Nhà thơ Trường Giang (TT/VTLV 2016)

Nhà thơ Trường Giang.

Sinh năm 1928 tại Bắc Việt Nam
* TRƯỚC NĂM 1975 Sĩ Quan QLVNCH từ năm 1951 đến 1975
* SAU NĂM 1975 :
– Bị ở tù Cộng Sản 12 năm 2 tháng 25 ngày (4,464 ngày)
– Biết sáng tác Thơ từ ngày ở tù Cộng Sản  (30-4-1975)
– Đến Hoa Kỳ năm 1992. – Hiện định cư tại San Jose, California.
– Giải Nhất đồng hạng thi Thơ Hội Tết  QÚY DẬU 1993 tại SAN JOSE CALIFORNiA.
– Đã có thơ đăng trên một số Nhật Báo, Tuần Báo, và Đặc Đặc San tại California và Texas HOA KỲ.

* THƠ ĐÃ IN CHUNG trong các Tuyển Tập :
– Bốn Biển Thơ Chung Nối Nhịp Cầu (1995)
– Một Phía Trời Thơ (1995) – Xuân Thu (1998)
– Một Hướng Đi (2000)
– Hoa Giáp Đông Anh (2000)
– Một Phía Trời Thơ 5 (2002)
– Tuyển Tập Hoa Vàng (2003)
– Thi Văn Viễn Xứ  (2005)
– Hoa Thơ Bốn Phương 1 (2005)
– Thơ Văn Bốn Phương 2 (2006)
– Vui Tuổi Hạc (2007)
– Vịnh Sử Việt Nam (2007)
– Quê Hương Qua Thi Ca Việt Nam (2009)
– Thơ Văn Bốn Phương 3 (2009)

*TỰ XUẤT BẢN : Một Rừng Chính Khí (2000)

truong-giang-1

SĨ  KHÍ  (MỘT  HƯỚNG  ĐI)
1/4-Đấu tranh gian khổ chẳng hoang mang,
Lấy máu mà tô đậm sử vàng.
Giải thoát quê hương bằng nghĩa khí,
Vun bồi đất nước với trung cang.
Trách người luồn cúi như cun cút,
Tôn kẻ hiên ngang tựa phượng hoàng.
Lửa hận ngút trời ghi đáy dạ,
Kết đoàn, giặc Cộng phải tan hoang.
2/4- Kết đoàn, giặc Cộng phải tan hoang,
Già trẻ vùng lên giữ xóm làng.
ẤT MÃO toàn dân mang mũ mấn, (1)
MẬU THÂN cả nước chít khăn tang. (2)
Trui rèn ý chí, lòng như thép ,
Tôi luyện tâm hồn, dạ tựa gang.
Luật tắc đất tuần, nhân có vận,
Diệt thù khôi phục lại giang san.
3/4- Diệt thù khôi phục lại giang san,
Gian khổ bao nhiêu cũng chẳng màng.
Vận hội đắc thời, kèn thổi giục,
Thời cơ đáo hạn, trống khua vang.
Thề phô dạ sắt, trai tranh đấu,
Nguyện tỏ gan vàng, gái đảm đang.
Rực rỡ Quốc Kỳ, Ba sọc đỏ,
Nghìn sau vang dội cõi Viêm – Bang.
4/4- Nghìn sau vang dội cõi Viêm Bang,
Nước bốn nghìn năm rạng sử vàng.
Diệt Mãn kinh hồn phường thảo khấu,
Bình Mông táng đởm bọn sài lang.
Giặc Minh bao độ mang u uất,
Quân Pháp nhiều phen chịu bẽ bàng.
Bón bể, năm châu vang chính khí,
Muôn đời dân Việt tiếng trung cang.
BC THÁNG 8/2003 TRƯỜNG – GIANG
GHI CHÚ : (1) Năm 1975, Việt Cộng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam.
     (2) Năm 1968,Viêt Cộng tấn công toàn bộ các Tỉnh Miền Nam, đặc biệt

              Cố Đô Huế với hàng nghìn người bị chúng chôn vùi tập thể.

 

 

 

Trả Ta Sông Núi

Nước ta tên gọi Việt Nam,
Danh lam Bản Dốc, Nam quan (1) Sông Hồng.
Hoàng, Trường hải đảo phía Đông,
Giặc Tầu cưỡng chiếm của giòng giống Tiên
Bắc Nam ngàn dặm vẫn liền,
Tài nguyên vàng bạc vô biên, muôn đời.
Biển Đông bát ngát trùng khơi,
Mỏ than, tôm cá ngất trời bao la.
Giang sơn cẩm tú, ôi là !!
Núi cao, rừng thẳm ngọc ngà tiếng thơm.
Đồng bằng ruộng lúa xanh rờn,
Bắc Nam một giải giang sơn dặm ngàn.
Khắp nơi núi bạc, rừng vàng, (3)
Bao quanh bờ biển sóng tràn mọi nơi
Hạ Long cảnh đẹp vùng trời,
Hải Phòng trù phú tuỵêt vời thông thương.
Cam Ranh quý địa phi trường, (4) (5)
Quân nhu chuyển vận, liệt cường kết thân.
Nha Trang bờ biển riêng phần, (6)
Đông Tây giao hảo xa gần xông pha.
Hoàng, Trừơng hải đảo bao la,
Thiên thư định phận nguy nga lộc trời.
Vũng Tàu bát ngát trùng khơi,
Giao thương khắp bốn phương trời chứa chan.
Kiến An đất quý như vàng,
Thương trường gom lợi dễ dàng quanh năm.
Miền Nam nhờ nước Cửu Long,
Phù sa tưới bón ruộng đồng nuôi dân.
Hà Tiên cảnh đẹp bội phần,
Xanh um Phú Quốc, trắng ngần Bãi Dương.
Trời ban cảnh đẹp yêu thương,
Vi vu Thạch Động, mù sương Đông Hồ.
Ngư dân trù phú Bãi Nô,
Nước tràn Chông, Phụ, sóng xô Hòn Rùa.
Gió hòa, mưa thuận bốn mùa,
Nhà Thờ, Miếu Mạo, Đình Chùa cao sang.
Việt Nam núi bạc, rừng vàng,
Từ Nam Quan đến xóm làng Cà Mâu.
Kết đoàn trấn ải địa đầu,
Quyết tâm tiêu diệt giặc Tầu xâm lăng…

 TRƯỜNG GIANG.

 

 

 

Xây Dựng Lại Quê Hương 

 

Ba mươi năm sống trong chinh chiến,
Nước Việt Nam tai biến khổ-đau.
Hy sinh từ trước đến sau,
Trời cao khôn sánh, biển sâu khó lường.
Trai tuấn kiệt kiên cường chiến đấu,
Gái anh thư trung hậu đảm đang.
Xả thân bảo vệ xóm làng,
Không ham quyền lợi, chẳng màng công danh.
Trong cuộc chiến nghiêng thành đổ núi,
Quyết một lòng sớm tối hi sinh.
Khi nao đất nước hòa bình,
Khắp Trung, Nam, Bắc kết tình tương thân.
Từ  Cộng Sản vô thần ngự trị,
Cả tập đoàn ma quỷ múa may.
Tác oai, tác quái đêm ngày,
Tàn dân, hại nước, đọa đầy cùm gông.
Khi chúng đã bế bồng lên núi,
Để ăn năn đền tội Mác Lê.
Non sông rách nát trăm bề
Lấy ai dựng lại thói lề Cha Ông ?
Nhà phải có gia phong, nguồn cội,
Quốc Pháp là giềng mối nghìn xưa.
Nhà thờ, Thánh Thất, Đình, Chùa,
Khắp nơi trống gióng, chuông khua vang rền.
Phải bồi đắp vững nền Dân Chủ,
Xây Tự Do thói cũ Rồng Tiên.
Canh nông, Kỹ nghệ ba Miền ;
Giao thông, Thương mại thảy toàn xác xơ.
Khi muốn dựng cơ đồ vững chãi,
Thiếu nhân tài mình phải kết liên.
Muốn xây chắc móng, vững nền,
Dân nghèo, nước yếu hỏi tiền đâu ra?
Đồng hương Việt Quốc Gia hải ngoại,
Nối vòng tay dựng lại quê hương.
Nhân tài, vật lực bốn phương,
Chung lo gây dựng quê hương mạnh giàu
Rồi bốn Bể, năm Châu khét tiếng,
Khách từng đoàn thăm viếng nước ta.
Việt Nam một giải sơn hà,
Bốn nghìn Văn hiến chói loà Rồng Tiên.
Cả dân tộc oan khiên đã hết,
Nắm tay nhau đoàn kết Bắc Nam.
Xây nền Nhân Bản phi phàm,
Tự Do, Hạnh Phúc để làm gương chung.
Việt Nam khét tiếng anh hùng,
Nghìn sau con cháu lẫy lừng vang danh.

TRƯỜNG GIANG.

 

 

 

Xứ Địa Linh Nhân Kiệt

 

Quảng Nam tỉnh : Địa Linh Nhân Kiệt,
Khắp năm Châu đều biết danh xưng.
Bao nhiêu hào kiệt anh hùng,
Thương dân, yêu nước lẫy lừng còn ghi.
Sắc Ngũ Phụng Tề Phi chỉ một, (1)
Bảng Tứ Hùng uy liệt không hai. (2)
Đồng khoa Năm vị đua tài,
Cổ Kim độc nhất còn ai thể ngờ.
Bậc khoa bảng văn thơ trác tuyệt,
Danh vang lừng tuấn kiệt nhường ai.
Chung linh, tú khí anh tài,
Chấn hưng đạo đức, an bài kỷ cương.
Khi đất nước bốn phương tơ rối,
Quyết chuyển xoay rường mối phân minh.
Trần Cao Vân quá bất bình,
Chống Tây vì nỗi dân mình đau thương.
Dân thông suốt luân thường, đạo lý,
Khắp trẻ già ý chí nâng cao.
Phong trào yêu nước hô hào,
Lấy câu Quốc hận đặt vào trong tim
Người người trọng thảo hiền, nghĩa khí,
Thương nước nòi đang bị chia phân.
Quyết phò ấu chúa Duy Tân
Chống xâm luợc Pháp cứu dân thoát vòng.
Trần Quý Cáp uy phong lẫm liệt,
Cùng Cao Vân tiêu diệt ngoại xâm
Uy danh lưu đến muôn năm,
Thái Phiên ý chí cao thâm nghìn trùng.
Đã chống giặc quyết không hàng giặc,
Án tử hình phó mặc trời cao.
Vì dân chịu cảnh lao đao,
Dấn thân dù đổ máu đào xá chi.
Khi đất nước suy vi rường mối,
Sức mạnh nào chống nổi bão giông.
Gươm đao sánh với súng đồng,
Bó tay đành phải quặn lòng thua cơ..
Vì cứu nước giương cờ, gióng trống,
Quyết diệt Tây thỏa mộng Hải Tần.
Khốn thay, khí nhuệ cơ tân,
Súng đồng, bộc phá trăm lần hơn ta…
Mộng diệt giặc dẫu là chưa đạt.
Bọn Lang Xa cũng bạt vía rồi.
Nghìn sau lịch sử tô bồi,
Ghi công Chính khí vùng trời Quảng Nam.

TRƯỜNG GIANG

 

ĂN CÀN NÓI RỠ  42

Người ta nhìn bằng hai con mắt,
Để thấy điều có thật hay không.
Kẻ khôn nói tự đáy lòng,
Dại thì liến thoắng tựa nhòng nói ngay.
Người có học trình bày lẽ phải,
Chẳng nói điều bại hoại nhân luân.
Phải nên uốn lưỡi bảy lần,
Một lời khỏi miệng là cần đắn đo.
Có những kẻ mặt mo trơ trẽn,
Nói điêu ngoa không thẹn lương tâm.
Nhàm tai nghe lũ chết đâm,
Nghe buông lời, đã tím bầm ruột gan.
Quê tôi có tên gàn bố láo,
Toàn buông lời vô đạo, bất nhân.
Nói xuôi, nói ngược xa gần,
Đặt điều, bia truyện trăm phần trái ngang.
Y cũng thuộc vào hàng cấp chức,
Đã một thời nẩy mực cầm cân,
Đòi phen bố đức, thi ân,
Một lời khỏi miệng là dân “TÉ ĐÀI”
Khi vận nước chẳng may tan rã,
Hắn ở tù phải nhá bo bo.
Sắn khoai từng bữa không no,
Khổ sai đầy ải, giày vò ngày đêm.
Nay y đã ấm êm, đầy đủ,
Lại quên câu nhiễu phủ giá gương.
Những người tranh đấu kiên cường,
Thì y chửi đổng : “điên cuồng, cực đoan”.
Nằm một xó vu oan, giá hoạ,
Viết lăng nhăng, bậy bạ đáng khinh.
Nòi bất nghĩa, giống lưu manh,
Thay hình, đổi dạng quên tình nước non.
Vì canh cặn bán hồn cho quỷ,
Bởi cơm thừa chẳng nghĩ trước sau.
Cam tâm gục mặt, cúi đầu,
Ra luồn, vào cúi để cầu lợi riêng.
Tình Dân Tộc thiêng liêng gác bỏ,
Nghĩa đồng bào xếp xó một nơi
Đen đầu cũng kể là người,
Uống ăn chi tổn cơm trời nước sông!!
Đã làm điếm nhục cha,ông,
Sao không chết quách cho xong,ĐỒ GÀN !!!!!

TRƯỜNG GIANG




Nhà Thơ Huệ Thu (VTLV)

Nhà Thơ Huệ Thu

hue-thu-2  huethu-1hue-thu-4

 

Sinh trưởng tại Đà Lạt, Định cư tại Hoa Kỳ từ năm 1980
Hiện sống cùng gia đình tại San Jose, California
Làm thơ từ thời trung học với bút hiệu Trần thị Tiên, Trần Bích Tiên
Hiện giữ mục Thơ Ðường trong tạp chí Nguồn
Có bài trên các tạp chí tại hải ngoại:t ạp chí Thơ, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học , Hợp lưu….
Hiện cộng tác với các trang điện báo: vantuyen.net – quantho.net – saimonthidan.com- trasonthidan.net.
Tác phẩm đã xuất bản:
– Thơ Huệ Thu 1987
– Sương Chiều Thu Đọng (thơ, 1991)
– Mở Ngõ Phù Vân (thơ,1995)
– Lục Bát Huệ Thu (1997)
– Đầu Non Mây Trắng (thơ, 1998)
– Tứ Tuyệt Huệ Thu (thơ,1998)
– Khúc Ca Quy Ẩn (thơ, 2005)
– Hương Mùa Cũ (thơ Đường in chung, 2006)

Sắp xuất bản :
(nhưng đã post trên saimonthidan.com & quantho.net)

Khúc Ca quy ẩn I gồm 400 câu lục bát
Khúc Ca quy ẩn II gồm 400 câu thất ngôn
Cõi thanh bình (Ðầu non mây trắng III) 432 c âu lục bát
Cuối biển mù sương (Ðầu non Mây Trắng II) 424 câu lục bát
Thơ Chuyển thể huệ thu (từ một bài chuyển đủ thể loại)
Ðường thi của huệ
Thơ Ðường Xướng họa

Những tác phẩn của nhà thơ Huệ Thu:

2ht3ht4htsuong-chieu


Hôm Nay Tôi Làm Bài Thơ Này Tự Do

1,

Việt Nam!  Việt Nam!
chưa một lần tôi hô vang
tên Đất Nước tôi với lòng hân hoan trìu mến!
Tôi là người vượt biển
Ngay xưa tôi vượt biển
Đại Dương!  Đại Dương!
biết bao nhiêu thương biết bao nhiêu hờn biết bao nhiêu oán
nhất là những tháng tù nằm ở đảo Côn Sơn!
Việt Nam yêu thương!  Việt Nam yêu thương!
tôi ít nhất có một lần đứt gánh
tôi từng cỡi áo đắp cho con tôi kẻo lạnh
tôi từng nhịn cơm cho con tôi no lòng…
Việt Nam núi sông…nước mắt hai dòng quá ít!

2,
Năm 1979, lần thứ hai, ra tù, tôi đi, đã đến
mấy mươi năm làm én liệng quê người
Việt Nam tôi mây trôi Việt Nam tôi mây trôi…
tôi phải sống để con tôi được sống
con tôi thì cười đâu thấy mẹ khóc đêm đêm?
Ở đây cuộc sống bình yên
tôi có việc làm, con tôi có nơi để học
tôi vẫn nghĩ về Quê Hương khổ nhọc
Má tôi chờ có một ngày tôi về…
Má tôi chờ và Má tôi đã đi
Đi vĩnh viễn đến với Ba đã nằm ngoài nghĩa địa
Việt Nam Việt Nam hỡi ơi biển lệ
Đà Lạt hỡi ơi tôi mất hết rồi!

3,
Suốt ba năm nay, tôi đứng, tôi ngồi
rất ít khi bởi tôi thường nằm liệt chiếu
tuổi ngày một cao chưa có một thời niên thiếu
hồn nhiên như con tôi, quả thật rất buồn
cũng tại vì mình có một Quê Hương
cũng tại vì mình có rất nhiều người thương ở đó!
có những chiều tự dưng trời trở gió
tôi nghĩ đến Má tôi, nghĩ đến bà con
thèm một chén cơm, thèm một bát bún
thèm nghe tiếng dép động hiên nhà
Má ơi con vẫn còn xa…

4,
Trời không cho ai trẻ mãi, ai cũng phải già
nước non tôi bốn mươi năm hơn rồi sao ai cũng thèm thời con nít?
Chưa một người lớn khôn
Chưa một chút buồn nào phai nhạt
phải chăng tại vì mất mát?
Tôi mất Ba tôi trong Chiến Tranh
Tôi mất Má tôi trong Hòa Bình
Tôi mất ngay cả chính mình Tuổi Hồn Nhiên Mơ Mộng
vậy mà tôi phải sống
Tôi muốn con tôi thành người
có nụ cười khi gặp bè gặp bạn!
Tôi thèm một nụ hôn đặt trên vầng trán
của Ba tôi, chẳng hạn, mà…Ba ơi!
đó, thuở tôi thiếu thời…

5,
Cả tháng nay hình như tôi đau nặng
tin quê nhà gửi qua cay đắng…
– người chết ở nhà thương bó chiếu chở về bằng xe gắn máy
– người chết ở trên đường dịp lễ nghỉ về thăm nhà
– người chết vì hút cần sa cho đỡ đói
– người chết không kịp nói…tôi là dân oan!
Tin Trịnh Xuân Thanh giàu nhờ tham ô, trốn mất rồi
Tin về cá chết …tới bây giờ vẫn còn cá chết
Tin Formosa đền cho ngư dân năm trăm triệu đô la làm ô nhiễm môi trường
nhưng được nhà nước trả hoàn gần một tỉ đô la tiền thuế
Dân được gì đâu giữa thời dâu bể!
Ở Yên Bái có người bắn lầm hai cán bộ cốt cán rồi tự sát
Nguyễn Phú Trọng, Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Fuck, Nguyễn Thị Kim Ngân mừng chết hụt!
Độc Lập, Tự Do, Ấm No, Hạnh Phúc
bọn Tàu ô lúc nhúc đầy đường
Đà Nẵng, Hải Phòng, Nha Trang dễ thương xí xào xí xố…
Bí Thư Thanh Hóa không xấu hổ khi trút tiền cho gái dài chân…
Đại Thắng Mùa Xuân bốn mươi năm hơn đầy tiếng oán tiếng hờn!
Việt Nam Việt Nam Đau Thương Đau Thương!

6,
Tôi biết làm Thơ Đường
Tôi biết làm thơ Lục Bát
Tôi biết làm thơ tám chữ…
Nhưng hôm nay, tôi làm bài thơ này, Tự Do
Tôi cảm ơn Trời đã cho tôi gần hai phần ba đời người được No được Ấm
Tôi san sớt cho quê nhà nhiều lắm, cảm ơn Phật Trời, con vẫn còn dư!
Tôi ước tôi mơ Con Tôi Đọc Bài Thơ Này Tiếp Thêm Sức Mẹ
lau cho mẹ giọt lệ ngày Mẹ lìa đời …!

huệthu




Nhà thơ Song Linh (TT/VTLV 2016)

Nhà thơ Song Linh 

song-linh

Tên : Vũ Đình Long
Bút  hiệu: Song Linh
Sinh năm Kỷ Mão, Bắc Ninh.

Làm thơ từ năm 1960 tại Sài Gòn
Cộng tác với một số báo như : Chiến Sĩ Cộng Hoà, Tiền Phong, Hành Động, Chính Luận, Báo Sống, BA Quân, và Hải Quân.

1975 đi tù
1993 qua Mỹ sang tác lại
1995 dến 2005 phụ trách Tổng Thư Ký Văn Thơ Lạc Việt.
Tác phẩm : Thân phận và tình yêu (thơ) – Nửa đời còn đó (thơ) Ngoài ra còn cộng tác chung với nhiều tác gỉa. Nhóm Cụm Hoa Tình Yêu – Cội Nguồn –  M.P. thi tập 1,2,3,4 v..v..
01  DVD thơ phổ nhạc – 01 CVD – 03 CD Thơ Phổ.
HIện là cố vấn cho Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.

——————————————————————————————–

Dáng Xưa

Riêng tặng Áo Tím.
Gặp người cứ tưởng hoa xưa
Cũng nghiêng tóc xõa chiều vừa sang đông
Lời ai ngọt ấm bềnh bồng
Đưa ta lạc chốn cõi bồng đêm nao
Bên tôi em tựa vai vào
Bóng đêm mờ nhạt đêm chàovô ngôn
Bây giờ vàng là hoàng hôn
Tóc đôi sợi bạc nửa hồn thương đau
Bên em áo sợi hoa cau
Tay thon tháng chạp cõi sầu nở hoa
Chiều về dáng nhỏ kiêu sa
Thêm say tình vội … hồn ta cõi hồng
Cuộc đời bên có bên không
Tình ta theo bong… chất chồng nỗi đau
Đêm về trải mộng canh thâu
Mi cong cánh phượng … Gối đầu tâm tư
Người về thơ cũng tương tư
Cám ơn chiều mộng tạ từ dáng xưa.

Song Linh
 San Jose 12/2015

Có  Phải TìnhTa Là Khói Sương

Có phải tình yêu là nỗi đau.
Đời hoa từ đó khóc thương sầu
Làm sao và được trăng vừa khuyết
Xin tạ ơn em buổi hẹn đầu

Có phải em về trong giấc mơ
Bước chân nhè nhẹ dưới trăng mờ
Tóc em gói cả hồn thu lại
Mà giọt sương mai mở cánh chờ

Có  phải mùa xuân trong mắt nai
Đường xa dáng mộng , nét trang đài
Gặp nhau sao lại buốn như lá
Phố mở vòng tay, đất thở dài

Có phải tình ta như khòi sương
Mà anh  còn đứng đợi bên đường
Ngày mai mốt nọ đâu là thế
Gió buị mưa nào đong nhớ thương

Anh mãi để lòng mở cánh hoa
Chúa về nói nhỏ… Thế nhưng mà
Anh dang tay với… cầu chư phật
Thượng đế mỉm cười… thôi thứ tha

Song Linh
2016

Tình Khúc 1998

Tháng giêng đội nón vào đông
Tôi xa thành phố tay không sương mù
Tháng hai nhận một lá thư
Quê hương xuân đến lòng nhừ xót xa
Tôi vế nhận việc thángg ba
Mùa xuân còn đó chan hòa nắng tơ
Tháng tư một phút tình cờ
Em qua phố chợ không ngờ gặp nhau
Nhìn em không dám nhìn lâu
Sợ cơn đau đến bắc cầu tháng năm
Hạ về tháng sáu qua thăm
Cơn mưa tháng bẩy chỗ nằm có đôi
Tháng tám tình đã lên ngôi
Ngực thơm bông bưởi gọi mời đăng quang
Đâu ngờ tháng chín vừa sang
Tim tôi khoác áo mầu tang cuộc tình
Tháng mười cô quạnh một mình
Đêm thu hiu hắt tâm tình với trăng
Tháng mười một chút nắng hanh
Hàng cây thở hắt đau cành lá bay
Tôi đi nhặt là đầy tay
Mười hai tháng cuối theo mây bềnh bồng.

Song Linh.

 

 

 

 

Ngày Tháng Tám, Mùa Thu

Ngày tháng tám mùa thu về rất lạ
Em mắt buồn theo cỏ lá heo may
Đường thở dài, vàng nắng áng mây bay
Tình cúi mặt để sầu rêu nhánh lá

Ngày tháng tám mùa thu xanh biển cả
Cánh chim về hong ấm nụ môi hôn
Bài thơ yêu nhung nhớ lại gần hơn
Căn gác nhỏ mở lòng vui đất lạ.

Ngày tháng tám, mùa thu vàng đất trắng
Tay em mềm gối mộng ngát trùng dương
Con sóng vỗ thềm trăng mòn vách núi
Gọi xuân về, mây trắng đẹp trời hương

Ngày tháng tám, Mùa thu trùng xuống thấp
Đất khóc thầm tan vỡ mối tình hoa
Em nói dối, ta buồn như muốn khóc
Con thuyền nào chở hết nỗi lòng ta

Ngày tháng tám, mùa thu về thêm tuổi
Đất mẹ nghèo mọc cách vỗ trời hoang
Và tình ta từ đó cũng lang thang
Khi trước mặt, cuộc đời chưa đáp số.

Song Linh.




Nhà Văn Trịnh Bình An (TT/VTLV 2016)

Nhà văn Trịnh Bình An 

trinh-binh-an

Sinh năm 1962 tại Sài Gòn. Định cư tại Hoa Kỳ năm 1990. Hiện cư ngụ tại tiểu bang Maryland (USA). Hành nghề kỹ sư công chánh. Bắt đầu viết từ năm 2008 trên trang báo điện tử DCVOnline.net.

Hiện cộng tác với Tủ Sách Tiếng Quê Hương trong nhóm phụ trách Tin Sách. Liên lạc: tinsach.trinhbinhan@gmail.com

Vẫn Một Ngọc Cờ

 

 

 

Mến gởi quý Anh Chị bài viết  để nhớ tới ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Và như lời CẢM TẠ CHÂN THÀNH NHẤT tới quý Anh Chị .

Những người đã trải qua gian đoạn đau thương nhất thay cho đứa em này.

Thân mến tba

(Nếu đã đọc rồi, xin vui lòng bỏ qua cho)

Hồn Việt Nào Cho Em

Trịnh Bình An

Có những cuốn phim sau khi coi xong khiến tôi thích thú hoặc bực bội, nhưng cũng có cuốn phim khiến tôi băn khoăn, dường như vui, cũng dường như buồn, cuốn phim đó chính là phim “Hồn Việt”.

“Hồn Việt” là một bộ phim trình bày lịch sử Quốc Kỳ và Quốc Ca của Việt Nam Cộng Hòa – nơi tôi đã sinh ra và lớn lên cho tới ngày mất nước. Đấy chỉ là một bộ phim tài liệu với những dữ liệu thực tế. Lá cờ vàng ba sọc đỏ, quốc kỳ của một chính thể đã bị xóa sổ, không ngờ có ngày tung bay phất phới, đứng ngang hàng với những lá cờ quốc gia khác tại nhiều nơi trên thế giới. Đáng lẽ tôi, một người từng sống trên 10 năm dưới lá Cờ Vàng, phải cảm thấy xúc động và tự hào chứ?  Nhưng không hiểu sao tôi chỉ cảm thấy vui buồn lẫn lộn?

Nếu bảo Việt Nam là người mẹ khổ đau qua những năm tháng chiến tranh, thì Việt Nam Cộng Hòa là cha, người cha đã bị bức tử, người cha tôi đã phải xa khi còn tấm nhỏ. Quá nhỏ để hiểu được chiến tranh đang xảy ra khốc liệt chung quanh, quá nhỏ để hiểu đang có rất nhiều người ngày đêm chiến đấu bảo vệ miền Nam, bảo vệ cuộc sống yên ổn cho hàng triệu sinh mạng trong đó có tôi.

Sẽ chẳng ai trách cứ một đứa con gái nhỏ ngượng ngùng với cha nếu nó đã bị lìa xa cha ngay từ lúc nhỏ.  Cũng thế, hẳn không ai trách nếu tôi thú thực rằng giờ đây, sau hơn 20 năm trên xứ người, tôi cảm thấy chẳng có mấy rung động trước lá cờ ấy dù lý trí vẫn biết rằng đó là lá cờ Tổ Quốc của mình.

Cho tới khi xem Phim “Hồn Việt”, tới đoạn trình bày về lược sử hình thành Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam, tôi bỗng cảm thấy dâng lên trong lòng một nỗi chua xót xen lẫn giận hờn.

Tôi tiếc ngày ấy đã không được dạy bảo kỹ lưỡng về nguồn gốc Quốc Kỳ và Quốc Ca trong những giờ Công Dân Giáo Dục. Tôi chỉ biết chào cờ và hát quốc ca như một thói quen. Giống như một đứa con, chỉ được nguời ta chỉ vào ảnh cha mà bảo “Cha con đó!” chứ không giải thích thêm cha là ai, cuộc đời cha như thế nào, cha đang chiến đấu nghiệt ngã trong những hoàn cảnh nào…

May mắn thay, trong đại gia đình dân tộc, vẫn còn những người anh, người chị đã từng sống với cha, đã từng biết đến cha. Những anh chị ấy đã giữ cha trong trái tim họ cho đến cuối đời. Tôi muốn nói tới những người Việt lưu lạc khắp nơi trên thế giới, những người đã kiên quyết giữ vững lá cờ Việt Nam tự do, đã đấu tranh không mệt mỏi để cuối cùng lá cờ ấy tung bay cùng với những lá cờ khác tại nơi họ cư ngụ.

Những anh chị ấy đã cống hiến tuổi thanh xuân để xây dựng và bảo vệ miền Nam để những đứa trẻ như tôi được thảnh thơi đến trường.  Trên xứ người, những người anh người chị ấy vẫn miệt mài tìm mọi cách gìn giữ những di sản tốt đẹp của đất nước để một ngày nào đó khi chúng tôi – những đứa trẻ đi lạc, muốn quay về sẽ thấy vẫn còn đó mái nhà xưa.

Ngày hôm nay, mỗi khi có những dịp tụ họp đông người, việc chào cờ hay không chào cờ vẫn là một đề tài nhạy cảm, có khi gây tranh cãi. Bên muốn chào cờ cho rằng không thể hưởng niềm vui họp mặt trên xứ sở tự do mà quên đi công lao to lớn của những người đã nằm xuống. Còn bên không muốn chào cờ thì bảo việc cử hành quốc kỳ và quốc ca là nghi lễ trang trọng, nếu làm trong một tiệc dịp tiệc tùng vui chơi sẽ mất đi ý nghĩa và giảm lòng tôn kính.

Cả hai phía đều có lý của họ. Riêng tôi, tôi cho rằng những người thực tâm giữ gìn sự tồn tại của Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam không quanh quẩn trong lý lẽ mà họ chỉ muốn hành động từ tiếng gọi của trái tim.

 

Nếu không là tiếng gọi từ trái tim, Đại Tá Phạm Bá Hoa đã không kiên trì sưu tầm mọi tin tức và hình ảnh về các cuộc tranh đấu của người Việt khắp nơi để cho Quốc Kỳ Việt Nam được công nhận tại các thành phố trên khắp thế giới. Mỗi một chiến thắng là một tin vui làm nức lòng người Việt hải ngoại, và là kiểu mẫu cho những nơi khác noi theo, để rồi chiến thắng nối tiếp chiến thắng. Kết quả là cho tới nay, trên đất nước Hoa Kỳ đã có 16 tiểu bang, 8 quận hạt, 103 thành phố công nhận lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là đại diện của Việt Nam đã công nhận lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là đại diện của Việt Nam.

Nếu không là tiếng gọi từ trái tim, ông Chu Lynh đã không quyết tâm bắt tay vào việc thực hiện cuốn phim “Hồn Việt” dù biết sẽ rất khó khăn, lấy ý nghĩ từ chuyến đi thăm nghĩa trang Biên Hoà năm 2003. Nhìn tấm bia mộ của một người lính, lá cờ nhỏ bé khắc trên ấy bị đục nát chỉ còn dấu vết lờ mờ, ông đau thắt lòng.  Người lính, người đồng đội của ông, cả một đời hy sinh chẳng được gì, đến khi chết chỉ có mỗi lá cờ, vậy mà người ta vẫn nhẫn tâm tước đoạt.

Và nếu không từ tiếng gọi từ trái tim, nhạc sĩ Lê Văn Khoa, người đã đưa âm nhạc Việt Nam đến với thế giới, đã không thể soạn hòa âm phối khí cho bản quốc thiều Việt Nam trở nên sống động tha thiết đến thế. Và những nhạc sỹ Ukraina – những người vừa thoát khỏi địa ngục cộng sản, đã cảm thông, đã bắt nhịp cùng tiếng gọi trái tim ấy để tấu lên một bản quốc thiều hùng tráng gây rúng động lòng người.

Tôi muốn ngừng lại một chút để kể một câu chuyện lý thú về lá cờ hiện nay của nước Nga mà lịch sử của nó có đôi điều tương tợ với lá Cờ Vàng VNCH.

Bắt đầu từ năm 1896, Quốc Kỳ Nga có ba màu: trắng, xanh dương và đỏ. Sau Cách Mạng Tháng Mười 1917, lá cờ ấy bị bỏ đi, thay bằng cờ đỏ búa liềm. Đến năm 1991, khi chế độ cộng sản tan rã, Liên Bang Xô Viết (Soviet Union) trở thành Liên Bang Nga (Russian Federation), cờ đỏ búa liềm bị dẹp bỏ, người Nga quay về với lá cờ ba màu -Триколор (Tricolor) lúc trước.

Có nhiều giải thích cho nguồn gốc ba màu trên quốc kỳ Nga. Một giả thuyết cho rằng đó là huy hiệu trên khiên của vương quốc Grand Ducchy of Moscow. Huy hiệu này có hình thánh Saint George mang giáp bạc, cỡi ngựa trắng, choàng khăn và cầm khiên màu xanh trên nền đỏ. Một gỉa thuyết khác lại cho rằng đấy chính là ba màu trên khăn áo Đức Mẹ Maria.

Như thế, nước Nga – cái nôi sản sinh ra chủ nghĩa cộng sản, cuối cùng đã quay về với lá cờ truyền thống. Một lá cờ với ba màu hòa dịu, ẩn chứa những niềm tin thiêng liêng, có thể đó là lòng dũng cảm quên mình của thánh St. George, cũng có thể là lòng từ ái bao la của Đức Mẹ.

So sánh với lá cờ nước Nga, lá cờ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ cũng có màu sắc hòa dịu với những ý nghĩa nhân ái:  Màu vàng tượng trưng cho dân tộc Việt. Ba sọc đỏ là ba miền Nam Trung Bắc. Tuy người dân thuộc ba miền (ba sọc đỏ) nhưng vẫn sống chung một nhà (nền vàng). Dưới mái Nhà Việt Nam, con dân muôn đời thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Màu đỏ trên nền vàng còn là màu của nhiều lá quốc kỳ Việt Nam qua nhiều triều đại khác nhau.

Khi kể câu chuyện nước Nga tìm về lá cờ dân tộc phải chăng tôi muốn nói đến việc phục hoạt lá cờ vàng truyền thống của nước Việt Nam?

Hoàn toàn không. Lá Cờ Vàng đã được chính quyền của môt số thành phố và tiểu bang Hoa Kỳ công nhận là “Lá Cờ Tự Do và Di Sản” (Heritage and Freedom Flag). Người Việt tị nạn sau khi nhập tịch là nguyện đứng dưới lá cờ của đất nước thứ hai. Việt Nam tuy vẫn là tổ quốc thân yêu nhưng không còn thuộc quyền quyết định của những người chúng tôi. Việc chọn lá cờ nào, bài hát nào cho Việt Nam tương lai sẽ hoàn toàn tùy thuộc vào một chính phủ và một quốc hội không còn cộng sản.

Những người ấy sẽ hiểu biết thấu đáo về lịch sử của những lá cờ để nhìn cho ra lá cờ nào mang “Hồn Việt”, còn lá cờ nào chỉ mang giả trá và thương đau.

Nếu đã nói tới quốc kỳ thì không thể không nhắc tới quốc ca. Nghe ban nhạc Ukraina hòa tấu Quốc Thiều Việt Nam, tôi mới thấy Quốc Ca Việt Nam có giai điệu thật phong phú, khi hùng tráng, khi du dương như một nhắn nhủ thiết tha.

Là một học sinh qua hai chế độ, tôi vẫn không thể quên bài hát Tiến Quân Ca của cộng sản.  Nhạc điệu quân hành nhưng khá nhạt nhẽo, chưa kể trong đó có những lời lẽ khát máu đến ghê người. Một ca khúc tầm thường, thậm chí vô nhân có thể nào xứng đáng làm biểu tượng cho một dân tộc lãng mạn và hiếu hòa như người Việt chăng? Nhưng công bằng mà nói, bài hát Tiến Quân Ca có lịch sử riêng của nó và xứng đáng được ghi nhận như ca khúc của một thời. Những người dân Việt trong tương lai sẽ tìm ra quyết định cho quốc ca cũng như quốc kỳ vậy.

Phim “Hồn Việt” ra đời, hai năm tôi sau mới biết, cũng như tôi đã không biết rõ về Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam sau hơn hàng chục năm.  Thật khá trễ tràng. Cảm giác buồn vui lẫn lộn, vui vì biết được thêm quá khứ anh dũng của cha anh, buồn vì suốt bao lâu nay lơ đãng trước những hy sinh cao cả ấy.

 

Mong sao bộ phim tài liệu “Hồn Việt” sẽ giúp cho những thế hệ sau hiểu rõ về quốc kỳ và quốc ca, từ đó thấy rõ tính cách Việt, mơ ước Việt, tâm hồn Việt thể hiện thế nào qua quốc kỳ và quốc ca, để rồi có quyết định sáng suốt về con đường đi tới của dân tộc.

Tổng Thống Woodrow Wilson từng nói:

The things that the flag stands for were created by the experiences of a great people. Everything that it stands for was written by their lives. The flag is the embodiment, not of sentiment, but of history.

(Những gì một lá cờ biểu tượng, đó là những kinh nghiệm đã được tạo dựng bởi một dân tộc tuyệt vời. Tất cả những gì lá cờ biểu tượng đã được viết nên từ chính mạng sống của họ. Lá cờ là hiện thân, không phải của cảm xúc, mà là của chính lịch sử).

Qua phim “Hồn Việt” tôi thấy lời của Tổng Thống Wilson thật đúng, Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam thực sự đã được viết nên từ mạng sống của biết bao người con dân Việt Nam kiên quyết chiến đấu vì Đất Nước, vì Hòa Bình, vì Tự Do. Tôi dù biết điều ấy trễ nhưng vẫn còn chưa quá muộn. Khi hiểu ra được như thế tôi chợt thấy mình tháo gỡ được mối băn khoăn.

 

Người cha bị bức tử của tôi chưa bao giờ chết. Người vẫn còn đó cùng Lá Cờ Vàng lồng lộng bay trong gió như chuyển trao mọi nỗi bi thương nhưng đồng thời cũng là niềm hân hoan về một Đất Việt, một Dân Việt, và một Hồn Việt muôn đời.

 

Trịnh Bình An – 9/2014

 

Sơ lược về phim “Hồn Việt”

“Hồn Việt” là một phim tài liệu dài 57 phút về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam do Vietnam Film Club thực hiện vào năm 2012. Phim gồm có 9 đề mục:

– Lược sử hình thành Quốc Kỳ Việt Nam (cờ vàng ba sọc đỏ)

– Lược sử hình thành Quốc Ca Việt Nam

– Quốc Kỳ theo mệnh nước (đi theo người tỵ nạn sau biến cố 1975)

– Quốc Kỳ Việt Nam tại hải ngoại

– Quốc Kỳ Việt Nam trên thế giới

– Những câu chuyện về Quốc Kỳ Việt Nam

– Quốc Kỳ trong tim người Việt

– Quốc Kỳ và người ngoại quốc

– Trình tấu Quốc Thiều Việt Nam tại Kiev, thủ đô của Ukraina.
Sơ lược về “Viet Nam Film Club”

Vietnam Film Club được thành lập tháng 9 năm 2010 sau một thời gian dài vận động. Nhằm đáp ứng nhu cầu đi tìm sự thật của người Việt, đặc biệt người dân trong nước về lịch sử Việt Nam giai đoạn cận đại, Vietnam Film Club thực hiện các phim tài liệu lịch sử liên quan đến Chiến Tranh Việt Nam, Đảng CS Việt Nam, và những hệ lụy của cuộc chiến. 

VFC website vnfilmclub.com

www.youtube.com/watch?v=ahEblKNhUVw

VFC – “Hồn Việt – Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam”

https://www.youtube.com/watch?v=fGzhDXipo30

VFC – “The Soul of Vietnam – The Vietnamese National Flag and Anthem”

*   Cuốn phim tài liệu có sự đóng góp cuối cùng của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đang đi vào giai đoạn cuối: phim Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, dự trù sẽ phát hành bằng DVD vào tháng 7 năm 2016. Xin mời xem Trailer dưới đây

(8 phút):

https://www.youtube.com/watch?v=7t2P-vBPsnY

*   Nhân tưởng niệm 49 ngày mất của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Vietnam Film Club đã thực hiện Video Nguyễn Ngọc Bích: Tấm Lòng Cho Quê Hương, được phổ biến theo Link dưới đây:

https://www.youtube.com/watch?v=CCHdAzTzhec

 


co-vang

 

Lòng yêu nước bắt đầu từ đâu?

Thỉnh thoảng tôi hỏi chính mình. Mỗi khi đọc tin về những con người dấn thân hy sinh cho đất nước, tôi thấy mình lại phải đối diện với câu hỏi: Thật ra, lòng yêu nước bắt đầu từ đâu?

Rất nhiều năm, tôi chỉ có được những cảm xúc mơ hồ về lòng yêu nước, cho đến khi được xem phim Hồn Việt: Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam. Phim Hồn Việt đã cho tôi hiểu tình yêu nước – tình yêu của những con người đã hy sinh mạng sống để bảo vệ ngọn cờ Dân Tộc.

Tôi may mắn có cơ hội gặp gỡ những anh chị trực tiếp thực hiện phim Hồn Việt. Mỗi người mỗi câu chuyện khác nhau, nhưng dường như đều có chung một điều: dù ở đâu, làm gì, họ luôn canh cánh bên lòng một mối ưu tư về vận mệnh đất nước. Rồi một cơ duyên kỳ lạ đã đưa họ tới với nhau để cùng thực hiện phim Hồn Việt.

Nhờ những anh chị ấy, tôi thấy ra một điều: lòng yêu nước quả có thật!

Có thể ví lòng yêu nước như một thứ cây, bắt đầu từ một hạt giống và sẽ nảy mầm nếu đủ điều kiện. Nhưng cái cây sẽ chết yểu hay lớn mạnh còn tùy thuộc vào việc có được chăm sóc kỹ lưỡng hay không.

Bài viết này xin được coi như cố gắng của một người muốn có một cái nhìn thấu đáo hơn bằng cách đặt câu hỏi với những người đi trước. Tuy những câu hỏi chỉ giới hạn trong khuôn khổ phim Hồn Việt, nhưng vẫn hướng về một tình cảm rộng rãi hơn – tình yêu quê hương.

Phim Hồn Việt có được là nhờ vào sự đóng góp công sức của rất nhiều người, cả người Việt Nam lẫn người ngoại quốc. Tuy nhiên, các câu hỏi sẽ được dành cho bốn người có vai trò quan trọng nhất trong việc thực hiện: Cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, Nhạc Sĩ Lê Văn Khoa, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích và ông Chu Lynh.

***
van-mot-ngon-co

pham-ba-hoaPhạm Bá Hoa:

Cựu Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, là tác giả của những hồi ký chính trị: Đôi Dòng Ghi Nhớ: hồi ký chính trị Việt Nam Cộng Hòa 1963-1975, Ký Sự Trong Tù, Tôi Là Một HO, Quê Hương & Quân Ngũ, Việt Nam 2001-2006. Ông đã viết Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ (2004) liệt kê các thành phố, tiểu bang Hoa Kỳ đã chính thức công nhận và vinh danh Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa là Lá Cờ Tự Do và Di Sản – Heritage and Freedom Flag của cộng đồng người Việt. Ông cũng là người viết kịch bản cho phim Hồn Việt.

Trịnh Bình An (TBA):  Ông đã bỏ công sưu tập lịch sử Quốc Kỳ và thành lập một trang báo điện tử lưu trữ những tài liệu liên quan đến Quốc Kỳ tại hải ngoại. Ông có thể cho biết nhờ đâu mà “trận chiến dựng lại quốc kỳ” đã thắng trận vẻ vang như thế?

Phạm Bá Hoa: Đầu tiên là Nghị Quyết số 3750 ngày 19/2/2003, thành phố Westminster chánh thức công nhận quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ của Cộng ĐồngViệt Nam tị nạn cộng sản. Sự khởi đầu nào cũng có những khó khăn, nhưng với sự vận động từ âm thầm đến công khai, và cuối cùng là thành công rực rỡ. Thành phố thứ nhì là Garden Grove công nhận ngày 11/3/2003 với Nghị Quyết số 8486-03. Hai thành công trên đây được phổ biến rộng rãi trên internet, giúp Cộng Đồng chúng ta tại nhiều địa phương nỗ lực vận động với cơ quan dân cử. Chỉ 5 tháng sau, Louisiana là tiểu bang đầu tiên công nhận ngày 15/7/2003 bằng Luật số 839. Tính đến ngày 4/12/2014, có 134 cơ quan hành chánh Hoa Kỳ công nhận quốc kỳ chúng ta, gồm: 18 tiểu bang, 8 Quận hạt và 108 thành phố.

Sau khi hai thành phố đầu tiên công nhận, tôi tiếp tay phổ biến và cổ vũ cho công cuộc này. Tôi cho rằng, đấy là một trong hai trận chiến mà Cộng Đồng tị nạn cộng sản chúng ta đang chiến đấu. Trận Chiến Nhân Quyền đang diễn tiến, trong khi Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ vừa mới bắt đầu nhưng khí thế mạnh hơn. Với tôi, sự thành công có thể nói là ngoạn mục này bắt nguồn từ tinh thần trách nhiệm của mỗi công dân đối với quê hương Việt Nam, dẫn đến tinh thần tự phát đấu tranh dù sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất. Mỗi khi nhìn thấy lá Quốc Kỳ tung bay trong gió – tôi nghĩ – không ai nén được sự xúc động mạnh mẽ từ sâu thẳm tâm hồn, bởi đó là biểu tượng của Hồn Thiêng Sông Núi, của Dân Chủ Tự Do.

TBA: Là một người cựu tù nhân từng chịu nhiều năm trong các trại lao động khổ sai của cộng sản, có khi nào ông nghĩ tới ngọn cờ vàng, và lúc đó ông cảm nhận thế nào về câu hát “dù cho thây phơi trên gươm giáo” trong Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa?

Phạm Bá Hoa: Ngày 2/9/1975, khi bị giam tại trại tập trung Long Giao (tình Long Khánh), họ bắt chúng tôi dự lễ chào cờ ngày quốc khánh của họ. Khi họ hát câu “thề phanh thây uống máu quân thù..” tôi liền so sánh với câu trong Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa “dù cho thây phơi trên gươm giáo, thù nước lấy máu đào đem báo…”, nhận thấy sự tàn bạo của họ ngay trong lời hát.

Bài quốc ca của chúng ta tiêu biểu ý chí của người công dân hy sinh vì tổ quốc, trong khi cộng sản buộc công dân của họ phải mổ bụng và uống máu quân thù. Tàn bạo quá! Ghê tởm quá! Cộng Sản Việt Nam chiến đấu không vì con người, mà họ chiến đấu theo lệnh của Cộng Sản Quốc Tế, mà cộng sản quốc tế có tham vọng thống trị toàn thế giới, và tất cả chỉ biết tuân lệnh họ. Nói cách khác, lãnh đạo cộng sản quốc tế là chủ, cả nhân loại chỉ là những bầy thú vật không hơn không kém.

Hiện nay, hầu hết báo giấy cũng như báo online cho rằng, Nhà nước Hồi Giáo ISIS là tàn bạo. Tôi cho rằng nhà nước Hồi Giáo đúng là rất dã man, nhưng các chế độ cộng sản còn dã man tàn bạo hơn nhiều, mà Cộng Sản Việt Nam là trường hợp điển hình. Trong những năm 1945-1946, chỉ riêng tại Nha Mân tỉnh Sa Đéc, lúc đó tôi 15-16 tuổi, làm thư ký cho đại đội trưởng du kích xã, người này hoàn toàn mù chữ. Đại đội có hai trạm gác dọc theo sông Nha Mân, khám xét tất cả người ngoài xã và các ghe xuồng qua lại. Hễ nhìn thấy ba màu xanh trắng đỏ (màu của quốc kỳ Pháp) dù rải rác bất cứ trên áo quần hay đồ vật, lập tức họ trói ngay người có vật ấy lại. Ngay đêm đó hoặc đêm hôm sau, những con người này bị giết chết, xác liệng xuống sông hoặc cột vào dọc cây tre rồi thả trôi sông. Trong thời gian dài, người dân hai bên sông không dám ăn tôm tép vì loại này háu ăn thịt người chết. Ghê tởm quá!

Đầu năm 1947, tôi trốn lên Sài Gòn…

***
le-van-khoaLê Văn Khoa:

Hơn 60 năm phục vụ nghệ thuật và giáo dục, nhạc sĩ / nhiếp ảnh gia Lê Văn Khoa đã làm việc với nhiệt tâm và tận tụy hiếm có. Ông đã dấn thân vào sáng tác nhạc giao hưởng với nguyện vọng đưa âm nhạc Việt Nam giới thiệu ra thế giới. Ông là người soạn hòa âm và phối khí cho Quốc Thiều Việt Nam Cộng Hòa và thu xếp việc trình diễn với ban nhạc Ukraine. Đây là một phần quan trọng của phim Hồn Việt.

TBA:  Được biết Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa đã được trình diễn tại Ukraine năm 2012. Xin ông cho biết ai là người đã khởi xướng việc này?

Lê Văn Khoa:  Anh Chu Lynh, hay nói rộng ra là anh em trong nhóm thực hiện phim Hồn Việt: Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam.

TBA:  Ông đã trình diễn bản Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa tại những nơi nào khác nữa? Nếu so sánh với buổi trình diễn tại Ukraine thì có gì khác biệt?

Lê Văn Khoa: Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa đã trình diễn nhiều lần ở California từ năm 1982, ở Texas, Washington D.C. và ở Úc. Chúng tôi dùng bài Quốc Thiều Việt Nam Cộng Hòa làm lễ chào quốc kỳ trước khi bắt đầu chương trình âm nhạc ở các nơi này. Quốc Thiều đã được tôi soạn cho dàn nhạc giao hưởng (symphony orchestra). Hai ban nhạc diễn hành của trường trung học La Quinta và Bolsa Grande đã trình diễn trên mẫu hạm Midway nhân ngày kỷ niệm 30 tháng Tư năm 2010. Cùng năm đó Kyiv Symphony Orchestra trình diễn ở Washington D.C. Nhưng ở Ukraine thì khác, vì là ban quân nhạc chính thống, nên âm thanh và hào khí có khác nhau.

TBA:  Tại sao chọn ban quân nhạc?

Lê Văn Khoa: Nhiều người Việt Nam khắp nơi khi nghe bài Quốc Thiều trong phim Hồn Việt đã rơi lệ, nhưng ít ai biết những tình tiết bên trong của việc thực hiện. Tôi xin kể lại sơ lược như sau.

Khi anh Chu Lynh gọi điện thoại đề nghị tôi việc thực hiện bài Quốc Thiều, có lẽ anh chưa có ý niệm rõ rệt về cách trình diễn của các ban nhạc.  Nó không đơn giản như mình đi nghe nhạc trong phòng trà. Hơn nữa, đây là bản Quốc Thiều Việt Nam Cộng Hòa! Tôi hỏi anh: “Anh muốn trình diễn với dàn nhạc giao hưởng hay ban quân nhạc?”

Tôi nghĩ bất cứ người nào gặp câu hỏi này cũng ngập ngừng với nhiều đắn đo. Cá nhân tôi cũng nghĩ tới các khó khăn nên mới hỏi câu đó. Một mặt, tôi muốn anh chọn dàn nhạc giao hưởng vì nhạc tôi có sẵn, liên hệ cũng có sẵn vì tôi có mối giao tình tốt đẹp với giới nhạc giao hưởng Ukraine từ năm 2005. Mặt khác, tôi lại muốn anh chọn ban quân nhạc. Nhưng nếu chọn ban quân nhạc, gánh nặng tôi sẽ nhiều hơn bội phần. Sau khi cân nhắc, chúng tôi quyết định nhờ ban quân nhạc. Thời gian thực hiện khá gấp rút nên tôi dồn hết nỗ lực vào việc hòa âm, phối khí và tìm kiếm ban nhạc.

TBA: Việc tìm kiếm ban nhạc và trình diễn sau đó thế nào?

Lê Văn Khoa: Viết nhạc giao hưởng thì tôi quen hơn quân nhạc, nhưng tôi cố vận dụng sự hiểu biết của mình để làm tròn nhiệm vụ. Với ước muốn không thực tế, tôi muốn được một ban quân nhạc tầm vóc quốc gia để trình diễn quốc thiều của một quốc gia, nên đề nghị Taras Myronyuk (người giúp tôi thực hiện nhiều chuyến thu thanh ở Ukraine với Kyiv Symphony Orchestra and Chorus) thử tiếp xúc với ban nhạc của Phủ Tổng Thống Ukraine (The Ukrainian National Presidential Orchestra).

Không ngờ lời đề nghị của Taras được chấp thuận. Tôi rất mừng, nhưng cũng rất lo biết đâu sẽ có bàn tay phá hỏng. Do đó, một mặt yêu cầu những người liên hệ giữ kín việc này, mặt khác đánh lừa sự chú ý của phe muốn phá, nên cùng lúc tôi thực hiện một chuyến thu thanh với dàn nhạc của Hội Hiếu Nhạc Kyiv (Kyiv Philharmonic Orchestra). Việc lo xa của tôi không phải là thừa! Ngay buổi chiều trước ngày trình diễn, Taras báo cho tôi biết ban nhạc có ý muốn hủy bỏ buổi trình diễn. Họ không nêu rõ lý do nhưng có đề cập đến bài Quốc Thiều của mình. Tôi linh cảm có bàn tay thọc gậy. Không thể để thất bại, tôi bàn thảo với Taras cách nào để “thoát hiểm”.  May sao, cuối cùng mọi sự cũng được giải quyết êm thắm.

TBA:  Là nhạc sĩ soạn hòa âm, phối khí Quốc Thiều Việt Nam Cộng Hòa cho ban nhạc giao hưởng, ông thấy bản nhạc ấy có thật chuyển tải được Hồn Việt?

Lê Văn Khoa: Về bài quốc ca, tôi có vài ý nghĩ rất nhỏ. Quốc ca của bất kỳ nước nào trên thế giới, nguyên thủy nó chỉ là một bài hát, có thể hào hùng, có thể nghiêm trang, có thể bi ai. Khi bài hát ấy được chọn làm quốc ca, người ta ban cho nó cái hồn thiêng của dân tộc. Bài Tiếng Gọi Sinh Viên của Lưu Hữu Phước được ban cho Hồn Việt ngay lúc được chọn làm bài Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó nó trở thành biểu tượng bằng âm thanh của người Việt tự do. Khi viết hòa âm cho bài Quốc Ca, tôi thêm âm thanh vào giai điệu đơn như người ta tô màu cho bức tranh trắng đen. Tôi dùng âm thanh để chuyển tải những yêu thương, trân quý, nêu những nét hòa nhã lẫn hào hùng của dân tộc đến người nghe.

Tuy nhiên âm nhạc là môn nghệ thuật trừu tượng nên không phải ai cũng có nhận thức giống nhau. Hơn nữa, người nghe quốc ca hay quốc thiều mà xúc động hay thờ ơ, theo tôi, còn tùy lòng yêu thương đất nước của người đó tới mức độ nào. Ta nghe bài Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa, sự xúc động dâng lên ngút ngàn. Những gắn bó với quê hương, nhất là quê hương không còn ở trong tầm với, đã làm cho ta tức tưởi, quặn thắt tâm hồn. Có người yêu quê hương, sẵn sàng chết để bảo vệ quê hương mình. Cùng lúc đó có người đem bán đất nước để mưu cầu lợi riêng, vì họ không có tình, không có hồn đối với quê hương họ.

Hồn Việt chỉ có trong lòng người yêu nước Việt.

Quốc Ca, Quốc Thiều chỉ có thể khơi dậy tình yêu quê hương khi con người thực lòng yêu quê hương.

***
nguyen-ngoc-bichGiáo sư Nguyễn Ngọc Bích:

Từng là giáo sư tại nhiều đại học Hoa Kỳ và Quyền Tổng Giám đốc Giáo Dục Song Ngữ trên toàn Hoa Kỳ (1991-1993). Ngoài dạy học và làm truyền thông, ông còn là một nhà biên khảo và dịch giả có uy tín về văn thơ Việt Nam. Là tác giả của khoảng 40 cuốn sách nhiều thể loại, và có mặt trong gần 50 tập thơ và sách giáo khoa. Ông cũng là producer cho phim Hồn Việt.

TBA:  Ông từng giữ chức vụ Giám Đốc Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do (RFA). Với kinh nghiệm lâu năm trong ngành truyền thông, ông đánh giá thế nào về khả năng phổ biến rộng rãi của phim “Hồn Việt” với những thế hệ trẻ trong khi họ không lớn lên dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa?

Nguyễn Ngọc Bích:  Có người cho cái cờ chỉ là một biểu tượng.  Đúng!  Nhưng tôi tuyệt đối không khuyên ai nên coi nhẹ một biểu tượng như lá cờ của một quốc gia.  Cộng Hòa Pháp tính đến nay đã là nền Đệ Ngũ Cộng Hòa (Cinquième République), tại sao lá cờ “tam tài” xanh trắng đỏ của Pháp vẫn chỉ là một lá cờ từ năm 1789 đến giờ? Lá cờ, hay đúng hơn là chữ “màu cờ,” định nghĩa chúng ta là ai.  Nó hiển nhiên không thể chỉ là một miếng vải với các màu sắc trên đó. Nó đánh động đến một cái gì thật là sâu thẳm ở trong ta.

Trước nhất, khi có ai hỏi: Màu vàng và ba gạch đỏ nghĩa là gì, chúng ta không thể bảo là nó vô nghĩa được.  Chúng ta cần phải tìm hiểu, và tìm rồi, sẽ có người nói: màu vàng là màu đất và màu đỏ là màu máu, ba vạch là ba miền Trung-Nam-Bắc, dòng máu của ba miền đi song song, hòa hợp trên mảnh đất của cha ông.  Đó có thể là một câu trả lời khá ý nghĩa. Song cũng có thể có người trả lời chi tiết hơn: Ba vạch liền là quẻ “càn” trong Kinh Dịch, tức tượng trưng cho Trời.  Mà Trời trên nền vàng thì rõ ràng là “Trời Nam”, một tên gọi của nước ta có từ thời nhà Lê thế kỷ XV (“Thiên Nam” như trong Thiên Nam Dư Hạ Tập hay Thiên Nam Ngữ Lục). Màu vàng còn là màu cờ truyền thống của Việt Nam, có ít nhất từ đời Hai Bà Trưng (40-43 theo Công Nguyên). Đến đời Bà Triệu cũng “đầu voi phất ngọn cờ vàng” (Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca). Rồi đến thời Lê Lợi với khởi nghĩa Lam Sơn, chúng ta vẫn còn bài hát: “Nước non Lam Sơn, nước non Lam Sơn. Bóng cờ bay phấp phới! Khắp nơi cờ vàng, khắp nơi cờ vàng. Muôn hồn quân Nam!” (*)

Như vậy, Hồn Việt đi với Cờ Vàng đã không phải chỉ có từ thời Bảo Đại, hay từ thời Thành Thái, như một vài người chủ trương, mà nó bàng bạc trong tiềm thức của dân ta từ cả hai ngàn năm nay rồi.  Một sự gắn bó như vậy gần như trong cốt tủy, trong xương máu của chúng ta rồi.

Lá cờ với một lịch sử hàng ngàn năm như vậy tự nó đã có giá trị trường tồn của nó.  Phim Hồn Việt của Vietnam Film Club chỉ là tiếp nối vào một câu chuyện mà không gì hủy được.  Tuổi trẻ Việt Nam sau này, dù không sống một ngày nào với chế độ Việt Nam Cộng Hòa, sẽ thắc mắc về nó, và một khi tìm hiểu ra rồi thì sẽ yêu thương nó thôi.  Đó là trường hợp một Lê Trung Thành, một Nguyễn Phương Uyên, một Đặng Chí Hùng,… dù các em đó được sinh ra nhiều năm sau 1975, trong một môi trường được học tập để ghét bỏ nó. (**)

TBA:  Ông cũng là người sáng lập Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ với nhiều cuốn sách có đóng góp lớn vào nền văn học người Việt hải ngoại, trong đó có bộ lịch sử “Nhìn Lại Sử Việt”5 Tập của Lê Mạnh Hùng. Ông có nghĩ rằng tới một lúc nào đó, trong những bộ sách lịch sử VN, sẽ cần một chương dành riêng cho Quốc Kỳ và Quốc Ca VNCH?

Nguyễn Ngọc Bích:  Theo tôi nghĩ, một chương sách dành riêng cho quốc kỳ và quốc ca có lẽ nên nằm trong chương trình công dân giáo dục của nước đó thì hơn.  Chứ riêng lịch sử thì phải khách quan và nói đến lá quốc kỳ qua nhiều giai đoạn khác nhau, thậm chí có lúc đối nghịch nhau, như khi đất nước bị chia đôi thì có hai lá cờ khác nhau, hai bài quốc ca khác nhau.  Chưa nói đến cái khôi hài của người Cộng Sản mà có lúc, như vào tháng 8 năm 1975, họ xin vào Liên Hiệp Quốc dưới danh nghĩa hai nước CS Việt Nam, một ở miền Bắc (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) và một ở miền Nam (Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam), với hai lá cờ khác nhau và hai bài quốc ca khác nhau. Nghĩa là chính họ sẵn sàng duy trì sự xẻ đôi đất nước, cốt chỉ nhắm được hai phiếu cho khối Cộng Sản ở LHQ.  Và tới ngày nào chúng ta có một cuốn công dân giáo dục mới thì chúng ta đã có sẵn tài liệu do giáo sư Nguyễn Ngọc Huy sưu tầm và viết mang tên Tiến Trình Hình Thành Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam.

***

chu-lynhChu Lynh:

Là một cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã từng đi tù qua 15 trại tập trung của cộng sản. Ông là editor cho các cuốn phim: Di Sản Nguyễn Ngọc Huy, A Fighter for Democracy in Vietnam, Sự Thật về Hồ Chí Minh, Ho Chi Minh the Man and the Myth, Đại Họa Mất Nước, Hồn Việt, The Soul of Vietnam, và gần đây là các phim tài liệu trên Youtube của Vietnam Film Club, và trong năm 2015 sẽ là phim Thảm Họa Bắc Thuộc hiện đang trong giai đoạn hoàn tất.

TBA: Điều gì đã khiến Vietnam Film Club khởi sự cuốn phim đầu tiên với đề tài về Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam?

Chu Lynh: Năm 2003, tôi có về Việt Nam và ghé thăm nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà. Tôi không có tin tức chính xác về tình trạng nghĩa trang nên khi vào đã bị bộ đội canh giữ làm khó dễ. Nhưng cuối cùng tôi cũng đã tìm cách chụp hình và quay phim mà họ không biết được. Thời điểm đó, nghĩa trang là một cảnh tượng hoang phế và bị tàn phá khắp nơi, một sự tàn phá có chủ đích mang tính thù hận. Điển hình là trên ngôi mộ của một người lính, nơi sơn lá cờ vàng đã bị đục nát. Hình ảnh đó đi vào tâm trí tôi khi trở lại Hoa Kỳ.

Đúng 10 năm sau, ngay sau khi vận động thành lập được Vietnam Film Club, thì đề tài về Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam được các thành viên hưởng ứng cho cuốn phim đầu tiên của tổ chức. Với tôi, phim Hồn Việt ra đời không phải là chuyện tình cờ. Có một tương quan nào đó thật khó hiểu, như một trợ lực vô hình theo sát và giúp đỡ chúng tôi suốt chặng đường thực hiện khá gian nan.

TBA: Xin ông cho biết đôi nét về Vietnam Film Club: nhân sự điều hành, vấn đề tài chánh, và nhất là phương hướng hoạt động?

Chu Lynh: Chúng tôi không phải là một tổ chức được đào tạo chuyên nghiệp hay được chính thức tài trợ chi phí. Cho tới nay, Vietnam Film Club chưa kêu gọi đóng góp tài chánh trong cộng đồng hải ngoại, cũng chưa tổ chức gây quỹ. Tất cả thành viên đều tự nguyện và tự túc về mọi phương diện. Về nhân sự, chúng tôi có một số thành viên cốt cán. Tuy nhiên, chúng tôi quan tâm đến việc thiết lập một sự liên kết như một mạng lưới với những nhân vật trong cộng đồng Việt Nam khắp nơi, để được hỗ trợ về tài liệu, phương tiện di chuyển, giới thiệu phỏng vấn các nhân chứng, các nhà nghiên cứu, hay tổ chức các buổi ra mắt phim tại địa phương. Như thế, mặc nhiên cuốn phim sau khi hoàn tất là tổng hợp của những đóng góp từ nhiều người trong cộng đồng người Việt hải ngoại và cả người trong nước. Khi thực hiện các phim tài liệu, chúng tôi nhắm vào đối tượng trong nước, những người đã bị chế độ cộng sản bưng bít sự thật lịch sử hơn nửa thế kỷ nay.

TBA: Là editor cho Vietnam Film Club, điều gì đã thôi thúc ông đi cho đến bước cuối cùng của cuốn phim?

Chu Lynh: Khi về thăm nghĩa trang Biên Hoà, nhìn hàng chục ngàn ngôi mộ hoang phế trong một khung cảnh rộng lớn, không ai không thấy quặn lòng. Tình đồng đội, sự hy sinh của những người lính. Xin mượn lời nhà văn Huy Phương đã viết trên blog của anh sau khi xem phim Hồn Việt: “Họ đã chết cho mình được sống. Họ bị tàn phế để mình được lành lặn. Họ ở lại trong đau khổ và đói khát để mình được ra đi sống sung túc nơi xứ người”. Chúng ta mang món nợ lớn với họ, và nhất là món nợ với đất nước. Việc làm này có thấm vào đâu so với sự hy sinh máu đào của những người lính đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh vừa qua.

TBA:  Theo ông, thông điệp chính của phim Hồn Việt gởi đến người xem là gì?

Chu Lynh: Những gì đã thuộc về lịch sử phải được tôn trọng. Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam được hình thành từ trong lịch sử xa xưa, nhờ công lao của tiền nhân, nhờ những người đã nằm xuống để bảo vệ đất nước. Không thể chối bỏ lịch sử, để vay mượn một lá cờ của ngoại bang làm Quốc Kỳ hay sáng tác một bản nhạc sắt máu làm bản Quốc Ca cho đất nước Việt Nam như cộng sản đã làm. Vừa nhục mạ tồ tiên, vừa phản bội quê hương.  Đó là những gì mà phim Hồn Việt mong được gởi đến mọi người.

TBA: Riêng với cá nhân ông, sau khi phim Hồn Việt hoàn tất, được phổ biến rộng rãi với kết quả rất đáng mừng, thì điều gì còn đọng lại trong ông?

Chu Lynh: Phim Hồn Việt sau khi ra mắt, đã được đón nhận nồng nhiệt như một hiện tượng hiếm có trong cộng đồng người Việt hải ngoại và cả trong nước, thể hiện qua các email, điện thoại, các nhận xét trên trang YouTube, và các bài viết trên internet. Đặc biệt, khá nhiều người đã khóc khi nhìn lá Cờ Vàng trong phim mà cứ tưởng đã chết theo số phận của Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975, nay lại tung bay khắp thế giới. Tôi hy vọng, phim Hồn Việt đã đốt nóng ngọn lửa tình tự quê hương trong tim họ và ít nhiều đã thắp sáng lịch sử khi trưng dẫn những tài liệu và nhân chứng lịch sử quý giá.

Điều gì còn lại trong tôi sau cuộc bể dâu của dân tộc?

Đó là niềm lạc quan về tuổi trẻ Việt Nam. Với kiến thức và lương tri, biết dựa vào những bài học của quá khứ, tuổi trẻ Việt Nam sẽ biết cách kiến tạo một tương lai tốt đẹp cho đất nước.

***

40 Năm – Vẫn Một Ngọn Cờ

Phạm Bá Hoa, Lê Văn Khoa, Nguyễn Ngọc Bích và Chu Lynh, bốn người, bốn góc độ khác nhau nhưng cùng hướng về Lá Cờ Vàng. Nguyên do nào đã thúc đẩy cả bốn người cùng quyết tâm thực hiện cho bằng được bộ phim về Quốc Kỳ – Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa?

Do lòng yêu nước thôi thúc, hay do Hồn Việt trong họ đã lên tiếng?

Riêng với tôi, một người lớn lên sau cuộc chiến rồi trôi dạt đến xứ người, những câu chuyện của họ là những đốm sáng chỉ đường trên con đường đi tìm về cội nguồn dân tộc. Tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ hiểu hết tâm tư của những người đi trước, nhưng từ đây, mỗi khi hướng về Lá Cờ Vàng, tôi thấy ở đó những cố gắng không ngừng của những người con đất Việt: Suốt 40 năm, họ đã chung tay giữ vững một Ngọn Cờ, giữ vững một tinh thần Tự Do, giữ vững một nền đạo đức truyền thống, và hơn hết, giữ vững một Tâm Hồn Việt Nam.

***

Phụ Chú:

(*) Ca khúc “Nước Non Lam Sơn” của nhạc sĩ Hoàng Quý (1920 – 1946).

(**) Sinh viên Lê Trung Thành trong một bài viết năm 2008, sau khi đã tìm hiểu cội nguồn của Quốc Kỳ VNCH đã kết luận: “…đó đã từng là một Quốc Kỳ của nhiều chế độ trước đó, đồng thời mang đầy đủ nguyện vọng dành độc lập, ý thức chống giặc ngoại xâm và yêu chuộng tự do của cả một dân tộc.”

Uyên sử dụng giấy trắng A4, dùng bút sáp màu và màu đỏ tô thành lá cờ; phía dưới lá cờ có ghi chú thích bằng bút sáp màu đen dòng chữ: “1890 – 1920: Đại Nam quốc kỳ từ thời vua Thành Thái tới vua Khải Định; 1948 – 1975: Cờ quốc gia Việt Nam” (trích “Bài bào chữa của luật sư Hà Huy Sơn cho Nguyễn Phương Uyên 16/5/2013”)

Đặng Chí Hùng – một người trẻ dấn thân đấu tranh, đã phát biểu về Lá Cờ Vàng: “Lá cờ vàng ba sọc đỏ chính là lá cờ của Việt Nam Tự Do, đó không phải là của riêng một chế độ hay của riêng một chính phủ nào mà là của chung cho cả dân tộc Việt. Lá Cờ Việt Nam Tự Do là linh hồn của cả dân tộc Việt.

 




Nhà Thơ Lê Tuấn (TT/VTLV 2016)

Nhà Thơ Lê Tuấn

letuan

Sinh năm 1948 tại Hà Nội.
1954 theo gia đình di cư vào miền Nam.
Năm 12 tuổi theo học tại trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tầu
Năm 18 tuổi chính thức vào quân đội.
Thích làm thơ và thường hay viết lách từ khi còn đi học, làm thơ rất nhiều nhưng chưa bao giờ in sách.

Sau năm 1975

Cùng nổi trôi theo vận nước, đi tù 8 năm từ miền Nam ra miền Bắc.
Năm 1994
Định cư theo diện HO tại San Jose cho đến ngày nay.

Hiện tại “Retire”
Sinh hoạt văn học nghệ thuật cho vui.

  image-4 image-3 image-2 image-1                        

 

Nợ Em 

Anh vẫn còn nợ em
Lá thu rơi bên thềm
Hàng cây nghiêng bóng đổ
Buổi chiều vàng nhẹ êm.

Nợ em thoáng mây bay
Vòng ôm nhánh sông đầy
Bãi bờ xưa gặp lại
Nỗi đau nào có hay.

Nợ em ngày rong chơi
Tiếng phố vui gọi mời
Ly cà phê từng giọt
Nhỏ xuống đời chơi vơi.

Anh vẫn còn nợ em
Nụ hôn quen gợi thèm
Chiều công viên ghế đá
Bài tình ca êm đềm.

Nợ em cả vần thơ
Mênh mông một mặt hồ
Hắt hiu rừng lá đổ
Sương khói nhẹ như mơ.

Nợ em nỗi u hoài
Tìm đâu bóng tương lai
Xót xa đời hiu quạnh
Anh nợ em. Tình dài.

Aet. Lê Tuấn 

 

 

Ta và Em 

Ta và em, cùng đau lòng uất hận
Hận chiến tranh, hận Cộng Sản vô thần
Hận những tháng ngày lưu đầy biệt xứ
Em bơ vơ giữa nhịp sống nhân quần.

Ta và em, bao chua xót đắng cay
Đau nỗi đau của thân phận làm người
Tim ưá máu, nhìn lá cờ cuốn lại.
Tự Do mất đi, để lại kiếp lưu đầy.

Ta và em, bao ngăn cách đường về
Bị tù đây nơi điạ ngục trần gian
Nơi loài người, với trái tim nhuộm đỏ
Khối óc mù loà, vì chủ nghĩa Mác Lê.

Ta và em, đã vượt qua ngàn dậm
Qua đau thương, qua cả nỗi âu lo
Vượt biển Đông, vượt muôn trùng bão táp
Đến bến bờ, một đất nước Tự Do.

Ta và em, cùng quay đầu nhìn lại
Nắng Sài Gòn, sao mờ bóng tương lai
Hồn Sông Núi, cơn đau tim rướm máu
Mơ Tự Do. Trong đêm vắng thở dài.

AET. Lê Tuấn 

                          

 

 

 

Bóng người xưa Hồn đá vẫn tôn thờ.

Bước khẽ thôi cho đất nằm yên nghỉ
Để rừng hoang che khuất bóng trong mưa
Hồn phế tích, ngả nghiêng trong thành cổ
Bom đạn thu tàn phá chiến tranh xưa.

Chiều phố núi ta về thăm chốn cũ
Rừng hoang vu thoáng hiện bóng chinh nhân.
Chiến trường đó nơi địa đầu giới tuyến
Nén nhang buồn lan tỏa ngọn phong vân.

Chiều giới tuyến, sau bao năm cách biệt
Ta về thăm, bia một đá hoang sơ
Đất im lặng, cỏ buồn phơi sắc úa
Bóng người xưa, hồn đá vẫn tôn thờ.

Người nằm đó, nghe hồn thiêng sông núi
Chợt bồi hồi, ngọn gió núi khóc than.
Người chiến sĩ, người trai hùng bất diệt
Sáng muôn đời. Hồn Vị Quốc Vong Thân.

AET Lê Tuấn

Truyện Ngắn của nhà thơ Lê Tuấn.

Những tháng cuối năm 1972.

Chiến dịch: Dành Dân Lấn Đất.

AET. Lê Tuấn
Những tháng cuối năm 1972. Tình hình chiến sự trở nên rất sôi động. Cả hai bên tham chiến đang chuẩn bị cho một chiến dịch Dành Dân Lấn Đất. Trên những trang báo hàng ngày, những bản tin thời sự nóng bỏng nhất vẫn là những gì liên quan đến Hiệp Định Paris. Một hiệp định 4 bên, nhưng trên thực tế đó chỉ là một hiệp định hai bên, đang bàn thảo gay go giữa Mỹ và Cộng Sản Bắc Việt.
Theo tinh thần căn bản của Hiệp Định Paris là chấp nhận một giải pháp da beo, bằng những vùng đất trái độn, vùng đất nào được cắm cờ đại diện của phe nào thì vùng đất đó thuộc quyền của bên đó chiếm đóng.
Cuối cùng thì Hiệp Định Paris đã được ký kết vào tháng 1 năm 1973. Đây cũng chính là một cơ hội để người Mỹ tháo chạy khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam.
Chính vì giải pháp da beo của hiệp định Paris, cho nên những tháng cuối năm 1972 tình hình chiến sự đã trở nên rất sôi động. Trong địa bàn hoạt động của Đại đội 3, Tiểu đoàn 338 Địa phương Quân, trực thuộc Tiểu Khu Hậu Nghĩa, bao gồm 4 Chi Khu rất nổi tiếng đó là Trảng Bàng, Củ Chi, Đức Hòa và Đức Huệ.
Tháng 6 năm 1972, Đại đội 3/338 ĐPQ, do Trung úy Phi làm đại đội trưởng và tôi đại đội phó. Đơn vị chúng tôi được tiểu đoàn điều động đến đóng quân tại Ấp Bình Thủy 1, nhầm bảo vệ vành đai cho Chi Khu Đức Hòa. Trên con đường Hương lộ nối dài từ Đức Hòa đến Hốc Môn, con đường này chạy xuyên qua một địa danh cũng khá nổi tiếng trong sử học, đó là khu vực (Mười Tám Thôn Vườn Trầu), và con đường này cũng chạy ngang qua một vùng rộng lớn đó là bưng Mũi lớn (vùng nước ngập hoang dại, đầy cỏ năng, một loại cỏ ống thân tròn, rất thích nghi trong vùng đầm lầy ngập nước. Cỏ năng thường được người dân gặt hái bằng ghe xuồng, đem về phơi khô đập dập để đan thành những tấm đệm cói, hình thức như chiếc chiếu, hay những túi xách, những bao tải, đây là một việc làm rất phổ biến của người dân địa phương).
Địa danh Mũi Lớn đã gợi nhớ lại trong tôi một trận chiến mà chính tôi đã tham dự. Vào cuối năm 1969 hay đầu năm 1970, lâu ngày tôi đã quên mất. Một hôm tôi được lệnh cùng với hai trung đội nằm ứng chiến tại một bãi đáp trực thăng trong Chi Khu, anh em chúng tôi đang nằm dài trên bãi cỏ nghỉ ngơi, vừa hút thuốc lá vừa nói chuyện tếu, nhìn đồng hồ đã gần 2 giờ chiều, tôi nghĩ chắc không có chuyện gì xẩy ra, lâu lâu có một ngày nghỉ thoải mái. Gần 2 giờ trưa tôi đang nằm mở màng vừa định chợp mắt một chút, thì tôi chợt nghe Trung Sĩ Tốt truyền tin gọi tôi.
-Ông thầy có lệnh chuẩn bị hành quân.
Tôi cầm lấy ống nghe và được biết đây là lệnh của BCH Tiểu Đoàn.
Thiếu tá tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho đơn vị tôi sẽ dưới quyền điều động của Phòng 3 Tiểu Khu, người trực tiếp ra lệnh cho tôi chính là Thiếu Tá trưởng phòng 3 Tiểu Khu.
Ông ra lệnh cho đơn vị tôi phải sẵn sàng, sẽ có trực thăng đến bốc.
Tôi ra lệnh cho 2 trung đội trưởng chuẩn bị hành quân trực thăng.
Khoảng 15 phút sau, hai chiếc trực thăng đáp xuồng sân Chi Khu Đức Hòa.
Trực thăng đã bốc đơn vị tôi, bay thẳng đến bưng Mũi Lớn.
Từ trên cao chúng tôi đã nhìn thấy một vùng nước bao la và những đám cỏ năng mọc
um tùm từng khu vực. Trực thăng hạ xuống thấp dần, sức mạnh của cánh quạt đã hất tung mặt nước và làm cho đám cỏ năng nằm rạp xuống.
Tiếng của Thiếu tá trưởng phòng 3 từ trên trực thăng quan sát.
Ông ra lệnh như hét vào trong máy.
-Anh có thấy VC đang nhảy xuống nước.
Tiếng súng bắt đầu nổ, tiếng cánh quát của trực thăng vần vũ, viên phi công cho trực thăng hạ thấp xuống sát mặt nước đổ quân.
Tôi và tất cả anh em đều nhảy ra khỏi trực thăng.
Vừa nhảy xuống, nước đã ngập lên tới ngực. Chúng tôi đã xác định mục tiêu phía trước. Vì tiếng ồn của trực thăng, tôi phải hét lên ra lệnh cho tất cả lính giàn thành hàng ngang. Tất cả đơn vị đã tản ra thánh một hàng ngang, trườn người trên cỏ năng và tiến lên.
Những tràng đạn M16 đã nổ liên tục, cánh quạt của trực thăng bay vần vũ trên đầu, sức mạnh của nó đã thổi tung mặt nước và những ngọn cỏ năng nằm rạp theo.
Những tên du kích VC lặn dưới nước không chịu được lâu đã vội ngoi đầu lên, họ chưa kịp lên tiếng đầu hàng thì đã gục ngã trước lằn đạn M16.
Tiếng của Thiếu tá trưởng phòng 3 từ trên trực thăng quan sát.
Ông hét lên trong máy truyền tin ra lệnh cho tôi phải bắt sống
Tôi một tay cầm ống nghe truyền tin, một tay cầm súng.
Tôi đã hét muốn bể cả cuống họng, ra lệnh bắt sống nhưng không một người lính nào nghe theo, vì tiếng ồn của trực thăng vì tiếng súng, tất cả đã tạo thành một âm thanh hỗn loạn, tiếng nói của tôi không đủ sức, chỉ một số anh em đứng gần tôi nghe lệnh, họ đã cùng tôi hét to lên, lệnh bắt sống.
Tiếng trực thăng, tiếng súng và mùi khói của thuốc súng đã tạo thành một tình huống thật phấn kích. Người lính chỉ còn biết tuân theo một phản xạ tự nhiên đó là bóp cò súng, khi bất ngờ nhìn thấy đối phương vừa chồm lên khỏi mặt nước.
Tất cả đã quá muộn, một trận chiến xẩy ra quá bất ngờ, quá nhanh gọn, không đầy một tiếng đồng hồ. Tổng số có 8 du kích bị thiệt mạng, một vùng nước trong xanh mầu da trời, bây giờ đã nhuộm đỏ mầu máu.
Đó cũng là quy luật rất vô tình của chiến tranh.
Tiểu đội du kích này đã thiết lập một căn cứ trú ẩn tại nơi đây từ lâu. Họ đã khéo léo chui vào giữa bụi cỏ năng (một bụi năng có một chu vi rất lớn, đôi khi 4 người vòng tay nhau mới ôm hết một bụi năng). Từ giữa đám cỏ năng, họ đã cắt sát mặt nước tạo thành một khoảng trống, họ sử dụng cây chàm cắm xuống nước và phía trên làm thành một cái xạp có thể nằm ngủ từ 2 dến 3 người, trên xạp cũng là nơi để nấu ăn.
Những cọng cỏ năng ở chung quanh còn xanh tươi, họ khéo léo kéo hai bên vào nhau
rồi đan bện lại, tạo thành một mái che mưa che nắng, hình thức như một tổ chim.
Nhìn từ phía ngoài thì bụi năng vẫn xanh tươi, rất khó phát hiện ra bên trong là nơi chú ẩn. Thật là không may cho họ lần này vì máy bay trực thăng bay thấp, sức gió của cánh quạt đã làm lộ rõ nơi trú đóng, vì vậy đơn vị du kích này đã bị xóa sổ.
Thiếu Tá trưởng phòng 3 Tiểu Khu tỏ ra bực bội vì đơn vị tôi không bắt sống được du kích nào, ông ra lệnh cho trực thăng bay về Tiểu Khu.
Bỏ lại tôi và 2 trung đội ở lại thu dọn chiến trường, chúng tôi lục lạo mọi nơi, lặn cả xuống nước mò tìm súng AK47 và B40. Tổng kết lại trận chiến, đơn vị tôi đã tịch thu được 6 khẩu AK47 và 2 khẩu B40, một số đạn và tài liệu, ngoài ra còn hai chiếc ghe nhỏ, mà toán du kích này sử dụng làm phương tiện di chuyển, đã bị bắn gần bể nát không sử dụng đươc.
Phải lội nước tìm đường trở vế đơn vị. Để tránh bị địch tấn công bất ngờ và cũng để giữ an toàn cho đơn vị, tôi ra lệnh cho anh em đi hàng một, chọn ra hai người lính bơi lội giỏi đi trước dẫn đường.
Sự im lặng lại trở về giữa đất trời bao la, mênh mông một vùng nước trong xanh, chúng tôi mò mẫm trong vùng nước ngập và cỏ năng mọc qua đầu, thỉnh thoảng tôi lại nghe tiếng người lính dẫn đầu nói: “coi chừng có hố bom rất sâu”, chúng tôi lại phải đi vòng theo miệng hố bom. Vùng đất này là vùng oanh kích tự do, đôi khi đã bị B52 trải thảm, vì vậy nơi đây có nhiều hố bom rộng lớn và khá sâu, nếu sơ ý có thể lọt xuống hố bom, vướng rễ cây và cỏ năng, rất khó bơi thoát thân.
Trời càng về chiều ánh nắng càng dịu đi, tạo thành một bầu không khí rất thoáng mát, và thật thanh bình. Những âm thanh hỗn loạn và mùi thuốc súng của trận chiến vừa qua gần như tan biến mất, không còn để lại dấu vết nào, chỉ còn nghe tiếng lội nước bì bõm, và thỉnh thoảng nghe tiếng chim le le và tiếng vịt trời vỗ cánh bay, bầu trời càng lúc càng mờ dần, anh em chúng tôi đã nhìn thấy mập mờ, một gò đất và thấp thoáng những ngọn tre xanh.
Cuối cùng chúng tôi đã lội bộ về tới đơn vị. Sau khi kiểm tra lại quân số tôi bàng hoàng đau sót vì thiếu mất một người lính.
Tôi hỏi Chuẩn úy Tính trung đội trưởng
-Anh biết tên ai không, Chuẩn úy Tính cho tôi biết người lính mất tích là binh nhất Vận (biệt danh Hai đen). Vận là người dân địa phương rất quen thuộc với đồng ruộng và bơi lội giỏi, thường hay lội theo những con rạch để bắt cá bằng tay không.
Sáng hôm sau tôi cho người, mượn ghe của dân trở lại vị trí hôm qua để tìm.
Trong thời gian này người dân trong Ấp cũng biết tin về trận chiến hôm qua.
Chính quyền Ấp đã thông báo cho dân đi lấy xác các du kích, đem về cho thân nhân nhận dạng và chôn cất. Thật là đau buồn khi anh em đã phát hiện dưới hố bom nơi binh nhất Vận đã tử trận. Hai Đen đã chết ngồi dưới hố bom sâu, chân và ba lô sau lưng bị vướng chằng chịt cỏ năng và rễ cây, chính những bụi cỏ này đã giữ chặt thân xác anh ở lại để cùng chết với 8 người du kích Việt Cộng.
Sau này anh em còn cho tôi biết thêm một chi tiết về cái chết của Hai Đen. Lý do chính là Hai Đen quá tự tin vào khả năng bợi lội của mình, nên đã tự ý tách ra đi riêng một bên không theo hàng một,  cho nên khi bị sụp xuống hố bom, không ai nhìn thấy vì khi ấy trời qúa tối.
Vào khoảng xế trưa người dân dã đem tất cả 8 du kích về Ấp Bình Thủy cho thân nhân nhận dạng và chôn cất.
Kể từ hôm ấy, tôi không có cảm tình với Thiếu tá trưởng phòng 3 Tiểu Khu, lâu ngày tôi đã quên tên ông. Tôi biết sau trận chiến này, ông đã được gắn những huy chương danh dự. Riêng cá nhân tôi cũng được Tiểu Khu ban thưởng một Anh Dũng Bội Tinh, cái huy chương này tôi đã quên nó từ lâu, sau cái chết của người lính ngồi dưới hố bom.
Tôi nghĩ nếu huy chương này mang một ý nghĩa thật sự của nó, thì nó phải được gắn một cách long trọng trên nắp quan tài của người lính chết trận.
Đó cũng chính là quy luật của chiến tranh, mà cả hai bên tham chiến đều phải tuân theo. Súng đạn thì vô tình, chỉ có những chủ thuyết, những ý thức hệ lệch lạc mới đem con người đến chiến tranh để rồi tàn sát lẫn nhau.
Như tôi đã viết ở phần đầu câu chuyện. Những ngày tháng cuối năm 1972,tình hình chiến sự rất sôi động. Ban đêm đơn vị tôi phải đi phục kích, nằm bờ ngủ bụi canh phòng cho người dân được một giấc ngủ bình yên không bom đạn. Ban ngày đơn vị tôi phải đi phá mô, do VC ban đêm lén lút đắp mô ngăn chận giao thông, gây tâm lý bất ổn trong dân, công việc thường làm nhất trong giai đoạn này là đi tháo gỡ cờ của Việt Cộng. Trong giai đoạn dành dân lấn đất, VC thường lén lút cắm cờ trên các vị trí cao nhất trong khu vực, chúng thường cắm cờ trên ngọn cây Cau và trên những ngọn Tre.
Với mục đích tranh dành lãnh thổ, để hy vọng rằng sau khi Hiệp Định Paris được ký kết, chúng sẽ nhận đây là vùng đất của Cộng Sản. Ngoài việc cắm cờ chúng còn thường  xuyên đắp mô trên Hương Lộ, ngay cả những con đường đất trong Ấp, nhầm mục đích gây hoang mang trong dân.
Mỗi khi phát hiện khu vực bị cắm cờ, tôi thường đem một đơn vị nhỏ đến tháo gỡ, cách thức thường làm nhất của tôi là nhắm bắn từng phát cho lá cờ gẫy đổ rơi xuống đất.
VC thường gài lựu đạn và mìn bẫy dưới lá cờ, và cả gốc cây chung quanh khu vực, tốt nhất là phải bắn thăm dò trước khi bước đến, đây cũng là biện pháp bảo vệ an toàn cho lính và cho dân chúng.
Âm mưu dành Dân Lấn Đất mà VC đang thực hiện trong thời gian chuẩn bị ký kết
Hiệp Địng Paris, đã bị lực lượng ĐPQ và Nghĩa Quấn dẹp tan.
Tôi chợt nghĩ vào thời điểm năm 2013. Nếu như Việt Nam có một hiệp địng nào tương tự như Hiệp Định Paris 1973. Chấp nhận một giải pháp trái độn, một hình thức da beo. Phía bên nào cắm lá cờ của mình, thì vùng đất đó sẽ được thừa nhận là vùng đất của bên có lá cờ làm biểu tượng. Tôi nghĩ tất cả người dân Việt Nam, sẽ đồng loạt cắm cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, khi đó lá cờ VNCH sẽ tung bay trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Để nói cho Cộng Sản biết rằng.
Nơi đây chính là vùng đất Tự Do.
Một buổi sáng sớm tôi đang ngồi trên bao cát của bờ thành hút thuốc lá, nhìn làn khói thuốc bay tỏa vào không gian, một làn gió lành lạnh nhẹ lướt qua, thời tiết tháng 12 trời sẽ lạnh nhiều hơn vào ban đêm và buổi sáng. Tôi nhìn xa về cuối thôn, những khoảng ruộng đã gặt hái xong, bây giờ chỉ còn lại những gốc rạ vàng khô, và phía xa kia là những hàng tre xanh thắm, cả một vùng rộng lớn không một bóng người dân.
Chiến tranh đã cướp mất, sự thanh bình yên ấm của một vùng thôn quê hiền hòa.
Tôi đang suy nghĩ miên man, thì người lính gác cổng chạy vào báo tin.
-Ông thầy có người đẹp đến thăm.
Tôi hỏi ai vậy. Người lính trả lời:
-Em gái hậu phương, ông cứ ra ngoài sẽ biết.
Tôi bước ra ngoài phía cổng.
Thấp thoáng một bóng dáng thôn nữ, tay cầm nón lá đang tiến về phía đơn vị.
Bóng dáng người con gái đi dần về phía cổng, tôi đã nhận ra hình bóng đó là ai. Lan thường mặc bộ áo bà ba, hôm nay nàng mặc một chiếc áo bà ba mầu mạ non, hai bên hông xẻ hơi cao để lộ một làn da trắng mịn, cái quần đen bóng láng, ôm sát đôi mông căng tròn, biểu lộ một sức sống mãnh liệt của tuổi con gái dậy thì. Hôm nay nàng rất đẹp, cái đẹp tự nhiên của một thôn nữ, chen lẫn với cái đẹp xuân thì rất gợi tình, đầy nữ tính của con gái.
Đã gần 2 tháng nay Lan không đến thăm tôi, hôm nay không hẹn trước Lan bất ngờ đến thăm. Cứ mỗi lần đến thăm Lan thường ở lại với tôi vài ngày, và cả hai chúng tôi lại có dịp quấn quít bên nhau.
Tôi đón Lan từ cổng đi vào trong đồn, ngang qua hầm chỉ huy đại đội.
Lan mỉn cười và gật đầu chào mọi người.
Trung úy Phi đang ngồi chơi Domino với 2 Chuẩn úy trung đội trưởng.
Phi vừa nói vừa cười.
-Tối nay thằng Tuấn nó sẽ pháo kích, tụi mình phải chui vô hầm né đạn.
Mọi người cùng cười.
Tôi và Phi là hai người bạn, chúng tôi quen thân nhau từ những ngày đầu, khi cả hai vữa thuyên chuyển về Tiểu Khu Hậu Nghĩa, và cả hai cùng về Tiểu Đoàn 338, khi ấy BCH Tiểu Đoàn 338,  đang đóng quân tại Chi Khu Đức Huệ. Nằm ngay trong khu vực của nhà máy đường Hiệp Hòa, một nhà máy rất lớn từ thời Pháp để lại, nhưng đã ngưng hoạt động từ lâu.
Tôi đưa Lan vào trong căn hầm trúng ẩn của tôi, vừa bước qua cửa hầm tôi đã vòng tay qua lưng nàng, ôm chặt vòng eo thon gọn và quay người Lan về phía mính, tôi ôm chặt Lan và đặt lên mồi nàng một nụ hôn thật say đắm.
Lan đẩy nhẹ tôi ra và nói:
-Làm gì gấp vậy anh.
Tôi vừa cười vừa trả lời:
-Lính mà em.
Buổi chiều tối hôm đó, chúng tôi có một bữa nhậu thật ngon, một nồi cháo gà do Lan nấu và mấy xị rượu đế loại ngon. Và dĩ nhiên tối hôm đó chúng tôi lại nằm bên nhau như một đêm tân hôn.
Qua câu chuyện tâm tình, Lan cho biết gần hai tháng qua, nàng phải lên Tây Ninh ở nhà người bà con. Vì tình hình chiến sự càng ngày càng gay go hơn. Lan cho tôi biết 3 ngày nữa Lan phải rời xa tôi không biết bao giờ mới gặp lại. Tôi hỏi tại sao nhưng Lan không trả lời câu hỏi. Lan chỉ nói:
-Thôi đừng nhắc đến, chúng ta cứ vui như không có chuyện gì xẩy ra, em sẽ ở lại bên anh 2 ngày, đến ngày thứ 3 thì em phải về nhà.
Trong đêm cuối cùng nằm bên tôi, hình như Lan ôm tôi chặt hơn, nàng đòi hỏi nhiều hơn, như cố níu kéo một điều gì đó sắp tan biến đi. Tôi có một linh tính như, đây là lần cuối chúng tôi được nằm bên nhau.
Tiếng con gà trống nuôi trong đồn cất tiếng gáy vang, hình như nó đã gân cả cổ, để cất lên một tiếng gáy nghe rất oai hùng. Từ những bụi tre xanh thẳm trong thôn xóm, tiếng gà gáy vang vọng đáp lại.
Chúng tôi cùng thức dậy, đun nước sôi pha café. Trời còn mờ sáng, tôi ngồi trên cái thùng đạn pháo binh cũ, đốt một điếu thuốc đầu tiên trong ngày, trên tay là ly café còn bốc khói, lan tỏa một hương vị thơm phức, mặc dù đây chỉ là loại café hạng bét.
Lan nhìn tôi, rồi lên tiếng:
-Hôm nay em phải về nhà vì tối mai. Nàng bỏ lửng câu nói.
Tôi vội hỏi:
-Tối mai làm sao?
Lan bưng ly café bước đến ngồi cạnh bên tôi, nàng ngồi im lặng nhìn xa xăm, một lúc sau Lan nói thật khẽ vào tai tôi:
-Tối mai ba em cho người về nhà bắt em phải ra mật khu. Em không muốn, nhất là em không muốn xa anh, nhưng cả gia đình em đếu muốn như vậy.
Nghe đến đây tôi thật bàng hoàng, tự nhiện nỗi buồn lại chợt đến.
Nhà Lan không đâu xa, chỉ cách nơi tôi và Lan đang ngồi vài thửa ruộng. Tôi nhớ lại những ngày đầu chúng tôi mới quen nhau. Một buổi sáng tôi cùng đơn vị, sau một đêm đi phục kích, trên đường trở về đồn, chúng tôi dừng chân bên Hương Lộ, nơi đây dân địa phương gọi là Quán Đôi, bởi vì tại ngã 4 này có hai quan lợp tôn nằm gần nhau, cả hai đều bán tạp hóa và dĩ nhiên có bán rượu đế, beer, nước giải khát và café .
Tôi đang ngồi hút thuốc uống café bên trong quán, thi một chiếc xe lôi (loại xe Honda, hay xe đạp, có kéo theo một cái thùng xe phía sau, có thể chở được nhiếu người) Chiếc xe lôi dừng lại trước quán, cho vài người bước xuống xe, trong đó có bóng dáng một thiếu nữ, mặc bộ bà ba mầu xanh da trời, nhìn thoáng qua tôi đã nhận ra một cô thôn nữ còn quá trẻ, đang ở tuổi dậy thì, đôi tám trăng tròn. Dáng người hơi thấp, mái tóc đen óng xõa ngang vai, thân hình đẫy đà cân đối, nét mặt thật tươi với ánh mắt trong sáng và nụ cười luôn nở trên môi. Cô gái bước vào quán, một vài người lính trầm trồ nhìn theo, cô gái hình như quá quen thuộc với chủ quán, nên hai người nói chuyện với nhau.
Tôi đưa mắt nhìn Tư người lính mang máy truyền tin ngồi cạnh tôi, ngụ ý như hỏi ai đó?
Tư cho tôi biết đó lá cô Lan, nhà ở gần đồn của mình, Tư còn nói nhỏ với tôi.
-Cô Lan chưa có thẻ căn cước nghe ông thầy.
Tôi hỏi:
-Nghĩa là sao Tư.
Tư cười nhìn tôi rồi trả lời, cổ mới 16 tuổi, chưa đến 18 làm sao có căn cước.
Tôi chợt hiểu ý ghĩa mà Tư muốn nhắc cho tôi biết, nên thận trọng.
Tôi vừa nhìn về phía Lan thì bất chợt Lan cũng đang nhìn tôi.
Tôi mỉm cười và gật đầu chào. Cô gái bẽn lẽn quay đi nơi khác.
Kể từ hôm đó mỗi lần có dịp ghé Quán Đôi, tôi thường hỏi thăm về Lan.
Rồi từ đó chúng tôi quen nhau. Tôi đến với Lan thật tình cờ và Lan đã đón nhận tình yêu này cũng thật tình cờ. Như một tiếng xét ái tình, hay một trận cuồng phong của dục vọng mà cả hai đều trong giai đoạn hưng phấn nhất của tuổi trẻ.
Em là bóng đổ chiều rơi
Là chai rượu cạn chơi vơi lối về.
Tôi đã đến với Lan thật nhẹ nhàng, như một cơn say đầy cảm hứng vào một buổi chiều mưa, tại một vùng thôn quê thật thanh bình.
Tôi đang suy nghĩ miên man về những ngày đầu mới quen biết Lan.
Lan đứng lên cầm lấy chiếc nón lá và nói:
-Thôi em phải đi về.
Tôi chợt giật mình nhìn Lan. Tôi cầm lấy tay Lan, như muốn níu kéo, như muốn cố giữ lấy một cái gì đó sắp tuột khỏi tầm tay.
Tôi đưa Lan ra cổng. Bóng Lan đi, mờ khuất dần như tan biến vào hàng tre xanh thẫm cuối thôn.
Tình hình hành quân lại sôi động, những tin tức VC đắp mô, cắm cờ đang liên tục xẩy ra. Càng về cuối năm Cộng quân lại càng đẩy mạnh chiến dịch Dành Dân Lấn Đất mạnh mẽ hơn. Hôm nay Đại Đội tôi nhận lệnh từ BCH Tiểu Đoàn cho biết, theo như tin tình báo của Chi Khu. Đêm nay sẽ có khoảng một trung đội Chính quy của VC, sẽ phối hợp với du kích địa phương, về hoạt động trên Hương Lộ, rất gần với vị trí Quán Đôi. Chúng sẽ đào đường đắp mô và cắm cờ, mục đích ngăn chận giao thông trên con đường huyết mạch này, đó là Hương Lộ nối liền từ Đức Hòa với quận lỵ Hốc Môn. Chúng muốn tạo  tiếng vang trong dân.
Đêm nay, tất cả Đại Đội sẽ hành quân từ đồn Bình Thủy tiến về vị trí Quán Đôi , bố trí nằm phục kích trên đoạn đường này. Chúng tôi chỉ để một trung đội ở lại giữ đồn, cùng với khẩu súng cối 60 ly và khẩu đại liên M60.
Trời vừa chạng vạng tối đại đội chia làm 3 cánh quân tiến về hướng Quán Đôi.
Chúng tôi cố gắng di chuyển một cách bí mật, nhưng tôi tin chắc, không thể nào qua được mắt người dân và nhất là bọn nằm vùng. Bọn du kích địa phương biết chắc là đêm nay, ở quanh khu vực đồn Bình Thủy sẽ không còn người lính nào. Có nghĩa là bọn du kích đã nắm vững được tình hình trong đêm nay.
Khi ra đến vị trí phục kích nằm dọc theo Hương Lộ (con đường từ Đức Hòa chạy về Quận Hốc Môn) . Chúng tôi vừa ngồi nép mình vào một bụi tre bên vệ đường.
Bảy Lì đem ra một bi-đông rượu đế, rót một ly. Bảy vừa nói vừa đưa cho tôi.
-Uống một ly cho ấm bụng ông thầy ơi!
Tôi nhìn Bảy nói:
-Mày lúc nào cũng rượu.
Nói vậy nhưng tôi cũng cầm ly rượu uống một hơi. Chất rượu hình như đã làm dòng máu trong tôi bừng cháy lên, tôi và Bảy Lì cùng với Tư truyền tin, người mang máy cho tôi đêm nay, cả 3 chúng tôi uống thêm vài ly rượu.
Tôi chợt nhớ đến Lan, người bạn gái đã đến và thông báo cho tôi biết.
Đêm nay VC, sẽ cho người về bắt Lan đem ra vùng mật khu. Họ bắt Lan phải từ bỏ vùng đất tự do. Mặc dù Lan không thích.
Tôi nghĩ tại sao mình lại hèn nhát, không dám đứng ra ngăn chận hành động này. Tại sao những người lính Quốc Gia, lại không dám đương đầu với Cộng Sản, để dành lại những người dân yêu chuộng tự do.
Tôi càng nghĩ đến điều này, thì dòng máu nóng của một sĩ quan, dòng máu hào hùng của một Thiếu Sinh Quân trong QLVNCH, càng sôi sục bởi ngọn lửa căm hờn.
Không cho phép tôi hèn nhát, tôi phải làm một điều gì đó để ngăn chận hành động này của VC, không cho phép họ bước chân đến vùng đất Tự Do, để dành dân lấn đất.
Tôi đứng dậy hỏi:
-Ê hai đứa có chịu chơi không, cùng đi với anh trở về nhà cô Lan.
Bảy Lì nói:
-Sợ gì ai.
-Tôi sẽ đi với ông
Cả Tư cũng lên tiếng.
Từ suy nghĩ này, tôi đã trình bày hết mọi sự việc cho Trung Úy Phi.
Tôi không ngờ là Phi đã đồng ý với kế hoạch này của tôi. Phi hứa với tôi là sẽ yểm trợ hết mình nếu có gì xẩy ra.
Kế hoạch của tôi rất táo bạo, tôi sẽ về lại nhà Lan. Nghĩa là tôi phải lội bộ hơn 3 cây số, đi trong đêm nay để trở lại gần đồn Bình Thủy.
Cùng đi với tôi chỉ có hai người lính. Tư mang máy truyền tin và Bảy Lì, cả hai người lính này đều gan dạ và liều lĩnh.
Tôi căn dặn cả hai đứa, mang thêm lựu đạn và thêm băng đạn M.16.
Tôi cũng mang theo cây súng M16 ngoài cây súng Cold 45 lúc nào cũng mang bên hông
Tôi kiểm tra lại hệ thống truyền tin, liên lạc với BCH và Trung đội trừ bị đang phòng thủ trong đồn.
Ánh trăng khuyết, đang tỏa sáng mập mờ trong đêm. Ba người chúng tôi hiên ngang tiến bước, len lỏi trong các bụi tre trong thôn. Tiếng chó sủa nối tiếp nhau vì bóng dáng chúng tôi xuất hiện trong đêm.
Trời càng về đêm ánh trăng càng tỏa sáng hơn, mặc dù đêm này không phải ngày trăng rằm, nhưng ánh sáng của nó cũng đủ soi rọi một vùng thôn dã, đang chìm lắng trong giấc ngủ bình yên.
Tôi liên lạc trung đội trưởng ở trong đồn, thông báo cho Chuẩn úy Hào biết, 3 người chúng tôi đang tiến gần vế hướng đồn và gần nhà cô Lan.
Chuẩn úy Hào trả lời:
-Anh yên tâm tụi này sẵn sàng yểm trợ khi cần.
Tôi nhắc lại:
-Anh biết vị trí nhà cô Lan.
Hào trả lời tôi:
-Mọi người đều biết 5/5.
Bảy Lì vẫn lầm lũi, tay cầm khẩu M16 đi trước, tôi và Tư theo sát phía sau.
Đôi lúc 3 người chúng tôi, phải chui qua những bụi tre rậm rạp, mà tàn lá của nó đã che khuất cả ánh trăng, tạo thành một khoảng tối không nhìn thấy gì. Tôi chợt nghĩ nếu ngay lúc này. VC tấn công thì chúng tôi không thể nào trở tay kịp.
Chúng tôi vừa đến vuông tre trong khu đất nhà Lan.
Tôi ra hiệu dừng lại, nói nhỏ với Bảy:
-Em quan sát thật kỹ trước khi đột nhập vào trong. Coi chừng tụi nó đã có mặt bên trong nhà.
Nhà của Lan, là một căn nhà mái ngói lâu đời. Nằm giữa một vuông dất hơi cao hơn những thửa ruộng quanh nhà.
Chung quanh vuông đất, trồng cây tre làm hàng rào, những bụi tre già này, đã mọc ở đây từ bao đời, nên gốc tre rất lớn và rất rậm rạp. Nó tạo thành một bức tường thành bằng tre khà vững chắc.
Bên hông nhà là cổng ra vào, đi thẳng ra là mấy thửa ruộng khô, Phía bên phải lối ra vào   là một cây rơm lớn, và một chuồng trâu. Phía sau nhà là chuồng heo và gà, vịt.
Tôi ra lệnh cho Bảy ra phía cổng, đứng ở vị trí đó quan sát và canh gác.
Tôi nói với Tư truyền tin án ngữ phía sau. Còn tôi sẽ vào trong nhà.
Từ phía sau bước vào trong nhà, ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu, cũng đủ soi sáng cảnh vật trong phòng. Sự xuất hiện bất ngờ của tôi, đã làm cho hai Mẹ con Lan thật sự hốt hoảng.  Chỉ một thoáng qua Lan nhận ra tôi, nàng nở một nụ cười và trong ánh mắt của Lan, tôi đã nhận ra một niềm vui bất ngờ. Riêng bà Má của Lan, bà đang tròn xoe đôi mắt nhìn tôi, với ánh mắt thật sự hốt hoảng và đầy lo sợ, bởi vì hơn ai hết, bà đã biết chỉ một thoáng chốc nữa thôi. Chồng bà hay con trai của bà sẽ trở về, gia đình bà sẽ tràn ngập niềm vui đoàn tụ, bà sẽ thật sự hạnh phúc.
Bà không ngờ rằng làm sao tôi có thể biết được tin tức này, để rồi xuất hiện đúng vào giờ phút này. Bà cũng không thể biết được, chính cô con gái của bà, đã thông báo cho tôi. Bà rất lo sợ, vì Bà biết chắc rằng chỉ một thời gian ngắn nữa thôi.
Một trận chiến sẽ nổ ra ngay tại nơi đây, máu sẽ tuôn chảy trong căn nhà này, dòng máu đó không biết là của bên nào. Có thể là của người Chồng hay con Trai của bà, hay dòng máu này là của chính tôi.
Bà ngồi sững sờ trên bộ ván gỗ, bộ ván có một bề dầy, gần cả gang tay, bộ ván này cũng chính là nắp căn hầm trú ẩn của gia đình. Ở vùng này mỗi nhà dân đều có một căn hầm trú bom đạn. Bà ngồi trên bộ ván, hai chân buông thòng xuống trước cửa hầm, như một tư thế sẵn sàng chui xuống hầm bất cứ lúc nào.
Tôi lên tiếng chào Bà, với lời hỏi thăm, coi như không có truyện gì xẩy ra.
Bà không trả lời, vẫn im lặng nhìn tôi, và nhìn chung quanh như quan sát xem, tôi đến đây với bao nhiêu người lính. Tôi nghĩ chắc là bà rất ngạc nhiên, vì không thấy người lính nào ngoài tôi, tôi mặc kệ Bà với những âu lo riêng tư.
Tôi và Lan bược ra trước cửa chính, chúng tôi ngồi trên bực thềm nhà.
Lan khẽ nói:
-Sao anh liều quá vậy.
Tôi mỉm cười trả lời:
-Anh không sợ, vì dù sao cũng có em bên cạnh.
Mặt trăng đêm nay chỉ là vầng trăng khuyết trên bầu trời, nhưng ánh trăng cũng đủ soi sáng cảnh vật.
Tôi nhìn Lan, nàng ngồi dựa sát bên vai tôi.
Tôi nói với Lan:
-Phải chi đừng có chiến tranh.
Nhũng buổi tối trăng sáng như thế này chắc là vui lắm. Những đôi tình nhân, có thể đi dạo dưới ánh trăng thật đẹp, và thật nên thơ như đêm nay.
Bất ngờ một tràng đạn M.16 nổ vang, xé tan màn đêm yên tĩnh.
Tiếp theo là một loạt đạn AK.47. Tiếng súng nổ vang trời.
Lan băng mình qua cửa ra vào, chui ngay xuống hầm trú ẩn cùng với bà Mẹ.
Tôi vụt đứng lên, nấp bên cây cột nhà.
Tôi đưa khẩu M.16 về hướng bụi tre, bắn một tràng đạn, yểm trợ cho Bảy.
Tôi nhìn thấy Bảy chạy về hướng tôi. Bảy nói thật nhanh:
-Tôi bị thương rồi.
Tôi nói:
– Đưa súng đây Bảy, chạy rút về đồn ngay.
Bảy phóng mình qua bụi tre, chạy trên thửa ruộng khô phí sau, vế hướng đồn.
Tôi cầm hai khẩu M.16 kẹp vào hai bên hông, lia một tràng đạn về phía cổng.
Tôi vừa bắn vừa rút lui. Lúc đó Tư truyền tin cũng theo sát bên tôi.
Cả hai chúng tôi cùng chui qua bụi tre phóng ra phía thửa ruộng khô.
Tôi và Tư chạy băng qua một thửa ruộng, phóng người qua một bờ ruộng khá cao.
Tôi và Tư truyền tin nằm lại, tiếp tục bắn yểm trợ cho Bảy rút về đồn.
Một loạt đạn AK.47 bắn về hướng chúng tôi.
Tôi cầm ống nghe truyền tin, thông báo cho BCH Đại Đội là tôi đang chạm địch.
Tôi ra lệnh cho khẩu súng cối 60 ly, trong đồn bắn cho tôi vài trái sáng.
Đồng thời ra lệnh cho khẩu Đại Liên trong đồn bắn một tràng về phía bưng.
Cánh dù hỏa châu của súng cối vừa bung ra, ánh sáng soi rõ mọi cảnh vật.
Tôi không thấy bóng dáng một tên VC nào.
Tôi bắn thêm vài tràng đạn về hướng bụi tre nhà Lan.
Tôi và Tư truyền tin rút quân về đến đồn.
Trong lúc vừa chạy, tôi vừa phải trả lời những câu hỏi liên tiếp từ BCH Đại Đội và
BCH Chi Khu Đức Hòa. Tất cả đã vào chung một tần số liên lạc với tôi.
Tôi thông báo là không cần tăng viện, chúng tôi đã rút về đồn an toàn.
Trung úy Phi có ý định xin lệnh Chi Khu, cho rút quân vế yểm trợ, nhưng tôi trả lời là không cần, vì chúng tôi đã vào trong đồn an toàn.
Do đó Đại Đội 3/338 vẫn nằm im tại vị trí phục kích.
Tôi xin pháo binh Chi Khu, bắn yểm trợ cho tôi vài trái hỏa châu.
Bảy Lì đã chạy về đồn trước tôi, Bảy đang được Y Tá Hội băng bó vết thương.
Một viên đạn AK47 đã xuyên qua bàn chân của Bảy Lì, vết thương đã được cầm máu
và băng bó.
Tôi hỏi Bảy:
-Có sao không?
Bảy rít một hơi thuốc lá, vừa cười vừa nói:
-Không sao đâu ông thầy. Sáng mai em đi bệnh viện là ổn thôi. Tôi nghe Bảy nói như vậy thì cũng yên tâm.
Tôi trình bày qua tình hình địch, và đề nghị pháo binh Chi Khu bắn chận, vài trái
105 ly, loại đạn nổ chụp về hướng bưng Mũi Lớn. Vì tôi nghi ngờ là VC sẽ rút quân chạy vế hướng này.
Hai trái hỏa châu 105 ly của pháo binh Chi Khu vừa thắp sáng trên khu vực đồn.
Chúng tôi có thể quan sát rất rõ tình hình địch quân, tất cả rất im lìm không một động tĩnh nào. Tôi nghe từ hưởng bưng tiếng nổ của pháo 105 ly vọng về.
Trời sáng dần, tiếng con gà trống nuôi trong đồn lại gân cổ gay một tiếng rất hùng dũng.
Xa xa từ những rặng tre già trong thôn, tiếng gà gáy vang lên nối tiếp nhau.
Một làn sương mù, xuống thấp là đà trên mặt ruộng khô, làn gió hơi lạnh thổi về, thời tiết vào những ngày cuối năm, cũng khá lạnh vào buổi sáng sớm. Tôi khoác thêm một chiếc áo trận, châm lửa đốt điếu thuốc RuBy quân tiếp vụ, một làn khói thơm phức lan tỏa vào không gian.
Trung sĩ Hội, ý tá đại đội, lấy xe Honda 67, chở Bảy Lì vô bệnh viện.
Sau này Bảy đã tường thuật lại đầu đuôi câu truyện cho tôi nghe.
Bảy nói:
-Em đứng núp trong bóng tối của bụi tre ngay cổng ra vào. Từ trong bóng tối em quan sát phía ngoài rất rõ, trên tay là khẩu M16, choàng dây ngang vai, mũi súng luôn hướng vế trươc, và ngón tay luôn đặt trên có súng.
Không ngờ VC, nó di chuyển rất êm, nó cũng men theo khoảng tối dọc theo bụi tre.
Bất ngờ VC xuất hiện ngay trước mặt, một phản ứng tự nhiên là bóp cò súng.
Tên VC cũng bóp có súng, nhưng rất may, là mũi súng của nó đang chúi xuống đất.
Cả hai làn đạn đều bắn ra cùng một lúc.
Tên VC này chắc đã lãnh đủ những viên đạn M.16 gim vào người. Còn Bảy Lì, bị đạn AK47 gim vào chân.
Tôi đã hiểu tại sao, toán du kích này khi đến nhà Lan, họ lại thiếu đi cảnh giác. Bởi vì họ đã tin vào tình hình khu vực, chính họ cũng nhìn thấy tất cả đại đội của tôi đã đi xa.
Họ yên trí rằng, không còn một người lính nào trong khu vực này.
Họ không thể hiểu được, chính tôi là một yếu tố bất ngờ, đã đem họ đến một tình huống bất lợi. Họ đã không thực hiện đươc ý định ban đầu, mà còn nếm thêm mùi thất bại.
Theo tin tình báo của Chi Khu, đơn vị du kích này đã bị tổn thất nặng. Một chết tại chỗ đươc đồng bọn mang đi, một chết trên đường rút lui và một số bị thương, có thể do đạn pháo binh của Chi Khu bắn nổ chụp.
Sau này tôi còn biết thêm chi tiết nữa: Căn nhà ngói cổ của gia đình Lan, đã không bị thiệt hại nào, do cả hai phía tham chiến đều không muốn gây ra.
Vài tháng sau đó BCH/Tiểu Đoàn thuyên chuyển tôi về đóng quân tại Chi Khu Đức Huệ. Trong thời gian này, tôi nhận được tin Lan đã theo gia đình vào mật khu.
Hiệp Định Paris đã được ký kết vào tháng 1 năm 1973. Mấy tháng đầu tình hình chiến sự có vẻ lắng động đôi chút. Nhưng sau đó bản Hiếp Định này gần như đã bị xé bỏ, tình hình chiến sự càng ngày càng gay go hơn.
Tôi đã được BCH Tiểu Đoàn 338/ ĐPQ. Thuyên chuyển về làm Đại Đội trưởng ĐĐ.4/338. Bảo vệ vòng đai cho Chi Khu Đức Huệ. ĐĐ.4 do tôi chỉ huy, đóng quân tại một tiền đồn hẻo lánh, nằm về phía bên kia sông Vàm Cỏ Đông, một vùng đất hoang vu không một bóng người.
Hết. 

Inline image 1    Inline image 2
Hậu Nghĩa

Tôi viết câu chuyện ngắn này, như một kỷ niệm khó quên trong đời lính.

          Một người lính Địa Phương Quân. Không phải là những đơn vị hào hùng trong QLVNCH. Tuy nhiên người lính ĐPQ, luôn gắn bó rất chân tình với người dân.

Trăm năm trong cõi vô thường.
Ta ngồi viết lại đoạn trường vô thanh.
Cho người chiến sĩ vô danh
Bước vào huyền thoại, hóa thành vĩ nhân.
Vòng quay Nhật, Nguyệt xoay vần.
Ta đem viết lại, bao thân phận người.

Tôi xin mượn ý tưởng của bài thơ này, để nói lên ý nghĩa vô thường của đời sống. Đời nhà binh sớm họp tối tan. Chiến tranh thật là vô nghĩa, chỉ vì những chủ thuyết lệch lạc, vô thần mà Cộng Sản đã đem đến, gây chia rẽ, huynh đệ tương tàn, cho dân tộc Việt Nam. Có biết bao chiến sĩ vô danh, họ đã phải hy sinh, để rồi họ bị quên lãng, không để lại một âm vang nào trong chiến sử. Đây chính là đoạn trường vô thanh, không ngôn từ diễn đạt. Tôi muốn cùng các bạn, chúng ta hãy viết ra những cảm nghĩ của mình, để đem người chiến sĩ vô danh, vào trong huyền thoại của lịch sử. Cho những thế hệ mai sau, còn tìm lại niềm tự hào của người lính QLVNCH.

CTSQ. Lê Tuấn.

          Inline image 5                Inline image 6
Lê Tuấn ĐĐ/Trưởng/ĐĐ 4/TĐ 338 ĐPQ/Hậu Nghĩa                            AET. Lê Tuấn

Mùa hè đỏ lửa 1972




Nhà Văn Ninh Thuận (TT/VTLV 2016)

Nhà Văn Ninh Thuận.

 

Tên thật : Nguyễn Tâm Thuận, sinh sống tại Nam Cali.

Cựu nử Sinh Đồng Khánh Huế- Ra Trường SPQN năm 1970 ( XLTV Hiệu Trưởng Trường An Thường/ Bình Định- 1971 vào Sài Gòn Phụ Tá GS Tâm trông coi Hồ sơ Thăng Thưởng của các GS các trường Trung Tiểu Học Tư Thục Sài Gòn Gia Định. Sau 75 làm Giám Thị Marie Curie- Năm 77 về Trường cấp 1,2, 3 Thánh Mẫu Gia Định (Lam Sơn)

Năm 87 sang định cư tại Litlle Sài Gòn làm nghề tự do buôn bán và theo học Golden West College

Năm 2005 sau khi con cái thành tài ra viết sách báo và hàng năm ra mắt sách để lấy tiền giúp TPBVNCH, đồng môn SPQN ở quê nhà gặp hoàn cảnh khó khăn.

Những tác phẩm đã ra mắt:

-Truyện Ngắn ” Những Mảnh Đời 1,2,3,4 ” và Audio Books, Tình Yêu Của Biển, Đời Song Quanh Ta

– Truyện Dài: Nước Mắt Buồn Vui; Hồi Ký Mảnh Đời Của Minh-Nỗi Lòng & Khát Vọng ( Song ngữ Anh Việt)

– Thi Phẫm : Mảnh Đời; Vào Đời: Quê Hương; Sử Việt.

Những tác phẩm sẽ ra mắt:

– Truyện Ngắn : 5,6,7…

-Truyện Dài : Đời; Bạn Tri Âm, Nỗi Lòng của Thúy.

Đã là phóng viên các báo: Việt Satelite,Việt Herald, Sài Gòn Times; Việt Báo, Viễn Đông, Việt Mỹ, Thời Luận …

ninhthuan_nhungmanhdoi4rsm-ninh-thuan

Những Đoản Khúc Nursing Home

-Ông cụ vì tuổi già sức yếu, nên toàn thể cơ thể rất suy nhược. Chúng tôi sau một thời gian điều trị đã tìm ra căn nguyên, thời gian chữa trị rất lâu, chính sách Medicare không kham nổi trả tiền cho nhà thương. Vậy chúng tôi quyết định chuyển hồ sơ bệnh lý và cụ xuống Nursing Home ở Santa Ana điều trị. Tại đó Bác sĩ sẽ tiếp tục chữa tri. Nhân viên, y tá sẽ săn sóc tập luyện cho cụ từ từ đi đứng lại, nhưng với điều kiện chính đương sự phải hợp tác tích cực với nhân  viên thì việc đi đứng mới tiến triển thuận lợi…Sau gần hai tháng chữa trị tại bệnh viện, bệnh tình chú Lịnh, chú của Loan vẫn không ngồi dậy đi đứng được và không được khả quan cho lắm. Bác sĩ đưa đến quyết định khi gặp người nhà của Loan:

Thế là sau đó chú Lịnh được chuyển đến Nursing Home điều trị. Bận rộn nhiều việc, và hơn nữa lo chuẩn bị nhà cửa đón Tết, nên mấy hôm sau theo địa chỉ người nhà cho biết, Loan mới lái xe đi thăm chú. Khu Nursing Home nằm sát mặt đường, chỗ đậu xe rất khó khăn. Sau mấy vòng lái xe qua lại, nàng mới tìm được chỗ đậu xe. Bước vào văn phòng hỏi thăm, Loan được hướng dẫn lối đến phòng chú Lịnh một cách rõ ràng. Nàng đi qua một hành lang dài giữa hai dãy phòng, rồi quẹo phải mới đến phòng chú Lịnh bên trái… Tò mò Loan nhìn vào các phòng ăn, thấy các ông bà cụ đủ sắc dân, nào là Mỹ, Mễ, Đại Hàn, Phi Luật Tân, Tàu… và nhiều nhất vẫn là Việt Nam, ngồi trên những chiếc xe lăn trước những bàn ăn đang chuyện trò, ăn uống. Thỉnh thoảng Loan bắt gặp những cử chỉ trìu mến, những ánh mắt thân thương của con cháu đang vỗ về hay đút từng muổng thức ăn cho các cụ. Loan tự nhủ:

-Các cụ vào đây mà con cháu dành thì giờ đến săn sóc, thì cảm động quá! Chắc các cụ cũng được ấm lòng trước sự hiếu để của con cháu. Xứ Mỹ này vì sinh kế và không có điều kiện chăm sóc cho các cụ, thì ít nhất cũng phải thường xuyên đến thăm viếng các Người cho đở tủi tuổi già và bệnh tật ập đến là hay vô cùng!

Qua đây, Loan nhớ đến anh Bác Sĩ  tên Đức quen thân với ông anh của Loan tâm sự:

-Tôi được nên vóc nên hình, học tới nơi tới chốn như ngày hôm nay là nhờ sự hy sinh vô bờ bến của mẹ tôi đã dành trọn cho tôi. Khi ba tôi mất sớm, mẹ tôi đã một đời buôn tảo bán tần nuôi tôi nên người, rồi lo cho tôi sang xứ Mỹ hít thở không khí Tự Do. Mẹ vừa là cha vừa là mẹ đùm bọc nuôi nấng tôi mấy chục năm nay. Sau một thời gian tôi học hành thành tài, tôi ra làm việc, có địa vị danh vọng với đời. Nay mẹ tôi đau ốm bệnh tật, tôi là một Bác sĩ, nên tôi có thể chăm lo thuốc thang cho Người. Vì vậy tôi thu xếp công việc, tạm nghỉ một thời gian để phụng dưỡng mẹ già. Mẹ tôi như ngọn đèn trước gió, không biết tắt lúc nào. Đây là dịp tôi làm phận sự người con trả ơn công sinh thành dưỡng dục của Người để khỏi ân hận về sau. Vì thế dù làm bao nhiêu tiền, tôi tạm gác lại… Xứ Mỹ là xứ của cơ hội, nay mình tạm gác lại, rồi sau này khi tròn chữ hiếu mình tiếp tục làm cũng không muộn! To thuyền thì to sóng, chạy theo vật chất, biết mấy cho vừa lòng mình. Mình cảm thấy đủ và yên ổn với suy nghĩ của mình là hạnh phúc rồi! Mỗi người có một cách sống riêng, như một thi sĩ tiền bối đã nó

  Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

  Người khôn, người  đến chốn lao xao!…

-Thời xưa theo tích Tàu mình học có các gương Nhị Thập Tứ Hiếu thì nay tại xứ Mỹ tất bật này với câu nói thường nhật  Xứ của tiền bạc, của việc làm, của những cái bills chờ thanh toán,  tình người thì khan hiếm, nhưng đâu  phải không có những gương hiếu hạnh mà mình mới bắt gặp?!  Loan tròn mắt thán phục ý chí đạo hiếu của  Bác Sĩ Đức trong ý nghĩ…

Mãi suy tư, Loan đi qua những cụ già bản xứ đang rên xiết trên những chiếc xe lăn cô độc, hay những cụ già như không còn sức sống nằm rũ xuống trên những cánh tay ốm yếu, già nua khẳng khiu…Những khuôn mặt ngơ ngác, tóc tai rũ rượi tay chân buông xuôi, những đôi mắt thất thần… theo chân và ám ảnh Loan suốt quãng đường đến phòng chú Linh đưa nàng nhớ đến câu thơ của Nguyễn Công Trứ…

   Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,

        Trần có vui sao chẳng cười khì?!…

Thật vậy, con người sinh ra là phải chịu không nhiều thì ít cảnh khổ ở đời… Nhỏ thì lo học, lớn lên lo làm ăn kiếm tiền để nuôi sống bản thân và gia đình. Nếu gia đình được toại nguyện hạnh phúc thì dù chịu trăm đắng ngàn cay ngoài đời và trong việc làm cũng là người sung sướng. Nhưng nếu hoàn cảnh trớ trêu, không như ý thì vui là vui gựợng kẻo mà! Theo thời gian, đau ốm bệnh tật tuổi già kéo đến sồng sộc khi nào không biết! Nếu tuổi già có gia đình chăm sóc là phước đức ông bà để lại. Còn buồn nào hơn khi sống trong bức tường chỉ biết nói chuyện với chăn mềm giá lạnh, cô đơn vây kín… Sống trong buồn tủi và rồi nhắm mắt xuôi tay không có người thân bên cạnh cũng xong một kiếp người! Loan thở dài ngao ngán…

Bước chân vào phòng, Loan bắt gặp một khuôn mặt hốc hác, tay chân khẳng khiu với những vết xanh tím đen trên tay ông chú thân yêu, đó là dấu tích những lần vô thuốc và nước biển. Chú nằm trên giường thiêm thiếp mắt nhắm nghiền, miệng há hốc với hơi thở nặng nề. Nếu không nghe hơi thở yếu ớt, đứt quảng… thì đó chỉ là một con người hồn lìa khỏi xác mất rồi! Loan tần ngần đứng bên cạnh giường, đưa đôi mắt nhìn chú xót xa. Yên lặng bao trùm căn phòng, khiến Loan nghe rõ tiếng nhịp đập của con tim mình. Mười phút nặng nề trôi qua, một bà đứng tuổi đẩy xe lăn một người vào phòng…

-Không biết bệnh nhân này là đàn ông hay đàn bà để mình tiện xưng hô và hỏi chào?! Loan tự nhủ. Thật vậy, một hình hài khô đét, tóc cắt ngắn, khuôn mặt xương xẩu với đôi mắt sâu hoắm như không còn sức sống trong bộ áo quần xanh rộng thùng thình của bệnh viện nằm rũ trên xe. Xe đến bên chiếc giường trống, người đàn bà xốc nách đở bệnh nhân lên giường một cách khó khăn. Loan nhanh nhẹn bước tới phụ một tay với bà ta cho bệnh nhân nằm ngay ngắn. Sau khi ổn định, Loan lên tiếng bắt chuyện:

-Xin lỗi, bà là người thân của bệnh nhân!

– Dạ không phải, tôi chỉ là người trông coi bệnh nhân thôi! Trước đây, tôi ở trong chương trình săn sóc tại gia, ăn lương nhà nước săn sóc cho bà Hai được hơn năm nay. Nhưng nay bà ấy đau ốm nhiều, gia đình đưa bà Hai vào đây chạy chữa thuốc men, chính phủ không trả lương cho tôi. Con gái bà ấy bận đi làm, không thường xuyên săn sóc cho mẹ được, nên mướn tôi chăm lo cho bà Hai suốt ngày, đến chiều tối tôi mới về. Chiều đi làm về, cô ấy bới thức ăn, và vào thăm bà Hai ở lại mãi đến tối mới về. Tội nghiệp, cô ấy có hiếu với mẹ lắm. Cô đã mua đủ thứ nài ép bà cụ ăn, nhưng bà ấy đâu ăn uống gì được!

Xây qua nhìn Loan, và liếc nhìn chú Linh, người đàn bà tò mò lên tiếng nói một hồi…

-Cô bà con với ông cụ hả? Tội nghiệp ông cụ lắm! Cứ nằm thiêm thiếp không nhúc nhích ăn uống gì được! Cô Trâm, con gái ông cụ cũng hiếu hạnh lắm. Chiều đi làm về là đều đặn ghé thăm cụ. Buổi trưa cô ấy bảo chồng lấy giờ ăn trưa thăm cha già bệnh tật. Nghe đâu cậu Hòa, chồng cô Trâm làm gần đây nên chạy tới chạy lui hoài. Cô Trâm cho tôi tiền ăn quà và nhờ tôi ghé mắt thăm chừng ông cụ. Nhưng tôi từ chối nhận tiền, vì tôi đâu có nặng nhọc gì giúp ông cụ đâu, người đồng hương giúp đỡ nhau chút đỉnh có hề hấn gì cho cam!

-Tôi là cháu gọi ông cụ bằng cậu. Thôi trăm sự nhờ bà ghé mắt trông hộ cậu tôi với . Thật là quý hoá và cám ơn bà rất nhiều… Tôi cũng bận bịu công ăn việc làm, nên thỉnh thoảng mới vào thăm cậu được!

Hai người đang to nhỏ trò chuyện thì một chị sồn sồn ùa vào phòng góp chuyện:

-Tôi mới nghe loáng thoáng cô là cháu vào thăm ông cụ há? Mấy người nằm phòng này thật có phước. Con cháu hiếu hạnh, ngưòi thân và bạn bè tấp nập đến thăm viếng. Không như cái phòng xéo xéo phòng này, lạnh ngắt như tờ, nghe đâu bà cụ có mấy người con là bác sĩ,  kỷ sư gì đó mà lấy vợ có con rồi lập trang thờ bà, bỏ bê mẹ già đau yếu bệnh tật mỏi mòn trông ngóng tin con thăm viếng… Với giọng bùi ngùi, chị Hoa tiếp lời:

-Bà cụ tâm sự với tôi, chồng bà chết khi bà mới 28 tuổi, nhưng bà ở vậy nuôi ba đứa con trai. Bà đã hy sinh thời xuân sắc để nuôi dưỡng các con học hành và lo cho chúng vượt biên. Khi thành tài chúng lấy vợ có con rồi quên bà luôn ! Trước khi vào đây, bà còn mạnh khỏe muốn bồng ẩm cháu, nhưng mấy cô con dâu học thức đỏng đảnh chê bà già vụng về không cho bà đụng đến cháu. Bà sống âm thầm bên lề cuộc sống con cháu . Thế rồi bà ngã bệnh, chúng tống khứ bà vào viện dưỡng lão. Chúng viện cớ bận công ăn việc làm, không săn sóc cho mẹ già được! Bà đã buồn rầu than thân trách phận -vô phước, vô phần… Nghe đâu các ông các bà trí thức ấy không có thì giờ vào thăm mẹ già vì chanh đã hết nước. Nhưng đi du lịch, đàn đúm thì nhanh chân đi liền! Những người vô học, không biết đạo lý, cư xử không trọn nghĩa thì có thể tha thứ được! Nhưng cha mẹ một đời hy sinh nuôi cho ăn học thành tài mà cư xử với đấng sinh thành không trọn nghĩa, trọn tình thì như loài cầm thú, đáng cho người đời nguyền rủa, Trời tru, đất diệt! Sao Trời chưa trừng phạt cái thứ trí thức rõm, cái thứ bất hiếu như thế sống nhởn  nhơ như vậy cho chật đất!

-Có thể kiếp này họ được hưởng thành quả kiếp trước. Lưới Trời tuy cao lồng lộng, nhưng không bỏ sót ai làm trái với luân thường đạo nghĩa đâu! Con trai nghe lời vợ thì là chuyện thường nghe. Tôi còn nghe bà cụ nằm cách đây hai phòng bị con gái nghe lời chồng đối xử tệ bạc với mẹ mình là điều hiếm đấy nhé! Bà cụ đã tức tối khóc lóc kể chuyện… số là bà cụ có một mẹ một con, bà đã từ chối bao nhiêu đám thanh niên ve vãng… Bà ở vậy ôm nuôi con khi chồng chết trận, lúc bà Tám mới nửa chừng xuân. Bà đã bương chải lo làm ăn và có một số vốn kha khá. Sau 30 tháng tư 75, hai mẹ con đi vượt biên. Trời thương, chuyến đi trót lọt. Sang đây bà Tám tiếp tục lao động chân tay thật cật lực, và cho con ăn học thành tài. Con ra trường mới có cơ hội đứng tên mua nhà với số tiền bà đã dành dụm được. Ngày tháng êm ả trôi qua, con gái bà đến tuổi lấy chồng- một kỷ sư cầu đường, nhưng bà đâu ngờ, đúng là thằng kỷ sư  đào mỏ… Sau một thời gian sống chung với bà, nhiều bất hòa thằng rể quý cố dàn dựng… Hương, con gái bà nghe lời thằng chồng yêu qúy đã nhẹ nhàng mời bà ra khỏi nhà một cách tàn nhẩn, không một chút lòng nhân! Thằng rể còn vênh váo mặt nói không biết có phải tiền của bà down mua nhà hay không? nhưng Hương, vợ nó đứng tên, và hàng tháng vợ chồng nó trả tiền nhà là nhà của chúng nó thôi! Bà lặng lẽ khăn gói ra khỏi nhà đứa bất nhân, và đi mướn phòng ở. Nay bà đau yếu nên vào đây tá túc, xem như không có con cháu thăm viếng. Bà Tám nay hơi mạnh có thể một thời gian ngắn nữa sẽ về phòng trọ của bà, nhưng không biết ai đón bà về đây?!

-Đây số địện thoại của tôi, khi nào bà Tám về, chị gọi điện thoại báo trước tôi một ngày, tôi sẽ thu xếp công chuyện đón bà ấy về! Nghe mấy chị kể chuyện ở đây nhiều hoàn cảnh trái ngang mà đau lòng ghê! Loan mau mắn lên tiếng.

-Ở đây nhiều chuyện thương tâm lắm, kể mấy ngày cũng không hết chuyện. Không những người Việt Nam mình có con tệ bạc, mà bà Phi bên kia cũng bị con đưa vào đây bỏ chợ. Nghe đâu con bà ấy cũng dân học thức, họ không thèm tới thăm viếng, nhưng được cái thỉnh thoảng có gởi quà bánh vào nên cũng được an ủi phần nào !

– Ông Mỹ đằng kia, nghe đâu con cũng bác sĩ mà cũng để ông ấy nằm thở dốc, không vào đây chăm sóc cha già bệnh hoạn, lại viện cớ bận chăm sóc bệnh nhân.

Tiếng nói chuyện lao xao làm chú Lịnh mở mắt ra nhìn quanh… Loan nhanh chóng đến bên chú cầm tay Người hỏi thăm sức khỏe thật ân cần, nàng chỉ mấy gói quà bánh lỉnh kỉnh, và bình Hoa Lan xinh đẹp như muốn đem không khí Tết đến với người chú thân thương…

-Cháu đem tí quà chú dùng tạm trong mấy ngày Tết, cháu thấy chú không có cái radio để nghe tin tức cho vui; hôm sau cháu sẽ mang cái radio nhỏ vào biếu chú.

-Cháu vào thăm là chú vui rồi, đừng bày đặt quà bánh làm gì mất công, chú chưa muốn ăn gì cả, sau này sẽ hay! Không biết ở đây, người ta có cho mang hoa vào không, vì sợ bệnh nhân bị dị ứng, cháu mang về để chưng Tết đi ! Và nữa, chú còn mệt lắm, nên không dậy nổi mở đài được, cháu đừng bày đặt mua bán gì mà tốn tiền vô ích! Với giọng thều thào, Loan ghé sát vào mặt chú mới nghe rõ lời chú nói.

Hai chú cháu, chuyện trò một lát, Loan thấy chú còn mệt nên để chú nghỉ ngơi. Gần một giờ sau, Loan chào chú ra về và không quên chào hai người đàn bà:

-Xin chào hai bà, hai bà đừng buồn chuyện thiên hạ mà mệt ! Bàn tay có ngón ngắn ngón dài, con người cũng thế, kẻ xấu người tốt khôn cùng. Gieo gió thì sẽ gặt bão, tôi về sẽ viết những câu chuyện hai bà kể, và lần sau vào thăm chú tôi, tôi sẽ tặng sách hai bà đọc.

-Cô về bình yên, hẹn gặp cô sau, hai người đàn bà tranh nhau nói.

-Tôi thích đọc sách lắm, hy vọng lần sau sẽ đọc sách cô viết. Chúng tôi sẽ kể thêm nhiều chuyện cho cô viết!

Tiển Loan về là những khuôn mặt ốm yếu, xanh xao của các cụ già thất thần trên những chiếc xe lăn và những nỗi buồn của thế tục:  sinh, lão, bệnh, tử và của ái, ố, hỷ, nộ vây quanh cuộc sống…

Cuộc đời cõi tạm chẳng bền đâu!
Mới tuổi thanh xuân đã bạc đầu.
Vạn vật  sắc không rồi biến hóa.
Mờ mờ ảo ảo có gì đâu! 

Nhân tình thế sự cõi phù du,
Chớ để cho nhau nỗi hận thù.
Lão bệnh tử sinh vòng lẩn quẩn,
Ai rồi cũng đến chố thiên thu.

Vợ chồng con cháu nghĩa ân sâu,
Trọn đạo thủy chung đạt nguyện cầu.
Vật đổi sao dời dù khổ nạn,
Sắt son một dạ chớ quên nhau…

Nguyễn Ninh Thuận

 




Nhà Văn Chu Tấn (TT/VTLV 2016)

Nhà Văn Chu Tấn

 

chu-tan
Sinh năm 1939 tại Nam Định Bắc Việt
1958 Theo học khóa 7 sĩ quan trừ bị Thủ Đức
1963 Từ binh chủng pháo binh đổi sang quân chủng không quân
1968 -1969  Giám đốc tại bộ Thông Tin- Chủ bút nguyệt san Lý Tưởng  Bộ Tư Lệnh Không Quân
1972 Tốt nghiệp đại học văn khoa Sài Gòn.
1973 Cấp bậc Trung Tá không quân- Tham mưn phó chiến tranh chính trị sư đoàn 4 KQ Cần Thơ.
1975-1984 Tù cộng sản Việt Nam, qua nhiều trại cải tạo từ Nam ra Bắc.
1987 Vượt biên đến định cư tại San Jose Hoa Kỳ
1989 Sáng lập viên Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính trị Việt Nam
1990- 1996  Chủ Tịch Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam Tự Do (2 nhiệm kỳ)
1995 Sáng lập viên Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại
1997-2000 Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu Cộng Đồng Việt Nam Bắc California
Tác Phẩm đã xuất bản:- Tiếng hát trên cánh đồng xanh 1972 (Tuyển tập truyện ngắn)
– Thắp Sáng Quê Qương 1991(-Tuyển Tập Thơ Văn Hội Văn Nghệ Sĩ  Việt Nam Tự Do- Viết chung)
–  Vận Động Lịch Sử 1991 (Biên Luận Chính Trị -Viết chung)

Tác Phẩm sẽ xuất bản:

Tuyển Tập  Chu Tấn  – Đạo Học -Văn Hóa- Chính Trị.
Sống thuyết Nhân Chủ Việt Nam.
Đạo Sống Việt
Sống Việt Tinh Hoa
Sống Việt Thông Luận.
Sống Việt Đại Toàn.

*****

Nhận Định Về Hai Bài Thơ Ghen  Trên Thi Đàn Việt Nam

 

Nửa thế kỷ trước đây, “Thi đàn” Việt Nam đã xuất hiện một bài thơ “Ghen” của thi sĩ Nguyễn Bính đã từng làm say mê người đọc, thì ở cuối thế kỷ 20 và đầu  thế kỷ 21 này, cũng nẩy sinh một bài thơ “Ghen” của thi sĩ Chu Toàn Chung là cháu nội của Danh Sĩ Chu Mạnh Trinh ,người nổi tiếng trong văn học nước nhà ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.Trong bài này xin quí vị yêu thơ và thích thơ và nhất là những “tâm hồn đồng điệu” cùng thưởng thức 2 bài thơ “ghen”, một của thi sĩ  Nguyễn Bính  và một của thi sĩ Chu Toàn Chung.

BÀI THƠ GHEN CỦA THI  SĨ NGUYỄN BÍNH:

Trong thất tình của con người (Hỷ Nộ,Ái Ố Lạc, Ai,Dục=Mừng, Giận,Yêu, Ghét,Vui,Buồn, Tham muốn) chúng ta không thấy người xưa đề cập đến ghen, có lẽ vì “Ghen” là một phạm trù tình cảm đặc biệt .Ghen tuy bắt nguồn từ “Yêu”-Có Yêu nên mới ghen,-nhưng ghen lại chi phối  gần như trọn vẹn cả thất tình ! Thực vậy, khi đã ghen,thì người ta dễ nổi cơn “thịnh nộ” ,ghét cay ghét đắng kẻ tình địch! Và đồng thời lo sợ kẻ tình địch cướp mất người yêu của mình! Nếu thắng được tình địch thì vui mừng,(Hỷ lạc) nếu bị thua kẻ rình địch thì bi ai buồn khổ suốt đời, có khi đi đến tự tử! Nhưng động cơ chính yếu của ghen lại chính là “Tham dục”muốn chiếm hữu trọn vẹn người mình yêu!.

Bài thơ Ghen của thi sĩ Nguyễn Bính hầu như ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần đọc qua và đều cảm thấy thích thú và mỉm cười vì thấy thi sĩ sao mà ghen quá đỗi,quá thể.

Tác giả mở đầu bài thơ ghen bằng cách nói thẳng với người tình:

“Cô nhân tình bé của tôi ơi
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi và mắt chỉ
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi”

Đã là người yêu của thi sĩ thì không được quyền “cười” với ai, và cũng không được “nhìn” ai và chỉ được quyền cười, được quyền nhìn ngắm thi sĩ mà thôi…Điều này cũng dễ hiểu,vì tâm lý những kẻ đang yêu đều không muốn người tình của mình cười nói thân mật với những người khác .Như vậy là em chưa yêu tôi sao?Em chưa trân trọng với tình yêu của chúng ta sao? Em đừng cười với ai nữa nhé! Nụ cười của em đáng gí hơn ngàn vàng sao em lại có thể cười với“thế nhân”như thế được? tia nhìn của em mới trìu mến làm sao! Ai được em nhìn ngắm thì quả là một đẵc ân mà ngoài anh ra, còn ai xứng đáng với cái nhìn đó của em?

Thi sĩ Nguyễn Bính nổi tiếng về những bài thơ bình dị,chất phác nói lên tâm hồn của những người “nhà quê” .Có người chê thơ Nguyễn Bính dễ dãi “như vè”, nhưng đây là một sai lầm lớn.Tuy thơ Nguyễn Bính không gọt rũa chau chuốt,bong bẩy, nhưng tác giả  có bút pháp và cách nhìn riêng đi thẳng vào tâm hồn  người đọc, nên rất nhiều người đọc thơ Nguyễn Bính ,say thơ Nguyễn Bính, thuộc nằm lòng thơ Nguyễn Bính.Nêu chỉ là “vè”thì làm sao cảm được lòng người sâu đến như thế ?T

Trong thơ Nguyễn Bính còn chứa cả một cái hồn của quê     hương dân tộc ,điển hình như bài thơ Chân Quê:

Hoa chanh nở ở vườn chanh
Thày u mình với chúng mình chân quê

Hôm qua em đi tỉnh về

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.Hai nhà phê bình thơ khá nổi tiếng là Hoài Thanh và Hoài Chân trong cuốn Thi Nhân Việt Nam đã viết về Nguyễn Bính như sau: “Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta vẫn thấy trong vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình đơn giản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ở thời trước, tôi chắc người đã làm  những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm…”

Nhà văn Vũ Bằng thì cho rằng: “Nguyễn Bính là một thi sĩ suốt đời mắc bệnh tương tư như chính thi sĩ đã xác nhận:

 “Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Theo nhà văn Vũ Bằng thì thi sĩ ăn ở 2 điểm:

Anh đã nói lên tiếng nói chân thật của lòng với lời lẽ bìnhthường của dân gian không úy kỵ  không kênh kiệu.

Anh đã nhắm đúng vào một cái bệnh chung của loài người là cái bệnh tương tư, người dân mất nước tương tư quê hương,người con gái lấy chồng tương tư dòng sông cũ, người đàn ông không được yêu thương tương tư người yêu lý tưởng, người bị tình phụ tương tư người đã phụ mình …Có thể nói tất cả văn thơ tiền chiến của Nguyễn Bính đều nhắm vào bệnh đó và anh nổi bật cũng vì bệnh đó .Sở dĩ như thế chính vì anh mắc cái bệnh đó thật,vì ai biết Nguyễn Bính đều không chối cãi được điều này: Bắt gặp ai anh cũng mê, mê người thương mình, mê luôn cả người không thương mình,mê người có thể yêu thương được, và mê luôn cả người không  có quyền yêu thương! Yêu quá lố, mê quá xá, rút cuộc không làm gì được thì tương tư…”

Bản chất Nguyễn Bính là người nhà quê, song Nguyễn Bính cũng là người “trót dan díu với kinh thành” nên cái ghen của nguyễn Bính cũng rất thành thị:

Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai
 Đừng hôn dù thấy bó hoa tươi
Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ
Đừng tắm chiều nay bể lắm ngừơi

Cái ghen của Nguyễn Bính là cái ghen của người thành thị, song cũng chính người thành thị khó mà chấp nhận dược cái ghen qúa lố  của tác giả! Đã đành là thi nhân có quyền hư cấu hay cường điệu, nhưng ở đây tác giả đã đi quá xa, ghen gì mà ghen đến độ “cấm” người yêu không được ôm bó hoa tươi, không được “ôm gối chiếc” khi ngủ, nhất là không được tắm biển, khi đông người, thì cái ghen đó đã trở thành quá lố, phi lí hoàn toàn không thể chấp nhận được

Có người lại cho rằng cái ghen của Nguyễn Bính không thực , hay chỉ là cái ghen của thời phong kiến kiểu “chồng chúa vợ tôi”! Chứ thời đại vệ tinh chúng ta thì lối ghen kể trên đã trở thành lạc hậu! Nếu bài thơ này được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp thì người ngoại quốc sẽ chê người Việt Nam quá cổ hủ lỗi thời.

Đối với những người sống cùng thời với Nguyễn Bính,hay biết Nguyễn Bính quá rõ thì lại mỉm cười cho rằng: Nguyễn Bính một con người đa cảm một thi nhân theo triết thuyết “đam mê” thì chỉ có thơ tình của Nguyễn Bính là thực thôi còn ngoài ra có cái gì thực nữa đâu!

Nguyễn Bính lại là người mắc bệnh tương tư chỉ vì chàng quá nghèo, lại quá đam mê nên không ai dám yêu chàng (Vì không ai yêu nên suốt đời mắc bệnh tương tư?) mà đã không có người yêu thì TÌNH YÊU của tác giả chỉ là “ái tình bản thảo” có thực bao giờ đâu! Người yêu đã không có thực hay không thực có thì “ghen” chẳng qua cũng chỉ là cái “ghen tưởng tượng” “ghen bản thảo” đó mà! Đối với ái tình bản thảo, đối với “cái ghen trong thơ” mà chúng ta cho là “phi lý” hay “không thực” nếu tác giả còn sống chắc tác giả cũng lấy làm lạ : “Thơ của mình chỉ là sản  phẩm của tưởng tượng mà người đời lại cho là thật ,để rồi tranh cãi nhau giữa chân và  giả! Chẳng lẽ thơ mình hay đến thế sao?”

Theo đa số người vẫn cho rằng: “Đàn bà hay ghen hơn đàn ông” vì vậy mới có câu:

“Ớt nào mà ớt chẳng cay

Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng”

Nhưng khi đọc thơ ghen của Nguyễn Bính mới thấy rằng: cái ghen của đàn ông mới là cái ghen tối đa:

Tôi muốn mùi hương của nước hoa
Mà cô thường sức chẳng bay xa
Chẳng làm ngây ngất người qua lại
Dẫu chỉ qua đường khách lại qua
Tôi muốn những đêm đông giá lạnh
Chiêm bao đừng lẩn khuất bên cô
Bằng không tôi muốn cô đừng gặp
Một trẻ trai nào trong giấc mơ”

Cái ghen của Nguyễn Bính không dừng lại ở chỗ đó mà còn tiến xa hơn nữa :

Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ
Đừng làm ẩm áo khách chưa que.
Chân cô in gót trên đường bụi
Chẳng đấu chân nào được dẵm lên!

Ghen mà cả đến làn hơi của người yêu cũng giữ độc quyền! Ghen đến mức dấu chân người yêu trên đường bụi cũng không cho ai được dẵm lên thì cái ghen đó đã trở thành cực kỳ phi lý hay trở thành tuyệt đối rồi!

Chính tác giả cũng biết mình ghen như thế là “quá lố” “ quá phi lý” quá sai ! Nhưng thi sĩ không phải như người tỉnh cơn mơ, cơn say “Tỉnh cơn ghen” …Ở đây  tác giả giải nghĩa cái ghen của mình  và đi đến đúc kết  lớn hơn:

Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi
Thế nghĩa là yêu quá mất
Và nghĩa là cô là tất cả
Cô là tất cả của riêng tôi!

Điểm lại bài thơ ghen của Nguyễn Bính từ đầu ta thấy tác giả đua ra một loạt những mệnh lệnh nào tôi muốn…cô đừng…..

Từ chỗ không được cười, không được ngắm nhìn người khác…đến không được nghĩ đến ai, không được ôm hôn bó hoa tươi, không được ôm gối chiếc ngủ…không được tắm khi biển đông ngừoi, không được sức nước hoa… hay nếu có, thì nước hoa đó không làm ngây ngất người qua lại, dù họ chỉ là khách qua đường…cũng không được luôn!Ban đêm ngủ ngừơi yêu không được quyền mơ…, nếu mơ …thì cấm không được gặp một chàng trai trẻ nào trong…mộng! Thậm chí làn hơi cô thở nhẹ …cũng không được làm ẩm áo khách chưa quen….và dấu chân người tình đi trên đường…không ai được dẵm lên!

Sở dĩ có những đòi hỏi quá quắt ,những mệnh lệnh tình yêu buộc cô nhân tình của thi sĩ khắt khe như vậy…chỉ vì QUÁ YÊU, QUÁ SI TÌNH.Nguyễn Bính  quan niệm NGƯỜI YÊU LÀ TẤT CẢ Nhưng tất cả của riêng chàng thôi!

Nói tóm lại, cái ghen của Nguyễn Bính là “CÁI GHEN TUYỆT ĐỐI” VÀ CHIẾM HỮU HOÀN TOÀN NGƯỜI YÊU TRÊN CÁC MẶT TƯ TƯỞNG,TÌNH CẢM VÀ TRONG MỌI SINH HOẠT HÀNG NGÀY.

BÀI THƠ GHEN CÓ NHAN ĐỀ NHẮC NHỞ EM CỦA CHU TOÀN CHUNG:

Cũng một đề tài “GHEN” song thi sĩ Chu Toàn Chung có lối diễn tả khác:

          “Em giờ bên ấy có vui không
          Nhớ giữ dùm anh cặp má hồng
          Đừng để nắng hè vương mái tóc
          Hay buồn vời vợi mắt mùa đông

Mở đầu bài thơ, tác giả đã thăm hỏi người yêu ,thi sĩ tỏ ra rất “ga lăng” săn sóc người yêu.Nếu Nguyễn Bính gọi người yêu bằng “Cô nhân tình”  thì trái lại Chu Toàn Chung thương yêu trìu mến  gọi người yêu bằng em hay trang trọng hơn gọi là Người (chữ người viết Hoa).

Văn hào Victor Hugo quan niệm:” Yêu là tin một nửa” vì có ai yêu mà không băn khoăn thắc mắc, không phập phồng lo sợ mất người yêu? Khi đang yêu cho dù tự tin đến đâu những kẻ yêu nhau vẫn e ngại một người thứ ba, một tình địch nào đó đến tán tỉnh người mình yêu, nhất là xa mặt cách lòng…

Nếu Nguyễn Bính “ghen” bằng cách đưa ra những mệnh lệnh tình yêu thì Chu Toàn Chung chỉ khéo léo tế nhị đưa ra ngững lời nhắc nhở, cho dù là điều tối kỵ chăng nữa, thi sĩ cũng không bao giờ có lời nói, cử chỉ làm “phật ý” người yêu hay làm người yêu “tự ái” .Trái lại còn tôn vinh người yêu nữa.

“Cẩn thận nghe em cả nụ cười
              Đề phòng kẻ lạ ngắm môi tươi
              Và điều tối kỵ anh thường nhắc
              Đừng để cho ai tán tụng người

Từ những kiếp xa xôi nào,Thi sĩ và Giai nhân bao giờ cũng là kẻ “NÒI TÌNH ĐỒNG ĐIỆU” ( Chũ dùng của Thi Sĩ Chu mạnh Trinh)

               Giai nhân danh sĩ mấy người
               Bốn phương tâm sự một trời cố đô

(Thơ Vũ Hoàng Chương)

Thi sĩ có người yêu tuyệt vời nhan sắc, khi nàng đi ra ngoài biết bao nhiêu người chiêm ngưỡngNàng chẳng là “vưu vật” của thế gian sao? Nhà thơ thầm lo lắng là phải:

Những lúc em đi dạo một mình
               Sơ sài trang điểm đủ vừa xinh
               Vì em lộng lẫy anh thừa biết
               Đá cũng thầm ghen chuyện chúng mình

Như tất cả mọi người yêu trên thế gian “có yêu nên mới ghen” có yêu nên sợ mất người yêu! Yêu là tham lam ích kỷ, yêu là phập phồng lo sợ,yêu là tham dự vào một cuộc hành trình không biết có nguy hiểm không nhưng đầy bất trắc! Nàng Kiều khi xưa yêu Kim Trọng cũng hết sức lo lắng:

“Bây giờ tỏ mặt đôi ta
                Biết đâu rồi nữa chẳng làchiêm bao?

(Kiều)

Theo quan điểm và thi pháp giữa Nguyễn Bính và chu Toàn Chung có khác biệt song cả hai thi sĩ có một điểm giống nhau là không muốn người mình yêu đêm nằm mơ thấy một “đối tượng” khác .

“Em cũng đừng ra tựa gố mai
                Kẻo anh hàng xóm ngó sang hoài
                Về đêm khi ngủ em đừng để
               Giâc mộng thiên thần nhập bóng ai

Với Chu Toàn Chung yêu không phải là ích kỷ, mà còn là “DÂNG HIẾN VÀ TÔN VINH” người mình yêu.Đây là điểm rất đẹp và cũng rất nhân bản, rất người của Chu Toàn Chung .Nhưng đâu phải chỉ một mình thi sĩ biết ngưỡng vọng người yêu, biết đâu một tình địch nào khác cũng đang tìm đến để tán tỉnh ngưỡng vọng người mình yêu thì sao? Nếu yêu đồng nghĩa với ân cần nhắc nhở …như sợ tình yêu chắp cánh bay cao…Tình càng say đắm, càng trở nên mong manh ….Thi sĩ như sợ mất đi nhũng gì quí báu nhất đời:

Này nữa Anh cần nhắc nhở thêm
                     Phòng Em thường trực nhớ buông rèm
                     Bởi Anh không muốn người qua lại
                     Dừng bước nghiêng mình ngưỡng vọng Em”

Nhắc nhở thì vẫn nhắc nhở, song thi sĩ Chu Toàn Chung vẫn tràn đầy tin tưởng là một ngày không xa người yêu sẽ cùng mình tái ngộ. Thi sĩ tự hỏi mình, không biết nhắc nhở như vậy có là một hình thức ghen hay không? Hình như mình cũng đang “Ghen”?

 

“Nhắc nhở em yêu thế đủ rồi
                      Chờ ngày Hoàng hậu trở về ngôi
                      Hình như anh cũng ghen rồi đấy
                      Ghen để em cười nở ngát mội.”

Điểm lại toàn bài thơ “NHẮC NHỞ EM” của thi sĩ Chu Toàn Chung tuy nhan đề bài thơ có khác, nhưng thực chất vẫn là bài thơ “GHEN”

Nếu cái ghen của Nguyễn Bính là cái ghen có tính cách “phi lý không thực” không thể đem áp dụng ngoài đời mà chỉ là sản phẩm của tưởng tượng….cái ghen lãng mạn ,hướng về Tyết Đối chiếm hữu toàn diện người mình yêu …thì trái lại cái ghen của Chu Toàn Chung không cực đoan, không phi lý, hay quá lố mà là cái ghen tiềm ẩn bên trong của tất cả mọi người chúng ta …Cái ghen của Chu Toàn Chung là cái ghen rất tế  nhị, khéo léo, Thi sĩ không hề cấm đoán đe dọa người yêu vi yêu theo thi sĩ là ngưỡng vọng, dâng hiến và tôn thờ …thì làm sao dám cấm đoán người mình yêu?Và cấm đoán người khác?Tác gỉa chỉ khéo léo nhắc nhở thôi. Đặc biệt thơ Chu Toàn Chung mỗi lần nhắc nhở là một lần tôn vinh….

Nếu chúng ta đặt mình vào phái nữ là người yêu của tác gỉa  chẳng hạn ta sẽ thấy rất cảm động ví có người yêu biết đến giá trị mình ,biết trân quí tình yêu (và còn biết ghen nữa…) nhưng là cái ghen tế nhị, đáng yêu và đáng tư hào biết mấy!

Trong phạm vì bài này, chúng tôi mời độc giả thưởng thức 2 bài thơ cùng một chủ đề “GHEN” song có nhiều điểm khác nhau ngoài ra người viết không làm công việc so sánh đối chiếu xem “ai tài hơn ai”? Vì trên phương diện nghệ thuật, thi hứng,bút pháp, cách cấu tứ,cách xử dụng từ hoa,mỗi người một khác,nhất là khi quan điểm sáng tác,mỗi người lại không giống nhau thì thật khó nếu không muốn nói là không thể nào, định giá người này hơn người kia, khi không có tiêu chuẩn nào để định giá! Làm như vậy là bất công và bất kính với tất cả cả các thi sĩ! Nói cách khác,ai thích bài thơ nào là tùy ý mỗi người. Ở đây chúng tôi chỉ muốn nói, cùng một  đề tài ghen, song thi sĩ Nguyễn Bính và Chu Toàn Chung đứng trên hai quan điểm khác nhau: một bên lãng mạn, tuyệt đối hóa và chiếm hữu toàn diện,một bên tương đối,cận nhân tình, dâng hiến  ngưỡng vọng và tôn vinh tình yêu….

Hai bài thơ‘GHEN”như hai bông hoa Quívà Đẹp đầy sắc hương của nền Văn hóa Văn Nghệ Việt Nam.

San Jose Thung Lũng Hoa Vàng

CHU TẤN

 




Nhà Thơ Hồng Hà (TT/VTLV 2016)

Nhà Thơ Hồng Hà.

 

Tên thật Vũ Hồng Hà, bút hiệu Hồng Hà, Thu Hoài
Tốt nghiệp trường sư phạm văn Nha Trang – Việt Nam
Tốt nghiệp trường bác sỹ chỉnh xương  tại San Jose, CA
CEO công ty Nutrition & Beauty, LLC,  San Jose, CA – USA

_ak38381

Ngõ Cụt

Tôi lạc bước vào ngõ hẻm
Vừa hẹp vừa sâu,
nghe đâu cuối đường là quán nhỏ
không bán đường, nước ngọt hay hoa quả

Vài cuốn sách
cái xe cũ – hình như là đồ hiệu
lắm kẻ ngó vào nhưng ngại dừng chân
Người cao, sợ phải uốn éo cho vừa
đành quay lui trong nuối tiếc
Người thấp, không biết nên mang guốc hay giày da cao
để không dị hợm
Ngõ hẻm hay ngõ cụt?
khi âm thanh, ánh sáng nơi đó rất lung linh
và nội thất cũng đầy huyền ảo
Ban ngày hé mở chào bình minh
tối về lạc lối giữa màn đêm
với vườn thơ đầy mộng ảo
Cuối cùng tôi gặp em
như nàng tiên cá trong cổ tích
Nàng hiện lên chòang vai ôm hôn tôi thắm thiết
rồi chuồi xuống vẫy vùng,
và chìm lặn vào đại dương cách biệt.
Tôi rã rời
bước đi khật khưỡng
lòng vòng trong ngõ cụt…
02/05/2013
Hồng Hà

 

 

 

 

Sự Sống Không Chỉ Là Hơi Thở

Anh ơi,
Nhớ làm gì quá khứ nhục nhằn
để tương lai phủ lấp mây đen!
Quá khứ nhục nhằn
đã kết chấm hết lúc nửa đêm của ngày hôm qua rồi anh ạ.

Khi cuộc sống quanh ta,
nàng thơ gối đầu ngủ vùi trên cánh tay vệ sỹ
Và anh có biết
sau lớp mây kia còn lấp ló một vầng trăng?
Là vầng trăng khuyết giữa bầu trời đầy sao, lung linh, lơ lửng….

Nhưng anh ơi, xin đừng say
Vì say ham bắt bóng trăng mà dương gian sớm mất một thi tài Lý Bạch
Hãy là một phi hành gia vững chải
vượt không gian,
đi vào trong Trăng
ghì lấy chị Hằng
để minh chứng sự sống không chỉ là hơi thở

Nếu không có một phi thuyền,
xin hãy trộn xi măng nhiều vào trong cát
để xây một lâu đài
Đặt cửa chính ở Đông Nam, cửa sổ hướng về Tây Bắc
để mỗi sáng mùa hè,
chào đón mặt trời từ hừng đông trên bãi biển
và đêm đông ôm nàng thơ xinh đẹp cùng ngắm nhìn trăng soi bên cửa sổ
Lâu đài hạnh phúc muộn màng giữa trần gian bội bạc
Và lần nữa minh chứng sự sống không chỉ là hơi thở.

Hồng Hà 

 

Tôi Rất Muốn


    Tôi rất muốn đến thăm miền sa mạc
Cùng nô đùa giữa trời nắng chang chang
Co ro lạnh khi đêm khuya sương xuống
Thò đầu ra (Ngoài lều), đếm sao dưới trăng vàng

Tôi rất muốn lang thang chiều phố lạ
Bên ai, nhìn lữ khách… bụi đường xa
Tựa vai nhau bước đều trên biển vắng
Ngắm hoàng hôn, mây tím bóng chiều tà

Tôi rất muốn lên tận cùng đỉnh dốc
Từ nơi đây nhìn xuống phố người đông
Vẽ trong trí từng cành hoa, khóm  cỏ
Và thu hình đâu đó một dòng sông…

    Tôi rất muốn bên ai cùng thi họa
Đuổi khó, xua đau, ca khúc nghê thường
Diù bước nhật khoan du dương tiếng nhạc
Ngây ngất say tình, ân aí yêu thương

Thứ tôi muốn chỉ là điều giản dị
Biết bao người có được chẳng thiết tha
Xài hạnh phúc như món hàng xa xỉ
Trong khi tôi, quí hơn cả ngọc ngà!!!

Hồng Hà

 

 

 

 

Vô Đề II

Nhớ lần tôi trở lại quê xưa
Cảm xúc sao nói hết cho vừa
Hình ảnh trẻ thơ ngày đến lớp
Nay giữa sân trường phảng phất đưa

Mấy chục năm xưa cũng lối này
Người đi kẻ ở ai có hay
Đường xưa ngõ cũ nay khác lạ
Xa rồi thuở ấy, tuổi thơ ngây

Ngắn ngủi làm sao hỡi cuộc đời
Sang, hèn, đẹp, xấu … bạn hiền ơi
“Ngày đi” ví được mang tiền nhỉ
Sẽ mua tấm vé, chốn Nước Trời

“Thế giới vô thần” vẫn thế thôi
“Trần gian-Địa ngục” quá đủ rồi
Chúng ta hiệp ý…. chung lòng nhé
Yên bình quê mẹ……. ấm bạn, tôi.
10-10-2016
Hồng Hà

 

 




Nhà Thơ Thư Khanh (TT/VTLV 2016)

Nhà Thơ Thư Khanh

thu-khanh

Thư Khanh (bút hiệu) sinh tại NAM ĐỊNH – miền Bắc Việt Nam. Bố là công chức ngành Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp .

-Bố đi tù Lý Bá Sơ. Ông Nội trong danh sách đấu tố ! –

May mắn nên đã trốn thoát lên Hà Nội và cả nhà di cư vào Nam năm 1954 .

– Vào Nam : Thư Khanh học tại trường Trưng Vương Sài Gòn – Sư Phạm Sài Gòn . Rồi được bổ đi dạy học tại các trừờng Công Lập Sài Gòn .

Kết hôn với PHAN LẠC GIANG ĐÔNG – có hai con trai và1 cháu nội  ( trai ) .

Sang Mỹ theo diện H.O của chồng

* THƯ KHANH đã tập tành làm thơ từ khi mới quen với Phan Lạc Giang Đông . Nhưng sáng tác nhiều là sau năm 2001 – sau khi Phan Lạc Giang Đông mất ( năm 2001)  : THƯ KHANH nhận phụ trách chương trình  Đọc Thơ Cho Nhau Nghe trên đài phát thanh : Sài Gòn HD Radio của thi sĩ Quốc Nam tại Seattle . Số thơ Hiện nay có trên 1412 bài thơ posted trên Web vantholacviet .org và Sài Môn Thi Đàn ,và báo giấy ĐẤT ĐỨNG của nhà văn NHẬT THỊNH& KHUÊ DUNG tại Nam CALIFORNIA .

Thơ đã in: TRĂN TRỞ

————————————————————————————————–

Ngắm Em 

 Ngắm em …- không rượu mà say ,
Bởi khuôn mặt ngọc nét mày liễu cong .
Bởi say đôi má căng hồng ,
Làn da tuyết điểm cổ tròn kiêu sa …
Miệng cười hoa vỡ thiết tha ,
Vòng eo tròn lẳn – nhấp nhô trái đào .
Mắt tình lóng lánh  vì  sao ,
Làn mi xanh  …tả biết bao cho vừa .
Nói năng “ Ngọc thốt “ : dạ thưa ,
Từng lời dịu ngọt như thơ anh làm .
*

Từ ngày anh gặp được Nàng ,
Anh say …- Say cả Sắc Hương mất rồi !!!

THƯ KHANH ( Seattle- 12- 13- 2015 )

 

 

Sáng Tinh Khôi 

Sáng sớm mở cửa ra
Thấy mình như trẻ lại
Vạn vật thay áo mới
Mặt trời dạo trên đồi .
-Đôi chim ca lảnh lót
Thông đánh nhịp cùng vui
Cành đào đang chớm nụ
Gió rì rào đơm hơi .

*

Nhánh sông dài trong vắt
Đôi mắt Ai chờ Ai …
Ta bỗng nhìn ngây dại
Buồm căng về xa xôi …
Biển xanh  hoa sóng nở
Khuôn mặt ngọc …Ai chờ …

THƯ KHANH

( Seattle- 12- 1st– 2015

                                                                                                                                                 

Ngày Sinh Nhật Em Anh Không Về Được

 

Ngày sinh nhật em – anh không về được .
Nắng quân trường thao tác …rã mồ môi
Đôi giày đinh ba tháng trời – lau vội
Áo treizy bụi bám đỏ – lên mùi
Chiếc khăn thêu em tặng anh ngày nọ
Kỷ niệm đầu – anh vẫn để ba lô
Quyển nhật ký ghi từng ngày thương nhớ
Vẫn dầy thêm dòng mực tím mong chờ
– Ngày cuối tuần anh mừng vui như Tết
Về Sài Gòn là tức tốc thăm em
Dưới gốc me … bóng Nàng đợi chung tình
Em kiều diễm – nhoẻn nụ cười má lúm …
– Dang đôi tay cho hôn vào má lúm
Gió thì thầm khen đôi bạn uyên ương
Ơi Tình yêu ! Trời đất cũng nghê thường
Chùm mây trắng bỗng dưng như trẻ lại
Đôi chim trên cao …hát bài hát mới
Đậu trên cành ríu rít chẳng bay đi …
– Thương quá đi em …Chiều tắt gần kề
Nắng hoàng hôn Sài Gòn …tuyệt đẹp …
Gió hiu hiu níu hoài không muốn tắt
Quán nước dừa … cô bé đợi đôi ta
Áo bà ba cô bé rất hiền hoà
Nụ cười mỉm mang theo nhiều dí dỏm
Cô bé Miền Nam vừa ngoan vừa đảm
Thay mẹ nuôi em vất vả từng ngày
Đôi mắt Nàng vướng vất chút thơ ngây
Già trước tuổi bởi chiến tranh tan nát !
Rồi …
– Chả lẽ chúng ta không vào quán
Suốt cả tuần HUẤN NHỤC khát mang theo
Khát môi em – hương vị ngọt tình yêu
Và khát cả ly dừa xiêm  mát lịm …
*
Ơi em yêu !
Ngày Quân Trường HUẤN NHỤC
Lỡ không về mang quà tặng cho em
Ngày sinh nhật em …
Nào có bao giờ quên
Và càng nhớ khi anh không về được !
THƯ KHANH-

(Seattle – 5- 18- 2013 – gửi về Phan Lạc Giang Đông với kỷ niệm xưa 1968)

 

 

 

DĂM VẦN THƠ

(Kính tặng thi sĩ CHINH NGUYÊN và thi sĩ Quốc Nam – Trưởng Ban tổ chức :

Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam – vào ng ày 14+15+16 th áng 4- 2016 t ại San Jose nước Hoa Kỳ )
Đầu đã bạc nhưng lòng chưa bạc
NỢ  VĂN CHƯƠNG còn gắn bó keo sơn .
Từng Ngày Đêm – MÓN NỢ VĂN CHƯƠNG
Cùng NỢ NƯỚC THÙ NHÀ chưa trả được .
*
Chưa trả được lòng ta còn áy náy .
Còn chập chờn trong giấc ngủ – chưa say .
-“ Này chị này anh – Này Em …
chung một bàn tay

Thề Quyết Chí thành công – Giương cao cờ Chiến Thắng !”.

THƯ KHANH ( Seattle – 9- 23- 2016 )

 




Nhà Văn TS Nguyễn Hồng Dzũng (TT/VTLV 2016)

Nhà Văn TS Nguyễn Hồng Dzũng

 

hongdung

Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Dũng sinh tại Quảng Ngãi, định cư tại Hoa Kỳ theo diện Tỵ nạn Chính trị. Tốt nghiệp Electronics Engineer in San Jose State University & Doctor of Philosophy in Business Administration in Southern California University. Công việc: SMT & QA Engineer & Product Manager cho các hãng Solectron Inc, Wellex Manufacturing Company, Pemstar Electronics Inc. Giảng sư Trường Đại học California State University Hayward, Project Diversity Screening Committee choThành phố San Jose, Quản Trị hệ Thống Vegetarian Di Lac. Sinh hoạt Cộng đồng: Phó Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành NgườiViệt tại miền bắc California (Federation of Vietnameses American in Northern California), Phó Chủ Tịch Hội Văn Thơ Lạc Việt Hải Ngoại; Chủ Tịch Tổ Chức Văn Hóa Việt Mỹ (Vietnamese American Culture Foundation VACF), Sáng lập viên Trường Cao Đẳng Phật Giáo Thực Dụng (The Practical Buddhism College). Chủ bút Báo Hoa Cành Nam. Chủ biên và bình luận thời sự về Chính trị, Văn hóa, Giáo dục trênHệ thống Direct T.V truyền hình Viên Thao. Và  hệ thống truyền thông Calitoday Media.

 

Tác phẩm đã xuất bản:

-Nước Mắt của Biển (1992)
-PhápVũ (2008)
-TườngVân (2010)
-Búp Sen Hừng Sáng (2011)
-Chuyến Đi Biền Biệt (2012)
-Quang Trung Hồn Việt (2013)
-Kinh Thơ Diệu Pháp Liên Hoa (2015)
-Lam Sơn Hồn Việt (2016)
-Ngàn bài bình luận
-Lịch Sử Việt Truyền Hình

Tác phẩm sẽ in:

-Thân Chứng
-Hoa Nghiêm Trường Thi
-Duy Ma Cật Trong Thời Đại Kỷ Thuật Số
-Kim Cang Kinh Thi Phẩm

 

tac-pham-nhdung_6  tac-pham-nhdung_4  tac-pham-nhdung_3  tac-pham-nhdung_1

CHỮ NHO

PHƯƠNG TIỆN CHỐNG ĐỒNG HÓA TỪ THỜI BẮC THUỘC

Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Dũng

 

Đất nước, con người, văn hóa, nghệ thuật, ngôn ngữ hay đình chùa miếu mạo xưa nay nếu không nằm trong quy luật vô thường, ẩn hiện, tương đối thì không bao giờ có cái thường và tuyệt đối. Nếu không có cái thường và tuyệt đối, thì ngày nay ta chẳng bao giờ được gặt hái một kết quả  cao thượng, vì vậy mà sự vô thường và cái tương đối là sự tiến hóa của muôn loài, bao gồm Tổ quốc và Dân tộc từ ngàn xưa đến tận ngày nay.

Nếu chúng ta lấy mốc thời gian khởi thủy dòng Việt tộc từ họ Hồng Bàng với mười tám đời vua Hùng Vương truyền ngôi trên đất nước Văn Lang (1) thì năm tháng khởi thủy nhất định vẫn là một sự bàn cãi của các sử gia chưa được thống nhất. Theo sách sử ghi chép thì vua Hùng Vương thứ mười tám có người con gái Mị Nương xinh đẹp đến tuổi cập kê nên Thục Phán là vua nước Âu Lạc muốn hỏi làm vợ, Vua Hùng không gả khiến cho Thục Phán tức giận gây chiến, Vua Hùng Vương cậy mình có tinh binh dõng tướng mà lơ là việc quốc phòng liền bị Thục Phán khởi binh đánh thắng năm 257 trước Tây lịch, sát nhập Văn Lang vào Âu Lạc, tự xưng là An Dương Vương đóng đô ở Phong Khê, xây thành Cổ Loa tại Đông Anh, Hà Nội.

Bấy giờ ở nước Tàu có vua Tần Thỉ Hoàng thống nhất thiên hạ khắp phương Bắc nên muốn bành trướng đất nước về phương nam bèn sai tướng Đồ Thư đem binh đánh lấy đất Âu Lạc cùng các bộ tộc Bách Việt. An Dương Vương chống cự không lại nên chấp nhận thần phục nhà Tần. Đồ Thư chia đất vừa lấy được ra làm ba quận là Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận; người dân Bách Việt không quy phục nên chống lại người Tàu, giết chết Đồ Thư. Bấy giờ vương triều nhà Tần phương bắc suy vi, giặc giã nổi lên chống triều đình và quan quyền nên loạn lạc xãy ra khắp cùng trong thiên hạ.

Đất Âu Lạc của An Dương Vương phát triển trở lại và cậy có nỏ thần trong thành Cổ Loa nên ỷ y không lo canh phòng, Quan Thái Úy quận Nam Hải là Triệu Đà lập mưu với ý đồ thôn tính Âu Lạc mà không thành công nên dùng kế kết nghĩa hòa thân bằng cách cho con trai là Trọng Thỉ sang cưới Mị Châu tức con gái An Dương Vương để làm nội gián. Sau khi biết nỏ thần là bảo vật chống giặc nên Trọng Thỉ tráo đổi và quay về Nam Hải tường trình việc quân bị. Triệu Đà biết rõ cơ mật liền đem quân đánh lấy Âu Lạc năm 207 trước Tây lịch, lập ra nước Nam Việt, xưng là Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung.

Thời điểm Triệu Đà lập quốc thì nhà Tần suy yếu, Lưu Bang nhà Hán đang phát triển vương triều, nước Tàu đại loạn, bản thân Triệu Đà là người Tàu, làm quan cho nhà Tần nhưng muốn kiến tạo Nam Việt là quốc gia độc lập tự chủ ở phương nam nên thiết lập triều chính, pháp luật, văn hóa, chữ viết giống với người phương bắc. Trong suốt 70 năm trị vì, Triệu Đà đã áp dụng những tập tục phong hóa gần như tương đương với vương triều nhà Tần, nhà Hán bên Tàu, đặc biệt là cách viết chữ Hoa  [花] một loại chữ tượng hình, tượng thanh vuông vức rất đẹp như các đóa hoa nên được gọi là chữ Hoa. Năm 137 trước Tây lịch thì Triệu Đà băng hà hưởng đại thọ 121 tuổi, truyền ngôi cho Triệu Văn Vương, Triệu Minh-vương, Triệu Ai-vương và cuối cùng là Triệu Dương-vương cả thảy được bốn đời. Triệu Dương Vương làm vua được chừng một năm thì vua Vũ Đế nhà Hán bên Tàu sai Phục ba tướng quân Lộc Bác Đức và Dương Bộc đem năm đạo quân đánh lấy Nam Việt, triều đình chống lại mãnh liệt nhưng bị thua và bị sát hại tất cả, nước Nam Việt bị người Tàu đô hộ từ năm 111 trước Tây lịch, đổi tên là Giao Chỉ Bộ.

Mục đích của triều đình nhà Hán là muốn thôn tính Nam Việt, sát nhập vào nước Tàu hay còn gọi là đồng hóa cùng dòng tộc nhà Hán với nhau. Đây là tính tự nhiên của một dân tộc nhỏ hơn về diện tích, ít dân hơn về chủng tộc, thiếu văn minh hơn về nhân văn trong sự giao tiếp thường nhật. Tuy nhiên người Hán không đủ sức để làm việc này bởi lẽ số binh lính và quan lại người Tàu không nhiều để áp đảo số lượng dân chúng tại địa phương nên thiểu số phải phục tùng đa số, do vậy mà cuối cùng là những kẻ xâm lược muốn tồn tại phải chấp nhận theo học, thực hành những gì mà dân bản xứ đang sử dụng tại địa phương. Người Nam Việt chẳng những không mất đi bản sắc dân tộc mà còn được tiếp nhận thêm một số tập tục, cách thức hay ho của những kẻ muốn sang đồng hóa.

Các quan lại người Hán dùng Hán [漢]tự trong các văn kiện, sớ sao, ấn chỉ v.v..nhưng không cần phải cưỡng bức bởi vì chữ Hán bấy giờ tức chữ Hoa trước kia đã được lưu chuyển, giao dịch công văn, ngôn tự truyền đạt từ thời vua Vũ vương Triệu Đà nên từ tầng lớp thượng lưu trí thức đến các hương mục, sĩ tứ thứ dân đều không bị áp lực cưỡng chế, thỏa mái trong thông tri và phát âm theo địa phương mà kẻ xâm lược lại ngẫn ngơ không hiểu nỗi.

Trên thực tế đồng hóa giữa hai dân tộc với nhau diễn ra trong hình thức hòa trộn nền văn hóa, kẻ nào mạnh hơn, nền văn hóa hấp dẫn hơn, đông dân hơn thì đối tượng kia ít dân hơn, lạc hậu, không có bản sắc văn hóa riêng sẽ bị phụ thuộc. Tiếng nói là một công cụ quan trọng nhất để định hình một dân tộc, trong cùng một nhóm, một bộ tộc hay một cộng đồng thì ngôn ngữ gốc là một sợi dây vô hình nhưng thiêng liêng thần thánh tuyệt vời trói buộc những con dân của bộ tộc thành một sắc thái đặc thù riêng biệt. Mất đi ngôn ngữ chính gốc sẽ là hiện tượng đồng hóa với dân tộc mà mình đang sử dụng ngôn ngữ đó, nên bản sắc dân tộc gốc sẽ bị mai một và biến mất theo thời gian. Do đó, tiếng nói là một thành tựu của văn hóa, bảo tồn tiếng Việt là bảo tồn giống nòi, bảo tồn văn hóa và con người thuần chủng.

Từ năm 111 trước Tây lịch người Hán thực hiện ý đồ thôn tính Nam Việt bằng nhiều kiểu xuyên qua ngành học thuật, văn hóa, cách sống v.v.. nhưng ngôn ngữ vẫn là phương tiện truyền đạt dễ dàng làm cho sự đồng hóa giữa hai dân tộc tiến nhanh hơn; tuy vậy tổ tiên chúng ta đã phát hiện thâm ý này sớm hơn những mưu mô của đám quan lại nhà Hán, bởi lẽ từ thời Triệu Đà, tiếng Hoa được sử dụng trong nền giáo dục đại chúng như sổ sách, công văn, chiếu chỉ đều được viết bằng tiếng Hoa, ông cha ta đã dùng văn tự mà không phát âm theo Tàu, ngược lại nói và đọc theo âm Nam Việt thuần chủng. Ví dụ chữ “Việt Nam” khi viết đều giống nhau nhưng lúc phát âm thì chỉ có người Nam Việt đọc là Việt Nam còn người Tàu có nghe cũng không hiểu, trừ khi đọc theo âm Quảng Đông là “Dụyt nàm”.

Trước khi người Hán muốn đồng hóa dân tộc Nam Việt thì chữ viết theo hình vuông được người dân đặt tên là chữ Nho [儒], nghĩa là chữ của kẻ có học hành, có kiến thức. Cũng nên lưu ý rằng chữ Hoa có từ thời thượng cổ, đời nhà Thương, chế tác qua các triều đại trước đời nhà Hán cả năm bảy thế kỷ theo sự  cấu tạo bởi sáu nguyên tắc gọi là lục thư gồm Tượng hình, Chỉ sự, Hình thanh, Hội ý, Chuyển chú, Giả tá.

-Tượng hình là dùng phương pháp vẽ sự vật và hình ảnh để tạo ra chữ viết. Ví dụ chữ mục [目] là mắt phải vẽ sao cho giống con mắt.

-Chỉ Sự là ta suy tưởng ra rồi theo khái niệm trừu tượng về những sự vật vô hình. Ví dụ chữ tam [三] là ba có ba gạch ngang.

-Hội ý là chữ được nối từ hai loại Tượng hình và Chỉ sự ở trên, thêm vào nét chấm, phết thì ra chữ mới. Ví dụ chữ vương [王]có thêm dấu chấm trên đầu là chữ chủ [主] hay dấu chấm bên phải là thành chữ ngọc [玉]. Chữ lâm [林]là rừng dùng hai chữ mộc [木] ghép lại ngụ ý nhiều cây hợp lại tạo thành rừng.

Hình thanh là dùng phần dấu hiệu chỉ ý nghĩa và phần khác thì chỉ âm. Khi muốn viết chữ khác thì có thể thay đổi hình và giữ âm lại. Ví dụ chữ hà [河] là sông gồm bộ thủy cọng với chữ khả thành ra chữ hà.

-Chuyển chú là những chữ cùng chung bộ chữ, có ý nghĩa tương đồng, bổ sung cho nhau.  Ví dụ các loại chim bay đều dùng bộ điểu [鳥] rồi thêm vào cho ra các chữ thuộc về loài có cánh, biết bay như chim phụng [鳳]hoàng. Chữ trường [張]là dài và chữ trưởng [長]là lớn tức là trưởng thành. Do đó hai chữ trường và trưởng cùng một ý nhưng thêm nét cho rõ nghĩa.

– Giả tá là loại chữ mượn âm của chữ đã có sẵn để đặt ra chữ mới cho một sự vật vừa xuất hiện, nói lên ý nghĩa mới chứ không tạo chữ mới. Ví dụ chữ lệnh [令] trong mệnh lệnh mượn làm chữ huyện lệnh. Chữ đạo [道]là con đường cũng viết thành chữ đạo lý [道理]hay đạo đức [道德].

Người Nam Việt từ thời Triệu Đà đã mượn lối viết lục thư nêu trên làm phương tiện truyền thông giao dịch từ triều đình trung ương đến các quan lại địa phương và dần dần lan rộng ra quần chúng. Chữ Nho chính là chữ Hoa nghĩa là chữ đẹp đẽ, vốn chỉ những người học hành, những người có kiến thức, thường được dùng để nói về Nho gia, Nho giáo, Nho học, Nho sinh. Từ khi đạo Khổng, đạo Lão truyền bá vào nước ta với các pho sách Tứ thư(2), ngũ kinh(3), người Việt gọi là sách Nho bởi vì văn hóa Việt bị ảnh hưởng về tôn chỉ của đức Khổng Tử để xây dựng con người và xã hội qua việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ; và muốn đạt mục đích trên, ta cần giữ luân lý Tam cương (vua đối với quân thần, cha đối với con, vợ đối với chồng), nam giới cần có Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), nữ giới cần có Tam tòng (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con) và Tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh). Bởi vậy mà người theo học thuyết này cũng được gọi là đạo Nho.

Từ thời đại Hồng Bàng, nước ta cũng có những ký hiệu để biểu thị truyền thông như hình chim cò, hoa sao, nhật nguyệt. Tuy nhiên chúng ta chưa có đủ thời gian phát triển chữ viết thành một hệ thống riêng lẽ thì thời kỳ Triệu Đà từ năm 257 trước Tây lịch lại phổ biến chữ Hoa nên dân ta có được một phương tiện giao dịch phong phú, còn gì tốt cho bằng. Hơn nữa tổ tiên chúng ta cần giao thiệp, buôn bán qua lại với nước Tàu nên chữ Nho phát triển rất nhanh để dùng làm phương tiện đàm thoại bằng chữ viết là chuyện bình thường. Có thể ý muốn của Triệu Đà phổ biến chữ Hoa cho dân chúng sử dụng mang mục đích đồng hóa và đô hộ toàn dân thành một khối, nhưng sức mạnh văn hóa của Nam Việt đã khiến cho triều đình và quan lại phải nương theo phong tục, tập quán, ngôn ngữ và cả niềm tin của tòan dân mà giao thoa trong cai trị để hòa nhập, cuối cùng con cháu Triệu Đà bị Việt hóa và trở thành dòng giống bách Việt.

Từ khi Hán Vũ Đế bên Tàu sai Phục ba Tướng quân Lộc Bác Đức và Dương Bộc đánh chiếm Nam Việt, nước ta bị nhà Hán đô hộ từ năm 111 truớc Tây lịch, đổi tên là Giao Chỉ Bộ nên có người gọi chữ Hoa hay chữ Nho thành ra chữ Hán, thói quen đó đã thành thông lệ cho đến ngày nay, bởi dòng tộc Hán lớn mạnh ở phương Bắc do Lưu Bang hình thành nên mặc nhiên người đời cho đó là chữ của Hán tộc.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao từ năm 111 trước Tây lịch nước Nam Việt bị các triều đại phương bắc thay nhau cai trị, dân tộc Hán đã muốn đồng hóa người dân phương Nam thành một quận huyện của Tàu, muốn biến cả một đất nước thuộc dòng họ Bách Việt thành một bộ tộc trong đại gia đình Hán tộc, muốn xóa sổ dòng giống Lạc Hồng trên bản đồ thế giới, nhưng rốt cuộc sau một ngàn năm thống trị, người dân Nam Việt lại nổi lên giành lấy chủ quyền mà điển hình là Bà Trưng năm 39 sau Tây lịch, Bà Triệu năm 258; đến cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm của Ngô Vương Quyền năm 938 đuổi quân nam Hán về lại phương bắc, lập nên một thời kỳ tự chủ lâu dài với bản sắc dân tộc không hề thay đổi. Cả một ngàn năm cai trị dân Nam, đáng lẽ nền văn hóa Nam Việt dễ  thường bị nền văn hóa Hán tộc đồng hóa; nhưng điều kỳ diệu là dân tộc Nam Việt chẳng những không hề suy suyển mà còn tiếp thụ cái hay của các tập tục, phong hóa, nghệ thuật để biến thành cái rất “Ta”, rất nhuần nhuyễn hợp người phương Nam, lưu truyền được phong tục và tiếng nói riêng biệt, giữ được hồn dân tộc không bị lai căn.

Chiếc chìa khóa thần kỳ này chính là tổ tiên ta đã khai dụng chữ Nho để học hỏi và truyền tin với nhau, nhưng khi phát âm luôn dùng tiếng thuần Việt, vì vậy mà cả ngàn năm đó tổ tiên chúng ta vẫn giao tiếp thỏa mái với người Hán bằng loại chữ Nho, tức chữ Hán theo cách gọi phổ thông, nhưng khi nói chuyện thì dứt khoát là dùng tiếng Việt phiên âm hay còn gọi là âm Hán Việt; kẻ sĩ có học trong trường ốc hay chiếu chỉ văn sớ cung đình cũng sử dụng âm Hán Việt chứ chưa bao giờ dùng ngôn ngữ Quảng Đông, Phúc Kiến hay Triều Châu để đối thoại lẫn nhau. Các quan lại người Tàu sang cai trị nước ta cũng dùng bút đàm để liên lạc chứ cũng ít kẻ siêng năng ráng sức học ngôn ngữ bản xứ. Do đó mà hai dân tộc dù có ở chung nhau trong một quận huyện cũng chẳng bao giờ hòa hợp với nhau, giống như nước với dầu có khi nào mà dung hòa thể nhập? Đồng hóa thì tương tự như nước với sữa, nhưng dân Nam Việt là nước còn Hán tộc là dầu mà lại là dầu lửa thì muôn đời khó hòa quyện lẫn nhau. 

Các đế quốc thực dân chiếm những nước thuộc địa đều áp chế sự đồng hóa ngôn ngữ, bởi vì chừng khoảng vài trăm năm sau thì các đế chế đó sẽ xóa ngôn ngữ bản địa mà thay thế bằng ngôn ngữ thực dân. Chúng ta nhìn nước Phi Luật Tân sau thời kỳ đô hộ bởi Tây Ban Nha và Hoa Kỳ thì ngôn ngữ dân tộc là Tagalog, một loại ngôn ngữ chính thống Filipino cũng bị thay thế bằng tiếng Anh. Nước Ba Tây bị Bồ Đào Nha chiếm làm thuộc địa từ thế kỷ thứ XV, sang thế kỷ thứ XVII cả nước nói tiếng Bồ Đào Nha mà tiếng bản địa Ba Tây trở thành cổ ngữ!. Một số quốc gia Châu Phi như Togo, Sénegan bị Pháp đô hộ và tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thống, các loại ngữ tộc Togo, Sénegan ngày nào không một ai nhắc tới. Riêng với dân tộc Việt Nam đã bị Pháp đô hộ từ năm 1858, tiếng Pháp đã phổ biến trong các trường học sơ cấp, trung cấp từ sau khi thế chiến thứ nhất chấm dứt năm 1918; Lớp thanh niên đã bắt đầu sử dụng tiếng Pháp trong sinh hoạt, học hành, buôn bán lên đến 50%; nếu như không có những cuộc đối kháng chống Pháp nổ ra như các phong trào Văn Thân (4), Cần Vương (5),  Đông Kinh Nghĩa Thục (6), cuộc Tổng khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng (7) nổi lên chống lại thực dân Pháp thì việc đồng hóa ngôn ngữ do Phú Lang Sa (8) đề xướng dễ gì thất bại chua cay?

Tổ tiên của chúng ta từ miền nam sông Dương Tử di cư xuống phương nam nên rất hiểu những ý đồ thâm độc của bọn người phương Bắc. Chính sự hiểu biết đó mà cha ông chúng ta đã đề ra những phương cách hữu hiệu ngăn ngừa kiểu đồng hóa ngôn ngữ trước khi đồng hóa dân tộc, các kế sách hay ho dùng để gìn giữ được tiếng nói riêng biệt của nước Nam trong suốt chiều dài hơn ngàn năm bị ngoại bang thống trị là sự khôn ngoan tuyệt vời bảo toàn trọn vẹn lãnh thổ đến hôm nay.

Cũng từ sự hiểu biết đó mà trong huyết quản sâu thẳm của người phương Nam ít chịu sự khuất phục hay điều động từ người phương Bắc, vì vậy mà ý thức đối kháng đã chảy trong từng động mạch, từng sớ thịt của từng người dân Nam khiến cho dù ngàn năm đô hộ giặc Tàu mà tinh thần tự chủ, ý chí bất khuất của dân Việt lúc nào cũng hừng hực cháy. Sự mâu thuẩn giữa kẻ mạnh muốn xóa bỏ văn hóa, ngôn ngữ bản địa lại gia tăng sự hiềm khích, phản đối của dân tộc bị trị, đổ thêm dầu vài lửa cho cuộc trường kỳ kháng chiến chống ngoại xâm. Đó chính là bức rào ngăn cản sự đồng hóa sau ngàn năm thống trị đất Nam Việt bởi nhà Tần, nhà Hán từ phương bắc dòm xuống phương nam.

Chữ Nho là do người Việt đặt tên với hàm ý là người có học, ngưòi Tàu sẽ không biết ý nghĩa này; chữ tự nghĩa là chữ sau này dùng vào các âm ghép như Hán tự, văn tự chứ không dùng Hán Nho, văn Nho dù cùng một nghĩa như nhau. Mượn chữ viết để truyền tin là việc làm đúng đắn, bởi vì bất cứ nền văn minh nào được phát hiện thì con người vận dụng và thừa hưởng là điều thiên kinh địa nghĩa, tổ tiên ta không ngại ngùng trước việc vay mượn chữ Hoa để sử dụng trong chuyện giao tế, thông tin, nhưng quy ước cách đọc là một sáng tạo độc đáo. Mỗi chữ viết, tổ tiên ta đặt một âm Việt tương đương, vừa dễ nhớ, vừa liên tưởng đến vật dụng hàng ngày đặng mau thuộc mặt chữ. Âm Việt của chữ Hoa mà sau này đổi thành chữ Hán gọi là âm Hán Việt tức chữ Nho, vì đọc theo tiếng mẹ đẻ thì tất nhiên dễ dàng hơn học tiếng Quảng đông. Văn hào Nguyễn Du chắc không nói được tiếng Tàu nhưng có thể đọc được tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân (9) bằng chữ Nho nên sáng tác ra Đoạn Trường Tân Thanh tức truyện Kiều, một tác phẩm thi ca tuyệt trần trong kho tàng văn học nước nhà, chắc chắn sẽ sống mãi với nhân gian mà nhà văn Phạm Quỳnh của thập niên 40 trong thế kỷ XX từng nói: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước Việt còn” là một minh chứng cho kết quả cao thượng.

Một ngàn năm giặc Tàu đô hộ nước Nam Việt nhưng không đời nào tiêu diệt được ngôn ngữ bản địa, trái lại tiếng Việt lại càng thêm phong phú tạo ra các tác phẩm thi ca, nhạc kịch, liễng đối quá thâm trầm, ý nhị, âm vận lại du dương khiến người nghe tưởng như lời hát vi vu trong gió. Sự sáng tạo chữ Nho của cha ông chúng ta đã giúp cho Nam Việt tránh được tình trạng bị người Hán đồng hóa đã đành, mà nguy cơ mất đất, mất chủ quyền trong thời gian một ngàn năm Bắc thuộc không hề xãy ra. Nền văn hóa lâu đời của Việt tộc rất phong phú, dồi dào nên khó thay thế bằng một loại văn hóa ngoại lai, tinh thần xã hội và kỷ cang gia đình đã bắt rễ từ thời đại Hồng Bàng nên không thể xen kẻ bất kỳ hình ảnh khác lạ nào vào cuộc sống bình dị, mộc mạc của dân quê. Cái đình làng vốn có hàng ngàn năm trước dù nằm âm thầm dưới gốc cây đa nhưng là một cơ sở kháng sinh mãnh liệt cho bất kỳ loại ký sinh ngoại lai nào xâm nhập vào đời sống dân dã đã có từ thời Hùng Vương.

Vô hiệu hóa những âm mưu đồng hóa của người Hán là những tư duy tuyệt đỉnh của tổ tiên chúng ta. Dùng chung một ngôn ngữ là con đường đồng hóa rồi sát nhập vào nước lớn mau lẹ nhất, nhưng điều này không hề xãy ra trên lãnh thổ nước Việt xưa là bởi dân ta có chữ Nho để sử dụng, có chữ Hoa để bút đàm, cả hai phương tiện này là dòng chảy xuyên suốt đầy cảm thông giữa kẻ thống trị và kẻ bị trị nhưng lại không bao giờ hòa quyện với nhau, do đó mà chuyện đồng hóa còn lâu mới thực hiện được đối với một dân tộc có cá tính riêng, có ý chí bất khuất kiên cường, và có kinh nghiệm sống dưới nỗi hà khắc bất công bởi Bắc thuộc cả một ngàn năm đằng đẳng chua cay.

San Jose February 8-2016

___________________________________________  

Ghi Chú:

(1)Văn Lang tên nước đầu tiên của Việt Nam được thành lập và  cai trị bởi các vua Hùng.

(2) Tứ Thư là bốn tác phẩm kinh điển của Tàu gồm: Đại Học , Trung Dung Luận ngữ và Mạnh Tử

(3) Ngũ Kinh là 5 pho kinh gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu

(4) Phong trào Văn Thân là một phong trào quần chúng do các nho sĩ Việt Nam lãnh đạo với mục tiêu “bình Tây, sát tả” để cứu nước. Phong trào này khởi phát từ năm 1864 bằng cuộc bãi thị của sĩ tử trong kỳ  thi Hương tại các trường miền Bắc và miền Trung nhằm phản đối triều đình nhà Nguyễn  Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) nhượng 3 tỉnh miền Đông của Nam phần cho Pháp.

(5) Cần Vương do ông Tôn Thất Thuyết – một đại thần thuộc phe chủ chiến – đưa vua Hàm Nghi ra ngoài, phát hịch Cần Vương chống Pháp năm 1888. 

(6) Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), do ông Lương Văn Can huy động để  bỏ lối học từ chương, du nhập những tư tưởng mới từ Nhật hoặc các nước tiến bộ để phát triển văn hoá, thúc đẩy sử dụng chữ quốc ngữ thông qua các hoạt động giáo dục

(7) Tổng khởi nghĩa Yên Bái:  cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc Dân Đảng vận dụng khởi xướng ngày 10 tháng 2 năm 1930 chống Pháp.

(8) Phú Lang Sa: France, Pháp thuộc, giặc Tây

(9) Thanh Tâm Tài Nhân tên thật là Từ Văn Trường, một nhà văn đời nhà Thanh thế kỷ  XVII tác giả tiểu thuyết Kim Vân Kiều. Cụ Nguyễn Du đi sứ sang Tàu đọc được tác phẩm này nên sáng tác ra Đoạn Trường Tân Thanh tức Truyện Kiều.

 

Tài liệu:

-Lịch sử cổ đại Việt Nam; Đào Duy Anh

An Dương VươngTừ điển bách khoa Việt Nam

-Từ điển điện tử wikipedia.org/wiki/Chữ_Nho

                -Việt Sử Toàn Thư Phạm Văn Sơn, 1960.

                -http://www.taphopdongtam.org/baiviet/phubientapluc.html

               -Đại Nam liệt truyện, ghi chép về gia phả nhà Nguyễn, 

               -Lê quý dật sử, Bùi Dương Lịch 

Đại Nam Quốc sử Diễn ca  Đỗ Văn Ninh
-The Institute for Vietnamese Culture & Education

 




Nhà văn Nguyên Thanh Xuân (TT/VTLV 2016)

Nhà Văn Nguyễn Thanh Xuân

 

inviteh

Thanh Xuân là một đứa con gái sinh trưởng và lớn lên tại thành phố Đalat trong một gia đình mười hai anh chị em với người cha làm Trưởng Ty Thú Y kiêm Phó Trưởng Ty Nông Nghiệp.

Từ nhỏ Thanh Xuân được đi học trường Mến Thánh Giá , Đà lạt, sau được đổi tên là trường tiểu học Thiên-Hương do các bà sơ dòng Mến Thánh Giá thành lập.

Khi đến tuổi vào trung học, Thanh Xuân được thi đậu vào Trường Nữ Trung Học Bùi Thị Xuân năm 1970 học lớp đệ thất.  Đến năm 1975, khi đất nước bị rơi vào tình trạng khói lửa, bắt đầu từ tháng 3, những tỉnh lỵ miền trung mất dần theo bản đồ và bị cộng sản chiếm đóng.  Khoảng giữa tháng tư, dân chúng ở Đà Lạt kéo nhau bỏ chạy tuy rằng không có một tiếng súng nổ.  Gia đình cha mẹ Thanh Xuân và mấy anh chị em đi đường xe đò chạy về Nha Trang bỏ lại sau lưng ngôi nhà yêu quý và bao nhiêu kỷ niệm thời thơ ấu.  Năm đó Thanh Xuân vừa học hết lớp 11C (C tượng trưng cho môn văn chương) trường Bùi Thị Xuân.

Sau khi Viet Nam đã rơi vào tay cộng sản ngày 30 tháng tư năm 1975, cả gia đình cha mẹ anh chị em đang ở Saigon và trú ngụ tại nhà người chị thứ Ba nằm trên đường Công Lý gần phi trường Tân Sơn Nhất.

Tháng tư 1975 cả gia đình bị kẹt lại Saigon với niềm đau buồn của người dân bị bỏ rơi.  Thanh Xuân đã ghi tên vào học năm cuối lớp 12A tại trường Nguyễn Thượng Hiền và thi đậu tú tài toàn phần năm 1976.  Vì lý do gia đình cha cô làm cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thời trước 1975 (bọn cộng sản liệt kê vào thành phần con ngụy) cho nên Thanh Xuân không được tuyển vào đại học.

Tuổi mới 18, cô mang một tâm hồn mơ mộng như tất cả những người con gái Việt Nam trong lứa tuổi này, nhưng trong một xã hội như cộng sản thì họ chỉ muốn vinh danh dân lao động cho nên ép buôt tất cả những thanh niên thiếu nữ trong lứa tuổi 17, 18, nếu không đi học thì phải đi về vùng kinh tế mới khai phá đất để trồng trọt phát triển kinh tế cho nhà nước.

Chính vì thế khoảng cuối tháng chín năm 1977, gia đình người chị lớn âm thầm thu xếp một chuyến đi vượt biển qua đường Rạch Giá, hai người em được chọn để mang theo làThanh Xuân và người chị kế Thanh Loan.  Sự lựa chọn để dấn thân trong một cuộc ra đi mạo hiểm mà người ta thường nói: “Một sống, hai chết” đã làm cho Thanh Xuân trở nên gan dạ, chấp nhận cái chết nếu đi không lọt.

Con thuyền định mệnh đã rời Rạch Giá vào một đêm không có trăng nên tối mịt, sau năm ngày năm đêm trôi dạt trên biển khơi đã được tắp vào một đảo bỏ hoang chỉ dành cho dân tị nạn lúc bấy giờ, đó là đảo Paula Tengah nằm gần Maylasia.  Trại tị nạn lúc bấy giờ có khoảng hơn 1000 người đang chờ giấy tờ đi định cư xứ người.

Trong danh sách những người chọn đi Mỹ, gia đình Thanh Xuân thuộc diên có làm cho Mỹ thời trước và có thể nói và đọc Anh ngữ lưu loát cho nên thời gian chờ đợi chỉ có ba tháng (so với những người khác đã chờ đợi hơn một năm mà vẫn chưa thấy được gọi tên).

Đầu năm 1978, Thanh Xuân và gia đình đã đặt chân đến Mỹ, định cư tại Mountain View, California dưới sự bảo lãnh của người anh rễ và chị dâu.

Thanh Xuân bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới lạ, ban ngày đi làm cho một hảng điện tử và ban đêm đi học ở Foothill College, sau đó chuyển qua San Jose State University học về kinh doanh, và hiện đang làm địa ốc tại Intero Real Estate Almaden về buôn bán nhà cửa.

Năm 1985, Thanh Xuân lập gia đình với một người Mỹ Ed Cutshaw và có ba người con trai.  Năm 1989 nhờ sự bảo lãnh của phu quân, Thanh Xuân đã đem cha mẹ và 4 chị em còn lại qua đoàn tụ tại San Jose.

Năm 2009, khi thân phụ qua đời, Thanh Xuân đi với con trai út về Việt Nam thăm quê hương lần đầu tiên sau 25 năm xa quê hương đất tổ.  Khi trở về Mỹ, cô có một cảm hứng dâng tràn và viết hai tác phẩm đầu tay bằng hai thứ tiếng Anh và Việt ngữ với chủ đề: “Con đường đi đến giàu sang và hạnh phúc” và cuốn thứ nhì “Bí ẩn của sự thành công”.  Hai cuốn sách xuất bản qua nhà xuất bản Mỹ và đã được đưa vào thư viện toàn cầu (library of congress) và đang hiện bán qua Amazon hoặc Barn and Nobble.

Sách của cô thuộc diện tâm linh và nói rất nhiều về những định luật của vũ trụ như luật thu hút, luận nhân quả, luận cho và nhận.v.v.

Nguyện vọng của Thanh Xuân là bằng cách nào cho người đời sống và biết cách áp dụng những định luật này trực tiếp vào những lối suy nghĩ và hành động của mình mỗi ngày để tạo cho mình một cuộc sống như những ước mơ mình có sẵn.

Cô còn nói rằng mỗi người, vật hay sinh vật đang sống trong thế giới vũ trụ đều phải theo như nhau, không một ai hay một vật gì có thể đi ngược chiều.  Nếu biết cách đi thuận buồm xuôi gió thì cuộc sống trở nên đẹp vô cùng.

Thế thì tại sao con người chúng ta luôn tìm kiếm hoài mà không thấy hạnh phúc?  Tại sao bao nhiêu người mơ ước được cuộc sống giàu sang nhưng mãi hoài vẫn loay hoay cơm gạo áo tiền, sống chật vật và thiếu thốn?  Nếu bạn nào chưa hài lòng với cuộc sống hiện tại và muốn thay đổi cuộc đời, hãy tìm đọc sách của Thanh Xuân. Website:  www.xuanthanhnguyen.com hoặc vào Amazon www.amazon.com tìm tựa đề : ”A Road to Wealth and Happiness” or “ The secret to success” by Nguyen Thanh Xuan.

con-duong-di-toi-sang-giau               bi-an-su-thanh-cong

Quê Hương Việt Nam trong ký ức
Nguyễn Thanh Xuân

 

Quê hương tôi trước 1975, một hình ảnh đẹp nên thơ cho dù trong thời chinh chiến, cho dù mãnh đất quê hương Việt Nam đã bị dày xéo bởi bom đạn khói lửa như những lớp hằn trên con lưng con ngựa hoang.  Riêng tôi, có lẽ tôi chưa lớn đủ để có nhận thức được bao nỗi hoang mang lo lắng từng ngày của mẹ cha, những ưu tư của mẹ tôi nhớ đứa con trai lớn đang đi ra chiến trường không trở về thăm nhà trong những dịp tết.

Tôi còn nhớ năm 1967 khi tôi được 9 tuổi, một năm trước biến cố Mậu Thân 1968, cảnh chết chóc mỗi ngày trên Tivi và cảnh tan tóc ở cố đô Huế.  Năm đó gia đình tôi cũng hay tin anh hai tôi tử trận, ba má tôi đau buồn mà người đau khổ nhất là má tôi, bà thương anh tôi vì đó là con trai đầu lòng, má tôi khóc sưng cả mắt.

Đám tang của anh ở Sài Gòn, vìcả gia đình tôi lại ở Đà Lạt cho nên chỉ có người chị thứ ba và má tôi đi đưa đám tang của anh với một vài người thân.  Gia đình năm đó mất đi một người anh nên vắng tiếng cười, tuy tôi chỉ mới 9 tuổi, chưa đủ tuổi để hiểu được sự mất mác lớn lao đến dường nào.

Năm kế là biến cố tết Mậu Thân, Đà Lạt không ngoại lệ, mỗi ngày tôi đi học về thấy xác Việt Cộng nằm phơi trên đồi, máu me còn chưa khô.  Tôi vừa sợ vừa buồn vì không hiểu tại sao lại con người có thể giết nhau khi cùng một giống nòi.  Quê hương tôi đẹp quá nhưng cảnh tang tóc khắp nơi, gia đình nào cũng có ít nhất một người con hy sinh vì tổ quốc.  Hình ảnh mẹ ôm con chạy loạn ngoài miền trung mỗi ngày chiếu trên tivi ám ảnh vào trong đầu óc tôi.  Ngoài những buổi sáng đi học, những buổi trưa dài tôi thường đi vào rừng thông lượm củi đem về cho má tôi nấu bếp.  Những buổi trưa hè lang thang bắt bướm, bắt dế hoặc thả diều trên sân banh.

Quê hương Việt Nam của tôi, chiến tranh càng ngày càng khốc liệt khi tiến dần đến năm 1972, mùa hè đỏ lửa ở Quảng Trị, từng thị trấn một bị chiếm đóng và mất đi dần dần trên bản đồ, từ miền trung chạy đến miền nam và cuối cùng năm 1975, Viêt Nam đã hoàn toàn ngã gục trong hơi thở cuối cùng khi Sài Gòn thất thủ và giọng ca của Bill Cosby với bản nhạc White Christmas vang lên vào tháng tư như một dấu hiệu cho tất cả mọi người sự bỏ cuộc.

Trãi qua 10 năm lớn lên trong thời chinh chiến, năm 1975 tôi vừa mới 17 tuổi, tuổi đẹp nhất của thời con gái, tuổi vừa biết yêu và biết mơ mộng viễn vông.

Tôi thường ngồi lặng lẽ một mình để suy ngẫm về cuộc đời, tôi chưa biết yêu chàng trai nào, chỉ biết yêu quê hương và mẹ cha.  Khi gia đình phải rời bỏ Đà Lạt để về Sài Gòn năm 1975, tôi nhớ mái nhà xưa của tôi với căn phòng nhỏ, tôi nhớ cảnh mưa dầm trên Đà Lạt những ngày lội sình đi chợ với má tôi.  Tôi nhớ chiếc xe đạp mini màu đỏ và những con dốc đường Võ Tánh và hàng thông xanh.

Phải tôi là một cô gái trưởng thành hơn một chút thì đã là người yêu của lính rồi, ngôi trường Chiến Tranh Chính Trị và Võ Bị giáp lưng ngay sau sân trường Bùi Thị Xuân và cách nhau có một hàng rào kẻm gai.  Trường nữ trung học lại gần ranh giới của mấy anh chàng sinh viên trường võ bị trở thành những huyền thoại cho nhiều cuộc tình đẹp.

Tôi thường lén nhìn trộm những chàng trai oai hùng trong bộ đồng phục khi họ đi ra phố vào cuối tuần.  Dĩ nhiên mấy người chị của tôi cũng có vài người bạn phi công ghé nhà chơi, nhưng tuổi tôi lúc đó chưa được ai ngó ngàn đến.  Tôi chỉ lấp ló và nhìn trộm những anh chiến sĩ oai hùng này và mơ tưởng đến một ngày nào mình cũng sẽ sánh vai đi bên cạnh một người lính đẹp trai đó.

Quê hương tôi tuy dập vùi với chiến tranh nhưng nếu nói về tình yêu thì phải nói là một quê hương nhiều tình yêu nhất.  Bài hát “Những đồi hoa sim” nói lên cái chết của người em gái hậu phương thay vì người binh sĩ.  Bài ca “Anh không chết đâu anh” với giọng ca nức nở của Thanh Lan làm bao nhiêu người đổ lệ.  Quê hương của tôi chứa chan đầy tình yêu, đầy sự chia ly, kẻ ở người đi, hình ảnh người mẹ quê với đồng lúa chiều, hình ảnh khói lam chiều lan dần trong ống khói của từng nhà, hoặc tiếng chó sủa trong đêm làm cho người mẹ có cảm giác lo âu không biết Việt Cộng có về bắt con trai bà đi theo chúng.

Tình yêu quê hương nói rất nhiều về tình mẹ thương cho con trai đi đánh trận nơi xa và trông đợi con từng ngày.  Tình quê hương nói về những người chiến sĩ lấy trăng làm đèn để viết thư tình cho em gái hậu phương.  Tình cảnh của cô gái cầm trong tay tấm thẻ bài, quấn trên đầu vành khăn tang trắng, đứng bên ngôi mộ người yêu với dòng lệ tuôn tràn.

Hình ảnh của quê hương tôi với những nét mặt u buồn của người thua trận, khi mấy anh lính Việt Nam Cộng Hòa phải bỏ súng khi thấy đoàn xe tăng của Cộng Sản lăn vào đường phố Sài Gòn. Tôi không thể nào cầm được nước mắt khi chứng kiến một vài người lính trẻ vào nhà xin quần áo thường dân để thay bộ áo lính còn đóng đầy bụi ngoài chiến trường.

Nói về quê hương và tình yêu thì không bút mực nào tả cho xiết.  Tôi đã là một cô gái xuân thì đang ở tuổi mộng mơ thì phải trút bỏ chiếc áo dài trắng, xếp bút nghiên để bỏ nước ra đi trong một đêm tối.  Bước lên chiếc ghe nhỏ để vượt biên bằng đường biển.  Tôi đã bỏ lại sau lưng quê hương tôi, cha mẹ và anh chị em tôi để lên chiếc tàu định mệnh.

Đêm hôm đó, vào khoảng cuối mùa thu năm 1977 tại Rạch Giá, trời tối đen như mực vì họ lựa ngày không có trăng để dễ dàng tránh mặt bọn công an.  Bổn phận của tôi chỉ là một đứa con gái quêgiả vờ xách gào mên cơm đem xuống ghe cho mấy người đánh cá ăn.  Tôi chỉ việc đi lầm lũi trong chiếc áo bà ba cũ kỷ, không cần ngẩng đầu lên nhìn ai, cứ việc đi và khi nhảy được vào ghe rồi thì có người trong đó mở hầm đựng cá để nhảy xuống.

Sau khi vào hầm cá, có một người đậy nấp lại chỉ để hở một khe nhỏ đủ để thở.  Tôi còn nhớ rỏ mùi tanh tưởi trong hầm làm tôi khó chịu nhưng tôi cố gắng nhắm mắt và lẩm nhẩm đọc kinh cầu nguyện trong khi nước mắt chảy dài vừa lo sợ vừa thương quê hương, thương cha mẹ.

Đầu óc tôi quay lại như một cuốn phim dĩ vãng với tuổi thơ mà Phạm Duy từng phổ những bài hát nói về tuổi hồng, thời đi xe đạp với tà aó trắng.  Tôi thiếp đi trong một phút chốc để thấy đỡ buồn nôn vì sự chật chội tanh tưởi trong hầm cá.

Cuốn phim quay lại như một giấc mơ tuyệt đẹp, có những ngày hè tôi được má tôi dẫn về quê ngoại ở Bến Lức.  Nhà tôi anh chị em đông nên mỗi lần hè đến má tôi chỉchọn một đưá và tiếp tục mỗi năm sau đến lượt đứa kế tiếp.  Tôi thứ 11 trong gia đình nếu tính theo thứ, ba má tôi có 14 đứa con, nhưng nếu đếm theo những nhân vật còn sống thì chỉ có 12 anh chị em thôi.  Người Việt Nam thường có câu “Nhà đông con là nhà có phúc”, cho nên má tôi rất hãnh diện có được 12 đứa con xinh xắn, anh em trai thì khôi ngô tuấn tú, chị em gái thìđẹp mặn mà và thỉnh thoảng được đóng vai trò hoa khôi như chị thứ ba của tôi.

Mùa hè năm 1965 tôi được về Bến Lức thăm bà con bên ngoại, năm đó tôi chỉ lên bảy.  Nắm tay theo má tôi đi từ chuyến xe đò này qua chuyến xe đò khác, khi đến quê ngoại tôi là cánh đồng lúa bay thẳng cánh.  Từ ngoài lộđi vào trong làng phải đi qua những con đê sình lầy trơn trợt, phải đi bằng chân đất mới không trợt té.  Tôi rất sợ vì chưa bao giờđi như thế này nhưng có má tôi dẫn dắt nên tôi cảm thấy an tâm.  Từ đằng xa tôi nhìn thấy bóng cây dừa vàđàn vịt đang lội dưới ao, cảnh thanh bình quá, không một tiếng ồn ào chỉ trừ tiếng sáo diều quanh quẩn đâu đây.  Đây không phải là bức tranh vẽ hay trí tưởng tượng mà chính là cảnh vật thật, quê ngoại của tôi đẹp nhưng buồn quá.

Ngước mắt lên trời tôi thấy một vài con diều bay, có lẽ của một vài đứa trẻđang vui chơi thả diều ngoài ruộng.

Khi đến nhà bà ngoại, con chó mực chạy ra mừng nhưđã quen với má tôi từ xưa, tiếng một bà già vọng ra từ cửa trước: “Phải con Vận vềđó không?”, má tôi dạ lớn rồi kéo tay tôi tiến gần lại và thúc dục: “Con chào bà ngoại đi con.”

Tôi lúng túng nói không ra hơi vì thấy bà tôi ăn trầu và ngồi trên võng với gương mặt khóđăm đăm, sau này má tôi cắt nghĩa với tôi là mấy bà nhà quê rất tốt bụng, thương con cháu vô cùng nhưng họ luôn tỏ vẻ chay đá vì hờn giận con cái không về thăm thường xuyên hơn.

Tôi cũng ngạc nhiên khi nghe bà gọi tên má tôi là Vận, sau này má tôi cũng giải thích làông bà ngày xưa hay sợ gọi tên đẹp thì không tốt cho người đó vì ma quỷ sẽ hờn ghen vàám hại.

Tôi thích quê ngoại nhưng má tôi thường nói bà không thích ở dưới quê vì bà không muốn lấy chồng nông phu và các con bà phải ra ruộng cấy lúa mà không được đi học.  Bà quyết tâm lên thị thành và kiếm được công việc làm trong một nhà in sách ở Sài Gòn.  Mỗi ngày bán sách cho những người yêu thích đọc sách và cũng nhờ vậy gặp được ba tôi, một chàng trai trẻ mêđọc sách.

Thời đó còn là thời Pháp thuộc, ba tôi có khuôn mặt khôi ngô làm cho ai cũng lầm tưởng ông là người Pháp hay ít nhất cũng lai một phần.

Tình yêu của ba má tôi chớm nở bắt đầu từ cuốn sách “Gánh nặng cang thường” và “Ngọn cỏ gióđùa” của tác giả Hồ Biểu Chánh.  Vì hai cuốn sách này mà hai người gặp nhau và yêu nhau tha thiết.  Má tôi kể lại cho các con nghe chuyện tình của hai người, khi ba tôi mua hai cuốn sách đem vềđọc, trong cuốn Gánh nặng cang thường có nhiều trang bị lộn xộn và thiếu vài trang, ba tôi đem lại nhà sách để than phiền và đổi sách.  Cơ hội đầu tiên của một cô gái quê được nói chuyện với một anh chàng đẹp trai và trí thức, và từđó má tôi đã yêu thầm nhớ trộm người thanh niên đẹp trai này.

Thế là hai người yêu nhau và làm đám cưới một năm sau.  Ba má tôi thương yêu nhau như hình với bóng, từ thời Việt Minh, thời Nhật Bản, rồi đến thời Pháp thuộc, hai vợ chồng nương tựa, chung thủy sống với nhau qua nhiều thời đại.  Từ ruộng nương đến thành thị, từ thời thanh bình đến thời chiến, cả hai bồng bế con cái đi tìm nơi sinh sống.

Khi ba tôi bị Việt Minh bắt vì có người chỉ điểm làông đã từng làm việc cho Tây, cũng là một ngày ba mươi tết năm Ất Dậu 1946, má tôi sau hay tin ba tôi bị bắt, bà chuyển bụng và hạ sinh chị ba tôi ởmiền quê ngoại Bến Lức chỉ cómột bà mụ đỡđẻ, loay hoay với đứa con gái mới sinh và đứa con trai đầu lòng mới lên một, bà bồng chống con thơđi tìm chú tôi ở Sài Gòn để nhơ2chú giúp đỡđi tìm ba tôi.

Tình yêu của ba má tôi dài như cuốn tiểu thuyết của Hồ biểu Chánh, tình yêu đậm đà và ngọt ngào chan chứa đầy tình quê hương như một cuốn phim lịch sử.

Khi ba tôi nhận được giấy phép làm cho sở Thú Y vàđược chuyển lên Đà Lạt để làm Trưởng Ty Thú Y và Phó Trưởng Ty Nông Nghiệp năm 1956, gia đình tôi dọn về vàđịnh cư tại thành phố này, trong số những đứa con sinh sau trong đó có tôi sinh trưởng và lớn lên tại đây.

Những ngày sống ởĐà Lạt được xem như thời huy hoàng và hạnh phúc nhất của gia đình tôi, thời tổng thống NgôĐình Diệm và đến thời tổng thống Thiệu.

Đà Lạt là nơi tôi được sinh ra và lớn lên, một thành phố đầy mộng mơ và tình tứ.  Khi đi học trong trường, chị em chúng tôi được mệnh danh là “Con ông bà Thú Y”, chúng tôi rất hãnh diện vô cùng.

Năm 1975 đất nước bắt đầu cảnh loạn ly, khi gia đình tôi di tản bằng đường đèo để đến Nha Trang, rồi từđó vào Sài Gòn cũng là những tuần lễ cuối cùng của thời Việt Nam Cộng Hòa.

 

*****

 

… Tiếng động lớn và có người mở nấp hầm làm tôi giật mình để trở lại với thực tế là mình đang nằm trong một chiếc ghe bé nhỏ chòng chành trên biển cả.

“Mọi người có thể lên bong được rồi vì chúng ta đã ra được hải phận quốc tế an toàn rồi”

Nhiều tiếng thở phào hòa lẫn với vài tiếng reo hò, ánh mặt trời chói chan trên bong tàu làm đôi mắt tôi cay xè, tôi đưa mắt tìm kiếm thì thấy người hai chị tôi, anh rễ và đứa cháu gái mới lên năm.  Mừng mừng tủi tủi tôi ôm chầm chị khóc ròng.

Thế là cuộc sống thay đổi như lật một trang sử mới, tôi khóc thật nhiều vì vui mừng mình đã thoát tay bọn cộng sản, nhưng đau khổ vì mình đã bỏ một quê hương yêu dấu và cha mẹ lại sau lưng.

Tôi muốn quay đầu trở lại nhưng không được nữa, nhìn nước biển đen nhánh như mực tàu và mặtnước biển chấm với chân trời, không thấy đất liền.  Con tàu còn lênh đênh giữa biển rộng mênh mông, tương lai sẽđi vềđâu?  Hàng ngàn câu hỏi bấn loạn trong đầu, cổ khô, miệng đắng, tôi cúi đầu nuốt vào những nỗi đau thương.  Tình yêu quê hương chưa bao giờ thấm thía như lúc này, tình yêu cha mẹ và anh chị em chưa bao giờ được đánh giá cao hơn bao giờ.  Đúng vậy, trong cuộc sống chỉ khi nào mình mất trong tay rồi thì mình mới thấy giá trị thật của nó.

Quê hương tôi chan chứa đầy tình yêu, đậm đà tình ruột thịt máu mủ, đầy những vết hằn vì chiến tranh và tan tóc, nhưng vẫn là một mảnh đất linh thiêng của bao nhiêu đồng bào, tổ tiên đã đổ xương máu.  Quê hương Việt Nam ơi, tiếng quốc ca còn văng vẳng như mỗi buổi sáng thứ hai chào cờ trước sân trường Bùi Thị Xuân.

Tiếng nước biển gầm thét làm cho chiếc tàu bé nhỏ chòng chành như muốn lật, sau 5 ngày 5 đêm vật lộn với tử thần, chiếc tàu bé nhỏ trung thành cũng đưa 27 người trong ghe và chị em tôi đến đảo Pulau Tengah gần Malaysia.

Khi tàu tôi đến gần bờ biển, vài người trong hội Red Cross ra dấu cho chúng tôi dừng lại và không được tiếp tục vào bờ.  Ngồi trên tàu chờ đợi mấy tiếng đồng hồ sau mới được cập vào bờ.

Ai cũng nhảy xuống tàu để vào làm thủ tục giấy tờ, chỉ còn tôi ngồi lại trên tàu. Bổng nhiên òa khóc nức nở vì bắt đầu thức tỉnh với thực tế phủ phàng.  Tôi đã xa quê hương tôi vĩnh viễn, tôi đã xa cha mẹ tôi vĩnh viễn.  Tiếng khóc nức nở hòa điệu với tiếng sóng đang rì rào như vỗvề, tôibước chân xuống đất liền với một cảm giác mát rượi của cát, với tay hất một chút nước để rửa mặt, nước biển mặn và nước mắt pha trộn làm cho cặp mắt cay xè như ai chà xát muối.  Nhìn bóng dáng bơ phờ của tôi trong mặt nước đang bị sóng đánh vỡ tan nhưđang cố tình xóa đi những dĩ vãng.

Tôi ngước nhìn lại góc chân trời xa tắp bên kia biển đông, tôi vẫy tay chào Việt Nam, chào cha mẹ mà không biết bao giờ mình sẽ trở về.  Từ giã quê hương, xin chào tạm biệt quê hương dấu yêu.

 




Nhà thơ Đông Anh (TT/VTLV 2016)

Nhà Thơ Đông Anh.

Cựu Chủ Tịch Sáng Lập Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.
Đông Anh là bút hiệu của Nguyễn Đình Tạo,
quê quán tại Huyện Đông Anh trước thuộc tỉnh Phúc Yên,
sau thuộc ngoại thành HàNội.

Năm 1954 theo học khóa Cương Quyết Phụ Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, ra trường tháng 10 năm 1954.

Đơn vị sau cùng là Tiểu Khu Lâm Đồng

Tù Cộng Sản 9 năm.

Vượt biên tới Galang năm 1985.

Qua Mỹ năm 1986. Hiện định cư tại San Jose, California.

Tác phẩm đã xuất bản:
Chín Năm Tù Ngục 1989
Chim Di Trú 1997
Hoa Giáp Đông Anh 2000
Ngựa Vực Hồn Thơ 2002
Vui Tuổi Hạc 2007

Dòng Kỷ Niệm viết chung với Chinh Nguyên 2011
Hiện là Cố Vân Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.

Trước 1975 Trung tá Quân lực VNCH

——————————————————————————

Ðọc Bài Thơ Cũ

Vào năm 1959 Băng Ðình và tôi cùng chung một đơn vị, Tiểu đoàn 3/12 sư đoàn 4 dã chiến, chúng tôi cùng sống trong một dãy cư xá dành cho các sĩ quan độc thân tại trường Bộ Binh Thủ Ðức vì đơn vị chúng tôi được cử về làm tiểu đoàn thao diễn và an ninh cho trường sau kỳ thao dượt Ðông Phong ở Phan Thiết.

Cứ mỗi buổi chiều, sau khi nghỉ việc và cơm chiều tại câu lạc bộ, chúng tôi ngồi trên hành lang nhìn ra đường và vũ đình trường mà nói chuyện tào lao. Thôi thì đủ thứ chuyện, hết chuyện đời đến chuyện thơ. Ðọc cho nhau nghe những vần thơ mới hình thành, bình luận cùng nhau những vần thơ xướng họa. Rất tiếc là không có giọng ngâm nên chúng tôi cứ đọc “rống” lên gây rất nhiều phiền toái cho mấy anh hàng xóm độc thân khác.

Bài Mưa Chiều Hời đã được chúng tôi đọc đi đọc lại gần như thuộc lòng. Rất tiếc cho cây quế giữa rừng. Rất cảm phục mối tình của Trần Khắc Chung với nàng công chúa cùng họ. Miền Nam sớm nắng chiều mưa, khiến thi nhân như hòa nhịp với thời tiết lạ xứ Hời mà nhớ về quê Bắc xa xăm:

Người đi mây trắng xây thành
Miền Nam mưa nắng một mình người thôi

Bài thơ như một bài hành khi xung trận để mở rộng biên cương. Như bài hát tả nỗi lòng cô phụ bỏ hết lại đằng sau dấn thân vào nơi gió cát xứ người. Những mưa rơi chiều Hời. Những gió bay biên địa. Những sầu muộn mong manh. Những ánh tà dương ngăn ngắt. Tất cả đã khiến cho sự hy sinh của nàng công chúa thêm thê lương, mối tình của Huyền Trân thêm ray rứt. Nhân đó tôi cũng có đôi vần ca ngợi bài thơ của BÐ ghi ở phần sau.

Năm 1990, khi liên lạc với nhau tại Mỹ, tôi hỏi lại bài thơ xưa thì được BÐ trả lời tất cả đã mất hết rồi, mất theo hành trình đốt sách của kẻ thù. Chúng tôi rất buồn, rất tiếc.

Bỗng đầu năm 2003 anh gọi điện thoại cho tôi khoe rằng đã tìm thấy bài thơ. Bài thơ này tìm lại được cũng kỳ bí như huy hiệu con Phượng Hoàng(*), biểu tượng đầu tiên của Trung Tâm Quốc Gia Ðiện Ảnh Việt Nam mà BÐ làm giám đốc khi xưa.

Nhận được bài thơ, tôi muốn chia xẻ với các bạn yêu thơ, với bằng hữu. Nhưng nếu chỉ đăng lên không thôi, e rằng không hết ý. Do vậy mới có vài lời dông dài này.

Ðông Anh

Tháng Tư  năm 2016
* Băng Ðình đã viết về biểu tượng Phượng Hoàng qua chuyện Phượng trong Còn Một Chút Này sắp in.

 

 

Mưa Chiều Hời

Huyền Trân một sớm lìa kinh khuyết
Rượu tiễn run môi lạnh tiếng đàn
Ô Lý hai châu còn chật hẹp
Một trời Chiêm Việt mấy quan san
Gió mưa ướt nẻo Ðồ Bàn
Rưng rưng lệ đổ hai hàng máu khô
Ðá tường chìm khuất cung vua
Biết đâu lá biếc mùa thu ngả mình
Quê xưa trời có đẹp
Năm mầu mây thanh bình
Người xưa giờ có chép
Những vần thơ xinh xinh
Một đi là mãi mãi
Mưa rơi vào tâm tình
Mong chi ngày trở lại

Còn chi mộng tuổi xanh
Ðêm đêm nhầu chăn gối
Trăng úa rụng bên mành
Tay Chiêm Vương vội vã
Tình Chiêm Vương mong manh
Thân gửi ngoài biên địa
Hồn mơ về Long Thành
Có mùa xuân minh mị
Có mùa hè nắng xanh
Có mùa thu sầu muộn
Có mùa đông buồn tênh

Mộng đẹp dài canh vắng
Tay ai chuốc chén quỳnh
Tin đâu về náo nức
Chiêm Việt dứt đao binh
Phụ Vương một hẹn sầu đôi trẻ
Ô Lý hoang vu lạt chữ tình
Lịch sử thêm tươi mầu má thắm
Riêng lòng ai chết những mầm xanh
Người đi mây trắng xây thành
Miền Nam mưa nắng một mình người thôi
Mưa bay buồn những chiều Hời
Nhỏ thưa tiếng địch não người biệt ly
Sắc chìm hương lạt thâm khuê
Âm u đá tháp dặm về mù sương
Heo may thổi lạnh đêm trường
Xiêm y sô lệch phấn hương nhạt nhoà
Mây vẫn trôi về Bắc
Sầu chưa thôi nở hoa
Mưa lụt trời Chiêm Quốc
Tơ run trên phím ngà
Ðiệu Nam Bình ai oán
Van mùa mưa mau qua
Gấm the nào ấm được
Những chiều mưa nhớ nhà
Vó câu mờ sắc áo
Chiều dâng tím nẻo xa
Khắc Chung còn ruổi ngựa
Hồn chìm đáy ly ca
Mưa vẫn dài thương nhớ
Ngăn ngắt ánh dương tà
Huyền Trân lệ đổ tràn vai áo
Giữa gấm hoa ngồi khóc tuổi hoa
Mắt lệ mỏi mòn trông hướng cũ
Những ngày qua tiếp những ngày qua
Rừng thu sơ xác lau già
Trong sương nghe vẳng tiếng gà sang canh
Hồn khuya nhẹ gót đầu cành
Lung linh nến cháy sử tình hắt hiu

BĂNG ÐÌNH
 

10-vui-tuoihac   8-chin-nam-tu-nguc   6-hoagiapdong-anh

(Gửi Băng Ðình, người viết Mưa Chiều Hời)

Khắc Chung rong ruổi trên lưng ngựa
Theo bóng Huyền Trân nắng chập chờn
Một mối tình si muôn dặm thẳm
Ngàn trùng gió cát lạnh mưa tuôn
Người đi về phía hoàng hôn
Ðể vầng trăng khuyết mỏi mòn kinh đô
Qua Chiêm đem mối tình hờ
Lược trâm bỏ lại ngẩn ngơ hoàng thành

Lưu lạc xứ người thân lạc bóng
Giữa rừng cây quế nghẹn chua cay
Chiều thu chợt biến thành sương phụ
Ðợi lửa lên giàn hương phấn phai
Bỗng dập dồn vó ngựa
Từ biên địa qua đây
Ðưa nàng về cố quốc
Mưa Hời quyện khói bay
Thuyền chao tình sóng vơi đầy
Lướt đi trong cõi trời mây mịt mù
Ngàn sau tình sử, áng thơ
Lung linh ánh nến đọc Mưa Chiều Hời

ĐÔNG ANH

 




Họa Sĩ Nguyễn Cát Tường

Họa Sĩ Nguyễn Cát Tường

A-NguyenCatTuong-HoaSi-8-18-2014Rev

LE MUR NGUYỄN CÁT TƯỜNG :

Mt ha sĩ, mt nhà to mu tài danh ca đt nước

Thanh Thương Hoàng

Thú thực khi còn nhỏ, vào những năm 1942, 1943 (khi đó tôi mới ngoài 10 tuổi) tôi đã mê đọc sách, nhất là những cuốn truyện của các nhà văn Vũ Trọng Phụng, Nhất Linh, Khái Hưng và những cuốn truyện Tầu rồi tới kiếm hiệp, trinh thám…vv… Tôi không chú ý ( vì chẳng “hấp dẫn”gì với tôi) những tờ báo nổi tiếng thời ấy                  ( thời tiền chiến trước năm 1945) với nội dung đả phá cái cũ (hủ lậu) quảng bá cái mới trong nếp sống dân tộc như báo PHONG HÓA NGÀY NAY. Thỉnh thoảng ông Bố tôi đem về nhà mấy tờ báo này, tôi chỉ lật vài trang xem mấy cái tranh khôi hài châm biếm (humour) với hai nhân vật chính Lý toét, Xã xệ. Tôi cũng chẳng để ý tới tên tác giả. Ông Bố tôi thường mua cho tôi báo CẬU ẤM CÔ CHIÊU chuyên đăng những bài, những tranh vui về tuổi thơ – mà bây giờ tôi cũng quên mất những mục, những bài đã làm bọn nhỏ chúng tôi (hồi đó) say mê thích thú. Sau này lớn lên tôi cũng chỉ biết tới tên một số họa sĩ nổi danh mà thôi. Tuy nhiên thỉnh thoảng tôi nghe trong đám bạn họa sĩ (cùng lớp tuổi tôi) nhắc tới tên một họa sĩ có tên là Le Mur. Tôi tưởng ông này là “ông Tây” hay ít ra cũng là “dân Tây”nên thú thực tôi không có cảm tình mấy và cũng chẳng tìm hiểu về ông làm gì. Khi bước vào làng văn làng báo Saigon tôi mới được biết nhiều hơn về một số họa sĩ tên tuổi “thời tiền chiến” và tranh của họ quý và mắc hơn vàng như các ông bà Nguyễn Gia Trí, Lê Thị Lựu, Lê Phổ, Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái vv…nhưng vẫn ít thấy tên ông Le Mur Nguyễn Cát Tường.

Mấy chục năm sau, tôi sang Mỹ sống, mới đây tình cờ được coi một đĩa (DVD) thâu hình buổi trình diễn trang phục phụ nữ của Họa sĩ Le Mur Nguyễn Cát Tường (do các bà cựu nữ sinh trường Trưng Vương trình diễn) nhân cuộc triển lãm và hội thảo về báo Phong Hoá Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn do Nhật báo Người Việt (Quận Cam) và Đài truyền hình STBN tổ chức. Cuộc triển diễn về trang phục phụ nữ của ông Le Mur Nguyễn Cát Tường được tổ chức nguyên một buổi thật tuyệt vời. Xem hết cuốn băng quả thật là một sự bất ngờ, tôi cứ tưởng những người đẹp VN đang biểu diễn thời trang thế kỷ 21. Đây là một nhân tài của đất nước, một họa sĩ, một nhà tạo mẫu trang phục cho nữ giới nước nhà, đã đi trước thời đại gần một thế kỷ. Ông tên thật là Nguyễn Cát Tường nên lấy bút danh Le Mur (tiếng Pháp cái tường). Về tiểu sử cũng như sự nghiệp của ông xin coi phần cuối của bài này.

Vì sự tò mò và nhất là muốn tìm hiểu một nhân tài trải qua ngót thế kỷ, các “tác phẩm” của ông, các công trình sáng tạo của ông tới ngày nay (qua buổi trình diễn vừa rồi) vẫn “sống” và “sống” một cách huy hoàng lộng lẫy trải rộng khắp nước Mỹ và cả thế giới (vì cho tới bây giờ (năm 2016) những bộ quần áo theo “mẫu” của Le Mur vẫn được các bà các cô trưng diện trong những buổi hội hè đình đám. Những chiếc áo dài tha thướt, những chiếc quần trắng, quần mầu, những chiếc khăn choàng cổ vẫn lộng lẫy duyên dáng gợi cảm, chẳng những không lạc hậu chút nào mà còn tôn cao vẻ đẹp đặc biệt của người phụ nữ VN.

 

Ông Lemur Nguyễn Cát Tường tốt nghiệp trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương, năm “1933” Năm “1932” đã có tranh khôi hài (vui cười) trên báo Phong Hóa. Sau khi ông Nguyễn Tường Tam mua tờ báo, ông vẫn tiếp tục gửi tranh khôi hài đăng trên báo…

Nhà văn Nhất Linh giao cho ông phụ trách mục “Vẻ đẹp riêng tặng các bà các cô”. Tuổi mới ngoài 20 sau khi tốt nghiệp hội họa vào đời ông Tường đã có những tham vọng lớn về cải cách trang phục phụ nữ nước nhà cho hợp với trào lưu phụ nữ thế giới. Chúng ta nên nhớ vào thời điểm đó (những năm đầu thế kỷ 20) các cụ ông cụ bà ta còn chịu ảnh hưởng nặng nề chế độ phong kiến. Các cụ ông trong lễ lạc tết nhất thì mặc áo the dài đầu đội khăn đen xếp, còn các cụ bà thì mặc áo tứ thân mặc váy đầu đội nón quai thao để răng đen. Nếu là nhà giầu thì đi hài, còn thuộc giới trung lưu thì đi guốc gỗ sơn mài đen gót bằng, thấp. Ông đã tạo ra những kiểu giầy cao gót mũi nhọn cho tới ngày nay vẫn thịnh hành, cả Đông và Tây phương. Ông Cát Tường muốn đem cái sở học của mình ở nhà trường kết hợp văn hóa Đông phương với văn hóa Tây phương (mà ông đã học đã đọc được qua sách báo của Pháp) để sáng tạo những “mốt” áo quần giầy dép mới thích hợp với phụ nữ Việt Nam. Phải nói đây là một việc làm táo bạo có thể nói là một cuộc cách mạng về trang phục phụ nữ. Vào thời đại đó việc làm này quả vô cùng khó khăn trở ngại. Nhất là táo bạo khi ông sáng tạo các kiểu “xú-chiêng”, quần lót cho phái nữ. Chỉ dẫn cách luyện tập cho bộ ngực thon gọn đẹp. Theo ông phụ nữ thích làm dáng làm đẹp để  giữ chồng bảo vệ hạnh phúc gia đình. Chúng ta nên nhớ các bà các cô thời đó, trừ một số nhỏ mà người ta gọi là “phụ nữ tân thời” ở thành phố, còn tất cả đều mang yếm và mặc váy, đầu vấn khăn hoặc chùm khăn mỏ quạ. Ông còn hướng dẫn các bà các cô đánh phấn bôi son thích hợp với da và khuôn mặt mình, cách vấn tóc, chải rẽ đầu ngôi sao cho hợp với khuôn mặt, mặc đồ hai mảnh tắm biển, tập thể dục thể thao. Ông quan tâm rất nhiều đến quần của các bà các cô. Ông cho đây chính là điều cần thiết để tôn vinh cái đẹp và sức quyến rũ của phụ nữ VN. Ông đã tỉ mỉ vẽ những cái nhỏ nhất nhưng cần thiết cho những chiếc quần này. Chính ông là người tạo ra mốt áo hở cổ với hình trái tim, hình lá sen, kiểu hình chéo một bên vai (sau gọi là Raglan), hình hở phần cổ và trên ngực với giải khăn mầu quấn quanh cổ. Thời đệ nhất cộng hòa bà Ngô Đình Nhu phát động phong trào phụ nữ mặc áo dài hở cổ mà người ta gọi là ”áo bà Nhu” do bà “sáng chế”. Thực sự là bà Nhu đã “phác” theo mẫu của họa sĩ Le Mur Nguyễn Cát Tường. Thời gian đó bà Ngô Đình Nhu cũng bị dư luận đả kích nặng nề (thật oan cho bà). Cả quần ống loe cũng vậy. Ông Tường kết hợp Đông Tây tạo mốt mới thích hợp với cẳng đùi phụ nữ Việt Nam sao cho gọn gàng hấp dẫn. Thế mà mãi tới thập niên 50 (thế kỷ 20) chiếc quần ống loe mới được phổ biến rộng rãi thông dụng trong dân gian. Ông Tường cũng không quên “bầy việc” cho giới mày râu trong những bộ “com – lê” kết hợp Đông Tây tới nay vẫn còn là “mốt” thông dụng sang trọng lịch sự. Phải nói đây là một cuộc cách mạng táo bạo nên ông Tường đã gặp phải các thế lực thủ cựu chống đối dữ dội. Họ diễn thuyết, viết báo, vẽ tranh đả kích ông, chế nhạo ông đủ điều. Ông phải quyết tâm và can đảm lắm mới thoát khỏi trận “đánh phá” này. Ngoài những tài kể trên ông Le Mur còn là người mở phòng trà đầu tiên ở Hà Nội (cũng là cả nước) và ông cũng không quên giới bình dân lao động nghèo khổ phải đạp xe xích lô mưu sinh khi đưa ý kiến và vẽ mẫu cải tiến để “mỹ thuật hóa” chiếc xích lô đạp.

Có thể nói họa sĩ, nhà tạo mẫu tài năng xuất chúng Le Mur Nguyễn Cát Tường đã đi trước thời đại ngót một trăm năm. Những mẫu áo quần ông tạo ra tới ngày nay vẫn còn hợp thời. Từ chiếc áo dài hở cổ, chiếc quần lụa trắng cải cách, chiếc quần tây gọn gàng gợi cảm (nhưng đứng đắn) những chiếc áo ngắn cộc tay có viền “ren” quanh cổ áo, ống tay áo, mặc trong nhà hay làm việc đều mới, lạ, đẹp, gọn gàng sẽ còn tồn tại lâu dài với người phụ nữ VN, và người ngoại quốc cả nam lẫn nữ cũng rất mê những bộ trang phục này.

Tới đây tôi cũng xin có một “nhận xét nhỏ” góp vào bài viết này. Theo tôi nhận xét thì những chiếc áo Bà Ba của nữ giới Miền Nam chúng ta cũng “thoát thai” từ những chiếc áo hở cổ của họa sĩ Le Mur. Bằng chứng: những ảnh phụ nữ miền Nam chụp những năm đầu thế kỷ 20 các áo dài hay áo Bà Ba đều kín cổ cả. Kể cả các quần hai ống từ đùi xuống tới chân khá rộng gọi là “quần Mỹ a”. Sau đó tôi thấy khắp miền Nam các cổ áo Bà Ba của các bà các cô đều hình trái tim hoặc hình vuông hở cổ và một phần ngực.

Họa sĩ Le Mur NGUYỄN CÁT TƯỜng rất xứng đáng để quý bà quý cô và cả chúng ta vinh danh và biết ơn ông.

THANH THƯƠNG HOÀNG

(3.9.2016)

[pdf-embedder url=”http://vantholacviet.com/wp-content/uploads/NguyenCatTuong-HoaSi-8-18-2014Rev-copy.pdf” title=”nguyencattuong-hoasi-8-18-2014rev-copy”]




Nhạc Sĩ ANH BẰNG

ns-anh-bang

Anh Bằng (tên thật Trần An Bường (5/5/1926 – 12/11/2015) là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam với số lượng sáng tác khoảng 650 tình khúc để lại cho đời. Ông là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu dòng của dòng nhạc vàng và nhạc hải ngoại, là người đã sáng lập Trung tâm Asia vào năm 1980.

Ngoài những tác phẩm của chính ông, Anh Bằng còn là một trong nhóm ba người hợp tác soạn nhạc với bút hiệu Lê Minh Bằng.

Tên thật là Trần An Bường. Sinh năm 1925 tại Hà Nội, sau 1954 sống tại Sài Gòn, hiện định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1965 – 1975 cùng hai nhạc sĩ Lê Dinh và Minh Kỳ lập nhóm sáng tác ký tên chung là Lê Minh Bằng

Anh Bằng tên thật An Bường, sinh năm 1925 tại thị trấn Điền Hộ thuộc tỉnh Ninh Bình gần ranh giới tỉnh Thanh Hóa, cách Hà Nội khoảng 100 cây số về phía Nam. Ông theo học Trung học ở Hà Nội trước khi theo gia đình di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống ở Sài Gòn cho đến năm 1975.

Trong thời kì 1954 – 1975, nhạc sĩ Anh Bằng rất nổi tiếng với nhiều tác phẩm sáng tác và phổ nhạc. Các tác phẩm như Nếu vắng anh (phổ từ bài Cần thiết của nhà thơ Nguyên Sa), Khúc Thụy du (phổ từ bài thơ cùng tên của Du Tử Lê), Người thợ săn và đàn chim nhỏ… đã được các ca sĩ Tuấn Ngọc, Ngọc Lan, Khánh Ly… thể hiện rất thành công.

Năm 1975, Anh Bằng cùng gia đình di tản sang Mỹ ở độ tuổi 50, và vẫn tiếp tục hoạt động âm nhạc với Trung tâm sản xuất và phát hành băng nhạc cassettes Dạ Lan (1981 – 1990).

Năm 1966, Anh Bằng cùng với hai nhạc sĩ khác là Lê Dinh và Minh Kỳ thành lập một nhóm sáng tác nhạc, kí chung tên là Lê Minh Bằng. Các hoạt động chính của nhóm bao gồm:

Mở lớp dạy nhạc có tên là “Lớp Nhạc Lê Minh Bằng” tại địa chỉ số 102/8 đường Hai Bà Trưng, Tân Định, Sài Gòn. Ba nhạc sĩ thay phiên nhau giảng dạy về lý thuyết (nhạc lý, ký âm) và thực hành (luyện giọng, xướng âm).

Thành lập ban nhạc “Sóng Mới”, chuyên trình diễn trên đài phát thanh Sài Gòn.
Cố vấn cho giám đốc hãng đĩa hát Asia là ông Nguyễn Tất Oanh trong việc lựa chọn bài hát và ca sĩ.
Phụ trách trong việc tổ chức chương trình “Tuyển Lựa Ca Sĩ” được tổ chức hàng tuần ở rạp hát Quốc Thanh, do Đài Phát Thanh Sài Gòn thực hiện.

Sáng tác, xuất bản, và phổ biến nhiều ca khúc mới dưới nhiều bút hiệu khác nhau: Lê Minh Bằng, Vũ Chương, Mạc Phong Linh, Mai Thiết Lĩnh, Mai Bích Dung, Dạ Ly Vũ, Dạ Cầm, Giang Minh Sơn, Hoàng Minh, Trần An Thanh, Tây Phố, Trúc Ly, Tôn Nữ Thụy Khương, Phương Trà, Huy Cường… Trong đó tác phẩm nổi tiếng nhất có lẽ là Chuyện tình Lan và Điệp.

Những ca khúc thịnh hành của Anh Bằng :

* Nếu Vắng Anh
* Hẹn Anh Ðêm Nay
* Chuyện Giàn Thiên Lý (theo thơ Yên Thao)
* Bướm Trắng
* Nỗi Lòng Người Ði
* Anh Biết Em Ði Chẳng Trở Về (thơ Thái Can)
* Tango Dĩ Vãng
* Sài Gòn Thứ Bảy
* Nửa Ðêm Buốt Giá
* Tình Yêu Tuyệt Vời
* Lời Tình Băng Giá
* Trả Em Cay Ðắng Mộng Vàng
* Dù Nắng Có Mong Manh
* Nhớ Sài Gòn (cùng Trúc Giang)
* Tâm Hồn Cô Ðơn
* Cô Bé Môi Hồng
* Chuyện Người Con Gái Ao Sen
* Người Thợ Săn Và Ðàn Chim Nhỏ
* Mất Nhau Mùa Ðông
* Từ Ðộ Ánh Trăng Tan (thơ Ðặng Hiền)
* Khúc Thụy Du (thơ Du Tử Lê)
* …

Những ca khúc sáng tác chung dưới tên Lê Minh Bằng:

* Ðêm Ngoại Ô
* Ðêm Nguyện Cầu
* Nó
* Tình Là Sợi Tơ
* …




Chúc Anh : Chấp nhận lẫn nhau trong cuộc sống

Chấp nhận lẫn nhau trong cuộc sống

   

            Chiến tranh lạnh giữa thế giới tư bản và thế giới cộng sản đã kéo dài hơn hai chục năm về trước, và rồi chỉ cần bốn con người ở địa vị khác nhau (ĐGH Gioan Phaolô II, Tổng Thống Ronald Reagan, Bà Thủ Tướng Thatcher, và Tổng Bí Thư Cộng Sản Gorbachov) chấp nhận cùng nhau trao đổi cái nhìn của mình về thế giới, cố gắng hiểu nhau, tha thứ cho nhau, như vậy đã đủ để làm cho khối cộng sản Đông Âu sụp đổ, và chiến tranh lạnh kết thúc.

Đây hẳn là một “kỳ công của con người, khi con người biết tìm đến nhau, thông cảm cho nhau, chấp nhận lẫn nhau để sống.

            Tuy nhiên, thật rất buồn khi còn thấy trong đời sống xã hội ngày nay, vẫn còn nhiều thứ “chiến tranh nóng…chiến tranh lạnh” ngay cả trong gia đình, đoàn thể.  Những chuyện bất đồng, tranh chấp, cằn nhằn, gấu ó, có khi đi đến chỗ làm sứt mẻ tình bạn, tổn thương tình gia đình giữa những người thân của mình.

            Hôm nay tôi xin chia sẻ một vài tư tưởng về mối tương giao của chúng ta trong xã hội, dưới khía cạnh tâm lý nhân bản.

 

Đa số con người trên trái đất, nếu không thuộc về tôn giáo này thì cũng thuộc tôn giáo khác.  Mà tất cả các tôn giáo đều răn dạy tín đồ của mình phải ăn ở làm sao cho thành người tốt, tốt với mình, tốt với người.  Chung chung, thì người ta luôn được dạy ba điều căn bản để có thể sống một cuộc đời an bình, thanh thản, hạnh phúc về tinh thần, vật  chất cũng như tình cảm.  Đó là:

 

1.  biết thương yêu nhau

                        2.  biết tha thứ cho nhau

                        3.  biết chấp nhận lẫn nhau

  

I.  BIẾT THƯƠNG YÊU NHAU

 

            Ngoài việc thương yêu chính mình (điều này khỏi cần phải nhắc), muốn được sống một cuộc đời có ý nghĩa, còn cần phải biết thương yêu những người xung quanh mình, là những người mà dù muốn dù không, mình cần phải tiếp xúc, quây quần trong cuộc sống hằng ngày.

            Có những người chỉ thích yêu thương người nào giống hệt như mình về cách sống, cách suy nghĩ, cách hành động.  Khi đã thương yêu kiểu này rồi thì nhìn thấy “trái ấu” của người ấy cũng tròn vo, mặc dù ở “hai đầu trái ấu có hai cái sừng nhọn dễ sợ!”

 

            Ai không giống mình thì cho là xấu, không ưa, chỉ trích không tiếc lời.  Thấy người ta xấu ở điểm nào đó, một  lần nào đó, thì  nhìn tất cả con người của kẻ đó chỉ  toàn thấy cái xấu thôi;  chê miết, chê trường kỳ, riết thành thói quen, nhìn mọi người xung quanh cũng thấy toàn là người xấu hết, chẳng có ai tốt lành cả, ngoại trừ mình ra.  Trong cuộc sống hằng ngày, nói ra câu nào, ở đâu, với ai, cũng chỉ thấy toàn là chê bai, ai cũng dở ẹt, cũng sai bét, chẳng ra thể thống gì cả, nhất là khi mình đã “có tuổi”, tóc đã trở thành muối tiêu, hoặc có chút ăn học, hay có chút tiền của…

Sự yêu thương kiểu đó rất nguy hiểm vì đôi khi nó dựa trên một mớ thành kiến mà ta ít khi lưu ý tới.  Vậy thành kiến là gì?

            Theo tâm lý học, thành kiến là một dạng thái hóa của sự phán đoán chủ quan đó thôi.  Khi ta nói:  “Anh Tùng khó thương quá” có nghĩa là gì?  Nếu suy nghĩ  cho kỹ, ta thấy câu này diễn tả một sự “xếp hạng”.  Chúng ta xếp chủ đề “Anh Tùng” vào hạng mà óc đã hiểu rõ là những “người khó thương”.  Vậy thì những người “khó thương” đó là như thế nào chứ?  Nguy hiểm là ở chỗ này:  Việc xếp hạng này có thể rất chủ quan, dựa trên những tiêu chuẩn cá nhân, những cảm giác không nền tảng, có khi từ bên ngoài đưa vào.  Do đó, cần phải cẩn thận, bằng không ta sẽ bị thành kiến ảnh hưởng trong những mối tương giao với người khác trong xã hội, vì ác cảm hay thiện cảm cuối cùng đều xuất thân từ thành kiến mà ra cả, do một cái nhìn rất là chủ quan, có khi độc đoán nữa là khác.

            Cũng không nên lầm lẫn “thương yêu” với “thương hại”.Khi ta thương hại một người nào đó, mặc nhiên ta đứng từ vị trí của người “có cái gì đó” đối xử với người “không có”.  Thông thường, người ta nói:  “Nhìn lên,  mình chẳng bằng ai,  mà nhìn xuống thì không ai bằng mình”.  Thật ra, nhiều khi đây chỉ là một cách để tự an ủi mình, để giúp chấp nhận số phận của mình đó thôi.

            Thế nhưng, có khi từ tư tưởng này, con người có thể đi đến thái độ “thương hại” đối với những người xấu số hơn mình.  Và nếu sự thương hại này lại được chan hòa bởi đức tin, lòng bác ái, nó sẽ dẫn đưa tới sự chia sẻ, hành động yêu thương thật sự.

            Một trong những cái “riêng tư”  mà chúng ta cảm thấy khó mà sẵn sàng chia sẻ với người khác, đó là thời giờ của chúng ta.  Nhiều người chỉ biết hát một điệp khúc trong suốt đời họ thôi: “Tôi bận việc lắm…Không thể đến được…Không thể giúp được…Tôi không có giờ…Tôi còn nhiều việc phải làm..”

 

 

II.   BIẾT THA THỨ CHO NHAU

 

            Không có lòng thương thì khó mà tha thứ cho ai được, bởi vì đã ghét người nào rồi thì có bao giờ thèm nhìn mặt nó nữa đâu?

Thấy “nó”,  nhìn cái mặt, nghe giọng nói của nó, nhìn cách đi, cách đứng là đã thấy ghét rồi.

            Như vậy làm sao mà chấp nhận cho kẻ ấy đứng chung trong cùng một tập thể với mình được?

Còn nói chi đến những người cùng sống chung dưới một mái nhà. Thoát khỏi những tổn thương do mất mát, chán nản, thất vọng, đau buồn vì tình, vì phản bội…Những khó khăn trong cuộc sống.

Làm người, ai mà chẳng có lúc lầm lỗi:  lầm lỗi mình gây nên cho kẻ khác, lầm lỗi kẻ khác gây ra cho mình, vô tình hay cố ý.  Lầm lỗi bao giờ cũng gây nên một vết thương.

Lầm lỗi cần được tha thứ, và vết thương cần được chữa lành.     Nhưng làm sao tha thứ, làm sao chữa lành? Đó là vấn đề.  Nhất là khi sự xúc phạm đến từ những người thân thương, những người mình tin tưởng, những người đáng ra phải đứng về phía mình…thì vết tương lại càng đau đớn, và sự tha thứ trở nên càng khó.

            Làm hòa quả thật không dễ chút nào:  mình có lỗi mà đi làm hòa vốn đã khó, huống chi khi người khác lỗi với mình mà mình lại phải đi bước trước!…Đây là giá rất đắt của tình thương.

            Trong cuộc sống hằng ngày, thái độ, hành động tha thứ mang tính cách quan trọng và bức thiết:  Chẳng ai thoát khỏi những tổn thương do mất mát, chán nản, thất vọng, đau buồn vì tình, vì phản bội…Những khó khăn trong cuộc sống chung đư ợc tìm thấy rất nhiều và ở khắp nơi:  những xung đột giữa vợ chồng, trong gia đình, giữa những người yêu phải chia tay, giữa chủ và thợ, giữa bạn bè, giữa láng giềng, giữa các tập thể.  Một ngày nào đó, tất cả đều cần đến sự tha thứ hầu tái lập hòa bình:  “Hãy trao ban tha thứ, bạn sẽ nhận lại hòa bình” (ĐTC Gioan Phaolo II)

           

            Trong ý niệm về tha thứ, có hai sai lầm lớn phải tránh:

            Sai lầm thứ nhất là sự tha thứ được tác động bởi sợ hãi hay thương hại.  Vladimir Jachelevich, một nhà tâm lý lỗi lạc Liên Xô, đồng hóa tha thứ với hình thức của thủ đoạn tự vệ.  Đới với ông, sự tha thứ giữa con người với nhau được điều khiển bởi sợ trả đũa và sợ bị hủy diệt lẫn nhau. Đang khi đó, triết gia Hy Lạp  Sénèque thấy trong sự “thương hại” động lực chính của tha thứ.  Ông tóm tắt tư tưởng của mình trong công thức này:  “Con hãy tha thứ cho người yếu hơn con vì thương hại nó, và con hãy tha thứ cho người mạnh hơn con vì thương hại con”.  Thật không cao thượng tí nào!

Sai lầm thứ nhì là coi tha thứ như là đặc quyền của Thượng Đế.  “Chỉ một mình Thượng Đế mới có thể tha thứ”.  Đó là công thức không để chỗ cho trách nhiệm của con người.  Người Thiên Chúa giáo thường cầu nguyện:  “Xin Cha tha tội cho chúng con như chúng con cũng thứ tha những lỗi lầm của người khác đối với chúng con.”

            Một nhà thần học trẻ tuổi, Jean Delumeau, khẳng định rằng “sự tha thứ thiết lập gạch nối giữa con người với nhau, và giữa con người với Thượng Đế”.

            Như vậy, tha thứ là một nổ lực vừa nhân bản vừa thiêng liêng, là một hợp tác không những giữa kẻ gây nên xúc phạm và người bị xúc phạm, và còn giữa con người với Thượng Đế.

            Trong lời mời gọi “hãy tha thứ”, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bàn về vài điều kiện cần được thực hiện, đó là “sự thành thật trong đối thoại, sự trưởng thành chấp nhận cá tính của mỗi người.”

 

 III.   BIẾT CHẤP NHẬN LẪN NHAU

 

            Nếu không biết thương yêu thì không bao giờ biết tha thứ. Và một khi đã không biết thương yêu, không biết tha thứ thì tất nhiên không thế nào biết chấp nhận lẫn nhau trong cuộc sống tập thể được.  

            Trong gia đình:  luôn luôn lục đục, xào xáo, cằn nhằn, gó ấu lẫn nhau, biến gia đình từ một “tổ ấm” để vợ chồng, con cái nương tựa, quây quần, sống vui vẻ, hạnh  phúc với nhau, để rồi một ngày nào đó, bùng nổ dữ dội, lắm khi lý do đưa ra chả đáng gì cả!

            Trong tổ chức đoàn thể:  chia bè, chia nhóm, nói hành, nói xấu, vu oan cho nhau, chỉ trích, bêu xấu nhau, tìm cách hạ nhục nhau, chà đạp kẻ khác xuống để mình tiến thân.  Cứ mở đài phát thanh, đọc báo chí, vào internet…thì rõ.  Như vậy làm sao tạo nên sự đoàn kết, tạo nên sức mạnh để phát triển tập thể được?  Trong tim, trong óc mình lúc nào cũng đầy tràn, chật cứng những ganh tị, hiềm khích…thì còn chỗ nào để cho tình thương, sự thông cảm, sự tha thứ, chấp nhận lẫn nhau trú ngụ được?

            Trong đời sống hằng ngày, tương quan giữa con người với con người, cần tôn trọng lẫn nhau, không nên đòi hỏi người khác phải giống y như mình, như vậy là thiếu thực tế, và ngay cả thiếu trưởng thành nữa!

            Vấn đề trọng yếu đối với cá nhân và tập thể là làm sao vừa giữ được chân tính của từng thành phần, đồng thời giúp từng cá nhân hòa nhịp với tập thể, để cá nhân có thể xem mình là “quà tặng” cho tập thể, cũng như tập thể là “quà tặng cho cá nhân”.

            Ngoài ra, sự khác biệt, tính đa dạng trong một tập thể sẽ phong phú hóa tập thể đó, và ngay cho bản thân mình, khi mình trưởng thành nhìn vào thực trạng.

            Có người cho rằng chấp nhận là một thái độ tiêu cực, ta chấp nhận vì không còn con đường nào khác.  Không hẳn như vậy.

            Trước hết, “chấp nhận chính mình” là nhận ra con người thật của mình, duy nhất, không ai thay thế được.  Một người đã được Tạo Hóa hết lòng yêu thương, và đã được tạo dựng trong yêu thương.  Một triết gia Ấn Độ, Rabbi Zusya, trước khi chết, nói với bạn bè mình rằng:  “Khi tôi chết rồi, Thượng Đế sẽ không hỏi tôi tại sao con không giống Napoléon, hoặc giống như Socrate, nhưng Ngài sẽ hỏi tôi:  “Tại sao con không giống hình ảnh con người mà ta đã tạo dựng?”  Ở đây, sự chấp nhận bản thân mình không có gì là tiêu cực cả.  Từ sự chấp nhận bản thân, ta sẽ dễ dàng chấp nhận kẻ khác hơn, vì chính họ cũng như ta là “công trình vĩ đại” của Tạo Hóa.

            Như vậy, chấp nhận hẳn là một hành động tích cực.

            Đối với gia đình, xã hội nhỏ bé gần nhất, cần chấp nhận lẫn nhau để sống.  Chúng ta luôn quan niệm rằng:  gia đình phải là tổ ấm hiệp thông, hiệp thông giữa người chồng và người vợ, giữa cha mẹ và con cái.

            Thế nhưng, trong thực tế, vì quá đề cao tự do cá nhân, nhiều lúc người ta tưởng rằng hai vợ chồng lai hai con người độc lập sống bên cạnh nhau.  Mỗi người có một công việc riêng, tài sản, xe cộ, trương mục riêng, giải trí riêng (chưa kể những cái riêng khác…)

Con cái cũng có cái thế giới và sinh hoạt riêng của chúng…Gia đình hình như bị phân mảnh.

Đây hẳn là ảnh hưởng của một xã hội mà sự riêng tư của cá nhân được xem như quan trọng hàng đầu.  Đối diện với một nền văn hóa hoàn toàn khác biệt  như vậy, sự hội nhập và thích nghi (kết quả của sự chấp nhận lẫn nhau) rất cần thiết để lập “thế quân bình tâm lý”, hầu có một cái nhìn về xã hội, về gia đình tích cực hơn.

 

            Làm thế nào để lập thế quân bình vừa nói? Bằng cách thích nghi những giá trị truyền thống với hoàn cảnh mới.  Một trong những giá trị truyền thống Việt Nam, đó là tinh thần gia đình.  Gia đình có thể lập thế quân bình của mình qua những sinh hoạt chung cuối tuần, tạo bầu không khí trong những bữa cơm tối gia đình, những buổi cùng nhau mua sắm chung, những giải trí chung…Tất cả những “cái chung” này cũng như những “cái riêng” trên đây cần được tất cả thành phần trong gia đình ngồi lại, cùng nhau tìm cách thông cảm, chấp nhận thực trạng, và nhất là giúp nhau thích nghi với những cái có thể là những trở ngại nhất thời cho đời sống hiệp thông trong gia đình.

 

            Đời sống xã hội hôm nay và nơi đây rõ ràng đang thách thức chúng ta.  Trong chiều hướng đề cao “cá nhân chủ nghĩa”, xã hội này đang dạy con em chúng ta phải biết và tranh đấu cho quyền lợi của mình, dạy phải nghĩ  tới mình trước đã, nhừng nhịn là dại dột, tha thứ là hèn nhát, sống phải hưởng thụ…và dành một chỗ rất hạn hẹp cho Tình Người.

            Chúng ta nghĩ sao về sự thách thức này?                                               

 




Đông Anh : Alpha Đỏ

Alpha Ðỏ
 
(Viết cho người sinh viên sĩ quan khóa 22 TVBQGVN, Quốc Nam)
 
    Người ta thường coi Alpha là biểu tượng của khởi đầu, của tiên phong, của đứng trước. Các trường quân sự đào tạo sĩ quan cho quân lực cũng thường lấy alpha là dấu hiệu, là cấp bậc cho sinh viên sĩ quan. Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam cũng tổ chức Lễ Gắn Alpha trang trọng cho sinh viên sĩ quan đã qua kỳ sát hạch giai đoạn đầu rất gay go.
    Ca tụng đời quân ngu,ờ trong đó viết về Alpha cũng nhiều. Ðời sống quân trường là thời gian lãng mạn nhất cho những chàng trai mới xếp bút nghiên theo việc binh đao. Tuổi trẻ coi thường mọi sự cho nên tuổi trẻ rất dễ trở nên anh hùng, anh hùng cá nhân, anh hùng với đồng phái và nhất là anh hùng với người khác phái. Ðeo alpha trên vai, quần áo thẳng nếp, cử chỉ đường hoàng, đẹp trai, còn trẻ, thường dạo phố với giai nhân. Hình ảnh đó đã làm mê mệt những chàng trai chưa tốt nghiệp tú tài và làm bồn chồn bao nữ sinh trung học.
    Người ta ca tụng Alpha rất nhiều, nhưng chỉ mình Quốc Nam đã đưa Alpha lên hàng tôn giáo. Mới vào trường nhìn lên đỉnh Lâm Viên đã thấy ý chí của mình cao vời vợi. Suốt trong 8 tuần sơ khởi, mỗi khi nhìn ánh trăng lạnh lẽo nơi quân trường, nghe gió vi vu bên hồ than thở, người trai Võ Bị có những niềm mơ, mơ thấy Alpha chờn vờn trước mặt. Nhìn các khóa niên trưởng oai nghiêm trong bộ đồ dạo phố với alpha đỏ rực trên cầu vai mà náo nức lạ thường. Mai này cũng đến ta!
    Alpha của Quốc Nam là Alpha Ðỏ. Ngày xưa tôi vào trường mang Alpha Ðen. Trường lúc đó cũng có tên khác: Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt. Hai mẫu alpha để chỉ rõ sinh viên sĩ quan thuộc ngành hiện dịch hay trừ bị. Khóa 10 hiện dịch, sinh viên sĩ quan mang alpha trên nền đen có thêm huy hiêu con rồng. Khóa 4 phụ trừ bị đeo alpha trên nền đen không huy hiệu. Trống trơn. Các sinh viên sĩ quan thời ấy thường hay đùa rằng: người tình nguyện nên alpha rồng lộn, alpha trơ trụi với kẻ động viên. Alpha màu đồng vàng, thường thêu bằng chỉ kim tuyến.
    Sau này trường Ðà Lạt được đổi tên thành Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Alpha cũng đổi màu. Từ màu đen thành màu đỏ. Các quân trường khác vẫn giữ màu đen hoặc màu riêng quân chủng của mình.
Chương trình học của Trường Võ Bị Quốc Gia ấn định các sinh viên phải theo học 4 năm gồm cả quân sự và văn hóa để giúp cho người sĩ quan tốt nghiệp được toàn hảo về quân sự và có kiến thức. Alpha cũng theo thâm niên của sinh viên sĩ quan, Năm đầu tiên chỉ có alpha trên nền đỏ. Năm thứ hai thêm một vạch vàng nơi cuối alpha. Năm thứ ba thêm hai vạch và năm thứ tư cuối cùng thêm 3 vạch. Nhiều vạch trông nặng nề như trách nhiệm của người sinh viên chồng chất lên vai.
    Lễ gắn alpha thưởng tổ chức ban đêm nên alpha càng đượm màu huyền bí. Trong đời người sinh viên có hai lễ chính là đêm gắn alpha và ngày lễ mãn khóa. AÔnh đuốc lung linh quanh vũ đình trường, ngọn lửa hồng chập chờn trước đài tử sĩ. Hai trăm tân khóa sinh quỳ trước khán đài sẵn sàng nhận huy hiệu mới trên vai. Tiếng hô dõng dạc: “Ðứng dậy Sinh Viên Sĩ Quan”. Cầu vai mọi người đã lấp lánh alpha kim tuyến vàng trên nền đỏ. Tân khóa sinh đã trở thành sinh viên sĩ quan. Binh nghiệp mớiờ bắt đầu.
Quốc Nam thuộc khóa 22 trường Võ Bị vào cuối năm 1965. Phải có một nỗi đam mê ghê gớm, người sinh viên Quốc Nam mới có những câu thơ đầu đời Võ Bị về alpha như sau:
Ta bỏ lại đời sinh viên mộng mị
Nhìn đỉnh Lâm Viên nghiêng bóng quân trường
Alpha ơi! Màu Ðỏ đẹp vô cùng,
Chiều doanh trại nhớ về em bất tận…
    Quốc Nam yêu alpha, yêu màu đỏ cho nên qua alpha để nhớ về em bất tận. Những phút giây lãng mạn đó hình như theo bước chân chàng trai võ bị đi khắp mọi nẻo đường. Theo hết cả cuộc đời!
Ðến năm 1966 những câu thơ trong Tập Tình Ca Alpha Ðỏ nói về người yêu, về nỗi mong đợi và những cánh thư nàng gửi:
Một hồi âm một tim trần dấy động,
em về đây trang giấy trắng nguyên màu.
tháng năm dài anh vào mộng chiều sâu,
nghe tất cả chừng xuyên trời tuổi nhỏ.
Ồ! Thư em, chim sơn ca thành phố,
đến với người trai Võ Bị cô đơn.
vào từng khuya tưởng nũng nịu giận hờn
em đứng đó trăng sao nào rực rỡ,
 
    Chinh phục đỉnh Lâm Viên mà tưởng như chinh phục nàng trinh nữ. Có chế ngự Lâm Viên mới được mang alpha đỏ. Có alpha đỏ mới mong dạo phố với giai nhân.
Em sẽ mùa xuân đôi ta miên viễn.
Khi chạy vòng núi Lâm Viên một chuyến
Ta mang hình em lồng lộng gió sương.
Lời ca nào vang lên khung trời hồng,
Ta chinh phục đỉnh nữ-trinh Dalat.
    Quốc Nam viết về alpha, viết về thuở đầu đời Võ Bị, viết về đồng đội, viết cả tới quân trường. Lời thơ thiết tha mà hùng tráng, lãng mạn nhưng oai phong. Anh trải tình yêu từ thời niên thiếu, qua đời sinh viên sĩ quan đến người lính Việt Nam Cộng Hòa, từ thành phố thân yêu Ðà Lạt đến toàn đất nước quê hương. Lời thơ nào cũng mượt mà tình tứ.
 
    Năm 1988 gặp nhau ở San Jose. Quốc Nam khoe với tôi về bài thơ “Bản Thánh Ca Alpha Ðỏ” khiến tôi chợt nghĩ rằng chàng trai võ bị này đem alpha đi bốn phương trời. Thật vậy, bất cứ trong câu chuyện nào với ai thì alpha đỏ cũng được đề cập đến. Anh say mê kể về thời sinh viên sĩ quan, về quân trường, về alpha đỏ. Ra trường, anh đã ấn hành hai tập thơ liên tiếp trong hai năm: Tình Ca Lính Alpha Ðỏ (xuất bản năm 1968), Người Vào Cuộc Chiến (xuất bản năm 1969)…
    Nay tại hải ngoại, Quốc Nam hoạt động về văn hóa cũng rất thành công. Anh sáng lập ra Cơ Sở Văn Hóa Ðông Phương hay còn gọi là Dong Phuong Foundation. Năm 1987 sáng lập và tổ chức Giải Quốc Tế Tượng Vàng Việt Nam để khuyến khích và tuyển lựa ca sĩ trẻ tại hải ngoại. Năm 1991 Quốc Nam cùng ba thi sĩ Hà Thượng Nhân, Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn tổ chức chương trình thơ nhạc với chủ đề Ngày Thi Ca Việt Nam tại hội trường Call Me Dragon ở San Jose. Người yêu thơ và nhạc tham dự rất đông. Nhà thơ Nguyên Sa cảm nhận sự yêu nhạc và thơ của quần chúng nên đã gọi San Jose là “Thủ Ðô Văn Hóa của Người Việt Tỵ Nạn”
Trong suốt hai mươi năm Dong Phuong Foundation đã thành công rất nhiều trên lãnh vực văn hóa. Khi di chuyển tới Seattle, tiểu bang Washington, Quốc Nam mở đài phát thanh lấy tên là Ðài Phát Thanh Sài Gòn (SRBS) nằm bên cạnh khu vườn văn hóa với tên “Công Viên Tượng Vàng Việt Nam”
    Từ Seattle mà anh đặt tên là “Cao Nguyên Tình Xanh” tiếng nói của Ðài Phát Thanh Sài Gòn véo von làm vui người tỵ nạn. Tạp chí Ðông Phương nối kết những tin tức từ bốn phương trời làm ấm kẻ lưu vong.
 
    Lại trở về Alpha Ðỏ. Alpha đỏ đã làm hãnh diện cho lớp người trẻ đầy lý tưởng, muốn đem máu xương đáp đền tổ quốc, lấy can trường trả nợ quê hương. Quốc Nam đã đưa huy hiệu sinh viên của anh trở thành bất tử. Anh thần thánh hóa biểu tượng này, từ những tầm thường trở nên thiêng liêng thần tượng. Anh đã đặt tên cho bài thơ của mình
là “Bản Thánh Ca Alpha Ðỏ”.
Ngày hội ngộ, ta thương về trường mẹ,
Cổng Nam Quan sừng sững đẹp lạ thường.
Những chàng trai Võ Bị vẫn hiên ngang,
Trong đồng phục Jaspé, Alpha Ðỏ.
Bên những tà áo màu xanh nở rộ,
Cuộc tình nào lãng mạn tới muôn năm.
Ta nhớ em, má môi hồng mỹ nhân,
Ðã cùng ta sớt chia bao kỷ niệm.
    Nhớ về trường, nhớ về em, nhớ về những lời tỏ tình từ ven đường góc phố của khung trời Ðà Lạt đầy hoa:
Phố Hòa Bình, tay đan tay mầu nhiệm,
Níu giấc thơm nồng vào cõi thiên thai.
Sáng Chủ Nhật, trời Dalat xuân phai,
Hoa mimosa mỉm cười đồng lõa.
    Gợi về kỷ niệm trong đời sống sinh viên sĩ quan, anh nhớ đến Ðồi Nam, đồi Bắc, đến hồ Than Thở, đến đỉnh Lâm Viên;
Khi trở lại quân trường rèn cung kiếm,
Súng ta ôm trên Ðồi Bắc
Nhớ em.‘ Công Chúa Mimosa’ thầm gọi tên,
    Chàng sinh viên sĩ quan quân phục Jaspé, dạo phố mùa đông, leo dốc nhà thờ để cầu nguyện cho mình sớm đẹp đôi:
Hồ Xuân Hương trải màu sương khói tỏa,
Ta dìu em lên dốc phố Giáo Ðường.
Qùy bên nhau, đôi ta khấn nguyện rằng:
“Xin Thiên Chúa cho duyên mình bền chặt”.
Lời thánh ca rót vào tình chân thật,
Ta yêu em bằng trái tim thanh tân.
Alpha Ðỏ là sính lễ chứng nhân,
Trăm năm vẫn không nhạt nhòa tận hiến.
    Tình em với tình alpha tận hiến. Nghe mà lãng mạn vô chừng. Nghe mà thấy cả trăm năm!
Vận nước đổi thay, mỗi người mỗi ngả. Có những alpha xưa đang lầm lũi tại quê nhà. Có những alpha đang nổi trôi trên xứ lạ. Alpha trên nền đỏ tưởng rằng đi vào chốn lãng quên. Bốn chục năm sau, nàng vẫn không quên. Bài thánh ca alpha đỏ đi vào đoạn cuối:
Ta nhận tin em phía Ðại Tây Dương.
Hơn 40 năm xa cách muôn trùng,
Em email “vẫn yêu anh suốt kiếp”.
Trời Tây Bắc, ta lên cơn đồng thiếp,
Bản thánh ca Alpha Ðỏ rộn ràng,
Bỗng sống dậy trong tim ta mênh mang,
Những hò hẹn đêm Cao Nguyên huyền diệu.
Nhớ em đã cùng bên ta, vũ điệu,
Mối tình đầu nào ngờ chỉ mộng mơ.
Em thì thầm yêu màu Ðỏ Alpha,
Quỳ bên nhau giáo đường cao Thánh Giá.
    Bốn chục năm cuộc đời chia nhiều nhánh. Nhánh Nam, nhánh Bắc. Khi lạc lõng quê người cũng nhánh Ðông nhánh Tây. Nghĩ đến nhau mà khó sống gần nhau. Hãy an phận cho cuộc đời để giữ gìn tình cảm đến muôn năm:
Nhưng em ơi! Ðôi ta đâu còn nữa,
Tuổi trẻ xuân xanh đã bay mất rồi.
Hãy ngậm ngùi tưởng niệm cuộc chia phôi,
Là hành trang vào đời, cơn bão nổi.
Cuộc thế có đổi thay, tình ta có xa cách nhưng những kỷ niệm xưa vẫn còn đó, vẫn không hề thay đổi mà cũng chẳng cách xa. Alpha Ðỏ vẫn là bản thánh ca bất diệt:
Cho dù vậy, bản thánh ca bất diệt
‘Alpha Ðỏ’ vẫn vang vọng trong tâm.
 
    Người sinh viên sĩ quan khòa 22 trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Quốc Nam, vẫn đem chí hướng của mình đi quảng bá bốn phương. Ngày xưa nơi vũ đình trường trong ngày mãn khóa, bốn mũi tên bay bốn phương trời như chí tang bồng hồ thỉ. Người sĩ quan Võ Bị luôn nuôi chí hiên ngang, không nề nguy khốn, không màng hiển vinh. Trên mọi môi trường, trong mọi hoàn cảnh thì alpha vẫn là niềm tin và giữ vững niềm tin cho con người có lúc yếu mềm.
 
Ðông Anh



Võ Thị Tuyết : Tại Anh

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                     Mùa Đông Buồn
 

Lại đến mùa Đông em nhớ anh
Thuở xưa anh thích áo màu xanh
Đã bao hò hẹn…bao nhung nhớ,
Hai đứa cùng mơ kết mộng lành.

Đông về buồn tựa áng mây bay,                                   
Mưa ướt đường xưa phủ dáng gầy.
Sao bỗng chia ly người mổi ngả?
Phương trời có nhớ cuộc tình say?

Ngày ấy anh đi chẳng thiết tha
Đã quên thề hẹn của ngày qua
Xa nhau biết có còn thương nhớ…
Em vẫn chờ anh…với xót xa.

Đông về nơi ấy có buồn không?
Có ép trong tim những cánh hồng?
Có giữ những trang tình nhạc cũ,

Trao về em cả khúc tình nồng

Tuyết trắng bay bay lạnh buốt đời.

Nhớ người năm cũ lệ buồn rơi
Tình thư còn đó người đâu nữa,
Người biết hay chăng đã một thời…
 
Võ thị Tuyết
(Cho một người ở Biên Hòa)
9/29/2009

 

 

 

 

 

Xuân nầy con chưa về

 
 

Mười năm xa xứ chưa về
Xe hoa một chuyến lìa quê bao ngày
Mẹ giờ ánh mắt hao gầy
Nuôi con mòn mỏi dạn dầy gió sương
 
Bàn tay mẹ dắt đến trường

Vẫn tràn hơi ấm tình thương nhớ hoài
Khó khăn một gánh lệch vai
Nuôi con khôn lớn hình hài ơn sâu
 
Gác tay thao thức đêm thâu
Nhớ về quê mẹ bạc đầu bóng đêm
Ru con tiếng hát êm đềm 
Ngọt ngào tiếng mẹ bên thềm chứa chan

 

Đông tàn mai nở xuân sang   

Đóa hoa muôn sắc kính dâng mẹ hiền

Xuân này xa xứ triền miên   

Con không về được trái tim lặng sầu
 
Võ thị Tuyết
Cây Chàm (Biên Hòa)
Thương nhớ về mẹ hiền 1974  

 
 

     

 

 

 

 

 

 

ANH ƠI 

  SAO EM NỠ VỘi LẤY CHỒNG 

 

   

Cho Người Tình Lỡ
 

Theo chồng chút phận đành mang
Anh về bên ấy cưới nàng đẹp duyên,
Nhớ chi để lụy để phiền cho nhau?
Tình đầu đành hẹn kiếp sau
Kiếp này chỉ để nhớ nhau trọn đời,
Tình mình dang dở nhớ hoài năm canh
Đêm đêm ôm giấc mộng tình
Giật mình trở giấc nhớ anh bồi hồi,
Nợ anh em nguyện trọn đời không quên
Tình mình nếu có nợ duyên
Em xin đền đáp trọn nguyền ước xưa,

Kiều Oanh Trịnh, tặng Võ thị Tuyết qua bài thơ   

"Sao em nỡ vội lấy chồng"VA, August 1, 2009

  

 

Nhung Nhớ

 

Ngập ngừng bước chân anh

Từ Bến Tre anh đến

Gặp em anh trìu mến

Anh lạc lối tìm vào

 

Gởi tình anh xôn xao

Như những trận mưa rào

Rộn ràng tìm bóng mát

Trao em nụ hôn yêu

 

Em ơi còn nhớ không?

Lời tình anh viết vội

Ép lá thư trong sách

Trao em cánh thư tình

 

Đón đưa em suốt buổi

Hò hẹn vạn lời thề

Gót hài thêu em bước

Nhè nhẹ bàn chân êm

 

Nhưng chinh chiến nổi lên

Đường tình chia đôi ngả

Em cố tìm lãng quên

Lại càng nhớ anh nhiều

 

Đồng Nai thật cô liêu

Sóng nhấp nhô buồn phiền

Tìm anh mà chẳng thấy

Chỉ thấy lòng triền miên

 

Biên Hòa em trở lại

Người xưa xa mất rồi

Giọt châu rơi lả tả

Bến cũ ngày xa xưa

 

Anh ơi đã bao mùa

Xuân, Hè, Thu Đông đến

Bốn mươi năm lỗi hẹn

Tình mịt mờ thiên thu…..

 

Tặng Võ thị Tuyết qua bài Bến Tre-Biên Hòa

Lê Kim Oanh–July 26, 2009

 

 

 

NHỚ VỀ BIÊN HÒA  (BIÊN HÒA NGÀY CŨ) 

 

Chiều nay về lại Tân Thành

Đường Nguyển Hửu Cảnh cây xanh thuở nào

Đồng Nai bến cũ còn đâu

Cây Chàm hẻm nhỏ lối vào nhà em

 

Bên Cầu Mát đếm sao đêm

Gió xao xuyến lượn công viên hữu tình

Bồng bềnh dòng nước lặng thinh

Mấy mươi năm vẫn đắm mình nhớ xưa 

 

Phượng nghiêng cành đỏ hương đưa

Tân Triều xóm bưởi, hàng dừa Lao

Chợ Đồn vẫn mướt hàng cau

Nhớ về thăm lại Hãng Dầu ngày qua

 

Biên Hùng nhớ buổi hẹn hò

Tan trường đưa đón  bến đò  cầm tay

Cầu Gành sóng nước ngất ngây

Em nghiêng tà áo trắng ngày xa xưa

 

Bửu Long vẵng tiếng chuông chùa

Khói lam lơ lửng người chưa trở về

Hóa An vương vấn câu thề

Tân Uyên trở lại chim quê gọi tình

 

Tân Mai, Tam Hiệp, Long Thành

Chôm chôm, điều, khóm ngọt lành trái thơm 

Bình Hòa ghé lại một hôm

Thăm người bạn cũ mỏi mòn nhớ mong

 

Con đường phố nhỏ dòng sông

Biên Hòa tỉnh lẻ mãi trong tim mình

 

Võ thị Tuyết

7/7/2009

 

 

BIÊN-HÒA NGÀY THÁNG CŨ

 

 

Em về đây một buổi chiều

Gió hiền hoà thổi cánh diều tung bay

Qua khu phố chợ Đồng Nai

Bước qua xóm nhỏ, lối vào nhà em

 

Sông Đồng gió mát triền miên

Nhớ ngày hai đứa chúng mình sánh vai

Ngả đầu đôi mái tóc mây

Thì thầm anh bảo nhớ hoài nghe em?

 

Cổng trường giọt nắng êm đềm

Phượng hồng xác đỏ bên thềm tả tơi

Bềnh bồng tà áo khắp nơi

Đạp xe xuống phố ghé nơi Biên Hùng

 

Hàng cây trứng cá mênh mông

Qua đường Hưng Đạo, ngược dòng thời gian

Đi lên mãi tận phi trường

Cổng vào ghi lại chút hương tơ lòng

 

Em về tìm bóng cố nhân

Tìm anh khắp nẻo, phố phường Cù Lao

Bửu Long, Châu Thới non cao

Bóng anh biền biệt, trăng sao xa vời

 

Anh đi ngàn dặm xa xôi

Em về ôn lại một thời đón đưa

Xa xa vọng tiếng chuông chùa

Ngàn mây lơ lửng, gió lùa khe song

 

Nhớ anh, khép kín trong lòng

Tình riêng em gửi tiếng lòng yêu ai!

 

 Kiều Oanh Trịnh, (cựu nử sinh NQ)

tặng VTT vì bài thơ "NHỚ BIÊN HÒA”

July 16/2009

 

 Bốn mươi năm trôi qua

 
 
Anh đến từ Bến Tre
Gặp em cơn mưa hè
Tình yêu anh dành hết
Nồng cháy lẫn đam mê
 
Mỗi ngày anh đón đợi
Lòng xao xuyến một thời
Thư tình kẹp trong sách
Ngày xưa cũ xa vời
 
 
Chờ anh buổi hẹn hò
Yêu anh từ dạo đó
Gửi em bản nhạc tình
Hai đứa lạc vào mơ
 
Anh mong ngày chung lối
Sẽ có nhau trong đời
Nhưng ngờ đâu giông bảo
Không còn chiều mong đợi 
                                                 
Vì ai giọt lệ dài
Lăn đường tình chia đôi
Lời anh xưa nhớ mãi
Cuộc đời lắm chông gai
 
Bốn mươi năm trôi qua
Hương tình chưa phai nhòa
Biên Hòa em về lại
Hẻm cũ bóng người xa  
 
Bến hẹn xưa bơ vơ
Con sóng đau vật vờ
Một mình em đơn độc
Giọt lệ thấm vần thơ
 
 
Võ thị Tuyết
6/27/2009

NHỚ NHỮNG CHIỀU SAIGON HÒ HẸN

Saigon ơi, xa rồi ta vẫn nhớ

Những chiều xưa hai đứa lén hẹn hò!

Nhưng phút chốc đời chia ta đôi ngả
Kẻ đầu sông hoài vọng cuối sông mơ.

Nhớ xuân xưa hai đứa cùng bẻn lẻn,
Thật dại khờ đâu biết trước ngày mai
Em bỏ lại mối tình đầu ngây dại,
Đò sang sông, sóng lòng cũng dâng đầy!

 

Mấy mươi năm vẫn còn xanh nỗi nhớ
Đã tưởng mình quên hết chuyện ngày xưa!
Anh có biết? Thời gian chưa xóa hết,
Chín mùi thêm kỷ niệm của tình thơ!
     

Võ thị Tuyết (Biên Hòa) 

Sài Gòn , Xuân 2009  




PHẠM THÁI NGUYỄN NGỌC TÂN GIỮA NHÀ VĂN NHÀ BÁO VÀ NHÀ CÁCH MẠNG

 

Bảy Bốp Phạm Thái là bút danh của nhà cách mạng Nguyễn Ngọc Tân một lãnh tụ Đảng Tân Đai Việt. Theo tiết lô của Bảy Bốp Nguyễn Ngọc Tân thì ông vào đời với giấc mộng làm nhà văn và cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông có tên Chuyện Năm Chàng Thanh Niên đã từng được giải thưởng của Tự LựcVăn Đòan năm 1944.Với văn giới Nam Bộ trước năm 1945 thì Tự Lực Văn Đòan thời đó có một hào quang văn học lớn lắm được giải thưởng Tự LựcVăn Đòan là ghê gớm chư không phải chuyện thương

Năm 1944  truyện vừa Chuyện Năm Người Thanh Niên được giải thưởng an ủi của Tự LựcVăn Đòan theo lẽ thì cùng năm đó Chuyện Năm Người Thanh Niên được nhà xuất bản Đời Nay in và phát hành nhưng vì lúc đó chiến tranh thế giới lần thứ hai đã lan tới bán đảo Đông Dương phi cơ Mỹ đã oanh tạc quân đội Nhật làm giao thông Bắc Nam bị trở ngại nên nhà xuất bản Đời Nay tạm ngưng họat động do đó tới 10 năm sau năm 1954 cuốn truyện vừa Chuyện Năm Người Thanh Niên mới được nhà xuất bản Tụ Quyết cho ra đời

Sư xuất hiện của cuốn Chuyện Năm Người Thanh Niên với tên tác giả là Phạm Thái đã khiến cho văn giới sững sờ vì không ngờ Nguyễn Ngọc Tân tác giả Chuyện Năm Người Thanh Niên lại chính là nhà báo Phạm Thái chủ bút báo Tư Quyết vì ai cũng biết Nguyễn Ngọc Tân là anh em bà con với tướng Viêt Minh Nguyễn Văn Tây tức Nguyễn Thanh Sơn. Hai người cha của Nguyễn Ngọc Tân và Nguyễn Văn Tây cùng chung một người ông và có cô em là vợ bé cưng của bí thư xứ ủy Nam Kỳ Đảng Cộng Sản Đông Dương Lê Duẩn

Bảy Bốp Phạm Thái Nguyễn Ngọc Tân dây mơ rễ má như vậy nhưng khi làm chủ bút tuần báo Tư Quyết của một nhánh đảng Đại Viêt do bác sĩ Nguyễn Tôn Hòan cầm đầu với sự trợ lý của Ba Xạo Nguyễn Ngọc Huy ở lại Saigon năm 1964, tách rời với Nguyễn Tôn Hoàn và thành lập Tân Đại Việt cùng với Nguyễn Ngọc Tân. Thì ’’hạ’’ bọn Cộng Sản Đông Dương sát ván

Bảy Bốp viết báo móc lò thiên hạ dữ quá bị mật vụ của bác sĩ Trần Kim Tuyến rượt chịu không nổi phải lưu vong sang đất Chùa Tháp

Lên Nam Vang Bảy Bóp vừa viết báo tiếng Tây lẫn tiếng Viêt để mưu sinh, Bầy Bốp kiếm ăn bằng nghề viết báo ở quê người chính là nhờ ông có giọng văn chọc quê tức cười và giọng móc lò thiên hạ thâm thúy

Theo sự tiết lộ của Bảy Bốp thì ông mê viết văn nhưng lại cứ bị tổ chức phân công phải viết báo do đó trở thành nhà báo bất đắc dĩ

Khi mới lưu vong ở Nam Vang về Phạm Thái đang thai nghén một cuốn tiểu thuyết mới viết được mấy chương thì tổ chức lại phân công là Tổng Gíám Đốc Tổng Nha Bình Định Nông Thôn.Tới khi bác sĩ Nguyễn Tôn Hòan và Ba Xạo Nguyễn Ngọc Huy phải lưu vong. Phạm Thái tưởng có thì giờ viết tiểu thuyết nào ngờ Đảng phân công Phạm Thái phải thay mặt bác sĩ Nguyễn Tôn Hòan và tiến sĩ Nguyễn Ngọc Huy cùng anh em điều phối họat động của tổ chức

Sau ngày 30 tháng tư năm 1975 Bảy Bốp Phạm Thái Nguyễn Ngọc Tân không trình diện đi học tập cải tạo rút vào bí mật hoạt động tưởng rằng có thì giờ viết nhưng cuôc sống bị rượt đuổi đã không cho phép Phạm Thái cầm bút.Thế rồi Bảy Bốp Phạm Thai Nguyễn Ngọc Tân bị bắt xuốt cả năm phải viết tư khai thành ra rất ngán cầm bút

Ra tù cải tạo đứng ngồi không yên gặp Viêt Huy Nguyễn Đình Huy và Đồng Tuy rủ làp Phong Trào Thống Nhất Dân Tộc Xây Dựng Dân Chủ lại đi tù nữa

Hết tù về nhà định viết hồi ký nhưng viết chưa được bao nhiêu thì bệnh rồi qua đới thành ra Bảy Bốp Phạm Thái Nguyễn Ngọc Tân trở thành nhà văn chỉ có độc nhất một tác phẩm đó là cuốn truyện vừa Chuỵện Năm Người Thanh Niên

Hồi sinh thời nhà văn Nguyễn Đức Qùynh thường nói với tôi tác giả Chuyện Năm Người Thanh Niên là một tiểu thuyết gia tầm cỡ ông xây dựng nhân vật rất tài tình văn chương trên Lê Xuyên một bậc tiếc rằng người tài như vậy lại không tiếp tục viết tiểu thuyết thành ra văn chương của chúng ta chịu một sự thiệt thòi lớn

Mỗi lần đến chơi với Lê Xuyên  ở đường Ngô Quyền Chợ Lớn tôi thường rủ Lê Xuyên lại thăm Phạm Thái hỏi anh viết hồi ký tới đâu rồi anh thừong cười rồi trả lời đầu óc lúc này lộn xộn quá cứ cầm bút là lại nhức đầu nên có viêt được gì đâu

Thế rồi Phạm Thái chết tiếp theo là Lê Xuyên cũng qua đời

Hồ Nam

 




Thơ Chưởng Môn Hà Thượng Nhân : Hóa Là Ta

Câu Đối của Hà Thượng Nhân

1-

Hơn ba triệu đồng bào bỏ nước ra đi

Quang phục quê hương còn vất vả.

 

Hàng chục ngàn hào kiệt chung lưng ở lại

Tự do chống Cộng quyết hy sinh.

 

2-

Trong cõi Viễn Đông, văn hoá cao vời, bất chấp thời gian tồn tại mãi

Trên đường hưng quốc, báo chương thực dụng, tàì năng vô luận tốt tươi hoài

Chúc Tết

 

Chúc các cụ Khang Ninh vui vẻ

Tuổi tuy già lòng trẻ muôn năm

Thong dong lúc đứng lúc nằm

Lại thương cái lạnh căm căm nước nhà

Vì quốc nạn mà ta bỏ nước

Ngoảnh nhìn về trên bước lưu vong

Bao nhiêu con cháu thành công

Dẫu cho một chút thỏa lòng tổ tiên

Nghĩ đồng loại liên miên đói khổ

Ðảng độc tài kẹp cổ lầm than

Ðến nay chưa thoát cơ hàn

Mùa xuân nghĩ lại muôn vàn thương nhau

Tuy vẫn đau, nỗi đau mất nước

Chút tiệc vui mừng trước gọi là

Quý ông lại có quý bà

Nhìn vào là biết quốc gia vững bền

Bao cay đắng nhìn lên chẳng hổ

Dù bao nhiêu nỗi khổ rồi qua

Tết về ta lại chúc ta

Chúc cho con cháu một nhà đông vui

Chúc tuổi già ngọt bùi nếm đủ

Nước tự do là rủ nhau về

Ðẹp thay một mối tình quê

Vui thay tóc bạc ngồi kề tóc xanh

Ta có cả người Thanh, người Nghệ

Ta có thêm người Huế, Sài Gòn

Dặm dài một giải núi non

Mỗi khi nhớ đến cháu con càng mừng

Hà Thượng Nhân

 

 

 

 

 

 

 

 

Mừng Thọ

 

Cứ Tết đến cầu mong các Cụ

Tuổi tuy già lụ khụ, lòng xanh

Gặp nhau tấc dạ chân thành

Bỏ nhà bỏ nước, đâu đành bỏ nhau

Ta vẫn cứ trước sau như nhất

Chữ tổ tiên là rất thiêng liêng

Mùa xuân gióng trống khua chiêng

Nhắc cho con cháu giữ riềng mối xưa

Trời dù nắng dù mưa vẫn thế

Có kế nào hơn kế chân tâm

Chúc cho đừng có mê lầm

Chúc cho Cộng Sản hồi tâm hồi đầu

Chúc cả nước một câu thành đạt

Chúc trẻ già rào rạt tình thương

Chúc nhau giữ mối cương thường

Cầu mong cờ rợp quê hương từ từ

Một đời mấy bận di cư

Lưu vong ta vẫn tưởng như quê nhà

Tuy sau trước sẽ là dân Mỹ

Vẫn không quên vốn dĩ Việt Nam

Lộc trời ai lại chẳng ham

Chẳng vì một miếng trân cam mà dành

Bọn con cháu lòng thành cúng Tổ

Mong ơn trên phù hộ các ngài

Cháu con học sẽ thành tài

Cầu mong chư vị thêm vài mươi xuân

Xin cùng rót vài tuần rượu ngọt

Trước dâng lên chung một lòng thành

Chúc cho muôn sự tốt lành

An Ninh Khang Kiện sáng danh tuổi già

Hà Thượng Nhân

 

 

 

 

 

 

Tuổi Già Nhớ Quê

 

Non nước đâu rồi? Mãi tận xa!

Mây bay lờ lững nhớ quê nhà

Bỗng như trở lại thời con trẻ

Chợt thấy giờ đây tuổi lão già

Nắng vãn đầu non vàng mới nhạt

Gió lùa cuối ngõ bóng vừa qua

Trăng treo bên núi trăng già trẻ?

Có chiếu tình quê sáng mặn mà?

Đông Anh

 

Hóa Là Ta

Quay lưng tổ quốc mịt mù xa

Nước mất còn đâu dám nói nhà

Mới đó đã qua rồi tuổi trẻ

Vừa đây lại thấy sắp về già

Lưng còng mắt kém tuy chưa tới

Gậy chống chân run chắc sẽ qua

Lấy kính ra soi ngày tuổi trẻ

Tưởng ai chẳng hóa chính ta mà

Hà Thượng Nhân

 




Đọc Bài Thơ Cũ : Mưa Chiều Hời

1. Ðọc Bài Thơ Cũ "Mưa Chiều Hời"

2008-10-09 15:35:50

 

Ðầu năm 2003, bỗng dưng tôi nhận được một tập thơ trong dĩa computer của Băng Ðình gửi tới. Mở ra đọc, tôi thấy ngay một bài thơ mà tôi rất thích từ 45 năm trước, bài Mưa Chiều Hời.

Vào năm 1959 Băng Ðình và tôi cùng chung một đơn vị, Tiểu đoàn 3/12 sư đoàn 4 dã chiến, chúng tôi cùng sống trong một dãy cư xá dành cho các sĩ quan độc thân tại trường Bộ Binh Thủ Ðức vì đơn vị chúng tôi được cử về làm tiểu đoàn thao diễn và an ninh cho trường sau kỳ thao dượt Ðông Phong ở Phan Thiết.

Cứ mỗi buổi chiều, sau khi nghỉ việc và cơm chiều tại câu lạc bộ, chúng tôi ngồi trên hành lang nhìn ra đường và vũ đình trường mà nói chuyện tào lao. Thôi thì đủ thứ chuyện, hết chuyện đời đến chuyện thơ. Ðọc cho nhau nghe những vần thơ mới hình thành, bình luận cùng nhau những vần thơ xướng họa. Rất tiếc là không có giọng ngâm nên chúng tôi cứ đọc “rống” lên gây rất nhiều phiền toái cho mấy anh hàng xóm độc thân khác.

Bài Mưa Chiều Hời đã được chúng tôi đọc đi đọc lại gần như thuộc lòng. Rất tiếc cho cây quế giữa rừng. Rất cảm phục mối tình của Trần Khắc Chung với nàng công chúa cùng họ. Miền Nam sớm nắng chiều mưa, khiến thi nhân như hòa nhịp với thời tiết lạ xứ Hời mà nhớ về quê Bắc xa xăm:

Người đi mây trắng xây thành
Miền Nam mưa nắng một mình người thôi

Bài thơ như một bài hành khi xung trận để mở rộng biên cương. Như bài hát tả nỗi lòng cô phụ bỏ hết lại đằng sau dấn thân vào nơi gió cát xứ người. Những mưa rơi chiều Hời. Những gió bay biên địa. Những sầu muộn mong manh. Những ánh tà dương ngăn ngắt. Tất cả đã khiến cho sự hy sinh của nàng công chúa thêm thê lương, mối tình của Huyền Trân thêm ray rứt. Nhân đó tôi cũng có đôi vần ca ngợi bài thơ của BÐ ghi ở phần sau.

Năm 1990, khi liên lạc với nhau tại Mỹ, tôi hỏi lại bài thơ xưa thì được BÐ trả lời tất cả đã mất hết rồi, mất theo hành trình đốt sách của kẻ thù. Chúng tôi rất buồn, rất tiếc.

Bỗng đầu năm 2003 anh gọi điện thoại cho tôi khoe rằng đã tìm thấy bài thơ. Bài thơ này tìm lại được cũng kỳ bí như huy hiệu con Phượng Hoàng(*), biểu tượng đầu tiên của Trung Tâm Quốc Gia Ðiện Ảnh Việt Nam mà BÐ làm giám đốc khi xưa.

Nhận được bài thơ, tôi muốn chia xẻ với các bạn yêu thơ, với bằng hữu. Nhưng nếu chỉ đăng lên không thôi, e rằng không hết ý. Do vậy mới có vài lời dông dài này.

 

Ðông Anh

Tháng Tư năm 2003

 * Băng Ðình đã viết về biểu tượng Phượng Hoàng qua chuyện Phượng trong Còn Một Chút Này sắp in.

 

MƯA CHIỀU HỜI

 

Huyền Trân một sớm lìa kinh khuyết
Rượu tiễn run môi lạnh tiếng đàn
Ô Lý hai châu còn chật hẹp
Một trời Chiêm Việt mấy quan san
Gió mưa ướt nẻo Ðồ Bàn
Rưng rưng lệ đổ hai hàng máu khô
Ðá tường chìm khuất cung vua
Biết đâu lá biếc mùa thu ngả mình
Quê xưa trời có đẹp
Năm mầu mây thanh bình
Người xưa giờ có chép
Những vần thơ xinh xinh
Một đi là mãi mãi
Mưa rơi vào tâm tình
Mong chi ngày trở lại
Còn chi mộng tuổi xanh
Ðêm đêm nhầu chăn gối
Trăng úa rụng bên mành
Tay Chiêm Vương vội vã
Tình Chiêm Vương mong manh
Thân gửi ngoài biên địa
Hồn mơ về Long Thành
Có mùa xuân minh mị
Có mùa hè nắng xanh
Có mùa thu sầu muộn
Có mùa đông buồn tênh
Mộng đẹp dài canh vắng
Tay ai chuốc chén quỳnh
Tin đâu về náo nức
Chiêm Việt dứt đao binh
Phụ Vương một hẹn sầu đôi trẻ
Ô Lý hoang vu lạt chữ tình
Lịch sử thêm tươi mầu má thắm
Riêng lòng ai chết những mầm xanh
Người đi mây trắng xây thành
Miền Nam mưa nắng một mình người thôi
Mưa bay buồn những chiều Hời
Nhỏ thưa tiếng địch não người biệt ly
Sắc chìm hương lạt thâm khuê
Âm u đá tháp dặm về mù sương
Heo may thổi lạnh đêm trường
Xiêm y sô lệch phấn hương nhạt nhoà
Mây vẫn trôi về Bắc
Sầu chưa thôi nở hoa
Mưa lụt trời Chiêm Quốc
Tơ run trên phím ngà
Ðiệu Nam Bình ai oán
Van mùa mưa mau qua
Gấm the nào ấm được
Những chiều mưa nhớ nhà
Vó câu mờ sắc áo
Chiều dâng tím nẻo xa
Khắc Chung còn ruổi ngựa
Hồn chìm đáy ly ca
Mưa vẫn dài thương nhớ
Ngăn ngắt ánh dương tà
Huyền Trân lệ đổ tràn vai áo
Giữa gấm hoa ngồi khóc tuổi hoa
Mắt lệ mỏi mòn trông hướng cũ
Những ngày qua tiếp những ngày qua
Rừng thu sơ xác lau già
Trong sương nghe vẳng tiếng gà sang canh
Hồn khuya nhẹ gót đầu cành
Lung linh nến cháy sử tình hắt hiu

 BĂNG ÐÌNH

 

Gửi Băng Ðình, người viết Mưa Chiều Hời

 Khắc Chung rong ruổi trên lưng ngựa
Theo bóng Huyền Trân nắng chập chờn
Một mối tình si muôn dặm thẳm
Ngàn trùng gió cát lạnh mưa tuôn
Người đi về phía hoàng hôn
Ðể vầng trăng khuyết mỏi mòn kinh đô
Qua Chiêm đem mối tình hờ
Lược trâm bỏ lại ngẩn ngơ hoàng thành

Lưu lạc xứ người thân lạc bóng
Giữa rừng cây quế nghẹn chua cay
Chiều thu chợt biến thành sương phụ
Ðợi lửa lên giàn hương phấn phai
Bỗng dập dồn vó ngựa
Từ biên địa qua đây
Ðưa nàng về cố quốc
Mưa Hời quyện khói bay
Thuyền chao tình sóng vơi đầy
Lướt đi trong cõi trời mây mịt mù
Ngàn sau tình sử, áng thơ
Lung linh ánh nến đọc Mưa Chiều Hời

 

Ðông Anh Nguyễn Ðình Tạo

 

Băng Ðình

huệ thu đăng ngày 10/12/09 – 1:44 AM

huệ thu họa :

THÂN GỬI ĐẤT HỜI

Thăng Long còn mãi vầng trăng khuyết
Con sáo sang sông lỗi nhịp đàn
Ô Lý có ai thương phận gái ?
Dù cho ngàn dặm nghĩa Giang San
Người sau nếu luận, nếu bàn
Chẳng qua cũng chỉ vài hàng lệ khô
Muôn ngàn giã biệt nhà vua
Còn đâu đất mẹ mùa Thu của mình ?

Môi son vì ai đẹp ?
Thiếp đi vì hòa bình
Sử xanh rồi sẽ chép
Khi gót hài xinh xinh
Lìa quê hương đi mãi
Thiếp đâu nỡ phụ tình ?
Đường xa quay nhìn lại
Cả những hàng cây xanh
Bẽ bàng chăn với gối
Trăng xưa vẫn trước mành
Người xưa sao vội vã
Chút lòng nàng mong manh
Thiếp ra ngoài biên địa
Chàng ở lại kinh thành
Có như là mộng mị
Mây mùa Thu vẫn xanh
Trăng khuya nay đã muộn
Son phấn thấy buồn tênh

Giữa đất trời thanh vắng
Hương thơm một đóa quỳnh
Hoa quỳnh sao thơm nức
Dù không còn lửa binh
Cầm bằng chẳng có thời son trẻ
Một đi, quên được chuyện ân tình ?
Quê hương đào nở mùa Xuân thắm
Lộc nhú cành tơ lặng lẽ xanh
Chao ôi ! Nhớ quá kinh thành
Từ nay thôi chỉ một mình mình thôi
Từ nay ở nước non Hời
Bỗng nhiên mà trở thành người phân ly
Từ nay khép cửa phòng khuê
Tóc kia đến lúc trở về tuyết sương
Từ nay trên quãng đường trường
Mỉa mai phấn lạt mà hương cũng nhòa
Ai giờ trên đất Bắc ?
Vườn ngự ngạt ngào hoa
Thiếp nhớ về Tổ Quốc
Đàn lạnh trên phím ngà
Cung lại cung sầu oán
Ngày lại ngày dần qua
Làm sao mà xóa được
Hình ai nơi quê nhà ?
Lệ đêm hoen ố áo !
Mịt mùng đất nước xa
Chàng ở trên mình ngựa
Có vui gì tiếng ca ?
Có buồn chăng nỗi nhớ
Khi đối bóng trăng tà
Lạnh lùng khép lại hương đầy áo
Trời ơi ! Mới biết lụy tài hoa
Xin gửi lòng này về chốn cũ
Sầu khổ rồi đây cũng sẽ qua
Bao nhiêu tuổi tác mới già ?
Đất Hời vẫn lại tiếng gà mỗi canh
Mưa hay lệ nhỏ trên cành
Giang sơn Lãi để riêng tình hiu hiu.

Huệ Thu




Phạm Thị Cúc Vàng :Tóc Mây 16

 

Hạnh Phúc cuối dòng sông

em tìm gì ở cuối dòng sông
con sóng buồn ký ức long lanh
có người xưa lời hứa trăm năm
hút vào xa kỉ niệm màu xanh

em tìm hoài bóng mát dấu anh
cánh chim trời bay mãi về đâu
dòng lệ sầu trút hết vào thơ
ướt trang đời mãi cứ bể dâu

em tìm về dấu lặng bờ sâu
nước mắt còn tung tóe giọt rơi
em nhặt về tụng niệm hồn đau
lần tràng buồn hạt nhớ đầy vơi

em tìm đâu cổ tích trần gian
tìm được đâu hạnh phúc mong manh
gom về đây mảnh vỡ bài thơ
ghép được sao trọn vẹn tình anh.

phamthicucvang

 

 

 

 

Moi cac Ban cung chia se video clip

"TOC MAY 16"

http://www.nnyvn. com/video/ phamthicucvang/ tocmay16. wmv

Tho Pham Thi Cuc Vang (Saigon – VN)

Nhac Pham Tung (Saigon – VN)

Video clip vua duoc phat tren song HTV9 – TPHCM

1. Tiet muc doc tho do Pham Thi Cuc Vang the hien 

2, Ca si Thanh Huong trinh bay ca khuc,

voi phan minh hoa cua nhom Huynh Dao

Than men, CTT

 

     

NhungNguoiYeuVietnam

       

                http://nnyvn.net  info@nnyvn.net

   

     

 




Hồ Nam : HOÀNG NGỌC BIÊN TỪ DICH GIẢ HỌA SĨ TỚI NHÀ THƠ

HOÀNG NGỌC BIÊN TỪ DICH GIẢ  HỌA SĨ TỚI NHÀ THƠ

Hoàng Ngọc Biên là bút danh và cũng là tên khai sinh của một ngươi sinh năm 1938  tại Quảng Trị trong một gia đình danh tiếng cha là công chưc thời Pháp [ theo lời kể của Hoàng Ngoc Biên trong truyện Ngươi kháng chiến thì cha Hoàng Ngọc Biên làm thông phán tòa sứ tại Quảng Trị nhưng  năm hai mươi lăm tuổi cha Hoàng Ngọc Biên đánh viên công sứ ngươi Pháp đến chẩy máu đầu nên bị   chuyển  qua ngành thuê Thời Viêt Minh cha Hoàng Ngọc Biên  đứng đầu ngành thuế  ở Đà nẵng thời quôc gia đứng đầu ngành thuế vụ ở Chợ lớn đang hốt bạc bỗng môt một ngày ông  chán Chợ lớn xin đổi lên Đà lạt để hưởng nhàn nhưng môt buổi bốc lên ông chửi xéo viên đai biểu chính phủ nhờ chỗ trong  họ chỉ bị mât việc rồi về Saigon .Tuy nhiên nhờ thế mà năm anh em Biên  đươc học hành đến nơi đến chốn]mẹ Biên là ngươi đẹp nhưng chỉ sống đời nội trợ .Mươi chin tuổi Hoàng Ngoc Biên tham gia nhóm Trình Bày của Nguyễn Văn Trung và Thế Nguyên[một nhóm nhà văn nhà báo Thiên Chúa Giáo thiên tả mê văn chương Mác xít] thời gian này Biên đã dich Marcel Proust chứng tỏ Biên có đầu óc văn chương

Hoàng Ngọc Biên không chỉ dich Marcel Proust mà còn dịch Pasternak rồi dịch Samuel Backette rồi Alain Robbe Grillet chứng tỏ Biên giỏi ngoai ngữ và có đầu óc thưởng  ngoan văn chương khá tốt

Hoàng Ngọc Biên là thây giáo rồi họa sĩ rồi viêt báo viêt văn  và làm thơ và đã tạo đươc một phiên bản là Đỗ Trung Quân một phiên bản  ăn măc đi dứng điệu bộ y chang Hoàng Ngọc Biên nhưng vẽ và viêt thì kém xa Biên

Hoàng Ngọc Biên giống cha ảo tưởng về kháng chiến Mác xít nên sau ngày 30 tháng tư 1975 đã ở lại Saigon nhưng sau đó tìm mọi cách thoát ra khỏi Saigon sang Mỹ

Hoàng  Ngọc Biên vẽ trình bầy sách viêt lãnh vưc nào cũng có đât đứng nhưng vị trí không cao tuy nhiên làm thơ thì lại rât đươc

Thế là trên bẩy mươi

Ta vẫn phải cứ đi

Phải cư đi

Vì đã lỡ đi-đã lỡ ôm túi vải

Thời trẻ tuổi lên đương

Trên bẩy mươi

Đât dưới chân lạnh đến nỗi

Nhà cửa cây cối  phải ngưng mặt

Nhìn trời phát ra những âm thanh

Kinh hoàng

Trên bẩy mươi

Nhiều người thích

Đươc có người dắt dẫn

Ôm vai quàng cổ khen nhau

Trẻ già ai nấy

Hớn hở đồng chí  anh em

Mệt nghỉ

Tôi vẫn phải cứ đi

Đi riêt vẫn không biêt mình đi đâu

Đi riêt-một mình

Cho tới khi

Gặp một bến sông

Bờ bên này là đồng khô

Bờ bên kia là cây xanh

Bóng đổ dài mặt nươc

A ta về đến chỗ ngày xưa

Tiếng nói rớt trên chỗ giáp tiếp đât và nươc

Ngày trần truồng tay ta ôm chặt

Một thân chuối thả trên sông

Nói song phẳng

Đạp bằng hai chân ta thấy thú hơn

Đap bằng đầu

Đi tới mà chẳng cần biêt

Phải đi tới đâu….

Thơ Hoàng Ngọc Biên như thế đó, không giống ai nhưng nó là của Hoàng Ngoc Biên và nó rât thơ nghĩa là có nét riêng rât Hoàng Ngọc Biên .Có thể Hoàng Ngoc Biên làm dáng và điệu đàng một chút nhưng sư làm dáng điệu đàng đó cũng rât Hoàng Ngọc Biên [ sư làm dáng điệu đàng của môt ngươi lãng đãng đoc sách vẽ viêt rong chơi cho mình và không giống ai]

Hoàng Ngọc Biên thoát khỏi Viêt Nam nhưng không thoát khỏi cái bóng nhómTrình Bày Ra khỏi Viêt Nam Hoàng Ngọc Biên làm sống lại nhómTrình Bày dù Thế Nguyên đã chêt vì ma túy va Nguyễn Văn Trung sang Canada loay hoay với con đương’’văn chương hòa giải hòa hợp không lối thoát

HỒ NAM

TRÍCH THƠ HOÀNG NGỌC BIÊN

TRỤ TRÊN NỖI ĐAU

Hai chân trụ trên nỗi đau

Ta hat bài hát riêng ta

Hơn sau thập kỷ đi về

Chiều nghiêng nghiêng mầu đục

Đương hai bên

Cỏ dại

Đẵm thời gian

Đem theo gì

Con người vô định

Đem theo gì đêm lên tiếng hỏi

Đêm trả lời

Lời kinh mẹ

Tiếng mõ cha

Hoàng Ngọc Biên

GỬI HOÀNG NGỌC BIÊN

Đi không phải để đến

Đến để làm gì nhỉ

Có đi thì cò đến

Đời thật là buồn tẻ

Thơ cũng như vậy sao

Ngâm nga hoài chán chêt

Nhưng vẫn phải ngâm nga

Cũng như sống và chêt

Qua đêm rối tới ngày

Ta ngủ vẫn muốn mơ

Những giấc mơ giật mình

Sao ta vẫn cư chờ

Mổi ngày mặt trời mọc

Ta lai phải lên đương

Trươc mặt là sa mạc

Sau lưng là đai dương

Ta lên đương mệt mỏi

Nơi nào là quê hương

Nhưng ta vẫn bươc đi

Dù chỉ đi quanh quẩn

Những miền quê chật hẹp

Hay vượt biển phiêu liêu

Ta tìm mình muốn chêt

Chỉ thây đời tẻ nhạt

Và chửi rủa bản thân

Ôi cái tên vô loài

Chỉ thích chuyện quái đản

VƯƠNG TÂN