VĂN CAO MỴ NHÂN: THI SĨ HOA VĂN – NGƯỜI TÔN PHONG VỢ.

***

NGƯỜI TÔN PHONG VỢ.       CAO MỴ NHÂN 

Buổi tiếp tân ” tưởng tượng ” của niên trưởng đàn anh tôi, cả về niên tuế, cấp bậc, lẫn …thâm niên thi vụ, như kiểu thâm niên công vụ, hay quân vụ ngày xưa …

Mục đích để tôn phong bậc hiền nội đã quá cố, trong vòng thân mật gia đình, ngoài tôi là khách mời duy nhất . 

Mở đầu chương trình, thi sĩ Hoa Văn, người chơi lục bát như tập Dưỡng Sinh, bởi vì không có thơ lục bát trong đời ông, thì ông không thở được , mất hẳn ý nghĩa thi ca…

Ông giới thiệu tôi lên diễn đàn gia tộc, với trên năm chục thành viên, gồm con trai gái dâu rể, các cháu nội, ngoại  vv…

Để tôi, trên danh nghĩa thân quen gia đình ông từ hơn  nửa trăm năm nay, không thể nào quên được một dấu phẩy trong gia phả ông, tôi có thể cam đoan những gì …khai báo, à quên, những gì trình bầy là sự thật 100% . 

Số là : ” Từ thủa dấn thân vào bút mực

             Đời anh phóng túng với thơ tình 

             Những gì anh viết đều …không thực 

             Chỉ có em là rất …hiển linh 

                (  Tặng thi sĩ Hoa Văn  –  Cao Mỵ Nhân  ) 

Thay lời tựa cho buổi ra mắt bài thơ ” Vợ Tôi ” của thi sĩ Hoa Văn tặng quý Hiền Nội Nguyễn Thị Nhung đã quá cố ..,

Những đau thương, mất mát tràn ngập trong lòng nhà thơ mấy năm nay, khiến thi sĩ Hoa Văn đã vô cùng bức xúc, đã phải viết nên bài  tâm cảm ” Vợ Tôi ” bằng mối chân tình ” phong thánh ” vợ . 

  Vợ tôi đáng được tôi phong thánh 

  Thánh của con tôi, thánh của tôi …

      ( Vợ tôi.   Hoa Văn. ) 

Thưa quý vị, trộm nghĩ ” Vợ là tất cả “, đến nỗi thế nhân còn phải gia cố, nâng cấp vợ hơn nữa, như ngày xưa quý cụ cố tổ khẳng định điều ” nhất vợ, nhì  trời ” đấy chứ có  rỡn đâu . 

Có vài thân hữu cho rằng thi sĩ Hoa Văn quá lời khen tặng vợ …nào là : 

   Vợ tôi đáng được tôi phong thánh 

   Thánh của tình yêu, thánh thuỷ chung…

       (  Vợ tôi.   Hoa Văn  ) 

Bất quá nhà thơ có thể dùng ngôn ngữ đời thường, hết mình kể lể công vợ thờ chồng, nhất là lúc ông đi tù cải tạo, nuôi dạy đàn con nên người vv…

   Vợ tôi đáng được tôi phong thánh 

   Trong lúc tôi đang chốn ngục tù …

      (  Vợ tôi.   Hoa Văn.  ) 

Sự thực thì quý phu nhân các đấng sĩ quan VNCH, có chồng lao lý trong cái gọi là trại tập trung cải tạo, có nhiều vị hiền thê đáng tôn vinh lắm, có thể ví tựa Tô Thị vọng phu xưa, chờ chồng nuôi con và đủ thứ linh tinh khác trong gia đình . 

Chúng tôi hân hạnh có bà bạn cùng trường Trung học TV thủa nào, vốn là phu nhân vị bộ trưởng Bộ TT/ VH . Sau ngày đổi đời bi thảm 30 -4 – 1975, Bộ trưởng trên đi tù cải tạo, bà phu nhân đó đã kịp thời mở một sạp bún bò, sáng sáng bán ở ngay cổng cư xá thương nhân, đường Trương Minh Ký , quận Tân Bình, cho khách thập phương qua lại . 

Đã vậy, bà còn phải chăm sóc cụ bà mẹ chồng bị liệt , lâm sàng. Tất nhiên còn phải nuôi con cái vv…,và nhất là phải lo mua sắm đồ tiếp tế cho cựu Bộ trưởng  ở chốn lao tù, tận ngoài Bắc nữa .

Tôi nghĩ quý vị ấy có được gia đình …phong thánh cho còn là …khiêm tốn đấy .

.Cho nên,  thi sĩ Hoa Văn đề cao hiền thê bao nhiêu cũng không đủ, không đúng con người nhân bản chính chuyên, nên chỉ có nước là phong thánh cho bà vợ đó  e thoả đáng nhất . 

    Vợ tôi đáng được tôi phong thánh 

    Nàng có trong tâm đủ nghĩa tình …

      (  Vợ tôi.   Hoa Văn   ) 

Thì trên nguyên tắc, người được phong thánh, phu nhân thi sĩ Hoa Văn cũng đã mệnh chung rồi, vả lại bà là thánh của gia đình thi sĩ Hoa Văn và các con cháu bà thôi, chứ có mạo muội với ai đâu . 

    Tôi phong vị thánh cho em rồi 

    Thánh của lòng tôi mãi mãi thôi.  

    Ôi , chốn nghìn thu em có biết

    Vợ hiền thương quá vợ hiền ơi …

        (  Vợ tôi.   Hoa Văn   ) 

Thưa quý thành viên trong gia đình cựu Trung tá Ngô Văn Hoà, với chức vụ sau cùng là Tiểu Đoàn trưởng Tiểu Đoàn 20 Chiến tranh Chính trị, cùng cả đời đã là một nhà thơ tên tuổi miền Nam, đầy sức sống từ trong tổ ấm đến ngoài biên phương.

Ở mặt nào thi sĩ Hoa Văn cũng không quên nhiệm vụ : làm chồng , làm cha , làm ông, làm lính …

Xã hội dân tộc ta cũng rất cập nhật tư tưởng : ” Sau lưng một người đàn ông công thành danh toại  vv…là một  phụ nữ đầy đủ phẩm cách, tế nhị, có cần thì thêm chút mẫn cảm …để thúc đẩy người đàn ông ấy , tức đấng phu quân tiến bước …”.

Tôi xin sắp dứt lời trình bày ở đây, đồng thời xin cám ơn quý vị bốn phương đào lý , tri âm tri kỷ của thi sĩ Hoa Văn trước bài thơ phong thánh ” Vợ  tôi ” của Hoa Văn , vị Trung Tá VNCH  nguyên tù cải tạo CSVN  về đoàn tụ gia đình ít lâu, thì phu  nhân ông ngã bệnh qua đời .

Đã phần nào khiến quý vị thông cảm , ngơ ngẩn, ngỡ ngàng, ngại ngùng, nguy ngập, nhưng xin đừng hiểu là ngông nghênh, ngổ ngáo, ngầu …lý do thi sĩ Hoa Văn thương yêu, trọng kính vợ, trên cả mộng mơ, vương vấn…

Cho dẫu hiện nay, ông cũng có vài nhân ảnh nàng thơ tuổi lục tuần, sẵn sàng …hy sinh vì đại nghĩa thơ, sẵn sàng xử lý thường vụ đối tượng thơ, khi thi hứng Hoa Văn vỡ nguồn, gây lũ lụt tràn bờ … Thơ muôn tuổi . 

      CAO MỴ NHÂN 




PHONG CHÂU – Truyện Ngắn VẠT NẮNG – THƠ

Truyện Ngắn: VẠT NẮNG

Ngọc Mai hất mền sang một bên rồi trườn mình sang phía có chiếc xe lăn đặt bên cạnh giường. Đúng ra thì nàng phải đợi cô y tá người Phi Luật Tân vào để đỡ nàng. Thường khi thì đúng tám giờ cô y tá mới vào. Nhìn đồng hồ thấy còn thiếu mười phút nữa mới đến tám giờ. Một thoáng nghĩ trong đầu “hay là hôm nay mình tự chuyển qua xe lăn mà không cần sự trợ giúp của cô y tá xem sao…”. Thoáng nghĩ xong là nàng dùng cả hai tay chống vào mặt nệm cứng rồi nhích mình nhiều lần sang mép giường bên phải, ngồi dậy và dùng hết sức để nhấc đôi chân ra khỏi giường. Nàng cố gắng làm cử động đong đưa hai chân bên mép giường và nhận thấy đôi chân đã không còn đau như những ngày trước. Nhìn chiếc xe lăn trước mặt mà chưa biết cách nào để đặt mình vào đó, Ngọc Mai cảm thấy có mồ hôi rịn ra ở trán nên vội đưa tay lên quẹt. Vừa lúc ấy cửa phòng xịch mở và cô y tá – Maria bước vào. Thấy Ngọc Mai ngồi ở mép giường, Maria vội chạy lại đưa hay tay vừa đỡ cả người Ngọc Mai và hỏi:                       

– Cô làm sao thế? Sao không chờ tôi vào…?                    

 Ngọc Mai trả lời:

– Tôi chỉ thử ngồi dậy thôi…                                        

Maria nói có phần nghiêm khắc:                            

– Đôi chân của cô còn yếu, chưa thể nào…   

Đồng thời, như mọi khi, đỡ Ngọc Mai ra khỏi giường và với những động tác rất chuyên nghiệp, chỉ trong vòng vài phút, Ngọc Mai đã ngồi gọn trên chiếc xe lăn. Nàng được đẩy đến phòng ăn. Bữa ăn sáng của các bệnh nhân diễn ra vào lúc tám giờ rưởi mỗi ngày như thường lệ. Hôm nay Ngọc Mai chỉ ăn một mẩu bánh mì, một miếng trứng chiên và uống một tách cà phê như mọi khi. Nhìn quanh căn phòng rộng chứa chừng hai mươi thực khách toàn là những người bệnh đang trong thời kỳ luyện tập để phục hồi. Có hai người đồng bệnh do tai nạn như nàng vừa mới xuất viện ngày hôm trước nên hôm nay nàng không có ai ngồi bên cạnh để chuyện trò trước khi được đẩy ra ngoài sân để hưởng chút không khí trong lành buổi ban mai.

Ngọc Mai yêu cầu Maria để cho tự mình lăn chiếc xe ra sân trước có mái che chạy dài dọc mái hiên của cơ sở phục hồi. Như thường lệ, nàng gật đầu chào những người bệnh cũng ngồi trên xe lăn hầu hết là những người lớn tuổi, một số đang đưa mắt nhìn về cõi xa xăm nào đó ở phía trước bằng những cặp mắt đờ đẫn vô hồn, số khác lại hết quay đầu sang bên phải rồi sang bên trái như để quan sát hết mọi việc chung quanh, có người mỉm cười vu vơ, có người mặt mày cau có khó chịu. Đó là hoạt cảnh mỗi buổi sáng mà Ngọc Mai đã chứng kiến trong suốt thời gian nàng có mặt ở đây sau khi chữa lành đôi chân từ bệnh viện và được chuyển đến đây để được trị liệu phục hồi.

Ánh nắng ban mai ấm áp phủ lên những ngọn cây phong đã đổi màu chiếu lan vào tận trong khu vực của những bệnh nhân đang ngồi. Như đã có ý định sẵn, hôm nay Ngọc Mai chọn một chỗ ngồi tương đối hơi xa các bệnh nhân khác trong đó đa số là người Mỹ, trắng có đen có cùng ba bốn bệnh nhân là người Việt Nam lớn tuổi để tránh chuyện trò vu vơ nhàm chán như những hôm trước. Nàng quyết định hôm nay sẽ đọc lại những đoạn ghi trong cuốn note nàng đã viết trong hơn một tháng. Maria mang đến cho nàng một ly nước và báo tin cho nàng biết là ngày mai nàng sẽ được xử dụng chiếc xe đẩy bốn bánh để di chuyển chứ không còn ngồi trong xe lăn nữa và hôm nay nàng không phải đến phong tập hồi phục. Ngọc Mai rất vui với tin này.

Chờ cho Maria rời khỏi chỗ nàng đang ngồi, Ngọc Mai cầm cuốn note đưa lên ngực và hít một hơi dài rồi nhắm nghiền đôi mắt, thở ra như để gỡ bỏ mọi vướng bận trong đầu hầu bình tâm đọc là những gì nàng đã viết. Đến lúc này nàng mới cảm thấy đang có một làn gió lạnh thổi vào sân. Nhìn quanh nàng thấy hầu như ai cũng có khoác áo ấm, riêng nàng thì không. Chút gió lạnh mơn man đầu thu khiến tâm hồn nàng cảm thấy nhẹ nhõm và hình như nó cuốn lôi đi những băn khoăn lo nghĩ vẩn vơ mà trong thời gian qua đã đem lại cho nàng nhiều ý nghĩ tiêu cực.

Ngày 15 tháng 6 – 2000… Mở mắt và nhìn thẳng lên trần nhà trắng toát khiến mình bàng hoàng. Không biết tại sao mình lại ở đây. Chưa nhớ được điều gì đã xảy ra. Mơ mơ hồ hồ thấy hình như mình đang nằm trong bệnh viện. Mệt nhiều lắm! Không biết chuyện gì đã xảy ra? Anh Minh đang ở đâu? Sao không thấy tới ?…

Ngày 20 tháng 6 – 2000… Hôm nay được đọc tờ biên bản của cảnh sát. Biết mình và anh Minh đã gặp tai nạn. Trời ơi! Sao thế? Anh Minh đã chết thật rồi sao? Một kẻ say rượu lái xe tông vào xe anh khiến anh chết tại chỗ. Mình bị văng ra cửa xe và bị thương ở đầu và cả đôi chân…

Ngày 21 tháng 6 – 2000… Nhớ ra rồi. Hôm đó sau giờ tan việc, mình và anh Minh hẹn nhau để đi sắm đồ cưới. Trước khi đến khu shopping, anh Minh và mình có ghé lại một tiệm ăn Việt Nam để ăn phở. Cả hai đều đói bụng sau cả ngày làm việc…

Ngày 24 tháng 6 – 2000… Mình nhớ. Ngồi trên xe mình thấy bảng chỉ tốc độ là 40 miles. Cả hai đang bàn tính sẽ chọn mẫu áo nào cho ngày cưới sắp tới. Rồi hai đứa cùng cười vui vẻ. Bỗng đâu một chiếc xe từ bên phải vượt đèn đỏ với tốc độ rất nhanh. Mình chỉ kịp ôm đầu và la thất thanh ối trời. Rồi không còn biết chuyện gì đã xảy ra…

Ngày 30 tháng 6 – 2000… Nghe mấy cô y tá nói khi tai nạn xảy ra thì mình bị bất tỉnh gần như hôn mê cả mấy ngày. Nhưng may mắn là đầu không bị tổn thương nhiều. Nặng nhất là xương chân bị bể. Các bác sĩ nói không cần mổ ở đầu nhưng phải mổ xương và may vá gì ở trong đó mình cũng chẳng hay đến khi tan thuốc mê mới được biết đôi chân đã OK, chỉ chờ cho chúng lành lặn. Ở bệnh viện các cô y tá giúp bế mình sang xe đẩy để giải quyết những sinh hoạt cá nhân. Ờ…mà sao bên gia đình của anh Minh không thấy có ai đến thăm và thuật lại những gì đã xảy ra cho mình nghe…

Ngày 4 tháng 7 – 2000… Hôm nay có ba người bạn làm cùng sở ghé thăm và tặng quà. Họ bảo hôm nay là ngày lễ độc lập Hoa Kỳ mà mình quên bẳng. Họ nói có đi dự đám tang của anh Minh nhưng không nghe có ai nhắc đến tên Ngọc Mai cả. Tại sao vậy nhỉ? À…mình nghĩ ra rồi…Cả gia đình anh Minh hầu như không đồng ý với cuộc hôn nhân giữa mình và anh ấy. Họ bảo mình là đứa con gái mồ côi, không cha không mẹ…Nghe thật đau lòng, chỉ trừ có cô em gái út. Nhưng tại sao cô ta cũng không đến thăm mình?…

Ngày 8 tháng 7 – 2000… Hôm nay mình nhớ ngày mà cha mẹ mình bị bọn hải tặc Thái Lan đâm chết và vứt xác xuống biển. Mới đó mà đã hơn hai mươi năm. Lúc đó mình mới mười tuổi được một cặp vợ chồng cùng vượt biên dắt cho đến đảo và cũng được khai cùng gia đình để được vào Mỹ…Được đi học cho hết lớp 12 mình xin việc làm và tiếp tục ghi danh học ở college. Gia đình ân nhân này lại dời sang sống tại tiểu bang Alaska vì có hai người con đã định cư ở đó. Mình ra ở nhà mướn. Một dạo sau thì mình mất liên lạc với họ…

Ngày 19 tháng 7 – 2000… Nhớ anh Minh quay quắt mà không biết cách nào để ra ngoài ghé viếng mộ của anh. Gia đình của anh ấy thật tệ. Không biết họ nghĩ thế nào về mình. Chẳng lẽ vì cái tội không cha không mẹ mà bị khinh khi đến thế sao!? Cha mẹ chết vì vượt biên chứ đâu phải mình là con hoang con dã gì cho cam. Nghĩ mà buồn cho thân phận…

Còn vài đoạn nữa Ngọc Mai muốn đọc cho hết để rồi tiếp tục ghi thêm vào cuốn note nhưng bỗng nhiên nàng thấy hơi khó thở. Ngọc Mai cố sửa lại thế ngồi cho thẳng để dễ thở hơn. Nhưng khi nàng vừa ưỡn ngực thì ngay lúc đó đầu nàng gục xuống. Cuốn note văng ra khỏi tay nàng.

Các bệnh nhân, một số đã vào phòng tập phục hồi từ lâu, chỉ còn vài người ngồi hóng chút ánh nắng còn lại ở mép sân hiên. Vạt nắng rọi xuống nơi Ngọc Mai ngồi rồi cũng dần biến mất…

Phong Châu – Tháng 8 – 2025

Mây Bay…

Những áng mây chiều lờ lững trôi
Thênh thang bay mãi tận chân trời
Có chở tình ta về bên ấy
Neo vào bến nước cạn dòng trôi

*
Ngày tháng tha hương mộng bềnh bồng
Trăng tròn trăng khuyết sầu mênh mông
Đôi vầng nhật nguyệt ôm thương nhớ
Đất đá thương nhau cũng nát lòng

*
Chim biệt xa ngàn nội cỏ phai
Người xưa năm cũ biết còn ai
Chén rượu ly bôi ngày chia biệt
Ghế đá nghiêng buồn giọt nắng mai

*
Lá mùa thu đã rụng ven sông
Bờ xưa con nước có chạnh lòng
Phố cũ còn ai qua ngõ vắng
Đêm buồn như phố thị mùa đông

*
Người ở nơi nào ta chốn đây
Rong rêu trong trí đã phủ đầy
Nửa giấc chiêm bao dài muôn kiếp
Mộng vút lên trời theo áng mây

*
Người xưa còn nhớ gọi tên nhau
Trăm năm chưa đến đã bạc đầu
Lữ khách dừng chân hoài dĩ vãng
Đường về che khuất lối nương dâu

*

Nghìn năm mây trắng vẫn còn bay
Người đi xa lạc dấu chim bầy
Hương lòng xin gửi về quê cũ
Dòng lệ vơi đầy chén rượu cay


Phong Châu
Tháng 8 – 25




VĂN – ĐỖ DUNG: HƯƠNG NGỌC LAN

Hương Ngọc Lan

Đỗ Dung

 – Ạ bà, thưa bà con mới đến!

Tôi còn đang nằm nướng trên giường, con bé nhảy tót lên ôm bà, dụi đầu vào ngực bà nũng nịu:

-Michelle muốn ngủ bà, Michelle muốn ôm bà…

Tôi ôm con bé hít một hơi thật dài:

-Cục cưng của bà thơm … thơm … thơm … !

Hai bà cháu ghiền nhau một lúc thì con bé nhổm lên, giương đôi mắt tròn xoe

-Bà ơi, nại nại!

Tôi vươn vai ngồi dậy nói vọng ra:

-Ông! Nại nại.

Chỉ đợi có thế ông đã xuất hiện ngay ở cửa phòng với bình sữa trên tay. Chúng tôi có ba người con, năm đứa cháu. Ba thằng cháu ngoại, Kobe lên chín, Carter lên bảy, Logi hai mươi tháng. Hai cháu nội, Michelle gần ba và Kenneth hơn một tuổi. Cô con dâu của chúng tôi người Việt gốc Hoa, buổi tối con bé ở nhà với bà ngoại, bà ngoại gọi con chị là Chể Chế còn thằng em là A Chảy. Chúng tôi ở nhà cô con gái, ban ngày con bé sang nhà bác chơi với các anh để ông bà trông nom một thể. Hai thằng lớn đã đi học nên nói chuyện với nhau bằng tiếng Mỹ, còn ông bà nói giọng đặc sệt Bắc kỳ. Con bé đang ở tuổi học nói, không biết trong cái đầu bé tí hon của nó có bị lộn xộn ba thứ tiếng không. Con bé sang dậy mấy thằng anh « phán xẻ », « phan cao », « xực phàn »… muốn uống sữa thì đòi « nại nại ».

Có những lúc thật buồn cười, khi ngồi vào bàn ăn, nó bảo Logi « xực phàn à », chỉ vào bát cơm nói bà « ăn cơm », quay qua hai thằng anh hô « eat! ». Buổi chiều khi mẹ nó đến đón, gọi con: « Chể chế phán xẻ! », nó quay lại khoanh tay: «Thưa ông bà con đi về».

Kenneth, thằng đích tôn ra đời sau cùng trong bầy cháu, ông bà đã «overload» nên phải nhờ bà ngoại cháu sang trông nom. Thằng bé kháu khỉnh, bụ bẫm, hiền lành… không lém lỉnh, ranh mãnh như con chị. Con chị làm thủ lãnh còn thằng em chỉ lúp xúp theo sau. Khi thằng bé sắp ra đời, bố mẹ nó cuống quýt tìm tên. Các cháu dù được gọi tên Mỹ nhưng trong khai sinh vẫn giữ nguyên tên Việt. Bố mẹ cháu tên Khôi và Linh, muốn bộ tên L.U.C.K., Michelle đã có tên Minh Uyên, ông con xin ông bố chọn tên vần C, ông bố tủm tỉm trêu: Vần C thì có Cục … ! Cuối cùng cháu cũng được ông nội đặt tên là Khiêm Cung và cả nhà đồng ý nếu các cháu có theo gương chị thêm đứa thứ ba thì đứa bé sẽ có tên Thiên Ý nếu là trai và Minh Yến nếu là gái để hoàn thành bộ L.U.C.K.Y.

Nói về con đầu cháu sớm phải kể chuyện Kobe – Minh Kha. Tôi vào phòng sanh với mẹ nó và tôi là người đầu tiên ôm thằng bé vào lòng, cảm nhận sự thiêng liêng, màu nhiệm và kỳ diệu của Hóa Công. Thằng bé to con, nặng hơn chín pounds. Mẹ nó nhỏ nhắn nên khi sanh xong bị hơi đuối sức, anh chồng phải ở cạnh săn sóc vợ. Tôi bám theo thằng bé để khỏi lo bị tráo con. Nhìn thằng bé lòng tôi lâng lâng, nao nao khó tả, như có một sợi dây vô hình ràng buộc hai bà cháu. Tôi yêu thằng bé vô cùng, xa thì nhớ quắt, nhớ quay… Khi cháu mới bập bẹ, vỗ tay vào miệng oa oa qua điện thoại với bà, tôi thu lại và giữ mãi mẩu băng đó, nghe hoài mà không biết chán.

Carter – Bảo Đăng kém thằng anh hai tuổi, gầy, cao, bảnh trai, láu lỉnh, thông minh và là « pet » của ông. Hai ông cháu rất tương đắc, ông nói gì cháu hiểu liền, cháu lại biết chiều ý bà, biết nịnh nọt ông. Ngặt một điều cháu rất biếng ăn, nếu không thúc thì bữa ăn kéo dài, dây dưa cả tiếng. Ra đường cháu nhanh nhẹn, luôn miệng hỏi và giải thích hết chuyện này tới chuyện kia, luôn bày đặt tài khôn với thằng anh to xác nhưng bộc tuệch như con gà tồ. Tiếng Việt cháu rất giỏi khi còn ở nhà với ông bà, nay học đến lớp hai thì cũng gửi gió cho mây ngàn bay gần hết.

Út ít Logi – Minh Khang hóm hỉnh, cười khẽ cũng rõ hai cái lúm đồng tiền. Bố mẹ cháu đã có hai thằng con trai, cố sanh thêm để kiếm một mụn con gái nhưng lại vẫn ra cái thằng cu! Mới bập bẹ nói mà ông hay bà hỏi : «Con có yêu ông bà không?» thì cu cậu toét miệng ra: “ Dạ tó!”. Hai thằng anh thì cao, thằng em nhỏ bé nên ông gọi là con vịt đẹt. Ông bà ráng vỗ, mua Pediasure, ngày nào cũng xay xay, giã giã … làm đồ ăn cho cháu, giả làm hề, làm tàu bay, tàu bò… để dụ nó ăn mà nó cũng chẳng lớn nhanh cho. Kenneth thì ăn như hùm, như hổ, chả phải dỗ dành và cứ lớn nhanh như thổi. Cô con gái trêu mẹ, phân bì: « Bà ngoại mình ơi, sao bà ngoại Kenneth nuôi nó bự quá, bà ngoại mình nuôi thằng Còm, bà ngoại mình dỏm rồi, bà ngoại mình ơi!»

Hè vừa qua bà ngoại Michelle về Việt Nam hơn một tháng, hai vợ chồng tôi quay cuồng với đám cháu từ sáng sớm đến tối khuya. Cả buổi sáng chỉ lo thay tã lót cho ba đứa nhỏ rồi lo ăn uống cho cả bầy, ăn xong ông cho hai thằng lớn ra sân dợt banh, bà bầy trò chơi cho ba đứa nhỏ. Đồ chơi đầy một nhà mà đôi lúc oái oăm thay cả ba cùng thích một thứ, eo sèo tị nạnh. Tôi nhớ hoạt cảnh gia đình tôi ngày xưa và nhớ bà nội tôi luôn luôn nói «xem tí, xem tí, chị phải nhường em» để bắt đứa lớn chịu thua. Ngày ấy tôi là lớn nên luôn phải chịu phần lép. Nay lịch sử tái diễn, tôi ở vị trí của bà và Michelle lại như tôi.

Nhãng đi một chút là ba đứa kéo nhau vào bếp, ôi thôi nồi niêu, xoong chảo đem ra khua inh ỏi, chúng rủ nhau mở ngăn kéo lôi hành tỏi vứt đầy ra sàn nhà, ông vào hét lên như còi tàu hỏa. Bà quýnh quáng thu góp, lôi ba đứa cho vào « family room » mở phim nhảy múa con nít. Thế là như một ban nhạc trẻ tài danh, ba đứa cùng múa may, nhảy nhót. Logi là vua phá, tất cả những gì có nút bấm là nó bấm loạn xạ, những “remode control” vào tay nó là kể như tiêu tùng.

Nhà tôi không bao giờ biết thay một cái tã hay pha một bình sữa cho con, bây giờ làm ông lại hóa giỏi. Chẳng qua tại ông thương vợ, không nỡ để tôi một mình vất vả nên phụ đỡ một tay, ông tiếp thu phần pha sữa cho mấy đứa bé, từ từ cho cháu ăn, cho cháu bú, khéo hồi nào chẳng biết. Mẹ chồng tôi nếu còn sống chắc Cụ không thể tưởng tượng ra cảnh này!

Đến bữa ăn trưa hay chiều mới rắc rối, năm đứa năm kiểu, thằng lớn nhất mới chín tuổi đã cao gần bằng bà, số cân cũng chẳng kém, bố mẹ nó nhắc ông bà bắt nó « diet ». Khổ nỗi thằng bé cứ thấy đồ ăn là thèm. Thằng thứ nhì hơi gầy, lại biếng ăn ông phải hò, phải hét. Hai thằng bé con cũng vậy, chưa đút cho thằng còm xong thì thằng ù đã há mồm sẵn đợi. Có Michelle là ngoan, cho phần ăn ngồi xúc lấy, chỉ đôi khi gặp món không thích là nhất định chẳng chịu ăn.

Ngày cuối tuần mới là ngày của bà … Có những buổi chiều êm ả, tôi ngả mình trên chiếc ghế xích đu trong bóng rợp ở vườn sau. Màu nắng của buổi chớm thu hanh vàng và bầu trời thì xanh trong với vài cụm mây trắng trôi lờ lững. Mùi Ngọc Lan thoang thoảng theo gió mơn man khứu giác… đưa ký ức tôi bềnh bồng, bềnh bồng trôi về dĩ vãng. Tôi nhớ bà nội tôi, nhớ xót xa. Năm tôi bé như Michelle bây giờ mà đã có hai em, Minh Thuận và Vân Hạnh. Những món đồ chơi ngày ấy chỉ là những con búp bê nhựa hay mấy con thú nhồi bông. Các em muốn chơi bà bắt tôi nhường nhưng khi thấy cháu phụng phịu, hậm hực bà lại ra cửa mua cho cái bánh giò nóng ngồi xúc cho ăn.

Năm tôi lên ba, học vỡ lòng ở trường Hồng Bàng, sau chợ Hàng Da. Bà đưa cháu đi học, tôi đòi bà phải ngồi ở cửa lớp chờ. Bà dỗ từ từ, bà nói ra ngoài hàng quà ở cổng trường ngồi đợi rồi bà lén về để đến giờ mới đi đón. Một hôm bà bận việc gì đó, sai cô Nga, em út của bố tôi đón cháu. Tôi im lặng không nói gì, về nhà gặp bà thì òa lên khóc bắt đền, khóc đến nỗi bà phải bắt cô đưa đến cổng trường để rồi bà lại đi đón. Không hiểu sao cả bà và mẹ tôi hồi ấy lại chiều tôi một cách vô lý như thế. Bà và mẹ tôi kể mãi chuyện này và nói là tôi đáo để.

Mẹ tôi cứ đều đều sản xuất, cách năm lại cho ra đời một đứa bé, mẹ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ. Cứ hễ có em là đứa bé vừa mới thôi sữa được chuyển sang bà. Khi em Tuấn ra đời, hai đứa bé được chui vào màn rúc nách bà là Thuận với Hạnh, tôi phải nằm ngang phía dưới chân. Lâu lâu bà lại với chân xuống nhè nhẹ lấy chân xoa lưng cháu. Những đêm hè bà phe phẩy chiếc quạt nan, thỉnh thoảng lại quạt xuống phía dưới an ủi cô cháu gái. Tối tối bà bắt anh em chúng tôi rửa mặt mũi chân tay, thay quần áo sạch sẽ, sắp hàng ngồi sau lưng bà nghe bà tụng kinh. Sau khóa lễ được chui vào màn nghe bà kể chuyện đời xưa, chuyện Tấm Cám, chuyện Thạch Sanh Lý Thông, chuyện Bà Chúa Ba, chuyện Quan Âm Thị Kính… Khi tôi lên mười, đã có năm em, đã là chị lớn, bà bắt đầu dạy đi chợ nấu ăn, dạy sao để chọn con gà cho ngon, con vịt cho béo, rau quả cho tươi.

Ở nhà bà mặc quần sa tanh đen, áo cánh lụa trắng, đầu vấn khăn nhung. Đi đâu bà khoác chiếc áo dài nâu thêu những bông cúc vàng nho nhỏ. Đặc biệt bà rất thích hoa Ngọc Lan, bà chẳng bao giờ phấn son, mỗi khi đi chùa hay đi ra khỏi nhà bà chỉ dắt bông hoa Ngọc Lan tươi trên vành khăn để làm dáng. Năm 1965, cha tôi đổi làm việc trên Thủ Đức, được cấp một căn nhà xinh, trước nhà có một cây Ngọc Lan lớn, chi chít hoa. Bà mừng lắm, ngày nào tắm xong bà cũng ngồi xõa tóc cho các cháu nhổ tóc sâu rồi khi vấn lại khăn không quên dắt một bông Ngọc Lan. Ở lan can trước nhà chúng tôi có một dàn Dạ Lý Hương, buổi tối hương thơm ngào ngạt nhưng bà không thích bằng hoa Ngọc Lan và chê mùi hương hắc quá. Chúng tôi biết ý nhờ chú làm vườn trèo lên cây cắt từng cành hoa cho bà lễ Phật. Nghĩ đến bà là tôi nhớ đến những chùm hoa trắng muốt cũng như khi nhìn thấy hay ngửi hương Ngọc Lan thoang thoảng tôi lại nhớ đến bà. Và… năm ấy bà tôi mất … bà mất vào tháng tám, tiết thu, những bông Ngọc Lan trắng muốt vẫn còn chúm chím ở trên cây.

Bây giờ tôi đang o bế một cây Ngọc Lan, cây ở đây trồng hơi khó. Mùa đông tôi phải quây buồng và mặc áo cho cây để tránh sương lạnh, giá buốt. Mỗi đợt cây cho được hơn chục nụ hoa, đủ hương thoang thoảng cho tôi tìm về quá khứ… Một ngày xa xôi nào đó trong tương lai, hoa nở đầy cành và hương thơm dịu ngọt tỏa xa, bầy cháu yêu quý của tôi có nhớ đến bà của chúng như tôi đang nhớ xót xa về bà của tôi không!

Đỗ Dung

Fragrance of the Magnolia
Đỗ Dung

  • Hey Grandma, Grandma, Michelle is here!
    I was still lying in bed when the little girl jumped up and hugged me, nestling her head into my chest and whining:
    “Michelle wants to sleep with Grandma, Michelle wants to cuddle with Grandma…”
    I hugged her tightly and took a deep breath:
    “My precious girl smells so… sweet… sweet… sweet!”
    We cuddled for a while, and then she sat up, eyes wide:
    “Grandma, milk, milk!”
    I stretched and called out:
    “Grandpa! Milk!”
    And just like that, Grandpa appeared at the door with a bottle in hand.

We have three children and five grandchildren: three grandsons—Kobe, nine; Carter, seven; Logi, twenty months—and two grandkids from our son: Michelle, nearly three, and Kenneth, just over one. Our daughter-in-law is of Chinese-Vietnamese descent. In the evenings, Michelle stays with her maternal grandmother. That grandma calls the girl “Chể Chế” and her little brother “A Chảy.” We live with our daughter, and during the day, Michelle goes to her uncle’s house to play with the boys, so my husband and I take care of all the kids together.

The two older boys speak English since they go to school, but we speak with a thick Northern Vietnamese accent. Michelle is at the age where she’s learning to talk—who knows if her little head is getting all jumbled with three languages! She teaches her cousins phrases like phán xẻ (go home), phan cao (go to bed), xực phàn (eat rice)… and asks for milk with “nại nại.”

Sometimes it’s hilarious: when sitting down to eat, she tells Logi “xực phàn à,” points at her rice bowl and says “ăn cơm,” then turns to her brothers and shouts “eat!” In the evening, when her mom comes to pick her up and calls “Chể Chế phán xẻ!” she turns around, folds her hands and says, “Thưa ông bà con đi về” (Goodbye Grandpa and Grandma, I’m going home).

Kenneth, the youngest and the only grandson from our son, came along last, when we were already overloaded, so we had to ask his maternal grandma to help. He’s chubby, sweet, and calm—not mischievous like his sister. She’s the bossy one, and he’s always tagging behind.

When he was about to be born, his parents frantically searched for a name. Though they use English names, their Vietnamese names are still on the birth certificates. His parents—Khôi and Linh—wanted their kids’ names to spell out L.U.C.K. Michelle’s Vietnamese name is Minh Uyên. So, Grandpa suggested a “C” name. Jokingly, the father said: “C? Like Cục (chunk)?” In the end, Grandpa named him Khiêm Cung, and the whole family agreed: if there’s a third child, the names would be Thiên Ý for a boy and Minh Yến for a girl—completing the word L.U.C.K.Y.

Speaking of our first grandchild, I must talk about Kobe – Minh Kha. I was in the delivery room with his mom, and I was the first to hold him. It was a sacred, magical moment. He was a big baby—over nine pounds. His mom is petite and exhausted after labor, so her husband had to care for her. I stayed with the baby, afraid he’d get switched at the hospital. Looking at him, I felt a deep emotional bond—an invisible thread connecting us. I loved him immensely, missed him constantly.

When he was just babbling and clapping while talking to me on the phone, I recorded that moment and kept the tape forever—I could listen to it endlessly without tiring.

Carter – Bảo Đăng is two years younger than his brother. He’s tall, slender, good-looking, clever, and Grandpa’s pet. They’re a perfect pair. He understands everything Grandpa says, flatters him, and is sweet to Grandma too. But he’s a very picky eater. Meals can drag on forever unless he’s constantly reminded. Outside, he’s quick-witted, always asking questions, trying to outsmart his older brother who’s big but slow like a goofy chicken.

He used to be fluent in Vietnamese when living with us, but now that he’s in second grade, he’s forgotten most of it—“sent it off with the wind.”

Little Logi – Minh Khang, our youngest grandson, is charming with dimples that show even with a tiny smile. His parents had hoped for a girl after two boys but ended up with another boy. Though he’s just started talking, if you ask “Do you love Grandma and Grandpa?” he’ll beam and shout: “Dạ tó!” (Yes!).

The older two are tall, and he’s the small one, so Grandpa calls him our little duck. We try everything—Pediasure, grinding, blending, coaxing, clowning, flying spoons—to feed him, but he’s still growing slowly. Kenneth, on the other hand, eats like a lion and grows like a weed.

Our daughter teased me, “Grandma! Why is Kenneth’s grandma raising him so big, but our grandma’s raising a skinny boy? Our grandma’s no good!”

This past summer, Michelle’s grandma went back to Vietnam for over a month. My husband and I were run ragged from morning to night with the grandkids. Mornings were filled with diaper changes for the three little ones and meal prep for the whole gang. After eating, Grandpa played soccer with the older boys while Grandma made up games for the younger ones.

The house was full of toys, yet somehow all three would want the same thing and fight over it. I remembered my childhood home and my grandmother constantly saying: “Let your sibling have it” and making the older one give in. I was always the older one—always had to sacrifice. Now history repeats itself—I’m the grandma, and Michelle is the oldest just like I was.

Look away for a second, and all three kids are in the kitchen, banging pots and pans, raiding drawers, throwing onions and garlic on the floor. Grandpa comes in yelling like a train whistle. Grandma scrambles to clean up and herd them into the family room, putting on a dancing cartoon.

Then it’s like a kiddie pop concert—the three of them jumping and spinning together. Logi is the king of chaos—any button he sees, he presses like mad. Any remote he touches—gone!

My husband, who never changed a diaper or made a bottle when our kids were little, is now a pro grandpa. Out of love for me, he pitches in—makes bottles, feeds babies, burps them… he’s become surprisingly good at it. If my mother-in-law were still alive, she’d never believe it!

Lunchtime and dinner are the real battle: five kids, five appetites. The oldest is already almost as tall as me and weighs nearly the same. His parents want him on a diet—but he’s always hungry. The second is skinny and a picky eater, so Grandpa must beg and yell. The two little ones are a tag team—you can’t even finish feeding the skinny one before the chubby one is already mouth open, ready. Michelle is the only easy one—feeds herself unless it’s something she dislikes, then she flat out refuses.

Weekends are Grandma’s moments…
On peaceful afternoons, I recline on the swing chair under the shady garden trees. Autumn sunshine is golden and soft, the sky a clear blue with wisps of clouds drifting by. The gentle scent of magnolia lingers on the breeze, brushing my senses and carrying me back into the past…

I remember my own grandmother, and I miss her deeply. When I was Michelle’s age, I already had two younger siblings—Minh Thuận and Vân Hạnh. Our toys were simple: plastic dolls, stuffed animals. When my siblings wanted to play, Grandma made me give them my toys. But when I pouted, she’d go out and buy me a hot sticky rice cake to make it up to me.

When I was three, I started kindergarten at Hồng Bàng school, behind Hàng Da market. Grandma took me to class, and I made her wait at the door. She promised she’d sit at the snack stall outside the gate but would sneak home and return in time for pick-up.

One day she sent my aunt Nga to get me, and though I said nothing at first, I burst into tears when I got home, demanding Grandma come herself. I cried so hard she had to bring my aunt back to the school gate and pick me up again. I don’t know why my mom and grandma spoiled me so much, but they always recalled this story and said I was sharp-witted.

My mom had a baby every two years, breastfeeding each one. Every time she had a newborn, the recently weaned child was sent to sleep with Grandma. When Tuấn was born, Thuận and Hạnh slept tucked beside Grandma, and I had to sleep sideways at her feet. Every now and then, she’d gently stroke my back with her foot. On summer nights, she’d fan us and comfort me with a breeze from time to time.

Each evening, she made us wash up, change into clean clothes, and sit in line behind her while she chanted scriptures. Afterward, we’d crawl into the mosquito net and listen to fairy tales—Tấm CámThạch SanhThe Lady of the TemplesQuan Âm Thị Kính

When I turned ten, with five younger siblings, I became the big sister. Grandma started teaching me how to shop and cook—how to pick the best chicken, the fattest duck, the freshest vegetables.

At home, Grandma wore black satin pants and a white silk blouse, with a velvet scarf on her head. When going out, she wore a brown áo dài embroidered with tiny yellow daisies. She loved magnolias and never wore makeup—just tucked a fresh magnolia flower into her scarf when going to the temple or leaving the house.

In 1965, my father was transferred to Thủ Đức, and we were given a lovely house with a big magnolia tree out front, full of blossoms. Grandma was thrilled. After bathing, she’d sit and let us pick her gray hairs, and always tucked a magnolia flower into her scarf when tying it back.

We had a trellis of night-blooming jasmine on the balcony, fragrant at night, but she didn’t like it—said it was too sharp. She loved the soft scent of magnolia. We would ask the gardener to climb up and cut branches for her to offer at the altar.

Thinking of Grandma, I always picture white magnolia blooms. And every time I see or smell a magnolia, I miss her. That year, she passed away… in August, in the autumn, while magnolias still bloomed quietly on the tree.

Now, I’m tending to a magnolia tree of my own. It’s hard to grow here. In winter, I have to wrap it in a shelter to protect it from frost. Each time it blooms, with just a dozen flowers, the fragrance gently drifts and takes me back in time…

And I wonder: One distant day in the future, when the tree is full of blossoms and its sweet scent spreads far and wide—will my dear grandchildren remember their Grandma the way I so tenderly remember mine?

—Đỗ Dung




SƯU TẦM – CHUYỆN NGẮN CẢM ĐỘNG: Giấc Mơ Trên Bãi Ngàn Sao – Tác Giả Vương Hà

Giấc Mơ Trên Bãi Ngàn Sao
Vương Hà

Posted by GLN
Cả bản Phiêng Đao ồn ào, kháo nhau bởi chuyện ông Hom quyết định nhận nuôi bé Nhủm: Con bé thật tội nghiệp, bố mẹ chết vì đi đãi vàng bị sập hầm, họ hàng lại chẳng còn ai. Thân hình Nhủm gầy còm nhom, người ngợm lem luốc, duy chỉ có đôi mắt là đẹp như mắt thiên thần, con ngươi tựa viên ngọc trong veo,

Phong cảnh Phiêng Đao vô cùng quyến rũ, đẹp như một ngôi sao sa xuống mặt đất và mãi mãi không muốn trở về bầu trời. Vì thế, những người đầu tiên đến đây lập bản đã đặt tên bản là Phiêng Đao với ý nghĩa là bãi sao. Bãi ngàn sao.

Nhưng dân bản Phiêng Đao nghèo lắm, họ vẫn thường nửa đùa, nửa thật nói với nhau: “Bản ta nghèo đến mức con Bọ hung không chịu được, chỉ muốn chuyển tổ đi nơi khác”. Vậy mà nhà ông Hom lại còn nằm trong số những người nghèo nhất bản Phiêng Đao, cho nên mọi người mới bàn tán, ái ngại cho chuyện ông đón bé Nhủm về nuôi.

Tuổi ông Hom đã ngoài sáu mươi, da nâu, tóc bạc, khuôn mặt gầy cùng với rất nhiều nếp nhăn. Vợ ông đã mất từ lâu, có đứa con trai duy nhất thì lại mắc căn bệnh hiểm nghèo rồi cũng vĩnh viễn bỏ ông mà đi. Giờ đây ông sống cùng Hạnh cô con dâu và đứa cháu nội: Thằng Đức.

Ông Hom hiểu vì sao mọi người lại ồn ào, bàn tán. Dân bản thương ông, lo cho ông: Ông biết. Ông cũng do dự, nhưng khi nhìn Nhủm ngồi thu lu, run rẩy như con thú non lạc mẹ, lòng ông đau như ngày mất vợ, mất con.

Ông bàn với Hạnh chuyện nhận nuôi Nhủm,  cô con dâu của ông không đồng ý.

– Nhà mình còn bữa no, bữa đói thì làm sao có thể nuôi thêm được nó hả bố? – Hạnh gàn.

Nghe nói vậy, Nhủm cúi đầu, đôi mắt buồn như một lỗ hổng không có đáy. Nhủm không khóc, nhưng dáng vẻ nom thất vọng đến tột cùng. Thà Nhủm cứ khóc thì người chứng kiến sẽ thấy dễ chịu hơn.

Ông Hom thở dài, trên khuôn mặt gầy lại có thêm những nếp nhăn. Ông suy nghĩ mung lung lắm.

– Cháu cứ ở lại đây với ông. Từ nay ông sẽ đặt lại tên cháu là Đao, là một ngôi sao để sau này cháu gặp được những điều may mắn. – Ông nói với Nhủm như thế và kiên quyết không thay đổi ý định.

Gia đình ông Hom sống chủ yếu nhờ nghề đan lồng gà đem bán hoặc đổi chác. Bãi vườn nhà ông trồng đủ các loại tre: Tre đắng; tre ngọt; tre bương; tre “mợi”; tre gai… Dưới bàn tay chăm sóc của ông Hom, tre mọc san sát nhưng đều thành hàng, thành lối. Những bụi tre lên cao thẳng, không bao giờ chịu gục đổ trư­ớc gió bão chính là tất cả tài sản quý giá nhất mà gia đình ông Hom có. Măng trên rừng thường mọc theo mùa, nhưng vườn tre nhà ông thì măng mọc quanh năm. Ngon nhất là măng tre ngọt, chiếc nào cũng bụ mập to như­ bắp vế, ăn sống ngọt tựa khoai lang trồng trên đất cát pha.

Nhà ông Hom, bữa cơm nào hầu như cũng có măng. Ông thư­ờng nói: “Nhà mình sẽ không bao giờ lo bị chết đói vì có măng”. Nhưng măng thì không thể cứ ăn mãi một món. Vậy là ông làm rất nhiều kiểu món để ăn cho đỡ chán: Măng chua; măng gio; măng khô; măng ngâm ớt;… măng nướng; măng xào; măng ỏm; măng nấu canh chảo; măng kho cá suối… Ông Hom hết sức tự hào: Nếu mỗi bữa chỉ ăn một món thì mất cả tháng cũng không thể nếm hết những món măng của ông. Có lẽ vì thế mà quần áo ông quanh năm bốc lên mùi măng chua hăng hăng, trái hẳn với cái tên Cha, Mẹ đã đặt cho ông: Hom có nghĩa là hương thơm.

Đao quấn quít bên ông Hom như hình bóng, bé theo ông ra ngoài bãi vườn chọn tre bư­ơng về đan lồng gà.  Những thân tre mềm mại uốn theo làn gió hiu hiu.  Lớp lá tre khô phủ dầy trên mặt đất thực sự là một tấm thảm êm. Khi chọn tre, bao giờ ông Hom cũng trở đằng sống dao gõ lên thân cây tre bương rồi dỏng tai nghe. Thân cây nào nghe gọn gàng tiếng cốc cốc là có thể hạ được, còn nếu nghe bộp bộp là tre chưa đủ độ, mang về đan lồng gà sẽ nhanh mọt hỏng.

– Đao, cháu xem, cây như thế này là chặt được! – Ông Hom chỉ tay vào cây bương trước mặt.

Bé Đao nhìn ngước lên ngọn bương, đôi mắt thiên thần thấy ở đó có một tổ chim. Ngoài tiếng gió xua cành tre đập vào nhau, bé còn nghe thấy cả tiếng chim non kêu rất khẽ. Chắc là lũ chim non đang đói và mong đợi bố, mẹ. Chim cũng như người, trẻ con khi khát sữa bao giờ cũng khóc.

– Ông ơi! Đừng hạ cây này, trên cây đang có tổ chim. Để cho chim non thành chim lớn đã hãy hạ ông ạ! – Bé khẩn khoản.

Ông Hom nheo mắt, nhìn vút lên tổ chim rồi nở nụ cười đôn hậu. Dân Phiêng Đao vẫn có tục lệ: Khi vào rừng đi săn, không bao giờ được bắn, giết thú đang có mang hoặc đang nuôi con. Vì vậy, lẽ nào ông lại có thể hạ cây, phá tổ chim non. Ông bước từng bước khoan thai chuyển sang bụi tre khác, tiếp tục trở sống dao gõ thử lên từng thân tre. Đao vui lắm vì tổ chim đã được an toàn. Bé nhìn lại tổ chim lần nữa rồi đi theo sau ông. Gió thổi lá tre reo như khúc hát ru khiến Đao lúc nãy chân còn nhảy tưng tưng, nay mắt bỗng buồn díp lại, muốn ngả mình lên thảm lá tre khô ngủ một giấc thật êm đềm.

Đao là đứa trẻ chẳng lúc nào chịu ngồi yên: Bao giờ bé cũng nghĩ rằng mình cần phải giúp ông, giúp cô Hạnh làm một việc gì đó. Thế là trong nhà có mấy chiếc nồi đen sì, cáu bẩn muội bám, bé mang ra cạo sạch bong. Mình còn có thể giúp ông làm gì nữa nhỉ? À! Vẫn còn những mảnh giẻ ông thường dùng quấn các ngón tay khi chuốt nan đan lồng gà. Đao nghĩ: Cần phải đem chúng đi giặt thật sạch, nếu không lỡ bị đứt khi chuốt nan, tay ông lại nhiễm trùng thì khổ. Đao mang giẻ ra suối ra sức vò thật kỹ, lòng bàn tay của bé đỏ ửng vì bị cọ xát, những ngón tay con con thì trắng hồng lên. Sau đó bé thử xem giẻ có thật sạch không bằng cách hái lá khoai môn đặt lên hõm đá, rồi vắt nước vào đó để xem đã trong bằng nước suối hay chưa? Đao vô cùng hài lòng: Sạch quá rồi đấy! Thế giới trong tâm hồn Đao thật hết sức đơn giản: Bé yêu quý mọi người trong gia đình và luôn muốn được làm việc để giúp mọi người.

Đưa Đao về ở cùng được một thời gian, ông Hom nghĩ đến việc cho Đao đi học. So với độ tuổi bắt đầu vào lớp 1 thì Đao đã muộn mất 2 năm. Hạnh làm căng, bảo là lấy tiền đâu cho con bé đi học. Không thể để cho con trẻ phải thất học vì cuộc sống khốn khổ, rồi sẽ lại phải sống khốn khổ vì thất học, ông Hom quyết tâm đến nhà trường xin cho bé Đao được đi học.

Đến lớp thì phải có túi đựng sách. Ông Hom ngắm nghía chiếc quần dài của mình, ông chắt lưỡi: Ống quần mặc dẫu có ngắn đi một chút cũng chẳng sao. Vậy là ông cắt bớt hai cái ống quần dài, chập lại để khâu thành túi đựng sách cho Đao. Đàn ông khâu vá bao giờ cũng vụng về, không khéo như đàn bà. Mắt ông Hom kém, lại không có kính, kim đâm phải tay ông chảy cả máu. Ông không dám nhờ Hạnh. Bây giờ con dâu đang giận, nhờ nó làm khác nào chất thêm củi, thổi thêm gió vào đám cháy. Sẵn còn có ít chỉ màu, ông nghĩ cần phải thêu thêm hình mây và núi làm đẹp cho chiếc túi. Đao chăm chú nhìn ông kiên nhẫn vắt từng mũi chỉ. Đường thêu rất vụng, nhưng chiếc túi nom cũng có vẻ đẹp hơn. Ông không tự tin lắm, ngượng ngập nói với Đao là ông thêu núi, thêu mây. Còn Đao sau khi ngắm nghía lại quả quyết rằng những hình đó chính là măng và nấm.

Buổi đầu tiên Đao đến lớp, ông Hom hồi hộp chẳng khác gì ông mới là người đi học. Ông ngồi đan lồng gà, nhưng chốc chốc lại dừng tay, ngóng ra cổng. Đao tan học vừa về đến nhà, ông đã sốt ruột lấy ngay vở của bé giở ra xem. Nhìn chữ Đao viết, dù không biết đọc nhưng ông Hom vẫn cười nghiêng ngả, bởi chữ nét như  tóc rối, nét như giun oằn, nét lại xiên dọc, xiên ngang giống những cành tre gai tấp ngoài bờ rào. Nói tóm lại, đám chữ cứ búi vào nhau không gỡ ra được. Cười xong, sợ Đao xấu hổ, ông động viên: ” Làm cái gì lúc mới bắt đầu mà chẳng khó. Cháu cố gắng thì thể nào cũng sẽ học được hết các con chữ”.

Đao học rất chăm. Nhờ được đi học mà Đao nhận thấy mọi thứ xung quanh mình thật tuyệt vời: Đường đến lớp có rất nhiều hoa dại và bướm, mặt đất thì hiền hoà và xanh rợn cỏ non. Đao học giỏi nhất lớp, ông Hom vui không biết để đâu cho hết. Ông sung sướng trào nước mắt khi nhìn Đao trực tiếp nắn nót viết hai chữ: Ông Hom. Nước mắt vui của người già cũng trong như nước mắt của con trẻ và nhẹ như bông.

Nhưng cô Hạnh thì không vui. Cô cho rằng: Nuôi Đao ăn thôi cũng đã là quá sức lắm rồi, nay còn bày vẽ chuyện đi học. Trong Hạnh như có nuôi một tổ ong đất. Đừng bao giờ đùa với ong đất, những con trâu to khoẻ nhất cũng có thể chết khi đã sa phải vào tổ ong.

Sự căng thẳng trong nhà ông Hom ngày càng trở nên tồi tệ, lũ ong đất xui Hạnh làm những điều không nên làm: Cô rắc cát vào gạo rồi nấu cơm. Cơm chín, cô dọn lên bình thường coi như không có việc gì xảy ra.

Nhai miếng cơm, ông Hom nhăn mặt:

– Sao cơm hôm nay ăn lại có nhiều sạn cát thế này?

– Nhà tự nhiên nuôi thêm người, phải độn thêm cát mới đủ ăn! Không ăn được thì đem đổ đi! – Hạnh nói, đồng thời hai tay chống nạnh với tư thế sẵn sàng thả đàn ong đất.

Ông Hom tê tái, cố và thêm miếng nữa. Nhưng cơm độn cát, ăn sao nổi. Vậy là cả nhà cùng nhịn đói. Thương nhất thằng Đức, bị đói oan bởi cái tội của người lớn. Đôi mắt nó đặt những dấu hỏi: Tại sao???. Không còn biết phải làm gì, ông Hom ngồi lặng như người câm, mặc kệ nước mắt chảy. Nước mắt buồn của người già, đùng đục và nặng như đá.

Mọi chuyện còn tiếp tục tệ hơn nữa, bắt đầu từ việc Hạnh hỏi:

– Tiền bán lồng gà dạo này đi đâu? Sao ông không đưa cho con?

Ông Hom dè dặt:

– Tiền lồng gà bán được, bố đã cho bé Đao đem mua hết sách vở rồi con ạ!

Hạnh quắc mắt, đá mạnh vào chiếc lồng gà phơi trên sân. Không tin nổi,  chiếc lồng gà bay lên mắc vào bờ rào dựng bằng những cành tre gai.

– Đã bảo đừng cho nó đi học mà ông không chịu nghe. Người dưng như con khỉ trên rừng thì ông thương. Cháu nội ruột già máu mủ ông lại coi là cục đất. Gà không cần học cũng đẻ ra trứng. Nếu người nhờ đi học mà đẻ được ra trứng thì hãy cho đi – Hạnh vừa nói, tay vừa tự đấm thùm thụp vào lồng ngực.

– Con dâu à! – Tiếng ông Hom nhẹ nhàng – Con trách Bố không thương thằng Đức là không đúng. Bố chỉ nghĩ,  nhà mình nghèo nhưng vẫn cố gắng nuôi thêm cái Đao được con ạ! Nếu mình đuổi đi thì nó biết cậy nhờ vào ai?

– Ông đã nói như thế thì từ ngày mai con với thằng Đức sẽ khắc nấu ăn riêng! Còn ông muốn làm gì thì làm, con mặc kệ! – Giọng Hạnh nặng nề, tưởng như không thể bay thoát được lên khỏi mặt đất.

Ông Hom ngồi lặng thừ, thở dài. Ông vô thức vớ lấy cái điếu ục, nhồi một mồi thuốc lào thật to, châm lửa rít lấy, rít để. Thứ thuốc lào được trộn thêm râu ngô phơi khô, mùi khét át đi cả mùi thuốc lào. Miệng ống điếu rộng, ông phải nghiêng hẳn một bên má để bịt cho kín miệng ống. Khi rít, má ông tóp lại nom thật tội nghiệp. Nhưng thuốc lào cũng không giúp gì hơn được cho ông. Ông tủi thân. Ông buồn. Ông hy vọng: Chắc tại con dâu nóng giận nên mới nói thế thôi, chứ thực ra nó vẫn là đứa con dâu tốt. Từ khi chồng nó mất, đã có mấy đám đến hỏi, vậy mà nó từ chối ở vậy nuôi con, nuôi bố chồng. Tính khí con dâu nay trở thành như vậy, cũng là do cái đói, cái nghèo đưa đẩy, khiến người ta phải ích kỷ, tính toán chi ly – Nghĩ thế, ông thấy đỡ tủi thân đi một chút.

Bếp lửa nhỏ nhà ông Hom đã phải chia ra làm đôi. Ông Hom chỉ nhận lấy hai chiếc nồi: một chiếc còn khá tốt, một chiếc hết sức méo mó. Chiếc nồi còn khá tốt ông dùng nấu cơm, chiếc méo mó ông để đun thức ăn.

Bữa nay, ông Hom dùng chiếc nồi méo luộc hai quả trứng gà, một quả ông mang cho bé Đức: Dù có chia ra ăn riêng thì Đức vẫn là đứa trẻ, là cháu nội ông. Một quả ông bóc sẵn bỏ vào bát cho bé Đao. Còn phần ông là bát ớt tuơi giã muối và đĩa măng luộc. Màu măng luộc cũng trắng tinh như màu lòng trắng trứng. Nhưng ở bản Phiêng Đao, một quả trứng có thể đổi được mười đĩa măng luộc.

– Cháu ăn đi! – Ông Hom cầm bát cơm có quả trứng đặt vào tay Đao.

Đao ngần ngừ, không nỡ nào ăn quả trứng, bé muốn nhường lại cho ông.

– Cháu không ăn trứng đâu! – Đao cười, chỉ vào đĩa măng luộc – Cháu thích ăn măng này cơ ông ạ!

Ông Hom dùng đũa ấn quả trứng sâu vào trong lòng bát cơm.

– Không, cháu phải ăn! – Ông nói dịu dàng nhưng kiên quyết – Trẻ con ăn trứng gà mới mau lớn chứ!

Đôi mắt Đao nhìn quả trứng gà. Miệng lưỡi Đao có nước bọt tiết ra. Quả trứng này không phải là trứng vàng trứng bạc. Lòng đỏ và lòng trắng của nó cũng như mọi quả trứng khác. Nhưng mình không thể ăn! Ông đã vất vả nhiều, cái gì ngon cũng đều nhường cho mình. Mình không thể ăn! Mình phải làm thế nào bây giờ nhỉ? Trí óc non nớt của Đao chợt nghĩ ra một cách mà bé cho là tốt nhất. Đao đưa hai tay ôm lấy bụng, khuôn mặt giả vờ nhăn nhó, rên rỉ:

– Ối, ông ơi! Cháu đau bụng quá, không ăn cơm nữa đâu!

Đao chạy lên nằm trên giường, úp mặt xuống gối. Ông Hom lo lắng chạy theo. Thấy Đao nằm úp sấp, rên khe khẽ, thỉnh thoảng lại quằn quại sang hai bên, ông nghĩ bé đang đau lắm.

– Cháu cứ nằm im đây nhé! Để ông đi hái búp ổi non cho cháu nhai xem có đỡ đau không – Ông nói.

Đao vẫn nằm úp, sấp mặt xuống gối, chẳng dám ngẩng lên bởi xấu hổ vì đã trót nói dối. Bé thì thầm trong miệng không để ông Hom nghe: “Ông ơi! Cháu chỉ giả vờ để nhường ông quả trứng. Ông ăn quả trứng đi là cháu sẽ hết đau bụng ngay thôi!”. Ôi! Không phải tất cả mọi lời nói dối đều xấu xa. Đôi lúc vẫn có những lời nói dối xứng đáng được tha thứ.

Phải sống và lớn lên trong điều kiện khó khăn thì chuyện mắc bệnh cũng không có gì lạ. Bệnh suyễn lúc đầu còn chầm chậm rồi sau đó ngang nhiên chặn bàn tay lên ngực thằng Đức. Cứ cách vài ngày, thằng Đức lại lên cơn hen. Lúc đó, mặt Đức tái ngắt, thân thể mềm oặt như cụm rêu trong lòng suối. Đao thương lắm, nó rất muốn được xoa giúp cho em Đức bớt khó thở. Nhưng Đao không dám đến gần em vì sợ cô Hạnh, bé chỉ dám đứng nem nép ở sau khe cửa để ngó vào. Ngồi bên cạnh em Đức, cô Hạnh xù lên như con gà mái bảo vệ con trước lũ quạ. Nhưng cô Hạnh không phải là gà. Cô Hạnh là Người nên cô khóc, nước mắt ướt hết hai vạt áo đằng trước. Đứng ở sau khe cửa, nhìn thấy vậy Đao cũng trộm khóc theo. Nếu Mẹ còn sống, mình bị ốm chắc chắn Mẹ cũng sẽ thương mình như thế!

Không ai bảo, nhưng Đao luôn để ý xem có ai biết cách chữa bệnh của em Đức. Ngay cả trong giấc ngủ Đao cũng thường hay mơ thấy em Đức khoẻ mạnh, rồi hai chị em được cô Hạnh dắt tay cùng đi hái sim trên bãi ngàn sao. Đao tin mãnh liệt: Một ngày nào đó chắc chắn sẽ có người chữa khỏi được bệnh cho em Đức!

Một buổi, Đao được ông bảo đem măng đến biếu bà Pòm, bà sống độc thân không con cháu trong một căn lều dựng ven chân đồi. Căn lều của người sống cô độc không cần có cửa. Vừa mới bước vào trong Đao đã cảm thấy mùi nồng của bã trầu xộc lên hăng mũi. Mùi này có chút gì đó hơi giống mùi măng chua mà Đao chưa nghĩ ra.

Bà Pòm giữ Đao ở lại ngồi chơi.

– Cháu phải về ngay thôi bà ạ! Lúc này ở nhà em Đức đang lên cơn hen. – Đao lễ phép từ chối.

– Ôi dào! Tưởng gì, bệnh hen suyễn thì chỉ cần bắt lấy 1000 con “Đuổng khem”, đem nướng lên ăn là sẽ khỏi! – Bà Pòm vừa nhai trầu vừa nói, đồng thời nhổ toẹt xuống đất một bãi nước bã trầu đỏ quạch.

Chính Bà Pòm cũng không ngờ rằng mình đã vô tình mở toang cho Đao biết một điều bí mật. Đôi mắt thiên thần sáng rực. Đao mừng quýnh, nhảy cẫng lên. Hay quá! Hóa ra chỉ cần ăn 1000 con sâu chít là chữa khỏi bệnh hen suyễn. Chủ nhật này được nghỉ học cả ngày, mình sẽ đi bắt 1000 con sâu chít chữa bệnh cho em Đức.

Nghĩ là làm. Tinh mơ chủ nhật, Đao nhẹ nhàng rút then cửa, rồi rón rén ra khỏi nhà. Đao nhằm hướng núi đá tai mèo mà đi. Chỉ có chỗ núi đá tai mèo mới mọc nhiều cây chít.

Chít mọc thành từng bụi, Đao chặt, rồi lễ mễ ôm dồn thành đống, và sau đấy chẻ chúng tìm sâu. Thoạt đầu, Đao nghĩ mỗi cây chít sẽ đều có một con sâu. Nào ngờ, chẻ tước cả  đống may mới được 1, 2 con. Nhưng Đao không nản: Mình sẽ chặt thật nhiều để kiếm đủ 1000 con.

Trưa, nắng rọi đúng đỉnh đầu, Đao đổ lũ sâu chít kiếm được ra đếm: 100, 100,… lại 100 con nữa. Bao nhiêu 100 thì được 1000 nhỉ? Đao đã đi học nhưng mới chỉ biết đếm đến con số 100, chưa biết thế nào là 1000. Đao nhìn chỗ sâu chít: Ít như thế này chắc là vẫn chưa đủ. Đao nhìn kỹ xung quanh, những bụi chít dễ lấy thì Đao đã chặt hết, chỉ còn lại những bụi mọc cheo leo trên vách đá. Đao bặm môi trèo lên, đá tai mèo nhọn và sắc đâm vào chân trần buốt đến tận đỉnh óc. Đao nghiến răng cho khỏi bật tiếng kêu. Để chữa khỏi bệnh cho em Đức, dù đau hơn nữa mình vẫn chịu được.

Trong lúc Đao đang vật lộn, leo lên những vách đá tai mèo thì ông Hom lại lo lắng đi tìm cháu. Từ trước đến nay, chưa bao giờ con bé đi đâu mà không nói cho  ông biết. Ông đến từng nhà để hỏi. Sau khi hỏi hết nhưng không ai nhìn thấy Đao, ông Hom liền trèo lên ngọn đồi cao chắn trước bản. Đứng từ trên đỉnh đồi, ông khum lòng hai bàn tay vào nhau, vòng trước miệng rồi ra sức hú dài, mong nếu bị lạc thì Đao cũng sẽ nghe thấy, theo tiếng hú mà về. Mỗi lần ông cất tiếng hú, dưới lớp da nhăn nheo, gân cổ nổi lên chằng chịt như đám rễ cây. Ông chợt nghĩ: Hay là sáng nay con bé ra suối, sau đấy bị ngã trượt chân…

Ông rùng mình không dám nghĩ tiếp, rồi cuống cuồng đi mượn ngay chiếc thuyền độc mộc của hàng xóm vẫn dùng đánh cá. Mình trần, mặc mỗi chiếc quần đùi, ông tất tưởi chống thuyền xuôi theo dòng nước tìm Đao.

Chiều chạng vạng, Đao mới về đến nhà, bụng đói, mặt bê bết mồ hôi và tái xanh vì mệt, nhưng tay thì vẫn giữ chặt miệng túi đựng những con sâu chít. Vừa nhìn thấy Đao, không thèm để ý đến những điều đó, Hạnh vơ ngay lấy chiếc chổi đập chan chát vào vách tường, bức vách được trát bằng bùn rơm bong ra từng mảng.

– Khốn nạn! Mày đi chết dấm, chết dúi đâu cả ngày nay bây giờ mới thấy mặt? – Thái độ Hạnh hung dữ đến mức Đao nghĩ rằng trời sắp sập.

Đao co rúm người lại, khuôn mặt đã tái xanh lại càng tái thêm. Hạnh nhào tới, giằng lấy chiếc túi thái bé đang khoác trên người ném mạnh xuống chân. Từ trong túi rơi ra một gói sâu chít trắng ngà và béo nẫn, chúng tung toé lên mặt đất. Hạnh lấy mũi bàn chân di lên từng con cho hả cơn tức. Sâu chít nát bét, chảy ra một thứ nước trắng nhờ như sữa.

Đao quỳ xuống, mếu máo:

– Cô ơi! Cháu xin cô đừng đánh cháu! Cháu biết lỗi rồi. Chỉ tại cháu nghe thấy người ta bảo nếu ăn 1000 con sâu chít nướng thì sẽ chữa khỏi được bệnh hen suyễn, nên… nên cháu đi kiếm để mang về nướng cho em Đức ăn. Cháu… cháu sợ cô mắng nên không dám nói.

Chiếc chổi giật mình, cứng đờ, nó chỉ muốn được rời khỏi tay Hạnh, trốn vào một góc nhà nào đấy đứng yên tĩnh một mình để suy nghĩ.

Cũng vừa đúng lúc ấy ông Hom trở về, từ ngoài cửa ông đã nghe hết những lời Đao nói. Ông ôm chầm lấy bé và nghẹn ngào thốt lên hai tiếng “cháu tôi”. Mùi măng chua bốc lên từ quần áo của ông đem lại cho Đao cảm giác an lành. Chỉ có những đứa trẻ như Đao mới cảm nhận được rằng mùi măng chua cũng là một thứ hương thơm thân thiết. Ôi, hương thơm… mùi măng chua. Ông Hom bật khóc. Chiếc chổi thẳng đuỗn, vì không kịp lẩn tránh vào bất kỳ một xó xỉnh nào đó, nó đành phải lặng lẽ chứng kiến những giọt nước mắt buồn của người già: Đó là những giọt nước mắt đùng đục và nặng như đá.

Cả đêm hôm đấy, Hạnh nằm trằn trọc mãi không tài nào ngủ được. Chốc chốc cô lại trở mình, chiếc giường tre dưới lưng kêu rin rít như hơi thở khó nhọc. Chính vì không ngủ được mà Hạnh mới phát hiện ra rằng giường có rệp. Những đêm khác, làm việc quần quật suốt ngày mệt lử, nằm xuống là lập tức ngủ ngay nên rệp đốt cô cũng không biết. Hạnh ngồi dậy, thức soi đèn bắt rệp, được con nào cô đều đặt lên viên đá nghiền cho đến khi không còn nhìn thấy tí dấu vết nào nữa. Vừa bắt rệp, cô vừa tự trách mình cũng ác không khác gì con rệp. Gần sáng, mệt quá Hạnh ngồi bệt xuống đất, đầu gục vào thành giường rồi thiếp đi. Cũng vẫn trên chiếc giường đó, thằng Đức đang ngủ ngon lành say sưa, hơi thở đều đều, nhẹ nhàng. Đêm nay nó không lên cơn hen.

Hạnh thức dậy muộn hơn mọi khi. Cô mở toang cánh cửa để ngắm mặt trời mọc. Nắng bình minh tô hồng lên khuôn mặt mất ngủ của cô. Rồi đây thằng Đức sẽ có một người chị tốt và biết yêu thương nó – Hạnh nghĩ như thế. Cô rút mớ tiền lẻ nhàu nhĩ từ trong túi ra, rồi vuốt cho thật phẳng phiu. Hạnh quyết định: Chiều nay sẽ đi chợ mua món gì đó ngon ngon về nấu cơm cho cả nhà cùng ăn. Cũng khá lâu rồi, Mẹ con cô, ông Hom, bé Đao đã không ngồi ăn cơm cùng nhau.

Hạnh đến chỗ ông Hom đang ngồi giữa đám lồng gà ngổn ngang.

– Chiều nay ông đừng thổi cơm. Con sẽ đi chợ mua thức ăn về nấu cho cả nhà. – Cô nói mà mặt cúi gằm xuống đất,  mắt không dám nhìn thẳng.

Ông Hom sốt sắng nhận lời. Vậy là con dâu ông đã thông. Ông vẫn luôn luôn cầu mong điều này, nay thì  nó đã đến. Ông thở phào: Cơn mưa bão nào dù dữ dội đến mấy cũng có lúc phải tạnh.

Ông còn dặn Hạnh:

– Con dâu nhớ gánh theo chục chiếc lồng gà đi bán. Nếu bán được, con dâu mua thêm cho bố cút rượu!

Hạnh đi bộ hơn chục cây số đường rừng để đến chợ, có bao nhiêu tiền trong túi cô bỏ ra mua thức ăn bằng hết. Hạnh dường như đã phá bỏ, thoát khỏi được tổ ong đất, cả buổi chiều cô dành thời gian để chuẩn bị cho bữa cơm. Cô đi ra, đi vào, tất bật nấu nấu, nướng nướng. Bữa cơm chiều hôm nay phải thật ngon.

– Mẹ ơi! Hôm nay nhà mình có khách quý à? – Bé Đức hỏi.

Hạnh không trả lời, chỉ nghĩ: Còn quý hơn gấp nhiều lần khách quý!

Cả nhà ông Hom ngồi cùng nhau ăn một bữa cơm không có món măng. Thằng Đức là người vui nhất, bởi nó rất yêu quý ông nội và chị Đao. Hạnh tuy vẫn còn ngượng ngập nhưng vẫn luôn tay gắp những miếng ngon cho bố chồng và Đao. Ông Hom mỉm nụ cười nhẹ nhõm: Ông bao giờ cũng nghĩ con dâu là người tốt.

Ăn cơm xong, Đao cùng với Hạnh ngồi ngoài sân rửa bát. Bé kể cho Hạnh nghe những chuyện ngộ nghĩnh khiến cô phải bật cười. Đến tận hôm nay Hạnh mới ngắm nhìn Đao thật kỹ. Con bé thật nhanh nhẹn và xinh xắn. Tại sao mình không nhận thấy điều này sớm hơn nhỉ?

– Cháu có ra suối tắm cùng cô không? – Hạnh hỏi, giọng trìu mến.

Đao đưa mắt nhìn ông Hom như muốn hỏi ý kiến. Ông gật đầu. Đao phấn chấn chạy vụt ngay vào nhà lấy quần áo, gió tung mớ tóc dài mượt của bé vẽ vào không gian hình một suối sao băng.

Đây là lần đầu Đao đi tắm cùng cô Hạnh. Chắc chắn cô không còn giận mình và ông nữa. Đao hát líu lo, giọng bay lên cùng những giọt nắng cuối của một buổi chiều vàng rất đẹp, đàn suối hoà theo những âm thanh trầm bổng. Hạnh vui lây, lòng cô đã rũ bỏ được tổ ong đất, giờ đây nó như dòng mương được khơi thông, êm êm trôi chở nước cho những chân ruộng bậc thang.

Hai cô cháu cùng tắm khoả thân. Nước suối thượng nguồn vô cùng trong sạch và mát, tắm mình dưới làn nước ấy bao giờ cũng có cảm giác bình yên và thanh thản. Bàn tay Hạnh nhẹ nhàng kỳ cọ lên tấm lưng gầy gò của bé Đao, nơi xương sống nổi gồ lên như những gióng trúc cằn. Lòng cô dâng lên cảm xúc kỳ lạ: Trẻ con, bất kể chúng là đứa nào cũng đều hết sức đáng yêu! Hạnh xoay bé Đao quay mặt về phía mình rồi nhìn sâu vào đôi mắt đó. Đôi mắt thiên thần, con ngươi như viên ngọc trong veo.

Chợt Bé Đao rụt rè cất tiếng:

– Cô ơi! Từ nay cô cho cháu gọi cô là Mẹ, cô nhé!

Mũi Hạnh cay như sặc nước, cô choàng ôm lấy cơ thể bé Đao đang ướt sũng và thốt giọng nghèn nghẹn:

– Ừ! Ngay ngày mai Mẹ sẽ mua cho con bộ quần áo mới để con đi học. Con phải cố gắng học thật giỏi để mai kia có thể trở thành Cô giáo dạy chữ cho người dân trong bản Phiêng Đao.

Bé Đao “vâng” thật ngoan rồi dụi đầu vào bầu ngực Hạnh. Bầu ngực của những người mẹ bao giờ cũng rất ấm và êm ái. Chiều không còn nắng. Và lúc này, bầy côn trùng hoạt động về đêm đã bắt đầu tấu lên những thanh âm huyền diệu của sự sống. Trên trời cao lấp lánh đầy ánh sáng của muôn vì tinh tú, soi mênh mang xuống bãi ngàn sao.

Rất có thể về sau này, bản Phiêng Đao sẽ có một cô giáo chính là bé Đao ngày nào vẫn đến lớp với chiếc túi sách được khâu từ 2 mảnh ống quần thấm đẫm mùi măng chua./.

Vương Hà 

https://mail.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16221



NGỌC HẠNH: Dự Đám Cưới Mỹ BOSTON và Thăm NEWPORT, Rhode Island.

Dự Đám Cưới Mỹ BOSTON và Thăm NEWPORT, Rhode Island

Năm nay vùng Hoa Thinh Đốn trời lạnh sớm hơn mọi năm. Giữa tháng 11 đã có tuyết đầu mùa. Không nhiều lắm, lất phất bông tuyết nhỏ nhỏ  rơi xuống đất độ 5, 10 phút là tan. Tuy nhiên trời lạnh. Ban đêm 33 độ F -36 độ F.  Ban ngày phần lớn nắng đẹp lắm, vàng tươi. Các loại  hoa như impatient hay petunia hoa lá  héo úa, thấy  tội nghiệp. Hoa Pansy không sao, xanh tươi như cũ. Loại hoa này chịu được lạnh  suốt mùa Đông.

Những hôm thời tiết xấu Vân thường ở nhà, ai rủ đi đâu cũng từ chối dù Vân  đã chích ngừa cảm và dịch Covid đủ 5 lần. Đi ra ngoải lạnh lẽo rủi bịnh bất tử mất thì giờ đi bác sĩ, chờ đợi lâu lắc và tốn tiền mua thuốc, không đáng.

Nhìn cây trụi lá hoa héo tàn Vân nhớ lại lúc cả nhà đi Boston vào đầu mùa Hè. Lúc ấy thời tiết  mát mẻ ,nhà nhà sân cỏ xanh mướt, hoa tươi thắm khắp các siêu thị, tư gia, công viên… nhìn thật mát mắt.

Thời gian ấy có đám cưới cháu ngoại người bạn thân. Chị bạn mời cả, Vân và vợ chồng con gái  dự đám cưới. Vân ở vùng  Hoa Thinh Đốn, lễ cưới tổ chức ở Boston vào thứ Bảy. Vân và vợ chồng con gái rời nhà từ thứ Sáu và sẽ trở về nhà vào Chủ Nhật. Mất 9 tiếng từ nhà đến Boston. Trên đường đi xe  chạy qua  các  thành phố nhà cửa đông đúc hay các đồng ruộng trồng các loai ngũ cốc lá xanh um. Nhà dân cư nằm rải rác dọc hai bên đường. Có lúc thấy  cây cầu dài  ngoằn,  tàu thuyền dưới bến. Vui mắt nhất lúc đi ngang Nữu Ước được nhìn những  cầu vượt vòng vèo, các cao ốc cao nghệu nhìn mỏi mắt. Vùng đô thị sầm uất này  kẹt xe kinh khủng phải nhích nhích từ chút. Qua khỏi Nữu Ước  lái xe thong thả hơn, it gặp đèn xanh đỏ. Đến  Boston lại bị kẹt xe lần nữa trước khi rẻ vào đường nhỏ đến nhà mẹ cô dâu.

Khác với thị trấn đông đúc  cao ốc hay nhà phố sát vách nhau, nơi  cô cháu ở  nhà nọ cách nhà kia cái hàng rào. Chung quanh  nhà có sân, có vườn hoa nho nhỏ, hồ nuôi cá koi và trồng  vài cây ăn trái. Cô cho biết văn phòng của vợ  chồng cô  là nơi  thị trấn nhiều  xe  và người đi lại, không thoải mái yên tịnh như khu vực cô cư ngụ.

Lúc Vân đến đã có một số con cháu đến trước, chuyên trò vui vẻ và  một số bà con  đến  lai rai sau gia đình Vân. Chiều thứ Bảy là ngày nhóm họ,  có khoảng  50  thực khách nên phải đặt thêm bàn ghế ngoài sân cỏ. Thức ăn một số  ở tiệm ăn mang lại, một số do chủ nhà  làm và con cháu đem đến. Họ hàng  bà con ở xa thường chỉ liên lạc qua điên thoại. Nhờ đám cưới mới có dịp gặp nhau nên mọi người chuyện trò cười nói thật vui vẻ. Con trai Út chủ nhà lúc  Vân gặp khi đi chung một chuyến du lịch bằng du thuyền là cậu bé má phính môi hồng. Nay cậu Út thành thanh niên tráng kiện khôi ngô, đang học Đại Học. Thời gian qua nhanh quá chừng.

 Rể bạn Vân là người da trắng nên cô dâu mũi cao, môi hồng xinh đẹp. Cô giống Bố nhiều, ít giống  Việt Nam. Chủ rể người  Mỹ trông hiền lành dễ mến.

Sau buổi tiệc nhóm họ các bà con ở xa như Virginia. Maryland… trở về khách sạn nghỉ ngơi. Các con gái, con trai, con dâu, cháu nội từ tiểu bang  hay quốc gia khác đến thì ở lại Bố Mẹ để chuyện trò cho thỏa vi sau lễ cưới ai về nhà nấy. Có nhóm được ngủ nơi phòng ngủ, có người  ngủ sofa, trên lầu, dưới hầm (basement) nhưng ai cũng chuyện trò rôm rả đến khuya  

Cô dâu có hai cháu con người anh cả, thật dễ thướng. Cháu gái 6 tuổi, cháu trai 4 tuổi. Cả hai đều xinh xắn, ngoan và bạo dạn, thân thiện với họ hàng dù các cháu mới gặp họ lần đầu.

Hôm sau lễ cưới tổ chức nơi công viên có cây to bóng mát, có vườn hoa xinh xắn rực rỡ nhiều màu sắc hồng, đỏ, tím.. . Bàn thờ để Linh mục làm phép cưới trang hoàng  trịnh trọng khang trang. Những  băng gỗ sắp hàng thứ tự dưới bóng cây cho khách ngồi dự lễ…

 Hai đứa trẻ cháu cô dâu trai mặc vest, gái áo đầm xinh đẹp. Bé gái mang giỏ hoa theo cô dâu chú rể và rải hoa theo lối họ đi. Bé trai trang trọng mang khay đựng nhẫn cưới đến bàn lễ cho Cha làm phép. Bé trai trang nghiêm chững chạc, bé gái tươi cười. Khách vỗ tay chào mừng khi cô dâu chú rể xuất hiện. Sau buổi lễ mọi người đến nhà hàng dự tiệc. Khách phần lớn là người da trắng nên toàn thức ăn Hoa Kỳ. Khách Á Đông tạm dùng muỗng nỉa thay vì dùng đũa như  hàng ngày. Mọi người vui vẻ chúc phúc cô  dâu chú rể. Tiệc tàn  người ở xa trở về khách san sau khi chia tay với chủ nhà. Họ sẽ trở về nhà hôm sau bằng máy bay hay lái  xe như gia đinh Vân. Thật là một cái đám cưới tuyệt vời đáng nhớ.

NEWPORT, RHODE ISLAND:

Sáng Chủ Nhật sau khi dùng điểm tâm cả nhà lên đường về sớm để còn ghé Newport, Rhode Island  viếng các nơi nổi tiếng của địa phương như lâu đài gia đinh Wanderbilt II, Clift Walk …Khi chúng tôi dến Newport gần 10 giờ nhưng  đã có xe  tua (Tour) chở khách du lịch đậu gần kín bãi đậu  rộng rãi. Họ đến từ Canada va các đia phương khác. Khách du lịch đã mua vé trên mạng lưới trước khi rời nhà. Có tua  dài 3 tiếng, có tua 2 tiếng tùy nơi muốn thăm viếng nhiều hay ít. Cũng có du khách viếng Newport bằng tàu nhỏ hay thuyền buồm.

CLIFT WALK:

Clift Walk là con đường công cộng  bề ngang nhỏ, dài 3, 5 dặm theo Wikipedia . Con đường  này tráng nhựa sạch sẽ, chỉ có thể đi đạp hay xe lăn. Xe ô tô không  đi được . Môt bên con đường là hàng rào có song sắt cao ngăn các sân cỏ  biệt thự với con đường. Phía bên kia là ghềnh đá đầy những tảng đá thật to và nước biển trong xanh nhấp nhô. Có khoảng đường có hàng  rào giữa con đường và ghềnh đá và những bậc thang xi măng để xuống ghềnh.  Những tảng đá dưới ghềnh to bằng cái bàn, cái ghế…  chồng chất lên nhau chạy dài theo bờ  biển dọc  con đường. Gió biển thổi lên rất mát. Xa xa những chiếc tàu nhỏ và thuyền buồm chở khách du lich ngoạn cảnh. Clift walk nằm bên ngoài các biệt thư to, xinh đẹp như: Marble House,The Breakers Mansion, Ashtor’s Beechwood…

Gia đình Vân không đi hết  con đường, chỉ đi khoảng ngắn xong trở lại đi thăm các lâu đài to và  đẹp trong vùng. Phong cảnh ở Cliftwalk  hữu tình theo Vân:

               Gió mát trời trong nước biển  xanh

              Thuyền buồm, tàu nhỏ chạy loanh quanh

               Trên bờ đi bộ đoàn du khách

              Chuyên trò vui vẻ cuộc đời lành

 THE BREAKERS MANSION:

The Breakers Mansion là lâu đài lớn nhất  ở Newport, Rhode Island. Nếu thăm cả lâu đài  và vườn hoa phải mất từ 2 đến 3 tiếng, là nhà nghỉ mát của gia đinh Cornelius Vanderbuilt II. Lâu đài xây bằng đá cẩm thạch năm 1890, có 70 phòng gồm các phòng  ăn, thư viện, phòng khách và rất nhiều phòng ngủ, có lối di dành cho  xe lăn, người tàn tật. Tầng hầm là nơi cho người hầu, gia nhân cư ngụ thuở xưa, cũng có giường nệm tử tế, tủ đựng  quần áo, vật dụng riêng tư. Ngày nay trong lâu đài có nơi bán quà lưu niệm, nước giải khát và thức ăn nhẹ cho du khách thưởng thức.

 Trên trần nhà mỗi phòng có những  tranh vẻ khác nhau. Tuy hơn 200 năm nhưng màu sắc các tranh nơi trần nhà vẫn tươi đẹp. Mặt trước lâu đài nhìn ra biển và Clift Walk. Sân  và vườn chung quanh lâu đài rất rộng . Vườn hoa đẹp . Chỉ ngắm vườn hoa cũng đáng đồng tiền. Kiến trúc  này được tặng cho thành phố và mở cửa cho dân chúng vào xem từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Có cả trăm ngàn du khách viếng lâu đài hàng năm. Còn các lâu đài xinh đẹp khác trong vùng nhưng gia đinh Vân không đủ thì giờ thăm viếng.

 Trên đường về nhà Vân bâng khuâng nghĩ ngợi và liên tưởng đến các kiến trúc đẹp cổ, xưa ở Việt Nam. Không biết chúng có được  chủ nhân, con cháu  sửa chữa hay đã tiêu tùng vì thời gian hoặc chiến tranh. Ngoài ra  Vân còn tiếc  xót xa khi nghĩ bao nhân tài miền Nam phải đi đốn tre gánh củi trên rừng. Họ là những kỹ sư, bác sĩ … đã tốn nhiều rất tiền của, thời gian, vất vả thức khuya dậy sớm mới hoàn thành việc học mong giúp ích cho xã hội đúng với khả năng mình. Khi đất nước thống nhất thay vì đi nước ngoài, họ ở lại mong  giúp ích quê hương. Trái với ước mong, phần lớn họ bị  đi ”học tập cải tạo”, thời gian dài ngắn tùy theo học lực và địa vị .

Bạn Vân, bà ngoại cô dâu là  góa phụ tù nhân cải tạo. Chồng, Đai Úy thời Việt Nam Cộng Hòa, chết trong tù. Chị có 4 con từ 9 đến 3 tuổi. Không có lương chồng, không có việc làm, chị buôn bán loanh quanh. Bà nội giúp đỡ nhưng cụ cũng già, tiền bạc không còn  bao nhiêu  sau khi đổi tiền. Nhân có người sắp đi bán chánh thức, muốn cưới chị và hứa sẽ yêu thương các con chị. Chi suy nghĩ, đắn đo mãi.

  Sau cùng chị xin phép bà nội các cháu cho chị bước thêm bước nữa. Vì tương lai các cháu nội và thương dâu trẻ tuổi, bà Cụ tử tế đã bằng lòng cho cô dâu mang các cháu nội theo chồng, sau mới đi bán chánh thức và đến được đất nước Hoa Kỳ.

Bố dượng là một người tốt, biết giữ lời hứa, nuôi các con riêng của vợ và cho học hành tử tế. Nhờ sự khuyên khích của Mẹ và sự dìu dắt bố dượng, bốn người con chị đều đỗ đạt thành tài.  Các cháu bây giờ đang chung tay xây dựng quê hương mới, xây dựng nước Mỹ với tương lai tươi sáng vô cùng.

 Nghĩ lại người ta thường nói mỗi người một số phận.  Có người được trăm năm hạnh phúc với chồng con, còn chị lúc trẻ theo chồng sống trong  khu gia binh chật hẹp từ nơi này đến nơi khác, chia sẻ những thiếu thốn khó khăn với người bạn đời. Lúc chồng mất chị bước thêm bước nữa vì tương lai các con, nhưng chị cũng đã được đền đáp sống hạnh phúc.  Quan trọng nhất, là các con chị đã cố gắng học hành mới được nên người.  Đất nước của chú Sam rất nhân từ và đầy cơ hội, nếu những người nhập cư siêng năng học hành và làm việc thì thành công là chuyện đương nhiên.

Bên ngoài nắng vàng rực rỡ nhưng trời lạnh tái tê. Vân mừng con cháu chị bạn ngày nay có cuộc sống tốt đẹp.  Mỗi lần đặt bút viết, là Vân lại muốn cám ơn chính phủ và dân chúng Hoa Kỳ giàu lòng nhân đạo, cưu mang giúp đỡ đồng bào Vân lúc mới định cư, hướng dẫn và tìm việc  cho người lớn, cấp phiếu y tế, cấp nhà ở cho người có lợi tức thấp, già yếu, tạo điều kiện dễ dàng cho thanh niên tiếp tục đến trường … Vân cầu mong đồng bào nhất là phụ nữ  trong và ngoài nước có cơ hội học hành, sống trong yêu thương,  gia đình  hạnh phúc, thế giới hết chiến tranh, mọi người mãi được ấm no an lành.

 Nhân đây, Vân có mấy câu thơ tặng độc giả:

Thăm Viếng Boston

Mây trắng trời xanh, ánh nắng vàng

Thành phố Boston thật là sang

 Ngoài đường đông đúc xe qua lại

Nhà thờ, trường học rất khang trang

Ngoại ô đất rộng nhiều cây xanh

 Đại Học Boston đã nổi danh

Thầy giỏi trò hay trường quá tốt*

Cầu mong dân chúng  mãi an   lành.

     Virginia , tháng 12 nãm 2024

       Ngoc Hạnh

*(Đại Hoc Harvard, MIT)




SỎI NGỌC – VĂN: NÓI LỜI TẠ ƠN & CA KHÚC TINH BIỆT LY- Tiếng hát NGỌC HUYỀN Mtl

CA KHÚC TINH BIỆT LY- Tiếng hát NGỌC HUYỀN Mtl

***************

BÀI VIÊT: Nói Lời Tạ Ơn

Sỏi Ngọc

Khi sang được Canada vào tháng 12 năm 1984 theo diện thân nhân bảo lãnh, dù còn bỡ ngỡ, chưa quen với khí hậu lạnh như cái tủ đá biết đi, sau một tuần nghỉ ngơi cho quen giờ giấc, hai chị em tôi đã không muốn làm phiền đến gia đình thân nhân bảo trợ lâu hơn nữa, chúng tôi đã bỏ qua cái giá rét hay đường xá lạ lẫm; với tấm bản đồ metro trên tay, đi xin những chiếc coats cũ của nhà thờ, tin tưởng vào chính bản thân mình đi xin việc trong những factories.

Tôi và chị đã dậy từ năm giờ sáng mỗi ngày, đứng nấp trong một bờ tường của những buildings cao tầng cho bớt gió, chờ xe bus mà bên ngoài tuyết bay ngập đường, hai chị em tôi bọc kín mít chỉ hở hai con mắt mà nước mắt ràn rụa chảy vì gió nhiều và lạnh cóng, âm 30 độ C.

Chị tôi đã làm ở factory may quần áo vest nam, được năm năm rồi rời về Toronto theo chồng, còn tôi chỉ làm sáu tháng thì bỏ ra đi học, nhờ có vốn liếng tiếng Pháp từ thuở bé nên tôi không cần phải mất một năm học tiếng ngoại quốc mà thi vào thẳng đại học, ba năm lấy bằng kế toán để làm nhà bank.

Khi tôi vừa ra trường, 25 tuổi, đọc báo thấy một nhà bank lớn muốn tuyển chọn một kế toán có kinh nghiệm lo giấy tờ, lương bổng cho nhân viên, taxes cho chính phủ… Đúng vào nghề mà tôi vừa học ra nhưng không chút kinh nghiệm nào, tôi vẫn hy vọng và nộp hồ sơ.

Sau lần interview trước ba người bản xứ trong giới lãnh đạo của nhà bank, họ nói về nhà chờ họ sẽ gọi trong vòng một tuần cho biết kết quả. Trước khi ra về, họ còn hỏi tôi:

-Nếu làm một công việc thấp hơn trình độ của cô đã học một thời gian rồi mới tăng từ từ lên, cô có muốn làm không?

-Tôi rất muốn! tôi chưa có kinh nghiệm nên rất muốn làm bất kỳ công việc gì liên quan đến ngành accounting rồi sẽ học hỏi thêm trong lúc làm việc.

-Tốt lắm, tôi sẽ cho cô biết tin trong vòng một tuần nhé.

-Cám ơn các ông bà rất nhiều.

Thế là họ đã gọi tôi với chức mới bắt đầu, thấp nhất của nghề kế toán, lương cũng rất thấp! Tôi vẫn không thất vọng vì nghĩ mình mới ra trường, lại là dân tị nạn, chưa có chút kinh nghiệm nào, tôi bằng lòng bắt đầu từ chỗ thấp nhất! sau này có chút “kiến thức” nhà bank thì sẽ lên chức mấy hồi! Tôi nuôi hy vọng và đi làm với đầy nhiệt huyết, tôi nguyện sẽ làm việc thật tốt để được tăng chức, để họ thấy người Việt rất hăng hái, rất thông minh và siêng năng cần mẫn.

Sáu tháng trôi qua, bà Solange, người coi về “quản lý nhân sự “(RH) gọi tôi lên khen thành tích tôi làm việc rất tốt, được các bạn bè xung quanh yêu mến, tín nhiệm, tôi lại học việc rất nhanh và giỏi, cuối cùng bà nói:

-Nếu nhà bank tăng chức cho cô lên làm quản lý một chi nhánh, cô nghĩ sao?

Tôi trợn tròn hai mắt, miệng hình chữ o, tôi không tin vào đôi tai của mình nữa! tôi lắp bắp không ra chữ:

-Làm sao…làm sao có thể chứ! Tôi mới làm có sáu tháng ở đây thôi, làm sao có thể làm quản lý một chi nhánh? … tôi …tôi …chưa học hết mọi nghiệp vụ làm sao …

Bà cười thật dễ mến, trấn an tôi:

-Cô không lo vì cô sẽ được điều đi học nghiệp vụ cấp tốc ba tháng, sau đó khi làm việc sẽ có người coach luôn bên cạnh cô một tháng…vả lại dưới cô còn nhiều người rất giỏi sẽ giúp cô…

-Vậy… sao những người ấy không được chọn làm quản lý?

-Haha cô thật dễ thương, tôi không chọn họ vì thứ nhất họ chưa có bằng đại học, thứ hai họ làm việc tốt nhưng không có tính cách lãnh đạo; tôi có thể nhìn thấy được ai ở vào vị trí nào để xếp đặt… Cô có vui lòng làm theo sự chỉ đạo của tôi không? hay còn câu hỏi nào khác nữa?

-Tôi… tôi … hạnh phúc lắm khi nghe bà nói vậy, nhưng tôi vẫn sợ mình làm không tròn trọng trách!

-Tôi biết cô sẽ làm được nên mới mời cô đấy chứ! Cô rất xứng đáng! Ban lãnh đạo chúng tôi muốn khuyến khích những người trẻ, mới, có năng lực và hoài bão lên những chức vụ cao để cho những người khác noi theo gương…

Tôi nhìn bà Solange cảm động, hai tay cứ xoắn vào nhau và lòng tràn đầy biết ơn:

-Tôi thật may mắn quá! Thành thật cám ơn bà và hứa sẽ làm việc với tất cả trách nhiệm và lòng thành của tôi.

***

Tôi được chuyển đến một chi nhánh bank Ste- Justine ở nhà thương nhi đồng, dưới quyền tôi chỉ có năm người, chúng tôi coi nhau như một gia đình nhỏ, ăn uống, làm việc chung rất vui. Nơi đây tôi quen rất nhiều bác sĩ, specialist, y tá …Tôi nhớ tên họ vanh vách mỗi thứ năm họ xuống đổi check lương của một tuần, lấy tiền mặt. Họ rất mến tôi vì sự tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau, tôi chỉ cho họ những investments mới ra, tốt, nên chi nhánh của tôi có số lượng khách mới mở công ngày càng nhiều.

 Nơi đây, tôi đã mướn vài cô tellers người Á châu mới ra trường để giúp họ có chút kinh nghiệm với việc làm, sau này xin việc dễ dàng hơn vì nơi đâu cũng cần có kinh nghiệm. Mỗi lần họp toàn thể nhà bank lúc nào tôi cũng là một nhân viên gương mẫu, đạt chỉ tiêu của tháng.

Một hôm, giám đốc bên chi nhánh nhà thương Sacré-Coeur nghỉ bệnh trong vòng một tuần, bà Solange phone nhờ tôi:

-Cô có thể giúp tôi đến chi nhánh Sacré-Coeur làm một tuần được không vì ông giám đốc Massé bị bệnh; tôi nhờ cô vì cô đã có kinh nghiệm nhiều rồi, mấy người khác thì không lanh lợi bằng…Nhưng chỉ có một chuyện là…

-Bà cứ nói cho tôi biết là chuyện gì?

-Tôi hứa sẽ tăng lương cho cô để bù vào chuyện…

-Bà có chuyện gì cứ nói, bà ấp úng làm tôi lo đấy!

-Thực sự ra tôi cũng lo, nhưng không còn ai ngoài cô có thể làm được, cô rất vững vàng nhanh nhẹn xử lý mọi chuyện, tôi đã phải suy nghĩ lắm rồi…

-Bà cứ nói đi ạ!

-Số là nhà bank đó ở dưới basement của nhà thương…

-Thì có sao đâu, tôi sẽ xuống dưới đó được mà!

-Không phải, …Tôi thấy cô là một phụ nữ Á Châu yếu đuối mong manh…

-Bà làm tôi lo lắng quá!

-Nơi đó…phải đi ngang qua một nhà xác…

-Nhà…xác??! …Vậy rồi khách hàng vào nhà bank đó bằng ngả nào? Chả lẽ đi ngang qua nhà xác luôn sao?

-Từ đó đến giờ họ nói sẽ làm một con đường khác, che cái nhà xác lại, khi xuống basement thì vào thẳng nhà bank, nhưng họ nói bao nhiêu năm nay rồi vẫn chưa làm. Tôi ngại cho cô chuyện đó thôi, tôi biết cô rất mỏng manh, nhưng thật sự tôi hết người rồi. Chỉ một tuần thôi, cô nghĩ sao? Tôi sẽ tăng lương cho cô!

Tôi không thể nào từ chối vì bà Solange đã làm ơn cho tôi rất nhiều lần, chính bà là người mướn tôi vô nhà bank, tạo điều kiện việc làm cho tôi, lẽ nào khi bà cần người tôi lại từ chối chứ! Tôi nghĩ ông giám đốc kia đã từng làm mấy năm ở nhà bank đó, khách khứa ra vào mỗi ngày, họ vẫn tốt đấy thôi! Tôi chả có gì để sợ, đâu phải chỉ một mình tôi làm việc đâu, sẽ có những nhân viên khác nữa, nên nói chắc:

-Ok tôi nghĩ … sẽ đến đó được, nhưng chỉ một tuần thôi nhé!

-Oh! Một tuần là đủ lắm rồi, tôi cám ơn cô đã giúp tôi nhé, tôi rất tin cô sẽ làm được mà! Tôi sẽ gởi số code qua email để sáng mai cô vào mở cửa đàng đó nhé. Chúc cô thành công!

Sáng hôm sau, tôi phải dậy sớm hơn ngày thường, vì Sacré-Cœur xa hơn nhà thương Ste-Justine mà tôi thường làm gấp đôi lần đường, phải đổi mấy chặng metro và bus mới tới.

7 :30 sáng, trời mùa đông ẩm ướt, hơi tối, nhưng nhà thương đã tấp nập người, bác sĩ, bệnh nhân đầy trong parking và phía trước sảnh. Tôi tìm đường xuống basement, theo một hành lang dài rộng tuốt bên trong, không một bóng người; một cầu thang chân khá xa dẫn xuống bên dưới hầm hơi tối tăm một chút vì đèn chưa bật và nhân viên nhà  bank chưa đến nên có vẻ hơi âm u. Tôi tự hỏi sao ngân hàng lại thuê nơi đây chứ?hết chỗ rồi sao?!

Đúng như bà Solange đã nói trước cho tôi biết, bên phải là nhà xác!

Muốn vào nhà bank phải đi ngang nhà xác. Tôi tự nhủ mình sẽ phải đi qua đây năm lần như thế nữa! Tôi nhắm mắt, lấy hết can đảm, miệng lâm râm khấn vái, cầu cho những người đã nằm xuống sớm siêu thoát, chân bước thật nhanh để đến nhà bank ở cuối con đường.

Khi vừa đến, tôi phải bấm code để có thể mở cửa vào trong, không thấy ngọn đèn nào sáng hơn ánh sáng mờ ảo hắt ra từ nhà xác bên phải, một thứ ánh sáng vàng vọt như dọa dẫm con người, tôi thấp chân xuống để bấm code ngay hộp sắt đặt trước mặt tôi.

Bỗng tiếng nói vang lên sau lưng làm tôi giật mình hét thất thanh, muốn té xỉu, bàn tay ai đỡ vòng lưng tôi, khuôn mặt nhỏ thó với mái tóc quăn đen rũ xuống sát gần tôi, nụ cười dịu dàng hiện ra :

-Xin lỗi! xin lỗi đã làm cô sợ nhé! Tôi thường hay đến sớm để mở cửa nhà bank… Lần đầu tiên được biết cô, cô LyLy! Còn tôi là Isa.

-Chào… chào… Isa! …May quá có cô đến vào giờ này với tôi, tôi sợ quá khi đi ngang cái nhà xác này, đã thế không có ánh đèn ở đây nên thật khó mà bấm code… Thôi cô quen việc hơn tôi, cô bấm code và vào trước đi nhé, tôi sẽ vào sau khi cô ra hiệu ok.

-Được lắm cô Lyly chờ ngoài này nhé, tôi vào check từ trước ra sau khoảng năm phút rồi sẽ mở cửa cho cô vào sau.

Tôi hoàn hồn, mới từ từ nhìn sang phía phải, nhà xác đã đóng cửa im ỉm, bên ngoài có đặt một chiếc đèn vàng leo lét, nếu không biết đó là nhà xác thì không đáng sợ chút nào. Chỉ mình tự dọa mình thôi!

Tám giờ là giờ ngân hàng mở cửa tiếp khách, tôi vào trong phòng giám đốc Massé ngồi làm giấy tờ sổ sách, xem xét mọi chi tiết nghiệp vụ của tuần vừa qua. Bên ngoài có một anh cố vấn đầu tư, một cô cố vấn mượn tiền nhà và xe, cùng hai cô tellers là Isa và Paule. Cũng giống như bên Ste Justine của tôi, nơi này cũng là một ngân hàng nhỏ bên trong nhà thương Sacré-Cœur rộng lớn nên nhân viên vỏn vẹn chỉ có năm người kể cả tôi. Khách cũng chỉ toàn là nhân viên của nhà thương, hoặc thân nhân của người bệnh nằm lâu năm ở đây chờ ngày ra đi.

Ste-Justine là nơi chào đón những sinh linh bé bỏng, ngày nào cũng nghe tiếng khóc oe oe rộn rã, chào đời của các bé và những nụ cười hạnh phúc của người đi thăm nuôi. Còn Sacré-Cœur là bệnh viện phẫu thuật cho người lớn, những ca bệnh nặng…Nên nơi đây thiếu vắng nụ cười, khuôn mặt ai cũng mang vẻ đăm chiêu.

Sau khi kiểm tất cả sổ sách và đếm tiền mặt trong két sắt, tôi thấy thiếu khoảng $100.00, tôi mời hai cố vấn « đầu tư » và « vay tiền » vào văn phòng nói chuyện riêng, họ nói;

-Làm như ở đây có ma hay sao đó, ngày nào cũng thiếu mất $100.00, chúng tôi đếm đi đếm lại tiền mặt bao nhiêu lần và so với sổ sách không bao giờ bằng nhau cả! thật kỳ lạ! ông giám đốc Massé cũng phải bó tay, nên chúng tôi coi đây là tiền «phúng điếu » cho hồn ma!

Tôi cãi lại và trấn an họ:

-Ở đây là Canada nhé, không phải một nước nhỏ vùng Á châu mà các bạn lại tin vào ma quỷ như thế! Mê tín dị đoan không phải là điều tốt đâu! Không thể để như thế này được, mỗi ngày mất $100.00 tức là một năm 5 ngày/tuần x 50 tuần đi làm x 100=$25k/năm. Các bạn để một sự mất mát to lớn như vậy mà coi là bình thường sao chứ? Giám đốc lớn của ngân hàng mình có biết chuyện này chưa?… Nhất định phải tìm cho ra!

-Oh chuyện này chỉ mới xảy ra vài tháng thôi, chúng tôi cố tìm sai sót trong sổ sách mà không ra!

-Vài tháng tức là mấy tháng? Ngày nào cũng bị hụt như thế?

-Khoảng ba bốn tháng nay thôi, có lúc hụt có lúc không, nhưng nói chung thì thường xuyên hụt!

***

Tính tôi làm gì cũng rất cẩn thận, tỉ mỉ, cái gì thắc mắc thì phải tìm cho đến nơi đến chốn; việc hụt $100.00 mỗi ngày làm tôi suy nghĩ mãi, không thể ngủ ngon được, tại sao giám đốc Massé lại có thể chấp nhận việc này mà không hề nói vấn đề này ra vào những lúc họp cấp giám đốc, chắc ông ta sợ tai tiếng nên đã không kể?!

Ngày thứ hai đi làm ở Sacré-Coeur, tôi đã quen với sự hiện diện của nhà xác bên tay phải, mỗi lần đi ngang qua, tôi đều niệm Nam Mô A Di Đà Phật, lại còn lẩm nhẩm thêm câu Cầu xin mọi linh hồn sớm siêu thoát bình an, cho tôi hoàn thành nhiệm vụ.

Bữa đó tôi vào sớm một mình, mở code nhà bank, xem xét mọi ngăn tủ; đây là nhiệm vụ của người đầu tiên khi mở cửa, phải kiểm tra hết nhà bank có an ninh không rồi làm dấu hiệu bằng một đồ vật gì đó, sau đó các nhân viên mới có thể vào làm việc.

Khi tôi lỡ tay kéo mạnh chiếc ngăn kéo sắt của Marthe, bên trong một tờ giấy tiền hiện ra trong một góc kẹt, phải nhìn kỹ mới thấy, tôi thò tay vào kéo ra, $100.00! số tiền bị hụt đây! Nhưng mà…

Trong đầu bao nhiêu câu hỏi xuất hiện, Isa?! có phải cô ta là thủ phạm của những hao hụt thường ngày không? tôi nghi ngờ về cô ta có oan ức không?; không nói gì cả, tôi để lại tờ 100 vào trong kẹt như đã thấy và sẽ để mắt xem cô ta hành động ra sao.

Tôi vào phòng giám đốc Massé, xem lại hồ sơ của Isa, cô chỉ mới được mướn vào làm teller khoảng hai ba tháng nay mà thôi, cô là mẹ độc thân, có hai con nhỏ, mới ba tuổi và một tuổi rưỡi. Tôi bí mật lục lọi tìm kiếm camera của những ngày tháng trước thì thấy cô luôn luôn đếm cash vào cuối ngày, không cất ngay vào phòng sắt chung của bank mà mặc áo coat to rộng vào làm như sửa soạn ra về, rồi người cô che hẳn camera trên cao, bàn tay cô đưa một vật gì đó vào trong kẹt ngăn kéo rất tự nhiên và nhuần nhuyễn, kế đó mới đem hộp cash vào bên trong phòng đựng két sắt chung khóa lại. Cô không dám lấy tiền ngay vì khi xong việc mọi người đều đông đúc dọn dẹp, nên cô phải chờ đến sáng hôm sau đến sớm nhất, nhẹ nhàng lấy số tiền đã cất từ tối hôm qua cho vào túi một cách dễ dàng!

Tôi ngồi thừ người suy nghĩ, lo lắng:

-Tôi mới vào đây có một ngày, thay thế giám đốc Massé khi ông ta bệnh, tôi phát hiện ra vụ “ăn cắp” này có gây thù chuốc oán không? có làm tổn hại đến đời sống của Isa không? cô ta có con nhỏ, cuộc sống sẽ không dễ gì nếu tôi …làm lớn chuyện, đuổi việc cô ta?? Chắc chắn vụ này mà phanh phui thì Isa sẽ có án hình sự trong hồ sơ, sau này xin việc làm bất kỳ nơi đâu sẽ rất khó! Nếu tôi khoan dung cho cô thì không biết cô có thay đổi không? hoàn cảnh của cô vẫn cứ khó khăn như vậy thì tôi sợ rằng cô vẫn chứng nào tật nấy. Bây giờ tôi đã hiểu tại sao cô lại đến bank rất sớm!

Tiếng cửa vang lên, Isa bước vào lúc 7:35; thấy tôi đã có mặt, cô ta có chút thất vọng, vẫn lên tiếng chào hỏi:

-Sao cô Lyly đến sớm thế? … cô thật chăm chỉ!

-Cô… cũng đến sớm quá đấy chứ!

-Tôi rất thích đến sớm để có nhiều thì giờ sửa soạn cho giờ mở cửa.

Tôi làm bộ cúi mặt xuống bàn làm việc, nhưng cặp mắt vẫn không rời bóng lưng của cô ta, cô vào sớm để muốn lấy số tiền đã giấu của tối hôm trước đây mà!

Cả ngày làm việc, tôi luôn băn khoăn nghĩ về cô ta, thấy tội nghiệp cho hoàn cảnh nghèo khó, cuộc sống neo đơn với hai con nhỏ, nhưng không thể “ăn cắp”! không thể làm hành động xấu đó, nếu tôi che dấu cho cô ra tức là đồng lõa, tán dương hành động xấu đó sao! Mà nếu đưa ra ánh sáng thì chắc chắn tương lai của cô ta sẽ bị tiêu diệt! Phải làm sao đây?

Tôi gọi hai người cố vấn vào, kể hết câu chuyện cho họ nghe, chúng tôi cùng nhau xem lại camera, ai cũng thấy rõ ràng bàn tay cô Marthe đưa một vật gì đó vào góc khuất của ngăn kéo, sau đó choàng coat rộng vào để che đi…Chúng tôi tiếp tục theo dõi sự việc này trong bí mật thêm hai ngày sau, vẫn xảy ra như thế. Tiền vẫn cứ bị hụt $100.00!!

Cuối cùng đến ngày thứ tư, cả ba chúng tôi cùng quyết định thảo một bức thư cho Isa thôi việc ngay lập tức với lý do hết hợp đồng, bắt đền lại số tiền đã lấy (việc này ghi trên một tờ đơn khác), không đề cập trên bức thư và cả hồ sơ cá nhân việc ăn cắp tiền của nhà bank, để cho cô ta có một con đường sống trong tương lai; trên bức thư tôi có ghi thêm là cô ta rất nhanh nhẹn, thông minh, xin hãy nhận cô ta vào làm những công việc không trực tiếp dính líu đến tiền bạc.

Isa đã khóc lóc xin tha thứ và vô cùng hối hận đã làm việc không tốt này vì quá túng bẫn, hai con nhỏ; cô ta xin cam kết trả số tiền đã lấy lại cho chúng tôi vào mỗi tuần lương nếu cô xin được việc khác và cầu xin chúng tôi đừng ghi điểm xấu vào hồ sơ. Cô cam kết sẽ không bao giờ tái phạm.

***

Sau một tuần, giám đốc Massé hết bệnh về lại chức vụ, ông ta đã cám ơn tôi hết lời tìm ra nguyên nhân thiếu hụt tiền trong vài ba tháng qua; bà Solange cũng đã biết được tôi xử lý thật tốt việc đuổi người trong sự nhân đạo, bà càng đặt niềm tin vào tôi hơn nữa.

Sau đó bà đã cân nhắc tôi lên một cơ quan khác coi về sự biến động giá cả thị trường chứng khoán về đầu tư của những khách hàng giàu có trong nhà bank, dĩ nhiên tôi lại phải đi học một khóa tu nghiệp sáu tháng nữa trong niềm hân hoan.

Tôi luôn luôn biết ơn những “người sống” đã giúp sự tiến thân của tôi trong hơn 32 năm cống hiến công sức tại Montreal- Canada quê hương thứ hai, cám ơn luôn cả những “người đã khuất” ở nhà xác Sacré-Coeur mà tôi run sợ khi đi ngang qua trong suốt một tuần lễ làm việc năm ngày, có thể chính họ đã run rủi cho tôi thành công trong vụ tìm ra thủ phạm chăng? Để rồi được thăng chức cao trong suốt phần còn lại của sự nghiệp.

Nay về hưu… non, ngồi suy ngẫm lại cuộc đời thăng trầm, tôi muốn ghi ơn cuộc đời, cảm tạ những người mà tôi đã may mắn có duyên lành gặp gỡ và mãi cầu mong cho mọi người nhiều điều tốt đẹp nhất.

(Montreal, Nov 2024)

Sỏi Ngọc




VĂN- ĐỖ DUNG: Hồi Ức – Duy Thanh, Chàng Đây! – Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam … MỘT VÌ SAO ĐÃ TẮT!!

Duy Thanh, Chàng Đây!

Đỗ Dung

Buổi sáng Thứ Bẩy Ngày 9 Tháng 11, 2019 thằng cháu út Lam Sơn chở bố mẹ sang thăm hai bác Duy Thanh – Trúc Liên. Anh chị ở căn phòng trên lầu hai của một chung cư tại San Francisco. Hình ảnh anh Duy Thanh ngồi lọt trong lòng ghế khiến chúng tôi giật mình.  Mới mấy tháng không gặp mà anh thay đổi quá, người gầy xộc hẳn, mặt hốc hác chỉ còn đôi mắt tinh anh.  Nghe tiếng chào của chúng tôi anh lên tiếng:

–         Đến thăm người sắp chết hả!  Đừng chúc tôi sống lâu trăm tuổi nhá! Tôi chỉ muốn chết thôi!

Chị Trúc Liên im lặng ngồi bên cửa sổ nhìn xe cộ chạy dưới lòng đường.  Để hai anh em và bác cháu tâm tình, tôi đến ngồi bên chị:

_ Chị có nhớ em là ai không?

Chị mỉm cười, nét mặt đẹp hiền hoà như một nữ tu hay như một bà tiên:

_Ờ… Em!

Thế rồi giọng chị nhẹ nhàng như thủ thỉ, chị kể về những chuyện xa xưa, chuyện của một thời con gái của chị, chuyện về những ngày sống trong ngôi nhà cũ ở Hàng Xanh bên ba, bên má…

Một lúc sau có bà giúp việc đến thay quần áo và lo cho chị ăn, tôi ra trò chuyện với ông anh. Anh và tôi tương đối thân vì anh em hay nói những chuyện vui văn nghệ, văn gừng, nói về những nhà văn, nhà báo anh biết và tôi hay bông đuà, giỡn hớt với ông anh.  Mỗi khi tôi viết được bài nào cũng đưa anh chị đọc trước và vẽ xong bức tranh nào cũng đem ra khoe với anh chị.

Thấy bát súp để trên bàn tôi cầm lên định đút cho anh thì anh xua tay:

_ Cô để đó đi, tôi cầm lấy được mà, chỉ húp một cái là xong.  Há mồm để được đút đồ ăn trông thảm quá!

Anh cầm bát súp ăn được hai ba thìa nhỏ thì bỏ xuống liền, không chịu ăn nữa:

_ Sống thế này chán quá, già rồi chán quá, tôi chỉ muốn chết phứt đi cho xong. Kéo lê thê ngày nọ sang ngày kia thế này chán quá!!

Nghe và nhìn anh thấy thật thương nhưng tôi cũng cố nói:

_ Anh ơi… Sống chết là chuyện của ông Trời, mình có tính được đâu anh. Anh cứ ăn uống cho khỏe để còn ngày nào vui ngày đó.  Anh phải vui lên, buổi sáng mở mắt ra còn thấy cuộc đời này, còn thấy nắng vàng tươi ngoài kia, ta vui thêm ngày nữa.  Đến đúng ngày, đúng giờ thì… ta đi.  Anh mong chẳng được và anh muốn cũng chẳng được thì anh tự làm khổ mình làm gì. Thôi cười đi nhá! Cười lên mới đẹp trai… hìhì…

Tôi lấy điện thoại ra giơ lên “Anh cười đi nào, cười đi, em chụp hình nè…” Anh phì cười và sau đó tôi cứ ngồi nói chuyện trêu chọc để thỉnh thoảng anh lại mỉm cười.  Hỏi anh có thích đọc sách không để tôi đem sang.  Anh lại ca điệp khúc: “ Mắt mờ, tai điếc, đi đứng không vững.  Mình mẩy đau nhức.  Chỉ muốn chết nhanh cho rồi…”

Ngồi chơi với anh chị khoảng gần hai tiếng chúng tôi phải xin phép về để anh chị đi nghỉ.  James, chồng của Yên Chi ở lại trông bố mẹ.  Anh chị có ba cô con gái mà anh luôn gọi là “Ba con đào yêu quý, Phương Thảo, Yên Chi, Hoàng Điệp”. Ba cháu rất hiếu thảo và ba chàng rể cũng rất ngoan và tốt, lại ở gần bên nên chăm lo cho bố mẹ thật chu đáo.

Dời khỏi nhà anh chị chúng tôi lại ghé thăm cô em dâu, vợ chú Hoà mới bị stroke phải gọi emergency đưa vào nhà thương ở Castro Valley.  Cũng may cô bị nhẹ và đưa đi kịp thời nên thấy cũng đỡ lo.  Các cháu bị một phen hoảng hồn.  Tôi đành phải an ủi cô hãy ráng tĩnh dưỡng,  ăn uống lành mạnh cho khỏe và chịu khó tập thể dục.

Bước ra khỏi bệnh viện, trời chiều cuối thu Cali se lạnh, hai bên đường lá đã chuyển sang màu vàng, đỏ.  Hai vợ chồng nhìn nhau ngậm ngùi… Lứa chúng tôi trên bẩy, tám chục tuổi cả rồi, như những chiếc lá vàng kia, từng chiếc, từng chiếc sẽ lià cành để trở về với cát bụi. Đời người thật ngắn ngủi, chỉ như một thoáng mây bay.

Sáng Thứ Năm 21 tháng 11 tiếng chuông điện thoại reo, nhìn thấy tên cháu Phương Thảo, tôi giật mình hoảng hốt, sợ có tin chẳng lành.

_ Thím ơi, phải gọi xe cứu thương đưa bố con vào bịnh viện rồi. Bố không chịu ăn uống gì cả, chỉ đòi chết thím ơi.

_Bố có biến chứng gì sao? Tại sao phải đi emergency?

_ Bố con bị té!

_Bây giờ bố con sao?  Xương cốt có bị gì không?

_Bố té nhẹ thôi thím nhưng tại bố con yếu quá nên phải đưa vào nhà thương.

Thứ Bẩy, 23/11 vợ chồng cháu Khôi sang chở chúng tôi vào General Hospital SF thăm bác.

Anh Duy Thanh nằm đây mong manh bên bờ sinh tử.  Thật nghẹn ngào.  Hôm nay không đùa, không cười được nữa! Ghé sát vào tai anh để nói thì mắt anh chỉ chớp nhẹ. Miệng thều thào: “Nước!”.  Đưa muỗng nước đến miệng thì anh há ra nhận chứ không còn xua tay từ chối.  Bốn người chúng tôi đứng quanh giường chỉ biết lặng lẽ nhìn.  Khuôn mặt hiền hòa kia sắp biến mất và chúng tôi sẽ không bao giờ trông thấy nữa. Anh Thọ nắm bàn tay anh, bàn tay anh Duy Thanh cử động nắm lấy tay ông em. Tôi vuốt nhè nhẹ cánh tay gầy guộc.  Anh đưa ngón tay lên như muốn viết chữ gì mà tôi cố nhìn theo mà cũng không thể nhận ra.  Cháu Khôi lên tiếng “Hay là bác muốn vẽ tác phẩm cuối cùng?”. Cháu trai lớn của tôi rất yêu ông bác nghệ sĩ vui tính.  Mới ngày nào khi bác gái và các chị còn ở VN,  bác đến nhà hay dắt cháu đi chơi và mỗi khi nhấc điện thoại, biết là các em hay các cháu gọi thì bác luôn cười ha hả: “Duy Thanh, chàng đây!” để thằng bé con cũng khoái chí bắt chước bác vỗ ngực kêu lên: “Thiên Khôi, chàng đây!”

Đêm hôm ấy lên giường nằm mà tôi không thể nào chợp mắt, những kỷ niệm về anh chị cứ lần lượt hiện về.  Năm 1971, khi mới về nhà chồng, tôi còn đang đi học lại kém anh nhiều tuổi, nhỏ hơn cả cô em út, nên anh cũng gọi tôi là “cái con đào này” như anh gọi mấy đứa con của anh.  Những ngày rảnh rỗi tôi hay sang nhà anh chị ở Hàng Xanh chơi, ra vườn sau nằm võng đu đưa dưới những tàng cây râm mát.  Thỉnh thoảng anh lái chiếc xe Simca trắng về thăm mẹ thì lại chuyện trò rổn rảng với “con đào” này.  Năm 73 anh theo sở làm sang Thái Lan và đến Tháng Tư 75 thì kẹt không về VN được mà sang định cư tại San Francisco cho đến bây giờ.  Năm 1980 gia đình chúng tôi vượt biên sang ở nhà cô em gái tôi tại San Pablo, anh cũng sang ngay để thăm. Từ đó hình ảnh ông anh nghệ sĩ tay luôn cầm chiếc máy ảnh, sang đưa các cháu đi chơi và chạy theo các cháu để chụp hình.

Mấy năm sau chị và các cháu sang đoàn tụ, rồi qua chương trình HO, đầu thập niên 90, toàn thể gia đình chú Hoà cũng sang được hết.  Cả ba gia đình anh em Thanh – Thọ – Hoà ở quanh quẩn vùng bắc Cali nên có dịp gặp nhau luôn.  Ít nhất mỗi năm tất cả tụ họp ba lần, ngày Tết Nguyên Đán, ngày giỗ ông nội và ngày giỗ bà nội.  Các cháu của ba nhà lần lượt lớn lên, lập gia đình và đã ra ở riêng.  Hàng năm chúng tôi vẫn họp mặt đông đủ cả ba lần, luân phiên từ nhà cháu này đến nhà cháu kia. Hai vợ chồng già DT và TL vẫn ở lại căn phòng cũ tại SF và sáng sáng anh xuống phố đi tản bộ loanh quanh.  Anh ở đó quen rồi, nơi phố đông vui nên anh chị không chịu đến ở với con nào hết, dù các cháu tha thiết mời và các cháu đều có nhà cửa rộng rãi, khang trang.  Mặc dù vậy nhưng kỳ họp gia đình nào anh chị cũng đến.  Ba thế hệ đề huề, họp nhau là ăn uống, chuyện trò, hát karaoke, nhẩy nhót tưng bừng.  Anh rất yêu trẻ con, những đứa trẻ thế hệ thứ ba ra đời ông dang tay ôm vào lòng từng đứa mỗi khi gặp mặt.  Mấy năm về sau anh già yếu đi nhiều, không còn nói cười sang sảng nhưng vẫn đến và cưng chiều con cháu.  Chúng nó hát Karaoke thì khi ông hứng ông cũng cầm micro hát và khi ông mệt thì cứ thoải mái ngồi cạnh đó mà… khò khò.

Khi chị bắt đầu lú lẫn anh phải ở nhà nhiều hơn để săn sóc chị. Buổi sáng không xuống phố mà ở nhà lo cho chị ăn uống.  Ở nhà để canh chừng không để chị xuống đường một mình rồi đi lạc.  Năm vừa qua anh chị đã không đến với những buổi họp gia đình nữa.

Cả ngày chủ nhật tôi nhớ về anh, viết vài kỷ niệm về anh.  Buổi chiều cháu Hạnh Quyên, cô con gái lớn của tôi điện thoại nói là đang ở bịnh viện với bác và buổi tối cháu đã nghẹn ngào qua phone:

_ Bác … mất rồi!!

Hai vợ chồng tôi đang sững sờ mặc dù biết tin này sẽ đến thì cháu Khôi cũng gọi sang:

_ Mẹ biết gì chưa? Bác Duy Thanh… đi rồi!

Và tiếng Hoàng Điệp cũng nức nở qua điện thoại:

_ Thím ơi… Bố con mất rồi, nghe Chi gọi, con đang trên đường đến nhà thương.

Rồi nghe cháu khóc nấc trong phone.

_ Con bình tĩnh, lái xe cẩn thận, có gì phone báo ngay cho chú thím nghe con!

Lúc đó là khoảng 10 giờ đêm Chủ Nhật 24 Tháng 11 năm 2019.

Ông anh cả của chúng tôi đã bỏ cõi đời này!!

Duy Thanh, Chàng đây!! Đã bỏ chúng tôi mà đi!!

Với nền Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam … MỘT VÌ SAO ĐÃ TẮT!!

Với gia đình chúng tôi, Anh là một người chồng chung thuỷ, một người cha tuyệt vời, một người anh cả vui vẻ, đáng quý, một ông bác đáng yêu của lũ cháu gọi ông bằng bác, bằng ông.  Các cháu nghe tin bác mất, ông mất đã khóc oà… thương tiếc ông thật nhiều!!

Một vài đoạn tôi đã viết về bức họa MAI VỀ TÌNH THƠ HÔM NAY

(…Sau ngày cưới chàng và nàng đã có một tuần lễ thần tiên tại thành phố thơ mộng Đà Lạt.  Khách sạn Mộng Đẹp nằm trên một con dốc, từ bao lơn phòng ngủ nhìn xuống bên trái là khu Hòa Bình, bên phải con đường dẫn đến hồ Xuân Hương.  Sáng sáng hai người tay trong tay xuống phố,  vào tiệm phở điểm tâm rồi ghé sang cà phê Tùng ngồi nhâm nhi tách cà phê bốc khói. Sau đó xuống khu chợ mới mua vài loại trái cây tươi và một ít đồ ăn lặt vặt rồi tản bộ đi thăm những thắng cảnh gần hoặc ra bến xe đi chơi những nơi xa.  Hình ảnh Đồi Cù và Thung Lũng Tình Yêu của Đà Lạt xa xưa như vẫn còn in đậm nét trong tâm trí Khuê. Không khí êm ả trong nắng vàng tươi, nàng đã sung sướng lăn mình trên những thảm cỏ xanh ấy và chàng đã chụp rất nhiều hình cho nàng.

Thiên đã kể nàng nghe về bức tranh của ông anh họa sĩ mà chàng rất thích.  Bức tranh anh Duy Thanh cũng vẽ một thảm cỏ xanh dưới nắng, khung cảnh thật tĩnh lặng, an bình.  Một chiếc xe thổ mộ ở gần góc của bức tranh như đang đi trên một con đường mòn nhỏ cắt ngang thảm cỏ, nhẹ nhàng như thơ, như mơ.  Chàng đã tự nhủ lòng sẽ xin ông anh tác phẩm ấy sau buổi triển lãm của họa sĩ.  Nào ngờ bức tranh đã được người mua ngay ngày đầu tiên với giá thật cao.  Chàng còn nhớ sau khi anh Duy Thanh hoàn thành tác phẩm đó hai ông bạn thân là Mai Thảo và Thanh Tâm Tuyền cùng ngồi ngắm và ông Mai Thảo đã gật gù đặt tên cho bức vẽ: “Mai Về Tình Thơ Hôm Nay”.  Ông TTT thì “Ước gì “moi” được lăn kềnh trên thảm cỏ này”.  Khuê rất mê văn Mai Thảo và nghe tên tranh ông đặt cũng không khỏi tò mò, tại sao lại “Mai Về Tình Thơ Hôm Nay”. Có dấu chấm hay dấu phẩy nào ở giữa không. Thiên trả lời là không có dấu gì hết, viết liền như vậy thôi và chàng nhớ là bức tranh đẹp lắm, mầu nắng, mầu cỏ như có sức thu hút lạ lùng.  Khi biết bức tranh có người mua đem đi rồi chàng đã tiếc ngẩn tiếc ngơ. Hồi đó chưa có máy hình thông dụng như bây giờ nên cũng chưa kịp chụp để giữ làm kỷ niệm.

Và:

Trên con đường nhỏ dành cho khách bộ hành, một bên là đồi cỏ xanh một bên là rặng hoa đào, ông già tóc bạc trông còn tráng kiện và lưng còn thẳng, người đàn bà đi bên cạnh dáng đi chậm chạp. Ông khẽ nắm tay bà, tay trong tay vẫn ấm và hai người thong dong, khoan thai đi bên nhau trong buổi sáng mùa xuân, nắng vàng đẹp, gió nhẹ hây hây, hoa reo vui, lá reo vui trong không gian thật êm đềm. Tiếng chim ríu rít trên cành. Nhìn lên đồi cỏ xanh có mấy con bò đang khoan thai gặm cỏ, Khuê bất giác nghĩ đến bức tranh “Mai Về Tình Thơ Hôm Nay” của anh Duy Thanh. Ông Mai Thảo, người đặt tên cho tác phẩm ấy không còn nữa.  Khuê định bụng đến Mùng Một sang chúc Tết anh chị Duy Thanh sẽ hỏi cho rõ về ý nghĩa của bức tranh, mặc dù biết là ông anh nghệ sĩ sẽ trả lời “Cô muốn hiểu sao thì hiểu!”

Phải chăng bây giờ là MAI mà “chàng và nàng” đang trở VỀ với TÌNH THƠ HÔM NAY cuả ngày tháng xa xưa ấy.)

Anh Duy Thanh,

Em đang tưởng tượng, hình dung anh đang ngồi thong dong, thảnh thơi trên chiếc xe thổ mộ của “MAI VỀ TÌNH THƠ HÔM NAY” để đi về vùng An Lạc, về cõi Vĩnh Hằng. Tám mươi tám năm rong chơi trong cuộc đời này, với Anh là quá đủ, phải không Anh!

ĐD

26/11/2019




TRANG VĂN + THƠ: CAO MỴ NHÂN

VĂN – CAO MỴ NHÂN

CHIỀU VÀNG.    CAO MỴ NHÂN

Cái thế hệ ” Chiều vàng ” của chúng tôi, đang lần lượt bước qua lằn ranh quá khứ. Tôi chưa kịp nói hết câu mở đầu, rằng ông trở lại với khán thính giả muốn nghe kỹ hơn về trận chiến Hoàng Sa ngày 19 – 1- 1974.

Vị Thiếu tá bộ binh Ban Lãnh Thổ  thuộc Phòng 3 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I/ Quân Khu I, tên bình thường là Phạm Văn Hồng, đã mặc nhiên có tên trong Quân Sử VNCH một cách đương nhiên phải thế.

Cách đây ít năm, một cơ quan truyền thông đã phỏng  vấn Thiếu Tá Phạm Văn Hồng, trưởng phái đoàn tù binh VNCH bị quân Trung Cộng đánh chiếm đảo Hoàng Sa bắt, vào giáp tết nguyên đán ngày 19 – 1 – 1974 .

Nhưng trong cuộc phỏng vấn chớp nhoáng ấy còn nhiều hạn chế về thời gian, cả quý vị hỏi lẫn khách trả lời, nhất là Thiếu tá đương sự, còn chưa hết bâng khuâng, căm hận khi nhớ lại tình huống Quân ta bị bắt như có bàn tay ” thế sự ” xếp đặt.

Nên chi cuộc phỏng vấn mới nhất này, của một nhóm có thể là biết tình thế thời sự Hoàng Sa chi tiết hơn.

Tất nhiên, Thiếu tá Phạm Văn Hồng mở rộng tầm nhìn  thật chính xác về một Hoàng Sa bị đánh cướp như thế nào .

Trước tiên, tôi lại xin phép quý vị là trong bài viết này, tôi chỉ kể chuyện ” cũ “, nên không phải là điều nhận định như quý vị thường tìm thấy ở các cây bút ” tham luận ” .

Lý do rất dản dị, là Thiếu tá Phạm Văn Hồng với tôi cùng phục vụ tại Bộ Tư Lệnh QĐI/QKI.

Kế tới, sau khi Thiếu tá Hồng và đoàn ta bị Trung Cộng bắt ở ngay Hoàng Sa, nơi ông phải thực hiện chuyến công tác  vào trung tuần tháng Jan / 1974, Phòng Xã Hội QĐI/QKI đã đi thăm viếng, yểm trợ tinh thần gia đình ông gồm phu  nhân ông và con cái.

Sau cùng, Thiếu tá Phạm Văn Hồng đã từ bên kia bức  màn sắt của Trung Cộng trở về VN, cùng với mấy chục bạn tù hiện diện ở trận Hoàng Sa. ..ông đã viết một tập hồi ký, kèm hình ảnh, với tựa đề : ” Người về từ Trung Cộng.”

Ông có nhờ tôi làm sao để phổ biến trong hàng ngũ huynh đệ chi binh bấy giờ, chứ không phải tham vọng muốn làm nhà văn, nhà viết gì cả.

Và chính yếu tố thứ 3 này, hôm nay tôi mạo muội kể lại quý vị lính nghe.

Từ Phòng 3 QĐI/QKI, Thiếu tá Phạm Văn Hồng xuống Phòng Xã hội QĐI/QKI với tập bản thảo được đánh máy ( kiểu thủ công ngày xưa trước 1975 ), có kèm một số hình ảnh mà lúc ở trại tù bên Quảng Châu do ông thu nhặt được.

Thí dụ : Đại trại , đại khánh, kịch văn công vv…

Tôi rất hào hứng, không phải việc làm của Thiếu tá Hồng có ý gì khác, ngoài ý muốn để người  dân miền nam hiểu thực tế cái xã hội Trung Cộng như thế nào.

Tôi thoáng nghĩ tới cụ nhà văn danh tiếng, hàng xóm nhà ba tôi ở hẻm đầu tiên cư xá Chu Mạnh Trinh Phú Nhuận.

Cư xá có những quý vị tên tuổi ở xã hội miền nam như: nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Tuấn Khanh, nhà văn Duyên Anh vv…, và cụ nhà văn Nguyễn Mạnh Côn.

Chính là tôi điếc không sợ súng, tôi viết thư gởi cụ lão thành trong nghề báo chí, văn chương là cụ nhà văn Nguyễn Mạnh Côn nêu trên, coi và cho ý kiến phổ biến sách đó.

Thế là Phạm Văn Hồng hăm hở đi Saigon với mong muốn được in ấn, phát hành cuốn hồi ký : ” Người về từ Trung Cộng” của ông.

Mấy ngày sau, Thiếu tá Phạm Văn Hồng về lại Đà Nẵng, nơi Bộ Tư Lệnh QĐI/QKI đồn trú.

Tất nhiên Thiếu tá Hồng không ôm tập bản thảo đó xuống gặp tôi, ông ta đi tay không, thong thả và cười một cách rất lính, rồi nói : ” Cao Mỵ Nhân ạ, cụ ấy sợ gì chẳng rõ, cụ ấy bảo in ra, phát hành không có lợi …” .

Tôi cắt ngang:” Lợi cái gì chứ, sao lại không có lợi ? “.

Thiếu tá Hồng thốt ngắn gọn : ” Thì thôi, không cần, tôi có muốn làm văn sĩ đâu .”

Sau này tôi mới tiếc , là vì Cục Tâm Lý Chiến có cả một nhà in riêng. Tôi bận rộn và có chút tự ái, không muốn in thơ ở đó, nhưng hồi ký quân sự và chính trị ” Người về từ Trung Cộng ” của Thiếu tá Phạm Văn Hồng, thì tại sao tôi không nhớ ra, là trong huynh đệ chi binh có đủ phương tiện, sao tôi không thân chinh cùng Thiếu tá Phạm Văn Hồng đi gặp vị Cục Trưởng Cục Tâm Lý Chiến, là Đại Tá Hoàng Ngọc Tiếu, tức thi sĩ Cao Tiêu, đại tá sẽ giúp đỡ ngay.

Bởi vì hồi đó, tôi quá thần phục quý vị văn nghệ sĩ dân sự. Tôi đã để lỡ một dịp may cho người bạn cùng đơn vị.

Lẽ ra tôi phải hiểu là Thiếu tá Phạm Văn Hồng có nhiều đặc điểm, một sĩ quan cấp tá xuất thân từ Võ Bị Đà Lạt, một Đại đội trưởng Biệt Kích, đã bị thương trong mặt trận Quảng Trị, rồi mới được về Phòng 3 Quân Đoàn. Lại bị tù bên Trung cộng, vv…

Hôm nay nghe cuộc phỏng vấn mới về trận chiến Hoàng Sa 

ngày 19 -1 -1974, thấy Thiếu tá Khoá 20 Võ Bị Đà Lạt vẫn phong độ trong cung cách riêng của quân nhân các cấp Quân Lực VNCH.

 Tôi vẫn kính phục ông, như kính phục huynh đệ chi binh khác, và có chút ân hận là không giúp được ông chuyển tải những gì ông thấy ở trong cũng như ở ngoài phạm vi Quân Lực VNCH, nhất là chuyện phải đi tù ở Trung Cộng, quan thày của Cộng sán bắc việt nói riêng và csvn nói chung .

Tôi liên tưởng tới câu nói của  bí thư nào đó đảng Cộng Sản Bắc việt xưa:  ” Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Nga Tàu ” mà khinh miệt đám người vong bản đó, csvn, từ trong trứng nước cái tư tưởng nô lệ một đại cái bang, tập đoàn bành trướng Bắc Kinh vô thần, vô tổ quốc, vô gia đình …

Thiếu tá Phạm Văn Hồng chắc đã hiểu rằng bây giờ cả Thế giới đã đổi khác, bây giờ có computer, internet…không cần phải ky cóp đánh máy như ông làm cái hồi ký khốn khổ hồi đó nữa…

Thế nên thời nay mọi người đều biết , mọi sự đều được phơi bày nơi truyền thông, báo chí …Những người ở bên kia bức màn sắt, đã đang và sẽ được hiểu biết những gì trên thế giới trong phạm vi sinh hoạt hôm nay…

Những cái mốc lịch sử đã khiến người ta trong hay ngoài cuộc, tự nhiên phải nhớ …để đời.

Tôi được mấy người bạn lính gởi cho cái ” you tube ” giới thiệu cuộc phỏng vấn thiếu tá Phạm Văn Hồng,nhân kỷ niệm cuộc hải chiến Hoàng Sa 19- 1 –  1974.

Nghe lại Thiếu tá Phạm Văn Hồng ở kỳ phỏng vấn này, tôi thấy rõ ràng hơn, đầy đủ hơn, ông quả là một sĩ quan Phòng3 phân tách kỹ, cung cấp đầy đủ những điều mà nếu xem thường sẽ rơi vào khuyết điểm, mặc dù trình bầy sự thật …

Tôi nói với ông là mỗi năm tôi chỉ gặp lại ông vào ngày kỷ niệm trận chiến buồn đó. Và rất tình cờ mỗi lần điện đàm, là một lần nghe ông thông báo một chút về thế hệ ” Chiều vàng” ở Đà Nẵng xưa.

Lần này gặp qua phone, ông thông báo đang thăm người bạn đồng cấp, nguyên là Chánh văn phòng Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn mang số một La Mã mầu đỏ của …tôi.

Người bạn này đang ở giờ thứ 25, Thiếu tá Hoàng Xuân Đạm, thật là buồn, ôi cái thế hệ ” Chiều vàng “, héo hắt những tàn lá mùa thu vàng võ … buồn thiu …lần lượt bay đi mất hút…

               CAO MỴ NHÂN

**

ĐÁM MÂY VÀNG.    CAO MỴ NHÂN

    Buổi sáng ở Denver Colorado, tôi theo gia đình chị Nhàn, nguyên chị là một nữ tiếp viên hàng không, của hãng Hàng Không Việt Nam ( Air Vietnam ) thời đệ nhị Cộng Hoà ( Việt Nam Cộng Hoà ) lên ngọn núi danh tiếng sát ngay thành phố đá đó để ngoạn cảnh.

    Trên đỉnh ngọn núi này, có một ” đại hí trường ”  có thể chứa hàng chục ngàn tân khách.

     Chung quanh đại sảnh trường đó, toàn là vách đá dựng cao ngất, nhưng lòng động lại mái trống, lộ thiên .

     Gia đình chị Nhàn đông đủ dâu rể cháu nội ngoại, tất cả đều tỏ ra thân quen với lâu đài hí trường khổng lồ đó .

     Nghe tiếng gió từ bốn phương đổ về, chị Nhàn nói với tôi một cách trân trọng lắm : ” Mỵ ạ, nơi đây người ta còn gọi là Chiếc đàn  ” Phong cầm gió ” vĩ đại nữa đấy .

     Tôi chỉ biết ngưỡng mộ và thán phục thiên nhiên, Đấng Tạo Hoá đã cho nhân thế này bao nhiêu là công trình tuyệt tác.

     Đang lúc mọi người trầm trồ khen ngợi vũ đình trường gió mưa sương gió thiên nhiên, tự đến, tự đi tới cái động to lớn mịt mù đó, thì nóc động hửng lên một khung nắng rỡ ràng..

      Một đám mây mầu vàng mỡ gà lững thững bay qua, tưởng như tà áo của thiếu nữ nào rơi trên mái động …

      Chị Nhàn và tôi đều sững sờ thốt :

     ” Mây vàng Hà Nội ” .

      Tại sao mây Hà Nội mầu vàng ?

       Ôi phải rất nhiều lời , hay rất nhiều thì giờ mới giải thích được điều thơ mộng đó, chỉ biết rằng nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh ngày xưa, đã mang mây vàng từ trung nguyên về Hà Nội.

       Và gần nhất với tôi thủa là thiếu nữ ở Saigon, đã có một nhà thơ tài tử, Nhị Thu viết cuốn thơ ” Mây Hà Nội ” , năm 1961, cùng lượt với cuốn ” Thơ Mỵ 1961 ” của tôi.

      Tất nhiên tôi chỉ nêu ra hình ảnh mây vàng Hà Nội dĩ vãng , nghĩa là trước 20 – 7 – 1954, hay trước khi chúng tôi di cư vào Nam thời sông Bến Hải  chia đôi đất nước .

   Đám mây vàng lặng lẽ rời khỏi nóc vũ đình trường đá đó, nắng còn ở lại cửa động lộ thiên một thoáng, cả chị Nhàn và tôi đều như có chút buồn phảng phất .

   Tôi hỏi chị một cách nhớ nhung rằng :

  ” Chị ơi, ngày di cư, em ở tuổi vài năm ” teen ” đầu, chị gần gấp đôi tuổi em, thủa đó, chị có may áo dài lụa mầu vàng mơ, và nhất là, chị có may áo ” vest ” mầu mơ chín ở phố Nhà Thờ Hà Nội không ? “

   Chị Nhàn cười xa vắng :

  ” Thế Mỵ. cũng biết tiệm chuyên may áo vest ở phố Hàm Long đó à ? “

 Bỗng lòng tôi chùng xuống chi lạ, ba tôi có lần đã cho mấy chị em tôi từ Hải Phòng về Hà Nội để may cho mỗi đứa một áo vest mầu vàng mơ tuỳ theo sở thích, hoặc mơ non, mơ chín, mơ sậm, mơ lạt vv…

  Và chính buổi đi may áo dài, áo vest ở hiệu may danh tiếng phố Hàm Long  xa xưa ấy, mà tôi nhớ mãi mầu mây thu Hà Nội . Ôi, có thể nói, ngoài mây thu vàng ở cái nơi tôi chỉ thấy đẹp thủa ấu thơ và thiếu niên ra, tôi không còn thấy thêm cái chất Hà Thành thanh lịch trong văn chương tiền chiến nữa .

    Thế nhưng hôm nay, tôi muốn nhắc tới một mầu mây Hà Nội rất kinh điển, chính mầu mây vàng lợt thôi, nhẹ nhàng , thơ mộng mà những người đã một thời say đắm nó, mây Hà Nội, như nhà thơ Nhị Thu, hay sau này , khi tôi lớn lên, trưởng thành rồi già đi như bây giờ, sắc mây vàng mỡ gà, vừa rực rỡ, vừa hoang mê, vừa thần thoại, chỉ còn trong cổ tích mất mát thôi.

    Ngay tức khắc tôi nhớ tới quý vị sĩ quan Quân Lực VNCH danh tiếng thơ văn lẫy lừng thuộc Cục Tâm Lý Chiến,  không thể nào không nhắc tới mây vàng cố đô Thăng Long, là các vị người Bắc di cư năm 1954.

     Để rồi tôi ngồi một mình xót xa, bây giờ ” điểm danh lại ” thì số quý vị đó đã không còn trên trái đất : Thi sĩ đại tá Cao Tiêu, Thi sĩ, Hoạ sĩ Tạ Tỵ , Nhà văn Trung tá Hà Thượng Nhân, Nhà văn Trung tá Phan Lạc Phúc, Nhà văn Thiếu tá Đặng Trần Huân, Nhà văn Thiếu tá Phạm Huấn , Thi sĩ Đại uý Du Tử Lê, Thi sĩ Trung uý Thanh Tâm Tuyền .

   Thưa , rất nhiều văn nghệ sĩ quân đội, gốc Hà Nội,  nhưng ở các đơn vị khác, chẳng hạn Nhà văn Trung tá Duy Lam ở QĐI/ QKI, Nhà thơ Trung tá Cung Trầm Tưởng ở Bộ Tư Lệnh Không Quân VNCH, Nhà thơ Trung tá Hoàng Ngọc Liên ở Binh Chủng Nhảy Dù VNCH.

    Hay, Thi sĩ Thiếu tá Tô Thuỳ Yên Trưởng phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến VNCH, nhưng ,không gốc Hà Nội .

     Tôi chỉ đan cử hôm nay về quý vị Sĩ quan QLVNCH gốc Bắc di cư đã mãn phần , và ít nhiều một thời gắn bó tới mầu mây vàng Hà Nội thôi.

  Bởi vì quý vị nêu trên đã mang theo sắc mây vàng quá khứ ra đi. Và , thực sự tôi muốn hoài niệm hình ảnh Thi Sĩ đại tá Cao Tiêu cùng phu nhân đã thưởng lãm mầu mây vàng Hà Nội ở Hồ Gươm, trước khi Thi Sĩ Cao Tiêu tức cựu Đại tá Hoàng Ngọc Tiếu nhập ngũ .

    Một bức ảnh đen trắng xưa, trên một ghế đá ở bờ hồ Gươm Hà Nội, Thi sĩ và phu nhân ngồi ngắm mây thu lượn quanh thành phố được tiếng là thanh lịch từ các thế kỷ trước .

   Buổi tôi hướng dẫn các động tác tập thể dục Dưỡng Sinh cho quý cụ cao niên, bịnh hoạn ở Câu Lạc Bộ Dưỡng Sinh Saigon , sau khi tôi ra tù cải tạo.

   Tôi tiếp chuyện một vị rất trưởng thượng quen quen .

    Cụ cho tôi coi một bao hình nhỏ, cụ đưa tôi bức hình vừa nêu, cụ hỏi :

” Cô có biết Đại tá Hoàng Ngọc Tiếu không, Thi sĩ đấy …”

   Tôi thưa với cụ là Thi sĩ Đại tá Cao Tiêu .

    Cụ gật đầu : ” Ông ấy là em ruột tôi ” .

    Tôi a  lên mừng rỡ , cụ tiếp ” Tôi là Hoàng Mai Đạt ” .

    Cụ Hoàng Mai Đạt nghệ sĩ hơn Đại tá Cao Tiêu, cụ vẫn vui vẻ thơ ca ở Câu lạc bộ Dưỡng Sinh trước khi qua Hoa Kỳ sau đó ít lâu .

    Lại một câu  chuyện về mây thu Hà Nội, cụ Hoàng Mai Đạt kể : ” Tôi biết cô không ở Hà Nội nhiều như chúng tôi, cái thế hệ mà thanh niên của thành phố có nhiều hồ, nhiều hơi thu lành lạnh, những đám mây vàng nhẹ như mối tơ vương sắc vàng rơi lững lờ trên thành phố thơ mộng từ ngõ hẻm ra đại lộ .

   Tôi lắc đầu, ” cháu không phải người Hà Nội của các cụ nhìn đâu cũng thấy chút gì vừa thân mật vừa kín đáo . Cháu lớn lên ở Saigon. Khung trời rộng quá, hầu hết mây trắng 4 mùa, nếu mây xám là sắp mưa…đơn giản, mau chóng như những cơn mưa rào, thật nhanh và chưa kịp lạnh cụ ạ .

     Thế rồi thì mỗi người mỗi chạy theo cái dòng chảy không riêng lẻ, nên chẳng thấy cô đơn lắm.

    Tôi qua Hoa Kỳ theo diện tị nạn, lại càng chẳng bao giờ nhớ cái mùa thu mây vàng như trong văn chương thơ nhạc tiền chiến, hay trước ngày đất nước qua phân .

   Tôi cũng không về Bắc sau khi mọi người bảo là ” thống nhất ” . Tôi không nhớ nhung gì hết phần đất bên kia sông Bến Hải, dù tôi rất nhiều lần đứng bên cầu Hiền Lương do công tác xã hội tôi phục vụ trong Quân Lực VNCH, suốt cả chiều dài lãnh thổ từ Bến Hải tới Sa Huỳnh, cận nam Quảng Ngãi .

 Cũng có lúc tôi buồn nhìn mây bay, nghe gió thổi ở miền địa đầu giới tuyến, nhưng quả thực, không thấy lại mây mầu vàng mỡ gà mà thuở thiếu niên ba tôi cho về Hà Nội, để may áo vest ở phố Hàm Long, e chỉ còn trong ký ức rất xa xăm.

   Và hôm theo gia đình chị Nhàn lên núi nghe gió hú trong đại hí trường, có một làn mây vàng ấm áp nhưng mong manh bay ngang đỉnh động đá khối khổng lồ, lộ thiên năm 1996.

Mầu mây vàng bất ngờ, khiến tôi nhắc đến hằng loạt tên tuổi những nhà thơ văn xuất thân ở Hà Thành thanh lịch, đã một thời hội tụ ở khuôn viên Cục Tâm Lý Chiến VNCH, rồi lưu vong, thả mây thu Hà Nội đi bát ngát, mênh mông…

Quý vị ấy không ai gặp ai nữa, kể cả những đám mây vàng tan loãng, hay đổi mầu trong không gian vô cùng mịt mù ngoài vũ trụ mênh mông…

    Hawthorne  10 – 6 – 2021

           CAO MỴ NHÂN

**

CHIẾC LÁ PHONG.     CAO MỴ NHÂN

” Mùa đã vàng chưa sắc lá thu ?”

Đã sang thu rồi mà mình còn tiếp tục dậy sớm, bởi vì mình muốn gặp anh trong nỗi nhớ nhung tuyệt vời, chỉ khoảnh khắc thời gian âm dương chuyển dịch đó, đêm sắp tan ra và ngày sẽ đưa mặt trời trở lại thế gian này, mình mới quên đi nỗi nhớ.

Anh khuyên mình nên sống vô tư, hồn nhiên theo ý Chúa.

Không. Mình sẽ chẳng bao giờ theo ý Chúa khi mùa thu vàng lá chờ mong, khi anh còn cách biệt mình cả một đại dương thầm kín tình buồn .

Hỡi anh ” Yêu Quí ” ơi, anh có biết hôm nay mình khóc sớm hơn hôm qua, và những hôm qua, mình khóc sớm hơn những hôm kia không?

Anh không thực sự hay giả bộ lơ là với nỗi ” Tình Thu ” của đất trời chung và của mình riêng đâu.

” Tại sao phải lơ là, dù tôi không là thi sĩ, nhưng lòng dạ vẫn mang mang mầu mây biếc ở thành San đấy chứ …”

Thế sao anh không mang mùa thu đến sớm cho mình …buồn .

Ố ô, dại quá Mỵ ơi, dẫu :

        Ngô đồng nhất diệp lạc

        Thiên hạ cộng tri thu…

Một cánh lá phong rơi, vàng võ cả không gian, nhân gian đều đón đợi thu về, sao phải buồn thế chứ .

Hỡi anh ” yêu quí “, sao cứ gọi tên anh hoài, anh đang muốn trốn mình trong những vách núi thành San, để đọc lại bài thơ ” Thành San thu biếc ” của người tình lỡ trăm năm, nhưng vĩnh cửu ngàn năm không phai tàn sắc lá …thu vàng .

Ố ô, lại ” Ố ô” , tiếng reo vui của một cuộc tình không bao giờ chấm dứt .

Anh hỏi sao chưa chán mùa thu ư, mà cứ thích nhìn sắc mầu thương nhớ thế, anh sẽ hiện diện nơi thơ như một dấu tích hằn sâu nỗi nhớ nhung, người thơ thường  ghi lại trong mỗi bài tình thơ đầy khói sương bao phủ, để chiếc lá vàng kia lẫn vào sắc lá huyền mơ tuyệt vời hư huyễn.

” Mùa đã vàng chưa sắc lá thu ”

Mình đã đến tận Colorado, lên tới Minnesota…chỉ vì hình ảnh những cây phong chan chứa sắc thu vàng, những năm khí núi hơi rừng huyền hoặc tình thơ, không sao xoá nổi mặt trởi ủ rũ nét u sầu .

Mình chưa kể cho anh nghe, vì anh chẳng khi nào thích nghe chuyện hão huyền, còn mình thì lại vô cùng huyễn ảo.

Rằng ngày xưa mới đó, nhưng nay khách văn chương đã trở thành người thiên cổ.

Khi còn học trung học, cô giáo Ninh dạy Việt văn ( xưa còn kêu là Giảng văn ) cho phân tích đoạn văn ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH của cụ NGUYỄN DU, bậc thi hào có lẽ chưa ai thay thế được, đoạn thơ có cảnh rừng phong :

Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm mầu quan san

Dặm hồng bụi cuốn chinh an

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh

Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường …

   ( Đoạn Trường Tân Thanh –  Nguyễn Du )

Điều tôi muồn kể quý vị và anh nghe, là cây phong lá vàng trong thơ cụ Nguyễn Du, dấu tích cuộc chia tay, Thúc Sinh và Thuý Kiều, cuộc chia tay tình nghĩa nhất của Thuý Kiều .

Cây phong mà văn chương Trung Hoa phong kiến xưa gọi cây ngô đồng, mọc đầy rẫy ở Hoa Kỳ hiện nay vậy.

Thế thì, khi cây phong rụng chiếc lá vàng đầu tiên, cả thiên hạ đã biết mùa thu đang về .

Khi mới học và đọc :

Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu…

Tôi ngập ngừng trước bài viết của vị nào đó về cây ngô đồng là cây ” vông đồng ” có lá gói nem chua ở miền nam.

Tôi còn khờ đến nỗi tưởng chiếc lá ngô của cây bắp vẫn cho trái bắp luộc, bắp nướng như ở Dalat .

Tuy nhiên tôi cũng tự hiểu là chiếc lá ngô bắp dài thoong bao bọc cây bắp đó làm sao rụng được, vì khi muốn bỏ lá bắp ấy , người ta phải tước ra .

Thế thì một ngày kia, không khí Saigon gần Noel, trời cũng se lạnh. Tôi tới Úc Viên thăm Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội , tôi cũng giả bộ đọc :

” Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu…”

Nữ sĩ Mộng Tuyết hỏi tôi:

Cao Mỵ Nhân biết lá ngô đồng như thế nào chưa ?

Tôi lặng thinh, vì …cả đời tôi đã biết ” cây ngô đồng ” đâu . Nữ sĩ Mộng Tuyết lẳng lặng mở tủ sách nơi phòng khách lớn , bà rút một cuốn sách dày. Đoạn bà mở một trang sách mà Nữ sĩ Mộng Tuyết đã ép mấy chiếc lá phong vàng ở Đài Loan trong dịp Nữ sĩ Mộng Tuyết đi họp Văn Bút Thế Giới năm nào đó, và trao cho tôi, bà nói :

” Để Cao Mỵ Nhân biết lá ngô đồng mùa thu đó nghe ”

Thế rồi thì một phần dân tộc theo đông tiến sau 30 -4 – 1975. Tôi đã tận mắt thấy từng loạt lá ngô đồng rụng như mưa rơi , không còn huyền thoại nữa .

Nhưng với tôi, tôi đến Hoa Kỳ trong mùa lá rụng, và gặp anh trong mùa lá rụng sau này .

Thế ư ? Anh có là Thúc Sinh đâu, và mình càng chẳng phải Thuý Kiều chứ, song tuổi tác đã thu phong lá vàng, nào có cần chi phải thấy một chiếc lá phong bay trước mặt, để thấy mùa thơ mộng nhất trong mỗi năm đã trở về .

Chính mình dẫu có anh hay không, mùa thu đã sẵn trong tâm hồn chứa chan sắc lá …văn chương đó rồi .. .

            CAO MỴ NHÂN

**

THƠ – CAO MỴ NHÂN

THẢ NHẸ TIẾNG BUỒN.  –  CAO MỴ NHÂN

Mỗi lần anh đọc thơ em

Là tình yêu trải đầy thềm nhớ nhung

Tiếng buồn thao thức bên lưng

Khiến anh nhìn lại, bâng khuâng nụ cười

 *

Em không thốt được một lời

Tiếng buồn thả nhẹ lên trời,bay cao

Mai đây dẫu ở phương nào

Sau lưng vẫn tiếng thì thào của anh

 *

Quan san từ thủa tóc xanh

Đến nay nụ trắng trên cành sương hoa

Thơ em ướt giọt châu sa

Cuộc tình dịu ngọt như là quả non

 *

Cần chi lòng dạ sắt son

Trái tương tư vẫn đang còn đong đưa

Tiếng buồn phảng phất hương xưa

Quả non chín đỏ môi chưa hẹn hò …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)  

  29 – 9 – 2024

LÁ THU.    CAO MỴ NHÂN

Anh về hái lá thu xanh

Đã phai sắc mộng biến thành huyền mơ

Lá phong vội đổi vàng tơ

Lẫn trong mầu nắng hoang sơ đẹp buồn

Tuổi mình vướng bận hoàng hôn

Thắm hương tri kỷ tâm hồn lãng du

Ngô đồng rụng chiếc lá thu

Bay theo bóng nhỏ mịt mù nhớ thương

Sao thu không thả màn sương

Lại hong ánh lửa cuối đường heo may

Hắt hiu chiếc lá trên tay

Phải bao nhiêu lá mới đầy tình em

Ô hay, lá rụng vàng thêm

Bâng quơ câu hỏi vương thềm thu ơi

Áo thay khi thấy mây trời

Cũng vàng như lá tuyệt vời ý thu …

     CAO MỴ NHÂN

***

  GỌI THU VÀNG.     CAO MỴ NHÂN

Đã đến, đã đi, và đã nhớ

Một thời thu bắc khứ Hoa Kỳ

Lá vàng rực rỡ mầu xa xứ

Chan chứa vàng thu sắc đắm si

*

Lạ quá, có gì mà quyến rũ

Hồn em, không , chỉ có thơ thôi

Thơ ư , tất cả toàn con chữ

Anh ở đâu, em nhớ tuyệt vời

*

Sao không mơ mộng mà thương nhớ

Tại lá vàng theo bướm vàng ư

Cả một trời vàng , mây giống lá

Bay vào vũ trụ , gọi là thu

*

 Vậy anh có đến xem thu mãn

Thu thịnh , thu khai, thu vãn buồn

Đang gọi nhau về , vàng lá vãng

Rụng tràn xuống cỏ, đẫm thu chôn…

  Los Angeles  25 – 9 – 2021

           CAO MỴ NHÂN

**

TƯỞNG MÙA THU.     CAO MỴ NHÂN

Hôm đó tưởng mùa thu

Em đưa hết sương mù

Trên tay cho anh giữ

Rồi khóc thầm trong thơ

*

Nhưng anh xua lá vàng

Gọi nắng về chứa chan

Trao em nguồn hy vọng

Giữa chiều buồn mênh mang

*

Em hỏi anh thu chưa

Hình như mây lưa thưa

Chút mông lung hò hẹn

Trên đỉnh núi sắp mưa

*

Khói trắng vờn tóc xanh

Cuộc tình sau mong manh

Không còn chi giữ lại

Cả giọt sương long lanh…

   CAO MỴ NHÂN

**

TIẾNG QUỐC KÊU THU.    CAO MỴ NHÂN

Thưa anh, mùa thực sự buồn

Mây vừa chở nắng đi luôn không về

Hoàng hoa nở tự trong mê

Tràn ra đường vắng lê thê thu vàng

*

Mấy vần lục bát sang trang

Thơ mang hồn mộng dở dang chuyện mình

Ô hay thời tiết đoan trinh

Trăm năm vẫn một cuộc tình chúng ta

*

Thưa anh, sương khói đang sa

Mầu vương sắc tím quê nhà lối xưa

Này em gió mới lưa thưa

Tóc bay, anh tưởng ta chưa hẹn hò

*

Bên sông bụi trắng mơ hồ

Nước tan sóng vỡ vi lô bạt ngàn

Chẳng còn dấu tích giang san

Cô đơn tiếng quốc gọi đàn hồi quy…

     CAO MỴ NHÂN

**

TUỔI VÀO THU.     CAO MỴ NHÂN

Tuổi vào thu, hẳn đời tươi mát lắm

Vì nước xanh và mây lặng lờ trôi

Vì khói lam và sương êm ả thôi

Nhưng hoa nở thì vàng chan chứa nắng

*

Hoa nở nhiều, nên càng nhiều cánh bướm

Bướm lượn vòng như đuổi bắt thời gian

Tuổi vào thu, thời gian càng vấn vương

Từng sợi tóc phai dần mầu đấy nhé

*

Ô, có gì phải ưu tư đâu nhỉ

Tuổi vào thu là tuổi đẹp nhất đời

Phải không anh, soi ngắm thử nụ cười

Suy ngẫm thử tháng năm xa bát ngát

*

Anh sẽ thấy những gì viên mãn nhất

Có hay không trong thời điểm này đây

Được hay thua như một thoáng hơi say

Rồi đọng lại tuổi vào thu chất ngất …

        CAO MỴ NHÂN

***




VĂN: MỘT HỒN SẦU NHỎ. CAO MỴ NHÂN

MỘT HỒN SẦU NHỎ.    CAO MỴ NHÂN

” Chúng tôi ” quen khá đông, có thể nói rất đông nữa, nhưng là để cho biết nhau thôi, chứ thân mật thì không đều khắp, ai có nhóm bạn nào hoặc rải rác vài ba ” vị “, thì tuỳ cách giao hảo của mỗi người .

Thế thì, nhân chuyện cô bạn PHƯƠNG HOA tôi mới hạnh ngộ mấy năm gần đây, nói rằng : ” Chị, là tôi, có nhiều mối tương giao thú vị quá …” khi tôi nhờ Phương Hoa ( PH ) đăng dùm tôi mấy bài thơ trong tập thơ ” NHỮNG VẦN THƠ MA ” của tôi điếu nhà văn bạn tên HỒ LINH vừa mãn phần.

Tôi có dịp trở lại một mối tương giao khác nữa, với 2 nhà thơ tên tuổi một thời trước năm 1975, kéo dài tiếng tăm trong giới thi ca trẻ, hồi đó, cho tới bây giờ .

Hôm nay tôi muốn nhắc tới tên tuổi 2 nhà thơ, mà thủa lớn lên ở Saigon cuối thập niên 50 & đầu thập niên 60 thế kỷ trước, nhị vị ấy là bạn thân của tôi :

VIÊN LINH , và TRẦN DẠ TỪ .

Trước hết, tôi xin khẳng định là tôi chỉ viết lại những kỷ niệm thơ thủa còn đi học, hay đúng ra thủa chúng tôi ở tuổi thiếu niên thôi.

VIÊN LINH tên thật NGUYỄN NAM, TRẦN DẠ TỪ tên thật LÊ HÀ VĨNH , những ngày mới từ miền Bắc di cư vô Nam, Trần Dạ Từ lấy bút hiệu HOÀI NAM .

Hai bạn thơ tôi bấy giờ sớm nghỉ học để đi làm báo cho thoả thích tính ” văn nghệ ” làm thơ, Viên Linh có viết thêm một số tác phẩm văn xuôi.

Ở số tuổi còn chưa 20 bấy giờ, Viên Linh, Trần Dạ Từ rất ngoan hiền trong cách viết, rất tiềm ẩn trong tình cảm phong phú, và thực sự ” tài hoa ” .

Ai trong quý vị và chúng tôi, khi thể hiện tác phẩm văn chương, nghệ thuật không … tài hoa chứ .

Nhưng sớm biểu lộ tài hoa văn chương, nghệ thuật, thì hình như không chú trọng đến chuyện lập thân trên đường khoa cử, hay nghề nghiệp chuyên ngành thực tế.

Tôi vẫn chỉ kể về bạn văn thơ Viên Linh, Trần Dạ Từ thôi, không nghĩ thêm về quý vị văn nghệ sĩ cùng thời khác, để tránh ngộ nhận hoặc hiểu lầm .

Ngay khi Viên Linh và Trần Dạ Từ quyết định làm văn thơ, làm báo, thì 2 bạn ấy thành công ngay .

Thoạt Viên Linh, Trần Dạ Từ là những cây bút tài tử cộng tác với các nhật báo, tuần báo, đặc san vv… ở Saigon đầu thập niên 60 thế kỷ trước, vì còn rất trẻ.

Sau Viên Linh, Trần Dạ Từ đã mau chóng giữ các chức vụ chủ bút, tổng thư ký, thi sĩ Viên Linh còn làm chủ báo nữa .

Khoảng đầu thập niên 60 đó, TRẦN DẠ TỪ còn dám lên tàu lửa xuyên việt ra Huế, đón Trần Thị Thu Vân vô Saigon lập nghiệp, với 2 bàn tay trắng, nhưng từ đó, Trần Thị Thu Vân đã trở thành NHÃ CA, nữ văn sĩ trẻ tuổi và thành công nhất giữa số đông bạn văn thơ còn mất thời gian lâu sau, mới nổi danh được, như quý vị

NGUYỄN THỊ THUỴ VŨ, TUÝ HỒNG, NGUYỄN THỊ HOÀNG vv…

   Khả năng và tài nghệ văn thơ NHÃ CA đã đành là thiên phú rồi, nhưng cũng phải công nhận là việc thúc đẩy và hỗ trợ thiết thực vẫn do TRẦN DẠ TỪ mong muốn như cái tên NHÃ CA, Từ đặt cho Thu Vân vậy .

Họ , Trần Dạ Từ & Nhã Ca mặc nhiên trở thành đôi uyên ương văn chương cho tới ngày nay, Trần Dạ Từ & Nhã Ca đã có với nhau nửa tá con, và riêng Nhã Ca đã có hàng chục tiểu thuyết ăn khách nhất thủa đó, đông thời tác phẩm ” GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ ” của NHÃ CA đã vô hình chung đi vào văn học sử , thời đại Việt Cộng tổng công kích Tết Mậu Thân Huế 1968.

Trở lại VIÊN LINH ( VL ) TRẦN DẠ TỪ ( TDT ) , tôi vẫn nói về thủa thanh thiếu niên, ấy là Thơ của nhị vị này , và đây cũng không phải bài nhận định về Thơ kiểu ĐỌC THƠ , BÌNH THƠ như quý vị cầm bút viết báo đâu. Đó chỉ là những dấu tích một thời nào đó, ai muốn biết cho …vui đúng nghĩa.

Các nhà phê bình Thơ hay cảm nhận của bạn đọc thơ, thường nhận định làm THƠ LỤC BÁT không phải là dễ, thể thơ dễ với những vần điệu chuyên thơ của Thi Sĩ , nó không từa lưa như vè, đôi khi vè còn đúng vần điệu hay hơn thơ ghép 6 x 8 của các vị viết cho có viết thôi chẳng hạn.

Thời gian sơ khai với những cây viết mới, thường khiến một số ” Tiền Bối nghề nghiệp ” ngại ngùng lời thơ và ý tưởng.

Thí dụ có bài rất hay về lời lẽ, vần điệu, nhưng tìm ra ý, thì không  có gì đặc sắc hay ngược lại.

Thủa đó, Đại Thi Sĩ VŨ HOÀNG CHƯƠNG đã có biệt danh Thi Bá rồi, nghĩa là gần như nhất trên trời thơ ca, nhưng nghe một bạn văn thơ nào đó, đề cập tới Nhà Thơ trẻ Viên Linh, 

cụ VŨ còn như lững lờ, chưa niềm nở đón chào.

Tôi nhớ bài lục bát VIÊN LINH thế này :

            ( Tựa hình như là NGOẠI Ô )

Người đi phiến động chân trời

Nghe heo may lạnh lùa khơi chiếu nằm

Một hồn sầu nhỏ phân vân

Trời âm u thấp mời thân buồn phiền

Nửa đời đi kiếm bình yên

Thương yêu bỏ lại đôi miền tịch liêu

Bạn bè còn được bấy nhiêu

Người đi quên lãng thêm nhiều ưu tư

Rời vào thành phố phiêu du

Nỗi bao la đã ngoại ô dồn về…

            VIÊN LINH

VL tác giả nhiều tập văn, tập thơ đã phát hành trước 30 – 4 – 1975.

Sau này di tản qua Hoa Kỳ , Nhà Thơ VIÊN LINH có thời giữ chức vụ CHỦ TỊCH TRUNG TÂM VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI khoảng đầu và giữa thập niên 90 Thế kỷ trước, 1993- 1995.

Ông cũng là Trưởng Đoàn Văn Bút VNHN đi dự đại hội VĂN BÚT THẾ GIỚI KỲ THỨ 61 ở PRAHA TIỆP KHẮC 11/ 1994,  với các thành viên sau :

 Thi Sĩ Viên Linh. Chủ tịch , trưởng đoàn.

 Thi sĩ Giáo Sư Nguyễn Sỹ Tế, phụ tá.

 Nhà báo Giáo Sư Phạm Việt Tuyền

Thi sĩ Cung Trầm Tưởng.  ( phát ngôn viên Pháp ngữ )

Nhà văn Trần Ngọc Nhuận ( phát ngôn viên Anh ngữ )

Thi sĩ Tô Thuỳ Yên

Cao Mỵ Nhân ( nhà thơ )

Theo danh sách nêu trên, thì quý Thi Văn sĩ, Giáo sư : Nguyễn Sỹ Tế, Phạm Việt Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Trần Ngọc Nhuận, Tô Thuỳ Yên đã chung cuộc, hiện còn Viên Linh và Cao Mỵ Nhân tại thế .

Đôi bạn uyên ương văn thơ NHÃ CA & TRẦN DẠ TỪ , qua những cơn sóng gió thời đại, sau này , cho tới bây giờ vẫn đang xuất bản nhật báo ” VIỆT BÁO ” ở Hoa Kỳ , và đặc biệt là tổ chức được hằng năm các giải thưởng văn chương, văn hoá VN một chương trình lâu dài : Viết VỀ NƯỚC MỸ , dành cho tất cả quý vị đã tới nước Mỹ tị nạn, lưu vong, tha hương, đã và đang SỐNG TRÊN ĐẤT MỸ .

Thấm thoắt đã cả nửa thế kỷ trôi qua, nhớ lại hồi tôi còn  chưa có bằng trung học đệ nhất cấp, với áo dài trắng, tóc đuôi gà, đi xe đạp đến thăm VIÊN LINH trọ học ở chùa Phú Thạnh Phú Nhuận, TRẦN DẠ TỪ thuê nhà gần chùa Vĩnh Nghiêm để bạn ta được chung vui với các bạn khác cùng thích văn thơ, như ĐỖ QUÝ TOÀN ( nay còn tên NGÔ NHÂN DỤNG, PHẠM HOÁN ( em hoạ sĩ PHẠM TĂNG ) vv…

Còn tôi vẫn ở với cha mẹ nơi cư xá HÀNG KHÔNG TÂN SƠN NHẤT, và cũng là nơi 2 bạn thơ quý VIÊN LINH , TRẦN DẠ TỪ năng lui tới thăm chơi cùng ” thông tin văn hoá …học sinh “

trong sáng tuổi 15  hân hoan, tươi trẻ…

Thời gian trôi qua, đã già nửa thế kỷ, VIÊN LINH, TRẦN DẠ TỪ

vẫn sinh hoạt bình thường trong văn giới, dù thay đổi không gian ( từ VN ra hải ngoại ) kể từ sau chính biến 1975.

VIÊN LINH không bỏ nghề cầm bút, VIÊN LINH vẫn tiếp tục xuất bản báo Thời Tập thân quen, đã có từ trước 1975 lưu hành ở miền nam Việt Nam .

Bên cạnh đó, là điều hành một cơ sở in ấn, cộng tác báo bạn ,

xuất bản sách cho bạn bè văn chương … đang tị nạn, tha hương ở các nơi tái định cư, đa phần ở Hoa Kỳ.

Với hành trình thơ văn không tách rời ” thân phận “, và thân thế cũng không vượt được những mùa xuân miên viễn ở thế gian khi bước vào lão tuế, VIÊN LINH hay ai chăng nữa, cũng ra đi về chốn vô cùng thôi.

Được tin ngày 28 tháng 3 năm 2024, Thi Sĩ VIÊN LINH đã giã từ cõi nhân sinh ở miền đông Hoa Kỳ, sau 86 năm rong chơi nơi trần gian đầy hương sắc vui buồn, nhưng lúc nào ông cũng an nhiên, thanh thản .

Mong hồn thơ ông sớm phiêu diêu miền cực lạc, để vỗ về chữ nghĩa còn để lại cho con cháu, bạn bè thân thiết xưa nay.

         Rancho Palos Verdes   1 – 4 – 2024

                    CAO MỴ NHÂN




TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN 2024

VTLV TRANG THƠ VĂN NHẠC – TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN – CAO MỴ NHÂN – ĐỖ DUNG – TUYẾT PHAN – VÕ ĐẠI TÔN – MINH THÚY – PHƯƠNG HOA – LÊ XUÂN NHUẬN – Và NHIỀU VĂN THI NHẠC SĨ VTLV Cùng Thân Hữu.

RETURN THE TRUTH ABOUT THE AIRCRAFT CASE ON SATURDAY AFTERNOON, APRIL 20, 1974 AT PHU BAI AIRPORT, HUE,

49 YEARS…APRIL IS AGAIN

Air Hijacking in April 1974 in Hue – Nguyen Phuc Lien Thanh

Le Xuan Nhuan would like to temporarily answer 2 points:

1–             At that time, throughout the Republic of Vietnam, it was difficult to find a North Vietnamese Communist flag (red flag with yellow star, of the Democratic Republic of Vietnam) because the Communist Party thoroughly implemented present the guise that “national forces in the South automatically stood up against the Republic of Vietnam regime, but the Communist Party of Vietnam did not intervene in South Vietnam”; Therefore, Lien Thanh and the National Police of Thua-Thien/Hue could not find a single communist flag. When the plane drove slowly into Phu Bai airport headquarters, the hijacker clearly saw that there was no communist flag, meaning that Dong-Hoi airport did not belong to the Communist North, so he detonated the bomb. grenades.

2-             The Air Vietnam aircraft in this case is a Douglas C-54A (XV-NUM), 4-pinner, or DC-4, with a height of 27ft 6in (8.38 meters), from the ground to the doorstep. Getting into the plane is very high. The plane stops but there are no stairs up/down, making it difficult to easily jump into the plane like in a movie.

DC-4.JPG

Very high view of Douglas R5D-2.jpg

Footnote: In the evening of the same day, Air Vietnam took another plane to Phu Bai, with 2 passengers, Lieutenant Colonel Trinh Van Ca (Head of E-2, aka Director of Counter-Intelligence and Internal Affairs, directly under Colonel Huynh Thoi Tay, Head of the Central Special Branch); together with Lieutenant Colonel Tran Phuoc Thanh (formerly Director of the Central-Nguyen Trung-Phan National Police Department, now Chief of Security Department of the Vietnam Civil Aviation Department.

3-             I briefly presented everything I had done, then together with Major Ngo Phi Dam (Chief F, Chief of Operations of my E-6) boarded the Allied Friend’s helicopter to fly back. Da-Nang because it was already dark.

4-             A few days later, while working at the Central Special Police Branch, I met and talked privately with Lieutenant Colonel Trinh Van Ca. He told me that Major Truong Cong An (Chief F, Chief of the Thua-Thien/Hue Special Police Department, privately confessed to him that in the recent “no shortage” incident, the Police outside That time, we could not find a single North-Vietnamese Communist flag to use in the plan to disguise Phu-Bai as Dong-Hoi.

5-             Returning to my assignment, I went to Hue to meet Major An privately, and An also confessed the same to me.

6-             As for the difference between Gia-Lam airport and Dong-Hoi airport, about a month later, Lieutenant Colonel Tran Phuoc Thanh, on a trip passing by my house, stopped by to visit me and tell me- It was revealed that Chief Pilot Duong Van Em decided on his own initiative that if he had to fly far, he would choose Dong-Hoi airport which is closer and smaller to avoid confusion because Gia-Lam is too big. The name Dong-Hoi thus entered the records of the astronaut world (although April was mistaken for February: February 20, 1974): https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_accidents_and_incidents_involving_the_Douglas_DC-4

As for Gia-Lam, the flight attendant named Hong, who from beginning to end walked closely and talked to the hijacker, answered my interview questions.

LE XUAN NHUAN

If you want to know more details, please read the memoir “The Central Region’s Chaos

LỜI DÂNG LÊN MẸ VIỆT NAM
(49 NĂM – LƯU VONG)

VÕ ĐẠI TÔN (Hoàng Phong Linh)
MẸ VIỆT NAM ơi
49 năm rồi
Áo con đã rách.
Còn sợi chỉ nào, từ nguồn thiêng huyết mạch
Cho con xin, vá lại áo Đời.
Con đã đi, đường gai góc mòn hơi
Xuyên rừng núi, mồ hôi pha trộn máu.
Về quê hương, nguyện lòng son chiến đấu
Nửa đường đi thành đêm tối lao tù.
Mười năm ôm hận nghìn thu
Lênh đênh chìm theo vận Nước.
Và hôm nay, vạn nẻo đường xuôi ngược
Con vẫn còn tiếp bước Cha Ông.
*
Bao nhiêu năm – Mẹ đã đau lòng
Nghe con khóc từ trùng dương sóng chuyển.
Huyền sử xưa năm mươi con theo Cha về biển
Giống Rồng Thiêng mở rộng cõi bờ.
Còn hôm nay vì hai tiếng Tự Do
Trăm ngàn thây vùi tan nơi vực thẳm.
Năm mươi con vượt rừng sâu muôn dặm
Theo Mẹ hiền – thơm nửa máu dòng Tiên.
Dựng quê hương hùng sử khắp ba miền
Nay Văn Hiến cằn khô cùng sỏi đá.
Những địa danh chôn xương tù gục ngã
Tên kinh hoàng, tủi nhục đến nghìn năm.
Hoàng Liên Sơn không nấm mộ con nằm
Cổng Trời nghe máu khóc.
Dã thú vờn quanh, xiềng gông, tang tóc,
Nghĩa “Con Người” thua chữ sắn khoai.
*
Bao nhiêu năm – em bán hình hài
Tìm miếng cơm manh áo.

Đại Hàn, Đài Loan, xông xáo
Mua em về làm món đồ chơi.
Năm nghìn năm dù nước lửa dầu sôi
Chưa bao giờ mẹ bán con vì đói.
Bầy trẻ thơ còm cõi
Bươi rác nghèo, rách rưới lang thang.
Nghe quanh mình loa vẫn thét “vinh quang”
Đường Tương Lai đá cũng tan thành lệ.
*
Bao nhiêu năm tưởng chào vui thế hệ
Ngẩng cao đầu, tay vói đến năm Châu.
Nhưng cội nguồn và đạo lý chìm sâu
Lo sáng tạo những đua đòi vật chất.
Mùi kim tiền thơm hơn bánh mật
Giấc mơ vàng : – mong thoát khỏi quê hương.
Thúy Kiều xưa, rơi sóng nước Tiền Đường
Nay viết lại thành Tiền Giang, phản động ! () Lũy tre xanh, cánh tay thần Phù Đổng Bao anh hùng dựng Nước thuở ban khai Còn lại đây hoang phế cả đền đài Tên Hùng Vương đành thua tên Bill Gates. ().
Túi càn khôn đã nghèo, thêm rỗng tuếch,
Văn Hóa này còn lại tiếng “bia ôm” !
*
Bao nhiêu năm – răng hổ đói đỏ ngòm
Luôn gầm thét, xé tươi hồn Dân Tộc.
Từ địa đạo ùn lên bao cơn lốc
Thành “đại gia” chễm chệ một phương trời.
Miệng “vô sản” toàn men rượu nồng hơi,
Tay “chuyên chính” ôm bao đầy châu báu.
Dinh thự nguy nga, dựng lên từ máu
Của nhân dân khổ hạnh một đời.
Người thương binh ngẩng mặt nhìn trời
Nghe tiếng khóc trong tiếng cười vang vọng.
Chiếc xe lăn bánh mòn, gãy gọng
Lê thân tàn về cuối hẻm đơn côi.
*

MẸ VIỆT NAM ơi
49 năm rồi, niềm đau quặn thắt.
Đã có bao người lửa lòng nguội tắt
Dĩ vãng quên rồi, hiu hắt tình Quê ?.
Lớp già nua mơ ước nẻo về
Không nhắm mắt, cuối đời lên tiếng nấc.
Còn tuổi trẻ hồn nhiên hoa mật
Nơi xứ người chấp nhận quê hương.
*
Nhưng một ngày mai :
Đường hoa nở hướng dương
Hành trình thôi cúi mặt.
Sẽ có những đàn con vòng tay siết chặt
Kéo mặt trời về lại phương Đông.
Tổ Quốc sẽ tươi hồng
Giữa hào quang Dân Tộc.
Cây Tự Do sẽ đâm chồi nẩy lộc
Lửa Nhân Quyền bừng sáng nẻo thâm u.
Mái trường vui thay thế chốn lao tù
Cho con học từ cội nguồn Nhân Bản.
Không kẻ nào được quyền mua bán\
Thịt da em, nguồn sống của Rồng Tiên.
Hồn Tổ Quốc linh thiêng
Đài cao về chiếm ngự.
Cuộc hành trình từ quê hương – viễn xứ –
Chuyển xoay thành trẩy hội hoa đăng.
Từ phương Nam tung vút cánh chim Bằng
Thành Rồng thiêng Đông Á.
Từ núi cao nghiêng mình ra biển cả
Rạng ngời soi hai chữ : VIỆT NAM.
*
Lời trần tình bao nhiêu năm
Con viết bằng tim máu.
Từ nỗi đau âm thầm chôn giấu
Kính dâng lên TỔ QUỐC hằng yêu.
Mỗi chữ-vần mong gói trọn một điều :
Từ Tâm Thức xin góp chung Hành Động.
Đại cuộc Toàn Dân ban con Lẽ Sống
Hiến dâng đời cho trọn nghĩa Quê Hương.

MẸ VIỆT NAM ơi
Dù gian lao xin tiếp máu Lên Đường
Cho con về với Mẹ.
Vững chân đi, qua trăm ngàn dâu bể
Được quỳ ôm từng mảnh đất quê Cha.
Phút cuối đời xin biến lệ thành hoa
Giữa triều vui Dân Tộc.
Trong lòng con : – Vĩnh hằng TỔ QUỐC
Huy hoàng Văn Hiến – Tự Do !.
VÕ ĐẠI TÔN. (Hoàng Phong Linh)
Ghi chú :

THƠ  XƯỚNG – HỌA

KHÓC SAIGON

Hốt hoảng chìm trong lửa bạo tàn

Sài Gòn run rẩy chít khăn tang

Người đi cách biệt, sầu câm nín

Kẻ ở chia tay tiếng khóc than

Rừng thẳm chiều buông,  cải tạo

Mồ hoang vạn nấm lệ dâng tràn

Bắc Nam cùng giống, sao thù hận?

Trách nhiệm về ai hỏi thế gian ?

Mặc Khách (1975)

THÁNG TƯ NĂM ẤY (Bài Họa)

Tháng Tư năm ấy bởi tham tàn

Hòn Ngọc Viễn Đông đau đớn tang

Kẻ bước hồn thương còn bịn rịn

Người ngồi tim thảm vẫn sầu than

Thân nhân dương thế bặt tin tới

Cải tạo cõi âm khiến lệ tràn

Cộng sản chủ trương gieo độc ác

Giặc Hồ qủy đỏ chốn dân gian

Doãn Thường, 22-4-2019

KHÓC SÀI GÒN (Bài Họa)

Cứ nghĩ rằng sau cuộc chiến tàn

Nỗi đau cả nước được phi tang

Sái Gòn hướng tới xây hưng thịnh

Hà Nội vươn lên xóa oán than

Từng bước thực thi dân chủ khắp

Mỗi nơi bày tỏ ấm no tràn.

Chằng ngờ rặt thấy trò man rợ,

Chú phỉnh mà thôi, toàn dối gian !

Thái Huy

CUỘC CHIẾN TÀN (Bài Họa)

Giặc đến thành đô cuộc chiến tàn

Trời Nam ảm đạm một màu tang

Lìa cha lạc mẹ lời ta thán

Nát cửa tan nhà tiếng oán than

Phụ tử chia ly dòng thảm đượm

Phu thê cách biệt giọt sầu tràn

Quân dân cán chính đời cay đắng

Bởi lũ cai tù quá ác gian

Đinh Tường

HẬN TIẾC THÀNH DÔ (Bài Họa)

ĐỌC XUÔI:

Đô thành tiếc hận khóc canh tàn,

Việt tộc cùng chia lệ tóc tang.

Mồ mả tỏ tiên đành xới bỏ,

Vợ chồng con trẻ khóc buồn than !

Nô vong* tủi nhục thân dầu dãi,

Khổ luỵ thương đau máu chảy tràn !

Bờ cõi nước non sầu rẽ bán…

Hồ quân rõ ác tặc tà gian !

ĐỌC NGƯỢC:

Gian tà tặc ác rõ quân hồ,

Bán rẽ sầu non nước cõi bờ.

Tràn chảy máu đau thương luỵ khổ,

Dãi dầu thân nhục tủi vong nô.

Than buồn khóc trẻ con chồng vợ,

Bỏ xới đành tiên tổ mả mồ !

Tang tóc lệ chia cùng tộc Việt…

Tàn canh khóc hận tiếc thành đô !

Liêu Xuyên

TẠ TỪ MẸ

 Đêm vẫn vô tình cơn gió lạnh

Gió mang rét buốt buổi tàn đông

Men theo khe cửa lùa vào Mẹ

Làm buốt tim con xót xa lòng

Đêm vắng lặng mơ hồ thăm Mẹ

Đôi tay khô hốc cánh tay gầy

Bước đi nghiêng ngã thân tàn tạ

Con sợ Mẹ buổn chẳng dám lay

Con bất hiếu không ngày phụng dưỡng

Bao năm xa Mẹ tuổi còn thơ

Hồn nỗi trôi bên bờ sinh tử

Đời trai chinh chiến chẳng được nhờ

Căn nhà nhỏ từ đây trống vắng

Con mãi rừng sâu khuất tuổi xanh

Đã bao năm mỏi mòn lao khổ

Sống qua ngày hơi thở mong manh

Đêm dần tàn gịó mùa rét mướt

Giấc mơ buồn nhớ Mẹ lệ tuôn

Thăm Mẹ lần cuối con từ tạ .

Nếu không còn gặp, Mẹ đừng buồn !

Mặc Khách

         (  Đêm trong tù 1982 )

MỒ CHÔN TUẤN KIỆT

(Chiến tranh_Ngục tù)

Áo rách thay hòm chôn xác bạn

Nghìn năm còn mãi lệ xót xa

Lòng dân run sợ hồn ta thán

Gió hú oan hồn tiễn thây ma

Hồn dật dờ nương theo làn gió

Chập chờn bay về cõi hư vô

Rừng âm u cất lời ma quái

Giữa đêm khuya xào xạc đáy mồ

Rừng sâu vùi chôn bao tuấn kiệt

Nơi đọa đày Cải Tạo cùm gông

Họ, những Anh hùng Thế hệ trẻ

Xếp bút nghiên trên dưới đôi mươi

Vì Giang sơn Tổ Quốc Miền Nam

Xông pha trận chiến giữ lòng trung

Giờ vùi thây rừng sâu nước độc

Cho người đào tẩu sống yên vui

Những hình ảnh bi hùng còn mãi

Từng thây người cản bước xâm lặng

Người giàu sang quyền cao chức trọng

Cùng nhau trốn chạy mặc tàn quân

Tôi ước mong trái tim ngưng đập

Cho hồn nhẹ bước muôn nơi

Bay theo mây hòa cùng với gió

Quên, quên đi thống khổ kiếp người !

Mặc Khách

(U.Minh 1981)

Theo Dòng Nước Xoáy

Đỗ Dung

1-Mưa xối xả như giận dữ trút nước xuống thành phố, thỉnh thoảng sấm sét đì đùng và những lằn chớp ngoằn ngoèo trên không. Cu Chou nép mình trong lòng mẹ ngủ ngon lành. Ngọc ôm chặt thằng bé như cố gắng che chở con, mắt mông lung nhìn qua cửa sổ. Những chùm bông giấy tím trên bờ tường rào run rẩy và cây bông sứ như đứng oằn mình chịu đựng cơn dông. Nhìn khuôn mặt ngây thơ của con, hai dòng lệ ứa ra rồi nàng dụi mặt vào người con, thút thít khóc. 

Chiều hôm ấy, khi đi làm về, Khương buồn bã, chẳng nói năng gì, cất cặp sách, thay quần áo rồi ngồi thừ ra suy nghĩ, chẳng thiết đến bữa ăn. Thấy không khí nghiêm trọng Ngọc không dám lên tiếng, đợi đến tối sẽ gạn hỏi cho ra nhẽ. 

Buổi tối, sau khi cơm nước, dọn dẹp xong, hai vợ chồng đang sửa soạn cho con đi ngủ thì tiếng chuông cửa reo. Mở cửa ra, sáu người trong quân phục với súng ống lăm lăm, đứng ngay trước cổng. Ngọc hoảng hốt, sợ hãi không biết tai ương nào sắp giáng xuống gia đình nàng đây. Khương ra mở cổng, sáu người bộ đội tràn vào, dàn trận như đang hành quân bố ráp, bốn người súng AK cặp nách, hai người súng ngắn trên tay. 

Mấy người mang súng AK ngừng lại ngoài sân.  Hai người bộ đội có vẻ như cấp chỉ huy bước vào phòng khách cùng vợ chồng Khương, hỏi tên và một số chi tiết về cá nhân chàng rồi nói như ra lệnh: 

– Mời anh theo chúng tôi về Ủy Ban Quân Quản làm việc. 

Ngọc cuống quýt: 

– Thưa các anh, các anh cho địa chỉ để sáng nhà tôi lên trình diện các anh được không? 

Người ấy lạnh lùng: 

– Chúng tôi được lệnh đưa anh đi ngay. Khẩn trương lên! 

Trong khi Khương vào thay quần áo, Ngọc lấy một túi vải sắp một bộ đồ mặc nhà, một áo lạnh và một số vật dụng vệ sinh như bàn chải đánh răng, khăn mặt … cho chồng.  Nàng nghĩ nhỡ Khương phải ở lại qua đêm. 

Nhìn chồng đi giữa những người bộ đội, bước lên chiếc xe bít bùng, dù không bị còng tay nhưng cũng bị áp giải như tội phạm, Ngọc bàng hoàng, thảng thốt. Đang đêm khuya, nhà không có phương tiện để liên lạc với bên ngoài, Ngọc điếng người vì sợ hãi.  Cả đêm nàng không ngủ, nằm ôm con, miệng lâm râm niệm Phật và mong trời mau sáng để chạy về nhà mẹ hay nhà chị Lan, để rúc vào lòng mẹ hay lòng chị mà khóc, mà kể lể, mà tìm sự chở che. 

2-Sáng sớm tinh mơ, chị Lan đang đảo đều nếp với khoai mì trong chõ, sửa soạn cho mỗi người một chén đầy xôi khoai mì trộn chút muối mè-đậu phộng cho chắc bụng trước khi người đi học, kẻ đi làm. Nhìn chõ xôi chị bất giác thở dài, trưa hôm qua sau khi được gọi ra xếp hàng ở tổ dân phố để mua thực phẩm, chị vác về một bao khoai mì, khoai lang mà ngán ngẩm. Khoai lang đã nhiều chỗ bị sùng, khoai mì sắp chạy chỉ. Chị phải bỏ nguyên buổi tối ngồi gọt vứt những chỗ hư, chừa lại một ít nấu ăn ngay ngày sau, chỗ còn lại sắp vào cái mẹt lớn, định phơi khô để sẽ độn với gạo nấu ăn dần. Anh Luận, chồng chị, sĩ quan cấp tá đã đi trình diện học tập, tưởng một tháng thì về mà đến nay đã hơn một tháng vẫn bặt vô âm tín. Nhìn đàn con dại, bốn đứa từ 10 đến 16 tuổi, đang sức lớn, cơm chẳng đủ mà ăn, tương lai mờ mịt, biết sẽ về đâu. 

Bỗng tiếng đập cưả rồi tiếng Ngọc như rên rỉ: 

– Chị Lan! Chị Lan ơi…! 

Thằng Chương, con trai lớn nghe tiếng dì, chạy vội ra đỡ chiếc xe đạp mini của Ngọc, bế cu Chou đang phụng phịu vì còn ngái ngủ vào nhà. Ngọc như đổ ập vào người chị, tiếng nói đứt quãng qua tiếng nấc uất hận, nghẹn ngào: 

– Đêm hôm qua… người ta… đến nhà em… bắt anh Khương đi rồi… chị ơi… 

Nói xong nước mắt Ngọc tuôn ra như suối, ướt đẫm vai áo chị Lan. 

– Cả đêm qua em không ngủ được phải không? Thôi vào đây nằm nghỉ, chị pha cho em ly sữa nóng, uống cho khỏe, em hãy ngủ một giấc cho lại sức. Ốm đau lại khổ! Từ từ… ta tính! 

Nói để vỗ về, an ủi em nhưng hai dòng lệ cũng chảy dài qua khoé mắt chị Lan. 

Một đêm thức trắng vì sợ hãi, qúa mệt mỏi nên sau khi uống ly sữa nóng, Ngọc nằm ngay xuống chiếc đi văng trong phòng khách nhà chị ngủ thiếp đi. Nhìn nét mặt mệt mỏi của cô em út, chị Lan thở dài.  Con bé được cưng chiều từ nhỏ, cả nhà yêu thương vì Ngọc xinh xắn, học giỏi và ngoan ngoãn. Khi lập gia đình lại gặp nơi tử tế, chồng quý, chồng cưng… Thế mà giờ đây gặp cơn bão tố thế này. Thật tội cho em. 

Hôm nay không có giờ dạy, Lan rút một tờ giấy trắng viết đơn cáo bịnh xin nghỉ hai ngày để ở nhà giúp Ngọc. Chị đưa lá đơn cho Chương, dặn con khi đi học nhớ ghé qua trường của mẹ nộp cho mẹ. Đợi Ngọc thức dậy Lan sẽ cùng em sang báo tin cho bố mẹ nàng, báo cho bên nội thằng cu Chou. 

3-Cụ Tham Minh đang cầm cây chổi lông gà phủi bụi trên những khung ảnh Ông Bà bầy trên bàn thờ bằng gỗ cẩm lai vẫn còn được đặt trang trọng trong phòng khách.  Nghe tiếng bi bô của thằng bé con, cụ quay lại, hai cô con gái đang dắt tay thằng bé bước lên thềm. 

– Bố ạ! 
– Hai chị em có việc gì mà rủ nhau sang đây sớm thế? 

Lan ngập ngừng: 

– Thưa bố… Chú Khương bị bắt đêm hôm qua. 

Cây chổi lông gà rơi tuột khỏi tay, cụ bước vội đến chiếc tràng kỷ ngồi phịch xuống: 

– Kể cho bố nghe, sự việc thế nào? 

Lan thay Ngọc kể lại những diễn biến xảy ra tại nhà Ngọc hôm qua trong khi Ngọc ngồi bên tủi thân ôm con rấm rứt khóc. 

Mặt cụ ông như sạm lại, cụ không biết nói sao. Năm nay cụ đã hơn bảy chục tuổi, suốt đời hai cụ đã lo nuôi dạy bầy con sáu đứa đến lớn khôn, học hành thành đạt. Tưởng rằng hai cụ sẽ được hưởng những ngày tháng bình yên tuổi già, vui với mấy chậu kiểng ngoài sân, thỉnh thoảng con cháu về thăm hay có nhớ con nhớ cháu thì cụ chỉ cần ra đường vẫy chiếc xích lô là có thể đến với chúng nó. 

Bây giờ hai người con trai của cụ nhà bị niêm phong từ 30/4 đến nay.  Chưa biết hai gia đình đó sống chết thế nào, có đi được đến nơi, đến chốn hay không. Hai cô con gái kẹt lại, cô lớn chồng đi cải tạo không biết ngày về, cô út chồng bị áp giải đi thế này. Đúng là tai trời ách nước. Vận mệnh con người phải nổi trôi theo vận mệnh chung. 

Cụ nghĩ đến Khương, anh con rể út hợp tính, hợp nết với cụ, một thanh niên cương trực, thẳng thắn, trong sạch, nặng lòng với quê hương. Những lúc giỗ tết, trong khi đàn bà con gái lo việc cỗ bàn dưới bếp Khương hay ngồi tiếp chuyện cụ, thân tình như con trai. Anh kể cho cụ về những ngày anh mới chân ướt chân ráo đến Paris, kinh thành ánh sáng, còn ngơ ngác hoang mang đã bị những cán bộ CSBV níu kéo mua chuộc bằng những phương pháp rất tinh vi. Những thành phần quốc gia nhưng thiên tả cũng có rất nhiều, họ thu phục đám thanh niên nhẹ dạ, dời quê hương khá lâu và không am tường về hiện tình đất nước.  Trong khi nhân viên của toà Đại Sứ VNCH lại quá lơ là, không để ý đến cuộc sống, đến sinh hoạt của sinh viên du học. Khương còn kể với cụ rằng có lần anh đã cùng nhóm sinh viên thuộc phe VNCH chính thức đối đầu với nhóm cán bộ Cộng Sản. Sau đó phe Quốc Gia cũng mời anh vào hoạt động chính trị với họ nhưng anh đã từ chối. 

Mới đây, một anh bạn học cùng thời với Khương, về giảng dạy tại Trường Y khoa, đang âm thầm thành lập Mặt Trận Phục Quốc, có liên lạc và thuyết phục anh hợp tác. Anh đang phân vân giữa trách nhiệm với đất nước và trách nhiệm với gia đình. Bây giờ nghe tin này, cụ chưa biết mức độ nghiêm trọng cỡ nào. Khương bị bắt oan hay anh đã nhúng tay, hợp tác với tổ chức mà anh đã có lần kể với cụ. Nghĩ thương chàng rể lại xót xa cho con gái mình. Cụ chẳng biết nói sao, nhìn lên trần nhà, một con thạch sùng giương đôi mắt nhỏ, đen láy nhìn cụ như chia sẻ rồi tặc lưỡi, quẫy đuôi bò đi. 

Lan và Ngọc sửa soạn ra về thì cụ bà tay xách giỏ chợ bằng nilon có bó rau muống thò ra khỏi miệng giỏ, đẩy cửa bước vào đon đả: 

– Hai chị em sang chơi hả? Các con đến lâu chưa? 

Cụ như khựng lại: 

– Sao hai đứa mắt đỏ hoe thế này? Có chuyện gì vậy con? 

Như được khơi nguồn, Ngọc khóc nức nở, cụ bà chạy vội đến ôm cô con út. Ngọc được thể gục vào lòng mẹ tức tưởi. Cu Chou giương đôi mắt tròn xoe nhìn mọi người rồi cũng bật lên khóc oà. Sau khi nghe con kể rõ nguồn cơn cụ bà thở dài: 

– Hai chị em ở lại ăn cơm với bố mẹ, mẹ mới mua được miếng thịt thăn ngon tính làm ruốc, thôi để mẹ rim lên cả nhà ăn với rau muống luộc, nhà cũng còn lọ dưa muối. Từ từ ta tính. 

Cụ lập lại y như những lời Lan đã an ủi em, từ từ ta tính. 

Cơm nước dọn dẹp xong xuôi, con cháu ra về hết, hai cụ ngồi nhìn nhau buồn bã. Buổi sáng, sau khi ghé khu chợ trời bán bớt một mớ quần áo cũ của Quân và Nga, hai người con bên Pháp, cụ bà đi ngang qua nhà Vinh, anh con trưởng. Căn nhà đã được trưng dụng, mặt tiền nhà đã là cửa hàng hợp tác xã của phường chứa đầy cá khô. Đã gần ba tháng mà chưa có tin tức chính thức nào của con, hai cụ cũng rất nóng ruột. Cụ thương anh con trưởng hiền lành như đất, chọn nghề giáo, làm tròn bổn phận giảng dậy, uốn nắn thế hệ tương lai. Chị Vinh con nhà tử tế, bạn học với Lan, cũng nhà giáo nhưng lanh lợi hơn chồng, sanh được hai thằng con khỏe mạnh, đẹp trai, thằng lớn đã vào đại học, thằng em cũng sắp xong trung học. Cụ mừng lắm, sau khi gả chồng cho Ngọc, cô gái út cụ đã định bụng khi già yếu sẽ thu xếp về với nhà anh cả nhưng nay cớ sự thế này! Nghĩ đến Khanh, con trai Út, cụ lại thương, lấy vợ mấy năm trời, vợ còn đi học nên chả dám sanh đẻ, cô vợ vừa ra trường, mới mừng rỡ báo tin với cha mẹ là sắp được làm cha thì lại trời đất tai ương thế này, cho đến nay vẫn chưa tin tức. Cuộc sống của cụ từ ngày về nhà chồng êm ả, sanh sáu người con cứ đổi đầu, một trai rồi một gái, Vinh-Lan-Quân-Nga-Khanh-Ngọc. Nghĩ đến Ngọc cụ không ngăn được dòng nước mắt xót xa.  Một thân một mình với đứa con nhỏ chưa đầy hai tuổi, Ngọc làm sao chống chọi với đời. Cụ bàn với cụ ông sang bảo mẹ con Ngọc thu xếp về nhà bố mẹ mà ở, mà nương tựa với nhau.

 4-Lan là cô giáo của một trường Nữ Trung Học lớn tại Saigon.  Sau ngày 30/4 chị đến trường trình diện ngay và ghi tên xin đi dạy lại, mong được là công nhân viên, có công việc ở thành phố để gia đình khỏi bị đi kinh tế mới.

Sau những lớp học tập chính trị cho thông suốt chủ trương đường lốí cách mạng, chị được lưu dung nhưng phải đổi sang một trường Trung Tiểu Học nhỏ tại Quận Mười Một.  Hàng ngày phải gò lưng đạp xe từ Tân Định sang tuốt khu Chợ Lớn với đồng lương chết đói không nuôi nổi một miệng ăn. Vì sự thay đổi cả một ý thức hệ nên mọi sinh hoạt trong trường cũng đảo lộn. Đứng trên bục giảng nhìn lũ học trò lẫn lộn trai gái; áo quần luộm thuộm, nhơm nhếch; mặt mũi ngơ ngáo, bơ phờ.  Xuống phòng giáo viên những khuôn mặt đồng nghiệp xa lạ, lạnh lùng.  Chẳng biết tư tưởng người khác như thế nào nên mọi người đều lặng thinh.  Ai cũng phập phồng lo lắng và chẳng biết tin ai mà tâm sự. 

Anh Luận, chồng chị, đi học tập qúa một tháng vẫn chẳng có tin tức gì. Nhìn bốn đứa con còn nhỏ dại, Chương 16, Văn 14, Nhu 12, bé Út Hiền mới hơn 9 tuổi, không biết tương lai chúng ra sao, cuộc đời mấy mẹ con chị trôi về đâu. Làm sao một mình chị có thể cáng đáng công việc vừa làm mẹ vừa làm cha, vừa phải kiếm tiền nuôi con, vừa phải có thì giờ theo dõi, dạy dỗ, giáo dục con trong thời buổi nhiễu nhương này.  Nhất là trẻ con ở lứa tuổi mới lớn, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh như bầy con của chị.

Đồng lương không đủ sống, Lan phải gom góp đồ đạc trong nhà, bán đi những thứ không cần thiết để lo tiền chợ. Ngày nay đi dạy học không mặc áo dài nữa, chị soạn mấy chiếc áo dài cũ và một số quần áo đã chật của các con bỏ vào chiếc giỏ cói đem ra chợ trời.

–     Cô ạ!

Giọng nói quen thuộc khiến Lan quay lại.

–     Cô, em không thấy cô lên trường …em tưởng…Cô khoẻ không?

Nhìn con bé Liên, học trò cưng ở trường cũ rưng rưng nhận cô giáo, Lan cũng nghẹn ngào.

–     Cô chuyển trường khác.  Trường mình hồi này ra sao hả em?

Liên kéo Lan vào quán cà phê nhỏ gần đó

–     Em mới nghỉ học rồi cô ạ.

–     Em đang học Lớp Mười Một mà, còn chưa đầy hai năm nữa là hết bậc Trung học sao em không cố gắng cho xong?

–     Thưa cô, ba em đi học tập, chị em xong Tú Tài có được vào Đại học đâu cô, chị xin dạy lớp mẫu giáo ở gần nhà, không biết được bao lâu. Hai thằng em trai em chắc đến tuổi cũng phải đi nghĩa vụ.  Mẹ em cực quá, em quyết định ở nhà buôn bán kiếm tiền giúp mẹ em.

Lan thở dài:

–     Em là học sinh giỏi, bỏ ngang như thế này uổng qúa.

–     Học làm gì hả cô? Vào trường chỉ lo phấn đấu để được là đối tượng đoàn. Bọn học trò ngoài Bắc vào phần nhiều hỗn xược.  Thày cô cũng lo trăm thứ việc bên ngoài, tối ngày lo họp, lại còn phải vào những tổ sản xuất, thi đua lao động tốt để lập thành tích… học gì cô?

Rồi cô bé hạ giọng:

–     Em lo kiếm tiền, kiếm đường đi cô ạ.  Em không thể sống dưới chế độ này.

Nhìn Liên, Lan nhớ cô học trò giỏi, ngoan, hiền mà chị thương mến, nhớ hình ảnh cô học trò mắt sáng long lanh nhìn lên bục giảng. Bây giờ em mặc bộ bà ba đen, gầy gò, phờ phạc. Một nỗi xót thương dâng trào.  Chị nghĩ đến thân phận mình và chạnh nghĩ đến bầy con.  Không biết trong những tâm hồn non trẻ đó, chúng suy nghĩ những gì.

–     Cô muốn bán những thứ gì hả cô?

Liên hỏi, Lan hé chiếc giỏ cói cho Liên xem.

–     Cô đưa em, cô ngồi đây đợi em một chút em đem bán hộ cô.  Cô lạ mặt họ ép giá.

Nhìn con bé xách chiếc giỏ thoăn thoắt bước đi, ruột Lan như quặn thắt. Chỉ một thoáng, Liên cầm chiếc giỏ không về, dúi một nắm tiền vào tay Lan cười ngỏn ngoẻn:

–     Em đứng luẩn quẩn ở đây, ai bán gì em mua, ai mua gì em bán cô ạ.  Em không có hàng quán nào hết, chạy hàng thôi.

–     Sao em giỏi thế?

Lan rút vài tờ giấy bạc đưa Liên:

–     Cám ơn em, cho cô gửi.

Liên ngậm ngùi:

–     Cô ơi, cô cầm lấy, nhìn cô mặc áo bà ba, đội nón lá, đạp xe đạp, phải đi bán cả quần áo cũ là em xót xa lòng dạ lắm rồi.  Cô về đi, khi nào cần gì cô cứ ra khu này là có em.

Thày trò nắm chặt tay nhau cùng ngăn dòng nước mắt chỉ trực tuôn trào.

Chia tay Lan, hòa mình vào dòng người xuôi ngược trong khu chợ trời, Liên không cầm được nước mắt. Hình ảnh cô giáo Lan mà Liên đã tôn thờ, yêu qúy thay đổi đến thế sao. Cô giáo Lan dịu dàng, áo quần luôn tươm tất, giảng bài rất rõ ràng, dễ hiểu. Cô luôn để ý, ân cần với tất cả học trò, uốn nắn từ lời ăn, tiếng nói, cách cư xử ở đời… Cô là thần tượng của biết bao thế hệ nữ sinh.  Cô ơi, chúng em vất vả, lam lũ thì được nhưng nhìn cô như thế này em không chịu được, đau lòng lắm, cô ơi.

Đạp xe đi giữa lòng phố Sài Gòn nắng gắt nhưng lòng Lan như tê buốt. Hôm nay gặp cô học trò cũ ở hoàn cảnh này khiến Lan nhớ lại bao sự việc đau lòng mà chị đã chứng kiến.  Một hôm nhìn thấy một thày giáo dạy cùng trường đang cong lưng đạp chiếc xich lô chở khách ngược chiều gió, Lan phải lảng ngay, tránh cảnh gặp gỡ bẽ bàng của hai nhà giáo. Chị biết ông thày đó có năm đứa con thơ mà đứa bé nhất chưa đầy một tuổi.  Chỉ có lương giáo chức không thôi thì làm sao nuôi nổi từng ấy miệng ăn, thương làm sao! Rồi một lần chị gặp một cô bé trạc tuổi thằng Chương đứng thút thít ở gần cầu xa lộ.  Cô bé nhìn thấy chị thì oà lên khóc gọi tên cô Lan.  Hoá ra cô cũng là học trò nơi trường cũ chị dạy. Hỏi chuyện mới biết cô đi buôn than từ Long Thành về, bị cảnh sát kinh tế bắt được nên tịch thu hết hàng hóa, may là không bị bắt giam. Khổ quá, đúng là tính quẩn tính quanh, buôn bán lời lãí bao nhiêu với một nhúm than nếu đi chót lọt! Tuổi các em phải đang ngồi trong lớp học, bồi đắp kiến thức để sửa soạn cho tương lai. Lan lại nghĩ đến học sinh nơi trường mới.  Chị dạy đệ nhị cấp nhưng trường này chỉ có tới lớp Chín nên chị được xếp dạy hai lớp Tám và Chín.  Ngày nào loa nhà trường cũng phát động chương trình “Kế hoạch nhỏ”.  Các em phải từng nhóm, mỗi đứa một cái túi và một đôi que tre, đi bới gắp từng mẩu giấy vụn, từng mảnh bao ni lông rách dưới đường, trong bãi rác, trong khe rãnh… Em nào muốn đạt danh hiệu “Dũng sĩ kế hoạch nhỏ” thì về nhà vét hết sách báo cũ, thậm chí ngay cả những cuốn sách giáo khoa còn tốt nguyên đem nộp. Đầu óc đâu để học, lúc nào cũng nghĩ đến việc thi đua để làm dũng sĩ, để làm anh hùng lao động… Phận giáo chức cũng thê lương không kém, thiên chức nhà giáo bây giờ không phải là uốn nắn, dạy dỗ, vun trồng những đứa trẻ trở thành những người hữu dụng sau này.  Những khóa học chính trị nhồi nhét như vẹt để rồi thày cô lại lập lại như vẹt với học sinh, dù chính trong thâm tâm nhà giáo cũng biết đó là những điều dối trá. Dưới mắt học trò thày cô cũng eo sèo khi chia nhau từng miếng thịt, từng xâu cá lúc có loa gọi xuống nhận nhu yếu phẩm. Rồi vì sinh kế thày cũng phải chạy xe ôm, ngồi đầu đường làm nghề vá lốp xe, sửa đồng hồ, bơm bút bi. Cô lo bán qùa ở cưả trường hay đi bán quần áo cũ như Lan hôm nay. Thì giờ đâu, tâm trí đâu lo chuyện giáo dục, dạy dỗ. Còn đâu hình ảnh tốt đẹp của thày cô cho học trò chiêm ngưỡng, noi theo.

Lan nhớ đến số tiền mới có mà chị đã cẩn thận bỏ vào túi aó trong.  Nghĩ đến các con, chị tự nhủ, chị sẽ trích ra một chút, vào chợ mua một miếng thịt quay và ít rau.  Chị sẽ luộc mớ mì sợi do chị mới đổi túi bột mì được mua phân phối hôm qua.  Đãi các con một bữa ăn cho tươm tất. Tội nghiệp hai thằng con trai đang sức lớn phải bóp mồm bóp miệng, ăn như chẳng đủ no vì chúng nó cũng ý tứ nhìn trước nhìn sau. Không có bánh hỏi thịt quay như ngày xưa nhưng các con chị cũng sẽ có mì sợi luộc thay cho bánh hỏi.  Chị sẽ pha một tô nước mắm thật ngon với rau sống đủ thứ,  các con chị có một bữa ăn cải thiện, mì luộc thịt quay ngon lành.

Đỗ Dung

THƠ ĐẦU THÁNG TƯ. – CAO MỴ NHĂN

Thơ ươm tuyết nguyệt phong hoa

Tình sầu diễm tuyệt như là núi sông

Yêu hơn mưa lũ ngập đồng

Anh trong huyễn mộng đầy lòng em thôi

*

Vẫn anh bẻ kiếm bên trời

Mây trôi đáy nước tuyệt vời nhớ em

Mùa xuân mang hết thần tiên

Về nhân gian để cho em tặng mình

*

Khói rừng lại ngỡ lửa binh

Quan san ngay thủa chiến chinh lụn tàn 

” Mai ta đi dọc Việt Nam

Tìm tên chiến hữu viết tràn non cao  

*”

Xa đưa tiếng trúc tiêu dao

Áo xanh xẻ đá làm đau hồn vàng  

Quyên ca khản giọng cuối đường

Tháng tư bao nét sầu thương vỡ nguồn …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)
    1 – 4 – 2024

GIAO CHỈ SAN JOSE

Bài số 1, Quốc Hận 2014

Xem tiếp bài số 2  (The heroes next door)

Tháng 4 và bia đá tưởng niệm.

Bài viết năm 2014 của Giao Chỉ. San Jose.

Lễ khánh thành bức tường tưởng niệm bảy vị anh hùng tuẫn tiết 30 tháng tư 1975 tổ chức 10 giờ sáng thứ bảy ngày 5 tháng 4-2014. Tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose CA 95112. Lối vào chính số 633 trên đường Phelan San Jose. Tôi riêng nghĩ rằng dù gọi là bức tường nhưng ý nghĩa như một mộ bia tập thể cho 7 vị anh hùng. Gọi là khánh thành nhưng mang hình thức một ngày tang lễ muộn màng gần nửa thế kỷ. Tôi viết bài này tặng cho các bạn trẻ đã hoàn tất một công tác ý nghĩa từ cả hai cõi âm dương. Người góp công đầu là cô Hoàng Mộng Thu.

Tháng tư 75, năm cùng tháng tận.

Tháng 4 năm 2014 tại Hoa Kỳ tôi ghi lại chuyện 39 năm về trước. Cuối tháng 12 năm 1974  Bắc quân dốc toàn lực tổng tấn công miền Nam. Trận mở đầu thăm dò đánh Phước Long. Địch vừa đánh vừa nhìn qua Hoa Thịnh Đốn. Hoa Kỳ án binh bất động. Sau Paris, tù binh đã trở về, quốc hội Mỹ quay lưng nhìn về hướng khác. Khi Sông Bé, thị trấn đầu tiên của Nam Việt Nam kêu cứu. Saigon chỉ còn trong tay một phần của liên đoàn 81 để gửi lên tiếp viện. Những người lính biệt kích anh hùng mỏi mệt vừa từ mặt trận Phước Thành được kéo về tưởng chừng sau 3 tháng hành quân nay tạm nghỉ. Nào ngờ lại được trực thăng vận xuống giữa vùng lửa đạn để đánh trận tuyệt vọng tại Phước Long. Ngày 6 tháng 1 năm 1975 Phước Long hoàn toàn thất thủ. Đây là trận mở đầu cho cuộc chiến tranh kết thúc. Kể từ Genève 54 chia đôi đất nước, sau 21 năm từ chiến tranh chính trị đến chiến tranh quân sự, miền Nam lại thua trận chỉ trong 3 tháng mở đầu của năm 1975.

Sau Phước Long, Saigon trải qua cái tết 75 buồn bã rồi cùng một lượt các chiến trường nổ súng. Ngoại trừ miền Tây tạm yên, các mặt trận đều bị tấn công. Từ miền Đông, lên cao nguyên, xuống duyên hải và ra miền Trung. Năm sư đoàn cộng sản tấn công Ban Mê Thuộc ngày 1 tháng 3-1975. Ngày 8 tháng 3-1975 thêm 5 sư đoàn cộng sản tấn công Huế, cùng 1 lượt 3 sư đoàn đánh vào Quảng Ngãi.

Riêng Ban Mê Thuộc hoàn toàn do cộng sản kiểm soát ngày 14 tháng 3-1975. Qua ngày hôm sau tổng thống Nguyễn văn Thiệu ra Cam Ranh đưa quyết định bất hạnh nhất của đời binh nghiệp khi ra lệnh rút quân đoàn II. Tiếp theo là một loạt các lệnh bất thường cho quân đoàn I.

Hà Nội vừa đánh vừa thăm dò Hoa Thịnh Đốn. Saigon vừa rút lui cũng vừa thăm dò Hoa Thịnh Đốn.

Mọi việc không còn như xưa. Ngân khoản viện trợ cuối cùng của Hoa Kỳ chỉ đủ dành để cất lều và dự trù nuôi ăn cho hàng ngàn người tỵ nạn đến Mỹ. Qua tháng 4 phòng tuyến cuối cùng của Saigon tan vỡ tại Xuân Lộc. Sau khi ban hành những quyết định sai lầm tai hại khôn cùng, tổng thống Thiệu từ chức với bài diễn văn oán trách đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng ông cũng vẫn được đồng minh chở đi kịp thời ra khỏi nước. Phó tổng thống Trần văn Hương lên cầm quyền cố giữ cho đủ 1 tuần rồi thể theo yêu cầu của quốc hội giao quyền cho đại tướng Dương văn Minh.

Lúc đó nước đã đến chân, không còn giải pháp nào để lựa chọn. Hải quân VNCH trước khi ra khơi lần cuối đã cử đề đốc tham mưu trưởng Diệp Quang Thủy lên gặp ông Minh để mời xuống tàu. Đại tướng Minh với chút khí phách Nam Kỳ đã từ chối để ở lại nhận ngàn cân tủi nhục. Lúc đó là chiều 29 tháng 4-1975.

Cũng vào chiều 29 tháng 4-1975 được tin vợ con đã vào Tân Sơn Nhất để di tản, tướng Phạm văn Phú, tư lệnh quân đoàn II uống thuốc tự vận tại nhà. Trên đường vào phi trường, được tin chồng tự vẫn, bà Phú và con quay trở về đưa chồng vào nhà thương Đồn Đất (Grall).

Sáng 30 tháng 4 khi tướng Minh còn đang soạn bài kêu gọi buông súng, tướng Phú đã qua đời. Ông chết trước khi có lệnh đầu hàng. Tướng tư lệnh quân đoàn II tự vẫn để trả món nợ của riêng ông về trách nhiệm mặt trận cao nguyên.Tướng Phạm văn Phú, nguyên là tù binh trận Điện Biên Phủ, quê Hà Đông, khi chết ông 47 tuổi. Ông ra đi trước khi chiến tranh chấm dứt được vài giờ. Gia đình đã trở lại chôn cất ông và sau đó kẹt lại tại Việt Nam.

Bia đá tưởng niệm.

Những cái chết anh hùng.

Trong lịch sử kháng Pháp của dân tộc Việt đã có biết bao nhiêu anh hùng tuẫn quốc. Năm 1867 trong Nam có cụ Phan thanh Giản tự vẫn để nhận tội làm mất 3 tỉnh miền Tây. Năm 1873 cụ Nguyễn Tri Phương tự vẫn ở ngoài Bắc, tiếp theo năm 1882 tổng đốc Hà Nội, cụ Hoàng Diệu tự vẫn vì không giữ được thành.

Chuyện bây giờ ở thời cận đại là cái chết của các anh hùng Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 4-1975. Trong cái tháng 4 oan nghiệt đó hàng trăm quân cán chính đã tự vẫn. Tuy nhiên để ghi nhận vào bảng vàng, bia đá, chúng ta cần có đủ hình ảnh, nhân chứng, tài liệu thật chính xác.

* Cái chết mở đầu trước giờ cuối cùng của cuộc chiến là của thiếu tướng Phạm văn Phú. Tiếp theo ngay sau khi đại tướng Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng trưa 30 tháng 4-75 thì người tự vẫn công khai và đầu tiên là trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long, quê ở Huế 56 tuổi. Ông tự tử bằng súng lục lúc 11:30 ngay trước tượng thủy quân lục chiến Việt Nam, ngó qua quốc hội. Những người vô danh và anh nhà báo Pháp chở xác ông vào nhà thương Đồn Đất của Pháp. Tình cờ tướng Phú cũng chết tại nhà thương này vào buổi sáng cùng ngày.

Trong khi tại Saigon có 2 chiến binh tự sát thì trung tá Đỗ Đình Vượng dẫn trung đoàn về bộ tư lệnh sư đoàn 5 tại Bến Cát. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ tư lệnh sư đoàn mời các sĩ quan tập trung về ăn cơm trưa. Mọi người không còn ai bình tĩnh mà ăn uống. Riêng ông Vỹ ăn đủ 3 bát cơm thường lệ rồi cho lệnh các đơn vị trưởng tùy nghi. Ông lui vào phòng riêng dùng súng tự vẫn. Ông là người thứ ba.

Tướng Lê Nguyên Vỹ quê Sơn Tây chết năm 42 tuổi. Vợ con di tản qua Mỹ mấy tháng sau mới biết tin. Gia đình sau này bốc mộ đem về quê cũ tại Sơn Tây, Bắc Việt. Bàn thờ ông để trong đình làng ghi rõ là Lê tướng công, tư lệnh sư đoàn số 5 quân đội Saigon.

Người thứ tư tuẫn tiết bằng thuốc độc là chuẩn tướng Trần văn Hai tư lệnh sư đoàn 7 tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Trước khi ra đi vào chiều 30 tháng 4-1975 tướng Hai có điện thoại từ giã tướng Hoàng văn Lạc tư lệnh sư đoàn 9. Ông Hai quê Gò Công, qua đời năm 50 tuổi.

Người thứ năm là tướng Lê văn Hưng, tư lệnh phó quân đoàn 4, tự vẫn bằng súng vào buổi tối 30 tháng 4-1975. Ông Hưng lúc qua đời có đông đủ vợ con và các sĩ quan cận vệ. Lúc đó khoảng 9 giờ tối. Ông quê ở Gia Định và ra đi năm 42 tuổi.

Vị tư lệnh quân đoàn 4, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam đã sống 1 ngày 30 tháng 4 rất dài. Riêng ngày 29 ông đã nhận lệnh đón phái đoàn chính phủ VNCH từ Saigon xuống, nhưng rồi lệnh hủy bỏ. Suốt ngày 30 tháng 4, ngay sau lệnh đầu hàng ông đã có dịp gặp phái đoàn cộng sản 2 lần nhưng rồi lại cho biết chưa sẵn sàng. Chiều 30 tháng 4 ông còn đi thăm thương binh tại quân y viện Phan thanh Giản. Qua đêm không ngủ, sau khi thắp hương thỉnh chuông lạy Phật, tướng Nguyễn Khoa Nam lấy súng lục tự tử vào sáng 1 tháng 5-1975. Ông Nam sinh quán Thừa Thiên, chết độc thân năm 48 tuổi.

Người sau cùng ghi danh trên bảng tưởng niệm là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông Cẩn chiến đấu đến giờ phút cuối trong ngày 30 tháng 4-1975 và bị bắt tại Chương Thiện. Ông là một trong các sĩ quan đã tiếp tục chiến đấu. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị bắt giam, bị tra tấn hành hạ suốt 4 tháng. Ông bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 4 tháng 8-1975. Ông Cẩn quê Rạch Giá, khi qua đời trẻ nhất 37 tuổi. Cùng bị xử bắn có 4 vị quận trưởng Chương Thiện và các trưởng ty. Tiểu khu Chương Thiện quyết chiến đến giây phút cuối nên bị xử bắn nhiều nhất.

Bia đá tưởng niệm.

Bia Đá ngàn thu.

Trong chiến sử thế giới, hai bên tử sĩ hy sinh là chuyện thường tình. Khi nước Nhật bại trận, các sĩ quan theo tinh thần võ sĩ đạo truyền thống, nhiều người tự vận. Chuyện này đã được thế giới biết đến.

Tuy nhiên, sau chiến tranh Việt Nam, con số sỹ quan, và chiến binh tự vẫn hàng trăm người, quả thực là điều đáng kính phục. Đặc biệt là cái chết của cấp chỉ huy. Xúc động vì những hy sinh cao cả đó, biệt đoàn văn nghệ Lam Sơn tại San Jose đã vận động gây quỹ và lập bức tường tưởng niệm để hình ảnh các anh hùng QLVNCH được lưu lại với bia đá ngàn thu. Nguyên khối đá chính nặng 8 ngàn pounds. Tất cả 3 khối đá, bệ đá và khối cement chân bệ tổng cộng trên 30 ngàn tấn. Trên bia đá khắc hình ảnh 7 vị anh hùng. Hai bên là lời tri ân bằng Anh ngữ và Việt Ngữ. Khối đá quý như là 1 loại cẩm thạch vĩ đại từ Ấn Độ được cắt sẵn theo kích thước và chở qua California. Tại xưởng làm mộ bia có máy tạo hình. Lại thêm chuyên viên từ Phi Luật Tân làm bằng tay hình ảnh 7 vị anh hùng VNCH. Phía sau là hình bóng các chiến binh Việt Nam.

Bia đá tưởng niệm.

Lễ khánh thành

Buổi lễ khánh thành là 1 ngày hết sức đặc biệt với sự tham dự của các quan khách Việt Mỹ. Ban tổ chức đã phổ biến thư trên báo chí, radio, TV và trên internet. Địa điểm tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose- CA 95112. Lối vào trên đường Phelan từ 10 giờ sáng thứ bảy ngày 5 tháng 4-2014. Quý bà, quý cô mặc áo dài, quý vị cựu quân nhân mặc quân phục. Chương trình  thực hiện bằng Anh và Việt ngữ.

Mở đầu nghi lễ chào cờ mặc niệm do toán quốc quân kỳ của US Army. Ban quân nhạc Hoa Kỳ hòa tấu quốc ca Hoa Kỳ và quốc ca Việt Nam Việt Nam Cộng Hòa. Phần nghi lễ quan trọng nhất là việc mở các tấm vải phủ trên bức tường. Ban tổ chức thực hiện 7 bóng bay lớn có viết chữ thảo danh tánh các vị anh hùng.Theo thứ tự ngày giờ hy sinh từng trái bóng và hương linh anh hùng sẽ bay lên trời xanh.

Mỗi bóng bay lên là có súng nổ. Khởi đầu là tướng Phạm văn Phú và sau cùng là đại tá Hồ ngọc Cẩn. Phần ý nghĩa nhất cần ghi nhận là lần đầu tiên ban tổ chức mời được tất cả đại diện các gia đình của 7 vị anh hùng từ bốn phương về tham dự. 7 vị tướng lãnh và cấp chỉ huy có danh trên bảng tưởng niệm đã trở thành các anh hùng bất tử tượng trưng cho cả QLVNCH. Đặc biệt các cựu chiến binh của quân đoàn 4, của sư đoàn 7, của tiểu khu Chương Thiện, của sư đoàn 5 BB, của cảnh sát quốc gia đều có thể tìm thấy ý nghĩa thiêng liêng, một chút riêng tư trong tình huynh đệ chi binh.

Bài báo này xin gửi đến các bạn như là 1 bản báo cáo và 1 lời ân tình.Bên cạnh bức tường tưởng niệm, còn có 1 biểu tượng hết sức ý nghĩa. Có thêm phần triển lãm một mộ bia lấy từ nghĩa trang quân đội đem về năm 2004.

Nếu chưa từng về thăm nghĩa trang quân đội, các bạn sẽ có dịp ghé đến đây thắp 1 nén hương cho người anh hùng tử sĩ vô danh. Một bia mộ đặt ngay tại Việt Museum nhân dịp khánh thành bức tường tưởng niệm. Đây là lễ giỗ 30 tháng 4 dành cho các anh hùng tuẫn tiết. Lễ giỗ muộn màng mà cộng đồng làm chung với gia đình tang gia 39 năm sau. Mọi người đến 1 lần với buổi lễ và sẽ nhớ suốt đời vì đã mang ý nghĩa thiêng liêng nối kết mối liên hệ giữa người ra đi trong lòng đất quê hương và người ở lại hải ngoại đến giây phút này. Bia đá đợi chờ, 39 năm sau.

I SỐ 2,

NHỮNG NGƯỜI HÀNG XÓM ANH HÙNG (The heroes next door)                                                                                            Giao Chỉ, San Jose.    

Lang thang đất lạ đến bao giờ? Trong trách nhiệm hoàn tất Viện bảo tàng thuyền nhân và Việt Nam Cộng Hoà chúng tôi đã xây tượng đài tưởng niệm và có bài viết về những tướng lãnh anh hùng tuẫn tiết 50 năm trước. Lại thêm có một danh sách do quý vị công phu ghi nhận các chiến binh tự vẫn mới nhận được. Bây giờ xin tâm sự chuyện riêng.Tháng tư năm 2024, chỉ còn một năm nữa là nửa thế kỷ. Anh chị em chúng ta, đã cùng trải qua biết bao hoàn cảnh. Nhưng nhà nào mà không mất mát. Riêng phần tôi đã nghĩ rằng m ình trải qua nửa thế kỷ trầm luân. Bây giờ ngồi viết Tâm Sự Vụn. Thời gian cuối năm 1975 gia đình tôi trôi dạt về xứ Springfield của tiểu bang Illinois, ông Giao Chỉ đi làm thợ sơn gầm xe tải để chống rỉ sét. Bên Cali có ông thi sĩ Cao Tần xuất bản tờ Bút Lửa. Ông viết ra những lời thơ bất hủ nói đến những chiến binh Việt Nam Cộng Hoà độc thân lạc đường vào đất Mỹ. Các chàng trai chiến binh tuổi 20 chưa vợ hay bỏ vợ ở quê nhà. Các anh nhớ về binh chủng , nhớ thời chinh chiến và nhớ gia đình nên đã được thi sĩ tặng cho câu thơ bất hủ: Hỡi người chiến binh một đời anh dũng, anh lang thang đất lạ đến bao giờ? Câu thơ cay đắng nghìn trùng . Câu thơ vô cùng nghiệt ngã trở thành tiếng chim gọi đàn đem ông Giao Chỉ 40 tuổi về đất San Jose. Rồi những anh lính già gặp nhau cùng họp đoàn với những anh lính trẻ. Sống bên nhau trên đất mới hầu hết những quân nhân một thời binh lửa đều vui vẻ lễ độ và hiền lành. Bỏ lại sau lưng tiếng đại bác và những đêm hỏa châu rực lửa. Biết bao lần họp mặt vẫn nhớ về tình chiến hữu. Kẻ lưu vong, người tù đầy. Bước chân đi, mặt còn nhìn lại. Nơi quê nhà xiềng xích trông theo..Chúng tôi họp mặt và cùng nhau xây dựng cộng đồng. Gặp ông Bùi đức Lạc thành lập Gia đình Mũ Đỏ. Nguyễn quan Vĩnh và Lê văn Thặng là có hội Không quân. Rồi đến hội Hải Quân. Hội cựu quân nhân, hội phụ huynh. Hướng đạo.Chúng tôi thành lập cộng đồng Việt tại San Jose. Hết sức hãnh diện nêu cao lý tưởng Xây dựng Cộng đồng và Giải phóng quê hương.

Bạn bè hàng xóm mới. Thời kỳ cuối thập niên 70 chúng tôi ở tuổi 40, bạn bè nào cũng toàn là bạn mới. Chỉ có vài ông bạn cùng khóa ở tuổi trung niên. San Jose trở thành một xóm làng mới mẻ và anh em chưa biết rõ về quá khứ của nhau.. Phải đến thập niên 90 mới có dịp tìm hiểu thêm nên ghi nhận biết bao nhiêu bạn bè đã trải qua những thời binh lửa đoạn trường. Bác trung tá Đỗ Hữu Nhơn đã từng nhảy vào chiến khu của cha Hóa lúc còn là trung úy.Trung tá phi công Nguyễn Quan Vĩnh đã bao phen đánh trận Bình Giả Đồng Xoài không yểm cho cả Nhảy Dù cùng Thủy quân Lục chiến. Anh cũng chính là anh hùng không quân được tuyên dương và dẫn phái đoàn đi du ngoạn Đài Loan. Còn bác pháo binh dù Bùi đức Lạc đã từng được ông bạn lữ đoàn trưởng hết lòng khen ngợi đã bao phen đi sát với lữ đoàn Mũ Đỏ trên khắp chiến trường. Chúng tôi sống với nhau trong xóm làng San Jose mà phải lâu năm mới biết đây chính là các người anh hùng hàng xóm. Kiểu Hoa Kỳ vẫn gọi The heroes next door. Những anh hùng ở nhà bên cạnh. Ở miền đất điện tử hiền lành trong tiểu bang CA, chúng tôi có may mắn đóng vai thân hữu với các giới chức dân cử địa phương. Cũng chẳng phải ảnh hưởng nhiều về đóng góp tài chánh hay vận động cử tri thân hữu. Chính thức chỉ là tình nghĩa lâu dài.

Tình thân dân cử địa phương

Ngày mới đến gặp cô Zoe Lofgren là sinh viên luật trẻ tuổi làm tình nguyện cho vị dân cử địa phương. Quen biết lâu dài trên 30 năm cho đến khi người đã thành bà dân biểu lão thành và kỳ cựu trong nghị trường. Trường hợp ông Dave thượng nghị sĩ CA và bà giám sát viên Cindy của County cũng là cánh quen biết từ khi quý vị mới bước chân vào các chức vụ học khu không lương.  Nhờ sự quen biết trên nhiều thập niên nên Tết năm nay Giáp Thìn 2024 chúng tôi lập được thành tích đầy hãnh diện. Nhân danh cơ quan dịch vụ di dân tị nạn tại địa phương trên 48 năm chúng tôi đã yêu cầu chức quyền dân cử tuyên dương 11 nhân vật cộng đồng.IMG_2484[1].JPG

San Jose City:

Thị trưởng thành phố San Jose tuyên dương 2 nhân vật.Bà Nguyễn Thị Đào và mục sư Hà Cẩm Đường.Thành tích phi thường có một không hai là người nữ quân nhân yêu thương Tượng Lính nhân dịp về tảo mộ ngh ĩa trang Biên Hòa đã tìm cách dựng lại bức tượng Tiếc Thương và đem được qua Mỹ. Tượng được đặt tại Việt Museum. Phần mục sư Hà Cẩm Đường vốn là cựu quân nhân vượt biển tốt nghiệp mỹ thuật đã đem cống hiến tất cả các tác phẩm hội họa về thuyền nhân cho viện bảo tàng.

Santa Clara County

Tiếp theo bà Giám sát viên Cindy của Santa Clara County đã tuyên dương hai gia đình các anh Lại Đức Hùng và Phạm Phú Nam. Cả hai ở tuổi trung niên đã đóng góp trên 30 năm công tác cộng đồng cho thung lũng điện tử San Jose. Hai anh ra đi đã để lại rất nhiều thương tiếc cho bà con ở lại.

State of California

Lên đến phần tưởng lệ từ thủ đô CA tại Sacramento, thượng nghị sĩ Dave Cortese trao danh dự cho 3 vị trung tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trung tá lực lượng đặc biệt Đỗ Hữu Nhơn, trung tá pháo binh nhảy dù Bùi Đức Lạc và trung tá phi công Nguyễn Quan Vĩnh. Đây là lần đầu tiên từ quốc hội tiểu bang vàng CA có ngoại lệ tuyên dương những người anh hùng trong chiến tranh Việt Nam mà vẫn còn tiếp tục hoạt động cho cộng đồng Việt tại Hoa Kỳ.

Quốc Hội Hoa Kỳ

Sau cùng đến phần tuyên dương kỳ diệu do bà dân biểu niên trưởng của chính trường Hoa Kỳ lần đầu tiên tuyên dương trường hợp anh hùng đã ra đi và anh hùng còn ở lại. Bản tuyên dương Việt Dzũng và vợ là Nguyễn Hoàng Anh với thành tích tuyệt vời. Các bạn trẻ này đã để lại cho người Việt hải ngoại những món quà tinh thần để gửi về quê hương. Đôi nạng của Việt Dzũng đã được người vợ Hoàng Anh và tổ chức Hưng Ca Huỳnh Lương Thiện San Fran đem về đặt tại Việt Museum. Bản tuyên dương thứ hai dành cho một nhân vật rất đặc biệt. Sĩ quan QLVNCH Huỳnh Công Ánh đã từng được mang danh chiến sĩ anh hùng và trở thành người tù bất khuất trong trại tù cộng sản. Thành tích đáng kể là ông đã vượt ngục và vượt biển thành công sau bao nhiêu gian khổ.

Qua đất Mỹ ông trở thành người thành công xây dựng sự nghiệp và thành tích đáng kể khi ông trở thành nhà tranh đấu bằng văn hóa qua tổ chức Hưng ca. Người thứ ba được quốc hội Hoa Kỳ tuyên dương là đại úy Nguyễn Hữu Luyện, gia nhập quân đội năm 1954 tại trường võ bị Đà Lạt và về phục vụ binh chủng nhảy dù. Năm 1966 đang là huấn luyện viên biệt kích nhảy Bắc, ông tình nguyện hướng dẫn các học viện cảm tử nhảy toán ra Bắc. Cũng như nhiều toán viên thử thách trắc nghiệm, toán của ông không thành công và đại úy Luyện trở thành người tù biệt giam suốt 21 năm. Ngay sau khi được qua Mỹ ông đã trở thành sinh viên cao học của đại học Hoa Kỳ tốt nghiệp ở tuổi cao niên. Ông năm nay đã 91 tuổi được bà dân biểu cao niên tuyên dương. Người sau cùng được tuyên dương cũng là nhân vật không còn nữa. Bản tuyên dương được bà dân biểu chính thức đọc trước cử tọa nguyên văn như sau. Certificate of special congressional recognition presented on Feb. 17-2024 to admiral Hoàng Cơ Minh for his nobility bravery and endurance commitment to his country in the pursuit of freedom.

Giấy chứng minh việc công nhận đặc biệt của Quốc hội trao vào ngày 17 tháng 2-2024 dành cho đề đốc Hoàng Cơ Minh vì lòng dũng cảm cao cả và sự cam kết bền bỉ với đất nước trong việc theo đuổi Tự Do.   Ký tên Zoe Lofgren, thành viên quốc hội Hoa Kỳ  

   Bà Zoe Lofgren đã từng được mệnh danh là nhà đấu tranh số một cho dân sinh Hoa Kỳ và dân quyền tại Việt Nam. Rất nhiều các chiến sĩ dân quyền Việt Nam đã được bà can thiệp và đưa qua Mỹ cũng như bước ra khỏi nhà tù tại Việt Nam.Tuy nhiên bà không thể biết ông Minh là ai. Với tình thân cá nhân và nhân danh Viet Museum, chúng tôi không nói chuyện với bà dân biểu hôm nay. Xin trở lại thời xưa, tôi nói với cô sinh viên luật khi cô còn đang tập sự và nghiên cứu cả đống hồ sơ quốc hội muốn tiễn đưa tổng thống Nixon. Xin kể rằng ngày quốc hận 2023 bà đích thân đọc tiểu sử các tướng lãnh Việt Nam tuẫn tiết tổng cộng 5 người. Có biết bao tướng lãnh Việt Nam bị tù đầy và bao nhiêu người khác di tản kịp thời tại Hoa Kỳ. Nhưng trước sau chỉ có 5 người tuẫn tiết.Tôi muốn có thêm hình ảnh của đề đốc Hoàng Cơ Minh là người thứ sáu trong Việt Museum. Khi loan tin chuyện ông Minh, không thấy tiếng dèm pha hay tán thưởng. Duy chỉ có bác Hoàng Cơ Lân bên Pháp tỏ ý vui mừng vì ông Minh lại là bà con bề trên của ông bác sĩ Lân.  

Trường hợp Hoàng cơ Minh

434864358_7987828237913717_6205863428082247246_n.jpg

                              Ông là người duy nhất tự vẫn trên đường trở về. Thưa quý vị chúng tôi sống đến ngày hôm nay để trả nợ ân tình giữa anh em hàng xóm láng giềng. Đất nước biết bảo anh hùng, thôi thì ghi danh được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ông tướng Nguyễn Khoa Nam đến tối 30 tháng tư năm 1975 đã được tin tướng Phú quê Hà Đông 47 tuổi đã ra đi tại Sài Gòn vào buổi sáng, tướng Lê Nguyên Vỹ 42 tuổi quê Sơn Tây miền Bắc chết vào buổi trưa ở Lai Khê. Tướng Trần văn Hai 50 tuổi quê Gò Công tự vẫn tại Đồng Tâm và tướng Lê văn Hưng 42 tuổi quê Gia Định chết vào buổi tối ngày oan nghiệt tháng tư 49 năm xưa. Vị tư lệnh Nguyễn Khoa Nam quê Thừa Thiên đất Huế đã trải qua một đêm không ngủ với câu hỏi lại chính mình.  Đi để làm gì? Thắp một nén hương, thỉnh một hồi chuông trên bàn thờ Phật.Một phát súng nổ.Ông Nam là vị tướng thứ 5 sau cùng ra đi vào sáng 1 tháng 5-1975. Bây giờ tôi muốn xin đại diện quốc hội Hoa Kỳ tuyên dương vị tướng thứ 6. Đề đốc Hoàng cơ Minh, người đã gián tiếp làm MC cho bản trường ca về chuyến hải trình cuối cùng cứu đồng bào vượt biển và đem trọn vẹn đoàn tàu trả lại cho đồng minh Hoa Kỳ. Với khẩu hiệu Kháng chiến hay là chết. Ông là vị tướng duy nhất tự tử trên đường trở về. Hoàng cơ Minh quê Hà Nội chết bên Hạ Lào nhưng sau cùng kẻ thù đã đem xác ông về lại quê hương. Ông là vị tướng duy nhất được nước Mỹ tuyên dương sau nửa thế kỷ di cư tị nạn trầm luân

Nhân ngày cảm ơn nước Mỹ năm 2024 chúng tôi có được 11 bản tuyên dương thân hữu, 10 bản để tại Việt Museum. Các phó bản đều gửi cho các hàng xóm anh hùng. Chỉ riêng bản của đề đốc Hoàng Cơ Minh chưa biết làm sao gửi cho phu nhân.

Xin trân trọng báo cáo: Chúng tôi đã giải xong món nợ ân tình nửa đời người lưu vong. Tuyên dương 11 người thay cho cả ngàn anh hùng chung quanh chúng ta. Cuộc sống thừa không vô ích. Hỏi anh lính già một đời vất vả, mày lang thang đất lạ đến bao giờ. Mai này về thăm quê vợ sẽ gặp ông Nam ở Cần Thơ. Ông hỏi Đi để làm gì ? Sẽ có sẵn câu trả lời. Đâu có phải ra đi mà không biết làm gì cho hết nửa đời sau…

 Xin trân trọng báo cáo. Giao Chỉ San Jose.–

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393




VĂN: “MÌNH ƠI!” & “THÚ HÓA KIẾP LÀM NGƯỜI” – Hoàng Thị Quỳnh Hoa

MÌNH ƠI!

Đố ai biết hai từ thân thiết dễ thương ni là ai gọi ai, người nữ gọi người nam hay người nam gọi người nữ? Bạn đoán đúng rồi. Người nữ hay người nam đều dùng hai từ ni được để gọi nhau. Nhưng là hai nam nữ đã cưới nhau, thành vợ thành chồng rồi mới dùng hai từ ni được! Mà phải sống với nhau một thời gian dài nữa kìa, đồng cam cọng khổ nhiều năm mới được chứ mới cưới nhau thì không ai dùng hai chữ mình ơi. Chỉ là bồ bịch, dù thân thiết lắm, cũng không dùng được, phải không?

Người Việt may mắn chỉ có một tiếng nói từ Bắc vô Nam, chỉ khác nhau cái giọng thôi. Không như nhiều nơi, trong một nước mà có nhiều ngôn ngữ khác nhau như Ấn Độ, Trung Hoa. Mà không ai biết tại sao mỗi miền lại có giọng nói (accent) khác nhau, là ảnh hưởng của khí hậu, địa dư hay, hay nước uống hay gồm cả ba! Tiếng Việt rất súc tích, phong phú, đa dạng, rõ ràng. Thí dụ  người Anh hay Mỹ chỉ có chữ you để chỉ ngôi thứ hai, số ít hay số nhiều thì cũng chỉ một chữ you nghèo nàn! Người Pháp thì có vous, thân mật thì tu cho ngôi thứ hai số ít, còn người Tàu chỉ độc một chữ nị. “Ngộ ái nị” (I love you). Nị hayYou ở đây có thể là người yêu, người cha, người mẹ, người thầy, người bạn, người bà con v.v. Trong khi tiếng Việt ta, để chỉ rõ mối quan hệ giữa mọi người, có rất nhiều từ khác nhau, đôi khi phân biệt từng miền nữa. Nói đến cha mẹ, người Bắc gọi thầy mẹ, thầy u, thầy bu, cậu mợ…. Người Trung gọi  cha mẹ, ba mạ, chú mạ, bố mẹ, hay còn gọi bọ mạ. Người Nam gọi ba măng (Việt hóa tiếng Pháp), ba má, tía má (Việt hóa tiếng Hoa)…  Để chỉ rõ vai vế của bà con, họ hàng, ta có cả một hệ thống tên gọi bên nội, bên ngoại, bên vợ, bên chồng tràng giang đại hải mà không cách chi dịch qua tiếng Anh, tiếng Pháp được! Lấy một thí dụ, người Bắc gọi anh, chị của cha mẹ và người phối ngẩu của họ là bác để chỉ người vai vế lớn hơn mà không phân biệt bên vợ hay chồng, đàn ông hay đàn bà, hay người ngoại tộc. Chú thím là để chỉ em trai và vợ của cha, cô chú thì là em gái và chồng của cha. Người Trung thì phân biệt nội ngoại. Phái nữ bên nội thì gọi o là chị hay em của cha. Chồng của chị cha thì là bác. Anh hay em trai của mẹ đều là cậu, vợ của cậu là mợ nên khi nghe gọi thì không biết cậu vai lớn hơn hay nhỏ hơn mẹ! Dì để gọi chị hay em gái của mẹ:

               Chết cha còn chú,

               Chết mẹ thì bú vú dì!

Chồng của dì là dượng. Dường như ngày nay người ta không muốn dùng chữ ‘dượng’ vì chữ ‘dượng’, có nghĩa ngầm không được đẹp vì cũng được dùng để gọi người chồng sau của mẹ. Vợ sau của cha thì là dì ghẻ, hay mẹ ghẻ nhưng chồng sau của mẹ không là cha ghẻ mà là dượng ghẻ, là người dưng không thân thiết chi với mình.

Nay nhiều người cho chữ ‘o’ có vẻ quê nên chuyển sang ‘cô’, ‘bác’ như người Bắc. Tôi thì rất thương chữ ‘o’ vì đã gọi vậy từ khi biết nói, nghĩa là gần 90 năm rồi. Ở Huế có câu phê bình em gái, chị gái, hay em trai của chồng đối với chị dâu:

               Một trăm mụ o không chi,

               Ông chú thủ thỉ có khi mất chồng.

Đại danh từ ngôi thứ nhất (I/We, Je/Nous, Ngộ) thì ta có : tôi/chúng tôi, ta/chúng ta, tớ/chúng tớ, tau/tụi tau, hay người Nam dùng chữ ‘qua’ rất bình dân. thân tình. Tùy đối tượng của ta là ai mà ta chọn đại danh từ cho hợp như ông bà, cha mẹ, vợ chồng, họ hàng, người trên, kẻ dưới. Vũ Hoàng Chương than thở:

               Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa,

               Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh

Đại danh từ ngôi thứ ba: thầy, cô, bà nó, hắn, ai, ông ấy, bà ấy, cô ấy, chị ấy, lão ấy, thằng ấy, mụ ấy, v.v. tùy theo đối tượng liên hệ. Cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị của Huế thì dùng chữ “ai” rất gọn trong câu hò mái đẩy:

               Chiều chiều trước bến Vân Lâu,

               Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, ai nhớ, ai thương.

               Thuyền ai thấp thoáng bên sông,

               Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non.

Người đọc biết những chữ “ai” ở đây là ai nếu nhớ chi tiết lịch sử cận đại vua Duy Tân tham gia phong trào kháng Pháp. Có khi chữ ông hay bà được dùng như ngôi thứ nhất để chỉ tâm trạng của chủ nhân mệnh đề ấy như nhà thơ châm biếm Tú Xương trong bài thơ Chúc Tết:

              Người bảo ông điên, ông chẳng điên,

              Ông thương ông tiếc hóa ông phiền.

              Kẻ yêu người ghét hay gì nữa,

              Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền!

Hay chữ bà trong câu hát:

               Bà bảo bà không cho con bà đi hát đâu,

               Con gái tốt lành ai cho đi mà xem hát chèo!

Ta có nhiều tỉnh từ chỉ liên hệ ứng xử, đối với vợ chồng, người yêu, họ hàng, người trên, kẻ dưới, với sếp, với đồng nghiệp, quen thân, quen sơ… Với người vai vế lớn hơn, hay cấp trên người ta thêm ‘dạ thưa, dạ bẩm’ (dạ thưa ông, dạ bẩm bà) là văn hóa cung kính người trên của xứ ta. Trong gia đình hoàng tộc, chữ mệ hay mụ được thêm trước tên để chỉ cả đàn ông lẫn đàn bà. Hồi nhỏ ở Huế, tôi nhớ người ta gọi công chúa Lương Linh, con gái vua Thành Thái, là Mệ Sen. Sen là nickname của bà. Bảng xe hơi của bà thì ghi rõ Princess Lương Linh nên tôi mới biết tên tộc của mệ! Em trai Mệ Sen là Mệ Kha. Tôi biết vì ông hoàng tử này cưới bà chị họ tôi. Dì tôi có khi gọi ông con rể là Mụ Kha. Mệ cũng là từ thân thiết để gọi bà nội, bà ngoai hay những người đàn bà lớn tuổi. Còn chữ ôn thì để chỉ ông nội, ông ngoại hay người đàn ông lớn tuổi một cách thân tình. Người Nam thì chỉ dùng một chữ Ngoại hay Nội rất dễ thương để chỉ ông bà nội, ngoại nhưng ta không biết là ông hay bà! Chữ mụ cũng được người Huế dùng để chỉ người đàn bà lớn tuổi bán chè, bán cháo hay người đàn bà ăn xin. Người con gái chưa chồng thì được gọi là chị, cô:

               Ba cô đội gạo lên chùa,

               Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư…

Hay đôi khi là o:

               O kia tát nước đầu đình,

               Cớ sao o múc ánh trăng vàng o đổ đi!

Người con gái buôn gánh bán bưng hay làm thuê làm mướn cũng được gọi o. O ở đây khác với o là em hay chị của cha. Mụ cũng là một từ thân mật bà mẹ chồng Huế gọi con dâu. Bà không gọi tên con dâu mà gọi mụ và tên con trai (mụ Đắc là vợ con trai tên Đắc). Bạn bè thân thiết thì gọi mi xưng tau. Lứa bạn tôi là U 90 cả mà gặp nhau vẫn mi mi tau tau tíu tít như những ngày còn xoan! 

Ngôi thứ ba: he/she/, il/ils, tha của Tàu thì tiếng ta cũng có nhiều cách gọi như họ, nó, hắn, cô ấy, người ấy, chị ấy, anh ấy, ông ấy, bà ấy, em ấy….  hay chỉ một chữ em như trong câu ca dao:

               Trúc xinh trúc mọc đầu đình,

               Em xinh, em đứng một mình cũng xinh!

               Trúc xinh trúc mọc bờ ao,

               Em xinh, em đứng nơi nào cũng xinh

 Chữ họ cũng thường được dùng trong văn chương:

               Họ đã đi rồi, khôn níu lại,

               Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa.         

Hai chữ người ấy thì đây:

               Người ấy thường hay vuốt tóc tôi

               Thở dài trong lúc thấy tôi vui…

Hay chỉ một chữ người như:

               Người đi một nửa hồn tôi mất,

               Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

Hay:

               Cười người chớ vội cười lâu,

               Cười người hôm trước, hôm sau người cười.

Ta dùng: chúng nó, tụi nó, hay họ cho số nhiều. Người mình cũng phân biệt kẻ khinh người trọng trong cách xưng hô. Kính nể thì gọi chị ấy, ông ấy, bà ấy. Khinh thì thằng ấy, con ấy hay kẻ ấy (thằng kẻ trộm, kẻ cướp, thằng sở khanh…) và một chữ chúng cho số nhiều cũng được dùng. Còn nhớ mỗi khi quân ta đánh thắng quân Bắc phương thì người viết sử ghi  “ta đuổi chúng chạy về Tàu.” hay “chúng cúp đuôi chạy về Tàu.”

Hai từ sui gia hay thông gia là chỉ cha mẹ vợ, cha mẹ chồng của con mình. Thân mật thì họ dùng anh sui, chị sui để gọi nhau. Tiếng Anh dùng từ kép ‘in-law’ để chỉ liên hệ gia đình trước pháp luật. Thêm chữ in-law vào vai vế trong gia đình là ta thấy ngay liên hệ: mother-in-law, father-in-law, son-in-law… Nếu ra tòa ly dị là tức khắc chấm dứt liên hệ! Nhớ câu chuyện năm xưa, khi gặp lại một cô học trò cũ, cô giới thiệu tôi với chồng cô: “Cô giáo của em”, ông chồng – hình như cũng là giáo sư – la lên, “Cô giáo em trẻ quá mà tôi phải gọi bằng cô sao!” Tôi vội vàng an ủi, “Anh chỉ là student-in-law, không cần gọi tôi bằng cô! Chắc anh cũng vui vẻ với lời phân trần ấy!

Đôi khi bà sui gia bị gọi là mụ gia như ở miền Trung nên ca dao có câu:

             Thương chồng mà khóc mụ gia,

             Chớ tui với mụ không bà con chi!  

Có thể nói ba miền có ba ngôn ngữ hơi khác nhau nhưng tự nhiên ngôn ngữ miền Bắc được xem là chuẩn. Có lẽ vì ngày xửa ngày xưa, một thời gian dài, nước Việt ta chỉ là một vùng nhỏ ở châu thổ sông Hồng Hà. Mãi cho đến khi Nguyễn Hoàng chạy vào Nam dưới thời vua Lê và khai khẩn đất đai, tiến dần về phía Nam, chiếm đất của Chiêm Thành và Chân Lạp (một nửa nước Cao Mên), mở mang bờ cõi xuống đến tận Cà Mau thì nước ta mới có đủ ba miền như bây giờ. Viết văn cũng vậy, chuẩn thì phải viết theo tiếng Bắc. Viết thuần túy tiếng Trung hay tiếng Nam thì được coi như ngôn ngữ địa phương. Nhà văn Hồ Biểu Chánh được coi như đặc thù Nam bộ. Nữ ở miền Nam thì có bà Tùng Long. Tôi không biết nhà văn nào chuyên viết tiếng Trung. Ai biết xin chỉ giáo. Trong ca nhạc cũng thế, ca sĩ người Nam hay Trung đều học phát âm theo giọng Bắc trừ ca sĩ Trần Văn Trạch không hề đổi giọng. Ông hát rặt giọng Nam mà rất truyền cảm, rất hay. Chắc vì vậy ông được khán thính giả thương mến tặng danh hiệu Quái kiệt Trần Văn Trạch!

Cách xưng hô giữa chàng và nàng ở Việt Nam rất lý thú. Thuở ban đầu thì tôi-cô rồi đổi qua gọi tên nhau khi “tình trong như đã,” rồi anh-em khi chàng cầm được tay nàng. Sau khi thành vợ, thành chồng  thì có đôi vẫn gọi nhau anh-em cho đến răng long đầu bạc, có đôi đổi cách xưng hô gọi nhau là cha mẹ của đứa con đầu lòng, Bố cu Tèo, Mẹ bé Cưng. Những người khác thì sau một thời gian chung sống hạnh phúc, hợp tính hợp tình nên tuy hai người mà như một nên đổi cách xưng hô với tiếng mình thân thiết. chồng cũng mình mà vợ cũng mình. Mình ơi! Chữ mình nhắc tôi nhớ mấy câu ca dao tiếu lâm không biết đã được đọc ở đâu:

               Vợ mình là con người ta,

               Con mình là vợ đẻ ra,

               Nghĩ đi nghĩ lại không bà con chi!

Chữ mình ở đây là tĩnh từ sở hữu (posessive adjective), không phải như “Mình ơi.”

Ngoài chữ mình biểu hiện tình cảm của hai người, tuy hai mà một, tuy một mà hai, người Việt còn dùng hai chữ nhà tôi để chỉ vợ hay chồng mình vì họ tin tưởng chồng hay vợ là chỗ tựa vững vàng cho nhau, vững chắc như cái nhà, đem lại sự thoải mái, đầm ấm, bình an cho nhau.

“Mình ơi, em muốn đi bờ hồ” là một câu cô vợ nũng nịu nói với chồng tôi nhớ mãi từ một cuốn tiểu thuyết nào đó. Nghe câu này thôi là ta đã hình dung được một gia đình hạnh phúc đằm thắm, phu phụ thương yêu nhau, quý mến nhau, đùm bọc nhau. Mình ơi! Mình à! Còn từ nào dịu dàng hơn, êm ái hơn! À, còn một từ nữa cũng dễ thương không kém là chữ cưng của người Nam. “Cưng làm cho anh cái này. Cưng lấy cho em cái kia.”nghe rất bùi tai, ấm lòng. Nhưng người Nam dùng chữ cưng cho bất kỳ ai họ thương hay không ghét chứ không phải chỉ để chỉ người chồng hay người vợ của mình. “Mình ơi” vẫn là hai từ độc nhất mà tôi nghĩ người vợ hay chồng nào cũng muốn được nghe hay được nói mỗi ngày.

Nguyên Ngọc Hoàng Thị Quỳnh Hoa

Cali, đầu tháng 6, 2022

THÚ HÓA KIP LÀM NGƯỜI

Đầu tháng June, 2021, tôi cùng bà chị dâu đi New York City chơi. Cháu tôi ở Manhattan, nhà nhìn ra bờ sông Hudson, có thể nhìn thấy tượng thần Tự Do ở xa xa. Một buổi sáng đẹp trời, vợ chồng cháu đẩy xe lăn cho mẹ đi dạo. Tôi cũng mang mask đi theo vào Rockefeller Park dọc bờ sông rất đẹp. Nam thanh nữ tú qua lại khá đông. Rất nhiều người dẫn theo thú cưng là chó cùng đi dạo. Chó đủ cỡ đủ loại, con nào cũng quá đẹp bắt mình phải ngoái đầu nhìn lại. Có con nhỏ bằng bàn tay đứng trong cái túi trước ngực cô chủ đi xe đạp. Tôi chợt nghĩ đến mấy con chó vàng, chó vện của mình ở quê nhà, chó mực nữa, mấy con chó được nuôi không phải để làm bạn với chủ như ở xứ này!

Đã làm kiếp chó tức là không đủ phước báu để được làm người mà cũng bị kỳ thị, cũng xấu đẹp bị đối xử không công bằng. Tùy theo duyên nghiệp, chó sinh ra ở xứ này có cuộc sống khác hẳn chó sinh ra ở Trung Quốc, Đại Hàn, Việt Nam hay Căm Bốt. Và ngay ở cùng một xứ sở, số phận chó cũng thay đổi tùy theo giòng họ chó. Như con Chihuahua hay Pekingese nào ở Tàu cũng được chủ nâng niu, không như số phận của mấy con chó khác. Nhất định là vì nghiệp báo riêng của mỗi con cẩu mà số phận chúng khác nhau. Tôi thật ngạc nhiên khi tìm kiếm hình ảnh chó trên mạng, thấy rằng có 9 quốc gia cho phép dân chúng hưởng thụ thú xơi thịt cầy mà trong đó có Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ nữa, các bạn có tin không? Thật đó, bán thịt cầy cũng như ăn thịt cầy được cho là hợp pháp (legal!) ở vài tiểu bang của xứ Cờ Hoa này. Hồi tôi đi dạy ở Việt Nam có người cho tôi một con Dachshun con rất đẹp nhưng khổ một nổi là mỗi lần tôi về đến nhà, chị mừng cuống quýt, nhảy tưng bừng và té đái ở phòng khách luôn. Không thể nào dọn nước đái chó mỗi ngày nên tôi đành cho nó đi. Không biết về nhà chủ mới thì số phận nó ra sao, có dạy nó được không.  Hồi còn là sinh viên, tôi cũng có nuôi một con Fox Terrier của anh bạn cùng lớp cho. Con chó con lông trắng bé tí rất dễ thương. Bạn dặn phải giữ tên nó là Tiny và phải cắt đuôi khi nó đầy tháng. Hồi ấy ông xã tôi đang là sinh viên y khoa năm thứ Năm. Anh đem dao kéo và thuốc tê đến nhà để cắt đuôi con Tiny. Khi anh vừa chụp nó thì nó la bài hãi làm tôi hoảng quá bảo thả nó ra và ôm nó lại không cho anh cắt đuôi. Vậy là Tiny của tôi là con Fox Terrier độc nhất có đuôi không nhầm lẫn vào đâu được! Lớn lên anh chàng có nhiều đào lắm nên Tiny làm cha nhiều lần. Tiny rất khôn và sạch sẽ không bao giờ làm bậy trong nhà. Nó ở với tôi được 8 năm thì một hôm đi làm về không thấy nó, gọi thì nó ở dưới gầm giường trong phòng tôi lết ra, miệng rỉ máu. Tôi ôm nó lên. Mọi người nói chắc nó ra đường ăn gì bị độc và mấy tiếng sau thì tắt thở. Từ đó tôi không nuôi thú cưng nào nữa và vẫn thương nhớ Tiny.

Trở lại mấy con chó đẹp đẽ được chủ dắt đi dạo công viên ở Manhattan, tôi chợt nghĩ có thể kiếp sau chúng lên làm người vì kiếp chó mà xinh đẹp như vậy cũng đã được nhiều phước báu lắm mà lại được chủ cưng thì tụi nó không có cơ hội làm điều gì độc ác để gây quả báo xấu! Và vui thay, chỉ hai tuần sau tôi được đọc chuyện một cô bé ở Nhật, 2 tuổi, nhớ kiếp trước mình là con chó được nuôi trong nhà ấy. Xưa nay, giai thoại người chết chuyển kiếp thành heo, chó, dê, bò thì nhiều nhưng chưa hề thấy thú vật chuyển kiếp thành người như cô bé Nhật Bổn này. Ngày 21 June, 2021 chuyện cô bé nhớ tiền kiếp của mình được chuyển lên mạng cùng với hình ảnh mũm mĩm dễ thương của cô ở kiếp này và của con chó ở kiếp trước.  

Mẹ bé Yu-chan chia sẻ câu chuyện luân hồi của con gái 2 tuổi trên tờ “Yomiuri Shimbun,” một trong năm thời báo quốc gia của nước Nhật. Bà mẹ trẻ cho biết một ngày nọ, bé Yu-chan đang vừa đánh răng vừa trò chuyện với mẹ, bỗng thốt lên: “Yu-chan hồi trước là Mofuzou!” Rồi nói tiếp: “Đồ ăn giòn giòn cho thú cưng rất là ngon.” Bà sững sờ trân trân nhìn con vì Mofuzou là tên con chó bà nuôi lúc còn độc thân. Bà chưa từng nói với con về con chó Mofuzou mà cũng chưa cho con xem hình Mofuzou. Yu-chan nói tiếp là Mofuzou có bạn tên Mofuko cùng chơi đùa. Mẹ cô cũng còn nhớ con chó Mofuko. Bà hỏi con nhiều chi tiết về con chó Mofuzou thì cô bé trả lời đúng hết. Bà đưa ra một lô hình chụp với nhiều thú cưng thì Yu-chan nhận diện được Mofuzou liền không chút do dự.  Câu chuyện luân hồi lạ lùng này thu hút được nhiều độc giả và được giải thưởng của tờ Yomiruri năm 2016. Mẹ Yu-chan nói rằng trước kia mình không tin những chuyện kiếp trước kiếp sau nhưng từ khi trải qua chuyện này bà bắt đầu tìm đọc những chuyện trẻ thơ nhớ kiếp trước. Tuy thật là khó tin, nhưng không thể không tin vì chuyện đã xảy ra với chính con gái mình. Nay thì có rất nhiều sách vở ghi lại những công trình nghiên cứu về vấn đề nhớ kiếp trước kiếp sau mà tiêu biểu là cuốn Reincarnation and Biology gồm hai pho sách cả mấy ngàn trang của GS Bác sĩ Ian Stevenson được xuất bản lần đầu năm 1997.

Ai đi qua Sóc Trăng ở miền Tây cũng đều nghe truyền thuyết về một bà mẹ trẻ xin thầy trụ trì cứu bốn đứa con của bà bị đọa làm heo. Năm 2016, Bạnh Tuyết, cô học trò năm xưa, theo tôi đi thăm Cà Mau. Trên đường về chúng tôi ghé Sóc Trăng thăm chùa Dơi, một điểm đến của du khách. Chùa Dơi có tên Miên là Mahatup, đọc trại ra là Mã Tộc, được xây cất bởi người Miên theo Phật giáo Nguyên Thủy từ ngày vùng đất này là một phần của nước Chân Lạp (Căm Bốt ngày nay). Chúng tôi được hướng dẫn ra vườn sau thăm mộ bốn con heo. Tương truyền có một đêm thầy trụ trì nằm mơ thấy một bà mẹ trẻ dẫn 4 đứa con nhỏ đến lạy xin cứu mạng. Sáng ra, con heo nái của chùa sinh bốn heo con. Thầy nghĩ chắc linh ứng với giấc mơ nên thầy cho nuôi bốn con heo này cho đến khi chúng chết thì được chôn ở vườn sau!

Sau đây là câu chuyện người hóa kiếp thành heo mà tôi mới vừa được đọc. Chuyện xảy ra ở Ấp Đông An, xã Vĩnh Chánh, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Con trai tên Võ Thành Đẫm tự Út, 43 tuổi. Vợ là Dương Thị Chơn. Anh Đẫm mơ thấy cha tên Võ Văn Minh chết năm ông 78 tuổi. Giấc mơ thứ nhất xảy ra đêm 21 tháng 10, 2013: “Út ơi, ba chết rồi đầu thai làm heo ở xóm ngoài. Trước mũi của ba có hai lằn rạch xuống, đó chính là râu của ba. Còn ở đùi sau có một cái đốm đen. Khi nào tới chuồng thì ba nhảy lên mừng con.” Thức dậy, anh kể cho vợ nghe, vợ kêu là mê tín không tin. Sáu ngày sau, anh lại mơ thấy y hệt như lần trước nhưng anh vẫn lo đi làm thuê không nghĩ tới. Hai mươi ngày sau, anh lại thấy cha báo mộng, “Sao ba báo cho con hai lần mà con không đi tìm ba. Ba buồn, ba bỏ ăn nên bị người ta đè ra chích thuốc! Ông con không lý tới giấc mộng, vẫn lo đi làm. Đêm 22 tháng 11, cha về báo mộng cho con dâu: “Vợ thằng Út ơi, đi tìm ba đi. Ba khổ lắm. Ba trông đợi lắm.” Rạng ngày 23, chị vợ âm thầm đi tìm “ông già”. Khi đến chuồng heo của chị Lê Mỹ Hạnh ở xóm ngoài, quả nhiên con heo nái mới sanh một bầy bảy con. Bà Phạm Thị Cúc, mẹ chị Hạnh, kể con gái bà nuôi heo để bán thịt, không bán heo con nhưng họ bằng lòng bán con heo ấy với giá 2 triệu rưỡi khi được nghe kể về giấc mơ. Mà cũng lạ là con heo này hay nằm, buồn buồn không giống như sáu con kia. Họ sợ heo bệnh nên đã gọi thú y đến chích thuốc, trùng hợp với giấc mơ của anh Út. Chị vợ kể heo nhảy lên mừng khi chị đến chuồng và khi đem lên xe thì ngồi êm rơ. Bây giờ thì anh Út tin con heo là cha mình nên không dám cho ăn cám mà cho ăn thức ăn như người, cho uống nước trà đường, ngủ mùng. Làng trên xóm dưới chạy đến nhà thăm “cha anh Út”. Và heo cũng vui mừng chạy ra ủi ủi giò nhiều người. Heo rất thích bánh ngọt. Mặc dù trong giấc mơ cha anh có nói sau khi đem về thì cầu nguyện trong ba ngày rồi đem giết đi để ông được siêu thoát nhưng anh Út không dám giết. 41 ngày sau, heo không bị bệnh mà lăn đùng ra chết!

(Nguồn: GUU.VN)

Hoàng Thị Quỳnh Hoa




TRANG CHÀO MỪNG NGÀY PHẬT ĐẢN – RẰM THÁNG TƯ – NHÂM DẦN, 2022 – Phật Lịch 2566.

HỒNG  TRẦN

*

Thế gian nhiều biến đổi

Ta chỉ một dạng thôi

Theo tháng năm tàn lụi

Mấy ai chẳng ngậm ngùi

*

Cõi hồng trần sinh ly tử biệt

Kiếp nhân sinh nọ ai mãi miết

Rồi một ngày tay ng buông xuôi

Về chốn không tranh danh đoạt lời

Chết sống nào cũng là trả nghiệp

Chỉ sớm muộn nợ vay tiền kiếp

*

Mong tái sinh đừng vương lụy

Tâm yên bình thoát hiểm nguy

Vốn dĩ lời chân nguyên Phật

Để muôn người đạt phúc duyên

*

                     Hoàng Mai Nhất

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN

*

Tháng Tư ĐỨC PHẬT hạ phàm trần

Đem ánh Đạo Vàng cứu thế nhân

THÁI TỬ ly gia rời tục lụy

ĐẠT TA cắt ái biệt tình thân

Tam Quy điều dạy, thay tai kiếp

Ngũ Giới lời khuyên, nhận phước phần

Phật Lịch hai nghìn năm sáu sáu(2566)

Nguyện cầu khắp chốn rạng ngời xuân.

Phương Hoa – MAY 17, 2022

Hoa Sen Bảy Bước

Đi bảy bước hoa sen chớm nở
Gót hồng trần lan tỏa niềm mơ
Cội bồ đề, chánh kiến thiền định
Giác ngộ từ tâm, chuyển hoá cơ.

Phật pháp kinh thư đã chuyển vần
Năm châu, bốn biển độ nhân quần
Thập phương, ý nguyện luân hồi chuyển
Phật tánh Di Đà, quán tịnh thân.

Tế Luân

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN 2022

*

Mừng Phật Đản, muôn phương thiết lễ

Cúng dường ngày Nhập Thế Thích Ca

Thấm nhuần giáo lý Phật Đà

Tâm bình, thế giới an hòa sống vui

*

Mừng Phật Đản hãy nuôi mầm thiện

Phật xuống đời thị hiện chúng sanh

Nhân gian mừng đón Cha lành

Tháng Tư rằm đến, tâm thành dâng sen

*

Mừng Phật Đản, ghét ghen buông bỏ

Ánh đạo vàng sáng tỏa trần gian

Tại gia thắp nén hương nhang

Trên cao Phật chiếu hào quang sáng lòng

*

Mừng Phật Đản, sen hồng hương ngát

Tiếng Nam Mô lấn át sân si

Hồi chuông cửa Phật từ bi

Âm vơi nghiệp chướng,  xua đi hung tàn

*

Mừng Phật Đản, dâng ngàn lời nguyện

Phật từ bi, Pháp chuyển Trí minh

Khiến cho kẻ ác lui binh

Tan đi sân hận, Hòa Bình Thế Gian…

*

DUY ANH

Đại Lễ VESAK 2022

Chủ Nhật Tuần Này: Kính Mừng Đại Lễ Phật Đản PL 2566. ĐL 2022

Lời Chúc Mừng

Một Mùa Lễ Vesak nữa lại về trên trần gian, Phật Đản mang lại bao niềm hân hoan, vui sướng trong lòng những người con Phật và những ai tin vào giáo pháp cứu thoát của Ngài.

Kính chúc tất cả Quý Vị và Gia Quyến một Mùa Phật Đản: Vạn Sự An Lành, Hạnh Phúc Vui Tươi, Muôn Chuyện Hạnh Thông.

Thắp sáng ánh đèn trí tuệ trong tâm, noi theo đường Đấng Chí Tôn, để có:

-Tâm hài hòa, mỉm cười trước sóng gió cuộc đời.

-Tâm minh tuệ, ứng phó với những biến chuyển thời gian.

-Tâm siêu nhiên, đối mặt với: Sinh, Bệnh, Lão, Tử!

-Tâm bình an, vượt qua khỏi mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống, để có hạnh phúc ngay tại trần gian này.

Có Tâm là có tất cả! Tâm bình, thế giới bình!

Ý nghĩa ngày Phật Đản

Phật Đản còn gọi là Quán Phật Hội (hội tắm Phật), Giáng Đản hội (hội giáng sinh) đó là nghi thức tắm Phật. Ngày Phật Đản tức là ngày Đức Phật Thích Ca ra đời.

Mùa Phật Đản năm nay lại về trong niềm vui của mọi người dân Việt, từ Tháng Tư Đen 75, 47 năm, đang sống lưu vong nơi đất khách quê người, cách xa quê nhà cả nửa vòng trái đất. Hơn ba triệu người Việt hiện ở tạm dung trên các nước thuộc Âu Châu, Úc Châu, Mỹ Châu, đang nỗ lực tổ chức ngày “Đại Lễ Phật Đản, Phật lịch năm 2566” để hòa nhịp với niềm vui chung của nhân loại, trong mùa Phật Đản năm 2022.

Nhân dịp ngày Đại Lễ, xin ghi lại chút “Lịch Sử cuộc đời Đức Phật” để cống hiến quý đồng hương Phật Tử bốn phương, cùng tìm hiểu về “Chân lý và nguồn gốc ngày Đản Sinh của Đức Phật, hầu lưu lại cho các thế hệ mai sau, nối gót các bậc tiền nhân, duy trì và phát huy Đạo lý cao siêu của Đức Thế Tôn, trong ánh đạo vàng đến với mọi người trên thế gian.

Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch. Vesak cũng là tên của một ngày có ý nghĩa trọng đại nhất đối với hàng Phật tử khắp thế giới. Đức Phật sinh nhằm ngày rằm, tháng Vesak, vào buổi sáng, trong thành Kapilavatthu (Ca-ty-la-vệ) gần biên thùy giữa đông bắc Ấn Độ và Népan. Ấy là Thái tử Siddatha Gotama. Cha của ngài là Hoàng Đế Tịnh Phạn (Cuddhodana) họ Cồ Đàm (Gotama), và mẹ của Ngài là hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi) Ngài tên là Siddhartha Gautama. Ngài mất mẹ rất sớm. Sau khi hạ sanh Hoàng Tử được 7 ngày thì hoàng hậu thăng hà.

Thái tử sanh ra là một đại hạnh, đại phúc, ơn lành cho tất cả chúng sanh. Dĩ nhiên, đã là Hoàng tử, Ngài sống một cuộc đời vô cùng sung sướng trong cung điện nguy nga, nào biết gì đến cảnh thực ngoài đời. Nhưng ngày qua tháng lại, lần lần trong tâm Ngài tự phát giác sự thật.

Khi Ngài giác ngộ được rằng vạn vật là vô thường, có rồi không, thành rồi bại, có sinh có tử, có gìa có bệnh. Rằng bao nhiêu vinh hoa, phú qúy, khoái lạc vật chất dẫy đầy trước mắt, chẳng qua là một bã hư vô. Ngài mới nhất định xuất gia, bỏ hẳn thế sự, để đi tìm đâu là sự thật, đâu là tịnh lạc. Năm ấy được 29 tuổi, Ngài từ  bỏ cung điện nguy nga và những sa hoa vật chất của một vị Hoàng tử, không phải vì  thắc mắc băn khoăn riêng cho Ngài, mà chính vì cảnh đau khổ trầm luân của chúng sinh.

Lần từ biệt ra đi của Ngài đã giũ sạch nợ trần, để đi tìm một con đường giải thoát cho nhân loại. Suốt sáu năm trời, Ngài hãm thân vào cuộc đời khổ hạnh, hy sinh, chịu đựng muôn ngàn đau khổ với một tấm lòng sắt đá, kiên trì, với một niềm tin vô biên và luôn luôn xả thân để phụng sự. Đây là cuộc đời phấn đấu mà sức người phàm khó lòng chịu nổi.

Rồi một hôm tinh toạ trên mớ cỏ khô dưới cội bồ đề, tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddhagaya), Ngài tự nguyện: “Dù ràng thịt ta phải nát, xương phải tan, hơi phải mòn, máu phải cạn, ta quyết ngồi nơi này đến khi được hoàn toàn đắc quả vô thượng!” Vào ngày rằm, tháng Vesak, Ngài đắc quả Chánh Đẳng, Chánh Giác.  Quả này là kết tinh cuối cùng của một lòng tự tin, tự  lực, tự giác, chớ không phải nhờ ở một quyền lực siêu nhiên nào giúp đỡ.  Ngài đã diệt được bao điều chi phối của ngoại cảnh đối với thân tâm, để trở thành thanh tịnh chứng pháp, lãnh hội rõ ràng chân tánh của một sự vật: Ngài đã là Toàn Giác, Ngài đã thành Phật. Lúc bấy giờ Ngài 35 tuổi. Từ đây người ta gọi Ngài là Đức Phật Cồ Đàm (Gotama), một vị Phật trong trường chi vô lượng Phật quá khứ và vị lai.

Như vậy thì lễ Visak không những là kỷ niệm ngày giáng sinh, mà cũng là ngày đắc đạo của Đức Phật. Khi đã được hoàn toàn sáng suốt và đăc quả Chánh Đảng, Chánh Giác rồi, Ngài gia tâm đi hoằng hoá pháp mầu để rọi sáng dẫn dắt kẻ khác. Được hoàn toàn giải thoát, Ngài gia tâm giải thoát chúng sanh bằng một lối đường Trung Đạo. “Mở rộng cửa chân lý cho những ai muốn tìm chân lý, rót thẳng niềm tin tưởng vào tai những ai muốn tìm tin tưởng.” Đó là câu bất hủ mà ngài đã thốt ra lần đầu tiên, khi bắt đầu sứ mạng hoằng dương đạo pháp của Ngài.

Đầu tiên Ngài lập ra Giáo Hội Tăng Già chỉ gồm có năm vị Thanh Tịnh Pháp Sư, đó là 5 anh em Kiều Trần Như. Đây là hột giống đầu tiên hết sức nhỏ bé mà Ngài đã gieo, để rồi về sau này nở muôn ngàn đầy khắp bốn phương: Là  Giáo Hội Tăng Già ngày nay, khắp thế giới, một hệ thống tổ chức thật sự  dân chủ xưa nhất trong lịch sử  nhân loại. Khi rải các đệ tử đi hoằng hoá Giáo Pháp trong thiên hạ, Ngài gửi lời khuyên nhủ chư tăng như sau: “Hỡi chư Tỳ Kheo, các con hãy mạnh dạn ra đi, đi vì ích lợi cho chúng sanh, đi vì hạnh phúc an vui cho nhân quần, xã hội, đi vì thương xót nhân loại. Các con hãy đi khắp chốn, ban bố giảng dậy Pháp này là diệu Pháp hoàn toàn. Các con hãy nêu cao đời sống Thánh Đức khiết thanh, luôn luôn hoàn toàn và trong sạch.”

Riêng phần Ngài, là hoá thân của Đức Độ cao siêu, trí tuệ luôn luôn sáng suốt, đầy lòng nhân đạo, từ bi, bác ái, hy sinh không bờ bến, đêm nghỉ chỉ một giờ. Trong năm mười hai tháng, hết tám tháng Ngài dãi dầu phong sương khắp chốn, không quản gì thân. Ngài tế độ chúng sanh như vậy suốt bốn mươi lăm năm trường.

Một hôm, khi cảm thấy sức đã kiệt, ngày lâm chung săp đến, Ngài gọi tất cả đệ-tử về và nói: “Kiếp sống thật là ngắn ngủi, Thầy nay tuổi đã già. Thầy sắp xa lìa các con! Từ lâu vẫn nương tựa nơi Thầy.  Các con hãy cố gắng chuyên cần tinh tấn, hãy kỹ càng thận trọng và luôn luôn giữ một lòng đạo đức cao cả, với những tư tưởng trong sạch siêu mẫn, các con hãy giữ gìn bản tâm cho chu đáo. Nhờ tôn chỉ và kỷ luật này, với một đời sống tích cực hoạt động đạo đức, các con sẽ được thoát khỏi vòng sinh tử, tử sanh và chấm dứt được phiền não, đau khổ.  Vạn vật cấu tạo là nhứt dán, là vô thường.  Các con hãy cố gắng lên!

Năm ấy Đức Phật tám mươi tuổi thọ. Ngài trở về Kusinara, là một làng nhỏ bé xa xôi, nơi đây êm ái và an tịnh. Ngài tịch diệt, thân nằm êm giữa hai cây long thọ (Sala), hôm ấy đúng ngày rằm vào tháng Vesak. Như thế Vesak là ngày kỷ niệm gồm ba sự kiện: Giáng sanh, Thành Đạo, và Tịch Diệt của Đức Phật. Ngày nay Phật tử khắp hòan cầu cử  hành cuộc lễ gồm ba sự tích ấy, với một niềm tin  tuyệt vời và một đạo tâm chơn thành.

Ngày nay khoa học và văn minh càng tiến bộ, thì Đạo Phật càng được phát triển, vì hầu hết những khám phá trong khoa học hiện nay, thì Đức Thế Tôn đã nói ra cách đây từ 2566 năm về trước! các kinh sách của Đức Phật đã để lại cho nhân loại một kho tàng quý báu. Tất cả đều dựa trên cái Tâm và Trí  của thực thể con người, không ảo tưởng, không thần thoại, cũng không có cái gì là siêu hình, mê tín. Nên nhiều người nhận định, Phật Giáo là đạo sát với khoa học nhất, thì cũng đúng.

H.G. Wells, là một học giả người Anh đã viết: “Đức Phật là một nhân vật vô cùng giản dị, có Tâm Đạo nhiệt thành, tự lực một mình phấn đâu cho ánh sáng tươi đẹp, một con người sống, chứ không phải là một nhân vật của thần thoại, huyền bí. Bên sau cái bề ngoài hơi ly kỳ thần thoại, mà người đời hay gán cho ngài, chỉ thấy rõ một con người như bao nhiêu vị Giáo Chủ khác. Ngài cũng truyền lại một tuyên ngôn, một hệ thống giáo lý rộng rãi khả dĩ thích hợp cho khắp loài người. Bao nhiêu ý niệm văn minh của ta ngày nay, cũng hòa hợp được với giáo lý ấy. Ngài dậy rằng tất cả cái bất hạnh và phiền não của ta là do lòng ích kỷ mà ra, Ngài đã nhất định không sống riêng cho Ngài, mà phải sống cho kẻ khác, từ đó Ngài sống một cuộc đời siêu nhân trên tất cả mọi người. Xuyên qua trăm, ngàn ngôn ngữ khác nhau.

Đức Phật đã dậy đức từ bi, hỷ xả gần 600 năm trước Chúa Giêsu ra đời. Đứng về một phương diện nào đó mà nói, ta có thể cho rằng, Chúa với Đức Phật có nhiều chỗ giống nhau vậy. Đối với đời sống thực tại của ta, cũng như đối với vấn đề trường tồn bất hoại của kiếp ta, Đức Phật đã tỏ ra biết trước.

Thực vậy, Đức Phật đã nói:

Ta là Phật đã thành,

Các ngươi là Phật sẽ thành.

Vậy mọi người trên thế gian này, nếu có tâm đạo, có ý chí quyết tâm, tu thân, tích đức, loại trừ cái tham, sân, si mà đi theo con đường Đức Phật đã vạch ra, thì cũng sẽ thành Phật, không phải như các huyền thoại khác, lấy tôn giáo để mê hoặc con người, đi tìm một ảo tưởng vô hình. Đức Phật nói đúng, vì chính Phật cũng là một người như ta, nhưng Ngài đã vượt ra ngoài cái khuôn khổ của loài người. để đi tìm lấy một chân lý tối thượng, hầu truyền lại cho con người đi theo con đường Chân, Thiện, Mỹ. Để tiêu diệt cái “Tâm độc ác, cái Trí ngu muội”, trên trần gian. Đem đến cho mọi người được thân tâm an lạc, thanh bình, thịnh vượng, hạnh phúc và có trí sáng tạo.

Ông Bertrand Russell, một học giả triết gia hiện nay người Anh có nói: “Đức Phật rõ là một nhân vật chủ trương thuyết phi thiên cách cao thâm nhất từ cổ chí kim vậy”. Dựa theo giáo lý cuả Đức Phật, Ông Thomas Paine, một học giả uyên thâm khác đã viết theo lời Phật dậy: “Thế giới là nhà ta, nhân loại là anh em ruột thịt ta, và vi thiện là đạo ta”. Từ hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, Đức Phật há chẳng nói: “Chớ nên làm ác, hãy làm lành, cố gắng lên, cố gắng làm cho tâm ngày càng trong sạch”. Đó là điều mà Đức Phật dạy chúng ta phải làm, chỉ có bấy nhiêu. Và chỉ nhờ có bấy nhiêu mà ta sẽ diệt đươc ba nạn là: Tham ái, sân hận, và si mê.

Để kỷ niệm ngày Đức Phật giáng trần và cũng là ngày Đắc Đạo sau sáu năm khổ hạnh và 49 ngày  tịnh toạ trên mớ cỏ khô dưới cội Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddagaya). Hàng năm cứ gần đến ngày rằm tháng tư âm lịch, là toàn thể các tín đồ Phật giáo thuộc các giáo hội trên khắp thế giới, nao nức hân hoan tổ chức kỷ niệm ngày đản sanh. Để nhắc nhở người con Phật, ôn lại những răn dậy tinh hoa của Đức Thế Tôn, làm kim chỉ nam cho đời sống hiện tại cho mỗi người trên trần gian.  

Mặt khác, tưởng cũng nên nhìn lại lịch sử thế giới, ta thấy bao nhiêu bạo lực độc ác của các đế quốc tàn bạo để nô lệ hóa con người, như gần đây nhất, Nga xâm chiếm Ukraine, Trung cộng đòi chiếm Biển Đông, nhưng tất cả, đã và sẽ lần lượt tiêu tan theo thời gian ngắn ngủi! Chỉ có giáo lý cuả Đức Phật là còn tồn tại mãi mãi, bất diệt nơi tâm hồn của hàng triệu, hàng tỉ người Phật Tử nói riêng và nhân loại nói chung. Mỗi ngày một phát triển trên khắp năm châu. Lạ một điều, giáo lý của Đức Thế Tôn đang được phát triển tột đỉnh, rộng rãi trong lòng các dân tộc văn minh Tây Phương! chứ không phải ở Phương Đông!

Mừng Đại Lễ Phật Đản Trên Toàn Thế Giới

Phật Đản là ngày nghỉ lễ quốc gia tại nhiều quốc gia châu Á như Thái Lan, Nepal, Sri Lanka, Malaysia, Miến Điện, Singapore, Indonesia, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Campuchia,…

* Đại Lễ Phật Đản Sri Lanka

Tại Sri Lanka, hai ngày được dành cho việc cử hành Vesākha, việc bán rượu và thịt thường bị cấm và tất cả các cửa hàng rượu, bia và lò giết mổ phải đóng cửa do nghị định của chính phủ. Chim, côn trùng và thú vật được phóng sinh như là một “hành động mang tính biểu tượng của sự giải thoát”, của sự trả tự do cho những người bị giam cầm, bị bỏ tù, bị tra tấn trái với ý muốn của họ.

* Đại Lễ Phật Đản Ấn Độ

Tại Ấn Độ, Nepal, người dân thường mặc áo trắng khi lên các tịnh xá và ăn chay. Tại hầu hết các quốc gia châu Á đều có diễn hành xe hoa và nghi lễ tụng niệm.

* Đại Lễ Phật Đản Hàn Quốc

Tại Hàn Quốc có lễ hội đèn hoa sen (Yeondeunghoe) rất lớn. Còn gọi (Bucheonim osin nal) có nghĩa là “ngày Đức Phật đến”, bây giờ đã phát triển thành một trong những lễ hội văn hóa lớn nhất của quốc gia. Lễ hội Phật đản diễn ra tại nhiều nơi công cộng, và trên những đường phố. Trưng bày và diễn hành lồng đèn là một trong những chương trình tưng bừng và gây nhiều xúc cảm nhất.

 * Đại Lễ Phật Đản Miến Điện

Tại Myanmar, ngày Vesak cũng gọi là ngày của Kason. Kason là tháng thứ 2 trong 12 tháng theo lịch Myanmar. Đây là tháng nóng nhất trong năm. Nên trong khuôn khổ lễ hội Vesak, người dân nơi đây, với lòng thành kính, đặt những chậu nước tinh khiết trên đầu đội đến những tự viện tưới xuống cây Bồ đề. Họ tưới cây Bồ đề để cảm ơn giống cây này đã che chở đức Thế Tôn, trong những ngày thiền định trước khi chứng đạo và ước nguyện năng lực giải thoát luôn trưởng dưỡng trong họ.

* Đại Lễ Phật Đản Thái Lan

Thái Lan là quốc gia Phật giáo đã 5 lần tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc. Khí trời nóng bức và không mưa, người ta thường bắn pháo hoa với ước nguyện sẽ có mưa.

* Đại Lễ Phật Đản Trung Quốc

Tại Trung Quốc, Phật giáo đã có mặt gần 2000 năm. Phật giáo từng là tư tưởng dẫn đường chính cho chính quyền và người dân trong một số triều đại xưa. Lễ Phật đản được tổ chức từ thời Tam Quốc, đã ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội qua nhiều giai đoạn lịch sử. Nhưng ngày nay Phật giáo không còn ảnh hưởng nhiều trong xã hội Trung Quốc, từ khi theo xã hội chủ nghĩa. Người dân chỉ còn biết đến Phật giáo như là một tôn giáo lo ma chay, cúng kiếng, võ thuật… Lễ Phật đản chỉ có thể được tổ chức trong khuôn viên chùa, tu viện và ít được xã hội quan tâm.

* Đại Lễ Phật Đản Đài Loan

Phật giáo Đài Loan có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống thường nhật của người dân tại lãnh thổ Đài Loan. Từ năm 1999, ngày Phật Đản đã là một ngày nghỉ lễ quốc gia ở Đài Loan, được tổ chức hàng năm vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng 5 và trùng với Ngày của Mẹ. Nghi lễ thường bắt đầu với điệu nhảy truyền thống và hát ca khúc Phật giáo. Một bức tượng của Đức Phật kèm theo âm nhạc, được rước vào địa điểm và buổi lễ bắt đầu với phần dâng cúng năm vật là hoa, trái cây, hương, thực phẩm và đèn cho Đức Phật

* Đại Lễ Phật Đản Nhật Bản

Tại Nhật Bản, Phật giáo truyền đến từ cuối thế kỷ thứ VI và là tôn giáo chính trong giai đoạn trung và đầu cận đại. Ngày nay, vai trò của tôn giáo ít ảnh hưởng mạnh đến đời sống thường ngày ở Nhật Bản. Lễ Phật đản thường gắn liền với Lễ hội Hoa Anh đào, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi tu viện và trong quần chúng Phật tử.

* Đại Lễ Phật Đản Việt Nam

Gần 90% dân số VN theo Phật Giáo, nên Lễ Phật đản được công nhận là một ngày nghỉ lễ (quốc lễ) chính thức tại miền Nam Việt Nam, bắt đầu từ năm 1958, do chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa của chính thể Việt Nam Cộng hòa thông qua.

Vào ngày này, người dân tự do tưng bừng tổ chức rất nhiều sinh hoạt, đời cũng như đạo. Cúng lễ tại các chùa, kèm theo nhiều chương trình văn nghệ. Ngoài đường phố, hàng đoàn xe hoa nhiều mầu sắc diễn hành. Cờ Phật Giáo, nhạc Phật vang lừng khắp nơi. CS đã lợi dụng sự tự do này, xúi dục tổ chức nhiều cuộc biểu tình, nhằm làm mất an ninh tình hình hậu phương, cũng nhằm bôi xấu “chính thể VNCH đàn áp tôn giáo” trước dư luận quốc tế.

Sau khi chấm dứt chiến tranh Việt Nam năm 1975, cộng sản chủ trương vô thần, nên mọi hoạt động tôn giáo đều bị cấm. CS còn tuyên truyền “VN ta có “Bác Hồ” không thờ, thờ chi những Ông Ấn Độ, Do Thái!” Thì ngày này không còn là ngày lễ quốc gia nữa! Mọi hoạt động tôn giáo đều phải có giấy phép! Mặc dù có giấy phép, vẫn bị công an quấy nhiễu. Đàn áp nhiều nhất, vẫn là các sinh hoạt của Phật Giáo Hòa Hảo.

Tuy nhiên, những những năm gần đây, ngày Phật Đản được coi là một ngày lễ hội quan trọng, thu hút sự tham gia không chỉ của Phật tử, mà còn là của người dân trên mọi miền của Việt Nam.

Thấy tình hình, dư luận người dân ngả theo như thế, nên ngày này, cũng nhận nhiều sự quan tâm của nhà cầm quyền CS, thường cử các phái đoàn tham dự các buổi lễ, phát bằng khen.

Nhiều chùa “Quốc Doanh” trên bàn thờ Phật, còn có tượng HCM! Sư giảng Phật Pháp, còn chen vào những bài giảng chính trị.

Còn thực tế bình thường, thì mọi buổi lễ Phật đản chung của các huyện, đều có sự tham gia của chủ tịch huyện và các chuyến thăm của chủ tịch mặt trận Tổ quốc, Nếu chùa nào trong hệ thống quốc doanh, còn nhận được sự hỗ trợ kinh phí trong công tác tổ chức Phật đản.

Ngoài ra vào ngày này, các tổ chức từ thiện của Phật giáo, thường tổ chức các hoạt động thăm hỏi, những người khó khăn, trẻ em mồ côi tại các nhà tình thương, những người già neo đơn không nơi nương tựa. Đây chính là điều quan trọng nhất của Đạo Phật, trong việc xây dựng Đạo của sự Từ Bi.

Danh ngôn Phật Pháp

*Về chân lý cuộc đời

Sau đây là những câu danh ngôn Phật pháp và đời sống giáo huấn con người nhận ra chân lý, lẽ phải, để biết cách sống tốt hơn, đẹp hơn:

– Người Phật tử hãy nên nhớ, sở dĩ con người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm, do không tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc.

– Nếu chúng ta không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không thể làm cho ta phiền muộn khổ đau, vì ta đã có cây kiếm trí tuệ, nhờ nghe và biết chiêm nghiệm, để rồi tu sửa và làm chủ bản thân.

– Chúng ta hãy luôn cám ơn nghịch cảnh, vì chính khó khăn đó đã giúp cho ta có cơ hội quay lại chính mình. Nhờ vậy tâm ta an tĩnh, sáng suốt mà tìm ra phương hướng để khắc phục.

– Khi ta vui, ta biết mình đang vui và luôn tâm niệm rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi ta đau khổ do một hoàn cảnh bức bách nào đó, ta nên biết nỗi khổ này cũng không thể lâu dài, vì ta biết buông xả.

– Sự chấp trước của ta ngày hôm nay, sẽ là niềm hối hận cho mai sau, bởi vì ta đã làm tổn thương đến nhiều người, dù có ăn năn hối lỗi, trái tim ta vẫn rỉ máu.

– Bất mãn là thái độ thiếu khôn ngoan và sáng suốt, người trí càng nỗ lực tu học và dấn thân đóng góp nhiều hơn nữa, khi mọi việc chưa được tốt đẹp, để không bị rơi vào trạng thái tiêu cực.

*An lạc trong cuộc sống

Chìa khóa của sự an lạc trong cuộc sống, chính là biết buông bỏ đúng lúc, những gì không thuộc về mình và trân trọng những gì hiện có. Sau đây là những danh ngôn Phật pháp giúp ta biết cách sống an nhiên, tự tại hơn:

– Chúng ta nên nhớ khi con người có quyền và tiền trong tay, thì hạnh phúc tinh thần sẽ mất đi. Vì lo sợ mất mát, sợ người chiếm đoạt và sợ kẻ thù, những thứ không thuộc về mình, mà cố nắm giữ, chỉ gây thêm phiền muộn khổ đau.

– Người Phật tử hãy cho qua hết việc buồn đau, được mất, hơn thua, không gieo oán giận thù hằn, để tâm an ổn, mà sống đời hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

– Con người sống không thể không có niềm tin, nhưng niềm tin đó phải là chánh tín nhân quả, được xây dựng trên cơ sở có chánh kiến, chánh tư duy, bằng sự thấy biết chân chính nhờ biết từ bi hỷ xả.

– Người Phật tử chân chính hãy cho qua hết mọi đam mê có hại đến người và vật, biết phát huy tinh thần giúp đỡ sẻ chia, bằng tình người trong cuộc sống.

– Chúng ta nên biết, không tranh thì an ổn, không giết không hại người vật, thì an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Người hay giúp đỡ sẻ chia, thì tâm từ bi rộng lớn mà sống đời an vui, hạnh phúc.

– Người biết đủ, là người giàu có hạnh phúc nhất, vì không thấy thiếu thốn, người tham lam ích kỷ, hà tiện keo kiệt, dù có nhiều tiền vẫn là người nghèo nhất thiên hạ, vì tâm toan tính sợ mất mát.

Danh ngôn về giá trị cuộc sống

Những câu danh ngôn Phật giáo với những giá trị sâu sắc dạy ta hiểu hơn về quy luật sống của thế gian. Hoa nở hoa rơi rồi hoa tàn, tiền tài địa vị cũng sẽ tan, cao sang danh vọng rồi cũng tàn.

– Chúng ta sống phải có niềm tin chân chính về nhân quả thiện ác, do chính mình tạo ra, niềm tin này không phải là tin vào một đấng thượng đế, có khả năng ban phước giáng họa, hay tin vào một điều gì mà mình không hiểu, không biết.

– Người Phật tử phải có hiểu biết, có yêu thương, có trí tuệ, có từ bi và làm lợi ích cho nhiều người, mà không bao giờ tính toán, so đo, nhờ vậy ta sẽ sống bình yên và hạnh phúc.

– Chúng ta phải biết buông bỏ những kiến chấp sai lầm và các tạp niệm xấu ác. Nhờ vậy cuộc sống lúc nào bình yên hạnh phúc, trong từng phút giây.

– Mọi người không nên tiếc nuối về quá khứ tốt xấu, đúng sai mà đánh mất chính mình trong hiện tại, vì ta đang sống hạnh phúc trong từng phút giây của thương yêu và hiểu biết.

– Người Phật tử khi đến chùa đọc kinh nghe pháp, khi hiểu rõ lời Phật dạy, sau đó mới đem áp dụng vào cuộc sống của mình, để có được hạnh phúc cho bản thân, và đem lại lợi lạc cho gia đình xã hội.

– Một niềm tin thiếu hiểu biết gây tác hại, ảnh hưởng xấu, làm trở ngại cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, gieo bất an, khổ não cho nhiều người, thì đó không phải là niềm tin đúng đắn, chúng ta cần loại bỏ.

*Danh ngôn về triết lý nhân quả

Những câu danh ngôn Phật pháp về luật nhân quả, răn dạy chúng sanh phải biết tạo nghiệp tốt, để nhận được quả ngọt:

– Hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ không đổ thừa do số mệnh định sẵn, hay có sự an bài của đấng tạo hóa nào đó, mà không vươn lên làm mới lại chính mình, thay đổi hoàn cảnh cuộc sống.

– Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Đó là cách ăn của chư vị Tổ sư đã thể nghiệm, nên đưa ra pháp tu tương ứng, nhằm duy trì mạng sống chúng Tăng được khỏe mạnh.

– Chúng ta đừng để tâm chạy theo những mối ưu tư của nó, giống như những người bình thường, chưa biết quán sát hơi thở là gì. Một khi ta đã có chỗ an trú, để giữ con khỉ tâm thức, thì nó ngày càng bớt ngang ngạnh và từ từ bớt rong rủi chạy tìm.

– Chúng ta chỉ làm một việc duy nhất, là đơn thuần theo dõi và nhận biết hơi thở rõ ràng, thở vô mình biết mình đang thở vô, thở ra mình biết mình đang thở ra. Hơi thở dài hay ngắn là tùy theo khả năng của mỗi người.

– Ngu dốt là sự không hiểu biết của con người, nên ngu dốt cũng đem tới nhiều tai hại cho bản thân, gia đình và xã hội. Có thể nói, ngu dốt là không có kiến thức, không tin sâu nhân quả, không hiểu biết chân chính về mối tương quan trong thế giới mình đang sống.

Mong rằng với những câu danh ngôn Phật pháp  trên sẽ giúp cho Quý Vị tìm ra được giá trị cuộc sống và tâm hồn sẽ trở nên an yên, thanh thản.

LÊ VĂN HẢI

Ba Bài Thơ Mừng Khánh Đản:

Chùa làng

 Chùa làng soi bóng hồ sen

Tháng Ba đom đóm rước đèn hoa đăng

Rủ nhau đi cấy sáng trăng

Thoảng mơ tiếng mõ đêm rằm nhặt khoan…

Giọt chuông thánh thót tam quan

Nhành mai gọi chú bướm vàng vờn hoa

Sân chùa tiểu quét lá đa

Khói nhang trầm mặc, la đà câu kinh…

Sương vương hồng đóa môi xinh

Gót tiên đội nắng bình minh lên chùa

Thềm nào rụng quả táo chua?

Thị Màu rình rập bỏ bùa áo nâu…

Về làng hồn tựa vào đâu?

Mái chùa cong vút xanh màu rêu phong

Lại đi cấy giữa sáng trăng

Lại nghe tiếng mõ đêm rằm… nhặt… khoan…

Hoàng Anh Tuấn

*

Trầm Hương Khánh Đản

*

Sớm nay trời ửng nắng hồng

Lời chim hót, tiếng ca trong ngọt ngào

Hải triều âm dậy dạt dào

Hỏi ra mới biết Phật vào cõi hương

Sớm nay nhân thế triều dương

Tin vui truyền khắp mười phương đất trời

Vinh quang hạnh phúc cõi người

Ca tì la vệ rạng ngời pháp thân

Rằng nghe Linh thoại ngàn năm

Ưu đàm hoa nở trăng rằm tỏa hương

Viên thành diệu sử một chương

Đản sinh Văn Phật ơi hương ơi trầm

Trời xanh hiện cát tường vân

Trần gian xuân sắc thanh tân diệu kỳ

Mười phương một niệm Tam quy

Chân như hiện bóng từ bi cát tường.

Hạnh Phương

*

Mừng Phật đản

1.

Hai nghìn năm kinh sử truyền ghi

Một sáng tháng Tư đẹp diệu kỳ

Khắp cõi nhơn thiên bừng tỏ rạng

Đón mừng Phật đản, đấng Từ bi.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Ra đời mở cửa huyền vi nhiệm mầu

Cứu muôn loài thoát khổ đau

Đến bờ an lạc dạt dào yêu thương.

2.

Hôm ấy Tỳ Ni bỗng lạ thường

Vô ưu nở rộ ngạt ngào hương

Líu lo chim hót, hoa khoe sắc

Thiên nhạc ngân vang mọi nẻo đường.

Hân hoan nô nức muôn phương

Mừng bậc xuất thế phi thường giáng sinh

Ba ngàn thế giới chuyển mình

Ca Tỳ mở hội cung nghinh thân vàng.

3.

Thắp nén hương lòng con kính dâng

Mừng ngày Phật đản, niệm hồng ân

Nguyện cùng muôn loại đồng khai ngộ

Thông điệp Từ bi chiếu rỡ ràng.

Lưu truyền khắp cõi nhơn gian

Đạo mầu tỏa ánh từ quang rạng ngời

Chúng sanh thoát cảnh lầm mê

Nương nhờ pháp lạc, lối về thong dong.

Tâm Chơn

Chúc Mừng Đại Lễ Phật Đản PL 2566. DL 2022




HÀNH TRÌNH CUỘC ĐỜI

CAO MỴ NHÂN 

Nếu quý vị chỉ quen biết nhau có một thời, như là thủa ấu thơ, thiếu niên ở cùng xóm, cùng khu phố . 

Thủa thanh niên, cùng đi học, đi chơi, đi hội đoàn, đi làm hay đi buôn bán vv…

Tới thủa cao niên thì đi thăm hỏi, lễ lạc vv…

Tất cả đều  bình thường, có gặp lại hay không cũng chẳng thành vấn đề …

Song nếu quý vị quen biết nhau suốt hành trình cuộc đời , nghĩa là từ tấm bé đi lên tới cõi già nua, thì thật có lúc buồn ghê lắm, ấy là ta thấy rõ đời nhau, những thăng trầm, không suông sẻ, thậm chí còn đau khổ, thất bại vv…

Và cái điều không tránh khỏi là cả 2 cùng thấy nỗi bâng khuâng, tàn tạ của nhau lúc về già …

Không phải là người ta sợ già, chán già, vì già thì không còn đẹp đẽ, không còn tươi vui, mà người ta kịp nhận ra rằng chẳng còn bao lâu nữa, mọi người sẽ từ từ khuất mặt ở thế gian này vậy thôi. 

Như trên tôi đã trình bầy, thủa thanh thiếu niên, ngoài việc đi học, tôi tham gia rất nhiều hội đoàn …Thoạt thì đi Phật Tử từ tuổi oanh vũ ở Hải Phòng, sau đi Hướng Đạo ở Saigon, rồi vô Caritas, theo đoàn Hội Con Đức Mẹ đi tới các nhà thương chăm sóc bệnh nhân . 

Chót hết là tham gia Quân Đội VNCH, trong ngành Công tác Xã hội …

Chưa kể các nhóm nhỏ, hội lớn vv…tôi đều có mặt . 

Như vậy, cứ nhìn vào sinh hoạt của tôi, quý vị cũng thấy là tôi sống chan hoà thế, thì số lượng bạn bè …đông đảo lắm chứ . 

Do đó, kể từng giai đoạn lui tới bạn bè, hẳn tôi …ôm đồm quá , nên mệt quá, ấy thế mà tôi …thú vị vô cùng trời ạ. 

Và vì thế, tôi mới có dịp chứng kiến những phút giây vinh quang cũng như  tủi nhục của kiếp người, nhất là thời gian tôi sống trong đại tộc KaKi của…tôi. 

Tôi thuộc lòng từng chi tiết một những gì xẩy ra với mỗi cá nhân đặc biệt, hay từng đơn vị nhỏ mà tôi mặc nhiên hiện diện, ở gia đình quân nhân các cấp trong thành phố, ngoài các trại gia binh, hay tới tận cùng núi non, sông biển, đất lở, đồng lụt vv…

Đôi khi không muốn nhớ lại, nhưng những sự việc chưa rời xa lắm, lại hiển hiện trước mắt …cả một quá khứ miên man tiếp nối …cứ khiến mình nhớ thương vời vợi. 

Hình như trong lòng tôi, tôi chưa muốn ai phải từ giã cõi đời, nếu như lý luận của quý cụ bị phiền hà, bực bội, thì mỗi lần tôi tỏ vẻ tiếc thương bạn văn cũng như bạn …võ , quý cụ lại  chép miệng : 

” Chết phải rồi, nếu ai cũng sống, đất đâu mà chứa …” 

Sau khi đi tù cải tạo về, tôi tiếp tục lối sinh hoạt của tôi, chỉ có thay đổi nghề nghiệp cũ, là không còn đại tộc KaKi cho tôi bay nhẩy như thủa phục vụ ở Bộ Tư Lệnh QĐI/ QKI. 

Nhưng tôi vẫn nay thăm nhà này, mai thăm nhà khác, những gia đình quân nhân các cấp mà tôi được hân hạnh quen biết trước cuộc đổi đời 30-4 -1975. 

Đến nỗi tôi chưa cảm thấy đói, lại còn được huynh đệ chi binh hỏi thăm xem tôi đang sống cách nào, mà cứ lạc quan , mặc dầu ông xã tôi qua Mỹ đã ” biệt vô âm tín “. 

Tôi và 4 con tôi không thể kể khổ than nghèo được, khi ai cũng biết : ” nhà đó có chồng ở Mỹ, tụi nhỏ có cha ở Mỹ, thì làm sao thiếu thốn được chứ ” . 

Rồi đào lý bốn phương, chi lan tỷ muội, tức là bạn văn của tôi, cũng luôn chứng tỏ thơ phú tri âm tri kỷ thân tình … 

Tôi than là than theo cái kiểu bình thường, làm lụng nhiều quá thì kêu mệt, tôi khóc là vì bằng hữu hay hỏi thăm những chuyện …bá vơ. 

Thế nên tôi bỗng giận ông Thiên quá, ông không để huynh đệ chi binh, đào lý bốn phương tôi được sống an bình, ít nhất mỗi người đủ 100 năm cho đúng tiêu chuẩn ngài Thiên đã ấn định, ông Thiên lại cứ bớt xén một số tuổi tác, bởi cảnh cơ khổ, hoặc bất trắc vì bịnh hoạn hay tai nạn xẩy ra. 

Khi tôi 40 tuổi thì quý nữ sĩ trong hội thơ Quỳnh Dao đã gấp rưỡi hay gấp đôi số niên tuế của tôi rồi …

Tôi luôn là cây gậy của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội khi bà còn ở Úc Viên Saigon. Tôi theo bà đi thăm vị này,vị nọ như quý cụ Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Đông Xuyên, Bàng Bá Lân …vv. 

Tôi không biết thủa ” phương phì ” ( đương thì ) của quý khách Úc Viên xưa thế nào, chứ thực tại hồi đó, quý vị đã là những lão ông, người thì lụm khụm, người còn phi xe đạp tới nhà nhau bình văn thiên hạ . 

Và rồi lần lượt ra đi Tây Trúc khói sương. ..

Nữ sĩ Mộng Tuyết mở album ra,  hình ảnh cũ, có cụ Đông Hồ, và vài vị tên tuổi, vẫn còn phong thái ung dung… đã mãn phần. 

Nơi album của nữ sĩ Vân Nương hồi đám cưới, chú rề là  luật sư Lê Ngọc Chấn tri phủ, sau này làm đại sứ VNCH ở Luân  Đôn và Tunisie, nhị vị phù rể là 2 thi sĩ danh tiếng thời tiền chiến: Huy Cận, Xuân Diệu . 

Tôi kéo thời gian lùi về hiện đại một thế hệ ( 10-15 năm ), tôi bắt gặp một album của anh họ tôi, đại tá Biệt Động Quân Cao Văn Uỷ, thì nhị vị phù rể là 2 nhạc sĩ ; Nguyễn Hiền và Nhật Bằng  tên tuổi ở 2 thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà, tới cả khi cùng đi tị nạn ở Hoa Kỳ đầu thập niên 90 thế kỷ trước , anh tôi đại tá Cao Văn Uỷ thì ở Úc .  

Nay thì chẳng còn ai trong số quý vị vừa nêu trên … ở cõi đời này nữa. 

Tất nhiên rồi, làm sao sống mãi được… vì quý vị đã trên tám , chín mươi trở đi. 

Song kể như thế vẫn chưa rõ ý, điều tôi nêu ra, phải có một hình ảnh cụ thể cơ. 

Một người lạ, không quen , chỉ biết thôi, vì nếu không biết thì làm sao kể nhỉ ? 

Chuyện nhà thơ trung tá Hoàng Ngọc Liên, đối với tôi, thì rõ quá rồi, nhưng khi ông 30, tôi còn mấy năm nữa mới 20 . 

Trong suốt thời gian trung niên của thi sĩ Hoàng Ngọc Liên, cùng một loạt văn thi sĩ khác, tôi thấy quý ông hào hoa phong nhã … không kịp thở nữa . 

Quý vị ấy cũng sống bận rộn hết mình kiểu như tôi, nhưng sự kiện khác, như Thế Hoài, Hoàng Ngọc Liên bận rộn nơi đoàn quân Mũ Đỏ, rồi văn nghệ lai rai…

Sau 1975 cộng thêm mỗi người 12 năm tù cải tạo. Khi trở về thành phố, mỗi thi sĩ ” lớn” một xe đạp cao hay mini, tuỳ theo gia đình có xe chi thì xài xe đó, nhị vị tới tìm tôi ở Câu lạc bộ Dưỡng sinh… vì tôi về sớm nên đã kiếm ra việc làm huấn luyện viên Dưỡng Sinh rồi . 

Thế là chúng tôi đi xơi canh bún bình dân ở vệ đường, vậy mà tôi đòi trả tiền, quý vị không cho …2 thi sĩ tá 5 trước mặt tôi đã bị CSVN bóc hết những gì gọi là phong cách cũ …ngó tội  nghiệp lắm . 

Nhưng chúng tôi gặp lại nhau, thì tưởng như người nhà thất lạc đã về, nên niềm vui cứ chan hoà . 

Như tôi trình bầy trên, ông Thiên chẳng có thì giờ ngó ngàng đến 2 vị thi sĩ đàn anh của tôi, thời gian sau thì Thế Hoài thất lộc bên quê nhà, Hoàng Ngọc Liên qua Mỹ theo diện HO . 

Trung tá Hoàng Ngọc Liên lênh đênh trên vài tiểu bang miền đông, rồi qua Sacto lưu lại cũng khá nhiều năm, nay diện bích ở Oregon, với gia đình một trong 2 cô con gái mà ông mang theo được, ông đã bước gần tới cửa thiên đường . 

Chao ơi, viết riêng về nhà thơ trung tá Hoàng Ngọc Liên toàn cảnh cuộc đời thì phải …3 tập, 2 cho nhị vị phu nhân, còn 1 cho tất cả hoa hoa bướm bướm quanh ông, cả lúc đương thời danh vọng lẫn khi thất thế . 

Mỗi lần kể chuyện đào lý chi lan, tôi thường đi lạc, anh Thân Kính của tôi là một hình ảnh tổng hợp nhiều kiếp nhân sinh gộp lại, khiến tôi không muốn để một kẽ hở nào cho việc than trách sự trống vắng hay thiếu sót bóng dáng những nhân vật, đã có dịp thân thiết trong văn chương hay ngoài cuộc đời mình. 

Cuối cùng , tôi có  được vốn liếng về thế thái nhân tình ngày nay, là điều tôi rất vui mừng, hạnh phúc, bởi  tôi .đã chắt chiu tình cảm của anh trong nhiều hoàn cảnh cuộc đời …tôi giữ lại mãi mãi tình thân thương hiếm quý này … 

         CAO MỴ NHÂN 




Trang NGÀY CỦA MẸ

Ns Võ Tá Hân

ĐỔI CẢ THIÊN THU TIẾNG MẸ CƯỜI

Hơn mười năm trước, tôi có viết một bài thơ về mẹ, trong đó có hai câu đã trở thành quen thuộc:

Ví mà tôi đổi thời gian được

Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi. Tôi viết rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều. Những dòng chữ, những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp ủ trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để tuôn ra. Tôi không làm thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở bên tai mình. Nguyên văn bài thơ như thế này:

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người

Tiếng ai như tiếng lá thu rơi

Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ

Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề

Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê

Mười năm tóc mẹ màu tang trắng

Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn

Bên đời gió tạt với mưa tuôn

Con đi góp lá nghìn phương lại

Đốt lửa cho đời tan khói sương

Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào

Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao

Mẹ xa xôi quá làm sao vói

Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ

Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ

Đau thương con viết vào trong lá

Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người

Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi

Ví mà tôi đổi thời gian được

Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

Bài thơ đơn giản và dễ hiểu, không có gì phải cần bình giải. Tất cả chỉ để nói lên tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá xa cành, mười năm chưa về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã ngoài 60 tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống tám năm.

Nhớ lại đêm cuối cùng ở Sài Gòn, tôi đón xe xích-lô từ cửa sông về chào mẹ. Trời mưa lớn. Nhưng khi gặp mẹ, với tâm trí ngàn ngập những lo âu, hồi hộp cho chuyến đi, tôi không kịp nói một câu cho trọn vẹn ngoài ba tiếng “Con đi nghe”. Và như thế tôi đi, đi không ngoảnh lại, đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ của chúng tôi được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào khuya ngày 13 tháng 6 năm 1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn về phía Nam, tôi biết quê hương và mẹ đã ngoài tầm tay vói của mình. Đời tôi từ nay sẽ như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào hay cơ hội nào trở về nguồn cội.

Nếu có một quốc gia mà những người dân của quốc gia đó đã phải từ chối chính đất nước mình, từ chối nơi đã chôn nhau cắt rốn của mình, tôi nghĩ, đất nước đó không còn bao nhiêu hy vọng. Việt Nam sau 1975 là một đất nước sống trong tuyệt vọng như thế. Dân tộc Việt Nam những năm sau 1975 là một dân tộc sống trong tâm trạng những kẻ sắp ra đi. Sài Gòn giống như một sân ga. Chào nhau như chào nhau lần cuối và mỗi ngày là một cuộc chia ly. Bắt tay một người quen, ai cũng muốn giữ lâu hơn một chút vì biết có còn dịp bắt tay nhau lần nữa hay không. Gặp người thân nào cũng chỉ để hỏi “Bao giờ anh đi, bao giờ chị đi”, và lời chúc nhau quen thuộc nhất mà chúng thường nghe trong những ngày đó vẫn là “Lên đường bình an nhé.”

Đất nước tuy đã hòa bình rồi, quê hương đã không còn tiếng súng nhưng lòng người còn ly tán hơn cả trong thời chiến tranh. Đêm cuối ở Sài Gòn lòng tôi ngổn ngang khi nghĩ đến ngày mai. Ngày mai sẽ ra sao? Nếu bị bắt tôi sẽ ở tù như lần trước nhưng nếu đi được thì sẽ trôi dạt về đâu?

Suốt sáu năm ở lại Sài Gòn, tôi chỉ nghĩ đến việc duy nhất là ra đi. Khi chiếc ghe nhỏ bị mắc cạn trong một con lạch ở Hải Sơn buổi sáng ngày 11 tháng 6 năm 1981, trời đã sáng, nhiều người, kể cả một trong hai người chủ ghe, cũng bỏ ra về nhưng tôi thì không. Tôi phải đi dù đi giữa ban ngày. Tôi phải tìm cho được tự do dù phải bị bắt và ngay cả phải trả giá bằng cái chết. Tự do đầu tiên, biết đâu cũng sẽ là cuối cùng và vĩnh viễn. Nhưng hai ngày sau, khi đứng trên boong tàu Mỹ, tôi biết mình vừa mất một cái gì còn lớn hơn ngay cả mạng sống của mình. Đó là đất nước, quê hương, bè bạn, con đường, tà áo, cơn mưa chiều, cơn nắng sớm, và trên tất cả, hình ảnh mẹ. Không phải những người ra đi là những người quên đất nước hay người ở lại bám lấy quê hương mới chính là người yêu nước. Không. Càng đi xa, càng nhớ thương đất nước, càng thấm thía được ý nghĩa của hai chữ quê hương. Không ai hiểu được tâm trạng người ra đi nếu không chính mình là kẻ ra đi.

Nói như thế không có nghĩa là tôi hối hận cho việc ra đi. Không, tôi phải đi. Nhưng chọn lựa nào mà chẳng kèm theo những hy sinh đau đớn. Bài hát Sài Gòn Vĩnh Biệt, tôi thỉnh thoảng nghe trên đài VOA khi còn ở Việt Nam như những mũi kim đâm sâu vào tâm thức. Bao nhiêu điều hai ngày trước tôi không hề nghĩ đến đã bừng bừng sống dậy. Bao nhiêu kỷ niệm tưởng đã chìm sâu trong ký ức đã lần lượt trở về. Tự do, vâng, tôi cuối cùng đã tìm được tự do nhưng đó chỉ là tự do cho chính bản thân mình. Những gì tôi đánh mất còn lớn hơn thế nữa.

Nhớ lại đêm thứ hai trên biển, khi biết chiếc ghe chiều dài vỏn vẹn mười mét rưỡi nhưng chứa đến 82 người của chúng tôi vừa cập vào thành tàu chiến của Mỹ thay vì Ba-Lan hay Liên-Xô như mọi người trên ghe lo sợ, ai cũng hân hoan mừng rỡ. Đám bạn tôi, có đứa thậm chí còn hô lớn “USA, USA” và ôm chầm lấy những người lính hải quân Mỹ đang dang tay đỡ từng người bước lên khỏi chiếc cầu dây đang đong đưa trên sóng.

Tôi cũng vui mừng, biết ơn và cảm động nhưng không ôm chầm hay hô lớn. Lòng tôi, trái lại, chợt dâng lên niềm tủi thẹn của một người tỵ nạn. Chiếc cầu dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm, trở thành chiếc cầu biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc tài và tự do, của quá khứ và tương lai, mà còn giữa có quê hương và thiếu quê hương. Tôi nghĩ thầm, cuối cùng, tôi cũng như nhiều người Việt Nam khác, lần lượt bỏ đất nước ra đi mà thôi. Dù biện minh bằng bất cứ lý do gì, tôi cũng là người có lỗi với quê hương.

Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.

Trong tâm trí tôi, hình ảnh bà mẹ Hòa Hưng, đêm đầu tiên trong căn nhà không vách trên vùng Kinh Tế Mới, khoảng 20 cây số phía nam thị trấn Đồng Xoài vào năm 1976. Cánh rừng vừa được khai hoang vội vã này không ai nghĩ một ngày sẽ được gọi bằng một cái tên rất đẹp, khu Kinh Tế Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi chiều chỉ hơn mười mét do những bàn tay học trò của thanh niên xung phong dựng lên, nối nhau chạy dọc theo cánh rừng hoang.

Tôi kính yêu me. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này.

Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy Xuyên. Đêm đêm nằm nghe cha kể chuyện thời trai trẻ buồn nhiều hơn vui của đời ông. Những ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày sống trong túp lều tranh dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng đó, cha mẹ tôi đã gặp nhau, đã chia nhau ly nước vối chua chua thay cho chén rượu tân hôn nồng thắm. Dù sao, bên khung cửi vải, bên lò ươm tơ, họ đã cùng nhau dệt một ngày mai đầy hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia rặng tre già, mặt trăng rồi sẽ tròn bên kia giòng sông Thu, những ngày chiến tranh, tản cư cực khổ sẽ qua đi nhường bước cho hòa bình sẽ đến.

Nhưng rồi chiến tranh như một định nghiệp, đeo đuổi theo số phận của đất nước chúng ta, đeo đuổi theo số phận của đời tôi. Năm tôi 13 tuổi, chiến tranh đã cướp đi cha tôi, người thân yêu cuối cùng của tôi. Chiến tranh lan tràn đến làng Mã Châu, đẩy tôi ra khỏi xóm lụa vàng thân quen để làm người du mục trên quê hương đổ nát của mình. Từ đó tôi ra đi. Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp trong con hẻm 220 Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Hòa Hưng, trại tỵ nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng đầu tiên trong hành trình tỵ nạn của tôi hàng vạn dặm.

Hình ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre già ở làng Mã Châu. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ mẹ. Nhổ những bụi cỏ hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Tôi ưu tư về cuộc đời và về thân phận của mình ngay từ thuở chỉ vừa năm, bảy tuổi. Tại sao tôi chỉ có một mình? Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ tôi đi? Nếu mai mốt ba tôi cũng đi thì tôi sẽ sống với ai? Lớn lên tôi sẽ làm gì? Tại sao đất nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên kia sông là ai? Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của mẹ, tôi để lòng tuôn chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích tụ. Từ khi năm bảy tuổi tôi đã linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những ngày đầy biến cố. Tôi đã nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ đi xa khỏi rặng tre già, khỏi ngôi làng tơ lụa Mã Châu dường như thôn làng nhỏ bé này sẽ không đủ lớn để chứa hết những buồn đau, u uất của tôi. Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những cánh diều bay, với những con bướm vàng thơ mộng thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ tôi là một chuỗi ngày ưu tư và chờ đợi một điều gì sắp đến.

Mẹ tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có ngay cả một tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo, tôi giống cha nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại càng không thể tìm đâu ra được một nét nào của mẹ trong những người thân còn sống. Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối. Khi nhìn ánh trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn mặt dịu dàng của mẹ, nhìn nước chảy ra từ dòng suối mát tôi nghĩ đến dòng sữa mẹ, nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nhìn những vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ. Nói chung, hình ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được tôi nhân cách hóa nên hình ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không những tuyệt vời mà còn tuyệt đối.

Tôi về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm 1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ đầy cỏ mọc hoang vu. Sau 1975, ngay cả người sống cũng không ai chăm nom đừng nói gì chuyện chăm nom cho người đã chết. Hôm đó, tôi ngồi nơi tôi đã từng ngồi trong thời thơ ấu và kể cho mẹ nghe đoạn đời chìm nổi của mình. Tôi nói với mẹ rằng tôi sẽ ra đi khỏi nước và hứa sẽ về dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn mẹ mà thôi. Tôi cầu mong mẹ phò hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được bình an trong những ngày sóng gió sắp xảy ra.

Ôi đời mẹ như một vầng trăng khuyết

Vẫn nghìn năm le lói ở đầu sông.

Vâng, vầng trăng bên dòng sông Thu Bồn từ đó không còn tròn như trước nữa.

Ai cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai. Vết thương nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi bất hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc Việt Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều hơn cả, không phải vì tôi mất mẹ, không phải vì tôi xa mẹ nhưng chính là sự chịu đựng của hàng triệu bà mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang đến cả hòa bình.

Trên thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ý cũng thương con như một bà mẹ Việt Nam. Trong lúc tình yêu của một bà mẹ ở quốc gia nào cũng bao la, cũng rộng lượng, cũng vô bờ bến, tôi vẫn tin một bà mẹ Việt Nam thì khác hơn nhiều. Bà mẹ Việt Nam, ngoài là biểu tượng cho tất cả những nét đẹp của quê hương, đất nước, tình thương, còn là những hình ảnh đầy thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan, khổ cực không thể nào đo lường hết được. Hình ảnh bà mẹ giăng tấm vải dầu trên một góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang đói khát. Hình ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của mẹ đi lạc nhiều tuần trên biển. Hình ảnh bà mẹ chết trong mỏi mòn tuyệt vọng dưới gốc me già trên góc phố Sài Gòn vào một ngày mưa bão. Hình ảnh bà mẹ chết cô đơn trong chiếc thuyền chài nghèo nàn. Tất cả hình ảnh đau thương đó đã trở thành mối ám ảnh thường xuyên trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều đến nỗi dù viết về bất cứ chủ đề gì, thể loại gì, văn hay thơ, cuối cùng tôi cũng trở về với hình ảnh mẹ. Mỗi bước chân tôi đi trên đường đời mấy chục năm qua vẫn còn nghe vọng lại tiếng khóc của những người phụ nữ Việt Nam bất hạnh, đã khóc trong chiến tranh, khóc trong hòa bình, khóc trong bàn tay hải tặc giữa biển Đông và khóc trên xứ người hiu quạnh.

Mơ ước lớn nhất của tôi, vì thế, không phải cho tôi mà cho những người mẹ đang chịu đựng, để các mẹ có cơ hội được sống trong một đất nước không còn hận thù, rẽ chia, ganh ghét, một đất nước chan chứa tình đồng bào, một đất nước thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc. “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” trong một ý nghĩa rộng hơn là ước mơ của tôi, của anh chị, của cô chú và của tất cả những ai còn nghĩ đến sinh mệnh của dân tộc, về một ngày đẹp trời cho đất nước mình.

Quá nhiều máu và nước mắt đã đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ Việt Nam. Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hãy trở về với mẹ như trở về với chính cội nguồn uyên nguyên của dân tộc mình. Trong đêm rằm tháng Bảy này, xin hãy cùng nhau thắp lên những ngọn nến, dù nhỏ, dù đơn sơ nhưng được làm bằng chất liệu dân tộc, nhân bản và khai phóng đã được tổ tiên chúng ta hun đúc sau hơn bốn ngàn năm lịch sử.

Đời tôi là những cơn mưa dài. Mưa khi tôi rời làng Mã Châu, mưa trong đêm đầu tiên trong căn gác trên đường Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới gốc đa già ở Chùa Viên Giác, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra đi. Nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là hố thẳm. Tôi không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng đường mới của đời mình. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những khắc nghiệt đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa hoàn cảnh của chính mình.

Trong cuộc đời này, tôi đã nhiều lần vấp ngã nhưng nhiều người cũng đã giúp vực tôi dậy, lau khô những vết thương trên thân thể và trong cả tâm hồn. Tôi mang ơn xã hội nhiều đến nỗi biết mình sẽ không bao giờ trả hết. Tôi biết ơn những người đã che chở cho tôi và cũng cám ơn cả những người đã dạy tôi hiểu giá trị của gian lao, thử thách. Cám ơn đất nước đã cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn mẹ Duy Xuyên mang tôi đến thế gian nầy, cám ơn mẹ Hòa Hưng nuôi nấng tôi trong những ngày bà con thân thuộc đã ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa già chùa Viên Giác che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng.

Nếu một mai tôi ra đi không kịp viết điều gì, thì đây, những kỷ niệm của một lần ghé lại.

Trần Trung Đạo

(thơ song ngữ) ĐỔI CẢ THIÊN-THU TIẾNG MẸ CƯỜI

ĐỔI CẢ THIÊN-THU           

TIẾNG MẸ CƯỜI                  

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người

Tiếng ai như tiếng lá thu rơi          

Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ    

Chỉ biết âm-thầm thương nhớ thôi        

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề

Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê     

Mười năm tóc mẹ màu tang trắng 

Trắng cả lòng con lúc nghĩ về       

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn      

Bên đời gió tạt với mưa tuôn 

Con đi góp lá nghìn phương lại             

Đốt lửa cho đời tan khói sương     

Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn-ngào

Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm-bao

Mẹ xa xôi quá làm sao vói                     

Biết đến bao giờ trông thấy nhau  

Đừng khóc mẹ ơi hãy rán chờ

Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ          

Đau thương con viết vào trong lá          

Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người

Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi  

Ví mà tôi đổi thời-gian được 

Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười      

            TRẦN TRUNG ĐẠO

MY LIFE
FOR MY MOM’S LAUGHTER

Picking up the handset I was stunned with surprise:
Whose voice as light as falling leaves in cold skies?
Isn’t it ten years, ten odd years, dear mother,
Just in silence to miss and long for one another?

I left without any promises or pledges that day:
The old wild horse from its forest-land went astray.
Ten years for Mom’s hair to turn mourning white,
And mourning-like my soul also in such a plight.

You’ve still been sitting there weaving your pain
By an existence of slapping wind and beating rain.
I’ve set off to set up from all directions a pyre
In order to disperse the mist for life lighting a fire.

Your voice was broken off, you choked up, I found;
Mom’s endearing words or mere in-reverie sound?
You are too far, how could I reach out for you?
And when could we meeting again look forward to ?

Do not cry, my dear mother, and continue to await.
All my grief I will hide in the rhymes I create.
Of all my sorrow I will write reams and reams,
And find your warmth my warmth in my dreams.

As I picked up the handset how astounded was I
To hear my mom’s voice sadder than the rainy sky!
Should I be able to give up Man’s time in hereafter,
I would offer mine to recover my mom’s laughter.

Translation by THANH-THANH

NGÀY CỦA MẸ

(Mother’s Day)

Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình

(Photo credit: giaoduc.edu.vn)

Tài liệu Wikipedia ghi nhận Ngày của Mẹ bắt nguồn từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, nhưng cũng có tài liệu cho rằng Ngày của Mẹ có thể được bắt nguồn từ Vương quốc Anh và được tổ chức vào ngày Chủ Nhật qua nhiều năm trước khi lễ hội này xuất hiện ở Hoa Kỳ.

Theo lịch sử thì Ngày của Mẹ là ngày lễ hội mùa xuân hàng năm mà người Hy Lạp cổ đại dành riêng cho các nữ thần mẫu, họ cũng dùng dịp này để tôn vinh Rhea, vợ của Cronus và là mẹ của nhiều vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Người La Mã cổ đại còn gọi lễ hội này là Hilaria để tôn vinh Cybele, một nữ thần Mẹ. Các nghi lễ tôn vinh Cybele đã bắt đầu khoảng 250 năm trước Chúa giáng sinh. Lễ kỷ niệm được thực hiện bằng cách cúng dường trong đền thờ Cybele kéo vào khoảng tháng Ba, những ngày đầu rất quan trọng, thường kéo dài trong ba ngày gồm các cuộc diễu hành, trò chơi và hóa trang. Chính Lễ kỷ niệm này đã khiến những người theo Cybele bị trục xuất khỏi Rome.

Những người theo đạo Thiên Chúa Giáo thời sơ khai đã tổ chức Ngày của Mẹ vào Chủ nhật, thứ tư của Mùa Chay để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Chúa Kitô. Sau đó, ngày lễ hội này được mở rộng để chúc mừng tất cả các bà mẹ và ngày này trở thành Ngày của Mẹ. Ngày của Mẹ bắt đầu từ những năm 1600 ở Anh. Tại đây, Ngày của Mẹ được tổ chức hàng năm vào ngày Chủ nhật thứ tư của Mùa Chay (khoảng thời gian 40 ngày trước Lễ Phục sinh) để tôn vinh những người mẹ sau nghi lễ cầu nguyện trong nhà thờ để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Những đứa con thường mang theo những món quà và hoa để tỏ lòng thành kính với mẹ của chúng.

Theo truyền thống, những đứa trẻ mang theo những món quà, những loại bánh trái đặc biệt hoặc bánh ngọt đầy trái cây được gọi là simnel để tặng Mẹ của chúng. Người Nam Tư và người dân ở các quốc gia khác cũng tổ chức Ngày của Mẹ tương tự như vậy. Tuy nhiên phong tục kỷ niệm Ngày Chủ nhật của Mẹ đã gần như hoàn toàn biến mất vào thế kỷ 19 cho đến mãi sau Thế chiến thứ hai Ngày của Mẹ mới được tổ chức lại.

Ngày của Mẹ là thời gian để tôn vinh tình mẫu tử và thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với tất cả những người mẹ, những người vợ, người chị và bà nội & ngoại đã hy sinh cả cuộc đời cho các con, các cháu. Lịch sử đã phải công nhận rằng, từ trước đến nay người phụ nữ luôn giữ những vai trò thiết yếu trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Điển hình là bà Marie Curie, người phụ nữ đầu tiên từng đoạt giải Nobel cho đến cựu Thẩm phán Tòa án Tối cao Ruth Bader Ginsburg, là những người mẹ đã làm thay đổi thế giới.

Năm 1858, Ann Reeves Jarvis, một người nội trợ vùng Appalachian, đã thành lập “Ngày làm việc” của các bà mẹ trong nội chiến nhằm nỗ lực cải thiện điều kiện vệ sinh cho binh lính và trẻ em. Bà cũng đã giúp thành lập một câu lạc bộ để dạy phụ nữ cách chăm sóc trẻ em. Khi nội chiến bùng nổ ở Hoa Kỳ, Ann Reeves Jarvis đã yêu cầu các thành viên khác của các câu lạc bộ tổ chức và cam kết rằng chiến tranh sẽ không làm ảnh hưởng đến công việc của họ. Họ thề sẽ cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế và hỗ trợ những người bị bệnh hoặc bị thương dù bất kể họ đang chiến đấu ở phe nào. Sau đó, Ann Reeves Jarvis thành lập “Ngày Tình bạn của Mẹ” để thúc đẩy sự hòa giải giữa những người lính của Liên minh và Liên minh.

Năm 1872, Julia Ward Howe, một nhà hoạt động, nhà văn và nhà thơ, bà đã viết bản Tuyên ngôn Ngày của Mẹ để kêu gọi các bà mẹ tham gia trong việc thúc đẩy hòa bình thế giới. Julia Ward Howe là người tiên phong và gợi ý cho việc tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ. Là một người yêu tổ quốc, bà đã sáng tác và trở nên nổi tiếng với bài hát nội chiến “Battle Hymn of the Republic“. Julia Ward Howe đề nghị rằng ngày 2 tháng 6 hàng năm nên được tổ chức và đó là Ngày của Mẹ cũng như là ngày dành cho hòa bình. Bà đã viết lời kêu gọi đến tất cả các phụ nữ và nồng nhiệt khuyến khích họ nổi dậy chống lại chiến tranh trong Tuyên ngôn Ngày của Mẹ. Bàn tuyên ngôn này trở nên nổi tiếng và được viết ở Boston, năm 1870.

Julia Ward Howe cũng đã khởi xướng Ngày Hòa bình của các Bà mẹ vào Chủ nhật thứ hai trong tháng Sáu ở Boston. Bà ủng hộ lý do tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ và chính thức tuyên bố cho phép mọi người nghỉ lễ vào ngày này. Ý tưởng của Julia Ward Howe đã lan rộng nhưng sau cùng nó đã bị thay thế bởi ngày lễ Ngày của Mẹ, hiện được tổ chức vào tháng Năm. Năm 1873, Julia Ward Howe vận động để thành lập Ngày của mẹ nhằm đạt được hòa bình thế giới và giải quyết xung đột giữa con người với nhau.

Với nguồn cảm hứng từ những công việc của Ann Reeves Jarvis,  Anna Jarvis M. là con gái của Ann Reeves Jarvis tiếp tục tranh đấu cho lễ hội Ngày của Mẹ. Năm 1905, sau khi bà Ann Reeves Jarvis  qua đời, Anna Jarvis M. muốn tạo ra một ngày tưởng niệm và tôn vinh những người mẹ đã qua đời cũng như ghi nhận những hy sinh mà các bà mẹ đã dành cho con cái của họ, Sau cùng, Ngày lễ của Mẹ được công nhận và ngày lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ đầu tiên được tổ chức tại Grafton, phía Tây Virginia tại một nhà thờ địa phương vào ngày 10 tháng 5 năm 1908. Nhờ sự hỗ trợ tài chính của John Wanamaker, một chủ doanh nghiệp ở Philadelphia, Ngày của Mẹ này đã thành công rực rỡ với hàng nghìn người đã đến tham dự. Ngày nay, tại nhà thờ có Đền thờ Ngày của Mẹ Quốc tế.

Để Ngày của Mẹ trở thành ngày lễ quốc gia, Anna Jarvis M. đã viết thư cho các chính trị gia và báo chí trên toàn quốc, yêu cầu họ chấp nhận ngày này để kỷ niệm và ghi ơn công lao của các bà Mẹ. Kết quả, truyền thống báo chí bắt đầu lan rộng ra 45 tiểu bang và một số tiểu bang khác, chính thức tuyên bố đây là ngày lễ Ngày của Mẹ vào năm 1912. Năm 1914, cựu Tổng thống Woodrow Wilson đã tuyên bố tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ đầu tiên trên toàn quốc. Ngày nay, Ngày của Mẹ được tổ chức vào Chủ nhật thứ hai trong tháng Năm của mỗi năm.

Ở Vương quốc Anh và một số khu vực ở Châu Âu, ban đầu là đây là một ngày lễ tôn giáo được tổ chức vào Chủ nhật thứ tư của Mùa Chay. Ngày này nhằm mục đích cho các cá nhân tìm đường trở lại “nhà thờ mẹ” của họ. Những người đi nhà thờ cũng sẽ coi đây là cơ hội để đoàn tụ với gia đình sau khi đi công tác xa. Các nhà sử học có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của Ngày Chủ nhật của Mẹ, bao gồm truyền thống phát triển từ việc trẻ em nhặt hoa khi chúng đi bộ đến nhà thờ.

Tại Vương quốc Anh, người dân dành thời gian để tôn vinh những người mẹ, chẳng hạn như mẹ đẻ, bà ngoại, mẹ kế và mẹ chồng. Trong ngày ấy, mọi người sẽ ăn mừng bằng một chiếc bánh Simnel, đó là một chiếc bánh trái cây nhân hạnh nhân và 11 quả bóng để tượng trưng cho 11 môn đồ.

Ở Ethiopia, Ngày của Mẹ được tổ chức hơi khác một chút. Khi mùa mưa kết thúc, các gia đình sẽ tụ tập để tham gia lễ hội Antrosht. Trong khoảng thời gian ba ngày, sẽ có khiêu vũ, ca hát và rất nhiều đồ ăn. Theo phong tục, con gái cung cấp rau và pho mát, trong khi con trai mang thịt.

Thái Lan, Ngày của Mẹ được tổ chức vào ngày 12 tháng 8 để kỷ niệm ngày sinh của Hoàng hậu Sirikit. Các hoạt động trong ngày lễ bao gồm diễu hành và tặng hoa nhài cho các bà mẹ.

Nga, Khi nước Nga còn được gọi là Liên bang Xô Viết, các bà mẹ được tôn vinh vào ngày Quốc tế Phụ nữ ngày 08 tháng 03. Năm 1998, Ngày của Mẹ chính thức được thành lập là Chủ nhật cuối cùng của tháng 11. Tuy nhiên, nhiều người vẫn ăn mừng vào tháng Ba.

Nepal, Ngày của Mẹ được gọi là Mata Tirtha Aunsi, có nghĩa là “Hành hương về trăng non của Mẹ”. Vào ngày này, các cá nhân sẽ trân trọng thời gian ở bên mẹ và tưởng nhớ tất cả những người đã qua đời.

Ngày nay, Ngày của Mẹ được tổ chức ở một số quốc gia gồm Mỹ, Anh, Ấn Độ, Đan Mạch, Phần Lan, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Úc, Mexico, Canada, Trung Quốc, Nhật Bản và Bỉ. Mọi người coi ngày này như một cơ hội để tri ân và cảm ơn những người mẹ của họ cho sự yêu thương và hy sinh của họ với con cái. Trong Ngày của Mẹ, các đường dây điện thoại đạt đến mức quá tải cũng như truyền thống tặng hoa, thiệp và những món quà gửi đến cho Mẹ hoặc mời Mẹ của họ đi chơi, đi ăn sáng, ăn trưa hoặc ăn tối…

Khánh Lan siêu tầm và nghiên cứu from Wikipedia

California, May 2022

MẸ HÔM NAY, MẸ NGÀY MAI, MẸ CỦA MUÔN ĐỜI

ThaiLan

ĐÔI TAY CỦA NGOẠI

ThaiLan

Bó Hồng Tặng Mẹ

 

Con cung kính. Bó hồng riêng tặng mẹ

Cả tình thương sâu thẳm của tâm hồn

Mẹ là suối nguồn, dòng chảy tinh khiết

Nuôi con một đời, đến tuổi lớn khôn.

 

Dâng lên Mẹ ngàn đóa hồng thắm đỏ

Dòng máu hồng Mẹ trao tặng cho con

Ngày lễ Mẹ, bồi hồi thêm nỗi nhớ

Nhớ ơn người, nuôi nấng thuở măng non.

 

Tình yêu mẹ dạt dào như sóng vỗ

Vỗ giấc bình yên chăm sóc đời con

Viết về Mẹ, lời thơ đầy nước mắt

Vào nỗi buồn tuổi xuân đã hao mòn.

 

Công ơn Mẹ, sánh núi cao, biển cả

Thấu trời xanh Thượng Đế phải ngậm ngùi

Mẹ là thảo nguyên bao la bát ngát

Dòng suối nguồn tuôn chảy những ngọt bùi.

 

Mẹ trên cao, như sao sáng trên trời

Mẹ hiền từ ôm con cả một đời

Lời nguyện cầu, con ước mơ về mẹ

Tiếng mẹ dịu dàng nhớ mãi không ngơi.

 

Tình yêu của mẹ bao la biết mấy

Sáng như mặt trời, đẹp như mây bay

Ai! Còn Mẹ đừng làm Mẹ bật khóc

Đừng để buồn giọt lệ ướt trên tay.

 

Xin gửi đến Mẹ ngàn đóa hoa hồng

Thấm sương long lanh, ướt cả nỗi lòng

Lời nghẹn ngào bài thơ ngày lễ mẹ

Buộc vào hoa, gửi mẹ những hoài mong.

 

Lê Tuấn

Bài Thơ Viết Tặng Mẹ

 

Tôi muốn viết bài thơ ngày lễ mẹ
Gom hết loài hoa gửi đến tặng người
Mẹ là hào quang rực rỡ bầu trời
Thiêng liêng nhất là tình yêu của mẹ.

Ngày mới chào đời ngây thơ khờ dại
Chiếc nôi êm huyền thoại ngủ trong mơ
Lời mẹ ru vần ca dao chấp cánh
Hồn Việt Nam vang vọng đến bây giờ.

Công ơn mẹ bao la như biển cả
Đỉnh núi cao dòng suối chảy hiền hoà
Mẹ là ngôi sao tỏa sáng chói lòa
Là đêm trăng tỏ, thơm ngát hương hoa.

Con thương mẹ cả một đời tần tảo
Mưa nắng trên vai gánh vác một đời
Che chở cho con dòng đời vạn biến
Mẹ là bà tiên lộng lẫy tuyệt vời.

Bước gian truân đời thăng trầm sóng gió
Mẹ âm thầm chịu khó vượt chông gai
Nuôi nấng con sớm tối không ngần ngại
Nhìn con vui, mẹ tiếp bước đường dài.

Dâng lên mẹ bài thơ thêm sầu muộn
Mẹ không còn nhưng lòng mẹ quanh đây
Trên Thiên Đàng con tin mẹ nhìn thấy
Mẹ bây giờ chỉ là những bóng mây.

Lê Tuấn
Nhớ về mẹ

 

MỪNG NGÀY LỄ MẸ

NHÓM MỸ HÂN KÍNH MỜI CHIA SẺ VÀI CA KHÚC NHẠC PHỔ THƠ

https://youtu.be/lNb0O9VGdLU
https://youtu.be/s14P7M54QuE

https://youtu.be/FOgSjrhnb6w

Gởi yêu thương về Má nhân ngày Mother’s Day (8/5/2022)           

  GỌI  MÁ

*

Con gọi phone nói cho Má biết

Cây con trồng xanh biếc Má ơi!

Facetime con thấy Má rồi

Con nghe Má nói những lời yêu thương

Chín Bảy tuổi…qua những đoạn đường

Má dành gần hết tuổi đời cho con

Giờ là Ông Lão Bảy Ba

Vẫn còn cần Má, cần nghe giáo điều

Con cần Má biết bao nhiêu…

Má luôn vui khỏe, con yêu Má nhiều!!

*

                                     Hoàng Mai Nhất
                                (Seattle, WA 4/5/2022)

NHỚ MÁ

*

Hôm nay là sinh Nhật Má

Mua quà gì biếu Má, Má ơl

Dầu Xanh với sữa Ensure

Cùng Khăn choàng cổ, Má ơi mua gì…

Mua gì biếu Má Má vui

Gởi về đâu nhỉ! Má ơi con buồn

Gởi về đâu…những món quả

Ai là người nhận, ai là người mang

Đem về đến Má quà con…nhớ nhiều!!

Con là con gái Má yêu

Con ở xa quá, Má đi …con về

Chẵng nghe lời cuối dặn dò

Chẵng cầm tay Má, chẵng hôn giã từ

Hôm nay con nhớ ngày sinh

Con nhớ Má lắm, thương ai giống mình

Cùng chung tưởng nhớ ngày sinh

Cùng thương một Má…chỉ mình Má thôi

                                         Hoàng Mai Nhì

 

2 Sinh Hoạt Mừng Ngày Của Mẹ Tại San Jose

*28 Năm, “Happy Mother’s Day” Với Những Bà Mẹ Không Nhà (Homeless!)

* Gần 100 Phần Quà Tặng Những Bà Mẹ Việt Nam, Trong Buổi Lễ Chào Cờ Đầu Tháng 5, Tại Vườn Truyền Thống Việt.

(San Jose) – Thứ Sáu, ngày 6 tháng 5, trong buổi cơm phục vụ những Khách Không Nhà, sau khi khách dùng cơm sáng xong, khách vui mừng thấy rõ, khi được loan báo, có thêm một chương trình sinh hoạt đặc biệt để Mừng Ngày Lễ Mẹ 2022.

Tất cả những Bà Mẹ hiện diện, được tặng một phần quà, chai rượu vang và tiền mặt!

Những Bà Mẹ, gồm nhiều sắc tộc, khi nhận quà, khuôn mặt lộ vẻ hân hoan cảm động thấy rõ!

Một Bà Mẹ tâm sự: “Cảm tạ Nhóm Mõ Nhân Ái, đã nghĩ đến chúng tôi trong ngày đặc biệt này. Ngày xưa tôi cũng là Mẹ của 2 đứa con, nhưng sau khi ly dị, rồi mắc vào vòng nghiện ngập, chính phủ đã lấy lại, “tịch thu” hai đứa nhỏ! giờ chẳng biết chúng nơi đâu!” Nói rồi bà nhớ con, lau nước mắt.

Sau phần tặng quà cho các Bà Mẹ, là phần Xổ Số và Lì Xì phong bì đỏ chúc mừng, trong đó có chút tiền mặt.

Đặc biệt các Bà Mẹ thiện nguyện trong Nhóm, mỗi người cũng nhận được một phần quà mừng lễ.

Sáng hôm sau, Thứ Bảy, ngày 7 tháng 5, Ban Tổ Chức Lễ Chào Cờ, đã phối hợp với Anh Hải, để trao tặng gần một trăm phần quà đến các Bà Mẹ VN hiện diện.

Trong phần vinh danh, trước khi tặng quà, Anh Hải phát biểu: “…Đến đây, xin được gởi lời Cảm Tạ đến các Bà Mẹ trong thời chinh chiến, trước 75. Không có Bà Mẹ phải chịu đựng đau khổ, gian nan, hơn những người vợ Lính VNCH cả. Nuôi con để chồng đi đánh giặc, ngừng tiếng súng, thì phải nuôi chồng trong các trại tù cải tạo! Có mỗi một đứa con trai, cũng hy sinh trong cuộc chiến! Biết bao nhiêu đau thương khốn khổ, nước mắt, kể không hết! Cuối cùng tan tác, ngậm ngùi bên phe “thua cuộc chiến!” Đầy đọa trong những vùng kinh tế mới, vượt biển, bị hãm hiếp….Nói lời Cảm Tạ chắc chắn không đủ, trong giây phút đặc biệt này!”

MỪNG NGÀY HIỀN MẪU

(Xướng – Bát điệp từ “Mẹ”)


Hoa Kỳ “Lễ Mẹ” tháng Năm đây”

Ngày Mẹ” tám tây, chủ nhựt nầy

Công trọng Mẹ nuôi, cao tựa núi

Nghĩa dày Mẹ dưỡng, rộng dường mây

Gia đình, Mẹ đã tô bồi đắp

Sự nghiệp, Mẹ từng tiếp dựng xây

Thắp nén tâm hương con khấn Mẹ

Mẹ ơi! Nỗi nhớ thật đong đầy…


DUY ANH

Orlando, May 8th 2022

CÁC BÀI HỌA CỦA THI HỮU

KHÓC THƯƠNG MẪU TỪ

*

Hiền Mẫu nhớ ngày lễ trọng đây

Tháng Năm Chủ Nhựt tám tây này

Cù lao chín chữ cao hơn núi

Cúc dục tam sanh lớn quá mây

Cơm áo gạo tiền luôn gánh vác

Cửa nhà bếp núc vẫn lo xây

Nay con tưởng nhớ, thương từ mẫu

Thắp nén tâm nhang mắt lệ đầy…

Mai Xuân Thanh

  May 03, 2022

*

MẸ SỐNG MÃI BÊN CON

*

Nhớ mẹ công lao ghi lại đây

Tình thương nghĩa nặng đủ đông đầy

Ngày nào cặm cụi cây ăn trái

Ngày ấy gian lao vầng gió mây

Hương khói trầm buồn qua lệ ướt

Tàn nhan sâu đắng cuồn cuộn xây

Bàn thờ bóng mẹ như sao sáng

Lúc tỏ lúc mờ nước mắt đầy

Trần Đông Thành

*

MẸ VÀ CON

*

Mùa đang vào hạ, ” mother ‘s day “

Mẹ vẫn bên con, tuổi tác này

Cho dẫu trưởng thành hay ấu trĩ

Càng hay thấp bé tưởng cao mây

Xưa đi trấn thủ, lo mưa chuyển

Nay hết lưu đồn, nhớ khói xây

Bảo bọc gia môn qua chiến nạn

Trời thương mẫu tử nghĩa ân đầy …

Utah  3 – 5 – 2022

CAO MỴ NHÂN

*

MỪNG LỄ MẸ

*

Lễ Mẹ hằng năm sẽ tới đây,

Nhớ ơn từ mẫu kiếp sanh nầy.

Công dày chất ngất cao như núi,

Nghĩa cả phủ tràn rộng tợ mây.

Khốn khó đưa lưng vai gánh vác,

Nhọc nhằn đem sức đắp bồi xây.

Tâm thầm khấn nguyện xin Trời Phật,

Phúc đức ban cho Mẹ hưởng đầy.

HỒ NGUYỄN

  (03-5-2022)

*

NHỚ MẸ

*

Tháng năm ngày tám đến rồi đây,

LỄ MẸ về trên đất nước nầy,

Lòng mẹ bao la hơn biển cả,

Mẫu từ cao vút ngất trời mây.

Mẫu tâm lo trẻ thường thao thức,

Mẫu ý  vì con mãi  đắp xây.

Biền biệt phương trời con ngóng mẹ,

Nửa vòng trái đất nhớ thương đầy !…

Đỗ Chiêu Đức

 05-03-2022

*

MỪNG NGÀY HIỀN MẪU

*

Lễ Mẹ, Hoa Kỳ sắp đến đây

Tám tây, vọng Mẹ ở phương nầy…

Hoài thai Mẹ giữ, ân vờn núi

Dưỡng dục Mẹ gìn, đức cuộn mây

Mẹ gánh sầu bi vì tạo dựng

Mẹ gồng khổ cực bởi bồi xây

Hương lòng tưởng đến công lao Mẹ

Nhớ Mẹ…bờ mi ngấn lệ đầy !

Thanh Song Kim Phú

CA. May/3 rd/2022

*

MẸ ƠI !

*

Mừng Ngày Hiền Mẫu

*

Bạc mùa dầu dãi Mẹ nằm đây

Mộ chí mưa sương thấm đất nầy!

Đáy huyệt âm hồn dầm cát bụi

Trên mồ  dương khí lõa trời mây!

Cù lao báo đáp công Cha đắp

Cúc dục đền bồi nghĩa Mẹ xây

Kính “Lễ Mẫu Hiền”, hồn tưởng vọng

Chất thương chồng nhớ mãi khôn đầy!

       4-5-2022

Nguyễn Huy Khôi

*

MỪNG LỄ MẸ

*

Ngày hiền mẫu đã đến rồi đây

Chủ nhật, vài ba bữa nữa này

Xót mẹ đang tâm rời cố quận

Thương người,nẫu dạ tới chân mây

Áo cơm,tuổi trẻ chăm bồi dưỡng,

Sự nghiệp,thành thân,tiếp dựng xây.

Công nặng ,ơn dầy khôn báo đáp,

Rưng rưng khoé mắt…lệ dâng đầy

Thanh Hoà

04/05/2022

*

MOTHER’S DAY

“Lễ Mẹ” là ngày chủ nhật đây

Tháng năm mồng tám nhớ hôm nầy

Thương con nghĩa rộng tràn sông biển

Quý trẻ tình dày vượt núi mây

Cảnh khó nồi rau trồng cuốc dựng

Quê nghèo bát gạo bán buôn xây

Giờ người đã ngủ yên nghìn giấc

Di ảnh khói hương mắt lệ đầy

  Minh Thuý Thành Nội

Tháng 5/4/2022

MẸ

*

Con vẫn trông chờ ” Mother’s day “

Ngày vui nắng hạ tuổi hoa đầy

Xa xôi tiếng Mẹ khôn làm nũng

Cạnh gối Cha nghiêm khó vén mây

Bế ẵm ru con lời dịu ngọt

Đu đưa võng dỗ giấc mơ xây

Mẹ ơi ! nhớ Mẹ từng hơi thở

Hơn chín mươi năm trái Đất này …!

CHUNG VĂN

    4/5/2022

*

NGÀY NHỚ MẸ

*

Ngày tạ sinh thành sắp đến đây

Mẫu tử tình thâm ở kiếp nầy

Mang nặng đẻ đau lo bảo trọng

Lớn khôn công ấy thấu từng mây

O oe con khóc mẹ lo lắng

Trở gió ấm đầu Người xẩm xây

Biển cả bao la đâu sánh kịp

Bao nhiêu báo đáp biết cho đầy.  ….

Yên Hà

5/5/2022

*

MẸ Ở TRONG LÒNG

*

Sống ở trong lòng,Mẹ vẫn đây

Thân con,máu Mẹ dưỡng sinh nầy

Con nghe Mẹ khóc lần đi biển

Mẹ thấy con cười lúc giỡn mây

Nguồn cội,Mẹ khuyên ra sức giữ

Quê nhà,Mẹ dặn góp công xây

Truyền lưu bếp Mẹ ngời thiêng lửa

Mẹ nhóm tin yêu,hạnh phúc đầy…

Lý Đức Quỳnh

    5/5/2022

*

THƯƠNG NHỚ LỆ ĐẦY

*

Tám tháng năm ngày “Lễ Mẹ” đây,

Vinh danh Hiền Mẫu thế gian này.

Ba niên bú mớm lòng như biển,

Chín tháng nâng niu đẹp tựa mây.

Cơm áo thuốc men nuôi chóng lớn,

Tiền đồ sự nghiệp cố công xây.

Kể sao cho siết bao công đức,

Một nén nhang thương nhớ lệ đầy.

 Mỹ Ngọc.

May 6/2022.

*

NHỚ NGÀY HIỀN MẪU

*

Tiếng MẸ trong tôi đẹp thật đây

Công ơn trời biển thế gian này

Mem cơm mớm cá bao năm tháng

Giấc ngủ ru nôi vút tận mây

Chập chững bước đời tay dẩn giắt

Vỡ lòng chữ nghĩa quyết tâm xây

Giờ đây cát bụi cơn  mưa nắng

Nén hương khẩn lạy kính dâng đầy

NAM GIAO

*

TÌNH MẸ BAO LA

*

Cháu con, dâu rể tụ về đây,

Lễ Mẹ năm nay chủ nhật nầy.

Thân mẫu cưu mang hơn chín tháng,

Công ơn sanh dưỡng tựa trời mây.

Tam đa quy hợp(*) lòng mong ước,

Tứ đại đồng đường(**) nghĩa dựng xây.

Chín chữ cù lao luôn tạc dạ.

Bao la tình mẹ nhớ thương đầy.

Ngô Văn Giai

     Virginia, May 6/2022

(*) Tam đa quy hợp:Ba điều hạnh phúc:Phước,Lộc,Thọ

(**)Tứ đại đồng đường:Bốn đời cùng ở chung một nhà,ý nói gia đình hòa thuận bốn đời:đời cha,đời con,đời cháu,đời chắt.

*

TƯỞNG NHỚ MẸ HIỀN

*

Mừng ngày lễ Mẹ ở nơi đây

Mùng tám tháng năm chủ nhật này

Công đức rộng tràn như bốn biển

Nghĩa tình cao vợi tựa ngàn mây

Tương lai con cái luôn vun vén

Hạnh phúc gia đình mãi đắp xây

Sâu thẳm lòng con luôn nhớ Mẹ

Yêu thương, kính trọng cứ dâng đầy

   Sông Thu

( 07/05/2022 )

*

CẢM XÚC TRONG NGÀY TỪ MẪU

*

Mother’s Day lại đến rồi đây

Lòng chợt buồn ơi, đón Lễ này 

Con trẻ thân côi xa tít tắp 

Mẹ già mộ vắng khuất trời mây

Tục Tiên hai cõi sao tìm thấy

Tình hiếu đôi đàng khó đắp xây 

Xuất giá tòng phu thành lỗi đạo

Từ thân huyệt lạnh nhớ vơi đầy

Phương Hoa – May 4, 2022

*

MẸ

*
Con vẫn trông chờ ” Mother’s day”

Ngày vui nắng hạ tuổi hoa đầy

Xa xôi tiếng Mẹ khôn làm nũng

Cạnh gối Cha nghiêm khó vén mây

 Bế ẵm ru con lời dịu ngọt

Đu đưa võng dỗ giấc mơ xây

Mẹ ơi ! nhớ Mẹ từng hơi thở

Hơn chín mươi năm trái Đất này …!

CHUNG VĂN4/5/2022

*

THƠ XƯỚNG HỌA: MỪNG LỄ MOTHER’S DAY – PHƯƠNG HOA & THI HỮU

MỪNG LỄ  MOTHER’S DAY

(Xướng)

Chúc Lễ Mother’s Day gấm hoa

Tình yêu tỏa sáng rực muôn nhà

Sinh thành ân trọng tày sông lớn

Dưỡng dục nghĩa dày sánh biển xa

Trọn hiếu thức ngon vui dạ Mẹ

Tràn tâm lời ngọt đẹp lòng Bà

Vòng ôm ấm áp truyền năng lượng

Ấy món quà dâng quý ngọc ngà

  Phương Hoa

Mother’s Day 2022

CÁC BÀI HỌA

HAPPY MOTHER’S DAY…!

*

Mother‘s Day tặng Mẹ ngàn hoa

Sáng toả yêu thương khắp cửa nhà

Sinh dưỡng đạo đồng so biển lớn

Cù lao cúc dục sánh non xa

Chăm ngoan cần mẫn vui lòng mẹ

Hiếu thảo siêng năng đẹp dạ bà

Đãi tiệc hàn huyên con cháu chắc

Gia đình đoàn tụ dưới trăng ngà

MAI  XUÂN THANH

     May 8/5/22

*

MƯỢN HOA THAY LỜI

*

Mượn vẻ mặn mà muôn sắc hoa

Làm quà trao gởi đến nhà nhà

Lay ơn, thược dược màu phô thắm

Sen trắng, hồng nhung hương tỏa xa

Âu yếm nâng niu dành tặng Mẹ

Chân thành, quý trọng kính dâng Bà

Bao nhiêu tình cảm thay lời nói

Sáng vượt trân châu, đẹp vượt ngà

Sông Thu

 ( Ngày Hiền Mẫu 2022 )

*

ĐỨC TRỜI & CÔNG BIỂN

*

Tấm lòng của mẹ ngát hương hoa

Bay tỏa lan ra khắp cả nhà

Ấy dẫu bây chừ bu đã vắng

Đây dù hiện tại mợ thời xa

Trời cao lồng lộng khôn so mẹ

Biển rộng mênh mông khó sánh bà

Công đức dưỡng nuôi đàn con dại

Xót nay nắm đất phủ thân ngà..!

Thái Huy

  5/9/22

*

MẸ TÔI

Cấy lúa trồng khoai, chẳng thiết hoa

Mẹ vun quén giữ ấm êm nhà

Quê làng suốt kiếp dìm thân mọn

Phố thị chưa lần biết chốn xa

Cảnh có phiền ưu đời thế tục

Tâm không oán hận cõi ta bà

Chồng con sớm tối vui cùng phận

Tóc bạc quên luôn chiếc lược ngà…

Lý Đức Quỳnh

    9/5/2022

*

BÓ HOA NGÀY LỄ MẸ

*
Tay con ôm một bó hồng hoa

Lễ mẹ tràn lan đến mọi nhà

Chân bước rộn ràng tim đập nhẹ

Lòng vui dào dạt sóng vờn xa

Quỳ dâng âu yếm trao lên mẫu

Kính chúc vời cao gởi tặng bà

Tiếng hát lời ru công dưỡng dục

Thiên thu ngời sáng dưới trăng ngà.

*

 Lê Mỹ Hoàn5/10/2022

CHÚC MỪNG LỄ MẸ

*

Chúc mừng Lễ Mẹ tặng ngàn hoa,

Rạng rỡ vui reo khắp mọi nhà.

Công khó sinh thành sông bến rộng,

Ơn cao nuôi dưỡng biển trùng xa.

Nhọc nhằn chẳng quản bên con cháu,

Vinh hiển yên tâm thỏa phận bà.

Kỉnh dạ Mẫu Từ cao giữ trọng,

Thâm ân hiếu thảo quý hơn ngà.

HỒ NGUYỄN (10-5-2022)

*

CHIẾC ÁO CÀI BÔNG HỒNG

*

Mother’s day trên chiếc áo cài hoa

Có mẹ bên con lúc vắng nhà

Nhớ lắm khi bồng con tắm suối

Sao quên lúc cõng trẻ đi xa

Tới chùa cầu nguyện con vui khỏe

Lạy tổ hộ gia cháu của bà

Hình ảnh mẫu thân luôn sống mãi

Gia đình hủ hỷ trước trăng ngà

Trần Đông Thành

*

CHÚC MẸ MỘT NGÀY VUI

*
Biếu mạ hôm nay một giỏ hoa,

Đến thăm Từ Mẫu, rể, dâu nhà

Sinh thành, nuôi dưỡng: ơn trời rộng

Bảo bọc yêu chiều: đức biển xa

Tạc dạ con  ngoan, thương mẹ, bố.

Ghi tâm cháu thảo, quý ông bà

Cầu mong ngày tháng đừng qua vội,

Giữ mãi me tôi, tóc chẳng ngà!

Thanh Hoà 10/05/2022

*

Mừng “Lễ Mẹ

*

Chuẩn bị hôm này mấy bó hoa 

Mừng chung  “Lễ Mẹ“ họp nơi nhà

Trùng khi lắm buổi luôn rời biệt 

Gặp việc nhiều ngày mãi ở xa

Tiếng ngọt ôm người đùa thỏa mẫu 

Lời êm níu cổ giỡn vui bà 

Quà trao cắt bánh dâng cười rộn 

Hiếu thảo đừng quên quý tợ ngà        

Minh Thuý Thành Nội          

 Tháng 5/10/2022

*

MỪNG LỄ MẸ HIỀN 

*
Cho dù ý Mẹ chẳng cần hoa

Giả bộ vì quên khiến rộn nhà!

Huệ Đỏ, Nhật Quỳnh mua chợ mới 

Cúc Vàng, Hồ Điệp sắm miền xa

Bầy con nghĩa vẹn vâng lời Bố

Đám trẻ tình thâm cảm động Bà 

Hiền Mẫu trưa nầy ngưng nhóm bếp 

Lòng như mở hội đón trăng ngà! 

*
Như Thu 05/10/2022




CHÙM TÌNH THƠ Cao Mỵ Nhân & Bài Viết “Ở MỘT GÓC PHỐ”

PHÚT TỪ LY CỦA XÃ ĐOÀI.   CAO MỴ NHÂN 

*

Tôi còn nhớ

Ngày Xã Đoài về phương tây

Có con chim cú mầu hoàng kim rực rỡ

Đậu trên ngọn cây 

Thả rơi tiếng kêu 

Xót thương người tình lỡ 

*

Một bầy quạ mặc áo choàng đen 

Hót lên lời sầu muộn

Sau lễ nửa đêm 

Xã nằm cô đơn nghe chuông cầu nguyện

Không có ai thân quyến

Không có ai bạn bè*

*

Giờ khắc tử sinh

Tôi co mình trong mộng mị

Xã nhớ tôi không nhỉ

Chắc chắn gọi tên ” Mỵ ” 

( Em ở đâu

Sao không đến bên nhau )

*

Ôi, ” mối tình đầu “

Hay giây phút cuối

Lỡ cuộc tình sau

Say mê, đắm đuối 

Xã Đoài về phương tây

Đôi mi khép che nỗi buồn tiếc nuối …

*

Hawthorne  22 – 4 – 2022

         CAO MỴ NHÂN

BẤY NHIÊU THÔI.    CAO MỴ NHÂN 

*

Mới sớm tinh mơ

Bầy chim sẻ ngủ ở đầu hồi đêm qua

chưa thức giấc

Vị sư công phu đã lên đường đi hành khất

Trên bình bát để cuốn pháp ký

” Có bấy nhiêu thôi “

Của Ngài Kim Triệu Khippapanono.

*

Tôi là một Phật Tử tình cờ

Chưa bao giờ tụng hết một cuốn kinh mỏng

Chỉ chúi đầu vào những tập tình thơ

Nên cứ băn khoăn dòng chữ :

” I will go with you ” cả đời tôi đơn lẻ

Làm sao có chuyện đồng hành

Nên chỉ muốn đi bên cạnh anh

*

Đi bên cạnh anh

Nhưng anh đang định đi tu

Thì anh cứ việc đi tu

Cứ suy nghiệm bao lý đạo, tình đời

Anh đã có pháp danh là ” Thích Tuyệt Vời ” 

*

Tôi rời khỏi đường tu

Nơi trồng toàn hoa vô ưu tưởng tượng

Ngắt đọt lá xanh rờn 

dưới tàng cây cao ngất

Nghe lời kệ ” Có bấy nhiêu thôi ” 

Vâng, tôi cũng chỉ viết được 

Có bấy nhiêu thôi …

*

   CAO MỴ NHÂN 

KHI HOA ĐÀM NỞ.    CAO MỴ NHÂN 

*

Bao giờ khói tản đồi mơ

Sương tan dưới lũng, cho thơ mộng về 

Tình rồi cũng hết u mê

Gió tha phương cuốn lời thề lên cao

*

Bấy giờ trăng bỏ muôn sao

Cô đơn trôi giữa chiêm bao đất trời 

Cây trường sinh suốt cuộc đời 

Không hề rụng lá, hoa vời nguyệt tan

*

Thế rồi hồn lịm than van

Thoắt chơi vơi giữa hoang tàn mênh mông 

Sô tang gói chặt phiêu bồng

Đưa chân tri kỷ, tiễn hồng nhan đi

*

Ôi chao tử biệt, sinh ly

Là thôi, trả lại từ bi cho người

Ma ma Phật Phật, nụ cười

Đoá ưu đàm nở trên môi muộn màng …

*

     CAO MỴ NHÂN  

Ở MỘT GÓC PHỐ.    CAO MỴ NHÂN 

Ông với tôi đúng là một cặp chị em không biên giới, bởi vì nếu đem 2 tờ giấy khai sinh ra đo, rõ ràng chúng tôi không cùng cha mẹ, ông họ Nguyễn, tôi họ Lê, tôi tên Lê Thanh Quỳnh Phương, tạm gọi thế. 

Ông nhỏ thua tôi mấy tuổi chả biết, song chẳng cần nhỏ lớn, xã giao thôi, tôi đã giữ vai chị là cái chắc rồi . 

Nhưng ngoài những điều nêu trên, đứng giữa cuộc đời, tôi chẳng thể nào làm chị ông được. 

Chỉ cần nhận định một số việc từ đơn giản đến phức tạp, ông đã chẳng ngang hàng, mà vượt lên cao, có lẽ gấp …nhiều lần tôi lắm, trong tất cả mọi vấn đề . 

Sự kiện không khiến tôi mắc cở, ganh ghét hay vân vân gì khác, mà tôi còn cảm thấy hãnh diện là khác. 

Nếu trong võ lâm cổ điển, tôi sẽ xưng tụng ông là ” hiền đệ ” để xoa dịu tự ái của cả hai “chị em” , nhưng đang trong thế giới văn minh, khoa học thế này, rõ ràng ông đáng bậc thầy tôi về kiến thức và phẩm chất phong thái, tính tình .

Nên nếu đúng ra mà nói ông có tư cách của một người …chủ soái . 

Song đôi khi tôi mến mộ ông quá, lại gây cho ông những phiền toái tầm thường, mới đáng tiếc. 

Và tôi sợ hãi không dám nghĩ thêm, đừng nói viết thêm . 

Tôi đã thực sự mất hút một cánh chim trời viễn mộng lâu năm, tôi bỗng giận tôi ghê gớm. 

Chao ôi hình ảnh con gà nuốt giây thung là tôi, cảm giác tự mình bức hại mình dù vô tình. 

Tôi tìm hũ đậu vàng mà thủa tôi hạnh ngộ nhà báo, bình luận gia tên tuổi lão thành  Như Phong Lê Văn Tiến vừa xong tù cải tạo chính trị ở vncs, qua Hoa Kỳ năm 1994, tặng cho tôi.

Sau khi nhà báo lịch duyệt trên, hỗ trợ tôi một vòng đi nói chuyện về ” Dòng Thơ Trong Tù ” nhân dịp bạn lính Cao Mỵ Nhân ra mắt cuốn tạp ghi ” CHỐN BỤI HỒNG ” vào mùa hạ năm 1994 ở San Jose và San Diego . 

Hũ đậu vàng đơn điệu, mỗi ngày tôi bỏ vô hũ một hột đậu vàng, kiểu 2 hũ đậu trắng, đen mà người xưa khuyên : Mỗi ngày bỏ vô hũ một hột đậu trắng là đã làm được việc tốt, bỏ vô hũ một hột đậu đen là lỡ làm chuyện xấu . 

Cứ ngó vào số đậu trong hũ là rõ mình trắng đen ra sao . 

Nhà báo quá cố đó dặn tôi : Nếu chơi hai mầu đen trắng, vẫn có thể gian dối với mọi người và ngay với chính mình . 

Còn hũ đậu vàng thôi, như là tự chế ngự nếu đầu óc manh nha làm điều không tốt, hoặc hạn chế những điều không tốt ấy , đánh giá theo yếu tố thời gian. 

Như vậy phải bao lâu mới đầy hũ đậu vàng chứ . 

Song le, nào có cần chế ngự vv…đâu, khi được thoải mái tự do, con người ta dễ tha thứ cho mình lắm. 

Tôi đã bỏ quên hũ đậu vàng quá lâu, nên hôm nay tìm thấy, tất cả hũ đậu đã mọt, tôi đổ vô thùng rác . 

Ngồi buồn lại mở báo chí gần xa ra đọc. Không biết ai đã viết vào sổ ghi chép của tôi câu ” Loạn độc thư cao ” . 

Thì đúng rồi thời loạn mà đọc sách thì cao giá trị con người ,

” Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao ” . 

Chu choa, mọi sự đều thấp kém, chỉ có đọc sách mới cao thượng. 

Ông có cách xử thế bình tĩnh, đầy sức ” thuyết phục “, chẳng có chi làm khó bà chị cả  …

Đó chỉ là công chuyện bình thường, cần và nên thay đổi chút cho sự việc ở đời lúc nào cũng mới mẻ, tân tiến dễ thành công.

Thay vì làm chị thân thương trong đại tộc nào đó, cũng đòi hỏi lòng vị tha, mới có thể em em, chị chị  được chứ . 

Tôi có vẻ không vui lắm, tai bỗng ù lên, loáng thoáng nghe được câu : ” chị nói như dỗi ” . Đúng rồi, rõ ràng tôi ru tôi vào cảnh dỗi hờn vô lý nhất . 

Chẳng có gì lạ, đối với phụ nữ, thiếu nữ thì đã đành, phụ lão có lúc cũng như trẻ con, tôi ngồi thừ khi ” người em ” đã biến dạng trên đường giây đàm thoại. 

Tại sao tôi dở thế ? Không phải dở đâu, mà vì được ưu đãi quá, nay bị hụt hẫng một chút thôi, cứ nghĩ là không vẹn tròn . 

Vài hôm sau tôi bình tĩnh lại, tôi lên một cơn cười thú vị, tôi vui tươi thực sự, bình thản thực lòng , tôi viết thư cho người bạn ở xa tít mù xa . 

Người bạn xa tít mù xa của tôi lúc nào cũng lặng lẽ, nhưng ông ta sẽ xử dụng ” văn chương ” hồi âm tư tưởng hay là suy nghĩ của tôi thì đúng hơn . 

Vị bạn võ lâm trong phong cách tiêu dao đã lần lần kéo tôi ra khỏi đám mù sương, khiến tôi phục quá . 

Có phải chúng ta lớn quá rồi , như trái chín sắp vỡ, hay sắp rụng, chúng ta chỉ còn thì giờ ngắm …thành quả thôi, không nên gọi gió lớn gây mưa bão . 

Tôi sợ quá, sợ thực sự thời gian dồn dập đến, không còn kịp nở nụ cười bầy tỏ lòng thương yêu chân chính, thành thật . 

Nỗi khó không phải ở tha nhân nhìn về, mà khó vô cùng từ chính chúng ta không hiểu rõ chúng ta, rất hồn nhiên, vô tư . 

 Tôi thầm lặng nhớ nhung anh, và thiếp đi trong giấc ngủ vừa kịp tới . 

            CAO MỴ NHÂN 




Bữa Ăn Một Mình – Cố Văn Sĩ HUY PHƯƠNG

Nhà văn Huy Phương đã ra đi nhưng còn để lại đời những bài viết rất đồng điệu, thấm thía.
********
Hiện nay tôi đang sống với gia đình cô con gái út. Cháu có một gái đã trưởng thành sống ở tiểu bang khác và một cháu trai đang học năm cuối của trung học. Chồng cháu thỉnh thoảng phải đi làm xa. Hai vợ chồng tôi đã đến tuổi già gần đất xa trời, nên thời khắc biểu của những thành viên trong gia đình rất khác nhau, nên ít khi chúng tôi ngồi lại cạnh nhau cùng ăn chung một bữa cơm. Buổi sáng thức dậy trễ, thì con cái đã đi làm, cháu đã đến trường, vợ thì luẩn quẩn ở sau khu vườn nhỏ, đành ngồi ăn sáng một mình. Buổi tối, thấy cơm canh đã sẵn sàng nhưng chưa thấy ai sẵn sàng cùng ăn với mình. Gọi vợ thì vợ bảo:

“Ông cứ ăn đi, tôi mới ăn củ khoai, còn ngang bụng!” 

Gọi con thì con thưa: “Ba cứ dùng cơm đi, con đang bận tay!” 

Ðứa cháu thì khi hiện khi biến, chẳng mấy khi gặp mặt, có khi ăn ở trong bếp hay đem phần ăn lên phòng riêng để có sự tự do một mình.

Tôi muốn có những bữa ăn đông người, vui vẻ, có tiếng cười nói rộn ràng, nhưng thường là phải ăn những bữa ăn một mình. Bữa ăn một mình thì đâu cần đến mâm bàn dọn ra ngay ngắn, tươm tất, sao cũng cho xong một bữa ăn. Một tô cơm trộn thức ăn, và một cái muỗng, ngồi trước máy computer hay trước máy truyền hình.

Bạn có nghĩ một bữa ăn như thế có dễ tiêu hoá, có lợi cho sức khoẻ hay không? Và một bữa ăn như thế có buồn không?

Tôi không bao giờ quên được những bữa ăn gia đình thời thơ ấu. Tất cả mọi người trong gia đình đều chờ nhau vào mâm cơm một lượt, dù là buổi sáng giờ trưa hay bữa chiều tối. Bữa cơm có cả ông bà nội, cha mẹ, cả anh chị cùng mấy đứa em nhỏ, kể cả thành viên nhỏ bé của đại gia đình là con mèo vàng luẩn quẩn chờ miếng ăn trong lòng bà nội tôi.

Rồi thời gian qua đi, kẻ còn, người mất, gia đình mỗi người một nơi. Tôi lớn lên, tạo lập một gia đình nhỏ, có những bữa ăn sum họp gia đình, nhưng không quên được những người đã đi xa, không còn hiện diện trên cuộc đời này nữa.Rồi chiến tranh, tù đày, xô đẩy con người mỗi người đi mỗi hướng.

Trong một trại tù nào đó, trên cái chõng tre tập thể, hay bữa trưa ngoài bìa rừng, tôi ngồi dùng đũa đếm những hạt ngô bung, xót xa nhớ đến những bữa cơm gia đình. Khi tôi từ nhà tù trở về, thì bữa cơm không còn là bữa cơm nữa. Con tản mát, vợ chạy gạo mỗi ngày, nồi cơm lạnh lẽo trên bếp, ai thấy thì ăn.

Thời Cộng Sản vào nhà, không còn hai chữ “sum họp,” cũng chẳng còn câu “ngồi lại với nhau.”

Ra hải ngoại, thì cái văn hoá “bữa cơm gia đình” cũng đã mờ nhạt. Ly cà phê bữa sáng trên xe, cái hamburger cùng ly coke vào giờ lunch và những buổi tối về nhà trong giờ giấc trước sau không đồng nhất. Phải chờ đến những ngày Lễ Tết, sinh nhật, cha con, anh chị em họa hoằn mới có dịp ngồi lại trong những bữa tiệc cuối tuần.

Các bạn còn trẻ có lẽ chưa cảm nhận được nỗi buồn khi phải ngồi ăn một mình. Thức ăn có ngon đến đâu, bổ dưỡng đến đâu mà không “dịch vị” của tiếng cười, niềm vui, chỉ còn “gia vị” của cô đơn, buồn nản, thì bữa ăn ấy chỉ còn là bổn phận ăn để sống.

Chính các vị y sĩ cũng đã khuyên người già “ăn uống phải có bạn, nên ăn chung với gia đình hay con cháu. Về phần con cháu, cũng không nên để cho cha mẹ mình ăn uống trong cô đơn buồn tẻ, vì khi ăn một mình, sẽ kém vui, và ăn ít đi, không tốt cho sức khoẻ. Sự cô đơn sẽ làm miếng ăn thêm cay đắng.”

Rõ ràng là tâm lý đã tác dụng vào sinh lý. Dù đau yếu, suy kiệt, mòn mỏi nhưng tôi vẫn nghĩ rằng những người sống chung với con cháu, hay còn vợ chồng có khả năng sống lâu hơn là những ông bà cụ già hiện đang sống một mình trong những căn phòng lạnh lẽo của những căn “nursing home.”

Trong nhà dưỡng hưu, tôi đã thấy những bữa cơm gọn gàng trong những cái khay nhỏ do nhà bếp đưa đến tận giường, để cả giờ nguội lạnh mà các ông bà vẫn chưa muốn ăn.

Tôi đã đến thăm nhà thơ Nguyễn Chí Thiện lẻ loi trong căn nhà già ở Santa Ana lúc ông chưa vào bệnh viện. Lúc ấy vào buổi xế trưa, mà từ sáng đến giờ, nồi cơm điện còn nguyên chưa được xới ra trên bếp, thức ăn còn để lạnh ngắt trong tủ lạnh. Ông thú nhận là ông không muốn ăn, mà chỉ ăn vì “nghĩa vụ,” một nghĩa vụ nặng nề! Chung quy cũng vì nỗi buồn cô đơn, thui thủi một mình.

Keith Ferrazzi, tác giả cuốn sách “Ðừng bao giờ đi ăn một mình (Never eat alone) không nói về sự cô đơn mà nói về sự giao tiếp đưa đến sự thành công và hạnh phúc cho cuộc sống.

Chúng ta không bàn đến chuyện “ăn một mình” theo lối này.

Ðã đi hết một chặng đường dài, đã lo toan cho mọi thứ, nhưng cuối cùng tuổi già cô độc bên mâm cơm, lặng lẽ một mình.

Những bậc cha mẹ già không mong con tặng quà, phải chi con ghé nhà thăm, ngồi ăn với cha hay mẹ một bữa cơm, nói cười như thuở ấu thơ.

Huy Phương




THÁO GIÀY – Quyên Di

T H Á O G I À Y
(Bài này không liên quan gì đến chuyện “thầy giáo… tháo giày” và “giáo chức… dức cháo.”)

Tôi nhớ lại một truyện rất lý thú về sự tích đôi giày.

Truyện kể rằng ngày xưa có một ông vua sống rất xa xỉ. Mỗi khi đến đâu, ông bắt dân chúng nơi ấy phải trải thảm nhung trên tất cả những con đường ông đi qua. Càng được đón tiếp long trọng, ông càng thích đi; và ông càng đi, người ta càng phải trải nhiều thảm nhung cho ông bước lên.

Cho đến một ngày, người ta không kịp sản xuất nhung để lót đường cho ông vua. Điều này làm ông tức giận và ra lệnh rằng ông đến đâu mà không có thảm nhung lót đường, cả dân vùng ấy sẽ bị giết chết hết.

Thế nhưng đã có một người đến xin yết kiến vua, ông ta cam đoan rằng nếu vua theo ý ông, vua đi đâu thảm nhung cũng có sẵn mà không phải huy động một ai cả. Vua bằng lòng, và ông nọ dùng hai mảnh nhung nho nhỏ, khâu thành một đôi giày nhung rồi mời vua xỏ chân vào.

Thế là từ đó, vua đi đâu “thảm nhung” đi theo đến đấy.

Kỹ nghệ làm giày từ đó dần dần thành hình và phát triển.

Truyện này khiến tôi suy nghĩ và cảm thấy có liên hệ tới tính chất của những đôi giày. Đôi giày tượng trưng cho sự giàu có, hay ít ra cũng là đủ ăn đủ mặc, đôi giày làm cho người ta trở nên chững chạc, lịch sự. Đi đến nơi nào có vẻ quan trọng một chút, người ta xỏ chân vào đôi giày, tự nhiên trông có vẻ tươm tất ngay. Bà phu nhân của cố tổng thống Phi Luật Tân Marcos có tới vài trăm đôi giày đắt giá (1).

Tôi không biết có ai trong chúng ta có tới vài trăm đôi giày như vậy không, nhưng chừng vài chục đôi thì tôi cũng đã biết có người. Có những người ham thích mua giày, dư tiền một chút, họ đi sắm giày. Những đôi kiểu mới, họ mang thử vào chân, ngắm nghía rồi mua đem về, dù rằng những đôi cũ còn rất tốt, lại có những đôi họ chưa xỏ chân vào lần thứ hai.

Chính vì có nhiều người ham thích mua giày, đóng giày mà kỹ nghệ sản xuất giày phát triển rất mạnh, với nhiều hãng giày nổi tiếng. Có những đôi giày trị giá mấy trăm Mỹ kim (2), trong khi một đôi dép dùng hằng ngày trong nhà có thể chỉ phải mua với giá hai, ba đồng.

Đôi giày làm thành ranh giới của người no đủ và người nghèo đói. Đôi giày cũng làm thành ranh giới của người tự do và người nô lệ. Ngày xưa, trong một số xã hội nào đó, chỉ những người tự do mới được quyền đi giày, còn người nô lệ phải đi đất. Nhưng đôi giày cũng là vật tượng trưng cho sự gò bó. Đôi giày trở nên nỗi cực hình đối với những ai thích cho đôi chân mình được thoải mái. Tôi vốn thích đi dép hoặc xăng đan “cho nó mát.”

Ngày đầu tiên đi dạy học, tôi cũng định lê đôi dép vào trong lớp, nhưng mẹ tôi đã đe: “Nếu con không chịu mua giày và không chịu đi giày, mẹ không cho con tới trường dạy học.” Tôi hoảng quá, đành phải đi sắm giày mà trong lòng lấy làm đau khổ vô cùng. Bây giờ, tôi vẫn có thói quen đi dép hay đi xăng đan. Và đang khi có đôi chân thoải mái như thế, tôi nhìn những người bạn phải đi giày suốt từ sáng đến tối mà thương cho họ. Nhất là những cô phải xỏ chân vào đôi giày cao gót và để đôi giày ấy đeo cứng chân mình, dù đi, dù đứng, dù ngồi; chắc là bí bức, gò bó lắm. Nhưng nói vậy thôi, có nhiều người sẵn sàng chịu sự gò bó để cảm thấy mình đẹp và được khen là đẹp.

Tuy nhiên, tôi cũng thấy có nhiều người, nhất là những người trẻ, bước đi trên đường phố bằng những đôi chân trần không giày dép. Những người trẻ này có lẽ không thích sự gò bó, dù là sự gò bó của đôi giày hay sự gò bó của những luật lệ, định chế xã hội.Có một khoa nhìn giày để đoán ra tính nết người đi đôi giày đó. Người ta nhìn đôi giày mòn ở mũi hay ở đế, mòn phía trong nhiều hay mòn phía ngoài nhiều, rồi từ đó đoán ra người đi đôi giày ấy tính hướng nội hay hướng ngoại, bình tĩnh hay hấp tấp, cương quyết hay e dè v.v…

Tôi không biết những điều ước đoán ấy đúng, sai ra sao, nhưng từ lâu tôi vốn thích ngắm những đôi giày mòn vẹt hơn là nhìn những đôi giày bóng loáng chưa đụng đất trong tiệm bán giày. Giày đẹp mấy mà chưa dùng đến thì cũng chưa đem lại chút lợi ích gì cho con người. Giày càng mòn, càng vẹt bao nhiêu, càng chứng tỏ nó đã giúp cho con người đi chuyển nhiều bấy nhiêu. Đẹp mà không giúp ích cho đời, cũng không quý bằng dù tàn tạ nhưng đã đem lại ích lợi cho đời sống con người.

Ai từng đi giày cũng có một đôi giày mình ưng ý nhất, đôi giày ấy đi vào vừa vặn, bước đi thật êm, nó không cọ xát khiến đôi chân đau bỏng, nó không bó đôi chân lại khiến chân bị tê buốt, nó cũng không lỏng lẻo khiến cho đôi chân muốn tuột ra ngoài. Khi có một đôi giày ưng ý rồi, ta không thích đi đôi giày khác, nhất là không thích dùng giày của người khác. Đôi giày khi đó trở thành vật biểu tượng cho sở thích, cho bản tính của mình.

Có lẽ chính vì thế mà lâu nay người ta có thành ngữ “đi giày nhiều người’.” Thành ngữ này có nghĩa là khi làm việc, ta phải chiều theo tính nết của quá nhiều người thì việc mới thành tựu được. Phải “đi giày nhiều người” là một tình trạng rất khổ tâm của những người muốn hoạt động hữu hiệu cho một mục tiêu cao đẹp, mà cứ phải chiều ý hết người này tới ngườii khác. Mặt khác, “đi giày nhiều người” cũng là câu chê bai dành cho những ai không dám tự quyết, không dám can đảm dấn thân, bất chấp những nhân sự “cản mũi kỳ đà,” mà cứ luôn luôn phải làm theo ý người này, người nọ.

Tôi đã có lần được “tháo giày” một cách hết sức thoải mái.

Chuyện “tháo giày” của tôi không liên quan gì đến nghi lễ tối thứ Năm Tuần Thánh, các viên chức đóng vai mười hai tông đồ, tháo giày ra cho vị linh mục chủ tế, bắt chước Chúa Giê-su, rửa chân cho mình. Chuyện “tháo giày” của tôi hoàn toàn khác. Tôi được gọi đến dự một cuộc tĩnh tâm của giới trẻ. Sau những nghi thức và những bài giảng, đêm đã về khuya. Đây là thời điểm thuận tiện nhất để những người trẻ ngồi lại với nhau, tâm sự về những thao thức, những ước vọng, những suy tư của mình.

Để tạo bầu không khí thân mật, người phụ trách kêu gọi mọi người ngồi xuống đất bên nhau thành vòng tròn, thay vì ngồi trên ghế. Muốn ai cũng có thể ngồi thoải mái, người phụ trách xin mọi người tháo giày ra trước khi ngồi. Khi được lệnh “tháo giày,” tôi là người sung sướng nhất. Lúc nào tôi cũng mong đợi chân mình được tự do! Vừa tháo giày, tôi vừa quan sát những người trẻ chung quanh. Một số tháo giày ra ngay; một số khác còn ngần ngừ, như còn e dè, nuối tiếc gì đó. Nhưng rồi cuối cùng ai cũng tháo giày ra hết. Với đôi chân thoải mái, mọi người ngồi xuống đất, vòng tròn thu hẹp dần, thu hẹp dần, cho đến khi vai người này có thể chạm được vai người khác, đầu người nọ có thể chụm vào đầu người kia. Và họ bắt đầu chia sẻ với nhau về những ưu tư, khát vọng, mơ ước, hạnh phúc, đau khổ của mình.

Đúng lúc ấy tôi nghĩ tới đôi giày mọi người vừa tháo khỏi chân. Đôi giày, nhìn dưới một khía cạnh nào đó, chính là bản chất riêng của mỗi người. Để có thể ngồi sát bên nhau, vai chạm vai, đầu chụm đầu, nghe được nơi nhau những lời chia sẻ thân tình, chúng tôi phải tháo đôi giày, phải cởi bỏ bản chất riêng của mình trước đã, rồi mới có thể hoà đồng trong một bầu khí chung, một tâm tình chung. Những giọt lệ nơi khoé mắt tôi ứa ra một cách kín đáo.

Tôi ước mong trong cuộc sống, tôi và các bạn tôi biết nhận thức rằng: rất nhiều lúc, chúng tôi phải tập “tháo giày,” tập cởi bỏ bản chất riêng để cùng nhau theo đuổi một mục đích chung. Cùng nhau đi chân trần trên đường hướng về lý tưởng, có lẽ thích thú hơn lộp cộp với đôi giày để bước những bước độc hành.Viết riêng cho anh chị em Ki-tô hữu:Dụ ngôn “đứa con hoang đàng” trong Phúc Âm cũng có hình ảnh của đôi giày. Khi đứa con hoang trở về, nghèo đói, rách rưới quỳ xuống chân cha nói lời tạ tội và chỉ mong cha cho trở về, nhận làm kẻ hầu người hạ trong nhà chứ không dám mơ được nhận làm con như trước; người cha nhân lành đã đỡ con dậy, gọi gia nhân đem áo cho mặc, nhẫn cho đeo, giày cho đi. Đôi giày ấy thay cho lời người cha, nói với người con rằng: “Con là con cha, là người tự do, con không phải là kẻ ăn người ở, không phải là hạng nô lệ trong nhà này.”

Có người rất quý trọng đôi giày mòn, vẹt của mình. Người ta kể rằng một tu viện nọ tổ chức một cuộc tĩnh tâm. Cuối ngày, cha tu viện trưởng nói với mọi người để lên bàn vật mình cho là quý nhất. Các tu sĩ lần lượt để lên bàn những báu vật của mình. Người thì đặt lên một cây thánh giá bằng vàng, người khác là một cuốn thánh kinh đóng bìa da công phu, người khác nữa là một cỗ tràng hạt bằng bạc… Đến lần vị tu sĩ kia, ông thản nhiên cúi xuống tháo đôi giày cũ kỹ, mòn vẹt của ông và trịnh trọng đặt lên bàn. Mọi người ồn ào, bất mãn, người ta cho rằng vị tu sĩ kia ngạo mạn và bất kính đối với người khác và đối với những báu vật của họ. Tu viện trưởng ra lệnh cho vị tu sĩ kia giải thích tại sao lại cho đôi giày cũ kỹ bụi bặm kia là vật quý nhất, vị tu sĩ trả lời:

“Vì chính nhờ nó, con đã đem được Tin Mừng của Chúa Ki-tô đến biết bao con người ở những miền đất xa xôi.”

Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến lời của tiên tri Isaia: “Đẹp thay bước chân người đi gieo rắc Tin Mừng.”Chúng ta học được gì qua hai hình ảnh trên?

QUYÊN DI

(Trích “Nhìn Xuống Cuộc Đời,” 1995)____________________________(1) Bây giờ tôi biết bà Marcos không phải chỉ có vài trăm đôi giày, số giày của bà lên tới con số hàng ngàn.

(2) Tôi thật nhà quê! Giày giá mấy trăm Mỹ kim đã là gì. Có người sẵn sàng bỏ tiền ra mua những đôi giày giá mấy chục ngàn Mỹ kim




PHIM DAM MỸ- Trịnh Bình An

Tại sao Bắc Kinh cấm phim đam mỹ?

Trịnh Bình An

Đầu tháng Giêng 2022, nhà cầm quyền Hoa Lục đã ra lệnh chính thức cấm chiếu các phim thể loại “đam mỹ“.

Phim đam mỹ là loại phim phiêu lưu, tình cảm, không chứa đựng những tư tưởng cải cách, đấu tranh, đòi tự do, dân chủ…, tức là những điều tối kỵ đối với Đảng Cộng Sản, vậy vì lý do gì khiến Bắc Kinh lại ra tay ngăn cấm dù biết rằng sẽ thất thu bạc tỉ tiền thuế từ những bộ phim này?

Nhưng trước khi tìm hiểu thêm, xin được nhắc tới đôi điều về thể loại phim đam mỹ.

Đam” nghĩa là mê đắm (như trong đam mê), “Mỹ” là đẹp đẽ (như trong mỹ lệ). Nhưng khi dùng cho tiểu thuyết, phim ảnh, hai chữ “đam mỹ” hàm ý tình yêu giữa người nam và người nam. (Tiếng Anh là “Danmei“: The male same-sex romance genre of “boys’ love“)

Trong năm 2021, hãng phim Netflix của Hoa Kỳ đã cùng một lúc phổ biến 4 bộ phim đam mỹ: Trần Tình Lệnh (The Untamed), Sơn Hà Lệnh (Word of Honor), Âm Dương Sư: Tình Nhã Tập (The Yin-Yang Master: Dream of Eternity), và Thiên Bảo Phục Yêu Lục (The Legend of Exorcism).

Những bộ phim này đều có chung một số ưu điểm: Kịch bản hấp dẫn, cảnh quan lộng lẫy, dàn diễn viên trẻ, đẹp, giỏi diễn xuất (riêng Thiên Bảo Phục Yêu Lục là phim hoạt họa). Nội dung cả 4 bộ phim đều xoay quanh mối tình lãng mạn giữa hai nhân vật nam chính.

Nhưng tại sao chỉ là “lãng mạn“?

Bởi vì trong phim hoàn toàn không có những cảnh ướt át, mùi mẫn như hôn hít, vuốt ve, làm tình… điều vẫn thấy nhan nhản trong các phim đồng tính nam. Ở đây, tình yêu chỉ được thể hiện qua ánh mắt tha thiết, lời nói ân cần. Yêu là quan tâm lẫn nhau, thông cảm với nhau, hy sinh mạng sống cho nhau. Những cảnh thân mật nhất chỉ có: nắm tay khi trị thương, đỡ nhau khi bất tỉnh, choàng vai khi… khinh công.

Nhưng nếu đã “thụ thụ bất thân” (1) đến như thế, tại sao Bắc Kinh phải nhảy dựng lên?

Trước khi trả lời câu hỏi này, tưởng cũng nên nhắc lại quan niệm “Tri Kỷ” trong văn hóa Trung Hoa.

Hai chữ tri kỷ dùng để chỉ một người bạn rất thân, thân đến mức có thể thông cảm và hết lòng với mình. Những đôi tri kỷ trong sử Tàu được nhắc tới nhiều nhất là Bá Nha-Tử KỳQuản Trọng-Bảo Thúc Nha. Còn bộ ba anh em kết nghĩa Lưu Bị-Quan Vũ-Trương Phi là tình “huynh đệ-chiến hữu“, chiến đấu bên nhau, sống chết cùng nhau. Thế nhưng những cặp tri kỷ ấy, ai nấy đều có gia đình riêng, có vợ con, thậm chí còn có nhiều vợ.

Còn khi hai người nam yêu nhau tới mức trở thành tình nhân thì không gọi “Tri Kỷ” nữa mà là “Đon T“.

Đon” là chặt đứt, “T” là tay áo. Hai chữ ấy có nguồn gốc từ điển tích “Chặt tay áo“: Đổng Hiền được vua Hán Ai Đế yêu thương, nằm gối vào tay áo vua mà ngủ. Khi vua dậy trước, không nỡ đánh thức, bèn cắt luôn tay áo mà đứng lên.

Văn hóa Trung Hoa ca ngợi tình tri kỷ như thứ tình cao quý giữa người và người, nếu là nam và nữ thì nữ là “hồng nhan tri kỷ” của nam. Tri kỷ cũng có nguyên tắc của tri kỷ. Một trong những nguyên tắc chính yếu là phải “đạm“, tức không bày tỏ lộ liễu, như câu “Quân tử chi giao đạm nhược thủy” (2).  Tình của của người quân tử lạt như nước, nước nhờ lạt mà không ngán.

Một câu khác (tương truyền của thừa tướng Gia Cát Lượng) còn nói rõ thêm: “Ôn bất phiền hoa – Hàn bất cải diệp” – Ấm không nở hoa, lạnh không thay lá – Ý nói trong giao tình nên giữ thái độ bình thản, không vồ vập khi thích nhau nhưng cũng không hắt hủi khi hết thích nhau.

Nước Việt ta truyền tụng tình bạn tri kỷ giữa hai thi hào Nguyễn KhuyếnDương Khuê. Khi cụ Nghè Dương ra đi, cụ Tam Nguyên Yên Đổ viết bài thơ khóc bạn, khóc thương người đi nhưng cũng khóc thương chính mình, vì mất tri kỷ đồng nghĩa mất đi người có thể chia sẻ với ta những điều tinh tế nhất.

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa.

Giường kia treo những hững hờ

Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.

Tình tri kỷ còn là thứ tình bạn chỉ có được ở những bậc hào hoa nhất, phong lưu nhất, những con người không màng tiền tài, danh lợi. Bài hát “Si Tình Mộ“, trong phim Âm Dương Sư, đề cao tình cảm cao quý ấy với hai câu thơ: “Bất cầu anh hùng vạn thế danh – Đãn cầu tri kỷ đồng lộ hành” (3)- Cần chi danh tiếng anh hùng, những mong tri kỷ đi chung một đường.

Người đàn ông phương Tây cũng cảm nhận những tình bạn sâu sắc giữa họ với nhau, nhất là trên chiến trường. Tác phẩm “All Quiet on The Western Front” (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh) của Erich M. Remarque có đoạn miêu tả thứ cảm tình lạ lùng mà thâm trọng ấy.

Now I hear muffled voices. To judge by the tone that might be Kat talking…These voices, these quiet words, these footsteps in the trench behind me recall me at a bound from the terrible loneliness and fear of death by which I had been almost destroyed. They are more to me than life, these voices, they are more than motherliness and more than fear; they are the strongest, most comforting thing there is anywhere: they are the voices of my comrades. I am no longer a shuddering speck of existence, alone in the darkness – I belong to them and they to me; we all share the same fear and the same life, we are nearer than lovers, in a simpler, a harder way; I could bury my face in them, in these voices, these words that have saved me and will stand by me.

(Tôi chợt nghe thấy tiếng ai đó nói nho nhỏ. Nghe ra như giọng của Kat… Những tiếng nói, những lời nho nhỏ, những bước chân trong chiến hào ở sau lưng, đã kéo giật tôi ra khỏi nỗi cô đơn và nỗi sợ chết kinh hoàng suýt nữa quất tôi đổ sụm. Những tiếng nói ấy, với tôi, còn hơn cả sự sống, hơn cả tình mẫu tử, hơn cả nỗi sợ hãi; Chúng là thứ mạnh mẽ nhất, ủi an nhất: Chúng là tiếng đồng đội của tôi. Tôi không còn là một một đốm sáng thoi thóp lập lòe, lẻ loi trong bóng tối – tôi thuộc về họ và họ thuộc về tôi. Tất cả chúng tôi đều có chung nỗi sợ hãi và có chung cuộc sống. Chúng tôi gần gụi nhau hơn cả tình nhân, thật dễ dàng mà cũng thật khó khăn. Tôi có thể vùi mặt vào họ, vào những tiếng nói của họ, những tiếng nói ấy đã cứu lấy tôi và sẽ đứng bên tôi.)

Tình “huynh đệ chi binh” cũng khiến độc giả chúng ta say mê theo dõi từng bước chân của bốn chàng lính Ngự Lâm của Alexandre Dumas. Dù xuất thân rất khác, tính tình cũng rất khác, Athos, Porthos, Aramisd’Artagnan vẫn gắn bó với nhau trong những điệp vụ gian nan, kéo dài từ tác phẩm”Les Trois Mousquetaires” (Ba Chàng Ngự Lâm Quân) tới tác phẩm “Vingt Ans Après” (Hai Mươi Năm Sau).

Và nếu không dựa vào tình tri kỷ thì Conan Doyle sẽ khó lòng viết nên những trang trinh thám mãi mãi mê hoặc lòng người giữa chàng thám tử tài hoa Sherlock Holmes và người bạn của anh – Dr. Watson. Khi Watson bị trúng đạn, chứng kiến biểu cảm của Holmes, lòng ông tràn đầy xúc động:

It was worth a wound; it was worth many wounds; to know the depth of loyalty and love which lay behind that cold mask. The clear, hard eyes were dimmed for a moment, and the firm lips were shaking. For the one and only time I caught a glimpse of a great heart as well as of a great brain. All my years of humble but single-minded service culminated in that moment of revelation.

(Vết thương thật đáng giá; cho dù nhiều vết thương hơn nữa vẫn thật đáng giá. Nhờ nó, mới thấy ẩn sau lớp mặt nạ lạnh lùng kia là thăm thẳm tình thâm nghĩa trọng. Chỉ một thoáng qua thôi, nhưng tôi thấy đôi mắt vốn dửng dưng kia bỗng chợt tối lại, đôi môi nghiêm nghị kia chợt khẽ run lên. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất tôi được thấy một trái tim vĩ đại và một khối óc vĩ đại. Tất cả những năm tháng âm thầm tận tụy của tôi, cuối cùng, cũng đã viên mãn chỉ trong cái khoảnh khắc diệu kỳ ấy.)

Trên đây, là một vài ví dụ cho tình tri kỷ của những thời trước kia. Dù Đông hay Tây, phái nam thường thích tụ họp, quây quần với nhau. Đó có thể là vết tích của người tiền sử chăng, khi đàn ông giữ nhiệm vụ săn bắt, họ phải cùng nhau đối đầu với những loài dã thú to khỏe và hung dữ.

Và bây giờ, xin được trở về với chủ đề phim đam mỹ.

Hai bộ phim truyền hình nhiều tập Trần Tình LệnhSơn Hà Lệnh đều được chuyển thể từ tiểu thuyết kiếm hiệp đam mỹ. Hai nhân vật nam chính trong truyện đều thuộc loại “đoạn tụ“, tiếng Anh là “gay man“, tiếng Việt là “đàn ông cong“, trái với “đàn ông thẳngstraight man“. Thế nhưng, để qua được kiểm duyệt, phim được sửa đổi để chỉ còn là tình tri kỷ, các cặp tình nhân nam-nam đều bị đặt trong cái thế “tình trong như đã mặt ngoài còn e” (4).

Thế mà Bắc Kinh vẫn lo sợ! Nói cho ngay, có lý do để lo sợ. Ít nhất vì 3 lý do sau đây:

Thứ Nhất, cho tới nay, Trung Cộng vẫn giữ thái đồ lình xình với giới đồng tính: “Không cấm đoán cũng không cho phép“. Sự thành công vượt bực của Trần Tình LệnhSơn Hà Lệnh kéo theo cả một chuỗi những bộ phim đam mỹ khác đang rục rịch ra lò. Điều đó sẽ khiến xã hội có thiện cảm nhiều hơn với giới đồng tính. Và đó chính là bệ phóng cho những đòi hỏi mạnh mẽ hơn về quyền đồng tính. Thế nhưng, Đảng Cộng Sản vốn rất ghét bị áp lực bởi người dân. Không nên quên Bắc Kinh đã sẵn sàng nã súng vào chính đồng bào mình trong biến cố đẫm máu Thiên An Môn 1989, dù đó chỉ là một đoàn thanh niên sinh viên tay không tấc sắt, biểu tình ôn hòa.

Thứ Hai, các phim đam mỹ góp phần làm thay đổi “gu” thẩm mỹ về nam giới của giới trẻ Hoa Lục ngày nay. Từ thời Mao Trạch Đông, các tranh cổ động Trung Cộng đều mô tả “Con người Xã Hội Chủ Nghĩa” qua hình ảnh những nông dân, công nhân to khỏe vạm vỡ với nét mặt rạng rỡ tươi vui. Thế nhưng, khi Hoa Lục “mèo trắng, mèo đen“(5) mở cửa, các tư tưởng bên ngoài đã tràn vào và làm lung lay các giáo điều cộng sản.

Bắt đầu từ những cuốn truyện tranh Nhật Bản (6).

Có lẽ vì người châu Á vốn thấp lùn, mũi tẹt, mắt hí, nên các nhân vật truyện tranh thường được vẽ với thân hình dong dỏng cao, sóng mũi thẳng và cặp mắt to, ngay cả người nam cũng xinh đẹp một cách thanh tú. Thế nhưng, ước mơ thoát khỏi kiếp “em sinh ra trời bắt xấu” chỉ thành sự thật khi giải phẫu thẩm mỹ trở nên tân tiến hơn, rẻ tiền hơn.  Thanh thiếu niên Hàn Quốc đua nhau đi cắt mắt, sửa mũi, gọt cằm… tới mức các nam, nữ diễn viên người nào người nấy đều trông hao hao giống nhau, ai cũng mắt to, cũng cằm nhọn V-line, tới mức nhìn cứ ngỡ tất cả đều là anh chị em!

Xứ sở tỷ dân nào chịu thua kém xứ sở kim chi. Để theo kịp “đợt sống mới“, các diễn viên màn bạc cũng được tuyển chọn theo tiêu chuẩn mới. Các nam anh hùng không còn mang dáng “đường đường một đấng anh hào” mà nay phải “chân dài, ngực mỏng, da trắng, mặt gầy, môi nhỏ“. Thế nhưng, các “nam thần, soái ca” mảnh mai, ẻo lả ấy không hề làm giảm sút khí chất, phong độ của các nhân vật trong truyện và phim, thậm chí họ còn làm nổi bật hơn tài mạo siêu việt bởi vì ai nấy đều sở hữu “võ công cái thế, nội lực kinh người“.

Thế nhưng, đứng ở góc nhìn trần trụi của giới cầm quyền cộng sản, những chàng “trai đẹp” ấy làm sao có thể cầm súng ra trận theo “tiếng gọi tổ quốc“. Chưa kể, rất nhiều người trong số họ lại là con trai độc nhất trong gia đình, từ nhỏ đã được cưng chiều rất mực. Liệu Bắc Kinh sẽ có được một đoàn quân hùng hậu với những “cậu ấm“? Trào lưu “mỹ nhân hóa” nam thanh niên trở thành mối nguy cơ làm mất đi sức mạnh cơ bắp của quân đội. Quân đội mà yếu thì Trung Cộng còn hung hăng đe dọa được ai?

Và lý do Thứ Ba, cũng tiềm ẩn nguy cơ không kém hai lý do trên, đó là các hội kín. Cộng đồng LGBT (Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender) ở Hoa Lục vốn đã có những tụ điểm ở một số thành phố tương đối cởi mở. Trên thực tế, không dễ dàng phân biệt ai là đồng tính. Một người đàn ông vai u thịt bắp vẫn có thể là “nữ” trong mối tư tình. Những câu lạc bộ, hội kín ấy biết đâu chừng cũng là những “ổ chứa phản động“? Không nên quên Pháp Luân Công chỉ là một giáo phái tu học “chân, thiện, nhẫn” vậy mà đã khiến cho Bắc Kinh lo sợ tới mức phải dùng mọi cách “đuổi tận, giết tuyệt” vô cùng tàn độc.

Những hội đoàn có tính chất “nghĩa huynh – nghĩa đệ” khiến Bắc Kinh liên tưởng tới “108 Hảo Hán Lương Sơn Bạc” đã từng làm rung chuyển triều đình phong kiến. Nhóm huynh đệ ấy đã thất bại ở Thủy Hử, nhưng tại thế kỷ 21 này – khi Tự Do là ngọn gió bất khả đảo chiều, những con người ấy rất có khả năng sẽ làm tiêu ma chế độ “phong kiến đỏ“, dù cho nó có giảo quyệt và tàn nhẫn hơn những triều đại xưa gấp chục lần hơn.

Với 3 lý do vừa kể trên, không khó để hiểu tại sao nhà cầm quyền Trung Cộng đã hạ lệnh ngăn cấm vô thời hạn những bộ phim điện ảnh thể loại “đồng tính nam” cho dù đó chỉ là tình tri kỷ hay tình huynh đệ.

Về thị trường điện ảnh châu Á mà nói, khi khán giả đã chán ngấy các thể loại ngôn tình sướt mướt, cung đấu trí trá, tiên hiệp viển vông… việc họ quay ra say mê tình bạn tri kỷ ấm áp “sống chết có nhau, không rời không bỏ ” là điều dễ hiểu.

Câu hỏi đặt ra là: Liệu giới điện ảnh Hoa Lục có bó tay chịu thua hay không?

Kịch bản cho một mối giao tình nam-nam không thể bỏ qua 2 yếu tố: thiện tâm và dũng khí.

Bởi, dù vẻ ngoài mềm mỏng, những nhân vật chính đều vẫn là những anh hùng, tình yêu của họ không thể chỉ nhìn vào mắt nhau mà phải cùng nhìn về một hướng: trừ gian, diệt ác. Mà, chỉ anh hùng mới có tri kỷ, không có tình bạn giữa kẻ cướp.

Và, đó có thể là lý do Thứ Tư khiến Bắc Kinh căm ghét các chàng trai vừa trẻ, vừa đẹp, lại còn tự do, phóng khoáng… trong các phim “đam mỹ“. Bởi, Đảng Cộng Sản không cần tới anh hùng, vì Đảng Cộng Sản chỉ là một bọn cướp.

Trịnh Bình An

***

Ghi chú:

(1) “Nam nữ thụ thụ bất thân“: Nam nữ không được tiếp xúc thân thiết. Câu này được trích trong sách “Li Lậu Thượng” của Mạnh Tử. Vốn có hai vế, nhưng vế thứ hai thường bị bỏ sót. Nguyên văn: “Nam nữ thụ thụ bất thân, lễ dã; Tẩu nịch viên chi dĩ thủ, quyền dã” (Giữa nam và nữ không nên trực tiếp trao nhận vật phẩm bằng tay, đó là lễ nghi; Nhưng nếu chị dâu rơi xuống sông thì (em chồng) dùng tay để cứu, đó lại là thích ứng). Chữ “Quyền“, bộ Mộc, chỉ sự thích ứng, tuy trái với đạo thường nhưng hợp với lẽ phải. Bài viết dùng thành ngữ này để chỉ sự cứng nhắc trong văn hóa Trung Hoa.

(2) Nguyên câu văn trong “Trang Tử Nam Hoa Kinh“: “Quân tử chi giao đạm nhược thủy, tiểu nhân chi giao cam nhược lễ” (Quân tử đối xử với nhau nhạt như nước lã, tiểu nhân thì lại ngọt như rượu nếp).

(3) Nguyên đoạn là: “Bất cầu anh hùng vạn thế danh. Đãn cầu tri kỷ đồng lộ hành. Tâm như băng tuyết khiên như điệp. Thị phi đối thác vô bằng tá“. (Chẳng cần được tiếng anh hùng ngàn năm. Chỉ mong có tri kỷ đi cùng đường. Trái tim như băng tuyết, đôi vai như cánh bướm (lạnh với các ham muốn, nhẹ với các mưu cầu). Thị phi đúng sai không can dự vào).

(4) “Người quốc sắc kẻ thiên tài – Tình trong như đã mặt ngoài còn e“. Tả dáng vẻ thẹn thùng của Kim Trọng và Thúy Kiều khi gặp gỡ lần đầu tiên. Trích “Đoạn Trường Tân Thanh” của Nguyễn Du.

(5) Nguyên văn câu nói của Đặng Tiểu Bình: “Bất quản hắc miêu bạch miêu, năng tróc lão thử đích tựu thị hảo miêu” (Bất kể là mèo trắng hay mèo đen, miễn bắt được chuột thì đều là mèo tốt). Từng bị Mao Trạch Đông coi là tư tưởng “gió nghịch chiều“, dẫn đường đến chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, câu này có xuất xứ từ bộ tiểu thuyết “Liêu Trai Chí Dị” – Truyện “Khu Quái” – của Bồ Tùng Linh. Đời nhà Thanh, tú tài họ Từ không muốn phục vụ triều đình, bèn bỏ đi học đạo thuật để giúp người trừ ma quỷ. Có một đại quan triều đình mời ông ta đến trừ ma quỷ, hầu hạ đãi đằng cơm ngon rượu ngon nhưng tuyệt không mở miệng nói gì đến chuyện trừ ma quỷ. Đến tối có một con quái vật đầu người mình thú hiện đến ăn cơm thừa canh cặn. Từ tú tài sợ mất hồn hét loạn lên làm con quái thú cũng hoảng hồn chạy mất, từ sau không xuất hiện nữa. Người đời cảm thán rằng: “Hoàng ly hắc ly đắc thử giả hùng” (Dù chồn vàng hay chồn đen, cứ bắt được chuột là thành anh hùng).

 (6) Nhật Bản gọi truyện tranh là Manga. Hàn Quốc là Manhwa. Trung Hoa là Manhua. Cả ba loại truyện đều có phong cách vẽ tương tự như nhau.

<<<<<<<<<<< FOR REFERENCE ONLY – DO NOT USE >>>>>>>>>>

https://travelmag.vn/tu-nam-2021-phim-dam-my-bi-cam-chieu-tai-trung-quoc-d56732.html
https://www.yan.vn/phim-dam-my-chinh-thuc-bi-cam-chieu-tai-trung-quoc-288178.html
https://envilstore.com/posts/phim-dam-my-bi-cam-hoan-tai-trung-quoc

Văn học nghệ thuật không phải là một mớ thuyết giảng đạo đức mà là cả một thế giới thấm đẫm tình người, có khả năng đánh thức, lay động nhân tính, gây nên những xúc động thẩm mỹ, đeo bám, ám ảnh, thôi thúc con người tự hoàn thiện không ngừng. 

http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/van-de-dao-duc-xa-hoi-trong-van-hoc-nghe-thuat-hien-nay-11936_4326.html

Người LGBT ở Việt Nam bao gồm những người đồng tính luyến ái, song tính luyến ái và người chuyển giới. LGBT là cụm từ viết tắt các chữ cái đầu gồm Lesbian, Gay, Bisexual, và Transgender/transsexual people (những người đồng tính nữ, người đồng tính nam, người song tính và người chuyển giới trong tiếng Anh)

  • “Nam nữ thụ thụ bất thân”: Nam nữ không được tiếp xúc thân thiết. Câu này được trích trong sách Li Lậu Thượng 離婁上của Mạnh Tử. Vốn có hai vế, nhưng vế hai thường bị bỏ sót. Nguyên văn: “Nam nữ thụ thụ bất thân, lễ dã; Tẩu nịch viên chi dĩ thủ, quyền dã” 男女授受不親, 禮也; 嫂溺援之以手, 權也  (“Giữa nam và nữ không nên trực tiếp trao nhận vật phẩm bằng tay, đó là lễ nghi; Nhưng nếu chị dâu rơi xuống sông thì (em chồng) dùng tay để cứu, đó lại là thích ứng”). Chữ “Quyền” bộ Mộc 權, là sự thích ứng, tuy trái với đạo thường nhưng hợp với lẽ phải.
  • Như trong các câu ngạn ngữ “Chấp kinh tòng quyền“: Tuy giữ đạo thường nhưng cũng có lúc phải theo hoàn cảnh mà biến đổi đi;  “Ngộ biến tòng quyền“: Gặp cảnh biến phải theo đạo “quyền” (không thể giữ nguyên đạo “kinh” như lúc bình thường).

Xưa nay trong đạo đàn bà,

Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,

Có khi biến có khi thường,

Có quyền nào phải một đường chấp kinh .

(Kiều)

Nguyên văn của Đặng Tiểu Bình : “Bất kể mèo vàng hay mèo đen, phương pháp nào có lợi cho khôi phục sản xuất thì áp dụng phương pháp đó. Tôi tán thành việc nghiêm túc nghiên cứu khoán sản lượng đến từng hộ gia đình”.  Từng bị Mao Trạch Đông coi là tư tưởng “gió nghịch chiều”, dẫn đường đến chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, câu này có xuất xứ từ bộ tiểu thuyết “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh. Tại quyển 3, cuối thiên Khu Quái (Trừ Tà) có câu: “Dị sử thị viết: hoàng li hắc li, đắc thử giả hùng”. (Mèo vàng mèo đen, chỉ cần bắt được chuột thì đều là mèo tốt).

Baike Baidu (Bách Khoa Bách Độ)

黃狸黑狸,得鼠者雄,成語出處異史氏曰:‘黃狸黑狸,得鼠者雄。’此非空言也。 清·蒲松齡《聊齋志異·驅怪》。

清朝時期,徐秀才不願為清廷服務,就改學道術為人驅鬼。

一個朝廷大員請他驅鬼,好酒好菜侍侯,閉口不談驅鬼事情。晚上一頭獸頭人身的怪物來舔食剩菜剩飯。徐秀才嚇得拼命狂叫嚇跑了那怪物,後來再也沒發現了,人們感嘆:“黃狸黑狸,得鼠者雄”。

“Hoàng ly hắc ly đắc thử giả hùng”. Thành ngữ xuất xứ: Dị Sử Thị viết: “Hoàng ly hắc ly đắc thử giả hùng, thử phi không ngôn dã”. (Thanh Bồ Tùng Linh: Liêu Trai Chí Dị – Khu Quái). Thanh triều thời kỳ, Từ tú tài bất nguyện vi Thanh đình phục vụ, tựu cải học đạo thuật vị nhân khu quỷ. Nhất cá triều đình đại viên thỉnh tha khu quỷ, hảo tửu hảo thái thị hầu, bế khẩu bất đàm khu quỷ sự tình. Vãn thượng nhất đầu thú đầu nhân nhân đích quái vật lai thiểm thực thặng thái thặng phạn. Từ tú tài hách đắc bính mệnh cuồng khiếu hách bào liễu na quái vật, hậu lai tái dã một phát hiện liễu. Nhân môn cảm thán: Hoàng ly hắc ly đắc thử giả hùng.

* DỊCH TIẾNG VIỆT: Xuất xứ thành ngữ này từ lời bàn của Dị Sử Thị: “Hoàng ly hắc ly đắc thử giả hùng, chẳng phải là lời nói suông”. (Truyện Khu Quái trong Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh). Đời nhà Thanh, tú tài họ Từ không muốn phục vụ triều đình, bèn bỏ đi học đạo thuật để giúp người trừ ma quỷ. Có một đại quan triều đình mời ông ta đến trừ ma quỷ, hầu hạ đãi đằng cơm ngon rượu ngon nhưng tuyệt không mở miệng nói gì đến chuyện trừ ma quỷ. Đến tối có một con quái vật hiện đến ăn cơm thừa canh cặn. Từ tú tài sợ mất hồn hét loạn lên làm con quái vật cũng hoảng hồn chạy mất, từ sau không xuất hiện nữa. Người đời cảm thán rằng: Dù chồn vàng hay chồn đen, cứ bắt được chuột là thành anh hùng.

1. Ly 狸 là con chồn.

2. Câu nói của Đặng Tiểu Bình hơi khác: “Bất quản hắc miêu bạch miêu, năng tróc lão thử đích tựu thị hảo miêu” (不管黑貓白貓,能捉老鼠的就是好貓).

1 trang mạng của Tàu về “đam mỹ điện ảnh” (danmei movies):

Good-looking Danmei English movies recommendations (2015)

(Hảo khán đích đam mỹ Anh văn điện ảnh suy tiến 好看的耽美英文电影推荐)

Hảo khán = nice, beautiful. Google dịch là good-looking.

Nguyên câu văn trong Trang Tử Nam Hoa Kinh: “Quân tử chi giao đạm nhược thủy, tiểu nhân chi giao cam nhược lễ” 君子之交淡若水小人之交甘若醴. (Cam nhược lễ = ngọt như rượu nếp).




VĂN: Hương Xưa, Ngày Tháng Cũ – ĐỖ DUNG

Hương Xưa, Ngày Tháng Cũ.

Những Kỷ Niệm Thời Trưng Vương

Đỗ Dung

Các bạn đồng khoá chúng tôi, TV 58-65, muốn cùng nhau thực hiện một cuốn Đặc San đặc biệt ngày năm mươi năm dời trường. Hạn chót nộp bài là cuối tháng January. Hôm nay, 14/1/2015. Tôi biết viết gì đây?Bạn? Bè? Bạn một đời? Bạn một thời? Có những người tưởng như bạn một đời, có những người tưởng chỉ là bạn một thời… Những khuôn mặt từ từ hiện lên, những kỷ niệm cũ uà về. Bẩy năm Trung Học, mấy năm lên Đại Học, rồi tan tác, chia lià, rồi lại đoàn viên. Những Đại Hội trùng phùng cảm động, bùi ngùi nhận ra nhau, hay biết thêm về nhau nhiều hơn để tiếp tục gắn bó.

Những hỗn danh Chính Tốn, Châu Sình, Ngân Le, Dung Lu, Tí Ti, Bé Bự… đưa tôi về khoảng thời gian vui vẻ nên thơ nhất của đời người, bẩy năm Trung Học. Bẩy năm aó trắng tung tăng, mấy năm cuối với những mộng mơ, những rung động nhẹ nhàng của một thời con gái.

Một buổi sáng muà hè năm 1958, mẹ tôi chất bốn chị em chúng tôi, đứa lớn nhất 11 tuổi, đứa bé nhất mới lên 5, cùng ngồi với mẹ trên một chiếc xe xích lô máy đến trường Trưng Vương xem kết quả thi vào Đệ Thất. Chả hiểu sao khi tôi đem bản nháp bài thi về cho cha tôi xem thì ông đoán như đinh đóng cột là “Con bố phải đỗ”, dù là trường chỉ chọn ba trăm học sinh trong số gần ba ngàn thí sinh từ các trường Tiểu Học khắp nơi dự thi. Mẹ tôi không dám tin chắc nhưng vì tiện xe và trường gần Thảo Cầm Viên nên cho các em tôi đi chơi một thể. Thật may mắn, loa phóng thanh mới phát ra một lúc đã thấy đọc đến tên tôi. Mấy chị em tôi đã rú lên mừng rỡ. Để cho chắc chắn mẹ tôi bắt đợi khi nhà trường đọc hết danh sách, đến dò tên ở bảng dán trên tường với số báo danh rõ ràng mới yên chí. Mấy chủ xe đưa đón học sinh xúm xít vây quanh những phụ huynh có con trúng tuyển để quảng cáo lấy khách. Mẹ tôi nói địa chỉ nhà, họ chuyển sang cô Năm-chú Sáu, hai vợ chồng chủ xe chạy lộ trình này. Mẹ trả tiền xe cho cô Năm và cô hẹn ngày khai trường sẽ đến tận nhà đón.

Ngày khai trường đến, tôi xúng xính trong chiếc áo dài ngồi đợi, hồi hộp, lo âu trong sung sướng mình đã là nữ sinh Trưng Vương. Trên xe có hai nhỏ TV ngồi sẵn, Phùng Thị Chính, Lan Phương. Đi đến gần đầu đường thêm nhỏ Thu Hà với Kim Loan. Thì ra nguyên một khúc Thành Thái này đã có bốn TV be bé. Nhà Chính ở chợ An Đông. Xe cô Năm-chú Sáu đưa rước hai trường, Trưng Vương và thêm một trường Tiểu Học Tầu trong Chợ Lớn. Mỗi ngày khi xe đưa học trò nhỏ trường Tầu về là đón TV đi học. Sau đường Trần Hưng Đạo thì trên xe chỉ còn có TV. Bích Liễu ở khu Nancy, có biệt danh là Chuột Chù Phan Văn Trị, không biết ai đặt, có lẽ tại cô nàng tuổi Tí. Xe đón Bích Liễu là đón luôn chị Bạch Lan. Lê Thị Bảo ở Cô Bắc. Tôi còn nhớ ngoài TV 58-65 còn các TV lớp lớn hơn như Kim Chung, Bạch Lan, Tuyết Phương, Hồng Nhung, Hạnh, Hiếu… Năm sau có thêm Bích Từ, Trần Thị Phương, Tuyết Như rồi kế tiếp là Thục Văn, Kim Tâm và mấy chị em nhà hàng len ở Lê Thánh Tôn…

Những ngày đi xe trường có nhiều chuyện thật vui. Tôi hay giành ngồi ngay đối diện cô Năm ở phía sau cùng để phụ cô làm lơ xe. Mỗi khi xe ghé đón hay thả học trò thì la lên “Cho xe ghé dzô đi” một cách khoái trá. Xúm lại chọc sao Cô Năm mà lại Chú Sáu, vậy là cô Năm lớn hơn chú Sáu… hahaha!  Những ngày nghỉ thỉnh thoảng tôi đi chợ An Đông, leo lên lầu nhà Chính rồi hai đứa chui vào một xó chuyện trò. Ngày họp ĐH ở nhà hàng Paracel, sau mấy chục năm không gặp, tưởng Chính đã quên nhưng tự nó đến vỗ vai tôi mà nói, hồi đó bà cụ tao gọi mày là “Cái Tròn”. Cụ có nhắc đến mày đấy.

Những năm đệ nhất cấp chúng tôi học buổi chiều. Ngày đầu tiên bước vào ngôi trường thân yêu ấy, chúng tôi xếp hàng theo từng lớp dưới sân trường, chào cờ, nghe huấn từ của bà Hiệu Trưởng Tăng Xuân An; lời chỉ dạy của bà Giám Học Nguyễn Thị Phú về chương trình giáo dục; cô Tổng Giám Thị Nguyệt Minh nhắc nhở về hạnh kiểm, công dung ngôn hạnh, những nết na của người con gái và nói về những kỷ luật của nhà trường. Trong mắt tôi lúc đó, ba bà trong Ban Giám Hiệu thật đẹp và oai nghi. Nhất là cô Tổng Giám Thị.

Giáo sư chính lớp tôi là bà An Thị Kỷ, bà Giám Thị Trí và đặc biệt tôi nhớ hai chị tuỳ phái, chị Ngọ tóc vấn khăn để trần. Chị Nụ ngoài khăn vấn quấn tròn trên đầu còn phủ thêm chiếc khăn vuông màu đen gấp chéo buộc lại phiá sau thành khăn mỏ quạ. Nhìn hai chị, tôi nhớ vú Hạnh, chị Dần nhà tôi ngoài Hà Nội, quần áo tiêu biểu chính cống Bắc Kỳ xưa.
Chúng tôi quen dần với bạn mới. Mấy em bé bé dãy bàn đầu có Tạ Bạch Mai Hương, Đan Hà, Nguyễn thị Hợp, Nguyễn Thị Minh Hà, Mai Oanh, Bích Trâm, Vân Bằng, Vân Anh, Bùi Nga, Đinh Thị Bạch Tuyết, Cấn Thị Hạnh Viên, Bùi Kim Liên… Dãy bàn nhì với Kim Khánh, Hoàng Kim Liên, Trương Kim Lan, Nguyễn Thị Hà, Phan Song Hà, Đào Dung, Đoàn Dung, Đỗ Dung. Bích Liễu hình như ngồi góc phía bên kia với Phùng Thị Chính, Kim Chinh và Trịnh Thị Thảo. Mấy dẫy bàn phía sau có Nguyễn Hoàng Vân Hương, Đỗ Thị Hạnh, Trần thị Hương, Phạm Thị Triệu, Phạm Xuân Mai, Nguyễn thị Lan, Lê thị Ánh, Đỗ thị Anh Thư, Nguyễn thị Kim Dung, Trần Thị Nhạc Lưu, Nguyễn Lệ Hải, Nguyễn thị Kim Lan, Nguyễn Thị Thư, Nguyễn Thị Lê, Phạm Thị Chúc, Hồ Thị Nhan, Trần Thị Liên, Nhẫn, Đạo, Duyên, Phạm Minh Đường, chị em Phương Khanh, Phương Thảo, Nguyễn Cung Thị Sính, Vũ Thị Minh Hà, Lê Thị Bảo… Chuyện gần sáu chục năm nên trí óc cũng cùn đi, tôi nhớ là sĩ số gần sáu mươi mà cố cũng không thể nhớ nổi hết.

Tết năm đó lớp chúng tôi tập múa bài Tiếng Sáo Thiên Thai. Mới đầu Trịnh Thị Thảo là cô nàng tiên chính, đứng giữa; cuối cùng chẳng hiểu sao Vân Hương phải thay thế, cô nàng phải miễn cưỡng thế mạng phút chót nên mặt bí xị không được vui. Tôi chỉ nhớ hai cô tiên bé Tạ Bạch Mai Hương và Phạm Vân Bằng thật là xinh. Đến ngày lễ Hai Bà, thày Nguyễn Cường thiết kế xe hoa hình con công với những dải lụa dài đằng sau, một bầy nữ sinh cầm lụa múa như đuôi công. Lớp tôi cũng có vài người được tuyển chọn vào nhóm múa này.

Năm đó còn có một kỷ niệm khó quên. Lớp học trên lầu ba, một ngày, sau khi sắp hàng và được lệnh vào lớp, chúng tôi chạy rầm rập lên cầu thang, khốn nỗi cầu thang gỗ và nhiều đứa còn đi guốc nên cứ nện thoải mái. Bà Giáo Sư chính An Thị Kỷ cho ngay cả lớp đi cấm túc ngày Chủ Nhật vì tội “Chạy ầm ầm ở cầu thang”. Từ đó chúng tôi phải mang giày, dép cao su, nếu đi guốc phải đóng đế.

Những năm đệ nhất cấp từ từ trôi, sau ba tháng nghỉ hè, ngày tựu trường gặp lại, nhìn nhau như lớn phổng hẳn lên. Có một TV đã nói rằng rung động đầu đời của nữ sinh TV là yêu cô giáo. Những “cây si” thập thò ngoài cửa lớp có cô để ngắm cô. Giờ tan trường rủ nhau theo đuôi cô như đám rước. Những cô giáo Trưng Vương thật là đáng yêu. Gần như mỗi đứa có một thần tượng cho riêng mình và nghỉ hè xa cô cũng nhớ nhung, xin địa chỉ để đến nhà cô ngồi chầu cho đỡ nhớ. Các cô có nhiều học trò mê như cô Tố Lan, cô Kim Thi, cô Hồng Diệp, cô Lệ Khanh, cô Mộng Ngọc, cô Thuý Nga, cô Ngọc Quỳnh, cô Ninh, cô Trâm, cô Vinh, cô Thái, cô Hồng, cô Lưu Kim Dung… Còn với tôi, cô Xuân Sanh yêu quý của tôi là nhất.
Có hai giai thoại mà mỗi khi nghĩ đến tôi lại bật cười. Những lần có quốc khách hay những ngày lễ lớn chúng tôi phải thức dậy thật sớm để xếp hàng đi đón hoặc đi tham dự. Những ngày đó chúng tôi phải mặc đồng phục với quần trắng. Có người thắc mắc: “Thưa cô, nhỡ “bị” có được nghỉ không ạ?” Cô giáo đã mắng ngay: “Con gái… bị thì phải biết chuẩn bị!”. Nhưng mặc dù đã chuẩn bị kỹ càng, vậy mà một bạn tôi đã “kẹt” làm tụi tôi phải vây xung quanh để che cảnh “mặt trời mọc”. Và… một năm, ngày lễ Hai Bà, hai nữ sinh Gia Long và Trưng Vương được hân hạnh đóng vai Hai Bà Trưng ngồi oai nghi trên lưng voi, làm lễ xong còn phải đi diễn hành. Các chị phải đến trường từ tờ mờ sáng, ngồi phơi nắng đến xế trưa, vừa mệt vừa phải ngồi lâu quá trên thớt voi, không giải tỏa được “bầu tâm sự”, vừa xong buổi diễn hành tự nhiên một trong hai bà Trưng ngất xỉu, phải bế xuống và “voi đã đổ mồ hôi”!
Lên đệ nhị cấp chúng tôi chuyển sang học buổi sáng. Khu nhà tôi không có xe trường, chúng tôi phải tự túc. Thường buổi sáng tôi đón xe buýt Cây Mai-Cây Gõ ngay góc Thành Thái – Trần Bình Trọng hoặc xe lam lên bến xe trung tâm tại chợ Bến Thành rồi chuyển sang chuyến xe khác lên đường Thống Nhất ngay trước cổng sở thú rồi từ từ thả bộ tới trường. Mãi đến năm Đệ Nhất tôi mới được thừa hưởng chiếc velo solex của anh tôi đi du học để lại.Năm Đệ Tam đã có những lúc bước chân vướng vít vạt aó dài, mặt nóng bừng khi đi qua quán Hẹn hoặc đi ngang La Pagode trong lúc rủ nhau đi bộ về chợ Bến Thành mới lên xe buýt về nhà.

Từ Đệ Tam chúng tôi đã phải chọn ban thích hợp với nghề nghiệp sau này. Lớp Tam A1 chúng tôi có một số bạn cùng học từ lớp dưới, một số từ lớp khác và vài bạn từ trường ngoài. Đã lớn hơn một chút, chúng tôi thân nhau hơn. Ngày nghỉ đã ra dáng người lớn, không chơi rải ranh hay đánh chuyền nữa mà bắt đầu đến nhà nhau để nướng bánh kẹp, đổ bánh xèo, chiên bánh tôm, tráng bánh cuốn hay tập trang hoàng bánh kem. Đã có những lúc ngồi bên nhau tâm sự vụn. Đã biết rủ nhau đi dạo phố hay lên sân thượng để ngồi ngắm trăng.Năm Đệ Nhị nhiều biến động chính trị (1963), chúng tôi có những dao động mạnh. Những buổi đến trường nhưng xuống đường, bãi khóa không vào lớp học mà ùa xuống sân trường để rồi bị cảnh sát lùa như vịt, hốt hết đi. Mặc dù sau đó được thả ra nhưng cũng bị một phen hoảng sợ. Hãi hùng hơn nữa khi nghe tin những bạn bị xe bít bùng đêm đến nhà bắt đưa đi.

Tú Tài Một đã qua, Tú Tài Hai lại tới. Năm Đệ Nhất để lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Tuổi 17 đến 20, các bạn tôi đã trở thành những thiếu nữ xinh đẹp, tan trường đã có những chàng “Anh theo Ngọ về, đường mưa nho nhỏ”. Chàng Xuân Hạnh đã chống vespa ở cửa trường đón nàng Vũ Kim Liên.Lớp A1 của tôi có nhiều người đẹp, Vượng, Hảo, Trịnh Thị Thảo, Trần Thị Ngọc, Mộng Hoa, Ngọc Hoa, Lê Thị Vân, Phạm Kim Thể, Đặng Thị Hoà, Dương Thị Mai, Nguyễn Thị Hà, Dậu, Chép… Bây giờ nhìn lại thấy ai cũng đẹp, như Lệ, Liễu, Kim Chinh, Tú Khanh, Vũ Kim Liên, Minh Thu, Đỗ Thị Hạnh. Tuổi trẻ tha thướt, mộng mơ, tuổi của mắt sáng, môi hồng, má thắm. Tuổi trẻ trong sáng, xinh tươi như những bông hoa đang độ của vườn xuân trong nắng sớm. Lớp chúng tôi cũng có hai nữ sinh xuất sắc là Hoa Tâm và Năm. Sau Tú Tài cả hai đều được học bổng du học, Năm đi Úc, Hoa Tâm sang Canada.

Năm cuối cùng chúng tôi đã có những nỗi buồn vu vơ, cảm giác sắp phải xa lià bạn bè, trường lớp; những lúc bâng khuâng, nao nao, ngồi bên nhau muốn khóc. Có những lúc lại xúm nhau phá phách, chọc ghẹo bạn bè, thầy cô như muốn níu kéo lại thời gian. Đến cuối năm chúng tôi mới lo học rút, tập trung gạo bài để đi thi. Khi chúng tôi có kết quả, cả nhóm cùng đỗ Tú Tài phần hai, cha mẹ tôi mừng lắm, cho phép tổ chức ăn khao tại nhà, mời các giáo sư như Cô Ninh, Cô Mộng Ngọc, Thầy Diễn, Thầy Giảng , Thầy Tẩm, Thầy Lộc, thêm Thầy Lưu và Thầy Thọ, hai thầy không dạy TV nhưng đã coi điểm thi hộ chúng tôi. Nhóm A1 gồm Phương Ngân, Thanh Hoà, Minh Thu, Mộng Hoa, Ngọc, Nhị, Cẩm Tú, Mai Oanh, Dương Mai, Bích Liễu, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thị Năm. Bữa tiệc thật vui và sau đó như bầy chim non dời tổ, những cô nữ sinh chia tay, mỗi đứa một ngã rẽ, chập chững, dọ dẫm bước vào đời.

Các bạn của tôi ơi,Những cánh hoa sao xoay tít trên không, bầu trời trong xanh của con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm với hai hàng cây cao vời vợi đang hiện về. Hình ảnh chúng mình đi trong lòng đường trước cổng trường. Những lúc giỡn hớt bông đùa. Những giờ thể thao vui nhộn. Những khi ăn vụng trong lớp và vòi vĩnh thầy cô để xin tiền ăn bò biá, bò khô. Những miếng xoài xanh, những cục ô mai chuyền vội nhau dưới gầm bàn. Oái oăm lại còn chơi trò ăn vụng mà bóc quít thơm lừng, cười ra nước mắt và những miếng khoai mì nuốt chửng muốn nghẹn vì thầy đang đứng viết trên bảng, bất thình lình quay lưng nhìn xuống… Những khuôn mặt bạn bè thời trẻ dại đang rõ nét trong tôi. Bạn ơi, nhớ ơi là nhớ…

Đỗ Dung




VĂN: Tình Yêu – Mặc Bích (Bài sưu tầm trên net)

TÌNH YÊU

Từ ngày hôm ấy, nhà Hương có thêm một khuôn mặt mới. Đối với tất cả mọi người trong nhà, trừ Hương và cậu con trai lớn, khuôn mặt mới này cũng chỉ như một món đồ vừa được mua về ở tiệm, bầy đó, lấp một khoảng trống nào đó mà thôi. Ai vậy? Một chú két có màu xanh lá cây với những đường viền đỏ cam, vàng rực rỡ với đôi mắt sáng quắc tròn xoe, cái mỏ dài ngoằng hơi khoằm khoằm và một bên bàn chân bị khuyết tật!

-“Tại sao con lại mua một con két có tật như vậy hả Duy?”

   Đứa con trai lớn của Hương nhún vai cười:

-“Có sao đâu mẹ? Nó vẫn đứng, vẫn bay bình thường như mọi con két khác trong khi nó đẹp nhất trong lồng mà lại rẻ và biết nói sẵn nữa, con khỏi phải “train” nó!”

   Nàng vẫn cứ thắc mắc về một bên ngón chân bị cụt đến gần 2 đốt của con két tên Joshua mà Duy vừa mua về. Hương giao hẹn với con trai:

-“Con chơi, con phải ‘take care’ nó đó!”

-“Mẹ đừng lo! Con lo cho nó mà!”

-“Tại sao con biết là nó biết nói sẵn? Nó nói tiếng gì?”

-“Chủ nó là một bà Mỹ, vậy chắc nó chỉ biết tiếng Mỹ!”

   Duy lại nhìn mẹ cười, nụ cười của cậu thanh niên mới lớn thật tươi và thật dễ mến.

-“Bà ta già phải vào nursing home nên mới gửi tiệm bán. Con mua rẻ lắm!”

   Hương không nói gì mà chỉ lo con két làm bẩn nhà. Duy nhốt Joshua trong phòng ngủ và căn dặn mẹ cùng mọi người trong nhà đừng mở cửa phòng sợ Joshua bay mất. Nhốt nó vào lồng thì nó không chịu, nó sẽ chết! Hương than thầm trong bụng:“Tại sao nó không chơi con gì khác cho sạch sẽ, dễ trông coi!” Nên ngay từ phút đầu Joshua có mang lại sự chú ý của Hương, nhưng thiện cảm thì không! Nhưng chiều con, nàng cũng không cằn nhằn thêm.

   Từ đó trong nhà nàng có một “tù nhân” là con két xanh tên Joshua. Cửa phòng Duy lúc nào cũng khép, trừ khi có ai trong phòng. Cả nhà cũng chẳng mấy khi thấy mặt con Joshua, nên nó có đó mà cũng như không có. Thỉnh thoảng Hương mới thấy nó kêu chứ chưa hề thấy nó nói! Nhiều lần nàng định hỏi con xem con két đã nói những gì, rồi thương hại Duy lại thôi.

   Một hôm, Hương mở cửa vào phòng Duy. Con Joshua đang đứng trên thanh gỗ ngang. Đó là một loại chuồng chim nhưng trống cả bốn phía và chỉ đơn sơ có một thanh ngang làm chỗ đứng suốt ngày đêm cho Joshua, hai đầu một bên là thức ăn, một bên là nước uống. Bên dưới có một khay tròn lớn đựng cát để hứng mọi thứ chất dơ do Joshua thải ra. Thấy nàng bỗng nhiên Joshua xòe rộng hai cánh, vươn người lên nhún nhẩy và huýt gió.

   Duy la lên: “Mẹ thấy không, nó huýt gió đấy! Hễ thấy đàn bà, con gái là nó huýt gió! Nó thích mẹ đấy!”

   Hương phì cười, nghĩ bụng: “Nói thì không nói mà chỉ huýt gió!”

   Nàng đến gần, ngắm nghía chú két. Một mối thiện cảm nào đó nẩy sinh. Nàng nghiêng đầu nhìn nó. Nó cũng ngoẹo đầu nhìn Hương như muốn nói một cái gì? Hương bắt đầu chú ý đến sự có mặt của Joshua trong nhà. Từ hôm ấy, mỗi tối, nàng đều vào phòng Duy, ngồi bệt xuống thảm, gần chỗ con Joshua, và thử dạy nó nói vài chữ tiếng .. Việt.

   Vài tháng trôi qua, một chữ tiếng Anh Joshua cũng không nói chứ đừng hòng gì đến nửa chữ tiếng Việt! Nhưng cứ mỗi lần thấy Hương là nó huýt sáo và vươn cánh làm đẹp. Nàng cũng thấy vui vui và dần dà quên mất đến chuyện là con két này không biết nói và đành chấp nhận nó như thế!

   Duy đi mua một lô sách về nghiên cứu và tuyên bố với mẹ: “Joshua chắc bị ‘shock’ nặng nên nó không nói nữa!”

   Và rồi câu chuyện của chú két xanh Joshua tưởng chỉ có vậy!

   Cho đến một hôm, Hương đến tiệm Pet Shop, nơi Duy đã mua con két, để mua thức ăn cho Joshua. Bà chủ tiệm là người Việt, rất niềm nở khi thấy người đồng hương. Bà ta chỉ dẫn cặn kẽ loại thức ăn nào hợp cho két, nuôi dưỡng ra sao…

   Trong câu chuyện trao đổi, Hương chợt hỏi:

– “Thường những con bà bán ra mà có giấy tờ khai sinh, bà có lưu lại bản nào không?”

– “Có chứ ạ! Chúng tôi còn giữ lại tên và địa chỉ người bán, người mua, đủ hết”

– “Con trai của tôi mua một con két ở đây tên Joshua, chân nó hơi có tật..”

   Bà chủ tiệm nói ngay không đợi Hương nói thêm:

– “Joshua! Tôi nhớ chứ! Một bà già Mỹ đã nhờ tôi bán khi bà ta phải vào nursing home. À! Cậu đó là con bà đấy ư?”

– “Vâng, đúng đấy! Bà có trí nhớ tốt quá!”

– “Cậu con bà có thích con Joshua không?”

– “Chúng tôi quý nó lắm… có điều sao nó chẳng biết nói gì cả?”

– “Có trường hợp như vậy xảy ra khi con vật bị sống xa chủ nhân của nó. Nhưng nhiều khi chỉ một thời gian nó quen với môi trường mới lại nói như két ngay ấy mà!”

   Hương chép miệng:

– “Cả hơn một năm rồi, đâu thấy nó nói gì đâu! Nó chỉ biết huýt sáo và kêu thôi!”

   Bà chủ tiệm nhún vai, không biết phải trả lời thế nào trước sự than phiền của người khách. Hương trả tiền đi ra, nhưng nghĩ sao nàng lại quay trở lại tìm người chủ tiệm:

– “Bà có địa chỉ của bà cụ già trong nursing home, chủ trước của Joshua không?”

– “Có chứ, để tôi lấy! Trừ phi bà ấy chết hay đổi chỗ thì chịu thua!”

   Bà ta tìm một lúc rồi mặt tươi lên, hí hoáy viết vào tờ giấy đưa cho Hương:

– “Chúc bà may mắn!”

   Cầm tờ giấy trong tay Hương không biết mình sẽ làm gì? Vào gặp và thăm bà lão, nói chuyện về con két tên Joshua hay đưa Joshua vào thăm chủ cũ? Để làm gì? Nàng cũng chẳng hiểu tại sao những ý nghĩ đó lại đến trong đầu và rồi cứ lẩn quẩn ngày này sang ngày khác.

   Một ngày Chủ Nhật cuối tuần, Hương và Joshua tìm đường vào nursing home mang tên là Pine Haven. Chưa bao giờ đặt chân vào một nursing home nào cả nên Hương cũng hơi tò mò. Nơi đây dù không xa nhà thương Memorial bao nhiêu nhưng nằm khuất trong một con đường cụt yên tĩnh rộng rãi, nhiều cây cối bao bọc chung quanh, có cả vườn cảnh cho người đi dạo tạo một cảm giác thật an bình.

   Hương nhìn xuống tờ giấy, lẩm nhẩm tên bà lão: “Alice Park! Alice Park!”

   Joshua đậu trên vai Hương có vẻ thích thú khi được ra ngoài. Nó kêu những tiếng trong cổ họng nhịp theo với bước chân Hương tiến dần vào khuôn viên nursing home. Một vài người già ngồi trên xe lăn, phía sau có y tá đẩy. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Hương là những khuôn mặt già nua bệnh hoạn, bạc thếch theo với thời gian! Những khuôn mặt trắng nhờ nhờ với làn da trắng xanh không còn sinh khí, hay những gương mặt da màu đã sạm lại và teo tóp!

Những đôi mắt u uẩn, hay những cái nhìn mông lung vào một cõi nào xa xăm! Như thể tất cả đang sống trong một thế giơi riêng biệt, mà những ngôn từ; động tác cử động cũng theo một cách thế khác. Nhịp sống nơi đây, chắc chắn không giống như nhịp sống bên ngoài kia!!!

   Người nữ tiếp viên ngồi ngay cửa vào, ngửng lên nhìn Hương mỉm cười chào hỏi. Hương hỏi ngay:

– “Tôi muốn vào thăm bà Alice Park. Chẳng hay bà ấy ở phòng số bao nhiêu hả cô?”

   Cô gái cắm cúi giở sổ tìm rồi nhoẻn miệng cười thật xinh:

– “Dẫy A. Phòng số 210. Bà đi thẳng vào trong, rồi quẹo trái; đến gần cuối hành lang là đúng chỗ đấy.”

– “Cám ơn cô nhé!”

   Cô gái nở nụ cười thay cho lời nói. Joshua bỗng huýt gió vang dội, làm cả Hương lẫn cô gái phải bật cười.

– “Nó tên gì vậy bà?”

– “Joshua!”

– “Hi Hoshua! Hi!”

   Joshua chỉ nhìn cô gái và tiếp tục huýt sáo một cách thích thú! Cô ta còn giơ tay vẫy vẫy nó. Hương lại nhớ đến lời Duy bảo: “Nó thích đàn bà, con gái Mẹ à!”  Mà có lẽ thế thật!

   Nàng và Joshua theo lời chỉ dẫn của cô gái. Bên trong cũng đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng thoang thoảng mùi hôi, mùi khai quyện lấy mùi thuốc sát trùng! Dọc hành lang, bóng những cô y tá lên xuống nườm nượp. Đi ngang những căn phòng mở rộng cửa. Hương nhìn thấy những khổ ải của thân phận con người, mà bệnh hoạn là một trong những thứ làm biến đổi người ta nhanh nhất!!!

   Không giống nhà thương, mỗi phòng được trang trí một cách khác, theo với ý thích của người bệnh hay người thân. Hương đi rất chậm để quan sát. Đầu giường những người bệnh hầu như đều có hình ảnh của một cuộc đời bên ngoài kia, mà đã có một lần họ đã sống qua! Chút kỷ niệm hay chỉ là một nhắc nhở về mối liên hệ sao đó, để người bệnh đỡ thấy lẻ loi, cô- độc chăng???

   Rẽ sang mé trái, Hương thấy ít y tá hơn và mùi hôi cũng giảm đi nhiều, hầu như không thấy mấy. Hương lẩm nhẩm trong đầu tìm số 210. “À! Đây rồi!”, nàng nhủ thầm. Phòng số 210 cũng không khác những phòng kia bao nhiêu, và theo bảng tên ở ngoài thì bà Alice Park nằm bên mé trong, sau tấm màn kéo màu xanh nhạt. Giường bên ngoài không thấy người dù rất nhiều đồ đạc. Hương vào bên trong.

   Đằng sau tấm màn, một bà lão tóc trắng phau, uốn quăn thưa thớt, đang ngồi dựa soải chân trên một xe lăn. Hai bàn tay bà trắng bệch, và trong suốt với nhiều đường gân xanh tím chằng chịt. Cả hai bàn tay bám lấy hai thành xe lăn. Nghe tiếng động bà ta nhìn lên. Đôi mắt nhỏ xíu bỗng mở to lộ hai tròng con ngươi màu xanh đá nhạt lờ mờ như được dấu sau một bức phim mỏng. Cái miệng mỏng dính không còn thấy rõ mầu môi bỗng hơi há ra. Mắt bà ta như dán chặt vào con két trên vai Hương. Đôi bàn tay bà lão đang bám lấy thành xe lăn bỗng buông ra và run rẩy, giật liên hồi!

   Tất cả những biến chuyển đó chỉ xảy ra trong vòng vài giây ngắn ngủi của thời gian đang cô đọng trong căn phòng chật hẹp, mà Hương là người nhìn thấy rõ nhất. Nàng chưa kịp lên tiếng chào hay hỏi han xem bà lão có đúng là bà Alice Park hay không, nhưng Joshua đã nhanh hơn nàng. Nó bay sà đến đậu vào lòng bà ta và chợt kêu lên:

– “Love ya, Mama! Love ya, Mama!”

   Từ tiếng kêu đột ngột. Không! Phải nói là tiếng nói đột ngột thoát ra từ Joshua chợt như một tiếng ngân, mà sự vang dội cũng như cái tha thiết kéo dài run rẩy trong cái sẽ sàng làm cho sự tĩnh lặng đọng trong căn phòng chợt vỡ tan! Những đường nét cứng nhắc mỏi mệt trên khuôn mặt già nua của bà lão, dường như hồi sinh theo với cái nhếch mép, há miệng mà những tiếng nói vẫn còn bị nhốt kín sâu thẳm trong tận cùng cổ họng, hay trong sâu thẳm của trái tim héo hon? Từng thớ thịt trên mặt bà lão giật nhẹ, đôi mắt cố mở to nhìn Joshua. Môi bà lão run run, mà vẫn không tạo nên được một âm thanh nào! Chỉ có đôi mắt chớp khẽ!!! Riềm mi dưới đã ngả sang màu xám bạc, chợt đậm màu hơn theo với giòng nước mắt đang tù từ lăn xuống!!!

Joshua hai chân bấu vào áo bà lão, vươn cổ, dùng mỏ ngoạm vào áo bà ta để trèo lên cho gần với khuôn mặt bà lão. Nó lại kêu lên, vẫn cái giọng đó:

– “Love ya, Mama! Love ya, Mama! Joshua love ya!”.

   Không hiểu trong tiếng kêu thống thiết kỳ lạ đó có gì mà Hương thấy lồng ngực mình thắt lại! Bởi vì nàng không chỉ nhìn thấy, chỉ nghe, mà còn cảm nhận được cái tình yêu giữa Joshua và chủ cũ của nó như phút chốc nàng biến thành bà lão ngồi trên xe lăn kia, cũng chẩy nước mắt đón nhận lời nói yêu thương và cũng thấy lòng rạt rào những cảm xúc kỳ dị! Làm như thế gian này, chỉ có một tình yêu và cả hai thực sự thuộc về nhau, như một nửa mảnh đời này tìm lại đúng nửa mảnh đời kia và ráp lại khít khao thành một khối duy nhất! Không có gì có thể chia lìa!!! Joshua ở trong bà lão và ngược lại. Bà lão nhìn trong Joshua và thấy tình yêu của mình. Bà ta lắp bắp đôi môi, nhưng không thành tiếng. Khuôn mặt bà lão bỗng tươi nhuận hẳn lên! Tình yêu, sự hiện diện của Joshua đã mang lại mạch sống cho bà! Và tình yêu đó tràn ngập căn phòng nhỏ. Joshua và bà Alice không còn biết đến sự có mặt của Hương.

Joshua vùi cái mỏ cứng nhắc của nó vào cổ bà lão, mắt nó lim dim như tận hưởng một sự trao gửi thiêng liêng nào đó mà chỉ có nó và người nhận hiểu được!!! Mãi, bà lão mới tìm lại được tiếng nói của mình. Giọng bà yếu ớt và thanh tao khi đưa hai tay vuốt ve Joshua:

– “I love you too. Joshua! Mama love you!”

   Con Joshua kêu lên những tiếng nho nhỏ trong cổ họng, và cứ để yên cho bàn tay bà lão vuốt trên từng mảng lông của nó. Những ngón tay nhăn nheo, xương xẩu kia như một cây đũa thần làm Joshua biến đổi hẳn. Nó không còn là con két xanh đứng hai chân trên thanh ngang, suốt ngày cú rũ trong căn phòng đóng kín cửa. Nó không còn là tên tù bị giam lỏng trong bốn bức tường kín ở nhà Hương. Joshua lại nói với bà lão:

– “He hurt me!”

   Bà sờ lần trên ngón chân khuyết tật của Joshua như thương cảm rồi ôm Joshua vào lòng:

– “My poor baby! He’s gone! He’ll not hurt you anymore! Not anymore baby! He’s gone, baby! Do you miss me, Joshua???”

   Joshua lập lại y hệt như vậy:

– “Do you miss me, Joshua?”

   Bà lão bật cười:

– “No! Do you miss me, Mama?”

   Nó lại lập lại vẫn với giọng lảnh lót:

– “No! Do you miss me, Mama?”

   Tự dưng Hương cũng cười theo. Lúc ấy bà lão mới để ý đến sự có mặt của nàng trong phòng. Tay vẫn ôm Joshua, bà ta nheo mắt nhìn Hương:

– “Cô mang Joshua đến đây?”

   Câu hỏi này thay cho câu hỏi “Cô là chủ mới của Joshua?”. Có lẽ bà Alice vẫn xem như chỉ có bà là chủ của Joshua. Và bất cứ ai đó đến sau bà, chỉ là người thay bà săn sóc nó mà thôi! Hương thấy ngay điều này, nên nàng chỉ mỉm cười và đáp gọn:

– “Vâng!”

   Hương cũng chẳng tự giới thiệu mình là ai, mà bà lão cũng chẳng hỏi tại sao nàng lại biết tìm đến đây! Tự dưng nàng cảm thấy như sự có mặt của mình ở đây là thừa thãi, nên Hương lẳng lặng bước ra ngoài khi thấy bà Alice lại quay sang Joshua thầm thì những gì nàng nghe không rõ.

   Nàng đi dọc theo hành lang ra ngoài đến sân sau. Chẳng ai hỏi gì, mà cũng chẳng ai để ý đến ai. Hương tìm một băng ghế dưới gốc cây. Bây giờ đã là tháng Mười. Trời đã dịu hơn. Nắng vẫn rực rỡ như những ngày hè, nhưng sao lại mát hơn? Có lẽ mùa Thu đã đến ở đâu đó, và đang bứt dần những chiếc lá ra khỏi cành! Một đành đoạn chia ly tất nhiên!!! Nàng dựa lưng vào băng ghế, nhìn những chiếc lá khô lao xao trên đỉnh đầu; rồi lìa cành! Có những chiếc lá còn tiếc nuối, bay lượn vài vòng trước khi rơi chạm mặt đất! Có chiếc rơi thật nhanh chúi đầu lao xuống! Có chiếc vẫn run rẩy, không chịu lìa cây. Và những chiếc lá còn lại trên cây, đang nhìn lên trời xanh trên kia hay nhìn xuống mặt đất, để tiếc thương thay cho những chiếc lá đã bỏ đi trước!!! Nhưng có một điều chắc chắn, những chiếc lá còn lại trên những tàng cây kia; nhìn thấy được nỗi ngậm ngùi trong nàng ở ánh mắt không còn trong nữa! Cuộc đời, con người, và những tương quan trong đời sống! Tình yêu! Nỗi chết! Rồi cũng chỉ như thế thôi!!!

   Và rồi, Hương lại nghĩ đến hình ảnh trong căn phòng nhỏ sau lưng nàng: Joshua và bà Alice. Bà lão còn bao nhiêu thời gian để nói câu:-”I love you too! Joshua!”, còn bao nhiêu thời gian nữa để ngập chìm trong yêu thương ấy???

   Joshua? Thời gian của con két xanh với những riềm vàng, đỏ, cam rực rỡ, là bao xa??? Nhưng có lẽ chắc chắn lúc này, cả bà lão và con Joshua đều chỉ biết đến cái hạnh phúc trân quý tìm lại được nhau! Có nhau! Cho dù thời gian đang trôi qua và ngày mai, ngày hôm sau nữa! Và những ngày kế tiếp, có còn đến nữa hay không!!!

   Nàng ngồi giữa cảnh trời bao la trong vắt trên cao kia trong những suy tưởng miên man. Thời gian qua bao lâu rồi? Hương nhìn đồng hồ: “2:30 chiều!” Nàng đã ở chỗ này lâu đến thế kia à? Đã đến lúc phải đưa Joshua trở về! Joshua phải trở về căn phòng của Duy, và trở lại làm tù nhân trong một nơi chốn với đầy đủ thức ăn, nước uống! Chỉ thiếu bàn tay của bà Alice!!!

   Khi Hương trở lại căn phòng số 210, cảnh tượng âu yếm lúc trước không còn nữa! Joshua đang đậu trên thành giường! Còn bà Alice nằm trên giường với bao nhiêu dây nhợ gắn vào người! Nào là dây truyền thuốc, dây truyền thức ăn! Trông bà ta có vẻ mệt mỏi!!! Cô y tá da mầu có nụ cười xinh tươi, nhìn Hương rồi hỏi:

– “Cô quen thế nào với bà Alice?”

   Hương chỉ con Joshua:

– “Qua con két này!”

– “Thật à?”

   Câu hỏi tuy ngắn, gọn nhưng bao hàm nhiều câu hỏi khác nữa. Hương phải giải thích sơ sơ:

– “Bà ta là chủ trước của nó. Tôi đưa nó đến thăm chủ cũ. Vậy thôi!”

– “Cô tử tế quá!”

   Lần đầu tiên, từ lúc gặp gỡ, Hương thấy bà Alice nhìn nàng lâu hơn. Ánh mắt dịu xuống.

   Hương đến gần Joshua và gọi, nàng làm như nó hiểu:

– “Joshua! Đến lúc phải đi về..”

   Hình như nó biết nên cứ chần chờ. Mấy cái móng bấu chặt xuống thành giường, trừ ngón khuyết tật. Hương đến gần, nó càng nhích đi xa! Mấy cái móng vẫn quặp chặt như một câu trả lời rõ ràng. Hương không biết phải làm sao! Joshua không huýt sáo như mỗi lần Hương gọi nó nữa! Như đọc được tất cả những ý nghĩ trong đầu của cả Hương và con Joshua, bà Alice gọi nó:

– “Joshua!”

– “Mama!”

   Cô y tá thích thú kêu lên:

– “Ồ nó nói được!”

– “Go home, Joshua! Go home!”

   Nó lập lại lời bà Alice:

-“Go home! Go home!”

   Nhưng vẫn không nhúc nhích, Joshua lại kêu lên:

– “Love ya, Mama! Go home!”

   Bà lão nhấc khẽ cánh tay đầy dây nhợ và xòe lòng bàn tay trắng bệch. Joshua bay lại, đậu trong lòng bàn tay bà lão. Nó dụi cái mỏ vào lòng bàn tay bà. Hương thấy bà lão nhắm mắt lại, không phải để đón nhận tình yêu như trước đây, nhưng như một sự cam chịu hay một sự chống trả rất âm thầm nào đó. Bà lão lại nói với Joshua bằng một giọng thật nhỏ, như chỉ để cho mình nó nghe và hiểu:

– “Go home, baby! You cannot stay here. I have no home now! Go, baby! … Go…”

   Hương chợt thấy mi mắt nàng nặng trĩu. Quay sang người y tá, Hương hỏi một câu hỏi mà trong thâm tâm nàng cho rằng đây chỉ là một câu hỏi cầu may:

– “Nó ở lại với bà cụ được không cô?”

   Cô y tá lắc đầu:

– “Ở đây toàn là người bệnh, luật không cho phép người bệnh nuôi thú vật trong này.”

   Hương lặng im!!!

   Và Joshua. Hình như hiểu được tất cả những gì bà Alice nói gọn trong vài chữ đó, hay chỉ là những cảm nhận thiêng liêng giữa Joshua và bà Alice! Chỉ giữa con két xanh và bà lão!!! Nó bay lên và đậu vào vai Hương, nhưng vẫn kêu lên:

– “Love ya Mama!”

– “I love you too, Joshua!”

   Mở mắt ra, nhìn Hương, bà lão ngập ngừng nói:

– “Cám ơn cô… đã mang Joshua đến đây! Thỉnh thoảng nếu được gặp nó thì… vui lắm!!!”

   Hương đến gần, nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà Alice, và nhẹ nhàng nói:

– “Mỗi tuần tôi sẽ mang Joshua vào thăm bà!”

   Bà Alice chợt nhắm mắt lại. Bà ta ngập ngừng:

– “Cám ơn cô! Cám ơn cô nhiều lắm!!!” .

   Nàng đi ra, và không nỡ quay lại nhìn căn phòng nhỏ có bà lão gầy gò với bao dây nhợ quanh người đang nằm đếm thời gian!!!

   Có tiếng thổn thức mơ hồ không biết là của ai? Của bà lão? Của Joshua? Hay của chính Hương ???

Mặc Bích




KIỀU MỸ DUYÊN: LẮNG NGHE LÀ MỘT YẾU TỐ ĐỂ THÀNH CÔNG




Đêm Sương Hà Nội CAO MỴ NHÂN

Đó là buổi cuối cùng bố tôi cho cả nhà đi Hà Nội thăm họ hàng và nhất là nhìn lại cái thành phố trước đó đã khắc sâu trong lòng ông khá nhiều kỷ niệm.

Bấy giờ (1954), ông đang làm phó giám đốc phi trường Cát Bi Hải Phòng nên thường đi Hà Nội chơi, tất nhiên cho cả nhà theo, vào những ngày Chủ Nhật.

Từ Hải Phòng về Hà Nội có 100km, chạy trên quốc lộ số 5 chỉ qua thành phố Hải Dương, ghé nhà chú ruột tôi ở số 1 phố Hàng Đồng rồi lên Hà Nội như chương trình đã định.

Bố tôi xuất thân từ trường Bưởi, sau đổi thành Chu Văn An, từng làm giám đốc sở máy đèn kiêm sở máy nước ở Sa Pa, nơi chị em tôi ra đời, để bây giờ các nhóm bạn văn nghệ cứ gọi đùa tôi là Mỵ Sa Pa.

Trở lại buổi cuối cùng về Hà Nội, sau đó xuống lại Hải Phòng rồi di cư vào Nam 25 – 9 – 1954 trên chiếc phi cơ nhỏ hai hay bốn cánh quạt, không biết có phải là DC3, DC4 dân sự không.

Chỉ hơn 10 năm sau, tôi đã bay như bươm bướm trên trời khi làm công tác xã hội trong Quân lực VNCH, qua những chuyến bay của nhiều loại phi cơ khác nhau như Cessna, trực thăng, HUIB, C46, C47, C119, C123, C130.

Thậm chí có khi còn phải quá giang L19, L20 đi thả truyền đơn trên vùng xôi đậu để được mau chóng về nhà khi đã xong công tác tiền đồn, lũ lụt, v.v..

Tôi muốn kể quý vị nghe về đêm sương Hà Nội.

Lẽ ra cái ấn tượng này chỉ có ở những quý vị vừa quá cố như nhà văn Mai Thảo hay thi sĩ Cao Tiêu tức cố đại tá Hoàng Ngọc Tiêu, nguyên cục trưởng Cục Tâm lý chiến Quân lực VNCH.

Tôi đoan chắc thế vì tôi không được thân nhà văn trưởng thượng Mai Thảo, nhưng trong văn chương ông có những đêm sương Hà Nội.

Còn thi sĩ đại tá Cao Tiêu là niên trưởng của tôi, đã từng cho tôi xem những bức hình ông hay ông bà chụp ở hồ Gươm Hà Nội.

Gia đình ông bà ở Hà Nội nên đêm sương Hà Nội trong ánh điện đường màu vàng thời Tây thuộc là một hình ảnh rõ nét, nhưng lại mơ hồ vì cái lạnh len vào thân áo lãng tử, giai nhân day dứt lắm.

Bố tôi chắc chắn trọng tuổi hơn nhị vị tên tuổi nêu trên, vì buổi âm thầm từ giã Hà Nội, bố tôi đã 44 tuổi. Số tuổi trung niên hào hoa, phong nhã, hẳn phải đẹp thế nào rồi.

Nhưng thời thượng bấy giờ không phải dấu ấn Mỹ với quần jean áo thun như ngày nay, mà vết tích Tây là bộ đồ vest sang trọng lúc nào cũng kèm cravat, đôi khi còn có áo gilet bên trong, mặc cho đứng thân áo, không hẳn cho ấm áp thôi đâu.

Buổi cuối cùng để lìa xa thành đô yêu dấu như trong bài hát của nhạc sĩ Vũ Thành, bố tôi để gia đình chơi với họ hàng rồi vội vã đi Khâm Thiên cầm trống chầu nghe hát ả đào.

Thế nên sau này khi gia đình đã di cư vô Nam, thủa ban cổ nhạc Bắc phần hát trên Đài phát thanh Sài Gòn với những nghệ sĩ Kim Bảng, Huệ Đăng, v.v. là giờ cao điểm của bố tôi để ông nhớ Bắc Kỳ quốc của ông.

Chúng tôi không được nghe nhạc dân ca đầu tiên ở miền Nam như Tình ca, Thuyền viễn xứ, v.v. của Phạm Duy.

Bấy giờ cả nhà chỉ có một cái radio, không phải như hiện nay ở nhà tôi từ con tới cháu mỗi người một Iphone, Ipad, kể cả tôi, sử dụng tiện lợi.

Thành ai trong nhà cũng có hai món chơi văn minh vừa nêu, mỗi người tha hồ chui vào phòng riêng thả hồn mơ mộng nghe thơ, nhạc theo sở thích của mình.

Nhất là tôi bây giờ còn mặc sức tung hoành coi và nghe HNPD.COM hay HNPD.NET, hầu mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây, để viết thơ tình muộn riêng cho anh… huyễn hoặc tâm tư tình cảm mình.

Chị gái tôi buổi từ giã Hà Nội còn vị thành niên, đứng ở Hồ Hoàn Kiếm, tên khác của Hồ Gươm, còn khóc theo một kỷ niệm bỏ lại.

Có lẽ trong nhà chỉ có tôi là giận bố vì vẫn chưa đưa đi ăn kem ở Bờ Hồ và khi ngồi trên xe traction về lại Hà Nội, tôi đã ngủ khò một mạch.

Qua cầu Thượng Lý cao vời, chợt nghe tiếng bố tôi nói:

Ơ hay, cái con Mỵ này, lúc nào đi xe cũng ngủ mới lạ.

Buổi cuối cùng ở Hà Nội theo như bố tôi diễn tả, ông nhớ nhất cái đêm sương, cũng chỉ để giữ lại trong lòng một kỷ niệm ướt át.

So ra với tôi hôm nay thì bố tôi khổ quá, ông không biết đẩy cái kỷ niệm, hay văn vẻ hơn là cái nỗi nhớ thương xa xót của ông đi đâu, vô một góc khuất nào trong tâm hồn chẳng hạn.

Thế nên bây giờ tôi chẳng cảm thấy ngại ngùng khi viết ra những bài thơ tình tưởng là khốn khổ, hoá rất êm đềm, huyễn ảo, huyền mơ.

Nhất là giữ được hình ảnh anh trong hàng chục tập thơ. Chu choa. Kể ra anh lại giận bây giờ. Anh sẽ lớn giọng: ai cho phép tự tung tự tán tình cảm rứa, mới là lạ lẫm.

Anh bảo ở miền anh, tức miền Trung mộng mơ, không cần cái đêm sương ẩm lạnh như Hà Nội của quý vị, với Huế đúng nghĩa phải kể đêm mưa.

Muốn rõ rệt hơn thì đêm mưa Huế. Có buồn bao nhiêu đi nữa vẫn là những đêm mưa xót dạ ở Hoàng thành…

Mà thôi đừng nói mưa Huế xót xa, day dứt chi nhiều, bởi nghe mưa Huế không thất tình vẫn cứ buồn thương, tuyệt vọng lắm nờ.

Rứa thôi ta bỏ Hà Nội, Huế đi, vô hẳn Sài Gòn để hưởng thụ những đêm say tuyệt hảo, say men bia rượu hay say đắm tình người.

Quả vậy, chỉ ở Sài Gòn mới dám sống thực, yêu hết lòng, cạn liệt tình thơ, vẫn còn nhiều điều kiện để yêu thương rồi chấm dứt, thường đùa là chết bỏ vậy đó.

Quê hương Việt Nam mỗi miền, mỗi thành phố có một sắc thái riêng như đêm sương Hà Nội, đêm mưa Huế, đêm say Sài Gòn.

Với tôi còn có những đêm khí núi hơi rừng mù mịt Sa Pa, thời Pháp còn ghi chú thêm nơi bản khai sinh tôi là xã Xuân Viên, làng Chapa, tỉnh Laokay.

Lý do Sa Pa là làng nghỉ mát của tất cả những ông Tây bà đầm tứ xứ trên đất nước Việt Nam, mỗi năm về an dưỡng.

Nói một cách khác, Sa Pa là làng nghỉ mát ở Đông Dương do Tây thành lập để an dưỡng người già và người bệnh thời Pháp chiếm cứ miền Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 vừa qua.

CAO MỴ NHÂN