CHÙM THƠ HALLOWEEN – CAO MỴ NHÂN

HỘI MA HALLOWEEN.    CAO MỴ NHÂN

*

Theo anh đi dự hội Ma

Tháng Mười buổi tối ngày Ba Mốt này

Áo em trắng khói sương bay

Tóc anh cũng trắng như mây lạnh buồn

*

Dọc đường từ lúc hoàng hôn

Đã nghe tiếng hét Ma còn cười vui

Hoá trang trong nỗi ngậm ngùi

Khăn che nửa mặt, tình vùi mộng mơ

*

Đèn nhà thiên hạ toả mờ

Đưa tay lên gõ cửa chờ tha nhân

Kẹo ư ? Nào có khó khăn

Vãi rơi từng gói băn khoăn xứ người

*

Quê nhà Covid khắp nơi

Saigon phong toả, nửa vời tung hê

Ma đang đuổi bắt tứ bề

Khôi hài lời chúc ” Happy Halloween ” này …

       CAO MỴ NHÂN

*

DỰ HỘI THAO.  –   CAO MỴ NHÂN

Còn ba tháng nữa hội thao

Lòng buồn rười rượi, xuyến xao lạ lùng

Lâm Viên sương khói mịt mùng

Đại ngàn thủa ấy tận cùng nỗi đau

 *

Anh về, có thật xưa sau

Vẫn nguyên binh lửa thời nào dọc ngang

Từ đi sông núi lỡ làng

Quyên kêu tuyệt vọng mênh mang đỉnh trời

 *

Hồn buồn quá thủ khoa ơi

Tóc anh trắng bạch mây trời xót xa

Kiếm rơi một thủa sơn hà

Gươm thiêng ái quốc, mặn mà tình em

 *

Nhung y, trận mạc nào quên

Cung dâu vẫn vượt trên yên ngựa vàng

” Mai ta đi dọc Việt Nam

Tìm tên chiến hữu viết tràn non cao …”

   (kỷ niệm Thủ khoa K.14- NCĐ)

      Hawthorne  17 – 3 – 2024

CAO MỴ NHÂN (HNPD)

 23 – 10 – 2024

*

TRĂNG HALLOWEEN.    CAO MỴ NHÂN

Có vẻ là ta chửa tạ nhau

Nên mây dừng lại chốn giang đầu

Khi trăng nấn ná chờ chia biệt

Anh bảo em về đợi kiếp sau

*

Vẫn biết ngày mai sẽ ngại ngùng

Cần chi phải trốn xuân sau lưng

Em tìm đôi chút thân quen cũ

Ánh mắt anh nhìn, ôi dửng dưng

*

Chợt hỏi còn quên nỗi nhớ nào

Ô hay vương vấn phải ngờ sao

Vẫn anh, nhưng thấy không anh nữa

Thấp thoáng hình ma trước cửa chao

*

Lạnh buốt vai thơ, tóc rối bởi

Hạ tuần trăng vãn cả đôi nơi

Tạ ơn nhân ảnh người yêu dấu

Đã xót xa em suốt cuộc đời …

     CAO MỴ NHÂN

*

LÚC SỢ MA.     CAO MỴ NHÂN

Ta nghe ở đầu hồi

Tiếng quỷ ma réo gọi

Ta thấy ở đâu rồi

Bóng hình ai hấp hối

*

Nhìn ra bầu trời tối

Những đốm trắng chơi vơi

Trên vòm cây quạ đợi

Ánh dương lên cuối trời

*

Ta hốt hoảng kêu người

Hơi thở dài hiu quạnh

Có thật không cuộc đời

Đang rơi vào bất hạnh

*

Mặt trời xa lấp lánh

Tia sáng loé chân mây

Đưa bình an tới đây

Nỗi kinh hoàng biến mất…

Hawthorne  17 – 7 – 2024

        CAO MỴ NHÂN

*

HOANG ĐƯỜNG .    CAO MỴ NHÂN

Trên ngọn tình sầu vườn xưa

Có con chim buồn lữ thứ

Đang chờ bóng trăng tan vỡ

Để than van gọi mặt trời

*

Trên mịt mù mây trong đời

Có ai như vừa thổ lộ

Rằng sao cuộc tình lỡ dở

Để thơ khóc giữa mênh mông

*

Em ngồi đợi ở cõi không

Chờ anh, chưa hề thức muộn

Ngày đang bắt đầu tới sớm

Nắng sẽ chan hoà yêu đương

*

Cuối tuần anh có vương thương

Một lần nghe xa tiếng mõ

Hồi chuông cũng vừa vang đó

Chúa ôi, lòng bỗng …hoang đường…

       CAO MỴ NHÂN

*

CÕI KHÔNG.    CAO MỴ NHÂN

Em vẫn bên anh, yêu thiết tha

Vạt mây vương vấn sắp rời xa

Bao nhiêu hoa nở thơm làn tóc

Tiếng sáo thênh thang quyện khói trà

*

Vượt khỏi vòng tay lỏng buổi nào

Dáng xuân dừng lại đón trăng sao

Em chờ anh thắp hương cầu nguyện

Sưởi ấm lòng em, xoá muộn sầu

*

Bến giác, bờ mê, đã lạc dòng

Chỉ còn lưu thuỷ giữa mênh mông

Một lần đứng cạnh nhau từ biệt

Để mãi như là ở cõi không

*

Anh hỡi, ai quên, ai nhớ nhiều

Ai đang chiu chắt nghĩa thương yêu

Và ai muốn hỏi ai hờ hững

Ôi, lại buồn tênh giữa quạnh hiu…

      CAO MỴ NHÂN




VĂN -THƠ: CAO MỴ NHÂN

CÙNG BIẾT THU VỀ

Quả là mùa thu đến thực rồi, nhưng để làm gì đối với một hoàn cảnh đất nước buồn tênh. Đưa tiêu để thật già lão: “Thu ẩm Hoàng Hoa Tửu” ra, để nói về “Mùa thu… chết” thì thật là tương phản. Nhân tiết thu thanh tao, mát mẻ, quý cụ, đôi khi có cả các vị trung niên, gặp gỡ chỉ để thưởng thức rượu cúc mùa thu.

Rượu cúc mùa thu tinh chế bằng hương cúc quý, hoa của mùa thu, đặc biệt đã ủ trong thơ thưởng ngoạn bốn mùa của Thôi Hiệu (704-754), đã được diễn âm quen thuộc trong văn chương VN từ xưa lắm rồi:

Xuân du phương thảo địa

Hạ thưởng lục hà trì

Thu ẩm hoàng hoa tửu

Đông ngâm bạch tuyết thi

Thành ra hình ảnh quý vị tao nhân mặc khách, quí vị kẻ sĩ, chinh phu… thậm chí cả những khách rượu dân gian, tất cả đều có thể say men hoàng hoa tửu, đón thu trở về cõi thế…

Chỉ với bầu rượu cúc, đấng mày râu lãng đãng bên trời, đã cho thiên hạ cùng biết mùa thu sương khói quanh đây.

Song có cần chi phải vận dụng rượu cúc với khách tài hoa hiện diện giữa đất trời này, mới hay thu đến, mà chỉ cần một chiếc lá rơi rất bình thường thôi, đã thấy vàng võ cả khung thu ảm đạm rồi:

Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu

Cái điển cổ, điển tích lẫn trong thơ cổ VN, giãi bày ra lời ví von thường nhật, dân tộc ta hầu như thân thuộc hình ảnh lá ngô đồng…

Tất nhiên không phải chỉ ở bên Tàu, mới có ngô đồng, tức cây phong, cây cao, mùa thu thoạt thì lá vàng rực rỡ, rồi lá đỏ sậm đi, lá sẽ khô, rụng xuống…

Thủa nữ sĩ Mộng Tuyết Tiểu Muội còn sinh thời. Tôi hay tới biệt thự Úc Viên ở Sài Gòn để… xướng họa thi ca Đường Luật, một hôm nghe như trời se lanh, bất giác tôi nhớ… tích cũ, đọc khẽ câu:

Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu…

Còn  cao hứng nói: “Mùa đã vào thu rồi đại tỷ ạ…”

Đại Tỷ Mộng Tuyết, niên trưởng hội thơ Quỳnh Dao của chúng tôi chợt mỉm cười:

“Sao biết mùa thu đã về, ở miền Nam này, chỉ có hai mùa mưa nắng thôi? Và có biết cây ngô đồng, chú vừa nói đó như thế nào không?”

Tôi là em út của quý nữ sĩ Quỳnh Dao, chuyên biệt thể thơ thất ngôn bát cú, nên niên trưởng Mộng Tuyết thường kêu rỡn tôi bằng “chú”, tức chú tiểu đồng.

Tôi ngần ngại trả lời: số là những ngày ở ngoài Trung, em có nghe ngay trong đại nội Huế, có mấy cây ngô đồng, từ thời vua Minh Mạng đưa từ Trung Quốc về.

Rồi em có nghe, người ta nói cây ngô đồng chính là cây vông đồng, lá để gói nem phải không đại tỷ?

Nữ sĩ Mộng Tuyết cười thật kẻ cả nhưng hiền hậu vô cùng, bà vốn cao lớn, mập mạp, người thích hoa cúc mỗi khi mua hoa ngày Tết Nguyên Đán, nên tôi vẫn duy nhất, là người đùa tặng bà danh hiệu “Cúc đại đóa”. Bà vô thư phòng, lật một cuốn sách thật dầy, lấy chiếc lá màu đỏ bầm, trao cho tôi, bảo rằng:

Này là chiếc lá phong, tức ngô đồng ở Đài Loan, hôm xưa đi họp Văn Bút bên đó, ép mấy lá đem về, tặng chú một lá cho biết nhé.

Sau này khi đến Hoa Kỳ, đi chơi mấy tiểu bang ở Đông Bắc Mỹ, đã thấy những rừng lá phong, mới hiu hắt nhớ những câu thơ Đoạn Trường Tân Thanh của thi hào Nguyễn Du:

Rừng thu tầng biếc chen hồng

Nghe chim như giục tấm lòng thần hôn

(Nguyễn Du)

Đó là hình ảnh tầng lớp lá phong ngả sang màu đỏ, còn đầy trên vòm cao, chưa kịp rụng. Mùa thu vốn võ vàng, quạnh vắng, buồn chơi vơi…

Nỗi buồn mùa thu là nỗi buồn lãng mạn, trữ tình, không cần phải có đối tượng mới thở than.

Người yêu thu, thương lá vàng rơi rụng, vẫn có thể thiết tha buồn thảm vì cảnh vật mơ hồ sầu muộn, nên, Guillaume Apo-llinaire (1980-1981) mới viết nên bài thơ Vĩnh Biệt gởi lại người đời… L’adieu…

Nhà thơ Bùi Giáng dịch là Lời Vĩnh Biệt, nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ thành Mùa Thu Chết.

Mùa thu chết còn được gọi là “Hoa thạch thảo”, bởi vì loài ấy, cũng có dáng dấp hoa cúc, màu sắc cúc… mà nếu bàn tới thì cũng có thể cả ngàn chương…

Chỉ cần bàn về hoa cúc, hoa thạch thảo mùa thu, lập tức quý vị sẽ có hàng loạt đề tài…

Nhưng tôi chỉ định… sơ qua một chút sao lại “Mùa thu chết”, cái điều so sánh: uống rượu cúc mùa thu, và ngắt đóa cúc “thạch thảo “để nhắc nhau mùa thu đã chết.

Mùa thu phải sống mãi để năm năm mời nhau uống rượu cúc chứ, song le mùa thu đã chết thực rồi vì đóa cúc thạch thảo trên tay… không còn nữa, như chính chúng ta, từ đây mãi mãi không thấy nhau, từ đây mãi mãi không thấy nhau…

Năm 1965 đó, nhạc sĩ Phạm Duy hoàn toàn cảm hứng bài thơ L’ Adieu của thi sĩ Guillaume Apollinaire, bên cạnh đó là Lời Vĩnh Biệt do thi sĩ Bùi Giáng dịch.

Nhưng độc giả và thính giả, lai cứ kéo ông vào chính trường thơ nhặc, rằng Mùa Thu Chết là nhạc sĩ Phạm Duy khẳng định cái mùa thu 1948 của ông ngoài kháng chiến chết rồi, chết thật rồi.

Mùa thu mà “nhạc tuổi xanh” với câu mở đầu: “Một mùa thu năm xưa cách mạng tiến ra đất Việt…” Đâu phải là câu trả lời, lỡ có ai hỏi nhạc sĩ còn cảm giác gì với cái mùa thu thanh niên Hà Nội  rời năm cửa ô, ra đi chống Pháp, kiểu Tây Tiến của Quang Dũng cùng thời:

Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi…

(Quang Dũng)

Rồi 3 năm sau, 1968, Việt Cộng tấn kích Tết Mậu Thân, lạc lõng trong đô thành Sài Gòn Chợ Lớn, lại cứ bảo (đoán mò) có ai đó vô tận tư thất nhạc sĩ Phạm Duy, hỏi xem âm hưởng mùa thu xưa còn chút gì vẳng vọng, nhạc sĩ bèn trả lời “Mùa thu đó đã chết rồi”

Thật là hay, và cũng thật là ảo vọng.

Tuy nhiên cho dẫu thi ca, âm nhạc có chuyển tải được tư tưởng đó, cũng là điều quý giá.

Trở lại với mùa thu chân nguyên, trong sáng…

Đã qua cảnh nóng nực của mùa hè, chuẩn bị áo lạnh khăn len cho mùa đông để chờ xuân sang ấm áp… thì mùa thu là mùa thư giãn, nghỉ ngơi…

Là mùa của khoan dung, hoan hỉ đợi người về, đón chờ người tới, và tiễn biệt ai đi, tất cả đều… chìm đắm trong khung thơ mơ mộng, an bình, hiếu hỉ từ gia đình đến ngoài thiên hạ…

Cao Mỵ Nhân

Contact Us | About Us

CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN

*****

MẦU LY BIỆT.     CAO MỴ NHÂN

Áo em đã trắng mầu ly biệt

Khăn cũng mơ màng mây trắng bay

Khói trắng rơi trên làn tóc biếc

Còn ai thương nhớ trắng đêm này

*

Thì thôi ngày tháng vào thơ mộng

Cho mối thân tình mãi thiết tha

Đi suốt trăm năm tìm khoảng trống

Gió lùa buốt giá xác yêu ma

*

Lửa hương phút chốc theo hư ảo

Vội vã về đây đốt cháy lòng

Thủa sớm tàn phai danh tiếng hão

Hay là thời vận thả mênh mông

*

Tên anh vừa đó nghe thiên cổ

Hoang vắng, phiêu bồng giữa thế gian

Anh hỡi nơi này không bến đỗ

Bởi vì không có một giang san …

Hawthorne  4 – 10 – 2024

       CAO MỴ NHÂN

**

MỘT CHIẾU THƠ.    CAO MỴ NHÂN

Chao ôi thực sự già rồi

Thì giờ đâu để kiếm lời văn hoa

Với anh, từ cõi người ta

Ngó em ngần ngại như là bâng quơ

*

Ô hay nói chuyện mộng mơ

Chỉ còn một chút trong thơ tội tình

Mấy câu lục bát phiêu linh

Thốt ra cho có vẻ mình làm thơ

*

Mỗi khi ra đợi vào chờ

Lại thương thân phận mịt mờ núi sông

Mắt loà trắng xoá mông lung

Hôm nay nghe nặng giọng trùng quan mai

*

Tháng năm nào hẹn lâu dài

Nhớ hồi khăn áo xiêm hài thủa xưa

Soi gương hỏi lão hay chưa

Ậm ừ …ánh mắt lưa thưa sầu đời …

Hawthorne  30 – 9 – 2024

          CAO MỴ NHÂN

**

GIỮA HƯ KHÔNG.    CAO MỴ NHÂN

Đêm qua thấy lại một người

Áo mầu trinh tuyết đang ngồi rỡn trăng

Trăng cười tròn trịa trên không

Người băng giá ấy mông lung dáng hình

*

Bước vào từ tạ hồ linh

Hồn thơ diễm ảo vô tình trôi đi

Từng lời từng ý lâm ly

Bay theo khói toả trở về hoang sơ

Một phen hốt hoảng, ngẩn ngơ

*

Người thôi rỡn mộng trăng vờ vĩnh xa

Giờ thì chỉ có mình ta

Châu thân lạnh giữa bao la đất trời …

Hawthorne. 16 – 8 – 2001

     CAO MỴ NHÂN 

**

KHÚC VÔ CÙNG CÔ ĐƠN.     CAO MỴ NHÂN

Bây giờ quên hết thời gian

Nửa đêm thức dậy, tưởng đang xế chiều

Thế là mất ngủ liền theo

Bao la tĩnh lặng những điều vu vơ

*

Rồi nằm, lởn vởn câu thơ

Mới vừa ý đó, sao lơ lửng vần

Ô hay chữ nghĩa phù vân

Vừa xa mộng, lại vừa gần mơ hơn

*

Câu thơ mang vẻ tủi hờn

Xưa nay dang dở nguồn cơn tội tình

Thì đừng nghĩ ngợi linh tinh

Dấu yêu cũng chỉ một mình thiết tha

*

Tơ trăng rớt xuống hiên nhà

Áo khăn cổ nguyệt sa đà cõi không

Một vùng sáng lạnh mông lung

Lặng yên đón khúc vô cùng cô đơn . ..

    Hawthorne  4 – 7 – 2023

             CAO MỴ NHÂN

**

NỬA MẶT TRỜI BUỒN.     CAO MỴ NHÂN

Mây che nửa mặt trời buồn

Em ra cửa đuổi hoàng hôn về rừng

Chim trời lạc điệu xót thương

Mới vừa chan chứa ánh dương sao tà

*

Trở về tìm cõi người ta

Thấy người thầm lặng như là hồn thơ

Phải người cũng thấy bơ vơ

Như em ôm ấp tình cờ gặp anh

*

Phải tình đó rất mong manh

Đời nay đã vậy nên dành kiếp sau

Ngậm ngùi buổi cuối xa nhau

Nay còn một chút sắc mầu thuỷ chung

*

Nói rồi từ tạ mông lung

Em rời điếm cỏ nửa chừng hoang liêu

Đã từng dang dở tình yêu

Mai sau chết, chắc nhớ nhiều hôm nay …

Hawthorne   22 – 9 – 2024

        CAO MỴ NHÂN




TRANG VĂN + THƠ: CAO MỴ NHÂN

VĂN – CAO MỴ NHÂN

CHIỀU VÀNG.    CAO MỴ NHÂN

Cái thế hệ ” Chiều vàng ” của chúng tôi, đang lần lượt bước qua lằn ranh quá khứ. Tôi chưa kịp nói hết câu mở đầu, rằng ông trở lại với khán thính giả muốn nghe kỹ hơn về trận chiến Hoàng Sa ngày 19 – 1- 1974.

Vị Thiếu tá bộ binh Ban Lãnh Thổ  thuộc Phòng 3 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I/ Quân Khu I, tên bình thường là Phạm Văn Hồng, đã mặc nhiên có tên trong Quân Sử VNCH một cách đương nhiên phải thế.

Cách đây ít năm, một cơ quan truyền thông đã phỏng  vấn Thiếu Tá Phạm Văn Hồng, trưởng phái đoàn tù binh VNCH bị quân Trung Cộng đánh chiếm đảo Hoàng Sa bắt, vào giáp tết nguyên đán ngày 19 – 1 – 1974 .

Nhưng trong cuộc phỏng vấn chớp nhoáng ấy còn nhiều hạn chế về thời gian, cả quý vị hỏi lẫn khách trả lời, nhất là Thiếu tá đương sự, còn chưa hết bâng khuâng, căm hận khi nhớ lại tình huống Quân ta bị bắt như có bàn tay ” thế sự ” xếp đặt.

Nên chi cuộc phỏng vấn mới nhất này, của một nhóm có thể là biết tình thế thời sự Hoàng Sa chi tiết hơn.

Tất nhiên, Thiếu tá Phạm Văn Hồng mở rộng tầm nhìn  thật chính xác về một Hoàng Sa bị đánh cướp như thế nào .

Trước tiên, tôi lại xin phép quý vị là trong bài viết này, tôi chỉ kể chuyện ” cũ “, nên không phải là điều nhận định như quý vị thường tìm thấy ở các cây bút ” tham luận ” .

Lý do rất dản dị, là Thiếu tá Phạm Văn Hồng với tôi cùng phục vụ tại Bộ Tư Lệnh QĐI/QKI.

Kế tới, sau khi Thiếu tá Hồng và đoàn ta bị Trung Cộng bắt ở ngay Hoàng Sa, nơi ông phải thực hiện chuyến công tác  vào trung tuần tháng Jan / 1974, Phòng Xã Hội QĐI/QKI đã đi thăm viếng, yểm trợ tinh thần gia đình ông gồm phu  nhân ông và con cái.

Sau cùng, Thiếu tá Phạm Văn Hồng đã từ bên kia bức  màn sắt của Trung Cộng trở về VN, cùng với mấy chục bạn tù hiện diện ở trận Hoàng Sa. ..ông đã viết một tập hồi ký, kèm hình ảnh, với tựa đề : ” Người về từ Trung Cộng.”

Ông có nhờ tôi làm sao để phổ biến trong hàng ngũ huynh đệ chi binh bấy giờ, chứ không phải tham vọng muốn làm nhà văn, nhà viết gì cả.

Và chính yếu tố thứ 3 này, hôm nay tôi mạo muội kể lại quý vị lính nghe.

Từ Phòng 3 QĐI/QKI, Thiếu tá Phạm Văn Hồng xuống Phòng Xã hội QĐI/QKI với tập bản thảo được đánh máy ( kiểu thủ công ngày xưa trước 1975 ), có kèm một số hình ảnh mà lúc ở trại tù bên Quảng Châu do ông thu nhặt được.

Thí dụ : Đại trại , đại khánh, kịch văn công vv…

Tôi rất hào hứng, không phải việc làm của Thiếu tá Hồng có ý gì khác, ngoài ý muốn để người  dân miền nam hiểu thực tế cái xã hội Trung Cộng như thế nào.

Tôi thoáng nghĩ tới cụ nhà văn danh tiếng, hàng xóm nhà ba tôi ở hẻm đầu tiên cư xá Chu Mạnh Trinh Phú Nhuận.

Cư xá có những quý vị tên tuổi ở xã hội miền nam như: nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Tuấn Khanh, nhà văn Duyên Anh vv…, và cụ nhà văn Nguyễn Mạnh Côn.

Chính là tôi điếc không sợ súng, tôi viết thư gởi cụ lão thành trong nghề báo chí, văn chương là cụ nhà văn Nguyễn Mạnh Côn nêu trên, coi và cho ý kiến phổ biến sách đó.

Thế là Phạm Văn Hồng hăm hở đi Saigon với mong muốn được in ấn, phát hành cuốn hồi ký : ” Người về từ Trung Cộng” của ông.

Mấy ngày sau, Thiếu tá Phạm Văn Hồng về lại Đà Nẵng, nơi Bộ Tư Lệnh QĐI/QKI đồn trú.

Tất nhiên Thiếu tá Hồng không ôm tập bản thảo đó xuống gặp tôi, ông ta đi tay không, thong thả và cười một cách rất lính, rồi nói : ” Cao Mỵ Nhân ạ, cụ ấy sợ gì chẳng rõ, cụ ấy bảo in ra, phát hành không có lợi …” .

Tôi cắt ngang:” Lợi cái gì chứ, sao lại không có lợi ? “.

Thiếu tá Hồng thốt ngắn gọn : ” Thì thôi, không cần, tôi có muốn làm văn sĩ đâu .”

Sau này tôi mới tiếc , là vì Cục Tâm Lý Chiến có cả một nhà in riêng. Tôi bận rộn và có chút tự ái, không muốn in thơ ở đó, nhưng hồi ký quân sự và chính trị ” Người về từ Trung Cộng ” của Thiếu tá Phạm Văn Hồng, thì tại sao tôi không nhớ ra, là trong huynh đệ chi binh có đủ phương tiện, sao tôi không thân chinh cùng Thiếu tá Phạm Văn Hồng đi gặp vị Cục Trưởng Cục Tâm Lý Chiến, là Đại Tá Hoàng Ngọc Tiếu, tức thi sĩ Cao Tiêu, đại tá sẽ giúp đỡ ngay.

Bởi vì hồi đó, tôi quá thần phục quý vị văn nghệ sĩ dân sự. Tôi đã để lỡ một dịp may cho người bạn cùng đơn vị.

Lẽ ra tôi phải hiểu là Thiếu tá Phạm Văn Hồng có nhiều đặc điểm, một sĩ quan cấp tá xuất thân từ Võ Bị Đà Lạt, một Đại đội trưởng Biệt Kích, đã bị thương trong mặt trận Quảng Trị, rồi mới được về Phòng 3 Quân Đoàn. Lại bị tù bên Trung cộng, vv…

Hôm nay nghe cuộc phỏng vấn mới về trận chiến Hoàng Sa 

ngày 19 -1 -1974, thấy Thiếu tá Khoá 20 Võ Bị Đà Lạt vẫn phong độ trong cung cách riêng của quân nhân các cấp Quân Lực VNCH.

 Tôi vẫn kính phục ông, như kính phục huynh đệ chi binh khác, và có chút ân hận là không giúp được ông chuyển tải những gì ông thấy ở trong cũng như ở ngoài phạm vi Quân Lực VNCH, nhất là chuyện phải đi tù ở Trung Cộng, quan thày của Cộng sán bắc việt nói riêng và csvn nói chung .

Tôi liên tưởng tới câu nói của  bí thư nào đó đảng Cộng Sản Bắc việt xưa:  ” Chúng ta đánh Mỹ là đánh cho Nga Tàu ” mà khinh miệt đám người vong bản đó, csvn, từ trong trứng nước cái tư tưởng nô lệ một đại cái bang, tập đoàn bành trướng Bắc Kinh vô thần, vô tổ quốc, vô gia đình …

Thiếu tá Phạm Văn Hồng chắc đã hiểu rằng bây giờ cả Thế giới đã đổi khác, bây giờ có computer, internet…không cần phải ky cóp đánh máy như ông làm cái hồi ký khốn khổ hồi đó nữa…

Thế nên thời nay mọi người đều biết , mọi sự đều được phơi bày nơi truyền thông, báo chí …Những người ở bên kia bức màn sắt, đã đang và sẽ được hiểu biết những gì trên thế giới trong phạm vi sinh hoạt hôm nay…

Những cái mốc lịch sử đã khiến người ta trong hay ngoài cuộc, tự nhiên phải nhớ …để đời.

Tôi được mấy người bạn lính gởi cho cái ” you tube ” giới thiệu cuộc phỏng vấn thiếu tá Phạm Văn Hồng,nhân kỷ niệm cuộc hải chiến Hoàng Sa 19- 1 –  1974.

Nghe lại Thiếu tá Phạm Văn Hồng ở kỳ phỏng vấn này, tôi thấy rõ ràng hơn, đầy đủ hơn, ông quả là một sĩ quan Phòng3 phân tách kỹ, cung cấp đầy đủ những điều mà nếu xem thường sẽ rơi vào khuyết điểm, mặc dù trình bầy sự thật …

Tôi nói với ông là mỗi năm tôi chỉ gặp lại ông vào ngày kỷ niệm trận chiến buồn đó. Và rất tình cờ mỗi lần điện đàm, là một lần nghe ông thông báo một chút về thế hệ ” Chiều vàng” ở Đà Nẵng xưa.

Lần này gặp qua phone, ông thông báo đang thăm người bạn đồng cấp, nguyên là Chánh văn phòng Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn mang số một La Mã mầu đỏ của …tôi.

Người bạn này đang ở giờ thứ 25, Thiếu tá Hoàng Xuân Đạm, thật là buồn, ôi cái thế hệ ” Chiều vàng “, héo hắt những tàn lá mùa thu vàng võ … buồn thiu …lần lượt bay đi mất hút…

               CAO MỴ NHÂN

**

ĐÁM MÂY VÀNG.    CAO MỴ NHÂN

    Buổi sáng ở Denver Colorado, tôi theo gia đình chị Nhàn, nguyên chị là một nữ tiếp viên hàng không, của hãng Hàng Không Việt Nam ( Air Vietnam ) thời đệ nhị Cộng Hoà ( Việt Nam Cộng Hoà ) lên ngọn núi danh tiếng sát ngay thành phố đá đó để ngoạn cảnh.

    Trên đỉnh ngọn núi này, có một ” đại hí trường ”  có thể chứa hàng chục ngàn tân khách.

     Chung quanh đại sảnh trường đó, toàn là vách đá dựng cao ngất, nhưng lòng động lại mái trống, lộ thiên .

     Gia đình chị Nhàn đông đủ dâu rể cháu nội ngoại, tất cả đều tỏ ra thân quen với lâu đài hí trường khổng lồ đó .

     Nghe tiếng gió từ bốn phương đổ về, chị Nhàn nói với tôi một cách trân trọng lắm : ” Mỵ ạ, nơi đây người ta còn gọi là Chiếc đàn  ” Phong cầm gió ” vĩ đại nữa đấy .

     Tôi chỉ biết ngưỡng mộ và thán phục thiên nhiên, Đấng Tạo Hoá đã cho nhân thế này bao nhiêu là công trình tuyệt tác.

     Đang lúc mọi người trầm trồ khen ngợi vũ đình trường gió mưa sương gió thiên nhiên, tự đến, tự đi tới cái động to lớn mịt mù đó, thì nóc động hửng lên một khung nắng rỡ ràng..

      Một đám mây mầu vàng mỡ gà lững thững bay qua, tưởng như tà áo của thiếu nữ nào rơi trên mái động …

      Chị Nhàn và tôi đều sững sờ thốt :

     ” Mây vàng Hà Nội ” .

      Tại sao mây Hà Nội mầu vàng ?

       Ôi phải rất nhiều lời , hay rất nhiều thì giờ mới giải thích được điều thơ mộng đó, chỉ biết rằng nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh ngày xưa, đã mang mây vàng từ trung nguyên về Hà Nội.

       Và gần nhất với tôi thủa là thiếu nữ ở Saigon, đã có một nhà thơ tài tử, Nhị Thu viết cuốn thơ ” Mây Hà Nội ” , năm 1961, cùng lượt với cuốn ” Thơ Mỵ 1961 ” của tôi.

      Tất nhiên tôi chỉ nêu ra hình ảnh mây vàng Hà Nội dĩ vãng , nghĩa là trước 20 – 7 – 1954, hay trước khi chúng tôi di cư vào Nam thời sông Bến Hải  chia đôi đất nước .

   Đám mây vàng lặng lẽ rời khỏi nóc vũ đình trường đá đó, nắng còn ở lại cửa động lộ thiên một thoáng, cả chị Nhàn và tôi đều như có chút buồn phảng phất .

   Tôi hỏi chị một cách nhớ nhung rằng :

  ” Chị ơi, ngày di cư, em ở tuổi vài năm ” teen ” đầu, chị gần gấp đôi tuổi em, thủa đó, chị có may áo dài lụa mầu vàng mơ, và nhất là, chị có may áo ” vest ” mầu mơ chín ở phố Nhà Thờ Hà Nội không ? “

   Chị Nhàn cười xa vắng :

  ” Thế Mỵ. cũng biết tiệm chuyên may áo vest ở phố Hàm Long đó à ? “

 Bỗng lòng tôi chùng xuống chi lạ, ba tôi có lần đã cho mấy chị em tôi từ Hải Phòng về Hà Nội để may cho mỗi đứa một áo vest mầu vàng mơ tuỳ theo sở thích, hoặc mơ non, mơ chín, mơ sậm, mơ lạt vv…

  Và chính buổi đi may áo dài, áo vest ở hiệu may danh tiếng phố Hàm Long  xa xưa ấy, mà tôi nhớ mãi mầu mây thu Hà Nội . Ôi, có thể nói, ngoài mây thu vàng ở cái nơi tôi chỉ thấy đẹp thủa ấu thơ và thiếu niên ra, tôi không còn thấy thêm cái chất Hà Thành thanh lịch trong văn chương tiền chiến nữa .

    Thế nhưng hôm nay, tôi muốn nhắc tới một mầu mây Hà Nội rất kinh điển, chính mầu mây vàng lợt thôi, nhẹ nhàng , thơ mộng mà những người đã một thời say đắm nó, mây Hà Nội, như nhà thơ Nhị Thu, hay sau này , khi tôi lớn lên, trưởng thành rồi già đi như bây giờ, sắc mây vàng mỡ gà, vừa rực rỡ, vừa hoang mê, vừa thần thoại, chỉ còn trong cổ tích mất mát thôi.

    Ngay tức khắc tôi nhớ tới quý vị sĩ quan Quân Lực VNCH danh tiếng thơ văn lẫy lừng thuộc Cục Tâm Lý Chiến,  không thể nào không nhắc tới mây vàng cố đô Thăng Long, là các vị người Bắc di cư năm 1954.

     Để rồi tôi ngồi một mình xót xa, bây giờ ” điểm danh lại ” thì số quý vị đó đã không còn trên trái đất : Thi sĩ đại tá Cao Tiêu, Thi sĩ, Hoạ sĩ Tạ Tỵ , Nhà văn Trung tá Hà Thượng Nhân, Nhà văn Trung tá Phan Lạc Phúc, Nhà văn Thiếu tá Đặng Trần Huân, Nhà văn Thiếu tá Phạm Huấn , Thi sĩ Đại uý Du Tử Lê, Thi sĩ Trung uý Thanh Tâm Tuyền .

   Thưa , rất nhiều văn nghệ sĩ quân đội, gốc Hà Nội,  nhưng ở các đơn vị khác, chẳng hạn Nhà văn Trung tá Duy Lam ở QĐI/ QKI, Nhà thơ Trung tá Cung Trầm Tưởng ở Bộ Tư Lệnh Không Quân VNCH, Nhà thơ Trung tá Hoàng Ngọc Liên ở Binh Chủng Nhảy Dù VNCH.

    Hay, Thi sĩ Thiếu tá Tô Thuỳ Yên Trưởng phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến VNCH, nhưng ,không gốc Hà Nội .

     Tôi chỉ đan cử hôm nay về quý vị Sĩ quan QLVNCH gốc Bắc di cư đã mãn phần , và ít nhiều một thời gắn bó tới mầu mây vàng Hà Nội thôi.

  Bởi vì quý vị nêu trên đã mang theo sắc mây vàng quá khứ ra đi. Và , thực sự tôi muốn hoài niệm hình ảnh Thi Sĩ đại tá Cao Tiêu cùng phu nhân đã thưởng lãm mầu mây vàng Hà Nội ở Hồ Gươm, trước khi Thi Sĩ Cao Tiêu tức cựu Đại tá Hoàng Ngọc Tiếu nhập ngũ .

    Một bức ảnh đen trắng xưa, trên một ghế đá ở bờ hồ Gươm Hà Nội, Thi sĩ và phu nhân ngồi ngắm mây thu lượn quanh thành phố được tiếng là thanh lịch từ các thế kỷ trước .

   Buổi tôi hướng dẫn các động tác tập thể dục Dưỡng Sinh cho quý cụ cao niên, bịnh hoạn ở Câu Lạc Bộ Dưỡng Sinh Saigon , sau khi tôi ra tù cải tạo.

   Tôi tiếp chuyện một vị rất trưởng thượng quen quen .

    Cụ cho tôi coi một bao hình nhỏ, cụ đưa tôi bức hình vừa nêu, cụ hỏi :

” Cô có biết Đại tá Hoàng Ngọc Tiếu không, Thi sĩ đấy …”

   Tôi thưa với cụ là Thi sĩ Đại tá Cao Tiêu .

    Cụ gật đầu : ” Ông ấy là em ruột tôi ” .

    Tôi a  lên mừng rỡ , cụ tiếp ” Tôi là Hoàng Mai Đạt ” .

    Cụ Hoàng Mai Đạt nghệ sĩ hơn Đại tá Cao Tiêu, cụ vẫn vui vẻ thơ ca ở Câu lạc bộ Dưỡng Sinh trước khi qua Hoa Kỳ sau đó ít lâu .

    Lại một câu  chuyện về mây thu Hà Nội, cụ Hoàng Mai Đạt kể : ” Tôi biết cô không ở Hà Nội nhiều như chúng tôi, cái thế hệ mà thanh niên của thành phố có nhiều hồ, nhiều hơi thu lành lạnh, những đám mây vàng nhẹ như mối tơ vương sắc vàng rơi lững lờ trên thành phố thơ mộng từ ngõ hẻm ra đại lộ .

   Tôi lắc đầu, ” cháu không phải người Hà Nội của các cụ nhìn đâu cũng thấy chút gì vừa thân mật vừa kín đáo . Cháu lớn lên ở Saigon. Khung trời rộng quá, hầu hết mây trắng 4 mùa, nếu mây xám là sắp mưa…đơn giản, mau chóng như những cơn mưa rào, thật nhanh và chưa kịp lạnh cụ ạ .

     Thế rồi thì mỗi người mỗi chạy theo cái dòng chảy không riêng lẻ, nên chẳng thấy cô đơn lắm.

    Tôi qua Hoa Kỳ theo diện tị nạn, lại càng chẳng bao giờ nhớ cái mùa thu mây vàng như trong văn chương thơ nhạc tiền chiến, hay trước ngày đất nước qua phân .

   Tôi cũng không về Bắc sau khi mọi người bảo là ” thống nhất ” . Tôi không nhớ nhung gì hết phần đất bên kia sông Bến Hải, dù tôi rất nhiều lần đứng bên cầu Hiền Lương do công tác xã hội tôi phục vụ trong Quân Lực VNCH, suốt cả chiều dài lãnh thổ từ Bến Hải tới Sa Huỳnh, cận nam Quảng Ngãi .

 Cũng có lúc tôi buồn nhìn mây bay, nghe gió thổi ở miền địa đầu giới tuyến, nhưng quả thực, không thấy lại mây mầu vàng mỡ gà mà thuở thiếu niên ba tôi cho về Hà Nội, để may áo vest ở phố Hàm Long, e chỉ còn trong ký ức rất xa xăm.

   Và hôm theo gia đình chị Nhàn lên núi nghe gió hú trong đại hí trường, có một làn mây vàng ấm áp nhưng mong manh bay ngang đỉnh động đá khối khổng lồ, lộ thiên năm 1996.

Mầu mây vàng bất ngờ, khiến tôi nhắc đến hằng loạt tên tuổi những nhà thơ văn xuất thân ở Hà Thành thanh lịch, đã một thời hội tụ ở khuôn viên Cục Tâm Lý Chiến VNCH, rồi lưu vong, thả mây thu Hà Nội đi bát ngát, mênh mông…

Quý vị ấy không ai gặp ai nữa, kể cả những đám mây vàng tan loãng, hay đổi mầu trong không gian vô cùng mịt mù ngoài vũ trụ mênh mông…

    Hawthorne  10 – 6 – 2021

           CAO MỴ NHÂN

**

CHIẾC LÁ PHONG.     CAO MỴ NHÂN

” Mùa đã vàng chưa sắc lá thu ?”

Đã sang thu rồi mà mình còn tiếp tục dậy sớm, bởi vì mình muốn gặp anh trong nỗi nhớ nhung tuyệt vời, chỉ khoảnh khắc thời gian âm dương chuyển dịch đó, đêm sắp tan ra và ngày sẽ đưa mặt trời trở lại thế gian này, mình mới quên đi nỗi nhớ.

Anh khuyên mình nên sống vô tư, hồn nhiên theo ý Chúa.

Không. Mình sẽ chẳng bao giờ theo ý Chúa khi mùa thu vàng lá chờ mong, khi anh còn cách biệt mình cả một đại dương thầm kín tình buồn .

Hỡi anh ” Yêu Quí ” ơi, anh có biết hôm nay mình khóc sớm hơn hôm qua, và những hôm qua, mình khóc sớm hơn những hôm kia không?

Anh không thực sự hay giả bộ lơ là với nỗi ” Tình Thu ” của đất trời chung và của mình riêng đâu.

” Tại sao phải lơ là, dù tôi không là thi sĩ, nhưng lòng dạ vẫn mang mang mầu mây biếc ở thành San đấy chứ …”

Thế sao anh không mang mùa thu đến sớm cho mình …buồn .

Ố ô, dại quá Mỵ ơi, dẫu :

        Ngô đồng nhất diệp lạc

        Thiên hạ cộng tri thu…

Một cánh lá phong rơi, vàng võ cả không gian, nhân gian đều đón đợi thu về, sao phải buồn thế chứ .

Hỡi anh ” yêu quí “, sao cứ gọi tên anh hoài, anh đang muốn trốn mình trong những vách núi thành San, để đọc lại bài thơ ” Thành San thu biếc ” của người tình lỡ trăm năm, nhưng vĩnh cửu ngàn năm không phai tàn sắc lá …thu vàng .

Ố ô, lại ” Ố ô” , tiếng reo vui của một cuộc tình không bao giờ chấm dứt .

Anh hỏi sao chưa chán mùa thu ư, mà cứ thích nhìn sắc mầu thương nhớ thế, anh sẽ hiện diện nơi thơ như một dấu tích hằn sâu nỗi nhớ nhung, người thơ thường  ghi lại trong mỗi bài tình thơ đầy khói sương bao phủ, để chiếc lá vàng kia lẫn vào sắc lá huyền mơ tuyệt vời hư huyễn.

” Mùa đã vàng chưa sắc lá thu ”

Mình đã đến tận Colorado, lên tới Minnesota…chỉ vì hình ảnh những cây phong chan chứa sắc thu vàng, những năm khí núi hơi rừng huyền hoặc tình thơ, không sao xoá nổi mặt trởi ủ rũ nét u sầu .

Mình chưa kể cho anh nghe, vì anh chẳng khi nào thích nghe chuyện hão huyền, còn mình thì lại vô cùng huyễn ảo.

Rằng ngày xưa mới đó, nhưng nay khách văn chương đã trở thành người thiên cổ.

Khi còn học trung học, cô giáo Ninh dạy Việt văn ( xưa còn kêu là Giảng văn ) cho phân tích đoạn văn ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH của cụ NGUYỄN DU, bậc thi hào có lẽ chưa ai thay thế được, đoạn thơ có cảnh rừng phong :

Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm mầu quan san

Dặm hồng bụi cuốn chinh an

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh

Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường …

   ( Đoạn Trường Tân Thanh –  Nguyễn Du )

Điều tôi muồn kể quý vị và anh nghe, là cây phong lá vàng trong thơ cụ Nguyễn Du, dấu tích cuộc chia tay, Thúc Sinh và Thuý Kiều, cuộc chia tay tình nghĩa nhất của Thuý Kiều .

Cây phong mà văn chương Trung Hoa phong kiến xưa gọi cây ngô đồng, mọc đầy rẫy ở Hoa Kỳ hiện nay vậy.

Thế thì, khi cây phong rụng chiếc lá vàng đầu tiên, cả thiên hạ đã biết mùa thu đang về .

Khi mới học và đọc :

Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu…

Tôi ngập ngừng trước bài viết của vị nào đó về cây ngô đồng là cây ” vông đồng ” có lá gói nem chua ở miền nam.

Tôi còn khờ đến nỗi tưởng chiếc lá ngô của cây bắp vẫn cho trái bắp luộc, bắp nướng như ở Dalat .

Tuy nhiên tôi cũng tự hiểu là chiếc lá ngô bắp dài thoong bao bọc cây bắp đó làm sao rụng được, vì khi muốn bỏ lá bắp ấy , người ta phải tước ra .

Thế thì một ngày kia, không khí Saigon gần Noel, trời cũng se lạnh. Tôi tới Úc Viên thăm Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội , tôi cũng giả bộ đọc :

” Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu…”

Nữ sĩ Mộng Tuyết hỏi tôi:

Cao Mỵ Nhân biết lá ngô đồng như thế nào chưa ?

Tôi lặng thinh, vì …cả đời tôi đã biết ” cây ngô đồng ” đâu . Nữ sĩ Mộng Tuyết lẳng lặng mở tủ sách nơi phòng khách lớn , bà rút một cuốn sách dày. Đoạn bà mở một trang sách mà Nữ sĩ Mộng Tuyết đã ép mấy chiếc lá phong vàng ở Đài Loan trong dịp Nữ sĩ Mộng Tuyết đi họp Văn Bút Thế Giới năm nào đó, và trao cho tôi, bà nói :

” Để Cao Mỵ Nhân biết lá ngô đồng mùa thu đó nghe ”

Thế rồi thì một phần dân tộc theo đông tiến sau 30 -4 – 1975. Tôi đã tận mắt thấy từng loạt lá ngô đồng rụng như mưa rơi , không còn huyền thoại nữa .

Nhưng với tôi, tôi đến Hoa Kỳ trong mùa lá rụng, và gặp anh trong mùa lá rụng sau này .

Thế ư ? Anh có là Thúc Sinh đâu, và mình càng chẳng phải Thuý Kiều chứ, song tuổi tác đã thu phong lá vàng, nào có cần chi phải thấy một chiếc lá phong bay trước mặt, để thấy mùa thơ mộng nhất trong mỗi năm đã trở về .

Chính mình dẫu có anh hay không, mùa thu đã sẵn trong tâm hồn chứa chan sắc lá …văn chương đó rồi .. .

            CAO MỴ NHÂN

**

THƠ – CAO MỴ NHÂN

THẢ NHẸ TIẾNG BUỒN.  –  CAO MỴ NHÂN

Mỗi lần anh đọc thơ em

Là tình yêu trải đầy thềm nhớ nhung

Tiếng buồn thao thức bên lưng

Khiến anh nhìn lại, bâng khuâng nụ cười

 *

Em không thốt được một lời

Tiếng buồn thả nhẹ lên trời,bay cao

Mai đây dẫu ở phương nào

Sau lưng vẫn tiếng thì thào của anh

 *

Quan san từ thủa tóc xanh

Đến nay nụ trắng trên cành sương hoa

Thơ em ướt giọt châu sa

Cuộc tình dịu ngọt như là quả non

 *

Cần chi lòng dạ sắt son

Trái tương tư vẫn đang còn đong đưa

Tiếng buồn phảng phất hương xưa

Quả non chín đỏ môi chưa hẹn hò …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)  

  29 – 9 – 2024

LÁ THU.    CAO MỴ NHÂN

Anh về hái lá thu xanh

Đã phai sắc mộng biến thành huyền mơ

Lá phong vội đổi vàng tơ

Lẫn trong mầu nắng hoang sơ đẹp buồn

Tuổi mình vướng bận hoàng hôn

Thắm hương tri kỷ tâm hồn lãng du

Ngô đồng rụng chiếc lá thu

Bay theo bóng nhỏ mịt mù nhớ thương

Sao thu không thả màn sương

Lại hong ánh lửa cuối đường heo may

Hắt hiu chiếc lá trên tay

Phải bao nhiêu lá mới đầy tình em

Ô hay, lá rụng vàng thêm

Bâng quơ câu hỏi vương thềm thu ơi

Áo thay khi thấy mây trời

Cũng vàng như lá tuyệt vời ý thu …

     CAO MỴ NHÂN

***

  GỌI THU VÀNG.     CAO MỴ NHÂN

Đã đến, đã đi, và đã nhớ

Một thời thu bắc khứ Hoa Kỳ

Lá vàng rực rỡ mầu xa xứ

Chan chứa vàng thu sắc đắm si

*

Lạ quá, có gì mà quyến rũ

Hồn em, không , chỉ có thơ thôi

Thơ ư , tất cả toàn con chữ

Anh ở đâu, em nhớ tuyệt vời

*

Sao không mơ mộng mà thương nhớ

Tại lá vàng theo bướm vàng ư

Cả một trời vàng , mây giống lá

Bay vào vũ trụ , gọi là thu

*

 Vậy anh có đến xem thu mãn

Thu thịnh , thu khai, thu vãn buồn

Đang gọi nhau về , vàng lá vãng

Rụng tràn xuống cỏ, đẫm thu chôn…

  Los Angeles  25 – 9 – 2021

           CAO MỴ NHÂN

**

TƯỞNG MÙA THU.     CAO MỴ NHÂN

Hôm đó tưởng mùa thu

Em đưa hết sương mù

Trên tay cho anh giữ

Rồi khóc thầm trong thơ

*

Nhưng anh xua lá vàng

Gọi nắng về chứa chan

Trao em nguồn hy vọng

Giữa chiều buồn mênh mang

*

Em hỏi anh thu chưa

Hình như mây lưa thưa

Chút mông lung hò hẹn

Trên đỉnh núi sắp mưa

*

Khói trắng vờn tóc xanh

Cuộc tình sau mong manh

Không còn chi giữ lại

Cả giọt sương long lanh…

   CAO MỴ NHÂN

**

TIẾNG QUỐC KÊU THU.    CAO MỴ NHÂN

Thưa anh, mùa thực sự buồn

Mây vừa chở nắng đi luôn không về

Hoàng hoa nở tự trong mê

Tràn ra đường vắng lê thê thu vàng

*

Mấy vần lục bát sang trang

Thơ mang hồn mộng dở dang chuyện mình

Ô hay thời tiết đoan trinh

Trăm năm vẫn một cuộc tình chúng ta

*

Thưa anh, sương khói đang sa

Mầu vương sắc tím quê nhà lối xưa

Này em gió mới lưa thưa

Tóc bay, anh tưởng ta chưa hẹn hò

*

Bên sông bụi trắng mơ hồ

Nước tan sóng vỡ vi lô bạt ngàn

Chẳng còn dấu tích giang san

Cô đơn tiếng quốc gọi đàn hồi quy…

     CAO MỴ NHÂN

**

TUỔI VÀO THU.     CAO MỴ NHÂN

Tuổi vào thu, hẳn đời tươi mát lắm

Vì nước xanh và mây lặng lờ trôi

Vì khói lam và sương êm ả thôi

Nhưng hoa nở thì vàng chan chứa nắng

*

Hoa nở nhiều, nên càng nhiều cánh bướm

Bướm lượn vòng như đuổi bắt thời gian

Tuổi vào thu, thời gian càng vấn vương

Từng sợi tóc phai dần mầu đấy nhé

*

Ô, có gì phải ưu tư đâu nhỉ

Tuổi vào thu là tuổi đẹp nhất đời

Phải không anh, soi ngắm thử nụ cười

Suy ngẫm thử tháng năm xa bát ngát

*

Anh sẽ thấy những gì viên mãn nhất

Có hay không trong thời điểm này đây

Được hay thua như một thoáng hơi say

Rồi đọng lại tuổi vào thu chất ngất …

        CAO MỴ NHÂN

***




VĂN: MỘT HỒN SẦU NHỎ. CAO MỴ NHÂN

MỘT HỒN SẦU NHỎ.    CAO MỴ NHÂN

” Chúng tôi ” quen khá đông, có thể nói rất đông nữa, nhưng là để cho biết nhau thôi, chứ thân mật thì không đều khắp, ai có nhóm bạn nào hoặc rải rác vài ba ” vị “, thì tuỳ cách giao hảo của mỗi người .

Thế thì, nhân chuyện cô bạn PHƯƠNG HOA tôi mới hạnh ngộ mấy năm gần đây, nói rằng : ” Chị, là tôi, có nhiều mối tương giao thú vị quá …” khi tôi nhờ Phương Hoa ( PH ) đăng dùm tôi mấy bài thơ trong tập thơ ” NHỮNG VẦN THƠ MA ” của tôi điếu nhà văn bạn tên HỒ LINH vừa mãn phần.

Tôi có dịp trở lại một mối tương giao khác nữa, với 2 nhà thơ tên tuổi một thời trước năm 1975, kéo dài tiếng tăm trong giới thi ca trẻ, hồi đó, cho tới bây giờ .

Hôm nay tôi muốn nhắc tới tên tuổi 2 nhà thơ, mà thủa lớn lên ở Saigon cuối thập niên 50 & đầu thập niên 60 thế kỷ trước, nhị vị ấy là bạn thân của tôi :

VIÊN LINH , và TRẦN DẠ TỪ .

Trước hết, tôi xin khẳng định là tôi chỉ viết lại những kỷ niệm thơ thủa còn đi học, hay đúng ra thủa chúng tôi ở tuổi thiếu niên thôi.

VIÊN LINH tên thật NGUYỄN NAM, TRẦN DẠ TỪ tên thật LÊ HÀ VĨNH , những ngày mới từ miền Bắc di cư vô Nam, Trần Dạ Từ lấy bút hiệu HOÀI NAM .

Hai bạn thơ tôi bấy giờ sớm nghỉ học để đi làm báo cho thoả thích tính ” văn nghệ ” làm thơ, Viên Linh có viết thêm một số tác phẩm văn xuôi.

Ở số tuổi còn chưa 20 bấy giờ, Viên Linh, Trần Dạ Từ rất ngoan hiền trong cách viết, rất tiềm ẩn trong tình cảm phong phú, và thực sự ” tài hoa ” .

Ai trong quý vị và chúng tôi, khi thể hiện tác phẩm văn chương, nghệ thuật không … tài hoa chứ .

Nhưng sớm biểu lộ tài hoa văn chương, nghệ thuật, thì hình như không chú trọng đến chuyện lập thân trên đường khoa cử, hay nghề nghiệp chuyên ngành thực tế.

Tôi vẫn chỉ kể về bạn văn thơ Viên Linh, Trần Dạ Từ thôi, không nghĩ thêm về quý vị văn nghệ sĩ cùng thời khác, để tránh ngộ nhận hoặc hiểu lầm .

Ngay khi Viên Linh và Trần Dạ Từ quyết định làm văn thơ, làm báo, thì 2 bạn ấy thành công ngay .

Thoạt Viên Linh, Trần Dạ Từ là những cây bút tài tử cộng tác với các nhật báo, tuần báo, đặc san vv… ở Saigon đầu thập niên 60 thế kỷ trước, vì còn rất trẻ.

Sau Viên Linh, Trần Dạ Từ đã mau chóng giữ các chức vụ chủ bút, tổng thư ký, thi sĩ Viên Linh còn làm chủ báo nữa .

Khoảng đầu thập niên 60 đó, TRẦN DẠ TỪ còn dám lên tàu lửa xuyên việt ra Huế, đón Trần Thị Thu Vân vô Saigon lập nghiệp, với 2 bàn tay trắng, nhưng từ đó, Trần Thị Thu Vân đã trở thành NHÃ CA, nữ văn sĩ trẻ tuổi và thành công nhất giữa số đông bạn văn thơ còn mất thời gian lâu sau, mới nổi danh được, như quý vị

NGUYỄN THỊ THUỴ VŨ, TUÝ HỒNG, NGUYỄN THỊ HOÀNG vv…

   Khả năng và tài nghệ văn thơ NHÃ CA đã đành là thiên phú rồi, nhưng cũng phải công nhận là việc thúc đẩy và hỗ trợ thiết thực vẫn do TRẦN DẠ TỪ mong muốn như cái tên NHÃ CA, Từ đặt cho Thu Vân vậy .

Họ , Trần Dạ Từ & Nhã Ca mặc nhiên trở thành đôi uyên ương văn chương cho tới ngày nay, Trần Dạ Từ & Nhã Ca đã có với nhau nửa tá con, và riêng Nhã Ca đã có hàng chục tiểu thuyết ăn khách nhất thủa đó, đông thời tác phẩm ” GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ ” của NHÃ CA đã vô hình chung đi vào văn học sử , thời đại Việt Cộng tổng công kích Tết Mậu Thân Huế 1968.

Trở lại VIÊN LINH ( VL ) TRẦN DẠ TỪ ( TDT ) , tôi vẫn nói về thủa thanh thiếu niên, ấy là Thơ của nhị vị này , và đây cũng không phải bài nhận định về Thơ kiểu ĐỌC THƠ , BÌNH THƠ như quý vị cầm bút viết báo đâu. Đó chỉ là những dấu tích một thời nào đó, ai muốn biết cho …vui đúng nghĩa.

Các nhà phê bình Thơ hay cảm nhận của bạn đọc thơ, thường nhận định làm THƠ LỤC BÁT không phải là dễ, thể thơ dễ với những vần điệu chuyên thơ của Thi Sĩ , nó không từa lưa như vè, đôi khi vè còn đúng vần điệu hay hơn thơ ghép 6 x 8 của các vị viết cho có viết thôi chẳng hạn.

Thời gian sơ khai với những cây viết mới, thường khiến một số ” Tiền Bối nghề nghiệp ” ngại ngùng lời thơ và ý tưởng.

Thí dụ có bài rất hay về lời lẽ, vần điệu, nhưng tìm ra ý, thì không  có gì đặc sắc hay ngược lại.

Thủa đó, Đại Thi Sĩ VŨ HOÀNG CHƯƠNG đã có biệt danh Thi Bá rồi, nghĩa là gần như nhất trên trời thơ ca, nhưng nghe một bạn văn thơ nào đó, đề cập tới Nhà Thơ trẻ Viên Linh, 

cụ VŨ còn như lững lờ, chưa niềm nở đón chào.

Tôi nhớ bài lục bát VIÊN LINH thế này :

            ( Tựa hình như là NGOẠI Ô )

Người đi phiến động chân trời

Nghe heo may lạnh lùa khơi chiếu nằm

Một hồn sầu nhỏ phân vân

Trời âm u thấp mời thân buồn phiền

Nửa đời đi kiếm bình yên

Thương yêu bỏ lại đôi miền tịch liêu

Bạn bè còn được bấy nhiêu

Người đi quên lãng thêm nhiều ưu tư

Rời vào thành phố phiêu du

Nỗi bao la đã ngoại ô dồn về…

            VIÊN LINH

VL tác giả nhiều tập văn, tập thơ đã phát hành trước 30 – 4 – 1975.

Sau này di tản qua Hoa Kỳ , Nhà Thơ VIÊN LINH có thời giữ chức vụ CHỦ TỊCH TRUNG TÂM VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI khoảng đầu và giữa thập niên 90 Thế kỷ trước, 1993- 1995.

Ông cũng là Trưởng Đoàn Văn Bút VNHN đi dự đại hội VĂN BÚT THẾ GIỚI KỲ THỨ 61 ở PRAHA TIỆP KHẮC 11/ 1994,  với các thành viên sau :

 Thi Sĩ Viên Linh. Chủ tịch , trưởng đoàn.

 Thi sĩ Giáo Sư Nguyễn Sỹ Tế, phụ tá.

 Nhà báo Giáo Sư Phạm Việt Tuyền

Thi sĩ Cung Trầm Tưởng.  ( phát ngôn viên Pháp ngữ )

Nhà văn Trần Ngọc Nhuận ( phát ngôn viên Anh ngữ )

Thi sĩ Tô Thuỳ Yên

Cao Mỵ Nhân ( nhà thơ )

Theo danh sách nêu trên, thì quý Thi Văn sĩ, Giáo sư : Nguyễn Sỹ Tế, Phạm Việt Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Trần Ngọc Nhuận, Tô Thuỳ Yên đã chung cuộc, hiện còn Viên Linh và Cao Mỵ Nhân tại thế .

Đôi bạn uyên ương văn thơ NHÃ CA & TRẦN DẠ TỪ , qua những cơn sóng gió thời đại, sau này , cho tới bây giờ vẫn đang xuất bản nhật báo ” VIỆT BÁO ” ở Hoa Kỳ , và đặc biệt là tổ chức được hằng năm các giải thưởng văn chương, văn hoá VN một chương trình lâu dài : Viết VỀ NƯỚC MỸ , dành cho tất cả quý vị đã tới nước Mỹ tị nạn, lưu vong, tha hương, đã và đang SỐNG TRÊN ĐẤT MỸ .

Thấm thoắt đã cả nửa thế kỷ trôi qua, nhớ lại hồi tôi còn  chưa có bằng trung học đệ nhất cấp, với áo dài trắng, tóc đuôi gà, đi xe đạp đến thăm VIÊN LINH trọ học ở chùa Phú Thạnh Phú Nhuận, TRẦN DẠ TỪ thuê nhà gần chùa Vĩnh Nghiêm để bạn ta được chung vui với các bạn khác cùng thích văn thơ, như ĐỖ QUÝ TOÀN ( nay còn tên NGÔ NHÂN DỤNG, PHẠM HOÁN ( em hoạ sĩ PHẠM TĂNG ) vv…

Còn tôi vẫn ở với cha mẹ nơi cư xá HÀNG KHÔNG TÂN SƠN NHẤT, và cũng là nơi 2 bạn thơ quý VIÊN LINH , TRẦN DẠ TỪ năng lui tới thăm chơi cùng ” thông tin văn hoá …học sinh “

trong sáng tuổi 15  hân hoan, tươi trẻ…

Thời gian trôi qua, đã già nửa thế kỷ, VIÊN LINH, TRẦN DẠ TỪ

vẫn sinh hoạt bình thường trong văn giới, dù thay đổi không gian ( từ VN ra hải ngoại ) kể từ sau chính biến 1975.

VIÊN LINH không bỏ nghề cầm bút, VIÊN LINH vẫn tiếp tục xuất bản báo Thời Tập thân quen, đã có từ trước 1975 lưu hành ở miền nam Việt Nam .

Bên cạnh đó, là điều hành một cơ sở in ấn, cộng tác báo bạn ,

xuất bản sách cho bạn bè văn chương … đang tị nạn, tha hương ở các nơi tái định cư, đa phần ở Hoa Kỳ.

Với hành trình thơ văn không tách rời ” thân phận “, và thân thế cũng không vượt được những mùa xuân miên viễn ở thế gian khi bước vào lão tuế, VIÊN LINH hay ai chăng nữa, cũng ra đi về chốn vô cùng thôi.

Được tin ngày 28 tháng 3 năm 2024, Thi Sĩ VIÊN LINH đã giã từ cõi nhân sinh ở miền đông Hoa Kỳ, sau 86 năm rong chơi nơi trần gian đầy hương sắc vui buồn, nhưng lúc nào ông cũng an nhiên, thanh thản .

Mong hồn thơ ông sớm phiêu diêu miền cực lạc, để vỗ về chữ nghĩa còn để lại cho con cháu, bạn bè thân thiết xưa nay.

         Rancho Palos Verdes   1 – 4 – 2024

                    CAO MỴ NHÂN




TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN 2024

VTLV TRANG THƠ VĂN NHẠC – TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN – CAO MỴ NHÂN – ĐỖ DUNG – TUYẾT PHAN – VÕ ĐẠI TÔN – MINH THÚY – PHƯƠNG HOA – LÊ XUÂN NHUẬN – Và NHIỀU VĂN THI NHẠC SĨ VTLV Cùng Thân Hữu.

RETURN THE TRUTH ABOUT THE AIRCRAFT CASE ON SATURDAY AFTERNOON, APRIL 20, 1974 AT PHU BAI AIRPORT, HUE,

49 YEARS…APRIL IS AGAIN

Air Hijacking in April 1974 in Hue – Nguyen Phuc Lien Thanh

Le Xuan Nhuan would like to temporarily answer 2 points:

1–             At that time, throughout the Republic of Vietnam, it was difficult to find a North Vietnamese Communist flag (red flag with yellow star, of the Democratic Republic of Vietnam) because the Communist Party thoroughly implemented present the guise that “national forces in the South automatically stood up against the Republic of Vietnam regime, but the Communist Party of Vietnam did not intervene in South Vietnam”; Therefore, Lien Thanh and the National Police of Thua-Thien/Hue could not find a single communist flag. When the plane drove slowly into Phu Bai airport headquarters, the hijacker clearly saw that there was no communist flag, meaning that Dong-Hoi airport did not belong to the Communist North, so he detonated the bomb. grenades.

2-             The Air Vietnam aircraft in this case is a Douglas C-54A (XV-NUM), 4-pinner, or DC-4, with a height of 27ft 6in (8.38 meters), from the ground to the doorstep. Getting into the plane is very high. The plane stops but there are no stairs up/down, making it difficult to easily jump into the plane like in a movie.

DC-4.JPG

Very high view of Douglas R5D-2.jpg

Footnote: In the evening of the same day, Air Vietnam took another plane to Phu Bai, with 2 passengers, Lieutenant Colonel Trinh Van Ca (Head of E-2, aka Director of Counter-Intelligence and Internal Affairs, directly under Colonel Huynh Thoi Tay, Head of the Central Special Branch); together with Lieutenant Colonel Tran Phuoc Thanh (formerly Director of the Central-Nguyen Trung-Phan National Police Department, now Chief of Security Department of the Vietnam Civil Aviation Department.

3-             I briefly presented everything I had done, then together with Major Ngo Phi Dam (Chief F, Chief of Operations of my E-6) boarded the Allied Friend’s helicopter to fly back. Da-Nang because it was already dark.

4-             A few days later, while working at the Central Special Police Branch, I met and talked privately with Lieutenant Colonel Trinh Van Ca. He told me that Major Truong Cong An (Chief F, Chief of the Thua-Thien/Hue Special Police Department, privately confessed to him that in the recent “no shortage” incident, the Police outside That time, we could not find a single North-Vietnamese Communist flag to use in the plan to disguise Phu-Bai as Dong-Hoi.

5-             Returning to my assignment, I went to Hue to meet Major An privately, and An also confessed the same to me.

6-             As for the difference between Gia-Lam airport and Dong-Hoi airport, about a month later, Lieutenant Colonel Tran Phuoc Thanh, on a trip passing by my house, stopped by to visit me and tell me- It was revealed that Chief Pilot Duong Van Em decided on his own initiative that if he had to fly far, he would choose Dong-Hoi airport which is closer and smaller to avoid confusion because Gia-Lam is too big. The name Dong-Hoi thus entered the records of the astronaut world (although April was mistaken for February: February 20, 1974): https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_accidents_and_incidents_involving_the_Douglas_DC-4

As for Gia-Lam, the flight attendant named Hong, who from beginning to end walked closely and talked to the hijacker, answered my interview questions.

LE XUAN NHUAN

If you want to know more details, please read the memoir “The Central Region’s Chaos

LỜI DÂNG LÊN MẸ VIỆT NAM
(49 NĂM – LƯU VONG)

VÕ ĐẠI TÔN (Hoàng Phong Linh)
MẸ VIỆT NAM ơi
49 năm rồi
Áo con đã rách.
Còn sợi chỉ nào, từ nguồn thiêng huyết mạch
Cho con xin, vá lại áo Đời.
Con đã đi, đường gai góc mòn hơi
Xuyên rừng núi, mồ hôi pha trộn máu.
Về quê hương, nguyện lòng son chiến đấu
Nửa đường đi thành đêm tối lao tù.
Mười năm ôm hận nghìn thu
Lênh đênh chìm theo vận Nước.
Và hôm nay, vạn nẻo đường xuôi ngược
Con vẫn còn tiếp bước Cha Ông.
*
Bao nhiêu năm – Mẹ đã đau lòng
Nghe con khóc từ trùng dương sóng chuyển.
Huyền sử xưa năm mươi con theo Cha về biển
Giống Rồng Thiêng mở rộng cõi bờ.
Còn hôm nay vì hai tiếng Tự Do
Trăm ngàn thây vùi tan nơi vực thẳm.
Năm mươi con vượt rừng sâu muôn dặm
Theo Mẹ hiền – thơm nửa máu dòng Tiên.
Dựng quê hương hùng sử khắp ba miền
Nay Văn Hiến cằn khô cùng sỏi đá.
Những địa danh chôn xương tù gục ngã
Tên kinh hoàng, tủi nhục đến nghìn năm.
Hoàng Liên Sơn không nấm mộ con nằm
Cổng Trời nghe máu khóc.
Dã thú vờn quanh, xiềng gông, tang tóc,
Nghĩa “Con Người” thua chữ sắn khoai.
*
Bao nhiêu năm – em bán hình hài
Tìm miếng cơm manh áo.

Đại Hàn, Đài Loan, xông xáo
Mua em về làm món đồ chơi.
Năm nghìn năm dù nước lửa dầu sôi
Chưa bao giờ mẹ bán con vì đói.
Bầy trẻ thơ còm cõi
Bươi rác nghèo, rách rưới lang thang.
Nghe quanh mình loa vẫn thét “vinh quang”
Đường Tương Lai đá cũng tan thành lệ.
*
Bao nhiêu năm tưởng chào vui thế hệ
Ngẩng cao đầu, tay vói đến năm Châu.
Nhưng cội nguồn và đạo lý chìm sâu
Lo sáng tạo những đua đòi vật chất.
Mùi kim tiền thơm hơn bánh mật
Giấc mơ vàng : – mong thoát khỏi quê hương.
Thúy Kiều xưa, rơi sóng nước Tiền Đường
Nay viết lại thành Tiền Giang, phản động ! () Lũy tre xanh, cánh tay thần Phù Đổng Bao anh hùng dựng Nước thuở ban khai Còn lại đây hoang phế cả đền đài Tên Hùng Vương đành thua tên Bill Gates. ().
Túi càn khôn đã nghèo, thêm rỗng tuếch,
Văn Hóa này còn lại tiếng “bia ôm” !
*
Bao nhiêu năm – răng hổ đói đỏ ngòm
Luôn gầm thét, xé tươi hồn Dân Tộc.
Từ địa đạo ùn lên bao cơn lốc
Thành “đại gia” chễm chệ một phương trời.
Miệng “vô sản” toàn men rượu nồng hơi,
Tay “chuyên chính” ôm bao đầy châu báu.
Dinh thự nguy nga, dựng lên từ máu
Của nhân dân khổ hạnh một đời.
Người thương binh ngẩng mặt nhìn trời
Nghe tiếng khóc trong tiếng cười vang vọng.
Chiếc xe lăn bánh mòn, gãy gọng
Lê thân tàn về cuối hẻm đơn côi.
*

MẸ VIỆT NAM ơi
49 năm rồi, niềm đau quặn thắt.
Đã có bao người lửa lòng nguội tắt
Dĩ vãng quên rồi, hiu hắt tình Quê ?.
Lớp già nua mơ ước nẻo về
Không nhắm mắt, cuối đời lên tiếng nấc.
Còn tuổi trẻ hồn nhiên hoa mật
Nơi xứ người chấp nhận quê hương.
*
Nhưng một ngày mai :
Đường hoa nở hướng dương
Hành trình thôi cúi mặt.
Sẽ có những đàn con vòng tay siết chặt
Kéo mặt trời về lại phương Đông.
Tổ Quốc sẽ tươi hồng
Giữa hào quang Dân Tộc.
Cây Tự Do sẽ đâm chồi nẩy lộc
Lửa Nhân Quyền bừng sáng nẻo thâm u.
Mái trường vui thay thế chốn lao tù
Cho con học từ cội nguồn Nhân Bản.
Không kẻ nào được quyền mua bán\
Thịt da em, nguồn sống của Rồng Tiên.
Hồn Tổ Quốc linh thiêng
Đài cao về chiếm ngự.
Cuộc hành trình từ quê hương – viễn xứ –
Chuyển xoay thành trẩy hội hoa đăng.
Từ phương Nam tung vút cánh chim Bằng
Thành Rồng thiêng Đông Á.
Từ núi cao nghiêng mình ra biển cả
Rạng ngời soi hai chữ : VIỆT NAM.
*
Lời trần tình bao nhiêu năm
Con viết bằng tim máu.
Từ nỗi đau âm thầm chôn giấu
Kính dâng lên TỔ QUỐC hằng yêu.
Mỗi chữ-vần mong gói trọn một điều :
Từ Tâm Thức xin góp chung Hành Động.
Đại cuộc Toàn Dân ban con Lẽ Sống
Hiến dâng đời cho trọn nghĩa Quê Hương.

MẸ VIỆT NAM ơi
Dù gian lao xin tiếp máu Lên Đường
Cho con về với Mẹ.
Vững chân đi, qua trăm ngàn dâu bể
Được quỳ ôm từng mảnh đất quê Cha.
Phút cuối đời xin biến lệ thành hoa
Giữa triều vui Dân Tộc.
Trong lòng con : – Vĩnh hằng TỔ QUỐC
Huy hoàng Văn Hiến – Tự Do !.
VÕ ĐẠI TÔN. (Hoàng Phong Linh)
Ghi chú :

THƠ  XƯỚNG – HỌA

KHÓC SAIGON

Hốt hoảng chìm trong lửa bạo tàn

Sài Gòn run rẩy chít khăn tang

Người đi cách biệt, sầu câm nín

Kẻ ở chia tay tiếng khóc than

Rừng thẳm chiều buông,  cải tạo

Mồ hoang vạn nấm lệ dâng tràn

Bắc Nam cùng giống, sao thù hận?

Trách nhiệm về ai hỏi thế gian ?

Mặc Khách (1975)

THÁNG TƯ NĂM ẤY (Bài Họa)

Tháng Tư năm ấy bởi tham tàn

Hòn Ngọc Viễn Đông đau đớn tang

Kẻ bước hồn thương còn bịn rịn

Người ngồi tim thảm vẫn sầu than

Thân nhân dương thế bặt tin tới

Cải tạo cõi âm khiến lệ tràn

Cộng sản chủ trương gieo độc ác

Giặc Hồ qủy đỏ chốn dân gian

Doãn Thường, 22-4-2019

KHÓC SÀI GÒN (Bài Họa)

Cứ nghĩ rằng sau cuộc chiến tàn

Nỗi đau cả nước được phi tang

Sái Gòn hướng tới xây hưng thịnh

Hà Nội vươn lên xóa oán than

Từng bước thực thi dân chủ khắp

Mỗi nơi bày tỏ ấm no tràn.

Chằng ngờ rặt thấy trò man rợ,

Chú phỉnh mà thôi, toàn dối gian !

Thái Huy

CUỘC CHIẾN TÀN (Bài Họa)

Giặc đến thành đô cuộc chiến tàn

Trời Nam ảm đạm một màu tang

Lìa cha lạc mẹ lời ta thán

Nát cửa tan nhà tiếng oán than

Phụ tử chia ly dòng thảm đượm

Phu thê cách biệt giọt sầu tràn

Quân dân cán chính đời cay đắng

Bởi lũ cai tù quá ác gian

Đinh Tường

HẬN TIẾC THÀNH DÔ (Bài Họa)

ĐỌC XUÔI:

Đô thành tiếc hận khóc canh tàn,

Việt tộc cùng chia lệ tóc tang.

Mồ mả tỏ tiên đành xới bỏ,

Vợ chồng con trẻ khóc buồn than !

Nô vong* tủi nhục thân dầu dãi,

Khổ luỵ thương đau máu chảy tràn !

Bờ cõi nước non sầu rẽ bán…

Hồ quân rõ ác tặc tà gian !

ĐỌC NGƯỢC:

Gian tà tặc ác rõ quân hồ,

Bán rẽ sầu non nước cõi bờ.

Tràn chảy máu đau thương luỵ khổ,

Dãi dầu thân nhục tủi vong nô.

Than buồn khóc trẻ con chồng vợ,

Bỏ xới đành tiên tổ mả mồ !

Tang tóc lệ chia cùng tộc Việt…

Tàn canh khóc hận tiếc thành đô !

Liêu Xuyên

TẠ TỪ MẸ

 Đêm vẫn vô tình cơn gió lạnh

Gió mang rét buốt buổi tàn đông

Men theo khe cửa lùa vào Mẹ

Làm buốt tim con xót xa lòng

Đêm vắng lặng mơ hồ thăm Mẹ

Đôi tay khô hốc cánh tay gầy

Bước đi nghiêng ngã thân tàn tạ

Con sợ Mẹ buổn chẳng dám lay

Con bất hiếu không ngày phụng dưỡng

Bao năm xa Mẹ tuổi còn thơ

Hồn nỗi trôi bên bờ sinh tử

Đời trai chinh chiến chẳng được nhờ

Căn nhà nhỏ từ đây trống vắng

Con mãi rừng sâu khuất tuổi xanh

Đã bao năm mỏi mòn lao khổ

Sống qua ngày hơi thở mong manh

Đêm dần tàn gịó mùa rét mướt

Giấc mơ buồn nhớ Mẹ lệ tuôn

Thăm Mẹ lần cuối con từ tạ .

Nếu không còn gặp, Mẹ đừng buồn !

Mặc Khách

         (  Đêm trong tù 1982 )

MỒ CHÔN TUẤN KIỆT

(Chiến tranh_Ngục tù)

Áo rách thay hòm chôn xác bạn

Nghìn năm còn mãi lệ xót xa

Lòng dân run sợ hồn ta thán

Gió hú oan hồn tiễn thây ma

Hồn dật dờ nương theo làn gió

Chập chờn bay về cõi hư vô

Rừng âm u cất lời ma quái

Giữa đêm khuya xào xạc đáy mồ

Rừng sâu vùi chôn bao tuấn kiệt

Nơi đọa đày Cải Tạo cùm gông

Họ, những Anh hùng Thế hệ trẻ

Xếp bút nghiên trên dưới đôi mươi

Vì Giang sơn Tổ Quốc Miền Nam

Xông pha trận chiến giữ lòng trung

Giờ vùi thây rừng sâu nước độc

Cho người đào tẩu sống yên vui

Những hình ảnh bi hùng còn mãi

Từng thây người cản bước xâm lặng

Người giàu sang quyền cao chức trọng

Cùng nhau trốn chạy mặc tàn quân

Tôi ước mong trái tim ngưng đập

Cho hồn nhẹ bước muôn nơi

Bay theo mây hòa cùng với gió

Quên, quên đi thống khổ kiếp người !

Mặc Khách

(U.Minh 1981)

Theo Dòng Nước Xoáy

Đỗ Dung

1-Mưa xối xả như giận dữ trút nước xuống thành phố, thỉnh thoảng sấm sét đì đùng và những lằn chớp ngoằn ngoèo trên không. Cu Chou nép mình trong lòng mẹ ngủ ngon lành. Ngọc ôm chặt thằng bé như cố gắng che chở con, mắt mông lung nhìn qua cửa sổ. Những chùm bông giấy tím trên bờ tường rào run rẩy và cây bông sứ như đứng oằn mình chịu đựng cơn dông. Nhìn khuôn mặt ngây thơ của con, hai dòng lệ ứa ra rồi nàng dụi mặt vào người con, thút thít khóc. 

Chiều hôm ấy, khi đi làm về, Khương buồn bã, chẳng nói năng gì, cất cặp sách, thay quần áo rồi ngồi thừ ra suy nghĩ, chẳng thiết đến bữa ăn. Thấy không khí nghiêm trọng Ngọc không dám lên tiếng, đợi đến tối sẽ gạn hỏi cho ra nhẽ. 

Buổi tối, sau khi cơm nước, dọn dẹp xong, hai vợ chồng đang sửa soạn cho con đi ngủ thì tiếng chuông cửa reo. Mở cửa ra, sáu người trong quân phục với súng ống lăm lăm, đứng ngay trước cổng. Ngọc hoảng hốt, sợ hãi không biết tai ương nào sắp giáng xuống gia đình nàng đây. Khương ra mở cổng, sáu người bộ đội tràn vào, dàn trận như đang hành quân bố ráp, bốn người súng AK cặp nách, hai người súng ngắn trên tay. 

Mấy người mang súng AK ngừng lại ngoài sân.  Hai người bộ đội có vẻ như cấp chỉ huy bước vào phòng khách cùng vợ chồng Khương, hỏi tên và một số chi tiết về cá nhân chàng rồi nói như ra lệnh: 

– Mời anh theo chúng tôi về Ủy Ban Quân Quản làm việc. 

Ngọc cuống quýt: 

– Thưa các anh, các anh cho địa chỉ để sáng nhà tôi lên trình diện các anh được không? 

Người ấy lạnh lùng: 

– Chúng tôi được lệnh đưa anh đi ngay. Khẩn trương lên! 

Trong khi Khương vào thay quần áo, Ngọc lấy một túi vải sắp một bộ đồ mặc nhà, một áo lạnh và một số vật dụng vệ sinh như bàn chải đánh răng, khăn mặt … cho chồng.  Nàng nghĩ nhỡ Khương phải ở lại qua đêm. 

Nhìn chồng đi giữa những người bộ đội, bước lên chiếc xe bít bùng, dù không bị còng tay nhưng cũng bị áp giải như tội phạm, Ngọc bàng hoàng, thảng thốt. Đang đêm khuya, nhà không có phương tiện để liên lạc với bên ngoài, Ngọc điếng người vì sợ hãi.  Cả đêm nàng không ngủ, nằm ôm con, miệng lâm râm niệm Phật và mong trời mau sáng để chạy về nhà mẹ hay nhà chị Lan, để rúc vào lòng mẹ hay lòng chị mà khóc, mà kể lể, mà tìm sự chở che. 

2-Sáng sớm tinh mơ, chị Lan đang đảo đều nếp với khoai mì trong chõ, sửa soạn cho mỗi người một chén đầy xôi khoai mì trộn chút muối mè-đậu phộng cho chắc bụng trước khi người đi học, kẻ đi làm. Nhìn chõ xôi chị bất giác thở dài, trưa hôm qua sau khi được gọi ra xếp hàng ở tổ dân phố để mua thực phẩm, chị vác về một bao khoai mì, khoai lang mà ngán ngẩm. Khoai lang đã nhiều chỗ bị sùng, khoai mì sắp chạy chỉ. Chị phải bỏ nguyên buổi tối ngồi gọt vứt những chỗ hư, chừa lại một ít nấu ăn ngay ngày sau, chỗ còn lại sắp vào cái mẹt lớn, định phơi khô để sẽ độn với gạo nấu ăn dần. Anh Luận, chồng chị, sĩ quan cấp tá đã đi trình diện học tập, tưởng một tháng thì về mà đến nay đã hơn một tháng vẫn bặt vô âm tín. Nhìn đàn con dại, bốn đứa từ 10 đến 16 tuổi, đang sức lớn, cơm chẳng đủ mà ăn, tương lai mờ mịt, biết sẽ về đâu. 

Bỗng tiếng đập cưả rồi tiếng Ngọc như rên rỉ: 

– Chị Lan! Chị Lan ơi…! 

Thằng Chương, con trai lớn nghe tiếng dì, chạy vội ra đỡ chiếc xe đạp mini của Ngọc, bế cu Chou đang phụng phịu vì còn ngái ngủ vào nhà. Ngọc như đổ ập vào người chị, tiếng nói đứt quãng qua tiếng nấc uất hận, nghẹn ngào: 

– Đêm hôm qua… người ta… đến nhà em… bắt anh Khương đi rồi… chị ơi… 

Nói xong nước mắt Ngọc tuôn ra như suối, ướt đẫm vai áo chị Lan. 

– Cả đêm qua em không ngủ được phải không? Thôi vào đây nằm nghỉ, chị pha cho em ly sữa nóng, uống cho khỏe, em hãy ngủ một giấc cho lại sức. Ốm đau lại khổ! Từ từ… ta tính! 

Nói để vỗ về, an ủi em nhưng hai dòng lệ cũng chảy dài qua khoé mắt chị Lan. 

Một đêm thức trắng vì sợ hãi, qúa mệt mỏi nên sau khi uống ly sữa nóng, Ngọc nằm ngay xuống chiếc đi văng trong phòng khách nhà chị ngủ thiếp đi. Nhìn nét mặt mệt mỏi của cô em út, chị Lan thở dài.  Con bé được cưng chiều từ nhỏ, cả nhà yêu thương vì Ngọc xinh xắn, học giỏi và ngoan ngoãn. Khi lập gia đình lại gặp nơi tử tế, chồng quý, chồng cưng… Thế mà giờ đây gặp cơn bão tố thế này. Thật tội cho em. 

Hôm nay không có giờ dạy, Lan rút một tờ giấy trắng viết đơn cáo bịnh xin nghỉ hai ngày để ở nhà giúp Ngọc. Chị đưa lá đơn cho Chương, dặn con khi đi học nhớ ghé qua trường của mẹ nộp cho mẹ. Đợi Ngọc thức dậy Lan sẽ cùng em sang báo tin cho bố mẹ nàng, báo cho bên nội thằng cu Chou. 

3-Cụ Tham Minh đang cầm cây chổi lông gà phủi bụi trên những khung ảnh Ông Bà bầy trên bàn thờ bằng gỗ cẩm lai vẫn còn được đặt trang trọng trong phòng khách.  Nghe tiếng bi bô của thằng bé con, cụ quay lại, hai cô con gái đang dắt tay thằng bé bước lên thềm. 

– Bố ạ! 
– Hai chị em có việc gì mà rủ nhau sang đây sớm thế? 

Lan ngập ngừng: 

– Thưa bố… Chú Khương bị bắt đêm hôm qua. 

Cây chổi lông gà rơi tuột khỏi tay, cụ bước vội đến chiếc tràng kỷ ngồi phịch xuống: 

– Kể cho bố nghe, sự việc thế nào? 

Lan thay Ngọc kể lại những diễn biến xảy ra tại nhà Ngọc hôm qua trong khi Ngọc ngồi bên tủi thân ôm con rấm rứt khóc. 

Mặt cụ ông như sạm lại, cụ không biết nói sao. Năm nay cụ đã hơn bảy chục tuổi, suốt đời hai cụ đã lo nuôi dạy bầy con sáu đứa đến lớn khôn, học hành thành đạt. Tưởng rằng hai cụ sẽ được hưởng những ngày tháng bình yên tuổi già, vui với mấy chậu kiểng ngoài sân, thỉnh thoảng con cháu về thăm hay có nhớ con nhớ cháu thì cụ chỉ cần ra đường vẫy chiếc xích lô là có thể đến với chúng nó. 

Bây giờ hai người con trai của cụ nhà bị niêm phong từ 30/4 đến nay.  Chưa biết hai gia đình đó sống chết thế nào, có đi được đến nơi, đến chốn hay không. Hai cô con gái kẹt lại, cô lớn chồng đi cải tạo không biết ngày về, cô út chồng bị áp giải đi thế này. Đúng là tai trời ách nước. Vận mệnh con người phải nổi trôi theo vận mệnh chung. 

Cụ nghĩ đến Khương, anh con rể út hợp tính, hợp nết với cụ, một thanh niên cương trực, thẳng thắn, trong sạch, nặng lòng với quê hương. Những lúc giỗ tết, trong khi đàn bà con gái lo việc cỗ bàn dưới bếp Khương hay ngồi tiếp chuyện cụ, thân tình như con trai. Anh kể cho cụ về những ngày anh mới chân ướt chân ráo đến Paris, kinh thành ánh sáng, còn ngơ ngác hoang mang đã bị những cán bộ CSBV níu kéo mua chuộc bằng những phương pháp rất tinh vi. Những thành phần quốc gia nhưng thiên tả cũng có rất nhiều, họ thu phục đám thanh niên nhẹ dạ, dời quê hương khá lâu và không am tường về hiện tình đất nước.  Trong khi nhân viên của toà Đại Sứ VNCH lại quá lơ là, không để ý đến cuộc sống, đến sinh hoạt của sinh viên du học. Khương còn kể với cụ rằng có lần anh đã cùng nhóm sinh viên thuộc phe VNCH chính thức đối đầu với nhóm cán bộ Cộng Sản. Sau đó phe Quốc Gia cũng mời anh vào hoạt động chính trị với họ nhưng anh đã từ chối. 

Mới đây, một anh bạn học cùng thời với Khương, về giảng dạy tại Trường Y khoa, đang âm thầm thành lập Mặt Trận Phục Quốc, có liên lạc và thuyết phục anh hợp tác. Anh đang phân vân giữa trách nhiệm với đất nước và trách nhiệm với gia đình. Bây giờ nghe tin này, cụ chưa biết mức độ nghiêm trọng cỡ nào. Khương bị bắt oan hay anh đã nhúng tay, hợp tác với tổ chức mà anh đã có lần kể với cụ. Nghĩ thương chàng rể lại xót xa cho con gái mình. Cụ chẳng biết nói sao, nhìn lên trần nhà, một con thạch sùng giương đôi mắt nhỏ, đen láy nhìn cụ như chia sẻ rồi tặc lưỡi, quẫy đuôi bò đi. 

Lan và Ngọc sửa soạn ra về thì cụ bà tay xách giỏ chợ bằng nilon có bó rau muống thò ra khỏi miệng giỏ, đẩy cửa bước vào đon đả: 

– Hai chị em sang chơi hả? Các con đến lâu chưa? 

Cụ như khựng lại: 

– Sao hai đứa mắt đỏ hoe thế này? Có chuyện gì vậy con? 

Như được khơi nguồn, Ngọc khóc nức nở, cụ bà chạy vội đến ôm cô con út. Ngọc được thể gục vào lòng mẹ tức tưởi. Cu Chou giương đôi mắt tròn xoe nhìn mọi người rồi cũng bật lên khóc oà. Sau khi nghe con kể rõ nguồn cơn cụ bà thở dài: 

– Hai chị em ở lại ăn cơm với bố mẹ, mẹ mới mua được miếng thịt thăn ngon tính làm ruốc, thôi để mẹ rim lên cả nhà ăn với rau muống luộc, nhà cũng còn lọ dưa muối. Từ từ ta tính. 

Cụ lập lại y như những lời Lan đã an ủi em, từ từ ta tính. 

Cơm nước dọn dẹp xong xuôi, con cháu ra về hết, hai cụ ngồi nhìn nhau buồn bã. Buổi sáng, sau khi ghé khu chợ trời bán bớt một mớ quần áo cũ của Quân và Nga, hai người con bên Pháp, cụ bà đi ngang qua nhà Vinh, anh con trưởng. Căn nhà đã được trưng dụng, mặt tiền nhà đã là cửa hàng hợp tác xã của phường chứa đầy cá khô. Đã gần ba tháng mà chưa có tin tức chính thức nào của con, hai cụ cũng rất nóng ruột. Cụ thương anh con trưởng hiền lành như đất, chọn nghề giáo, làm tròn bổn phận giảng dậy, uốn nắn thế hệ tương lai. Chị Vinh con nhà tử tế, bạn học với Lan, cũng nhà giáo nhưng lanh lợi hơn chồng, sanh được hai thằng con khỏe mạnh, đẹp trai, thằng lớn đã vào đại học, thằng em cũng sắp xong trung học. Cụ mừng lắm, sau khi gả chồng cho Ngọc, cô gái út cụ đã định bụng khi già yếu sẽ thu xếp về với nhà anh cả nhưng nay cớ sự thế này! Nghĩ đến Khanh, con trai Út, cụ lại thương, lấy vợ mấy năm trời, vợ còn đi học nên chả dám sanh đẻ, cô vợ vừa ra trường, mới mừng rỡ báo tin với cha mẹ là sắp được làm cha thì lại trời đất tai ương thế này, cho đến nay vẫn chưa tin tức. Cuộc sống của cụ từ ngày về nhà chồng êm ả, sanh sáu người con cứ đổi đầu, một trai rồi một gái, Vinh-Lan-Quân-Nga-Khanh-Ngọc. Nghĩ đến Ngọc cụ không ngăn được dòng nước mắt xót xa.  Một thân một mình với đứa con nhỏ chưa đầy hai tuổi, Ngọc làm sao chống chọi với đời. Cụ bàn với cụ ông sang bảo mẹ con Ngọc thu xếp về nhà bố mẹ mà ở, mà nương tựa với nhau.

 4-Lan là cô giáo của một trường Nữ Trung Học lớn tại Saigon.  Sau ngày 30/4 chị đến trường trình diện ngay và ghi tên xin đi dạy lại, mong được là công nhân viên, có công việc ở thành phố để gia đình khỏi bị đi kinh tế mới.

Sau những lớp học tập chính trị cho thông suốt chủ trương đường lốí cách mạng, chị được lưu dung nhưng phải đổi sang một trường Trung Tiểu Học nhỏ tại Quận Mười Một.  Hàng ngày phải gò lưng đạp xe từ Tân Định sang tuốt khu Chợ Lớn với đồng lương chết đói không nuôi nổi một miệng ăn. Vì sự thay đổi cả một ý thức hệ nên mọi sinh hoạt trong trường cũng đảo lộn. Đứng trên bục giảng nhìn lũ học trò lẫn lộn trai gái; áo quần luộm thuộm, nhơm nhếch; mặt mũi ngơ ngáo, bơ phờ.  Xuống phòng giáo viên những khuôn mặt đồng nghiệp xa lạ, lạnh lùng.  Chẳng biết tư tưởng người khác như thế nào nên mọi người đều lặng thinh.  Ai cũng phập phồng lo lắng và chẳng biết tin ai mà tâm sự. 

Anh Luận, chồng chị, đi học tập qúa một tháng vẫn chẳng có tin tức gì. Nhìn bốn đứa con còn nhỏ dại, Chương 16, Văn 14, Nhu 12, bé Út Hiền mới hơn 9 tuổi, không biết tương lai chúng ra sao, cuộc đời mấy mẹ con chị trôi về đâu. Làm sao một mình chị có thể cáng đáng công việc vừa làm mẹ vừa làm cha, vừa phải kiếm tiền nuôi con, vừa phải có thì giờ theo dõi, dạy dỗ, giáo dục con trong thời buổi nhiễu nhương này.  Nhất là trẻ con ở lứa tuổi mới lớn, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh như bầy con của chị.

Đồng lương không đủ sống, Lan phải gom góp đồ đạc trong nhà, bán đi những thứ không cần thiết để lo tiền chợ. Ngày nay đi dạy học không mặc áo dài nữa, chị soạn mấy chiếc áo dài cũ và một số quần áo đã chật của các con bỏ vào chiếc giỏ cói đem ra chợ trời.

–     Cô ạ!

Giọng nói quen thuộc khiến Lan quay lại.

–     Cô, em không thấy cô lên trường …em tưởng…Cô khoẻ không?

Nhìn con bé Liên, học trò cưng ở trường cũ rưng rưng nhận cô giáo, Lan cũng nghẹn ngào.

–     Cô chuyển trường khác.  Trường mình hồi này ra sao hả em?

Liên kéo Lan vào quán cà phê nhỏ gần đó

–     Em mới nghỉ học rồi cô ạ.

–     Em đang học Lớp Mười Một mà, còn chưa đầy hai năm nữa là hết bậc Trung học sao em không cố gắng cho xong?

–     Thưa cô, ba em đi học tập, chị em xong Tú Tài có được vào Đại học đâu cô, chị xin dạy lớp mẫu giáo ở gần nhà, không biết được bao lâu. Hai thằng em trai em chắc đến tuổi cũng phải đi nghĩa vụ.  Mẹ em cực quá, em quyết định ở nhà buôn bán kiếm tiền giúp mẹ em.

Lan thở dài:

–     Em là học sinh giỏi, bỏ ngang như thế này uổng qúa.

–     Học làm gì hả cô? Vào trường chỉ lo phấn đấu để được là đối tượng đoàn. Bọn học trò ngoài Bắc vào phần nhiều hỗn xược.  Thày cô cũng lo trăm thứ việc bên ngoài, tối ngày lo họp, lại còn phải vào những tổ sản xuất, thi đua lao động tốt để lập thành tích… học gì cô?

Rồi cô bé hạ giọng:

–     Em lo kiếm tiền, kiếm đường đi cô ạ.  Em không thể sống dưới chế độ này.

Nhìn Liên, Lan nhớ cô học trò giỏi, ngoan, hiền mà chị thương mến, nhớ hình ảnh cô học trò mắt sáng long lanh nhìn lên bục giảng. Bây giờ em mặc bộ bà ba đen, gầy gò, phờ phạc. Một nỗi xót thương dâng trào.  Chị nghĩ đến thân phận mình và chạnh nghĩ đến bầy con.  Không biết trong những tâm hồn non trẻ đó, chúng suy nghĩ những gì.

–     Cô muốn bán những thứ gì hả cô?

Liên hỏi, Lan hé chiếc giỏ cói cho Liên xem.

–     Cô đưa em, cô ngồi đây đợi em một chút em đem bán hộ cô.  Cô lạ mặt họ ép giá.

Nhìn con bé xách chiếc giỏ thoăn thoắt bước đi, ruột Lan như quặn thắt. Chỉ một thoáng, Liên cầm chiếc giỏ không về, dúi một nắm tiền vào tay Lan cười ngỏn ngoẻn:

–     Em đứng luẩn quẩn ở đây, ai bán gì em mua, ai mua gì em bán cô ạ.  Em không có hàng quán nào hết, chạy hàng thôi.

–     Sao em giỏi thế?

Lan rút vài tờ giấy bạc đưa Liên:

–     Cám ơn em, cho cô gửi.

Liên ngậm ngùi:

–     Cô ơi, cô cầm lấy, nhìn cô mặc áo bà ba, đội nón lá, đạp xe đạp, phải đi bán cả quần áo cũ là em xót xa lòng dạ lắm rồi.  Cô về đi, khi nào cần gì cô cứ ra khu này là có em.

Thày trò nắm chặt tay nhau cùng ngăn dòng nước mắt chỉ trực tuôn trào.

Chia tay Lan, hòa mình vào dòng người xuôi ngược trong khu chợ trời, Liên không cầm được nước mắt. Hình ảnh cô giáo Lan mà Liên đã tôn thờ, yêu qúy thay đổi đến thế sao. Cô giáo Lan dịu dàng, áo quần luôn tươm tất, giảng bài rất rõ ràng, dễ hiểu. Cô luôn để ý, ân cần với tất cả học trò, uốn nắn từ lời ăn, tiếng nói, cách cư xử ở đời… Cô là thần tượng của biết bao thế hệ nữ sinh.  Cô ơi, chúng em vất vả, lam lũ thì được nhưng nhìn cô như thế này em không chịu được, đau lòng lắm, cô ơi.

Đạp xe đi giữa lòng phố Sài Gòn nắng gắt nhưng lòng Lan như tê buốt. Hôm nay gặp cô học trò cũ ở hoàn cảnh này khiến Lan nhớ lại bao sự việc đau lòng mà chị đã chứng kiến.  Một hôm nhìn thấy một thày giáo dạy cùng trường đang cong lưng đạp chiếc xich lô chở khách ngược chiều gió, Lan phải lảng ngay, tránh cảnh gặp gỡ bẽ bàng của hai nhà giáo. Chị biết ông thày đó có năm đứa con thơ mà đứa bé nhất chưa đầy một tuổi.  Chỉ có lương giáo chức không thôi thì làm sao nuôi nổi từng ấy miệng ăn, thương làm sao! Rồi một lần chị gặp một cô bé trạc tuổi thằng Chương đứng thút thít ở gần cầu xa lộ.  Cô bé nhìn thấy chị thì oà lên khóc gọi tên cô Lan.  Hoá ra cô cũng là học trò nơi trường cũ chị dạy. Hỏi chuyện mới biết cô đi buôn than từ Long Thành về, bị cảnh sát kinh tế bắt được nên tịch thu hết hàng hóa, may là không bị bắt giam. Khổ quá, đúng là tính quẩn tính quanh, buôn bán lời lãí bao nhiêu với một nhúm than nếu đi chót lọt! Tuổi các em phải đang ngồi trong lớp học, bồi đắp kiến thức để sửa soạn cho tương lai. Lan lại nghĩ đến học sinh nơi trường mới.  Chị dạy đệ nhị cấp nhưng trường này chỉ có tới lớp Chín nên chị được xếp dạy hai lớp Tám và Chín.  Ngày nào loa nhà trường cũng phát động chương trình “Kế hoạch nhỏ”.  Các em phải từng nhóm, mỗi đứa một cái túi và một đôi que tre, đi bới gắp từng mẩu giấy vụn, từng mảnh bao ni lông rách dưới đường, trong bãi rác, trong khe rãnh… Em nào muốn đạt danh hiệu “Dũng sĩ kế hoạch nhỏ” thì về nhà vét hết sách báo cũ, thậm chí ngay cả những cuốn sách giáo khoa còn tốt nguyên đem nộp. Đầu óc đâu để học, lúc nào cũng nghĩ đến việc thi đua để làm dũng sĩ, để làm anh hùng lao động… Phận giáo chức cũng thê lương không kém, thiên chức nhà giáo bây giờ không phải là uốn nắn, dạy dỗ, vun trồng những đứa trẻ trở thành những người hữu dụng sau này.  Những khóa học chính trị nhồi nhét như vẹt để rồi thày cô lại lập lại như vẹt với học sinh, dù chính trong thâm tâm nhà giáo cũng biết đó là những điều dối trá. Dưới mắt học trò thày cô cũng eo sèo khi chia nhau từng miếng thịt, từng xâu cá lúc có loa gọi xuống nhận nhu yếu phẩm. Rồi vì sinh kế thày cũng phải chạy xe ôm, ngồi đầu đường làm nghề vá lốp xe, sửa đồng hồ, bơm bút bi. Cô lo bán qùa ở cưả trường hay đi bán quần áo cũ như Lan hôm nay. Thì giờ đâu, tâm trí đâu lo chuyện giáo dục, dạy dỗ. Còn đâu hình ảnh tốt đẹp của thày cô cho học trò chiêm ngưỡng, noi theo.

Lan nhớ đến số tiền mới có mà chị đã cẩn thận bỏ vào túi aó trong.  Nghĩ đến các con, chị tự nhủ, chị sẽ trích ra một chút, vào chợ mua một miếng thịt quay và ít rau.  Chị sẽ luộc mớ mì sợi do chị mới đổi túi bột mì được mua phân phối hôm qua.  Đãi các con một bữa ăn cho tươm tất. Tội nghiệp hai thằng con trai đang sức lớn phải bóp mồm bóp miệng, ăn như chẳng đủ no vì chúng nó cũng ý tứ nhìn trước nhìn sau. Không có bánh hỏi thịt quay như ngày xưa nhưng các con chị cũng sẽ có mì sợi luộc thay cho bánh hỏi.  Chị sẽ pha một tô nước mắm thật ngon với rau sống đủ thứ,  các con chị có một bữa ăn cải thiện, mì luộc thịt quay ngon lành.

Đỗ Dung

THƠ ĐẦU THÁNG TƯ. – CAO MỴ NHĂN

Thơ ươm tuyết nguyệt phong hoa

Tình sầu diễm tuyệt như là núi sông

Yêu hơn mưa lũ ngập đồng

Anh trong huyễn mộng đầy lòng em thôi

*

Vẫn anh bẻ kiếm bên trời

Mây trôi đáy nước tuyệt vời nhớ em

Mùa xuân mang hết thần tiên

Về nhân gian để cho em tặng mình

*

Khói rừng lại ngỡ lửa binh

Quan san ngay thủa chiến chinh lụn tàn 

” Mai ta đi dọc Việt Nam

Tìm tên chiến hữu viết tràn non cao  

*”

Xa đưa tiếng trúc tiêu dao

Áo xanh xẻ đá làm đau hồn vàng  

Quyên ca khản giọng cuối đường

Tháng tư bao nét sầu thương vỡ nguồn …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)
    1 – 4 – 2024

GIAO CHỈ SAN JOSE

Bài số 1, Quốc Hận 2014

Xem tiếp bài số 2  (The heroes next door)

Tháng 4 và bia đá tưởng niệm.

Bài viết năm 2014 của Giao Chỉ. San Jose.

Lễ khánh thành bức tường tưởng niệm bảy vị anh hùng tuẫn tiết 30 tháng tư 1975 tổ chức 10 giờ sáng thứ bảy ngày 5 tháng 4-2014. Tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose CA 95112. Lối vào chính số 633 trên đường Phelan San Jose. Tôi riêng nghĩ rằng dù gọi là bức tường nhưng ý nghĩa như một mộ bia tập thể cho 7 vị anh hùng. Gọi là khánh thành nhưng mang hình thức một ngày tang lễ muộn màng gần nửa thế kỷ. Tôi viết bài này tặng cho các bạn trẻ đã hoàn tất một công tác ý nghĩa từ cả hai cõi âm dương. Người góp công đầu là cô Hoàng Mộng Thu.

Tháng tư 75, năm cùng tháng tận.

Tháng 4 năm 2014 tại Hoa Kỳ tôi ghi lại chuyện 39 năm về trước. Cuối tháng 12 năm 1974  Bắc quân dốc toàn lực tổng tấn công miền Nam. Trận mở đầu thăm dò đánh Phước Long. Địch vừa đánh vừa nhìn qua Hoa Thịnh Đốn. Hoa Kỳ án binh bất động. Sau Paris, tù binh đã trở về, quốc hội Mỹ quay lưng nhìn về hướng khác. Khi Sông Bé, thị trấn đầu tiên của Nam Việt Nam kêu cứu. Saigon chỉ còn trong tay một phần của liên đoàn 81 để gửi lên tiếp viện. Những người lính biệt kích anh hùng mỏi mệt vừa từ mặt trận Phước Thành được kéo về tưởng chừng sau 3 tháng hành quân nay tạm nghỉ. Nào ngờ lại được trực thăng vận xuống giữa vùng lửa đạn để đánh trận tuyệt vọng tại Phước Long. Ngày 6 tháng 1 năm 1975 Phước Long hoàn toàn thất thủ. Đây là trận mở đầu cho cuộc chiến tranh kết thúc. Kể từ Genève 54 chia đôi đất nước, sau 21 năm từ chiến tranh chính trị đến chiến tranh quân sự, miền Nam lại thua trận chỉ trong 3 tháng mở đầu của năm 1975.

Sau Phước Long, Saigon trải qua cái tết 75 buồn bã rồi cùng một lượt các chiến trường nổ súng. Ngoại trừ miền Tây tạm yên, các mặt trận đều bị tấn công. Từ miền Đông, lên cao nguyên, xuống duyên hải và ra miền Trung. Năm sư đoàn cộng sản tấn công Ban Mê Thuộc ngày 1 tháng 3-1975. Ngày 8 tháng 3-1975 thêm 5 sư đoàn cộng sản tấn công Huế, cùng 1 lượt 3 sư đoàn đánh vào Quảng Ngãi.

Riêng Ban Mê Thuộc hoàn toàn do cộng sản kiểm soát ngày 14 tháng 3-1975. Qua ngày hôm sau tổng thống Nguyễn văn Thiệu ra Cam Ranh đưa quyết định bất hạnh nhất của đời binh nghiệp khi ra lệnh rút quân đoàn II. Tiếp theo là một loạt các lệnh bất thường cho quân đoàn I.

Hà Nội vừa đánh vừa thăm dò Hoa Thịnh Đốn. Saigon vừa rút lui cũng vừa thăm dò Hoa Thịnh Đốn.

Mọi việc không còn như xưa. Ngân khoản viện trợ cuối cùng của Hoa Kỳ chỉ đủ dành để cất lều và dự trù nuôi ăn cho hàng ngàn người tỵ nạn đến Mỹ. Qua tháng 4 phòng tuyến cuối cùng của Saigon tan vỡ tại Xuân Lộc. Sau khi ban hành những quyết định sai lầm tai hại khôn cùng, tổng thống Thiệu từ chức với bài diễn văn oán trách đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng ông cũng vẫn được đồng minh chở đi kịp thời ra khỏi nước. Phó tổng thống Trần văn Hương lên cầm quyền cố giữ cho đủ 1 tuần rồi thể theo yêu cầu của quốc hội giao quyền cho đại tướng Dương văn Minh.

Lúc đó nước đã đến chân, không còn giải pháp nào để lựa chọn. Hải quân VNCH trước khi ra khơi lần cuối đã cử đề đốc tham mưu trưởng Diệp Quang Thủy lên gặp ông Minh để mời xuống tàu. Đại tướng Minh với chút khí phách Nam Kỳ đã từ chối để ở lại nhận ngàn cân tủi nhục. Lúc đó là chiều 29 tháng 4-1975.

Cũng vào chiều 29 tháng 4-1975 được tin vợ con đã vào Tân Sơn Nhất để di tản, tướng Phạm văn Phú, tư lệnh quân đoàn II uống thuốc tự vận tại nhà. Trên đường vào phi trường, được tin chồng tự vẫn, bà Phú và con quay trở về đưa chồng vào nhà thương Đồn Đất (Grall).

Sáng 30 tháng 4 khi tướng Minh còn đang soạn bài kêu gọi buông súng, tướng Phú đã qua đời. Ông chết trước khi có lệnh đầu hàng. Tướng tư lệnh quân đoàn II tự vẫn để trả món nợ của riêng ông về trách nhiệm mặt trận cao nguyên.Tướng Phạm văn Phú, nguyên là tù binh trận Điện Biên Phủ, quê Hà Đông, khi chết ông 47 tuổi. Ông ra đi trước khi chiến tranh chấm dứt được vài giờ. Gia đình đã trở lại chôn cất ông và sau đó kẹt lại tại Việt Nam.

Bia đá tưởng niệm.

Những cái chết anh hùng.

Trong lịch sử kháng Pháp của dân tộc Việt đã có biết bao nhiêu anh hùng tuẫn quốc. Năm 1867 trong Nam có cụ Phan thanh Giản tự vẫn để nhận tội làm mất 3 tỉnh miền Tây. Năm 1873 cụ Nguyễn Tri Phương tự vẫn ở ngoài Bắc, tiếp theo năm 1882 tổng đốc Hà Nội, cụ Hoàng Diệu tự vẫn vì không giữ được thành.

Chuyện bây giờ ở thời cận đại là cái chết của các anh hùng Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 4-1975. Trong cái tháng 4 oan nghiệt đó hàng trăm quân cán chính đã tự vẫn. Tuy nhiên để ghi nhận vào bảng vàng, bia đá, chúng ta cần có đủ hình ảnh, nhân chứng, tài liệu thật chính xác.

* Cái chết mở đầu trước giờ cuối cùng của cuộc chiến là của thiếu tướng Phạm văn Phú. Tiếp theo ngay sau khi đại tướng Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng trưa 30 tháng 4-75 thì người tự vẫn công khai và đầu tiên là trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long, quê ở Huế 56 tuổi. Ông tự tử bằng súng lục lúc 11:30 ngay trước tượng thủy quân lục chiến Việt Nam, ngó qua quốc hội. Những người vô danh và anh nhà báo Pháp chở xác ông vào nhà thương Đồn Đất của Pháp. Tình cờ tướng Phú cũng chết tại nhà thương này vào buổi sáng cùng ngày.

Trong khi tại Saigon có 2 chiến binh tự sát thì trung tá Đỗ Đình Vượng dẫn trung đoàn về bộ tư lệnh sư đoàn 5 tại Bến Cát. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ tư lệnh sư đoàn mời các sĩ quan tập trung về ăn cơm trưa. Mọi người không còn ai bình tĩnh mà ăn uống. Riêng ông Vỹ ăn đủ 3 bát cơm thường lệ rồi cho lệnh các đơn vị trưởng tùy nghi. Ông lui vào phòng riêng dùng súng tự vẫn. Ông là người thứ ba.

Tướng Lê Nguyên Vỹ quê Sơn Tây chết năm 42 tuổi. Vợ con di tản qua Mỹ mấy tháng sau mới biết tin. Gia đình sau này bốc mộ đem về quê cũ tại Sơn Tây, Bắc Việt. Bàn thờ ông để trong đình làng ghi rõ là Lê tướng công, tư lệnh sư đoàn số 5 quân đội Saigon.

Người thứ tư tuẫn tiết bằng thuốc độc là chuẩn tướng Trần văn Hai tư lệnh sư đoàn 7 tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Trước khi ra đi vào chiều 30 tháng 4-1975 tướng Hai có điện thoại từ giã tướng Hoàng văn Lạc tư lệnh sư đoàn 9. Ông Hai quê Gò Công, qua đời năm 50 tuổi.

Người thứ năm là tướng Lê văn Hưng, tư lệnh phó quân đoàn 4, tự vẫn bằng súng vào buổi tối 30 tháng 4-1975. Ông Hưng lúc qua đời có đông đủ vợ con và các sĩ quan cận vệ. Lúc đó khoảng 9 giờ tối. Ông quê ở Gia Định và ra đi năm 42 tuổi.

Vị tư lệnh quân đoàn 4, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam đã sống 1 ngày 30 tháng 4 rất dài. Riêng ngày 29 ông đã nhận lệnh đón phái đoàn chính phủ VNCH từ Saigon xuống, nhưng rồi lệnh hủy bỏ. Suốt ngày 30 tháng 4, ngay sau lệnh đầu hàng ông đã có dịp gặp phái đoàn cộng sản 2 lần nhưng rồi lại cho biết chưa sẵn sàng. Chiều 30 tháng 4 ông còn đi thăm thương binh tại quân y viện Phan thanh Giản. Qua đêm không ngủ, sau khi thắp hương thỉnh chuông lạy Phật, tướng Nguyễn Khoa Nam lấy súng lục tự tử vào sáng 1 tháng 5-1975. Ông Nam sinh quán Thừa Thiên, chết độc thân năm 48 tuổi.

Người sau cùng ghi danh trên bảng tưởng niệm là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông Cẩn chiến đấu đến giờ phút cuối trong ngày 30 tháng 4-1975 và bị bắt tại Chương Thiện. Ông là một trong các sĩ quan đã tiếp tục chiến đấu. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị bắt giam, bị tra tấn hành hạ suốt 4 tháng. Ông bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 4 tháng 8-1975. Ông Cẩn quê Rạch Giá, khi qua đời trẻ nhất 37 tuổi. Cùng bị xử bắn có 4 vị quận trưởng Chương Thiện và các trưởng ty. Tiểu khu Chương Thiện quyết chiến đến giây phút cuối nên bị xử bắn nhiều nhất.

Bia đá tưởng niệm.

Bia Đá ngàn thu.

Trong chiến sử thế giới, hai bên tử sĩ hy sinh là chuyện thường tình. Khi nước Nhật bại trận, các sĩ quan theo tinh thần võ sĩ đạo truyền thống, nhiều người tự vận. Chuyện này đã được thế giới biết đến.

Tuy nhiên, sau chiến tranh Việt Nam, con số sỹ quan, và chiến binh tự vẫn hàng trăm người, quả thực là điều đáng kính phục. Đặc biệt là cái chết của cấp chỉ huy. Xúc động vì những hy sinh cao cả đó, biệt đoàn văn nghệ Lam Sơn tại San Jose đã vận động gây quỹ và lập bức tường tưởng niệm để hình ảnh các anh hùng QLVNCH được lưu lại với bia đá ngàn thu. Nguyên khối đá chính nặng 8 ngàn pounds. Tất cả 3 khối đá, bệ đá và khối cement chân bệ tổng cộng trên 30 ngàn tấn. Trên bia đá khắc hình ảnh 7 vị anh hùng. Hai bên là lời tri ân bằng Anh ngữ và Việt Ngữ. Khối đá quý như là 1 loại cẩm thạch vĩ đại từ Ấn Độ được cắt sẵn theo kích thước và chở qua California. Tại xưởng làm mộ bia có máy tạo hình. Lại thêm chuyên viên từ Phi Luật Tân làm bằng tay hình ảnh 7 vị anh hùng VNCH. Phía sau là hình bóng các chiến binh Việt Nam.

Bia đá tưởng niệm.

Lễ khánh thành

Buổi lễ khánh thành là 1 ngày hết sức đặc biệt với sự tham dự của các quan khách Việt Mỹ. Ban tổ chức đã phổ biến thư trên báo chí, radio, TV và trên internet. Địa điểm tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose- CA 95112. Lối vào trên đường Phelan từ 10 giờ sáng thứ bảy ngày 5 tháng 4-2014. Quý bà, quý cô mặc áo dài, quý vị cựu quân nhân mặc quân phục. Chương trình  thực hiện bằng Anh và Việt ngữ.

Mở đầu nghi lễ chào cờ mặc niệm do toán quốc quân kỳ của US Army. Ban quân nhạc Hoa Kỳ hòa tấu quốc ca Hoa Kỳ và quốc ca Việt Nam Việt Nam Cộng Hòa. Phần nghi lễ quan trọng nhất là việc mở các tấm vải phủ trên bức tường. Ban tổ chức thực hiện 7 bóng bay lớn có viết chữ thảo danh tánh các vị anh hùng.Theo thứ tự ngày giờ hy sinh từng trái bóng và hương linh anh hùng sẽ bay lên trời xanh.

Mỗi bóng bay lên là có súng nổ. Khởi đầu là tướng Phạm văn Phú và sau cùng là đại tá Hồ ngọc Cẩn. Phần ý nghĩa nhất cần ghi nhận là lần đầu tiên ban tổ chức mời được tất cả đại diện các gia đình của 7 vị anh hùng từ bốn phương về tham dự. 7 vị tướng lãnh và cấp chỉ huy có danh trên bảng tưởng niệm đã trở thành các anh hùng bất tử tượng trưng cho cả QLVNCH. Đặc biệt các cựu chiến binh của quân đoàn 4, của sư đoàn 7, của tiểu khu Chương Thiện, của sư đoàn 5 BB, của cảnh sát quốc gia đều có thể tìm thấy ý nghĩa thiêng liêng, một chút riêng tư trong tình huynh đệ chi binh.

Bài báo này xin gửi đến các bạn như là 1 bản báo cáo và 1 lời ân tình.Bên cạnh bức tường tưởng niệm, còn có 1 biểu tượng hết sức ý nghĩa. Có thêm phần triển lãm một mộ bia lấy từ nghĩa trang quân đội đem về năm 2004.

Nếu chưa từng về thăm nghĩa trang quân đội, các bạn sẽ có dịp ghé đến đây thắp 1 nén hương cho người anh hùng tử sĩ vô danh. Một bia mộ đặt ngay tại Việt Museum nhân dịp khánh thành bức tường tưởng niệm. Đây là lễ giỗ 30 tháng 4 dành cho các anh hùng tuẫn tiết. Lễ giỗ muộn màng mà cộng đồng làm chung với gia đình tang gia 39 năm sau. Mọi người đến 1 lần với buổi lễ và sẽ nhớ suốt đời vì đã mang ý nghĩa thiêng liêng nối kết mối liên hệ giữa người ra đi trong lòng đất quê hương và người ở lại hải ngoại đến giây phút này. Bia đá đợi chờ, 39 năm sau.

I SỐ 2,

NHỮNG NGƯỜI HÀNG XÓM ANH HÙNG (The heroes next door)                                                                                            Giao Chỉ, San Jose.    

Lang thang đất lạ đến bao giờ? Trong trách nhiệm hoàn tất Viện bảo tàng thuyền nhân và Việt Nam Cộng Hoà chúng tôi đã xây tượng đài tưởng niệm và có bài viết về những tướng lãnh anh hùng tuẫn tiết 50 năm trước. Lại thêm có một danh sách do quý vị công phu ghi nhận các chiến binh tự vẫn mới nhận được. Bây giờ xin tâm sự chuyện riêng.Tháng tư năm 2024, chỉ còn một năm nữa là nửa thế kỷ. Anh chị em chúng ta, đã cùng trải qua biết bao hoàn cảnh. Nhưng nhà nào mà không mất mát. Riêng phần tôi đã nghĩ rằng m ình trải qua nửa thế kỷ trầm luân. Bây giờ ngồi viết Tâm Sự Vụn. Thời gian cuối năm 1975 gia đình tôi trôi dạt về xứ Springfield của tiểu bang Illinois, ông Giao Chỉ đi làm thợ sơn gầm xe tải để chống rỉ sét. Bên Cali có ông thi sĩ Cao Tần xuất bản tờ Bút Lửa. Ông viết ra những lời thơ bất hủ nói đến những chiến binh Việt Nam Cộng Hoà độc thân lạc đường vào đất Mỹ. Các chàng trai chiến binh tuổi 20 chưa vợ hay bỏ vợ ở quê nhà. Các anh nhớ về binh chủng , nhớ thời chinh chiến và nhớ gia đình nên đã được thi sĩ tặng cho câu thơ bất hủ: Hỡi người chiến binh một đời anh dũng, anh lang thang đất lạ đến bao giờ? Câu thơ cay đắng nghìn trùng . Câu thơ vô cùng nghiệt ngã trở thành tiếng chim gọi đàn đem ông Giao Chỉ 40 tuổi về đất San Jose. Rồi những anh lính già gặp nhau cùng họp đoàn với những anh lính trẻ. Sống bên nhau trên đất mới hầu hết những quân nhân một thời binh lửa đều vui vẻ lễ độ và hiền lành. Bỏ lại sau lưng tiếng đại bác và những đêm hỏa châu rực lửa. Biết bao lần họp mặt vẫn nhớ về tình chiến hữu. Kẻ lưu vong, người tù đầy. Bước chân đi, mặt còn nhìn lại. Nơi quê nhà xiềng xích trông theo..Chúng tôi họp mặt và cùng nhau xây dựng cộng đồng. Gặp ông Bùi đức Lạc thành lập Gia đình Mũ Đỏ. Nguyễn quan Vĩnh và Lê văn Thặng là có hội Không quân. Rồi đến hội Hải Quân. Hội cựu quân nhân, hội phụ huynh. Hướng đạo.Chúng tôi thành lập cộng đồng Việt tại San Jose. Hết sức hãnh diện nêu cao lý tưởng Xây dựng Cộng đồng và Giải phóng quê hương.

Bạn bè hàng xóm mới. Thời kỳ cuối thập niên 70 chúng tôi ở tuổi 40, bạn bè nào cũng toàn là bạn mới. Chỉ có vài ông bạn cùng khóa ở tuổi trung niên. San Jose trở thành một xóm làng mới mẻ và anh em chưa biết rõ về quá khứ của nhau.. Phải đến thập niên 90 mới có dịp tìm hiểu thêm nên ghi nhận biết bao nhiêu bạn bè đã trải qua những thời binh lửa đoạn trường. Bác trung tá Đỗ Hữu Nhơn đã từng nhảy vào chiến khu của cha Hóa lúc còn là trung úy.Trung tá phi công Nguyễn Quan Vĩnh đã bao phen đánh trận Bình Giả Đồng Xoài không yểm cho cả Nhảy Dù cùng Thủy quân Lục chiến. Anh cũng chính là anh hùng không quân được tuyên dương và dẫn phái đoàn đi du ngoạn Đài Loan. Còn bác pháo binh dù Bùi đức Lạc đã từng được ông bạn lữ đoàn trưởng hết lòng khen ngợi đã bao phen đi sát với lữ đoàn Mũ Đỏ trên khắp chiến trường. Chúng tôi sống với nhau trong xóm làng San Jose mà phải lâu năm mới biết đây chính là các người anh hùng hàng xóm. Kiểu Hoa Kỳ vẫn gọi The heroes next door. Những anh hùng ở nhà bên cạnh. Ở miền đất điện tử hiền lành trong tiểu bang CA, chúng tôi có may mắn đóng vai thân hữu với các giới chức dân cử địa phương. Cũng chẳng phải ảnh hưởng nhiều về đóng góp tài chánh hay vận động cử tri thân hữu. Chính thức chỉ là tình nghĩa lâu dài.

Tình thân dân cử địa phương

Ngày mới đến gặp cô Zoe Lofgren là sinh viên luật trẻ tuổi làm tình nguyện cho vị dân cử địa phương. Quen biết lâu dài trên 30 năm cho đến khi người đã thành bà dân biểu lão thành và kỳ cựu trong nghị trường. Trường hợp ông Dave thượng nghị sĩ CA và bà giám sát viên Cindy của County cũng là cánh quen biết từ khi quý vị mới bước chân vào các chức vụ học khu không lương.  Nhờ sự quen biết trên nhiều thập niên nên Tết năm nay Giáp Thìn 2024 chúng tôi lập được thành tích đầy hãnh diện. Nhân danh cơ quan dịch vụ di dân tị nạn tại địa phương trên 48 năm chúng tôi đã yêu cầu chức quyền dân cử tuyên dương 11 nhân vật cộng đồng.IMG_2484[1].JPG

San Jose City:

Thị trưởng thành phố San Jose tuyên dương 2 nhân vật.Bà Nguyễn Thị Đào và mục sư Hà Cẩm Đường.Thành tích phi thường có một không hai là người nữ quân nhân yêu thương Tượng Lính nhân dịp về tảo mộ ngh ĩa trang Biên Hòa đã tìm cách dựng lại bức tượng Tiếc Thương và đem được qua Mỹ. Tượng được đặt tại Việt Museum. Phần mục sư Hà Cẩm Đường vốn là cựu quân nhân vượt biển tốt nghiệp mỹ thuật đã đem cống hiến tất cả các tác phẩm hội họa về thuyền nhân cho viện bảo tàng.

Santa Clara County

Tiếp theo bà Giám sát viên Cindy của Santa Clara County đã tuyên dương hai gia đình các anh Lại Đức Hùng và Phạm Phú Nam. Cả hai ở tuổi trung niên đã đóng góp trên 30 năm công tác cộng đồng cho thung lũng điện tử San Jose. Hai anh ra đi đã để lại rất nhiều thương tiếc cho bà con ở lại.

State of California

Lên đến phần tưởng lệ từ thủ đô CA tại Sacramento, thượng nghị sĩ Dave Cortese trao danh dự cho 3 vị trung tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trung tá lực lượng đặc biệt Đỗ Hữu Nhơn, trung tá pháo binh nhảy dù Bùi Đức Lạc và trung tá phi công Nguyễn Quan Vĩnh. Đây là lần đầu tiên từ quốc hội tiểu bang vàng CA có ngoại lệ tuyên dương những người anh hùng trong chiến tranh Việt Nam mà vẫn còn tiếp tục hoạt động cho cộng đồng Việt tại Hoa Kỳ.

Quốc Hội Hoa Kỳ

Sau cùng đến phần tuyên dương kỳ diệu do bà dân biểu niên trưởng của chính trường Hoa Kỳ lần đầu tiên tuyên dương trường hợp anh hùng đã ra đi và anh hùng còn ở lại. Bản tuyên dương Việt Dzũng và vợ là Nguyễn Hoàng Anh với thành tích tuyệt vời. Các bạn trẻ này đã để lại cho người Việt hải ngoại những món quà tinh thần để gửi về quê hương. Đôi nạng của Việt Dzũng đã được người vợ Hoàng Anh và tổ chức Hưng Ca Huỳnh Lương Thiện San Fran đem về đặt tại Việt Museum. Bản tuyên dương thứ hai dành cho một nhân vật rất đặc biệt. Sĩ quan QLVNCH Huỳnh Công Ánh đã từng được mang danh chiến sĩ anh hùng và trở thành người tù bất khuất trong trại tù cộng sản. Thành tích đáng kể là ông đã vượt ngục và vượt biển thành công sau bao nhiêu gian khổ.

Qua đất Mỹ ông trở thành người thành công xây dựng sự nghiệp và thành tích đáng kể khi ông trở thành nhà tranh đấu bằng văn hóa qua tổ chức Hưng ca. Người thứ ba được quốc hội Hoa Kỳ tuyên dương là đại úy Nguyễn Hữu Luyện, gia nhập quân đội năm 1954 tại trường võ bị Đà Lạt và về phục vụ binh chủng nhảy dù. Năm 1966 đang là huấn luyện viên biệt kích nhảy Bắc, ông tình nguyện hướng dẫn các học viện cảm tử nhảy toán ra Bắc. Cũng như nhiều toán viên thử thách trắc nghiệm, toán của ông không thành công và đại úy Luyện trở thành người tù biệt giam suốt 21 năm. Ngay sau khi được qua Mỹ ông đã trở thành sinh viên cao học của đại học Hoa Kỳ tốt nghiệp ở tuổi cao niên. Ông năm nay đã 91 tuổi được bà dân biểu cao niên tuyên dương. Người sau cùng được tuyên dương cũng là nhân vật không còn nữa. Bản tuyên dương được bà dân biểu chính thức đọc trước cử tọa nguyên văn như sau. Certificate of special congressional recognition presented on Feb. 17-2024 to admiral Hoàng Cơ Minh for his nobility bravery and endurance commitment to his country in the pursuit of freedom.

Giấy chứng minh việc công nhận đặc biệt của Quốc hội trao vào ngày 17 tháng 2-2024 dành cho đề đốc Hoàng Cơ Minh vì lòng dũng cảm cao cả và sự cam kết bền bỉ với đất nước trong việc theo đuổi Tự Do.   Ký tên Zoe Lofgren, thành viên quốc hội Hoa Kỳ  

   Bà Zoe Lofgren đã từng được mệnh danh là nhà đấu tranh số một cho dân sinh Hoa Kỳ và dân quyền tại Việt Nam. Rất nhiều các chiến sĩ dân quyền Việt Nam đã được bà can thiệp và đưa qua Mỹ cũng như bước ra khỏi nhà tù tại Việt Nam.Tuy nhiên bà không thể biết ông Minh là ai. Với tình thân cá nhân và nhân danh Viet Museum, chúng tôi không nói chuyện với bà dân biểu hôm nay. Xin trở lại thời xưa, tôi nói với cô sinh viên luật khi cô còn đang tập sự và nghiên cứu cả đống hồ sơ quốc hội muốn tiễn đưa tổng thống Nixon. Xin kể rằng ngày quốc hận 2023 bà đích thân đọc tiểu sử các tướng lãnh Việt Nam tuẫn tiết tổng cộng 5 người. Có biết bao tướng lãnh Việt Nam bị tù đầy và bao nhiêu người khác di tản kịp thời tại Hoa Kỳ. Nhưng trước sau chỉ có 5 người tuẫn tiết.Tôi muốn có thêm hình ảnh của đề đốc Hoàng Cơ Minh là người thứ sáu trong Việt Museum. Khi loan tin chuyện ông Minh, không thấy tiếng dèm pha hay tán thưởng. Duy chỉ có bác Hoàng Cơ Lân bên Pháp tỏ ý vui mừng vì ông Minh lại là bà con bề trên của ông bác sĩ Lân.  

Trường hợp Hoàng cơ Minh

434864358_7987828237913717_6205863428082247246_n.jpg

                              Ông là người duy nhất tự vẫn trên đường trở về. Thưa quý vị chúng tôi sống đến ngày hôm nay để trả nợ ân tình giữa anh em hàng xóm láng giềng. Đất nước biết bảo anh hùng, thôi thì ghi danh được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ông tướng Nguyễn Khoa Nam đến tối 30 tháng tư năm 1975 đã được tin tướng Phú quê Hà Đông 47 tuổi đã ra đi tại Sài Gòn vào buổi sáng, tướng Lê Nguyên Vỹ 42 tuổi quê Sơn Tây miền Bắc chết vào buổi trưa ở Lai Khê. Tướng Trần văn Hai 50 tuổi quê Gò Công tự vẫn tại Đồng Tâm và tướng Lê văn Hưng 42 tuổi quê Gia Định chết vào buổi tối ngày oan nghiệt tháng tư 49 năm xưa. Vị tư lệnh Nguyễn Khoa Nam quê Thừa Thiên đất Huế đã trải qua một đêm không ngủ với câu hỏi lại chính mình.  Đi để làm gì? Thắp một nén hương, thỉnh một hồi chuông trên bàn thờ Phật.Một phát súng nổ.Ông Nam là vị tướng thứ 5 sau cùng ra đi vào sáng 1 tháng 5-1975. Bây giờ tôi muốn xin đại diện quốc hội Hoa Kỳ tuyên dương vị tướng thứ 6. Đề đốc Hoàng cơ Minh, người đã gián tiếp làm MC cho bản trường ca về chuyến hải trình cuối cùng cứu đồng bào vượt biển và đem trọn vẹn đoàn tàu trả lại cho đồng minh Hoa Kỳ. Với khẩu hiệu Kháng chiến hay là chết. Ông là vị tướng duy nhất tự tử trên đường trở về. Hoàng cơ Minh quê Hà Nội chết bên Hạ Lào nhưng sau cùng kẻ thù đã đem xác ông về lại quê hương. Ông là vị tướng duy nhất được nước Mỹ tuyên dương sau nửa thế kỷ di cư tị nạn trầm luân

Nhân ngày cảm ơn nước Mỹ năm 2024 chúng tôi có được 11 bản tuyên dương thân hữu, 10 bản để tại Việt Museum. Các phó bản đều gửi cho các hàng xóm anh hùng. Chỉ riêng bản của đề đốc Hoàng Cơ Minh chưa biết làm sao gửi cho phu nhân.

Xin trân trọng báo cáo: Chúng tôi đã giải xong món nợ ân tình nửa đời người lưu vong. Tuyên dương 11 người thay cho cả ngàn anh hùng chung quanh chúng ta. Cuộc sống thừa không vô ích. Hỏi anh lính già một đời vất vả, mày lang thang đất lạ đến bao giờ. Mai này về thăm quê vợ sẽ gặp ông Nam ở Cần Thơ. Ông hỏi Đi để làm gì ? Sẽ có sẵn câu trả lời. Đâu có phải ra đi mà không biết làm gì cho hết nửa đời sau…

 Xin trân trọng báo cáo. Giao Chỉ San Jose.–

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393




THƠ MẶC KHÁCH: TÌNH CHIẾN HỮU & THƠ HỌA


TÌNH CHIẾN HỮU

*

Tóc đã sương pha, Kính bạn già

Chút tình tỵ nạn chớ phôi pha

Văn chương thi phú luôn gìn giữ

Nghệ thuật Tranh Thơ vẫn thiết tha

Quân sử ghi ơn hồn tuấn kiệt

Cờ vàng thấm máu khúc quân ca

Sử xanh còn đó đời nô lệ

Thức tỉnh lòng dân giữ nước nhà

Mặc Khách 

*

MỘT KIẾP CHINH NHÂN

 (Bài họa )

Quê người tỵ nạn khổ thân già,

Mái tóc giờ đây đã muối pha.

Khổ luỵ quê hương luôn mãi nghĩ,

Hận thù đất mẹ chẳng hề tha.

Quân hành vẫn nhớ hùng câu hát,

Chính khí còn nghe rộn tiếng ca !

Một kiếp chinh nhân tình chiến hữu…

Lòng son tưởng niệm mãi quê nhà !

Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân

*

TÌNH ĐỒNG ĐỘI 

(Bài họa)

Ôi tình chiến hữu mãi không già !!!!

Nhớ thuở nâng ly rượu máu pha.

Đồng đội, thề nguyền – nên gắn bó;

Kẻ thù, nhất quyết – chớ dung tha.

Cam tâm cuốn vó, quân Nam tủi;

Khoái chí vung cờ, giặc Bắc ca.

Nước mất, nhà tan, thân “cải tạo”;

Lưu vong đất khách nhớ quê nhà.

Thảo Chương Trần Quốc Việt




VĂN: “MÌNH ƠI!” & “THÚ HÓA KIẾP LÀM NGƯỜI” – Hoàng Thị Quỳnh Hoa

MÌNH ƠI!

Đố ai biết hai từ thân thiết dễ thương ni là ai gọi ai, người nữ gọi người nam hay người nam gọi người nữ? Bạn đoán đúng rồi. Người nữ hay người nam đều dùng hai từ ni được để gọi nhau. Nhưng là hai nam nữ đã cưới nhau, thành vợ thành chồng rồi mới dùng hai từ ni được! Mà phải sống với nhau một thời gian dài nữa kìa, đồng cam cọng khổ nhiều năm mới được chứ mới cưới nhau thì không ai dùng hai chữ mình ơi. Chỉ là bồ bịch, dù thân thiết lắm, cũng không dùng được, phải không?

Người Việt may mắn chỉ có một tiếng nói từ Bắc vô Nam, chỉ khác nhau cái giọng thôi. Không như nhiều nơi, trong một nước mà có nhiều ngôn ngữ khác nhau như Ấn Độ, Trung Hoa. Mà không ai biết tại sao mỗi miền lại có giọng nói (accent) khác nhau, là ảnh hưởng của khí hậu, địa dư hay, hay nước uống hay gồm cả ba! Tiếng Việt rất súc tích, phong phú, đa dạng, rõ ràng. Thí dụ  người Anh hay Mỹ chỉ có chữ you để chỉ ngôi thứ hai, số ít hay số nhiều thì cũng chỉ một chữ you nghèo nàn! Người Pháp thì có vous, thân mật thì tu cho ngôi thứ hai số ít, còn người Tàu chỉ độc một chữ nị. “Ngộ ái nị” (I love you). Nị hayYou ở đây có thể là người yêu, người cha, người mẹ, người thầy, người bạn, người bà con v.v. Trong khi tiếng Việt ta, để chỉ rõ mối quan hệ giữa mọi người, có rất nhiều từ khác nhau, đôi khi phân biệt từng miền nữa. Nói đến cha mẹ, người Bắc gọi thầy mẹ, thầy u, thầy bu, cậu mợ…. Người Trung gọi  cha mẹ, ba mạ, chú mạ, bố mẹ, hay còn gọi bọ mạ. Người Nam gọi ba măng (Việt hóa tiếng Pháp), ba má, tía má (Việt hóa tiếng Hoa)…  Để chỉ rõ vai vế của bà con, họ hàng, ta có cả một hệ thống tên gọi bên nội, bên ngoại, bên vợ, bên chồng tràng giang đại hải mà không cách chi dịch qua tiếng Anh, tiếng Pháp được! Lấy một thí dụ, người Bắc gọi anh, chị của cha mẹ và người phối ngẩu của họ là bác để chỉ người vai vế lớn hơn mà không phân biệt bên vợ hay chồng, đàn ông hay đàn bà, hay người ngoại tộc. Chú thím là để chỉ em trai và vợ của cha, cô chú thì là em gái và chồng của cha. Người Trung thì phân biệt nội ngoại. Phái nữ bên nội thì gọi o là chị hay em của cha. Chồng của chị cha thì là bác. Anh hay em trai của mẹ đều là cậu, vợ của cậu là mợ nên khi nghe gọi thì không biết cậu vai lớn hơn hay nhỏ hơn mẹ! Dì để gọi chị hay em gái của mẹ:

               Chết cha còn chú,

               Chết mẹ thì bú vú dì!

Chồng của dì là dượng. Dường như ngày nay người ta không muốn dùng chữ ‘dượng’ vì chữ ‘dượng’, có nghĩa ngầm không được đẹp vì cũng được dùng để gọi người chồng sau của mẹ. Vợ sau của cha thì là dì ghẻ, hay mẹ ghẻ nhưng chồng sau của mẹ không là cha ghẻ mà là dượng ghẻ, là người dưng không thân thiết chi với mình.

Nay nhiều người cho chữ ‘o’ có vẻ quê nên chuyển sang ‘cô’, ‘bác’ như người Bắc. Tôi thì rất thương chữ ‘o’ vì đã gọi vậy từ khi biết nói, nghĩa là gần 90 năm rồi. Ở Huế có câu phê bình em gái, chị gái, hay em trai của chồng đối với chị dâu:

               Một trăm mụ o không chi,

               Ông chú thủ thỉ có khi mất chồng.

Đại danh từ ngôi thứ nhất (I/We, Je/Nous, Ngộ) thì ta có : tôi/chúng tôi, ta/chúng ta, tớ/chúng tớ, tau/tụi tau, hay người Nam dùng chữ ‘qua’ rất bình dân. thân tình. Tùy đối tượng của ta là ai mà ta chọn đại danh từ cho hợp như ông bà, cha mẹ, vợ chồng, họ hàng, người trên, kẻ dưới. Vũ Hoàng Chương than thở:

               Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa,

               Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh

Đại danh từ ngôi thứ ba: thầy, cô, bà nó, hắn, ai, ông ấy, bà ấy, cô ấy, chị ấy, lão ấy, thằng ấy, mụ ấy, v.v. tùy theo đối tượng liên hệ. Cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị của Huế thì dùng chữ “ai” rất gọn trong câu hò mái đẩy:

               Chiều chiều trước bến Vân Lâu,

               Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, ai nhớ, ai thương.

               Thuyền ai thấp thoáng bên sông,

               Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non.

Người đọc biết những chữ “ai” ở đây là ai nếu nhớ chi tiết lịch sử cận đại vua Duy Tân tham gia phong trào kháng Pháp. Có khi chữ ông hay bà được dùng như ngôi thứ nhất để chỉ tâm trạng của chủ nhân mệnh đề ấy như nhà thơ châm biếm Tú Xương trong bài thơ Chúc Tết:

              Người bảo ông điên, ông chẳng điên,

              Ông thương ông tiếc hóa ông phiền.

              Kẻ yêu người ghét hay gì nữa,

              Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền!

Hay chữ bà trong câu hát:

               Bà bảo bà không cho con bà đi hát đâu,

               Con gái tốt lành ai cho đi mà xem hát chèo!

Ta có nhiều tỉnh từ chỉ liên hệ ứng xử, đối với vợ chồng, người yêu, họ hàng, người trên, kẻ dưới, với sếp, với đồng nghiệp, quen thân, quen sơ… Với người vai vế lớn hơn, hay cấp trên người ta thêm ‘dạ thưa, dạ bẩm’ (dạ thưa ông, dạ bẩm bà) là văn hóa cung kính người trên của xứ ta. Trong gia đình hoàng tộc, chữ mệ hay mụ được thêm trước tên để chỉ cả đàn ông lẫn đàn bà. Hồi nhỏ ở Huế, tôi nhớ người ta gọi công chúa Lương Linh, con gái vua Thành Thái, là Mệ Sen. Sen là nickname của bà. Bảng xe hơi của bà thì ghi rõ Princess Lương Linh nên tôi mới biết tên tộc của mệ! Em trai Mệ Sen là Mệ Kha. Tôi biết vì ông hoàng tử này cưới bà chị họ tôi. Dì tôi có khi gọi ông con rể là Mụ Kha. Mệ cũng là từ thân thiết để gọi bà nội, bà ngoai hay những người đàn bà lớn tuổi. Còn chữ ôn thì để chỉ ông nội, ông ngoại hay người đàn ông lớn tuổi một cách thân tình. Người Nam thì chỉ dùng một chữ Ngoại hay Nội rất dễ thương để chỉ ông bà nội, ngoại nhưng ta không biết là ông hay bà! Chữ mụ cũng được người Huế dùng để chỉ người đàn bà lớn tuổi bán chè, bán cháo hay người đàn bà ăn xin. Người con gái chưa chồng thì được gọi là chị, cô:

               Ba cô đội gạo lên chùa,

               Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư…

Hay đôi khi là o:

               O kia tát nước đầu đình,

               Cớ sao o múc ánh trăng vàng o đổ đi!

Người con gái buôn gánh bán bưng hay làm thuê làm mướn cũng được gọi o. O ở đây khác với o là em hay chị của cha. Mụ cũng là một từ thân mật bà mẹ chồng Huế gọi con dâu. Bà không gọi tên con dâu mà gọi mụ và tên con trai (mụ Đắc là vợ con trai tên Đắc). Bạn bè thân thiết thì gọi mi xưng tau. Lứa bạn tôi là U 90 cả mà gặp nhau vẫn mi mi tau tau tíu tít như những ngày còn xoan! 

Ngôi thứ ba: he/she/, il/ils, tha của Tàu thì tiếng ta cũng có nhiều cách gọi như họ, nó, hắn, cô ấy, người ấy, chị ấy, anh ấy, ông ấy, bà ấy, em ấy….  hay chỉ một chữ em như trong câu ca dao:

               Trúc xinh trúc mọc đầu đình,

               Em xinh, em đứng một mình cũng xinh!

               Trúc xinh trúc mọc bờ ao,

               Em xinh, em đứng nơi nào cũng xinh

 Chữ họ cũng thường được dùng trong văn chương:

               Họ đã đi rồi, khôn níu lại,

               Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa.         

Hai chữ người ấy thì đây:

               Người ấy thường hay vuốt tóc tôi

               Thở dài trong lúc thấy tôi vui…

Hay chỉ một chữ người như:

               Người đi một nửa hồn tôi mất,

               Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.

Hay:

               Cười người chớ vội cười lâu,

               Cười người hôm trước, hôm sau người cười.

Ta dùng: chúng nó, tụi nó, hay họ cho số nhiều. Người mình cũng phân biệt kẻ khinh người trọng trong cách xưng hô. Kính nể thì gọi chị ấy, ông ấy, bà ấy. Khinh thì thằng ấy, con ấy hay kẻ ấy (thằng kẻ trộm, kẻ cướp, thằng sở khanh…) và một chữ chúng cho số nhiều cũng được dùng. Còn nhớ mỗi khi quân ta đánh thắng quân Bắc phương thì người viết sử ghi  “ta đuổi chúng chạy về Tàu.” hay “chúng cúp đuôi chạy về Tàu.”

Hai từ sui gia hay thông gia là chỉ cha mẹ vợ, cha mẹ chồng của con mình. Thân mật thì họ dùng anh sui, chị sui để gọi nhau. Tiếng Anh dùng từ kép ‘in-law’ để chỉ liên hệ gia đình trước pháp luật. Thêm chữ in-law vào vai vế trong gia đình là ta thấy ngay liên hệ: mother-in-law, father-in-law, son-in-law… Nếu ra tòa ly dị là tức khắc chấm dứt liên hệ! Nhớ câu chuyện năm xưa, khi gặp lại một cô học trò cũ, cô giới thiệu tôi với chồng cô: “Cô giáo của em”, ông chồng – hình như cũng là giáo sư – la lên, “Cô giáo em trẻ quá mà tôi phải gọi bằng cô sao!” Tôi vội vàng an ủi, “Anh chỉ là student-in-law, không cần gọi tôi bằng cô! Chắc anh cũng vui vẻ với lời phân trần ấy!

Đôi khi bà sui gia bị gọi là mụ gia như ở miền Trung nên ca dao có câu:

             Thương chồng mà khóc mụ gia,

             Chớ tui với mụ không bà con chi!  

Có thể nói ba miền có ba ngôn ngữ hơi khác nhau nhưng tự nhiên ngôn ngữ miền Bắc được xem là chuẩn. Có lẽ vì ngày xửa ngày xưa, một thời gian dài, nước Việt ta chỉ là một vùng nhỏ ở châu thổ sông Hồng Hà. Mãi cho đến khi Nguyễn Hoàng chạy vào Nam dưới thời vua Lê và khai khẩn đất đai, tiến dần về phía Nam, chiếm đất của Chiêm Thành và Chân Lạp (một nửa nước Cao Mên), mở mang bờ cõi xuống đến tận Cà Mau thì nước ta mới có đủ ba miền như bây giờ. Viết văn cũng vậy, chuẩn thì phải viết theo tiếng Bắc. Viết thuần túy tiếng Trung hay tiếng Nam thì được coi như ngôn ngữ địa phương. Nhà văn Hồ Biểu Chánh được coi như đặc thù Nam bộ. Nữ ở miền Nam thì có bà Tùng Long. Tôi không biết nhà văn nào chuyên viết tiếng Trung. Ai biết xin chỉ giáo. Trong ca nhạc cũng thế, ca sĩ người Nam hay Trung đều học phát âm theo giọng Bắc trừ ca sĩ Trần Văn Trạch không hề đổi giọng. Ông hát rặt giọng Nam mà rất truyền cảm, rất hay. Chắc vì vậy ông được khán thính giả thương mến tặng danh hiệu Quái kiệt Trần Văn Trạch!

Cách xưng hô giữa chàng và nàng ở Việt Nam rất lý thú. Thuở ban đầu thì tôi-cô rồi đổi qua gọi tên nhau khi “tình trong như đã,” rồi anh-em khi chàng cầm được tay nàng. Sau khi thành vợ, thành chồng  thì có đôi vẫn gọi nhau anh-em cho đến răng long đầu bạc, có đôi đổi cách xưng hô gọi nhau là cha mẹ của đứa con đầu lòng, Bố cu Tèo, Mẹ bé Cưng. Những người khác thì sau một thời gian chung sống hạnh phúc, hợp tính hợp tình nên tuy hai người mà như một nên đổi cách xưng hô với tiếng mình thân thiết. chồng cũng mình mà vợ cũng mình. Mình ơi! Chữ mình nhắc tôi nhớ mấy câu ca dao tiếu lâm không biết đã được đọc ở đâu:

               Vợ mình là con người ta,

               Con mình là vợ đẻ ra,

               Nghĩ đi nghĩ lại không bà con chi!

Chữ mình ở đây là tĩnh từ sở hữu (posessive adjective), không phải như “Mình ơi.”

Ngoài chữ mình biểu hiện tình cảm của hai người, tuy hai mà một, tuy một mà hai, người Việt còn dùng hai chữ nhà tôi để chỉ vợ hay chồng mình vì họ tin tưởng chồng hay vợ là chỗ tựa vững vàng cho nhau, vững chắc như cái nhà, đem lại sự thoải mái, đầm ấm, bình an cho nhau.

“Mình ơi, em muốn đi bờ hồ” là một câu cô vợ nũng nịu nói với chồng tôi nhớ mãi từ một cuốn tiểu thuyết nào đó. Nghe câu này thôi là ta đã hình dung được một gia đình hạnh phúc đằm thắm, phu phụ thương yêu nhau, quý mến nhau, đùm bọc nhau. Mình ơi! Mình à! Còn từ nào dịu dàng hơn, êm ái hơn! À, còn một từ nữa cũng dễ thương không kém là chữ cưng của người Nam. “Cưng làm cho anh cái này. Cưng lấy cho em cái kia.”nghe rất bùi tai, ấm lòng. Nhưng người Nam dùng chữ cưng cho bất kỳ ai họ thương hay không ghét chứ không phải chỉ để chỉ người chồng hay người vợ của mình. “Mình ơi” vẫn là hai từ độc nhất mà tôi nghĩ người vợ hay chồng nào cũng muốn được nghe hay được nói mỗi ngày.

Nguyên Ngọc Hoàng Thị Quỳnh Hoa

Cali, đầu tháng 6, 2022

THÚ HÓA KIP LÀM NGƯỜI

Đầu tháng June, 2021, tôi cùng bà chị dâu đi New York City chơi. Cháu tôi ở Manhattan, nhà nhìn ra bờ sông Hudson, có thể nhìn thấy tượng thần Tự Do ở xa xa. Một buổi sáng đẹp trời, vợ chồng cháu đẩy xe lăn cho mẹ đi dạo. Tôi cũng mang mask đi theo vào Rockefeller Park dọc bờ sông rất đẹp. Nam thanh nữ tú qua lại khá đông. Rất nhiều người dẫn theo thú cưng là chó cùng đi dạo. Chó đủ cỡ đủ loại, con nào cũng quá đẹp bắt mình phải ngoái đầu nhìn lại. Có con nhỏ bằng bàn tay đứng trong cái túi trước ngực cô chủ đi xe đạp. Tôi chợt nghĩ đến mấy con chó vàng, chó vện của mình ở quê nhà, chó mực nữa, mấy con chó được nuôi không phải để làm bạn với chủ như ở xứ này!

Đã làm kiếp chó tức là không đủ phước báu để được làm người mà cũng bị kỳ thị, cũng xấu đẹp bị đối xử không công bằng. Tùy theo duyên nghiệp, chó sinh ra ở xứ này có cuộc sống khác hẳn chó sinh ra ở Trung Quốc, Đại Hàn, Việt Nam hay Căm Bốt. Và ngay ở cùng một xứ sở, số phận chó cũng thay đổi tùy theo giòng họ chó. Như con Chihuahua hay Pekingese nào ở Tàu cũng được chủ nâng niu, không như số phận của mấy con chó khác. Nhất định là vì nghiệp báo riêng của mỗi con cẩu mà số phận chúng khác nhau. Tôi thật ngạc nhiên khi tìm kiếm hình ảnh chó trên mạng, thấy rằng có 9 quốc gia cho phép dân chúng hưởng thụ thú xơi thịt cầy mà trong đó có Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ nữa, các bạn có tin không? Thật đó, bán thịt cầy cũng như ăn thịt cầy được cho là hợp pháp (legal!) ở vài tiểu bang của xứ Cờ Hoa này. Hồi tôi đi dạy ở Việt Nam có người cho tôi một con Dachshun con rất đẹp nhưng khổ một nổi là mỗi lần tôi về đến nhà, chị mừng cuống quýt, nhảy tưng bừng và té đái ở phòng khách luôn. Không thể nào dọn nước đái chó mỗi ngày nên tôi đành cho nó đi. Không biết về nhà chủ mới thì số phận nó ra sao, có dạy nó được không.  Hồi còn là sinh viên, tôi cũng có nuôi một con Fox Terrier của anh bạn cùng lớp cho. Con chó con lông trắng bé tí rất dễ thương. Bạn dặn phải giữ tên nó là Tiny và phải cắt đuôi khi nó đầy tháng. Hồi ấy ông xã tôi đang là sinh viên y khoa năm thứ Năm. Anh đem dao kéo và thuốc tê đến nhà để cắt đuôi con Tiny. Khi anh vừa chụp nó thì nó la bài hãi làm tôi hoảng quá bảo thả nó ra và ôm nó lại không cho anh cắt đuôi. Vậy là Tiny của tôi là con Fox Terrier độc nhất có đuôi không nhầm lẫn vào đâu được! Lớn lên anh chàng có nhiều đào lắm nên Tiny làm cha nhiều lần. Tiny rất khôn và sạch sẽ không bao giờ làm bậy trong nhà. Nó ở với tôi được 8 năm thì một hôm đi làm về không thấy nó, gọi thì nó ở dưới gầm giường trong phòng tôi lết ra, miệng rỉ máu. Tôi ôm nó lên. Mọi người nói chắc nó ra đường ăn gì bị độc và mấy tiếng sau thì tắt thở. Từ đó tôi không nuôi thú cưng nào nữa và vẫn thương nhớ Tiny.

Trở lại mấy con chó đẹp đẽ được chủ dắt đi dạo công viên ở Manhattan, tôi chợt nghĩ có thể kiếp sau chúng lên làm người vì kiếp chó mà xinh đẹp như vậy cũng đã được nhiều phước báu lắm mà lại được chủ cưng thì tụi nó không có cơ hội làm điều gì độc ác để gây quả báo xấu! Và vui thay, chỉ hai tuần sau tôi được đọc chuyện một cô bé ở Nhật, 2 tuổi, nhớ kiếp trước mình là con chó được nuôi trong nhà ấy. Xưa nay, giai thoại người chết chuyển kiếp thành heo, chó, dê, bò thì nhiều nhưng chưa hề thấy thú vật chuyển kiếp thành người như cô bé Nhật Bổn này. Ngày 21 June, 2021 chuyện cô bé nhớ tiền kiếp của mình được chuyển lên mạng cùng với hình ảnh mũm mĩm dễ thương của cô ở kiếp này và của con chó ở kiếp trước.  

Mẹ bé Yu-chan chia sẻ câu chuyện luân hồi của con gái 2 tuổi trên tờ “Yomiuri Shimbun,” một trong năm thời báo quốc gia của nước Nhật. Bà mẹ trẻ cho biết một ngày nọ, bé Yu-chan đang vừa đánh răng vừa trò chuyện với mẹ, bỗng thốt lên: “Yu-chan hồi trước là Mofuzou!” Rồi nói tiếp: “Đồ ăn giòn giòn cho thú cưng rất là ngon.” Bà sững sờ trân trân nhìn con vì Mofuzou là tên con chó bà nuôi lúc còn độc thân. Bà chưa từng nói với con về con chó Mofuzou mà cũng chưa cho con xem hình Mofuzou. Yu-chan nói tiếp là Mofuzou có bạn tên Mofuko cùng chơi đùa. Mẹ cô cũng còn nhớ con chó Mofuko. Bà hỏi con nhiều chi tiết về con chó Mofuzou thì cô bé trả lời đúng hết. Bà đưa ra một lô hình chụp với nhiều thú cưng thì Yu-chan nhận diện được Mofuzou liền không chút do dự.  Câu chuyện luân hồi lạ lùng này thu hút được nhiều độc giả và được giải thưởng của tờ Yomiruri năm 2016. Mẹ Yu-chan nói rằng trước kia mình không tin những chuyện kiếp trước kiếp sau nhưng từ khi trải qua chuyện này bà bắt đầu tìm đọc những chuyện trẻ thơ nhớ kiếp trước. Tuy thật là khó tin, nhưng không thể không tin vì chuyện đã xảy ra với chính con gái mình. Nay thì có rất nhiều sách vở ghi lại những công trình nghiên cứu về vấn đề nhớ kiếp trước kiếp sau mà tiêu biểu là cuốn Reincarnation and Biology gồm hai pho sách cả mấy ngàn trang của GS Bác sĩ Ian Stevenson được xuất bản lần đầu năm 1997.

Ai đi qua Sóc Trăng ở miền Tây cũng đều nghe truyền thuyết về một bà mẹ trẻ xin thầy trụ trì cứu bốn đứa con của bà bị đọa làm heo. Năm 2016, Bạnh Tuyết, cô học trò năm xưa, theo tôi đi thăm Cà Mau. Trên đường về chúng tôi ghé Sóc Trăng thăm chùa Dơi, một điểm đến của du khách. Chùa Dơi có tên Miên là Mahatup, đọc trại ra là Mã Tộc, được xây cất bởi người Miên theo Phật giáo Nguyên Thủy từ ngày vùng đất này là một phần của nước Chân Lạp (Căm Bốt ngày nay). Chúng tôi được hướng dẫn ra vườn sau thăm mộ bốn con heo. Tương truyền có một đêm thầy trụ trì nằm mơ thấy một bà mẹ trẻ dẫn 4 đứa con nhỏ đến lạy xin cứu mạng. Sáng ra, con heo nái của chùa sinh bốn heo con. Thầy nghĩ chắc linh ứng với giấc mơ nên thầy cho nuôi bốn con heo này cho đến khi chúng chết thì được chôn ở vườn sau!

Sau đây là câu chuyện người hóa kiếp thành heo mà tôi mới vừa được đọc. Chuyện xảy ra ở Ấp Đông An, xã Vĩnh Chánh, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Con trai tên Võ Thành Đẫm tự Út, 43 tuổi. Vợ là Dương Thị Chơn. Anh Đẫm mơ thấy cha tên Võ Văn Minh chết năm ông 78 tuổi. Giấc mơ thứ nhất xảy ra đêm 21 tháng 10, 2013: “Út ơi, ba chết rồi đầu thai làm heo ở xóm ngoài. Trước mũi của ba có hai lằn rạch xuống, đó chính là râu của ba. Còn ở đùi sau có một cái đốm đen. Khi nào tới chuồng thì ba nhảy lên mừng con.” Thức dậy, anh kể cho vợ nghe, vợ kêu là mê tín không tin. Sáu ngày sau, anh lại mơ thấy y hệt như lần trước nhưng anh vẫn lo đi làm thuê không nghĩ tới. Hai mươi ngày sau, anh lại thấy cha báo mộng, “Sao ba báo cho con hai lần mà con không đi tìm ba. Ba buồn, ba bỏ ăn nên bị người ta đè ra chích thuốc! Ông con không lý tới giấc mộng, vẫn lo đi làm. Đêm 22 tháng 11, cha về báo mộng cho con dâu: “Vợ thằng Út ơi, đi tìm ba đi. Ba khổ lắm. Ba trông đợi lắm.” Rạng ngày 23, chị vợ âm thầm đi tìm “ông già”. Khi đến chuồng heo của chị Lê Mỹ Hạnh ở xóm ngoài, quả nhiên con heo nái mới sanh một bầy bảy con. Bà Phạm Thị Cúc, mẹ chị Hạnh, kể con gái bà nuôi heo để bán thịt, không bán heo con nhưng họ bằng lòng bán con heo ấy với giá 2 triệu rưỡi khi được nghe kể về giấc mơ. Mà cũng lạ là con heo này hay nằm, buồn buồn không giống như sáu con kia. Họ sợ heo bệnh nên đã gọi thú y đến chích thuốc, trùng hợp với giấc mơ của anh Út. Chị vợ kể heo nhảy lên mừng khi chị đến chuồng và khi đem lên xe thì ngồi êm rơ. Bây giờ thì anh Út tin con heo là cha mình nên không dám cho ăn cám mà cho ăn thức ăn như người, cho uống nước trà đường, ngủ mùng. Làng trên xóm dưới chạy đến nhà thăm “cha anh Út”. Và heo cũng vui mừng chạy ra ủi ủi giò nhiều người. Heo rất thích bánh ngọt. Mặc dù trong giấc mơ cha anh có nói sau khi đem về thì cầu nguyện trong ba ngày rồi đem giết đi để ông được siêu thoát nhưng anh Út không dám giết. 41 ngày sau, heo không bị bệnh mà lăn đùng ra chết!

(Nguồn: GUU.VN)

Hoàng Thị Quỳnh Hoa




CA KHÚC “CÕNG ĐỜI”| Thơ sa Chi Lệ | Nhạc: Duy Tuấn – Ca sĩ Ngọc Thức & Thơ “TÌNH HOA BƯỚM” | Sa Chi Lệ viết & diễn ngâm

https://www.youtube.com/watch?v=KEBkfgVDFzo
https://www.youtube.com/watch?v=xxokvr9DBq8



CHÙM “ĐƯỜNG THI TỰ TRÀO” – CAO BỒI GIÀ

TỰ TRÀO I

Thành tích xòe tay chẵn số không

Ương ương, dở dở đúng là ông

Bảo thua phải gật: muôn lần tủi

Rằng kém thì cười: Khối kẻ mong

Chợ chạy loi choi, hào lẻng kẻng

Thơ đề chua chát, giọng ngang ngông

Tóc vừa lốm đốm, râu tranh bạc

Nỗi khổ bờn ra…chất mấy chồng !

CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO II

Những tưởng ông cao, dáng ngất nghêu

Ai ngờ ốm đói hóa ra khều

Tài hèn bạc số, lời than trách

Đức mỏng đen phần, miệng cả kêu

Tự đắc hơn người quê xứ mán

Tự ti sợ kẻ gốc dân liều

Nhùng nhằng cũng vượt tri thiên mệnh

Cà giựt lai rai, vẫn thở …đều !

CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO III

Vốn dĩ hình dong đã khó ưa

Nên ai cũng tránh , thấy là chừa

Bờn gan ắp ngữ vần hư ảo

Rút dạ toàn lời lẽ cổ xưa

Độc ẩm …khà an : rằng vì bở,

Cô ngâm …hơ nhủ : chắc tại dưa!

Khổ qua một trái ru sầu muộn

Chép miệng hơi men mãi chửa vừa

 CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO IV

Kẻ ghét, người thương kể … cũng nhiều

Ghét nhiều chắc bởi tính hay điêu
Tai lia nghênh ngóng, nơi nơi kháo
Mắt đảo xem soi, chốn chốn khều
Xát vị cay cay lời háy hóm
Thêm phần ngọt ngọt tiếng cười trêu
Ô hay ai dạy cho mình nhỉ
Chắc tại Trời sinh … tớ lắm điều!
CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO V

(Thể Điệp Ngữ)

Tẩm ngẩm tầm ngầm tuổi tác tôi…

Bạc phơ bạc phếch mái đầu rồi

Nhếu nha nhếu nháo nhai cơm nát

Sởn ốc sởn gai sợ gió trời

Bổng bổng bay bay văn chữ tí

Hùng hùng tráng tráng phú thi thôi

Vớ va vớ vẩn đi khoe lếu

Nhẩm nhẩm ngâm ngâm lại cả …cười !

CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO VI

Thằng tớ Trời cho chỉ tẹo …gan

Sợ ma hãi quỷ vốn …vô vàn

Thấy “ma ăn cỗ”, mồm   khôn …ngậm

Nhìn “quỷ bày mưu”, lưỡi khó …cầm

Đành lấy mực đen  bôi chúng nhuốc

Lại đem thơ  vụng múa môi càn

Cô hồn sống đọc,  cười ha hả:

Mày cũng khá à , chớ chả …hâm!

CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO VII

Cái số thằng ta khổ …ối chao
hay  lời thầy bói nói tào lao?
Mệnh vô chính diệu, hung đeo mãi !
Phước bất trùng lai, cát thể nào ?
Hóa lộc,Lộc tồn, chưa phất nhỉ !
Địa không, Địa kiếp sẽ ra sao ?
Kiếm đâu thầy giỏi xem theo ý
Để tớ cười vui ,hứng …tự trào. !
CAO BỒI GIÀ

*

TỰ trào VIII

Cảm tạ ơn Trên vẫn thở đều

Dở ngon mỗi bữa cũng vài sêu

Ương gàn, nên hứng bao lời đả

Xấu xí, may còn lắm kẻ …yêu

Lòng trí buồn vui  mây, nắng, gió…

Thơ văn tung tẩy sớm, trưa, chiều

Ngẩn ngơ ôn cố, thời xa lắc…

Ơ lệ tuôn theo tiếng sáo diều

CAO BỒI GIÀ

TỰ TRÀO IX          

Bảy chuyện, tám điều cứ thích ngông

Nửa thầy , nửa thợ đích là ông

Cười khinh lắm  kẻ chê thằng dở

Ngứa ghét nhiều anh bảo lão cuồng

Thủng thỉnh ca ngâm lòng tự tại

Điềm nhiên  thơ thẩn dạ thong dong

Men say độc ẩm mình ta thú

Mặc thế quên đời chả tẹo cong !

CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO X

Dăm hôm vật vã được “Thiên Thần…

Áo Trắng” quanh mình cũng ủi an

Sức kiệt đà lo đành mãn kiếp

Mạng già những tưởng đã tàn …thân

Thóp thoi vậy chứ chưa toi được

Cà giựt thế mà vẫn sống nhăn

Tấp tểnh đời dù quanh miệng lỗ

Ngoác mồm ha hả, lại cười …vang!

CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO XI

Mấy bận tưởng như bỏ mẹ đời

Úi chà, Thần chết chỉ đùa chơi

Chắc vương lắm nợ chưa cho thoát

Hẳn mắc nhiều duyên chửa thể hồi

Ngũ thập còn xanh, sao vội rụng 

Lục tuần chửa lão,  phải lì cười

Thôi thì khấp khểnh mà vui sống

Trả nghĩa, đền tình đủ mới xuôi .

CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO XII

Chắc các Cụ chơi chữ cũng chê
Thương thằng táo tợn tính ti toe
Tung tăng, thơ thốt, tim ta thán
Rôm rả, rượu rồi, ruột rủ rê
Văn vẻ vo vần, vần vụng vẹo
Thi từ tìm tứ, tứ tòe toe
Khéo khen khoang khoét, không kinh khiếp
Đáng để đời đè, đả đập đe!
CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO XIII

Nghĩ cái thằng ta cũng tức cười

Đã già còn cứ mải mê chơi

Đôi vần ngớ ngẩn khoe lao bạn

Dăm tứ khùng điên chọc ngứa đời

Rượu uống khật khừng còn thách đố

Thơ làm ngọng nghịu cũng ngông phơi

Nhiều khi nghĩ lại, lòng then thẹn

Nhưng tật đa mang, … lại cả cười !!
 CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO XIV

Thấy người vác cuốc đi đào sắn

Theo bước cầm mai, ta dãi nắng

Mê thích Tú Xương múa viết tài

Học đòi Nguyễn Khuyến vung ngòi nhắng

hoài đâm, Đình Chiểu bút không tà

mới chước, Cao Bồi thuyền đã đắm

rõ khổ tài hèn, mót được ai… 

ngồi buồn ngậm cán, mồm nghe …đắng!

CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO XV

 (Ngũ Độ Thanh – Vận Trắc)

Chết khổ vì đâu mà nghiện chữ?

Vần ngang, giọng ngổ y thằng …lú…

Ngông cuồng vọc cả phú thời xưa

Mụ mẩn chơi toàn thơ lối cũ

Ngã hỏi hoàn ngôn, dạ sướng điên

Vô huyền gọt ngữ, lòng vui thú

gìn niêm, giữ đối chỉnh ôi chà…

nghĩ quẩn,  chưa già ta hóa …cụ!

CAO BỒI GIÀ

*

TỰ TRÀO XVI

(Bát Vĩ Đồng Âm)

Bật cười phát chán gã Cao tôi

Thiên mệnh từ lâu tỏ hết rồi

Da dẻ nơi thừa  nơi mốc mối

Tóc tai đốm xám đốm phau vôi

Ngang ngông chữ nghĩa hay cầy cối

Trào phúng văn thơ khoái nhạo bồi

Ngán ngẩm chuyện đời bao rắc rối

Ru sầu lại nốc cạn dăm bôi.

CAO BỒI GIÀ




CHÙM TÌNH THƠ CAO MỴ NHÂN & Bài Viêt “HUYỀN THOẠI 12 – 6” Của Nữ Sĩ.

MẦU DIỄM TUYỆT.    CAO MỴ NHÂN
 
Hỡi em thơ, mầu yêu thương diễm tuyệt
Đã trải vàng trên vạt cỏ mênh mông
Từng cánh lá âm thầm chào giã biệt
Tưởng tượng thôi, ta bước tới vô cùng
 
Em ngại ngùng ngó không gian mầu tím
Khiến ngỡ ngàng tất cả nhớ nhung xa
Thì vẫn thấy đất trời thường giấu giếm
Những cuộc tình tươi thắm nở ngàn hoa
 
Dù thủa trước hay thời sau lỡ dở
Vẫn cùng thơ tâm sự nỗi đau đầy
Dù buồn nản, hay đôi khi hớn hở
Vẫn cùng em thả chữ nghĩa trên tay
 
Vàng thu ơi, mây cũng vàng như áo
Một lúc nào nín lặng chuỗi ngôn từ
Bước chân em thoáng rộn ràng tiếng sáo
Đang rơi vào quá khứ của mộng mơ…

CAO MỴ NHÂN (HNPD)

ANH TRỐN EM.    CAO MỴ NHÂN

Kính bái Người vừa mệnh chung. 

Anh trốn em mười năm tuổi mộng

Thôi đành rồi, cát bụi phù du

Tưởng lần nào gác bỏ thiên thu

Song lại thấy thơ là suối lệ

Anh trốn em mười năm tuổi lẻ

Giả vờ nhìn tháng lặng, ngày câm

Thực tình thì ân nghĩa phù vân

Nên chẳng muốn thiết tha thổ lộ

Anh trốn em mười năm hội ngộ

Mười năm chờ thập kỷ còn xa

Nụ tình buồn, chẳng thể tươi hoa

Thôi đấy nhé, không phiền khổ luỵ

Anh trốn em sầu chung, xót thuỷ

Không cần đâu kiếp tới phân bua

Anh đi nhé chín mươi xuân quý 

Đời trả cho tình thiệt, tuổi thua …

Hoa Thôn  22 – 5 – 2022.

        CAO MỴ NHÂN 

CHIM NGƯNG TIẾNG HÓT.    CAO MỴ NHÂN 

Chưa hết mùa xuân 

Sao trên đỉnh núi 

Có con chim nằm

Hót lời bối rối

*

Hạc không bay cao

Thân chim xà thấp 

Hoa cỏ xôn xao

Mùa xuân biến mất

*

Nắng giữa trời trưa 

Núi xanh mộng biếc

Nước mắt như mưa

Rơi hoài thảm thiết

*

Anh nói với em 

Chim ngưng tiếng hót

Anh cũng như chim

Hồn đau giá buốt…

     CAO MỴ NHÂN 

 NGHE CHIM KHUYÊN HÓT.     CAO MỴ NHÂN 

Anh giữ tiếng cho em

Giọng chim khuyên buồn tủi 

Nghe mê đắm lời tim 

Những giọt buồn thống hối 

*

Dẫu rằng anh không nói 

Mặt trời khóc trong mơ

Cả tuần em trông đợi 

Anh tới để làm thơ 

*

Làm thơ có gì vui 

Anh thương em ngậm ngùi 

Tình ơi, sao khắc nghiệt 

Si dại mãi không thôi

*

Chim vẫn hót chơi vơi

Trong bao la diễm tuyệt

Anh là cả bầu trời

Em tôn sùng quí mến … 

*

Đã xa rời khổ luỵ 

Dù nhịp tim vơi đầy 

Khi nghe vành khuyên hót

Em tỉnh giấc tình say…

    CAO MỴ NHÂN  

HUYỀN THOẠI  12-6.    CAO MỴ NHÂN 

     Có thể nói không bài thơ hay nào, không của một thi sĩ giỏi. 

Và, không thi sĩ giỏi nào không có một huyền thoại đẹp .

Thí dụ sáng giá nhất là huyền thoại ” Tố của Hoàng ơi ” của thi sĩ lãng mạn Vũ Hoàng Chương, nhà thơ tình cảm bão lũ mưa cuồng, thoạt nghe thì khó chịu như bị ” nội thương ngoại cảm “, nhưng đọc lâu rồi, có vẻ khách thơ cũng lặng yên, thở dài thương cho một mối tình tưởng thấp thoáng,  hoá trầm kha,  nan y chi lạ. 

Giai thoại thơ ” Tố của Hoàng ơi” có 2 bài chính:

1/ Mười Hai Tháng Sáu 

2/ Tố Của Hoàng Ơi. 

      Tìm một ý có vẻ giới thiệu cuộc tình thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, cứ như là giận lắm mối duyên gãy đổ của mình, nhà thơ viết : 

Năm mười hai tháng, ai không biết

Đã tháng nào không tháng sáu chưa? 

Đây là 2 câu trong một đoạn thơ ở bài sau, ” , Tố của Hoàng ơi ” tác giả viết năm 1972, và còn khẳng định thời gian đã trên 30 năm không có Tố, tức là khởi sự Tố với Hoàng kết thân khoảng từ 1950 đến 1952.

Bây giờ đi vào chi tiết . 

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương ( 5/5/1916 – 6/9/1976), cụ vừa xong hoa giáp thì ra đi vào cõi mịt mù, sau cũng cả năm trời bị CSVN nhốt trong khám Chí Hoà, vì là một nhà thơ trí thức tiểu tư sản, lẽ nào bạo quyền duy vật để cụ yên. 

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương cùng với Thi sĩ Đinh Hùng, 

( 1920- 1967 )  em cụ bà Vũ , là 2 nhà thơ lãng mạn nổi tiếng một lượt với  các thi sĩ tiền chiến Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, nhưng nhị vị thi sĩ đương nêu không theo cộng sản , hai thi sĩ đã đi cư vào nam năm 1954. 

Vô nam, thi sĩ Đinh Hùng thành lập ban Tao Đàn, tiếng nói thơ văn miền Tự do cùng với quý ông Thanh Nam, Văn Quang, Thái Thuỷ …

Thi si Vũ Hoàng Chương thì đi dạy học ở Saigon. 

Song có điều lạ, là các thi sĩ lớn ở đâu cũng vậy, người ta tức là đông đảo độc giả, thính giả thường ưa nghe huyền thoại của nhà thơ, hơn theo dõi hành trình thơ đã tiến tới đâu. 

Có khi những đoạn đời sau, cũng có những riêng tư đáng ngợi ca, nhưng độc giả vẫn cứ quen thuộc huyền thoại, đến không quên một chi tiết nhỏ. 

Thí dụ: khi nhắc tới thi sĩ Cung Trầm Tưởng, là lập tức khách thơ nói ngay : ” Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế…” Nhắc tới thi sĩ Đinh Hùng, thì cứ ” đánh thức hồn mà dậy … ” 

Và ngay với cụ Vũ Hoàng Chương  còn: ” Chúng ta mất hết, chỉ còn nhau ” cũng khuôn vàng thước ngọc, mà xem ra thua kém ” Tố của Hoàng ơi” hẳn . 

Do đó huyền thoại này là bất biến với nhà thơ, “Tố của Hoàng ơi” , cứ lừng lững năm này qua năm khác đi vào những khúc quanh thơ ca Vũ Hoàng Chương . 

A / Mười Hai Tháng Sáu : 

Mở màn cho thiên hạ thấy tình sử, với 4 khổ thơ đầu, khổ nào cũng có ” Tố Của Hoàng Ơi” theo thứ tự:

1/ Tố của Hoàng ơi, hỡi nhớ thương…

2/Tố của Hoàng ơi, Tố của Anh…

3/Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi…

4/ Tố của Hoàng nay, Tố của ai …

Tiếp tới 4 đoạn sau của bài thơ 8 khổ ấy, là chỉ toàn Hò,Xừ, Xang , Xế…với danh tính Kiều Thu . 

Vậy Kiều Thu là nhân vật nào nữa đây ? 

Xin thưa Kiều Thu lẫn lộn trong Hò, Xừ, Xang, Xế mà thôi : 

” Kiều Thu hề Tố em ơi ”  có nghĩa Kiều Thu chính là Tồ vậy . 

Kiều Thu hề  Tố em ơi

Ta đang lửa đốt tơi bời mái Tây

Hàm ca nhịp gõ khói bay

Hò , Xừ , Xang, Xế , bàn tay điên cuồng ..

          ( Vũ Hoàng Chương ) 

Nếu huyền thoại chỉ bấy nhiêu, thì thật quả câu chuyện chỉ là 

Trách móc, rồi dùng Hò, Xừ , Xang,Xế …xênh phách cho quên đời . 

Nhưng có một đoạn thơ như bật cái điều bí mật ra, thi sĩ Vũ Hoàng Chương nói thẳng cho những ai muốn biết:

” Huyền thoại Tố Của Hoàng ơi, chỉ là một cuộc tình cuồng, tình si, không hơn không kém, không vì một lý do to lớn nào, hay một chuyện tình lồng trong một sứ mệnh gì của Sơn Hà Xã Tắc chẳng hạn, chỉ là tình buồn, mãi mãi tình buồn …” 

Men khói đêm nay sầu dựng mộ

Bia đề tháng sáu, ghi mười hai

Tình ta ta tiếc, cuồng ta khóc

Tố của Hoàng nay Tố của ai  ?

          ( Vũ Hoàng Chương) 

B/ Tố Của Hoàng Ơi: 

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương với hơn 30 năm , nỗi oan hờn, ẩn  ức không thể một mình ấp ủ được mãi . 

Không lý chuyện riêng tình cảm mà bắt vợ con gia đình chia xẻ, nỗi đau trở thành mối thù ma quái, vì sự thực, Tố đó không chết, vẫn sống trong dằn vặt, oan khiên, cay đắng của nhà thơ lớn mà cứ phải lụy tình một người …

Nên tới năm 1972, đúng ngày 12 tháng 6 , cụ làm một bài thơ 7 khổ tứ tuyệt, lấy hẳn tựa đề : ” Tố Của Hoàng Ơi ” . 

Bài thơ này gần như bạch hoá mối tình cuồng si, mê loạn trong hơn 30 năm. 

Có thể trên cương vị một người làm thơ, dù mê đắm tới đâu, tôi nghĩ thời gian dài dằng dặc đó, hơn 30 năm với bao tang thương, tình cảm cũng đứng lại, dẫu Tố của Hoàng đẹp tới thế nào, cũng không là Tiên, là Phật trong tranh, để trẻ mãi không già. 

Bằng chứng là : Một dịp hội thơ đầu thập niên 80 thế kỷ trước, tại Uyển Đình, tư thất của nữ sĩ Uyển Hương. 

Cũng vào một ngày tháng 6 năm 1982 , vì tình cờ tôi lại ngồi cạnh nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh, là phu nhân của Thi sĩ đã quá cố Vũ Hoàng Chương, đồng thời là hiền tỷ Thi sĩ quá cố Đinh Hùng, nhị vị thi sĩ lớn quá, dễ gây ấn tượng .

Bất giác tôi ngó nữ sĩ Thục Oanh, mỉm cười : ” Tố của Hoàng ơi” đâu rồi chị ? 

Nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh cũng ” hài ” không kém, bà bèn đổi giọng nói kiểu …thơ: 

” Tố của Hoàng xưa, Tố đã già…” rồi . 

Mừng quá, tự dưng biết tin Tố của huyền thoại cụ Vũ, tôi ỡm ờ: ” Biết rồi, nhưng Tố ở đâu xa ? ” 

Tất nhiên, nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh cũng đẩy xa câu chuyện vào huyền thoại, cho đẹp mãi tình phu, nghĩa phụ cụ Vũ cùng Đinh nữ sĩ trong văn chương, ngoài cuộc sống bình thường vậy. 

Hoá cho nên, yêu đây là yêu cái dĩ vãng thôi, phải xoá trắng cái dĩ vãng, mới gọi là không còn dính líu tới nhau: 

Tháng có 30 ngày để giết

Ngày 12 vẫn sống như xưa

Hay:   

Còn đó 12, còn tháng 6

30 năm lẻ vẫn chưa vừa .. .

Đã đến lúc tình yêu thương, trở nên nghiệt ngã, hằn học, cực đoan …Thi sĩ Vũ Hoàng Chương trở thành độc đoán, dằn vặt giai nhân Tố :

Ngày mai, ngày mốt, anh nằm xuống

Ngọc đọng cơn sầu nửa kiếp thơ

Đập nát ra cho trời đất uống 

Thì em sẽ rụng khỏi đêm mờ …

          ( Vũ Hoàng Chương ) 

Đoạn trên , mới chỉ  khai vị, chưa uống được cái cơn say …tàn nhẫn hơn nữa, bởi vì bị khựng lại do trong tâm khảm người bị thất tình vẫn còn lại chút gì để tiếc nhớ. 

Tới giai đoạn những gì quý giá, ân tình nhất đã bị gạt đi, chỉ còn lại 2 sự kiện để chọn lựa là: hy sinh hay thù hận, mới quên được người tình hay cuộc tinh. 

Thi vương Vũ Hoang Chương, có lẽ vì mất mát tình cảm nhiều quá, nên thi sĩ không thể cho thêm, hay mất thêm: 

Mười hai tháng sáu,  cung Hồ, Xế

Một mối tình si, một mối thù

Giây phút cũng tan thành suối lệ

Trả cho cát bụi nhé Kiều Thu.

          ( Vũ Hoàng Chương ) 

Nghĩa là độc giả, thính giả tưởng rằng mối tình si, đã biến thành mối tình thù không sao gỡ đươc. 

Nhưng , như tôi đã trình bầy ở trên, sau 30 năm, nhà thơ vẫn có thể viết tiếp những vần điệu cũ để tô điểm thêm cho huyền thoại, tưởng như  thất thoát, mà cũng được 

đền bù: Huyền thoại ” Tố của Hoàng ơi ” , âm hưởng phảng phất những chuyện tình buồn trong cổ tích, ngoài dân gian ở

 bất cứ nơi đâu và thời gian nào …

               CAO MỴ NHÂN 




CHÙM THƠ & VĂN: CAO MỴ NHÂN 

LỜI KHUYA.    CAO MỴ NHÂN 

*

Phải khuya mới rõ lòng người

Hạ tuần mới rõ trăng cười mê hoang

Sương mờ phá sóng không gian

Con tàu định mệnh chở hoàng hôn xa

Phải khuya mới nhớ mái nhà

Bập bềnh trên bến phù sa mịt mù

Bên này sông nước thiên thu

Bên kia còn lại lời ru não nề

Phải khuya mới thấy ê chề

Kiếp lưu vong chán lối về dửng dưng

Làm sao cản bước trăng dừng

Hạ tuần diễu cợt mây đừng che xuân

Phải khuya trăng mới bâng khuâng

Thương ai đếm suốt trăm năm chung tình

Anh chờ tan lễ Phục Sinh

Đưa em qua khỏi hành trình thương đau…

      CAO MỴ NHÂN 

***

NGỦ GIẤC NGÀY.    CAO MỴ NHÂN 

*

Tôi đang muốn ngủ giấc ngày

Để quên tất cả nơi này, chốn kia

Để quên tình tự phân chia

Để không thấy cảnh biệt lìa xót xa

Sáng trời, không thấy người ta

Tiếng chim đơn độc vô ra tổ chờ

Không nhìn hoa bướm mộng mơ

Không cầm bút viết bài thơ cuối cùng

Hoang liêu trải rộng mịt mùng

Mầu xanh thiên lý, sắc hồng lửa hương

Đã như phai nhạt nửa đường

Cô đơn, mỏi mệt gọi thương nhớ về

Đêm qua mộng mị lê thê

Tôi thôi kéo nỗi đam mê về gần

Đất trời tiễn biệt mùa xuân 

Đưa tay tôi xoá trăm năm cuộc tình …

        CAO MỴ NHÂN

LỜI XÂM.    CAO MỴ NHÂN 

*

Một mình ngồi buồn xin xâm

Quẻ ra sấp ngửa, nỗi thầm lặng rơi

Đoán trong tâm tưởng, bao lời 

Cầu xin anh ở bên trời luôn vui

Hình như có chút ngậm ngùi 

Cho riêng mình thiếu vắng hồi bơ vơ

Xâm không hối hả đợi chờ 

Đồng xu sấp ngửa lững lờ được, thua

Từ lâu quên đến cửa chùa

Lắng nghe chuông mõ gỡ bùa tỉnh, mê

Bốn phương mù mịt nẻo về

Chân mây nào cũng lê thê muộn phiền 

Tình sầu tình lại cuồng điên

Làm sao biết được thủa tiền định kia

Mộ tình thơ vẽ trên bia

Hương tan, lửa tắt, cách chia kiếp này …

        CAO MỴ NHÂN 

***

VẮNG BÓNG.    CAO MỴ NHÂN

Trên nhiều tầng cao vút

Mây trắng xây lâu đài

Thắp tình nơi chót vót

Không thấy một bóng ai

Bay lên đôi cánh vàng

Chốn đó là thiên thai

Hay là mây hoang đàng

Không có một bóng ai

Thì đừng đăng cao nữa

Trên nhiều tầng mây bay

Lâu đài tình trống rỗng

Không gặp một bóng ai

Trở về nghìn trùng xa

Anh hay mái ấm nhà

Ô, chỉ là vạt khói

Thế gian còn đợi ta

Không thấy một bóng ai

Còn ai đâu tìm bóng

Cho hình ảnh thiên thai

Bạc trời mây nổi sóng … 

    CAO MỴ NHÂN

SUỐT THÁNG NĂM.   CAO MỴ NHÂN 

*

Trái đất không ngừng quay

Mây trời không ngừng bay

Nhưng tình yêu dừng lại 

Trong cõi nhớ thương này

Anh nói đang mùa xuân

Thì đừng vội bâng khuâng

Anh luôn luôn ở cạnh

Bên em suốt tháng năm

Vậy thời gian ngưng trôi 

Hoa nở khắp nơi nơi

Sao anh chưa thầm gọi 

Tên em, một lần thôi

Chao ôi, anh tịnh ngôn

Mây cứ bay chập chờn 

Trái đất chờ tan vỡ

Em giữ mãi nụ hôn …

   CAO MỴ NHÂN 

ĐOM ĐÓM DƯỚI TRĂNG.    CAO MỴ NHÂN 

*

Sân trăng một lúc si cuồng

Theo con đom đóm tìm nguồn nguyệt tan

Không gian chuyển tiết hoang tàn

Những con đom đóm gọi đàn quỷ ma

*

Nửa khuya, trăng bỗng nghiêng tà

Nguyệt mang lửa ngọn hằng nga về trần

Hằng nga ngần ngại gian truân

Sợ con đom đóm tới gần đắm mê

*

Cung thương giọt thả lê thê

Lưu Thần, Nguyễn Triệu tái tê đêm dài

Giật mình hồn đã Liêu Trai

Mái xưa tình tự đơn sai hẹn hò

*

Con đom đóm lạnh co ro

Nửa vầng nguyệt lãng đắn đo lượn vòng

Từ đi ngày tháng lưu vong

Đêm nay nguyệt thực đừng trông lửa vàng …

*

      CAO MỴ NHÂN 

CHIẾC BÓNG MỜ.   CAO MỴ NHÂN 

*

Bỗng một ngày không thấy 

Người quen đi ngang nhà

Nơi sân vườn nắng xấy

Khô cả vạt sương hoa

*

Chắc mùa xuân ấm áp

Người quen bỏ về xa

Nửa vòng tròn trái đất 

Che kín cuộc tình ta

*

Người về xa tít tắp 

Đôi bàn tay mở ra

Hứng từng giọt nươc mắt

 Đêm không ngủ bơ vơ

*

Ta xếp mau hồn mộng

Xuống đáy lòng hoang sơ

Thời gian như chiếc bóng 

Còn lại trong hồn thơ …

*

    CAO MỴ NHÂN 

 VÃNG LAI.   CAO MỴ NHÂN 

*

Sáng chủ nhật

Vô nghĩa trang ” Đồi Hồng ” 

Để đọc lại tấm bia lạ lùng :

” Nơi an nghỉ của một người 

   chết trong tuyệt vọng …”

*

Tấm bia dựng từ cách đây 60 năm 

Tên người bạc phận bị mờ phai

Vì sóng gió hay vì ai đục mất

Chắc vì hồn thiêng lẩn khuất

Khiến người bị chết lần thứ hai…

*

Khách đứng trầm ngâm nhìn dòng chữ

Như có câu thơ viết trong nỗi nhớ 

” Nơi đây sương ủ hình hài 

Em đi về nẻo Thiên Thai xa mờ

Trọn đời sống với mộng mơ …” 

*

Trước mặt, sau lưng, chung quanh mộ thơ 

Nụ hồng nhỏ xíu

Hoa hồng nở to

” Em đi vào cõi hư vô

60 năm có một giờ vãng lai…” 

*

          CAO MỴ NHÂN 

BÊN THỀM ĐỜI .    CAO MỴ NHÂN.

*

Anh ta bây giờ đã ngoài bảy chục tuổi, nên tôi phải gọi ảnh bằng ” ông ” cho có vẻ trân trọng và nhất là …đứng đắn . 

Ố ô, rứa chẳng lẽ kêu ” anh” là không …đứng đắn hay sao ? 

Số là anh ta, ý quên ổng ta sắp tới ngày sinh nhật đó nờ , 19/6 dương lịch, một ngày kỷ niệm trọng đại, mà cả đại tộc KaKi chúng tôi, đều nhớ, bởi tính chất …lịch sử của sự kiện , Ngày Quân Lực VNCH trời ạ . 

19/6 Ngày Quân Lực VNCH hình như mỗi lúc mỗi phôi pha đi hay sao ấy, ông ta đã cười nụ một mình tự nhủ : 

” Điều gì rồi cũng lạt phai, làm sao tươi thắm mãi được …”

Ông xuất thân từ quân trường danh tiếng X Khoá K, tôi gọi thế, đầy phẩm cách dũng cảm mà vẫn trẻ trung . 

Ôi chao, có Khoá học nào, sinh viên sĩ quan Võ Bị nào không hội đủ 2 yếu tố ấy : anh hùng mã thượng, mà vẫn hào hoa phong nhã chứ . 

Thôi đi, ” bà ” mê lính quá, lúc nào cũng thần tượng những chàng trai anh dũng, xuân tình . 

Ông nhìn vọng ra xa, thật xa … cả một quá khứ hiện về . 

Tôi bấm chuông ở cửa nhà ông lâu quá, đã bắt đầu đổ giận . 

Ông làm cái gì trỏng mà không ra mở cửa chớ  ? 

Đã hẹn từ tuần trước, lại mới điện thoại hôm qua, cả hai thời hẹn, ông đều khẳng định rằng : 

” Chừ tui không đi mô hết, ở nhà chờ cô thôi .” 

Tôi cười hỏi đùa : ” Cô nào ? Chả lẽ tôi à ? Tôi bây chừ 

Lão bà bà, chứ cô cái nỗi gì nữa  ? ” 

Thì với tôi, ông nói, cô lúc nào cũng là ” cô “, đơn giản, tôi đang sống lại kiếp trước của mình mà . Sao, có gì lạ muốn nói với tôi ? 

Cũng có, tôi chậm rãi trả lời : ” Mấy ông xưa nhờ tôi mời ông bà đi ăn ” cơm tù ” một bữa đấy ” . 

Cơm tù?  Sao lại cơm tù chớ, ai lo chuyện này vậy, “mục đích yêu cầu ” dở hơi vậy ? 

Chúng ta đang tự do như bướm, lại nhớ tù với tội là cái quái gì, chưa chắc tôi nhận lời ạ . 

Thì tuỳ ông thôi, chúng tôi muốn thông báo cho ông hay, chớ chẳng vì sao, chẳng tại răng cả . 

Ông gật gù : ” Để coi hôm đó tôi có trở ngại gì không đã, cô cứ nói với quý vị ấy là tôi nhận lời trên nguyên tắc hạ hồi phân giải nha ” . 

Sao cũng được, miễn ông đi thôi .

Chuyện ” chung ” đã xong, giờ tới chuyện ” riêng ” . 

Là không phải chuyện riêng tư tình cảm gì đâu, mà là chuyện không dính dáng tới ” bữa cơm tù ” vừa nêu.

À ra thế . 

Chúng tôi vừa đi dự một cái ” lễ vàng “, ông nói . 

Tôi mắc lo ra trả lời ừ hữ , không mấy hứng cảm.

Ông đó cũng khoá K với tôi. Cha đám cưới năm 1969  biết không, ở Huế đó . 

Tôi vẫn chưa bắt nhịp được cái bản nhạc tình ông đang bắt đầu chờ dạo . 

Ông nhìn tôi : ” Răng cô không hứng thú nghe tui kể chuyện vậy ? ” 

Rồi, ” lễ vàng ” làm sao ? 

Tôi thấy ” tình trường lão ta chẳng có gì đặc biệt, mà vàng với bạc làm chi cho mệt chứ …” 

Nhưng nhà ông đó có mệt không về việc làm ” lễ vàng “, chứ chỉ nghe ông mệt thôi. 

À , tôi nhìn thấy cái mệt trong chuyện ” lễ vàng ” của họ . 

Họ đang sung sướng về việc làm đó, kỷ niệm 50 năm đám cưới, còn ông ở ngoài mà than là sao nhỉ ? 

Ông cười xoà : ” Thì ở không nên lắm chuyện ấy mà . ” 

Nghe tôi nói nè, cuộc đời thật là phức tạp quá chứ . 

Như thế nào ? 

Lão cùng đi tù với tôi về. Vợ lão chắc trẻ quá, thêm chút hoàn cảnh gia đình, tự ý không đợi chờ …

Thôi tôi không muốn nghe đâu, mai mốt gặp lại ở ” Bữa cơm tù ” nhé, tôi xin phép về . 

Nhưng cô phải nghe đoạn này : Biết vậy, lão cũng trả thù đời, là tự ý lấy vợ hai, ngay sau ngày ” ra trại “.

Thì có gì đâu, đó là nguyên tắc tương đối thôi. 

Nhưng khi đi HO qua đây, lão lại mang cái bà đầu có giấy tờ hợp lệ đi, bởi vì cái bà sau không chịu đi . 

Thì là lẽ tương đối tiếp theo. 

Rồi lão lại ly dị bà vợ đầu này,  vì không quên giai đoạn hậu tù cải tạo của lão . 

Và cũng để có dịp biểu lộ với phòng nhì, là lão vẫn dành cho bà hai này những yếu tố khách quan rằng đã lấy chồng thì cũng có dịp ” võng anh đi trước, võng nàng theo sau ” . 

Chao ôi, tôi phụ hoạ: lại cũng là luật chơi tương đối, chẳng ai bị thiệt ở đời vậy . 

Biết rồi, song le, cuộc đời vẫn có những phút giây cuối cùng như một bản cáo trạng của trời đất, dành cho loài người mà Chúa đã tạo ra . 

Bà vợ sau của lão được hưởng hết cái hạnh phúc bất ngờ khi một người tù phá sản tình cảm vốn có sẵn tràn trề, kèm sự tức bực cho là bị phản bội, đồng thời lão vẫn thèm khát thứ hạnh phúc nguyên vẹn, lão đã dành tất cả mọi ưu ái cho đệ nhị phu nhân ấy. 

Nhưng chỉ 10 năm sau, lão đã lên đường quy Mã . 

Tới khi bà vợ sau của lão được lão lo cho đủ điều kiện ra đi đoàn tụ với lão, cũng là lúc bịnh trầm kha của bà ta, tiễn bà ta vĩnh viễn rời bỏ cuộc đời vốn hư huyễn này.

Tôi bâng khuâng: ” Chẳng lẽ cũng lại là điều tương đối nữa sao ? ” 

Lão trở về trạng thái ban đầu, nhưng không rõ nét hạnh phúc . 

Đó là đang ở chung một thành phố với bà vợ trước đã ly dị, trên thiên đường nơi hạ giới này . Nhưng vẫn mơ màng nhớ bà vợ sau đã yên thân nơi huyệt mộ bên cố xứ quê xa… 

Tôi bắt đầu nghe ù cả tai, nhưng, chưa muốn về , vì muồn biết hồi kết của câu chuyện ” Lễ vàng ” . 

Ông cười khẩy : ” Có phải cô muốn biết đoạn kết của cái lễ vàng đó không ? “

Thế này, bà vợ đầu ức lòng vì bị ly dị sau khi chỉ có 5 năm sống với lão, trước thời lão đi tù cải tạo đó . 

Lão có yêu thương gì vợ trước cũng không bằng lão đi ban phát tình yêu cho bà vợ sau . 

Nên bây giờ bà vợ trước đó, buộc lão trở về hoàn cảnh đầu tiên, tức là hồi 2 ông bà mới thành hôn, dù khi cả hai bà ta và lão đã lấm lem cuộc đời thời gian lão chia đôi cho mỗi người vợ một nửa số con bằng nhau. 

Bằng một cái ” lễ vàng ” là chỉ có hình thức để có vẻ yêu đời hết xẩy, không có gì quan trọng , nếu xét qua các tiết mục, thì chẳng có mục nào thể hiện đúng cái ý nghĩa của nó cả . 

Vâng, cám ơn ông, tôi cũng như ông, nghe chuyện tà la đã mệt rồi . 

Ưng thay là người trong cuộc, thì buồn chán tới đâu ấy chứ . 

Có lẽ cuộc đời ” nó ” vậy . 

Thôi , tôi xin phép về nha. Cám ơn ông đã cho nghe chuyện đầy mầu sắc tương đối vừa qua. 

                CAO MỴ NHÂN 

                    ( CHỐN BỤI HỒNG )

MỘT NGÀY HÈ.    CAO MỴ NHÂN 

Quý vị tu sĩ mang tất cả tấm chân tình trải trước lòng dạ người dân lành …vô tội . Tôi cứ nghĩ mãi khi đặt bút viết câu này, mở đầu bài ” luận văn ” tự nguyện, gởi đến một bậc chân tu . 

Nhưng khi bậc chân tu ấy hỏi rằng có biết gì về tấm chân tình của quý ngài, thì thật quả tôi bị lúng túng trong giải thích …rất đạo, là sự dâng hiến cả đời ngài cho Đấng tối cao, rao truyền chân lý sống ở đời để làm gì, theo ý Chúa.

Đó là những năm hậu tù cải tạo, tôi đã về lại thành phố Saigon, khoảng đầu thập niên 80 thế kỷ trước . 

Người nhà kể rằng: gia đình chú tài xế của tôi xưa, hiện lập nghiệp ở đồng rẫy Trảng Bom, đã đến nhà chị tôi nhắn: nếu tôi đi tù về, chưa có việc làm, thì hãy lên chợ Trảng Bom kiếm nhà chú ấy . 

Tôi không biết chú tài xế gốc hạ sĩ nhất QL. VNCH cùng gia đình đang sinh sống thế nào sau cuộc đổi đời 1975, vì trước đó, chú lái xe cho Phòng Xã Hội của tôi ở Bộ Tư Lệnh QĐI/QKI ngoài Đà Nẵng . 

Xem ra hoạt cảnh cũng nhuốm vẻ khôi hài, chẳng lẽ chú ta là VC nằm vùng, giờ lộ mặt phất lên, có cơ ngơi chính trị, muốn giúp lại tôi chăng ? 

Hay trời cho, chú trúng số độc đắc, đã có điền sản sau 5 năm rời giáo xứ Thanh Bồ Đà Nẵng, đã ổn định cuộc sống …mới  ? 

Bấy giờ nhà văn Thế Phong đang làm ” nhân viên chấp pháp” cho hãng xe bus, kiêm ” lơ xe ” bus tuyến đường Saigon Thủ Đức .

 Ông ta đã bốn mươi mấy tuổi, nhưng rất khoẻ mạnh, lạc quan, tháo vát một cách lao động chuyên chính luôn, ông đề nghị tôi nên đi coi ” sự nghiệp ” sau 30-4-1975 của người  tài xế như thế nào . 

Chúng tôi đi xe lam từ sớm. Thế Phong trong phong cách ” lơ xe ” chuyên nghiệp, ngồi nghênh ngang chặn cửa xe, cứ nói một mình những điều gì đó một cách ” coi trời bằng vung “, vì sự thực ông ấy có sợ ai bao giờ đâu.

Điều đó khiến tôi yên tâm sau cái nhãn ” sĩ quan cải tạo ” về, hồn nhiên đón nhận những luồng gió mát mẻ của một buổi sớm mùa hè ở miền Nam . 

Rồi 40  cây số cũng trôi qua, chợ Trảng Bom hiện ra trước mắt, với những mái tranh nghèo đúng nghĩa, nhưng hàng quán lại  đông đảo . 

Trong khi ăn sáng bằng tô phở, quanh cái xe phở, mà chỉ những ai đã từng thưởng thức món phở đặc trưng Bắc kỳ cũ,  mới thấy nó …phở như thế nào .

Chúng tôi nhanh chóng hỏi thăm nhà chú tài xế tên Nguyễn Trọng Bảo, mới nhập cư mấy năm, thì có một người gật đầu, nói sẽ dẫn đường đến tận nhà chú Bảo ngay . 

Nếu trước 1975, chúng tôi, Phòng xã hội QĐI/QKI đã từng mỗi năm một dịp tới nhà chú, ở Khu công giáo Thanh Bồ dự tiệc Nửa Đêm sau khi mừng Chúa Cứu Thế đến, dư dả thế nào, thì nay nhà chú vẫn giữ nguyên mầu sắc cũ . 

Trong lúc cách đó mới mấy năm, chính tôi đưa vợ con chú di tản từ Đà Nẵng vô Saigon, chú ở lại với cái xác nhà và y nguyên đồ đạc cùng bầy heo cả chục con, bầy gà vịt cả trăm con …vv, kể như đã bỏ hết.

Sao nay đầy đủ, dư thừa thế  ? 

Tấm ảnh ” Bữa tiệc cuối cùng ” với cả bức tượng hình Chúa Jesus gắn trên vách lớn căn nhà, cụ bà mẹ chú, chú và toàn bộ gia đình, không thiếu một ai …quây quần nơi xóm đạo mới . 

Cả nhà vui vẻ ra gọi là ” chào đón ” chúng tôi, cầu xin cho cá nhân tôi và gia đình sớm được bình an trong ơn Chúa . 

Bữa ăn trưa với đầy đủ gà vịt nấu như ăn cỗ, đặc biệt là không phải một liễn nhỏ, mà một thúng rượu nếp làm theo kiểu Bắc kỳ xưa, gạo nếp sụng  tức say, thơm ngát, được bới ra mỗi người một chén để tráng miệng, mới …giang hồ khí cốt chứ . 

Qua cỗ bàn rồi, giờ đi vào thực tế, cựu hạ sĩ I  Bảo ngập ngừng nói là, nếu gia đình tôi không quản ngại …lầm than một chút, thì xin mời chị cùng các cháu tạm nhờ Cha, nhận một khoảnh đất trong vùng, rồi canh tác, chăn nuôi, không lâu, sẽ có một cơ ngơi tương đối, bằng hoặc có khi hơn nhà chú ấy nữa. 

Thoáng thấy nhà văn Thế Phong mỉm cười vẻ hơi châm biếm, có lẽ ông nghĩ tới sự đổi thay 180 độ đối với tôi, đã mất hết nhà cửa, tiền tài, địa vị, giờ còn chút thể diện nhân thân cũng lu mờ …

Nhưng tôi vốn từng trải công tác xã hội quá rồi, chạnh nghĩ mình cũng có là quái gì mà chê bai hoàn cảnh trước mặt, nên tôi vui vẻ trả lời : 

” Mới ra khỏi trại cải tạo thôi , hãy để nghỉ ngơi một chút, mai  mốt nếu cần, sẽ lên nhờ chú dẫn đi gặp Cha . 

Trên đường về, chúng tôi tự động đi gặp Cha ở nhà thờ X. Trảng Bom . 

Cha hân hoan ghi nhận điều thăm hỏi, và đồng thời khuyến khích tôi nên xây dựng Đức tin vững vàng, để cùng con cái được hưởng ân sủng Thiên Chúa ban cho . 

Cha nói nội khu rẫy Trảng Bom có tới 3 nhà thờ vì mỗi khu làng tân lập đông đúc dân chúa, chưa có Cha khác về thêm, nên Cha phải đi làm Lễ cho cả 3 nhà thờ, thay phiên giờ, bằng xe đạp …mỗi sáng Chúa Nhật . 

Trong câu chuyện,có một điều tôi nhớ nhất,  

là khi tôi hỏi thăm Cha : 

“Thưa Cha, có thoải mái trong sinh hoạt mới không ? Chế độ rao giảng không như ngày xưa”. 

Cha ngẫm nghĩ:” Chế độ rao giảng sao lại thay đổi, tất cả mọi chuyện đều là phương tiện thôi, cứu cánh ấy là Chúa Trời  mà”.

Nên, đôi khi tôn giáo phải bao trùm tất cả, chính trị chỉ là một phần …nghiệp tu, những bậc chân tu không cần phải đề phòng, mà vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh …

Tôi ngập ngừng : Thưa Cha , kể cả …

Cha cười hồn nhiên , nhưng quả cảm …kể cả sự chết .

         CAO MỴ NHÂN 




TRANG CHÀO MỪNG NGÀY PHẬT ĐẢN – RẰM THÁNG TƯ – NHÂM DẦN, 2022 – Phật Lịch 2566.

HỒNG  TRẦN

*

Thế gian nhiều biến đổi

Ta chỉ một dạng thôi

Theo tháng năm tàn lụi

Mấy ai chẳng ngậm ngùi

*

Cõi hồng trần sinh ly tử biệt

Kiếp nhân sinh nọ ai mãi miết

Rồi một ngày tay ng buông xuôi

Về chốn không tranh danh đoạt lời

Chết sống nào cũng là trả nghiệp

Chỉ sớm muộn nợ vay tiền kiếp

*

Mong tái sinh đừng vương lụy

Tâm yên bình thoát hiểm nguy

Vốn dĩ lời chân nguyên Phật

Để muôn người đạt phúc duyên

*

                     Hoàng Mai Nhất

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN

*

Tháng Tư ĐỨC PHẬT hạ phàm trần

Đem ánh Đạo Vàng cứu thế nhân

THÁI TỬ ly gia rời tục lụy

ĐẠT TA cắt ái biệt tình thân

Tam Quy điều dạy, thay tai kiếp

Ngũ Giới lời khuyên, nhận phước phần

Phật Lịch hai nghìn năm sáu sáu(2566)

Nguyện cầu khắp chốn rạng ngời xuân.

Phương Hoa – MAY 17, 2022

Hoa Sen Bảy Bước

Đi bảy bước hoa sen chớm nở
Gót hồng trần lan tỏa niềm mơ
Cội bồ đề, chánh kiến thiền định
Giác ngộ từ tâm, chuyển hoá cơ.

Phật pháp kinh thư đã chuyển vần
Năm châu, bốn biển độ nhân quần
Thập phương, ý nguyện luân hồi chuyển
Phật tánh Di Đà, quán tịnh thân.

Tế Luân

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN 2022

*

Mừng Phật Đản, muôn phương thiết lễ

Cúng dường ngày Nhập Thế Thích Ca

Thấm nhuần giáo lý Phật Đà

Tâm bình, thế giới an hòa sống vui

*

Mừng Phật Đản hãy nuôi mầm thiện

Phật xuống đời thị hiện chúng sanh

Nhân gian mừng đón Cha lành

Tháng Tư rằm đến, tâm thành dâng sen

*

Mừng Phật Đản, ghét ghen buông bỏ

Ánh đạo vàng sáng tỏa trần gian

Tại gia thắp nén hương nhang

Trên cao Phật chiếu hào quang sáng lòng

*

Mừng Phật Đản, sen hồng hương ngát

Tiếng Nam Mô lấn át sân si

Hồi chuông cửa Phật từ bi

Âm vơi nghiệp chướng,  xua đi hung tàn

*

Mừng Phật Đản, dâng ngàn lời nguyện

Phật từ bi, Pháp chuyển Trí minh

Khiến cho kẻ ác lui binh

Tan đi sân hận, Hòa Bình Thế Gian…

*

DUY ANH

Đại Lễ VESAK 2022

Chủ Nhật Tuần Này: Kính Mừng Đại Lễ Phật Đản PL 2566. ĐL 2022

Lời Chúc Mừng

Một Mùa Lễ Vesak nữa lại về trên trần gian, Phật Đản mang lại bao niềm hân hoan, vui sướng trong lòng những người con Phật và những ai tin vào giáo pháp cứu thoát của Ngài.

Kính chúc tất cả Quý Vị và Gia Quyến một Mùa Phật Đản: Vạn Sự An Lành, Hạnh Phúc Vui Tươi, Muôn Chuyện Hạnh Thông.

Thắp sáng ánh đèn trí tuệ trong tâm, noi theo đường Đấng Chí Tôn, để có:

-Tâm hài hòa, mỉm cười trước sóng gió cuộc đời.

-Tâm minh tuệ, ứng phó với những biến chuyển thời gian.

-Tâm siêu nhiên, đối mặt với: Sinh, Bệnh, Lão, Tử!

-Tâm bình an, vượt qua khỏi mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống, để có hạnh phúc ngay tại trần gian này.

Có Tâm là có tất cả! Tâm bình, thế giới bình!

Ý nghĩa ngày Phật Đản

Phật Đản còn gọi là Quán Phật Hội (hội tắm Phật), Giáng Đản hội (hội giáng sinh) đó là nghi thức tắm Phật. Ngày Phật Đản tức là ngày Đức Phật Thích Ca ra đời.

Mùa Phật Đản năm nay lại về trong niềm vui của mọi người dân Việt, từ Tháng Tư Đen 75, 47 năm, đang sống lưu vong nơi đất khách quê người, cách xa quê nhà cả nửa vòng trái đất. Hơn ba triệu người Việt hiện ở tạm dung trên các nước thuộc Âu Châu, Úc Châu, Mỹ Châu, đang nỗ lực tổ chức ngày “Đại Lễ Phật Đản, Phật lịch năm 2566” để hòa nhịp với niềm vui chung của nhân loại, trong mùa Phật Đản năm 2022.

Nhân dịp ngày Đại Lễ, xin ghi lại chút “Lịch Sử cuộc đời Đức Phật” để cống hiến quý đồng hương Phật Tử bốn phương, cùng tìm hiểu về “Chân lý và nguồn gốc ngày Đản Sinh của Đức Phật, hầu lưu lại cho các thế hệ mai sau, nối gót các bậc tiền nhân, duy trì và phát huy Đạo lý cao siêu của Đức Thế Tôn, trong ánh đạo vàng đến với mọi người trên thế gian.

Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch. Vesak cũng là tên của một ngày có ý nghĩa trọng đại nhất đối với hàng Phật tử khắp thế giới. Đức Phật sinh nhằm ngày rằm, tháng Vesak, vào buổi sáng, trong thành Kapilavatthu (Ca-ty-la-vệ) gần biên thùy giữa đông bắc Ấn Độ và Népan. Ấy là Thái tử Siddatha Gotama. Cha của ngài là Hoàng Đế Tịnh Phạn (Cuddhodana) họ Cồ Đàm (Gotama), và mẹ của Ngài là hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi) Ngài tên là Siddhartha Gautama. Ngài mất mẹ rất sớm. Sau khi hạ sanh Hoàng Tử được 7 ngày thì hoàng hậu thăng hà.

Thái tử sanh ra là một đại hạnh, đại phúc, ơn lành cho tất cả chúng sanh. Dĩ nhiên, đã là Hoàng tử, Ngài sống một cuộc đời vô cùng sung sướng trong cung điện nguy nga, nào biết gì đến cảnh thực ngoài đời. Nhưng ngày qua tháng lại, lần lần trong tâm Ngài tự phát giác sự thật.

Khi Ngài giác ngộ được rằng vạn vật là vô thường, có rồi không, thành rồi bại, có sinh có tử, có gìa có bệnh. Rằng bao nhiêu vinh hoa, phú qúy, khoái lạc vật chất dẫy đầy trước mắt, chẳng qua là một bã hư vô. Ngài mới nhất định xuất gia, bỏ hẳn thế sự, để đi tìm đâu là sự thật, đâu là tịnh lạc. Năm ấy được 29 tuổi, Ngài từ  bỏ cung điện nguy nga và những sa hoa vật chất của một vị Hoàng tử, không phải vì  thắc mắc băn khoăn riêng cho Ngài, mà chính vì cảnh đau khổ trầm luân của chúng sinh.

Lần từ biệt ra đi của Ngài đã giũ sạch nợ trần, để đi tìm một con đường giải thoát cho nhân loại. Suốt sáu năm trời, Ngài hãm thân vào cuộc đời khổ hạnh, hy sinh, chịu đựng muôn ngàn đau khổ với một tấm lòng sắt đá, kiên trì, với một niềm tin vô biên và luôn luôn xả thân để phụng sự. Đây là cuộc đời phấn đấu mà sức người phàm khó lòng chịu nổi.

Rồi một hôm tinh toạ trên mớ cỏ khô dưới cội bồ đề, tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddhagaya), Ngài tự nguyện: “Dù ràng thịt ta phải nát, xương phải tan, hơi phải mòn, máu phải cạn, ta quyết ngồi nơi này đến khi được hoàn toàn đắc quả vô thượng!” Vào ngày rằm, tháng Vesak, Ngài đắc quả Chánh Đẳng, Chánh Giác.  Quả này là kết tinh cuối cùng của một lòng tự tin, tự  lực, tự giác, chớ không phải nhờ ở một quyền lực siêu nhiên nào giúp đỡ.  Ngài đã diệt được bao điều chi phối của ngoại cảnh đối với thân tâm, để trở thành thanh tịnh chứng pháp, lãnh hội rõ ràng chân tánh của một sự vật: Ngài đã là Toàn Giác, Ngài đã thành Phật. Lúc bấy giờ Ngài 35 tuổi. Từ đây người ta gọi Ngài là Đức Phật Cồ Đàm (Gotama), một vị Phật trong trường chi vô lượng Phật quá khứ và vị lai.

Như vậy thì lễ Visak không những là kỷ niệm ngày giáng sinh, mà cũng là ngày đắc đạo của Đức Phật. Khi đã được hoàn toàn sáng suốt và đăc quả Chánh Đảng, Chánh Giác rồi, Ngài gia tâm đi hoằng hoá pháp mầu để rọi sáng dẫn dắt kẻ khác. Được hoàn toàn giải thoát, Ngài gia tâm giải thoát chúng sanh bằng một lối đường Trung Đạo. “Mở rộng cửa chân lý cho những ai muốn tìm chân lý, rót thẳng niềm tin tưởng vào tai những ai muốn tìm tin tưởng.” Đó là câu bất hủ mà ngài đã thốt ra lần đầu tiên, khi bắt đầu sứ mạng hoằng dương đạo pháp của Ngài.

Đầu tiên Ngài lập ra Giáo Hội Tăng Già chỉ gồm có năm vị Thanh Tịnh Pháp Sư, đó là 5 anh em Kiều Trần Như. Đây là hột giống đầu tiên hết sức nhỏ bé mà Ngài đã gieo, để rồi về sau này nở muôn ngàn đầy khắp bốn phương: Là  Giáo Hội Tăng Già ngày nay, khắp thế giới, một hệ thống tổ chức thật sự  dân chủ xưa nhất trong lịch sử  nhân loại. Khi rải các đệ tử đi hoằng hoá Giáo Pháp trong thiên hạ, Ngài gửi lời khuyên nhủ chư tăng như sau: “Hỡi chư Tỳ Kheo, các con hãy mạnh dạn ra đi, đi vì ích lợi cho chúng sanh, đi vì hạnh phúc an vui cho nhân quần, xã hội, đi vì thương xót nhân loại. Các con hãy đi khắp chốn, ban bố giảng dậy Pháp này là diệu Pháp hoàn toàn. Các con hãy nêu cao đời sống Thánh Đức khiết thanh, luôn luôn hoàn toàn và trong sạch.”

Riêng phần Ngài, là hoá thân của Đức Độ cao siêu, trí tuệ luôn luôn sáng suốt, đầy lòng nhân đạo, từ bi, bác ái, hy sinh không bờ bến, đêm nghỉ chỉ một giờ. Trong năm mười hai tháng, hết tám tháng Ngài dãi dầu phong sương khắp chốn, không quản gì thân. Ngài tế độ chúng sanh như vậy suốt bốn mươi lăm năm trường.

Một hôm, khi cảm thấy sức đã kiệt, ngày lâm chung săp đến, Ngài gọi tất cả đệ-tử về và nói: “Kiếp sống thật là ngắn ngủi, Thầy nay tuổi đã già. Thầy sắp xa lìa các con! Từ lâu vẫn nương tựa nơi Thầy.  Các con hãy cố gắng chuyên cần tinh tấn, hãy kỹ càng thận trọng và luôn luôn giữ một lòng đạo đức cao cả, với những tư tưởng trong sạch siêu mẫn, các con hãy giữ gìn bản tâm cho chu đáo. Nhờ tôn chỉ và kỷ luật này, với một đời sống tích cực hoạt động đạo đức, các con sẽ được thoát khỏi vòng sinh tử, tử sanh và chấm dứt được phiền não, đau khổ.  Vạn vật cấu tạo là nhứt dán, là vô thường.  Các con hãy cố gắng lên!

Năm ấy Đức Phật tám mươi tuổi thọ. Ngài trở về Kusinara, là một làng nhỏ bé xa xôi, nơi đây êm ái và an tịnh. Ngài tịch diệt, thân nằm êm giữa hai cây long thọ (Sala), hôm ấy đúng ngày rằm vào tháng Vesak. Như thế Vesak là ngày kỷ niệm gồm ba sự kiện: Giáng sanh, Thành Đạo, và Tịch Diệt của Đức Phật. Ngày nay Phật tử khắp hòan cầu cử  hành cuộc lễ gồm ba sự tích ấy, với một niềm tin  tuyệt vời và một đạo tâm chơn thành.

Ngày nay khoa học và văn minh càng tiến bộ, thì Đạo Phật càng được phát triển, vì hầu hết những khám phá trong khoa học hiện nay, thì Đức Thế Tôn đã nói ra cách đây từ 2566 năm về trước! các kinh sách của Đức Phật đã để lại cho nhân loại một kho tàng quý báu. Tất cả đều dựa trên cái Tâm và Trí  của thực thể con người, không ảo tưởng, không thần thoại, cũng không có cái gì là siêu hình, mê tín. Nên nhiều người nhận định, Phật Giáo là đạo sát với khoa học nhất, thì cũng đúng.

H.G. Wells, là một học giả người Anh đã viết: “Đức Phật là một nhân vật vô cùng giản dị, có Tâm Đạo nhiệt thành, tự lực một mình phấn đâu cho ánh sáng tươi đẹp, một con người sống, chứ không phải là một nhân vật của thần thoại, huyền bí. Bên sau cái bề ngoài hơi ly kỳ thần thoại, mà người đời hay gán cho ngài, chỉ thấy rõ một con người như bao nhiêu vị Giáo Chủ khác. Ngài cũng truyền lại một tuyên ngôn, một hệ thống giáo lý rộng rãi khả dĩ thích hợp cho khắp loài người. Bao nhiêu ý niệm văn minh của ta ngày nay, cũng hòa hợp được với giáo lý ấy. Ngài dậy rằng tất cả cái bất hạnh và phiền não của ta là do lòng ích kỷ mà ra, Ngài đã nhất định không sống riêng cho Ngài, mà phải sống cho kẻ khác, từ đó Ngài sống một cuộc đời siêu nhân trên tất cả mọi người. Xuyên qua trăm, ngàn ngôn ngữ khác nhau.

Đức Phật đã dậy đức từ bi, hỷ xả gần 600 năm trước Chúa Giêsu ra đời. Đứng về một phương diện nào đó mà nói, ta có thể cho rằng, Chúa với Đức Phật có nhiều chỗ giống nhau vậy. Đối với đời sống thực tại của ta, cũng như đối với vấn đề trường tồn bất hoại của kiếp ta, Đức Phật đã tỏ ra biết trước.

Thực vậy, Đức Phật đã nói:

Ta là Phật đã thành,

Các ngươi là Phật sẽ thành.

Vậy mọi người trên thế gian này, nếu có tâm đạo, có ý chí quyết tâm, tu thân, tích đức, loại trừ cái tham, sân, si mà đi theo con đường Đức Phật đã vạch ra, thì cũng sẽ thành Phật, không phải như các huyền thoại khác, lấy tôn giáo để mê hoặc con người, đi tìm một ảo tưởng vô hình. Đức Phật nói đúng, vì chính Phật cũng là một người như ta, nhưng Ngài đã vượt ra ngoài cái khuôn khổ của loài người. để đi tìm lấy một chân lý tối thượng, hầu truyền lại cho con người đi theo con đường Chân, Thiện, Mỹ. Để tiêu diệt cái “Tâm độc ác, cái Trí ngu muội”, trên trần gian. Đem đến cho mọi người được thân tâm an lạc, thanh bình, thịnh vượng, hạnh phúc và có trí sáng tạo.

Ông Bertrand Russell, một học giả triết gia hiện nay người Anh có nói: “Đức Phật rõ là một nhân vật chủ trương thuyết phi thiên cách cao thâm nhất từ cổ chí kim vậy”. Dựa theo giáo lý cuả Đức Phật, Ông Thomas Paine, một học giả uyên thâm khác đã viết theo lời Phật dậy: “Thế giới là nhà ta, nhân loại là anh em ruột thịt ta, và vi thiện là đạo ta”. Từ hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, Đức Phật há chẳng nói: “Chớ nên làm ác, hãy làm lành, cố gắng lên, cố gắng làm cho tâm ngày càng trong sạch”. Đó là điều mà Đức Phật dạy chúng ta phải làm, chỉ có bấy nhiêu. Và chỉ nhờ có bấy nhiêu mà ta sẽ diệt đươc ba nạn là: Tham ái, sân hận, và si mê.

Để kỷ niệm ngày Đức Phật giáng trần và cũng là ngày Đắc Đạo sau sáu năm khổ hạnh và 49 ngày  tịnh toạ trên mớ cỏ khô dưới cội Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng (Buddagaya). Hàng năm cứ gần đến ngày rằm tháng tư âm lịch, là toàn thể các tín đồ Phật giáo thuộc các giáo hội trên khắp thế giới, nao nức hân hoan tổ chức kỷ niệm ngày đản sanh. Để nhắc nhở người con Phật, ôn lại những răn dậy tinh hoa của Đức Thế Tôn, làm kim chỉ nam cho đời sống hiện tại cho mỗi người trên trần gian.  

Mặt khác, tưởng cũng nên nhìn lại lịch sử thế giới, ta thấy bao nhiêu bạo lực độc ác của các đế quốc tàn bạo để nô lệ hóa con người, như gần đây nhất, Nga xâm chiếm Ukraine, Trung cộng đòi chiếm Biển Đông, nhưng tất cả, đã và sẽ lần lượt tiêu tan theo thời gian ngắn ngủi! Chỉ có giáo lý cuả Đức Phật là còn tồn tại mãi mãi, bất diệt nơi tâm hồn của hàng triệu, hàng tỉ người Phật Tử nói riêng và nhân loại nói chung. Mỗi ngày một phát triển trên khắp năm châu. Lạ một điều, giáo lý của Đức Thế Tôn đang được phát triển tột đỉnh, rộng rãi trong lòng các dân tộc văn minh Tây Phương! chứ không phải ở Phương Đông!

Mừng Đại Lễ Phật Đản Trên Toàn Thế Giới

Phật Đản là ngày nghỉ lễ quốc gia tại nhiều quốc gia châu Á như Thái Lan, Nepal, Sri Lanka, Malaysia, Miến Điện, Singapore, Indonesia, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Campuchia,…

* Đại Lễ Phật Đản Sri Lanka

Tại Sri Lanka, hai ngày được dành cho việc cử hành Vesākha, việc bán rượu và thịt thường bị cấm và tất cả các cửa hàng rượu, bia và lò giết mổ phải đóng cửa do nghị định của chính phủ. Chim, côn trùng và thú vật được phóng sinh như là một “hành động mang tính biểu tượng của sự giải thoát”, của sự trả tự do cho những người bị giam cầm, bị bỏ tù, bị tra tấn trái với ý muốn của họ.

* Đại Lễ Phật Đản Ấn Độ

Tại Ấn Độ, Nepal, người dân thường mặc áo trắng khi lên các tịnh xá và ăn chay. Tại hầu hết các quốc gia châu Á đều có diễn hành xe hoa và nghi lễ tụng niệm.

* Đại Lễ Phật Đản Hàn Quốc

Tại Hàn Quốc có lễ hội đèn hoa sen (Yeondeunghoe) rất lớn. Còn gọi (Bucheonim osin nal) có nghĩa là “ngày Đức Phật đến”, bây giờ đã phát triển thành một trong những lễ hội văn hóa lớn nhất của quốc gia. Lễ hội Phật đản diễn ra tại nhiều nơi công cộng, và trên những đường phố. Trưng bày và diễn hành lồng đèn là một trong những chương trình tưng bừng và gây nhiều xúc cảm nhất.

 * Đại Lễ Phật Đản Miến Điện

Tại Myanmar, ngày Vesak cũng gọi là ngày của Kason. Kason là tháng thứ 2 trong 12 tháng theo lịch Myanmar. Đây là tháng nóng nhất trong năm. Nên trong khuôn khổ lễ hội Vesak, người dân nơi đây, với lòng thành kính, đặt những chậu nước tinh khiết trên đầu đội đến những tự viện tưới xuống cây Bồ đề. Họ tưới cây Bồ đề để cảm ơn giống cây này đã che chở đức Thế Tôn, trong những ngày thiền định trước khi chứng đạo và ước nguyện năng lực giải thoát luôn trưởng dưỡng trong họ.

* Đại Lễ Phật Đản Thái Lan

Thái Lan là quốc gia Phật giáo đã 5 lần tổ chức Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc. Khí trời nóng bức và không mưa, người ta thường bắn pháo hoa với ước nguyện sẽ có mưa.

* Đại Lễ Phật Đản Trung Quốc

Tại Trung Quốc, Phật giáo đã có mặt gần 2000 năm. Phật giáo từng là tư tưởng dẫn đường chính cho chính quyền và người dân trong một số triều đại xưa. Lễ Phật đản được tổ chức từ thời Tam Quốc, đã ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội qua nhiều giai đoạn lịch sử. Nhưng ngày nay Phật giáo không còn ảnh hưởng nhiều trong xã hội Trung Quốc, từ khi theo xã hội chủ nghĩa. Người dân chỉ còn biết đến Phật giáo như là một tôn giáo lo ma chay, cúng kiếng, võ thuật… Lễ Phật đản chỉ có thể được tổ chức trong khuôn viên chùa, tu viện và ít được xã hội quan tâm.

* Đại Lễ Phật Đản Đài Loan

Phật giáo Đài Loan có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống thường nhật của người dân tại lãnh thổ Đài Loan. Từ năm 1999, ngày Phật Đản đã là một ngày nghỉ lễ quốc gia ở Đài Loan, được tổ chức hàng năm vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng 5 và trùng với Ngày của Mẹ. Nghi lễ thường bắt đầu với điệu nhảy truyền thống và hát ca khúc Phật giáo. Một bức tượng của Đức Phật kèm theo âm nhạc, được rước vào địa điểm và buổi lễ bắt đầu với phần dâng cúng năm vật là hoa, trái cây, hương, thực phẩm và đèn cho Đức Phật

* Đại Lễ Phật Đản Nhật Bản

Tại Nhật Bản, Phật giáo truyền đến từ cuối thế kỷ thứ VI và là tôn giáo chính trong giai đoạn trung và đầu cận đại. Ngày nay, vai trò của tôn giáo ít ảnh hưởng mạnh đến đời sống thường ngày ở Nhật Bản. Lễ Phật đản thường gắn liền với Lễ hội Hoa Anh đào, cũng chỉ giới hạn trong phạm vi tu viện và trong quần chúng Phật tử.

* Đại Lễ Phật Đản Việt Nam

Gần 90% dân số VN theo Phật Giáo, nên Lễ Phật đản được công nhận là một ngày nghỉ lễ (quốc lễ) chính thức tại miền Nam Việt Nam, bắt đầu từ năm 1958, do chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa của chính thể Việt Nam Cộng hòa thông qua.

Vào ngày này, người dân tự do tưng bừng tổ chức rất nhiều sinh hoạt, đời cũng như đạo. Cúng lễ tại các chùa, kèm theo nhiều chương trình văn nghệ. Ngoài đường phố, hàng đoàn xe hoa nhiều mầu sắc diễn hành. Cờ Phật Giáo, nhạc Phật vang lừng khắp nơi. CS đã lợi dụng sự tự do này, xúi dục tổ chức nhiều cuộc biểu tình, nhằm làm mất an ninh tình hình hậu phương, cũng nhằm bôi xấu “chính thể VNCH đàn áp tôn giáo” trước dư luận quốc tế.

Sau khi chấm dứt chiến tranh Việt Nam năm 1975, cộng sản chủ trương vô thần, nên mọi hoạt động tôn giáo đều bị cấm. CS còn tuyên truyền “VN ta có “Bác Hồ” không thờ, thờ chi những Ông Ấn Độ, Do Thái!” Thì ngày này không còn là ngày lễ quốc gia nữa! Mọi hoạt động tôn giáo đều phải có giấy phép! Mặc dù có giấy phép, vẫn bị công an quấy nhiễu. Đàn áp nhiều nhất, vẫn là các sinh hoạt của Phật Giáo Hòa Hảo.

Tuy nhiên, những những năm gần đây, ngày Phật Đản được coi là một ngày lễ hội quan trọng, thu hút sự tham gia không chỉ của Phật tử, mà còn là của người dân trên mọi miền của Việt Nam.

Thấy tình hình, dư luận người dân ngả theo như thế, nên ngày này, cũng nhận nhiều sự quan tâm của nhà cầm quyền CS, thường cử các phái đoàn tham dự các buổi lễ, phát bằng khen.

Nhiều chùa “Quốc Doanh” trên bàn thờ Phật, còn có tượng HCM! Sư giảng Phật Pháp, còn chen vào những bài giảng chính trị.

Còn thực tế bình thường, thì mọi buổi lễ Phật đản chung của các huyện, đều có sự tham gia của chủ tịch huyện và các chuyến thăm của chủ tịch mặt trận Tổ quốc, Nếu chùa nào trong hệ thống quốc doanh, còn nhận được sự hỗ trợ kinh phí trong công tác tổ chức Phật đản.

Ngoài ra vào ngày này, các tổ chức từ thiện của Phật giáo, thường tổ chức các hoạt động thăm hỏi, những người khó khăn, trẻ em mồ côi tại các nhà tình thương, những người già neo đơn không nơi nương tựa. Đây chính là điều quan trọng nhất của Đạo Phật, trong việc xây dựng Đạo của sự Từ Bi.

Danh ngôn Phật Pháp

*Về chân lý cuộc đời

Sau đây là những câu danh ngôn Phật pháp và đời sống giáo huấn con người nhận ra chân lý, lẽ phải, để biết cách sống tốt hơn, đẹp hơn:

– Người Phật tử hãy nên nhớ, sở dĩ con người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm, do không tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc.

– Nếu chúng ta không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không thể làm cho ta phiền muộn khổ đau, vì ta đã có cây kiếm trí tuệ, nhờ nghe và biết chiêm nghiệm, để rồi tu sửa và làm chủ bản thân.

– Chúng ta hãy luôn cám ơn nghịch cảnh, vì chính khó khăn đó đã giúp cho ta có cơ hội quay lại chính mình. Nhờ vậy tâm ta an tĩnh, sáng suốt mà tìm ra phương hướng để khắc phục.

– Khi ta vui, ta biết mình đang vui và luôn tâm niệm rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi ta đau khổ do một hoàn cảnh bức bách nào đó, ta nên biết nỗi khổ này cũng không thể lâu dài, vì ta biết buông xả.

– Sự chấp trước của ta ngày hôm nay, sẽ là niềm hối hận cho mai sau, bởi vì ta đã làm tổn thương đến nhiều người, dù có ăn năn hối lỗi, trái tim ta vẫn rỉ máu.

– Bất mãn là thái độ thiếu khôn ngoan và sáng suốt, người trí càng nỗ lực tu học và dấn thân đóng góp nhiều hơn nữa, khi mọi việc chưa được tốt đẹp, để không bị rơi vào trạng thái tiêu cực.

*An lạc trong cuộc sống

Chìa khóa của sự an lạc trong cuộc sống, chính là biết buông bỏ đúng lúc, những gì không thuộc về mình và trân trọng những gì hiện có. Sau đây là những danh ngôn Phật pháp giúp ta biết cách sống an nhiên, tự tại hơn:

– Chúng ta nên nhớ khi con người có quyền và tiền trong tay, thì hạnh phúc tinh thần sẽ mất đi. Vì lo sợ mất mát, sợ người chiếm đoạt và sợ kẻ thù, những thứ không thuộc về mình, mà cố nắm giữ, chỉ gây thêm phiền muộn khổ đau.

– Người Phật tử hãy cho qua hết việc buồn đau, được mất, hơn thua, không gieo oán giận thù hằn, để tâm an ổn, mà sống đời hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ.

– Con người sống không thể không có niềm tin, nhưng niềm tin đó phải là chánh tín nhân quả, được xây dựng trên cơ sở có chánh kiến, chánh tư duy, bằng sự thấy biết chân chính nhờ biết từ bi hỷ xả.

– Người Phật tử chân chính hãy cho qua hết mọi đam mê có hại đến người và vật, biết phát huy tinh thần giúp đỡ sẻ chia, bằng tình người trong cuộc sống.

– Chúng ta nên biết, không tranh thì an ổn, không giết không hại người vật, thì an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Người hay giúp đỡ sẻ chia, thì tâm từ bi rộng lớn mà sống đời an vui, hạnh phúc.

– Người biết đủ, là người giàu có hạnh phúc nhất, vì không thấy thiếu thốn, người tham lam ích kỷ, hà tiện keo kiệt, dù có nhiều tiền vẫn là người nghèo nhất thiên hạ, vì tâm toan tính sợ mất mát.

Danh ngôn về giá trị cuộc sống

Những câu danh ngôn Phật giáo với những giá trị sâu sắc dạy ta hiểu hơn về quy luật sống của thế gian. Hoa nở hoa rơi rồi hoa tàn, tiền tài địa vị cũng sẽ tan, cao sang danh vọng rồi cũng tàn.

– Chúng ta sống phải có niềm tin chân chính về nhân quả thiện ác, do chính mình tạo ra, niềm tin này không phải là tin vào một đấng thượng đế, có khả năng ban phước giáng họa, hay tin vào một điều gì mà mình không hiểu, không biết.

– Người Phật tử phải có hiểu biết, có yêu thương, có trí tuệ, có từ bi và làm lợi ích cho nhiều người, mà không bao giờ tính toán, so đo, nhờ vậy ta sẽ sống bình yên và hạnh phúc.

– Chúng ta phải biết buông bỏ những kiến chấp sai lầm và các tạp niệm xấu ác. Nhờ vậy cuộc sống lúc nào bình yên hạnh phúc, trong từng phút giây.

– Mọi người không nên tiếc nuối về quá khứ tốt xấu, đúng sai mà đánh mất chính mình trong hiện tại, vì ta đang sống hạnh phúc trong từng phút giây của thương yêu và hiểu biết.

– Người Phật tử khi đến chùa đọc kinh nghe pháp, khi hiểu rõ lời Phật dạy, sau đó mới đem áp dụng vào cuộc sống của mình, để có được hạnh phúc cho bản thân, và đem lại lợi lạc cho gia đình xã hội.

– Một niềm tin thiếu hiểu biết gây tác hại, ảnh hưởng xấu, làm trở ngại cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, gieo bất an, khổ não cho nhiều người, thì đó không phải là niềm tin đúng đắn, chúng ta cần loại bỏ.

*Danh ngôn về triết lý nhân quả

Những câu danh ngôn Phật pháp về luật nhân quả, răn dạy chúng sanh phải biết tạo nghiệp tốt, để nhận được quả ngọt:

– Hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày, chúng ta sẽ không đổ thừa do số mệnh định sẵn, hay có sự an bài của đấng tạo hóa nào đó, mà không vươn lên làm mới lại chính mình, thay đổi hoàn cảnh cuộc sống.

– Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Đó là cách ăn của chư vị Tổ sư đã thể nghiệm, nên đưa ra pháp tu tương ứng, nhằm duy trì mạng sống chúng Tăng được khỏe mạnh.

– Chúng ta đừng để tâm chạy theo những mối ưu tư của nó, giống như những người bình thường, chưa biết quán sát hơi thở là gì. Một khi ta đã có chỗ an trú, để giữ con khỉ tâm thức, thì nó ngày càng bớt ngang ngạnh và từ từ bớt rong rủi chạy tìm.

– Chúng ta chỉ làm một việc duy nhất, là đơn thuần theo dõi và nhận biết hơi thở rõ ràng, thở vô mình biết mình đang thở vô, thở ra mình biết mình đang thở ra. Hơi thở dài hay ngắn là tùy theo khả năng của mỗi người.

– Ngu dốt là sự không hiểu biết của con người, nên ngu dốt cũng đem tới nhiều tai hại cho bản thân, gia đình và xã hội. Có thể nói, ngu dốt là không có kiến thức, không tin sâu nhân quả, không hiểu biết chân chính về mối tương quan trong thế giới mình đang sống.

Mong rằng với những câu danh ngôn Phật pháp  trên sẽ giúp cho Quý Vị tìm ra được giá trị cuộc sống và tâm hồn sẽ trở nên an yên, thanh thản.

LÊ VĂN HẢI

Ba Bài Thơ Mừng Khánh Đản:

Chùa làng

 Chùa làng soi bóng hồ sen

Tháng Ba đom đóm rước đèn hoa đăng

Rủ nhau đi cấy sáng trăng

Thoảng mơ tiếng mõ đêm rằm nhặt khoan…

Giọt chuông thánh thót tam quan

Nhành mai gọi chú bướm vàng vờn hoa

Sân chùa tiểu quét lá đa

Khói nhang trầm mặc, la đà câu kinh…

Sương vương hồng đóa môi xinh

Gót tiên đội nắng bình minh lên chùa

Thềm nào rụng quả táo chua?

Thị Màu rình rập bỏ bùa áo nâu…

Về làng hồn tựa vào đâu?

Mái chùa cong vút xanh màu rêu phong

Lại đi cấy giữa sáng trăng

Lại nghe tiếng mõ đêm rằm… nhặt… khoan…

Hoàng Anh Tuấn

*

Trầm Hương Khánh Đản

*

Sớm nay trời ửng nắng hồng

Lời chim hót, tiếng ca trong ngọt ngào

Hải triều âm dậy dạt dào

Hỏi ra mới biết Phật vào cõi hương

Sớm nay nhân thế triều dương

Tin vui truyền khắp mười phương đất trời

Vinh quang hạnh phúc cõi người

Ca tì la vệ rạng ngời pháp thân

Rằng nghe Linh thoại ngàn năm

Ưu đàm hoa nở trăng rằm tỏa hương

Viên thành diệu sử một chương

Đản sinh Văn Phật ơi hương ơi trầm

Trời xanh hiện cát tường vân

Trần gian xuân sắc thanh tân diệu kỳ

Mười phương một niệm Tam quy

Chân như hiện bóng từ bi cát tường.

Hạnh Phương

*

Mừng Phật đản

1.

Hai nghìn năm kinh sử truyền ghi

Một sáng tháng Tư đẹp diệu kỳ

Khắp cõi nhơn thiên bừng tỏ rạng

Đón mừng Phật đản, đấng Từ bi.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Ra đời mở cửa huyền vi nhiệm mầu

Cứu muôn loài thoát khổ đau

Đến bờ an lạc dạt dào yêu thương.

2.

Hôm ấy Tỳ Ni bỗng lạ thường

Vô ưu nở rộ ngạt ngào hương

Líu lo chim hót, hoa khoe sắc

Thiên nhạc ngân vang mọi nẻo đường.

Hân hoan nô nức muôn phương

Mừng bậc xuất thế phi thường giáng sinh

Ba ngàn thế giới chuyển mình

Ca Tỳ mở hội cung nghinh thân vàng.

3.

Thắp nén hương lòng con kính dâng

Mừng ngày Phật đản, niệm hồng ân

Nguyện cùng muôn loại đồng khai ngộ

Thông điệp Từ bi chiếu rỡ ràng.

Lưu truyền khắp cõi nhơn gian

Đạo mầu tỏa ánh từ quang rạng ngời

Chúng sanh thoát cảnh lầm mê

Nương nhờ pháp lạc, lối về thong dong.

Tâm Chơn

Chúc Mừng Đại Lễ Phật Đản PL 2566. DL 2022




HÀNH TRÌNH CUỘC ĐỜI

CAO MỴ NHÂN 

Nếu quý vị chỉ quen biết nhau có một thời, như là thủa ấu thơ, thiếu niên ở cùng xóm, cùng khu phố . 

Thủa thanh niên, cùng đi học, đi chơi, đi hội đoàn, đi làm hay đi buôn bán vv…

Tới thủa cao niên thì đi thăm hỏi, lễ lạc vv…

Tất cả đều  bình thường, có gặp lại hay không cũng chẳng thành vấn đề …

Song nếu quý vị quen biết nhau suốt hành trình cuộc đời , nghĩa là từ tấm bé đi lên tới cõi già nua, thì thật có lúc buồn ghê lắm, ấy là ta thấy rõ đời nhau, những thăng trầm, không suông sẻ, thậm chí còn đau khổ, thất bại vv…

Và cái điều không tránh khỏi là cả 2 cùng thấy nỗi bâng khuâng, tàn tạ của nhau lúc về già …

Không phải là người ta sợ già, chán già, vì già thì không còn đẹp đẽ, không còn tươi vui, mà người ta kịp nhận ra rằng chẳng còn bao lâu nữa, mọi người sẽ từ từ khuất mặt ở thế gian này vậy thôi. 

Như trên tôi đã trình bầy, thủa thanh thiếu niên, ngoài việc đi học, tôi tham gia rất nhiều hội đoàn …Thoạt thì đi Phật Tử từ tuổi oanh vũ ở Hải Phòng, sau đi Hướng Đạo ở Saigon, rồi vô Caritas, theo đoàn Hội Con Đức Mẹ đi tới các nhà thương chăm sóc bệnh nhân . 

Chót hết là tham gia Quân Đội VNCH, trong ngành Công tác Xã hội …

Chưa kể các nhóm nhỏ, hội lớn vv…tôi đều có mặt . 

Như vậy, cứ nhìn vào sinh hoạt của tôi, quý vị cũng thấy là tôi sống chan hoà thế, thì số lượng bạn bè …đông đảo lắm chứ . 

Do đó, kể từng giai đoạn lui tới bạn bè, hẳn tôi …ôm đồm quá , nên mệt quá, ấy thế mà tôi …thú vị vô cùng trời ạ. 

Và vì thế, tôi mới có dịp chứng kiến những phút giây vinh quang cũng như  tủi nhục của kiếp người, nhất là thời gian tôi sống trong đại tộc KaKi của…tôi. 

Tôi thuộc lòng từng chi tiết một những gì xẩy ra với mỗi cá nhân đặc biệt, hay từng đơn vị nhỏ mà tôi mặc nhiên hiện diện, ở gia đình quân nhân các cấp trong thành phố, ngoài các trại gia binh, hay tới tận cùng núi non, sông biển, đất lở, đồng lụt vv…

Đôi khi không muốn nhớ lại, nhưng những sự việc chưa rời xa lắm, lại hiển hiện trước mắt …cả một quá khứ miên man tiếp nối …cứ khiến mình nhớ thương vời vợi. 

Hình như trong lòng tôi, tôi chưa muốn ai phải từ giã cõi đời, nếu như lý luận của quý cụ bị phiền hà, bực bội, thì mỗi lần tôi tỏ vẻ tiếc thương bạn văn cũng như bạn …võ , quý cụ lại  chép miệng : 

” Chết phải rồi, nếu ai cũng sống, đất đâu mà chứa …” 

Sau khi đi tù cải tạo về, tôi tiếp tục lối sinh hoạt của tôi, chỉ có thay đổi nghề nghiệp cũ, là không còn đại tộc KaKi cho tôi bay nhẩy như thủa phục vụ ở Bộ Tư Lệnh QĐI/ QKI. 

Nhưng tôi vẫn nay thăm nhà này, mai thăm nhà khác, những gia đình quân nhân các cấp mà tôi được hân hạnh quen biết trước cuộc đổi đời 30-4 -1975. 

Đến nỗi tôi chưa cảm thấy đói, lại còn được huynh đệ chi binh hỏi thăm xem tôi đang sống cách nào, mà cứ lạc quan , mặc dầu ông xã tôi qua Mỹ đã ” biệt vô âm tín “. 

Tôi và 4 con tôi không thể kể khổ than nghèo được, khi ai cũng biết : ” nhà đó có chồng ở Mỹ, tụi nhỏ có cha ở Mỹ, thì làm sao thiếu thốn được chứ ” . 

Rồi đào lý bốn phương, chi lan tỷ muội, tức là bạn văn của tôi, cũng luôn chứng tỏ thơ phú tri âm tri kỷ thân tình … 

Tôi than là than theo cái kiểu bình thường, làm lụng nhiều quá thì kêu mệt, tôi khóc là vì bằng hữu hay hỏi thăm những chuyện …bá vơ. 

Thế nên tôi bỗng giận ông Thiên quá, ông không để huynh đệ chi binh, đào lý bốn phương tôi được sống an bình, ít nhất mỗi người đủ 100 năm cho đúng tiêu chuẩn ngài Thiên đã ấn định, ông Thiên lại cứ bớt xén một số tuổi tác, bởi cảnh cơ khổ, hoặc bất trắc vì bịnh hoạn hay tai nạn xẩy ra. 

Khi tôi 40 tuổi thì quý nữ sĩ trong hội thơ Quỳnh Dao đã gấp rưỡi hay gấp đôi số niên tuế của tôi rồi …

Tôi luôn là cây gậy của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội khi bà còn ở Úc Viên Saigon. Tôi theo bà đi thăm vị này,vị nọ như quý cụ Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Đông Xuyên, Bàng Bá Lân …vv. 

Tôi không biết thủa ” phương phì ” ( đương thì ) của quý khách Úc Viên xưa thế nào, chứ thực tại hồi đó, quý vị đã là những lão ông, người thì lụm khụm, người còn phi xe đạp tới nhà nhau bình văn thiên hạ . 

Và rồi lần lượt ra đi Tây Trúc khói sương. ..

Nữ sĩ Mộng Tuyết mở album ra,  hình ảnh cũ, có cụ Đông Hồ, và vài vị tên tuổi, vẫn còn phong thái ung dung… đã mãn phần. 

Nơi album của nữ sĩ Vân Nương hồi đám cưới, chú rề là  luật sư Lê Ngọc Chấn tri phủ, sau này làm đại sứ VNCH ở Luân  Đôn và Tunisie, nhị vị phù rể là 2 thi sĩ danh tiếng thời tiền chiến: Huy Cận, Xuân Diệu . 

Tôi kéo thời gian lùi về hiện đại một thế hệ ( 10-15 năm ), tôi bắt gặp một album của anh họ tôi, đại tá Biệt Động Quân Cao Văn Uỷ, thì nhị vị phù rể là 2 nhạc sĩ ; Nguyễn Hiền và Nhật Bằng  tên tuổi ở 2 thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà, tới cả khi cùng đi tị nạn ở Hoa Kỳ đầu thập niên 90 thế kỷ trước , anh tôi đại tá Cao Văn Uỷ thì ở Úc .  

Nay thì chẳng còn ai trong số quý vị vừa nêu trên … ở cõi đời này nữa. 

Tất nhiên rồi, làm sao sống mãi được… vì quý vị đã trên tám , chín mươi trở đi. 

Song kể như thế vẫn chưa rõ ý, điều tôi nêu ra, phải có một hình ảnh cụ thể cơ. 

Một người lạ, không quen , chỉ biết thôi, vì nếu không biết thì làm sao kể nhỉ ? 

Chuyện nhà thơ trung tá Hoàng Ngọc Liên, đối với tôi, thì rõ quá rồi, nhưng khi ông 30, tôi còn mấy năm nữa mới 20 . 

Trong suốt thời gian trung niên của thi sĩ Hoàng Ngọc Liên, cùng một loạt văn thi sĩ khác, tôi thấy quý ông hào hoa phong nhã … không kịp thở nữa . 

Quý vị ấy cũng sống bận rộn hết mình kiểu như tôi, nhưng sự kiện khác, như Thế Hoài, Hoàng Ngọc Liên bận rộn nơi đoàn quân Mũ Đỏ, rồi văn nghệ lai rai…

Sau 1975 cộng thêm mỗi người 12 năm tù cải tạo. Khi trở về thành phố, mỗi thi sĩ ” lớn” một xe đạp cao hay mini, tuỳ theo gia đình có xe chi thì xài xe đó, nhị vị tới tìm tôi ở Câu lạc bộ Dưỡng sinh… vì tôi về sớm nên đã kiếm ra việc làm huấn luyện viên Dưỡng Sinh rồi . 

Thế là chúng tôi đi xơi canh bún bình dân ở vệ đường, vậy mà tôi đòi trả tiền, quý vị không cho …2 thi sĩ tá 5 trước mặt tôi đã bị CSVN bóc hết những gì gọi là phong cách cũ …ngó tội  nghiệp lắm . 

Nhưng chúng tôi gặp lại nhau, thì tưởng như người nhà thất lạc đã về, nên niềm vui cứ chan hoà . 

Như tôi trình bầy trên, ông Thiên chẳng có thì giờ ngó ngàng đến 2 vị thi sĩ đàn anh của tôi, thời gian sau thì Thế Hoài thất lộc bên quê nhà, Hoàng Ngọc Liên qua Mỹ theo diện HO . 

Trung tá Hoàng Ngọc Liên lênh đênh trên vài tiểu bang miền đông, rồi qua Sacto lưu lại cũng khá nhiều năm, nay diện bích ở Oregon, với gia đình một trong 2 cô con gái mà ông mang theo được, ông đã bước gần tới cửa thiên đường . 

Chao ơi, viết riêng về nhà thơ trung tá Hoàng Ngọc Liên toàn cảnh cuộc đời thì phải …3 tập, 2 cho nhị vị phu nhân, còn 1 cho tất cả hoa hoa bướm bướm quanh ông, cả lúc đương thời danh vọng lẫn khi thất thế . 

Mỗi lần kể chuyện đào lý chi lan, tôi thường đi lạc, anh Thân Kính của tôi là một hình ảnh tổng hợp nhiều kiếp nhân sinh gộp lại, khiến tôi không muốn để một kẽ hở nào cho việc than trách sự trống vắng hay thiếu sót bóng dáng những nhân vật, đã có dịp thân thiết trong văn chương hay ngoài cuộc đời mình. 

Cuối cùng , tôi có  được vốn liếng về thế thái nhân tình ngày nay, là điều tôi rất vui mừng, hạnh phúc, bởi  tôi .đã chắt chiu tình cảm của anh trong nhiều hoàn cảnh cuộc đời …tôi giữ lại mãi mãi tình thân thương hiếm quý này … 

         CAO MỴ NHÂN 




(thơ song ngữ) ĐỔI CẢ THIÊN-THU TIẾNG MẸ CƯỜI

ĐỔI CẢ THIÊN-THU           

TIẾNG MẸ CƯỜI                  

 

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người

Tiếng ai như tiếng lá thu rơi          

Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ    

Chỉ biết âm-thầm thương nhớ thôi        

 

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề

Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê     

Mười năm tóc mẹ màu tang trắng 

Trắng cả lòng con lúc nghĩ về       

 

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn      

Bên đời gió tạt với mưa tuôn 

Con đi góp lá nghìn phương lại             

Đốt lửa cho đời tan khói sương     

 

Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn-ngào

Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm-bao

Mẹ xa xôi quá làm sao vói                     

Biết đến bao giờ trông thấy nhau  

 

Đừng khóc mẹ ơi hãy rán chờ

Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ          

Đau thương con viết vào trong lá          

Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

 

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người

Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi  

Ví mà tôi đổi thời-gian được 

Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười      

 

            TRẦN TRUNG ĐẠO

 

MY LIFE
FOR MY MOM’S LAUGHTER

Picking up the handset I was stunned with surprise:
Whose voice as light as falling leaves in cold skies?
Isn’t it ten years, ten odd years, dear mother,
Just in silence to miss and long for one another?

I left without any promises or pledges that day:
The old wild horse from its forest-land went astray.
Ten years for Mom’s hair to turn mourning white,
And mourning-like my soul also in such a plight.

You’ve still been sitting there weaving your pain
By an existence of slapping wind and beating rain.
I’ve set off to set up from all directions a pyre
In order to disperse the mist for life lighting a fire.

Your voice was broken off, you choked up, I found;
Mom’s endearing words or mere in-reverie sound?
You are too far, how could I reach out for you?
And when could we meeting again look forward to ?

Do not cry, my dear mother, and continue to await.
All my grief I will hide in the rhymes I create.
Of all my sorrow I will write reams and reams,
And find your warmth my warmth in my dreams.

As I picked up the handset how astounded was I
To hear my mom’s voice sadder than the rainy sky!
Should I be able to give up Man’s time in hereafter,
I would offer mine to recover my mom’s laughter.

 

 

Translation by THANH-THANH

 




Trang NGÀY CỦA MẸ

Ns Võ Tá Hân

ĐỔI CẢ THIÊN THU TIẾNG MẸ CƯỜI

Hơn mười năm trước, tôi có viết một bài thơ về mẹ, trong đó có hai câu đã trở thành quen thuộc:

Ví mà tôi đổi thời gian được

Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

Bài thơ ra đời trong một đêm mưa, sau lần điện thoại đầu tiên với mẹ tôi từ Việt Nam. Giọng của mẹ như vọng lại từ một thế giới khác xa xôi. Tôi viết rất nhanh, nhanh hơn khi viết những bài thơ khác nhiều. Những dòng chữ, những câu thơ đúng ra là từ mơ ước, thao thức đã ấp ủ trong tâm thức tôi từ lâu lắm, chỉ chờ dịp để tuôn ra. Tôi không làm thơ, tôi chỉ chép như có một người nào đang nhắc nhở bên tai mình. Nguyên văn bài thơ như thế này:

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người

Tiếng ai như tiếng lá thu rơi

Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ

Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề

Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê

Mười năm tóc mẹ màu tang trắng

Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn

Bên đời gió tạt với mưa tuôn

Con đi góp lá nghìn phương lại

Đốt lửa cho đời tan khói sương

Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào

Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao

Mẹ xa xôi quá làm sao vói

Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ

Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ

Đau thương con viết vào trong lá

Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người

Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi

Ví mà tôi đổi thời gian được

Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

Bài thơ đơn giản và dễ hiểu, không có gì phải cần bình giải. Tất cả chỉ để nói lên tâm trạng của một người con xa mẹ, bay đi như chiếc lá xa cành, mười năm chưa về lại cội. Năm tôi viết bài thơ, mẹ tôi, đã ngoài 60 tuổi và đang sống trong căn nhà tôn nghèo nàn ở Hòa Hưng Sài Gòn. Căn nhà nhỏ có giàn hoa giấy đỏ đó là nơi tôi đã sống tám năm.

Nhớ lại đêm cuối cùng ở Sài Gòn, tôi đón xe xích-lô từ cửa sông về chào mẹ. Trời mưa lớn. Nhưng khi gặp mẹ, với tâm trí ngàn ngập những lo âu, hồi hộp cho chuyến đi, tôi không kịp nói một câu cho trọn vẹn ngoài ba tiếng “Con đi nghe”. Và như thế tôi đi, đi không ngoảnh lại, đi như chạy trốn. Để rồi hai ngày sau, khi chiếc ghe nhỏ của chúng tôi được hải quân Mỹ cứu vớt trên biển Đông vào khuya ngày 13 tháng 6 năm 1981, đứng trên boong chiến hạm USS White Plains nhìn về phía Nam, tôi biết quê hương và mẹ đã ngoài tầm tay vói của mình. Đời tôi từ nay sẽ như chiếc lá, bay đi, bay đi, chưa biết ngày nào hay cơ hội nào trở về nguồn cội.

Nếu có một quốc gia mà những người dân của quốc gia đó đã phải từ chối chính đất nước mình, từ chối nơi đã chôn nhau cắt rốn của mình, tôi nghĩ, đất nước đó không còn bao nhiêu hy vọng. Việt Nam sau 1975 là một đất nước sống trong tuyệt vọng như thế. Dân tộc Việt Nam những năm sau 1975 là một dân tộc sống trong tâm trạng những kẻ sắp ra đi. Sài Gòn giống như một sân ga. Chào nhau như chào nhau lần cuối và mỗi ngày là một cuộc chia ly. Bắt tay một người quen, ai cũng muốn giữ lâu hơn một chút vì biết có còn dịp bắt tay nhau lần nữa hay không. Gặp người thân nào cũng chỉ để hỏi “Bao giờ anh đi, bao giờ chị đi”, và lời chúc nhau quen thuộc nhất mà chúng thường nghe trong những ngày đó vẫn là “Lên đường bình an nhé.”

Đất nước tuy đã hòa bình rồi, quê hương đã không còn tiếng súng nhưng lòng người còn ly tán hơn cả trong thời chiến tranh. Đêm cuối ở Sài Gòn lòng tôi ngổn ngang khi nghĩ đến ngày mai. Ngày mai sẽ ra sao? Nếu bị bắt tôi sẽ ở tù như lần trước nhưng nếu đi được thì sẽ trôi dạt về đâu?

Suốt sáu năm ở lại Sài Gòn, tôi chỉ nghĩ đến việc duy nhất là ra đi. Khi chiếc ghe nhỏ bị mắc cạn trong một con lạch ở Hải Sơn buổi sáng ngày 11 tháng 6 năm 1981, trời đã sáng, nhiều người, kể cả một trong hai người chủ ghe, cũng bỏ ra về nhưng tôi thì không. Tôi phải đi dù đi giữa ban ngày. Tôi phải tìm cho được tự do dù phải bị bắt và ngay cả phải trả giá bằng cái chết. Tự do đầu tiên, biết đâu cũng sẽ là cuối cùng và vĩnh viễn. Nhưng hai ngày sau, khi đứng trên boong tàu Mỹ, tôi biết mình vừa mất một cái gì còn lớn hơn ngay cả mạng sống của mình. Đó là đất nước, quê hương, bè bạn, con đường, tà áo, cơn mưa chiều, cơn nắng sớm, và trên tất cả, hình ảnh mẹ. Không phải những người ra đi là những người quên đất nước hay người ở lại bám lấy quê hương mới chính là người yêu nước. Không. Càng đi xa, càng nhớ thương đất nước, càng thấm thía được ý nghĩa của hai chữ quê hương. Không ai hiểu được tâm trạng người ra đi nếu không chính mình là kẻ ra đi.

Nói như thế không có nghĩa là tôi hối hận cho việc ra đi. Không, tôi phải đi. Nhưng chọn lựa nào mà chẳng kèm theo những hy sinh đau đớn. Bài hát Sài Gòn Vĩnh Biệt, tôi thỉnh thoảng nghe trên đài VOA khi còn ở Việt Nam như những mũi kim đâm sâu vào tâm thức. Bao nhiêu điều hai ngày trước tôi không hề nghĩ đến đã bừng bừng sống dậy. Bao nhiêu kỷ niệm tưởng đã chìm sâu trong ký ức đã lần lượt trở về. Tự do, vâng, tôi cuối cùng đã tìm được tự do nhưng đó chỉ là tự do cho chính bản thân mình. Những gì tôi đánh mất còn lớn hơn thế nữa.

Nhớ lại đêm thứ hai trên biển, khi biết chiếc ghe chiều dài vỏn vẹn mười mét rưỡi nhưng chứa đến 82 người của chúng tôi vừa cập vào thành tàu chiến của Mỹ thay vì Ba-Lan hay Liên-Xô như mọi người trên ghe lo sợ, ai cũng hân hoan mừng rỡ. Đám bạn tôi, có đứa thậm chí còn hô lớn “USA, USA” và ôm chầm lấy những người lính hải quân Mỹ đang dang tay đỡ từng người bước lên khỏi chiếc cầu dây đang đong đưa trên sóng.

Tôi cũng vui mừng, biết ơn và cảm động nhưng không ôm chầm hay hô lớn. Lòng tôi, trái lại, chợt dâng lên niềm tủi thẹn của một người tỵ nạn. Chiếc cầu dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm, trở thành chiếc cầu biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc tài và tự do, của quá khứ và tương lai, mà còn giữa có quê hương và thiếu quê hương. Tôi nghĩ thầm, cuối cùng, tôi cũng như nhiều người Việt Nam khác, lần lượt bỏ đất nước ra đi mà thôi. Dù biện minh bằng bất cứ lý do gì, tôi cũng là người có lỗi với quê hương.

Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ.

Trong tâm trí tôi, hình ảnh bà mẹ Hòa Hưng, đêm đầu tiên trong căn nhà không vách trên vùng Kinh Tế Mới, khoảng 20 cây số phía nam thị trấn Đồng Xoài vào năm 1976. Cánh rừng vừa được khai hoang vội vã này không ai nghĩ một ngày sẽ được gọi bằng một cái tên rất đẹp, khu Kinh Tế Mới. Kinh Tế Mới là những căn nhà lá mỗi chiều chỉ hơn mười mét do những bàn tay học trò của thanh niên xung phong dựng lên, nối nhau chạy dọc theo cánh rừng hoang.

Tôi kính yêu me. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này.

Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy Xuyên. Đêm đêm nằm nghe cha kể chuyện thời trai trẻ buồn nhiều hơn vui của đời ông. Những ngày tản cư lên vùng núi Quế Sơn. Những ngày sống trong túp lều tranh dưới hàng tre Nghi Hạ. Và dưới hàng tre Nghi Hạ nắng hanh vàng đó, cha mẹ tôi đã gặp nhau, đã chia nhau ly nước vối chua chua thay cho chén rượu tân hôn nồng thắm. Dù sao, bên khung cửi vải, bên lò ươm tơ, họ đã cùng nhau dệt một ngày mai đầy hy vọng. Mặt trời rồi sẽ mọc bên kia rặng tre già, mặt trăng rồi sẽ tròn bên kia giòng sông Thu, những ngày chiến tranh, tản cư cực khổ sẽ qua đi nhường bước cho hòa bình sẽ đến.

Nhưng rồi chiến tranh như một định nghiệp, đeo đuổi theo số phận của đất nước chúng ta, đeo đuổi theo số phận của đời tôi. Năm tôi 13 tuổi, chiến tranh đã cướp đi cha tôi, người thân yêu cuối cùng của tôi. Chiến tranh lan tràn đến làng Mã Châu, đẩy tôi ra khỏi xóm lụa vàng thân quen để làm người du mục trên quê hương đổ nát của mình. Từ đó tôi ra đi. Từ chặng đường đầu tiên trên căn gác hẹp trong con hẻm 220 Hùng Vương Đà Nẵng, đến chùa Viên Giác Hội An, xóm nghèo Hòa Hưng, trại tỵ nạn Palawan và hôm nay trên nước Mỹ, nơi cách chặng đầu tiên trong hành trình tỵ nạn của tôi hàng vạn dặm.

Hình ảnh duy nhất của tôi về mẹ là ngôi mộ đầy cỏ mọc dưới rặng tre già ở làng Mã Châu. Ngày tôi còn nhỏ, mỗi buổi chiều khi tan trường tiểu học, trên đường về tôi thường ghé thăm mộ mẹ. Nhổ những bụi cỏ hoang, trồng thêm những chùm hoa vạn thọ. Tôi ưu tư về cuộc đời và về thân phận của mình ngay từ thuở chỉ vừa năm, bảy tuổi. Tại sao tôi chỉ có một mình? Tại sao mọi người đều lần lượt bỏ tôi đi? Nếu mai mốt ba tôi cũng đi thì tôi sẽ sống với ai? Lớn lên tôi sẽ làm gì? Tại sao đất nước tôi lại có chiến tranh? Những người du kích bên kia sông là ai? Và ở đó những buổi chiều vàng, bên ngôi mộ nhỏ của mẹ, tôi để lòng tuôn chảy những suy tư, dằn vặt đang bắt đầu tích tụ. Từ khi năm bảy tuổi tôi đã linh cảm cuộc đời tôi sẽ là những ngày đầy biến cố. Tôi đã nghĩ đến chuyện một ngày nào đó tôi sẽ đi xa khỏi rặng tre già, khỏi ngôi làng tơ lụa Mã Châu dường như thôn làng nhỏ bé này sẽ không đủ lớn để chứa hết những buồn đau, u uất của tôi. Nếu tuổi thơ là tuổi hồn nhiên với những cánh diều bay, với những con bướm vàng thơ mộng thì tôi đã không có tuổi thơ. Tuổi thơ tôi là một chuỗi ngày ưu tư và chờ đợi một điều gì sắp đến.

Mẹ tôi qua đời vì bịnh trong một xóm nhà quê nghèo khó nên không có ngay cả một tấm hình để lại cho tôi. Cha tôi thường bảo, tôi giống cha nhiều hơn giống mẹ. Tôi cũng chẳng có cậu hay dì nên tôi lại càng không thể tìm đâu ra được một nét nào của mẹ trong những người thân còn sống. Vì không biết mẹ, nên mẹ trở thành tuyệt đối. Khi nhìn ánh trăng tròn trong ngày rằm tháng Bảy, tôi nghĩ đó là khuôn mặt dịu dàng của mẹ, nhìn nước chảy ra từ dòng suối mát tôi nghĩ đến dòng sữa mẹ, nhìn áng mây trắng bay trên nền trời tôi nghĩ đến bàn tay mẹ, nhìn những vì sao trên dải thiên hà tôi nghĩ đến đôi mắt mẹ. Nói chung, hình ảnh nào đẹp nhất, tinh khiết nhất, thiêng liêng nhất, đều được tôi nhân cách hóa nên hình ảnh mẹ. Vẻ đẹp của mẹ tôi là vẻ đẹp không những tuyệt vời mà còn tuyệt đối.

Tôi về thăm mộ mẹ lần cuối vào năm 1980 trước ngày vượt biển. Ngôi mộ đầy cỏ mọc hoang vu. Sau 1975, ngay cả người sống cũng không ai chăm nom đừng nói gì chuyện chăm nom cho người đã chết. Hôm đó, tôi ngồi nơi tôi đã từng ngồi trong thời thơ ấu và kể cho mẹ nghe đoạn đời chìm nổi của mình. Tôi nói với mẹ rằng tôi sẽ ra đi khỏi nước và hứa sẽ về dù biết nói như thế chỉ để an ủi hương hồn mẹ mà thôi. Tôi cầu mong mẹ phò hộ cho đứa con duy nhất của mẹ được bình an trong những ngày sóng gió sắp xảy ra.

Ôi đời mẹ như một vầng trăng khuyết

Vẫn nghìn năm le lói ở đầu sông.

Vâng, vầng trăng bên dòng sông Thu Bồn từ đó không còn tròn như trước nữa.

Ai cũng có một cuộc đời để sống. Nỗi bất hạnh nào rồi cũng nguôi ngoai. Vết thương nào cũng lành đi với thời gian. Tuy nhiên có một nỗi bất hạnh sau bao nhiêu năm dài vẫn còn, đó là bất hạnh của dân tộc Việt Nam. Điều làm tôi đau xót nhiều hơn cả, không phải vì tôi mất mẹ, không phải vì tôi xa mẹ nhưng chính là sự chịu đựng của hàng triệu bà mẹ Việt Nam triền miên suốt mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang đến cả hòa bình.

Trên thế giới này, bà mẹ Nga, mẹ Ý cũng thương con như một bà mẹ Việt Nam. Trong lúc tình yêu của một bà mẹ ở quốc gia nào cũng bao la, cũng rộng lượng, cũng vô bờ bến, tôi vẫn tin một bà mẹ Việt Nam thì khác hơn nhiều. Bà mẹ Việt Nam, ngoài là biểu tượng cho tất cả những nét đẹp của quê hương, đất nước, tình thương, còn là những hình ảnh đầy thương tích, tủi buồn nói lên sự chịu đựng, gian nan, khổ cực không thể nào đo lường hết được. Hình ảnh bà mẹ giăng tấm vải dầu trên một góc đường Trần Hưng Đạo để che nắng che mưa cho bầy con thơ dại đang đói khát. Hình ảnh bà mẹ chết đói sau khi ghe của mẹ đi lạc nhiều tuần trên biển. Hình ảnh bà mẹ chết trong mỏi mòn tuyệt vọng dưới gốc me già trên góc phố Sài Gòn vào một ngày mưa bão. Hình ảnh bà mẹ chết cô đơn trong chiếc thuyền chài nghèo nàn. Tất cả hình ảnh đau thương đó đã trở thành mối ám ảnh thường xuyên trong tâm trí tôi. Ám ảnh nhiều đến nỗi dù viết về bất cứ chủ đề gì, thể loại gì, văn hay thơ, cuối cùng tôi cũng trở về với hình ảnh mẹ. Mỗi bước chân tôi đi trên đường đời mấy chục năm qua vẫn còn nghe vọng lại tiếng khóc của những người phụ nữ Việt Nam bất hạnh, đã khóc trong chiến tranh, khóc trong hòa bình, khóc trong bàn tay hải tặc giữa biển Đông và khóc trên xứ người hiu quạnh.

Mơ ước lớn nhất của tôi, vì thế, không phải cho tôi mà cho những người mẹ đang chịu đựng, để các mẹ có cơ hội được sống trong một đất nước không còn hận thù, rẽ chia, ganh ghét, một đất nước chan chứa tình đồng bào, một đất nước thật sự tự do, ấm no, hạnh phúc. “Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” trong một ý nghĩa rộng hơn là ước mơ của tôi, của anh chị, của cô chú và của tất cả những ai còn nghĩ đến sinh mệnh của dân tộc, về một ngày đẹp trời cho đất nước mình.

Quá nhiều máu và nước mắt đã đổ trên mảnh đất linh thiêng và thống khổ Việt Nam. Mỗi người Việt Nam, hơn bao giờ hết hãy trở về với mẹ như trở về với chính cội nguồn uyên nguyên của dân tộc mình. Trong đêm rằm tháng Bảy này, xin hãy cùng nhau thắp lên những ngọn nến, dù nhỏ, dù đơn sơ nhưng được làm bằng chất liệu dân tộc, nhân bản và khai phóng đã được tổ tiên chúng ta hun đúc sau hơn bốn ngàn năm lịch sử.

Đời tôi là những cơn mưa dài. Mưa khi tôi rời làng Mã Châu, mưa trong đêm đầu tiên trong căn gác trên đường Hùng Vương Đà Nẵng, mưa dưới gốc đa già ở Chùa Viên Giác, mưa khi tôi vừa đặt chân đến Sài Gòn lần đầu tiên và mưa lớn trong đêm tôi rời đất nước ra đi. Nhưng tôi chưa bao giờ tuyệt vọng, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời là hố thẳm. Tôi không sống trong hôm qua, trái lại mỗi ngày là một chặng đường mới của đời mình. Tôi bình tĩnh đến độ hồn nhiên khi đón nhận những khắc nghiệt đến với đời tôi và tôi rất lạc quan trong khả năng chuyển hóa hoàn cảnh của chính mình.

Trong cuộc đời này, tôi đã nhiều lần vấp ngã nhưng nhiều người cũng đã giúp vực tôi dậy, lau khô những vết thương trên thân thể và trong cả tâm hồn. Tôi mang ơn xã hội nhiều đến nỗi biết mình sẽ không bao giờ trả hết. Tôi biết ơn những người đã che chở cho tôi và cũng cám ơn cả những người đã dạy tôi hiểu giá trị của gian lao, thử thách. Cám ơn đất nước đã cho tôi được làm người Việt Nam, cám ơn mẹ Duy Xuyên mang tôi đến thế gian nầy, cám ơn mẹ Hòa Hưng nuôi nấng tôi trong những ngày bà con thân thuộc đã ruồng bỏ tôi, cám ơn cây đa già chùa Viên Giác che mát cho tôi suốt năm năm dài mưa nắng.

Nếu một mai tôi ra đi không kịp viết điều gì, thì đây, những kỷ niệm của một lần ghé lại.

Trần Trung Đạo

(thơ song ngữ) ĐỔI CẢ THIÊN-THU TIẾNG MẸ CƯỜI

ĐỔI CẢ THIÊN-THU           

TIẾNG MẸ CƯỜI                  

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người

Tiếng ai như tiếng lá thu rơi          

Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ    

Chỉ biết âm-thầm thương nhớ thôi        

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề

Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê     

Mười năm tóc mẹ màu tang trắng 

Trắng cả lòng con lúc nghĩ về       

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn      

Bên đời gió tạt với mưa tuôn 

Con đi góp lá nghìn phương lại             

Đốt lửa cho đời tan khói sương     

Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn-ngào

Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm-bao

Mẹ xa xôi quá làm sao vói                     

Biết đến bao giờ trông thấy nhau  

Đừng khóc mẹ ơi hãy rán chờ

Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ          

Đau thương con viết vào trong lá          

Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhắc chiếc phone lên bỗng lặng người

Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi  

Ví mà tôi đổi thời-gian được 

Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười      

            TRẦN TRUNG ĐẠO

MY LIFE
FOR MY MOM’S LAUGHTER

Picking up the handset I was stunned with surprise:
Whose voice as light as falling leaves in cold skies?
Isn’t it ten years, ten odd years, dear mother,
Just in silence to miss and long for one another?

I left without any promises or pledges that day:
The old wild horse from its forest-land went astray.
Ten years for Mom’s hair to turn mourning white,
And mourning-like my soul also in such a plight.

You’ve still been sitting there weaving your pain
By an existence of slapping wind and beating rain.
I’ve set off to set up from all directions a pyre
In order to disperse the mist for life lighting a fire.

Your voice was broken off, you choked up, I found;
Mom’s endearing words or mere in-reverie sound?
You are too far, how could I reach out for you?
And when could we meeting again look forward to ?

Do not cry, my dear mother, and continue to await.
All my grief I will hide in the rhymes I create.
Of all my sorrow I will write reams and reams,
And find your warmth my warmth in my dreams.

As I picked up the handset how astounded was I
To hear my mom’s voice sadder than the rainy sky!
Should I be able to give up Man’s time in hereafter,
I would offer mine to recover my mom’s laughter.

Translation by THANH-THANH

NGÀY CỦA MẸ

(Mother’s Day)

Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình

(Photo credit: giaoduc.edu.vn)

Tài liệu Wikipedia ghi nhận Ngày của Mẹ bắt nguồn từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, nhưng cũng có tài liệu cho rằng Ngày của Mẹ có thể được bắt nguồn từ Vương quốc Anh và được tổ chức vào ngày Chủ Nhật qua nhiều năm trước khi lễ hội này xuất hiện ở Hoa Kỳ.

Theo lịch sử thì Ngày của Mẹ là ngày lễ hội mùa xuân hàng năm mà người Hy Lạp cổ đại dành riêng cho các nữ thần mẫu, họ cũng dùng dịp này để tôn vinh Rhea, vợ của Cronus và là mẹ của nhiều vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Người La Mã cổ đại còn gọi lễ hội này là Hilaria để tôn vinh Cybele, một nữ thần Mẹ. Các nghi lễ tôn vinh Cybele đã bắt đầu khoảng 250 năm trước Chúa giáng sinh. Lễ kỷ niệm được thực hiện bằng cách cúng dường trong đền thờ Cybele kéo vào khoảng tháng Ba, những ngày đầu rất quan trọng, thường kéo dài trong ba ngày gồm các cuộc diễu hành, trò chơi và hóa trang. Chính Lễ kỷ niệm này đã khiến những người theo Cybele bị trục xuất khỏi Rome.

Những người theo đạo Thiên Chúa Giáo thời sơ khai đã tổ chức Ngày của Mẹ vào Chủ nhật, thứ tư của Mùa Chay để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Chúa Kitô. Sau đó, ngày lễ hội này được mở rộng để chúc mừng tất cả các bà mẹ và ngày này trở thành Ngày của Mẹ. Ngày của Mẹ bắt đầu từ những năm 1600 ở Anh. Tại đây, Ngày của Mẹ được tổ chức hàng năm vào ngày Chủ nhật thứ tư của Mùa Chay (khoảng thời gian 40 ngày trước Lễ Phục sinh) để tôn vinh những người mẹ sau nghi lễ cầu nguyện trong nhà thờ để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria. Những đứa con thường mang theo những món quà và hoa để tỏ lòng thành kính với mẹ của chúng.

Theo truyền thống, những đứa trẻ mang theo những món quà, những loại bánh trái đặc biệt hoặc bánh ngọt đầy trái cây được gọi là simnel để tặng Mẹ của chúng. Người Nam Tư và người dân ở các quốc gia khác cũng tổ chức Ngày của Mẹ tương tự như vậy. Tuy nhiên phong tục kỷ niệm Ngày Chủ nhật của Mẹ đã gần như hoàn toàn biến mất vào thế kỷ 19 cho đến mãi sau Thế chiến thứ hai Ngày của Mẹ mới được tổ chức lại.

Ngày của Mẹ là thời gian để tôn vinh tình mẫu tử và thể hiện lòng biết ơn của chúng ta đối với tất cả những người mẹ, những người vợ, người chị và bà nội & ngoại đã hy sinh cả cuộc đời cho các con, các cháu. Lịch sử đã phải công nhận rằng, từ trước đến nay người phụ nữ luôn giữ những vai trò thiết yếu trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Điển hình là bà Marie Curie, người phụ nữ đầu tiên từng đoạt giải Nobel cho đến cựu Thẩm phán Tòa án Tối cao Ruth Bader Ginsburg, là những người mẹ đã làm thay đổi thế giới.

Năm 1858, Ann Reeves Jarvis, một người nội trợ vùng Appalachian, đã thành lập “Ngày làm việc” của các bà mẹ trong nội chiến nhằm nỗ lực cải thiện điều kiện vệ sinh cho binh lính và trẻ em. Bà cũng đã giúp thành lập một câu lạc bộ để dạy phụ nữ cách chăm sóc trẻ em. Khi nội chiến bùng nổ ở Hoa Kỳ, Ann Reeves Jarvis đã yêu cầu các thành viên khác của các câu lạc bộ tổ chức và cam kết rằng chiến tranh sẽ không làm ảnh hưởng đến công việc của họ. Họ thề sẽ cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế và hỗ trợ những người bị bệnh hoặc bị thương dù bất kể họ đang chiến đấu ở phe nào. Sau đó, Ann Reeves Jarvis thành lập “Ngày Tình bạn của Mẹ” để thúc đẩy sự hòa giải giữa những người lính của Liên minh và Liên minh.

Năm 1872, Julia Ward Howe, một nhà hoạt động, nhà văn và nhà thơ, bà đã viết bản Tuyên ngôn Ngày của Mẹ để kêu gọi các bà mẹ tham gia trong việc thúc đẩy hòa bình thế giới. Julia Ward Howe là người tiên phong và gợi ý cho việc tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ. Là một người yêu tổ quốc, bà đã sáng tác và trở nên nổi tiếng với bài hát nội chiến “Battle Hymn of the Republic“. Julia Ward Howe đề nghị rằng ngày 2 tháng 6 hàng năm nên được tổ chức và đó là Ngày của Mẹ cũng như là ngày dành cho hòa bình. Bà đã viết lời kêu gọi đến tất cả các phụ nữ và nồng nhiệt khuyến khích họ nổi dậy chống lại chiến tranh trong Tuyên ngôn Ngày của Mẹ. Bàn tuyên ngôn này trở nên nổi tiếng và được viết ở Boston, năm 1870.

Julia Ward Howe cũng đã khởi xướng Ngày Hòa bình của các Bà mẹ vào Chủ nhật thứ hai trong tháng Sáu ở Boston. Bà ủng hộ lý do tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ và chính thức tuyên bố cho phép mọi người nghỉ lễ vào ngày này. Ý tưởng của Julia Ward Howe đã lan rộng nhưng sau cùng nó đã bị thay thế bởi ngày lễ Ngày của Mẹ, hiện được tổ chức vào tháng Năm. Năm 1873, Julia Ward Howe vận động để thành lập Ngày của mẹ nhằm đạt được hòa bình thế giới và giải quyết xung đột giữa con người với nhau.

Với nguồn cảm hứng từ những công việc của Ann Reeves Jarvis,  Anna Jarvis M. là con gái của Ann Reeves Jarvis tiếp tục tranh đấu cho lễ hội Ngày của Mẹ. Năm 1905, sau khi bà Ann Reeves Jarvis  qua đời, Anna Jarvis M. muốn tạo ra một ngày tưởng niệm và tôn vinh những người mẹ đã qua đời cũng như ghi nhận những hy sinh mà các bà mẹ đã dành cho con cái của họ, Sau cùng, Ngày lễ của Mẹ được công nhận và ngày lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ đầu tiên được tổ chức tại Grafton, phía Tây Virginia tại một nhà thờ địa phương vào ngày 10 tháng 5 năm 1908. Nhờ sự hỗ trợ tài chính của John Wanamaker, một chủ doanh nghiệp ở Philadelphia, Ngày của Mẹ này đã thành công rực rỡ với hàng nghìn người đã đến tham dự. Ngày nay, tại nhà thờ có Đền thờ Ngày của Mẹ Quốc tế.

Để Ngày của Mẹ trở thành ngày lễ quốc gia, Anna Jarvis M. đã viết thư cho các chính trị gia và báo chí trên toàn quốc, yêu cầu họ chấp nhận ngày này để kỷ niệm và ghi ơn công lao của các bà Mẹ. Kết quả, truyền thống báo chí bắt đầu lan rộng ra 45 tiểu bang và một số tiểu bang khác, chính thức tuyên bố đây là ngày lễ Ngày của Mẹ vào năm 1912. Năm 1914, cựu Tổng thống Woodrow Wilson đã tuyên bố tổ chức lễ kỷ niệm Ngày của Mẹ đầu tiên trên toàn quốc. Ngày nay, Ngày của Mẹ được tổ chức vào Chủ nhật thứ hai trong tháng Năm của mỗi năm.

Ở Vương quốc Anh và một số khu vực ở Châu Âu, ban đầu là đây là một ngày lễ tôn giáo được tổ chức vào Chủ nhật thứ tư của Mùa Chay. Ngày này nhằm mục đích cho các cá nhân tìm đường trở lại “nhà thờ mẹ” của họ. Những người đi nhà thờ cũng sẽ coi đây là cơ hội để đoàn tụ với gia đình sau khi đi công tác xa. Các nhà sử học có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của Ngày Chủ nhật của Mẹ, bao gồm truyền thống phát triển từ việc trẻ em nhặt hoa khi chúng đi bộ đến nhà thờ.

Tại Vương quốc Anh, người dân dành thời gian để tôn vinh những người mẹ, chẳng hạn như mẹ đẻ, bà ngoại, mẹ kế và mẹ chồng. Trong ngày ấy, mọi người sẽ ăn mừng bằng một chiếc bánh Simnel, đó là một chiếc bánh trái cây nhân hạnh nhân và 11 quả bóng để tượng trưng cho 11 môn đồ.

Ở Ethiopia, Ngày của Mẹ được tổ chức hơi khác một chút. Khi mùa mưa kết thúc, các gia đình sẽ tụ tập để tham gia lễ hội Antrosht. Trong khoảng thời gian ba ngày, sẽ có khiêu vũ, ca hát và rất nhiều đồ ăn. Theo phong tục, con gái cung cấp rau và pho mát, trong khi con trai mang thịt.

Thái Lan, Ngày của Mẹ được tổ chức vào ngày 12 tháng 8 để kỷ niệm ngày sinh của Hoàng hậu Sirikit. Các hoạt động trong ngày lễ bao gồm diễu hành và tặng hoa nhài cho các bà mẹ.

Nga, Khi nước Nga còn được gọi là Liên bang Xô Viết, các bà mẹ được tôn vinh vào ngày Quốc tế Phụ nữ ngày 08 tháng 03. Năm 1998, Ngày của Mẹ chính thức được thành lập là Chủ nhật cuối cùng của tháng 11. Tuy nhiên, nhiều người vẫn ăn mừng vào tháng Ba.

Nepal, Ngày của Mẹ được gọi là Mata Tirtha Aunsi, có nghĩa là “Hành hương về trăng non của Mẹ”. Vào ngày này, các cá nhân sẽ trân trọng thời gian ở bên mẹ và tưởng nhớ tất cả những người đã qua đời.

Ngày nay, Ngày của Mẹ được tổ chức ở một số quốc gia gồm Mỹ, Anh, Ấn Độ, Đan Mạch, Phần Lan, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Úc, Mexico, Canada, Trung Quốc, Nhật Bản và Bỉ. Mọi người coi ngày này như một cơ hội để tri ân và cảm ơn những người mẹ của họ cho sự yêu thương và hy sinh của họ với con cái. Trong Ngày của Mẹ, các đường dây điện thoại đạt đến mức quá tải cũng như truyền thống tặng hoa, thiệp và những món quà gửi đến cho Mẹ hoặc mời Mẹ của họ đi chơi, đi ăn sáng, ăn trưa hoặc ăn tối…

Khánh Lan siêu tầm và nghiên cứu from Wikipedia

California, May 2022

MẸ HÔM NAY, MẸ NGÀY MAI, MẸ CỦA MUÔN ĐỜI

ThaiLan

ĐÔI TAY CỦA NGOẠI

ThaiLan

Bó Hồng Tặng Mẹ

 

Con cung kính. Bó hồng riêng tặng mẹ

Cả tình thương sâu thẳm của tâm hồn

Mẹ là suối nguồn, dòng chảy tinh khiết

Nuôi con một đời, đến tuổi lớn khôn.

 

Dâng lên Mẹ ngàn đóa hồng thắm đỏ

Dòng máu hồng Mẹ trao tặng cho con

Ngày lễ Mẹ, bồi hồi thêm nỗi nhớ

Nhớ ơn người, nuôi nấng thuở măng non.

 

Tình yêu mẹ dạt dào như sóng vỗ

Vỗ giấc bình yên chăm sóc đời con

Viết về Mẹ, lời thơ đầy nước mắt

Vào nỗi buồn tuổi xuân đã hao mòn.

 

Công ơn Mẹ, sánh núi cao, biển cả

Thấu trời xanh Thượng Đế phải ngậm ngùi

Mẹ là thảo nguyên bao la bát ngát

Dòng suối nguồn tuôn chảy những ngọt bùi.

 

Mẹ trên cao, như sao sáng trên trời

Mẹ hiền từ ôm con cả một đời

Lời nguyện cầu, con ước mơ về mẹ

Tiếng mẹ dịu dàng nhớ mãi không ngơi.

 

Tình yêu của mẹ bao la biết mấy

Sáng như mặt trời, đẹp như mây bay

Ai! Còn Mẹ đừng làm Mẹ bật khóc

Đừng để buồn giọt lệ ướt trên tay.

 

Xin gửi đến Mẹ ngàn đóa hoa hồng

Thấm sương long lanh, ướt cả nỗi lòng

Lời nghẹn ngào bài thơ ngày lễ mẹ

Buộc vào hoa, gửi mẹ những hoài mong.

 

Lê Tuấn

Bài Thơ Viết Tặng Mẹ

 

Tôi muốn viết bài thơ ngày lễ mẹ
Gom hết loài hoa gửi đến tặng người
Mẹ là hào quang rực rỡ bầu trời
Thiêng liêng nhất là tình yêu của mẹ.

Ngày mới chào đời ngây thơ khờ dại
Chiếc nôi êm huyền thoại ngủ trong mơ
Lời mẹ ru vần ca dao chấp cánh
Hồn Việt Nam vang vọng đến bây giờ.

Công ơn mẹ bao la như biển cả
Đỉnh núi cao dòng suối chảy hiền hoà
Mẹ là ngôi sao tỏa sáng chói lòa
Là đêm trăng tỏ, thơm ngát hương hoa.

Con thương mẹ cả một đời tần tảo
Mưa nắng trên vai gánh vác một đời
Che chở cho con dòng đời vạn biến
Mẹ là bà tiên lộng lẫy tuyệt vời.

Bước gian truân đời thăng trầm sóng gió
Mẹ âm thầm chịu khó vượt chông gai
Nuôi nấng con sớm tối không ngần ngại
Nhìn con vui, mẹ tiếp bước đường dài.

Dâng lên mẹ bài thơ thêm sầu muộn
Mẹ không còn nhưng lòng mẹ quanh đây
Trên Thiên Đàng con tin mẹ nhìn thấy
Mẹ bây giờ chỉ là những bóng mây.

Lê Tuấn
Nhớ về mẹ

 

MỪNG NGÀY LỄ MẸ

NHÓM MỸ HÂN KÍNH MỜI CHIA SẺ VÀI CA KHÚC NHẠC PHỔ THƠ

https://youtu.be/lNb0O9VGdLU
https://youtu.be/s14P7M54QuE

https://youtu.be/FOgSjrhnb6w

Gởi yêu thương về Má nhân ngày Mother’s Day (8/5/2022)           

  GỌI  MÁ

*

Con gọi phone nói cho Má biết

Cây con trồng xanh biếc Má ơi!

Facetime con thấy Má rồi

Con nghe Má nói những lời yêu thương

Chín Bảy tuổi…qua những đoạn đường

Má dành gần hết tuổi đời cho con

Giờ là Ông Lão Bảy Ba

Vẫn còn cần Má, cần nghe giáo điều

Con cần Má biết bao nhiêu…

Má luôn vui khỏe, con yêu Má nhiều!!

*

                                     Hoàng Mai Nhất
                                (Seattle, WA 4/5/2022)

NHỚ MÁ

*

Hôm nay là sinh Nhật Má

Mua quà gì biếu Má, Má ơl

Dầu Xanh với sữa Ensure

Cùng Khăn choàng cổ, Má ơi mua gì…

Mua gì biếu Má Má vui

Gởi về đâu nhỉ! Má ơi con buồn

Gởi về đâu…những món quả

Ai là người nhận, ai là người mang

Đem về đến Má quà con…nhớ nhiều!!

Con là con gái Má yêu

Con ở xa quá, Má đi …con về

Chẵng nghe lời cuối dặn dò

Chẵng cầm tay Má, chẵng hôn giã từ

Hôm nay con nhớ ngày sinh

Con nhớ Má lắm, thương ai giống mình

Cùng chung tưởng nhớ ngày sinh

Cùng thương một Má…chỉ mình Má thôi

                                         Hoàng Mai Nhì

 

2 Sinh Hoạt Mừng Ngày Của Mẹ Tại San Jose

*28 Năm, “Happy Mother’s Day” Với Những Bà Mẹ Không Nhà (Homeless!)

* Gần 100 Phần Quà Tặng Những Bà Mẹ Việt Nam, Trong Buổi Lễ Chào Cờ Đầu Tháng 5, Tại Vườn Truyền Thống Việt.

(San Jose) – Thứ Sáu, ngày 6 tháng 5, trong buổi cơm phục vụ những Khách Không Nhà, sau khi khách dùng cơm sáng xong, khách vui mừng thấy rõ, khi được loan báo, có thêm một chương trình sinh hoạt đặc biệt để Mừng Ngày Lễ Mẹ 2022.

Tất cả những Bà Mẹ hiện diện, được tặng một phần quà, chai rượu vang và tiền mặt!

Những Bà Mẹ, gồm nhiều sắc tộc, khi nhận quà, khuôn mặt lộ vẻ hân hoan cảm động thấy rõ!

Một Bà Mẹ tâm sự: “Cảm tạ Nhóm Mõ Nhân Ái, đã nghĩ đến chúng tôi trong ngày đặc biệt này. Ngày xưa tôi cũng là Mẹ của 2 đứa con, nhưng sau khi ly dị, rồi mắc vào vòng nghiện ngập, chính phủ đã lấy lại, “tịch thu” hai đứa nhỏ! giờ chẳng biết chúng nơi đâu!” Nói rồi bà nhớ con, lau nước mắt.

Sau phần tặng quà cho các Bà Mẹ, là phần Xổ Số và Lì Xì phong bì đỏ chúc mừng, trong đó có chút tiền mặt.

Đặc biệt các Bà Mẹ thiện nguyện trong Nhóm, mỗi người cũng nhận được một phần quà mừng lễ.

Sáng hôm sau, Thứ Bảy, ngày 7 tháng 5, Ban Tổ Chức Lễ Chào Cờ, đã phối hợp với Anh Hải, để trao tặng gần một trăm phần quà đến các Bà Mẹ VN hiện diện.

Trong phần vinh danh, trước khi tặng quà, Anh Hải phát biểu: “…Đến đây, xin được gởi lời Cảm Tạ đến các Bà Mẹ trong thời chinh chiến, trước 75. Không có Bà Mẹ phải chịu đựng đau khổ, gian nan, hơn những người vợ Lính VNCH cả. Nuôi con để chồng đi đánh giặc, ngừng tiếng súng, thì phải nuôi chồng trong các trại tù cải tạo! Có mỗi một đứa con trai, cũng hy sinh trong cuộc chiến! Biết bao nhiêu đau thương khốn khổ, nước mắt, kể không hết! Cuối cùng tan tác, ngậm ngùi bên phe “thua cuộc chiến!” Đầy đọa trong những vùng kinh tế mới, vượt biển, bị hãm hiếp….Nói lời Cảm Tạ chắc chắn không đủ, trong giây phút đặc biệt này!”

MỪNG NGÀY HIỀN MẪU

(Xướng – Bát điệp từ “Mẹ”)


Hoa Kỳ “Lễ Mẹ” tháng Năm đây”

Ngày Mẹ” tám tây, chủ nhựt nầy

Công trọng Mẹ nuôi, cao tựa núi

Nghĩa dày Mẹ dưỡng, rộng dường mây

Gia đình, Mẹ đã tô bồi đắp

Sự nghiệp, Mẹ từng tiếp dựng xây

Thắp nén tâm hương con khấn Mẹ

Mẹ ơi! Nỗi nhớ thật đong đầy…


DUY ANH

Orlando, May 8th 2022

CÁC BÀI HỌA CỦA THI HỮU

KHÓC THƯƠNG MẪU TỪ

*

Hiền Mẫu nhớ ngày lễ trọng đây

Tháng Năm Chủ Nhựt tám tây này

Cù lao chín chữ cao hơn núi

Cúc dục tam sanh lớn quá mây

Cơm áo gạo tiền luôn gánh vác

Cửa nhà bếp núc vẫn lo xây

Nay con tưởng nhớ, thương từ mẫu

Thắp nén tâm nhang mắt lệ đầy…

Mai Xuân Thanh

  May 03, 2022

*

MẸ SỐNG MÃI BÊN CON

*

Nhớ mẹ công lao ghi lại đây

Tình thương nghĩa nặng đủ đông đầy

Ngày nào cặm cụi cây ăn trái

Ngày ấy gian lao vầng gió mây

Hương khói trầm buồn qua lệ ướt

Tàn nhan sâu đắng cuồn cuộn xây

Bàn thờ bóng mẹ như sao sáng

Lúc tỏ lúc mờ nước mắt đầy

Trần Đông Thành

*

MẸ VÀ CON

*

Mùa đang vào hạ, ” mother ‘s day “

Mẹ vẫn bên con, tuổi tác này

Cho dẫu trưởng thành hay ấu trĩ

Càng hay thấp bé tưởng cao mây

Xưa đi trấn thủ, lo mưa chuyển

Nay hết lưu đồn, nhớ khói xây

Bảo bọc gia môn qua chiến nạn

Trời thương mẫu tử nghĩa ân đầy …

Utah  3 – 5 – 2022

CAO MỴ NHÂN

*

MỪNG LỄ MẸ

*

Lễ Mẹ hằng năm sẽ tới đây,

Nhớ ơn từ mẫu kiếp sanh nầy.

Công dày chất ngất cao như núi,

Nghĩa cả phủ tràn rộng tợ mây.

Khốn khó đưa lưng vai gánh vác,

Nhọc nhằn đem sức đắp bồi xây.

Tâm thầm khấn nguyện xin Trời Phật,

Phúc đức ban cho Mẹ hưởng đầy.

HỒ NGUYỄN

  (03-5-2022)

*

NHỚ MẸ

*

Tháng năm ngày tám đến rồi đây,

LỄ MẸ về trên đất nước nầy,

Lòng mẹ bao la hơn biển cả,

Mẫu từ cao vút ngất trời mây.

Mẫu tâm lo trẻ thường thao thức,

Mẫu ý  vì con mãi  đắp xây.

Biền biệt phương trời con ngóng mẹ,

Nửa vòng trái đất nhớ thương đầy !…

Đỗ Chiêu Đức

 05-03-2022

*

MỪNG NGÀY HIỀN MẪU

*

Lễ Mẹ, Hoa Kỳ sắp đến đây

Tám tây, vọng Mẹ ở phương nầy…

Hoài thai Mẹ giữ, ân vờn núi

Dưỡng dục Mẹ gìn, đức cuộn mây

Mẹ gánh sầu bi vì tạo dựng

Mẹ gồng khổ cực bởi bồi xây

Hương lòng tưởng đến công lao Mẹ

Nhớ Mẹ…bờ mi ngấn lệ đầy !

Thanh Song Kim Phú

CA. May/3 rd/2022

*

MẸ ƠI !

*

Mừng Ngày Hiền Mẫu

*

Bạc mùa dầu dãi Mẹ nằm đây

Mộ chí mưa sương thấm đất nầy!

Đáy huyệt âm hồn dầm cát bụi

Trên mồ  dương khí lõa trời mây!

Cù lao báo đáp công Cha đắp

Cúc dục đền bồi nghĩa Mẹ xây

Kính “Lễ Mẫu Hiền”, hồn tưởng vọng

Chất thương chồng nhớ mãi khôn đầy!

       4-5-2022

Nguyễn Huy Khôi

*

MỪNG LỄ MẸ

*

Ngày hiền mẫu đã đến rồi đây

Chủ nhật, vài ba bữa nữa này

Xót mẹ đang tâm rời cố quận

Thương người,nẫu dạ tới chân mây

Áo cơm,tuổi trẻ chăm bồi dưỡng,

Sự nghiệp,thành thân,tiếp dựng xây.

Công nặng ,ơn dầy khôn báo đáp,

Rưng rưng khoé mắt…lệ dâng đầy

Thanh Hoà

04/05/2022

*

MOTHER’S DAY

“Lễ Mẹ” là ngày chủ nhật đây

Tháng năm mồng tám nhớ hôm nầy

Thương con nghĩa rộng tràn sông biển

Quý trẻ tình dày vượt núi mây

Cảnh khó nồi rau trồng cuốc dựng

Quê nghèo bát gạo bán buôn xây

Giờ người đã ngủ yên nghìn giấc

Di ảnh khói hương mắt lệ đầy

  Minh Thuý Thành Nội

Tháng 5/4/2022

MẸ

*

Con vẫn trông chờ ” Mother’s day “

Ngày vui nắng hạ tuổi hoa đầy

Xa xôi tiếng Mẹ khôn làm nũng

Cạnh gối Cha nghiêm khó vén mây

Bế ẵm ru con lời dịu ngọt

Đu đưa võng dỗ giấc mơ xây

Mẹ ơi ! nhớ Mẹ từng hơi thở

Hơn chín mươi năm trái Đất này …!

CHUNG VĂN

    4/5/2022

*

NGÀY NHỚ MẸ

*

Ngày tạ sinh thành sắp đến đây

Mẫu tử tình thâm ở kiếp nầy

Mang nặng đẻ đau lo bảo trọng

Lớn khôn công ấy thấu từng mây

O oe con khóc mẹ lo lắng

Trở gió ấm đầu Người xẩm xây

Biển cả bao la đâu sánh kịp

Bao nhiêu báo đáp biết cho đầy.  ….

Yên Hà

5/5/2022

*

MẸ Ở TRONG LÒNG

*

Sống ở trong lòng,Mẹ vẫn đây

Thân con,máu Mẹ dưỡng sinh nầy

Con nghe Mẹ khóc lần đi biển

Mẹ thấy con cười lúc giỡn mây

Nguồn cội,Mẹ khuyên ra sức giữ

Quê nhà,Mẹ dặn góp công xây

Truyền lưu bếp Mẹ ngời thiêng lửa

Mẹ nhóm tin yêu,hạnh phúc đầy…

Lý Đức Quỳnh

    5/5/2022

*

THƯƠNG NHỚ LỆ ĐẦY

*

Tám tháng năm ngày “Lễ Mẹ” đây,

Vinh danh Hiền Mẫu thế gian này.

Ba niên bú mớm lòng như biển,

Chín tháng nâng niu đẹp tựa mây.

Cơm áo thuốc men nuôi chóng lớn,

Tiền đồ sự nghiệp cố công xây.

Kể sao cho siết bao công đức,

Một nén nhang thương nhớ lệ đầy.

 Mỹ Ngọc.

May 6/2022.

*

NHỚ NGÀY HIỀN MẪU

*

Tiếng MẸ trong tôi đẹp thật đây

Công ơn trời biển thế gian này

Mem cơm mớm cá bao năm tháng

Giấc ngủ ru nôi vút tận mây

Chập chững bước đời tay dẩn giắt

Vỡ lòng chữ nghĩa quyết tâm xây

Giờ đây cát bụi cơn  mưa nắng

Nén hương khẩn lạy kính dâng đầy

NAM GIAO

*

TÌNH MẸ BAO LA

*

Cháu con, dâu rể tụ về đây,

Lễ Mẹ năm nay chủ nhật nầy.

Thân mẫu cưu mang hơn chín tháng,

Công ơn sanh dưỡng tựa trời mây.

Tam đa quy hợp(*) lòng mong ước,

Tứ đại đồng đường(**) nghĩa dựng xây.

Chín chữ cù lao luôn tạc dạ.

Bao la tình mẹ nhớ thương đầy.

Ngô Văn Giai

     Virginia, May 6/2022

(*) Tam đa quy hợp:Ba điều hạnh phúc:Phước,Lộc,Thọ

(**)Tứ đại đồng đường:Bốn đời cùng ở chung một nhà,ý nói gia đình hòa thuận bốn đời:đời cha,đời con,đời cháu,đời chắt.

*

TƯỞNG NHỚ MẸ HIỀN

*

Mừng ngày lễ Mẹ ở nơi đây

Mùng tám tháng năm chủ nhật này

Công đức rộng tràn như bốn biển

Nghĩa tình cao vợi tựa ngàn mây

Tương lai con cái luôn vun vén

Hạnh phúc gia đình mãi đắp xây

Sâu thẳm lòng con luôn nhớ Mẹ

Yêu thương, kính trọng cứ dâng đầy

   Sông Thu

( 07/05/2022 )

*

CẢM XÚC TRONG NGÀY TỪ MẪU

*

Mother’s Day lại đến rồi đây

Lòng chợt buồn ơi, đón Lễ này 

Con trẻ thân côi xa tít tắp 

Mẹ già mộ vắng khuất trời mây

Tục Tiên hai cõi sao tìm thấy

Tình hiếu đôi đàng khó đắp xây 

Xuất giá tòng phu thành lỗi đạo

Từ thân huyệt lạnh nhớ vơi đầy

Phương Hoa – May 4, 2022

*

MẸ

*
Con vẫn trông chờ ” Mother’s day”

Ngày vui nắng hạ tuổi hoa đầy

Xa xôi tiếng Mẹ khôn làm nũng

Cạnh gối Cha nghiêm khó vén mây

 Bế ẵm ru con lời dịu ngọt

Đu đưa võng dỗ giấc mơ xây

Mẹ ơi ! nhớ Mẹ từng hơi thở

Hơn chín mươi năm trái Đất này …!

CHUNG VĂN4/5/2022

*

THƠ XƯỚNG HỌA: MỪNG LỄ MOTHER’S DAY – PHƯƠNG HOA & THI HỮU

MỪNG LỄ  MOTHER’S DAY

(Xướng)

Chúc Lễ Mother’s Day gấm hoa

Tình yêu tỏa sáng rực muôn nhà

Sinh thành ân trọng tày sông lớn

Dưỡng dục nghĩa dày sánh biển xa

Trọn hiếu thức ngon vui dạ Mẹ

Tràn tâm lời ngọt đẹp lòng Bà

Vòng ôm ấm áp truyền năng lượng

Ấy món quà dâng quý ngọc ngà

  Phương Hoa

Mother’s Day 2022

CÁC BÀI HỌA

HAPPY MOTHER’S DAY…!

*

Mother‘s Day tặng Mẹ ngàn hoa

Sáng toả yêu thương khắp cửa nhà

Sinh dưỡng đạo đồng so biển lớn

Cù lao cúc dục sánh non xa

Chăm ngoan cần mẫn vui lòng mẹ

Hiếu thảo siêng năng đẹp dạ bà

Đãi tiệc hàn huyên con cháu chắc

Gia đình đoàn tụ dưới trăng ngà

MAI  XUÂN THANH

     May 8/5/22

*

MƯỢN HOA THAY LỜI

*

Mượn vẻ mặn mà muôn sắc hoa

Làm quà trao gởi đến nhà nhà

Lay ơn, thược dược màu phô thắm

Sen trắng, hồng nhung hương tỏa xa

Âu yếm nâng niu dành tặng Mẹ

Chân thành, quý trọng kính dâng Bà

Bao nhiêu tình cảm thay lời nói

Sáng vượt trân châu, đẹp vượt ngà

Sông Thu

 ( Ngày Hiền Mẫu 2022 )

*

ĐỨC TRỜI & CÔNG BIỂN

*

Tấm lòng của mẹ ngát hương hoa

Bay tỏa lan ra khắp cả nhà

Ấy dẫu bây chừ bu đã vắng

Đây dù hiện tại mợ thời xa

Trời cao lồng lộng khôn so mẹ

Biển rộng mênh mông khó sánh bà

Công đức dưỡng nuôi đàn con dại

Xót nay nắm đất phủ thân ngà..!

Thái Huy

  5/9/22

*

MẸ TÔI

Cấy lúa trồng khoai, chẳng thiết hoa

Mẹ vun quén giữ ấm êm nhà

Quê làng suốt kiếp dìm thân mọn

Phố thị chưa lần biết chốn xa

Cảnh có phiền ưu đời thế tục

Tâm không oán hận cõi ta bà

Chồng con sớm tối vui cùng phận

Tóc bạc quên luôn chiếc lược ngà…

Lý Đức Quỳnh

    9/5/2022

*

BÓ HOA NGÀY LỄ MẸ

*
Tay con ôm một bó hồng hoa

Lễ mẹ tràn lan đến mọi nhà

Chân bước rộn ràng tim đập nhẹ

Lòng vui dào dạt sóng vờn xa

Quỳ dâng âu yếm trao lên mẫu

Kính chúc vời cao gởi tặng bà

Tiếng hát lời ru công dưỡng dục

Thiên thu ngời sáng dưới trăng ngà.

*

 Lê Mỹ Hoàn5/10/2022

CHÚC MỪNG LỄ MẸ

*

Chúc mừng Lễ Mẹ tặng ngàn hoa,

Rạng rỡ vui reo khắp mọi nhà.

Công khó sinh thành sông bến rộng,

Ơn cao nuôi dưỡng biển trùng xa.

Nhọc nhằn chẳng quản bên con cháu,

Vinh hiển yên tâm thỏa phận bà.

Kỉnh dạ Mẫu Từ cao giữ trọng,

Thâm ân hiếu thảo quý hơn ngà.

HỒ NGUYỄN (10-5-2022)

*

CHIẾC ÁO CÀI BÔNG HỒNG

*

Mother’s day trên chiếc áo cài hoa

Có mẹ bên con lúc vắng nhà

Nhớ lắm khi bồng con tắm suối

Sao quên lúc cõng trẻ đi xa

Tới chùa cầu nguyện con vui khỏe

Lạy tổ hộ gia cháu của bà

Hình ảnh mẫu thân luôn sống mãi

Gia đình hủ hỷ trước trăng ngà

Trần Đông Thành

*

CHÚC MẸ MỘT NGÀY VUI

*
Biếu mạ hôm nay một giỏ hoa,

Đến thăm Từ Mẫu, rể, dâu nhà

Sinh thành, nuôi dưỡng: ơn trời rộng

Bảo bọc yêu chiều: đức biển xa

Tạc dạ con  ngoan, thương mẹ, bố.

Ghi tâm cháu thảo, quý ông bà

Cầu mong ngày tháng đừng qua vội,

Giữ mãi me tôi, tóc chẳng ngà!

Thanh Hoà 10/05/2022

*

Mừng “Lễ Mẹ

*

Chuẩn bị hôm này mấy bó hoa 

Mừng chung  “Lễ Mẹ“ họp nơi nhà

Trùng khi lắm buổi luôn rời biệt 

Gặp việc nhiều ngày mãi ở xa

Tiếng ngọt ôm người đùa thỏa mẫu 

Lời êm níu cổ giỡn vui bà 

Quà trao cắt bánh dâng cười rộn 

Hiếu thảo đừng quên quý tợ ngà        

Minh Thuý Thành Nội          

 Tháng 5/10/2022

*

MỪNG LỄ MẸ HIỀN 

*
Cho dù ý Mẹ chẳng cần hoa

Giả bộ vì quên khiến rộn nhà!

Huệ Đỏ, Nhật Quỳnh mua chợ mới 

Cúc Vàng, Hồ Điệp sắm miền xa

Bầy con nghĩa vẹn vâng lời Bố

Đám trẻ tình thâm cảm động Bà 

Hiền Mẫu trưa nầy ngưng nhóm bếp 

Lòng như mở hội đón trăng ngà! 

*
Như Thu 05/10/2022




THƠ XƯỚNG HỌA LỤC CÚ: Khách Giữa Trời –  CAO MỴ NHÂN Và Thi Hữu & THƠ THỔ NGỮ Cao Mỵ Nhân

THƠ LỤC CÚ XƯỚNG HỌA

KHÁCH GIỮA TRỜI

(Xướng)

*

Chim bay sao cánh lại buông lơi
Nghe tự thâm tâm giấu những lời
Tha thiết, thầm thì, thao thức thiệt
Thật thà, thủ thỉ, tưởng tượng thôi
Mây đang lãng đãng về xa thẳm
Ta cũng như đôi khách giữa trời…

CAO MỴ NHÂN

***

CÁC BÀI HỌA

CHIM TRỜI

*

Chim tạo điệu bay tránh lả lơi
Thân hình nhẹ nhõm nói muôn lời
Lượn qua lượn lại trông nhàn nhã
Xuống thấp lên cao thấy thảnh thơi
Bầu bạn không gian luôn khắng khít
Tự do tung cánh khắp bầu trời.

MAI HUYỀN NGA

***

HẸN ƯỚC TRĂNG SAO

*

Ngày ấy, câu hò, giọng lả lơi
Tiếng ca văng vẳng chưa nhiều lời
Bon chen kiếp sống vươn lên nữa
Vất vả đời người tránh thiệt thôi
Đã hẹn gặp nhau nơi góc biển
Mà đi mất biệt chốn phương trời.

TRỊNH CƠ

***

ĐỨNG KÊU TRỜI

*

Hụt hẫng chim về cánh mỏi lơi
Mây ra biển đắm bặt im lời
Bốn phương gió lộng miền tâm tưởng
Một nẻo quê mờ phía núi thôi
Sóng dạt năm châu, thuyền cặp bến
Không chân trụ điện đứng kêu trời.

LÝ ĐỨC QUỲNH

***

PHÚT CHIA LY

(Lục vỹ đồng âm)

*
Đôi chim quạt cánh chập chùng lơi

Đón phút chia ly mới nghẹn lời

Tức tưởi, tình tan, tiều tụy tới

Tái tê, tụ tán, thảm thương thôi       

Gió chia đồng cảm ngừng không thổi

Nắng loé buồn che một góc trời

*
Phương Hoa

THƠ THỔ NGỮ.  –  CAO MỴ NHÂN

 *

Cả nước là thi sĩ

Nên em cũng làm thơ

Có chi mà ngại nhỉ

Chỉ cần chút mộng mơ

 *

Từ thôn quê ra tỉnh

Từ đồng bằng lên non

Tưởng ngôn từ lỉnh kỉnh

Hoá chữ nghĩa dập dồn

 *

Anh bảo rằng thổ ngữ

Đẹp như núi, như sông

Người ở hai thành phố

Đọc thơ nghe mênh mông

 *

Bao nhiêu câu vần điệu

Em đã viết ra lời

Nhưng vẫn còn túng thiếu

Giọng nói, nàng thơ thôi

*

Ông bà xưa la mắng

Bằng ví von ca dao

Dân tộc ta không vắng

Lời hò hẹn xôn xao

 *

Thế nên …toàn thi sĩ

Trong nhà, hay ngoài đường

Dẫu nam nữ già trẻ

Thốt ra đều vấn vương…

 *

CAO MỴ NHÂN (HNPD)




THƠ: MÁI TÓC – Thanh Thanh – LÊ XUÂN NHUẬN

MÁI TÓC

      Cho Vân-Anh

*

Nàng có mái tóc huyền

Đẹp như tranh thủy-mặc;

Đường nét thật dáng duyên,

Thật mặn-mà màu sắc.

*

Tóc như múa nghê-thường;

Sóng đàn như tóc lướt;

Tóc như ướp trầm hương;

Tóc như nhung mịn mướt.

*

Khi nàng về với tôi,

Nàng thay nhiều kiểu chải;

Như mắt, má, và môi:

Vui tươi và trẻ mãi .

*

Tôi vuốt dợn tóc êm,

Tôi hít mùi tóc thuộc.

Nắng biển và sương đêm:

Tóc kiêu hào nhập cuộc.

*

Đời rộng cánh bằng+âu;

Thanh-bần nên sướng chán.

Đôi lứa tưởng còn lâu

Mới bạc đầu, hói trán.

*

Nhưng, chớp bể, mưa nguồn!

Sắt thép kìm xương thịt:

Mắt nàng rát lệ tuôn,

Lưỡi tôi tê mật rịt!…

*

Nàng lặn-lội thăm tôi;

Tóc trùm khăn lấm bụi;

Tôi tránh nhìn mắt, môi;

Cổ nghẹn lời tức tủi .

*

Rồi, một hôm (ngỡ-ngàng!)

Nàng tháo khăn gỡ rối,

Tôi sửng-sốt nhìn nàng:

Tóc điểm màu tiêu-muối!

*

Ôi! Mới một thời-gian

Mà cồn dâu, bãi bể!

Giếng hẹp ếch gào khan;

Bức bần nên khổ thể!

*

Mắt nàng đã quầng thâm;

Môi khô và má hóp.

Nhìn mái tóc hoa-râm,

Tim tôi như nghiến bóp!

*

Tóc hết múa nghê-thường!

Sóng đàn tóc hết lướt!

Tóc hết ướp trầm hương!

Tóc hết nhung mịn mướt!

*

Tôi muốn vuốt tóc nàng,

Mà bị đời ngăn cấm!

Đành đợi giấc mơ-màng

Để sưởi lòng tạm ấm!

*

Nàng thương tôi mặn-nồng,

Vì tôi mà lận đận.

Tóc nàng càng trắng bông,

Lòng tôi càng uất hận!

*

                    THANH-THANH

              (Trong “Cơn Ác-Mộng”)

Lê Xuân Nhuận




THƠ NGƯỜI TRONG NƯỚC: Uất Nghẹn – TRƯƠNG CHI

Hình Trương Chi -Nguồn: Internet

UẤT NGHẸN

Một nhà thơ trẻ, một anh hùng xuất hiện!

Ít nhất quý vị cũng nên đọc 1 lần và phổ biến rộng rãi 

***

1. Tôi sinh ra giữa lòng Cộng Sản

Và lớn lên dưới ảnh Bác Hồ

Bao nhiêu năm viết “Độc lập – Tự do

và Hạnh phúc” nhưng chưa từng thấy thế

*

2. Đất nước tôi có bao người tuổi trẻ

Đều lầm tin vào lịch sử Đảng truyền

Họ nói rằng: Bác là thánh, là tiên

Người đưa Nước thoát khỏi vòng nô lệ

 *

3. Nhưng trong tôi thắp muôn vàn lý lẽ

Cuộc chiến nào mà Đảng thắng – Nước thua?

Dân làm giặc mà Đảng lại làm vua

Trên danh nghĩa “kẻ tôi đòi trung hiếu”

 *

4. Đất nước tôi tất thảy do Đảng liệu

Đảng phân công, quản lý hết cuộc đời

Từ cây kim, sợi chỉ đến chén cơm, manh áo dù rách nát, nhỏ nhoi

Thì tất cả đều nhờ ơn của Đảng

 *

5. “Yêu Tổ quốc” có nghĩa là “yêu Đảng”

“Chống chính quyền” là “phản bội quê hương”

Bao người vì non sông với niềm tin vào ngày mai nước Việt hùng cường

Đều lần lượt chịu tù đày, khổ ải

 *

6. Đất nước tôi có gì không độc hại

Từ thức ăn, nước uống đến không khí ô nhiễm tràn lan

Từ nhu yếu phẩm của đứa trẻ sơ sinh đến cụ già sắp lìa khỏi trần gian

Đều tẩm độc vào xác – hồn nước Việt

 *

7. Có nơi đâu mà người dân thua thiệt

Bằng thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa thế này không?

Máu dân oan đã nhuộm đỏ sông Hồng

Loài hung bạo chiếm hết trời – đất – biển…

 *

8. Đất nước tôi với mọi điều trái ngược

Ngược văn minh, ngược tiến hóa loài người

Những phát ngôn của quan chức nực cười

Ngược đời thế, nhưng “tài tình lãnh đạo”

 *

9. Ươn hèn nhất, bọn bút nô – Tuyên giáo!

Với hàng trăm tờ báo, đài vô tuyến – truyền hình

Ngoài mị dân, ru ngủ, chỉ những tin “cướp – giết – hiếp” hay bản nhạc “đúng quy trình”

Còn nhục nước họa dân thì muôn đời nín lặng

 *

10.. Đất nước tôi với sưu cao thuế nặng

Còn hơn thời phong kiến, thực dân

Những trạm BOT mọc lên khắp tỉnh thành

Cùng hàng vạn “áo vàng” chực rình thu mãi lộ

 *

11. Ôi chân lý mà bao người “giác ngộ”

Làm suy đồi đạo đức mấy ngàn năm

Đưa quốc dân vào chia rẽ – thù hằn

Và kiềm tỏa đường tương lai dân tộc

 *

12. Đất nước tôi mất dần vào Trung Quốc

Mất Hoàng Sa, rồi mất đến Trường Sa

Mất Biển Đông, Bản Giốc, rồi những nơi trọng yếu của nước nhà

Đảng biết rõ, nhưng làm ngơ tất cả

 *

13. Từ có Đảng, biết bao điều tai họa

Như mệnh trời muốn thử thách người Nam

Mà Đảng vẫn huênh hoang nào “thắng lợi vẻ vang”

Nào “thời đại Hồ Chí Minh”, nào “dân giàu nước mạnh”

 *

14. Đảng hào nhoáng với ngai vàng lấp lánh

Còn dân đen thì đói khổ, nghèo nàn

Những ủy ban, hội đồng… đều mang mác “nhân dân”

Chỉ kho bạc là của riêng “nhà nước”

 *

15. “Đổi mới” rồi “kiến tạo” với bao đời Thủ tướng

Bao đời Tổng Bí thư từ Chinh, Duẩn, Linh, Mười…

Bao sai lầm mà Đảng chẳng nên người

Sợi kinh nghiệm rút kiếp nào cho hết

 *

16. Đảng cứ sống và dân thì cứ chết

Cứ chết dần trong mơ ước tàn phai

Trong căn bệnh ung thư hay tai nạn giao thông… rồi sẽ đến một mai

“Chết từ từ” để giết nòi giống Việt

 *

17. Tôi xấu hổ khi nói cùng thứ tiếng

Và viết chung ngôn ngữ với một đảng đê hèn

Hít thở bầu khí quyển màu đen

Bóp nghẹt Tự Do ở dưới triều Cộng Sản

 *

18.. Tôi sinh ra giữa lòng Cộng Sản

Nhưng tôi là một người Việt Tự Do

Trong tim tôi là lý tưởng Quốc Gia

Và chính nghĩa là chủ trương dân tộc

* 

19. Xin cảm ơn những tấm gương bất phục

Và những người yêu Nước của hôm nay

Đã dấn thân vào những chốn đọa đày

Vẫn khí khái cất cao lời tranh đấu

 *

20. “Ghét Cộng Sản” chẳng bao giờ là xấu

Yêu đồng bào” từ giòng máu Việt Nam

Chúng ta là con cháu xứ Văn Lang

Và thề quyết làm sáng danh Hồng – Lạc

 *

21.. Hỡi những người trai, cô gái Việt

Hãy đứng lên vì non nước lầm than

Diệt bá quyền, lật đổ lũ tham tàn

Cho không thẹn với hồn thiêng sông núi

 *

22. Hãy bước đi theo tiếng đời thúc gọi

Triệu tấm lòng vì đất nước – quê hương

Sẽ noi gương anh dũng của Trưng Vương

Mang ý chí Diên Hồng xây đắp nền Cộng Hòa tự chủ.

*

TRƯƠNG CHI




CHÙM TÌNH THƠ Cao Mỵ Nhân & Bài Viết “Ở MỘT GÓC PHỐ”

PHÚT TỪ LY CỦA XÃ ĐOÀI.   CAO MỴ NHÂN 

*

Tôi còn nhớ

Ngày Xã Đoài về phương tây

Có con chim cú mầu hoàng kim rực rỡ

Đậu trên ngọn cây 

Thả rơi tiếng kêu 

Xót thương người tình lỡ 

*

Một bầy quạ mặc áo choàng đen 

Hót lên lời sầu muộn

Sau lễ nửa đêm 

Xã nằm cô đơn nghe chuông cầu nguyện

Không có ai thân quyến

Không có ai bạn bè*

*

Giờ khắc tử sinh

Tôi co mình trong mộng mị

Xã nhớ tôi không nhỉ

Chắc chắn gọi tên ” Mỵ ” 

( Em ở đâu

Sao không đến bên nhau )

*

Ôi, ” mối tình đầu “

Hay giây phút cuối

Lỡ cuộc tình sau

Say mê, đắm đuối 

Xã Đoài về phương tây

Đôi mi khép che nỗi buồn tiếc nuối …

*

Hawthorne  22 – 4 – 2022

         CAO MỴ NHÂN

BẤY NHIÊU THÔI.    CAO MỴ NHÂN 

*

Mới sớm tinh mơ

Bầy chim sẻ ngủ ở đầu hồi đêm qua

chưa thức giấc

Vị sư công phu đã lên đường đi hành khất

Trên bình bát để cuốn pháp ký

” Có bấy nhiêu thôi “

Của Ngài Kim Triệu Khippapanono.

*

Tôi là một Phật Tử tình cờ

Chưa bao giờ tụng hết một cuốn kinh mỏng

Chỉ chúi đầu vào những tập tình thơ

Nên cứ băn khoăn dòng chữ :

” I will go with you ” cả đời tôi đơn lẻ

Làm sao có chuyện đồng hành

Nên chỉ muốn đi bên cạnh anh

*

Đi bên cạnh anh

Nhưng anh đang định đi tu

Thì anh cứ việc đi tu

Cứ suy nghiệm bao lý đạo, tình đời

Anh đã có pháp danh là ” Thích Tuyệt Vời ” 

*

Tôi rời khỏi đường tu

Nơi trồng toàn hoa vô ưu tưởng tượng

Ngắt đọt lá xanh rờn 

dưới tàng cây cao ngất

Nghe lời kệ ” Có bấy nhiêu thôi ” 

Vâng, tôi cũng chỉ viết được 

Có bấy nhiêu thôi …

*

   CAO MỴ NHÂN 

KHI HOA ĐÀM NỞ.    CAO MỴ NHÂN 

*

Bao giờ khói tản đồi mơ

Sương tan dưới lũng, cho thơ mộng về 

Tình rồi cũng hết u mê

Gió tha phương cuốn lời thề lên cao

*

Bấy giờ trăng bỏ muôn sao

Cô đơn trôi giữa chiêm bao đất trời 

Cây trường sinh suốt cuộc đời 

Không hề rụng lá, hoa vời nguyệt tan

*

Thế rồi hồn lịm than van

Thoắt chơi vơi giữa hoang tàn mênh mông 

Sô tang gói chặt phiêu bồng

Đưa chân tri kỷ, tiễn hồng nhan đi

*

Ôi chao tử biệt, sinh ly

Là thôi, trả lại từ bi cho người

Ma ma Phật Phật, nụ cười

Đoá ưu đàm nở trên môi muộn màng …

*

     CAO MỴ NHÂN  

Ở MỘT GÓC PHỐ.    CAO MỴ NHÂN 

Ông với tôi đúng là một cặp chị em không biên giới, bởi vì nếu đem 2 tờ giấy khai sinh ra đo, rõ ràng chúng tôi không cùng cha mẹ, ông họ Nguyễn, tôi họ Lê, tôi tên Lê Thanh Quỳnh Phương, tạm gọi thế. 

Ông nhỏ thua tôi mấy tuổi chả biết, song chẳng cần nhỏ lớn, xã giao thôi, tôi đã giữ vai chị là cái chắc rồi . 

Nhưng ngoài những điều nêu trên, đứng giữa cuộc đời, tôi chẳng thể nào làm chị ông được. 

Chỉ cần nhận định một số việc từ đơn giản đến phức tạp, ông đã chẳng ngang hàng, mà vượt lên cao, có lẽ gấp …nhiều lần tôi lắm, trong tất cả mọi vấn đề . 

Sự kiện không khiến tôi mắc cở, ganh ghét hay vân vân gì khác, mà tôi còn cảm thấy hãnh diện là khác. 

Nếu trong võ lâm cổ điển, tôi sẽ xưng tụng ông là ” hiền đệ ” để xoa dịu tự ái của cả hai “chị em” , nhưng đang trong thế giới văn minh, khoa học thế này, rõ ràng ông đáng bậc thầy tôi về kiến thức và phẩm chất phong thái, tính tình .

Nên nếu đúng ra mà nói ông có tư cách của một người …chủ soái . 

Song đôi khi tôi mến mộ ông quá, lại gây cho ông những phiền toái tầm thường, mới đáng tiếc. 

Và tôi sợ hãi không dám nghĩ thêm, đừng nói viết thêm . 

Tôi đã thực sự mất hút một cánh chim trời viễn mộng lâu năm, tôi bỗng giận tôi ghê gớm. 

Chao ôi hình ảnh con gà nuốt giây thung là tôi, cảm giác tự mình bức hại mình dù vô tình. 

Tôi tìm hũ đậu vàng mà thủa tôi hạnh ngộ nhà báo, bình luận gia tên tuổi lão thành  Như Phong Lê Văn Tiến vừa xong tù cải tạo chính trị ở vncs, qua Hoa Kỳ năm 1994, tặng cho tôi.

Sau khi nhà báo lịch duyệt trên, hỗ trợ tôi một vòng đi nói chuyện về ” Dòng Thơ Trong Tù ” nhân dịp bạn lính Cao Mỵ Nhân ra mắt cuốn tạp ghi ” CHỐN BỤI HỒNG ” vào mùa hạ năm 1994 ở San Jose và San Diego . 

Hũ đậu vàng đơn điệu, mỗi ngày tôi bỏ vô hũ một hột đậu vàng, kiểu 2 hũ đậu trắng, đen mà người xưa khuyên : Mỗi ngày bỏ vô hũ một hột đậu trắng là đã làm được việc tốt, bỏ vô hũ một hột đậu đen là lỡ làm chuyện xấu . 

Cứ ngó vào số đậu trong hũ là rõ mình trắng đen ra sao . 

Nhà báo quá cố đó dặn tôi : Nếu chơi hai mầu đen trắng, vẫn có thể gian dối với mọi người và ngay với chính mình . 

Còn hũ đậu vàng thôi, như là tự chế ngự nếu đầu óc manh nha làm điều không tốt, hoặc hạn chế những điều không tốt ấy , đánh giá theo yếu tố thời gian. 

Như vậy phải bao lâu mới đầy hũ đậu vàng chứ . 

Song le, nào có cần chế ngự vv…đâu, khi được thoải mái tự do, con người ta dễ tha thứ cho mình lắm. 

Tôi đã bỏ quên hũ đậu vàng quá lâu, nên hôm nay tìm thấy, tất cả hũ đậu đã mọt, tôi đổ vô thùng rác . 

Ngồi buồn lại mở báo chí gần xa ra đọc. Không biết ai đã viết vào sổ ghi chép của tôi câu ” Loạn độc thư cao ” . 

Thì đúng rồi thời loạn mà đọc sách thì cao giá trị con người ,

” Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao ” . 

Chu choa, mọi sự đều thấp kém, chỉ có đọc sách mới cao thượng. 

Ông có cách xử thế bình tĩnh, đầy sức ” thuyết phục “, chẳng có chi làm khó bà chị cả  …

Đó chỉ là công chuyện bình thường, cần và nên thay đổi chút cho sự việc ở đời lúc nào cũng mới mẻ, tân tiến dễ thành công.

Thay vì làm chị thân thương trong đại tộc nào đó, cũng đòi hỏi lòng vị tha, mới có thể em em, chị chị  được chứ . 

Tôi có vẻ không vui lắm, tai bỗng ù lên, loáng thoáng nghe được câu : ” chị nói như dỗi ” . Đúng rồi, rõ ràng tôi ru tôi vào cảnh dỗi hờn vô lý nhất . 

Chẳng có gì lạ, đối với phụ nữ, thiếu nữ thì đã đành, phụ lão có lúc cũng như trẻ con, tôi ngồi thừ khi ” người em ” đã biến dạng trên đường giây đàm thoại. 

Tại sao tôi dở thế ? Không phải dở đâu, mà vì được ưu đãi quá, nay bị hụt hẫng một chút thôi, cứ nghĩ là không vẹn tròn . 

Vài hôm sau tôi bình tĩnh lại, tôi lên một cơn cười thú vị, tôi vui tươi thực sự, bình thản thực lòng , tôi viết thư cho người bạn ở xa tít mù xa . 

Người bạn xa tít mù xa của tôi lúc nào cũng lặng lẽ, nhưng ông ta sẽ xử dụng ” văn chương ” hồi âm tư tưởng hay là suy nghĩ của tôi thì đúng hơn . 

Vị bạn võ lâm trong phong cách tiêu dao đã lần lần kéo tôi ra khỏi đám mù sương, khiến tôi phục quá . 

Có phải chúng ta lớn quá rồi , như trái chín sắp vỡ, hay sắp rụng, chúng ta chỉ còn thì giờ ngắm …thành quả thôi, không nên gọi gió lớn gây mưa bão . 

Tôi sợ quá, sợ thực sự thời gian dồn dập đến, không còn kịp nở nụ cười bầy tỏ lòng thương yêu chân chính, thành thật . 

Nỗi khó không phải ở tha nhân nhìn về, mà khó vô cùng từ chính chúng ta không hiểu rõ chúng ta, rất hồn nhiên, vô tư . 

 Tôi thầm lặng nhớ nhung anh, và thiếp đi trong giấc ngủ vừa kịp tới . 

            CAO MỴ NHÂN 




Bữa Ăn Một Mình – Cố Văn Sĩ HUY PHƯƠNG

Nhà văn Huy Phương đã ra đi nhưng còn để lại đời những bài viết rất đồng điệu, thấm thía.
********
Hiện nay tôi đang sống với gia đình cô con gái út. Cháu có một gái đã trưởng thành sống ở tiểu bang khác và một cháu trai đang học năm cuối của trung học. Chồng cháu thỉnh thoảng phải đi làm xa. Hai vợ chồng tôi đã đến tuổi già gần đất xa trời, nên thời khắc biểu của những thành viên trong gia đình rất khác nhau, nên ít khi chúng tôi ngồi lại cạnh nhau cùng ăn chung một bữa cơm. Buổi sáng thức dậy trễ, thì con cái đã đi làm, cháu đã đến trường, vợ thì luẩn quẩn ở sau khu vườn nhỏ, đành ngồi ăn sáng một mình. Buổi tối, thấy cơm canh đã sẵn sàng nhưng chưa thấy ai sẵn sàng cùng ăn với mình. Gọi vợ thì vợ bảo:

“Ông cứ ăn đi, tôi mới ăn củ khoai, còn ngang bụng!” 

Gọi con thì con thưa: “Ba cứ dùng cơm đi, con đang bận tay!” 

Ðứa cháu thì khi hiện khi biến, chẳng mấy khi gặp mặt, có khi ăn ở trong bếp hay đem phần ăn lên phòng riêng để có sự tự do một mình.

Tôi muốn có những bữa ăn đông người, vui vẻ, có tiếng cười nói rộn ràng, nhưng thường là phải ăn những bữa ăn một mình. Bữa ăn một mình thì đâu cần đến mâm bàn dọn ra ngay ngắn, tươm tất, sao cũng cho xong một bữa ăn. Một tô cơm trộn thức ăn, và một cái muỗng, ngồi trước máy computer hay trước máy truyền hình.

Bạn có nghĩ một bữa ăn như thế có dễ tiêu hoá, có lợi cho sức khoẻ hay không? Và một bữa ăn như thế có buồn không?

Tôi không bao giờ quên được những bữa ăn gia đình thời thơ ấu. Tất cả mọi người trong gia đình đều chờ nhau vào mâm cơm một lượt, dù là buổi sáng giờ trưa hay bữa chiều tối. Bữa cơm có cả ông bà nội, cha mẹ, cả anh chị cùng mấy đứa em nhỏ, kể cả thành viên nhỏ bé của đại gia đình là con mèo vàng luẩn quẩn chờ miếng ăn trong lòng bà nội tôi.

Rồi thời gian qua đi, kẻ còn, người mất, gia đình mỗi người một nơi. Tôi lớn lên, tạo lập một gia đình nhỏ, có những bữa ăn sum họp gia đình, nhưng không quên được những người đã đi xa, không còn hiện diện trên cuộc đời này nữa.Rồi chiến tranh, tù đày, xô đẩy con người mỗi người đi mỗi hướng.

Trong một trại tù nào đó, trên cái chõng tre tập thể, hay bữa trưa ngoài bìa rừng, tôi ngồi dùng đũa đếm những hạt ngô bung, xót xa nhớ đến những bữa cơm gia đình. Khi tôi từ nhà tù trở về, thì bữa cơm không còn là bữa cơm nữa. Con tản mát, vợ chạy gạo mỗi ngày, nồi cơm lạnh lẽo trên bếp, ai thấy thì ăn.

Thời Cộng Sản vào nhà, không còn hai chữ “sum họp,” cũng chẳng còn câu “ngồi lại với nhau.”

Ra hải ngoại, thì cái văn hoá “bữa cơm gia đình” cũng đã mờ nhạt. Ly cà phê bữa sáng trên xe, cái hamburger cùng ly coke vào giờ lunch và những buổi tối về nhà trong giờ giấc trước sau không đồng nhất. Phải chờ đến những ngày Lễ Tết, sinh nhật, cha con, anh chị em họa hoằn mới có dịp ngồi lại trong những bữa tiệc cuối tuần.

Các bạn còn trẻ có lẽ chưa cảm nhận được nỗi buồn khi phải ngồi ăn một mình. Thức ăn có ngon đến đâu, bổ dưỡng đến đâu mà không “dịch vị” của tiếng cười, niềm vui, chỉ còn “gia vị” của cô đơn, buồn nản, thì bữa ăn ấy chỉ còn là bổn phận ăn để sống.

Chính các vị y sĩ cũng đã khuyên người già “ăn uống phải có bạn, nên ăn chung với gia đình hay con cháu. Về phần con cháu, cũng không nên để cho cha mẹ mình ăn uống trong cô đơn buồn tẻ, vì khi ăn một mình, sẽ kém vui, và ăn ít đi, không tốt cho sức khoẻ. Sự cô đơn sẽ làm miếng ăn thêm cay đắng.”

Rõ ràng là tâm lý đã tác dụng vào sinh lý. Dù đau yếu, suy kiệt, mòn mỏi nhưng tôi vẫn nghĩ rằng những người sống chung với con cháu, hay còn vợ chồng có khả năng sống lâu hơn là những ông bà cụ già hiện đang sống một mình trong những căn phòng lạnh lẽo của những căn “nursing home.”

Trong nhà dưỡng hưu, tôi đã thấy những bữa cơm gọn gàng trong những cái khay nhỏ do nhà bếp đưa đến tận giường, để cả giờ nguội lạnh mà các ông bà vẫn chưa muốn ăn.

Tôi đã đến thăm nhà thơ Nguyễn Chí Thiện lẻ loi trong căn nhà già ở Santa Ana lúc ông chưa vào bệnh viện. Lúc ấy vào buổi xế trưa, mà từ sáng đến giờ, nồi cơm điện còn nguyên chưa được xới ra trên bếp, thức ăn còn để lạnh ngắt trong tủ lạnh. Ông thú nhận là ông không muốn ăn, mà chỉ ăn vì “nghĩa vụ,” một nghĩa vụ nặng nề! Chung quy cũng vì nỗi buồn cô đơn, thui thủi một mình.

Keith Ferrazzi, tác giả cuốn sách “Ðừng bao giờ đi ăn một mình (Never eat alone) không nói về sự cô đơn mà nói về sự giao tiếp đưa đến sự thành công và hạnh phúc cho cuộc sống.

Chúng ta không bàn đến chuyện “ăn một mình” theo lối này.

Ðã đi hết một chặng đường dài, đã lo toan cho mọi thứ, nhưng cuối cùng tuổi già cô độc bên mâm cơm, lặng lẽ một mình.

Những bậc cha mẹ già không mong con tặng quà, phải chi con ghé nhà thăm, ngồi ăn với cha hay mẹ một bữa cơm, nói cười như thuở ấu thơ.

Huy Phương




THƠ: XOÁ HẾT QUAN SAN – CHỦ NHẬT- KIẾP NÀY – MÙA NÀY – Cao Mỵ Nhân

XOÁ HẾT QUAN SAN.     CAO MỴ NHÂN 

*

Cuối tuần, em đi tìm anh

Không gian mở rộng, trời xanh, mây vàng

Tháng ngày tình tự mơ màng

Bước chân trên những lỡ làng, lẻ loi

*

Bao la trước mặt núi đồi

Mênh mông biển nghiệp luân hồi sau lưng

Chuông vang âm vọng ngập ngừng

Cánh chim  bay chậm, thả từng tiếng rơi

*

Trái tim đập nhịp tuyệt vời

Tìm anh tận cuối phương trời này sao

Nhưng thơ chưa viết nghẹn ngào

Thì anh đã tới, lời chào đắm say

*

Cuối tuần vui trọn hôm nay

Hoa nhung nhớ nở trên tay chưa tàn 

Anh cười xoá hết quan san 

Trao em tất cả muộn màng yêu thương…

*

      CAO MỴ NHÂN 

*

CHỦ NHẬT.    CAO MỴ NHÂN

*

Anh hỏi một câu nghe rất lạ

” Thăm em, Chủ Nhật, có nên không ? “

Đường đi chắc hẳn chưa xa quá

Thì chớ hồ nghi khách má hồng

*

Tuần trước, tại em cho lỡ hẹn

Tuần này anh giữ vẻ phân vân

Tuỳ anh, muốn đến hay không đến

Hay muốn từ đây thành cố nhân

*

Cũng được, bởi vì em đã nói

” Nếu không thích nữa, sẽ chia xa ” 

Có chi ràng buộc mà anh ngại

Chủ nhật này, em lại vắng nhà …

*

     CAO MỴ NHÂN 

**

KIẾP NÀY.     CAO MỴ NHÂN 

*

Anh nói với em :

” Cho xong một kiếp người ” 

Vâng, cho xong đi nhé

Đời sau mình rong chơi

*

Em đã khóc nấc lên

Đời này chưa tròn vẹn 

Kiếp khác làm sao quên 

Anh ngập ngừng gọi khẽ : ” Em ” 

*

Dặn dò rồi như thế

Hẹn hò có chi hơn 

Vẫn thở dài, nước mắt 

Vẫn u sầu, van lơn

*

” Anh đừng nói gì trơn 

Em quê mùa, dốt nát …”

Em không cần đời khác 

Kiếp này thôi, yêu em …

*

  CAO MỴ NHÂN 

**

MÙA NÀY.      CAO MỴ NHÂN 

*

Mùa này trời sáng lâu

Không phải mùa lâu sáng 

Anh bây giờ ở đâu

Đầy trời mây lãng đãng

*

Em ngó về phương nam

Đan Hồ vương khói biếc

Thấy cánh chim lang thang 

Bay ngang rừng hoa tím

*

Nhưng thu còn ở xa

Đợi người tình không đến

Lá chưa vàng bao la

Rơi trên đường đưa tiễn

                                               *

Mùa này trước bình minh

Bầy quạ đen thức giấc

Chúng kêu lên rối tinh

Họp đàn rồi bay mất 

*

Mùa này anh và em

Mỗi người một thiếu thất 

Cùng chờ mặt trời lên 

Cùng cô đơn chất ngất …

*

  CAO MỴ NHÂN 

**




THÁO GIÀY – Quyên Di

T H Á O G I À Y
(Bài này không liên quan gì đến chuyện “thầy giáo… tháo giày” và “giáo chức… dức cháo.”)

Tôi nhớ lại một truyện rất lý thú về sự tích đôi giày.

Truyện kể rằng ngày xưa có một ông vua sống rất xa xỉ. Mỗi khi đến đâu, ông bắt dân chúng nơi ấy phải trải thảm nhung trên tất cả những con đường ông đi qua. Càng được đón tiếp long trọng, ông càng thích đi; và ông càng đi, người ta càng phải trải nhiều thảm nhung cho ông bước lên.

Cho đến một ngày, người ta không kịp sản xuất nhung để lót đường cho ông vua. Điều này làm ông tức giận và ra lệnh rằng ông đến đâu mà không có thảm nhung lót đường, cả dân vùng ấy sẽ bị giết chết hết.

Thế nhưng đã có một người đến xin yết kiến vua, ông ta cam đoan rằng nếu vua theo ý ông, vua đi đâu thảm nhung cũng có sẵn mà không phải huy động một ai cả. Vua bằng lòng, và ông nọ dùng hai mảnh nhung nho nhỏ, khâu thành một đôi giày nhung rồi mời vua xỏ chân vào.

Thế là từ đó, vua đi đâu “thảm nhung” đi theo đến đấy.

Kỹ nghệ làm giày từ đó dần dần thành hình và phát triển.

Truyện này khiến tôi suy nghĩ và cảm thấy có liên hệ tới tính chất của những đôi giày. Đôi giày tượng trưng cho sự giàu có, hay ít ra cũng là đủ ăn đủ mặc, đôi giày làm cho người ta trở nên chững chạc, lịch sự. Đi đến nơi nào có vẻ quan trọng một chút, người ta xỏ chân vào đôi giày, tự nhiên trông có vẻ tươm tất ngay. Bà phu nhân của cố tổng thống Phi Luật Tân Marcos có tới vài trăm đôi giày đắt giá (1).

Tôi không biết có ai trong chúng ta có tới vài trăm đôi giày như vậy không, nhưng chừng vài chục đôi thì tôi cũng đã biết có người. Có những người ham thích mua giày, dư tiền một chút, họ đi sắm giày. Những đôi kiểu mới, họ mang thử vào chân, ngắm nghía rồi mua đem về, dù rằng những đôi cũ còn rất tốt, lại có những đôi họ chưa xỏ chân vào lần thứ hai.

Chính vì có nhiều người ham thích mua giày, đóng giày mà kỹ nghệ sản xuất giày phát triển rất mạnh, với nhiều hãng giày nổi tiếng. Có những đôi giày trị giá mấy trăm Mỹ kim (2), trong khi một đôi dép dùng hằng ngày trong nhà có thể chỉ phải mua với giá hai, ba đồng.

Đôi giày làm thành ranh giới của người no đủ và người nghèo đói. Đôi giày cũng làm thành ranh giới của người tự do và người nô lệ. Ngày xưa, trong một số xã hội nào đó, chỉ những người tự do mới được quyền đi giày, còn người nô lệ phải đi đất. Nhưng đôi giày cũng là vật tượng trưng cho sự gò bó. Đôi giày trở nên nỗi cực hình đối với những ai thích cho đôi chân mình được thoải mái. Tôi vốn thích đi dép hoặc xăng đan “cho nó mát.”

Ngày đầu tiên đi dạy học, tôi cũng định lê đôi dép vào trong lớp, nhưng mẹ tôi đã đe: “Nếu con không chịu mua giày và không chịu đi giày, mẹ không cho con tới trường dạy học.” Tôi hoảng quá, đành phải đi sắm giày mà trong lòng lấy làm đau khổ vô cùng. Bây giờ, tôi vẫn có thói quen đi dép hay đi xăng đan. Và đang khi có đôi chân thoải mái như thế, tôi nhìn những người bạn phải đi giày suốt từ sáng đến tối mà thương cho họ. Nhất là những cô phải xỏ chân vào đôi giày cao gót và để đôi giày ấy đeo cứng chân mình, dù đi, dù đứng, dù ngồi; chắc là bí bức, gò bó lắm. Nhưng nói vậy thôi, có nhiều người sẵn sàng chịu sự gò bó để cảm thấy mình đẹp và được khen là đẹp.

Tuy nhiên, tôi cũng thấy có nhiều người, nhất là những người trẻ, bước đi trên đường phố bằng những đôi chân trần không giày dép. Những người trẻ này có lẽ không thích sự gò bó, dù là sự gò bó của đôi giày hay sự gò bó của những luật lệ, định chế xã hội.Có một khoa nhìn giày để đoán ra tính nết người đi đôi giày đó. Người ta nhìn đôi giày mòn ở mũi hay ở đế, mòn phía trong nhiều hay mòn phía ngoài nhiều, rồi từ đó đoán ra người đi đôi giày ấy tính hướng nội hay hướng ngoại, bình tĩnh hay hấp tấp, cương quyết hay e dè v.v…

Tôi không biết những điều ước đoán ấy đúng, sai ra sao, nhưng từ lâu tôi vốn thích ngắm những đôi giày mòn vẹt hơn là nhìn những đôi giày bóng loáng chưa đụng đất trong tiệm bán giày. Giày đẹp mấy mà chưa dùng đến thì cũng chưa đem lại chút lợi ích gì cho con người. Giày càng mòn, càng vẹt bao nhiêu, càng chứng tỏ nó đã giúp cho con người đi chuyển nhiều bấy nhiêu. Đẹp mà không giúp ích cho đời, cũng không quý bằng dù tàn tạ nhưng đã đem lại ích lợi cho đời sống con người.

Ai từng đi giày cũng có một đôi giày mình ưng ý nhất, đôi giày ấy đi vào vừa vặn, bước đi thật êm, nó không cọ xát khiến đôi chân đau bỏng, nó không bó đôi chân lại khiến chân bị tê buốt, nó cũng không lỏng lẻo khiến cho đôi chân muốn tuột ra ngoài. Khi có một đôi giày ưng ý rồi, ta không thích đi đôi giày khác, nhất là không thích dùng giày của người khác. Đôi giày khi đó trở thành vật biểu tượng cho sở thích, cho bản tính của mình.

Có lẽ chính vì thế mà lâu nay người ta có thành ngữ “đi giày nhiều người’.” Thành ngữ này có nghĩa là khi làm việc, ta phải chiều theo tính nết của quá nhiều người thì việc mới thành tựu được. Phải “đi giày nhiều người” là một tình trạng rất khổ tâm của những người muốn hoạt động hữu hiệu cho một mục tiêu cao đẹp, mà cứ phải chiều ý hết người này tới ngườii khác. Mặt khác, “đi giày nhiều người” cũng là câu chê bai dành cho những ai không dám tự quyết, không dám can đảm dấn thân, bất chấp những nhân sự “cản mũi kỳ đà,” mà cứ luôn luôn phải làm theo ý người này, người nọ.

Tôi đã có lần được “tháo giày” một cách hết sức thoải mái.

Chuyện “tháo giày” của tôi không liên quan gì đến nghi lễ tối thứ Năm Tuần Thánh, các viên chức đóng vai mười hai tông đồ, tháo giày ra cho vị linh mục chủ tế, bắt chước Chúa Giê-su, rửa chân cho mình. Chuyện “tháo giày” của tôi hoàn toàn khác. Tôi được gọi đến dự một cuộc tĩnh tâm của giới trẻ. Sau những nghi thức và những bài giảng, đêm đã về khuya. Đây là thời điểm thuận tiện nhất để những người trẻ ngồi lại với nhau, tâm sự về những thao thức, những ước vọng, những suy tư của mình.

Để tạo bầu không khí thân mật, người phụ trách kêu gọi mọi người ngồi xuống đất bên nhau thành vòng tròn, thay vì ngồi trên ghế. Muốn ai cũng có thể ngồi thoải mái, người phụ trách xin mọi người tháo giày ra trước khi ngồi. Khi được lệnh “tháo giày,” tôi là người sung sướng nhất. Lúc nào tôi cũng mong đợi chân mình được tự do! Vừa tháo giày, tôi vừa quan sát những người trẻ chung quanh. Một số tháo giày ra ngay; một số khác còn ngần ngừ, như còn e dè, nuối tiếc gì đó. Nhưng rồi cuối cùng ai cũng tháo giày ra hết. Với đôi chân thoải mái, mọi người ngồi xuống đất, vòng tròn thu hẹp dần, thu hẹp dần, cho đến khi vai người này có thể chạm được vai người khác, đầu người nọ có thể chụm vào đầu người kia. Và họ bắt đầu chia sẻ với nhau về những ưu tư, khát vọng, mơ ước, hạnh phúc, đau khổ của mình.

Đúng lúc ấy tôi nghĩ tới đôi giày mọi người vừa tháo khỏi chân. Đôi giày, nhìn dưới một khía cạnh nào đó, chính là bản chất riêng của mỗi người. Để có thể ngồi sát bên nhau, vai chạm vai, đầu chụm đầu, nghe được nơi nhau những lời chia sẻ thân tình, chúng tôi phải tháo đôi giày, phải cởi bỏ bản chất riêng của mình trước đã, rồi mới có thể hoà đồng trong một bầu khí chung, một tâm tình chung. Những giọt lệ nơi khoé mắt tôi ứa ra một cách kín đáo.

Tôi ước mong trong cuộc sống, tôi và các bạn tôi biết nhận thức rằng: rất nhiều lúc, chúng tôi phải tập “tháo giày,” tập cởi bỏ bản chất riêng để cùng nhau theo đuổi một mục đích chung. Cùng nhau đi chân trần trên đường hướng về lý tưởng, có lẽ thích thú hơn lộp cộp với đôi giày để bước những bước độc hành.Viết riêng cho anh chị em Ki-tô hữu:Dụ ngôn “đứa con hoang đàng” trong Phúc Âm cũng có hình ảnh của đôi giày. Khi đứa con hoang trở về, nghèo đói, rách rưới quỳ xuống chân cha nói lời tạ tội và chỉ mong cha cho trở về, nhận làm kẻ hầu người hạ trong nhà chứ không dám mơ được nhận làm con như trước; người cha nhân lành đã đỡ con dậy, gọi gia nhân đem áo cho mặc, nhẫn cho đeo, giày cho đi. Đôi giày ấy thay cho lời người cha, nói với người con rằng: “Con là con cha, là người tự do, con không phải là kẻ ăn người ở, không phải là hạng nô lệ trong nhà này.”

Có người rất quý trọng đôi giày mòn, vẹt của mình. Người ta kể rằng một tu viện nọ tổ chức một cuộc tĩnh tâm. Cuối ngày, cha tu viện trưởng nói với mọi người để lên bàn vật mình cho là quý nhất. Các tu sĩ lần lượt để lên bàn những báu vật của mình. Người thì đặt lên một cây thánh giá bằng vàng, người khác là một cuốn thánh kinh đóng bìa da công phu, người khác nữa là một cỗ tràng hạt bằng bạc… Đến lần vị tu sĩ kia, ông thản nhiên cúi xuống tháo đôi giày cũ kỹ, mòn vẹt của ông và trịnh trọng đặt lên bàn. Mọi người ồn ào, bất mãn, người ta cho rằng vị tu sĩ kia ngạo mạn và bất kính đối với người khác và đối với những báu vật của họ. Tu viện trưởng ra lệnh cho vị tu sĩ kia giải thích tại sao lại cho đôi giày cũ kỹ bụi bặm kia là vật quý nhất, vị tu sĩ trả lời:

“Vì chính nhờ nó, con đã đem được Tin Mừng của Chúa Ki-tô đến biết bao con người ở những miền đất xa xôi.”

Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến lời của tiên tri Isaia: “Đẹp thay bước chân người đi gieo rắc Tin Mừng.”Chúng ta học được gì qua hai hình ảnh trên?

QUYÊN DI

(Trích “Nhìn Xuống Cuộc Đời,” 1995)____________________________(1) Bây giờ tôi biết bà Marcos không phải chỉ có vài trăm đôi giày, số giày của bà lên tới con số hàng ngàn.

(2) Tôi thật nhà quê! Giày giá mấy trăm Mỹ kim đã là gì. Có người sẵn sàng bỏ tiền ra mua những đôi giày giá mấy chục ngàn Mỹ kim