôi vừa lo phải cố qua tất cả các môn, vừa buồn vì sắp phải xa anh…

Tôi như ngập chìm trong niềm hạnh phúc, anh bảo tôi phải cố gắng học để “hoàn thành bổn phận với phụ thân đã lo cho bé đến hôm nay”, mơ tưởng rồi sang năm học tới tôi sẽ nhận được những dòng chữ đầy yêu thương của anh, chờ đợi tôi…

“Anh muốn bé là mục đích sau cùng của anh, bé đồng ý nhé?”

 Nhưng rồi, cuộc đời ít khi được như lòng người mơ ước, dù đơn giản đến đâu…

Một hôm tôi nghe được rằng có một cô học cùng khóa với tôi nhưng khác ngành đã yêu anh ấy lâu rồi,…

Có thật như thế không? Lạy Đấng Tối Cao…

Tôi đã rất đau khổ khi nghe được tin ấy…

Con phải làm như thế nào đây, Ba ơi, Me ơi…!

Các bạn của tôi, có ai như tôi không…?

Tôi hỏi bạn thân Lan Thanh, và cả Điểu nữa, họ đều nói “Cả trường ai cũng biết là cô ấy thích anh Nhật  từ lâu rồi, nhưng ít người biết  Nhật đã chọn Thiên An…”

Tôi hỏi ý kiến vài người bạn khác, theo họ thì  “Đó là tùy Thiên An và anh ấy thôi, nếu như lâu nay anh ấy viết thư cho An, thì có nghĩa là anh ấy không để ý đến cô kia…”

Tôi là một người hay chịu phần thiệt về mình,… nên đã quyết định… vì tôi rất cứng rắn, tôi chỉ sợ cô kia sẽ có những hành động không tốt đối với anh ấy…? Tôi hy sinh để anh được yên…

Những ngày sau đó… tôi đã không trả lời những tờ thư học trò thương quý của tôi được nữa,.. .tôi đã chọn sự im lặng…

&&&&&&

 Ngày tôi lên phi trường về lại xứ sương mù hai tháng hè,… Lúc leo lên thang máy bay, tôi chợt nhìn thấy…anh đứng ở cửa phòng chờ hành khách, nhìn theo, đôi mắt thật buồn… Làm sao anh biết ngày giờ tôi ra đi để phóng xe lên đây…? Ai đã nói cho anh biết?

 Trong suốt hai tháng hè, tôi đã thật buồn và chán…Anh đang ở đâu, làm gì, anh có hiểu tại sao chúng mình lại như thế này không, anh Nhật ơi…

Đến ngày phải nhập học , tôi trở lại trường…

Ngạc nhiên và buồn , xúc động, đau đớn…khi nhìn thấy anh đứng ở cổng cư xá…chỉ nhìn vào, vì anh biết có vào hỏi “sơ” (soeur) phòng khách, bạn tôi cũng sẽ trả lời là tôi đi vắng…

Tôi cũng không hiểu làm sao tôi biết được anh đã nhận nhiệm sở ở một thành phố miền Nam…

&&&&&&

Năm 1975… Loạn lạc, không ai biết tin tức của ai nữa..

Trực ơi, bây giờ bạn ở đâu? Gia đình bạn ở đâu, có hạnh phúc không? Trực có biết anh Nhật  hiện đang ở nơi nào không?

Nếu Trực có gặp anh ấy, nhắn với anh cho Thiên An gởi vạn lời tạ lỗi, ngày xưa sao An dại quá, và không biết suy nghĩ mình phải hỏi Trực, và hỏi anh ấy sự thật về cô ấy như thế nào, tại sao Thiên An phải hy sinh tình yêu của mình, để rồi cả anh ấy và An đều đau khổ…

Mà nghĩ cho cùng, tại sao An phải hy sinh cơ chứ, phải không Trực? Tại sao ngày ấy bạn không hỏi mình, chắc anh Nhật có tâm sự với bạn chứ?

Anh Nhật ơi, hiện anh đang ở đâu, cho Thiên An nói lời xin lỗi anh,

Giá như.. Giá như…mình có thể nói chuyện với nhau lúc ấy… anh Nhật..

&&&&&&

Nhiều năm qua,…biết được cô gái kia cũng đã có gia đình với người khác,…còn anh tôi không có được tin tức.

Anh đang ở đâu?

Chắc anh chẳng còn nhớ đến con bé học Đại Học mà cứ như còn ở Tiểu học nữa rồi …

Chắc anh đang rất hạnh phúc…

“Trả lại em yêu

KHUNG TRỜI ĐẠI HỌC…

Ðem dấu chân soi tuổi đời ngây thơ

Ðem nỗi thương yêu vào niềm thương nhớ…” **(2)

Anh đã trả lại hết cho bé rồi, anh không còn nhớ chút gì nữa sao anh ơi…?

***************

“Giòng lệ tưởng trôi phăng đời niên thiếu

Vẫn còn nguyên vang bóng thuở ban đầu

Hơi tiếng người xưa hồ dễ quên đâu…”  – VŨ HOÀNG CHƯƠNG- Ta Đợi Em TBa Mươi Năm

******

Theo mây bay, tìm mãi hướng trăng thề.

Nhắc làm chi? Còn nhắc nữa làm chi…! ” – ĐINH HÙNG- Cánh Chim Dĩ Vãng- 

&&&&&&

Dallas, mùa nhập học thật buồn- 2018-TháiLan/ nlan

===========

Ghi Chú:

1/- Nghề dạy học.

2/- Bài hát “Trả lại em yêu”- Phạm Duy.

*****

MÓN NỢ…CÁI BAND AID

Tựa đề bài viết dựa theo tựa của truyện thật dễ thương ” MÓN NỢ DĨA BỘT CHIÊN” của một huynh đệ Hướng Đạo của tác giả…

 ==============

 –  Mau đi cô nàng, hôm nay có giờ của Thầy Hùng, nhớ không nhỏ? Mi mần chi mà cà rề từ nãy giờ?

  -Dạ vâng, em đây ạ.

Tôi chạy ra hành lang cư xá, nơi cô bạn hiền đang đứng chờ, chắc hơn mười phút rồi. Ngày nào cũng vậy, không hiểu sao mình chậm ghê luôn. Mình đâu có trang điểm gì- nét đẹp hiện hữu trong sự đơn giản mà! Có lẽ vì cứ lấy áo này ra, nhìn trời, rồi lại chọn áo khác..Lúc xưa phải chạy theo cái đồng hồ để lãnh được bằng Tú Tài, nên đôi khi cái áo không thẳng nếp cũng cứ xỏ vô đại. Bi chừ thì. Mình phải “chải chuốt”một tí chứ!

Cư xá Jeanne d’Arc của các soeurs ở Huế không xa khu Đại học với nhiều phân khoa: Khoa Học, Văn Khoa, Sư Phạm, và ở lớp học bên Văn Khoa, trên lầu – ngày xưa là khách sạn Morin -, có thể nhìn ra cầu Trường Tiền mộng mơ của đất Thần kinh, nên không ít cô cậu giành chiếm chỗ ngồi bên cạnh cửa sổ…

Trường Khoa Học. Hôm nay là giờ cuối của môn”Hóa Vô Cơ” là môn tôi không mê tí nào, vì nó quá phức tạp đi thôi ! Nhưng Thầy Hùng rất giỏi, mỗi năm Thầy cứ bay ra-vô Huế-Saigon, thầy tốt nghiệp Đaị Học Dược Khoa bên Pháp với bằng Tiến Sĩ, nên các trường Đại Học Saigon và Huế đều mời thầy giảng dạy. Cộng thêm với những môn khó nuốt của thầy, thầy lại rất nghiêm khắc, không dễ tí nào, nên sinh viên thường gọi thầy là “Ông Kẹ”- kính Thầy, con xin lỗi Thầy-  .

Rồi Thanh và tôi cũng đến giảng đường, và kịp giờ các bạn đang lục đục vô lóp. Giờ học hôm nay tôi lại rất thích thú, có lẽ tôi áp dụng câu “Muốn là được”, mình cố gắng thích môn học này vì nó rất quan trọng!  …

Hay là vì tối nay có cuộc họp vui với mọi người bên cư xá bạn?  -Có lẽ cả hai. Giờ học cuối; sau vài ngày nghỉ lễ sẽ phải làm bài thi, mà không qua được môn này thì..không được tí nào cả! BaMe…phải chăm chú thôi, Ti Lì ơi!….

Chiều cuối ngày. Cả bọn trong cư xá lao nhao, mặc áo gì, quà cáp để trao đổi đã xong chưa?…Trong phòng ba đứa như ba chị em một nhà

 – Nhóc, mi mặc áo khoác ni thì hợp với áo màu đỏ gụ bordeaux nè… – Mi đeo xâu chuỗi này nhé? Hợp với làn da trắng của mi nè – Còn mụ da nâu thì sao? Tôi phụng phịu giận dỗi vì chúng nó cứ lo cho nhau, bọn hắn da dẻ thật sáng, mặc màu nào cũng hợp, còn tôi….!

… Nhưng rồi, cũng xong.

Nguyên một đám sáu đứa trong số 43 của cư xá đồng ý đáp lời mời của cư xá nam láng giềng để dự buổi tiệc cuối năm Dương lịch bên giang sơn của họ. Chúng tôi là những người gần cuối bước vào căn phòng thư viện đã được dọn dẹp bài trí rất gọn gàng dễ thương… Bài diễn văn của anh Chủ tịch, rồi đại diện các cư xá..bài nào cũng thật hay, nhắc nhở bổn phận của mọi người ở xa gia đình nhưng cố chú tâm học hành để khỏi phụ lòng song thân và thầy cô trong kỳ thi cuối khóa, nhất là các anh chị sắp ra trường; và lời chúc may mắn… Ca hát, vui đùa thỏa thích..

Đến giờ ra về, thấy anh Trọng học Y3 (Y Khoa năm thứ 3) dẫn chiếc xe gắn máy nhỏ Caddy mà tôi rất thích, tôi liên hỏi mượn để chạy thử. Vừa đi được một đoạn, loay hoay thế nào, tôi lại té ngã ngay bùng bình trước cư xá. May mà lúc đó cũng hơi khuya, nên đường vắng. Trầy một chút ở cườm tay và đầu gối. Tôi được sơ cứu cẩn thận.

Chiều hôm sau, vài đứa rủ nhau đi chợ để mua quà tặng các soeurs trông coi chúng tôi, vừa về đến phòng, tôi được thông báo là có người đang chờ ở phòng khách. Lại chạy xuống. Đó là người chủ của xe Cady, anh đưa tôi một gói bông băng và nói:

 – Chúc Lang nhớ chăm sóc các vết thương, nhất là vết ở đầu gối bị trầy nhiều, kẻo bị làm độc nhé! Anh Trọng xin lỗi Lang vì cái xe làm Lang đau… – Đâu phải tại cái xe đâu, mà tại vì Lang giỏi quá mà! Ủa mà sao kỳ vậy, lúc nãy anh có nhờ sơ (soeur) trao lại cho Lang một gói rồi mà!  – Không phải của anh đâu, bây giờ anh mới đến, hôm nay bọn anh phải đi thực tập ở nhà thương mới vừa về.

Tôi trả lời qua loa mấy câu hỏi của anh về vết thương, về việc học…Anh dặn nhớ học kỹ hai môn Hóa Hữu Cơ và Vô Cơ nhe.  (lại còn biết tôi không thích hai môn này nữa ta! Sao hay vậy!). Anh về. Tôi lên phòng. Và mở gói kia ra: cũng những lời dặn như anh Trọng, nhưng bên dưới ký tên: Tôn Thất Khôi. Ah! Tôi nhớ ra rồi. Anh Khôi và anh Trọng học cùng lớp, tối hôm qua hai anh đại diện cho một cư xá đến chung vui đây mà. Hôm qua là lần đầu tôi gặp các anh, sao các anh lại biết cư xá của mình vậy ta?

Sau ba ngày nghỉ lễ cuối năm, hôm nay trở lại những ngày học bình thường. Chúng tôi học xong hai giờ đầu, giờ Toán của Thầy Nhơn.

Đến giờ thứ ba là giờ Anh Văn, hôm nay Thầy Ấm phải đi công tác đột xuất nên được nghỉ; vì còn tiết thứ 4 nên không về được, Kim Thanh và tôi bèn rủ nhau qua Hội Quán Sinh Viên ở bên kia đường để xem thử, từ hồi đầu năm đến giờ chưa dám ghé vô, vì nghe nói trong đó có rất nhiều nam sinh viên nên ngại. Thật vậy, quán có vài bàn có vẽ sẵn bàn cờ tướng, nên các anh thường thích vô đây để tỉ thí. Nhưng cũng có hai bàn có nữ sinh viên đang ngồi chuyện trò. Có lẽ các cô từ trường Văn Khoa hay Sư Phạm cũng ngày sát trường Khoa Học đây thôi, họ ghé uống cà phê. Hai đứa tôi vừa uống nước vừa nói chuyện thật thư giãn, làm như ở cư xá không thể tâm sự..Mà thật ra khi về phòng thì đứa nào cũng chúi mũi vào việc học…

Kim Thanh bỗng nhìn vào tay tôi và nói:

 – Sao sáng ni mi băng tay không kỹ chi hết, thuốc thấm ra kìa! Tôi đưa tay lên, và thật vậy, cái band aid đã bị nhuốm thuốc đỏ (vết thương này nhẹ nên tôi xem thường, chỉ chú trọng đến vết thương ở đầu gối bị trầy sâu hơn).

 Ngay lúc đó, có một anh từ bàn bên cạnh bước qua và đưa cho tôi một cái band aid. Đó là anh Minh, bạn của anh của Kim Thanh. Tôi nói:

  – Dạ Lang cám ơn anh, nhưng mà sao anh có sẵn băng hay vậy?  

– Vì anh nghe nói có một cô bé hay bị ngã hoặc trầy xước tay nên thủ sẵn trong bóp…!

Anh Minh học Y Khoa, và sắp ra trường. Tôi chỉ gặp anh một lần ở nhà Kim Thanh, khi vào Đà Nẵng thăm gia đình bác tôi, vài tháng trước đây…

Chúng tôi phải trở về trường, để học giờ Lý.  

Khi về cư xá, Kim Thanh nói tôi là anh Minh sau khi gặp tôi ở nhà bạn, thường hay hỏi thăm về tôi:

-Thanh ơi, tính tình Chúc Lang như thế nào? Ngoan không? – Khỏi phải nói anh ạ, hắn ngoan lắm, chỉ có tội nghịch phá thôi!

– Ha ha! thiệt vàng sợ chi lửa cô nàng ơi? Nè, mà ta hỏi mi nè: nhìn mắt ta xem, sao “họ” cứ bảo mắt ta buồn hả?  

– Chứ còn chi nữa! “Người em sầu mộng muôn đời” mà!  *1/- Với lại, mi còn có cái răng khểnh nữa kia!

 – Ah! cái con ni! Thiệt không đó? nè, muốn ta bao cái chi thì nói nhe, đừng cho ta lên mây! té đau lắm!. ở cư xá ni và cả Viện Đại Học, bao nhiêu người đẹp nổi tiếng, mình chỉ là con số zero mi à  – Cái con khỉ! nhưng mà có lẽ họ thích cái tính chân thật không điệu đà của mi đó nhỏ à  -Vậy sao? Cám ơn nhe!

Rồi Thanh còn nói anh Minh hỏi có nhiều người theo Chúc Lang không, Thanh nói thì cũng có thấy họ gởi thơ, họ nói chuyện với cô nàng, nhưng làm sao biết được con tim của hắn…

….

Sao mà khổ ghê! Hai người Sơn Tinh & Thủy Tinh đem băng bông quà cáp cho tôi thì tôi cho là bình thường. Hoặc ai đó cùng lớp làm thơ ướt át rồi tặng mà sao mình không nhớ chi hết. Tại sao cái band aid nhỏ bé kia cứ làm mình suy nghĩ vẫn vơ..

Đến ngày Tất niên. Tết Nguyên Đán. Các trường Đại Học đều tổ chức Đêm Luật Khoa, Đêm Sư Phạm,…v.v..

Vài bạn học và bạn cư xá đi với tôi để dự Đêm Luật Khoa vì giờ tổ chức sớm hơn, rất phù hợp với bọn tôi vốn rất sợ ma.

Đây là buổi trình diễn văn nghệ rất đa dạng do các sinh viên trình bày. Các anh chị/ bạn/ các em thật là đa tài! Có đủ tân cổ giao duyên, kịch là những màn rất tốn thì giờ để diễn tập, so với đơn ca hoặc hợp ca…

Đến sẩm tối- cũng còn một, hai màn nữa, nhưng chúng tôi phải về.

 Cả bọn sáu đứa chúng tôi ở hai phòng gần nhau nên rất thân nhau, thường tụ tập ở một phòng sau giờ học bài để nấu mì gói – dùng cái resistance điện để nấu nước sôi, lén các soeurs vì tất nhiên là món này bị cấm…

Vừa ra khỏi giảng đường của trường – được dùng làm “rạp hát”-  , thì anh Minh đến, xin phép để tiễn chúng tôi một đoạn. Chúng tôi đi qua Cầu Mới, là cầu mới xây, sau năm 1968 khi cầu Trường Tiền bị người “tốt” giật sập mất một nhịp, khiến người Huế rất phẫn nộ đau buồn…  Các bạn biết ý nên để anh và tôi đi phía sau.

Tối hôm đó trời thật trong, ánh trăng lưỡi liềm chiều xuống mặt sông Hương đang gợn sóng li ti thật đẹp và thơ mộng… Anh kể chuyện vu vơ, chuyện học, chuyện ở quê Đà Nẵng của anh, tả những cảnh vật thật nên thơ bình dị…

Đến lúc sắp chia tay, anh nói : – “Chúc Lang cho anh viết thư cho bé nhe”. Tôi không biết phải trả lời như thế nào…

Từ đó đến cuối năm học, tôi thường nhận được thư của anh, lời thơ thật dễ thương hiền hòa như con người của anh.

Rồi mùa hoa phượng đến, hoa nhuộm đỏ thắm đoạn đường trước trường Văn Khoa, nhất là cây phượng ở góc nhìn ra cầu Trường Tiền…Thật là nên thơ, bảo sao thật nhiều vần thơ cho cây phượng này được những tâm hồn lãng mạn luôn trân quý, và thấy lòng mình lâng lâng khi đứng ngắm chúng trong buổi chiều tà…

 Anh ra trường, đậu rất cao, tên anh đứng đầu bảng kết quả, nhưng không muốn về gần gia đình mà nhận nhiệm sở thật xa, vì anh nói muốn khám phá miền Nam.

Tôi về Cao nguyên của tôi.  

Rồi loạn lạc, bặt tin nhau. Nhiều năm trôi qua.

Mỗi khi bị trầy hoặc đứt tay, dùng band aid, tôi cũng không còn nhớ đến cái band aid năm xưa, vì bị lôi cuốn vào cuộc sống thời đắng cay tủi nhục đau khổ trăm bề…

Nhưng có một năm, khi về thăm lại thành phố thân yêu ấy, thăm trường xưa, cảnh cũ, đến cư xá “của chúng tôi” – bây giờ là một trường cấp hai -, tôi lại chạnh lòng…nhớ đến thời gian đáng yêu ấy, ôi  những “người đi qua đời tôi *2/- “…

Đứng trước phòng khách, nhớ đến anh bạn cùng lớp hàng ngày làm chim xanh cho một người cùng phòng đem thư cho tôi,… rồi một buổi chiều thật đau lòng, họ đến mà tôi không tiếp, vì tôi muốn hy sinh tình yêu mình cho người khác (để rồi cả hai đều đau khổ!!!)  …nhớ đến “Sơn Tinh & Thủy Tinh” đem quà ô mai, búp bê da màu là món tôi rất mê cho đến bây giờ, mặc dù có bao nhiêu là búp bê thật, lớn nhỏ cứ đeo chân mình hàng ngày…rồi có anh tài xế máy bay ngày nào,…

Những dòng ký ức cứ đua nhau hiện về…

Ra khỏi cư xá là ngôi trường mẫu giáo Lê Lợi, mà ngày ấy người viết thư bảo tôi luôn mãi là học trò của trường này thôi…thật là dễ thương, vì tôi chỉ muốn làm con nít, làm người lớn sao…mệt quá!

Đây rồi con đường Trương Định …đi ngang Hội Quán Sinh Viên, và bỗng nhớ đến cái band aid của người xưa…

Hỡi “người Band aid”, anh đang ở đâu? Có nhớ năm nào không?

Nhưng rồi… thời của tin học…

Một hôm, đang lướt lưới tìm tài liệu cho công việc, tôi chợt thấy hàng chữ “blog của Đại Học Y Khoa Huế “…và rồi …

Sự kỳ diệu của thế giới ảo!

Tôi gởi thư hỏi thăm vài người bạn Y khoa năm xưa ở cùng cư xá… Khi nhìn thấy địa chỉ điện thư của tôi, anh ấy nhận ra ngay vì tên tôi rất đặc biệt, có lẽ chỉ có một tên như vậy thôi… .

Qua chừng đó năm …dù có vài mối tình đến với anh, nhưng anh không thể quên cái “band aid” đã đưa cho một người năm nào…

– “Bé band aid ơi, bé có người giữ sẵn băng trong bóp chưa? Bé có nhớ cái band aid ngày nào không?”

– Chúc Lang bị trầy xước nhiều lần, có khi phải băng nguyên cái băng bự to cơ đấy, nhưng không có ai có sẵn băng trong bóp cả, anh à…

  -Chúc Lang có nhớ mình gặp nhau lần đi cứu trợ lũ lụt ở quận Phong Điền, Huế không? Sau khi giúp quý đồng báo ở đó, nhóm sinh viên thiện nguyện đã có một buổi sinh hoạt chung với nhau, ca hát…và khi đứng thành vòng tròn, bé đứng cạnh một nam sinh viên, lúc đó mọi người đang hát bài “Thử Hỏi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, anh nhìn Lang khi hát “Tay có bằng lòng cho tay nắm lấy?”, và thấy anh ta đang cầm tay bé…anh buồn làm sao!  “

– Ah, tôi mỉm cười khi đọc dòng thư điện tử này- tôi nhớ ra anh chàng đó rồi, có lần đi trại cùng với  liên lớp Pháp ở biển Thuận An, anh ta rất cảm kích khi thấy trên đường về từ kỳ trại, tôi ngồi xuống nhặt cá tươi từ một gánh cá của chị bán hàng bị đổ xuống đất. Hôm sau anh gởi cho tôi hàng chữ : hình ảnh rất dễ thương mà anh không bao giờ quên, thể hiện lòng nhân ái của Chúc Lang… “Time never waits, they often say/But for Love, who knows, it may” ( Thời gian không bao giờ chờ đợi, họ thường nói như thế/ Nhưng biết đâu, đối với Tình Yêu, điều ấy rất khả thi)..

 Đâu có thấy thời gian có thể chờ đợi đâu ta?…

———-

Thư qua tin lại, anh đang sống ở một đất nước rất xa.

Nhưng, cho dù sông có sâu, núi có cao, biển có bao la mấy đi nữa…thì cũng không thể chia cách chúng tôi được nữa …

Đến kỳ họp mặt các cựu sinh viên nhân kỷ niệm 60 năm của Viện Đaị Học Huế, được gặp lại các Thầy Cô kính yêu để dâng lên các vị những lời tri ân sâu sắc… và gặp lại bao nhiêu anh chị em bạn bè ngày xưa thân ái, giờ đây ai cũng con đàn cháu đống. Mừng nhất là gặp được 4 người trong số 6 đứa thân thiết ở cư xá năm nào – lâu nay chúng tôi cũng có liên lạc nhau, cũng nhờ thời điện toán mà tìm ra nhau.

Mọi người đều rất vui mừng khi thấy anh Minh và tôi bây giờ được ở bên nhau.

Tôi nói với các bạn:  ” Món nợ band aid bây giờ đã trả được rồi nè các bạn ơi…!”

Nhưng tôi lại thêm:

” Phải chi hôm ấy đừng…đau

Phải chi hôm ấy đừng trao…cho người *3/-  

(cái band aid)

                                 &&&&&&

Một miếng băng dán nhỏ xíu mà dán được cả hai cuộc đời lại với nhau, mầu nhiệm thay!

Tháinữlan, mùa hè 2017, 60 năm Viện Đaị Học Huế-

 GHI CHÚ:

1/-Người Em Sầu Mộng– Tác giả: Nhạc Y Vân, thơ Lưu Trọng Lư

“Người em sầu mộng muôn đời”…

2/- Người Đi Qua Đời Tôi -Tác giả: Phạm Đình Chương

 ” Người đi qua đời tôi trong những chiều đông sầu”…

3/ – Mưa Bong Bóng – Tác giả: Lý Quang Diệu

“Phải chi hôm ấy đừng mưa

Phải chi hôm ấy đừng đưa em về “…

****

MỘT MÙA XUÂN RẤT XA    –  

Thương tặng các bạn sinh viên Huế, và các bạn cư xá Jeanne d’Arc & Xavier của thời vàng son dấu yêu-

Một ngày mùa hè …

*

 Ba chở tôi đến phi trường Phú Bài, Huế, đón cậu em từ Dalat ra để giúp Ba và tôi trong việc làm ăn của Ba. Me và ba em kia vẫn đi làm đi học ở xứ sở sương mù… Gặp lại em Vũ sau nhiều tháng xa cách, thật mừng rỡ… Lúc xưa cả gia đình Ba Me và sáu người con đều quây quần, rồi chị và anh lớn đi xa để tiếp tục việc học, còn lại bốn chị em rất thân nhau. Ôi bao nhiêu kỷ niệm…

Mới mấy năm nay Ba phải ra Cố đô để làm việc, một mình tôi đổi “cấp độ” từ nhỏ đến lớn, bi chừ là “Học Đại” rồi, nên theo Ba được.  

Em Vũ  mang theo cây đàn tranh cho tôi. Tôi mới học được vài tuần ở Tỳ Bà Viện. Khệ nệ cầm cây đàn, tôi băng qua phòng chờ ở phi trường, rồi lần ra bên ngoài chỗ để xe…Chợt có hai anh lái tàu bay từ bên phi trường quân sự tiến đến, hỏi chuyện…

Có lẽ vì nhìn thấy một con bé với vẻ mặt chẳng có gì là nghệ sĩ mà lại đi chơi loại đàn xưa và rất khó này rồi hai “ông ” ấy tò mò chăng?

 Biết chúng tôi ở xứ ngàn thông, các anh rất thích, họ là người dân xứ biển Nhatrang hiền hòa, và thường bay lên đó, họ rất thích thành phố buồn của chúng tôi…

Vài tuần sau, đến lúc nhập học, em tôi phải trở về Dalat, còn tôi thì vào cư xá “để học cho yên” – Ba bảo như rứa…

Vài ngày sau khi đi học, một anh tài xế máy bay ấy, anh Quang, đã đến cư xá và xin “sơ”(soeur) trông coi phòng khách để gặp tôi.

Tôi chưa gặp anh Quang được, vì tôi chưa thưa chuyện với Ba Me tôi. Anh ấy ra về… Vài ngày sau, tôi nhận được lá thư của anh gởi từ Nhatrang… Tôi đã đưa thư cho Ba đọc, (tự tôi cảm thấy cần cho Ba đọc, vì Ba đâu có cấm cản chi mô?) Ba nói lời thư có vẻ chân thành, nhưng ” chưa biết con ạ, các anh ấy thường rất bay bướm”,…nếu anh ấy muốn gặp con ở cư xá, con có thể nói chuyện (vì Ba biết trong phòng khách, luôn có sơ làm việc giấy tờ), và con có thể trả lời thư…

 Nhiều tháng trôi qua… Anh thường có dịp phải bay ra Huế, có lần anh và bạn đều lái trực thăng vòng vòng quanh sân trường của tôi. Trời ơi! Cứ bay vần vũ quanh quanh như rứa…Thầy Cô và bạn bè không hiểu chuyện gì đang xảy ra..! Chỉ có Kim Thoa & Ngọc Quỳnh ở cùng phòng cư xá với tôi biết là ai thôi :  “Răng mà anh nớ gan cùng mình ghê luôn”!

 Rồi còn đi với bạn để đón tôi lúc tan trường… tôi luôn đi với cô bạn thân Kim Thoa, anh ấy cũng luôn có thêm một người bạn đi cùng…

Muốn độn thổ luôn, trời ạ! Hai ông lính thuộc loại dữ dằn, mặc áo bay, đi kèm với hai con bé “chưa lớn”, làm chúng vừa đi vừa nép vào nhau, che mặt mình không hết, cả trường ào ra như ong vỡ tổ,…ai đi xe ra cũng ngoảnh mặt lại nhìn xem hai “con” nào mà ghê gớm rứa hè..?

Thôi thôi bước đi cho nhanh cho rồi…làm hai ông phải la lên:  “Hai cô làm gì mà như bị ma đuổi vậy?”

Tôi phải cằn nhằn: -” Sao anh muốn đến trường mà không nói trước, để bây giờ … làm sao mà trốn đây? Ngày mai vô lớp học thì chịu sao cho thấu?

– Thì Thanh Lan cứ bảo là: ông anh ở Nhatrang đi công tác ra thăm em thôi mà, có gì nghiêm trọng đâu?…”

Sau này tôi mới biết, anh ấy lúc nào cũng vậy, những việc gì nguy hiểm, kinh khủng…tất cả đối với anh đều … nhẹ “như lông hồng”… Có lúc thì tốt, nhưng có khi lại không tốt đâu nhe!

Ngày thường thì chúng tôi vừa rảo bước vừa nhìn ngắm cảnh thơ mộng của kinh đô các “mệ” ngày xưa,  nhìn qua con sông với cầu Trường Tiền nên thơ, hàng cây Phượng vỹ đến mùa hè nở đỏ rực cả một góc trời…ở xa kia là núi Ngự Bình,.. Ngắm hoài không chán.. Nhưng hôm nay hai đứa chỉ cúi mặt mà chạy, không dám nhìn ngang ngửa chi hết…

 Hai anh chỉ đưa chúng tôi về cư xá, vì chúng tôi không đi ra quán uống nước với các anh, xứ Huế rất cổ kính, và cổ hủ về phong tục, nên chúng tôi rất ngại…

 – Thanh Lan, mai tụi anh lại phải bay đi Pleiku rồi, cho anh nói chuyện với Lan một chút nhé? Bạn tôi lên phòng, anh Hoàng, bạn của anh Quang bảo anh ấy ra quán càphê gần đó đợi …Anh Quang vô phòng khách nói chuyện với tôi một chút, anh hỏi thăm tôi về việc học, về các em,.. rồi dặn tôi nhớ trả lời thư cho anh, khi nào mùa hè tôi về xứ sương mù, có dịp anh sẽ bay lên để thăm Me và các em, rồi sang năm học tới anh sẽ ra đây thăm Ba tôi.

Sang hè, khi tôi về Dalat nghỉ vài tuần, anh ấy  đến nhà và nói chuyện với  Me và các em tôi. Có một hôm, em tôi mới đi lấy hình chụp cả nhà về, và để trên bàn phòng khách, tôi chưa kịp cất, anh ấy đến, và muốn xem. Anh chọn một hình chân dung của tôi, và nói rằng kỳ này các anh sẽ đi Bảo Lộc, sẽ có giờ rảnh, anh muốn vẽ hình tôi…Ít lâu sau tôi nhận được một bức hình vẽ bằng bút chì rất đẹp,..tôi lại biết thêm một tài năng của anh ấy…

Sau này anh vẽ hình các con, chắc là tuyệt lắm nhỉ?  (ôi, lại mơ mộng hão huyền nữa rồi, cô bé ạ)

Anh đưa cho tôi tập thơ “Ta Chờ Em Từ Ba Mươi Năm” của thi sĩ Vũ Hoàng Chương…

Không biết lúc đó anh bao nhiêu tuổi nhỉ?

1975…

Vài tháng thư từ, độ này anh không bay ra Huế nữa…

Tháng 3… Người dân Huế vẫn chưa hết đau thương với Mậu Thân 1968, nay lại lảo đảo chồng chất trên những chiếc xe đò lớn nhỏ để vô Đà Nẵng, có xe traction ngày thường chỉ chở được 5 người, nay chất thành 8, 9, 10 người,.. rồi những xe minivans thì nhét như cá hộp…

 Vô Đà Nẵng cũng không yên,… lại ùa nhau ra phi trường, ra bến cảng … Tôi cùng gia đình người bác ruột lênh đênh trên biển cả một tuần,  (Ba đã đi nước ngoài vì công việc, sắp về lại). Suốt một tuần lễ, lênh đênh cũng mây nước, tôi không biết giờ này Ba Me tôi ở đâu, các anh chị em có được bình an không…Bảy ngày , mà dài như bảy năm, buổi tối dài lê thê, không thể nào chớp mắt với sóng biển dập dềnh, ban ngày thì khô rát, nóng cháy….. rồi anh Quang ơi, gia đình anh có được an toàn không, anh đang ở đâu, cầu mong sao anh làm tròn nhiệm vụ người trai thời loạn, như bậc cha anh, nhe anh,..dù cho có hy sinh cũng không màng, anh ơi,..

Xà lan cặp bến Vũng Tàu… Rồi lên Saigon…

Đến được nhà anh chị tôi, thật mừng rỡ biết bao khi gặp lại gia đình anh chị cùng Ba tôi vừa mới trở về được vài hôm, và Me cùng các em đang đi xe đò từ Dalat xuống đây..

Một buổi trưa, Hòn Ngọc Viễn Đông, trời nóng như thiêu… em Vũ  , – lại cũng cậu em “xe tơ” này, – chở tôi đi Honda trên đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận, đến đường ray xe lửa, đèn đỏ…nhìn qua con đường đối diện,… thấy anh Quang!

 Ôi, phải chăng đây là ý trời…? Nhiều tuần nay không được tin tức… nay được gặp lại anh…

Buổi tối, cuối tháng 4, anh Quang đến nhà anh tôi ở Quận 5,… gặp BaMe tôi (lúc đó cả gia đình đều về nhà anh Chung của tôi), và xin cho tôi được bay đi đảo Guam, xứ Cờ Hoa, với anh cùng đồng đội. Tôi không chịu, vì đi như vậy, biết có gặp lại Cha Mẹ anh chị em được không, với lại đã cưới hỏi gì đâu…?

Vài tháng sau… Gia đình anh, sau khi ở tạm nhà bà con ở Saigon ít lâu, đã trở về miền Thùy Dương..

Tôi theo Ba về Nhatrang để thăm người Cô ruột, chị của Ba.

Tôi được đi ra biển với anh, một buổi chiều…sóng thật lớn…

Suốt bao nhiêu tháng quen nhau, đây là lần đầu tiên tôi đi ra ngoài với anh..

Tôi luôn yêu thương thành phố biển này, ngày xưa cả gia đình thường được Ba chở đi nghỉ hè, cả mấy chị em tôi đều rất mê biển, cát, và sóng… Cả anh và tôi đùa nghịch với cát, nắm cát vào tay, bỏ vào tay đứa kia, nhưng không giữ được, chúng lại tuôn ra…Đi dạo, rồi chạy đuổi nhau ở mép biển, vừa nước vừa cát,..ôi hạnh phúc làm sao…! Đứng nhìn mặt trời lặn, sao đáng yêu quá, tôi luôn yêu cảnh mặt trời mọc hoặc lặn, nhưng sao hôm nay đẹp lạ thường…  “Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ”, nhưng Người vui thì cảnh lại quá thơ mộng…

Hạnh phúc ơi…!

Lúc đưa tôi về nhà Cô tôi, anh đưa tôi một tấm thiệp, hình bầu trời đầy sao, và bên dưới là một cô bé đang nhìn  lên  …  

Bên trong

Người là vì sao nhỏ bé

Ta mãi ước cho lòng làm bầu trời xanh xanh

Người về lòng ta thương nh

Ta khẽ hỏi đưa người hay thầm người đưa ta…”  *(1)

Hôm sau, anh đến nhà thăm Cô và Ba tôi… và xin phép đưa tôi đi dạo một vòng..

Những đường phố xứ biển quá đẹp, với từng hàng cây Phượng vỹ, vẫn còn đỏ rực hoa mùa hè muộn, cây trứng cá với trái nhỏ đỏ li ti thật  xinh  và những hàng  dương liễu dọc theo bờ biển, thơ mộng làm sao…  

Anh đưa tôi lên tượng Phật Bà thật uy nghi trên đỉnh đồi Trại Thủy, đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống thành phố thật đẹp… – đã in trong trí tôi bao nhiêu năm nay, bây giờ mỗi khi ngủ tôi vẫn thường nhớ lại cảnh tượng nên thơ này – Tôi rất thích tìm những cọng hoa mắc  cỡ ( Trinh nữ), rồi đụng vào lá cho chúng khép lại, và nói với anh: – “Anh ơi, mai sau anh trồng hoa mắc cỡ phía sau nhà mình để em chơi như thế này nhé anh?” Anh cười, chắc có lẽ chịu thua cái con bé lớn mà chẳng lớn chi hết này!

Sau khi đi một vòng, đến dưới chân bức tượng Phật, anh cầm tay tôi, nhìn vào mắt tôi thật lâu, và nói

– “Bé chờ anh nhé, bé ơi?”

Tôi thật nghẹn ngào, mãi lúc sau mới nói được: -“Em sẽ là Hòn Vọng Phu, nếu anh không trở về…”

………………..

Phút giây hạnh phúc như bóng câu qua cửa sổ..

Anh vuốt tóc em,  một lần cuối, một lần cuối cùng, rồi thôi….

Anh hốt trăng thanh, trên áo em xanh, một lần cuối, như những lần đó xa xôi“….*(2) 

Đến ngày Ba và tôi trở về xứ Ngàn Hoa, còn anh thì đi …biền biệt… đến bao giờ?

…………….

Trại tù… 

Anh viết : “Mỗi kỳ trăng tròn, anh thường nhìn lên ánh trăng, để tìm ánh mắt em phản chiếu trong đó, Ti ơi…Anh nhớ em quay quắt… nhớ đôi mắt thật buồn của em, bé ơi  …”

Thăm nuôi…

 “Em ngậm ngùi khóc thương

Thương anh đợi mòn mỏi

Hờn căm ngút đoạn trường– ” *(3)

…………………

…Ngày anh Trở về…Mừng mừng tủi tủi…

Kể làm sao cho xiết…

Rồi ngày được định cư ở bến bờ tự do…

Ba ơi, cái ông tài xế máy bay ni không có bay bướm chi hết, Ba à…

Bao nhiêu mùa Xuân đã đi qua… Anh và em đều mong ước một mùa Xuân  được trở về, để đến  những nơi chốn của thuở vàng son ấy…

&&&&&&&&&&&&

Đất Mẹ, ngày trở về, để đón mùa Xuân như ước mơ, nhưng  chỉ có các con và em … Anh đã ra đi…

Saigon, Dalat, Huế…Và sân bay Phú Bài.

Tất cả đã không còn như xưa… Ngôi trường mến yêu, những con đường thân thương …

Nhưng đối với anh và em, vẫn thật đáng quý, những nơi tràn ngập kỷ niệm dấu yêu, kể cho con nghe… Thương quý nhưng nghẹn ngào làm sao…

Và Nhatrang, sóng biển và cát….

Hôm nay ngày rằm cuối năm, trăng sáng vằng vặc, em lại nhìn lên ánh trăng, tìm đôi mắt của anh, như ngày xưa mắt anh và em nhìn nhau trên đó  anh ơi …

Ngày mai em sẽ đưa các con lên đồi Trại Thủy, nơi có tượng Phật Bà, và kể cho con nghe về cái ngày xa xưa yêu dấu ấy, anh ơi…Bây giờ em không thể làm Hòn Vọng Phu để chờ anh được nữa rồi, em còn bổn phận với con cháu..

Anh đang ở đâu hở anh

Anh Quang ơi, từ nơi xa ấy, anh có cùng mẹ con em đi thăm lại những con đường có lá me bay, những đồi thông con suối, không anh…

Một mùa Xuân trọn vẹn của anh và em, sẽ không bao giờ có được…

……………….

Trong phòng của mình, vẫn còn bức chân dung ngày xưa anh đã họa lại hình em đó, Quang ơi… Và chiếc áo bay ngày nào của anh vẫn ở bên em…

Những tưởng yêu thương đến trọn kiếp

Mong sẽ trăm năm cùng bạc đầu

——

Vầng trăng xưa, ngươi có nhớ gì không?- 

Vũ Hoàng Chương- Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm

TháiLan/nữlan-Dallas- 2016

———————-

1/–  Hai Vì Sao Lạc– Anh Việt Thu

2/- Một Lần Cuối– Hoàng Thi Thơ

3/-  Hai Hàng Cây So Đũa -Thơ: Nguyên Huy- Nhạc: Trọng Minh




GS TS MAI THANH TRUYẾT – Bài Viết




VĂN – ĐỈNH HOA VÀNG – Cao Mỵ Nhân

ĐỈNH HOA VÀNG

Trong HNPD cả net lẫn com của quan Đồ Ngu tức nhà văn Nguyễn Trọng Hoàn của …tôi, tôi hay xí phần lắm, nếu điều gì đó phảng phất có tôi trong đó, có một bài viết về nhà thơ béo xụ, to ù Phạm Thiên Thư, với tuồng tích ” Ngày xưa Hoàng thị…”, có kèm hình ổng mới nhất, tuần trước.

Tôi vốn cũng không xa với nữ sĩ Tuệ Mai, người đưa ông lên đỉnh hoa vàng, xin lỗi tôi không xài danh xưng ” động hoa vàng ” như ai yêu thơ cũng theo dõi và biết phần nào.

Bài này đặc biệt chỉ kể về chuyện ở động hoa vàng thôi .

Ô mà với Phạm Thiên Thư thì có lẽ ” Động hoa vàng” là chính điểm cho bàn dân độc giả thơ mến mộ, chứ dẫu Thi sĩ Phạm Thiên Thư có lối hành văn thơ khá đặc biệt, nghĩa là có ngôn ngữ riêng, như kiểu lời nhạc đặc biệt Trịnh Công Sơn cùng thời, thí dụ:

Đoạn trường sổ gói tên hoa

Xưa là giọt lệ, nay là hạt châu …

( Đoạn trường vô thanh – Phạm Thiên Thư )

Lại cũng biện luận bằng câu: tiểu sử, thành tích, tác phẩm Thi sĩ Phạm Thiên Thư thì đã đầy trong sách báo đương thời, tôi chỉ lướt qua những kỷ niệm rất chân tình, còn nếu nói về mức độ đúng, sai…thì thưa quý vị, nó, kỷ niệm sắp đơn cử ra, thật đến độ quý vị có lòng, phải thẫn thờ buồn mãi …

Theo đề nghị của quý nữ sĩ trong thi đàn Quỳnh Dao, một hội thơ nữ lưu rất danh tiếng về mọi mặt, tôi đã nhận cái việc là sẽ tới lui chăm sóc cho nữ sĩ Tuệ Mai những ngày tháng sau cùng, khi bịnh ung thư của chị đã đến hồi bó tay, chỉ còn xài ” morphine” chế ngự các cơn đau dồn dập tới thôi.

Đó là những tháng cuối năm 1981, qua đầu 1982.

Tuy bịnh nặng như thế, mà cũng còn những khoảnh khắc chị có thể tâm sự với tôi về hành trình viết lách chưa gọi là xong của chị .

Tất nhiên làm sao xong được với một cây bút còn đầy sức sống, chỉ có sức khỏe người cầm bút ấy bị hao hụt dần, nhất là không ai chia xẻ với mình về mặt tâm tư tình cảm đúng đắn , đối với một phụ nữ sắp sáu chục tuổi, đầy mơ mộng .

Tôi có lẽ may mắn là thủa đó, mấy năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước, mới xong tù cải tạo và lao động nông trường về, đối với tôi cuộc sống là quý giá lắm, nên tôi thông cảm ngay .

Mỗi ngày, vào buổi trưa, trên căn gác nhỏ ngôi nhà số K8

Đường Nguyễn Chí Thanh, tên mới, tôi không để ý tên cũ là đường gì . Chị vẫn có thể cười nói rằng:

Này Cao Mỵ Nhân, đã gặp Phạm Thiên Thư chưa ?

Tôi lưỡng lự: ” Chưa chính thức gặp, nhưng em có thấy anh ấy ở đâu rồi ”

Nữ sĩ Tuệ Mai cứ lúc khép lúc mở mắt, có lẽ chị đang mơ mộng, với giọng đều đều :

Thư, là thi sĩ Phạm Thiên Thư, chị Tuệ Mai luôn kêu Phạm Thiên Thư là ” Thư ” thôi, khác với nữ văn sĩ Nguyễn Thị Vinh thì bao giờ cũng ” Anh Nhật” tức nhà văn, điêu khác gia Nguyễn Hữu Nhật .

Thư vui lắm em ạ, khi chị khám phá ra Thư là một thiên tài, mình, là nữ sĩ Tuệ Mai, nói Thư phải đưa các tác phẩm xuất sắc đó lên cao hơn, vì giá trị của lời thơ …

Cao Mỵ Nhân đọc hết các sách thơ của Phạm Thiên Thư chưa ?

Sự thực tôi chưa đọc hết, song nhìn chị Tuệ Mai gần đất xa trời quá rồi, tôi gật gật đầu : ” Em có đọc …”

Chị Tuệ Mai tiếp : Cơ duyên đã khiến chị gần Thư, sau khi Thư rời hẳn Chùa ra đời, Thư là con trai duy nhất của cụ bà Thư Lâm, chị đặt cho cụ phương danh này, thì cứ việc sống bình thường trong xã hội Saigon, ở Chùa làm chi, cho dẫu Thư có tâm tu đi nữa.

Thế rồi Thư có ý định thành hôn với chị ( Tuệ Mai ) là lúc chị đã 50 tuổi, còn Thư 32 tuổi, 1972, cùng lượt với nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh ( 48 tuổi ) và nhà thơ họa sĩ điêu khắc gia Nguyễn Hữu Nhật ( 30 tuổi ) .

Chị Vinh thì mới mẻ, bạo dạn và lãng mạn hơn chị nhiều, chị Vinh luôn làm chủ cuộc đời chị ấy, chứ chị ( Tuệ Mai ) thì … ngại quá, chị còn cái đại gia đình nặng trĩu phong kiến, cụ thân sinh vẫn đang tại thế, tức thi sĩ quá lão thành Á Nam Trần Tuấn Khải.

Chị còn bầy em gái 5 cô con bà dì, chị có 2 Con gái nuôi là Thanh Nhu có gia đình rồi, đang tá túc với chị trên căn gác ấy, cô con nuôi thứ hai đã đi tản, ở Mỹ , và là người luôn quà cáp về VN cho chị sau này .

Nên, Thư cũng …ngần ngừ, rồi quyết định thưa với cụ thân mẫu Thư, đoạn, Cao Mỵ Nhân biết không, chính bên nhà Thư đã tiến hành cho chị một đám cưới đàng hoàng, bằng chính tiền để dành, em ạ , đập cái hũ vàng ra, để mà lo sính lễ đấy .

Tôi có biết gì về giai thoại này, hơn nữa trước 30-4-1975 tôi còn ở QĐI/QKI của…tôi, 1972 là cái tuyến lửa quân nhân các cấp VNCH đang tái chiếm cổ thành Quảng Trị, tôi đang phờ phạc về công tác xã hội hậu phương, thương binh tử sĩ ở các quân y viện Huế, Đà Nẵng, có thì giờ đâu theo dõi chuyện tình thành phố chứ, tôi ậm ừ: ” Thế ạ ” .

Sau khi cưới nhau chính thức, chị về nhà Thư là ngôi nhà giống như biệt thự, tức là có hoa lá cây cảnh ở con đường XXX bên Gia Định, tức Quận Bình Thạnh.

Nhưng vẫn đi đi về về nhà chị, số K8 đường nêu trên .

Vài năm sau, nữ sĩ Tuệ Mai nghĩ là: Thi sĩ Phạm Thiên Thư có trữ tình , lãng mạn đến mấy, cũng cần có con cháu để nối dõi tông đường, nên chính chị là người hỗ trợ thiết tha việc cưới cho thi sĩ Phạm Thiên Thư đệ nhị ái thê, nguyên là ái nữ của nhà văn Hoàng Ly, người chuyên viết chuyện đường rừng thượng du Bắc Việt xưa.

Buồn cười lắm Cao Mỵ Nhân ạ, bấy giờ chị chưa rời hẳn nhà Thư đâu, bởi vì nơi đó chính là cái động hoa vàng được hình thành, hoa cúc vàng, rồi mùa xuân thì những cành mai vàng nở rộ biết không?

Nữ sĩ Tuệ Mai, tác giả 7 tập thơ trước 1975, đang ấp ủ 2 cuốn truyện dài :

Lưu Bình, Dương Lễ và nàng Châu Long mới,

Huyền Trân Công chúa .

đã ngã bịnh …vô Bịnh viện Bình Dân, để rồi cay đắng biết mình sẽ từ giã cõi đời .

Ngày tôi từ nông trường về thành phố, là chị đã giải phẫu xong khá lâu, nhưng vẫn trong ưu tư không còn cơ hội viết 2 cuốn tiểu thuyết nếu trên .

Chị giao cho nữ sĩ Như Hiên cũng trong Hội thơ Quỳnh Dao viết ” Nàng Châu Long mới “, để làm sao đánh bật cái tư tưởng phụ nữ cao vời, chứ không phải được Quan xưa Dương Lễ ngoắc ra truyền lệnh cho đi nuôi Lưu Bình, vì Châu Long là vợ 3 của Dương Lễ.

Chị có nhã ý giao cho tôi viết tiếp mấy chương để kết thúc cuốn Huyền Trân Công Chúa, với ý đồ là tôi phải làm nổi bật được vai trò công chúa Huyền Trân vốn nhà họ Trần của chị : nữ sĩ Tuệ Mai Trần Thị Gia Mình.

Nhưng tôi bận lo chuyện cơm áo, rồi chuyện ra đi theo diện HO của …tôi sau này, tôi không nhớ mình đã xếp 2 chương bản thảo công chúa Huyền Trân của chị ở chỗ nào nữa .

Một ngày được tin thi sĩ Phạm Thiên Thư sẽ ghé thăm chị Tuệ Mai, chị thản nhiên như bạn tầm phơ, không nghĩ đã một thời chị cùng thi sĩ họ Phạm đó kết nghĩa tào khang.

Tôi loay hoay vì lo cái chuyện cách đó ít lâu, nhà thơ Trụ Vũ đã chở Honda tôi tới tiệm hớt tóc ở Lăng Cha Cả, giới thiệu tôi giả đò là cán bộ văn hoá từ Hanoi vô Saigon, để chờ đi Cote d’ Ivoire công tác . ..muốn làm quen thi sĩ nổi tiếng miền nam, mà nhà thơ Trụ Vũ cảm thấy chỉ có Phạm Thiên Thư là hay không tưởng được .

Dịp đó, Phạm Thiên Thư đã lấy làm hãnh diện, và còn muốn cũng được đi Phi Châu như tôi chứ.

Lý do thi sĩ Phạm Thiên Thư và tôi chưa hề diện kiến nhau, nên Trụ Vũ kêu tôi là ” chị Đỗ Mai A ” .

Nay thi sĩ Phạm Thiên Thư tới thăm nữ sĩ Tuệ Mai, thì thế nào đây ?

Phạm Thiên Thư đã lên thang gác, tôi quýnh quá, trốn ngay vào nhà tắm sát phòng chị Tuệ Mai.

Nhị vị thi sĩ tên tuổi ngó nhau nhiều hơn là phải nói, một lúc thấy lâu, chị Tuệ Mai kêu:

Cao Mỵ Nhân đâu rồi, ra đây chứ, Thư tới này .

Tôi đành phải ra chào, cười hoà hoãn, Thi sĩ Phạm Thiên Thư nhìn tôi, tay chỉ chỉ : ” Trời, dám cùng Trụ Vũ phá tôi hả ? ”

Thi sĩ Phạm Thiên Thư cáo biệt rồi, thấy chị có vẻ buồn xa vắng, tôi kể cho chị Tuệ Mai nghe chuyện nhà thơ Trụ Vũ đùa cợt xem thử Phạm Thiên Thư thế nao, khi Trụ Vũ ” phỏng vấn” Phạm Thiển Thư là : Nam thi sĩ miền nam nổi tiếng là Phạm Thiên Thư rồi, còn nữ thi sĩ nổi tiếng miền nam là ai, anh có thể cho chị Đỗ Mai A đây một ví dụ .

Phạm Thiên Thư cười cười không trả lời, Trụ Vũ hỏi tới luôn:

” Chớ anh nghĩ thế nào về nữ thi sĩ Tuệ Mai ? ”

Thì Phạm Thiên Thư im lặng .

Nhưng tôi không kể chi tiết này ra với chị, vì chị đang đau, mà thái độ của Thi sĩ Phạm Thiên Thư cũng chằng …hào hoa mã thượng gì .

Ít ngày sau, nữ sĩ Tuệ Mai mất. Chúng tôi có thông báo bằng hữu văn chương biết ngày tiễn nữ sĩ Tuệ Mai về cõi vô cùng. Chị mất chiều mùng một tết, đưa ma sáng mùng bốn tết âm lịch năm ấy( 1982) vừa đúng hoa giáp .

Song nhà thơ Phạm Thiên Thư không đến tiễn biệt nữ sĩ Tuệ Mai, người đã đưa ông lên đỉnh hoa vàng, trong lúc khá đông thi văn sĩ Saigon xưa tới chia buồn cùng hương linh chị.

Đáng ngợi ca nhất là nữ văn sĩ Nguyễn Thị Vinh đã xin để tang nữ sĩ Tuệ Mai, viết 4 câu thơ và yêu cầu tôi đốt trước quan tài nữ sĩ Tuệ Mai lúc ở hỏa tháp Thủ Đức.

Nhà văn Nguyễn Thị Vinh nói cho tôi hay rằng: trong nghĩa cử bạn bè văn nghệ, chị phải để tang 4 người, 2 vị kia tôi không quen biết, còn 2 nữ sĩ Quỳ Hương và Tuệ Mai trong hội thơ Quỳnh Dao, tôi là em út thi đàn này, tôi phải biết chuyện đó.

Nhà văn Nguyễn Thị Vinh còn thủ thỉ: ” Em ơi, chính Tuệ Mai giới thiệu anh Nhật cho chị đấy ” .

Tới chiều hôm sau, thi sĩ Phạm Thiên Thư mới ghé lại ngôi nhà có hình ảnh cuối cùng của nữ sĩ Tuệ Mai, ” Gã từ quan ”

ấy mới lấy làm tiếc là không kịp về đưa đám nữ sĩ Tuệ Mai .

Buồn nhỉ, có lẽ nào như thế không ? Hình như câu ”

nghĩa tử là nghĩa tận ” đôi khi không được nhớ đến …

CAO MỴ NHÂN




KIỀU MỸ DUYÊN- CHÚC MỪNG NĂM MỚI




KIỀU MỸ DUYÊN: Một Sự Bất Tín, Vạn Sự Bất Tin




Mai Thanh Truyết: Một nhà báo, nhà chính trị hay một nhà Khoa Học?

Tài liệu sưu tầm. Nguồn: Internet

Mai Thanh Truyết: Một nhà báo, nhà chính trị hay một nhà Khoa Học?

Nói đến Tiến si Mai Thanh Truyết thì đồng bào hải ngoại, nhất là những ai sống ở Nam Cali hẳn không xa lạ.  Lại càng không xa lạ đối với những ai hằng quan tâm đến những vấn đề thời sự, khoa học và môi trường v.v…

Nói về những bài viết của Tiến sĩ Mai Thanh Truyết, chúng tôi nhận thấy ông không viết về đề tài nào khác hơn ngoài những vấn đề có liên quan đến khoa học. Ông không viết về một xứ sở nào khác ngoài đất nước Việt Nam cùng với những vấn đề nóng bỏng của nó. Và nếu có đi vào tìm hiểu một số khía cạnh thuộc về môi trường, hoặc phương thức sản xuất của một số nước nào đó thì cung chỉ là cốt để soi sáng cho tình trạng chậm tiến của đất nước Việt Nam. Chúng ta có thể thấy rõ chủ trương (chính trị) của cầm quyền CSVN đã và đang “ăn thông” với CSTQ để làm hại đất nước và người dân về nhiều phương diện. Sự kiện này được thấy rõ qua việc làm vô trách nhiệm cùng thái độ ươn hèn, khuất phục của CSVN đối với sự xâm thực một cách có chiến lược của CSTQ cùng những hiểm hoạ của nó.

Những đề tài mà ông đã nói lên hoặc viết ra thực tình mà nói, trong khuôn khổ một bài nhận định ngắn này, với một kiến thức hạn hẹp của người viết như thế này, không sao kể hết và nói xuể. Sở dĩ như vậy vì các bài viết hoặc nói chuyện của ông vô cùng phong phú và đa dạng. Đại để có thể nói một cách không đắn đo rằng: Dù dưới bất cứ một đề tài nào, ông cũng chứng tỏ một sự vững vàng trong lập luận, chính xác về nguồn tin, rất khoa học khi phân tích và không thể phủ nhận chất hăng hái trong lối trình bày. Nếu bảo rằng ông là một nhà hùng biện thì cũng không đúng, và cũng không đúng hẳn khi nói rằng ông có “khoa ăn nói” như những người có tiếng là nói năng hay. Nhưng ông có một cái độc đáo riêng, “Mai thanh Truyết” là Mai Thanh Truyết. Không thể lầm lẫn với một Phan văn Song hay Nguyễn văn Trần-hai người bạn thân mà trong quá trình hoạt động Cộng Đồng chúng tôi có hân hạnh được biết. Lại càng không giống như Luật sư Trần Thanh Hiệp, một nhà tranh đấu có tiếng từ lâu, và là một trong những người bạn thân cũ của ông.

Điều quan trọng người viết muốn nhấn mạnh ở đây chính là giá trị của những bài viết của ông. Nó phản ảnh rất trung thực con người ông, lời nói cũng như việc làm. Nhất là có một tác dụng đáng kể: vừa chính xác, vừa có tính cách vô vị lợi. Và đó cũng chính là con người của ông. Có thể nói kể ra cũng bằng thừa, những điều ông đã viết, đã lên án, đã vạch trần và đã tố cáo cho mọi người, khắp nơi, trong cũng như ngoài nước biết rõ, biết chính xác về những điều ông thấy, đọc, nghe và nghiên cứu. “Tự giác, giác tha”, ông không chỉ là một nhà khoa học, một ông thầy dạy học, một đảng viên kỳ cưụ của Đại Việt Quốc Dân Đảng, một nhà tranh đấu, và thêm vào đó là một Phật tử chân chính nhưng không câu nệ. Nếu đi sâu vào từng khía cạnh một thì không thể kể hết, nên chỉ còn cách là mời các thức giả vào nghiên cứu những khía cạnh ông viết, nói và chia xẻ.

Những đề tài trong quá trình tranh đấu của Tiến sĩ Mai Thanh Truyết có thể nói “vô tận”, nghĩa là “không có điểm bắt đầu và cũng không có điểm kết thúc” (lời ông nói trong một cuộc phỏng vấn về vấn đề hâm nóng toàn cầu). Một nhà chính trị không lập thuyết, một nhà khoa học không ngồi trong tháp ngà tư tưởng để chỉ nghiên cứu trên lý thuyết, nói cách khác một nhà hoá học thực nghiệm, Ông không chỉ mãn nguyện và an vị trong phòng thí nghiệm là đủ. “Con người” ông quả có nhiều “nghịch lý”. Là một chuyên viên phụ trách vấn đề phát thải tại Mỹ lại thường xuyên nghiên cứu về môi trường mãi tận Việt Nam. Từ bãi rác Đông Thạnh miền Nam đến vấn đề những dòng sông chết ở miền Bắc. Từ vấn đề Đồng Bằng sông Cửu, đến việc khai thác Bauxite tại Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Ông “đi” khắp nơi, và đặc biệt chú trọng đến vấn đề môi trường ô nhiễm theo nghĩa toàn diện (không khí, đất và nước…vốn là những điều kiện cần cho cuộc sinh tồn của nhân sinh).

Đó là việc làm và là con người của Tiến sĩ Mai Thanh Truyết. Nhưng vượt trên hết là một con người đấu tranh, đấu tranh theo nghĩa thiết thực nhất. Về điểm này có thể nói, ông còn nặng nợ với núi sông; mà hai điểm chính yếu và nổi bật nhất là đất nước và người dân: Nặng lòng với đất nước, quan tâm cho cuộc sống người dân. Phi tâm huyết, một người không thể làm được như vậy. Rõ ràng là ông đa đoan, cho nên:

Lại mang lấy một chữ tình,

Khư khư mình buộc lấy mình vào trong” (Kiều)

như một nàng Kiều nặng tình với Kim Trọng. Nhưng “tình” đây chính là tình đối với đất nước, thiên nhiên, môi trường thiên nhiên và mối quan tâm đến con người. Và, ông không chịu ngồi yên một chỗ, hết “keo” này, ông bày “keo” khác.

Cho nên khi nói đến việc làm của ông mà không nói đến con nguời thì quả là một điều thiếu sót. Tôi không sống ở Mỹ nhung qua những mẩu đối thoại cá nhân, hoặc những bài nói chuyện với cộng đồng thì có thể biết được ông nghĩ gì và muốn gì… Chưa bao giờ ông đề cập đến con người của ông nhưng qua lối diễn tả, cách tiếp xúc, và lời lẽ đặc biệt “Nam Kỳ“ của ông người ta thấy thể hiện một sự chân chất, không màu mè, kiểu cách. Ông thân thiện với tất cả mọi người, dễ dàng và cởi mở. Quả thực Tiến si MTT có một cái gì làm người ta quý mến và cảm phục. Cảm phục không phải vì “tài năng xuất chúng” nhưng vì sự kiên tâm tranh đấu không mệt mỏi của ông.  Đối với cộng đồng chúng tôi thì mối liên hệ với ông Tiến Sĩ họ Mai này lại có phần hơi đặc biệt. Đặc biệt là vì chúng tôi có những ý kiến chia xẻ cùng những nhận định về thời cuộc hay nói chung là về vấn đề liên quan đến Việt Nam. Có thể nói, không “ngoa”, rằng Mai Thanh Truyết là một người có tâm huyết với đất nước, một trong số hiếm những nhà tranh đấu chân chính hiện nay.

Hơn thế nữa, có thể nói khá chính xác rằng hiện nay ở Cali ông là người duy nhất gióng lên tiếng chuông báo động cho đồng bào thường xuyên nhất, tích cực nhất, những điều nóng bỏng nhất và cũng thiết thực nhất . Chỉ nguyên phản ứng của quần chúng đối vấn đề thực phẩm có độc tố, dù là tán thành hay phản đối- mà đa số vì muốn bảo đảm sức khỏe an toàn- đều hưởng ứng khá mạnh mẽ. …cũng đủ thấy việc làm của ông không phải là thừa. Ấy là chưa kể còn nhiều lãnh vực khác mà ông luôn luôn một mình, một ngựa có ông đi hàng đầu”.

Nhưng điều tôi muốn nói ở đây không phải chỉ là vì những hoạt động của ông đối với đất nước trong suốt hai mươi năm qua- Những đóng góp ấy không phải là nhỏ, trái lại rát phong phú và đa dạng. Đa dạng như chính con người của ông – mà là ý nghĩa và cộng đồng chúng tôi được hân hạnh gặp Tiến si Mai Thanh Truyết vào buổi xế chiều một ngày tháng 7 tại một thành phố Miền Tây Canada. Lúc ấy là vào mùa hè nên thời tiết thật đẹp, nắng vàng ấm và không khí trong trẻo. Thời tiết này giúp cho việc tham dự buổi nói chuyện của ông về một đề tài tưởng là khô khan nhưng lại vô cùng hấp dẫn.

Hôm ấy, ông đến với cộng đồng theo lời mời của Hội Ái Hữu Đồng Bằng sông Cửu Long, đồng thời cũng là chỗ anh em thân tình cũ với ông. Chúng tôi đến tham dự buổi nói chuyện của ông về vấn đề “Dioxin và Chất Độc Da Cam” mà ông mới xuất bản không lâu trước đó và đã cho ra mắt, cách đây hai năm. Buổi nói chuyện thật sôi nổi với nhiều câu hỏi sâu sắc được đặt ra. Và ông đã giải đáp thấu đáo với những dẫn chứng cụ thể và chính xác. Thật là cần thiết để đồng bào Việt Nam có thể được nghe chính lời của một nhà hoá học đã chịu bỏ công nghiên cứu kỹ lưỡng; để có thể đưa ra những luận cứ có giá trị, hầu “giải độc” cho mọi người về tất cả những gì mà CSVN đã gây ra, và rêu rao khiến người dân hoang mang.

Nhưng đây chỉ mới là một ví dụ trong nhiều ví dụ về những công việc mà Tiến si Mai thanh Truyết đã và đang theo đuổi. Chỉ trong suốt hai năm qua kể từ ngày đó, ông đã làm không biết bao nhiêu việc. Những thức giả hằng quan tâm đến thời cuộc và theo dõi việc làm của những nhà tranh đấu thì sẽ dễ thấy. Hình như ông không chịu ngồi yên để chỉ “khóc cười theo vận nước nổi trôi” như nhiều người khác, mà ông càng tranh đấu càng hăng say. Ông không chỉ dừng ở địa hạt Dioxin để nói lên cái thực chất của sự giả dối che đậy của nhà nước CSVN khi nhân danh vấn đề nhân đạo để …vòi tiền Mỹ .

Ông còn lưu tâm đến nhiều khía cạnh thiết thực khác như vấn đề ô nhiễm Việt Nam- một sự ô nhiễm toàn diện – và là một vấn đề nóng bỏng hiện nay. Ông đã nêu lên những dẫn chứng thật cụ thể cho việc làm của mình. Ông đã báo động cho mọi người thấy đây là một vấn đề trầm trọng không thể bỏ qua. Như đã nói trên, đây là một vấn đề toàn diện và bao trùm mọi lãnh vực, từ y tế (ô nhiễm dược phẩm), kinh tế (sản xuất hàng loạt thu hoạch lợi nhuận tối đa),  cho đến đời sống xã hội (ô nhiễm thực phẩm, môi trường)… Những sự kiện này đã ảnh hưởng nặng nề đến cuộc nhân sinh (vụ nhà máy lọc dầu Dung Quất đã không thực hiện đúng tiêu chuẩn sản xuất nên có khả năng làm hại môi trường, và qua đó ảnh hưởng tai hại cho sức khỏe và cuộc sống người dân nói chung. Mặc dù chẳng bao lâu nhà máy này đã phải đóng cửa vì một số lỗi lầm trong xây cất, ông vẫn thấy có bổn phận phải nêu lên vì còn rất nhiều những công ty sản xuất với tính cách làm ăn tắc trách như vậy .

Hoặc như vụ công ty chế tạo Bột Ngọt Vedan đã mặc sức thải ra lòng sông những chất phế thải mà không hề xót xa cho sự sống của dòng sông. Sự kiện này và nhiều trường hợp tương tự cho thấy các công ty sản xuất tại Việt Nam hầu như chỉ nhắm vào nguồn lợi kinh tế mà không quan tâm đến phẩm chất của việc sản xuất cũng như của những thành phẩm. Và nhất là không hề để ý đến hậu quả của việc làm của họ. Hiện tượng này không những đã làm ô nhiễm môi trường vật lý mà còn ô nhiễm cả cuộc sống người dân v.v… Đứng trước tình cảnh và nông nỗi ấy của đất nước, ông không thể “im lặng là vàng” được.

Là một nhà hoá học, Giám Đốc một cơ quan xử lý chất phế thải (nói nôm na là rác) tại Hoa Kỳ ông đã biết lợi dụng những tiện nghi khoa học, và đem kiến thức gặt hái trong ngành ra ứng dụng vào thực tế để soi rọi vào những gì đang được CSVN thực hiện ngay trên đất nước Việt Nam. Chính cái nhìn “soi mói” cần thiết này đã mang lại tác dụng đôi:

  • Một đàng người dân có thể thấy rõ cái sai trái và âm mưu che giấu ở bên trong những việc làm lấy lệ, vô trách nhiệm và vụ lợi của kẻ cầm quyền vô minh nhưng “bá đạo”.
  • Mặt khác, việc làm này cũng không ngoài mục đích cảnh báo nhóm người nắm quyền sinh sát ở trong nước về những hiểm họa đang và sẽ xảy ra. Với một niềm mong muốn, họa may họ có còn một chút nhất điểm lương tâm mà thay đổi phương thức quản lý sản xuất và môi trường tử tế hơn. Không khó để nhận thấy rằng trong mọi vấn đề, ông luôn muốn hữu hiệu hoá kiến thức của mình, nghiên cứu, tìm tòi thêm để sau đó mới đúc kết lại và quảng bá cho quần chúng. Về phương diện này, có người đã coi ông như là một học giả và luôn đi tiên phong.

Nói về việc làm của Tiến si Mai Thanh Truyết thì còn nhiều điều để nói. Mối ưu tư toàn diện của ông đối với sự lành mạnh của môi trường là gì nếu không phải xuất phát từ một khối óc hiểu biết và một trái tim sôi sục vì sự tồn vong của đất nước, muốn làm một cái gì ích cho nước, lợi cho dân.

Trên đây, người viết mới chỉ đan cử một vài ví dụ tiêu biểu trong vô số những hoạt động của Tiến si Mai Thanh Truyết mà độc giả có thể thấy trên mạng, trên báo chí, truyền thanh, truyền hình v.v…

Về phương diện chính trị, như đã nói trên, tuy ông không phải là một nhà chính trị thuần túy, hay nhà bình luận thời cuộc vì ông không “sống” vì chính trị, nhưng chính bản thân, ống đã dấn thân vào công cuộc chung. Trong vai trò Đệ Nhất Phó Chủ Tịch của Đại Việt Quốc Dân Đảng Đại Việt, Tiến si Mai Thanh Truyết tin vào sức vươn lên của con người trong nhiều lãnh vực, để tiến tới tương lại. Trong bài viết cũng như trong các mẩu đối thoại, ông chủ trương một thái độ lành mạnh. “Lành” trong chính trị có nghĩa là không chỉ dừng tại chỗ để ca ngợi thành quả đã qua hoặc tiếc thương những gì đã mất. “Mạnh”, vì Ông quả là một con người đa diện, mà “diện” nào cũng dám nói thẳng thắn, không do dự.

Về mặt tôn giáo, ông đã chứng tỏ là một Phật tử sống với chân tâm, không vụ hình thức. Với ông, nhận thức và hành động là một: Ông không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước những gì sai trái. Biết mà không nói, không phải là hiểu biết thật sự. Ông không chỉ bo bo giữ cho riêng mình những kiến thức thâu thập trong cuộc sống, trong xã hội, trên thế giới, nhất là trong địa hạt chuyên môn của mình. Cho nên ông phải truyền bá, phổ biến sau khi đã hấp thụ thấu đáo và tiêu hóa.  Công việc này xuất phát từ một đam mê, một khối óc hiểu biết và một tấm lòng đối với đất nước.

Nói như thế, để thấy rằng Tiến sĩ họ Mai mặc dù không có ý định làm chính trị, cũng không phải là nhà lập thuyết về chính trị; nhưng cũng như bao nhiêu người có lòng khác, ông đã dấn thân vào đại cuộc từ lâu. Trong vai trò Đệ Nhất Phó Chủ Tịch của Đại Việt Quốc Dân Đảng, ông luôn chứng tỏ một thái độ năng động – của một người lãnh đạo có tinh thần trách nhiệm cao- trong việc hướng dẫn người trẻ nhận định tình hình và đi theo đúng con đường chính bằng một cái nhìn khai phóng và sáng tạo (website daiviet.us)

Từng giữ chức Trưởng Ban Hoá học tại trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, và Giám đốc Học Vụ Viện Đại Học Tây Ninh, nơi ông đã từng giảng dạy vừa điều hành, ông đã đem kinh nghiệm giảng dạy và tổ chức trong quá khứ phối hợp với kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn nước ngoài để tiếp tục dìu dắt đàn em đi tiếp con đường tranh đấu cho dân tộc. Ông đã từng nhắn nhủ họ, trong những buổi nói chuyện, hội thảo, nhìn về tương lai với một niềm tin vững chãi. Vai trò hướng dẫn của một người thầy còn được thể hiện trong việc ông tham gia vào các sinh hoạt giáo dục, đóng góp ý kiến, tìm tòi tài liệu, liên lạc mọi giới. Và mỗi khi có cơ hội là ông bắt tay vào để phổ biến những kiến thức và kinh nghiệm của mình.

Để có thể hiểu thấu đáo việc làm của Tiến sĩ đa dạng họ Mai này, theo thiển ý, cách tốt nhất là xin đi vào “Blog” của ông (maithanhtruye.blogspot.com), hoặc vào trang website của Hội khoa Học kỹ Thuật (vastvietnam.com)  hay của Đại Việt Quốc Dân Đảng (daiviet.us).                    

Vancouver, một ngày Mùa Hạ, 2010

Nguyễn thị Ngọc Dung

Nguyên Chủ tịch Cộng đồng vùng Great Vancouver