THƠ: XOÁ HẾT QUAN SAN – CHỦ NHẬT- KIẾP NÀY – MÙA NÀY – Cao Mỵ Nhân
XOÁ HẾT QUAN SAN. CAO MỴ NHÂN
*
Cuối tuần, em đi tìm anh
Không gian mở rộng, trời xanh, mây vàng
Tháng ngày tình tự mơ màng
Bước chân trên những lỡ làng, lẻ loi
*
Bao la trước mặt núi đồi
Mênh mông biển nghiệp luân hồi sau lưng
Chuông vang âm vọng ngập ngừng
Cánh chim bay chậm, thả từng tiếng rơi
*
Trái tim đập nhịp tuyệt vời
Tìm anh tận cuối phương trời này sao
Nhưng thơ chưa viết nghẹn ngào
Thì anh đã tới, lời chào đắm say
*
Cuối tuần vui trọn hôm nay
Hoa nhung nhớ nở trên tay chưa tàn
Anh cười xoá hết quan san
Trao em tất cả muộn màng yêu thương…
*
CAO MỴ NHÂN
*
CHỦ NHẬT. CAO MỴ NHÂN
*
Anh hỏi một câu nghe rất lạ
” Thăm em, Chủ Nhật, có nên không ? “
Đường đi chắc hẳn chưa xa quá
Thì chớ hồ nghi khách má hồng
*
Tuần trước, tại em cho lỡ hẹn
Tuần này anh giữ vẻ phân vân
Tuỳ anh, muốn đến hay không đến
Hay muốn từ đây thành cố nhân
*
Cũng được, bởi vì em đã nói
” Nếu không thích nữa, sẽ chia xa ”
Có chi ràng buộc mà anh ngại
Chủ nhật này, em lại vắng nhà …
*
CAO MỴ NHÂN
**
KIẾP NÀY. CAO MỴ NHÂN
*
Anh nói với em :
” Cho xong một kiếp người ”
Vâng, cho xong đi nhé
Đời sau mình rong chơi
*
Em đã khóc nấc lên
Đời này chưa tròn vẹn
Kiếp khác làm sao quên
Anh ngập ngừng gọi khẽ : ” Em ”
*
Dặn dò rồi như thế
Hẹn hò có chi hơn
Vẫn thở dài, nước mắt
Vẫn u sầu, van lơn
*
” Anh đừng nói gì trơn
Em quê mùa, dốt nát …”
Em không cần đời khác
Kiếp này thôi, yêu em …
*
CAO MỴ NHÂN
**
MÙA NÀY. CAO MỴ NHÂN
*
Mùa này trời sáng lâu
Không phải mùa lâu sáng
Anh bây giờ ở đâu
Đầy trời mây lãng đãng
*
Em ngó về phương nam
Đan Hồ vương khói biếc
Thấy cánh chim lang thang
Bay ngang rừng hoa tím
*
Nhưng thu còn ở xa
Đợi người tình không đến
Lá chưa vàng bao la
Rơi trên đường đưa tiễn
*
Mùa này trước bình minh
Bầy quạ đen thức giấc
Chúng kêu lên rối tinh
Họp đàn rồi bay mất
*
Mùa này anh và em
Mỗi người một thiếu thất
Cùng chờ mặt trời lên
Cùng cô đơn chất ngất …
*
CAO MỴ NHÂN
**
THÁO GIÀY – Quyên Di
T H Á O G I À Y (Bài này không liên quan gì đến chuyện “thầy giáo… tháo giày” và “giáo chức… dức cháo.”)
Tôi nhớ lại một truyện rất lý thú về sự tích đôi giày.
Truyện kể rằng ngày xưa có một ông vua sống rất xa xỉ. Mỗi khi đến đâu, ông bắt dân chúng nơi ấy phải trải thảm nhung trên tất cả những con đường ông đi qua. Càng được đón tiếp long trọng, ông càng thích đi; và ông càng đi, người ta càng phải trải nhiều thảm nhung cho ông bước lên.
Cho đến một ngày, người ta không kịp sản xuất nhung để lót đường cho ông vua. Điều này làm ông tức giận và ra lệnh rằng ông đến đâu mà không có thảm nhung lót đường, cả dân vùng ấy sẽ bị giết chết hết.
Thế nhưng đã có một người đến xin yết kiến vua, ông ta cam đoan rằng nếu vua theo ý ông, vua đi đâu thảm nhung cũng có sẵn mà không phải huy động một ai cả. Vua bằng lòng, và ông nọ dùng hai mảnh nhung nho nhỏ, khâu thành một đôi giày nhung rồi mời vua xỏ chân vào.
Thế là từ đó, vua đi đâu “thảm nhung” đi theo đến đấy.
Kỹ nghệ làm giày từ đó dần dần thành hình và phát triển.
Truyện này khiến tôi suy nghĩ và cảm thấy có liên hệ tới tính chất của những đôi giày. Đôi giày tượng trưng cho sự giàu có, hay ít ra cũng là đủ ăn đủ mặc, đôi giày làm cho người ta trở nên chững chạc, lịch sự. Đi đến nơi nào có vẻ quan trọng một chút, người ta xỏ chân vào đôi giày, tự nhiên trông có vẻ tươm tất ngay. Bà phu nhân của cố tổng thống Phi Luật Tân Marcos có tới vài trăm đôi giày đắt giá (1).
Tôi không biết có ai trong chúng ta có tới vài trăm đôi giày như vậy không, nhưng chừng vài chục đôi thì tôi cũng đã biết có người. Có những người ham thích mua giày, dư tiền một chút, họ đi sắm giày. Những đôi kiểu mới, họ mang thử vào chân, ngắm nghía rồi mua đem về, dù rằng những đôi cũ còn rất tốt, lại có những đôi họ chưa xỏ chân vào lần thứ hai.
Chính vì có nhiều người ham thích mua giày, đóng giày mà kỹ nghệ sản xuất giày phát triển rất mạnh, với nhiều hãng giày nổi tiếng. Có những đôi giày trị giá mấy trăm Mỹ kim (2), trong khi một đôi dép dùng hằng ngày trong nhà có thể chỉ phải mua với giá hai, ba đồng.
Đôi giày làm thành ranh giới của người no đủ và người nghèo đói. Đôi giày cũng làm thành ranh giới của người tự do và người nô lệ. Ngày xưa, trong một số xã hội nào đó, chỉ những người tự do mới được quyền đi giày, còn người nô lệ phải đi đất. Nhưng đôi giày cũng là vật tượng trưng cho sự gò bó. Đôi giày trở nên nỗi cực hình đối với những ai thích cho đôi chân mình được thoải mái. Tôi vốn thích đi dép hoặc xăng đan “cho nó mát.”
Ngày đầu tiên đi dạy học, tôi cũng định lê đôi dép vào trong lớp, nhưng mẹ tôi đã đe: “Nếu con không chịu mua giày và không chịu đi giày, mẹ không cho con tới trường dạy học.” Tôi hoảng quá, đành phải đi sắm giày mà trong lòng lấy làm đau khổ vô cùng. Bây giờ, tôi vẫn có thói quen đi dép hay đi xăng đan. Và đang khi có đôi chân thoải mái như thế, tôi nhìn những người bạn phải đi giày suốt từ sáng đến tối mà thương cho họ. Nhất là những cô phải xỏ chân vào đôi giày cao gót và để đôi giày ấy đeo cứng chân mình, dù đi, dù đứng, dù ngồi; chắc là bí bức, gò bó lắm. Nhưng nói vậy thôi, có nhiều người sẵn sàng chịu sự gò bó để cảm thấy mình đẹp và được khen là đẹp.
Tuy nhiên, tôi cũng thấy có nhiều người, nhất là những người trẻ, bước đi trên đường phố bằng những đôi chân trần không giày dép. Những người trẻ này có lẽ không thích sự gò bó, dù là sự gò bó của đôi giày hay sự gò bó của những luật lệ, định chế xã hội.Có một khoa nhìn giày để đoán ra tính nết người đi đôi giày đó. Người ta nhìn đôi giày mòn ở mũi hay ở đế, mòn phía trong nhiều hay mòn phía ngoài nhiều, rồi từ đó đoán ra người đi đôi giày ấy tính hướng nội hay hướng ngoại, bình tĩnh hay hấp tấp, cương quyết hay e dè v.v…
Tôi không biết những điều ước đoán ấy đúng, sai ra sao, nhưng từ lâu tôi vốn thích ngắm những đôi giày mòn vẹt hơn là nhìn những đôi giày bóng loáng chưa đụng đất trong tiệm bán giày. Giày đẹp mấy mà chưa dùng đến thì cũng chưa đem lại chút lợi ích gì cho con người. Giày càng mòn, càng vẹt bao nhiêu, càng chứng tỏ nó đã giúp cho con người đi chuyển nhiều bấy nhiêu. Đẹp mà không giúp ích cho đời, cũng không quý bằng dù tàn tạ nhưng đã đem lại ích lợi cho đời sống con người.
Ai từng đi giày cũng có một đôi giày mình ưng ý nhất, đôi giày ấy đi vào vừa vặn, bước đi thật êm, nó không cọ xát khiến đôi chân đau bỏng, nó không bó đôi chân lại khiến chân bị tê buốt, nó cũng không lỏng lẻo khiến cho đôi chân muốn tuột ra ngoài. Khi có một đôi giày ưng ý rồi, ta không thích đi đôi giày khác, nhất là không thích dùng giày của người khác. Đôi giày khi đó trở thành vật biểu tượng cho sở thích, cho bản tính của mình.
Có lẽ chính vì thế mà lâu nay người ta có thành ngữ “đi giày nhiều người’.” Thành ngữ này có nghĩa là khi làm việc, ta phải chiều theo tính nết của quá nhiều người thì việc mới thành tựu được. Phải “đi giày nhiều người” là một tình trạng rất khổ tâm của những người muốn hoạt động hữu hiệu cho một mục tiêu cao đẹp, mà cứ phải chiều ý hết người này tới ngườii khác. Mặt khác, “đi giày nhiều người” cũng là câu chê bai dành cho những ai không dám tự quyết, không dám can đảm dấn thân, bất chấp những nhân sự “cản mũi kỳ đà,” mà cứ luôn luôn phải làm theo ý người này, người nọ.
Tôi đã có lần được “tháo giày” một cách hết sức thoải mái.
Chuyện “tháo giày” của tôi không liên quan gì đến nghi lễ tối thứ Năm Tuần Thánh, các viên chức đóng vai mười hai tông đồ, tháo giày ra cho vị linh mục chủ tế, bắt chước Chúa Giê-su, rửa chân cho mình. Chuyện “tháo giày” của tôi hoàn toàn khác. Tôi được gọi đến dự một cuộc tĩnh tâm của giới trẻ. Sau những nghi thức và những bài giảng, đêm đã về khuya. Đây là thời điểm thuận tiện nhất để những người trẻ ngồi lại với nhau, tâm sự về những thao thức, những ước vọng, những suy tư của mình.
Để tạo bầu không khí thân mật, người phụ trách kêu gọi mọi người ngồi xuống đất bên nhau thành vòng tròn, thay vì ngồi trên ghế. Muốn ai cũng có thể ngồi thoải mái, người phụ trách xin mọi người tháo giày ra trước khi ngồi. Khi được lệnh “tháo giày,” tôi là người sung sướng nhất. Lúc nào tôi cũng mong đợi chân mình được tự do! Vừa tháo giày, tôi vừa quan sát những người trẻ chung quanh. Một số tháo giày ra ngay; một số khác còn ngần ngừ, như còn e dè, nuối tiếc gì đó. Nhưng rồi cuối cùng ai cũng tháo giày ra hết. Với đôi chân thoải mái, mọi người ngồi xuống đất, vòng tròn thu hẹp dần, thu hẹp dần, cho đến khi vai người này có thể chạm được vai người khác, đầu người nọ có thể chụm vào đầu người kia. Và họ bắt đầu chia sẻ với nhau về những ưu tư, khát vọng, mơ ước, hạnh phúc, đau khổ của mình.
Đúng lúc ấy tôi nghĩ tới đôi giày mọi người vừa tháo khỏi chân. Đôi giày, nhìn dưới một khía cạnh nào đó, chính là bản chất riêng của mỗi người. Để có thể ngồi sát bên nhau, vai chạm vai, đầu chụm đầu, nghe được nơi nhau những lời chia sẻ thân tình, chúng tôi phải tháo đôi giày, phải cởi bỏ bản chất riêng của mình trước đã, rồi mới có thể hoà đồng trong một bầu khí chung, một tâm tình chung. Những giọt lệ nơi khoé mắt tôi ứa ra một cách kín đáo.
Tôi ước mong trong cuộc sống, tôi và các bạn tôi biết nhận thức rằng: rất nhiều lúc, chúng tôi phải tập “tháo giày,” tập cởi bỏ bản chất riêng để cùng nhau theo đuổi một mục đích chung. Cùng nhau đi chân trần trên đường hướng về lý tưởng, có lẽ thích thú hơn lộp cộp với đôi giày để bước những bước độc hành.Viết riêng cho anh chị em Ki-tô hữu:Dụ ngôn “đứa con hoang đàng” trong Phúc Âm cũng có hình ảnh của đôi giày. Khi đứa con hoang trở về, nghèo đói, rách rưới quỳ xuống chân cha nói lời tạ tội và chỉ mong cha cho trở về, nhận làm kẻ hầu người hạ trong nhà chứ không dám mơ được nhận làm con như trước; người cha nhân lành đã đỡ con dậy, gọi gia nhân đem áo cho mặc, nhẫn cho đeo, giày cho đi. Đôi giày ấy thay cho lời người cha, nói với người con rằng: “Con là con cha, là người tự do, con không phải là kẻ ăn người ở, không phải là hạng nô lệ trong nhà này.”
Có người rất quý trọng đôi giày mòn, vẹt của mình. Người ta kể rằng một tu viện nọ tổ chức một cuộc tĩnh tâm. Cuối ngày, cha tu viện trưởng nói với mọi người để lên bàn vật mình cho là quý nhất. Các tu sĩ lần lượt để lên bàn những báu vật của mình. Người thì đặt lên một cây thánh giá bằng vàng, người khác là một cuốn thánh kinh đóng bìa da công phu, người khác nữa là một cỗ tràng hạt bằng bạc… Đến lần vị tu sĩ kia, ông thản nhiên cúi xuống tháo đôi giày cũ kỹ, mòn vẹt của ông và trịnh trọng đặt lên bàn. Mọi người ồn ào, bất mãn, người ta cho rằng vị tu sĩ kia ngạo mạn và bất kính đối với người khác và đối với những báu vật của họ. Tu viện trưởng ra lệnh cho vị tu sĩ kia giải thích tại sao lại cho đôi giày cũ kỹ bụi bặm kia là vật quý nhất, vị tu sĩ trả lời:
“Vì chính nhờ nó, con đã đem được Tin Mừng của Chúa Ki-tô đến biết bao con người ở những miền đất xa xôi.”
Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến lời của tiên tri Isaia: “Đẹp thay bước chân người đi gieo rắc Tin Mừng.”Chúng ta học được gì qua hai hình ảnh trên?
QUYÊN DI
(Trích “Nhìn Xuống Cuộc Đời,” 1995)____________________________(1) Bây giờ tôi biết bà Marcos không phải chỉ có vài trăm đôi giày, số giày của bà lên tới con số hàng ngàn.
(2) Tôi thật nhà quê! Giày giá mấy trăm Mỹ kim đã là gì. Có người sẵn sàng bỏ tiền ra mua những đôi giày giá mấy chục ngàn Mỹ kim
Con Tim Biết Nói – Sa Chi Lệ Viết Và Diễn Ngâm
https://www.youtube.com/watch?v=TG3zvrb9_uc
CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN & Các Bài Viết: “Từng Mảnh Chiều Rơi”-“NÂNG NIU TÌNH BUỒN”
THÁNH CA. CAO MỴ NHÂN
*
Tôi có niềm vui hát Thánh Ca
Tâm tư bay bổng tới Ngân Hà
Hình như đôi cánh Thiên thần mở
Cứ mỗi năm buồn một xót xa
*
San sẻ cô đơn với tuyệt cùng
Nhìn ra bát ngát, thấu không trung
Hình như bóng Chúa mơ hồ đó
Vừa thoáng đâu đây, đã mịt mùng
*
Thánh nhạc mênh mang, theo gió bay
Vượt trần gian, lên vút trời mây
Chúa ơi, nước mắt như mưa nhẹ
Chúa ở trong tim, cảm xúc đầy
*
Khúc hát lênh đênh, lãng đãng trôi
Chơi vơi, thanh thoát, Chúa muôn đời
Trước, sau, mãi mãi nguồn vô tận
Nhân ái, thương yêu, ấm nụ cười…
*
CAO MỴ NHÂN
VAI DIỄN. CAO MỴ NHÂN
*
Thưa anh, mưa nắng qua rồi
Gió mùa đại dịch chưa thôi loạn cuồng
Bây giờ giữ mảnh hồn suông
Để năm tháng đóng hết tuồng thế nhân
*
Kịch đời nào cũng phù vân
Phân vai em, Thượng Đế cần hỏi anh
Rằng sao lệ tủi long lanh
Bởi em chỉ muốn trở thành người yêu
*
Đã đành vai được nuông chiều
Nữ lưu kiều mị với nhiều kiêu sa
Nhưng em lại vẫn xót xa
Vì anh vẫn cạnh người ta xum vầy
*
Gió mưa chưa hết kiếp này
Kịch đời chưa dứt tháng ngày khổ đau
Trên cao, Thượng Đế buồn rầu
Phân vai em, đợi đời sau đẹp tình …
*
CAO MỴ NHÂN
THỨ SÁU. CAO MỴ NHÂN
*
Thứ sáu, ngày Chúa vong thân
Đã không bén mảng tới sân Nhà Thờ
Lại còn hò hẹn người thơ
Là hôm nay rảnh, tha hồ ghé chơi
*
Thưa rằng: Có chuyện gì vui
Đem Kinh ra đọc, hay ngồi nghe Thơ
Tại sao không đến nhà thờ
Xin Cha: xưng tội bây giờ mới yêu
*
Thì thôi mai sớm trưa chiều
Tóc em buông thả những điều nhớ nhung
Cúi mình tạ khắp không trung
Đôi tay Chúa đã giải mông mênh tình
*
Phép Trời vạn sự hồi sinh
Niềm tin vĩnh cửu thượng đình cao xa
Chúa từ bát ngát, bao la
Về bên cạnh mỗi chúng ta nguyện cầu…
*
CAO MỴ NHÂN
NẾU ANH. CAO MỴ NHÂN
*
Nếu anh nói nhỏ một lời
Rằng khuya nay sẽ tới mời em …vui
Thì em đã chẳng ngậm ngùi
Là không gặp Đấng Thánh Trời ghé qua
*
Nếu anh biết được anh xa
( Nhưng em vẫn tưởng anh đà quanh đây )
Đúng rồi, anh vẫn quanh đây
Trong thơ sầu mộng, em say đắm tình
*
Hôm qua lễ trọng Phục Sinh
Sao em lại ngủ khi mình buồn đau
Nếu anh biết được tình sau
Của em, là chính tình đầu đó thôi
*
Bây giờ thức giấc đơn côi
Thiếu anh, trống vắng đêm rồi ngày sang
Sáng nay em giận thời gian
Nếu anh đến sớm, em càng yêu hơn …
*
CAO MỴ NHÂN
VAI NẶNG TÌNH ĐỜI. CAO MỴ NHÂN
*
Mặt trời ngày Phục Sinh
Mầu hoàng kim rực rỡ
Cuộc tình đang hồi sinh
Giữa mây vàng bỡ ngỡ
*
Chúa về gọi yêu thương
Khi hồn em tan nát
Lá cọ hoang tơ vương
Từng sợi sầu bát ngát
*
Mặt trời vút lên cao
Nửa kiếp người chìm khuất
Núi mùa xuân xôn xao
Dấu chân này sẽ mất
*
Đôi vai nặng tình đời
Vác theo Đường Thánh Giá
Thôi em bỏ cuộc chơi
Thành xưa khô lệ đá…
*
CAO MỴ NHÂN
Từng Mảnh Chiều Rơi -CAO MỴ NHÂN
Tôi đang ngồi trong căn phòng quen thuộc, ngắm hình ca sĩ Thái Thanh, người có giọng hát vượt thời gian như nhà văn Mai Thảo nhận xét, thì chiều đổ ập xuống…
Có phải chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn không mà âm hưởng bài thơ Cảnh chiều hôm của Bà Huyện Thanh Quan khi đi võng qua đèo Ngang để vô kinh thành Huế dạy con vua cháu chúa triều Nguyễn cũng khiến mình vương chút sầu tư…
Ca sĩ Thái Thanh đang ở viện dưỡng lão X quận Cam, Nam Cali. Bà nhìn sâu vào không gian trước mặt, giờ này, cũng một buổi chiều, để thấm ý hai câu kết bài thơ Cảnh chiều hôm:
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn…
(Bà Huyện Thanh Quan, 1805 – 1848)
Cứ xem như tư gia của ca sĩ Thái Thanh là chốn Chương Đài, còn ca sĩ đang là người lữ thứ ở viện dưỡng lão X, con cháu bận rộn công ăn việc làm không thể thường xuyên thăm viếng nên nỗi hàn ôn phải tâm tình cùng bạn viện thôi.
Văn nghệ sĩ Việt Nam lưu vong cũng đã như một nếp gấp văn hoá địa phương lâu rồi… Tôi chỉ kể về quý vị mà tôi hoặc quen hoặc biết, theo thứ tự thời gian:
Nhà văn quân đội Phạm Huấn, nhà thơ Hoàng Anh Tuấn. Nhị vị ở viện dưỡng lão Z trên San Jose và đã qua đời ở viện cũng đã lâu rồi.
Nhà văn Linh Bảo, hiền tỷ của nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh, ca sĩ Thái Thanh, hiền mẫu của danh ca Ý Lan. Nhị vị đang bình thường tại viện dưỡng lão X, Nam Cali.
Buổi chiều thì ở đâu cũng buồn, nhưng ở viện dưỡng lão hay nhà thương thì càng buồn hơn.
Không biết có khi nào ca sĩ Thái Thanh một mình nằm hay ngồi trong viện X nghe lại chính giọng ca của mình…
Giọng hát đã băng qua cả một bề dày năm tháng…
Thủa nữ nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp còn tại thế, trước khi mất tích trên đường vượt biên năm 1987, bà cùng ái nữ cư ngụ tại biệt thự Mả Đá trong khuôn viên tư thất cụ thi sĩ Văn Giai nhượng lại một phần.
Biệt thự Mả Đá toạ lạc tại đường Phan Xích Long, trước cửa nhà máy điện quận Phú Nhuận, Sài Gòn.
Mỗi buổi sáng nơi bộ bàn ghế cẩn xà cừ kê ở hàng hiên biệt thự lại có ba vị tao nhân, mặc khách đàm đạo thi ca gồm quý cụ thi sĩ Văn Giai chủ nhân, thi sĩ Trần Lữ Vũ mới từ trại tù cải tạo ra và nghệ sĩ danh ngâm Hồ Điệp hội ẩm.
Cả ba vị tao nhân, mặc khách đều lặng lẽ nghe giọng ngâm Hồ Điệp từ băng thơ Hồ Điệp vẳng lên chơi vơi, mênh mông…
Thỉnh thoảng có dịp tìm thăm chị, cánh bướm của trời thơ trữ tình, lãng mạn, tôi lại gặp ba vị nêu trên ngồi thả hồn theo tiếng sáo Tô Kiều Ngân, tiếng đàn mệ Bửu Lộc, giọng Hồ Điệp ngâm nga trong những cuốn băng thơ bồng bềnh, dư âm vang xa vời vợi tình buồn…
Sự kiện khiến tôi liên tưởng tới hoàn cảnh văn nghệ của những ai lỡ mang tâm hồn mẫn cảm sau này…
Tôi cũng có những kỷ niệm hết sức âm thầm nhưng vô cùng mê đắm, tưởng như một phần đời mình đã đóng băng kiên cố trong tình nghĩa huynh đệ chi binh hiện nay ở sân chơi dành cho lính mà tôi thường thấm ý khoe với bạn bè về nơi vườn tình ấm áp ở phương Nam…
Tất nhiên thời gian không biệt lệ cho ai, dẫu có là vua thần thoại trong cổ tích Mỗi ngày một chuyện đi nữa, và dù có cố gắng tưởng tượng thêm nhiều tình tiết cho thật kỳ ảo, tôi vẫn phải ngồi lặng lẽ ngó từng mảnh chiều rơi trước mắt những khách tình si ưa thả lỏng tâm tư theo tơ vương thần thoại…
Buổi chiều… sao trong lòng hạnh phúc thế mà vẫn không thoát được nỗi buồn nhỉ?
Đó là chuỗi thở dài của tháng năm bất tuyệt…
Anh có chiều chuộng mình như nâng niu trứng mỏng, mình vẫn chan hoà nước mắt khóc… tình thơ!
Ô hay, tình thơ lưu ly như ngàn vạn hạt kim cương lấp lánh, chiếu rực rỡ những trái tim tha thiết luyến thương nhau…
Ở đây không ai trong chúng ta phải ở chốn Chương Đài, cũng không khiến người nào giữa huynh đệ phải lang thang nơi lữ thứ, vì chúng ta đang trong hạnh ngộ tình thương…
Cho tới thời gian nào chúng ta buộc phải nhìn nhau qua ký ức, ấy là chuyện kể trăm năm đã hết…
Đó là dấu tích kỷ niệm muôn đời vẫn mãi còn nếu muốn đi tìm hình ảnh hôm nay… từng mảnh chiều rơi bên những người tình muộn.
CAO MỴ NHÂN
NÂNG NIU TÌNH BUỒN. CAO MỴ NHÂN
Đã mệt mỏi quá rồi, tôi đi tìm cái nghĩa vẹn toàn của cuộc sống.
Chỉ cần là lý tưởng, chỉ cần là học thuyết, và mãi mãi là trừu tượng thôi, nào muốn gì hơn.
Không nói là tràn đầy, là dư thừa, chỉ mong được anh chia sẻ cho một chút tin yêu cuộc sống, cho đời mình vui vẻ bình thường…
Anh cũng biết vậy, nhưng anh im lặng, anh xa cách, anh trầm thống theo ý anh, cái bản chất cố đô vương giả, không muốn dứt niềm đau ra khỏi cuộc đời mình.
Một trăm chuyện tình nghệ sĩ, gần như đủ một trăm nỗi ưu tư, sầu tủi được đẩy qua người mang tâm hồn khốn khổ vì yêu thương kẻ đối diện, chứ có bao giờ khách được hay bị yêu phải khổ đâu.
Là tôi đang quan sát tình đời thôi. Và cũng chẳng để làm gì, khi thời gian không còn đủ cho mình say đắm chan hoà ân nghĩa xót thương nhau.
Nhưng lạ, con người có thể là một Thánh Gióng, thần Herculs, thần Antee, lực sĩ Tarzan, Thạch Sanh vv…mà vẫn bất chợt mềm nhũn như loài sâu bé nhỏ, chỉ vì niềm tin bị khủng hoảng, mất mát.
Anh là tất cả, đúng, nên không có anh, mặt trời sẽ chẳng mọc, to chuyện quá, mấy chục năm nay mình đã chứng kiến cái điều thiên hạ cho là vớ vẩn, viển vông, không thực tế…này.
Khi ngày nào ánh sáng thái dương cũng soi rọi thế gian, một hạt cát trên sa mạc cũng mong đợi ngày lên, để nhìn thấy những hạt cát khác, cho dẫu cái cao nguyên rộng bát ngát, luôn mịt mù gió bụi.
Cả thế giới mày râu phải là những thần, những thánh cho chúng ta người già, phụ nữ, trẻ em…được vin vào lẽ sống, để tiếp tục sinh tồn.
Có phải tôi đánh giá quý ông, trong đó có anh, và rất có anh, là một ảnh hình chân như, lương thiện, hoàn mỹ, hầu xây dựng những cái tổ phượng hoàng nơi tột đỉnh phù sinh, trước khi ” mặt trời tắt hẳn trên môi em…” không ?
Câu thơ mình viết tặng anh từ phút giây hạnh ngộ, dù anh khẳng định là trừu tượng thôi, mãi mãi trừu tượng…đã phần nào đúng đấy .
Tôi bật cười, lẽ nào tôi không đủ ngôn từ, chữ nghĩa để viết hộ thư tình dùm ai muốn chớp nhoáng gởi đi, khi có cả chục tập thơ tình buồn kiểu tình dang dở của nhà thơ lai 2 dòng máu Việt Hoa:
Tình chỉ đẹp những khi còn dang dở
Đời hết vui khi đã vẹn câu thề …
( Hồ Dzếnh )
Lạm bàn về tình ái, tình yêu ở đời, thì ai cũng có thể thuyết minh hùng hồn, lý do rất đơn giản, là yếu tố tự phát từ trái tim mỗi người tuy khác nhau, song vẫn là giống nhau, bởi lẽ Thượng Đế cho loài người ai cũng có một trái tim làm vốn liếng để sống ở đời…
Anh từng bảo thế này: ” Thôi nhé, bớt …hành hạ trái tim nghe, để cho lòng hồn nhiên, thanh thản yêu đời…”
Chẳng cần anh dặn, mình cũng biết điều khổ tâm này, cái khổ tâm của tiểu ni Thị Kính bị ma nữ Thị Mầu yêu đến chết bỏ.
Song le, anh là anh với đầy đủ nhân dáng, sắc diện, linh hồn đấng nam nhi, nên nếu có bị yêu cũng là một thiên chức, lại ngoạ ngôn, ngạ quỷ xâm nhập đó thôi.
Đi tìm cái nghĩa vẹn toàn của cuộc sống, mình biết chắc anh ái mộ đạo Phật bởi chân lý, không thù hận, không oán giận, không chê bai, không trách cứ vv…mà anh nhẫn nại đợi chờ …duyên nghiệp đến.
Nếu là nghiệp duyên, thì đành nhận, mà nếu là nghiệp …nợ, thì cũng đành nhận thôi, chẳng lẽ đưa tay gạt đánh ầm một cái duyên nghiệp xuống đáy đại vực Grand Canyon à .
Anh sẽ nghiêm mặt: ” Tại sao…am tường thế, mà ngay từ đầu không tránh đi, như thi sĩ Luân Hoán chủ trương trong đời thi nghiệp của ông, ông loại ngay tức khắc cái danh xưng: chị, em, cháu gái văn nghệ, để khỏi rắc rối về sau “.
Còn như chàng nhạc sĩ ôn nhu, dĩ hoà vi quý Vũ Thành An, đứng trước giai nhân kêu gọi tình người nở hoa nhân ái, rằng: ” Hãy cố quên đi mà sống “.
Nhưng người tình lắc đầu quầy quậy không chịu, thưa là muốn quên đi lắm, mà không được, vậy còn cách nào hơn điều quên đó, thì đành ôm thân phận ” nhược tiểu ” vậy, tức là :
Xin em đôi môi thật thà
Thật thà chịu nhiều xót xa…
( Bài không tên số 5 Vũ Thành An )
Nhưng được hay mất “cuộc tình này “, vẫn chỉ có nỗi
” Nâng niu cô đơn từng ngày… ”
Thành ra cuối cùng được Thượng Đế vỗ về, nhạc sĩ đã tìm ra ánh sáng rực rỡ từ cửa thiên đường chiếu xuống, mời gọi Vũ Thành An bước vô cõi đạo Trời , ông có được niềm vui khi tuổi không còn rung động trước một hình ảnh người nữ
“quấn quýt vân vê tà áo ” nữa .
Anh mỉm cười, nửa chế nhạo, nửa vị tha, ngó tôi thức trắng đêm qua vì buồn. Chắc anh không ngờ tôi dễ xúc động đến thế.
Anh có thể không cần nói thật. Nhưng anh có biết 100 người đàn bà, thì chỉ có 10 người chịu nghe nói thật, để họ quyết định cái đời độc lập của họ.
Còn 90 người kia, không muốn nghe cái sự thật mất lòng, không thành vấn đề, mà sự thật làm sững vững con người.
Thí dụ: ông chồng có bồ, ai ở đời cũng biết điều đó, và thường khi bà vợ biết, là đã vỡ bét tự sự truyện rồi.
Song le, chẳng phải là thế, những nhân vật nữ chỉ muốn nghe điều không thật của chồng họ, trái lại đàn ông lại đòi hỏi sự thật từ người vợ, phải được tôn trọng.
Ông chồng Huế của tôi thủa sinh thời, ông nói với tôi: “M nên mừng là anh còn nói dối M, vì khi anh nói thật ra, có nghĩa là M không còn quan trọng với anh nữa “.
Tôi đã khóc nức nở vì sự thật vốn vậy.
Thế có phải bây giờ bạn thích tôi nói dối phải không? Anh đâu cần nghĩ vậy, vì anh quá thông minh nơi chốn sa trường, cũng như ở tình trường.
Anh được điểm A+ nhiều lần thử thách, nhưng lại chính bộ mặt tình yêu mộc mạc, rất lính của anh, nó khiến anh vượt lên tất cả. Chao ôi, người tình Huế nào cũng có cái ưu điểm rực rỡ ấy .
Thôi tôi cũng đã khô nước mắt rồi, vì xưa nay tôi là người không đòi hỏi một thử thách nào.
Tôi đang xuống những bậc tam cấp, rời khỏi Thiên Mụ hay Linh Mụ gì đó, chùa đẹp, chùa buồn, có gọi hằng trăm tên, cũng vẫn có chữ Mụ, khiến tôi mụ mị cả người.
Đã đứng sát bờ sông Hương, đã soi bóng nơi dòng nước thơm rong rêu tuyệt hảo đó rồi, thì bao âm điệu ngọc châu, bao hình ảnh dát vàng, nạm bạc trên con sông quyền quý, huyền hoặc đó, cũng ám ảnh tôi suốt đời …
Đó cũng là một trong những nét vẹn toàn tôi đi tìm kiếm ở cuộc sống phiêu du, lênh đênh này, mà tình người chính là những âm vang của dòng sông đang chảy xiết đó…
Hãy nâng niu tình buồn …
CAO MỴ NHÂN
GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG
LÊ VĂN HẢI
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ Mồng Mười Tháng Ba!”
Hầu như người Việt Nam nào, ai cũng thuộc câu ca dao này, câu này được học từ nhỏ, thời tiểu học.
Hàng năm, cứ đến ngày 10 tháng 3 Âm lịch (năm nay ngày Tây, rơi đúng vào Chủ nhật tuần này! ngày 10 tháng 4 năm 2022)
Ngày này, con dân đất Việt ở khắp mọi nơi, đều hướng lòng về Quốc Tổ Hùng Vương, nhất là về đất Tổ Phú Thọ, nơi có đền thờ và bia tưởng niệm các vua Hùng. Để nhớ về nguồn cội, cảm tạ các Tiền Nhân đã có công lập quốc, giữ nước, thành một dân tộc Việt, với những trang sử oai hùng chống ngoại xâm, để lại cho con cháu một dải giang sơn gấm vóc, trường tồn trên 4 ngàn năm! Không một tấc đất nào về tay ngoại bang!
(Càng tự hào truyền thống Cha Ông bao nhiêu, càng căm thù CSVN bấy nhiêu, hết nhường đất biên giới, biển đảo, đặc khu…còn nuôi âm mưu bán nước cho Tầu Cộng, chỉ cần đạt mục đích “còn đảng còn mình!” Mà CS làm gì có Tổ! chúng đã công nhận tổ của chúng từ Nga, từ Tầu!)
Thời VNCH, trước 75, đây là Ngày Lễ Quốc Gia! ăn mừng rất lớn. Hành động VNCH giữ nước dũng cảm, với trận chiến “Hoàng Sa, Trường Sa!” Thà chết, chứ không để một tấc đất nào lọt vào tay giặc!
Ra hải ngoại, cộng đồng người Việt khắp nơi, cũng giữ được truyền thống “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” tốt đẹp này, nên luôn luôn có những sinh hoạt, để nhớ về Tổ Tiên dòng giống Lạc Hồng.
Chút Lịch Sử Đời Hùng
Theo truyền thuyết, triều đại Hùng Vương có 18 đời vua. Hùng Vương thứ nhất lên ngôi vào năm 2879 trước Công nguyên, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ, truyền đời đến năm 258 trước Công nguyên, thì mất ngôi vào tay Thục Phán An Dương Vương.
Như vậy, triều Hùng trải qua trong khoảng 2.600 năm, nếu chia trung bình cho 18 đời vua thì mỗi đời vua xấp xỉ 150 năm.
Giải thích điều hơi khó hiểu này, một số học giả cho rằng thực chất 18 đời vua Hùng không phải là 18 cá nhân cụ thể, mà là 18 chi, mỗi chi này có nhiều vị vua, thay phiên nhau trị vì, và dùng chung vương hiệu. Ngay cả con số 18 cũng chỉ mang tính tượng trưng, ước lệ, vì 18 cộng lại là 9, con số thiêng đối với người Việt.
Như vậy, theo một số tài liệu lịch sử ghi lại, ngày giỗ tổ đã có từ cách đây 2.000 năm. Dưới thời Thục Phán An Dương Vương. Bằng chứng đã tìm thấy cột đá thề, được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, ghi rõ: “Nguyện có đất trời lồng lộng chứng giám, nước Nam được trường tồn lưu ở miếu Tổ Hùng Vương. Xin hứa đời đời trông nom lăng miếu họ Hùng và gìn giữ giang sơn mà Quốc Tổ trao lại. Nếu thất hẹn, sai lời thề, sẽ bị gió giăng, búa dập, tan thây!”.
Các đời vua khác sau này cũng luôn ghi nhớ, khẳng định vai trò các vua Hùng trong việc xây dựng giang sơn Đất Việt. Chính vì thế mà hàng năm, người Việt dành riêng một ngày để mừng, tưởng nhớ những người đã lập và xây dựng nên đất nước. Trong tinh thần nhớ về Cội Nguồn “Cây có gốc, chim có tổ, người có tông!”
Theo Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức hậu Lê, thì từ thời nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến Hậu Lê, các vua và người dân địa phương, đều đến lễ bái các vua Hùng. Vua đã giao thẳng quản lý Đền Hùng cho cư dân tại đó rông nom, sửa chữa, cúng bái. Và có bổn phận tổ chức ngày giỗ 18 đời Hùng Vương, vào ngày 10 tháng 3 âm lịch mỗi năm.
Để đền bù công lao gìn giữ, tổ chức, dân địa phương được triều đình miễn cho những khoản thuế ruộng, nhiều quyền lợi khác. Như thanh niên, có thể miễn đi lính trong thời chiến, nếu có nhiệm vụ trông coi, hương khói cho Đền Vua.
Sang thế kỷ 20, năm 1917, triều vua Khải Định. Bộ Lễ chính thức gửi công văn đến tỉnh Phú Thọ, chính thức lấy ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, cử hành “quốc lễ” hàng năm.
Ngày Giỗ này, nếu điều kiện cho phép, vua và các quan phải mặc phẩm phục, lên đền Hùng cúng tế tổ tiên rất trang trọng.
Hay còn gọi sự tích Trăm Trứng Trăm Con, nhằm giải thích về nguồn gốc dân tộc, cũng như đề cao lòng tự hào và tinh thần truyền thống đoàn kết của Người Việt Nam.
Câu chuyện “dã sử” có tính cách “thần tiên” như sau:
Ngày xưa, ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây giờ là Miền Bắc nước ta, có một vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng, thường ở dưới nước, thỉnh thoảng lên sống trên cạn, sức khỏe vô địch, có nhiều phép lạ.
Thần giúp nhân dân diệt trừ Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh, là những loài yêu quái, bấy lâu nay tung hoành, làm hại dân lành. Thần dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi, cả cách sống, đạo đức, lẽ phải. Xong việc, thần thường về thủy cung, khi có việc cần, thần mới hiện lên.
Bấy giờ, ở vùng núi cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nghe tiếng vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ, tò mò bèn tìm đến thăm.
Nhân duyên tiền định, Âu Cơ và Lạc Long Quân gặp nhau, đem lòng yêu thương. Rồi trở thành vợ chồng, cùng nhau chung sống trên cạn ở điện Long Tráng.
Ít lâu sau, Âu Cơ có mang (bầu), đến kỳ sinh nở. Chuyện thật lạ, nàng sinh ra một cái bọc trăm trứng! nở ra một trăm con! Con nào con ấy hồng hào, đẹp đẽ lạ thường. Hay hơn nữa, đàn con không cần bú mớm, mà tự lớn lên như thổi, mặt mũi khôi ngô, khỏe mạnh như thần! đẹp như tiên!
Thế rồi một hôm, Lạc Long Quân vốn quen sống ở nước, cảm thấy mình không thể sống mãi trên cạn được. Đành từ biệt Âu Cơ và đàn con, để trở về thủy cung. Âu Cơ ở lại một mình nuôi đàn con, tháng ngày chờ mong, buồn tủi. Cuối cùng nàng gọi chồng lên và than thở.
– Sao chàng bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi đàn con nhỏ?
Lạc Long Quân nói:
– Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là giòng tiên ở chốn non cao. Kẻ ở cạn, người ở nước, tính tình tập quán khác nhau, khó mà ăn ở cùng nhau một nơi, lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì thì giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn.
Âu Cơ nghe theo chồng, rồi cùng nhau chia tay nhau lên đường.
Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang.
Triều đình có tướng văn, tướng võ, con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, khi cha chết thì được truyền ngôi cho con trưởng, gần 29 đời truyền nối ngôi vua, đều lấy danh hiệu Hùng Vương, không hề thay đổi.
Cũng bởi sự tích này mà về sau, người Việt Nam chúng ta đều là con cháu vua Hùng. Đều từ một bọc trứng mà sinh ra, Cùng gọi nhau là “Đồng Bào!” (từ một bào thai) và đến bây giờ, hơn 4 ngàn năm, vẫn tự hào mình là Con Rồng Cháu Tiên!
Người Việt Hải Ngoại Sinh Hoạt Giỗ Tổ Hùng Vương Năm 2022
-Tại Bắc Cali:
Được Tổ Chức, Vào Ngày Chủ Nật 10 Tháng 4 Năm 2022, Lúc10:00 Sáng
Tại Vườn Truyền Thống Việt
1499 Roberts Ave San Jose Ca 95122
-Tại Seattle:
Lúc 10 giờ sáng Chủ Nhật, ngày 10 tháng 4 năm 2022
Tại Tổ Đình Việt Nam
2234 SW. Orchard St, Seattle, WA. 98106
Phone (206) 779-6875
NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG
*
Ngày Giỗ HÙNG VƯƠNG nhớ Tổ Tông
Tự hào dân Việt giống Tiên-Rồng
Chinh Nam ngạo nghễ hưng bờ cõi
Chiến Bắc oai hùng vững núi sông
Xã tắc, tiền nhân gìn nhọc sức
Giang san, hậu thế giữ dày công
Nay bầy Cộng Sản ôm tà thuyết
Bán nước mọp Tàu, nhục mặt không??
* DUY ANH
Mồng Mười, tháng Ba, Nhâm Dần04/10/2022
PHIM DAM MỸ- Trịnh Bình An
Tại sao Bắc Kinh cấm phim đam mỹ?
Trịnh Bình An
Đầu tháng Giêng 2022, nhà cầm quyền Hoa Lục đã ra lệnh chính thức cấm chiếu các phim thể loại “đam mỹ“.
Phim đam mỹ là loại phim phiêu lưu, tình cảm, không chứa đựng những tư tưởng cải cách, đấu tranh, đòi tự do, dân chủ…, tức là những điều tối kỵ đối với Đảng Cộng Sản, vậy vì lý do gì khiến Bắc Kinh lại ra tay ngăn cấm dù biết rằng sẽ thất thu bạc tỉ tiền thuế từ những bộ phim này?
Nhưng trước khi tìm hiểu thêm, xin được nhắc tới đôi điều về thể loại phim đam mỹ.
“Đam” nghĩa là mê đắm (như trong đam mê), “Mỹ” là đẹp đẽ (như trong mỹ lệ). Nhưng khi dùng cho tiểu thuyết, phim ảnh, hai chữ “đam mỹ” hàm ý tình yêu giữa người nam và người nam. (Tiếng Anh là “Danmei“: The male same-sex romance genre of “boys’ love“)
Trong năm 2021, hãng phim Netflix của Hoa Kỳ đã cùng một lúc phổ biến 4 bộ phim đam mỹ: Trần Tình Lệnh (The Untamed), Sơn Hà Lệnh (Word of Honor), Âm Dương Sư: Tình Nhã Tập (The Yin-Yang Master: Dream of Eternity), và Thiên Bảo Phục Yêu Lục (The Legend of Exorcism).
Những bộ phim này đều có chung một số ưu điểm: Kịch bản hấp dẫn, cảnh quan lộng lẫy, dàn diễn viên trẻ, đẹp, giỏi diễn xuất (riêng Thiên Bảo Phục Yêu Lục là phim hoạt họa). Nội dung cả 4 bộ phim đều xoay quanh mối tình lãng mạn giữa hai nhân vật nam chính.
Nhưng tại sao chỉ là “lãng mạn“?
Bởi vì trong phim hoàn toàn không có những cảnh ướt át, mùi mẫn như hôn hít, vuốt ve, làm tình… điều vẫn thấy nhan nhản trong các phim đồng tính nam. Ở đây, tình yêu chỉ được thể hiện qua ánh mắt tha thiết, lời nói ân cần. Yêu là quan tâm lẫn nhau, thông cảm với nhau, hy sinh mạng sống cho nhau. Những cảnh thân mật nhất chỉ có: nắm tay khi trị thương, đỡ nhau khi bất tỉnh, choàng vai khi… khinh công.
Nhưng nếu đã “thụ thụ bất thân” (1) đến như thế, tại sao Bắc Kinh phải nhảy dựng lên?
Trước khi trả lời câu hỏi này, tưởng cũng nên nhắc lại quan niệm “Tri Kỷ” trong văn hóa Trung Hoa.
Hai chữ tri kỷ dùng để chỉ một người bạn rất thân, thân đến mức có thể thông cảm và hết lòng với mình. Những đôi tri kỷ trong sử Tàu được nhắc tới nhiều nhất là Bá Nha-Tử Kỳ và Quản Trọng-Bảo Thúc Nha. Còn bộ ba anh em kết nghĩa Lưu Bị-Quan Vũ-Trương Phi là tình “huynh đệ-chiến hữu“, chiến đấu bên nhau, sống chết cùng nhau. Thế nhưng những cặp tri kỷ ấy, ai nấy đều có gia đình riêng, có vợ con, thậm chí còn có nhiều vợ.
Còn khi hai người nam yêu nhau tới mức trở thành tình nhân thì không gọi “Tri Kỷ” nữa mà là “Đoạn Tụ“.
“Đoạn” là chặt đứt, “Tụ” là tay áo. Hai chữ ấy có nguồn gốc từ điển tích “Chặt tay áo“: Đổng Hiền được vua Hán Ai Đế yêu thương, nằm gối vào tay áo vua mà ngủ. Khi vua dậy trước, không nỡ đánh thức, bèn cắt luôn tay áo mà đứng lên.
Văn hóa Trung Hoa ca ngợi tình tri kỷ như thứ tình cao quý giữa người và người, nếu là nam và nữ thì nữ là “hồng nhan tri kỷ” của nam. Tri kỷ cũng có nguyên tắc của tri kỷ. Một trong những nguyên tắc chính yếu là phải “đạm“, tức không bày tỏ lộ liễu, như câu “Quân tử chi giao đạm nhược thủy” (2). Tình của của người quân tử lạt như nước, nước nhờ lạt mà không ngán.
Một câu khác (tương truyền của thừa tướng Gia Cát Lượng) còn nói rõ thêm: “Ôn bất phiền hoa – Hàn bất cải diệp” – Ấm không nở hoa, lạnh không thay lá – Ý nói trong giao tình nên giữ thái độ bình thản, không vồ vập khi thích nhau nhưng cũng không hắt hủi khi hết thích nhau.
Nước Việt ta truyền tụng tình bạn tri kỷ giữa hai thi hào Nguyễn Khuyến và Dương Khuê. Khi cụ Nghè Dương ra đi, cụ Tam Nguyên Yên Đổ viết bài thơ khóc bạn, khóc thương người đi nhưng cũng khóc thương chính mình, vì mất tri kỷ đồng nghĩa mất đi người có thể chia sẻ với ta những điều tinh tế nhất.
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
Giường kia treo những hững hờ
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.
Tình tri kỷ còn là thứ tình bạn chỉ có được ở những bậc hào hoa nhất, phong lưu nhất, những con người không màng tiền tài, danh lợi. Bài hát “Si Tình Mộ“, trong phim Âm Dương Sư, đề cao tình cảm cao quý ấy với hai câu thơ: “Bất cầu anh hùng vạn thế danh – Đãn cầu tri kỷ đồng lộ hành” (3)- Cần chi danh tiếng anh hùng, những mong tri kỷ đi chung một đường.
Người đàn ông phương Tây cũng cảm nhận những tình bạn sâu sắc giữa họ với nhau, nhất là trên chiến trường. Tác phẩm “All Quiet on The Western Front” (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh) của ErichM. Remarque có đoạn miêu tả thứ cảm tình lạ lùng mà thâm trọng ấy.
“Now I hear muffled voices. To judge by the tone that might be Kat talking…These voices, these quiet words, these footsteps in the trench behind me recall me at a bound from the terrible loneliness and fear of death by which I had been almost destroyed. They are more to me than life, these voices, they are more than motherliness and more than fear; they are the strongest, most comforting thing there is anywhere: they are the voices of my comrades. I am no longer a shuddering speck of existence, alone in the darkness – I belong to them and they to me; we all share the same fear and the same life, we are nearer than lovers, in a simpler, a harder way; I could bury my face in them, in these voices, these words that have saved me and will stand by me.“
(Tôi chợt nghe thấy tiếng ai đó nói nho nhỏ. Nghe ra như giọng của Kat… Những tiếng nói, những lời nho nhỏ, những bước chân trong chiến hào ở sau lưng, đã kéo giật tôi ra khỏi nỗi cô đơn và nỗi sợ chết kinh hoàng suýt nữa quất tôi đổ sụm. Những tiếng nói ấy, với tôi, còn hơn cả sự sống, hơn cả tình mẫu tử, hơn cả nỗi sợ hãi; Chúng là thứ mạnh mẽ nhất, ủi an nhất: Chúng là tiếng đồng đội của tôi. Tôi không còn là một một đốm sáng thoi thóp lập lòe, lẻ loi trong bóng tối – tôi thuộc về họ và họ thuộc về tôi. Tất cả chúng tôi đều có chung nỗi sợ hãi và có chung cuộc sống. Chúng tôi gần gụi nhau hơn cả tình nhân, thật dễ dàng mà cũng thật khó khăn. Tôi có thể vùi mặt vào họ, vào những tiếng nói của họ, những tiếng nói ấy đã cứu lấy tôi và sẽ đứng bên tôi.)
Tình “huynh đệ chi binh” cũng khiến độc giả chúng ta say mê theo dõi từng bước chân của bốn chàng lính Ngự Lâm của Alexandre Dumas. Dù xuất thân rất khác, tính tình cũng rất khác, Athos, Porthos, Aramis và d’Artagnan vẫn gắn bó với nhau trong những điệp vụ gian nan, kéo dài từ tác phẩm”Les Trois Mousquetaires” (Ba Chàng Ngự Lâm Quân) tới tác phẩm “Vingt Ans Après” (Hai Mươi Năm Sau).
Và nếu không dựa vào tình tri kỷ thì Conan Doyle sẽ khó lòng viết nên những trang trinh thám mãi mãi mê hoặc lòng người giữa chàng thám tử tài hoa Sherlock Holmes và người bạn của anh – Dr. Watson. Khi Watson bị trúng đạn, chứng kiến biểu cảm của Holmes, lòng ông tràn đầy xúc động:
It was worth a wound; it was worth many wounds; to know the depth of loyalty and love which lay behind that cold mask. The clear, hard eyes were dimmed for a moment, and the firm lips were shaking. For the one and only time I caught a glimpse of a great heart as well as of a great brain. All my years of humble but single-minded service culminated in that moment of revelation.
(Vết thương thật đáng giá; cho dù nhiều vết thương hơn nữa vẫn thật đáng giá. Nhờ nó, mới thấy ẩn sau lớp mặt nạ lạnh lùng kia là thăm thẳm tình thâm nghĩa trọng. Chỉ một thoáng qua thôi, nhưng tôi thấy đôi mắt vốn dửng dưng kia bỗng chợt tối lại, đôi môi nghiêm nghị kia chợt khẽ run lên. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất tôi được thấy một trái tim vĩ đại và một khối óc vĩ đại. Tất cả những năm tháng âm thầm tận tụy của tôi, cuối cùng, cũng đã viên mãn chỉ trong cái khoảnh khắc diệu kỳ ấy.)
Trên đây, là một vài ví dụ cho tình tri kỷ của những thời trước kia. Dù Đông hay Tây, phái nam thường thích tụ họp, quây quần với nhau. Đó có thể là vết tích của người tiền sử chăng, khi đàn ông giữ nhiệm vụ săn bắt, họ phải cùng nhau đối đầu với những loài dã thú to khỏe và hung dữ.
Và bây giờ, xin được trở về với chủ đề phim đam mỹ.
Hai bộ phim truyền hình nhiều tập Trần Tình Lệnh và Sơn Hà Lệnh đều được chuyển thể từ tiểu thuyết kiếm hiệp đam mỹ. Hai nhân vật nam chính trong truyện đều thuộc loại “đoạn tụ“, tiếng Anh là “gay man“, tiếng Việt là “đàn ông cong“, trái với “đàn ông thẳng – straight man“. Thế nhưng, để qua được kiểm duyệt, phim được sửa đổi để chỉ còn là tình tri kỷ, các cặp tình nhân nam-nam đều bị đặt trong cái thế “tình trong như đã mặt ngoài còn e” (4).
Thế mà Bắc Kinh vẫn lo sợ! Nói cho ngay, có lý do để lo sợ. Ít nhất vì 3 lý do sau đây:
Thứ Nhất, cho tới nay, Trung Cộng vẫn giữ thái đồ lình xình với giới đồng tính: “Không cấm đoán cũng không cho phép“. Sự thành công vượt bực của Trần Tình Lệnh và Sơn Hà Lệnh kéo theo cả một chuỗi những bộ phim đam mỹ khác đang rục rịch ra lò. Điều đó sẽ khiến xã hội có thiện cảm nhiều hơn với giới đồng tính. Và đó chính là bệ phóng cho những đòi hỏi mạnh mẽ hơn về quyền đồng tính. Thế nhưng, Đảng Cộng Sản vốn rất ghét bị áp lực bởi người dân. Không nên quên Bắc Kinh đã sẵn sàng nã súng vào chính đồng bào mình trong biến cố đẫm máu Thiên An Môn 1989, dù đó chỉ là một đoàn thanh niên sinh viên tay không tấc sắt, biểu tình ôn hòa.
Thứ Hai, các phim đam mỹ góp phần làm thay đổi “gu” thẩm mỹ về nam giới của giới trẻ Hoa Lục ngày nay. Từ thời Mao Trạch Đông, các tranh cổ động Trung Cộng đều mô tả “Con người Xã Hội Chủ Nghĩa” qua hình ảnh những nông dân, công nhân to khỏe vạm vỡ với nét mặt rạng rỡ tươi vui. Thế nhưng, khi Hoa Lục “mèo trắng, mèo đen“(5) mở cửa, các tư tưởng bên ngoài đã tràn vào và làm lung lay các giáo điều cộng sản.
Bắt đầu từ những cuốn truyện tranh Nhật Bản (6).
Có lẽ vì người châu Á vốn thấp lùn, mũi tẹt, mắt hí, nên các nhân vật truyện tranh thường được vẽ với thân hình dong dỏng cao, sóng mũi thẳng và cặp mắt to, ngay cả người nam cũng xinh đẹp một cách thanh tú. Thế nhưng, ước mơ thoát khỏi kiếp “em sinh ra trời bắt xấu” chỉ thành sự thật khi giải phẫu thẩm mỹ trở nên tân tiến hơn, rẻ tiền hơn. Thanh thiếu niên Hàn Quốc đua nhau đi cắt mắt, sửa mũi, gọt cằm… tới mức các nam, nữ diễn viên người nào người nấy đều trông hao hao giống nhau, ai cũng mắt to, cũng cằm nhọn V-line, tới mức nhìn cứ ngỡ tất cả đều là anh chị em!
Xứ sở tỷ dân nào chịu thua kém xứ sở kim chi. Để theo kịp “đợt sống mới“, các diễn viên màn bạc cũng được tuyển chọn theo tiêu chuẩn mới. Các nam anh hùng không còn mang dáng “đường đường một đấng anh hào” mà nay phải “chân dài, ngực mỏng, da trắng, mặt gầy, môi nhỏ“. Thế nhưng, các “nam thần, soái ca” mảnh mai, ẻo lả ấy không hề làm giảm sút khí chất, phong độ của các nhân vật trong truyện và phim, thậm chí họ còn làm nổi bật hơn tài mạo siêu việt bởi vì ai nấy đều sở hữu “võ công cái thế, nội lực kinh người“.
Thế nhưng, đứng ở góc nhìn trần trụi của giới cầm quyền cộng sản, những chàng “trai đẹp” ấy làm sao có thể cầm súng ra trận theo “tiếng gọi tổ quốc“. Chưa kể, rất nhiều người trong số họ lại là con trai độc nhất trong gia đình, từ nhỏ đã được cưng chiều rất mực. Liệu Bắc Kinh sẽ có được một đoàn quân hùng hậu với những “cậu ấm“? Trào lưu “mỹ nhân hóa” nam thanh niên trở thành mối nguy cơ làm mất đi sức mạnh cơ bắp của quân đội. Quân đội mà yếu thì Trung Cộng còn hung hăng đe dọa được ai?
Và lý do Thứ Ba, cũng tiềm ẩn nguy cơ không kém hai lý do trên, đó là các hội kín. Cộng đồng LGBT (Lesbian, Gay, Bisexual, và Transgender) ở Hoa Lục vốn đã có những tụ điểm ở một số thành phố tương đối cởi mở. Trên thực tế, không dễ dàng phân biệt ai là đồng tính. Một người đàn ông vai u thịt bắp vẫn có thể là “nữ” trong mối tư tình. Những câu lạc bộ, hội kín ấy biết đâu chừng cũng là những “ổ chứa phản động“? Không nên quên Pháp Luân Công chỉ là một giáo phái tu học “chân, thiện, nhẫn” vậy mà đã khiến cho Bắc Kinh lo sợ tới mức phải dùng mọi cách “đuổi tận, giết tuyệt” vô cùng tàn độc.
Những hội đoàn có tính chất “nghĩa huynh – nghĩa đệ” khiến Bắc Kinh liên tưởng tới “108 Hảo Hán Lương Sơn Bạc” đã từng làm rung chuyển triều đình phong kiến. Nhóm huynh đệ ấy đã thất bại ở Thủy Hử, nhưng tại thế kỷ 21 này – khi Tự Do là ngọn gió bất khả đảo chiều, những con người ấy rất có khả năng sẽ làm tiêu ma chế độ “phong kiến đỏ“, dù cho nó có giảo quyệt và tàn nhẫn hơn những triều đại xưa gấp chục lần hơn.
Với 3 lý do vừa kể trên, không khó để hiểu tại sao nhà cầm quyền Trung Cộng đã hạ lệnh ngăn cấm vô thời hạn những bộ phim điện ảnh thể loại “đồng tính nam” cho dù đó chỉ là tình tri kỷ hay tình huynh đệ.
Về thị trường điện ảnh châu Á mà nói, khi khán giả đã chán ngấy các thể loại ngôn tình sướt mướt, cung đấu trí trá, tiên hiệp viển vông… việc họ quay ra say mê tình bạn tri kỷ ấm áp “sống chết có nhau, không rời không bỏ ” là điều dễ hiểu.
Câu hỏi đặt ra là: Liệu giới điện ảnh Hoa Lục có bó tay chịu thua hay không?
Kịch bản cho một mối giao tình nam-nam không thể bỏ qua 2 yếu tố: thiện tâm và dũng khí.
Bởi, dù vẻ ngoài mềm mỏng, những nhân vật chính đều vẫn là những anh hùng, tình yêu của họ không thể chỉ nhìn vào mắt nhau mà phải cùng nhìn về một hướng: trừ gian, diệt ác. Mà, chỉ anh hùng mới có tri kỷ, không có tình bạn giữa kẻ cướp.
Và, đó có thể là lý do Thứ Tư khiến Bắc Kinh căm ghét các chàng trai vừa trẻ, vừa đẹp, lại còn tự do, phóng khoáng… trong các phim “đam mỹ“. Bởi, Đảng Cộng Sản không cần tới anh hùng, vì Đảng Cộng Sản chỉ là một bọn cướp.
Trịnh Bình An
***
Ghi chú:
(1) “Nam nữ thụ thụ bất thân“: Nam nữ không được tiếp xúc thân thiết. Câu này được trích trong sách “Li Lậu Thượng” của Mạnh Tử. Vốn có hai vế, nhưng vế thứ hai thường bị bỏ sót. Nguyên văn: “Nam nữ thụ thụ bất thân, lễ dã; Tẩu nịch viên chi dĩ thủ, quyền dã” (Giữa nam và nữ không nên trực tiếp trao nhận vật phẩm bằng tay, đó là lễ nghi; Nhưng nếu chị dâu rơi xuống sông thì (em chồng) dùng tay để cứu, đó lại là thích ứng). Chữ “Quyền“, bộ Mộc, chỉ sự thích ứng, tuy trái với đạo thường nhưng hợp với lẽ phải. Bài viết dùng thành ngữ này để chỉ sự cứng nhắc trong văn hóa Trung Hoa.
(2) Nguyên câu văn trong “Trang Tử Nam Hoa Kinh“: “Quân tử chi giao đạm nhược thủy, tiểu nhân chi giao cam nhược lễ” (Quân tử đối xử với nhau nhạt như nước lã, tiểu nhân thì lại ngọt như rượu nếp).
(3) Nguyên đoạn là: “Bất cầu anh hùng vạn thế danh. Đãn cầu tri kỷ đồng lộ hành. Tâm như băng tuyết khiên như điệp. Thị phi đối thác vô bằng tá“. (Chẳng cần được tiếng anh hùng ngàn năm. Chỉ mong có tri kỷ đi cùng đường. Trái tim như băng tuyết, đôi vai như cánh bướm (lạnh với các ham muốn, nhẹ với các mưu cầu). Thị phi đúng sai không can dự vào).
(4) “Người quốc sắc kẻ thiên tài – Tình trong như đã mặt ngoài còn e“. Tả dáng vẻ thẹn thùng của Kim Trọng và Thúy Kiều khi gặp gỡ lần đầu tiên. Trích “Đoạn Trường Tân Thanh” của Nguyễn Du.
(5) Nguyên văn câu nói của Đặng Tiểu Bình: “Bất quản hắc miêu bạch miêu, năng tróc lão thử đích tựu thị hảo miêu” (Bất kể là mèo trắng hay mèo đen, miễn bắt được chuột thì đều là mèo tốt). Từng bị Mao Trạch Đông coi là tư tưởng “gió nghịch chiều“, dẫn đường đến chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, câu này có xuất xứ từ bộ tiểu thuyết “Liêu Trai Chí Dị” – Truyện “Khu Quái” – của Bồ Tùng Linh. Đời nhà Thanh, tú tài họ Từ không muốn phục vụ triều đình, bèn bỏ đi học đạo thuật để giúp người trừ ma quỷ. Có một đại quan triều đình mời ông ta đến trừ ma quỷ, hầu hạ đãi đằng cơm ngon rượu ngon nhưng tuyệt không mở miệng nói gì đến chuyện trừ ma quỷ. Đến tối có một con quái vật đầu người mình thú hiện đến ăn cơm thừa canh cặn. Từ tú tài sợ mất hồn hét loạn lên làm con quái thú cũng hoảng hồn chạy mất, từ sau không xuất hiện nữa. Người đời cảm thán rằng: “Hoàng ly hắc ly đắc thử giả hùng” (Dù chồn vàng hay chồn đen, cứ bắt được chuột là thành anh hùng).
(6) Nhật Bản gọi truyện tranh là Manga. Hàn Quốc là Manhwa. Trung Hoa là Manhua. Cả ba loại truyện đều có phong cách vẽ tương tự như nhau.
<<<<<<<<<<< FOR REFERENCE ONLY – DO NOT USE >>>>>>>>>>
Văn học nghệ thuật không phải là một mớ thuyết giảng đạo đức mà là cả một thế giới thấm đẫm tình người, có khả năng đánh thức, lay động nhân tính, gây nên những xúc động thẩm mỹ, đeo bám, ám ảnh, thôi thúc con người tự hoàn thiện không ngừng.
Người LGBT ở Việt Nam bao gồm những người đồng tính luyến ái, song tính luyến ái và người chuyển giới. LGBT là cụm từ viết tắt các chữ cái đầu gồm Lesbian, Gay, Bisexual, và Transgender/transsexual people (những người đồng tính nữ, người đồng tính nam, người song tính và người chuyển giới trong tiếng Anh)
“Nam nữ thụ thụ bất thân”: Nam nữ không được tiếp xúc thân thiết. Câu này được trích trong sách Li Lậu Thượng 離婁上của Mạnh Tử. Vốn có hai vế, nhưng vế hai thường bị bỏ sót. Nguyên văn: “Nam nữ thụ thụ bất thân, lễ dã; Tẩu nịch viên chi dĩ thủ, quyền dã” 男女授受不親, 禮也; 嫂溺援之以手, 權也 (“Giữa nam và nữ không nên trực tiếp trao nhận vật phẩm bằng tay, đó là lễ nghi; Nhưng nếu chị dâu rơi xuống sông thì (em chồng) dùng tay để cứu, đó lại là thích ứng”). Chữ “Quyền” bộ Mộc 權, là sự thích ứng, tuy trái với đạo thường nhưng hợp với lẽ phải.
Như trong các câu ngạn ngữ “Chấp kinh tòng quyền“: Tuy giữ đạo thường nhưng cũng có lúc phải theo hoàn cảnh mà biến đổi đi; “Ngộ biến tòng quyền“: Gặp cảnh biến phải theo đạo “quyền” (không thể giữ nguyên đạo “kinh” như lúc bình thường).
Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,
Có khi biến có khi thường,
Có quyền nào phải một đường chấp kinh .
(Kiều)
Nguyên văn của Đặng Tiểu Bình : “Bất kể mèo vàng hay mèo đen, phương pháp nào có lợi cho khôi phục sản xuất thì áp dụng phương pháp đó. Tôi tán thành việc nghiêm túc nghiên cứu khoán sản lượng đến từng hộ gia đình”. Từng bị Mao Trạch Đông coi là tư tưởng “gió nghịch chiều”, dẫn đường đến chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, câu này có xuất xứ từ bộ tiểu thuyết “Liêu Trai Chí Dị” của Bồ Tùng Linh. Tại quyển 3, cuối thiên Khu Quái (Trừ Tà) có câu: “Dị sử thị viết: hoàng li hắc li, đắc thử giả hùng”. (Mèo vàng mèo đen, chỉ cần bắt được chuột thì đều là mèo tốt).
“Hoàng ly hắc ly đắc thử giả hùng”. Thành ngữ xuất xứ: Dị Sử Thị viết: “Hoàng ly hắc ly đắc thử giả hùng, thử phi không ngôn dã”. (Thanh Bồ Tùng Linh: Liêu Trai Chí Dị – Khu Quái). Thanh triều thời kỳ, Từ tú tài bất nguyện vi Thanh đình phục vụ, tựu cải học đạo thuật vị nhân khu quỷ. Nhất cá triều đình đại viên thỉnh tha khu quỷ, hảo tửu hảo thái thị hầu, bế khẩu bất đàm khu quỷ sự tình. Vãn thượng nhất đầu thú đầu nhân nhân đích quái vật lai thiểm thực thặng thái thặng phạn. Từ tú tài hách đắc bính mệnh cuồng khiếu hách bào liễu na quái vật, hậu lai tái dã một phát hiện liễu. Nhân môn cảm thán: Hoàng ly hắc ly đắc thử giả hùng.
* DỊCH TIẾNG VIỆT: Xuất xứ thành ngữ này từ lời bàn của Dị Sử Thị: “Hoàng ly hắc ly đắc thử giả hùng, chẳng phải là lời nói suông”. (Truyện Khu Quái trong Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh). Đời nhà Thanh, tú tài họ Từ không muốn phục vụ triều đình, bèn bỏ đi học đạo thuật để giúp người trừ ma quỷ. Có một đại quan triều đình mời ông ta đến trừ ma quỷ, hầu hạ đãi đằng cơm ngon rượu ngon nhưng tuyệt không mở miệng nói gì đến chuyện trừ ma quỷ. Đến tối có một con quái vật hiện đến ăn cơm thừa canh cặn. Từ tú tài sợ mất hồn hét loạn lên làm con quái vật cũng hoảng hồn chạy mất, từ sau không xuất hiện nữa. Người đời cảm thán rằng: Dù chồn vàng hay chồn đen, cứ bắt được chuột là thành anh hùng.
1. Ly 狸 là con chồn.
2. Câu nói của Đặng Tiểu Bình hơi khác: “Bất quản hắc miêu bạch miêu, năng tróc lão thử đích tựu thị hảo miêu” (不管黑貓白貓,能捉老鼠的就是好貓).
1 trang mạng của Tàu về “đam mỹ điện ảnh” (danmei movies):
Good-looking Danmei English movies recommendations (2015)
(Hảo khán đích đam mỹ Anh văn điện ảnh suy tiến 好看的耽美英文电影推荐)
Hảo khán = nice, beautiful. Google dịch là good-looking.
Nguyên câu văn trong Trang Tử Nam Hoa Kinh: “Quân tử chi giao đạm nhược thủy, tiểu nhân chi giao cam nhược lễ” 君子之交淡若水小人之交甘若醴. (Cam nhược lễ = ngọt như rượu nếp).
VĂN: Hương Xưa, Ngày Tháng Cũ – ĐỖ DUNG
Hương Xưa, Ngày Tháng Cũ.
Những Kỷ Niệm Thời Trưng Vương
Đỗ Dung
Các bạn đồng khoá chúng tôi, TV 58-65, muốn cùng nhau thực hiện một cuốn Đặc San đặc biệt ngày năm mươi năm dời trường. Hạn chót nộp bài là cuối tháng January. Hôm nay, 14/1/2015. Tôi biết viết gì đây?Bạn? Bè? Bạn một đời? Bạn một thời? Có những người tưởng như bạn một đời, có những người tưởng chỉ là bạn một thời… Những khuôn mặt từ từ hiện lên, những kỷ niệm cũ uà về. Bẩy năm Trung Học, mấy năm lên Đại Học, rồi tan tác, chia lià, rồi lại đoàn viên. Những Đại Hội trùng phùng cảm động, bùi ngùi nhận ra nhau, hay biết thêm về nhau nhiều hơn để tiếp tục gắn bó.
Những hỗn danh Chính Tốn, Châu Sình, Ngân Le, Dung Lu, Tí Ti, Bé Bự… đưa tôi về khoảng thời gian vui vẻ nên thơ nhất của đời người, bẩy năm Trung Học. Bẩy năm aó trắng tung tăng, mấy năm cuối với những mộng mơ, những rung động nhẹ nhàng của một thời con gái.
Một buổi sáng muà hè năm 1958, mẹ tôi chất bốn chị em chúng tôi, đứa lớn nhất 11 tuổi, đứa bé nhất mới lên 5, cùng ngồi với mẹ trên một chiếc xe xích lô máy đến trường Trưng Vương xem kết quả thi vào Đệ Thất. Chả hiểu sao khi tôi đem bản nháp bài thi về cho cha tôi xem thì ông đoán như đinh đóng cột là “Con bố phải đỗ”, dù là trường chỉ chọn ba trăm học sinh trong số gần ba ngàn thí sinh từ các trường Tiểu Học khắp nơi dự thi. Mẹ tôi không dám tin chắc nhưng vì tiện xe và trường gần Thảo Cầm Viên nên cho các em tôi đi chơi một thể. Thật may mắn, loa phóng thanh mới phát ra một lúc đã thấy đọc đến tên tôi. Mấy chị em tôi đã rú lên mừng rỡ. Để cho chắc chắn mẹ tôi bắt đợi khi nhà trường đọc hết danh sách, đến dò tên ở bảng dán trên tường với số báo danh rõ ràng mới yên chí. Mấy chủ xe đưa đón học sinh xúm xít vây quanh những phụ huynh có con trúng tuyển để quảng cáo lấy khách. Mẹ tôi nói địa chỉ nhà, họ chuyển sang cô Năm-chú Sáu, hai vợ chồng chủ xe chạy lộ trình này. Mẹ trả tiền xe cho cô Năm và cô hẹn ngày khai trường sẽ đến tận nhà đón.
Ngày khai trường đến, tôi xúng xính trong chiếc áo dài ngồi đợi, hồi hộp, lo âu trong sung sướng mình đã là nữ sinh Trưng Vương. Trên xe có hai nhỏ TV ngồi sẵn, Phùng Thị Chính, Lan Phương. Đi đến gần đầu đường thêm nhỏ Thu Hà với Kim Loan. Thì ra nguyên một khúc Thành Thái này đã có bốn TV be bé. Nhà Chính ở chợ An Đông. Xe cô Năm-chú Sáu đưa rước hai trường, Trưng Vương và thêm một trường Tiểu Học Tầu trong Chợ Lớn. Mỗi ngày khi xe đưa học trò nhỏ trường Tầu về là đón TV đi học. Sau đường Trần Hưng Đạo thì trên xe chỉ còn có TV. Bích Liễu ở khu Nancy, có biệt danh là Chuột Chù Phan Văn Trị, không biết ai đặt, có lẽ tại cô nàng tuổi Tí. Xe đón Bích Liễu là đón luôn chị Bạch Lan. Lê Thị Bảo ở Cô Bắc. Tôi còn nhớ ngoài TV 58-65 còn các TV lớp lớn hơn như Kim Chung, Bạch Lan, Tuyết Phương, Hồng Nhung, Hạnh, Hiếu… Năm sau có thêm Bích Từ, Trần Thị Phương, Tuyết Như rồi kế tiếp là Thục Văn, Kim Tâm và mấy chị em nhà hàng len ở Lê Thánh Tôn…
Những ngày đi xe trường có nhiều chuyện thật vui. Tôi hay giành ngồi ngay đối diện cô Năm ở phía sau cùng để phụ cô làm lơ xe. Mỗi khi xe ghé đón hay thả học trò thì la lên “Cho xe ghé dzô đi” một cách khoái trá. Xúm lại chọc sao Cô Năm mà lại Chú Sáu, vậy là cô Năm lớn hơn chú Sáu… hahaha! Những ngày nghỉ thỉnh thoảng tôi đi chợ An Đông, leo lên lầu nhà Chính rồi hai đứa chui vào một xó chuyện trò. Ngày họp ĐH ở nhà hàng Paracel, sau mấy chục năm không gặp, tưởng Chính đã quên nhưng tự nó đến vỗ vai tôi mà nói, hồi đó bà cụ tao gọi mày là “Cái Tròn”. Cụ có nhắc đến mày đấy.
Những năm đệ nhất cấp chúng tôi học buổi chiều. Ngày đầu tiên bước vào ngôi trường thân yêu ấy, chúng tôi xếp hàng theo từng lớp dưới sân trường, chào cờ, nghe huấn từ của bà Hiệu Trưởng Tăng Xuân An; lời chỉ dạy của bà Giám Học Nguyễn Thị Phú về chương trình giáo dục; cô Tổng Giám Thị Nguyệt Minh nhắc nhở về hạnh kiểm, công dung ngôn hạnh, những nết na của người con gái và nói về những kỷ luật của nhà trường. Trong mắt tôi lúc đó, ba bà trong Ban Giám Hiệu thật đẹp và oai nghi. Nhất là cô Tổng Giám Thị.
Giáo sư chính lớp tôi là bà An Thị Kỷ, bà Giám Thị Trí và đặc biệt tôi nhớ hai chị tuỳ phái, chị Ngọ tóc vấn khăn để trần. Chị Nụ ngoài khăn vấn quấn tròn trên đầu còn phủ thêm chiếc khăn vuông màu đen gấp chéo buộc lại phiá sau thành khăn mỏ quạ. Nhìn hai chị, tôi nhớ vú Hạnh, chị Dần nhà tôi ngoài Hà Nội, quần áo tiêu biểu chính cống Bắc Kỳ xưa. Chúng tôi quen dần với bạn mới. Mấy em bé bé dãy bàn đầu có Tạ Bạch Mai Hương, Đan Hà, Nguyễn thị Hợp, Nguyễn Thị Minh Hà, Mai Oanh, Bích Trâm, Vân Bằng, Vân Anh, Bùi Nga, Đinh Thị Bạch Tuyết, Cấn Thị Hạnh Viên, Bùi Kim Liên… Dãy bàn nhì với Kim Khánh, Hoàng Kim Liên, Trương Kim Lan, Nguyễn Thị Hà, Phan Song Hà, Đào Dung, Đoàn Dung, Đỗ Dung. Bích Liễu hình như ngồi góc phía bên kia với Phùng Thị Chính, Kim Chinh và Trịnh Thị Thảo. Mấy dẫy bàn phía sau có Nguyễn Hoàng Vân Hương, Đỗ Thị Hạnh, Trần thị Hương, Phạm Thị Triệu, Phạm Xuân Mai, Nguyễn thị Lan, Lê thị Ánh, Đỗ thị Anh Thư, Nguyễn thị Kim Dung, Trần Thị Nhạc Lưu, Nguyễn Lệ Hải, Nguyễn thị Kim Lan, Nguyễn Thị Thư, Nguyễn Thị Lê, Phạm Thị Chúc, Hồ Thị Nhan, Trần Thị Liên, Nhẫn, Đạo, Duyên, Phạm Minh Đường, chị em Phương Khanh, Phương Thảo, Nguyễn Cung Thị Sính, Vũ Thị Minh Hà, Lê Thị Bảo… Chuyện gần sáu chục năm nên trí óc cũng cùn đi, tôi nhớ là sĩ số gần sáu mươi mà cố cũng không thể nhớ nổi hết.
Tết năm đó lớp chúng tôi tập múa bài Tiếng Sáo Thiên Thai. Mới đầu Trịnh Thị Thảo là cô nàng tiên chính, đứng giữa; cuối cùng chẳng hiểu sao Vân Hương phải thay thế, cô nàng phải miễn cưỡng thế mạng phút chót nên mặt bí xị không được vui. Tôi chỉ nhớ hai cô tiên bé Tạ Bạch Mai Hương và Phạm Vân Bằng thật là xinh. Đến ngày lễ Hai Bà, thày Nguyễn Cường thiết kế xe hoa hình con công với những dải lụa dài đằng sau, một bầy nữ sinh cầm lụa múa như đuôi công. Lớp tôi cũng có vài người được tuyển chọn vào nhóm múa này.
Năm đó còn có một kỷ niệm khó quên. Lớp học trên lầu ba, một ngày, sau khi sắp hàng và được lệnh vào lớp, chúng tôi chạy rầm rập lên cầu thang, khốn nỗi cầu thang gỗ và nhiều đứa còn đi guốc nên cứ nện thoải mái. Bà Giáo Sư chính An Thị Kỷ cho ngay cả lớp đi cấm túc ngày Chủ Nhật vì tội “Chạy ầm ầm ở cầu thang”. Từ đó chúng tôi phải mang giày, dép cao su, nếu đi guốc phải đóng đế.
Những năm đệ nhất cấp từ từ trôi, sau ba tháng nghỉ hè, ngày tựu trường gặp lại, nhìn nhau như lớn phổng hẳn lên. Có một TV đã nói rằng rung động đầu đời của nữ sinh TV là yêu cô giáo. Những “cây si” thập thò ngoài cửa lớp có cô để ngắm cô. Giờ tan trường rủ nhau theo đuôi cô như đám rước. Những cô giáo Trưng Vương thật là đáng yêu. Gần như mỗi đứa có một thần tượng cho riêng mình và nghỉ hè xa cô cũng nhớ nhung, xin địa chỉ để đến nhà cô ngồi chầu cho đỡ nhớ. Các cô có nhiều học trò mê như cô Tố Lan, cô Kim Thi, cô Hồng Diệp, cô Lệ Khanh, cô Mộng Ngọc, cô Thuý Nga, cô Ngọc Quỳnh, cô Ninh, cô Trâm, cô Vinh, cô Thái, cô Hồng, cô Lưu Kim Dung… Còn với tôi, cô Xuân Sanh yêu quý của tôi là nhất. Có hai giai thoại mà mỗi khi nghĩ đến tôi lại bật cười. Những lần có quốc khách hay những ngày lễ lớn chúng tôi phải thức dậy thật sớm để xếp hàng đi đón hoặc đi tham dự. Những ngày đó chúng tôi phải mặc đồng phục với quần trắng. Có người thắc mắc: “Thưa cô, nhỡ “bị” có được nghỉ không ạ?” Cô giáo đã mắng ngay: “Con gái… bị thì phải biết chuẩn bị!”. Nhưng mặc dù đã chuẩn bị kỹ càng, vậy mà một bạn tôi đã “kẹt” làm tụi tôi phải vây xung quanh để che cảnh “mặt trời mọc”. Và… một năm, ngày lễ Hai Bà, hai nữ sinh Gia Long và Trưng Vương được hân hạnh đóng vai Hai Bà Trưng ngồi oai nghi trên lưng voi, làm lễ xong còn phải đi diễn hành. Các chị phải đến trường từ tờ mờ sáng, ngồi phơi nắng đến xế trưa, vừa mệt vừa phải ngồi lâu quá trên thớt voi, không giải tỏa được “bầu tâm sự”, vừa xong buổi diễn hành tự nhiên một trong hai bà Trưng ngất xỉu, phải bế xuống và “voi đã đổ mồ hôi”! Lên đệ nhị cấp chúng tôi chuyển sang học buổi sáng. Khu nhà tôi không có xe trường, chúng tôi phải tự túc. Thường buổi sáng tôi đón xe buýt Cây Mai-Cây Gõ ngay góc Thành Thái – Trần Bình Trọng hoặc xe lam lên bến xe trung tâm tại chợ Bến Thành rồi chuyển sang chuyến xe khác lên đường Thống Nhất ngay trước cổng sở thú rồi từ từ thả bộ tới trường. Mãi đến năm Đệ Nhất tôi mới được thừa hưởng chiếc velo solex của anh tôi đi du học để lại.Năm Đệ Tam đã có những lúc bước chân vướng vít vạt aó dài, mặt nóng bừng khi đi qua quán Hẹn hoặc đi ngang La Pagode trong lúc rủ nhau đi bộ về chợ Bến Thành mới lên xe buýt về nhà.
Từ Đệ Tam chúng tôi đã phải chọn ban thích hợp với nghề nghiệp sau này. Lớp Tam A1 chúng tôi có một số bạn cùng học từ lớp dưới, một số từ lớp khác và vài bạn từ trường ngoài. Đã lớn hơn một chút, chúng tôi thân nhau hơn. Ngày nghỉ đã ra dáng người lớn, không chơi rải ranh hay đánh chuyền nữa mà bắt đầu đến nhà nhau để nướng bánh kẹp, đổ bánh xèo, chiên bánh tôm, tráng bánh cuốn hay tập trang hoàng bánh kem. Đã có những lúc ngồi bên nhau tâm sự vụn. Đã biết rủ nhau đi dạo phố hay lên sân thượng để ngồi ngắm trăng.Năm Đệ Nhị nhiều biến động chính trị (1963), chúng tôi có những dao động mạnh. Những buổi đến trường nhưng xuống đường, bãi khóa không vào lớp học mà ùa xuống sân trường để rồi bị cảnh sát lùa như vịt, hốt hết đi. Mặc dù sau đó được thả ra nhưng cũng bị một phen hoảng sợ. Hãi hùng hơn nữa khi nghe tin những bạn bị xe bít bùng đêm đến nhà bắt đưa đi.
Tú Tài Một đã qua, Tú Tài Hai lại tới. Năm Đệ Nhất để lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Tuổi 17 đến 20, các bạn tôi đã trở thành những thiếu nữ xinh đẹp, tan trường đã có những chàng “Anh theo Ngọ về, đường mưa nho nhỏ”. Chàng Xuân Hạnh đã chống vespa ở cửa trường đón nàng Vũ Kim Liên.Lớp A1 của tôi có nhiều người đẹp, Vượng, Hảo, Trịnh Thị Thảo, Trần Thị Ngọc, Mộng Hoa, Ngọc Hoa, Lê Thị Vân, Phạm Kim Thể, Đặng Thị Hoà, Dương Thị Mai, Nguyễn Thị Hà, Dậu, Chép… Bây giờ nhìn lại thấy ai cũng đẹp, như Lệ, Liễu, Kim Chinh, Tú Khanh, Vũ Kim Liên, Minh Thu, Đỗ Thị Hạnh. Tuổi trẻ tha thướt, mộng mơ, tuổi của mắt sáng, môi hồng, má thắm. Tuổi trẻ trong sáng, xinh tươi như những bông hoa đang độ của vườn xuân trong nắng sớm. Lớp chúng tôi cũng có hai nữ sinh xuất sắc là Hoa Tâm và Năm. Sau Tú Tài cả hai đều được học bổng du học, Năm đi Úc, Hoa Tâm sang Canada.
Năm cuối cùng chúng tôi đã có những nỗi buồn vu vơ, cảm giác sắp phải xa lià bạn bè, trường lớp; những lúc bâng khuâng, nao nao, ngồi bên nhau muốn khóc. Có những lúc lại xúm nhau phá phách, chọc ghẹo bạn bè, thầy cô như muốn níu kéo lại thời gian. Đến cuối năm chúng tôi mới lo học rút, tập trung gạo bài để đi thi. Khi chúng tôi có kết quả, cả nhóm cùng đỗ Tú Tài phần hai, cha mẹ tôi mừng lắm, cho phép tổ chức ăn khao tại nhà, mời các giáo sư như Cô Ninh, Cô Mộng Ngọc, Thầy Diễn, Thầy Giảng , Thầy Tẩm, Thầy Lộc, thêm Thầy Lưu và Thầy Thọ, hai thầy không dạy TV nhưng đã coi điểm thi hộ chúng tôi. Nhóm A1 gồm Phương Ngân, Thanh Hoà, Minh Thu, Mộng Hoa, Ngọc, Nhị, Cẩm Tú, Mai Oanh, Dương Mai, Bích Liễu, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Thị Năm. Bữa tiệc thật vui và sau đó như bầy chim non dời tổ, những cô nữ sinh chia tay, mỗi đứa một ngã rẽ, chập chững, dọ dẫm bước vào đời.
Các bạn của tôi ơi,Những cánh hoa sao xoay tít trên không, bầu trời trong xanh của con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm với hai hàng cây cao vời vợi đang hiện về. Hình ảnh chúng mình đi trong lòng đường trước cổng trường. Những lúc giỡn hớt bông đùa. Những giờ thể thao vui nhộn. Những khi ăn vụng trong lớp và vòi vĩnh thầy cô để xin tiền ăn bò biá, bò khô. Những miếng xoài xanh, những cục ô mai chuyền vội nhau dưới gầm bàn. Oái oăm lại còn chơi trò ăn vụng mà bóc quít thơm lừng, cười ra nước mắt và những miếng khoai mì nuốt chửng muốn nghẹn vì thầy đang đứng viết trên bảng, bất thình lình quay lưng nhìn xuống… Những khuôn mặt bạn bè thời trẻ dại đang rõ nét trong tôi. Bạn ơi, nhớ ơi là nhớ…
Đỗ Dung
VĂN: Tình Yêu – Mặc Bích (Bài sưu tầm trên net)
TÌNH YÊU
Từ ngày hôm ấy, nhà Hương có thêm một khuôn mặt mới. Đối với tất cả mọi người trong nhà, trừ Hương và cậu con trai lớn, khuôn mặt mới này cũng chỉ như một món đồ vừa được mua về ở tiệm, bầy đó, lấp một khoảng trống nào đó mà thôi. Ai vậy? Một chú két có màu xanh lá cây với những đường viền đỏ cam, vàng rực rỡ với đôi mắt sáng quắc tròn xoe, cái mỏ dài ngoằng hơi khoằm khoằm và một bên bàn chân bị khuyết tật!
-“Tại sao con lại mua một con két có tật như vậy hả Duy?”
Đứa con trai lớn của Hương nhún vai cười:
-“Có sao đâu mẹ? Nó vẫn đứng, vẫn bay bình thường như mọi con két khác trong khi nó đẹp nhất trong lồng mà lại rẻ và biết nói sẵn nữa, con khỏi phải “train” nó!”
Nàng vẫn cứ thắc mắc về một bên ngón chân bị cụt đến gần 2 đốt của con két tên Joshua mà Duy vừa mua về. Hương giao hẹn với con trai:
-“Con chơi, con phải ‘take care’ nó đó!”
-“Mẹ đừng lo! Con lo cho nó mà!”
-“Tại sao con biết là nó biết nói sẵn? Nó nói tiếng gì?”
-“Chủ nó là một bà Mỹ, vậy chắc nó chỉ biết tiếng Mỹ!”
Duy lại nhìn mẹ cười, nụ cười của cậu thanh niên mới lớn thật tươi và thật dễ mến.
-“Bà ta già phải vào nursing home nên mới gửi tiệm bán. Con mua rẻ lắm!”
Hương không nói gì mà chỉ lo con két làm bẩn nhà. Duy nhốt Joshua trong phòng ngủ và căn dặn mẹ cùng mọi người trong nhà đừng mở cửa phòng sợ Joshua bay mất. Nhốt nó vào lồng thì nó không chịu, nó sẽ chết! Hương than thầm trong bụng:“Tại sao nó không chơi con gì khác cho sạch sẽ, dễ trông coi!” Nên ngay từ phút đầu Joshua có mang lại sự chú ý của Hương, nhưng thiện cảm thì không! Nhưng chiều con, nàng cũng không cằn nhằn thêm.
Từ đó trong nhà nàng có một “tù nhân” là con két xanh tên Joshua. Cửa phòng Duy lúc nào cũng khép, trừ khi có ai trong phòng. Cả nhà cũng chẳng mấy khi thấy mặt con Joshua, nên nó có đó mà cũng như không có. Thỉnh thoảng Hương mới thấy nó kêu chứ chưa hề thấy nó nói! Nhiều lần nàng định hỏi con xem con két đã nói những gì, rồi thương hại Duy lại thôi.
Một hôm, Hương mở cửa vào phòng Duy. Con Joshua đang đứng trên thanh gỗ ngang. Đó là một loại chuồng chim nhưng trống cả bốn phía và chỉ đơn sơ có một thanh ngang làm chỗ đứng suốt ngày đêm cho Joshua, hai đầu một bên là thức ăn, một bên là nước uống. Bên dưới có một khay tròn lớn đựng cát để hứng mọi thứ chất dơ do Joshua thải ra. Thấy nàng bỗng nhiên Joshua xòe rộng hai cánh, vươn người lên nhún nhẩy và huýt gió.
Duy la lên: “Mẹ thấy không, nó huýt gió đấy! Hễ thấy đàn bà, con gái là nó huýt gió! Nó thích mẹ đấy!”
Hương phì cười, nghĩ bụng: “Nói thì không nói mà chỉ huýt gió!”
Nàng đến gần, ngắm nghía chú két. Một mối thiện cảm nào đó nẩy sinh. Nàng nghiêng đầu nhìn nó. Nó cũng ngoẹo đầu nhìn Hương như muốn nói một cái gì? Hương bắt đầu chú ý đến sự có mặt của Joshua trong nhà. Từ hôm ấy, mỗi tối, nàng đều vào phòng Duy, ngồi bệt xuống thảm, gần chỗ con Joshua, và thử dạy nó nói vài chữ tiếng .. Việt.
Vài tháng trôi qua, một chữ tiếng Anh Joshua cũng không nói chứ đừng hòng gì đến nửa chữ tiếng Việt! Nhưng cứ mỗi lần thấy Hương là nó huýt sáo và vươn cánh làm đẹp. Nàng cũng thấy vui vui và dần dà quên mất đến chuyện là con két này không biết nói và đành chấp nhận nó như thế!
Duy đi mua một lô sách về nghiên cứu và tuyên bố với mẹ: “Joshua chắc bị ‘shock’ nặng nên nó không nói nữa!”
Và rồi câu chuyện của chú két xanh Joshua tưởng chỉ có vậy!
Cho đến một hôm, Hương đến tiệm Pet Shop, nơi Duy đã mua con két, để mua thức ăn cho Joshua. Bà chủ tiệm là người Việt, rất niềm nở khi thấy người đồng hương. Bà ta chỉ dẫn cặn kẽ loại thức ăn nào hợp cho két, nuôi dưỡng ra sao…
Trong câu chuyện trao đổi, Hương chợt hỏi:
– “Thường những con bà bán ra mà có giấy tờ khai sinh, bà có lưu lại bản nào không?”
– “Có chứ ạ! Chúng tôi còn giữ lại tên và địa chỉ người bán, người mua, đủ hết”
– “Con trai của tôi mua một con két ở đây tên Joshua, chân nó hơi có tật..”
Bà chủ tiệm nói ngay không đợi Hương nói thêm:
– “Joshua! Tôi nhớ chứ! Một bà già Mỹ đã nhờ tôi bán khi bà ta phải vào nursing home. À! Cậu đó là con bà đấy ư?”
– “Vâng, đúng đấy! Bà có trí nhớ tốt quá!”
– “Cậu con bà có thích con Joshua không?”
– “Chúng tôi quý nó lắm… có điều sao nó chẳng biết nói gì cả?”
– “Có trường hợp như vậy xảy ra khi con vật bị sống xa chủ nhân của nó. Nhưng nhiều khi chỉ một thời gian nó quen với môi trường mới lại nói như két ngay ấy mà!”
Hương chép miệng:
– “Cả hơn một năm rồi, đâu thấy nó nói gì đâu! Nó chỉ biết huýt sáo và kêu thôi!”
Bà chủ tiệm nhún vai, không biết phải trả lời thế nào trước sự than phiền của người khách. Hương trả tiền đi ra, nhưng nghĩ sao nàng lại quay trở lại tìm người chủ tiệm:
– “Bà có địa chỉ của bà cụ già trong nursing home, chủ trước của Joshua không?”
– “Có chứ, để tôi lấy! Trừ phi bà ấy chết hay đổi chỗ thì chịu thua!”
Bà ta tìm một lúc rồi mặt tươi lên, hí hoáy viết vào tờ giấy đưa cho Hương:
– “Chúc bà may mắn!”
Cầm tờ giấy trong tay Hương không biết mình sẽ làm gì? Vào gặp và thăm bà lão, nói chuyện về con két tên Joshua hay đưa Joshua vào thăm chủ cũ? Để làm gì? Nàng cũng chẳng hiểu tại sao những ý nghĩ đó lại đến trong đầu và rồi cứ lẩn quẩn ngày này sang ngày khác.
Một ngày Chủ Nhật cuối tuần, Hương và Joshua tìm đường vào nursing home mang tên là Pine Haven. Chưa bao giờ đặt chân vào một nursing home nào cả nên Hương cũng hơi tò mò. Nơi đây dù không xa nhà thương Memorial bao nhiêu nhưng nằm khuất trong một con đường cụt yên tĩnh rộng rãi, nhiều cây cối bao bọc chung quanh, có cả vườn cảnh cho người đi dạo tạo một cảm giác thật an bình.
Hương nhìn xuống tờ giấy, lẩm nhẩm tên bà lão: “Alice Park! Alice Park!”
Joshua đậu trên vai Hương có vẻ thích thú khi được ra ngoài. Nó kêu những tiếng trong cổ họng nhịp theo với bước chân Hương tiến dần vào khuôn viên nursing home. Một vài người già ngồi trên xe lăn, phía sau có y tá đẩy. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Hương là những khuôn mặt già nua bệnh hoạn, bạc thếch theo với thời gian! Những khuôn mặt trắng nhờ nhờ với làn da trắng xanh không còn sinh khí, hay những gương mặt da màu đã sạm lại và teo tóp!
Những đôi mắt u uẩn, hay những cái nhìn mông lung vào một cõi nào xa xăm! Như thể tất cả đang sống trong một thế giơi riêng biệt, mà những ngôn từ; động tác cử động cũng theo một cách thế khác. Nhịp sống nơi đây, chắc chắn không giống như nhịp sống bên ngoài kia!!!
Người nữ tiếp viên ngồi ngay cửa vào, ngửng lên nhìn Hương mỉm cười chào hỏi. Hương hỏi ngay:
– “Tôi muốn vào thăm bà Alice Park. Chẳng hay bà ấy ở phòng số bao nhiêu hả cô?”
– “Dẫy A. Phòng số 210. Bà đi thẳng vào trong, rồi quẹo trái; đến gần cuối hành lang là đúng chỗ đấy.”
– “Cám ơn cô nhé!”
Cô gái nở nụ cười thay cho lời nói. Joshua bỗng huýt gió vang dội, làm cả Hương lẫn cô gái phải bật cười.
– “Nó tên gì vậy bà?”
– “Joshua!”
– “Hi Hoshua! Hi!”
Joshua chỉ nhìn cô gái và tiếp tục huýt sáo một cách thích thú! Cô ta còn giơ tay vẫy vẫy nó. Hương lại nhớ đến lời Duy bảo: “Nó thích đàn bà, con gái Mẹ à!” Mà có lẽ thế thật!
Nàng và Joshua theo lời chỉ dẫn của cô gái. Bên trong cũng đẹp đẽ, sạch sẽ nhưng thoang thoảng mùi hôi, mùi khai quyện lấy mùi thuốc sát trùng! Dọc hành lang, bóng những cô y tá lên xuống nườm nượp. Đi ngang những căn phòng mở rộng cửa. Hương nhìn thấy những khổ ải của thân phận con người, mà bệnh hoạn là một trong những thứ làm biến đổi người ta nhanh nhất!!!
Không giống nhà thương, mỗi phòng được trang trí một cách khác, theo với ý thích của người bệnh hay người thân. Hương đi rất chậm để quan sát. Đầu giường những người bệnh hầu như đều có hình ảnh của một cuộc đời bên ngoài kia, mà đã có một lần họ đã sống qua! Chút kỷ niệm hay chỉ là một nhắc nhở về mối liên hệ sao đó, để người bệnh đỡ thấy lẻ loi, cô- độc chăng???
Rẽ sang mé trái, Hương thấy ít y tá hơn và mùi hôi cũng giảm đi nhiều, hầu như không thấy mấy. Hương lẩm nhẩm trong đầu tìm số 210. “À! Đây rồi!”, nàng nhủ thầm. Phòng số 210 cũng không khác những phòng kia bao nhiêu, và theo bảng tên ở ngoài thì bà Alice Park nằm bên mé trong, sau tấm màn kéo màu xanh nhạt. Giường bên ngoài không thấy người dù rất nhiều đồ đạc. Hương vào bên trong.
Đằng sau tấm màn, một bà lão tóc trắng phau, uốn quăn thưa thớt, đang ngồi dựa soải chân trên một xe lăn. Hai bàn tay bà trắng bệch, và trong suốt với nhiều đường gân xanh tím chằng chịt. Cả hai bàn tay bám lấy hai thành xe lăn. Nghe tiếng động bà ta nhìn lên. Đôi mắt nhỏ xíu bỗng mở to lộ hai tròng con ngươi màu xanh đá nhạt lờ mờ như được dấu sau một bức phim mỏng. Cái miệng mỏng dính không còn thấy rõ mầu môi bỗng hơi há ra. Mắt bà ta như dán chặt vào con két trên vai Hương. Đôi bàn tay bà lão đang bám lấy thành xe lăn bỗng buông ra và run rẩy, giật liên hồi!
Tất cả những biến chuyển đó chỉ xảy ra trong vòng vài giây ngắn ngủi của thời gian đang cô đọng trong căn phòng chật hẹp, mà Hương là người nhìn thấy rõ nhất. Nàng chưa kịp lên tiếng chào hay hỏi han xem bà lão có đúng là bà Alice Park hay không, nhưng Joshua đã nhanh hơn nàng. Nó bay sà đến đậu vào lòng bà ta và chợt kêu lên:
– “Love ya, Mama! Love ya, Mama!”
Từ tiếng kêu đột ngột. Không! Phải nói là tiếng nói đột ngột thoát ra từ Joshua chợt như một tiếng ngân, mà sự vang dội cũng như cái tha thiết kéo dài run rẩy trong cái sẽ sàng làm cho sự tĩnh lặng đọng trong căn phòng chợt vỡ tan! Những đường nét cứng nhắc mỏi mệt trên khuôn mặt già nua của bà lão, dường như hồi sinh theo với cái nhếch mép, há miệng mà những tiếng nói vẫn còn bị nhốt kín sâu thẳm trong tận cùng cổ họng, hay trong sâu thẳm của trái tim héo hon? Từng thớ thịt trên mặt bà lão giật nhẹ, đôi mắt cố mở to nhìn Joshua. Môi bà lão run run, mà vẫn không tạo nên được một âm thanh nào! Chỉ có đôi mắt chớp khẽ!!! Riềm mi dưới đã ngả sang màu xám bạc, chợt đậm màu hơn theo với giòng nước mắt đang tù từ lăn xuống!!!
Joshua hai chân bấu vào áo bà lão, vươn cổ, dùng mỏ ngoạm vào áo bà ta để trèo lên cho gần với khuôn mặt bà lão. Nó lại kêu lên, vẫn cái giọng đó:
– “Love ya, Mama! Love ya, Mama! Joshua love ya!”.
Không hiểu trong tiếng kêu thống thiết kỳ lạ đó có gì mà Hương thấy lồng ngực mình thắt lại! Bởi vì nàng không chỉ nhìn thấy, chỉ nghe, mà còn cảm nhận được cái tình yêu giữa Joshua và chủ cũ của nó như phút chốc nàng biến thành bà lão ngồi trên xe lăn kia, cũng chẩy nước mắt đón nhận lời nói yêu thương và cũng thấy lòng rạt rào những cảm xúc kỳ dị! Làm như thế gian này, chỉ có một tình yêu và cả hai thực sự thuộc về nhau, như một nửa mảnh đời này tìm lại đúng nửa mảnh đời kia và ráp lại khít khao thành một khối duy nhất! Không có gì có thể chia lìa!!! Joshua ở trong bà lão và ngược lại. Bà lão nhìn trong Joshua và thấy tình yêu của mình. Bà ta lắp bắp đôi môi, nhưng không thành tiếng. Khuôn mặt bà lão bỗng tươi nhuận hẳn lên! Tình yêu, sự hiện diện của Joshua đã mang lại mạch sống cho bà! Và tình yêu đó tràn ngập căn phòng nhỏ. Joshua và bà Alice không còn biết đến sự có mặt của Hương.
Joshua vùi cái mỏ cứng nhắc của nó vào cổ bà lão, mắt nó lim dim như tận hưởng một sự trao gửi thiêng liêng nào đó mà chỉ có nó và người nhận hiểu được!!! Mãi, bà lão mới tìm lại được tiếng nói của mình. Giọng bà yếu ớt và thanh tao khi đưa hai tay vuốt ve Joshua:
– “I love you too. Joshua! Mama love you!”
Con Joshua kêu lên những tiếng nho nhỏ trong cổ họng, và cứ để yên cho bàn tay bà lão vuốt trên từng mảng lông của nó. Những ngón tay nhăn nheo, xương xẩu kia như một cây đũa thần làm Joshua biến đổi hẳn. Nó không còn là con két xanh đứng hai chân trên thanh ngang, suốt ngày cú rũ trong căn phòng đóng kín cửa. Nó không còn là tên tù bị giam lỏng trong bốn bức tường kín ở nhà Hương. Joshua lại nói với bà lão:
– “He hurt me!”
Bà sờ lần trên ngón chân khuyết tật của Joshua như thương cảm rồi ôm Joshua vào lòng:
– “My poor baby! He’s gone! He’ll not hurt you anymore! Not anymore baby! He’s gone, baby! Do you miss me, Joshua???”
Joshua lập lại y hệt như vậy:
– “Do you miss me, Joshua?”
Bà lão bật cười:
– “No! Do you miss me, Mama?”
Nó lại lập lại vẫn với giọng lảnh lót:
– “No! Do you miss me, Mama?”
Tự dưng Hương cũng cười theo. Lúc ấy bà lão mới để ý đến sự có mặt của nàng trong phòng. Tay vẫn ôm Joshua, bà ta nheo mắt nhìn Hương:
– “Cô mang Joshua đến đây?”
Câu hỏi này thay cho câu hỏi “Cô là chủ mới của Joshua?”. Có lẽ bà Alice vẫn xem như chỉ có bà là chủ của Joshua. Và bất cứ ai đó đến sau bà, chỉ là người thay bà săn sóc nó mà thôi! Hương thấy ngay điều này, nên nàng chỉ mỉm cười và đáp gọn:
– “Vâng!”
Hương cũng chẳng tự giới thiệu mình là ai, mà bà lão cũng chẳng hỏi tại sao nàng lại biết tìm đến đây! Tự dưng nàng cảm thấy như sự có mặt của mình ở đây là thừa thãi, nên Hương lẳng lặng bước ra ngoài khi thấy bà Alice lại quay sang Joshua thầm thì những gì nàng nghe không rõ.
Nàng đi dọc theo hành lang ra ngoài đến sân sau. Chẳng ai hỏi gì, mà cũng chẳng ai để ý đến ai. Hương tìm một băng ghế dưới gốc cây. Bây giờ đã là tháng Mười. Trời đã dịu hơn. Nắng vẫn rực rỡ như những ngày hè, nhưng sao lại mát hơn? Có lẽ mùa Thu đã đến ở đâu đó, và đang bứt dần những chiếc lá ra khỏi cành! Một đành đoạn chia ly tất nhiên!!! Nàng dựa lưng vào băng ghế, nhìn những chiếc lá khô lao xao trên đỉnh đầu; rồi lìa cành! Có những chiếc lá còn tiếc nuối, bay lượn vài vòng trước khi rơi chạm mặt đất! Có chiếc rơi thật nhanh chúi đầu lao xuống! Có chiếc vẫn run rẩy, không chịu lìa cây. Và những chiếc lá còn lại trên cây, đang nhìn lên trời xanh trên kia hay nhìn xuống mặt đất, để tiếc thương thay cho những chiếc lá đã bỏ đi trước!!! Nhưng có một điều chắc chắn, những chiếc lá còn lại trên những tàng cây kia; nhìn thấy được nỗi ngậm ngùi trong nàng ở ánh mắt không còn trong nữa! Cuộc đời, con người, và những tương quan trong đời sống! Tình yêu! Nỗi chết! Rồi cũng chỉ như thế thôi!!!
Và rồi, Hương lại nghĩ đến hình ảnh trong căn phòng nhỏ sau lưng nàng: Joshua và bà Alice. Bà lão còn bao nhiêu thời gian để nói câu:-”I love you too! Joshua!”, còn bao nhiêu thời gian nữa để ngập chìm trong yêu thương ấy???
Joshua? Thời gian của con két xanh với những riềm vàng, đỏ, cam rực rỡ, là bao xa??? Nhưng có lẽ chắc chắn lúc này, cả bà lão và con Joshua đều chỉ biết đến cái hạnh phúc trân quý tìm lại được nhau! Có nhau! Cho dù thời gian đang trôi qua và ngày mai, ngày hôm sau nữa! Và những ngày kế tiếp, có còn đến nữa hay không!!!
Nàng ngồi giữa cảnh trời bao la trong vắt trên cao kia trong những suy tưởng miên man. Thời gian qua bao lâu rồi? Hương nhìn đồng hồ: “2:30 chiều!” Nàng đã ở chỗ này lâu đến thế kia à? Đã đến lúc phải đưa Joshua trở về! Joshua phải trở về căn phòng của Duy, và trở lại làm tù nhân trong một nơi chốn với đầy đủ thức ăn, nước uống! Chỉ thiếu bàn tay của bà Alice!!!
Khi Hương trở lại căn phòng số 210, cảnh tượng âu yếm lúc trước không còn nữa! Joshua đang đậu trên thành giường! Còn bà Alice nằm trên giường với bao nhiêu dây nhợ gắn vào người! Nào là dây truyền thuốc, dây truyền thức ăn! Trông bà ta có vẻ mệt mỏi!!! Cô y tá da mầu có nụ cười xinh tươi, nhìn Hương rồi hỏi:
– “Cô quen thế nào với bà Alice?”
Hương chỉ con Joshua:
– “Qua con két này!”
– “Thật à?”
Câu hỏi tuy ngắn, gọn nhưng bao hàm nhiều câu hỏi khác nữa. Hương phải giải thích sơ sơ:
– “Bà ta là chủ trước của nó. Tôi đưa nó đến thăm chủ cũ. Vậy thôi!”
– “Cô tử tế quá!”
Lần đầu tiên, từ lúc gặp gỡ, Hương thấy bà Alice nhìn nàng lâu hơn. Ánh mắt dịu xuống.
Hương đến gần Joshua và gọi, nàng làm như nó hiểu:
– “Joshua! Đến lúc phải đi về..”
Hình như nó biết nên cứ chần chờ. Mấy cái móng bấu chặt xuống thành giường, trừ ngón khuyết tật. Hương đến gần, nó càng nhích đi xa! Mấy cái móng vẫn quặp chặt như một câu trả lời rõ ràng. Hương không biết phải làm sao! Joshua không huýt sáo như mỗi lần Hương gọi nó nữa! Như đọc được tất cả những ý nghĩ trong đầu của cả Hương và con Joshua, bà Alice gọi nó:
– “Joshua!”
– “Mama!”
Cô y tá thích thú kêu lên:
– “Ồ nó nói được!”
– “Go home, Joshua! Go home!”
Nó lập lại lời bà Alice:
-“Go home! Go home!”
Nhưng vẫn không nhúc nhích, Joshua lại kêu lên:
– “Love ya, Mama! Go home!”
Bà lão nhấc khẽ cánh tay đầy dây nhợ và xòe lòng bàn tay trắng bệch. Joshua bay lại, đậu trong lòng bàn tay bà lão. Nó dụi cái mỏ vào lòng bàn tay bà. Hương thấy bà lão nhắm mắt lại, không phải để đón nhận tình yêu như trước đây, nhưng như một sự cam chịu hay một sự chống trả rất âm thầm nào đó. Bà lão lại nói với Joshua bằng một giọng thật nhỏ, như chỉ để cho mình nó nghe và hiểu:
– “Go home, baby! You cannot stay here. I have no home now! Go, baby! … Go…”
Hương chợt thấy mi mắt nàng nặng trĩu. Quay sang người y tá, Hương hỏi một câu hỏi mà trong thâm tâm nàng cho rằng đây chỉ là một câu hỏi cầu may:
– “Nó ở lại với bà cụ được không cô?”
Cô y tá lắc đầu:
– “Ở đây toàn là người bệnh, luật không cho phép người bệnh nuôi thú vật trong này.”
Hương lặng im!!!
Và Joshua. Hình như hiểu được tất cả những gì bà Alice nói gọn trong vài chữ đó, hay chỉ là những cảm nhận thiêng liêng giữa Joshua và bà Alice! Chỉ giữa con két xanh và bà lão!!! Nó bay lên và đậu vào vai Hương, nhưng vẫn kêu lên:
– “Love ya Mama!”
– “I love you too, Joshua!”
Mở mắt ra, nhìn Hương, bà lão ngập ngừng nói:
– “Cám ơn cô… đã mang Joshua đến đây! Thỉnh thoảng nếu được gặp nó thì… vui lắm!!!”
Hương đến gần, nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà Alice, và nhẹ nhàng nói:
– “Mỗi tuần tôi sẽ mang Joshua vào thăm bà!”
Bà Alice chợt nhắm mắt lại. Bà ta ngập ngừng:
– “Cám ơn cô! Cám ơn cô nhiều lắm!!!” .
Nàng đi ra, và không nỡ quay lại nhìn căn phòng nhỏ có bà lão gầy gò với bao dây nhợ quanh người đang nằm đếm thời gian!!!
Có tiếng thổn thức mơ hồ không biết là của ai? Của bà lão? Của Joshua? Hay của chính Hương ???
Mặc Bích
Chùm THƠ Lê Tuấn: Bí Ẩn Đời Em – Đường Trần Có Gì?- Yêu Em.
Bí Ẩn Đời Em
Bí ẩn đời em, cũng sẽ tan biến Như dòng sông, sáng sớm mù sương Nắng vừa lên, trời âm u tan biến Bí ẩn em đi nhón gót qua đường.
Có những kỳ quan làm em nhớ mãi Như quả bóng màu chỉ muốn bay cao Có hai người yêu nhau nơi ấy Làm say mê nghe lạ tiếng xôn xao.
Đôi trai gái chìm vào trong bí ẩn Áp sát bên nhau khe khẽ thầm thì Tay chạm tay loé lên luồng điện giật Vội rụt rè, sức nóng hơn mọi khi.
Thế rồi tuổi dậy thì vụt lao đến Áo cũ chưa thay, đã rách còn đâu Như đôi đũa, hoá phép màu phù thuỷ Bí ẩn đời em, tiên nữ muộn sầu.
Đời sống đơn sơ cũng cần bí ẩn Ít hay nhiều vẫn còn ở bên ta Bí ẩn lặng im, rụt rè nhút nhát Như gót chân trần len lén đi xa.
Lê Tuấn
Đường Trần Có Gì?
Đường trần có gì lạ không em? Có hoa cỏ dại, gió mưa chen Có em bẽn lẽn bên thềm vắng Một buổi chiều buông, mưa ướt mềm.
Đường trần có gì yêu không em? Mảnh trăng bối rối, vội nhìn xem Trần gian đã ngủ mê từ đó Nhan sắc em, duyên dáng gợi thèm.
Trăm nhớ ngàn thương tưởng đã quên Từ mùa thu trước lá đè lên Tình như nụ hạt cây khô rụng Như nước sông, tràn khắp mọi miền.
Cảm giác yêu đương đã chất đầy Đường tình lấp ló cuối chân mây Trần gian quán trọ sao yêu thế Bẽn lẽn làm cho má đỏ hây.
Đường trần là những tháng năm trôi Nụ hôn phảng phất ngọt bờ môi Em còn luyến tiếc tình xưa cũ Hãy đã quên rồi chỉ thế thôi.
Đường trần hai đứa trốn vào nhau Hai trái tim yêu vò nát nhàu Nếu biết ngắn, ta còn yêu tí nữa Để mai sau tiếc nhớ tình đầu.
Trần gian nhắn gửi chuyện trên mây Sương lạnh bờ vai ướt dáng gầy Hai đứa ngẩn ngơ, đời ngắn quá Lòng buồn xin cạn chén men say.
Lê Tuấn Đường trần sao ngắn thế
YÊU EM
Yêu em từ những đường cong Yêu em suối tóc môi hồng dễ thương Yêu em, yêu cả con đường Cánh đồng lúa chín mảnh vườn nhà em.
Yêu làn khói bếp chiều lên Xám màu mái lá trước hiên nắng vàng Yêu em duyên dáng nhẹ nhàng Gương soi son phấn điểm trang má hồng.
Môi nào thơm ngát tình nồng Tóc mây buộc dải đôi dòng nơ xanh Đôi chim sẻ đậu trên cành Nhởn nhơ tiếng hót một nhành đôi mươi.
Yêu em nhìn ngắm mây trời Em về hoa nở, môi cười thêm duyên Vai nghiêng suối tóc tơ huyền Vươn bờ ngực nở trên miền gió xuân.
Hạt mưa rơi rụng tần ngần Hoa thơm lan tỏa dưới chân điệu đàng Vườn xuân nghiêng cánh bướm vàng Cổng hoa hé mở trên ngàn tương tư.
Động thiên thai bóng thiền sư Cõi hồn khép lại tâm hư vội tràn Đèn khuya lửa hắt hiu vàng Câu kinh vừa chạm đôi hàng lệ sa.
Lòng còn hoài niệm thương hoa Câu thơ vướng áo đường tà nhẹ bay Yêu em nắm lấy bàn tay Trao nhau nồng ấm nhớ ngày xa xưa.
Yêu em tình vẫn đẩy đưa Đong đầy nỗi nhớ, còn chừa mai sau Yêu em chẳng ngại mưa mau Cùng đưa nhau đến bên cầu hoa trôi.
Lê Tuấn Bài thơ viết cho tình yêu
THƠ: “HOA… VÀNG DẤU MƠ” – Phương Hoa
HOA… VÀNG DẤU MƠ
*
Từ em…
tỏa ánh
quang hồng
Xôn xao một cõi
bềnh bồng trong anh
Mi ngà vời vợi rèm xanh
Màu môi ửng thắm
cho cành
trúc nghiêng.
*
Từ em…
e ấp
thuyền quyên
Gió lung linh gợn
suối huyền tóc mây
Đất trời chao đảo quanh đây
Tim rơi mất nhịp
ngà say
cánh bằng.
*
Từ em…
nguyệt rạng
cung Hằng
Ước mơ dùng sợi
xích thằng buộc nhau
Yến oanh sải cánh ngàn sau
Trúc mai từ độ
pha màu
ngất ngây.
*
Từ em…
tay chạm
hồn này
Trái tim lữ thứ
vờn xoay ngút ngàn
Ngờ đâu chớp mắt bên đàng
Giáng tiên trở gót…
Hoa… vàng
dấu mơ.
*
Từ em…
điểm nhớ
vào thơ
Bâng khuâng mực tím
xô bờ sóng dâng
Thuyền anh chìm nổi hồng trần
Chờ mong cứu cánh
tình ngần
trao ai
*
Từ em…
toát vẻ
trang đài
Hồn hoang lạc lối
sương mai vẹt màn
Trăng khuya rải sáng bạt ngàn
Tâm tư trĩu nặng
muôn vàn
luyến thương…
Phương Hoa – MAR 22nd 2022
HOA HỒNG ÂN THƠ
*
Từ tài hoa mộng thẫn thờ
Nhịp tim đèn sách sao chờ trăng non
Tóc tiên hôn gió môi son
Gót sen hồng tưởng xuân còn ngây thơ…
*
MD.03/25/22 LuânTâm
Thân cảm tặng”HOA VÀNG DẤU MƠ”của TG.VTHS PHƯƠNG HOA
KIỀU MỸ DUYÊN: LẮNG NGHE LÀ MỘT YẾU TỐ ĐỂ THÀNH CÔNG
CAO MỴ NHÂN: Nỗi Nhớ Nhung Trong NGÀY SINH NHẬT: THƠ MÙA XUÂN CÒN NÁN LAỊ & CHÙM THƠ: Bềnh Bồng Nỗi Nhớ. Lời Thơ Chay. Đèo Hải Vân.
MÙA XUÂN CÒN NÁN LẠI. – CAO MỴ NHÂN
*
Lại một đêm thiếu ngủ
Em nằm đợi nhớ nhung
Chan hoà trên mặt gối
Những giọt lệ mông lung
*
Vùi đầu giữa gối chăn
Tưởng châu thân ấm áp
Hoá ra lòng bâng khuâng
Tiếc thương bao mất mát
*
Trăng rơi vào rét mướt
Hồn bất chợt chơi vơi
Em chờ nghe tiếng bước
Anh về từ xa xôi
*
Hai mươi lăm tháng ba
Mùa xuân còn nán lại
Bông hồng vàng kiêu sa
Mỗi năm thêm hoang dại
*
Anh nhìn em ái ngại
Thương xót cuộc tình buồn
Người yêu ơi huyễn mộng
Che kín cả nụ hôn …
*
CAO MỴ NHÂN (HNPD)
25 – 3 – 2022
HAPPY BIRTHDAY NỮ SĨ CAO MỴ NHÂN
BỒNG BỀNH NỖI NHỚ . CAO MỴ NHÂN
*
Với tay, chạm phải đoá quỳnh
Không gian bất chợt rùng mình trắng hoa
Phải người vừa chạm tim ta
Đã hoang liêu gọi thiết tha về gần
*
Quỳnh rơi từng giọt lỡ lầm
Mỉm cười tình cũng phù vân như người
Bao nhiêu ngày tháng trên đời
Là bao nhiêu nỗi tuyệt vời mang đi
*
Một năm hoa nở từ bi
Một năm ta vẫn mê si ảo huyền
Một năm thắp nén hương nguyền
Tái sinh theo một bóng thuyền lênh đênh
*
Vô cùng vạt nắng mông mênh
Thôi em trả lại Bồng bềnh tình quân
Bên bờ Suối Bạc mùa xuân
Vấn vương huyễn sự bâng khuâng kiếp này…
*CAO MỴ NHÂN (HNPD)
*****************
LỜI THƠ CHAY. CAO MỴ NHÂN
*
Hẹn em ở Đa Minh
Suốt đêm nhà thờ thức
Đợi về Lễ Phục Sinh
Easter day Chúa nhật
*
Suốt tuần chay cô đơn
Lời kinh mang nỗi nhớ
Hồi chuông rơi van lơn
Lệ chan hoà sầu khổ
*
Bài thánh ca ru êm
Cả không gian rạng rỡ
Ánh lửa soi trái tim
Xoá tan cuộc tình lỡ
*
Từ hoang liêu nụ cười
Anh trao em nở hoa
Niềm tin yêu tuyệt vời
” Chúa ở cùng chúng ta …”
*
CAO MỴ NHÂN
ĐÈO HẢI VÂN 3/ 1975. CAO MỴ NHÂN
*
Câu chuyện 30 tháng 4
Nghe như nửa thực, nửa hư
Thực vì máu và nước mắt
Ngập tràn xác người tản cư
*
Chạy bộ trên đèo Hải Vân
Bộ hành xô xe xuống vực
Đoàn sau ào lên phía trước
Không kịp suy nghĩ, lần khân
*
Chạy lao vào nhau chết thảm
Già , trẻ , lớn , bé khóc la
Chạy từ Huế vô Đà Nẵng
Có người lại lộn trở ra
*
Đại tá tỉnh trưởng Thừa Thiên
Đậu trực thăng trên đỉnh núi
Thét gào trong máy truyền tin
Một ngày mấy lần lui tới
*
Ông cũng như người tị nạn
Không hiểu trung ương muốn gì
Chưa ai quan tâm thù hận
Chỉ cần vượt thoát chốn ni
*
Chẳng ai muốn dừng, dù đêm
Không ăn không ngủ, đau rên
Cứ đi như khùng, như dại
Người ôm thây ma cuồng điên
*
Thế rồi cũng qua mọi sự
Rùng mình sợ hãi quẩn quanh
Chao ôi đâu là lịch sử
Chỉ toàn máu lệ hôi tanh
*
Hải Vân gió hú đêm sương
Chập chờn hồn ma tức tưởi
Cuối 3/75 đau thương
Người người tả tơi, rách rưới
*
Tôi trong ” phái đoàn cứu trợ “
Ấn vào tay họ chút quà
Hất ngang, họ đi như sợ
Cản đường, không để họ qua
*
Trở về Nam Ô chở nước
Đặt bên vệ đường ” tự do “
Đoàn người lênh đênh khốn khổ
Trừng trừng mắt ngó hư vô…
CAO MỴ NHÂN
Đêm Sương Hà Nội CAO MỴ NHÂN
Đó là buổi cuối cùng bố tôi cho cả nhà đi Hà Nội thăm họ hàng và nhất là nhìn lại cái thành phố trước đó đã khắc sâu trong lòng ông khá nhiều kỷ niệm.
Bấy giờ (1954), ông đang làm phó giám đốc phi trường Cát Bi Hải Phòng nên thường đi Hà Nội chơi, tất nhiên cho cả nhà theo, vào những ngày Chủ Nhật.
Từ Hải Phòng về Hà Nội có 100km, chạy trên quốc lộ số 5 chỉ qua thành phố Hải Dương, ghé nhà chú ruột tôi ở số 1 phố Hàng Đồng rồi lên Hà Nội như chương trình đã định.
Bố tôi xuất thân từ trường Bưởi, sau đổi thành Chu Văn An, từng làm giám đốc sở máy đèn kiêm sở máy nước ở Sa Pa, nơi chị em tôi ra đời, để bây giờ các nhóm bạn văn nghệ cứ gọi đùa tôi là Mỵ Sa Pa.
Trở lại buổi cuối cùng về Hà Nội, sau đó xuống lại Hải Phòng rồi di cư vào Nam 25 – 9 – 1954 trên chiếc phi cơ nhỏ hai hay bốn cánh quạt, không biết có phải là DC3, DC4 dân sự không.
Chỉ hơn 10 năm sau, tôi đã bay như bươm bướm trên trời khi làm công tác xã hội trong Quân lực VNCH, qua những chuyến bay của nhiều loại phi cơ khác nhau như Cessna, trực thăng, HUIB, C46, C47, C119, C123, C130.
Thậm chí có khi còn phải quá giang L19, L20 đi thả truyền đơn trên vùng xôi đậu để được mau chóng về nhà khi đã xong công tác tiền đồn, lũ lụt, v.v..
Tôi muốn kể quý vị nghe về đêm sương Hà Nội.
Lẽ ra cái ấn tượng này chỉ có ở những quý vị vừa quá cố như nhà văn Mai Thảo hay thi sĩ Cao Tiêu tức cố đại tá Hoàng Ngọc Tiêu, nguyên cục trưởng Cục Tâm lý chiến Quân lực VNCH.
Tôi đoan chắc thế vì tôi không được thân nhà văn trưởng thượng Mai Thảo, nhưng trong văn chương ông có những đêm sương Hà Nội.
Còn thi sĩ đại tá Cao Tiêu là niên trưởng của tôi, đã từng cho tôi xem những bức hình ông hay ông bà chụp ở hồ Gươm Hà Nội.
Gia đình ông bà ở Hà Nội nên đêm sương Hà Nội trong ánh điện đường màu vàng thời Tây thuộc là một hình ảnh rõ nét, nhưng lại mơ hồ vì cái lạnh len vào thân áo lãng tử, giai nhân day dứt lắm.
Bố tôi chắc chắn trọng tuổi hơn nhị vị tên tuổi nêu trên, vì buổi âm thầm từ giã Hà Nội, bố tôi đã 44 tuổi. Số tuổi trung niên hào hoa, phong nhã, hẳn phải đẹp thế nào rồi.
Nhưng thời thượng bấy giờ không phải dấu ấn Mỹ với quần jean áo thun như ngày nay, mà vết tích Tây là bộ đồ vest sang trọng lúc nào cũng kèm cravat, đôi khi còn có áo gilet bên trong, mặc cho đứng thân áo, không hẳn cho ấm áp thôi đâu.
Buổi cuối cùng để lìa xa thành đô yêu dấu như trong bài hát của nhạc sĩ Vũ Thành, bố tôi để gia đình chơi với họ hàng rồi vội vã đi Khâm Thiên cầm trống chầu nghe hát ả đào.
Thế nên sau này khi gia đình đã di cư vô Nam, thủa ban cổ nhạc Bắc phần hát trên Đài phát thanh Sài Gòn với những nghệ sĩ Kim Bảng, Huệ Đăng, v.v. là giờ cao điểm của bố tôi để ông nhớ Bắc Kỳ quốc của ông.
Chúng tôi không được nghe nhạc dân ca đầu tiên ở miền Nam như Tình ca, Thuyền viễn xứ, v.v. của Phạm Duy.
Bấy giờ cả nhà chỉ có một cái radio, không phải như hiện nay ở nhà tôi từ con tới cháu mỗi người một Iphone, Ipad, kể cả tôi, sử dụng tiện lợi.
Thành ai trong nhà cũng có hai món chơi văn minh vừa nêu, mỗi người tha hồ chui vào phòng riêng thả hồn mơ mộng nghe thơ, nhạc theo sở thích của mình.
Nhất là tôi bây giờ còn mặc sức tung hoành coi và nghe HNPD.COM hay HNPD.NET, hầu mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây, để viết thơ tình muộn riêng cho anh… huyễn hoặc tâm tư tình cảm mình.
Chị gái tôi buổi từ giã Hà Nội còn vị thành niên, đứng ở Hồ Hoàn Kiếm, tên khác của Hồ Gươm, còn khóc theo một kỷ niệm bỏ lại.
Có lẽ trong nhà chỉ có tôi là giận bố vì vẫn chưa đưa đi ăn kem ở Bờ Hồ và khi ngồi trên xe traction về lại Hà Nội, tôi đã ngủ khò một mạch.
Qua cầu Thượng Lý cao vời, chợt nghe tiếng bố tôi nói:
Ơ hay, cái con Mỵ này, lúc nào đi xe cũng ngủ mới lạ.
Buổi cuối cùng ở Hà Nội theo như bố tôi diễn tả, ông nhớ nhất cái đêm sương, cũng chỉ để giữ lại trong lòng một kỷ niệm ướt át.
So ra với tôi hôm nay thì bố tôi khổ quá, ông không biết đẩy cái kỷ niệm, hay văn vẻ hơn là cái nỗi nhớ thương xa xót của ông đi đâu, vô một góc khuất nào trong tâm hồn chẳng hạn.
Thế nên bây giờ tôi chẳng cảm thấy ngại ngùng khi viết ra những bài thơ tình tưởng là khốn khổ, hoá rất êm đềm, huyễn ảo, huyền mơ.
Nhất là giữ được hình ảnh anh trong hàng chục tập thơ. Chu choa. Kể ra anh lại giận bây giờ. Anh sẽ lớn giọng: ai cho phép tự tung tự tán tình cảm rứa, mới là lạ lẫm.
Anh bảo ở miền anh, tức miền Trung mộng mơ, không cần cái đêm sương ẩm lạnh như Hà Nội của quý vị, với Huế đúng nghĩa phải kể đêm mưa.
Muốn rõ rệt hơn thì đêm mưa Huế. Có buồn bao nhiêu đi nữa vẫn là những đêm mưa xót dạ ở Hoàng thành…
Mà thôi đừng nói mưa Huế xót xa, day dứt chi nhiều, bởi nghe mưa Huế không thất tình vẫn cứ buồn thương, tuyệt vọng lắm nờ.
Rứa thôi ta bỏ Hà Nội, Huế đi, vô hẳn Sài Gòn để hưởng thụ những đêm say tuyệt hảo, say men bia rượu hay say đắm tình người.
Quả vậy, chỉ ở Sài Gòn mới dám sống thực, yêu hết lòng, cạn liệt tình thơ, vẫn còn nhiều điều kiện để yêu thương rồi chấm dứt, thường đùa là chết bỏ vậy đó.
Quê hương Việt Nam mỗi miền, mỗi thành phố có một sắc thái riêng như đêm sương Hà Nội, đêm mưa Huế, đêm say Sài Gòn.
Với tôi còn có những đêm khí núi hơi rừng mù mịt Sa Pa, thời Pháp còn ghi chú thêm nơi bản khai sinh tôi là xã Xuân Viên, làng Chapa, tỉnh Laokay.
Lý do Sa Pa là làng nghỉ mát của tất cả những ông Tây bà đầm tứ xứ trên đất nước Việt Nam, mỗi năm về an dưỡng.
Nói một cách khác, Sa Pa là làng nghỉ mát ở Đông Dương do Tây thành lập để an dưỡng người già và người bệnh thời Pháp chiếm cứ miền Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 vừa qua.
CAO MỴ NHÂN
CHUYỆN HÔM KIA – Cao Mỵ Nhân
CHUYỆN HÔM KIA. CAO MỴ NHÂN
*
Chuyện hôm qua đã cũ rồi, mà “Chuyện hôm kia” còn cũ rích hơn nữa.
Anh đang mỉm cười xem thử mình định nói gì ?
Có gì đâu mà …nói chớ, đó là một cụm từ, tưởng giống như một chùm hoa trong bài thơ ” Chiêm bao” của thi sĩ Bùi Giáng .
Anh lặng người đi một thoáng, anh biết lúc này mình đang buồn lắm, anh có thể khiến mình vui tức khắc, nhưng anh vẫn không làm.
Tại sao thế?
Người ta rất thương một tha nhân hấp hối, có thuốc cứu sẵn trong tay, nhưng vẫn nhất định không đưa cho kẻ hấp hối đó uống.
Vì nếu kẻ hấp hối đó sống lại, tha nhân đó sẽ biến thành thân nhân của vị đại phu ngay.
Nên đã quyết liệt thề, là cùng thiên nhiên bỏ mặc khách hấp hối bên trời, nếu Thượng Đế cho người hấp hối đó sống, thì được sống, mà nếu không tự lực được, như cánh chim không vươn lên nổi, phải tan ra thành cát bụi vô thường…
Thì cũng đành thôi…
Anh, chẳng lẽ anh lại ” tàn bạo ” thế sao ?
Anh trầm tư, rồi ung dung trả lời: ” sao không bảo là tôi ác, còn cố tránh tiếng ” ác ” này ? Có phải vì quá đắm say tôi đó không?”
Tại sao anh cứ đọc được ý nghĩ của mình, tôi phải nghe trọn một ngày những bài thơ của Bùi Giáng, do đủ các thành phần các giới trong nước bàn soạn, tán tụng ông thi sĩ cuồng chữ này.
Khởi sự, nhà thơ họ Bùi chỉ gàn bướng, khinh khi thế nhân, trong phạm vi khả năng khiêm tốn nhất, là ” điên ” cho thiên hạ khỏi thắc mắc.
Người ta có thể điên theo mức độ bất như ý của mình …
Điên vì thời cuộc, vì danh dự, vì tự ái, vì bị áp bức, ganh ghét, xấu hổ, mất mát, ân hận…vv…
Chắc tôi có thể bị điên vì mức độ nhẹ nhất trong những lý do nêu trên, vì mất mát và ân hận.
Anh thở dài: ” có thể chỉ vì ân hận thôi, nhưng trong tâm tư vẫn như vương vấn một điều là tiếc nuối phải không ?
Lại hình như đúng quá. Song nếu chờ anh đưa linh đan cho uống, thì, có lẽ mình đã ở đỉnh tháp ngàn thương rồi.
Do đó cả 2 người : anh và mình, phải đào huyệt chôn cất cuộc tình buồn…
Ngắm mộ tình bơ vơ trong nỗi sầu tư thơ Bùi Giáng kể lại “chuyện hôm kia “, mình đành tự bạch với thinh không, và thấm nhuần tư tưởng hư vô ngay khi mình đang có tất cả .
Thế nhưng, mình có thể tìm anh trong nỗi nhớ, ấy là mình tiết lộ cho anh hay:
Thực ra, riêng bài thơ Chiêm Bao của thi sĩ Bùi Giáng, có cái tên tức cười lắm : ” Tặng Lyn Rô “, tức là ông nhà thơ cuồng chữ đó tặng Nữ tài tử điện ảnh Mỹ Marilyn Monroe từ năm 1962 lận .
Sao anh không cười vậy ? Này nhé :
Màu xuân trắng mơ màng pha in mặt
Khắp môi hường nhắc lại chuyện hôm kia
( Lyn Rô. Bùi Giáng 1962 )
Anh không cười, nhưng cũng không trách mình sao hoang phí thời gian, thay vì mình học thêm computer, English …để không la hoảng lên mỗi lần Ipad lung tung xoè, mà nay không hỏi được anh, vì đang bị cấm vận IPhone .
Ca tụng một ngôi sao rực rỡ, nữ tài tử da trắng xoá, mà thép bút vẫn không xa nghiên mực cổ thư:
Màu tô tỉnh sáng bừng tờ phương cảo
Đã từng sai bóng nguyệt lạc tin hoa
Giờ bất tuyệt giậy ngần trong thủy thảo
Dừng âm thanh ngoài cõi sóng thu loà
( Lyn Rô Bùi Giáng )
Có phải quan võ đang ” hỡi ôi”, nghĩ rằng có thể người đang kể chuyện này, cũng may ra chỉ hiểu một phần nào ý thơ Bùi Giáng, còn thì cứ Ma Ma, Phật Phật …trong đầu thôi .
Đúng vậy, nhất là đoạn thơ tiếp :
Thành đất quạnh vàng rêu mưa thấm liễu
Nẻo Thương lương làn sóng động đêm ngà
Vừng phơ phất loà xoà em có chịu
Giục Đào Nguyên anh ngó hẳm Liêm Hà
( Lyn Rô. Bùi Giáng )
Bao nhiêu đấy, đủ rồi câu “chuyện hôm kia” của thi sĩ Bùi Giáng, thành cặp vấn đáp :
Hỏi người quê ở nơi đâu ?
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà ! ( Bùi Giáng )
Một học giả uyên bác thế, mà vẫn đơn sơ, mộc mạc, chân chất, nhưng có chút ưu phiền, nên cuộc chia tay chỗ ông đến chơi một vài ngày, như trong thơ tặng Lyn Rô, đã kết thúc thật cảm động:
“Ồ ly biệt tơi bời bờ lảo đảo
Em ra đi, đời bưng mặt khóc oà …” ( Bùi Giáng )
Anh thở dài thực sự rồi, anh đang thương cảm Bùi Giáng , bậc hiền triết tài hoa.
Vị thi sĩ này rất hiền, rất triết, không khổ tâm, không chán ghét đời…
Thi sĩ Bùi Giáng đã đạt tới đỉnh điểm của hư vô, sao mình không có được một chút nhỏ an nhiên tự tại ?
Chẳng lẽ lại nói rằng: anh đang là mặt bằng suy tưởng, là vị thần xúc cảm của mình mà lâu nay mình vẫn tôn thờ…
Nhưng mình phải bình thản hơn nữa, để căn bệnh bồn chồn lo lắng không trầm kha thêm.
Hình như anh gật đầu ….
Có phải anh đang gác kiếm, để luyện linh đan cho mình dưỡng khí, dưỡng chí …không ?
Để anh sẽ từ thật xa, xa lắm, thổi luồng gió mát phương nam tới, cho hoa lá quanh mình hồi sinh .
Thế thì, mình bắt chước thi sĩ Bùi Giáng, viết thử :
Hỏi mình khổ não vì đâu
Xin thưa chính tại xưa, sau một người
Nên chi cứ giữ nụ cười
Mai kia tái ngộ vạn lời bâng quơ… ( thơ CMN ).
CAO MỴ NHÂN
BÀI THƠ LỤC BÁT: “Hoa… Vàng Dấu Mơ” – Phương Hoa
HOA… VÀNG DẤU MƠ
*
Từ em…
tỏa ánh
quang hồng,
Xôn xao một cõi
bềnh bồng trong anh.
Mi ngà vời vợi rèm xanh,
Màu môi ửng thắm
cho cành
trúc nghiêng.
*
Từ em…
e ấp
thuyền quyên
Gió lung linh gợn
suối huyền tóc mây
Đất trời chao đảo quanh đây,
Tim rơi mất nhịp
ngà say
cánh bằng.
*
Từ em…
nguyệt rạng
cung Hằng,
Ước mơ dùng sợi
xích thằng buộc nhau.
Yến oanh sải cánh ngàn sau,
Trúc mai từ độ
pha màu
ngất ngây.
*
Từ em…
tay chạm
hồn này,
Trái tim lữ thứ
vờn xoayngút ngàn.
Ngờ đâu chớp mắt bên đàng
Giáng tiên trở gót…
hoa…vàng
dấu mơ.
*
Phương Hoa – MAR 2022
THƠ Đường – Xướng Họa – CAO BỒI GIÀ & Các Thi Hữu + Các Điệu Vũ Và Bài Ca Dân Gian Tuyệt Vời Của Ukraine.
Các Điệu Vũ Và Bài Ca Dân Gian Tuyệt Vời Của Ukraine
THƠ CAO BỒI GIÀ: “NỊNH CÒN ĐAU HƠN HOẠN” & CÁC BÀI HỌA CỦA THI HỮU.
NỊNH CÒN ĐAU HƠN HOẠN
*
“Đại Đế” giờ đây nổi trận cuồng
Vì bầy lính lác, nó lừa ông:
Ukraine chúng giỏi cương vài tiếng
Kiev ta goằm chỉ một hôm
Giá áo, gom ngay giam ngục thất
Túi cơm, hốt hết đóng cùm gông
Đắng cay, xưa dại tin lời nịnh:
Oai vệ nhất vua lúc ở …truồng…
*
CAO BỒI GIÀ – 16-03-2022
PUTTIN KHÙNG
(Kính họa cùng anh Cao Bồi Già)
Lão “Put” chàng “Tin” quá loạn cuồng!
Chơi trò tham vọng chủ nhân ông
Ukraine xâm lấn bao nhiêu bận
Kiev giết người mấy chục hôm
Thấy chửa! Giờ cong lưng cõng nợ!
Nhìn này! Đã vẹo cổ tròng gông
Tâm tà dạ quỷ loài vô hậu
Tỷ phú “phe ta” lột đến truồng
*
Phương Hoa MAR 18th 2022
KHÔNG ĐỀ
*
Tàn bạo, ai hay gã tận cuồng
Trở lòng quét sạch lính”lòe” ông “?”
Thu về Kiev…tầy bao nả
Đánh chiếm…Ukraine đáng mấy hôm”?”
Thầy trớ tâm sà, thân hứng vạ
Tớ lòi mặt chuột, cổ đeo gông “!”
Đắng lời nịnh hót, quay ra “trị”
“Đại đế” lo chi bị lột truồng???
17-3-2022
Nguyễn Huy Khôi
ÁC THÚ LỘ HÌNH
*
Bởi lòng kiêu hãnh đến ngông cuồng
Nên lũ nịnh thần mới phỉnh ông:
Nghiền nát xứ kia nào mấy chốc
Đập tan dân ấy chỉ vài hôm
Dội bom tàn bạo như thiêu lửa
Sa vũng nặng nề tựa vướng gông
Thế giới rủa nguyền tên khát máu
Putin, ác thú lộ trần truồng !
Sông Thu
( 17/03/2022 )
LỘT MẶT ĐẠI ĐẾ.
*
Tự đại lâu nay …đến phát cuồng,
Tin bầy phỉnh nịnh xúi càn ông:
Đẹp tan KIEV không bao chốc,
Thâu tóm UKRAINE chẳng mấy hôm
Phẫn nộ, đem gian thần tống ngục
Căm hờn, bắt phản tớ đeo gông…
Putin thế giới đồng tâm rủa,
Ác quỷ phơi nguyên …mặt lột truồng!
Thanh Hoà
TỘI QUÁ PUTIN
*
Tội quá Putin lắm dại cuồng
Nghe lời xúi bậy hại đời ông
Xông vào Kiev chừng dăm tiếng
Đánh chiếm Ukraina chỉ mấy hôm
Trận chiến dại rồ đâm xập lưới
Bản thân vĩ tưởng tự mang gông
Hết thời lại trách bầy xu nịnh
Sức mạnh giờ đây bị lột truồng !
songquang
20200317
TRANG TƯỞNG NIỆM – VĂN SĨ VĂN QUANG – Lê Văn Hải & THƠ Đưa Tiễn – Của Phương Hoa
THÀNH KÍNH TIỄN ĐƯA VĂN SĨ
VĂN QUANG
*
VĂN QUANG từ giã bút nghiên rồi
Mất một nhân tài thương tiếc ôi!
“Trời Tím” đẫm buồn, mây quyện gió
Tầng xanh nghẹn tiếc, lệ pha lời
“Tơ Lòng” đà dứt, tâm an lạc
“Cuồng Vọng” không còn, ý thảnh thơi
Kính tiễn thăng thiêng miền Cực Lạc
Người đi tác phẩm mãi lưu đời.
*
Phương Hoa – MAR 16th 2022
Hôm Nay: Nhà Văn Văn Quang Vừa Tử Giã Chúng Ta!
Lại Thêm Một Vị Sao Trên Bầu Trời Văn Nghệ Miền Nam Vừa Vụt Tắt!
Nhà Văn Văn Quang Vừa Từ Giã Chúng Ta!
Lê Văn Hải
Tin Buồn Tháng 3!
Tin từ một thân hữu cho hay, Nhà văn Văn Quang, đã qua đời lúc 10 giờ 20 phút, ngày hôm nay! Thứ Ba, 15 tháng 3 năm 2022, tại tư gia, đường Nguyễn Thiện Thuật, thành phố Sài Gòn, Hưởng thọ 90 tuổi.
Tuy Nhà văn Văn Quang ở Sài Gòn từ sau ngày mất nước, nhưng những bài viết của Ông, xuất hiện thường xuyên trên khắp các báo chí Hải ngoại, từ cuối thập niên 90, cho tới khoảng năm 2017. Cuối cùng với bài viết, giã từ bạn đọc, sau bài này, Ông “gác bút” vì không còn sức mang “nắng mưa Sài Gòn” đến với “những người muôn năm cũ!”
Ông được coi như “tai mắt” tường trình mọi biến chuyển, thay đổi về thành phố thương yêu, của một thời “Sài Gòn, đẹp lắm, Sài Gòn ơi!” trước 75.
Ông là nhà văn duy nhất ở trong nước, mà lại có tình thân thiết nhất với rất nhiều người đọc tiếng Việt bên kia vòng trái đất.
Sự ra đi của Ông, làm biết bao người thương nhớ, nuối tiếc! một Nhà văn thân yêu của Miền Nam.
Nhà Văn Văn Quang Và Tôi
Trước 75, tôi chỉ là người Lính, với cấp bậc vào hàng “củ lũ nhí” nhất, thì làm sao có cơ hội quen biết đến hàng sĩ quan cấp tá, lại mang chức Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội như Ông.
Nhưng tôi đã đọc rất nhiều tác phẩm của Ông, văn ông nhẹ nhàng, trong sáng, đầy tính nhân bản. Mang nỗi u uẩn, đau thương người dân, người trai, khi đất nước trong thời chinh chiến.
Khi tác phẩm Chân Trời Tím dựng thành phim, do Đạo diễn Quốc Phong và Liên Ảnh sản xuất. Tôi đã là những người đầu tiên, đứng xếp hàng trước rạp Văn Hoa Dakao để chờ xem. Thổn thức với Hùng Cường, Kim Vui của mối tình trong cuộc chiến. Lòng quặn thắt với Nhạc phẩm Nửa Hồn Thương Đau, sáng tác của Trần Thiện Thanh, dành riêng cho phim này, qua tiếng hát vút cao của Thái Thanh.
Sau Tháng Tư Đen tan tác,
Khoảng cuối thập niên 90, lúc đó tôi đã giữ một tờ tuần báo, một cây viết của tờ báo, cũng là nhân viên tòa soạn, bút hiệu “Điền Tuấn” Cũng là người bạn thân thiết với Nhà văn Văn Quang, đã đưa ra một đề nghị với tôi:
-“Có một nhóm văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, vừa mới từ cải tạo về, muốn viết bài cho tờ báo mình, để có chút tiền cà phê, cà pháo, anh em có cơ hội gặp mặt cho vui”
Tôi đồng ý ngay, chỉ thắc mắc:
-“Nhưng trả tiền nhuận bút bằng cách nào? Có ảnh hưởng gì đến người trong nước không?”
-“Dừng lo, chúng tôi có đường dây!”
Từ đó, tờ báo tôi, xuất hiện rất nhiều bài báo, từ những cây viết trong nước, nhưng nhiều nhất, vẫn là những bài của Nhà văn Văn Quang!
Thời gian này, người Việt Hải ngoại, mang thân phận của một kẻ lưu đầy, chưa bang giao, nên nghĩ vĩnh viễn không có đường về quê hương! Những bài viết kể chuyện nắng mưa Sài Gòn, nơi chôn bao nỗi nhớ, là những bài “ăn khách” nhất của tờ báo.
Khi Nhà văn Tô Ngọc qua Mỹ, Ông đến tòa soạn ngay ngày hôm sau, thông báo với tôi: “Anh em gởi lời cám ơn, “bịch thuốc bổ,” gởi về mỗi tháng, để Anh em mới có cơ hội gặp nhau vui lắm, chưa kể giúp được những trường hợp khó nghèo!”
Tôi rất vui mừng, không ngờ chuyện nhỏ, mà có kết quả quá vui, thật to lớn như thế! Từ đó, tôi có cơ hội thăm hỏi Ông qua thư từ.
Sau này, mừng cho Nhà văn Văn Quang, vì đã cộng tác với rất nhiều tờ báo của Hải ngoại. Có vẻ từ đó, đời sống Ông cũng dễ thở hơn chăng.
Vài Dòng Tiểu Sử”
Nhà văn Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm 1932 tại Thái Bình.
Năm 1953, ông gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong nhiều đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Geneve năm 1954.
Từ năm 1957, Văn Quang chuyển sang ngành Tâm lý chiến, với nhiệm vụ Trưởng phòng Báo chí Quân Đội thuộc Cục Tâm lý chiến, Tổng cục Chiến tranh Chính trị QLVNCH. Cũng là Trưởng ban biên tập của các tờ báo Quân Đội VNCH.
Tác phẩm đầu tay của Văn Quang là “Tiếng Tơ Lòng” được đăng trên nhật báo Thanh Dân, Hà Nội. Cuối năm 1953, tác phẩm thứ nhì ra đời, là tập truyện ngắn Thùy Dương Trang, do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.
Từ đó cho đến 30 Tháng Tư 1975, Văn Quang cộng tác thường xuyên với rất nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí tại Sài Gòn.
Văn Quang có hơn 28 tác phẩm được xuất bản. Các tác phẩm của ông hầu hết là truyện dài, trong số có những tác phẩm, gây được nhiều tiếng vang như: “Nét Môi Cuồng Vọng”, “Nguyệt Áo Đỏ”, “Người yêu Của Lính” Ông đã có bốn tác phẩm được chuyển thành phim: “Ngàn Năm Mây Bay”, “Chân Trời Tím”, “Đời Chưa Trang Điểm”, “Tiếng Hát Học Trò”.
Sau 75, Ông trải qua 13 năm rưỡi đi tù cải tạo. Khi ra tù, Văn Quang trở về Sài Gòn, sau đó từ chối ra đi theo diện HO, quyết định tiếp tục ở lại Việt Nam, Nhà văn duy nhất cộng tác với rất nhiều báo chí Việt ngữ tại hải ngoại.
Trong bài chia tay với độc giả, với tâm tình thật cảm động: “Hơn 60 năm cầm bút, tôi không có gì đáng tự hào, bởi chỉ như người Lính khi ra trận, không biết mình đã bắn được bao nhiêu viên đạn! Tất cả chỉ vì ba lời thề “TỔ QUỐC – DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM!”
Thương tiếc Nhà Văn thân thương vừa rời bỏ chúng ta, xin mời cùng thưởng thức một bài Tạp Ghi của Ông, như nén hương tưởng nhớ, để “nhắm mắt cho tôi tìm!” thấy… Ông!
CÁI MUỖNG
Văn Quang
I.
Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng tôi “học tập cải tạo”, chỉ biết rằng đã có những người “quen” với những ngày tháng cực khổ, dài lê thê trong những căn nhà giam được “xây dựng” bằng đủ thứ kiểu giữa những vùng rừng núi âm u. Ở Sơn La thì “trại” được làm trên những nhà tù từ thời xa xưa, chỉ còn lại những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách đất trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.
Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị, rồi một thời gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến tranh đã có khi người ta dùng làm “công binh xưởng” chế tạo lựu đạn. Vì thế nên thỉnh thoảng chúng tôi nhặt được một cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Vĩnh Phú thì nhà tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu “biệt kích” gồm vài căn nhà “xây dựng kiên cố” bằng gạch lợp tôn xi măng. Chúng tôi “được học tập cải tạo” trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại
là khu này trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó. Muốn vào khu này phải qua hai lần cổng có tường gạch bao quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì khác, còn khi chúng tôi “được giam” ở đây có vẻ như “cởi mở” hơn vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ để cho chúng tôi đi lao động hàng ngày cho khỏi phải mở ra mở vào.
Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người ta cũng phải quen. Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu thốn và trong những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật và quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm chí cấm cả đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm nữa. Chỉ còn những thứ đã thành “luật” thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm “mua bán đổi chác linh tinh”, cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và cấm tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có anh tù nào lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy. Mua bán đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút xử dụng hàng ngày nhưng đó là những thứ đã được “cải biên” thành dao kéo mini nhỏ nhắn cho dễ cất giấu. Nó là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị bắt thì cũng chỉ bị tịch thu chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy theo tội– đưa vào “thiên lao” tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.
II.
Ngày qua ngày, cái “không khí êm ả” của trại giam trở nên phẳng lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ “an tâm, hồ hởi phấn khởi” mà bất kỳ anh “trại viên” nào cũng cứ phải viết khi phải làm những “bản kiểm điểm”, mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai tin.
Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị xáo trộn. Vào một buổi sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa trại, chuẩn bị gọi tên từng đội đi lao động để “một ngày lại vinh quang như mọi ngày” thì bỗng đâu toán lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như ra trận, súng ống chĩa về phía “quân thù”, mặt mũi “khẩn trương” rõ rệt. Họ sộc thẳng vào phòng giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.
Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở trò gì. Có những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có một ai đó trốn trại? Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi người tù có được trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một vài gói đồ bị tịch thu được vác lên “phòng thi đua”. Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng đó chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ “quốc cấm” của trại đã quy định.
Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những “trại cải tạo” thường dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh ra những “tiêu cực”. Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có những vụ xúi giục “tuyệt thực”, bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối thì có hàng trăm thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức vô lý, sự trù dập của một vài anh “quản giáo”, sự hỗn hào của mấy anh lính võ trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ phải làm cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề phòng, lúc nào họ cũng “đề cao cảnh giác”, lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với mọi “mưu đồ”.
Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên đâu. Cứ sau mỗi lần như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được một anh nào đó giấu những thứ vớ vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng ngoài quy định. Tất nhiên sẽ có những cuộc “kiểm điểm, phê bình” mà chúng tôi gọi là những “buổi tối ngồi đồng” để từ đó hy vọng lòi ra một vài cái “tội”. Đội nào khôn ngoan thì cứ ngồi im, ai “phê” thì cứ mặc, còn cãi là còn “ngồi đồng”. Đi làm suốt một ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng, còn “phê bình” còn “kiểm thảo” thì chịu sao nổi. Nay “làm chưa xong” thì mai lại ngồi tiếp, ngồi cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo tình hình của từng thời điểm.
Thời điểm “căng” thì vào nhà kỷ luật đặc biệt nằm “treo một chân”, thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và họ sẽ có những biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội khác để phòng tránh những chuyện thông đồng, những tổ chức, những phe nhóm có thể gây nguy hại đến an ninh của trại tù.
Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái tinh thần “tưởng rằng yên ổn” của mấy anh “trại viên” còn tỏ ra cứng đầu, còn có mưu toan lôi kéo người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những yêu sách hoặc toan tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù cũng rối tung lên và làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào tinh thần bè bạn càng thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi trò gì cũng thành quen và đối với một số người “chẳng có gì để mất” thì họ trơ như đá, muốn làm gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà chết cũng chẳng sao.
Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy của những anh bạn trẻ, bởi tôi cũng chẳng có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất tất cả rồi, chẳng có gì phải lo. Đôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở Sàigòn gửi cho cái gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu không có ông anh rể tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ “caritas” như một số anh em ở trong trại tù rồi. Tức là những người chẳng có ai thăm nuôi.
Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người ở trong tù mà lại tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người còn vui mừng khi thấy vợ mình bước đi bước nữa với một anh nào đó đưa các con ra được nước ngoài. Tôi nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai trong hoàn cảnh cay nghiệt này. Theo tôi thì những anh “mồ côi” không ai thăm nuôi trong trại tù mới chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái “thú đau thương”.
III.
Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán lính chạy sồng sộc vào trại. Đó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch chừng vài ngày. Đây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước những ngày lễ tết lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ yên trí rằng chẳng có gì để mất, chẳng có gì quan trọng.
Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất chỉ là rau. Mùa này thiếu rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được, chỉ còn rau cải và trồng cải thì lâu ăn và năng suất không cao, cho nên có được tí rau là hạnh phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống su hào, đó là thứ “thực phẩm cao cấp” nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ su hào bắt đầu to hơn nắm tay nằm tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi chúng vì cái công sức tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một tác phẩm nào đó mà tôi đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm thì coi nó là tác phẩm vậy, để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những thứ quanh mình.
Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống su hào, có khi là một cái tên nghe có vẻ “lả lướt” như tôi đã gặp ở phòng trà tiệm khiêu vũ, có khi là một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò “nghịch ngầm” giữa vùng rừng núi âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi của tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến, dù 12 luống su hào còn non chưa đến ngày “thu hoạch” nhưng cần thức ăn trong ba ngày Tết nên họ sẽ nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu để đến mùa xuân. Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du này.
Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung quanh đang xôn xao, kẻ bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn nhơ vì tôi chẳng có gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng thật ra chỉ có đúng một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng, nhưng những người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói “Vừa ăn xong mà vẫn cứ tưởng như mình chưa ăn”. Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế mới là khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái muỗng tre nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng ăn rả rích suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác đói, đó là cách tự đánh lừa mình.
Tôi cũng “ăn dè hà tiện” nhưng tôi ăn bằng muỗng. Cái muỗng rất đặc biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi rửa sáng bóng. Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để cái muỗng ở nhà. Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp sữa được chế biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù, nó có thể dùng “trăm công ngàn việc” từ đựng các loại thức ăn, thức uống đến đun nấu, câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, tắm rửa đánh răng, rửa mặt. Nhưng hôm nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong buổi khám xét trại sáng nay.
Đây là thứ “gia bảo” tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm nay chưa hề lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi nằm ngủ. Có thể ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi, một thứ đã thành thói quen bám vào cuộc sống.
Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm đó tôi quyết định đến gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng chỉ là một “trại viên”, nhưng trước đây anh ta là cán bộ, “thoái hóa tiêu cực” sao đó nên bị đi tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi là “phạm binh phạm cán” tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một chế độ đãi ngộ riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin cậy của giám thị.
Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực dẫn chúng tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh ta chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng “cậu huyện Nhụ nằm ở đó”.
Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện Nhụ, anh ta nói là cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn gia đình anh vốn là nông dân nên ở lại miền Bắc.
Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở tòa án Sài Gòn và tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ xa. Cụ làm tri huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể cho Dực nghe đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau này đi “cải tạo” cụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm được ăn một cái bánh dò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì ghé qua Hà Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh dò mang lên thì cụ mất rồi.
Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ chịu hơn. Nhưng dĩ nhiên cái khoảng cách giữa một bên là “ngụy” một bên là “cán” thì khó mà san lấp được…
Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa tôi không gặp được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị cho những ngày Tết tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm văn hóa xem những thứ bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn để trong kho lẫn lộn với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông anh tôi gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày. Mà cái thứ thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với nghệ nên không công hiệu. Tôi có thứ thuốc “cao cấp” hơn là Maalox, uống vào là cơn đau dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của nó tốt thì cứ thích, có sao đâu.
Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:
– “Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế? Bây giờ để trong kho, chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào nhà đá.”
Tôi nằn nì:
– “Đấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết không, tôi mất nhiều thứ lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự điển.Nhưng tôi không cần, chỉ cần cái muỗng thôi.”
Dực nhìn tôi nghi ngại:
– “Hay là mày giấu tiền trong đó?”
Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng mày tôi cũng không tự ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó gọi tôi bằng mày tôi cũng cho qua luôn.
– “Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu tiền được?”
Dực nửa đùa nửa thật:
– “Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày chẳng làm được. Chưa biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim trong đó cũng nên. Tao nghe nói mày có sách làm phim phải không?”
– “Đúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta lấy làm phim chứ tôi biết cái cóc khô gì.”
– “Vậy sao mày chỉ đòi lấy cái muỗng, mày mua chuộc tao bằng hai vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không chết cả đám. Tao không chơi.”
Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Chiều hôm đó, Dực lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết. Tôi đang loay hoay dán mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực kéo tôi xuống. Nó bảo tôi đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế, trang trí thành khu đọc sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ “có văn hóa”. Nhưng nếu coi thư viện thì không được ăn tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay dù biết rằng sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh em trong phòng và mất cái thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do chúng tôi tự làm lấy.
Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó. Tôi đành kể cho Dực nghe:
– “Buổi sáng hôm tôi phải đi “học tập cải tạo”, vợ tôi chuẩn bị một số đồ dùng hàng ngày đưa vào túi xách. Đứa con gái của tôi, khi đó mới hơn ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt, thuốc men… nó đang ăn sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và dặn: “con cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy”.
Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả. Nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay này có thể là vĩnh viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày về vì có biết ngày nào về đâu mà hẹn!
Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những bữa ăn, suốt trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên qua cái muỗng đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái, bên những người thân. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không bao giờ thành hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.
Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng hắn vỗ vai tôi:
– “Thôi được, nếu đã là như thế thì tôi giúp cậu. Tối nay, khi ngồi coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi cậu xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban thi đua lên phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa vào lấy, có gì thì cậu chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết này đấy, chưa biết chừng suốt mùa xuân.”
Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách “ăn trộm” này. Tối đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà ngoài hắt vào, vừa đủ soi sáng cái đống hầm bà làng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa bị thu mấy hôm trước. Tôi sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh bạn tù của tôi có lắm trò chơi thật.
Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những ống hỏa châu hoặc những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc gọt rất tinh vi. Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người yêu, làm bằng nhôm được khắc những cái tên “Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…” nghe nao cả lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có hoa lá cành xinh xắn. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.
Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ lộn xộn. Cái mà tôi kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi không dại gì mà không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp, vừa hồi hộp vừa phải thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ cũng khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng không còn ở đó nữa. Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày cộm của “thằng chết tiệt” nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận ra nó ngay. Lúc đó tôi có cảm tưởng như “con có ở xa hàng cây số thì bố cũng cứ nhận ra con như thường”.
Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi nhìn cái hoa văn chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái nét mặt con gái tôi khi nó “nhí nhảnh” đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là một chuyện vui, bố đi chơi rồi mai bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong nụ cười mếu máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao trong lúc gay cấn như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp. Tôi vọt ra khỏi phòng khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về “khu biệt kích”. Thoát nạn! Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của tôi, dù tôi đã phải hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi thì tôi cứ phải quanh quẩn trong cái “phòng đọc sách” chẳng có ma nào thèm ngó đến ấy.
Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như chuyện được ăn một bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo. Nhưng quả là tôi thấy hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi, còn cần gì vui chơi nữa. Đó chính là mùa xuân của tôi.
Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải “cứu lấy” cái vật gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu rồi cứu lại được cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi không phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi trong những năm qua, người đồng minh đó đã “gan dạ” cuốn cờ chạy nhanh và chạy xa quá rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.
Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa lớn. Chỗ chúng tôi làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường nó cạn, dòng nước trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh. Chúng tôi thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước từ những triền đồi vây quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là con suối trở nên hung hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những khúc gỗ lao băng băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi con suối trở thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng chọang làm đổ cái túi đồ đựng những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng khe đá nên tôi không ngần ngại nhoài người xuống mò. Anh bạn nhảy dù, la lên:
– “Bộ ông điên sao?”
Tôi điên thật, hy vọng mình mò được. Nhưng nước chảy xiết quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài chiến trường, rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút và khom người xuống, thò một tay ra cái khe hòn đá là tìm được lại cho tôi được cái muỗng. Đôi mắt anh rất tinh, anh mỉm cười:
– “Tôi biết ông mất cái gì rồi.”
IV.
Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi đã trở về, nhưng chưa trả lại cái muỗng cho con tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, định cư ở nước ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa hề gặp lại con gái tôi. Tính đến năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu đã lập gia đình ở Miami Florida.
Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn. Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng lửng lẫn lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi dự đám cưới. Tôi thì không, chẳng hẹn hò được điều gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có cảm giác như mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó về Sàigòn, chính tay tôi gửi được tấm thiệp mừng con gái. Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để cháu hiểu rằng lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố con còn ở bên nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa và tôi còn ở lại Sàigòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.
Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất rõ là từ khi cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái gì, xa vắng một cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống như cái cảm giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi buồn lâng lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền mãi mãi tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người ta chỉ còn lại cái tình. Cái tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi khi lại mạnh mẽ và sâu sắc hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật đó trên đời không gì có thể so sánh được.
Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng 9/2002 nhân dịp cháu lập gia đình. Nhưng tôi ngồi mãi trước computer, không gõ được chữ nào, đầu óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt, thế thôi! Đúng là chuyện của người thì nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.
Văn Quang
Chùm THƠ LÍNH TRẬN – “TAU GÁNH MẦY VỀ” & Chùm Thơ Phóng Tác – Tác Giả Trần Công/Lão Mã Sơn
THƯƠNG TIẾC
*
Vì Tổ quốc Anh hy sinh đời trai trẻ
Khoác chinh y lặng lẽ bỏ làng quê
Một ra đi không hẹn có ngày về
Để hiền Mẫu mỏi mòn chờ vô vọng.
*
Ngoài biên cương những chiều mưa gió lộng
Nhớ Mẹ già, vợ trẻ, đám con thơ
Khói lửa chiến tranh không hứa bao giờ
Sẽ trả Anh lại làng xưa, xóm cũ.
*
Một chiều tang tóc mây đen bao phủ
Pháo quân thù đã cướp mất đời Anh
Anh đã thành người chiến sĩ vô danh
Gởi thân xác nơi núi rừng sơn cước.
*
Chiến hữu Anh ôm mối hờn mất nước
Phiêu bạt quê người, sống kiếp lưu vong
Tưởng nhớ Anh, Tôi thắp nén hương lòng
Để THƯƠNG TIẾC người trai đền nợ nước.
*
Trần Công/Lão Mã Sơn
NGƯỜI LÍNH CUỐI CÙNG
*
Hỡi anh lính cuối cùng trên đường phố
Nước đã mất rồi, anh sẽ về đâu?
Đơn vị anh tan rả đã từ lâu
Một mình anh, hai tay hai khẩu súng.
*
Anh là chiến sĩ can trường, anh dũng
Chống quân thù đến giờ phút cuối cùng
Đáng được vinh danh là một người hùng
Dù chiến bại, địch kiên oai nễ mặt.
*
Bổn phận người trai, đôi vai gánh nặng
Nợ quốc gia, và nợ với gia đình
Với tổ quốc, Anh đã trọn phận mình
Nhưng còn nợ Mẹ già ơn dưỡng dục.
*
Chiến hữu lưu vong chúng tôi cầu chúc
Anh yên lành để trở lại quê nhà
Hãy tạm quên đi nỗi buồn thua cuộc
Để chăm lo cho con trẻ, Mẹ già.
*
Nếu Anh vẫn còn yêu nước, thương nhà
Hãy chờ đợi sẽ có ngày phục quốc
Nước Việt Nam chỉ tạm thời bị mất
Lá cờ vàng sẽ trở lại Quốc Gia.
*
Trần Công/Lão mã Sơn
TAU GÁNH MẦY VỀ
*
Chiến trường đến lúc vô cùng khốc liệt
Quân xâm lăng tiến đánh khắp mọi nơi
Mầy vội ra đi sớm bỏ cuộc chơi
“Huynh Đệ Chi Binh,“ lính không bỏ bạn.
*
Tau Gánh Mầy Về, đến chốn đến nơi
Để gia đình mầy gặp mầy lần cuối
Cho vong linh mầy ở nơi chín suối
Vẫn được yên vui không tủi không buồn
*
Ngày nay mầy đã đền xong nợ nước
Mầy hy sinh vì đất nước, nhân dân
Trách vụ người trai, mầy tròn bổn phận
Công lao mầy Tổ quốc sẽ tri ân.
*
Trần Công/Lão Mã Sơn
CHÙM THƠ TRẦN CÔNG/LÃO MÃ SƠN
CHUYỆN TÌNH LAN VÀ ĐIỆP
*
Dù sỏi đá cũng sẽ rơi nước mắt
Khi nghe chuyện tình của Điệp và Lan
Một cuộc tình buồn, dang dở trái ngang
Người thôn nữ mang tên loài hoa đẹp.
*
Lan ước nguyện sẽ kết duyên cùng Điệp
Duyên nợ bất thành, cung đàn lỗi nhịp
Đìệp phụ tình Lan, cưới vợ giàu sang
Lan tuyệt vọng, gởi thân vào cửa Phật
*
Mượn kệ kinh để quên chuyện trái ngang.
Ly dị vợ, Điệp tìm đến thăm Lan
Để phân giãi nỗi oan vì quan Phủ
Ép duyên chàng cho con gái chửa hoang.
*
Lan quét lá, cổng chùa đang đóng chặt
Điệp kéo giây chuông, xin Lan mở cổng
Trông thấy Điệp, Lan vô cùng xúc động
Cắt đứt giây chuông, quay gót vào chùa.
*
Lan khóc, như chưa bao giờ được khóc.
Bỏ uống, không ăn, Lang lâm trọng bịnh
Điệp giả nhà sư, vào gặp thăm Lan
Thấy người yêu nằm bất động, mê man
*
Trong vô thức, Lan gọi tên “Anh Điệp”!
Hai dòng lệ ứa, khi còn thiêm thiếp
Từ giã đời, Lan vĩnh viễn ra đi.
Trước mắt Điệp đất trời như sụp đổ !
*
Hồi chuông chùa ngân vang ra tận phố
Đưa tiễn hồn Lan vào cõi hư vô
Kết thúc cuộc tình trái ngang, dang dở
Của đóa hoa tàn, và xác bướm khô.
*
Trần Công/Lão Mã Sơn
NỖI LÒNG NGƯỜI VƯỢT BIỂN
*
Dưới nắng chiều trong nghĩa trang tử sĩ
Có một người thiếu phụ áo dài đen
Tay ôm bó hoa, tay xách nhang đèn
Chầm chậm bước mắt nhìn từng bia mộ
Bóng nàng ngã dài trên con đường nhỏ
Tà áo đen theo gió phất phơ bay.
*
Bỗng nàng dừng chân dưới một tàn cây
Nơi có một nấm mồ đầy cỏ dại
Mắt sững sờ nhìn, cõi lòng tê tái
Ôm mộ chồng, nàng nức nở bi ai
Nàng khóc như chưa bao giờ được khóc!
*
Nàng, một quả phụ sống đời cô độc
Bị mất chồng trong khói lửa đao binh
Chồng ra đi nàng chỉ sống một mình
Thân cò lặng lội nuôi đàn con dại
Thiếu áo cơm, đời mờ mịt tương lai.
Nàng quyết dịnh cùng con đi vượt biển.
*
Thăm mộ chồng để nói lời vĩnh biệt
Hứa với chồng sẽ thủ tiết nuôi con
Dù phải sống trọn cuộc đời cô độc.
Lệ lưng tròng, Nàng cắt vài lọn tóc
Chôn cạnh mộ chồng đáp nghĩa phu thê
Hốt nắm đất mộ để làm kỷ niệm.
*
Quay gót ra về, lòng còn lưu luyến.
Nhạc côn trùng trỗi bản “Biệt Ly Sầu”
Ngày mai nầy trên con đường viễn xứ
Mẹ con Nàng sẽ trôi dạt về đâu?
Chân bước đi, lòng hư tơ rối
*
Tiễn chân Nàng, vài chiếc lá vàng rơi.
Rồi đây, trên con đường đời vạn nẻo
Sẽ có một người quả phụ Việt Nam
Rời quê Mẹ bơ vơ nơi xứ lạ !!!
*
Trần Công/Lão Mã Sơn.
TRĂNG ĐẤT KHÁCH
*
Bốn mươi năm lẽ đã trôi qua
Đất khách dung thân vẫn nhớ nhà
Ngày bỏ quê hương còn xanh tóc
Giờ đây nhìn lại tuổi đã già .
*
Vui là vui gượng trên đất tạm
Buồn nào bằng cảnh sống ly gia
Đêm nay buồn ngắm Trăng Đất Khách
Chạnh nhớ vầng trăng đất nước nhà .
*
Trăng ơi, cho nhắn về quê Mẹ
Nỗi niềm tâm sự kẻ ly gia
Biển dâu thay đổi, trăng tròn khuyết
Ai người thấu rỏ nỗi lòng ta ?
*
Nhìn trăng viễn xứ, lòng thương nhớ
Quê hương cách trở mấy sơn hà
Cùng một vầng trăng soi hai bóng
Người nơi đất khách, kẻ quê nhà.
*
Trần Công/Lão Mã Sơn
THƠ: TIỄN NGƯỜI – NGÀY THÁNG VÔ CÙNG – & CHÙM TÌNH THƠ Cao Mỵ Nhân
Tiễn người
Ta thấy ta trên hình ảnh người Mới vừa xuân sắc đã pha phôi Người trong cỗ sự nằm yên lặng Như thoáng bâng khuâng mỉm nụ cười
Tóc trắng hay là mây bập bồng Dung nhan xanh bạc nét thu phong Chao ôi, ai cũng rồi như thế Mà vẫn đua tranh đến tận cùng
Ta thắp cho người một nén nhang Lặng yên nghe suối lệ tuôn tràn Riêng ta mi cứng, niềm cô đọng Có phải tâm hồn quyện khói tang
Ta tiễn người đi cõi vạn niên Từ đây quên hết mọi ưu phiền Mấy mươi năm cũ vừa quay lại Tất cả, xong là cách biệt thêm…
CAO MỴ NHÂN
NGÀY THÁNG VÔ CÙNG
Đã một năm chưa , hay vẫn sớm
Hoặc là trễ muộn bao lâu rồi
Người đi khi ấy mưa về lớn
Lệ cũng chan hoà ướt má môi
Nước mắt rơi nhiều , toàn nước mắt
Hay khô dòng lệ những người tình
Người đi buổi đó còn hay mất
Hình ảnh mơ hồ đợi tái sinh
Tóc trắng xoá mờ cơn bão lệ
Mưa ơi, sao tới sớm trong lòng
Khóc ư , đâu phải sầu tang chế
Mới luỵ tình bi thảm tuyệt cùng
Một năm , chắc chắn một năm đấy
Dù có non ngày tháng mộng mơ
Người đi, mưa đã nhoè chương giấy
Cuộc tình vĩnh cửu chất đầy thơ …
Hawthorne 10 – 3 – 2022
CAO MỴ NHÂN
QUÊN MỘT TRÁI TIM. CAO MỴ NHÂN
Anh quên một trái tim
Bên đường tình dấu ái
Em càng nhớ nhung thêm
Trên vô cùng ngang trái
Cuộc tình vui chưa qua
Trái tim rơi xuống núi
Ngày ta rời nhau xa
Toàn thân em chới với
Khách tình thơ ngậm ngùi
Nhìn theo yêu dấu vỡ
Trái tim trôi trong trời
Lang thang cuộc tình lỡ
Sao anh quên tim em
Sóng cuồng lên biển gọi
Ôi cuộc tình êm đềm
Một mình em hối lỗi …
CAO MỴ NHÂN
ĐIỂM TRANG THƠ XUÂN. CAO MỴ NHÂN
Mùa xuân ơi, trở lại
Cho em trang điểm thơ
Những lời tình êm ái
Anh vẫn đang mong chờ
Ôi mùa xuân dĩ lỡ
Bởi em lầm lạc yêu
Khiến em luôn bỡ ngỡ
Nhưng sao anh nuông chiều
Em chạy theo ngày tháng
Làm mới lại cuộc tình
Mỗi năm một lãng đãng
Anh gọi tình hồi sinh
Cả một trời hoa cúc
Vàng tới cuối chân mây
Như sắc hương anh túc
Ngây ngất mùa xuân này
Mùa xuân chưa mất mát
Anh ru tình mênh mông
Cho thơ em bát ngát
Hoa nở khắp núi sông…
CAO MỴ NHÂN
GỌI HỒN ĐÊM. CAO MỴ NHÂN
Tưởng là trăng còn đợi
Trên bờ sông đêm qua
Hoá ra người đi vội
Trăng cũng trôi ra xa
Bờ sông buồn từ sớm
Sương ấp ủ mặt trời
Người đi khi gió lớn
Sóng nổi ngoài trùng khơi
Anh thầm thì bên em
Bình minh gọi hồn đêm
Trong cơn mơ dồn dập
Làm vỡ nát trái tim
Trái tim thơ …sắp rụng
Bỏ rơi cành nhân sinh
Suốt đời em ca tụng
Anh trong cuộc tình mình …
CAO MỴ NHÂN
THƠ: LÀM QUEN – QUỐC NGỮ VIỆT NAM VĂN HIẾN – Hoàng Dũng
LÀM QUEN
Thoảng ghé ngang qua rất bất ngờ
Nhạc thi rộn nở thật nên thơ
Từng dòng cảm tác dâng sầu nhớ
Mấy đoạn tâm tư quyện ước mơ
Luyến ái ngày qua thời ngớ ngẩn
Tiếc thương một thuở tuổi si khờ
Thôi thì trang trải từng câu chữ
Nhắc lại cho đời chút mộng ngơ …
Hoàng Dũng – 03/11/2022
QUỐC NGỮ VIỆT NAM VĂN HIẾN
Việt Nam Văn Hiến đã ngàn năm
Quốc ngữ ngày nay thiệt quá căm
Thái Thú mê tiền nên tối dạ
Cộng Nô bám lực cứ mù tăm
Xin đừng mặc kệ quân ngu dốt
Chớ có buông tha bọn chết bằm
Ta hãy chung tay gìn chữ nghĩa
Việt Nam Văn Hiến đã ngàn năm
Hoàng Dũng
THƠ: Cuối Nẻo Đường Trăng – Tặng Quý Hữu 90 – Nỗi Chết Hoang Mê – CAO MỴ NHÂN
CUỐI NẺO ĐƯỜNG TRĂNG.
Nơi người ở cuối đường trăng
Bên kia biển lớn, ta hằng mộng mơ
Biên phương hoa lộng sắc cờ
Vàng mai diễm ảo, núi mờ mịt mây
Ta chưa tới được nơi đây
Đã hoang liêu tự những ngày lưu vong
Hình ai luyện kiếm phương đông
Tan theo dấu lệ đêm giông gió nào
Nhớ xưa trăng rớt chiến hào
Còn nguyên một mảnh vướng vào kẽm gai
Người về lãng đãng liêu trai
Trách nhau sao lại đơn sai hẹn hò
Vội buông thả mối tơ vò
Gió vờ mở cửa, trăng vờ lảng xa
Chao ôi, cổ nguyệt kiêu sa
Mời người ngó lại sơn hà lặng câm …
CAO MỴ NHÂN
THƠ TẶNG QUÝ HỮU 90
Cửu thập niên, ông vẫn nói thầm
Yêu thương nhật nguyệt lộng hoà âm
Một đời chưa hết mùa thay đổi
Tròn kiếp còn thêm chuyện lỡ lầm
Nghe mãi bài ca buồn khói lửa
Nhớ hoài tiếng hát não thân tâm
Sao không kinh kệ mà dan díu
Để khổ cho tơ rối sắt cầm …
Mùa Xuân 2022
CAO MỴ NHÂN
THƠ NỖI CHẾT HOANG MÊ. CAO MỴ NHÂN
NỖI CHẾT HOANG MÊ
Chết nhiều quá, chết ra sao
Xác thân lấp kín chiến hào phương tây
Chỉ nhìn thôi, lửa hăng say
Đốt luôn tất cả nơi này, chốn kia
Chết không biên giới cách chia
Bom rơi, đạn nổ , đầm đìa lệ sa
Chết không loại bỏ địch, ta
Bởi chưng tất cả sơn hà ngả nghiêng
Quên ngay chết bịnh ưu phiền
Chỉ còn chết giữa trận tiền đâu đâu
Chết trên cả nỗi ưu sầu
Ai bên trái, phải, ai đầu, cuối ai
Làm gì có chuyện ngày mai
Bao nhiêu bất trắc tương lai cận kề
Để rồi huyễn mộng u mê
Chết trong tiềm thức não nề nhân gian
Chết như pháp đạo tiêu tan
Bên trong hệ luỵ điêu tàn thánh thư
Chết vào thần thoại hoang sơ
Trang kinh vô tự trắng bờ hoá sinh…
Hawthorne 7 – 3 – 2022
CAO MỴ NHÂN
VTLV CHÀO MỪNG Văn Thi Sĩ TRỊNH CƠ! & Cập Nhật THƠ Xướng Họa – Phương Hoa – Trịnh Cơ & Các Thi Hữu.
THƠ ĐÁP LỄ – TRỊNH CƠ:
ĐA TẠ
Thật quá hân hoan được đón mừng
Xem qua cũng biết mấy người thân
Đếm lui đếm tới…gần hai chục
Đã với cùng tôi ở Lãng Phong
Có những người tôi chỉ biết danh
Đọc sơ cũng cảm thấy rùng mình
Chao ơi, sao được cơ may đó
Đâu dễ trên đời kế cận bên
Đáp lại thạnh tình của tỷ huynh
Từ nay tôi nguyện hết lòng thành
Ra tài hèn mọn người văn nghệ
Sáng tác ngon lành để tiến nhanh
Rốt cuộc đời ta sống, nghĩ gì ?
Nếu không buồn do cuộc từ ly
Niềm vui chẳng thiếu nhưng chưa trọn
Thôi đắm mình vô sáng tác thi…
Xin nói lại đây tiếng cám ơn
Tỷ Huynh trên dưới tựa trăng tròn
Tỏa ra ánh sáng lùa tăm tối
Bao phủ đêm về với nước non
Năm mới Nhâm Dần cố chúc luôn
Diễn đàn Lạc Việt được vuông tròn
Tài hoa nổi bật từ muôn hướng
Tất cả An Khương với Thịnh Toàn…
Paris, 6 Mars 2022
TRỊNH CƠ
GIẤC MƠ TIÊN
Đêm qua chớp mắt mơ màng Màn lay, hương tỏa và nàng bên ta Mày ngài, mắt phượng kiêu sa Nhìn người tưởng gặp đã là ngàn năm Tóc nghiêng, che mặt trăng rằm Tiếng oanh quyện ngát hương trầm gần xa Nàng rằng đời vốn phong ba Và anh hùng vẫn thường là trầm luân Nắng mưa sau cuộc chuyển vần Rồng mây nhập hội, phong vân đến ngày Tương phùng, ta gặp hôm nay Nhưng duyên tiền định xum vầy từ xưa Chỉ vì hôm ấy trời mưa Thiếp bưng chén ngọc đường trưa trở về Lỡ tay rơi vỡ chén thề Trời đày thiếp xuống bến mê, dương trần Đày chàng dâu biển trầm luân Sông Tương một dải muôn phần xa xăm Đến nay đã mấy ngàn năm Ngân Hà, Ô Thước vẫn chăm bắc cầu Động lòng, thương cuộc tình Ngâu Thuyền trăng trời thả hai đầu sông Tương Ngọc trời, Trời vẫn tiếc thương Nhưng Trời tha tội trên đường đánh rơi Ngàn năm ngăn cách qua rồi Nay vui xum họp xin mời rượu tiên!
Chập chờn trong giấc thụy miên Bên tai mà tưởng từ miền xa xôi Đưa tay đỡ chén rượu mời Mắt vui với mắt môi cười cùng môi Bỗng cơn gió hú bên đồi Giật mình tỉnh mộng, mộng trôi về ngàn Giấc mơ tiên bỏ trần gian Làm ta thế tục mơ màng người tiên.
Trịnh Cơ
TIỂU SỬ TÁC GIẢ TRỊNH CƠ
Tiểu sử:
Nhà thơ, nhà dịch thuật, Trịnh Cơ tên thật là Nguyễn Gia Nam. Người gốc Thừa Thiên, lớn lên và sinh sống ở Sài Gòn. Cựu Sĩ Quan Hải Quân trong QLVNCH, khóa 12, 1964, trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang. Định cư Pháp 1975, tốt nghiệp Thuyền Trưởng Cận Duyên tại trường Paimpol Quốc Gia Hàng Hải Paimpol. Sĩ Quan Hàng Hải trên các thương thuyền Pháp từ 1977, suốt 10 năm. Tốt nghiệp ngành Tài Chánh và Kế Toán tại Viện Đại Học Kỷ Thuật Paris. Hành nghề kế toán trong một văn phòng giám định kế toán. Hiện tại đã nghỉ hưu.
Tác phẩm đã xuất bản:
“Cuộc Nổi Loạn Trên Tàu Caine” (Dịch thuật từ tiểu thuyết ‘The Caine Mutiny’ của Herman WOUK, 2006, với các tác giả bạn). “Viễn Khơi” THƠ (In chung, 2007) “Hải Chiến Hoàng Sa” (Biên khảo với nhiều tác giả 2010, tái bản 2014) “Cùng “Chung Số Phận” (Dịch thuật từ “All Hand Down” của hai tác giả Knneth Th-Sewell & Jerome Preisler, 2012. “THƠ Xướng Họa – Cao Mỵ Nhân & Trịnh Cơ” (nhà xuất bản Nhân Ảnh, Hoa Kỳ, 2020)
THƠ TRỊNH CƠ:
TRÊN ĐƯỜNG LỮ THỨ
Một bóng cô đơn ngày tháng dài
Ôm niềm tâm sự ngỏ cùng ai
Tâm tư sầu muộn buồn xa vắng
Hạnh phúc vui nhiều thoáng nhạt phai
Ai kiếp phong trần chưa mỏi gối
Ta đời lưu lạc đã nghiêng vai
Dừng chân cô quạnh lòng se thắt
Mơ ước mà chi mộng các đài
Trịnh Cơ
THƠ HỌA:
ĐỒNG CẢM
Thinh không thảng tiếng hạc loang dài
Nhức nhối canh trường nhói dạ ai?!
Mảnh xác dập bầm mưa nắng trải
Mái đầu phơ phất tuyết sương phai!
Đa mang vận nghiệp bươn sầy trán
Gánh nặng nợ nần chín rạn vai!
Bợt gót lao lung băng dặm nẻo
Dám đâu tưởng vọng chốn trang đàì?!
6-3-2022 Nguyễn Huy Khôi
CON ĐƯỜNG LỮ THỨ
Ngày ôm hận quốc trải năm dài
Những dịp xuôi thuyền tỏ với ai
Thuận dưỡng hồng ân đầy ấp ủ
Bền nung chí nguyện đã an bài
Phong trần lặng lẽ nuôi đời sống
Lạc cảnh êm đềm gánh giữa vai
Thảo mấy vần thơ chìm tĩnh tọa
Chờ tin hội diễn khúc trang đài.
Mai Thắng – 220308
“HỌA BÀI CHÀO MỪNG VĂN THI SĨ TRỊNH CƠ” CỦA PHƯƠNG HOA
Chào Mừng Huynh Trịnh Cơ
Thi đàn Lạc Việt nở thêm hoa
Xứ Pháp cao huynh nhập hội nhà
Bể núi can trường bao thủa vậy
Sông hồ dũng cảm một thời nha
Văn thơ bốn biển nào e lạ
Bút phú năm đàng chẳng ngại xa
Hợp sức chung tay gìn gốc cội
Quê người tiếng mẹ giữ ngôn ta
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 3/5/2022
ĐÓN MỪNG TÂN KHÁCH
Nắng vàng soi núi biếc khai hoa
Lạc Việt thi lâm đón khách nhà
Có phải triều thơ dâng sóng hả
Đúng rồi Cơ Trịnh tới sân nha
Nhìn nhau nhớ mãi dinh Đường thiết
Kính bạn gần thêm thế giới xa
Vừa thấy quê hương qua chớp mắt
Dòng văn cảm kích thả quanh ta…
Hawthorne 5 – 3 – 2022
CAO MỴ NHÂN
CẢM ĐỀ
(Họa hoán vận – 4 vận)
Từ miền đất Pháp xứ hào hoa
Tín hữu mừng huynh kết hội nhà!
Thi Quán vời trăng khơi tứ lạ
Văn đàn xoải cánh vượt trời xa…
Tâm đầu ý hợp tâm thanh nhã
Nghĩa nặng tình sâu nghĩa đậm đà!
Bản sắc giữ gìn hồn Lạc Việt
Tương phùng tri ngộ ấm lòng ta!
6-3-2022 Nguyễn Huy Khôi
CHÀO ĐÓN ANH
(Bát vỹ đồng âm)
Giăng đèn rực rỡ khắp vườn hoa
Chào đón hiền huynh kết một nhà
Hải lý thuyền xuôi đời vất vả
Anh hùng sóng vượt biển bao la
Vần gieo ấm áp đâu còn lạ
Nghĩa đượm nồng nàn chẳng thấy xa
Lạc Việt ân cần nên ý thỏa
Vun bồi ngôn ngữ khách cùng ta!
Như Thu 03/06/2022
THƠ ĐÁP LỄ CỦA VĂN THI SĨ TRỊNH CƠ
ĐA TẠ
Thật quá hân hoan được đón mừng
Xem qua cũng biết mấy người thân
Đếm lui đếm tới…gần hai chục
Đã với cùng tôi ở Lãng Phong
Có những người tôi chỉ biết danh
Đọc sơ cũng cảm thấy rùng mình
Chao ơi, sao được cơ may đó
Đâu dễ trên đời kế cận bên
Đáp lại thạnh tình của tỷ huynh
Từ nay tôi nguyện hết lòng thành
Ra tài hèn mọn người văn nghệ
Sáng tác ngon lành để tiến nhanh
Rốt cuộc đời ta sống, nghĩ gì ?
Nếu không buồn do cuộc từ ly
Niềm vui chẳng thiếu nhưng chưa trọn
Thôi đắm mình vô sáng tác thi…
Xin nói lại đây tiếng cám ơn
Tỷ Huynh trên dưới tựa trăng tròn
Tỏa ra ánh sáng lùa tăm tối
Bao phủ đêm về với nước non
Năm mới Nhâm Dần cố chúc luôn
Diễn đàn Lạc Việt được vuông tròn
Tài hoa nổi bật từ muôn hướng
Tất cả An Khương với Thịnh Toàn…
Paris, 6 Mars 2022
TRỊNH CƠ
LỜI CHÀO MỪNG
CỦA TRƯỞNG BAN ĐIỀU HÀNH VTLV LÊ VĂN HẢI
“C’est avec grand Plaisir que je salue l’erivant et poet Trinh Co à Van Tho Lac Viet!”
Câu tiếng Pháp trên có nghĩa là:
“Thật Hân Hoan, Kính Chào Văn Thi Sĩ Trịnh Cơ, đến với Văn Thơ Lạc Việt!”
Hải gốc Tây…Ninh! Thấy Anh Trịnh Cơ từ Pháp, muốn lòe, “múa rìu qua mắt thợ!” sổ câu tiếng Pháp, kiếm chút giây phút vui vui, là lạ cho phút ban đầu hân hạnh gặp gỡ!
Thật là quý hóa, vì Anh đến từ Kinh Đô Ánh Sáng, một trong những thành phố nổi tiếng nhất của thế giới. Trái tim của Âu Châu! Nhiều người còn nói, “sống mà chưa đến Paris, khác gì mán, còn ở trong…rừng!”
Giờ thì Quý Anh Chị Em trong VTLV sướng nhé, muốn thăm Paris, thì đã có người tiếp đón!
Xin Anh Trịnh Cơ coi VTLV thân thiết như người trong nhà, cứ tự nhiên như…người Tây!
Rất vui và hân hạnh có Anh tham gia. Chúc mừng VTLV, có nhịp cầu bắc tới tận trời Âu!
Lê Văn Hải
Tiện đây, chúng ta cùng thưởng thức, một vài họa phẩm, để thấy chút nét đẹp của Paris, “có gì lạ” nhé.