THƠ XƯỚNG HOẠ: “Trong Khám Chí Hòa”- VŨ HOÀNG CHƯƠNG – CAO MỴ NHÂN – PHƯƠNG HOA. VĂN: “DUY LAM, NÓI MÃI KHÔNG CÙNG” Cao Mỵ Nhân.
TRONG KHÁM CHÍ HOÀ
(Bài Xướng)
Thấm thoát vào đây tháng đã tròn
Lông hồng gieo xuống nhẹ như non
Một manh chiếu nát, thân tơi tả
Nửa bát cơm hôi, xác mỏi mòn
Ngày đến bữa ăn thường nhớ vợ
Đêm về giấc ngủ lại thương con
Dẫu bao nước chảy qua cầu nữa
Hồ dễ gì phai được tấc son ?
Thi sĩ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
1976.
BUÔNG CÂU THẤT VẬN
(Bài Hoạ)
Nào ai tính được chuyện vuông tròn
Vàng có phai đâu, đá thử non
Lòng dạ người dưng như thiếu hụt
Tâm hồn khách lạ thấy hao mòn
Mong nhiều chẳng đạt niềm tin lớn
Ước mãi không thành giấc mộng con
Nên cứ bâng khuâng câu thất vận
Mệnh trời giữ vẹn trái tim son …
Hawthorne 3 – 2022
CAO MỴ NHÂN
NÉT SON THI BÁ
(Kính cẩn họa)
Cá chậu tuy không dệt mộng tròn
Nhưng ngầm chất chứa những mầm non
Vì chưng quý sách văn nào cạn
Cũng bởi yêu thơ bút chẳng mòn
Sớm tối một lòng vun núi lớn
Tháng ngày quyết chí đóng thuyền con
Chờ khi thoát cảnh chim lồng ấy
Chữ nghĩa tung hoành điểm nét son
Phương Hoa – MAR 3rd 2022
THƠ CAO MỴ NHÂN: Hương Sắc Cũ
HƯƠNG SẮC CŨ
CAO MỴ NHÂN
Tháng ba rồi , vạt nắng đổ hoang liêu
Trên mênh mông đại dương thêu trước mặt
Có phải là sóng lang thang ấp yêu
Đã dội về, hẹn em nhiều mất mát
Biển Đan Hồ lắng nghe bao tiếng hát
Tóc anh phai hay vẫn biếc tươi mầu
Em đợi sóng trôi xa, vun bờ cát
Đang chập chờn theo sát bước hải âu
Sáu năm qua, ôi tình tự trôi mau
Vòng tay anh hơn một lần khép lại
Nhưng chúng ta vẫn chưa ở bên nhau
Khiến phương nam mây về thay áo mới
Anh mỉm cười : tháng ba em đang tới
Cho anh xin gặp gỡ sắc hương xưa
” Hương sắc cũ ” nồng nàn, em ngóng đợi
Một ngày vui, nào phải nhớ nhung thừa …
CAO MỴ NHÂN
DUY LAM, NÓI MÃI KHÔNG CÙNG. CAO MỴ NHÂN
Vốn thân thiết với 2 cặp anh chị Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn – Chu Thị Thịnh và Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng – Thuý Sơn, nên hình như là tôi hay được nghe các anh chị trên kể cho nghe về nhiều kỷ niệm trong đại gia đình Nguyễn Tường, họ ngoại, và Nguyễn Kim, họ nội, của 2 nhà văn tên tuổi Duy Lam và Thế Uyên trong làng văn Việt Nam cuối thế kỷ thứ 20 vừa qua .
Nhà văn Duy Lam cứ khuyến khích tôi viết lại một số kỷ niệm về mấy nhân vật trong dòng họ ” rất văn nghệ ” của 2 dòng họ mà tôi có dịp quen biết .
Những vị tôi thường lui tới, cùng đi chơi đây đó vv…
Nhưng tôi cứ lững lờ năm tháng trôi qua, nhà văn Duy Lam bảo rằng :
” Cô có cả kho tài liệu về chúng tôi, hậu duệ của Tự Lực Văn Đoàn, nhất là thời gian cuối thế kỷ trước đây, qua 10 năm đầu thế kỷ sau này, khi còn ông chú tôi ( lẽ ra kêu bằng cậu ) là bác sĩ Nguyễn Tường Bách, bút hiệu Viễn Sơn, thủa cụ còn ở trong nước, chăm sóc báo chí của Tự Lực Văn Đoàn, trước khi cụ Nguyễn Tường Bách bôn ba qua Tàu, lánh nạn Việt Minh thủa 1945 ” .
Nhà văn Duy Lam nói điều trên, khi anh chị Duy Lam còn ở nam tiểu bang California , và khi cụ Bách còn tại thế.
Tôi ậm ừ vì nhiều thứ lý do lắm .
Hậu duệ quý vị dòng họ Nguyễn Tường vẫn có một số khá đông quý ông cầm bút, hay sinh hoạt văn học, văn hoá xã hội vv…như Nguyễn Tường Tâm, con cụ Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Thiết, con cụ Nguyễn Tường Tam ( Nhất Linh ), Nguyễn Lân, con cụ Nguyễn Tường Long ( Hoàng Đạo ) bác sĩ Nguyễn Tường Giang, con cụ Nguyễn Tường Lân ( Thạch Lam ) vv…
Song, điều hôm nay tôi muốn kể về Nhà văn Duy Lam, trưởng nam của cụ Nguyễn Kim Hoàn, Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn và phu nhân ông, bà Chu Thị Thịnh, mà chúng tôi hay gọi Thịnh Chu, chị còn lấy bút hiệu là An Nhiên .
Mỗi lần nhắc tới anh chị, thì trong lòng tôi cứ nghẹn ngào thương tiếc lắm .
Số là thủa …trước cuộc đổi đời bi thảm ở miền nam VN 30-4-1975, thì gia đình anh chị Duy Lam cư trú ở Đà Nẵng .
Thoạt thì Nhà Văn Duy Lam, tức Đại uý Nguyễn Kim Tuấn ( sau lên Trung Tá ) theo đại tá Hoàng Xuân Lãm ( sau lên Trung Tướng ) từ trung ương ra giữ Sư Đoàn 2 Bộ Binh đồn trú ở Khu 12 Chiến thuật ( bên này đèo Hải Vân ) .
Đại uý Nguyễn Kim Tuấn là Chánh văn phòng Tư Lệnh Đại tá Hoàng Xuân Lãm .
Một thời gian sau, qua nhiều năm, Đại tá Hoàng Xuân Lãm đã thăng cấp Trung Tướng , Đại uý Nguyễn Kim Tuấn đã thăng cấp Trung tá, và cùng thuyên chuyển lên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I – Quân Khu 1 , đồn trú ở Đà Nẵng .
Trung tướng Hoàng Xuân Lãm giữ chức Tư lệnh QĐI/ QKI từ
1966 – 1972, Trung tá Nguyễn Kim Tuấn tức Nhà Văn Duy Lam cũng song song làm Chánh Văn Phòng Tư Lệnh, nhưng ngoài việc quân binh, ông phải trọng trách tất cả các việc hành chánh và nhất là các sinh hoạt về chính trị, văn hoá xã hội của 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và 2 Thị xã Huế, Đà Nẵng .
Lý do rất đơn giản, là thời buổi chiến tranh đó, Trung tướng Hoàng Xuân Lãm phải dồn mọi nỗ lực vào việc quân binh, nên vị Hoàng Tư Lệnh đã giao các việc nêu trên cho Trung tá Nguyễn Kim Tuấn, người có uy tín làm công tác văn hoá xã hội rộng lớn và phức tạp bên ngoài doanh trại .
Tất nhiên để tổ chức và điều hành công tác hành chánh cùng các phần việc linh tinh khác, Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn đã phối hợp với nhiều quý vị dân sự cùng các huynh đệ chi binh chuyên ngành trong cũng như ngoài đơn vị thuộc Bộ Tư Lệnh QĐI/ QKI như :
Quý ông Giáo sư Thái Doãn Ngà
Quý ông giáo sư Phan Du
Quý ông giáo sư Nguyễn Văn Xuân
Quý ông Tỉnh trưởng và các giáo sư trong Tỉnh Quảng Nam , thị xã Đà Nẵng để thành lập Đại Học Đà Nẵng .
Các Câu lạc bộ Văn Học Nghệ Thuật .
Báo chí, triển lãm tranh ảnh vv…
Với sự tiếp tay của các văn nghệ sĩ Quân Đội và dân sự trẻ thời bấy giờ như : Thi sĩ Thái Tú Hạp, Thi sĩ Luân Hoán, Hoạ sĩ Cao Bá Minh, Hoạ sĩ Lâm quang Phước vv…
Cụ bà Nguyễn Thị Thế là em thứ 5 của quý cụ Nguyễn Tường Thuỵ, Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam ( Nhất Linh ) Nguyễn Tường Long ( Hoàng Đạo ) và là chị của quý cụ Nguyễn Tường Lân ( Thạch Lam ) Nguyễn Tường
Bách ( Viễn Sơn ) thuộc dòng họ Nguyễn Tường .
Cụ bà Nguyễn Thị Thế là phu nhân của cụ ông Nguyễn Kim Hoàn.
Cụ ông Nguyễn Kim Hoàn, người lo phần ” nội vụ các sự việc cho 2 tờ báo Phong Hoá – Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn “, điều này do Nhà Văn Thế Uyên kể cho người viết nghe.
Trở lại gia thế cụ bà Nguyễn thị Thế và cụ ông Nguyễn Kim Hoàn . 2 cụ Nguyễn Thị Thế và Nguyễn Kim Hoàn có 7 người con .
3 ông con trai là : Nguyễn Kim Tuấn ( Duy Lam ), Nguyễn Kim Dũng ( Thế Uyên ), Nguyễn Kim Sơn .
4 bà con gái là :
Nguyễn Thị Châu, Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Thị Tuyết, và Nguyễn Cao Thị Liễu .
Có thể nói cụ bà Nguyễn Thị Thế, vai thứ 5 trong dòng họ Nguyễn Tường, đã là người quán xuyến việc nhà giữa 4 ông anh và 2 ông em của cụ thế nào, thì khi cụ có gia đình riêng , cụ cũng lo cho các con, các cháu y như thế .
Do đó 2 nhà văn Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn và Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng cũng trong không khí chiều hướng như vậy, nhất là đối riêng với gia đình anh chị Duy Lam .
Khi anh Duy Lam bị đi tù cải tạo sau 30-4-1975, thì chị Duy Lam và 3 cháu gái của nhà văn Duy Lam phải từ Đà Nẵng về Đà Lạt tá túc với cụ bà nội .
Và mặc dầu Nhà văn Thế Uyên có 5 con trai, anh vẫn nói rỡn với tôi, Phương Lan con gái đầu lòng của anh chị Duy Lam là ” đích tôn ” của cụ bà nội nêu trên .
Cách nói đùa để chứng tỏ bà nội trực tiếp lo cho 3 cháu gái
Phương Lan, Lan Anh , Anh Phương con nhà văn Duy Lam đang được bà nội chăm sóc từ A tới Z .
Nhà văn Duy Lam đi tù cải tạo đã đành , chị Duy Lam ít lâu sau cũng đi tù cải tạo với lý do là chống phá cách mạng .
Quý vị sẽ hỏi tôi rằng : nhà văn Duy Lam tức Trung Tá Nguyễn Kim Tuấn mới phải đi tù cải tạo vì thuộc quân cán chính chế độ cũ , chứ bà Duy Lam thì cũng bình thường như các bà phu nhân sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà , sao lại bị tù đày vậy ?
Xin thưa : Sau khi Nhà văn Duy Lam đi tù cải tạo rồi, bà Duy Lam và 3 cháu Tý li, Bé ti và Xu, tên ở nhà của các cháu nêu trên, phải đi vùng Kinh Tế Mới cũng thuộc địa hạt Đà Lạt , Lâm Đồng, thì chị Duy Lam bị trù dập kinh khủng .
Thịnh Chu, phu nhân nhà văn Duy Lam rất đẹp, tính thẳng thắn, trong lúc phải lao động khổ nhọc, chị than thở, điều đó bình thường thôi, nhưng chị đã dẫn chứng câu danh ngôn của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là :
” Đừng Nghe những gì Cộng Sản Nói, mà Hãy Nhìn những gì Cộng Sản Làm ” .
Đối phương bắt chị nhắc lại để truy tội chống cách mạng .
Phu nhân nhà văn Duy Lam cũng kiên cường như nhà văn Duy Lam, bà bình tĩnh, thản nhiên nhắc lại câu trên, không sai một dấu phẩy .
Sau đó, chị phải đi tù nhiều năm .
Ra khỏi trại tù, chị ” bình tĩnh ” thêm nữa, viết nhiều thư từ gởi Văn Bút Quốc Tế, trình bầy và nhờ can thiệp cho Trung tá Nguyễn Kim Tuấn, tức Duy Lam sớm trở về.
Duy Lam từ các trung tâm cải tạo ngoài Bắc, chuyển vô Hàm Tân để chuẩn bị ra trại, chị ra thăm anh ở trại Z.30 , Nhà văn Duy Lam và phu nhân gặp nhau sau nhiều năm xa cách , thản nhiên ôm nhau với cử chỉ thân ái . Anh chị đã bị cúp phép thăm nuôi tức khắc . Nhà văn Duy Lam bị nhốt ngay sau đó vì vi phạm nội quy trại, không hề ghi trên văn bản .
Nhà văn Duy Lam bị tù cải tạo 12 năm, ông trở về đoàn tụ gia đình năm 1987 .
Sau đó chương trình HO, gia đình ra đi tị nạn # 1990 nhưng chỉ 2 cháu Lan Anh và Anh Phương được theo cha mẹ đi thôi, cháu Phương Lan sau có gia đình, phải ở lại VN, Anh chị Nhà văn Duy Lam đã bảo lãnh cho gia đình cháu này ít năm sau đó.
Hiện nay cả 3 cháu con Nhà văn Duy Lam đã ổn định cuộc sống, đều có gia đình và công ăn, việc làm .
Phu nhân nhà văn Duy Lam mệnh chung cách đây 2 năm .
Nay được tin Nhà văn Duy Lam qua đời 4-2-2021 tại Vỉginia sau khá nhiều năm Nhà văn Duy Lam không viết lách nữa , mà lại thích vẽ .
Ông có nhiều bức hoạ từ cách đây ba chục năm. Qua miền đông, ông còn vẽ nhiều hơn, nhưng vẽ để thoải mái tinh thần, không định để làm gì cả, kể cả thơ, nhà văn Duy Lam muốn thử nghiệm cho …vui .
Ngay đến văn là bộ môn chuyên nghiệp của ông, những năm cuối cùng, Nhà văn Duy Lam nói :
” Bây giờ không viết nữa, chỉ đọc lại thôi …”
Thực ra viết về Nhà văn Duy Lam thì ” Nói mãi cũng khôngcùng …” Lý do ông sinh hoạt nhiều ngành văn chương, nghệ thuật, văn hoá xã hội, giáo dục, đảng phái chính trị …vv.
Nhà văn Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn là một nhân vật chức sắc trong đại gia đình Việt Nam Quốc Dân Đảng VN .
Riêng với tôi, thì anh chị Nhà văn Duy Lam mang hình ảnh toàn vẹn cả về nhân cách lẫn tài hoa .
Không ai có thể ngờ là lúc Nhà Văn Duy Lam trên 60 tuổi, ông còn lái xe chở phu nhân ông từ Cali qua Vỉginia . Hay đi mổ mắt, ông đã tự lái xe về nhà ở đoạn đường xa gần 2 tiếng đồng hồ .
Tôi thường đùa ông vốn giỏi võ thuật yoga, bà là Huấn luyện viên Dưỡng Sinh sau tôi một khoá, nên chuyện thao tác thể dục dưỡng sinh quen thuộc với ông bà .
Thi Sĩ Thái Tú Hạp, dịch giả Ái Cầm sửng sốt báo tin cho Cao Mỵ Nhân tôi, chúng tôi và anh chị Duy Lam gắn bó thân tình từ hơn nửa thế kỷ nay, những ngày Trung tá Nguyễn Kim Tuấn và chúng tôi cùng phục vụ quân đội tại Quân Đoàn I / Quân Khu I .
Trung tá Nguyễn Kim Tuấn mãn phần ngày 4 – 2 – 2021, hưởng thọ 89 tuổi ( 1932 – 2021 ) .
Xin thắp nén hương lòng, tưởng nhớ về quá khứ xa xôi, cầu nguyện hương linh nhà văn Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn được sớm phiêu diêu miền vĩnh cửu vô cùng .
CAO MỴ NHÂN
Cầu Nguyện Thế Giới Hòa Bình Chúng Sinh An Lạc – Tác giả SƯƠNG LAM
Cầu Nguyện Thế Giới Hòa Bình Chúng Sinh An Lạc
Đây là bài số sáu trăm lẻ hai (602) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ Oregon Thời Báo, Portland, Oregon.
Cả tuần nay thế giới sôi động về tin tức quân đội Nga tấn công Ukraine khiến cho ai dù bận đến đâu cũng phải theo dõi tình hình chiến sự xảy ra ở Ukraine.
Chắc chắn rằng bạn và người viết đều cảm thấy đau lòng, thương xót khi nhìn hình ảnh thường dân Ukraine vô tội bồng bế nhau tìm được chạy thoát khỏi những nơi bị tấn công gần thủ đô Kiev, nhà cửa bị phá hoại bởi pháo kích, bị thương chết chóc vì bom đạn giống như hình ảnh người dân chạy lánh nạn ở Việt Nam trước năm 1975.
Ai cũng bất bình trước sự xâm lược của Nga vào lảnh thổ Ukraine nên đã có nhiều quốc gia phương Tây tuyên bố ủng hộ và giúp đỡ Ukraine với nhiều phương tiện: quân sự, vũ khí, tài chính v..v…. Tổng Thống Ukraine Zelensky và quân dân Ukraine đoàn kết bên nhau chống lại sự xâm lược bành trướng lãnh thổ của Putin, tổng thống Nga.
Bạn có thể theo dõi tin tức liên quan đến cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukraine qua internet, qua các phương tiện truyền thông, truyền hình, báo chí v…v….vì tin tức chiến sự này là tin tức thời sự nóng sốt nhất hiện tại.
Người viết là phụ nữ rất kém về phương diên bình luận các vấn đề thời sự nên không dám lạm bàn gì cả mà chỉ chú ý đến những tin tức liên quan đến phụ nữ nên xin mời bạn xem một youtube nói về phụ nữ Ukraine tham gia tình nguyện làm bom xăng chống lại sự xâm lược của Nga và mời đọc một bài thơ hay ca ngợi tinh thần chiến đấu bảo vệ tổ quốc của người dân Ukraine, kể cả phụ nữ.
· Mời xem Youtube “Ukraine: Phụ nữ tham gia tình nguyện làm bom xăng – BBC News Tiếng Việt” on YouTube
· Mời đọc “Bài Thơ Cho Ukraine” do ông Từ Đức Tháo, chủ tịch BCH/CĐVNOR chuyển chia sẻ với người viết.
Xin cám ơn ông Từ Đức Tháo về bài thơ đầy tình cảm yêu tổ quốc này
Bài Thơ cho Ukraine…..
Tôi viết cho em bài ca sĩ khí
Khi giặc xâm lăng đang giày xéo quê hương
Cả người mẫu hoa khôi cũng vác súng lên đường
Dù họ có thể ra nước ngoài mà hưởng nhung gấm lụa
Tôi viết cho em bài thơ ràn rụa
Giọt nước mắt bé thơ , giọt trên mả cha ông
Giọt từ pháo phòng không
Giọt xăng nồng đốt xe tăng kẻ cướp
Giọt khóc sự chia ly kẻ đi mãi không về
Tôi viết cho em bài thơ chữ thảm thê
Nhưng không thiếu bao trang hùng dũng liệt
Thà chết đi để quê hương bất diệt
Có cái còn : cho thế hệ mai sau
Không : trong nghẹn ngào nuốt đắng cay nô lệ
Như mấy chục năm qua làm một kẻ chư hầu
Không khoanh tay,không tím tái gục đầu
Không chết đói : lúc thanh trừng thuở trước.
Tôi viết cho em _ người con gái Ukraine yêu nước
Thà bỏ sự xa hoa trên sàn diễn ,phim trường
Để mang vào bộ chiến y thô xước
Tay cầm hoa thay bằng khẩu AK.
Giữ cõi bờ : giữ Non Nước thăng hoa
Sau lưng em: là tấm lòng thế giới
Em đừng nghĩ : họ xui em đi tới
Anh biết mà : em chẳng nghĩ thế đâu
Khi em thay váy lụa để cầm súng đi đầu
Là ước mong: được tự quyền tự quyết
Sự ấm no,an tâm người lấn lướt
Và chắc là : hạnh phúc thế hệ ngà
Tôi viết cho em người con gái Ukraine
Em đã sống như bao người anh dũng
( Bảo vệ quê hương : ai bảo là không đúng ?
Chỉ bọn vong nô bán cả dân tộc ta _ )
Tôi viết cho em người con gái Ukraine
Dù chữ nghĩa. Chưa đủ niềm khâm phục
Hãy chiến đấu! Cớ sao ta chịu nhục
Làm kẻ loại hai …trên đất nước liệt oanh .
KÍNH TẶNG DÂN UKRAINE NHƯ MỘT SỰ CẢM PHỤC VÀ XẺ CHIA .
(Nguồn: Bài thơ Ca Ngợi những Nữ Dân Quân Ukraine, tác giả Vô Danh – Không thấy đề tên tác giả)
Người viết là Phật tử nên thường nghĩ đến việc cầu nguyện Đức Quán Thế Âm Bồ Tát vì Ngài có hạnh nguyện cứu độ chúng sinh khi gặp hoạn nạn.
Tại các chùa đều có hình tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát với gương mặt và nụ cười từ bi đứng trên toà sen ban phước lành cho tất cả Phật tử đến viếng chùa.
Khi bị trọng bệnh, bị tai nạn nguy hiểm hay khi gặp phải những điều phiền muộn trong cuộc đời, đa số chúng ta thường niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát để cầu xin được cứu giúp.
Người viết chỉ là một cư sĩ nhỏ bé tầm thường nên chỉ có thể chia sẻ với quý thân hữu một vài nét quan trọng về đức Quán Thế Âm Bồ Tát mà thôi. Phần thuyết pháp về công hạnh của Ngài phải do các tăng sĩ phụ trách mới đủ uy lực thuyết giảng.
“Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian. Theo Phẩm Phổ môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, sở dĩ ngài mang tên gọi như vậy là do hạnh nguyện từ bi cứu khổ nạn, mỗi khi chúng sanh bị khổ ách, nguy cấp liền nhất tâm niệm danh hiệu của bồ tát, ngài liền quán xét âm thanh đó, lập tức cứu hộ thoát khỏi tai ách.
Trong Bát Nhã Tâm Kinh, vị Bồ-tát này mang tên là Quán Tự Tại dựa trên pháp môn tu tập của ngài. Khi quán chiếu thâm sâu vào chính mình, ngài nhận thấy năm uẩn không có tự tính và đều là giả tạm, ngộ ra được điều đó, ngài vượt thoát tất cả mọi khổ đau ách nạn.”
(Nguồn: trích trong Wikipedia)
Người viết cũng có thiết lập tại nhà một bàn thờ Phật và một bàn thờ Đức Quan Thế Âm để hằng đêm được đảnh lễ, chiêm ngưỡng nét từ bi hỷ xả của chư Phật, cầu nguyện cho thân nhân bạn bè quá vãng được siêu sinh TỊnh Độ, người còn sống được bình an, bệnh tật tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, làm được nhiều việc lành, tránh làm những điều ác và tất cả chúng sinh đều trọn thành Phật Đạo.
Người viết thường sưu tầm những hình ảnh đẹp về Đức Quán Thế Âm để thực hiện những youtube đẹp về Ngài và chia sẻ với bạn bè cùng nhau cầu nguyện Ngài cứu độ cho chúng sinh khi gặp tai nạn như trường hợp bị bệnh dịch Covid 19 và cầu nguyện cho thế giới được bình an vì chiến tranh như trường hợp Ukraine ngày nay.
Lòng từ bi cứu khổ cứu nạn chúng sinh của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thật đáng kính ngưỡng.
Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi- MCTN 602- ORTB 1029-312022)
Sương Lam
BÀI VIẾT “Đường Thi Khách” & THƠ: TƯỞNG NIỆM HAI BÀ TRƯNG – TAN CUỘC RƯỢU – Cao Mỵ Nhân
TƯỞNG NIỆM HAI BÀ TRƯNG. CAO MỴ NHÂN
Bốn mươi năm thủa đầu Công Nguyên
Tô Định nhà Đông Hán tập quyền
Áp bức Giao Châu, trăm họ Việt
Hai bà Trưng Trắc, Nhị vùng lên
Sáu lăm thành Lĩnh Ngoại trong tay
Trưng Trắc xưng vương tự thủa này
Đế phủ Mê Linh vang khắp cõi
Hán triều đưa thái thú qua thay
Quân đông Mã Viện đánh Cẩm Khê
Binh mã Trưng Vương chẳng não nề
Cố thủ nhưng rồi đành chiến tử
Lưu danh thiên cổ , sử Việt ghi
Ngã ba sông Đáy với Hồng Hà
Cổ mộ đền thờ liệt nữ xa
Mùng sáu tháng hai trên nguyệt lịch
Là ngày kỵ giỗ của Hai Bà …
CAO MỴ NHÂN
TAN CUỘC RƯỢU. CAO MỴ NHÂN
Say khướt trở về, vẫn đọc thơ
Em ơi, anh xé một vuông cờ
Biết ai chân chính mà than thở
Thương bạn hoang đàng vẫn mộng mơ
Men đắng thấm vào môi đã lịm
Hương nồng còn toả mắt trông ngơ
Người về từ chiến trường tan lửa
Tửu lượng bao nhiêu, ngó chửa mờ
Chén rượu hoàng hoa khiến mắt mờ
Nửa đời lưu lạc, tưởng ngu ngơ
Hoa vàng sắc cúc còn vương mộng
Mầu trắng cành lan xoá nhạt mơ
Trận mạc xong rồi im tiếng pháo
Sa trường sao vẫn thiếu vuông cờ
Em ơi, thắng bại chưa phân định
Dựng Khải Hoàn Môn giữa cõi thơ…
CAO MỴ NHÂN
ĐƯỜNG THI KHÁCH
Mấy lâu nay tôi có một thú vui đằm thắm, là thích lui tới các chiếu xướng hoạ thơ Đường Luật.
Bỗng ở giai đoạn này, khách Đường Thi từ quốc nội tới hải ngoại đông đảo chi lạ .
Đi đâu cũng thấy thất ngôn, bát cú, hay là bát cú, ngũ vận , nói nôm na theo cách hiểu của tôi, thì cứ nhìn bài thơ nào đếm được 8 câu, mỗi câu 7 chữ, tổng cộng 8 x7 = 56 chữ là xem như ” Đường thi ” đã.
Rồi bắt đầu đi vào chi tiết :
8 câu , mỗi câu 7 chữ, hay bài thơ đó chỉ vỏn vẹn có 56 chữ mà thôi, nên khi xử dụng 56 chữ này, cố gắng không dùng một chữ trên một lần .
Nghĩa là 56 chữ riêng biệt, tránh điệp từ ( xài lần 2 trở lên)
Sau đó bắt đầu đi vào vần .
Chỉ có 5 vần đồng âm thôi, vào cuối các câu : 1 2 4 6 8 ( bằng)
Còn cuối 3 câu : 3 5 7 không cần vần với nhau ( trắc )
8 câu ( 7 chữ ) mang nhiệm vụ khác nhau:
Câu 1 – Phá đề : Định nói về gì, trưng ý ra. Thí dụ : Cái nhà.
Câu 2- Thừa đề : Làm cho rõ nghĩa tựa bài . Thí dụ : nhà tranh
Hay vv khác .
Câu3 và câu 4 : Thực hay Trạng . Là cặp đối thứ nhứt
Tinh thần của bài thơ.
Câu 5 và câu 6 : Luận. Bàn thêm về tinh thần bài thơ đó.
Câu 7: Chuyển . Chuyển toàn bộ các câu trên, tức là tóm gọn
để chuẩn bị kết thúc bài thơ.
Câu 8: Kết . Tất nhiên là kết thúc bài thơ rồi. Do đó qua câu
này, tinh thần bài thơ được thể hiện rõ ràng .
Bạn đọc sẽ hiểu cái nhà diễn tả như thế nào, ở đâu,
có kỷ niệm gì vv… chẳng hạn.
Thủa còn ở bậc trung học, quả tình tôi không thích nên không chú tâm học hỏi thể loại thơ ” Đường luật ” . Một kỹ thuật thơ hết sức nguyên tắc , phải kiên trì ghê lắm mới chịu đựng được cái cách diễn tả làm sao cho :
1/ Nói ít, hiểu nhiều mà phải đúng mới được.
2/ Nhiệm vụ của những câu nêu trên phải được chú trọng .
3/ Cẩn thận từ ngữ, nếu không bay bướm được thì phải chân
phương, đọc lên hiểu ngay.
4/ Lời lời châu ngọc mà không cổ lỗ thì mới là… tao nhân,
mặc khách được .
Tới khi tôi từ trại tù cải tạo về, khoảng đầu thập niên 80 thế kỷ trước, tôi may mắn được quý nữ sĩ Hội thơ Quỳnh Dao chuyên xướng hoạ Đường Thi mời gia nhập hội trên.
Thoạt tôi còn ngại ngùng vì lý do quý nữ sĩ như cụ Hồng Thiên, Chi Viên, Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội vv…quý vị niên trưởng như cụ Cao Ngọc Anh tên tuổi đã đi vào văn học sử thế kỷ trước, tôi cứ tránh né.
Sau nữ sĩ Tuệ Mai nói : ” Cao Mỵ Nhân à, em nên gia nhập hội thơ Quỳnh Dao đi, trước nhất em được học hỏi loại thơ uyên bác này, bổ túc cho sinh hoạt thơ ca của em, thứ hai được gần gũi quý cụ phẩm chất đức hạnh, xa những phiền toái cám dỗ …”
Trong khi đó, tôi lại được Thi sĩ Điền Đăng đưa nhị vị thi lão danh tiếng trong văn học tiền chiến, là quý cụ Bàng Bá Lân và Bùi Khánh Đản, tới tận nhà khuyến khích gia nhập Đường Thi vì quý cụ cũng đã đọc thơ mới của tôi nhiều rồi .
Nhưng có một lẽ đơn giản nhất là: quý cụ nghe các nhà thơ trẻ bàn tán, tôi vốn là một sĩ quan Nữ quân nhân VNCH mới từ trại tù cải tạo về, hoá cho nên quý cụ cũng có chút ngạc nhiên, bảo rằng: ” Nữ sĩ mà dám làm thơ tự nhận là một khách kỷ nhân hồi “, phóng khoáng như nam nhi có đúng không?
Sự kiện đã khiến thi lão Quách Tấn, tác giả thâm Nho được mệnh danh là nét chấm phá cuối cùng, qua tác phẩm ” Mùa Cổ Điển ” đánh dấu giai đoạn :
Cụ Quách Tấn đã đi xe lửa từ Nha Trang vô Saigon năm 1982, vừa về nhà con cháu ở ngã ba Hàng Xanh Thị Nghè, đã bắt cháu trai chở honda qua khu nhà thờ Ba Chuông, để bất thần đến nhà chị gái tôi số 541/14 Huỳnh Văn Bánh ( Nguyễn Huỳnh Đức Phú Nhuận) coi thử ” Cao Mỵ Nhân phải thực là nữ sĩ, hay ông sĩ quan nào trong Quân Đội tự nhận ” .
Tới lúc thấy Cao Mỵ Nhân rồi, cụ Quách Tấn vẫn chưa tin cô đứng trước mặt cụ là ” Khách kỷ nhân hồi “, cụ chỉ tay mời tôi ngồi ( thay vì tôi phải mời cụ, vì cụ là quý khách từ xa tới chứ ) .
Cụ bảo tiếp:
Chắc chắn tui là ai cô biết rồi, mới làm quen tui chớ, nay tôi bỏ công đi từ Nha Trang vô đây, tui muốn xác thực một sự thật, tui không bị đám hậu sinh phỉnh gạt.
Cụ mở cà táp mang theo, rút ra xấp giấy trắng và cây viết bic, hất hàm nói tôi hãy viết lại một bài thơ, tất nhiên là Đường Luật ưng ý nhứt cho cụ xem .
Tôi buồn cười quá, tôi thưa rằng cụ quá thân với nữ sĩ Mộng Tuyết, phu nhân cụ Đông Hồ, thì tôi xin đưa cụ Quách Tấn lên Úc Viên thăm, như thế là rõ không ai dám ngộ nhận rồi.
Cụ nói : ” Không sao, cứ viết đi “.
Chao ôi, bình sinh không làm thơ cũng chẳng ai dám rỡn đùa quý cụ bô lão, nay mang tiếng làm thơ , mà làm thơ luật thất ngôn bát cú, tôi đâu dám khuynh loát các bậc cha chú mình, huống chi tôi là một phụ nữ .
Tôi bèn bình tĩnh chép lại bài thơ mới hoạ với nhà thơ Vĩnh Mạnh Thường Quân hôm trước ( một ngày vừa ráo mực) :
SAU CHẤN SONG
Đồng ca hay đối thoại trong lồng
Vẫn một tiêu đề : Vượt chấn song
Xanh thẳm mây trời cao quyến rũ
Vàng tươi đồng lúa rộng chờ mong
Nhạc buồn thao thức quyên thăm hỏi
Hoa muộn tàn phai nước ngóng trông
Kỷ niệm còn đây: khung cửa hẹp
Đôi chim thương nhớ một dòng sông
Phú Nhuận hè 1982
CAO MỴ NHÂN
Viết xong, chẳng những tôi trao cụ, mà còn tức cảnh, xin phép được trình bày bài thơ của mình luôn.
Cụ Quách Tấn gật đầu, phê: Toàn bộ bài thơ ” nhất khí ” , có phải cô, là tôi, muốn diễn tả cuộc sống trong tù qua hình ảnh đôi con chim trong lồng , chúng có hoà chung tiếng hót vẫn mục đích vượt thoát đó không ?
Tôi nín thinh, vì bấy giờ chế độ công an khu vực còn tản mác khắp xóm phường, tôi lặng lẽ thực sự buồn .
Song hình như cái điều cuối cùng cụ Quách Tấn muốn nói cho tôi hiểu ý cụ, lại chẳng nơi ngưỡng cửa Đường Thi , thay vì cụ đang hướng dẫn cho hằng loạt quý vị muốn chơi thơ Đường từ Nha Trang, Phú Yên ra tới Quảng Ngãi thủa ấy, đầu thập niên 80 thế kỷ trước, cụ khuyên tôi hãy bỏ thơ ĐƯỜNG đi, vì sẽ khổ vì nó lắm đó.
Tôi ngần ngừ chưa hiểu, cụ bảo rằng: Cụ Quách Tấn, người mộ thơ cổ điển, đã làm 2000( hai ngàn ) bài Đường Luật từ xưa tới nay (1982 ), cụ lựa chỉ lấy được 200 ( hai trăm ) bài thôi, song phút chót , cụ cảm thấy chỉ có 20 ( hai mươi ) bài cụ xài được, cụ trầm ngâm, cười tuy hoà nhã mà như khó hiểu .
Bản tính tôi hay đùa rỡn, tôi vui vẻ tiếp lời :
” Thưa cụ, cháu thấy, có lẽ theo ý cụ, thì trong 20 bài tận tuyển đó, chắc chỉ có 2 ( hai ) bài để gọi là ưng ý phải không ạ, và thưa cụ Quách Tấn , cháu muốn được phép thưa rằng chỉ còn 2 chữ ” ĐƯỜNG THI ” , một bức tranh vẽ ra nền văn hoá rất lý thú nhưng cũng rất cầu kỳ, phức tạp .
Cụ Quách Tấn ra xe honda nói cháu trai chở cụ về ngã ba Hàng Xanh hôm ấy , tôi thấy hình như là bức tượng Lý Đỗ tự đổ xuống công viên Hán Tự . Nhưng sao tôi vẫn dạo loanh quanh nơi khu vườn thanh âm bát ngát điệu vần đó…
CAO MỴ NHÂN
VĂN & THƠ: NGƯỜI ĐI – Cao Mỵ Nhân
Người Đi
Người đi là một tiếng nói vô cùng âm điệu của những nỗi lòng không diễn tả hết được sự hốt hoảng, âm thầm và đầy than thở, trách cứ.
Người đi, vâng, người đi đó đã mang theo một nửa hồn của người ở lại.
Người đi, một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ…
(Những giọt lệ – Hàn Mặc Tử)
Hai câu thơ trên đã trở thành ngôn ngữ của cộng đồng Việt Nam bất kể ở không gian, thời gian nào.
Tôi cũng là một trong những người khổ sở, quay quắt về hai chữ người đi, và còn kèm theo nỗi buồn bã của hai chữ cũng nặng nề niềm thương cảm xót xa không kém: kẻ ở.
Song hôm nay, tôi dành tất cả những suy tư, luyến tiếc cho hình ảnh người đi để không bị phân tung phân tán tan loãng âm hưởng người đi trong trạng thái nào, tức là trong hoàn cảnh nào chẳng hạn.
Trong lịch sử thi ca cận đại, hai chữ người đi hay đến nỗi không ai tưởng tượng, hình dung văn chương thêm cho bằng hình ảnh nơi bài Tống biệt hành của Thi sĩ Thâm Tâm.
Người đi, ừ nhỉ, người đi thực Mẹ thà coi như chiếc lá bay Chị thà coi như là hạt bụi Em thà coi như hơi rượu say
(Tống biệt hành – Thâm Tâm)
Đó có thể là người đi vì đại mộng, vì phiêu bồng, vì những cuộc lữ trình không hoàn toàn đóng khung trong tình cảm gần gụi giữa một người với một người.
Khác hẳn với người đi trong bài này, tôi muốn đề cập tới một người bị là kẻ ở: bị người đi lấy mất một nửa tâm hồn.
Cụ thể như một mảnh hồn bị xé ra, người đi mang theo một nửa rồi, khiến người ở lại là nhà thơ Hàn Mặc Tử, chỉ còn một nửa mảnh hồn đó thôi:
Họ đã xa rồi, không níu lại Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa Người đi, một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ…
(Những giọt lệ – Hàn Mặc Tử)
Như trên đã trình bày, âm hưởng hai chữ người đi thật tuyệt cùng. Nó có vẻ như là không nói hết được hoặc nói rất nhiều mà vẫn không đầy đủ, không đan cử được “tinh thần” của thực cảnh người đi.
Có lẽ với tôi thì chỉ có hai tình huống xảy ra để người ở lại không bị day dứt khổ đau, ấy là:
Người đi… không đi nữa, bỏ chuyến đi.
Hoặc kẻ ở quá chán ghét người nào đó, muốn họ phải đi đi cho rảnh mắt, cho rồi chẳng hạn.
Thi sĩ Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí, 1912 – 1941) chưa 30 tuổi đã gánh một nỗi khổ toàn thân, toàn thể…
Nỗi khổ của Hàn Mặc Tử có thể gọi là… đại nan y, vĩnh viễn không bao giờ dứt được ngoài cái chết.
Một nỗi chết đã do ông trời dọn sẵn cho nhà thơ gánh chịu, khiến nhìn đâu cũng chỉ thấy màu máu: từ mặt trăng đến mặt trời, cả một loài hoa vô tư là hoa phượng của học trò cũng nở trong sắc máu:
Bao giờ mặt nhật tan thành máu Và khối lòng tôi cứng tợ si…
Sao bông phượng nở trong màu huyết Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu…
(Hàn Mặc Tử)
Trong bối cảnh đau thương như vậy, những người đi từ thân thích tới quen biết đã đi rồi, Hàn Mặc Tử không níu lại được, dẫu lòng thương chưa đã, mến chưa bưa.
Vâng, “chưa bưa” là chưa đủ, chưa vừa với lòng mình vậy.
Để rồi nhà thơ mang bút hiệu họ Hàn lạnh lẽo kia phải thốt ra lời chua xót, nhưng thiết tha rằng người đi đó đã mang một nửa hồn của nhà thơ đi mất hút. Và khiến nửa hồn còn lại bỗng ngơ ngác dại khờ.
Tôi đọc được một câu của Edmond Haraucourt (1856 – 1941):
Partir c’est mourir un peu… (Edmond Haraucourt)
Hiểu là đi là chết trong lòng một ít (un peu).
Hoá ra cái sự ra đi của người Tây phương không nặng buồn như người Đông phương, nói trắng ra như nhà thơ Hàn Mặc Tử tưởng phải mất hẳn một nửa lẽ sống ở đời rồi.
Hôm nay, ngó thấy chiếc lá vàng bay sớm trước nhà, tôi chợt thương cảm nỗi xót xa sâu thẳm trong cuộc đời thi sĩ Hàn Mặc Tử.
Như khi tôi trở về Quy Nhơn, đứng trên Ghềnh Ráng (đúng ra phải gọi là Ghềnh Tráng: nơi những con rùa bò từ ven biển lên), trông xuống trại cùi Quy Hoà.
Chạnh nhớ nhà thơ Hàn Mặc Tử đã quay quắt, khổ sở về bệnh phong cùi của ông thời nửa đầu thế kỷ trước.
Hàng thông đứng bên đường heo hút, thốt reo vào lòng khách mộ điệu những bản tình thơ điên loạn, thảm thiết những tiếng gió lạnh buốt hồn câm.
Hàn Mặc Tử đã chết cùng niềm đau khắc khoải trong vòng tay thượng đế tối cao, tối đại từ vô cùng tới suốt cả tận cùng vô hạn mông lung, qua hình ảnh người đi vô tình vô cảm bỏ lại nhà thơ với “những giọt lệ ” não nùng…
Hawthorne, 1 – 10 – 2019 CAO MỴ NHÂN
NGƯỜI ĐI. CAO MỴ NHÂN
Quên rồi, chẳng nhớ gì đâu
Khói hương lại tưởng mây sầu bay qua
Không gian bát ngát là nhà
Tìm ai trong cõi ta bà nào đây
Người đi hương khói là mây
Chưa chào nhau đã chia tay mơ hồ
Trăm năm một thoáng hư vô
Bao nhiêu lời tụng ” Nam mô ” chập chờn
Người đi khói tản hương vờn
Chung quanh chúng gọi hồn đơn lạnh về
Quên rồi, tục luỵ lê thê
Từ đây bảng lảng não nề âm dương
Thôi nghe gió chuyển mười phương
Người đi lặng lẽ trên đường hoa bay
Mai sau xót với xa này
Lẫn trong mộng mị tháng ngày bâng khuâng…
CAO MỴ NHÂN
CHIỀU MÂY. CAO MỴ NHÂN
Chiều nay mây rất nhiều
Em thầm hỏi tình yêu
Có nhiều như mây nổi
Mang thương nhớ về theo
Bầu trời bỗng thấp hơn
Vì mây bay lượn vờn
Mây tìm ai mây hỡi
Anh hay nỗi cô đơn
Nỗi cô đơn của mình
Làm nhạt nhoà trang kinh
Khiến bài chú vô nghĩa
Chuông mõ bỗng điêu linh
Rồi mây cũng tan thôi
Nhưng, lạnh lẽo chỗ ngồi
Nghe từ xa vọng lại
Anh đã bỏ cuộc chơi …
CAO MỴ NHÂN
KHI HOA ĐÀM NỞ. CAO MỴ NHÂN
Bao giờ khói tản đồi mơ
Sương tan dưới lũng, cho thơ mộng về
Tình rồi cũng hết u mê
Gió tha phương cuốn lời thề lên cao
Bấy giờ trăng bỏ muôn sao
Cô đơn trôi giữa chiêm bao đất trời
Cây trường sinh suốt cuộc đời
Không hề rụng lá, hoa vời nguyệt tan
Thế rồi hồn lịm than van
Thoắt chơi vơi giữa hoang tàn mênh mông
Sô tang gói chặt phiêu bồng
Đưa chân tri kỷ, tiễn hồng nhan đi
Ôi chao tử biệt, sinh ly
Là thôi, trả lại từ bi cho người
Ma ma Phật Phật, nụ cười
Đoá ưu đàm nở trên môi muộn màng …
CAO MỴ NHÂN
VĂN: Thanh Thản – CAO MỴ NHÂN
Có những chuyện thật mà kể ra cứ tưởng trong tiểu thuyết kinh dị, hoặc tưởng tượng, chứ làm sao sự thể lại như vậy.
Mới cách đây một giờ, trời còn chút nắng chiều, tôi vừa nghe cú điện thoại từ Houston gọi về. Bà chị dâu bên chồng tôi tên tạm gọi Diệm Hồng, nói rất bình tĩnh là:
Thím có khoẻ không, phone cho thím để báo tin chị sẽ đi lúc một giờ đêm nay, mệt mỏi quá rồi…. Tôi nghe không hề có tiếng sụt sịt khóc cảm thương thân phận hay là oán trách gì ai.
Tại sao lại thế, chị còn khoẻ mạnh, tươi đẹp và mới ngoài bảy chục chút thôi mà?
Người báo tin sẽ chết thì bình thản, mà người nghe tin buồn thảm là tôi thì hốt hoảng, sợ hãi, tôi cứ hỏi dồn: Chị Hồng, chị Hồng, chị có đau ốm gì đâu, có chuyện gì vậy? Tại sao vậy?
Là vì người ta có thể biết trước thảm hoạ bi thiết khi bác sĩ hay bệnh viện nói cho gia đình hay, thí dụ bệnh nhân ung thư phổi này cao lắm là khoảng vài tháng nữa… đi tong chẳng hạn.
Nhưng có lẽ hiếm ai tự đi báo tin sẽ chết trong mấy giờ nữa. Song rõ ràng tôi mới nghe tức thì thôi. Chị Diệm Hồng thủ thỉ một cách ma quái, là chị thanh thản đi trước lúc 1:00 AM.
Chị nói bắt đầu nhỏ lời hơn: Chị có đau nhiều, mới ở hospital ra. Thôi, chị Hồng sẽ đi trong thanh thản, mệt quá rồi, chào em..
Thế là cái gì? Một mạng sống, một cuộc đời chấm dứt như vừa qua phiên chợ vậy sao?
Tôi vẫn chưa khóc, vì chưa biết hồi kết của đoạn phim chị Diệm Hồng vừa chiếu hàm thụ cho tôi coi. Lòng mông mênh quá, bấm điện thoại cả chục lần cho các số phone liên hệ tới nhà chị và bản thân chị, không có phản hồi.
Tôi kêu thử một cô em bên nhà chồng tôi, nhưng phone cũng chẳng được đáp ứng. Tôi đang cư ngụ ở Los Angeles, chị ở Houston, không thể chạy tới thăm chị được và càng không thể nhờ cảnh sát vì chị có nói chị bị bức tử hay là muốn tự chết đâu. Vả chăng chị có cả chục con trai, gái, dâu, rể, không kể hàng cháu nữa.
Thế thì cũng gọi là lạ đấy. Tôi lan man nghĩ về một hoàn cảnh tương tự qua cái ý chí, không phải sự chết mà sự muốn thay đổi sinh hoạt sống, hoặc giả muốn thử thời vận xem có như ý hơn không?
Đó là chuyện cắt tóc tới sát da đầu, hay nói văn hoa là xuống tóc, mà nói không cần giải thích là cạo trọc cái mái tóc, vốn như một điểm hẹn thề riêng tư với chính mình.
Còn gọi là hứa nguyện cho một nguyện ước sắp tới, có khi lại là đã đạt điều mong ước, cần giải lời ước thệ ban đầu.
Thí dụ nếu tôi đạt được ước nguyện sẽ ăn chay bao lâu, sẽ thí phát (nhưng không quy y).
Thủa còn ở Việt Nam, trong năm năm kể từ 1980 tới 1985, không phải mình tôi mà bạn bè chúng tôi đã chứng kiến nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp hai lần xuống tóc.
Lần thứ nhất có lẽ là chị đạt nguyện đã có tin tức của hai con trai chị ở Mỹ.
Lần thứ hai khi chị quyết định sắp xếp chuyện cho các con gái và cả cuộc sống riêng tư của chị nữa.
Thế nhưng ai hỏi, chị vẫn nói là trời Sài Gòn nóng quá, cắt tóc thật sát da đầu cho mát…
Mỗi lần rời nhà, chị vẫn có một tấm khăn hoa rất đẹp, rất trang nhã đội trên đầu, kể cả lúc tới các hội thơ ngâm nga, tới các chùa chiền, v.v..
Không phải thí phát để quy y của các tăng sinh, tăng sĩ, người dân miền Nam thường có những chú nguyện đơn giản như ăn chay có thời hạn hoặc vô thời hạn, tức là hy sinh cả những niềm vui ăn uống ngon lành, mặn mà, có thể giảm thiểu một số thực phẩm bổ dưỡng.
…đến xuống tóc để chú nguyện cũng là một trạng thái tâm thần trong cuộc sống. Vì hy sinh cả mái tóc, nếu là phụ nữ, thiếu nữ thì mất hẳn vẻ đẹp của một góc con người rồi còn gì. Cái răng cái tóc là góc con người (tục ngữ Việt Nam).
Thành ra, nghĩ lại con người mà Thượng đế sinh ra là sinh vật thượng đẳng số một trong danh sách sinh hoá của Ngài, Thượng đế, vạn vật muôn hình, muôn ảnh…
Sự sống với sự chết có những hỗ tương ràng buộc từng thế hệ nhân sinh xen kẽ nhau. Để sinh tồn mãi mãi nghĩa là cuộc đời không bao giờ chấm dứt, chỉ có chuyển hoá khác đi thôi.
Tuy nhiên vẫn có những lý giải thần học là đấng tối cao tối đại vẫn có thể xoá đi trong chớp mắt trái đất này, hiển nhiên nhất vẫn là nỗi chết của bất cứ con người nào… không tránh được, chỉ có sớm hay muộn thôi.
(viết trước ngày Halloween 2016) CAO MỴ NHÂN
VĂN: NHỚ ANH BA DƯƠNG HUỆ ANH- Tùy Bút HỒNG THỦY
NHỚ ANH BA DƯƠNG HUỆ ANH Tùy Bút HỒNG THỦY
Lẽ ra theo đúng phép tôi phải gọi Thi Sĩ lão thành DƯƠNG HUỆ ANH là bậc tiền bối, nhưng ông đã nhận tôi là cô em nhỏ và cho phép tôi gọi thân mật là anh BA. Tình anh em tôi bắt đầu khi cô em văn nghệ thân quí của tôi là VĂN THI SĨ PHƯƠNG HOA rủ rê tôi gia nhập VĂN THƠ LẠC VIỆT. Mới chân ướt chân ráo bước vào ngưỡng cửa VTLV đã được các đàn anh gửi MAIL chào đón. Trong số đó có một email vô cùng dễ thương của THI SĨ lão thành DƯƠNG HUỆ ANH. Ông gọi tôi là “bạn cố tri”, và kể ông biết tôi qua Báo CỎ THƠM từ lâu lắm, chỉ chưa có dịp chuyện trò thôi. Tôi thầm phục trí nhớ của ông, còn tôi thì quá tệ, cảm thấy tên ông rất quen thuộc mà chưa nhớ ra ông cũng có Thơ đăng trên CỎ THƠM từ lâu.
Ngay sau đó, tôi mời ông gia nhập VĂN BÚT VÙNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ (VBVĐBHK), Ông vui vẻ nhận lời ngay. Từ đó thỉnh thoảng anh em tôi nói chuyện qua điện thoại. Ông tâm sự làm thơ từ năm 1954. Tôi nói năm đó tôi chỉ là con bé con mới 13 tuổi và là năm phải rời bỏ miền BẮC thân yêu để di cư vào NAM. Biết tuổi tôi rồi, ông gọi tôi là cô em nhỏ. Trong VBVĐBHK có Thi sĩ LÃO MÃ SƠN lớn tuổi nhất, chúng tôi tôn ông là anh HAI. Người lớn tuổi thứ nhì sau Thi Sĩ LÃO MÃ SƠN là Thi SĨ DƯƠNG HUỆ ANH nên tôi xin phép tôn ông là anh BA cho thân mật, ông vui vẻ bằng lòng ngay. Từ đó trên DIỄN ĐÀN VBVĐBHK chúng tôi luôn gọi ông là anh BA DƯƠNG HUỆ ANH. Ông rất hiền hòa, dễ thương, hòa đồng, thân mật với em út. Dạo sau này ông không được khỏe, nhưng nguồn thơ vẫn lai láng và sáng tác vẫn rất dễ dàng nhanh chóng.
Lâu không thấy ông gửi Thơ để tôi giới thiệu lên DIỄN ĐÀN VBVĐBHK, đang định phôn thăm ông và nhắc nhở, Không ngờ ông bỏ đàn em ra đi quá nhanh, không một lời từ giã. Anh BA ơi, anh em mình còn hẹn sẽ gặp nhau khi dịch bệnh yên lành, em sẽ qua SAN JOSE dự họp mặt VTLV để anh em mình có dịp được gặp nhau. Vậy mà anh đã quên lời hẹn với em rồi. Cám ơn anh đã dành cho em gái nhỏ những tình cảm vô cùng quí giá. Bài thơ kỷ niệm anh đăng trong Tuyển tập VĂN BÚT VÙNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ anh đã ưu ái nhắc tới tên rất nhiều em út Văn Nghệ, trong số đó có em. Chúng em sẽ nhớ anh BA của chúng em mãi mãi.
Cầu xin anh thanh thản trên nước Trời. Tiếp tục vui với văn chương thơ phú bên những người thân yêu.
Sau đây xin mời quí vị thưởng thức bài thơ tràn đầy tình văn hữu quí hóa của ANH BA chúng tôi.
THEO AI…
Thơ Dương Huệ Anh
Thuở nào, ta khổ vì yêu,
Theo nàng áo tím,
lớp chiều…trường xa!
Rồi, người tú nữ kiêu sa,
Lên xe với bạn…bye, tà áo bay!
Để rồi ngơ ngẩn, theo mây.
Biển đông, xe cát, mộng xây…dã tràng!
Không còn gặp lại,bẽ bàng…
Còn chăng, kỷ niệm…ngàn trang thơ buồn!
Theo ai… tật xấu vẫn còn,
Lên trời( net) gặp…những thơ tròn, thơ vuông…
Truyện dài, truyện ngắn…ơi thương,
Người chưa thấy, muốn vấn vương, có kỳ?
Phương Hoa, Minh Thúy…bộn bề
Bao sân, đồ họa…cũng chì thật thôi!
Cung Lan, Hồng Thủy…yêu người,
Trước, sau gắn bó, lối ngoài tầm phương…
…Truyện thơ nhớ Nguyễn Thanh Dương,
Tiểu Thu, Dung Đỗ, Phan Lang,bao người…**
Kiều Mỹ Duyên, thạo việc đời,
Viết văn, làm báo… góp lời, dựng xây
Gặp nhau, trao đổi, có ngày…
** Những tên tiếp theo muốn kể…
Huynh LÃO MÃ SƠN,THÁI LAN, SAO KHUÊ,
MỸ NGA, DAO THANH L, KIM OANH LÊ,
Ý NGA, NGUYỄN KINH BẮC,
THANH KIM LÊ, TRẦN QUỐC BẢO,
PHAN KHÂM, NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG,
NGỌC AN, LÂN NGUYỄN,
KIM LOAN, LUÂN TÂM, THƯ KHANH,
NGUYỄN MINH NỮU, XUÂN TIÊN…
(9-1-2021) DƯƠNG HUỆ ANH
LÊ VĂN HẢI – 02-22-2022: NGÀY ĐẶC BIỆT – TẢN MẠN: Như Hoa Ấu Tím – THƠ LÊ TUẤN
Hôm nay: Thứ Ba, Ngày 22 Tháng 2 Năm 2022. Đây là ngày rất là đặc biệt!
-Phải đến 200 năm nữa, hay 1 ngàn năm nữa, mới có một ngày, có một dẫy số 2 như ngày hôm nay! Có nghĩa là đời bạn có may mắn lắm, cũng được thưởng thức, hưởng 1 lần, những giây phút “huyền diệu” như ngày hôm nay!
-Có tên là “Pallin drome” gọi là ngày “trước sau như một!” có viết xuôi ngược gì, cũng là 5 con số 2! 22/2/22.
–22222 nhiều người tin là con số “Thiên Thần!” ước gì trong ngày này, cũng đạt được!
-Người Trung Quốc thì tin tuyệt đối ngày hôm nay, họ gọi là “Ngày Đẹp Nhất Ngàn Năm!” Theo báo cáo từ thành phố Trùng Khánh cho biết: Hôm nay 22222, có con số nam nữ đăng ký Kết Hôn, làm Đám Cưới kỷ lục! nhiều nhất trong năm.
-Bạn có thầm ước gì trong ngày hôm nay không? 200 trăm năm mới có một ngày, như ngày hôm nay đó! 200 năm đã thấy mù mịt sương khói, nhiều người còn nói, phải chờ đến…nghìn năm!
Bỏ qua ngày hôm nay, Bạn phải chờ ít nhất vài chục kiếp sau!
BÀI VIẾT CỦA LÊ TUẤN:
Hôm nay là ngày đặc biệt nhất (vài trăm năm mới có một lần) đó là ngày 02-22-2022 ngày “Palindrome”, ngày trước sau như một rất hiếm thấy. Ngày Palindrome chỉ xảy ra khi người ta đọc con số thời gian dù theo chiều xuôi hay chiều ngược, con số đó vẫn không hề thay đổi, vẫn y nguyên như vậy. Trên các tờ tin tức quốc tế đã đưa tin về ngày hôm nay (22/02) như một ngày đặc biệt trong năm 2022. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong ngày này, lễ cưới thường được tổ chức nhiều hơn. Bởi theo quan niệm của nhiều người thì đây là một ngày vô cùng đặc biệt, rất dễ để nhớ và được xem là ngày đẹp. Các cặp đôi hy vọng họ sẽ gắn kết cùng nhau mãi mãi không đổi như ý nghĩa của ngày này, trước sau như một. Tôi xin gửi đến diễn đàn những vần thơ chia sẻ cùng quý vị Văn Thi Hữu xa gần cho phong phú thêm một diễn đàn hội tụ những thi nhân. Nếu được xin chia sẻ rộng rãi.Chúc vui và bình an
Lê Tuấn
hình minh hoạ
Vạt Nắng Xuân Tình
Vạt nắng vướng tà áo xuân
Theo em mất dấu, tần ngần hoa treo
Bóng con chim lạc bay vèo
Mùa xuân sao lại, buồn heo hắt buồn.
Thả rơi một tà áo buông
Bờ vai lưng hở, màu sương trắng mờ
Cho tôi ngồi đợi, đứng chờ
Mới hay em đã, buông tơ nghìn trùng.
Môi mềm, mắt ướt nhẹ rung
Lệ ngân ngấn ướt, ngập ngừng gọi tên
Mắt môi em gợi ưu phiền
Tôi còn phiêu bạt, qua miền lưu vong.
Bước chân, vàng lá rừng phong
Theo em lên đỉnh mây hồng đợi nhau
Tìm theo dấu vết ban đầu
Cỏ vàng phía trước, ngàn sau bụi mờ.
Tình còn tiếc mãi giấc mơ
Xuân về hoa nở, hững hờ vàng phai
Bài thơ thêm tiếng thở dài
Ngân lên tiếng nấc nhớ hoài cố nhân.
Đồi xuân cỏ lấp dấu chân
Xa kia nắm đất, mộ phần chia phôi
Lá hoa hướng ánh mặt trời
Để thương, để nhớ một đời có nhau.
Tiếng chim kêu đỉnh tình sầu
Câu ngân chất ngất, đậm sâu chân tình
Tôi về nhìn lại đời mình
Nhớ về em, một bóng hình thế thôi.
Lê Tuấn
Buồn Vu Vơ
Cuộc tình mây nước mênh mông
Gió buồn thổi những phiêu bồng trong mơ
Cuối đời đứng giữa bơ vơ
Ngắm qua biển rộng bến bờ xa nhau.
Một thời ly biệt qua mau
Đổi thay vận nước trước sau nghìn trùng
Biển xô sóng vỗ tận cùng
Đôi bờ bọt trắng ngượng ngùng hỏi thăm.
Lòng còn day dứt trăm năm
Đêm về sầu đối gương nằm nhớ quên
Xa xa tiếng gọi quen tên
Xót xa dòng lệ gửi miền quê xưa.
Lê Tuấn
hình mih hoạ
Thơ SayLoạng choạng thành sầu quên rồi lại nhớ Một khoảng trời xa, ngơ ngẩn biết yêu Gặp gỡ em trong khoảng tối mưa chiều Xin cạn chén sầu, cô liêu muốn khóc.
Quên và nhớ là hai điều nghịch lý Trời đất quay hay tâm trí ta say Uống chén rượu, quên và nhớ đêm nay Dáng em gầy, mảnh lụa cuốn gió bay.
Tình yêu đến, sao hồn ta cô độc Chút men say, loạng choạng bước lang thang Say tình yêu, men rượu sẽ hoang đàng Tìm dĩ vãng, tình hoá thành quên lãng.
Lê Tuấn
BÀI VIẾT CỦA NHƯ HOA ẤU TÍM
22-02-2022 – con số tuyệt đẹp trên dưới trái phải giống như chơi lò cò trên dưới bàn đạp: Palindrome Day! Từ điều này người ta tin rằng ngày này nên có đôi có cặp – đừng tưởng là đúng mà ngồi mộng mơ nghe quý bằng hữu – đọc thật to lên nhé – hai hai không hai hai không hai hai hai – loạn cả lên – theo cách bói cộng các số thì bằng 12 = 1 cộng hai =3 – úi trời bấm quẻ số ba này là bù trớt: – Một người đi với một người – một người đứng lặng buồn hiu đứng nhìn . . . hát to lên nghen!Theo cách bói trừ thì con số 0 to tướng – đôi cặp chỗ nào kia chứ – chỉ là khủng hoảng của con số thế thôi – đừng tin mà tìm nơi chốn tựa nương mà lầm chết, vì những lời bói toán đường mật mà trăm ngàn giọt lệ tuôn thành “biển mặn” cũng vì những điều bói toán mà trăm ngàn linh hồn biến thành những chấm li ti chớp chớp trên “bầu trời đêm” ngày em thắp sao trời . . . có yêu ngọt ngào tìm rồi chết bên nhau thật là hồn nhiên chi đó của cặp “Lê Uyên Phương” Mình vội vã viết đôi điều để khuyên quý bằng hữu Hoa Giáp – Thất thập cổ lai có nhờ nhàng duyên phận cảm thấy đơn côi đừng tin điều bói toán mà vội vàng tấp bờ tấp bụi mà khóc than không kịp đó, sáng ngày mình bấm quẻ giúp đời vì quá chừng tin nhắn gởi đến với ý là: nhanh với chứ vội vàng lên với chứ!” hôm nay là ngày hoàng đạo giờ hoàng thiên tiết hoàng tuyền phải kết bạn ngay sẽ trường sinh giai lão – Ối! Ông Bà Cha Mạ ơi! May mà mình biết bấm độn tra ra đằng sau con số đẹp đẽ này là tai ương khủng khiếp, khôn gần 70 năm bỗng vì một con số được cho là đẹp mà dại vài giây, không lâu đến vài giây đâu, chỉ một cái chớp mắt thôi là . . . tiêu tiêu tiêu dao miền đau khổ . . . tình trường!Lời cảnh báo này cũng dành cho các cháu còn “che chẻ” độ tuổi trung niên “tam thập nhi lập” – luôn cả “nhị thập tứ hiếu” nữa đó, ba mươi mà đọc được lời cảnh báo này chắc chắn là Việt Nam, thì đôi khi bị gia đình bè bạn chê “ế” – hai mươi thì vì bị cột vào tứ hiếu muốn vùng vẫy bẻ rào cũng rất dễ bị cuốn vào ba cái vụ hối thúc ngày đẹp lứa đôi!Thế nhá, vì phúc phần nhân loại mà gióng lời cảnh tỉnh, con số chỉ là con số chỉ có thật khi biết YÊU thôi nhé – khi nao rảnh rỗi mình sẽ bấm tiếp độn số về ba chữ này . . . .
Như Hoa Ấu Tím
KIỀU MỸ DUYÊN – SỰ THÀNH CÔNG CỦA NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN
THƠ: Hóa Thân – NGUYỄN VĂN LẬP
CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN
3:00 GIỜ SÁNG
*
Ba giờ sáng, nghe đêm buồn thủ thỉ
Như nằn nì em thức dậy làm thơ
Cả đại dương tối tăm, hồn bơ vơ
Giọng thì thào nỗi sầu tư óng chuốt
*
Đợi làm chi, u tình dài lướt thướt
Có hay không, anh vẫn ở trên đời
Đêm hoang liêu gió gọi thiết tha mời
Cô quạnh đến cho em hờn mộng mị
*
Ôi trái đất chưa vỡ đôi thế nhỉ
Dẫu nổ tung lời tuyệt vọng thánh thần
3:00 am sáng sao rụng đợi hoá thân
Em đã thức, suốt cuộc tình thiếu ngủ…
*
Hawthorne 20 – 2 – 2022
CAO MỴ NHÂN
KHÔNG CÒN ANH HỨNG CHỊU
*
Lời cãi vã sau cùng
Không còn anh hứng chịu
Em sỉ vả điên cuồng
Khiến anh buồn điêu đứng
*
Anh chưa thật yêu em
Mới lững lờ, ngại ngùng
Đợi thời gian tăng thêm
Tình sẽ đẹp lạ lùng
*
Tại sao không chan hoà
Khi cuộc tình sôi nổi
Anh thương em mù loà
Trong đắm say hẹn cuối
*
Anh thôi … đón mùa xuân
Cho em mừng năm mới
Anh chẳng đợi nghênh tân
Khép mi rồi, anh hỡi …
*
CAO MỴ NHÂN
LÚC TAN SƯƠNG. CAO MỴ NHÂN
*
Một thoáng sương bay lạc trước thềm
Giật mình, anh gõ cửa nhà em
Bầy ô hốt hoảng tìm cây đậu
Vạt cỏ mơ màng đợi nắng lên
Bốn mấy xuân xưa, e đã nản
Trăm năm tình cũ, vẫn chưa yên
Ngày đi, cuộc chiến còn dang dở
Đến hẹn, cơn sầu phá bóng đêm …
CAO MỴ NHÂN
NHƯNG. CAO MỴ NHÂN
Chữ nhưng đặt giữa chúng mình
Làm cho rối loạn cuộc tình mộng mơ
Để rồi không dám làm thơ
Nhưng em ra ngẩn vào ngơ buồn phiền
Hôm qua vừa tỏ nỗi niềm
Chữ nhưng đã nhắc nhở em xa rời
Cả không gian tím mây trời
Khói hoàng hôn cũng tím lời thiết tha
Chữ nhưng hiện giữa bao la
Tiếng anh gọi khẽ sơn hà chuyển giông
Ngoài nhà tuyết phủ mùa đông
Bão cuồng băng giá vào trong tâm hồn
Chữ nhưng nào khiến bồn chồn
Bởi từng hứa vội hay còn hẹn mau
Chữ nhưng để tránh lòng đau
Anh cười: nhưng vẫn có nhau kiếp này …
CAO MỴ NHÂN
CHƯA. CAO MỴ NHÂN
Thủa đó anh còn trẻ
Em chưa thể là già
Mới vừa mười mấy tuổi
Bây giờ thì đã …tra
Tối qua em ngủ sớm
Chưa đêm đã mê man
Thấy anh trong tiềm thức
Tuổi thiếu niên vội vàng
Tại sao không yêu nhỉ
Hay là chưa biết yêu
Đúng rồi, anh còn trẻ
Em lại đùa rỡn nhiều
Nửa trăm năm gặp lại
Ngắm nghía nét già nua
Hỏi anh người…cũ tới
Có thật tình yêu chưa
CAO MỴ NHÂN
KIỀU MỸ DUYÊN: VALENTINE, NGÀY CỦA TÌNH YÊU
VALENTINE, NGÀY CỦA TÌNH YÊU
KIỀU MỸ DUYÊN
VĂN: Một Quảng Đời Đã Qua – Nguyễn Phúc Vĩnh Đương
Một Quảng Đời Đã Qua
Nguyễn Phúc Vĩnh Đương
Sau khi đưa tờ giấy hẹn gặp Counselor cho người thư ký tại Văn phòng, tôi chọn một chỗ ngồi cuối dãy hành lang chờ đợi tên mình được gọi. Mấy hàng ghế đầu là một tốp sinh viên trẻ đang líu lo trò chuyện về việc chọn môn học cho mùa Fall này. Tôi nghĩ đến những môn mà tôi đã ghi danh để theo học không giống ai cả như lớp Máy lạnh xe hơi (Air Conditioning) lớp Chụp hình căn bản (Photo basic) lớp Pháp Văn căn bản (French 180). lớp ESL 1…Sở dĩ tôi chọn những môn học này đều không phải bỏ nhiều thì giờ để làm bài hoặc học bài, vì tôi phải còn đi làm để kiếm tiền nuôi gia đình nữa. Về môn tiếng Pháp thì tôi ghi cho có lớp, chứ trước kia tôi đã học chương trình Pháp và đã đậu bằng Trung học Pháp (Brevet) rồi. Dù cho học hết các lớp của môn này đối với tôi cũng không khó khăn gì. Còn môn Anh Văn thì tôi cũng đã từng đi dạy ở các Trung Tâm ở Sài gòn hơn mười mấy năm sau khi đi tù cải tạo về.
Tôi đang lo không biết ăn nói làm sao với Counselor đây khi cô ta hỏi “Major” của tôi trong việc chọn lựa môn học cho mùa Fall này. Tôi ghi danh học không phải để tiến thân hoặc lấy cấp bằng mà mục đích duy nhất là lấy tiền trợ cấp (Financial Aid).
Đang suy nghĩ miên man thì bà thư ký gọi tên, và chỉ tôi vào cái phòng trước bàn giấy của bà ta. Tôi gõ cửa bước vào, hơi mát của phòng máy lạnh làm tôi cảm thấy thoải mái dễ chịu. Counselor của tôi, cho đến lúc này, tôi mới biết là người Việt, vì trong giấy hẹn gặp Counselor, tôi chỉ biết rằng hôm nay, giờ này, tôi phải có mặt tại trường để gặp Ms.Vanessa.
Tôi chưa kịp chào cô ta thì cô ta đã làm cho tôi thật ngỡ ngàng khi đứng lên nói :
“ Chào thầy ! Thầy còn nhớ em không?”
Tôi cố hết sức để nhớ lại, nhưng thật sự tôi không còn nhớ nỗi nữa, chỉ thấy quen quen…
Sau những năm tháng trong các trại cải tạo, sau những ngày cơ cực, vật lộn với cuộc sống đã làm cho trí nhớ của tôi cùn đi, không còn được như xưa nữa. Có thể cô ta là một học sinh của tôi trước đây, mà học sinh trước hay sau 1975. Trước 75 trong thời gian dạy tại trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà lạt tôi cũng từng dạy nhiều trường tư như Trí Đức, Việt Anh, Văn Học, Quang Trung, còn sau khi đi tù cài tạo về, ngoài những trường công lập ở Sài gòn, tôi còn dạy cho các trung tâm Anh Văn của Hội Trí Thức Yêu Nước, của Trung Tâm Nghiên Cứu Dịch Thuật.
Học trò có thể nhớ thầy, nhưng thầy thì không thể nhớ hết học trò của mình trong suốt mấy chục năm đứng trên bục giảng với phấn trắng bảng đen.
Để đánh tan sư ngạc nhiên và bối rối của tôi, cô ta nói tiếp :
“Em là Vân Huyền học trò thầy ở lớp 12 trường Văn Học ở Đà lạt.”
Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tôi nghĩ rằng có thể nào cô học trò trước năm 75 đã một lần đi chơi với tổ hợp lâm sản và đã gặp tôi ở Nha Trang ngày nào, nay lại là Counselor của tôi ? Huyền đã khác xưa nhiều lắm, từ phong cách cho đến thể hình và cách ăn mặc, nên tôi không nhận ra, duy chỉ có đôi mắt đen, to và ươn ướt như hồi còn đi học.
-“Chắc thầy ngạc nhiên lắm khi gặp lại em ở đây. Chuyện còn dài em sẽ kể cho thầy nghe sau.”
Huyền nói tiếp :
-“Khi bà thư ký đưa giấy hẹn của thầy, em thấy tên thầy, em nghĩ không biết có phải là thầy hay không, cái tên hai chữ của thầy làm thế nào em quên được, cho nên em đã đi ra để nhận diện mà thầy không hay biết. Đúng là thầy ! Thầy già đi nhiều, không còn phong độ và đẹp trai như ngày xưa nữa.”
Tôi mỉm cười :
– “Già rồi ! mấy chục năm rồi còn gì !”
Huyền nói :
– “Thôi, bây giờ thầy và em ra ngoài này nói chuyện.”
Huyền dẫn tôi ra khỏi phòng, đến ngay bàn bà thư ký, giới thiệu với bà ta, tôi là thầy cũ của Huyền ở Việt Nam. Bà ta bắt tay chào hỏi tôi một cách thân mật, rồi Huyền và bà ta trao đổi với nhau một vài câu gì đó mà tôi không nghe rõ. Huyền đưa tôi ra một tiệm McDonald’s phía bên kia đường. Vừa đi Huyền vừa hỏi về đời sống của tôi hiện tại :
-“Thầy qua đây đã lâu chưa ? Hiện giờ thầy làm gì ? Em biết thầy đi học chỉ để lấy tiền ‘Financial Aid’ mà thôi. Ai qua đây, mới đầu cũng vậy hết. Thầy dạy Anh Văn mà lại ghi học ESL1”
Tôi tình thiệt nói với Huyền là tôi đang làm Assembler cho một hãng điện tử, cái nghề tay chân, không cần bằng cấp và tay nghề, mà phần đông những người mới qua làm để kiếm tiền trong những ngày đầu định cư tại Mỹ, trong khi chờ kiếm được một công việc khá hơn. Lương tiền không đủ để trả tiền thuê apartment nên tôi phải ghi danh đi học vào những giờ nghỉ hay buổi tối để được tiền Financial Aid.
Vào đến tiệm, Huyền chọn một cái bàn trong góc, mời tôi ngồi rồi đi ngay đến quầy hàng…
Những hoài niệm cũ ngày xưa phút chốc trở về…tràn ngập trong trí nhớ của tôi. Ngày đó, thời gian đó là những tháng năm nhàn nhã và đẹp nhất của tôi ở Đà lạt. Ngoài hai giờ dạy môn Luật và Kinh tế cho SVSQ trường VBQGVN mỗi ngày, thời gian còn lại chỉ đi uống cà phê, uống rượu, lang thang khu Hoà Bình. Đêm nào không ứng chiến hay trực lại đánh bài, xoa mạt chược…có khi thức trắng hai đêm liền. Để bớt rong chơi và kiếm thêm thu nhập một số Sĩ Quan Giáo Sư đã xin phép để được đi dạy thêm ở các trường tư thục. Huyền lúc đó là học sinh của tôi ở lớp 12 trường Văn Học, một trường tư nổi tiếng ở Đà lạt. Tôi còn nhớ rất rõ Huyền ngồi ở bàn cuối lớp. Huyền có đôi mắt đen, to và ươn ướt, lúc nào cũng như muốn khóc, ít nói và trầm buồn… Huyền không đẹp lắm nhưng nhờ có mái tóc dài nên có nét quyến rũ liêu trai.
Hằng ngày tôi đi dạy bằng chiếc xe jeep cũ mà tôi đã mua từ Nha Trang, nhưng đến năm 72 khi Hiệp Định Paris được ký kết, quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, vật giá bắt đầu gia tăng, nhất là nhiên liệu. Giá xăng lên vùn vụt, tôi không thể dùng xe đó để làm phương tiện di chuyển nữa. Khi một tổ hợp lâm sản có ý định thuê lại, tôi bằng lòng ngay. Hàng tháng họ trả tiền cho tôi sòng phẳng, ngoài ra họ thường rủ tôi đi ăn nhậu hoặc đi chơi xa trong những ngày cuối tuần hay những ngày nghỉ lễ.
Một buổi sáng Thứ Bảy, từ trường Võ Bị ra, tôi gặp Sơn, tổ trưởng tổ lâm sản, rủ tôi ra Nha Trang tắm biển, chiều Chủ Nhật về. Tôi nhận lời ngay, vì muốn thay đổi không khí và không muốn hai ngày nghỉ lại ngồi xoa mạt chược nữa.
Chiều hôm đó Sơn đến đón tôi tại khách sạn Thủy Tiên 2, cư xá giáo sư độc thân của trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam .
Chúng tôi đến Nha Trang sau 4 giờ lái xe. Sơn đã đặt sẵn phòng cho tôi ở khách sạn Grand Hotel nằm trên đường Trần Quí Cáp.
Tối hôm đó Sơn đã đẩy Huyền vào phòng tôi. Vừa nhận ra tôi Huyền biến sắc tôi thấy ngay sự bối rối và tình huống khó xử của Huyền, lanh trí tôi trấn an Huyền trước :
-“Em cũng quen anh Sơn à ? Em ra đây lúc nào vậy ?” Huyền như vớ được phao, lí nhí trả lời :
-“Em ra đây với mấy người bạn của anh Sơn vào buổi sáng.”…
Suốt đêm hôm đó Huyền đã thành thật kể cho tôi nghe hết những gì xảy ra cho Huyền trong những năm qua. Huyền cho tôi biết cha của Huyền cũng là một Sĩ Quan, xuất thân từ trường Bộ Binh Thủ Đức và đã hy sinh trong một cuộc giao tranh ác liệt khi Huyền mới 10 tuổi. Từ đó Huyền được bà Nội đem về nuôi dưỡng, để cho mẹ rảnh tay đi buôn bán kiếm sống qua ngày. Bốn năm sau, bà nội mất và mẹ của Huyền cũng tái giá với một thương gia người Hoa giàu có, Huyền lại về sống với mẹ. Người dượng ghẻ là một tay thu mua gạo ở các tỉnh miền Tây, ông ta xin cho mẹ Huyền một môn bài bán gạo ở chợ Bình Tây trong Chợ Lớn. Ông ta thường đi đây, đi đó, ít khi về nhà.
Huyền kể: “Năm em 16 tuổi, một hôm mẹ phải đi nhận gạo ở tỉnh, ông ta bất ngờ trở về nhà lúc nửa đêm và đã dùng vũ lực để cưỡng bức em…Ấn tượng đó trong đời em không bao giờ có thể quên được. Em đã nói hết cho mẹ em nghe, mẹ em sợ tai tiếng nên không làm lớn chuyện, cắn răng chịu đựng, âm thầm đau khổ. Đến bây giờ em mới thấm thía khi nghe những lời người ta thường ru con ngủ:
Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai
Con đói thì con ăn khoai
Đừng ở với dượng điếc tai láng giềng…
Sau đó mẹ em gửi em lên Đà lạt ở với người dì, không chồng con, bán rau quả ở chợ để tiếp tục đi học lớp 10. Hàng tháng mẹ gửi tiền ăn học cho em. Nhưng một năm sau đó, trong một cuộc gây lộn kịch liệt với ông dượng quý hóa kia, và cũng vì bệnh cao áp huyết, thêm buồn phiền về chuyện của em, mẹ em đã bị tai biến mạch máu não rồi mất sau hai ngày hôn mê ở bệnh viện.
Mẹ em mất không để lại gì, từ đó Dì em chỉ lo đủ cho em cơm ngày hai bữa, tiền học thì tháng có tháng không, nhiều lúc em phải tự xoay xở lấy. Lúc đó em đang theo học lớp 11, em tự nhủ là phải lấy cho bằng được bằng Tú Tài để đi tìm việc nuôi thân. Em tỏ ra bất cần đời, buông xuôi mọi thứ. Thỉnh thoảng em đi chơi xa với nhóm anh Sơn mà thôi…”
Tôi cũng kể cho Huyền nghe về cuộc đời cơ cực, trôi nổi và tự lập của tôi từ nhỏ để an ủi và thông cảm với Huyền. Tôi khuyên Huyền cố học để thi cho đậu, nếu gặp khó khăn trong vấn đề học hành hay tài chánh thì cho tôi biết, tôi sẽ giúp Huyền trong khả năng của tôi.
*****
Tuần lễ kế tiếp, vào lớp dạy, tôi không thấy Huyền đi học. Tôi muốn hỏi hai nữ sinh ngồi cạnh Huyền, nhưng ái ngại. Sau khi viết đề bài lên bảng cho học sinh làm, tôi mở sổ điểm danh và sổ điểm để xem Huyền không đi học giờ của tôi hay tất cả các môn khác nữa. Huyền đã nghỉ học 2 ngày rồi.
Chiều hôm đó, trong lúc lang thang trên khu phố Hòa Bình, tôi thấy Huyền từ dưới chợ đi lên. Gặp tôi quá bất ngờ Huyền không thể tránh được, miễn cưỡng gật đầu chào. Tôi nhìn thẳng mặt Huyền và hỏi ngay:
-“Tại sao em nghỉ học ? chỉ còn 2 tháng nữa thôi em sẽ phải thi rồi, không thể bỏ ngang xương như vậy được. Trong mọi hoàn cảnh chứng tỏ khả năng. Hãy quên đi mọi chuyện, để nghĩ đến tương lai. Lời khuyên cuối cùng của tôi đó.”
Huyền không dám nhìn thẳng mặt tôi, cúi đầu nói :
-“Mấy hôm nay dì của em bệnh, em phải ở nhà để giúp cho dì, ngày mai em sẽ đi học lại. Cám ơn thầy đã khuyên bảo em.” rồi xin phép đi.
Tôi biết Huyền nói dối vì chiều hôm qua tôi và một người bạn ghé sạp của dì Huyền mua một bắp sú để về xào trứng cho buổi ăn tối. Nhưng thôi, tôi biết Huyền đang bị khủng hoảng tinh thần, và mặc cảm vì người biết rõ chuyện thầm kín của Huyền chính là tôi. Hôm sau Huyền đi học lại, vào lớp Huyền cũng như tôi không còn được tự nhiên như trước. Tôi tránh nhìn Huyền và Huyền cũng vậy.
*****
Hai tuần sau kỳ thi Tú Tài, Huyền đã đến tìm tôi tại cư xá Thủy Tiên 2, báo cho tôi biết Huyền thi đậu và mời tôi đi ăn cơm tối. Thực sự tôi đã biết trước khi thầy Hiệu Trưởng lấy danh sách học sinh của trường thi đậu đem về, Huyền là một trong 3 học sinh của trường đậu hạng Bình thứ. Trường Văn Học có tỷ lệ đậu khá cao trong niên học này. Thầy Hiệu Trưởng có vẻ hài lòng, tỏ ra vui vẻ với giáo sư hơn các ngày thường.
Huyền và tôi đi bộ xuống Chic Shangai, một tiệm ăn khá thanh lịch, ngay dưới dốc cư xá, cạnh khu phố Hòa Bình. Trong bữa ăn, Huyền cho tôi biết ý định muốn về Sài gòn tìm việc làm, và nếu có phương tiện, thì sẽ học thêm Anh ngữ. Huyền còn nói nhiều về “Thủy Tiên 2” cư xá của những Sĩ Quan Giáo Sư Văn Hóa Vụ, đối diện Ký Túc Xá của nữ sinh viên Viện Đại Học Đà lạt. Tôi thật không ngờ Huyền biết tên của nhiều người bạn của tôi ở cùng khách sạn và cả tên ông bạn già của tôi nữa. Thường đã cùng tôi đi mua Lan mỗi buổi sáng do người thượng đem ra bán ở khu Hòa Bình). Không những Huyền biết tên mà còn biết cả biệt danh (nickname) của từng người nữa.
Huyền nói :
-“Em biết các bạn thường gọi thầy là ‘Râu hay Nhím’ có đúng không vậy? ” Tôi mỉm cười hỏi lại :
– “Sao em biết ?” Huyền không trả lời câu hỏi của tôi mà nói tiếp :
-“Em có con bạn nó mết thầy lắm, nó khen thầy đẹp trai. Nó thích nhất là khi thầy mặc bộ Jaspé, bộ quân phục dạo phố mùa Đông mà vào lớp dạy, những lúc đó trông thầy giống Robert Taylor trong phim La valse dans l’ombre (Điệu Vũ Trong Bóng Mờ). Hôm ấy trông Huyền vui vẻ và nói hơi nhiều…
Sau bữa cơm, trước khi từ giã Huyền, với những kinh nghiệm của riêng trong cuộc sống, tôi chân thành khuyên Huyền cố gắng quên đi những buồn phiền, những gì không tốt đẹp trong một quảng đời đã qua, để vươn lên. Tôi nói :
-“Không ai thương mình bằng chính mình. Trong mọi hoàn cảnh chứng tỏ khả năng. Cuộc đời là một chuỗi ngày tháng tìm kiếm hạnh phúc cho bản thân mình, trên con đường dài ấy có mấy ai chưa từng vấp ngã. Giá trị của con người không nằm trên sự vinh hiển thuận buồm xuôi gió, mà ở chỗ có vượt qua được những tai ương bất hạnh hay không. Nếu em muốn thành công , em sẽ thành công.” Huyền có vẻ bùi ngùi, trước khi về Huyền nắm chặt tay tôi. Rồi từ đó tôi không gặp lại Huyền nữa.
Cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, quân Bắc Việt đã chiếm hầu hết các tỉnh miền Trung, và khi nghe Đà Nẵng thất thủ, tôi và nhiều SVSQ đã khóc. Vận nước nổi trôi, cái ngày đau thương nhất của Miền Nam Việt Nam đã đến -ngày 30 tháng 4 năm 1975- Tôi cùng với hàng trăm ngàn Quân, Cán, Chính khác đã khăn gói vào trại tập trung.
Sau hơn 3 năm trong các trại cải tạo Trảng Lớn, Đồng Bang, Kà Tum, Bùi Gia Mập, Phước Long, tôi đã được thả. Về địa phương trình diện, chính quyền không cho tôi tạm trú mà chỉ định cho tôi vào một nông trường tận mãi Cà Mau. Hằng ngày phải ngâm mình trong các mương rạch để đốn cây đước đem về cất nhà cho cán bộ. Tôi quyết định trốn về Sài gòn, trong thâm tâm tôi nghĩ rằng nếu có bị bắt lại, đưa vào trại cải tạo một lần nữa vẫn còn dễ thở hơn ở đây.
Về Sài gòn tôi không dám về nhà vì sợ liên lụy đến gia đình bên vợ, tôi lang thang đi xin việc làm tại một tổ hợp đóng thùng gỗ của một tư nhân trong Chợ Lớn cùng với một người bạn dạy Võ Bị vừa mới ra trại, và anh đã chết một năm sau đó. Ban đêm, với một tấm vải nhựa, có khi tôi ngủ tại nhà ga xe lửa ở đường Phạm Ngũ Lão (khi nhà ga chưa dời qua Bình Triệu), khi thì ngủ dưới mái hiên của những tiệm buôn dọc theo đường Lê Lợi, khi thì về tá túc nhà bạn thân (Khoa Nhân Văn) ở Phú Nhuận. Thỉnh thoảng tôi đến đưa mấy đứa con của một người bạn cùng Khoa Luật và Lãnh Đạo (đã chết vì đói trong trại cải tạo ở miền Bắc) đi sở thú. Tôi đã sống như vậy trong hơn hai năm trời…
Cho mãi đến khi Thành Ủy ra quyết định những người có văn bằng Đại Học được ở lại thành phố, tôi ra trình diện và được chấp thuận cho tạm trú, sau hơn một giờ xét hỏi văn bằng, giấy tờ, hạch hỏi và đe dọa. Mấy ngày sau tôi ghi danh vào Hội “Trí Thức Yêu Nước” mà chúng tôi thường đùa khi thêm một chữ Ngoài sau chữ Nước, vì chính giáo sư Hội Trưởng Lê Văn Thới cũng đã vượt biên mà không lọt.
Tôi được cho theo học một lớp “Bồi Dưỡng Trí Thức” để được đi dạy lại.
Trong thời gian này tôi vừa đi học vừa đi bán rượu lậu để sinh sống. Ngày nào cũng vậy, tôi đi học với hai thùng rượu nếp than 40 lít sau xe đạp, học xong là “tranh thủ” đi bỏ mối ngay. Để được ra cổng bất cứ lúc nào tôi cũng phải “hối lộ” cho bảo vệ mỗi tuần một lít.
Chỉ còn 2 tháng nữa thì mãn khóa học, một người bạn của tôi cũng là giáo sư Văn Hóa Vụ vừa được ra trại đến thăm và rủ tôi vượt biên bằng đường bộ khi nghe người bạn cùng khoá với tôi là anh TĐH làm trưởng khoa Thể Chất của trường đi trót lọt. Không may tôi bị bắt và bị giam tại Campuchia. Hai tháng sau được đưa về khám Chí Hòa, tôi đã nghĩ tình trạng xấu nhất sẽ đến với tôi nên yên chí với số phận hẩm hiu của mình.
Trong khi đó, ở lớp học bồi dưỡng, một người bạn thân cùng học không những điểm danh‘có mặt’cho tôi hàng ngày,mà còn làm bài thi cuối khóa cho tôi nữa! (Tôi thành thật biết ơn bạn Trần Đình Ph, một Sĩ Quan Không Quân hiện cư ngụ tại San José, vì tình bạn đã làm công việc táo bạo này. (A friend in need is a friend indeed)
Tôi được bố trí dạy Anh Văn cho một trường Trung Học tại Quận 1, trong khi tôi còn đang nằm trong tù. May mắn thay, sáu tháng sau tôi được thả ra, có lẽ nhờ khai man lý lịch…
Cầm quyết định bổ nhiệm của Sở Giáo Dục, tôi đến trình diện trường để nhận nhiệm sở. Nhờ có 3 tháng nghỉ Hè nên tôi chỉ trễ một tháng. Tôi lấy lý do bị bệnh thương hàn phải nằm bệnh viện, để chứng minh tôi lấy mũ ra cho ông Hiệu Trưởng thấy cái đầu vừa mới mọc tóc của tôi (thật sự tôi đã bị cạo trọc khi ngồi tù)
Trong thời gian dạy ở trường công, lương giáo viên không đủ sống, tôi đầu quân vào Trung Tâm Nghiên Cứu Dịch Thuật và Hội Trí Thức Yêu Nước để dạy các lớp luyện dịch ở Hội, trường Cao Đẳng Sư Phạm. Nói về khả năng Anh ngữ, tôi không thể so sánh được với các anh trong Khoa Anh Văn của TVBQGVN như anh NVS, TVT, và các giáo sư khác, nhưng các lớp luyện dịch của tôi học viên rất đông. Sở dĩ được như vậy vì học viên của tôi đậu khá nhiều trong các kỳ thi tuyển vào Đại Học, nhờ tôi đã dùng giáo trình của Bộ Giáo Dục Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tôi đã giúp học viên dịch thật nhiều đề tài thời sự nóng bỏng, liên quan đến chính trị, kinh tế, các bài diễn văn, lời phát biểu của các Tổng Bí Thư. của ‘Bác Hồ’ đúng vào trọng điểm lúc bấy giờ, với lối dịch và dùng từ khá đặc biệt của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Như muốn dịch “Đảng Cộng Sản Việt Nam” thay vì “The Vietnamese Communist Party” thì phải dịch “The Communist Party of Viet Nam”. Theo họ nước ta là một nước lớn, không được dùng tên nước làm tỉnh tự (adjective). Như câu “Việt Nam là một nước nhỏ nằm bên bờ Thái Bình Dương” thì chữ NHỎ phải dịch “đất không rộng, người không đông” chứ không được dùng chữ NHỎ.
Một hôm, trong lớp luyện dịch 6 của tôi, khi học về “possessive case” dùng với “reciprocal pronouns” tôi đã viết một câu : “Những hoàn cảnh khắc nghiệt đã xô đẩy tôi vào tay người này đến tay người khác” lên bảng cho cả lớp dịch. Khi học viên đang chăm chú dịch, nhìn xuống lớp, tôi bắt gặp một đôi mắt nhìn tôi có vẻ trách móc, tôi nhận ra ngay chính là Huyền. Tôi đâu có ngờ gặp lại Huyền trong lớp của tôi 10 năm sau. Câu tôi cho học viên dịch không nhằm ám chỉ ai cả, và nếu biết có Huyền trong lớp thì tôi không bao giờ cho dịch một câu như vậy. Giờ giải lao, Huyền đến chào tôi nói chuyện, tôi xin lỗi Huyền vô tình đã khơi lại một quảng đời đã qua. Huyền cho tôi biết đã lấy chồng và đang làm việc cho một xí nghiệp nhà nước.
Chồng của Huyền là con của một thương gia giàu có trước kia. Gia đình chồng phần đông đều ở Mỹ. Vợ chồng Huyền đang chờ đi theo diện bảo lãnh, trong thời gian chờ đợi cả hai vợ chồng đi học thêm Anh Văn. Huyền đang theo học một lớp đàm thoại và một lớp luyện dịch tại đây. Đó là lần thứ hai tôi gặp lại Huyền và mãi cho đến ngày tôi được qua Mỹ theo diện HO gặp lại Huyền trong một bối cảnh khác. Huyền nay là Counselor của tôi…Ngày xưa Huyền được đẩy vào phòng tôi tại khách sạn, hôm nay tôi lại phải trình diện Huyền tại một văn phòng cố vấn của một trường Đại Học Mỹ. Tôi nhớ đến mấy câu trong bài thơ “Nghe Em Vào Đại Học”của Giang Nam :
Ngày xưa anh dạy em học chữ
Bây giờ anh về, em lại dạy chữ cho anh
Không phải bằng than đen vẽ gạch thềm đình
Không phải phập phồng giữa vòng đaigiặc
Trở lại bàn với hai khay thức ăn, Huyền nói :
-“Em order trứng và chả lụa cho thầy, nhưng tiệm Mỹ không có chả nên thế bằng bacon, thầy dùng tạm vậy. Em biết thầy hay ăn món này vì hồi ở Đà lạt, em biết đêm nào đánh bài ăn là sáng hôm sau thầy và các bạn thường ra quán chị Sáu, ở dưới bến xe uống cà phê và ăn món này.”
Tôi không hiểu sao mà Huyền biết được những chuyện như vậy. Trong buổi ăn sáng, Huyền nhắc lại những kỷ niệm ngày xưa ở Đà lạt, thành phố đối với Huyền có rất nhiều sầu, nhiều luyến thương, thành phố với buổi sáng, buổi chiều mây bay sương phủ. Huyền cho biết một tháng sau khi gặp lại tôi trong lớp luyện dịch, hai vợ chồng Huyền đã nhận được giấy đi Mỹ. Vì gia đình chồng tương đối khá nên cả hai đã được đi học lại. Huyền đã lấy văn bằng Master về Counseling, còn chồng là một kỹ sư điện tử, đang làm cho một hãng computer. Vợ chồng đã có hai con, một trai một gái.
Huyền nói :
-“Em luôn nhớ lời khuyên và sự khích lệ của thầy để thực hiện những gì em muốn. Sự quả cảm đã giúp em ngẩng đầu cao để đối diện khó khăn và bất hạnh.”
Huyền rút trong ví ra một danh thiếp đưa cho tôi và nói tiếp :
-“Đây là địa chỉ của em, khi nào rảnh mời thầy đến nhà cho biết, thầy cho em số phone của thầy luôn. Em sẽ tìm cho thầy một việc thích hợp với khả năng của thầy hơn”
Ăn xong Huyền đưa tôi đến bãi đậu xe của nhà trường, trước khi tôi vào xe, Huyền còn nhắc lại lời bài hát “Tạ Ơn Đời” của Phạm Duy : “…biết bao nhiêu lần gian dối, biết bao eo sèo nhân thế, đời vẫn ban cho ngọt bùi, thầy ạ !”
Tôi phụ theo :
-“Em nói đúng, nhưng điều đáng khâm phục nhất của đời người là biết vươn lên sau khi ngã”
Huyền mỉm cười, nhìn tôi, cảm thông và đồng tình với ý tưởng tôi vừa nói.
Một tuần sau Huyền gọi điện thoại hẹn tôi đến trường để đi xin việc với Huyền. Huyền đã xin được cho tôi làm “Teacher Aid” tại một trường Juvenile High School, trường quản chế những thanh thiếu niên phạm pháp (từ 12 đến 18 tuổi) của Tòa Án trên đường Yale ở thành phố Santa Ana.
Tôi đến để bà Hiệu Trưởng interview, lương $10.75 một giờ (gấp 2 lần lương của tôi lúc bấy giờ) và đầy đủ benefit. Sau hơn 30 phút khảo sát, bà Hiệu Trưởng nhận tôi ngay, nhất là khi bà ta biết tôi trước đây đã dạy lính ( SVSQ/TVBQGVN) Tôi cám ơn Huyền về sự quan tâm tìm việc cho tôi.
Ngay tuần sau đó tôi nhận lớp, thành thật mà nói tôi đã dạy một trường có kỷ cương như trường VBQGVN nay phải đứng trước một lũ học trò “đầu trộm, đuôi cướp” thì tôi không chịu nổi, nên sau khi lãnh cái paycheck đầu tiên cũng là lúc tôi đưa đơn xin nghỉ việc.
Một quảng đời đã đi qua, thành công hay thất bại đều do chính mình. Huyền cũng như tôi đều lấy câu của Dale Carnegie làm châm ngôn cho cuộc sống “Believe that you will succeed and you will”.
Nguyễn Phúc Vĩnh Đương (K.17)
(Cali mùa của Trời gửi tình cho Đất)
CAO MỴ NHÂN – ĐOẠN ĐƯỜNG MÒN
ĐOẠN ĐƯỜNG MÒN. CAO MỴ NHÂN
Cuộc sống phải thế nào mới có ý nghĩa ? Buổi đó tôi đi bộ một mình trên bờ sông Rạch Bắp, đoạn đường ngắn độ 1 Km thôi …chạy ngang yếu khu tam giác sắt , mà quý quan với quân lên đường, đều đã tới tham chiến, hành quân , hay nghe đồn thủa binh đao trước 30 – 4 – 1975.
Tôi phải dừng lại ở chỗ đợi đò, mà quen miệng dân quanh đó gọi là ” Bến đò “, để chờ đò ngang chở qua bên kia sông, vô địa phận Quận Củ Chi.
Cái đoạn đường 1 Km đó, trong 2 năm trời tôi thường tới lui thật vắng vẻ, nếu nói đúng ra là hoang vu dễ sợ .
Một bên là sông có viền cỏ dại, cao tới gần đầu người , một bên là cây rừng nhiệt đới, tức cây cối tự mọc lên vô tổ chức, chằng chịt vào nhau.
Lối mòn từ khá lâu năm, mới biến thành lối đi trơn bóng đất đỏ mầu hổ phách, không một sợi cỏ chằng qua …
Đó là đường trong,sát bờ sông …
Còn đường ngoài chạy song song với nó, đường trong, mặt trải nhựa cũng từ lâu rồi, nên lỗ chỗ ổ gà . Đường ngoài này có xe hơi cọc cạch, chỉ bộ máy bằng sắt thép, còn toàn bộ thùng xe bằng gỗ .
Xe chạy từ Bình Dương lên Rạch Bắp, một chuyến duy nhất trong ngày, nên ai có việc, hay không việc, hoặc rảnh việc, đều có thể chọn con đường nhỏ này tới bến qua sông …
Đoạn đường 1 cây số ấy, không gây cho bất cứ ai sự lo lắng, nỗi phiền buồn gì …
Ngoài những con cuốn chiếu rừng, mầu đen nhẫy , có độ dài khoảng 20 phân tây, chúng đủng đỉnh bò từ bìa rừng bên này…băng qua lối mòn, tới mép sông bên kia …thì không còn sinh vật nào khác nữa …
Thoạt đầu tôi sợ rắn rít lắm, kế tới sợ người ta, biết đâu mà lần, bất trắc là lẽ dĩ nhiên …
Nhưng sau chả thấy gì, chỉ có cái bóng mình in trên lối mòn đó, bâng khuâng, bơ vơ chi lạ …
Một cây bằng lăng trổ hoa mầu tím, sao tôi thấy lúc nào cũng như có hoa trên vòm lá thấp đó .
Đứng bên thân cây bằng lăng nhiều lần để đợi đò, tôi vẫn chưa trả lời được thế nào cuộc đời mới có ý nghĩa cho riêng mỗi con người .
Cũng chẳng tự hỏi mình là: Sẽ ở nơi buồn bã đó tới bao lâu mới rời hẳn đi …
Đoạn đường 1 Km ngây ngô, vô tư hay đã thực sự vô cảm với người đời …Nó, đoạn đường đau khổ, tuyệt vọng vì ai, vì đâu .
Nó thực sự vô tư, vô cảm trước hành trình tôi sắp bỏ về xa …tôi phải về sống dưới mái nhà ấm áp của tôi, chứ sao lại ở mãi trong ngôi nhà trên lưng chừng đồi với 7 người của 7 gia đình khác nhau, họ có là 7 chú lùn đâu mà tôi trở thành cô Bạch Tuyết .
Buổi đó là ngày cuối cùng tôi thấp thoáng trên đoạn đường 1Km, lối mòn kỷ niệm rồi …
Đứng ở Bến đò một lúc, ngó lại vạt đồi chênh vênh như cuộc đời của mình …mấy mái tranh buồn nhớ …người, đúng là một phần tâm trạng bài ” Quê Nghèo ” của Phạm Duy
Tôi đã thực sự sống như vậy 2 năm ở nông trường Tây Nam, Rạch Bắp, để trồng cây xuất khẩu ” Hạt Điều ” do chỉ định hậu cải tạo, không phải là nằm mơ…
Nếu có nằm mơ cũng chỉ là giấc mơ bình thường của những người nghèo khổ, bất lực, bế tắc bởi nỗi khó khăn của xã hội gọi là ” Xã hội Chủ nghĩa.”
Chiếc đò nhỏ tức xuồng ba lá cập Bến, bà lái đò cất giọng nói lớn vì nghĩ chỗ trống vắng loãng khí trời, tôi không nghe được chăng …
Tôi lầm lũi xuống chỗ đất lài, rồi lên đò …
Lại cũng chỉ có mình tôi qua đò …như trước đó mình tôi đi bộ trên lối mòn đoạn đường 1 Km .
Bà lái đò hỏi thăm: ” sao hôm nay cô đi một chắc dzậy , mấy người kia đâu rồi ? ” .
Tôi ngó mặt sông, nước đang dâng đầy, sóng gợn thầm thì như tiếng thở dài xót xa…
…Ồ , mấy người kia mắc công việc nông trường, tôi về thành phố để mua thức ăn cho họ.
Bà đò hỏi tiếp : chiều hay mai lên ?
Tôi định trả lời không bao giờ lên nữa, nhưng sợ bà đò hỏi tiếp, tôi nói : ” chưa biết ” .
Quả là tôi không lên Rạch Bắp nữa, cho tới bây giờ lại càng xem như chuyện dở hơi nếu tôi trở lại đoạn đường mòn 1 Km ấy .
Có lẽ ở trên đời , còn rất nhiều đoạn đường mòn, ngắn hay dài tuỳ theo nơi cư trú của mình, nhớ hay quên tuỳ theo nỗi buồn vui của mình…
Kể cả những con người dẫu có ở cạnh nhau, hay suốt kiếp chưa hề biết mặt nhau …vẫn phải chấp nhận sự chia tay vĩnh viễn …vì thời gian tưởng là dài thê thiết , có đâu ngờ chớp mắt đã trăm năm …
Qua sông rồi, là mênh mông bãi hố bom xếp lên nhau chồng chất, năm đó 1980, năm năm chưa đủ san bằng một nghịch cảnh bi thương của lịch sử …
Đi qua cánh đồng hố bom này, còn đầy bất trắc, nguy hiểm hơn đoạn đường mòn 1 Km trên bờ sông vừa mới đi qua …
Bởi vì, bom rơi, đạn bắn … từ hồi đó, lúc chiến tranh, chưa kịp nổ, hoặc giả nó không nổ nổi tại sao đó, ai đâu mà hỏi, ngoại trừ quý ông làm ra nó, xử dụng nó, bom đạn không đủ độ sát thế nhân chẳng hạn .
Bao nhiêu mộng mơ biến sạch, chỉ còn sự chết nếu sơ ý, hay tới hồi sui tận mạng, một ngòi nổ nào tự tháo gỡ , nổ tung lên …thế là xong, là hết …
Tôi không dám để cho tim thổn thức vì ai , vì đâu, những cánh chim bay soải cánh mịt mù sông nước …
Mà , mắt phải dán chặt vào con đường gập ghềnh trước mặt để kịp thời tránh né hiểm nguy…dù vẫn biết chiến tranh là vậy, tất cả đều bình thường, chỉ có một điều bất thường, không thường …đó là sự xếp đặt của Thượng Đế mà loài người phải biết …để cầu nguyện thôi…
Nhi Nữ mà yên cương rong ruổi, tỏ lộ gan vàng dạ sắt,
Anh Thư song gươm dáo xông pha, phô bày chí khí phi thường.
Sáu mươi ngả tiến quân, đánh tan tành giặc Hán,
Trăm nẻo đường vây kín, hãm thái thú họ Tô.
Trời PHONG CHÂU phất phới ngọn cờ tự chủ
Thành MÊ LINH rạng ngời nền bá nghiệp vương.
Ba năm GIAO CHÂU thịnh trị
Ngàn đời ÂU LẠC lưu phương.
Nào ngờ nước Nam chưa qua vận bể dâu
Giặc Hán chưa buông tham vọng
MÃ VIỆN vội vã lên đường.
Móng nền tự chủ còn non yếu
Khó ngăn bầy lang sói điên cuồng.
Tự cổ kim thịnh suy mấy độ
Trường đấu tranh thắng bại lẽ thường.
Tận trung với Nước, dòng SÔNG HÁT sóng gào, thương tiếc Anh Thư tuẩn tiết,
Hết dạ thương Dân, đất MÊ LINH rung chuyển, thấm ơn Liệt Nữ TRƯNG VƯƠNG.
Hơn một ngàn năm Ngài hằng linh hiển cứu Dân độ Nước,
Trải muôn vạn đời, toàn dân thành kính hương khói miếu đường.
Cột Đồng MÃ VIỆN tịch mịch, vùi sâu trong cát bụi,
Sóng xanh SÔNG HÁT uy linh, tỏa sáng khắp muôn phương.
Nước biếc non xanh phơi phới ân sâu nghĩa nặng,
Trời cao đất rộng lồng lộng uy đức Anh Hùng.
Chúng Con nay
Nhân ngày Thánh hóa
Dâng nén Tâm Hương
Hướng lòng tưởng niệm.
Ghi tạc Công Ơn
Cúi xin phù trợ
Cho Con Dân thoát đọa đày tan tác
Cho Đất Nước sớm Dân Chủ Phú Cường !
Uống nước nhớ nguồn
Nhân ngày Giỗ Thánh
Chúng con kính cẩn
Dâng tấc lòng thành.
THƯỢNG HƯỞNG !
********
(Võ Đại Tôn cúi đầu chấp bút)
ĐOẢN CA
CAO MỴ NHÂN
Mới ra giêng có nửa tháng, mà sao đất trời cũ như đã cuối năm. Mình ngồi sưởi nắng ở vườn sau, cái khuôn viên ” xơ xác điêu tàn vì ai ” của mình nó bỗng lạt phai như lâu lắm rồi không có ai chăm sóc cây cảnh.
Mình thèm một chuyến đi chơi xa, hay là xa nhà, xem thử lòng dạ thế nào …
Ô hay, có ai động tới lòng dạ mình đâu mà muốn xem thử chứ, vẫn mông mênh thanh bình, tĩnh lặng…
Chỉ có một cách viết thư hay làm thơ tình là thú vị nhất, với một tác giả chuyên dệt mộng đan mơ như mình .
Bèn bắt chước những bài thơ ngắn, đúng ra là những bài thơ nhỏ như người ta hay nói về thơ 3 câu của Nhật Bản, nào Hài cú hay Haiku, còn gọi Đoản ca tanku, số chữ và số câu ít thôi, nhưng phải đầy đủ ý nghĩa.
Viết ngay đề tài Lạt Phai cho dễ ” lý luận ” .
Ta sẽ lạt phai nhau
Như hoa rơi sân trước
Hay lá rụng vườn sau
Anh sẽ lạt phai em
Khi mùa xuân xa vắng
Em càng nhớ nhung thêm
Thơ sẽ lạt phai anh
Em đâu còn hiện diện
Cuộc tình đã mong manh
Tới đoạn này thì chắc chắn anh lắc đầu rồi, đầu năm mà viết những lời thơ ” gở”, làm thơ cũng như những câu chúc tụng đầu năm, mới …khá được.
Thí dụ : Chúc mừng năm mới, vạn sự tốt lành, thăng tiến mọi mặt … chẳng hạn .
Thì có gì đâu, thơ cũng có thể đổi trắng thay đen như lòng dạ con người vậy.
Vì thơ là những câu nói gọn, được trau truốt văn hoa để tránh huỵch toẹt, nôm na thôi.
Các nhà phê bình văn học, hay không cần ” nhà ” cho to chuyện, quý vị ” người ” nhặt cỏ cho vườn thơ sẽ bảo :
Chỉ cần tác động làm sao cho ” đi vào lòng người ” trong đó bao gồm cả ý lẫn lời .
Vậy tư tưởng ” lạt phai ” hinh thức đơn giản, đừng nặng phần trình diễn khuôn dáng bài thơ mang vẻ Haiku VN.
Trời sẽ lạt phai mây
Nắng không vương nơi hẹn
Trống rỗng một vòng tay
Tưởng thế là đủ rồi, kết thúc bài haiku tập toạng của tôi được rồi, bài thơ lấy bối cảnh nơi hẹn không có nhau nên nghĩ lạt phai, bài hoàn tất OK, dù phạm sai chính tả dùng ” lạt phai ” làm động từ gián tiếp, chứ chữ “sẽ” trợ động từ là chính, cũng đạt tầm xoàng, vui vẻ .
Song, như trên tôi đã trình bày, mới ra Tết, tôi cũng hơi cữ tiếng ” lạt phai “, cần chút mầu sắc đậm đà cho hên chứ.
Tất cả lạt phai thôi
Riêng trái tim vĩnh cửu
Tươi thắm mầu son bôi …
Bài đã 5 đoạn bình thường như các bài thơ đã thể hiện lâu nay, với mình chỉ 4,5 ” khổ thơ” tức đoạn, đã tạm thấy dài .
Bởi vì ngoại trừ danh tác “Đoạn Trường Tân Thanh ” của thi hào Nguyễn Du ra, gọi là dài nhất, mấy ngàn câu.
Kế tới ” Đoạn Trường Vô Thanh ” của Thi sĩ một thời là thiền sư, thủa trước 1975 .
Thì thời nay, hiện tại ở hải ngoại này, có một dật sĩ tên Võ Thạnh Văn, đã viết xong ấn bản ” Kinh Vô Thường ” với 10,000 câu ( mười ngàn câu ) lục bát bay bướm hết biết .
Tôi trộm nghĩ chắc chắn tôi chẳng bao giờ viết nổi 100 câu, chớ đừng nói tới 10 ngàn câu đến nỗi phải phân giai đoạn ra là: quyển thượng và quyển hạ.
Hay là 10 tập nhỏ gọi 10 tập Cát Bụi, mỗi tập 1000 câu ( một ngàn câu), chu choa mệt khẳm .
Biết mình không có sở trường vậy, tôi đành chấp nhận thực tế, tức là chỉ giới hạn mình viết trong phạm vi vừa đủ sức mình thôi.
Vả chăng, ” Đoạn Trường Tân Thanh ” cụ Nguyễn Du bày tỏ lập trường xã hội nhà Minh bên Tàu, để ám chỉ, gởi gấm tâm tư tình cảm cụ ” hoài Lê” trong đó.
Thi sĩ Phạm Thiên Thư với “Đoạn Trường Vô Thanh ” không phản bác tình trạng xã hội thời ông lớn lên, trưởng thành nơi đạo tràng Pháp Hoa Saigon.
Ý nhà thơ họ Phạm muốn chứng tỏ lớp hậu sinh sau cụ Nguyễn, vẫn có thể viết lục bát hàng ngàn câu.
Nội dung tập thơ nêu trên, cũng vẫn xài các nhân vật của cụ Nguyễn Du, nhưng biến diễn thành xã hội VN kiểu Bắc kỳ quốc : các vai nữ mặc váy lĩnh, áo tứ thân, khăn mỏ quạ …
Đặc biệt hàng thần Từ Hải không còn là một anh hùng thảo khấu nữa, mà trở thành thiền sư nông dân.
Cuối cùng, đang nơi cuộc sống này, ” Kinh Vô Thường ” của Võ Thạnh Văn lại vô hình, vô dạng, vô ngôn các nhân vật, chỉ có giọng nói mơ hồ của người dẫn truyện, tác giả độc thoại ngôn ngữ kinh, hoá cho nên khách viễn du cứ việc tán thưởng theo ý mình, khoảng khoát …
Trở lại tâm hồn lang bạt trong bát ngát không gian, tôi ngẫm nghĩ: e chỉ còn chút tình người lởn vởn, lan man giữa cát bụi mịt mờ…
Nhưng sao cái tình người ấy lại cứ còn vương vấn đó đây ?
Lý do cái tình người vô hình, vô dạng, vô thanh nhưng không khi nào vô cảm cả.
Không thể dùng vật dụng, vật chất nào đập vỡ nó được, nó, tình người cứ vĩnh cửu trong tâm tư…khiến chỉ còn cách cho nó phát ra ngôn ngữ, là các bộ môn văn học nghệ thuật, trong đó có thơ ngàn xưa, hôm nay và mãi mãi …
Ngày lễ tình nhân, tặng bó hồng Tấm lòng nghệ sĩ, những hoài mong Valentine ngọt ngào hương vị Gửi tặng riêng em, những mặn nồng.
Xao xuyến lòng em, ngọn gió đông Những ngày đầm ấm ở bên chồng Hoa hồng đỏ thắm, anh dâng tặng Ngày lễ tình nhân, tấm thiệp hồng.
Lê Tuấn Viết tặng bà xã của tôi trong ngày lễ tình yêu Happy Valentine 2022
Ngày Valentine
Valentine ngày tình nhân muôn thuở Đậm chữ yêu, anh viết tặng vần thơ Kết hoa đeo, thêu dệt nét ngây thơ Đem mộng ước, hồn anh đầy thương nhớ.
Gửi tặng em bó hồng của yêu thương Dù thời gian tàn úa cõi vô thường Thơ vẫn ướt như ngày xưa bỡ ngỡ Hơn ngàn lần, bản tình ca vấn vương.
Trăng ngả bóng, soi nghiêng đời hương phấn Đắm say yêu nhan sắc bóng giai nhân Ta yêu nhau dù xa vẫn thấy gần Và yêu mãi, thuỷ chung đến vạn lần.
Lê Tuấn
Chuyện Tình Thơ
( Thể Toán Sắc )
Cặp mắt nàng đen đẹp sáng ngời
Khăn quàng bốn sọc tím xinh ơi
Mười hôm ngắm thỏa dòng xanh nước
Một chuyến nhìn say dải ngọc trời
Biển bạc thuyền mơ ngàn sóng vỗ
Trăng vàng bến mộng nửa vầng lơi
Họa hồng anh tặng em năm cánh
Rượu đỏ hai ly tận hưởng đời
Minh Thuý Thành Nội
***
TÌNH CHUNG THUỶ
Ngày xưa, mười sáu,tóc đen ngời,
Háo hức,đôi lần ,mộng thắm ơi!
Ngàn ánh trăng vàng xao xuyến lả,
Muôn làn sóng bạc nhấp nhô lơi
Lá vàng buông thả…hàng trăm lối…
Niềm yêu son sắt, cả một đời.
Ráng đỏ chiều hôm hừng ngũ sắc,
Hồng mây lan tỏa bốn phương trời.
Thanh Hoà
TÔI KHÔNG CÓ VALENTINE.
Hôm nay, ngày mười bốn, Tháng Hai
Là ngày mừng lễ Valentine
Từng cặp tình nhân, quà biếu xén
Phận tôi cô lẻ chẳng có ai
Tiện nội đã ra người thiên cổ
Đời tôi không có Valentine.
14-2-2022.
Trần Công/Lão Mã Sơn
Valentine Tưởng Nhớ Vợ Hiền
Không có nến, và cũng không có hoa Không tấm thiệp hồng, và không sô cô la Chỉ có hình em trên bàn thờ hiển thánh Valentine, chúng ta cùng ngắm trăng sao.
Nghe kỷ niệm, dâng trào theo nỗi nhớ Hai tâm hồn, một góc nhỏ của vần thơ Em trên trời, nghe hồn anh trỗi dậy Hiền nội xa rồi, anh ở vậy trong mơ.
Valentine, em vẫn lộng lẫy như xưa Trong ảnh thờ, mắt em nhìn thương nhớ Vẫn nhìn anh, như tình yêu muôn thuở Tiếng yêu đầu, mang đậm nét ngây thơ.
Xa vắng lâu rồi, mặc năm tháng phai phôi Mấy mùa valentine, hạnh phúc lại đầy vơi Trong tim anh, tình yêu còn cháy rực Vị ngọt môi mềm, đánh thức cả hồn tôi.
Phá vỡ thành sấu, mượn rượu để say Quên nỗi nhớ, quên ngày Valentine Ngày tình nhân, những cuộc tình hiện hữu Chỉ riêng tôi, kỷ niệm vẫn đong đầy.
Lê Tuấn Bài thơ viết tặng Lão Mã Sơn Thuỷ chung bên vợ hiền
https://youtu.be/Gh6mXkJHiHw
https://youtu.be/okfQalfAqsI
HƯƠNG VỊ VALENTINE’ DAY
Em là giòng sông hay chiêm bao
Vuốt ve kỳ diệu làn da cỏ may
Neo bóng tà dương ảo giác huyền hoặc
trên đồi trăm năm
Ngất ngây giọt sữa u mê bềnh bồng sương khói
Chợt thấy em thoáng hiện
quấn chặt tháng ngày
mền mại kiêu sa, bước vào đời ta
thơm rừng nguyệt bạch
Cuồng nhiệt đốt cháy oan khiên
Đi tìm ý niệm hạnh phúc thông reo
Chắp cánh cho thơ ta như cánh dơi đeo bám
Nhảy nhót như chim trên môi em
Trốn vào tóc mây lả lơi
Quấn chặt miên man đêm mộng mị
Lấp lánh giòng suối tuyết sương
Giam ta trong nguồn mắt biếc
rủ rê sao rụng ngợp đường
phố cõng kỷ niệm thắp sáng giấc mơ
một gã điên nghêu ngao hát tình ca
vô nghĩa mà dễ thương
ngạo mạn sao ngây ngất
chết lịm hoàng hôn
liếm láp ngây thơ khờ dại
hái si mê cài quanh mi trốn tìm
Hơi hở chìm sâu đất trời tan vỡ
Ngọt hương cau bịn rịn đêm hoang
Ai bảo tình luôn chua cay ngọt
Nhưng ta chưa nếm đã ngà say
Cát bụi nhân gian trở thành dị nghĩa
Khi tình yêu từng phút giây lên ngôi
Nếu không có em
Con đường rêu biển mặn
Hồn ta thành cây khô
mục rữa
Cảm ơn đời rót cho ta ly rượu
Hương vị tình thiêu rụi vạn tinh cầu…
SA CHI LỆ
(thơ song ngữ) TRÁI TIM YÊU của NGỌC AN & THANH-THANH
Người Việt Cao Quý
“Sướng gì hơn sướng làm lành,
Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu”
Cuộc đời từ chiếc nôi đến ngôi mộ quá lắm cũng chỉ ba vạn sáu ngàn ngày, nhưng thường phải trải qua không biết bao nhiêu là biến cố. Ba mươi năm đầu là thời gian học hỏi để nên người. “Tam thập lập thân”, cũng là 30 năm sinh tử của cuộc đời, thành bại sau này đều bắt đầu từ những năm trưởng thành của cuộc sống. Những năm đầu, con người hấp thụ kinh nghiệm của nhân sinh hệ lụy. Tùy hoàn cảnh giáo dục gia đình và học đường mà mỗi người mang một bản sắc khác nhau, người thì nhân từ độ lượng, trọng nghĩa khinh tài, đáng là bậc trượng phu; kẻ thì lòng dạ hẹp hòi, tham tiền bỏ nghĩa, phản trắc, bội tín và phi nghĩa.
Giáo dục đã ảnh hưởng đến sự hình thành tâm tính và quan niệm của con người về cuộc sống. Con người tính bổn thiện nhưng thế thượng thường tình có thể bị tà ma, lợi lộc làm mờ ám lương tri. Do đó cổ nhân đã để lại những nguyên tắc luân lý lưu truyền từ đời này sang đời khác nhằm điều chỉnh thái độ và giúp con người cải tà, quy chánh.
Các nguyên tắc luân lý đó thường được bàn bạc qua văn chương và triết học. Triết lý văn nghệ của các truyện nôm như Phan Trần, Nhị Độ Mai … nêu cao khí phách của con người lý tưởng, đạo đức:
“Trời nào phụ kẻ trung trinh,
Dẫu vương nạn ấy, ắt dành phúc kia.
Danh thơm muôn kiếp còn ghi,
Để gương trong sạch, tạc bia với đời.
Gian tà đắc chí mấy hơi,
Mắt thần khôn dấu lưới tròi khôn dung.
Uy quyền một phút như không,
Xem bằng lứa đá, ví cùng đám mây.” (Nhị Độ Mai)
.
Đức tính truyền thống của con người cao qúy theo truyền thống của dân tộc Việt là con người có Trung, có Hiếu, có Tiết, có Nghĩa đúng theo ngũ thường Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín
“Ai ơi lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lánh dè thân sau.
Trai thời Trung, Hiếu làm đầu,
Gái thời Tiết, Hạnh là câu sửa mình.”
Nhưng giữ được cương thường đạo nghiã ở đời không phải là chuyện dễ vì lợi lộc, vinh hoa phú quý có thể mua chuộc lòng người. Ngày trước nói đến chữ Trung có nghiã “trung thần bất sự nhị quân”, làm tôi ngay không thờ hai Chúa, “trung trinh ái quốc một lòng vì dân vì nước”! Ngày nay là trung thành với lý tưởng tự chống loài quỷ đỏ, độc tài CS, dù rằng kẻ trung nghiã đôi khi gặp rủi ro, bị gian thần hãm hại hoặc không được trọng dụng hay bị phụ bạc.
“Từ ngày đi sứ đến Tây Kinh
Thấy việc Âu Châu phải giật mình,
Kêu gọi đồng bào mau thức tỉnh
Hết lòng năn nỉ chẳng ai tin!” (Nguyễn Trường Tộ)
Người trung nghĩa và kẻ phản tặc thường được vạch trần mỗi khi quốc gia lâm nạn. Sau khi quân Pháp đánh lấy Nam Kỳ năm 1862, Tôn Thọ Tường phản quốc ra hàng làm sai cho Pháp. Sĩ phu thời bấy giờ cương quyết chống đối hành vi bất trung của Tôn Thọ Tường. Tôn Thọ Tường làm 10 bài thơ liên hoàn nhan đề là “Tự Thuật”. Đứng đầu môn phái chủ trương “trung thần bất sự nhị quân” là Phan Văn Trị. Phan Văn Trị đã hoạ lại 10 bài thơ của Tôn Thọ Tường.
Sự xướng hoạ đã tạo nên cuộc bút chiến về “Chính và Tà” vào hạ bán thế kỷ 19. Đặc sắc là bài “Tôn Phu Nhân Quy Thục”
“Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn thu rạng kiếp gái Giang Đông,
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc,
Về Hán trau tria mảnh má hồng.
Son phấn đành cam dày gió bụi,
Đá vàng chi đễ thẹn non sông.
Ai về nhắn vói Chu Công Cảnh:
Thà mất lòng anh được bụng chồng!” (Tôn Thọ Tường)
Tôn Thọ Tường tự thú theo Pháp vì mình như người con gái bán gả cho người ta nên dù mất lòng với vua y cũng theo Pháp:
“Thà mất lòng anh được bụng chồng!”
Phan văn Trị hoạ lại, cho Tôn Thọ Tường không phải là người trung nghĩa vì trai ngay phải thờ chúa, gái mới thờ chồng:
“Cài trâm sửa áo vẹn chữ tòng,
Mặt ngã tròi chiều biệt cõi đông
Ngút tỏa đôi Ngô in sắc trắng,
Duyên về đất Thục đượm mầu hồng.
Hai vai tơ tóc trên trời đất,
Một gánh cương thường nặng núi sông.
Ánh hỡi Tôn Quyền anh có biết:
Trai ngay thờ chuá, gái thờ chồng!”
Phải chăng vì vinh hoa phú quý, chức cao quyền trọng mà Tôn Thọ Tường phải hoá kiếp thành một nhi nữ thường tình.!
Người Việt cao quý
phải là người hiếu thảo với cha mẹ
Hiếu tức là hành vi của người con tốt (hảo tử). Khi cha mẹ còn sống thì hết lòng vâng lời, phụng dưỡng cha mẹ; khi cha mẹ mất thì hết lòng thương nhớ. Đó là hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ. Kẻ bất hiếu là kẻ thờ ơ chểnh mảng với cha mẹ khi còn sống, lúc cha mẹ chết thì làm văn tế ruồi! Tục thờ kính Ông Bà Tổ Tiên thể hiện lòng hiếu thảo đối với thân sinh phụ mẫu. Đức Khổng Tử bảo rằng hiếu là “người con thờ đấng thân: Khi đấng thân còn sống thì phụng dưỡng cho phải lễ. Khi đấng thân mất thì tống táng cho phải lễ, khi cúng bái đấng thân thì tế cho phải lễ”. Điều quan trọng là khi thờ cha mẹ, nét mặt hoà vui, cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ không kể tháng kể ngày! Nếu nghĩ là có tiền cho cha mẹ vào nhà dưỡng lão và lơ là việc thăm viếng, phụng dưỡng cha mẹ thì chưa phải là có hiếu vì có tiền bạc nuôi ăn không có tình với cha mẹ thì chẳng khác nào nuôi gia súc!
Hán Văn Du ăn ở với mẹ rất là có hiếu, mỗi khi có lỗi mẹ thường đánh đòn. Một hôm Văn Du phải đòn, khóc mãi, mẹ thấy vậy hỏi: Mọi khi mẹ đánh con biết lỗi, con câm ngay, lần này sao con lại khóc dai thế? Bá Du thưa: Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ còn khoẻ mạnh. Lần này mẹ đánh con, con không đau mấy, con biết mẹ đã yếu, cho nên thương mẹ già yếu mà con khóc. Tình con thương mẹ như thế thật thấm thiết !
NHÂN- NGHĨA-L Ễ- TRÍ- TÍN
Người Việt Cao Quý là người trọng có NHÂN
Người nhân nghĩa khác kẻ tiểu nhân vì lúc nào cũng để tâm việc nhân vì cái tâm không tàn ác, không cường bạo phi lý. Nhân là thương yêu đồng loại, thương người như thể thương thân như lởi của Vua Trần Nhân Tông đối với thần dân. “Trẫm thương dân như thương con trẫm”. Lễ là xử thế hợp lý, lòng kính trọng con người, thánh hiền cư xử với người một cách kính trọng: không có giờ phút nào bỏ được lòng nhân hậu. “Thiên hạ nhất gia, toàn quốc nhất nhân”. Cả thiên hạ như một nhà, cả nước như người.
Người Việt cao quý là người trọng NGHĨA
Trong cuộc đời, con người phải có nghĩa khí với nhau thường được hiểu qua câu ơn nghiã người đồng liêu, với người trên kẻ dưới. C âu huynh đệ chi binh nói lên cái nghĩa khí một dạ, một lòng, quan quân như một. Làm việc nghĩa tức là làm phải, việc hữu ích chung, công bình ơn đức, con người sống vị nghiã dễ sinh tình mến phục. Nếu chỉ biết nhau trong lúc vô sự đến lúc nguy nan, bỏ bạn mà chạy, sống chết mặc bay thì là phi nghiã, bạc ác, bất nhân.
Cổ nhân nói rằng “Lễ nghiã liêm sỉ là bốn giường mối căn bản giữ vững quốc gia. Bốn giưòng vó ấy mà không căng lên được nghiã là vô lễ, vô nghiã, vô liêm, vô sỉ, thì quốc gia phải sụp đổ và diệt vong”. Khuất Nguyên cũng ca ngợi nghiã khí: “Một bên là quần chúng, một bên là bản thân, hai bên đều trọng cả. Nhưng nếu gặp trường hợp cần thì phải hy sinh bản thân để cứu giúp quần chúng”. Vị nghĩa quên mình, vị quốc vong thân. Con người sống trong một ngày, nghe được một điều phải, làm một việc nghiã thì không phải là sống thừa.” Celui qui a planté un arbre avant de mourir n’a pas vécu inutilement”.
Người Việt cao quý Là người có LỄ
Lễ là xử thế hợp lý với lòng kính trọng con người. Thánh hiền cư xử với người một cách kính trọng: không có giờ phút nào bỏ được lòng nhân hậu. Cả thiên hạ như một nhà, cả nước như người. Thánh Phao lồ cũng khuyên nhân loại “ Hãy kính tha nhân như thượng cấp của mình thì mọi sự sẽ được yên vui”.
Người Việt Cao quý là người trọng TRÍ
Người trí là người tự biết mình như triết gia Socrate nói: “Ngươi hãy tự biết ngươi” (Connais-toi toi-même). Con người phải biết mình, phải tự hiểu mình rồi mới có thể hiểu người, tri kỷ tức là biết mình vậy. Có biết mình mới tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có biết mình mới trọng tư cách của mình tức là tự trọng. Kẻ không tự trọng không phải là kẻ trí vì không hiểu và không trọng mình thì làm sao kẻ khác trọng mình được. Cho nên người Việt cao quý không những phải có nhân, có nghiã, có lễ mà còn phải có trí để biết mình và biết người, hanh động sáng suất. Đánh lưỡi baỷ lần trước khi nói “Il faut tourner la langue sept fois avant de parler”.
Người Việt cao quý là người trọng TÍN
Kẻ bất tín là kẻ gian tà. Ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản! Đã là gian tà thì không thể là kẻ yêu nước, thương nòi được. Trong sự giao tiếp hằng ngày giữa người và người chữ Tín đóng vai trò hết sức quan trọng. Hành động bội tín, làm mất lòng tin tưởng, thì sống cũng chỉ là sống thừa. Chữ tín được liệt rõ trong ngũ thường: Nhân, Nghiã, Lễ, Trí, Tín. Trong sự giao thiệp, sinh hoạt cộng đồng, đoàn thể, chính quyền, phải luôn luôn lấy chữ Tín làm chuẩn. Đức Khổng Tử bảo rằng “Nhân vô tín bất lập” nghiã là phàm làm người mà bất tín thì không còn ai tin cậy và vì vậy không thể đứng vững ở đời được. “Tín vi nhân chi bảo” nghiã là chữ Tín là bảo vật của nhân thế.
Người Việt cao quý là người trọng LIÊM SỈ
Liêm sỉ là căn bản đạo đức của văn võ bá quan. Vua, quan mà vô liêm sỉ thì thượng bất chính hạ tắc loạn. Kết cuộc thì quốc gia phải sụp đổ, dân tộc phải diệt vong. Nhưng thế nào là vô liêm, vô sỉ? Liêm là liêm khiết (integrity), là nền tảng của đạo làm người, là tính thanh liêm, phân minh, ngay thẳng, không lấy của bất nghiã. Người mà không có liêm thì cái gì cũng lấy hay làm việc bất nghiã, vơ vét cho đầy túi tham “Có ba trăm lạng việc này mới xong” (Kiều).
Sỉ là hổ thẹn (shame), tự mình lấy làm hổ thẹn. Người vô liêm sỉ thì việc gì cũng làm, là kẻ không biết hổ thẹn (shameless) không tôn trọng luân thường đạo lý.
Thầy Mạnh Tử nói rằng “nhân bất khả vô sì” nghiã là người mà không biết xấu hổ thì không phải là người. Có liêm sỉ là nền tảng của đạo làm người, Có liêm sỉ thì có hiếu, để, trung, tín, lễ, nghĩa. Vô liêm sỉ thì còn gì là luân thường đạo lý.
Người Việt cao quý là người CƯƠNG TRỰC
“Phú quỷ bất năng dâm, bần tiện bất năng di và uy vũ bất năng khuất”. Người cương trực là người trọng lẽ phải, vì lẽ phải có sức mạnh hơn mũi gươm. Người có lòng cương trực, ý chí như sắt đá, trí tuệ sáng như sao bắc đẩu, dù nguy cấp thế nào cũng không thay lòng đổi dạ. Người cương trực là người giữ được tiết tháo, bảo vệ công lý để đối phó vói bạo tặc, cường quyền. Biết bao chiến hữu dân, quân, cán, chính của VNCH đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, hoặc can trường bất khuất trong cảnh tù tội sau ngaỳ CS xâm lăng VNCH. Gương anh dũng đáng kính phục nầy đã được sử sách lưu truyền, thể hiện niềm tự haò, danh dự của dân, quân, cán, chính VNCH. Thái độ cương trực này là tấm gương sáng cho hậu thế soi chung.
Ngoài ra, tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh còn là đặc trưng của nhi nữ Việt Nam. Công tức là làm việc giỏi:
“Gái thì lo việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa”.,
Dung tức là sắc diện vui hoà, phục sức thanh lịch. “Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyến nhường màu da”
Ngôn là tiếng nói phải dịu dàng:
“Chim khôn hót tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.”
Hạnh là hạnh kiểm tốt, kể cả vấn đề thờ cha kính mẹ. “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Cái đẹp thì có hạn nhưng cái nết thì vô cùng, vẫn là câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian để ca ngợi đức tính đạo hạnh của người con gái. Thể hiện giá trị luân lý vượt thời gian và không gian.
Sở dĩ có câu:
“Đàn ông chớ đọc Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thúy Kiều”.
Là vì trong nền luân lý cổ truyền, hình ảnh Phan Sinh trong tác phẫm Phan Trần, đã bị uỷ mị hoá. Phan Sinh thất tình vì ngưòi yêu mà đâm ra nản chí, khóc lóc thảm thiết. Tác giả đã mô tả Phan Sinh khi nghe đến người yêu thì đã “hai hàng lã chã nhường mưa”, không phải là hình ảnh hào hùng, phí phách của người trai nước Việt cao quý.
Thuý Kiều, trong tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh”của Nguyễn Du, bán mình chuộc cha. Thúy Kiều đã “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, trong vòng giáo dựng gươm trần, kề lưng hùm sói, giữ thân tôi đòi” là hình ảnh luân lý suy đồi. Khi còn nhỏ không ở với cha mẹ, khi lấy chồng không ở với chồng,vi phạm luân lý tam tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Kiều đã “Giết chồng rồi lại lấy chồng, mặt nào còn đứng ở trong đời này”. Theo quan niệm cũ, người con gái không thể để cho “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”. Tuy nhiên, ngay nay vì quốc biến, gia đình tan nát, cũng có những trường hợp bất đắc dĩ xảy ra nên cũng được thông cảm qua chủ trương “chấp kinh nhưng cũng biết tòng quyền”.
Vậy thì nền luân lý cổ truyền thật là phong phú. Ngày nay, trên bước đường gió bụi của cuộc đời viễn xứ, dù áo rách nhưng phải giữ lấy lề. Người Việt cao quý vẫn là người hiếu đạo, trung nghiã, là người có nhân, có nghiã, có lễ, có trí, có tín, là người liêm sỉ, cương trực:
“Trai thì trung hiếu làm đầu,
Gái thì tiết hạnh là câu sửa mình.”
Truyện người tiết phụ đã là gương sáng truyền tụng trong Ngũ Đại sử: Vương Ngung đi làm quan chẳng may chết sớm. Vợ là Lý Thị trên đường đi nhận hài cốt của chồng, lỡ đường dẫn con vào một quán trọ bên đường xin trọ. Người chủ quán thấy đàn bà con nít có ý nghi ngờ không cho trọ. Người chủ quán nắm lấy tay Lý Thị dắt đuổi ra. Lý Thị ngửa mặt lên trời nức nở than rằng: “Ta làm đàn bà chẳng hay thủ tiết thờ chồng đến nỗi người ngoài cầm được cái tay này. Ta chẳng nỡ để vì một cánh tay mà bẩn lây cả thân ta”. Nói xong lập tức lấy dao thái thịt chặt phăng đứt ngay cánh tay! Xem thế thì tình nghiã vợ chồng cao quý biết dường nào!
Hiện nay các đức tính này cũng được nhắc nhở trong các bô luật luân lý nghề nghiệp (Professional Code of Ethics) dựa trên những ý niệm căn bản về cần, kiệm, liêm chính, nhân, nghiã, lễ, trí, tín. Những kẻ phi nhân, thất đức dù ở trong xã hội nào, vào thời nào chăng nữa thì cũng chỉ là kẻ xấu xa phá hoại nhân quần xã hội mà thôi.
Hoằng dương luân lý cổ truyền dân tộc tức là chuyển tải chủ trương đạo lý đến vói tha nhân về hình ảnh mẫu mực của “người Việt cao quý”. Cương thường đạo lý hướng dẫn hành vi của con người. Lúc thất thế, Nguyễn Công Trứ không trở thành đạo tặc cũng chỉ vì sợ nhục nhã gia phong:
“Mất việc toan trở nghề cơ tắc (1)
Tủi con nhà mà hổ mặt anh em.
Túng đường mong quyết chi cùng tư
E phép nước chưa nên gan sừng sỏ,
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ
Dường ngâm câu “lạc đạo vong bàn
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời,
Lại đọc chữ vi nhân bất phú.
Tất do thiên âu phận ấy là thường
Hữu kỳ đức ắt trời kia chẳng phụ…”
Vậng, sống đức hạnh thì trời không phụ lòng người. “Grace respects nature”. Người Việt mình ăn ở đức hạnh, hãnh diện với dòng giống Lạc Hồng. Chính lòng tự hào về nguồn gốc dân tộc mà chúng ta duy trì cuộc sống thanh đạm ở xứ người, dù thất cơ lỡ vận nhưng không trổ nghề cơ tắc vì sợ “Tủi con nhà mà hổ mặt với anh em”.
Tư tưỏng lên khuôn cho hành động. Dân tộc Việtchúng ta là một dân tộc tự trọng và hào hùng, niềm kiêu hãnh đó dù trải qua phong ba bão táp, vẫn lưu mãi trong tâm khảm mọi người, điều hướng hành động của chúng ta: hành động tốt của người Việt cao quý. Nhờ đó công đồngg được vui hoà, đoàn thể sinh hoạt được hanh thông.
Nền văn hoá cổ truyền của người da đen, da đỏ đã bị băng hoại vì người da trắng tiên phong đã lầm lẫn huỷ hoại văn hoá của hai nhóm thiểu số này khiến cho họ mất cả gia bảo, không còn gì để bám víu, để hãnh diện. Một số người bị lôi cuốn vào cuộc đời đầu đường xó chợ, “như thuyền không lái, như ngựa không cương”, sổng cũng không thể sống nên hồn, muốn chết không xong! Tai hoạ này kết quả không sao lường được, là một vấn xã hội trầm kha trong xã hội ngày nay của Hoa Kỳ ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo dục, an sinh xã hội, kinh tế, chính trị, tội phạm…
Tai họa nầy cũng đang hoành hành xã hội Viêt Nam, nền văn hoá hơn bốn ngàn năm văn hiến đang bị băng hoại vì chủ nghĩa Cộng Sản vô thần. Khôi phục, bảo tồn, phổ biến về quê hương những đặc nét luân lý của nền văn hóa cỗ truyền cũng là môt sứ mệnh trong công tác phục hung quốc tổ thân yêu của chúng ta.
Chúng ta đến Hoa kỳ vì tinh thần yêu chuộng tự do. Bảo toàn những đặc nét của gia bảo luân lý cổ truyền là nhiệm vụ thiêng liêng chung của chúng ta. Được như vậy, tập thể tỵ nạn Viêt Nam sẽ là tập thể gương mẫu, để xây dựng môt hậu phương vững mạnh, sẵn sàng hổ trợ đại nghiêp cứu quốc và kiến quốc.
“Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhụy vàng
Nhuỵ vàng, bồng trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Trần Xuân Thời
The Noble Vietnamese
Nothing brings more happiness than doing good deeds
All the rewards will be with you forever
Our life from cradle to death will not be longer than thirty-six thousand days (100 years), but it may encounter so many situations. The first thirty years is for us to learn how to be a decent person. “The thirty years that should help establish one’s career” are of crucial importance, for your achievements or failures are borne from the years you transformed into an adult. During the first years, man absorbs experiences of mankind. Based on the education one receives from family and school, one develops one’s own character and personality. Someone might become kind and generous, a noble gentleman, while another might be mean, greedy, treasonous, unfaithful, and immoral.
Education has an impact on the formation of personalities and outlooks on life. Man is good by nature; however, materialstic wealth can drive him toward blind greed and turn away his conscience. Ancient elders have left mankind moral principles from generation to generation to to guide man on the correct path, so that he can turn away from wrongful temptations and follow correct guidance.
Those principles of life have been discussed in literuature and philosophical works. Artistic morals from Vietnamese works such as Phan Trần, Nhị Độ Mai, glorified the noble features of a person who follows correct ideals and morals.
God will not fail the pure of heart
In distress you might find some time; but elsewhere you will reap rewards
Good reputation will last forever
Shining examples will be honored for generations and carved in stone for future generations to revere
The evil might feel a short moment of pride
But he cannot escape God’s eyes nor run away from His net
Earthly power lasts but a fleeting moment
Just like stone and fire, incomparable to noble clouds in the sky.
Traditional qualities expected in a noble Vietnamese are: loyalty, filial piety, and constancy, according to the five principles Kindness-Respect-Justice-Wisdom-Trustworthiness.
Listen up! Folks!
Forwarnings for the future and to help you protect yourself
Man must abide above all by loyalty and filial piety
Woman should rely on constancy and virtue to be a good person
However, it is not easy to follow the principles of life, as wealth and materialistic temptations can corrupt man. Previously, loyalty means to be loyal to your king. “A loyal subject will not serve two different kings”, “to be patriotic is to be loyal to the king, to be devoted to the people and the country”. Nowadays, loyalty means to be loyal to nationalistic ideals, to fight against the red communist evils, even though the loyal citizen might run into danger and be harmed by sycophants, or to be in disgrace and not allowed to serve the country.
During my voyage to the West, representing our king,
I was shocked by what I saw in Europe
Wake up! Our compatriots!
But I impored in vain and no one believed me. (Nguyễn Trường Tộ)
The loyal ones are usualy recognized and treasonists are usually revealed when the country is in danger. After the French conquered Southern Vietnam in 1862, Tôn Thọ Tường betrayed the country and served under the French. Vietnamese patriots were all against such unloyal act by Tôn thọ Tường. Tôn thọ Tường then wrote a series of ten poems entitled “Self Reflections”. The loyalist group who defended the motto “A loyal citizen does not serve two different kings” was headed by Phan văn Trị. Phan văn Trị then responded to Tôn thọ Tường’s ten poems.
The duel act of poetic composing and responding created a war between “Right” and “Wrong” in the late 19th century. Of particular note is the poem “Lady Tôn came to the Thục Dynasty”
On horseback, holding on to my sword, I fulfilled my loyaty to my husband
I followed the age-old reputation of the women from Giang Đông
Leaving the Ngô Dynasty, dearly missing my old parents
I reluctantly go to Hán as a dutiful wife
Beauty, makeup will be faded with dust
Stone and gold (things of enduring quality) are not of consequence and should not bring me shame for giving up my country
To my brother Chu Công Cẩn, please relay to him:
I’m sorry if I displeased you by pleasing my husband. (Tôn thọ Tường)
In this poem, Tôn thọ Tường admits he came to serve the French just like a dutiful woman who was was married off to her husband. She will have to be with him.
I’m sorry if I displeased you by pleasing my husband.
Phan văn Trị responded to that poem, pointing out that Tôn Thọ Tường is not a loyal person, because a man has to serve his king, and a woman her husband.
I straighten my dress and put the hair pin carefully on my hair to be a dutiful wife
The sun is setting, and I am leaving the East
White vapor covers the hills on the Ngô side
A pink shade shines from the Thục side
My duties are on my fragile shoulders
The burden of the correct principles to my country too
Brother Tôn, do you know
That a man’s duty is to serve his country, and a woman’s is to serve her husband
Did Tôn Thọ Tường come to serve the French for materislic wealth bestowed on him and for the high rank awarded him, and thus became like a woman?
The Noble Vietnamese
must show filial piety towards his parents
Filial piety is a compliant son’s act. When his parents are alive, he must obey them dedicatedly, support and honor them; when they passed away, long for them with all your heart. It’s the children’s filial piety towards their parents. The irresponsible ones are indifferent, neglect their duties when the parents are still alive and when they pass away , offer them funeral oration and invite just flies to enjoy offering feast.The custom to worship the Ancestors expressed our filial piety towards our dear parents. According to philosopher Confucius : filial duties : Children must venerate their parents : When they are alive, they must be honored and supported , it’s the right duty. When they pass away, the funerals must be organized decently; the celebration with religious rites must be dedicated accurately”. The prominant point is we have to be happy for the worship of our parents.
The parents must endure abundant troubles, and lots of worries to raise their children, but when it’s their turn to support the parents back, the children must not count days and nights! If you think you are rich enough to leave your parents in nursing homes, then being delinquent, not visiting them regularly, not taking care of them, it’s not filial piety, thinking that just spend money for their needs, it’s just like feeding animals!
Hán Văn Du was really a good child, fulfilling his filial piety towards his mother; when he was bad, received punishment with whip. One day, he was punished, but didn’t stop crying, his Mom asked him: You used to admit your fault, and stop sobbing; why today you keep crying? Bá Du replied politely: Normally when you striked, I felt pain, and I knew you’re still healthy. But this time, it wasn’t painful, then I know you become weaker, I’m anguish for your feebleness and cried. How deepened was the son’s love for his mother!
A person with benevolence and righteousness is differnet from a small-minded one because he always worries about kindness, his heart being not ruthless, not acting with absurd violence. Kindness is showing love to fellowmen, loving others like ourselves is King Trần Nhân Tông saying: ” I love my people as well as my own childen”.
Uprightness is to behave logically, respect human; wisemen always treat others with respect: never renounce large-heartedness. All people is like a family, all the nation is like ownself.
The Noble Vietnamese must respect DECORUM
During his life, a person must be righteous with one another, must express gratitude to his colleagues in government departments, with his superiors and inferiors . Being like brothers in the army shows the righteousness with one heart and mind, from the officer to the soldier. Being righteous means to act in the common sense, doing useful works for the public, fair gratefulness; a person living with decorum will win admiration and respect. If you just be frequent with others in normal unharmed situations, then run away when they are in need, “every man for himself” is an unrighteous , a ruthless, inhumane behaviour.
Wise men in the past said: “Wisdom, Decorum, Incorruptibility, Shameless are four basic rules of conduct to be followed for maintaining the nation to be safe. Those four rules if they are not tightened, if we don’t have wisdom, decorum, of we are corruptible, shameful, we don’t respect them, then the nation will be destroyed, the race had to perish.” Khuất Nguyên also praises Decorum: “One side is the people, the other side is one own self, both are equal importance. But in requisite situation, one must be ready for self-sacrifice to help and assist the public”. Forget own self for decorum, for the nation devote yourself. “The one who has planted a tree before dying didn’t live uselessly”.
The Noble Vietnamese must respect UPRIGHTNESS
” Uprightness is to behave logically, respect human. Wisemen always treat others with respect: never renounce large-heartedness. All people is like a family, all the nation is like ownself. Saint Paul also admonished human kind :” Respect others like your superior, then everything will be peace and happiness”.
The Noble Vietnamese must respect WISDOM.
A wise man is the one who knows himself, like the philosopher Socrate has said: “Know thyself” (Connais-toi toi-même). A person must know himself , must be self – understanding first, then after he can understand others. Know thyself, then you can self improve, manage household, govern the country, give peace in the world . Know thyself then you can respect your conduct: it’s self-respect. The one who doesn’t have self-respect is not a wise man because he doesn’t understand himself , not self -respect either, how can others respect him? That’s why The Noble Vietnamese , not only must have : Kindness, Decorum, Uprightness, but also must have Wisdom, in purpose to know himself and then others, then can act with intelligibility. “Turn your tongue seven times in your mouth before speaking”.
The Noble Vienamese must be FAITHFUL
The one who is dishonest is unfaithful, devilish. Owing his life to the Republic of Vietnam, but still venerates the Communist devil! Being a devilish person, he can’t be a patriotic, can’t love his race.
During everyday contact with one another, Honesty plays a foremost role. A life with a betrayal act, depriving the confidence, is a needless life. Honesty is listed clearly in five constant virtues: Kindness, Decorum, Uprightness, Wisdom, Faithfulness. In social relations, community ativities, organisations, government, Faithfulness is always considered as a criterion. Philosopher Confucius has told: Being a human, if a person is unfaithful, no one will trust him; then he will never be able to have a stable position in life. For that reason, Faithfulness is the Treasure of a human life in all over the world.
The Noble Vienamese must be INCORRUPTIBLE
Being Incorruptible is the basic of morals of all executives & officials in court retinue. If the emperor, officials are unscrupulous, the public will be rebels. The results are the nation will be destroyed, the race had to perish. But what does dishonest, perfidious means? Honesty is integrity, the base of human ethics, to be uncorrupted, definite, upright, not rapacious for disloyal possessions. The ones who are not honest will always take anything or act with disloyalty, snatching covetously all other belongings. “With three hundred taels, then it will be terminated” (Kiều).
Incorruption means shame, feeling disgraceful by ourselves. Unscrupulous individu will do everything, and is the one who is shameless, and doesn’t respect moral principles.
The philosopher Mạnh Tử said: If you are a human and you cannot be shameless, then you are not a human. Being incorruptible is the basic of the ethics to be human. If you are incorruptible, then you will have filial piety, benevolence, righteousness, wisdom, and propriety. If you are unscrupulous, you cannot think about moral principles.
The noble Vietnamesemust be HIGH-MINDED
A person with upright mind is the one who holds good sense in esteem, because good sense is stronger than the point of a sword. A person with upright mind has iron will, his intelligence brightens like the Great Bear, although in critical situations will not be fickle. A high-minded person is the one who can keep his decency, defending justice, dealing with tyrants, despotism. How many fighters, people, soldiers, officers in the government of Republic of VietNam have laid down their lives, fighting for national independence till their last exhalation, or fearless, undaunted in prison after the Communists agression to the Republic of VietNam. This example of great fortitude, worthy to be admired is passed by tradition in history, showing pride, honor of people, soldiers, officers in the Republic of VietNam government. This attitude of high-minded is a brightly light for the posterity to follow.
Besides, there are four virtues: Task, Countenance, Way to talk, Conduct, which are specific characteristics of Vietnamese female sex.
Task is the best way to work.
verses – not translated
Countenance is the cheerful appearance,elegant apparels.
verses – not translated
Speech,the way of talking must be graceful.
(POEM)-not translated
Conduct must be good behaviour one, including filial piety, to take reverent care of the parents. ” Goodness is better than beauty”. Beauty is restricted but good behaviour is unlimited, is still the proverb which is transmitted gloriously among the masses of the people to praise the moral virtue of the young woman. This concept is to express the moral value non-temporel and above space.
The reason of those verses:
” If you are a man, don’t imitate Phan
If you are a woman, don’t relate to Thuý Vân, Thúy Kiều“
Because in the traditional morality , the image of Phan Sinh in the writing Phan Trần, became a slobby character. Phan Sinh being lovesick became discouraged, weeping bitterly. The author described him, when talking about his lover, immediately “His tears streamed down endlessly”, is not a magnanimous, high-minded image of the noble Vietnamese hero.
Thúy Kiều, in the tale “A New Cry From a Broken Heart” (The Tale of Kiều) , author Nguyễn Du, has to sell herself to save her father. She has been ” Twice in brothels, twice beeing a servant, ….TRONG VÒNG GIÁO DỰNG GƯƠM TRẦN, KỀ LƯNG HÙM SÓI, GIỮ THÂN TÔI ĐÒI.” is a depraved moral image. During childhood, not living with the parents, being adult and married, not living with her husband, violating the three moral rules to follow:”Being at home, the woman must follow her father, when married must folow the husband, in case the husband pass away must follow the son”. Kiều has “Killed her husband, then remarried, how can she dared to continue to live “.In the past, a girl cannot ” Be guided by a ghost, nor leaded by devils, but searching sorrowfull paths tofollow”. However, in reason of the events of the country in the present, and miserable families, with reluctant circumstances, this concept still can be tolerated with the policy “observe the rules but still can be out of principles”.
Then the traditional morality is so abundant. In the present, with our days and nights of turmoils of the life far away from motherland , A clear fast is better than a dirty breakfast. Noble Vietnamese still has to be in filial piety, faithful, must be human, grateful, ethical behaviour, faculty of reasoning, trustful, conscientious, upright.
” Being pious, loyal and faithful are guidelines for men
And for women : chaste and virtuous”.
The story of the chaste wife was always a model example eulogized in Five Generations Stories: The King Ngung was a royal title,and unluckily, died soon. His wife Lý Thị on her way to receive her husband’s remains, didn’t arrive to the place yet, must stopped by a hotel to stay. The owner seeing that they are just woman and kid, was in doubt, didn’t want them to stay. He hold her hand to send them away. Lý Thị with her face upward, sobbing, lamented:” Me, being a woman, I want to keep chastity to worship my husband, but now a stranger has held this hand; I can’t bear that due to a hand all my body will be infected with impurity “. After saying those words, she grabbed a kitchen knife and cut off the hand immediatly! For that example, see how noble is the warmhearted love of husband and wife!
Nowadays those virtuous qualities are still reminded in the Professional Code of Ethics, based on the fundamental concepts about industrious and thrifty, honest, kindness, respect,justice, wisdom, trustworthiness. The ones who are inhuman, unrighteous in any society, any time will still be vicious persons to breakup the social human community.
Disseminating extensively traditional morality of the nation is the work to transfer the guideline of ethics to altruists about the examplary model of “The Noble Vietnamese”. The principles of life guide human atcs. Nguyễn Công Trứ, in his fallen time didn’t became worst person in society just to avoid shameful for family manners and attitude:
(POEM)– not translated
It is true: If we live with righteousness, God won’t let us down. . “Grace respects nature”. We, Vietnamese people always behave, act with vertue, and we are proud of our Lạc Hồng race. It’s the pride of the origin of our nation that we can maintain our frugal, pure and noble life in a foreign country, despite of being in a predicament and our luck is running out, we didn’t “show up” wrong jobs, being anxious of “guilty with the famiy and shameful with others”
Thoughts mold actions. Our Vietnamese people is a self-respectfull and heroic nation; this prideful sense, despite we suffered from stormy periods, will be forever in our deepest heart, will guide the direction of our acts : The good acts
of a Noble Vietnamese. Owing to that, the community can enjoy, and society activities can be proceeded smoothly.
The traditional culture of black, indian peoples were ruined because the white pioneers destroyed by mistake the cuture of those two minority groups causing the lost of their heirloom(inheritage), having nothing to cling on for life, to be proud of. Some were tempted to be in street life, “like an unsteered boat, a horse without bridle”, living an insignificant life, unable to stop it! This tragedy has unexpected results, and remains a chronic social problem in American society nowadays, influencing all educational activities, social security,economics, politics, crime..
This affliction is also raging in Vietnamese society, the culture of more than four thousand years of literature is being ruined by atheist Communism. To restore, conserve, diffuse special moral characteristics
of traditional culture to our country is also a mission of renaissance for our dear motherland
We come to America because of the love of Freedom spirit. Preserve intact particular charateristics of traditional moral (ethics) heirloom is our divine duty. As such, the Vietnamese refugee community will be an examplary model, to build a strong back- line, ready to support the great liability to save the nation and establish the nation.
(POEM)- not translated
&&&&&&&&&&&&&&
ORIGINAL: Trần Xuân Thời – Translation: Thúy M & TháiLan (Nữ Lan)
VĂN – Trước Tiệc Rượu – CAO MỴ NHÂN
Trước tiệc rượu
Đó là một hội thơ rất quy mô được ông bà nhà giáo tên tuổi Thanh Vân – Nguyễn Duy Nhường tổ chức tại biệt thự, sau đổi thành thư viện Minh Minh Thư Uyển, số V10 bis cư xá Bắc Hải, nay là đường Hương Giang, quận 10 Sài Gòn cũ, vào năm 1985.
Thường trên danh nghĩa một người giới thiệu, tôi hay đặt tên cho những buổi hội thơ sau này ở thành phố bị bạo quyền tước đoạt rồi áp đặt cho một cái tên mà hỏi trăm người như một đều ghét cay ghét đắng vì nó chẳng hay ho gì mà còn thêm mắc cỡ mỗi lần đi năm châu thế giới nói về thành Hồ.
Nên hôm đó tôi cứ giả vờ mán mường, giới thiệu với khách dự là buổi giới thiệu cuốn Truyện Nà Khê của nữ sĩ Như Hiên, phu nhân giáo sư Nguyễn Duy Nhường, vị học giả nguyên hiệu trưởng trường trung học Tương Lai, Nha Trang.
Học giả, giáo sư Thanh Vân – Nguyễn Duy Nhường ( 1919 – 2010 ) là tác giả một cuốn tự điển Hán Việt, thường làm thơ cổ điển, viết cuốn Nụ cười gừng mới xuất bản.
Năm 1985 đó, tại tư thất Minh Minh Thư Uyển nêu trên, giáo sư Thanh Vân đã mời khá đông khách thuộc giới văn học nghệ thuật, đặc biệt có mấy vị sĩ quan cấp tá QL VNCH mới từ trại tù cải tạo về.
Tôi chỉ đan cử số khách chính mà tôi còn nhớ: quý vị đại tá Lê Kim Ngô (Công binh ), đại tá Nguyễn Sùng (Quân nhu) và phu nhân, trung tá Phạm Xuân Ninh tức nhà thơ Hà Thượng Nhân, ông Khai Trí, v.v..
Phía văn nghệ sĩ tên tuổi như nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp, ca nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cùng đi với một người bạn được giới thiệu là dịch giả, nhà thơ Thái Bá Tân.
Phần khách cơ hữu vẫn là toàn bộ hội viên hội thơ nữ lưu Quỳnh Dao với quý nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, Vân Nương, Uyển Hương, Tôn Nữ Hỷ Khương, v.v. và nữ sĩ Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền, tức phu nhân của học giả giáo sư Thanh Vân Nguyễn Duy Nhường, cũng là tác giả cuốn Truyện Nà Khê sắp giới thiệu.
Nhưng bài này cũng không đi sâu vào chi tiết cuốn truyện Nà Khê, chủ yếu chỉ ghi lại chút Kỷ niệm đặc biệt về hai nhân vật tên tuổi đã quá cố: nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp và ca nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Hội hè đình đám nào cũng mở đầu bằng việc giới thiệu quý khách dự…
Hầu như xướng tên quý khách buổi Nà Khê hôm ấy rất O.K nếu không có sự lưu ý của đại tá VNCH Nguyễn Sùng.
Đại tá Nguyễn Sùng vốn tốt nghiệp cử nhân luật bên Pháp, về miền Nam đồng hoá vào chức vụ Hành chánh Tài chánh, sau chuyển làm chỉ huy trưởng Quân nhu QL VNCH.
Song tôi cứ đinh ninh ông cũng viết lách, vì là bạn của chủ nhân Minh Minh Thư Uyển, tôi giới thiệu:
Nhà thơ Nguyễn Sùng…
Tôi thấy ông lắc đầu, bèn đưa ra vài danh xưng khác nhưng ông vẫn lắc đầu.
Tôi chợt hiểu ra ông đang căm tức bọn quỷ phiệt đã khiến ông khổ sở trong tù cải tạo, bèn nghiêm trang giới thiệu:
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với quý vị, đại tá VNCH Nguyễn Sùng, mới từ trại tù cải tạo về.
Nguyễn tiên sinh cười gật đầu. Thế là ai nấy cười ồ lên. Chị Hồ Điệp cười tươi nhất vì thấy hội thơ hôm ấy phóng khoáng vô cùng.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẫn nụ cười cố hữu của ông là chan hoà riêng biệt, nhân diện rất vô tư, như trong đời ông chưa hề đau khổ, tức giận bao giờ.
Bấy giờ tôi mới để ý tới người khách ngồi bên cạnh nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ông ta mặc quần tây màu nâu cà phê sữa, áo sơ mi tay dài màu trắng, dáng hình hơi mập, lưng hơi còng hay tại ngồi chả biết, nhân diện ôn nhu. Ông ta luôn nhìn xuống nhưng thẳng thắn.
Tôi thực sự chưa biết ông là ai, bạn của Trịnh Công Sơn thì ai cũng biết rồi, mới cùng đi với nhau chứ.
Trịnh Công Sơn thấy tôi ngó ông bạn của nhạc sĩ, anh ta đỡ lời ngay: Thái Bá Tân .
Người bạn tên Thái Bá Tân của Trịnh Công Sơn hơi vui vẻ, kín đáo, gật đầu chào mọi người.
Tất cả khoảng 40 khách dự ngồi trên những chiếc chiếu trải kín sàn phòng khách lớn trên lầu ba biệt thự Minh Minh Thư Uyển đó.
Ở Việt Nam, sau cuộc đổi đời đi xuống hầu như chiếu được sử dụng thay cho bàn ghế rắc rối. Bất cứ ở khuôn viên nào cũng xài chiếu mời khách quần tam, tụ ngũ, nên mọi chuyện trở thành thói quen, rất tự nhiên và còn có vẻ thân mật nữa.
Tất nhiên xướng ngôn viên, ca nhạc sĩ cũng ngồi trình bầy mặc dầu có hay không có micro.
Hội thơ trên những chiếc chiếu trải xít nhau nhưng vẫn giữ được vẻ lịch sự riêng và cũng là một tính chất đặc biệt chỉ xảy ra sau ngày Bên cướp cuộc hiện diện ở miền Nam.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã ôm cây ghi ta sẵn sàng cất tiếng hát trong phong cách một nhạc sĩ trẻ dù đã 46 tuổi, quần jeans, áo sơ mi kẻ sọc xám trắng, lúc nào cũng giữ nụ cười lạc quan.
Nhưng tôi vẫn phải điều hành theo thủ tục một buổi lễ hội bình thường, là vẫn có những mục, tiết tấu để đưa quý vị thi khách nêu trên vào nội dung buổi giới thiệu Truyện Nà Khê của tác giả Như Hiên.
Đó là đọc và tóm tắt câu chuyện của một gia đình người Tày ở thượng du Bắc Việt trước 1954.
Rồi mời khách dự góp ý, thật ra là sự bày tỏ riêng tư về tác giả cùng gia đình chủ nhân Thư Uyển nhiều hơn, sách được trình bày qua loa.
Tất nhiên tôi không quên mời ông bạn Trịnh Công Sơn là Thái Bá Tân cho ý kiến.
Không ngờ tôi mời tịch xướng, Thái Bá Tân hơi giật mình, Trịnh Công Sơn đỡ lời ngay rằng anh Thái Bá Tân chỉ chuyên phê về lãnh vực nghệ thuật. Tức là việc phê phán tác phẩm Nà Khê của nhà văn Như Hiên không thuộc việc của ông ta.
Thực ra, ra mắt sách kiểu bỏ túi ở Việt Nam sau 1975 nơi các nhà quen chế độ cũ chỉ là chuyện thứ yếu, còn chính là họp nhau ăn uống một chút cho vui, hát hò ngâm vịnh lai rai, cho đời bớt ưu tư thời thế thôi…
Năm 1985 chính là năm ông Nguyễn Văn Linh lên đài tuyên bố chính sách Đổi mới.
Các tụ điểm ca nhạc ngoài phố đã bắt đầu hát mấy bài tiền chiến, đôi khi mấy bài mang âm hưởng gió mưa thời thế cũng được thấp thoáng vang đưa từ các ngõ hẻm…
Tôi phải giới thiệu xen kẽ hai tiết mục thơ và nhạc do chỉ hai nhân vật tên tuổi trước 1975 ở miền Nam là ngâm sĩ Hồ Điệp và Trịnh Công Sơn thay phiên trình bày.
Có điều là tới buổi đó Trịnh Công Sơn mới biết giọng ngâm Hồ Điệp. Anh ta nói với tôi một câu đùa mà chị Hồ Điệp trả lời là phạm thượng, ý nói Trịnh Công Sơn còn trẻ hơn chị. Năm đó nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp 55 tuổi nhưng rất trẻ trung.
Nghệ sĩ trình diễn nào cũng thích độc quyền thả giọng bay bổng không ngừng nên khi Trịnh Công Sơn đã ôm đàn là định hát hai, ba bài, chị Hồ Điệp thì ngâm một số bài thơ hơi dài nên Trịnh Công Sơn cứ vừa cười vừa lắc đầu, chị Hồ Điệp vừa cười vừa ngâm.
Khiến có lúc tôi phải giả vờ ngắt giọng của nhị vị, vì tôi thì rất được bạn thơ ca nể chút, vì là người giữ chương trình cho buổi hội ngộ được chan hoà vui vẻ.
Sau hết là lời cám ơn và thay mặt chủ nhân mời quý khách hạ sơn dự tiệc rượu.
Mọi người lục tục xuống thang gác, hai lối đi trong và ngoài Thư Uyển Minh Minh ấy.
Chiếc bàn dài được trang trọng với những món ăn gia đình chủ nhân nấu, đủ thịt thà tôm cá song đặc biệt nhất vẫn là những chai rượu Tây đắt tiền, vì học giả giáo sư Thanh Vân Nguyễn Duy Nhường có trưởng nam ở Paris đã mấy chục năm trước rồi.
Nghe tiếng nói cười rộn ràng, tôi kịp thấy nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở chỗ ngồi ghế giữa bàn tiệc, nhưng không thấy người bạn Thái Bá Tân.
Tôi hỏi Trịnh Công Sơn bạn ấy đâu rồi, nhạc sĩ trả lời:
Anh ấy có việc đi rồi.
Thực ra có lẽ Thái Bá Tân nghĩ chúng tôi đều ở bên kia giới tuyến của ông, ngại không cụng ly vì chẳng lẽ trong bàn tiệc ông cũng không nói năng gì như lúc ở chiếu bình văn thơ trước đó sao.
Sân biệt thự Minh Minh Thư Uyển chật nghẹt xe honda. Tôi nhìn ra cửa lớn, Thái Bá Tân vừa lên xe phóng đi thì phải…