Hạt Mưa Niềm Nhớ





Kính thưa quí vị,
Giới thiệu một tác phẩm thơ luôn luôn làm tôi bối rối. Bối rối vì người làm thơ nói lên cảm xúc rất riêng tư của mình mà người đọc nhiều khi chỉ thấy thoáng qua, nên có thể không giới thiệu tới cái phần xâu xa của tác gỉa. Khác với chính khách, thi sĩ không đại diện cho đám đông, không nhân danh quần chúng. Người làm thơ chỉ phát biểu cảm xúc của riêng mình, với cảm quan rất cá biệt. Nói như nhà thơ Nguyễn Đức Sơn: “thơ là những gì phức biệt có riêng tôi”. Chính với cái cá biệt đó thi sĩ đã dựng lên một thế giới của riêng mình. Trong thế giới riêng đó thiên nhiên đột nhiên có sức sống, có mầu sắc, có hương vị riêng mà chỉ thi sĩ nghe thấy nhìn thấy ngửi thấy.
Với người không làm thơ buồn vui không liên quan tới mưa nắng. Chẳng hạn trời mưa chỉ nghe tiếng mưa rơi, nhưng nơi một người làm thơ như Huy Cận ông thấy cả sức nặng của bầu trời tạo nên cái buồn của mình:
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn
Ngược lại nơi Xuân Diệu, một tri kỷ của Huy Cận, thì cái buồn nó tới vì thi sĩ thấy trời nhẹ đi:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
Cùng là nỗi buồn mà ngừơi thì thấy vì trời nặng, người thì thấy vì trời nhẹ. Hoàn toàn ngược chiều nhau. Thi sĩ là người đã tái tạo thiên nhiên như vậy. Chính cái cảm xúc khác biệt đó đã làm một người viết thành thi sĩ. Thi sĩ thấy và cảm những điều mà chỉ ông ta thấy và cảm mà người khác không thấy, không cảm.
Nhìn mây bay ta có thể nghĩ tới trời nắng hay sắp mưa, nhìn hoa nở ta thấy mùa xuân đang tới, nhưng ở Lý Bạch mấy trăm năm trước thì:
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung
Nghĩa là nhìn mây bay ông nhớ tới xiêm áo tha thướt của nàng, nhìn hoa nở ông nhớ tới khuôn mặt diễm lệ của nàng. Những xúc động đó tới từ môt tâm hồn phong phú mà cũng rất riêng tư. Nhà thơ Joseph Brodsky, trong diễn văn nhận giải Nobel Văn Chương năm 1987 viết là: “Nếu nghệ thuật có dạy một cái gì cho nghệ sĩ thì đó chính là cái tính cách riêng tư của cuộc sống con người.” Ông nhận xét là người ta có thể chia sẻ nhiều thứ như bánh mì, chiếc giường, niềm tin nhưng không thể chia một bài thơ.
Chính vì cái rất đỗi tư riêng đó nhận xét về thơ luôn luôn là môt nghi vấn. May thay dù khởi đi từ cảm xúc riêng, bài thơ thành công luôn luôn truyền đạt đuợc tới người đọc cái cảm xúc của tác gỉa để người đọc cùng cảm cái rung động của tác gỉa. Từ một nỗi niềm tư để hòa vào một cái rất chung. Từ một cái riêng lẻ thành một cái rất tập thể.
Chính nhờ thế mà thơ trở thành phổ biến. Nó chuyên chở cái mà nhiều người cảm thấy nhưng không viết ra: tình yêu, nỗi nhớ nhung, mối hoài cảm v…v…. Băn khoăn, yêu vu vơ ở tuổi 20, dào dạt nỗi nhớ quê ở tuổi trưởng thành, ngậm ngùi với những hoài cảm khi xa quê hương. Thơ Hoàng Song Liêm là như vậy. Trong 100 trang thơ, từ những bài làm vào thập niên 50 tới những bài làm gần đây người đọc thấy tràn ngập tình yêu và nỗi nhớ nhung quê hương mà ông muốn truyền tới người đọc.
Rụt rè như:
Đo đắn phong thư gìn giữ mãi
Mong chờ hẹn dịp để trao đưa
Nhưng rồi e ấp tay dè dặt
Tha thiết bao nhiêu bấy hững hờ
Bâng khuâng như:
Hái bông hoa trong một vườn dị thảo
Ngát hương lòng ta gửi tặng riêng em
Em chẳng nhận cả trời sẩu não
Ta trở về ngồi đợi bóng trăng lên
Tập thơ gồm 46 bài tác gỉa sáng tác từ 1952 tới những năm gần đây. Sinh ra trong một đất nước chiến tranh, và chính ông là một sĩ quan đứng trên một chiến tuyến nhưng thơ ông không hề có dấu vết chiến tranh. Học Chu Van An từ 1948 tới 1954, rồi di cư vào Nam ông đồng hóa vào quân đội, làm trưởng ban biên tập cho Nha Chiến Tranh Tâm Lý. Sau đó chuyển sang Không Quân phục vụ trong ngành cơ khí cho tới 1965 mới chuyển sang Tâm Lý Chiến, làm chủ bút cho báo Lý Tưởng của Không Quân.
Từ khi còn đi học ông đã làm thơ đăng báo. Ông cộng tác với báo Tia Sáng, Giác Ngộ, Hồ Gươm, Giang Sơn khi chưa tới 20 và nhiều bài thơ trong tập thơ ra mắt hôm nay ông đã sáng tác vào thời kỳ trên dưới 20 tuổi.
Chất liệu trong thơ của ông ở thời kỳ này là tâm sự của tuổi 20, có tình yêu, có viễn mơ:
Đò ơi Ta một kẻ phiêu linh
Trọn tuổi hoa mơ mộng viễn trình
Ghé bến đây rung chèo dật sóng
Cho cùng theo với kiếp lênh đênh
Cũng như mọi thanh niên cùng lứa tuổi, ông cũng nghĩ tới chiến tranh đang chờ đợi:
Ngày mai khói lửa ngụt sa trường
Thân dấn vào trong lớp súng gươm
Khí uất căm hờn say bóng nguyệt
Quên tình dứt đứt cả tơ vương
Nhưng những xúc động về chiến tranh chỉ thoáng qua, hầu hết thơ trong thời kỳ này là tình yêu.
Hơn một nửa sau tập thơ là nỗi nhớ:
Nhớ thời bạch diện áo thư sinh
Nhớ thủa hàn vi ước mộng lành
Nhớ thủa mắt trong tình mới chớm
Ngẩn ngơ mầu áo, áo ai xanh
Mặc dù có 20 năm quân ngũ, và trưởng thành trong giai đoạn khốc liệt của chiến tranh, thơ Hoàng Song Liêm không hề mang một dấu vết chiến tranh hay hận thù. Thơ của ông không có bom đạn, không có lửa cháy, không có nước mắt. Có lẽ tình yêu chan chứa đã che đi những vết hằn của chiến tranh.
Nếu đọc thơ là để nghiêng tâm hồn mình xuống với kỷ niệm, đề những hoài cảm xôn xao trở về thì phần 2 trong thơ Hoàng Song Liêm đã đưa người đọc tới những hòai cảm đó.
Khi lưu vong mỗi người có một phản ứng khác nhau, có người chua xót, có người ngậm ngùi. Phần lớn là cay đắng vì đã bị bứt khỏi gốc rễ để đối diện với thử thách mới; xót xa vì bị đẩy khỏi thân quen để vật lộn với xa lạ. Thơ vì thế chua cay, bao phủ bởi những day dứt quê hương. Như thơ Cao Tần:
Mai mốt anh về có thằng túm hỏi
Mày qua bên Mỹ học được củ gì
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi
Nói mày hay ông thượng đẳng culi
Ông rửa bát chì hơn bà nội trợ
Ông quét nhà sạch hơn em bé ngoan
Ngày ngày phóng xe như thằng phải gió
Đêm về nằm vùi nước mắt chứa chan
Nhưng dù với những đắng cay chất ngất, lòng nhung nhớ quê hương vẫn trán đầy đâu đó với những hình ành ngọt ngào:
Em hãy tìm về sau căn nhà cũ
Đứng bên rào mà ngó lại vườn xưa
Em nhớ nhé dưới tàn cây trứng cá
Những trái mọng hồng trong ánh nắng sau mưa
Với Hoàng Song Liêm người đọc không thấy cái cay đắng, cái hận thù của kẻ lưu đầy. Tràn ngập trong thơ ông là cái diụ dàng trong hoài niệm. Buồn đấy nhưng không là cái buồn chua xót, nhớ đấy nhưng không là cái nhớ đắng cay. Đó là những xúc động trước cảnh trí nơi quê người làm trạnh nhớ quê hương đất tổ:
Vầng trăng ai xẻ nửa
Chênh chếch mãi non đoài
Mây trời mây viễn xứ
Lòng ai thương nhớ ai?
Cũng như hầu hết những người xa quê hương trong cái lạnh nơi quê người ông nhớ lại những hình ảnh quê xưa,; nhưng những nhung nhớ đó không hằn học, không chua chát mà nhiều tình người:
Bên ấy mùa này đã lạnh chưa
Sầu nghiêng gối lẻ bóng trăng mờ
Tình xa một nửa tim còn thiếu
Thao thức năm canh giấc mộng chờ
Bên ấy giờ này qúa nửa đêm
Phòng riêng nệm ấm giấc mơ chìm
Hành tinh ai cắt làm hai mảnh
Chiều xế bên này bóng nhớ em
Và cùng với thời gian tăng, lòng tha thiết với quê càng tăng thêm, ta thấy thơ ông bàng bạc những cảm xúc về quê hương:
Ôi quê hương gợi nhớ thủa nào xa
Hong tuổi dại nghe lời ru của mẹ
Bài ca dao thuộc nằm lòng tấm bé
Thương cái cò lặn lội mãi bờ ao
Với tuổi thất thập mà vẫn sáng tác thơ, ông đã cho thấy cái tha thiết với thi ca với văn chương Việt Nam. Thông thường cái mất mát lớn trong văn chương khi xa quê hương là người viết mất đi cái sức sáng tạo mà khi trong còn trong nước rất dồi dào. Chúng ta có thề thấy hiện tương này phổ biến trong rất nhiều giới làm văn hoá Việt Nam. Vẽ không như xưa, viết không như xưa, làm nhạc không như xưa. Như cây trồng đất mới, rất ít bén rễ mới.
Sáng tạo và xuất bản trong điều kiện lưu vong là đã nuôi dưỡng dòng văn học Việt không những cho chúng ta, thế hệ ra đi đầu tiên, mà còn cho những thế hệ mai sau. Nước Nhật có một tục lệ là mỗi năm chọn mười bài thơ hay nhất sáng tác trong nước và ngoài nước để chính tác gỉa đọc thơ cho Nhật Hoàng trong một buổi lễ vào dịp Tết. Nhà văn Võ Phiến có nhắc tới Thi Sĩ Minoru Fujita một người sống lưu lạc ngoài nước Nhật từ nhỏ đã được chon. Đó là một trường hợp rất đặc biệt vì ông ta đã sống xa quê hương rất lâu, trở nên xa lạ với sinh hoạt trong nước. Có môt người tìm được một bài thơ ngắn của ông dịch sang tiếng Anh:
I no longer know
What they are saying
In my native land
But I know the flowers
Smell the same
Tạm phóng dịch: Quê hương cho dù biến đổi, và mình cho dù đã xa lạ với vấn đề của xã hội mới, ngôn ngữ mới, nhưng tôi biết nơi đó hoa vẫn tỏa một mùi thơm cũ, mùi hương đó mãi mãi không thay đổi.
Như vậy chừng nào hoa xưa vẫn tỏa mùi thơm cũ nhà thơ vẫn cảm đươc mùi hương xưa, chừng đó nhà thơ vẫn thấy gần gũi với quê hương, vẫn làm thơ với ngôn ngữ quê hương và vẫn được tán thưởng cho dù sống trong hay ngòai nước.
Xin cám ơn qúi vị.
Hoàng Song Liêm là một trong những con người di tản tương đối thành công. Anh là một Sĩ quan Không Quân cấp Tá. Cộng Sản vào Nam, anh đã sớm đào thoát chạy ra nước ngoài.Anh không bị một ngày tù như phần đông những người bạn cùng trang lứa với anh. Sang đến Hoa Kỳ,anh làm ăn khá giả, con cái tương đối thành công nhưng lời thơ anh vẫn u uất buồn :
Tết lạnh quê người phai sắc áo
Người đi nẻo khuất vẫn chưa về
Nghiêng bầu lại rót mùi cay đắng
Gió lạnh phòng không chẳng liếp che !
Không có liếp nào che cả. Mới biết tấm lòng thương quê nhớ nước mãnh liệt đến chừng nào. Bỏ nước ra đi vì anh không thể sống dưới một chế độ không có Tự do,Dân Chủ.Có tự do, Dân chủ rồi nhưng còn một cái gì đó anh không có. Đó là quê hương. Quê hương không phải chỉ là song,là núi, là mồ mả ông cha,là họ hang, làng mạc. Quê hương lại còn là những làn gió, những ánh trăng, những cơn mưa gió thất thường, những con đường lầy lội, những mái rơm, mái rạ, những con người lầm than, đói khổ. Nó là cuộc đời, là tuổi trẻ của chúng ta. Là tiếng mẹ ru, là mùi thơm hoa cau, hoa bưởi, là đêm khuya tiếng chiếc mo cau rụng ở vườn sau. Ôi quê hương ! Là thứ chúng ta không thể diễn tả bằng lời nhưng nỗi mất mát quê hương vẫn hiện hữu trong chúng ta từng giây, từng phút.
Toàn thể tập thơ không bài nào là không đề cập đến quê hương. Quê hương và tuổi trẻ. Quê hương và thời gian. Càng về già,chúng ta càng quý tuổi trẻ,càng ngậm ngùi vì thời gian qua mau.
Dài tay năm ngón xanh xao
Sầu mây tóc trắng chiêm bao nửa vời.
Dài tay mười ngón tay xuôi,
Sầu đôi hộc mắt, môi cười ngẩn ngơ.
Quẩn quanh năm tháng thừa dư,
Gai chông nhọn hoắt,chân dò dẫm đi.
“Sầu đôi hộc mắt”hai con mắt lõm xuống vì đêm không ngủ được vì sống ở đây không thực sự là sống. Sống ở đây đối với người chỉ còn có nghĩa là tồn tại….
Năm cửa ô xưa băm sáu phố
Xa quê hương, nhất là quê hương ấy lại là Hà Nội thanh lịch thì là sao những người con của Hà Nội có thể quên được năm cửa ô, quên được Hà Nội băm sáu phố phường.
Năm 1954, Mai Thảo bỏ miền Bắc đã viết một cuốn truyện thật hay:” Đêm giã từ Hà Nội”. Hay vì thực, vì chân thành. Nghệ thuật chỉ làm nên những bài thơ, chỉ tâm hồn mới là thi sĩ. Câu nói đó của một thi nhân Pháp viết cách đây hàng thế kỷ mà muôn đời vẫn đúng.
Tôi nhớ mãi đến Hoàng Song Liêm những ngày mới chập chững bước vào đời.Khi ấy,chúng tôi còn là quân nhân trong ngành Tâm Lý Chiến. Liêm thì ngoài 20, còn tôi ngoài 3 chục. Liêm còn độc thân , tôi đã có ba bốn con. Chúng tôi gặp nhau và tự nhiên thấy rất gần gũi, thân thiết với nhau,vì chúng tôi cùng làm thơ và cùng yêu thơ…
Phương Nam mù mịt trời phương Bắc,
Mây trắng giang hồ , mây viễn phưong..
Tôi biết tại sao Liêm lại giao cho tôi viết mấy lời đầu của cuốn sách. Vì Liêm cũng như tôi, chúng tôi thích sự chân thành. Nếu như lối viết của Vũ Hoàng Chưong, của Huy Cận cổ rồi thì làm sao chúng ta còn thưởng thức được Tản Đà, còn thưởng thức được ca dao. Hoá ra cuộc sống của thi ca còn ngắn ngủi hơn cả cuộc sống của con người nữa hay sao ? Mới không phải là tìm ra lối diễn tả kỳ cuc. Mới là cách nhìn sự vật. Nhiều người nhìn mà có thấy gì đâu ? hang nghìn năm trước, Lý Bạch nhìn trăng và nói thế này :
Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc
Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ.
(Người với lên trăng thì không được,
(Nhưng người đi đâu thì trăng theo đó )
Hoặc:
Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt,
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cố nhân.
Người ngày nay không thấy trăng ngày xưa
( Nhưng ) trăng ngày nay vẫn thấy người ngày xưa.
Kiếp sống của con người thật là phù du so với cảnh vật. Lý Bạch chỉ nhìn và diễn tả. Ông không cần biện luận. Cần gì phải biện luận. Chúng ta chỉ đọc cũng đủ thấm thía cho cuộc sống ngắn ngủi của kiếp nhân sinh.
Hoàng Song Liêm năm mươi năm rồi anh mới lại cho tôi đọc thơ . Thơ anh vẫn trẻ như ngày nào. Hình dáng chúng ta không còn như xưa nữa nhưng tinh thần chúng ta nào có gì đổi khác.
Tôi mừng cuộc đời chưa làm tôi mất một người bạn, một người thơ.
HÀ THƯỢNG NHÂN
Trần Tuấn Kiệt
Có những người văn nghệ đã thành danh từ vài thập niên trước, nhưng vì hoàn cảnh lịch sử, cuộc đời họ đã một thời gian im lặng, hay sinh hoạt văn hóa ở một nơi xa xôi nào mà người trong nước không biết, đó là trường hợp anh Hoàng Song Liêm. Anh vừa cho xuất bản thi phẩm Hoàng Song Liêm, nhà xuất bản Văn Nghệ, đồng thời có riêng một ấn phẩm đặc biệt kèm theo để bạn thơ thưởng thức phần thơ riêng của anh. Tôi vốn thích cái gì riêng biệt không muốn ai đó kiểm duyệt mình nên vội đọc phần này trước.
Thoạt đầu khiến ta chưa dở vội trang thơ trong vì khổ thơ và mẫu bìa vẽ một nàng thơ tuyệt vời màu sắc tươi thắm đậm tình dân tộc. Tôi nghĩ đó là một nét họa của Ðằng Giao. Quả nhiên, khi xem lại thì tranh của Ðằng Giao thật nhưng tôi cứ lớ ngớ tìm hoài không thấy tên họa sĩ, ngoại trừ bức chân dung sắc nét của anh ký tên là Toại 6/29/01 thế thôi. Anh Hoàng Song Liêm tỏ ra rất trân trọng với thơ mình từ việc chọn khổ in thơ, tranh và những trang giấy hoa đẹp vẽ những viền mây bao phủ và làm nền cho thơ bay trên đó.
Tôi xin diễn sơ ngoại cảnh một chút. Tôi từ chỗ cô Nguyễn thị Hàm Anh về, hiện trời mưa như trút, trời đỏ như gạch son, những ngày cuối năm đầy mưa gió lạnh lùng ở Saigon. Cũng chính Hàm Anh trao cho tôi hai bản thơ quý của anh mà từ lâu rồi, tôi chưa thấy ai in thơ đẹp như thế. Tôi ra đóng chặt cửa trên gác lại, mưa ào ạt và sấm động liên hồi. Tôi vốn rất sợ sấm, hồi nhỏ ở quê tôi bị sét đánh hụt một lần, bà ngoại tôi bay chiếc nón lá khi cùng tôi chạy qua cầu sắt Sa Ðéc. Vì thế sau này tôi rất sợ sấm chớp… Ðóng cửa lại, mặc cho mưa gào bên ngoài, trong căn gác vắng tôi ngồi đọc thơ Hoàng Song Liêm.
Ðọc bài “Hoài Vọng” tôi nghe như có một chút gì khắc khoải, u hờn mặc dầu dấu vết thời gian đã đẩy đưa rất nhiều hư ảnh về quá khứ. Ngôn từ Việt, những chữ: đó, nọ, kia, mà… như âm vang của một tiếng đàn cổ reo lên trong thời đại này đem lại rất nhiều hoài cảm thiêng liêng
Lửa của lòng ta nay đã tắt
Thôi nhắc làm chi những lúc xưa
Những chiều mơ mộng rồi hoài vọng
Mà… bóng thời gian đã xóa mờ
Anh nói đến ngọn lửa, dù anh cho là đã tắt nhưng ta cảm thấy nó đang giục nhiều nỗi đời nung nấu trong thâm tâm nhà thơ… dễ gì đã tắt!
Bài “Hẹn” tiếp theo cho thấy một tay thơ đã chín, đã điêu luyện tự bao giờ với nghệ thuật thơ lục bát ngày xưa. Người ta thấy dòng thơ lục bát này đi từ Nguyễn Du, đến Huy Cận, đến Hoàng Trúc Ly, Hoài Khanh… Giòng lưu ly của thơ lục bát đã hòa với giòng sông lớn của thi ca Việt đem đến một tòa hoa gấm bền bỉ và bất tử. Sẽ có những người em tiếp theo đi trên những dòng lục bát sâu xa trường cửu đó mai sau.
Bây giờ hãy đọc:
Mai này… hẹn sẽ về thăm
Ô hay sao vẫn ruột tằm rối tơ?
Biển Ðông vẫn cách đôi bờ
Chân mây đã khuất lối xưa mịt mù
Hạ buồn tóc điểm sương thu
Ðầu non đá dựng bốn mùa miên đông
Mai này… biết có về không
Ðàn mê chợt rớt tiếng đồng lạnh tanh
Mộng thầm, gối mỏng chông chênh
Chân ai bước mỏi nẻo xanh, mai về
Khí thơ êm đềm lạnh đến hư không và miên viễn như một dòng thời gian bất tận khiến ta nhớ đến bài thơ của Lưu Trọng Lư, bài Quay Tơ. Các bạn quý thơ hãy đọc và chia xẻ nỗi ngậm ngùi với Hoàng Song Liêm trong cảnh “tà huân” của cuộc đời! Tuy cảnh tà huân, nhưng anh đã lưu lại cho người đời điệu thơ vừa trữ tình sầu mộng vừa lẫn hương vị siêu hình của luật trời: Sự tuần hoàn của Tạo hóa mà không một ai thoát khỏi kiếp người như thế cả. Tôi cho đấy là một bài thơ tuyệt đẹp, một bài lục bát hiếm hoi trong vườn thơ hiện đại.
Nhưng đâu phải chỉ một nỗi miên man đến chạnh lòng đó. Bài “Tổ quốc xa” đã mang lại một thứ tâm tình viết lịch sử như anh Nguyễn Mạnh Côn, anh Vũ Khắc Khoan độ nào. Nói đến Nguyễn Mạnh Côn tôi mạn phép mở ngoặc một chút về chuyện anh bị bỏ đói khát chết trong trại cải tạo, có người đồn là do Duyên Anh gây ra. Nhưng anh Nguyễn Quốc Ðịnh cũng là bạn văn chương ở chung với Duyên Anh và Nguyễn Mạnh Côn xác định rõ với tôi là việc đó không phải do Duyên Anh tạo ra. Vậy xin ghi vài lời để anh em ngoài cuộc rõ và giải mối oan tình cho Duyên Anh từ lâu nay (?!)
Vẫn niềm hoài cổ,vẫn khắc khoải với nước non – dù tóc đã bạc, gối đã mòn, tâm hồn vẫn còn rất nhiều lửa để hong ấm nỗi niềm nhớ thương về một thời Quốc gia rực rỡ- Thời đại lịch sử đôi khi lúc vơi rồi lại đầy. Lịch sử chân chính bao giờ vẫn tồn tại trong lòng người – Nhà thơ ơi! Không mất đi đâu cả! Cũng như như dòng lục bát của anh vẫn ngân nga trong thời gian đó vậy. Tôi nhớ tới thơ Vũ Hoàng Chuơng.
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Thời đại này, lịch sử trở mặt, lịch sử của bầy ngạ quỷ chỉ muốn ăn thịt đồng bào, nòi giống còn hơn gấp vạn lần thời của nhà thơ họ Vũ khi xưa.
Simon Veil bảo lịch sử có hai bề mặt. Bề mặt đen tối đang bủa vây khắp nơi khiến cho dù nhà thơ Hoàng Song Liêm đã mệt mỏi trên đường đời vẫn buông lời thơ như Bà Huyện Thanh Quan trong ThăngLong Thành Hoài Cổ. Người có ý thức tự do và yêu nước ai có thể thờ ơ được với nước non này. Vì thế mà trong thơ ông, chúng ta còn nghe rõ tiếng hờn uy linh của sông núi, của những chiến trường xưa và chiến binh anh hùng đã một thời trận mạc để bảo vệ đất nước, giang san trước bọn giặc thù. “Màu xanh” tưởng đâu thanh thoát, nhẹ nhàng, trẻ trung vui sướng. Ai ngờ lại ẩn rất nhiều tiếng vọng của non sông một thời.
Trời xanh xanh biển xanh xanh
Ðỉnh núi che nghiêng bóng cờ thành
Phần phật cờ bay mùi khói tỏa
Nghe rền trống trận thuở đao binh
Thoáng nhìn một bài thơ, ai chớ vì cái tựa mà hiểu lầm. Ðạo ẩn ư tiểu hành. Những ngụ ngôn và phản ngôn của thi ca chứa nhiều trong đó. Màu Xanh!
Dầu sao nhà thơ vẫn còn rất nhiều tình cảm mặn nồng của tuổi thanh xuân đầy những mộng tình tha thiết. “Em” của nhà thơ là ai đây? Là người bạn đời chăn gối, tình nhân hay nàng Thơ. Chúng ta không vội phân tích ý nghĩa và ngôn từ, chỉ nên thưởng thức vần thơ êm đềm, châu ngọc của thi nhân. Mời bạn đọc “Viết cho em” và tự thưởng thức lấy cái hương vị diễm tình của thơ.
Hoàng Song Liêm làm thơ cả một đời mà bắt đầu vào thời của Quách Tấn, của Vũ Hoàng Chương, Phạm Hầu. Ðọc thơ ông phải nghĩ tới linh hồn thơ ấy đi qua rất nhiều chặng đường nghệ thuật từ lãng mạn, tượng trưng đến siêu thực, siêu hình bàng bạc khắp ý thơ – từng trải qua rất nhiều nẻo đường lịch sử văn học của dân tộc Việt. Cũng không khỏi nhớ đến những người anh cả là Hà Thượng Nhân, Cao Tiêu… những người bạn như Tô Kiều Ngân còn ở lại VN.
Rồi thấm thoát bóng dương cũng mờ dần, buổi hoàng hôn lại đến và con người thi sĩ vốn hiện hữu giữa trần gian còn để lại gì? Nào những màu thời gian… của Ðoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, nào những lớp lang lịch sử xô về đưa tất cả vào thái hư tịch mịch. Nhà thơ nói về thời gian vô thường, những hiện tượng của đời vẫn sinh động đẹp đẽ… và thi nhân thay đổi với Vô Cùng nhưng còn mùa Xuân ấm nồng lại đến. Ðông sẽ tàn và Xuân lại sang như Bùi Giáng viết:
Em bảo rằng đừng tuyệt vọng nghe không
Còn trang thơ thấm lại với trời hồng
Tuy nhiên khi đọc thơ ông ta cũng cảm thấy bồi hồi xao xuyến quá! Niềm xao xuyến làm linh hồn ta cũng cảm thấy khắc khoải như thơ ông. Tiếng thơ đẹp, mẫu đẹp của tiếng thời gian, của một đời người với bao nỗi thất bại của con người thiên thu đi về trong hố thẳm của lịch sử và cuộc đời (như Con Lũ Quanh Ta). Còn một điều quan trọng là sự chân tình trong thơ. Ðọc thơ ông, người ta không thấy có sự làm dáng thi sĩ hay trí thức mà là những tiếng thơ từ tâm tình cao rộng, đầy sự cảm thông đối với con người, với lịch sử và cuộc đời.
Với “Hà Nội, đêm giã từ”, những câu thơ đạt tới một nghệ thuật thi ngữ mênh mông với mối tình xa xôi của kẻ giang hồ viễn xứ.
… Phương Nam mù mịt trời phương Bắc
Mây trắng giang hồ mây viễn phương
Có hình ảnh dấn thân trong cõi cát bụi thời gian của một người chứa đựng nhiều lửa, nhiều nhiệt huyết lúc lên đường
Lục bát Hoàng Song Liêm dàn ra một không gian rộng, tiếng thơ đạt đến sự tự nhiên như những thi tài xưa nay. Ông xử dụng thơ trơn tru, ngọt ngào và đậm tình thu bát ngát. Sự điêu luyện đó còn thể hiện trong rất nhiều vần lục bát trong thơ ông. Hoàng Song Liêm không chỉ có thơ bảy chữ, lục bát, ông còn làm nhiều bài thơ xuôi, thơ sáu chữ, thơ tự do với những kỳ tứ rất lạ…
Cuối cùng đến bài thơ “Rồi ngày tháng qua đi” do Ðỗ Nguyên phổ nhạc. Thơ và nhạc giống như đội bạn tình thường hòa quyện với nhau – trong hai thứ nghệ thuật của cuộc đời-
Những dòng viết trên chỉ là viết cho thi bản riêng biệt của nhà thơ Hoàng Song Liêm. Riêng thi phẩm lớn của ông in rất nhiều thơ hay mà tôi chưa có thời gian đọc vì sức khỏe quá kém sút trong những ngày gần đây. Khi hồi phục lại được, tôi sẽ đọc cẩn thận hơn về một tác phẩm và một đời người làm thơ, sống với thơ thật đẹp của ông.
Trần Tuấn Kiệt
12/2005

Merry Christmas And Happy New Year
Kính chúc toàn thể quý vị Văn Thi Hữu VTLV. Một mùa giáng sinh An Bình và một năm mới Vạn Sự Như Ý.
Trân Trọng
Lê Tuấn
Em Đi Lễ Nửa Đêm
**
Tháng mười hai giáng sinh
Lòng vương vấn chân tình
Ngoài kia trời gió lạnh
Ánh đèn màu lung linh
*
Em mặc áo len hồng
Khăn quàng cổ quấn vòng
Giày cổ cao nhung ấm
Em đi vào mùa đông
*
Mọi người vẫn nhìn trông
Em thấy thẹn trong lòng
Tiếng người khen xinh quá
Gió lay nhẹ lá thông.
*
Mẹ cười nghe lời khen
Em nhìn theo ánh đèn
Những sắc màu lóng lánh
Giáo dân mừng Noel.
*
Thánh đường tiếng chuông ngân
Vinh danh Chúa giáng trần
Bình an nơi trần thế
Xóa tan lòng phân vân
*
Hôm nay đến nhà thờ
Màn sương trắng che mờ
Chúa đóng đinh! Thập giá
Giang tay như đón chờ.
*
Dải mây trắng lững lờ
Đẹp như là trong mơ
Em làm dấu thánh giá
Lòng hân hoan đợi chờ.
*
Giáo đường lễ nửa đêm
Mỗi lúc một đông thêm
Trang nghiêm vào thánh lễ
Hoa tuyết rơi bên thềm.
*
Đêm hiển thánh vô cùng
Lòng người hòa nhịp chung
Ca đoàn vang tiếng hát
Rực sáng cả vương cung.
*
Cây thông mừng giáng sinh
Ánh đèn sáng lung linh
Quả châu treo rực rỡ
Em chụp vài tấm hình.
*
Em chắp tay nguyện cầu
Chúa giáng sinh nhiệm màu
Xuống trần gian cứu chuộc
Loài người mối tội đầu.
*
Xin Chúa ban bình an
Những ân tình chứa chan
Thoát bao cơn dịch bệnh
Loài người hết gian nan.
*
Em đi lễ nửa đêm
Tâm hồn em yếu mềm
Xin Chúa ban sức mạnh
Vượt qua những nỗi niềm.
*
Lê Tuấn
Cảm nhận mùa Noel. Trong vần thơ 5 chữ
San Jose. December 17. 21
***
MÙA XUÂN LÀ MÙA HY VỌNG
KIỀU MỸ DUYÊN

Hoa mai rực rỡ đón chào mùa Xuân, mùa hy vọng.
Thời gian qua rất nhanh, không đợi chờ mà Xuân cũng đến. Mọi người chuẩn bị đón Xuân, đêm 30 Tết đón Giao Thừa, đến chùa, nhà thờ hay những nơi tôn nghiêm để cầu nguyện cho người thân của mình.
Những ngày trước Tết ai cũng bận rộn, Tết Việt Nam khác với Tết ở hải ngoại, nhiều khi không vào ngày cuối tuần thì vẫn đi làm, có người xin nghỉ việc, có người mới vào làm không dám xin nghỉ việc, sợ mất việc thì khổ.
Từ Giáng Sinh đến Tết nhà nào cũng sửa soạn thật đẹp, cây thông, hoa ở vườn, hay trái cây ở vườn đợi cho chín, hái cúng ông bà của mình, mua sắm hàng giảm giá, mục này hấp dẫn nhiều người, những người lớn tuổi không quan tâm quà cho chính mình nhưng phải để ý con cháu hay người thân của mình cho nên cũng đi mua sắm, say mê mua sắm thì tốn tiền, lấy tín chỉ ra mua rồi suốt năm làm trả nợ.
Thường thường thì vào những ngày lễ, ngày Tết ai cũng nghĩ đến người thân của mình và những người làm ơn cho mình suốt năm qua, dù nghèo hay giàu cũng phải có những món quà nho nhỏ, tỏ tấm lòng biết ơn của mình. Chúng tôi làm thương mại mấy chục năm qua, cũng nhờ sự thương yêu của đồng hương mà mới tồn tại cho đến ngày hôm nay, nếu nói về ân nghĩa thì kể sao cho hết, từ các vị lãnh đạo tôn giáo, đến những người làm việc với mình, bao giờ Tết chúng tôi cũng đi đổi tiền mới, không bao giờ mua vé số, vì tôi biết mình không trúng số đâu và lại nhìn thấy những người trúng số sự bất hạnh chợt đến cho nên cũng không mua vé số và cũng không mong trúng sổ số, thỉnh thoảng có người tặng nhưng chỉ trúng $10 mà thôi.
Quan tâm đến tất cả mọi người xung quanh, người bỏ báo mỗi buổi sáng, người quét dọn văn phòng, người làm vườn cắt cỏ, người sửa xe, nhạc sĩ, ca sĩ, cho tôi nhạc, những tác giả cho tôi những sáng tác mới hay những quyển sách dịch hay, những người bạn ở xa về Orange County thường cho tôi những món quà quý báu ở địa phương đang ở. Ân tình làm sao kể hết!
Bệnh nhân ở bệnh viện, viện dưỡng lão cho tôi những nụ cười thật tươi trong những buổi chiều tôi vào thăm. Những vị lãnh đạo tinh thần mỗi lần nói chuyện xong bao giờ cũng nói:
– Tôi cầu nguyện cho sức khỏe của chị.
Những lời quý báu, vô giá, tiền không mua được lời cầu nguyện.
Tôi thường nói với nhân viên của mình:
– Ở làm sao cho đồng bào thương thì mình không bao giờ đói.
Đói làm sao được ở xứ này? Một xứ sở của cơ hội, cơ hội học hỏi, cơ hội làm giàu. Người Việt tị nạn không có nhiều tỷ phú nhưng triệu phú thì nhiều lắm, đếm không hết như một chàng trai trẻ, 32 tuổi ở Floria từ hai bàn tay trắng trở thành triệu phú nhanh nhất thế giới, đó là Peter Nguyễn, 18 tháng lợi tức 100 triệu Mỹ Kim. Tỷ phú Trung Dung, 30 tuổi bán cổ phần một tỷ 850 triệu.

Tỷ phú Trung Dung và Kiều Mỹ Duyên
Có lần Trung Dung nói với tôi:
– Chị hỏi em ít thôi, 5 phút, em chỉ làm việc được, mà không nói nhiều. Em là người Chàm.
Còn rất nhiều người Việt Nam giàu lắm, mà tôi được hân hạnh phỏng vấn cho đài truyền hình, cho đài phát thanh và báo chí.
Rất nhiều di dân giàu, tị nạn giàu ở Mỹ hay đến từ các quốc gia khác. Ở đây chúng tôi muốn nói những người giàu là người Việt Nam, vẫn hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, vẫn mộ đạo và có lòng nhân ái. Dù ở đâu trên rừng sâu, núi thẳm hay ở biển cả, nếu có lòng thì với hai bàn tay và khối óc nhỏ bé của mình vẫn giúp người khác được, giúp những người xung quanh mình và bà con thân nhân mình đang ở Việt Nam.
Một hôm, tôi đến chùa Điều Ngự vào buổi tối để thu hình. Chùa đang xây cất, nhưng Phật Tử ra vào tấp nập, người thì lo nấu ăn, người thì lo xếp ghế cho buổi cầu nguyện sắp tới. Phu nhân của cố luật sư Phạm Kính Vinh, hiền lành, làm việc không ngừng nghỉ, ít nói, nhưng tận tình với công việc. Sáng nào chị cũng đến chùa làm công quả, tối về nhà và cứ như thế làm việc từ ngày này qua ngày kia không mệt mỏi, không than phiền. Nhiều nữ Phật tử từ xa như Los Angeles, Riverside, San Diego cũng đến. Lòng mộ đạo của mọi người làm cho tôi cảm phục.
Nhiều người nói: Hòa Thượng Viên Lý và Hòa Thượng Viên Huy có phước, Phật tử nhiều nơi xa về đây cúng đường, lễ Phật. Các thầy bận lắm, nhất là cầu nguyện cho những gia đình có người thân vừa qua đời. Người lãnh đạo tôn giáo không bao giờ nghỉ ngơi, vì ngày nào cũng có Phật tử mất, càng ngày thì đám tang càng nhiều. Viện chủ của chùa đâu thể bỏ Phật tử của mình mà không lo, nhất là cầu siêu cho người qua đời, cầu an cho người đang nằm bệnh viện, bao nhiêu thứ phải lo. Vất vả nhất là những vị viện chủ đang xây chùa, hàng trăm thứ phải lo, giấy phép, tiền để xây cất, nhiều thứ làm quý vị ơi.
Chúng tôi cầu nguyện và mong mọi sự tốt đẹp sẽ đến cho các chùa đang xây cất, tốn tiền nhiều lắm. Mong trời Phật phù hộ cho những vị có lòng, cho ân nhân, cho viện chủ của chùa, cho Phật tử bình yên, sức khỏe để lo Phật sự.
Thỉnh thoảng chúng tôi đi theo phái đoàn Phật Tử của chùa Bảo Quang ở Santa Ana đi cho cơm cho những người không nhà ở công viên. Người không nhà gồm đủ thành phần: già trẻ, đàn ông, đàn bà, v.v. Họ nằm dưới cỏ, ngồi dưới gốc cây, nói chuyện vui vẻ, di chuyển từ nơi này đến nơi khác hàng tuần. Nhiều phái đoàn Việt Nam cho cơm, như chùa Bảo Quang thì có cơm chay, gồm nhiều món, cơm chiên, nước ngọt, trà, nước lọc. Người không nhà đứng xếp hàng tử tế, không ai chen lấn, nói năng lịch sự, có người bồng con nhỏ trên tay. Với 31 năm quen người không nhà, cảm nhận được thân phận con người, có ai mà không mong có công ăn việc làm, mái ấm nhà êm, nhưng không phải ai cũng được như thế? Tôi đã từng đi theo các phái đoàn cho cơm cho người không nhà ở San Jose, Santa Ana, Garden Grove, nhiều nơi tôi đến, tôi đều được nghe những tiếng nói reo vui, tiếng cười rộn rã, sống hôm nay không biết ngày mai ra sao nhưng họ vẫn cười, không có gì để lo, ăn ngày hôm nay no bụng đã ngày mai sẽ tính sau.
Những người nấu cơm ở chùa Bảo Quang rất dễ thương, mùa hè có khi trời rất nóng nhưng họ vẫn vui vẻ làm việc từ thiện với trái tim của mình. Có người nấu cơm rồi đến tận nơi công viên xới cơm cho người homeless, có người nấu cơm rồi về nhà, vì mệt quá không đi nổi nữa. Người nấu cơm vui vẻ, người ăn cơm miễn phí vui vẻ, tất cả đều hòa điệu như hơi thở, như nhịp đàn, tình thương nhân loại đưa người nấu cơm và người ăn cơm gần với nhau thông cảm và thương yêu nhau.
31 năm cho cơm cho người không nhà, thời gian này dài lắm, nhưng chùa Bảo Quang và Phật tử của chùa vẫn tiếp tục làm việc, tôi nhìn thấy có người đem bầu, bí, mướp, trái cây, rau cải đến chùa tặng cho người không nhà. Trong những người làm việc công quả này có người đã qua đời, có người tiếp tục làm việc từ thiện, người này đi thì có người khác đến.
Một lần, chúng tôi mời Hồ Đắc đến thăm người không nhà, từ đó Hồ Đắc tiếp tục đến chùa hàng tuần, dù làm chủ một văn phòng bảo hiểm nhưng đến ngày thứ ba thì để cho nhân viên làm việc, Hồ Đắc đi làm việc từ thiện, bưng thùng cơm thật nặng lên xe. Làm việc từ thiện đâu phải đợi đến già mới làm, người trẻ vẫn làm được.
Tôi rất mong những người trẻ và những người có lòng để một chút thì giờ làm việc thiện, làm bất cứ việc gì hữu ích cho người khác thì làm.
Ông Trời rất công bình cho chúng ta người nào cũng có 24 giờ mỗi ngày, nếu mình biết dành dụm thì giờ thì cũng có thể vào thăm bệnh nhân ở bệnh viện, viện dưỡng lão, hay mỗi tuần có thể thăm người không nhà ở các công viên.
Chùa Huệ Quang ở Santa Ana, cứ ngày rằm và ngày mùng 1 tặng cơm chay cho những người nào thích ăn chay, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, ai thích ăn chay thì cứ đến chùa, miễn phí, 2 năm nay rất đông thực khách đến. Nếu những ngày đó rơi vào cuối tuần, hoặc ngày lễ thì thực khách đến đông lắm, hơn 500 người, và ngày thường cũng 300 người, càng ngày số người ăn chay càng nhiều, ăn chay để giữ cho sức khỏe tốt, ăn chay để tránh sát sinh.
Người nào làm việc tốt cũng được nhiều người ngưỡng mộ. Tôi ngưỡng mộ rất nhiều người, đêm đêm trời lạnh về mưa đông vẫn có người đến chùa, nhà thờ cầu nguyện, sức mạnh của sự cầu nguyện không ai có thể tưởng tượng được. Người nào có niềm tin ở tôn giáo thì đời sống sẽ phong phú hơn.

Christina Lê (đứng bên trái) và Tuấn Lưu (nón xám) đang phát thực phẩm cho người không nhà. (Ảnh do Kiều Mỹ Duyên chụp)
Mỗi lần cho cơm cho người không nhà bao giờ tôi cũng rủ những người trẻ đi cùng, Thảo, Vân, Christina Lê, Tuấn Lưu. Khi trở về chắc chắn các người trẻ này sẽ nhớ ơn công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ mình, vì nếu cha mẹ sinh con ra đem quăng cho người khác nuôi thì nhất định các cháu không có được ngày hôm nay. Tôi thường khuyên những người trẻ đi chùa, đi nhà thờ và làm việc xã hội, mình được như ngày nay là có phúc lắm, có cha có mẹ có anh em và được cắp sách đến trường, cũng vào giờ này biết bao nhiêu đứa trẻ không có cơm ăn áo mặc, không được đến trường, đâu ai muốn như thế?
Mùa xuân, tôi mơ ước nhiều lắm, mơ ước mọi người trên thế giới buổi tối trước khi đi ngủ bụng không đói, và tất cả những đứa trẻ được đến trường học, được thương yêu, được chăm sóc, trẻ em Việt Nam, Cambodia, chúng tôi đã gặp nhiều em không được đi học, vì cha mẹ nghèo quá. Làm sao bây giờ? Thôi thì mình làm được bao nhiêu hay bấy nhiêu, làm hết khả năng của mình.
Tôi mơ ước hòa bình, không có máu đổ, đầu rơi. Nếu trong gia đình mỗi người thương yêu nhau, ông bà, cha mẹ, con cháu thương yêu nhau, hàng xóm tốt, trường học tốt, trẻ con tốt, cộng đồng thương yêu nhau, gặp nhau ai cũng chào nhau bằng nụ cười thân thiện, quốc gia giàu giúp quốc gia nghèo phát triển, nếu được như thế thì sẽ không có chiến tranh, đâu có chết chóc? Một người chết để lại đau khổ cho gia đình và dòng họ, đâu có ai thích nhìn nước mắt rơi, mà chỉ thích nhìn nụ cười của người đối diện.
Có những người lớn tuổi làm việc xã hội suốt cả đời mà lúc nào cũng tươi cười như cố trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhân lo cho thương phế binh, cô nhi quả phụ ở Việt Nam, không bao giờ tôi thấy chị nhăn mày nhíu mặt. Tôi mong người lớn tuổi nào cũng sống hữu ích và vui vẻ như thế. Mong tất cả người lớn tuổi khỏe mạnh giúp người, giúp đời. Giúp cho ai cũng là giúp cũng tốt, miễn có lòng tốt giúp người là tốt. Thương người như thể thương thân, thấy người đói khổ thì thương, đâu cần phải là thân nhân của mình, mình cũng thương. Mình thương người thì người sẽ thương mình, làm thế nào khi đi khắp nơi trên thế giới nơi nào cũng có người giúp đỡ, sẽ không sợ đói, sẽ có đời sống hạnh phúc.

Mùa Xuân trên đất Mỹ.
Tôi có duyên được đi nhiều. Nhiều nơi tôi đến như Bắc Âu lạnh cóng xương sống, nhưng vẫn gặp nhiều người nở nụ cười thật tươi khi nghe chúng tôi nói tiếng Việt ở phi trường Đan Mạch, Phần Lan, Hòa Lan, khi nhận diện ra chúng tôi là người Việt Nam thì được mới về nhà ăn cơm Việt Nam, thật là cảm động. Người Việt Nam vốn tình cảm nồng nàn, không biết người đó từ đâu đến miễn là nói tiếng Việt là nhận ra đồng hương là đối xử nồng hậu ngay.
Tôi mơ ước được trở lại những nơi tôi đã đi qua như Đắc Tô Đắc Sút, điạ đầu giới tuyến cao nguyên trung phần, biên giới Việt Cambodia, Việt Lào, Tha La xóm Đạo, v.v.
Quê hương yêu dấu, nơi nào cũng đẹp, miền Thượng đẹp tuyệt vời với những sơn nữ với tiếng ca thánh thót, với những đôi mắt ngây thơ, với dòng sông trong vắt, nơi nào cũng đẹp, nơi nào người đến rồi cũng đi với nhiều kỷ niệm đẹp, nơi mà tôi đã đến có còn như xưa? Cảnh cũ người xưa bây giờ ra sao, nào ai biết? Lũ lụt, tàn phá rừng, rừng còn xanh hay cây rụng? Rừng cao su, rừng cà phê, biển hồ Pleiku, tôi mong được trở về.

Mùa Xuân trên miền Thượng.
Mơ ước thì nhiều mà thực hiện bao nhiêu nào ai biết? Mỗi ngày tôi viết ra nhiều việc để làm, nhưng đến tôi khi trở về nhà những việc đã viết ra chưa làm hết? Cũng như mơ ước tận trong trái tim của mình biết bao giờ thực hiện được? Những đứa trẻ trong các cô nhi viện vẫn lớn theo thời gian, trong sự đói khổ, các em không đủ ăn, không đủ áo ấm mùa đông những vẫn phải sống như những người bình thường. Mong xã hội có nhiều người có lòng nhân để cho người khổ bớt khổ, trẻ con đỡ đói. Một bao gạo $10, 10 bao gạo $100, nếu người nào cũng từ tâm mỗi tháng tặng 10 bao gạo thì không có trẻ em nào đói trên quả địa cầu này.

Kiều Mỹ Duyên mua gạo cho trẻ em mồ côi Việt Nam
Xin Trời Phật, xin Thượng Đế phù hộ cho những người khốn khổ, cho những người lòng nhân ái giúp đỡ người khác. Cầu nguyện thật nhiều và thật chân thành, xin những lời cầu nguyện của mọi người được có kết quả tốt đẹp.
Mùa Xuân xin mọi người cầu nguyện thật nhiều cho nhau, cho tất cả sự bình yên đến với nhân loại.
Orange County, 15/12/2021
KIỀU MỸ DUYÊN
(kieumyduyen1@yahoo.com)

ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG
*
Đêm Thánh vô cùng trân quý ơi
Đoá hoa nhân ái nở bên trời
Khát khao yêu mến người thiên hạ
Tất cả xin vào dự hội chơi
*
Ánh biếc vì sao lấp lánh xa
Tươi vui lửa ấm sưởi muôn nhà
Chúa ơi, Đêm Thánh vô cùng tận
Người với người thương ta với ta
*
Bạn với bè trên mỗi bước xuân
Hoan ca nơi khắp ngả dương trần
Mây vương sắc áo mầu nhân ảnh
Đêm Thánh vô cùng đẹp dấu chân.
*
Mãi mãi hoa thơ kết vạn lòng
Dâng lên Thiên Chúa mỗi mùa đông
Bình an dưới thế đêm vô tận
Chúa ở cùng anh chị em mong …
CAO MỴ NHÂN
*
ĐI LỄ NỬA ĐÊM
*
Rằng em chưa hết yêu đâu
Chênh vênh anh đứng trên cầu nhân sinh
Chúa không ruồng bỏ chúng mình
Anh không từ tạ cuộc tình hồn nhiên
*
Merry Christmas bình yên
Đưa em đi lễ nửa đêm đón Người
Thiêng liêng ngự trị đời đời
Ba ngôi hiệp nhất khắp trời hoa đăng
*
Em thưa: Lòng Chúa mênh mang
Trái tim Thiên Chúa rỡ ràng bao la
Yêu từ trái đắng nở hoa
Thơ em phong tặng tình ca kiếp này
*
Lặng thầm dấu thánh in đầy
Merry Christmas đắm say nẻo về
Thiên đường lộng lẫy đam mê
Hồi chuông thức tỉnh hồn si cao vời …
CAO MỴ NHÂN

*
HÁT THÁNH CA
Buổi sáng em ngồi hát thánh ca
Cả không gian sáng rỡ quanh nhà
Anh đang xa tít chân mây rộng
Em nguyện trời ân sủng chúng ta
*
Ôi, nguyện trời cao, tuyệt đỉnh cao
Giơ tay em với tới phương nào
Không gian vần vũ, anh yêu hỡi
Sương khói mơ hồ giữa ánh sao
*
Chúa ở cùng anh, Chúa bỏ em
Bâng khuâng hờn tủi những ưu phiền
Ngay khi anh đến, khi anh đến
Mang nỗi u hoài, trễ muộn thêm
*
Buổi tối thánh ca vẳng ngập ngừng
Chao ôi, có thật Chúa bên lưng
Đỡ em đi hết đường đau khổ
Dấu lệ yêu thương, đọc ” Kính mừng …”
CAO MỴ NHÂN
*
TRƯỚC LỄ GIÁNG SINH
*
Chúa ơi, con chẳng còn nao nức
Nghe tiếng chuông, chờ Lễ Nửa Đêm
Con thấy lòng con yên lặng quá
Thản nhiên vào giấc ngủ êm đềm
*
Bao nhiêu bạn trẻ đã ra đường
Phải họ đi tìm Chúa mến thương
Hay họ chỉ đi tìm bóng họ
Bên nhau, mai mốt lại muôn phương
*
Ở đây, cạnh Chúa vẫn cô đơn
Ngửa mặt nhìn sao, nén tủi hờn
Con muốn lênh đênh trên biển cả
Một lần sóng gió, Chúa gần hơn
*
Chúa ơi, Chúa đến làm chi nhỉ
Con khóc như mưa, Chúa lại …cười
Con khổ sở hoài, xin Chúa giúp
Chúa kêu thử thách với con thôi
*
Con vừa cầu nguyện gởi cho ai
Thôi nhé, Noel này lạc loài
Con viết thơ buồn trên giá thánh
Ngày mai thức giấc, chắc sầu vơi…
*
CAO MỴ NHÂN



THÁNG CHÍN RỒI…
*
Tháng Chín rồi, Năm cũ sắp qua,
Như tên bay, mệt khách đường xa…
Cổ lai hi tuổi, mơ chi nữa?
Mấy lượt mài gươm, nguyệt cũng già?
*
Sức yếu, may không lo bệnh trọng,
Thân còm, gắng chống đỡ tà ma!
Cháu con cứ bận…làm sao khỏi?
Bè bạn dần thưa, dễ hiểu mà !
*
Mới tiễn Vũ quân về với Chúa,
Lại nghe Lương muội hội cùng Cha !
Chuyện Đời thay đỗi trong hơi thở,
Sinh Tử. Mất Còn: một sát na !
1/9/17 Dương Huệ Anh
***
CỨ VUI
*
Lửa nóng Sa Bà, ta cứ vui,
Lên voi, xuống chó, gắng yêu đời!
Bởi ta có cái người không có,
Sức mạnh, Bi tâm, những nụ cười!
*
Tuổi trẻ, xe lăn, ngồi, chẳng thiếu,
Bạn già, chống gậy, cũng thường thôi!
Phi Châu, dân đói, vô cùng khổ,
Bệnh quỉ, Sida, cả triệu người!
*
Do Thái, Muslim thù khó giải,
Thánh Thần, rồi Chúa cũng buông xuôi!
Năm châu quấy động*, niềm tin mất,
Bởi quá tham, điên đảo cuộc chơi!
* Khủng hoảng tiền tệ, ngân hàng, địa ốc.
20/01/09 – #24/09
***
BI TÂM HOA NỞ
*
Ba mươi, Tết đến, hỏi buồn, vui?
Thực sự buồn, vui tí chút thôi!
Sức ngựa còn, thơ còn phóng túng,
Cuối năm bệnh, bệnh cứ lai dai !
*
Bạn thơ đột quị, nằm chờ bạn,*
Tri kỷ cuồng mê, khó giữ lời !
Thế giới đắm chìm trong khủng hoảng,
Chiến tranh tàn phá, phải trò chơi!
*
Sinh, già, bệnh, tử… thương thân phận,
Thành, trụ, hoại, không …, nhớ luật đời!
Tự tại, an nhiên, theo chính đạo,
Bi tâm hoa nở triệu vành môi !!
*Trần Việt Yên – 25/01/09
***
LẠI GIÁNG SINH
*
Ngày tháng trôi mau, lại Giáng Sinh,
Trời mưa, trời gió, lạnh run mình.
Tám mươi hơn, tuổi, thơ còn mặn,
Sáu chục tròn, cân, bạn dám khinh?
*
37 năm, buồn thân tị nạn,
Tháng mươi lần, dạo bước* điêu linh!
Ngày ba bữa, giữ cho bền sức,
Đêm mấy phen đi…khổ thật tình!
*
Răng cửa lung lay, chừng muốn rụng,
Tóc trần trụi lùi, ngó mà kinh!
Ngáp dài, thích ngủ quay trên thảm,
Quên hết, ưu tư với bất bình!!
* Đi bộ – 24/12/12 – #41/12
***
CUỐI NĂM MƯA GIÓ
*
Cuối năm mưa, gió, lạnh ê da,
Trời vẫn âm u, dễ chán a!
Uốn cái lưng còng, lo chống đỡ,
Thẳng đôi chân sậy, gắng xông pha!
*
Mắt mờ, sớm, tối lên thăm mạng (net),
Tai lãng, – con, em…- khó tặng quà!
Ba bữa rau dưa, mong giữ sức,
Một lòng tu tập, khởi từ ta!
*
Vui trong hiện hữu, quên năm tháng,
Tịnh độ không gần, cũng chẳng xa!
Dương Huệ Anh
29/12/12 – #42/12
***
THẾ LÀ LẠI HẾT NĂM
*
Thế là lại hết năm Tây,*
2012- Lạnh.
Gió ngày, mưa đêm…
Chiến tranh, khủng bố, triền miên,
Thày tu ngậm máu, Đức Tin xuống đường!
Phi Châu, dân đói thảm thương,
Vô lương, tài phiệt một phường lưu manh,
Gian thương nào nghĩ nhân tình,
Đầu cơ, lũng đoạn,
Giàu, thành giàu thêm!
Độc tài ngoan cố, giữ quyền,
Tự do, hạnh phúc hão huyền, dân mơ!
Xứ này, Mỹ, thích tự do,
Tha hồ mua súng, tha hồ giết nhau!
Trẻ thơ vô tội, ngờ đâu,
Chết trong lớp học,
thêm sầu Giáng Sinh!
*Dương Huệ Anh
31/12/12 – #44/12
***
PHÁP DIỆT KHỔ
*
Sinh ra ở cõi Ta Bà,
Lo tranh đấu, sống, khổ mà phải vui!
Gian lao từng bước, ngược xuôi,
Bao nhiêu thách đố, mấy người ưa ta!
Hơn thì ghét, kém thì xa,
Chấp thân giả hợp vốn là vô minh!
Tham danh,cầu lợi …coi khinh
Kẻ nghèo hèn,
đảng phe mình… nâng cao …
Chiến tranh giết hại người, sao
không lo
khi bệnh già,
nào ai thương?
…Pháp linh diệt khổ, là đường,
Từ Bi cứu độ, tựa nương Phật Đài…
Sen vàng Ba Cõi đẹp tươi,
Thực hành “lục độ“, một đời trì tu!!
*Dương Huệ Anh
03/02/13 – #10/13
***
LÂU NGÀY, GẶP BẠN
*
Lâu ngày, gặp bạn, mừng a,
Hỏi thăm địa chỉ?
– Hơi xa!
– Ngại gì!
Thôi cho số điện thoại đi,
Khi nào rảnh ghé…
nhâm nhi …chuyện đời…
Tay ghi hàng số, miệng cười,
“Quan Âm Thiền Viện” ít người biết, anh!
Nhớ thêm đạo hiệu Tâm Minh,
Vào Google Search cũng nhanh, mấy hồi!
… Hai lần phone, – chẳng trả lời,
Cuối tuần, xe phóng…tìm hoài, thấy đâu?!
Quan Âm Bồ Tát, khẩn cầu,
Ngất ngư, lội bộ, trước, sau, hỏi đường…
Bỗng…xa thoáng bóng áo vàng,
Ai đưa lối,
Hẳn đạo tràng không xa!
…Cờ bay, vui cõi Ta Bà
Tháng 4, mồng 8, Phật Đà đản sinh…
Dương Huệ Anh
18/5/2013 – #36/13
***
ĐI BỘ
*
Về chiều, thả bộ, khỏe mà vui,
Thêm được nhìn phong cảnh đất trời.
Sẵn dịp, ghé mua hàng hạ giá,
SafeWay, SaveMart…nửa giờ thôi !
*
Nắng vàng, gió mát dịu hồn ta,
Thoáng…đến đầu đường Berryessa…
Chợt nhớ Hà, Hàn, Bùi… mấy bạn
Quế Đào, Liên Bích…ở đâu xa?*
*
Thiên Đường, lạc cảnh mấy tầng cao,
Thanh tịnh, thơm hương suối, động đào…
Ngọc nữ, tiên đồng trì nguyện độ
Muôn loài, ngạ quỉ sớm tiêu dao…
*
Ta Bà tranh chiến, lửa tràn lan,
Đường Lưỡi Bò, Trung quốc nhận càn…
Irak, Afgan…còn tử đạo,
Đối đầu nguyên tử, Bắc, Nam Hàn…
*
Phi Châu nghèo đói cũng can qua,
Do Thái, Iran dữ lắm mà!
Dân Chủ, Độc Tài sao hợp tác?
Cường quyền, – nhược tiểu – dễ gì tha?!
* Hà Thượng Nhân, Hàn Nhân, Bùi Huy Hải, Đào Thanh Quế, Nguyễn Bích Liên đã khuất.
DƯƠNG HUỆ ANH
13/6/2013 – #43/13
***
CUỐI ĐỜI, NHÌN LẠI ?
*
Cuối Đời, nhìn lại?
Buồn, Vui?
Vui hay Buồn, cũng thế thôi,
Phận mình ?!
Tùy Duyên,
một kiếp phù sinh,
Ơn đền, oán trả…lênh đênh, con thuyền…
Gắng thôi, nợ trả…
An nhiên,
Ăn no, ngủ kỹ…là tiên trên đời !?
Luật Trời, thay đổi, đổi rời,
Gieo Nhân, hái Quả,
tùy Thời với Duyên?!
Bồ Đề Tâm mở, ơn Trên,
Độ mình, độ chúng…
Vui thêm,…cõi này !!?
12/02/21 Dương Huệ Anh
THÁNG CHẠP BUỒN
Bông hoa đại vàng
Sao nở về đêm
Yêu anh muộn màng
Trong nỗi cuồng điên
Tháng chạp mong chờ
Chúa đến trần gian
Em đi nhà thờ
Van vỉ miên man
Anh ở phương nao
Dấu thương yêu tàn
Trên tầng mây cao
Gió gọi mơ màng
Tháng chạp bâng khuâng
Thánh giá lặng thầm
Trên đỉnh mùa xuân
Em vác mê lầm…
CAO MỴ NHÂN
CUỘC TÌNH NÀY
Ta chôn cuộc tình này
Trong vòng tay người đợi
Người xót xa mời gọi
Trong tĩnh lặng chơi vơi
Mười lăm năm rong chơi
Giữa thiên thu cách trở
Cuộc tình đầy lỡ dở
Có chi mà luyến tiếc
Tháng chạp còn tha thiết
Năm sắp sửa trôi qua
Cánh hạc vàng đang sa
Về mênh mông vô tận
Anh cũng như người hận
Em giống anh u buồn
Đời sắp sửa hoàng hôn
Chân mây tàn ánh lửa…
CAO MỴ NHÂN
*Mời quý độc giả click vào mũi tên góc trái, dưới, để lật trang.
Mời độc giả click vào mữi tên bên dưới góc trái để lật trang.


Mời quý vị click vào mũi tên góc trái bên dưới tập thơ để lật trang đọc tiếp.

Xin click vào mũi tên góc trái dưới tranh thơ để lật trang
*****************
MÌNH ƠI
Ngày xưa anh gọi tiếng Em
Nghe tim thổn thức lòng mềm như tơ
Kể từ chia cách đôi bờ
Trong tim vẫn tưởng vẫn mơ đến mình
Người đi vào cõi u minh
Bỏ em lạnh lẽo lặng thinh tiếng cười
Cô đơn em gọi mình ơi
Nơi đây buồn lắm một trời nhớ thương
Chiều thu bàng bạc tơ vương
Rừng khuya lá rụng khói sương mịt mờ
Liêu xiêu bóng ngả chơ vơ
Đêm nằm em nhớ em mơ gọi mình…
phamphanlang
15/11/2021
Các Bài Họa:
GỐI CHIẾC
Người đi có nhớ đến em
Có hay kẻ ở đàn mềm cung tơ
Từ anh cưỡi gió xa bờ
Đêm đêm chiếc bóng ngồi mơ duyên mình
Hoàng hôn rồi lại bình minh
Môi hồng nhạt sắc im thinh nét cười
Quặn lòng nhói ruột, đau ơi!
Bụi trần vẫn đục đầy trời tiếc thương
Xuân hè thu đến lệ vương
Đông tàn ảm đạm hồn sương đẫm mờ
Bên lầu trăng cũng vẩn vơ
Phòng loan gối chiếc ôm mơ một mình
Phương Hoa
NOV 16th 2021
***
ƠI MÌNH
Bồi hồi nhớ thủa gặp em
Áo dài tha thướt lụa mềm óng tơ
Tự dưng ai nỡ ngăn bờ?
Tàn canh vừa trải giấc mơ chuyện mình
Cao dày cảm động chứng minh
Lòng luôn sầu não nín thinh chẳng cười
Trăng già cám cảnh người ơi!
Biển buồn sóng gọi mây trời khóc thương
Ưu hoài dạ mãi vấn vương
Hình như thấp thoáng làn sương ảo mờ
Bên rèm dáng nhỏ bơ vơ
Chừng nao trở lại mình mơ nhé mình!
Như Thu
11/16/2021
***
CHỈ MÌNH
Biển xưa dạo bước bên em
Anh thì thẩm bảo tóc mềm nhung tơ
Tình anh như sóng xô bờ
Đưa em vào mộng trong mơ gọi mình
Tình anh nắng ấm bình minh
Ghé hôn môi mắt em thinh thích cười
Niềm vui không vẹn… Buồn ơi!
Anh xa biền biệt về trời… xót thương
Phòng khuya đối bóng sầu vương
Ôm chầm ảo ảnh khói sương quyện mờ
Nghẹn ngào gối chiếc chơ vơ
Núi mòn biển cạn người mơ chỉ Mình!
Kim Oanh
17/11/2021
***
CHỈ LÀ MƠ QUA
Nồng nàn anh đến bên em
Lời thương lời nhớ đan mềm cung tơ
Nắm tay hạnh phúc tràn bờ
Tình yêu mãi đẹp đắm mơ chúng mình
Tựa màu nắng chiếu bình minh
Nhưng sao anh lại buồn thinh chẳng cười
Dựa vai ấm áp người ơi
Nhìn xem hoa cỏ mây trời dễ thương
Anh nhìn ánh mắt sầu vương
Quay lưng trở bước vùng sương khói mờ
Bàng hoàng thức giấc bơ vơ
Màn đêm dày đặc tan mơ tủi mình
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 11/17/2021

“Tháng Mười chưa cười đã tối” nay đã cuối tháng 11 trên con đường về nhà đã không còn ánh nắng nhạt cuối ngày, ánh nắng thoi thóp cũng không. Tháng mười đã qua, tháng mười một cũng đang qua, cuối năm đang đến. Lá cũng gần cạn trên cây vòm lá vàng thưa dần, dưới gốc xác lá nhiều hơn những khoảng tròn chung quang tán cây những con đường ngập lá.
Mùa lễ Đông đang đến cái lạnh se sắt khô da thường làm lòng người ta chùng xuống. Ở tuổi đôi tám chưa ai nghĩ đến những vết chùng, chỉ là những âm thanh bay bổng bốc hơi.
Mấy hôm nay tin tức nói đến chứng khoán nổi trôi, địa ốc chao đảo thiên tai bão lụt, động đất vỡ trời, họ nói đến những chính trị gia những nhân vật phục vụ cộng đồng, những linh tinh lang tang trong đời sống. Không có những linh tinh lang tang ấy, thì làm sao có xã hội. Kinh khủng nhất là Covid 19
Nhìn cuộc đời ở khía cạnh khác, truyền thống Tạ Ơn tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, tổng thống đã thả con gà Tây đẹp nhất để nó được sống đến già trong nông trại quốc gia, cùng với khoảng hai trăm con gà đã được thả từ trước – tôi đếm có mấy mươi ông tổng thống nhiệm kỳ bốn năm một ông, có ông làm việc hai nhiệm kỳ thì số gà được thả mỗi năm gom lại, chắc vào con số đó không tính con cái cháu chắt của nó nếu có. Đàn bà tính toán đơn giản như thế, sai đúng chuyện vài trăm con gà chắc chắn chẳng chết ai cả, nhưng có một điều chắc hơn bắp là sau con gà được tổng thống thả làm phúc là cả triệu con gà bị làm thịt, để được các bà nội trợ bày biện bàn ăn bữa tối ngày lễ Tạ Ơn.
Cách đây hơn hai mươi lăm năm, ngày lễ Tạ Ơn tôi có một lúc hai con gà tây đông lạnh, tủ lạnh phải tháo bớt ngăn để có chỗ cho chúng nó vào chờ tan đá. Lần đầu được nấu cả một con gà tây lành lặn tôi còn nhớ cảm giác sợ sợ khi phải thọc tay vào bụng nó để rửa cho sạch máu, cảm giác sờ sợ ấy giống y như lần đầu tôi phải giết con lươn nấu cháo cho chồng tôi nhậu cùng bạn, cái điều mà thời con gái không thể nào tôi tưởng tượng ra mình có thể làm được! Ai đã biết làm thịt lươn, hẳn nhớ máu lươn hẳn nhớ hình ảnh những con lươn ngo ngoe, nhô đầu trườn lên cái thùng sắt, người bán dùng đựng nó để bán ngoài chợ, nhìn thùng đựng cá lóc cá trê không sao, nhìn thùng đựng lươn tôi sợ đến chết ngất.
Hai con gà tây vào tay tôi lần đầu ấy, một con được tôi làm ruốc (thịt chà bông) con thứ hai tôi quay trong lò, cái lò sang trọng đốt bằng ga, cái lò tôi không thể tưởng tượng mình có, khi còn ở Việt Nam năm 1990.
Tôi nhớ món gà nướng muối hột, con gà cổ lùn chân vàng sau khi làm sạch lông, nó bé bỏng chỉ bằng một phần năm của con gà tây. Cho hành vào bụng nó xong, để vào nồi tôi đã đổ muối hột rang nóng vào, sau đó là than trên than dưới khoảng bốn mươi phút. Con gà mái tơ bé bỏng nằm giữa muối hột thấm tháp đậm đà chết cũng vui, vì trở thành món ăn ngon cho gia đình của tôi, gia đình thiếu thịt trong khoảng thời gian nghèo khó.
Từ con gà bé bỏng, tôi nấu con gà vĩ đại, từ cái lò than trên than dưới, tôi dùng cái lò nấu bằng ga, cái lò có cửa có đèn, thì chắc chắn kết quả phải có điều gì đó không hoàn hảo. Điều không hoàn hảo khi tôi nướng con gà tây lần đầu, chỉ có những người bạn đã hưởng lễ Tạ Ơn nhiều lần mới biết, còn phần gia đình tôi, chồng con tôi không ai biết cả, vì cũng như tôi lần đầu được nấu gà tây, chồng con tôi cũng lần đầu được ăn gà tây. Ăn gà tây lần đầu tôi khóc, khóc vì nhớ nhà, khóc vì đã thoát và khóc vì không sao gởi bớt gà tây về Việt Nam được, người ta cho nhiều gà quá, tôi chỉ còn hai con gà là vì không muốn nhận thêm. Lúc ấy biết gia đình tôi mới đến định cư, nên nơi chồng tôi làm việc người ta cho gà, nơi tôi đi học người ta cho gà, các con cũng được cho gà, nếu nhận hết gia đình tôi có những năm con gà, phải ăn mấy năm mới hết.
Mỗi năm mỗi nướng gà, tôi nướng ngon hơn, theo đúng bài bản hơn, biết mua cái bao nhựa bọc gà để thịt gà không bị khô, biết mua cái đồng hồ nhiệt độ cắm vào đùi gà để biết chắc thịt gà đã chín, mua cả cái dụng cụ giống như thứ dùng để nhỏ thuốc vào mắt to thật to, để rưới nuớc sốt lên thịt gà trong lò, nói chung là tôi biết đủ mọi cách thức để nướng con gà tây sao cho ngon, cho giống với người ta, thì là lúc tôi thôi không muốn làm nữa, chồng con tôi đã không còn muốn ăn gà tây nữa.
Không ăn gà tây nữa, không phải là thôi không Tạ Ơn nữa, hình thức con gà tây không ảnh hưởng gì đến tấm lòng của gia đình tôi luôn ghi nhớ Tạ Ơn những điều mình đã có, những ân tình của anh chị em bè bạn, của người xa kẻ lạ. Cái túi áo lạnh được cho tại phi trường, những tấm đệm được cho con nằm, những con gà được cho ngày lễ, những căn phòng được chia cho để ở. Những bắt đầu từ số không giống như tô bột mì chưa là gì cả, phải thêm trứng thêm men chút đường chút muối mới có thể trở thành ổ bánh mì nuôi sống con người.
Tôi nhớ ơn từ ông tài xế xe buýt đã chở tôi đi học, đoạn đường gần hai tiếng đồng hồ vòng vo trong phố, tôi nhớ ơn cô giáo Linda Vidal của tôi, người đã dậy tôi nghề chuyên môn tôi chọn, tôi nhớ ơn các nhân viên làm việc trong văn phòng nhà trường nơi tôi đến ghi danh lần đầu, câu chào tiếng Anh của tôi họ không thể hiểu, mà họ vẫn nhẫn nại hướng dẫn tôi cách thức để thi vào học khi biết tôi vừa định cư trên đất nước của họ hai tháng, tôi nhớ ơn những ân nhân đã cho tôi học bổng để mua sách, mua đồng phục, mua xăng. Các con tôi đã được đi học đã nên người. Tôi nhớ ơn bạn bè tôi, các anh các chị đã cho chúng nơi cư ngụ thân tình, những bài học để sau đó chúng tôi cùng các anh các chị giúp đỡ các gia đình mới đến định cư tại Mỹ. Còn nhiều nhiều nữa tôi không biết phải kể đến bao giờ mới hết.
Đời sống luôn chứng minh thuyết tương đối trong mỗi phút giây ngắn ngủi, trong mỗi mùa đổi thay, trong từng con người có tư duy buồn vui sướng khổ, trên hết là sự biết ơn và trả ơn bằng cách lập lại những điều mình đã được nhận.
Cuối cùng tôi tạ ơn những con gà tây, không có chúng ngày lễ tạ ơn buồn lắm nhỉ. Và có lẽ chú gà tây tôi không hóa kiếp mùa lễ này cũng hiểu cho tôi: “Con sông quay về nguồn, con người trở về cội” tôi đi tìm con gà cổ lùn chân vàng, đi tìm lại cái lò than trên than dưới, nướng gà trong những hạt muối vàng tìm quên những linh tinh lang tang đời sống.
Sau Tạ Ơn là Giáng Sinh, có một số người tha cho con gà Tây đang nhìn ngắm những khối thịt hun khói, tôi đang suy nghĩ mình có thể dọn gì lên bàn ăn mà không cần chúng nó! Đậu phụ 7 món chăng?
On Mon, Nov 8, 2021 at 10:41 AM Chinh Nguyên <cnchinhnguyen7@gmail.com> wrote:
Xin chào quý vị trong ban web site, in ấn và Cô Nàng Như Hoa Ấu Tím.
Như vậy là web site lại có thêm bài của Như Hoa Ấu Tím.}vươn nhà VTLV thêm bông hồng
Tím thật lạ và đẹp..
Xin chúc cả nhà VTLV vui vẻ hạnh phúc..
Trẻ trung nhưng đã là bà…
Can qua mấy độ cháu ba bốn người
Bà nội, bà ngoại thơ rơi
Dăm ba năm nữa tóc đời muối tiêu…
cháu con, non nước một chiều…
Như Hoa Ấu Tím

Mùa Của Vần Điệu
Ai có thể hờ hững khi nhìn thấy cây thay áo, màu áo Thu nhẹ nhàng quyến rũ, như vàng như bạc như bạch kim những màu sắc ấy lung linh thành hạt kim cương từ sương đêm nhỏ xuống được ánh dương soi rọi.
Mùa của năm nay khác với mùa năm trước – tình năm nay cũng khác với tình năm trước, mọi sự thay đổi theo từng sát na
Nhất sát na vi nhất niệm.
Nhị thập niệm vi nhất thuấn.
Nhị thập thuấn vi nhất đàn chỉ.
Nhị thập đàn chỉ vi nhất la dự.
Nhị thập la dự vi nhất tu du.
Nhất nhật nhất dạ hữu tam thập tu du.
và thơ tôi cũng thế cũng theo mùa mà thay màu áo – không nức nở nhớ thương thảm thiết không khóc vì Thu nhớ vì Thu mà chỉ an nhiên ngắm sợi tơ nhện giăng qua lá – ngắm giọt sương đọng long lanh chóp lá sắp lìa cành – nét đẹp chỉ thấy được không tả được – chỉ biết thốt lên: “Yêu quá đất trời ơi!” 0.018 giây giọt sương lìa lá – hình ảnh tôi giữ được trong tâm!
Ngày xưa nhìn lá đếm buồn
Bây giờ nhìn lá nhớ người ngất ngây
Lá tìm nơi nghỉ thân gầy
Tình vươn cao vút trời mây nhỏ sầu
Giọt đọng trên nhánh khô cằn
Giọt đọng trên má nếp nhăn tháng ngày
Ừ thì Thu đến Thu đi
Ừ thì yêu dấu đã ghi khó mờ
Dù cho Thu đến Thu đi
Cỏ Trân Lan vẫn ôm ghì lá Thu!
Và sáng nay mưa tiếng tí tách rất nhỏ, chiếc đèn tự phát sáng khi nhận được tín hiệu bay nhảy của lá ngoài hiên, khung cửa sổ bỗng thành bức tranh thật đẹp, mùi cà phê thơm ngào ngạt, hơn sáu giờ rồi mà trời tối đen như mực, nơi tôi ở rất cần mưa vì đang khô hạn, nghe tiếng mưa lòng cũng reo theo tí tách vui, nhất là hôm nay là ngày tôi được sinh ra.
Tháng Mười của tôi luôn bắt đầu bằng những ngày tưởng nhớ hai đấng sanh thành – sinh nhật của cô em thứ ba và chính tôi, ngắm nhìn bạn hữu những người chọn mùa Thu để chào đời tôi nhận ra một điều rất chung là: Mùa Thu nhiều màu sắc trộn lẫn giữa bắt đầu và kết thúc cho nên chúng tôi có rất nhiều điều để thụ hưởng tự thuở lọt lòng, mẫn cảm với chung quanh thích hết tất cả từ trắng đến đen, khéo pha màu dù tương phản hay hòa hợp và yêu tha thiết mọi điều nhất là mau nước mắt cho dù chỉ là nuốt vội vào trong! Vì những lý do ấy nên thượng đế cũng rất công bằng hay ban phát cho chúng tôi những điều rất vụn vặt khéo léo tỉ mỉ từ giọng hát đến nhừng góc nhìn nghệ thuật ngay cả kể lể bằng chữ bằng vần. Tôi hôm nay góp thêm được một chiếc lá nừa vào hộp tuổi đời, hộp đã gần đầy tôi phải dùng bàn tay vỗ về ép nó xuống bảo nó phải nằm im đừng chao đảo khiến xương cốt tôi đau nhức.
Tôi nhớ như in thời xuân trẻ không bao giờ tôi biết đến chữ sinh nhật cho đến năm có người nhắc nhở và tặng cho tôi chùm hoa thiên lý! Khi còn trẻ ai thèm nghĩ đến tuổi làm chi, nhắt là ở Việt Nam lo cái ăn cái mặc đã mệt cha mẹ nào nghĩ đến chuyện mừng ngày con chào đời kia chứ vì cứ sòn sòn “năm một hay ba năm hai” theo đúng câu chúc ngày tân hôn – vu quy: “Đầu năm sinh gái cuối năm sinh trai!” Lại thêm 30 năm nội chiến từng ngày, cha nơi biên ải mẹ ngồi ru con có đâu mà lo tiệc tùng sinh nhật, nghĩ đến bữa cơm vắng chồng ngày đi sinh nó cũng một mình vượt cạn quên đi thì hơn! Hoặc may mắn được chồng đưa đến bến vượt cạn cũng “đi biển” một mình vì chồng bị đứng ngoài hàng ba chờ nghe tiếng khóc, sau đó lại khăn gói lên đường, kể ra thôi đã sợ nên chuyện sinh nhật các con Mẹ ít khi nhắc đến, chỉ có giỗ chạp là không thể phiên phiến mỗi năm!
Thời niên thiếu đi học mải lo nghịch ngợm thì giờ nào nghĩ đến ngày sinh, chưa kể chiến tranh cũng làm nhòa đi phần nào sự náo nức được đọc trong sách được thấy trong hình người ta thổi nến cầu xin được này được khác! Bây giờ mà khoe hồi đó mỗi năm mỗi mừng sinh nhật là kể xạo!
Đến lúc biết nghĩ suy tự hỏi: “Tại sao có ta – ai cho mình xuống thế và vì lý do gì!” cộng thêm những quyển sách triết lý lung tung, cùn cũng có bén cũng có bơm vào đầu những câu hỏi chẳng ai thèm trả lời thế là tự mình làm bánh tự mình thắp một ngọn nến loại nến đốt đèn trung thu thổi chơi trong góc nhà ban đêm không ai thấy, dĩ nhiên sẽ có bài thơ hay một đoạn văn chi đó trong quyển nhật ký “ba xu”, ừ bây giờ đọc lại thấy chỉ đáng “ba xu” chứ nửa thế kỷ trước là thiên thiên vạn vạn cơ đấy vì có vẽ cả hoa cả bướm cả đôi mắt to đen còn thêm giọt nước mắt cho mặn mà trang giấy!
“Dỗ hộ em hồn triền miên sóng vỗ
Trôi lang thang không ngại thác hay ghềnh
Vì tình em không được vướng chân anh
Tóc không phải dây tơ tình vướng víu!”
Thật sự khi ấy chẳng có anh nào mà thơ đã “ghê” đến thế!
Hôm nay cũng như mọi hôm, tạ ơn chồng cho mình ly cà phê bốc khói, tạ ơn Bố Mẹ đã sinh ra dạy dỗ điều hay lẽ phải dù mình không nhận được nhiều vì đã mất hai đấng sinh thành quá sớm, tạ ơn Chúa tạ ơn Mẹ Maria Mẹ Hằng Cứu Giúp, cho nơi nương tựa khi không biết phải sống thế nào sống ra sao trong khoảng thời gian chông chênh bất định của đất nước Việt Nam 1975, tạ ơn bạn bè thân thiết nguồn năng lực giúp mình giữ nụ cười trên môi và không chịu thua khốn khó! Cám ơn các con các cháu cho mình niềm vui để sáng dậy hít thở điều hòa, vươn vai dưỡng sức mong “sống đời với con” mà chúng nó không cần chăm sóc đẩy xe – suy nghĩ thế thôi chứ sao thì cũng phải tùy theo vòng xoáy cuộc đời có thế nào sẽ nương theo thế không ngại thác hay ghềnh, vì biết không sao chống được lão, dĩ nhiên cũng không thể chống lại bệnh, vì phải có bệnh mới tử được đúng không nào!
Nên tôi tự mừng tôi tuổi mới an lành vì tình yêu nhận được từ trời từ đất và từ những người chung quanh, bạn đọc đến đây sẽ biết rằng tôi đang cảm ơn bạn nữa đó.
Như Hoa Ấu Tím


Tạ mẹ cha tình nghĩa thiết tha
Cho con bóng mát đẹp ngôi nhà
Trăng sinh nhật vẫn hoài vương vấn
Tưởng nhớ âm thầm lặng lệ sa
Tạ mái trường thời áo trắng thơ
Thầy Cô dạy dỗ quý hằng giờ
Chiều vương bóng Phượng tô thềm mộng
Nắng lụa đan mềm dệt cõi mơ
Tạ mái Chùa xinh học tập thiền
Kinh trì đuốc tuệ giải thần tiên
Chân nguyên an trú đời thanh tịnh
Bóng Phật hương sen chỉ lối hiền
Tạ lính Cộng Hoà nhọc xác thân
Thương binh, tử sĩ não vô ngần
Hy sinh chiến đấu vì non nước
Tù tội rừng sâu bỏ mạng dần
Tạ nước Hoa Kỳ cứu vớt mang
Quê hương ngoảnh lại khóc điêu tàn
Về miền đất hứa đầy nhân đạo
Cảm tạ vô cùng cuộc sống an
Tạ bạn chân tình sát cánh ơi
Mây trong nắng đục vẫn bên đời
Giòng sông cuốn chảy theo ngày tháng
Gió tủi mưa sầu giải nỗi vơi
Tạ bóng xuân hồng ửng mắt môi
Hạ reo nắng rực gợi bồi hồi
Thu về lá đổ rung thanh nhạc
Đông lạnh mưa gầy gợi cảm thôi
Tạ ánh trăng mờ gối giấc thâu
Trời riêng thổn thức tiếng thơ sầu
Hoa Quỳnh hé nở sương loang loáng
Đợi nét trang đài ẩn chứa sâu
Tạ các Thi Đàn lẫn Bút chương
Chân trời mở rộng bóng yêu thương
Ngõ hoa giẫm bước say hương vị
Mát mộng hồn du khắp nẻo đường
Tạ lễ đất trời được ấm no
Anh em họp mặt hưởng nhiều trò
Gà Tây hiểu nghĩa thêm nguồn gốc
Nước Mỹ ân tình khó sánh so
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 11/25/2021
Lễ Thanksgiving

Lời Chúc Đến Quý Niên Trưởng, Quý Anh Chị Trong Văn Thơ Lạc Việt Nhân Mùa Lễ Tạ Ơn – Happy Thanksgiving 2021
Trong tinh thần Mùa Tạ Ơn, Hải và Gia Đình xin gửi lời cầu chúc tốt đẹp nhất đến tất cả Quý Niên Trưởng, Quý Anh Chị và Gia Quyến:
Một ngày Lễ Tạ Ơn hạnh phúc, an lành, mọi điều may mắn. Xin Cảm tạ Trời, Người, Đời, sau 75, mang thân phận Người Tị Nạn CS, đã cho chúng ta được sống trên Quê Hương thứ hai, nước Mỹ này, với đầy đủ tự do no ấm, dân chủ và quyền làm người.
Không quên nhắc nhở, hoa Tự Do được nở, là do tưới bằng máu của những người Chiến Sĩ Hoa Kỳ đã nằm xuống, xin dâng những bông hồng cảm tạ trong ngày lễ này.
Cũng xin Tạ Ơn tình thương tình mến, của những tấm lòng, trong mục đích chung “bảo vệ và phát huy tiếng Mẹ” để Văn Thơ Lạc Việt vẫn trường tồn và hoạt động mạnh mẽ, hữu hiệu trên 30 năm qua.
Tâm tình Cảm Tạ là giữ truyền thống tốt đẹp:
Khi còn ở Việt Nam, chúng ta mừng Năm Mới với ba ngày Tết, cũng là ba ngày Tạ Ơn. Mồng Một dành để tạ ơn Đất Trời và Cha Mẹ. Mồng Hai dành để tạ ơn Thầy Cô và bà con thân quyến. Và Mồng Ba dành cho Bạn Bè.
Như thế từ thuở còn bé, truyền thống và phong tục nơi quê nhà, đã chỉ cho ta biết tạ ơn Trời, tạ ơn Người và tạ ơn Đời.
Nay trên xứ người, lại còn có ngày Lễ Tạ Ơn, cộng với truyền thống tốt đẹp của Cha Ông, trong tinh thần “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây.” Đặc biệt, xin cám ơn tất cả những giúp đỡ chân tình dành cho Hải trong chức vụ Hội trưởng gần một năm qua, cảm tạ những ân tình đáng quý mến này.
Một lần nữa, xin cầu chúc tất cả Quý Vị và Gia Quyến: Một Lễ Tạ Ơn an bình, tràn ngập tình người, ơn phước từ Trời Cao.
Mừng Lễ Tạ Ơn – Happy Thanksgiving 2021
Lê Văn Hải

Nhóm Mõ Nhân Ái Mang Không Khí Lễ Tạ Ơn 2021 Sớm Đến Với Người Không Nhà (Homeless)
(San jose) Thứ Năm tuần sau mới đúng là ngày Lễ Tạ Ơn, nhưng Thứ Năm tuần này, ngày 18 tháng 11 năm 2021, lúc 8 giờ 30 sáng, Anh Hải đã diện Nhóm Mõ Nhân Ái, đem chút không khí ngày lễ đến những người không nhà, tại sân cỏ gần thư viện Tully, San jose.
Với 5 hộp quà, cho tiết mục xổ số lấy hên, trên 50 bao lì xì, tiền mặt gấp đôi những ngày bình thường, tặng cho Homeless. Đây là những mục vui, cộng thêm vào Bữa cơm truyền thống mừng lễ Tạ Ơn.
Không khí chợt vui nhộn hẳn lên, một khách không nhà với nụ cười tươi, ôm anh Hải nói lời cám ơn: “Nhờ Quý Anh Chị, chúng tôi đã hưởng được chút không khí thương yêu của ngày lễ. Happy Thanksgiving! Chẳng có Nhóm nào đối xử nặng tình người như Nhóm các anh cả.”
Buổi cơm, phát quà, cộng vào những tiết mục chơi vui, diễn ra trong tình thân mật gia đình, ấm cúng tình người, trong một buổi sáng chớm đông se lạnh.

Nhân đây, trong tinh thần Mùa Tạ Ơn, tôi xin đại diện Nhóm, chân thành gởi lời cảm tạ đến với tất cả Quý Ân nhân đã góp tay trong công tác nhân ái này. Xin Thượng Đế trả công bội hậu cho Quý Vị và Gia Quyến, vì những điều tốt đẹp mà quý vị đã thực hiện nhằm giúp đỡ tha nhân. Phần thưởng đầu tiên quý vị nhận được từ Thượng Đế, đó là niềm vui an bình trong tâm hồn. “Bình an dưới thế cho người thiện tâm!” Cám ơn tất cả! đặc biệt năm dịch bệnh Covid khó khăn vừa qua, vì tấm lòng mà Quý vị yểm trợ, mà chương trình đã đi được đoạn đường dài trên 28 năm!

LÊ VĂN HẢI