CÓ NÊN KẾT ÁN TỬ HÌNH NHỮNG TRỌNG TỘI KHÔNG??? – Cựu GS LÊ THỊ NGUYỆT ÁNH

       LUẬT PHÁP đặt ra là để bảo vệ AN NINH, giữ gìn TRẬT TỰ, bảo vệ QUYỀN LỢI Con Người với Con Người, bảo vệ MẠNG SỐNG và TÀI SẢN của cá nhân và cộng đồng Gia Đình, Quốc gia và Quốc tế.
       Những người đứng ra cầm cán cân Công Lý, là Đại Diện Công Lý, là nhân danh Công lý, bao giờ cũng nên Nghiêm minh, Chính trực, Công Bằng, Vô tư phán xét những ai vi phạm luật lệ Nhà Nước đặt ra, cũng chính là để hướng dẫn, giáo dục Con Người cả nước đến với CHÂN THIỆN MỸ.
Theo hình luật, ngoài những tội do từng quốcgia qui định còn có những tội sau đây mà không quốc gia nào dung chế, tha thứ cho được, mà còn kịch liệt bài trừ với hình phạt nặng nề gắt gao.  Đó là:  ‘Tội Giết Người’ (Sát Nhân), ‘Tội Hiếp Dâm’ và ‘Tội Buôn Bán Ma Túy’, ‘Hẻroine’, vì nó giết chết mạng sống, giết chết cả tương lai, cuộc đời của Con Người, nên không một quốc gia nào trên trái đất này chấp nhận được!
Tất cả, ai ai cũng đều ‘Muốn Sống’, Không-Ai-Muốn-Chết, nhất là Bị-Giết-Chết,  Bị-Tước-Đoạt-Mạng-Sống, Bị-Sát-Hại!!!
Vậy tại sao chính ta Muốn Sống, Không-Muốn-Bị-Giết-Hại mà lại đi ‘Bức Tử’, Tàn Sát Người khác?!
“Điều gì ta không muốn người khác làm cho ta thì ta không nên làm cho người khác”! Thế mà:        
1/ Ai ai cũng vui thích đồng ý đón nhận châm ngôn này, nhưng, trên thực tế, hình như có ít người thực hiện ĐÚNG theo, mà đa số thì lại thản nhiên gây-tạo-cho-người-khác-những-gì-chính-bản-thân-không-muốn-người-khác-làm-cho-ta!

2/  Đến như cả các vị  phán quan, các quan chánh án cầm cân nẩy mực, ngồi ghế xét xử, khi luận tội những trường hợp như ‘Giết Người’, ‘Hiếp Dâm’, ‘Buôn Bán Ma Túy’ là những ‘Trọng Tội Khó Tha Thứ’ được mà lại như vô tình thản nhiên tuyên “Án Tử Hình” họ!!!  Có những trường hợp Giết Người, hay Buôn Bán Ma Túy, cảnh ngộ rất thương Tâm  mà các quan không lý tới!
Sao lạ vậy, khi mà theo Luật pháp: “Dù dưới hình thức nào, dù bất kỳ nguyên nhân gì, cũng không ai được quyền tước đoạt sinh mệnh của bất kỳ ai!

3/  “Khó thể tha thứ được” đâu có nghĩa là phải ‘Giết Chết Kẻ Phạm Tội’, như họ đã giết chết ai đó?!
            Chẳng lẽ không có hình phạt nào dành cho những kẻ ‘Trọng Tội’ khó thể tha thứ được, khiến họ phải đau đớn thống khổ, bi ai, thê thảm nhứt là sự dày vò, ân hận về tinh thần vì tội ác họ đã gây tạo cho người khác, và làm liên lụy đến nhiều người phải khốn khổ theo, là gia đình ‘bị cáo’ và gia đình nạn nhân ‘nguyên cáo’, khiến cho họ, có người phải Sống-Không-Bằng-Chết’ hay sao?!   Hình phạt đó không đáng sợ gấp trăm ngàn lần hơn hình phạt họ hải sợ chỉ có mấy ngày, mấy tháng, hay mấy năm, nhất là chỉ một thoáng mấy phút trước giờ ‘Hành Hình’ thôi sao?!

4/ Vả chăng, có thể đó là án OAN!!!  Nếu xử tử rồi, về sau có cơ hội nhắc đến, thẩm tra lại, biết họ đã ‘Bị OAN’ thì làm sao cứu chữa ‘SAI LẦM’ vì đã giết họ chết rồi ?!

5/ Và, nếu kẻ có tội chí tình ‘Ăn năn, Sám hối’ tội lỗi họ đã gây tạo, và họ có thể ‘Đới Công Chuộc Tội’ xứng đáng, thì không phải là đáng tiếc lắm sao?!
           Con Người có ai mà không từng phạm những điều Sai Trái,  Lỗi Lầm, dù nhẹ dù nặng?! 
Điều quan trọng  là họ Biết-Nhận-Lỗi-Tội của họ, nhận sự ‘Sai Lầm’, và Biết-Ăn-Năn, Hối cải Lỗi Tội của họ!  Đó không phải là điều dễ dàng mà ai cũng dũng cảm làm được!!!
Và một khi họ đã không hèn nhát mà can đảm nhận Tội, không trốn tránh, thì sao lại không-giúp-họ-có-thời-gian, cho-họ-có-cơ-hội-để-Ăn-Năn-Cải-Hối-Sữa-Đổi, Đoạn trừ Dứt Lỗi Tội?!

6/ Thưa rằng:’Nếu Giết họ Chết Đi rồi, thì chủng tử Xấu Xa, Độc Ác, Hung Dữ, Nguy Hại đến thế nào đó, sẽ chấm dứt , chứ không phải sẽ vẫn đeo đẳng theo họ suốt từ kiếp này đến kiếp khác sao?!  Họ sẽ mãi mãi vẫn còn là người cùng hung cực ác, họ vẫn còn cứ gây bao tai họa cho biết bao người, cứ gây tạo thảm kịch triền miền, biết bao giờ mới chấm dứt, nếu không tạo cho họ có cơ hội để họ thắm thía nỗi thống khổ do ‘Tội Ác’ của họ, để Giúp Họ Tĩnh Thức để Ăn Năn , Sữa Đổi, Đoạn trừ Lỗi Tội ?!
“Nhứt nhựt VÔ THƯỜNG tại,
“Phương tri mộng lý nhân.
“Vạn bang đô bất khứ,
“Duy  chỉ “NGHIỆP” tùy Thân!”

Một mai Tử Thần đến,
Mơ  màng biết về đâu?!
Vạn nơi khó thể cầu!
Họa Phước mãi dính “Thân”!

7/ Đã nhân danh Công Lý, là đại diện cho Công Lý trừng phạt, ngăn ngừa  những kẻ ‘PhạmTội’, dù là những tội nặng đến thế nào, như ‘Tội Sát Hại Người’, thì nên chí công và ‘vô tư’ xét xử. Cho điều tra chu đáo: vị tất, không một trường hợp nào mà Kẻ Bị-Hại (‘nguyên cáo’) không có Lỗi, kèm bên ‘Tội’ của kẻ phạm Tội (‘bị cáo’)! Nếu đúng vậy thì cả hai đều phải bị thẩm xét, bị bị ‘luận tội’ và phải bị ‘trừng phạt’, nếu có thể được thì cũng nên giảm án cho phạm nhân, Không nên ‘Bức Tử’?!

8/ Những ‘Tội về Chính trị’, thuộc An Ninh Quốc gia:  Người Phạm tội nặng, nhẹ thế nào đó, thì do họ có lập trường, có chánh kiến, có hoài bão, ước vọng, lý tưởng của họ, hoặc có thể do họ bị quyến rủ, bị ép buộc, bị khống chế…!  
Trên đời, “Không Ai Hoàn Toàn” (“Nul n’est parfait ici-bas”) thì “cũng Không Có Tư Tưởng nào, Lập Trường, Chủ trương, Quan niệm, Chánh kiến, Chế độ, luật lệ nào v.v…’Hoàn Hảo’ hết! Có phải vậy không?!  Tốt có, thì Xấu cũng có; Đúng có, Sai Lầm cũng không tránh khỏi; có ích lợi cũng có tai hại; có ưu điểm thì bên cạnh cũng có khuyết điểm. Hể có ‘quân tử thì cũng có ‘Tiểu nhân’ một bên!  Cũng như có “Dương” thì cũng có “Âm”, không bao giờ thiếu mất một trong hai.
          Vậy thì tại sao chúng ta bắt buộc người khác phải chấp nhận theo chủ trương, lý tưởng v.v..của ta mà không được thực hiện lý tưởng của họ, cho là họ SAI, họ LẦM ?!
Tại sao ta cho rằng ta ĐÚNG, người khác SAI?  Cũng như “5 người Mù xem VOI”!  Mỗi người chỉ rờ vào để quan sát một phần nơi cơ thể Con Voi mà thôi!  Thế rồi người nào cũng quả quyết cho rằng mình diễn tả hình dáng Con Voi Rất Đúng, rất chính xác, còn tất cả những người khác đều SAI bét?! 
           Hóa ra Ai cũng Đúng, theo sự nhận xét,  hay theo kinh nghiệm cá nhân mỗi người, nhưng mà là SAI theo tổng thể, theo nhiều phương diện, nhiều khía cạnh, nhiều mặt, mà vì chưa rõ biết, chưa thấy, chưa từng trãi?!
             Nếu thấy họ quá-nguy-hiểm-cho-chế-độ của mình, cho sự lãnh đạo, cai trị, lèo lái Con Thuyền Quốc gia mà mình đang đảm trách, thì tại sao không-Giam-Cầm-Họ lại mà lại ‘sát hại’?!
 Và kiên nhẫn dùng chính sách NHÂN ĐẠO, để cảm kích, để lôi cuốn, để họ tâm phục khẩu phục ?!
           Nếu không thành công đi nữa, thì cũng Nên-Tôn-Trọng-Ý-Chí, Quyền-Tự-Do-Của-Con-Người, Sự Dũng Cảm của họ. 
          Vậy thì cứ Giam-Cầm-Họ-lại, đối xử tử tế, nhân đạo, để cảm hóa, cho đến khi nào có thể trả lại Tự Do cho họ, không được sao?!  Lại còn sẽ gây ảnh hưởng Tốt Đẹp sâu sắc cho Chế độ.  Tiếng đồn Lành sẽ vang xa, và sẽ không vô tình ‘Làm Hư Hỏng Chế Độ ! 
          Dù cho có Thất Bại , không thu phục được họ thì vẫn lưu được ‘Tiếng Thơm Tiếng Tốt’ muôn thuở trong sách sử!  Có vậy mới đúng là có Chánh Nghĩa! 
Và Chánh Nghĩa, Công lý bao giờ cũng thắng!
9/Huống chi, Công Lý, là cái lý công bằng, là phải Chí Công, Vô Tư.
Chí là hết sức, là rất, Công là công bằng, công minh, công chính, không thiên vị, không nghiêng lệch bên nào!  Chí Công là Rất-Rất-Công-Bằng, không thiên vị một ai.
Vô là không, tư là tư lự, là tư tưởng, nghĩ ngợi.  Vô Tư là không tư tưởng lung tung, không nghĩ ngợi đủ điều lợi hại, là hồn nhiên, trong sáng, không có điều gì vẫn đục, mờ ám, khuất lấp …..
             Một khi đã Bất Bình, Không Thể Chấp Nhận Cái Việc Tước Đoạt Sinh Mệnh của Bất Kỳ người nào, thế thì vị Thẩm Phán nếu tỉnh bơ tuyên bố ‘Xử Tử’cái người đang bị xét xứ, ‘Dứt Bỏ Mạng Sống’ của họ thì không phải là mâu thuẩn hay sao???!!!
Vì một khi đã Phẩn nộ, đã hết sức bất bình hành vi cùng hung cực ác của Kẻ Sát Hại Nhân Mạng người khác, họ đã nhúng Tay vào Máu, tước Đoạt Mạng Sống của Người khác, thì vị Quan Tòa phải hành động khác họ: Nếu  “Xử Tử Hình” người tội nhân ấy, thì không phải đã ‘Ra Tay’ giống y tội nhân đã làm rồi?!  Thì chẳng khác nào một người cha thường hay rầy la phản đối kịch liệt người con chớ có “cờ bạc”, rượu chè, mất hết tư cách Con Người, mà người cha thì ngày nào cũng ‘Ghi Số Đề”, và hay được bạn bè mời đi “nhậu lai rai” giải sầu là sao?  Thế thì có dạy răn được người con hay không?!
           Vậy thì, hóa ra “Chẳng có ai được phép, được quyền “Giết Chết” ai, mà chỉ có Quan Tòa, nhà lập pháp, và nhà lãnh đạo Nước MỚI CÓ QUYỀN “XỬ TỬ” người này người nọ thôi?!
             Luật Pháp đặt ra là để giữ gìn an ninh trật tự trong nước, là để giáo dục toàn dân, dù chức vị lớn cở nào thì cũng phải xử tội, nếu có tội, để ‘Làm Gương” mà không bỏ qua, không tha thứ Lỗi Tội.
            Đó cũng là bổn phận, là trách nhiệm và cũng là quyền lực của Nhà Lãnh đạo Nước, người quyết định cuối cùng ( là Vua, là Tổng Thống, là Chủ tịch Nước).
            Cho nên, ‘Nhà Cầm Quyền’ tức ‘Chánh phủ’, nói chung, nhà Lập Pháp và Quan tòa, nói riêng, ‘Không-Kết Án-Tử-Hình dù ai có ‘Trọng Tội’ nào, thì có nghĩa là Tha-Tội-Chết , mà Bắt-Tội-Sống, là “Giam Cầm lại”!  Đó là một sự trừng phạt nặng nề, đau khổ nhứt! 
 Nhứt nhựt tại ‘Tù’, thiên thu tại ngoại!”
 THA CHẾT là THA-KHÔNG-GIẾT-CHẾT, chứ không phải THA-KHÔNG-BẮT-TỘI mà phải Xử TỘI đã làm!  Và tùy theo cách gây tội mà ra hình phạt.
Chỉ trừ trường họp “BỊ CÁO”  không có LỖI TỘI , hoàn toàn do nguyên cáo. hay rủi ro thế nào đó, thì bị cáo mới được TRẮNG-ÁN.

10/Đã là NGƯỜI thì AI cũng có QUYỀN SỐNG!  Và tất cả ai ai cũng đều CÓ-QUYỀN- TỰ-DO!TỰ DO là cái QUYỀN THIÊNG LIÊNG CAO QUÝ NHẤT CỦA CON NGƯỜI !
            Con Người mà MẤT ĐI QUYỀN TỰ DO rồi, tức là BỊ TƯỚC ĐOẠT “QUYỀN ĐƯỢC SỐNG” theo Ý Muốn của mỗi người, không-Được-Tự-Mình-Làm-Chủ-Lấy-Mình,  Bị khống chế , bị câu thúc, bị bắt buộc nhất nhất phải làm theo lệnh, theo ý người khác, là-bị-tước-đoạt-QUYỀN-LÀM-NGƯỜI, thì còn gì đau đớn, thống khổ, bi ai, cực nhục cho bằng ! 
Thì Con Người đó chẳng khác gì một ‘CON VẬT
, thì  không phải là đáng thương tâm lắm lắm sao?!  Họ làm sao sống có Ý Nghĩa, Sống Đẹp, Sống Vui, Sống Hiên Ngang, Hùng Dũng ?!
           Không-một-ai-có-quyền-Tước-Đoạt ‘Quyền TỰ DO’ thiêng liêng cao quý của bất kỳ ai!  Phải vậy không?! Không ai có quyền Bắt-Buộc-Ai-Phải-Sống-Theo-Ý-Của-Ai!  Chỉ trừ khi nào:LÀ KẺ CÓ TỘI,  Nặng, Nhẹ, tùy theo đó mà Giam Cầm, lâu hay mau! Huống hồ họ còn bị hành hạ khổ sở thế nào đó về thể xác cũng như tinh thần, thì há không phải là họ sẽ Sống-Đau-Thương, Thống-Khổ, Tũi-Nhục, Sống-Không-Bằng-Chết hay sao?!  Cần gì phải “Giết Chết”! 
           Nếu suy gẫm cho cùng, chính những kẻ sát nhân, hại người tàn ác thì chính những kẻ đó mới là những Con Người khốn khổ đáng thương.  Vì họ còn quá Mê Muội nên mới Thấp Kém, mới Hung Ác.  Để rồi, họ sẽ phải ‘Đền Tội’, phải chịu ‘ Quả Báo’ cho việc tàn ác họ đã làm! Và họ sẽ còn thê thảm hơn những người đã bị họ làm khổ! “Ác nhân Ác Báo” không tránh đâu cho khỏi, dù họ có được tha thứ cở nào, họ cũng không tránh được luật “NHÂN QUẢ”, nói nôm na là “Lưới Trời”.  Người thế gian dù có xử phạt thế nào vị tất cân xứng với hình phạt của họ phải thọ lãnh!

11/  Có điều, tôi cứ lấy làm lạ và thấy thật đáng tiếc!  Vì nghĩ, quý giới chức lãnh đạo quốc gia, đại diện nhân dân, cầm quyền, lèo lái con thuyền quốc gia, và các vị Chánh án, các quan tà, là người đại diện Công Lý, là những người có quý tướng, có địa vị cao sang quyền quý trong xã hội, được mọi người trọng vọng nể kính, thế mà chỉ vì những kẻ ‘Có Tội’ mà lại vô tình khiến tự bản thân bị lôi cuốn theo ‘Kẻ Ác Dữ’, và điềm nhiên tọa thị một cách vô tư vô lự ‘tự Chiêu Lấy Tội Ác’ khi bất bình mà lên ‘án Tử Hình’, buộc kẻ Có Tội Phải Chết (!) là vô tình tự chiêu lấy Sự Nghiệt Ngã cho chính bản thân mình! Một khi ‘Tuyên Án TỬ’, tức là ra lệnh ‘GIẾT CHẾT’, ‘BỨC TỬ’, để rồi phải mang TỘI BÁO thảm hại về sau, thì chẳng phải là đáng tiếc lắm sao?! 
Sao lại để phải đến nỗi như vậy?! 
           Là người-Vô-Can, sao lại đi Gánh-Lấy-Cái-GÔNG-Vào-Cổ, ôm lấy nỗi đoạn trường cho tự thân về sau này?!
          Họ GIẾT NGƯỜI, quan tòa đứng ra xét xử, để đem lại ‘An ninh’, ‘Trật tự’ cho xã hội, đem lại sự Bình An cho người người, và hướng Con Người về với CHÂN THIỆN MỸ, mà sao Ra-cái-Lệnh “PHẢI GIẾT CHẾT”, là “Tước Đoạt Mạng Sống của Một Người”, chứ đâu phải bảo giết con heo, con gà, con chó, con dê…cũng có ‘Tội báo’ nữa mà! 
Vậy thì không phải chính’Quan Tòa’, hay Chủ Tịch Nước, hay Tổng Thống,  bị cuốn hút theo kẻ-có-tội nên tỉnh bơ phạm đúng y theo vào cái ‘sự-Giết-Người’, và vô hình chung trở thành là “Người-Sát-Nhân” kế-tiếp theo sau kẻ ác dữ đó hay sao?! 
Không phải vậy sao?!
             Sao lại thế hỡi quý quan tòa, hỡi quý vị lãnh đạo quốc gia các nước?!

12/  Không ai phản đối các nhà lãnh đạo nước (Vua, Nữ hoàng, Thổng Thống, Chủ tịch Nước) ,  thế nhưng mà, theo như Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni  đã từng khuyên nhủ chúng sinh rằng: “Trồng Dưa được Dưa. Trồng Đậu được Đậu” .  Nếu làm điều lành, tốt, thiện hảo đem lại an vui sung sướng, hạnh phúc cho người khác, thì sẽ được hưởng PHƯỚC BÁO.  Còn nếu trái lại, gieo rắc đau thương khổ não cho ai, thì rồi, dù vì bất kỳ lý do gì, một ngày nào đó, sẽ phải hứng lấy TAI HỌA, tức là phải chịu TỘI BÁO, phải ‘đền Tội’ đã gây tạo mà thôi! 
“Không nên “BẤT MUỘI NHÂN QUẢ!”
Đó là LUẬT BÁO ỨNG, là LUẬT NHÂN QUẢ, là gieo ‘Nhân’ nào thì gặt ‘Quả’ đó! 
 Có ai gieo hạt xoài Cát Chu mà lại gặt hái được trái Xoài Cát Hòa Lộc không?!  Và một khi một hạt xoài, mít, xoài riêng …chi chi  đó, gieo xuống rồi  ( gieo ‘hạt’ là gieo‘NHÂN’ ) thì có bao giờ vài ngày hay vài tháng sau là thu hái được quả mít, trái xoài v.v…để ăn được liền không, mà không phải chờ đợi đủ ngày tháng, tùy loại, mới ra hoa, rồi mới kết trái , rồi lại phải chờ thời gian để trái già, chín, mới thu hoạch được sao ( hái ‘trái’ là được‘QUẢ’ )?!
           Cũng vậy, một khi làm việc Thiện Lành, hay điều Ác Dữ, thì cũng phải chờ một thời gian, tùy việc, phải hội đủ nhân duyên mới được thọ hưởng ‘Phước báo’ (việc Lương thiện ) đã làm, hay gặp khốn khổ thế nào đó (Tai ách, Hoạn họa) phải chịu ‘Tội Báo’ để đền lỗi tội đã làm!  Nếu chưa thấy được thọ hưởng ‘Phước’ chi, hay chưa bị trừng phạt, bị ‘Họa, Tai’ chi,  nên cho rằng là không có ‘Phước Báo’ hay ‘Tội Báo’ chi hết, nên không hãi sợ, nên cứ điềm nhiên tác ác túa xua, thì không phải là MÊ LẦM lắm sao?!
            “Trước khi làm việc gì thì phải nghĩ đến kết quả của nó”.  Đức Phật đã dẫn dắt Con Người nên dùng lòng Từ Bi Nhân Thiện đối với nhau, để người người được Sung Sướng, An Vui.  Ta đem sự sung sướng vui vẻ bình an đến cho người thì người cũng đối lại với ta như vậy,  tức là ta cũng sẽ được An Lành, được HƯỞNG PHƯỚC! Làm trái ngược lại, chỉ gieo đau khổ, tạo nhiều nỗi đoạn trường cho ai thì sẽ bị  ĐỀN TỘI đã gây tạo, phải KHỐN KHỔ, gặp lắm HỌA TAI, còn khổ hơn họ nhiều.  “Gieo Gió thì gặt Bảo!”
           Như đức Chúa JÉSUS CHRIST đạo Công giáo, đã từng khuyên, từng dẫn dắt các ‘Con Chiên’, tín đồ của Đức CHÚA rằng:  Hãy tra gươm vào vỏ, Những kẻ ‘Dùng Gươm’ thì sẽ phải CHẾT ‘Vì Gươm’!”.
 Thế thì không phải Đức Chúa đã khuyên răn Con Người nên có lòng ‘Bác ái’ đối với nhau sao?  Là ‘Không nên tàn sát nhau, giết hại nhau sao?  Vì ‘Giết Người’  thì sẽ bị ‘ Người Giết’ lại!
           ĐỨC KHỔNG TỬ cũng đã khẳng định : “SÁT NHÂN GIẢ TỬ!””           Đạo TIN LÀNH, cũng là Đạo tôn thờ kính ngưỡng Đức CHÚA JÉSUS CHRIST.  Đặc biệt đã cho thành lập “Thành Trú Ẩn”!  Đấy là nơi dành cho những người phạm TỘI NẶNG  như “GIẾT NGƯỜI”, thì phải mau mau chạy đến ẩn trú nơi ‘cái Thành’ đó, để khỏi-bị-GIẾT-CHẾT!  Chả lẽ Đức Chúa Trời lại đi che chở, bảo vệ ‘kẻ Ác dữ’?!
Thế nhưng, nơi đây có các vị mục sư hằng ngày chí thành giáo dục về Tâm Linh, khiến cho người tội phạm ý thức được TỘI LỖI của mình mà ĂN NĂN,  mà thành tâm SÁM HỐI,  SỮA ĐỔI, CHỪA BỎ những thói hư tật xấu, biết Kềm Chế lòng Tham Sân, chịu XẢ BỎ nỗi ai oán, mà dứt trừ sự hung ác  v.vvà là  để “CHỜ-GIỜ-PHÁN-XÉT”, khỏi nhọc công tìm kiếm truy bắt !   ,là để họ chờ đợi nhận lãnh hình phạt theo tội lỗi họ đã gây ra, chứ không phải là Đức Chúa bao che kẻ có tội,’THA TỘI’ họ!).  Thành Trú Ẩn này có mục đích cao cả như vậy là do noi gương ‘Bác Ái’ cao cả của Đức CHÚA JÉSUS, là người vì lòng thương xót Con Người, muốn CỨU CHUỘC TỘI LỖI cho nhân gian nên đã dũng cảm nhận chịu cực hình “ĐÓNG ĐINH TRÊN THẬP TỰ GIÁ”, để phải CHẾT Đi SỐNG Lại bao phen!  Và cuối cùng NGÀI đã được PHỤC SINH!  Đó là kết quả của TÂM THÁNH THIỆN của Đức Chúa!
          Đức PHẬT Thích ca Mâu Ni, cùng Chư PHẬT Chư BỒ TÁT đã dẫn dắt chúng sinh hãy nên dùng lòng TỪ BI ban rải.  “BI thể giới Lôi chấn”!  Lòng TỪ BI (ban rải Tình THƯƠNG, KHÔNG HẬN THÙ ) có thể hóa giải mọi NGUY NAN!  
          Cho nên nếu kính ngưỡng ĐỨC PHẬT, ĐỨC CHÚA… thì nên y giáo phụng hành, nên đem lòng TỪ BI, BÁC Ái đối xử với nhau, Không-Nên-Làm-Khổ-nhau, Tàn-Sát nhau!

“TỪ BI và BÁC ÁI” là sự mềm dẽo của Tình Thương, của sự Nhẫn Nại, của sự HIỂU BIẾT. 

13/ Những người xấu ác, không thể làm được những điều Lành Thiện, tốt đẹp,  cao quý là vì họ chưa Tiến hóa được cao, tâm linh họ còn mê muội, còn ấu trỉ, không phải sao ?! 
Ví như một đứa trẻ con còn ấu trỉ thể xác, mới lên 4, lên 5 tuổi.  Nếu người lớn để món đồ chi trên cao, hơn vóc dáng đứa trẻ (như để trên bàn, trên kệ, trên đầu tủ) và bắt buộc đứa trẻ phải lấy cho kỳ được món đồ đó!  Vậy xin hỏi đứa trẻ con ấy có vói lấy được món đồ ấy hay không, dù có nhón gót cở nào, một khi quá tầm-tay-vói của trẻ con?! 
           Cũng thế, một người còn ấu trỉ tâm linh, thì họ còn u tối, còn thấp kém, nên còn hèn hạ, xấu ác, còn Tham Sân, còn gian xảo, quỷ quyệt, bất nhân, bất nghĩa thế nào đó v.v…tức là tâm họ còn ‘ấu trỉ’ nên còn ‘mê muội’, chưa thanh cao tốt đẹp được! 
           Vì thế cho nên, họ rất cần phải được học hỏi, cần phải được rèn luyện, được un đúc, uốn nắnHọ rất cần phải được ‘giáo dục’ để Tiến hóa lên, để trở nên ngày một tốt lành hơn; ‘Xả Bỏ’ Tâm Ác, ‘Phát’ Tâm Lành, thì họ mới được là người ngày càng thánh thiện, có nhân, có nghĩa, ít phạm Sai Trái, Sái Quấy, Lỗi Lầm, ít tạo Tội tạo Nghiệp Xấu, Ác, rổi sẽ dứt hẳn tác ác, mới làm được Người tốt đẹp, lương hảo, thanh cao.
             Những ai được Tiến Hóa cao hơn, ví như người đứng trên cao, kẻ xấu, ác phải ở dưới thấp!  Vậy thì người đứng trên cao (tức người Tiền hóa hơn) có nên phun nước bọt xuống người đứng dưới thấp hơn , có nên khinh khi , ghét bỏ, tức giận, phẩn nộ, có nên nhục mạ, hành hạ, người đứng dưới thấp (kém Tiền hóa!) hay không, thì nói gì đến việc “BỨC TỬ” họ, “TƯỚC ĐOẠT MẠNG SỐNG” của họ?!
              Vậy có nên Từ Bỏ họ, Khử Trừ họ, Giết Chết họ không?!   
Một khi người đứng trên cao (đã Tiến hóa) mà phun nước bọt, tức khinh thị nhục mạ người đứng dưới thấp thì người đứng dưới thấp (hèn hạ, xấu xa, độc ác v.v..) sẽ phải lãnh đủ sự nhục nhã, xấu xa, họ phải gục mặt tủi hổ, ai cũng chê bai khinh ngạo! Làm sao né tránh cho được?!
Và trái lại, nếu người đứng ở dưới thấp hơn mà ngửa mặt phun nước bọt lên người đứng ở trên cao hơn (tức là người có nhân, có đức), thì người càng đứng trên cao chừng nào, tức phẩm hạnh càng lớn, càng cao, thì liệu người đứng dưới thấp có phun trúng tới được người đứng trên cao hơn không ?  Và ‘nước bọt ấy’ sẽ phải rơi xuống ngay từ chỗ nó đã xuất phát, phải vậy không?!  Tức lả cuối cùng thì kẻ xấu xa, tồi tệ. bạc ác chừng nào thì chính họ sẽ phải lãnh đủ sự nhục nhả, sẽ phải bị khinh chê nhiều chừng ấy. 
             Họ sẽ phải KHỐN KHỔ thôi, theo luật ‘NHÂN QUẢ’Đó chính là  ‘LUẬT BÙ TRỪ’ (‘La Loi de Compensation’) đấy mà thôi!!!
             Vậy  thì, chẳng phải là:Làm điều gì thì sẽ nhận y chang điều đó hay sao, dù THIỆN dù ÁC?  Vậy thì, nếu Luật Người Không-Xử thì Luật Hóa Công trong Tạo vật, cũng sẽ xử!  “THIÊN VÕNG KHÔI KHÔI, SƠ NHI BẤT LẬU!”  Lưới Người có thể Thoát được, nhưng Lưới Trời lồng lộng, không một ai tránh né, thoát đi đâu cho khỏi được!
Bao giờ một vật chi, như cục đá,  nếu ném vào khoảng trống không thì nó sẽ mất hút, không còn thấy tâm dạng.  Còn nếu ném vào vật gì, người nào, ở ngay trước mặt, trúng vào đó, lực càng mạnh, thì nó sẽ ‘Dội Trở Lại’ không sai, và càng mãnh liệt hơn, từ chỗ nó đã xuất phát ! 

    Cho nên, đối với Những KẺ CÓ LỖI, CÓ TỘI, thì nên làm thế nào để họ thấy, biết , hiểu là họ CÓ LỖI, CÓ TỘI!

                Không phải là để NHỤC MẠ, PHỈ BÁNG, HÀNH HẠ HỌ , mà là để DẪN DẮT, để giúp họ Ý Thức “LỖI TỘI chỉ đem lại bao ĐAU THƯƠNG THỐNG KHỔ, nhứt là cho chính bản thân, hơn ai hết, khi GÂY ĐAU KHỔ CHO AI! 

Một khi họ ý thức được rồi, thì họ sẽ tự động XẢ BỎ, ĐOẠN TRỪ LÀM VIỆC ÁC HẠI NGƯỜI, sẽ  KHÔNG TÁI PHẠM nữa!  

               Vậy cần có biện pháp, phương cách tốt để hướng dẫn, giáo dục sao cho có hiệu quả!
               Nếu  GIẾT CHẾT KẺ CÓ TỘI, mà không DẪN DẮT, KHÔNG CHỈ BÀY, KHÔNG CHO HỌ CÓ CƠ HỘI để cho họ THẤY, BIẾT, HIỂU, để HỌ nhận chân được rằng: những gị họ đã GÂY TẠO Cho Người Khác thì là chính họ sẽ PHẢI NHẬN, PHẢI RƯỚC LẤY, sẽ PHẢI LÃNH ĐỦ những gì họ đã  làm, đã gây tạo
Và một khi giúp họ nhận chân được điều đó thì xin thưa rằng:  Họ có còn DÁM LÀM VIỆC BẤT PHẢI, CÒN DÁM GÂY TỘI ÁC nữa không, nếu KHÔNG Giải Bày thấu đáo, KHÔNG DẪN DẮT được, và « Không Cho họ Có Cơ Hội » nhận chân “ Triết lý” ấy thì không phải là tàn nhẫn lắm sao, là vô tình lắm sao , là thiếu HIỂU BIẾT, là thiếu lòng TÙ BI THƯƠNG XÓT giữa CON NGƯỜI với CON NGƯỜI lắm lắm hay sao?!

14/ Đó là nói những người phạm tội trong mọi thành phần trong một quốc gia và quốc tế.

Còn đặc biệt với người lãnh đạo một nước, nếu là Tổng Thống, hay Chủ Tịch Nước, hay vua chúa, nếu có PHẠM TỘI TRỌNG gì, thì trong lúc họ còn tại vị, nếu có quyết định chi mà nhân dân thấy có nguy hại cho người dân, cho đất nước thì, tại sao người người trong cả nước không cùng đứng lên, họp lại dũng cảm can gián, khuyên ngăn chí tình, lại cuối đầu tuân phục lệnh ban ra ?!  Rồi đợi đến khi họ mãn nhiệm kỳ, hết Chức hết Quyền, người dân mới nổi lên phản đối, xử TÀN NHẪN, TỆ BẠC, ĐỘC ÁC, công khai Luận Tội Nặng và KẾT ÁN TỬ HÌNH, dù dưới bất kỳ hình thức nào!!! Họ nếu Có TỘI, thì người DÂN KHÔNG CÓ LỖI sao?! 
Dù họ đã mãn nhiệm kỳ, trở lại làm người bình thường trong Nước, nhưng đó cũng là một người đã từng lãnh đạo nước bao nhiêu năm, không có công lao gì với quốc gia dân tộc hay sao mà lại nở đem ra XỬ TỬ một người đã từng được Tiền-Hô-Hậu-Ủng, bao người phải kính cẩn nghiêng mình chào đón, rước đưa rần rộ, uy nghiêm, hiển hách ?!!! 
Nếu không-khép-chặt-cửa-lòng, mở rộng lòng Từ Bi Bác Ái Nhân Thiện cho những người phạm tội một ‘Con Đường Sống’ để họ TỈNH THỨC, để ĂN NĂN, HỐI NGỘ, SÁM HỐI LỖI TỘI thì không đáng thương tâm lắm sao!
Đối với loài động vật hạ đẳng như con Khỉ, con Ngựa, con kiki, con ột ệt, con Trâu, con Cọp, con Beo, con Voi v.v…mà còn huấn luyện được thay, thì với Con Người có Trái Tim Biết Cảm, có Khối Ốc Biết Nghĩ Suy, thì làm sao Không-Cảm-Hóa được, không rèn luyện, giáo dục được sao?! Và đối với người bình dân còn nên như vậy, huồng hồ từng là một vị nguyên thủ quốc gia của cả nước ?!
              Nếu có TRỌNG TỘI chi Không-Thể-Tha-Thứ được, thì sao không cho LƯU ĐÀI NGƯỜI ĐI BIỆT XỨ, mà CHẲNG NÊN KHỬ TRỪ, DỨT TUYỆT MẠNG SỐNG để họ có-thì-giờ-rộng-rãi BÌNH TÂM Nghĩ Suy mọi lẽ?!  Chắc chắn họ sẽ Ân Hận sâu sắc và sẽ SÁM HỐI !

15/ Một điều nữa, nếu cho rằng là ‘tâm linh kẻ Xấu Ác còn Thấp Kém’, cũng không hẳn có nghĩa là họ đều là những Con Người ngu dốt, khờ khạo, hạ tiện, u tối, mà có thể đó là những người cực kỳ thông minh, tài giỏi, cũng chưa biết chừng!  Nếu họ Tỉnh Thức ‘quay đầu lại’, quyết chịu dứt trừ xả bỏ tập nhiễm xấu ác độc dữ, tham lam, tàn nhẫn v.v…, thì họ lại là những người rất đặc sắc, tuyệt vời, là người đắc dụng, xã hội rất nhờ cậy!
              Có giống cây ăn trái, hay bông hoa chi đó, hể đó là một loại cây trái quý hiếm, rất ngon , rất bổ dưỡng, hay là một loại bông hoa vừa đẹp vừa thơm kỳ lạ thì thường rất khó trồng, hay có nhiều sâu bọ!  Nếu ‘nhà làm vườn’ biết  kiên nhẫn, chịu khó chăm sóc, cắt tỉa lá sâu cành hư, bón phân tưới nước cẩn thận mà-không-nhổ-quăng-vứt-đi, thì rồi sẽ gặt hái được những trái thơm ngon, những đóa hoa tươi đẹp, rất quý hiếm ! 
               Con Người cũng vậy.  Không ai là người đáng-phải-BỎ-ĐI, đáng phải Giết, phải Chết!  Đến như sạn, sỏi, cát, đá, cây cỏ nhỏ nhoi trên trái đất mà cũng còn hữu ích, huống hồ là một Con Người!
               Nếu biết cảm hóa, biết hướng dẫn người xấu ác dữ, biết cách ‘chuyển tâm họ’ để họ ‘quay đầu lại’, xả bỏ TÂM ÁC PHÁT TÂM LÀNH thì họ lại là những Người rất năng nổ, đa tài, đắc dụng.   Họ dù cùng hung cực ác thế nào cũng có vài đức tính đáng ngưỡng mộ,  có ích cho nhân quần, một khi được cảm hóa. “Sắt’ mà ‘được toi’ trong lò luyện với ‘lửa cao độ’ thì sẽ trở nên là “THÉP” rất đắc dụng!
              ‘Không ai hoàn toàn TỐT LÀNH, THIỆN HẢO!’  Cũng không ai hoàn toàn XẤU ÁC , BẤT NHÂN BẤT THIỆN’!
Vậy thì có nên phát tâm TỪ BI, BÁC ÁI, THƯƠNG XÓT, những người còn thấp kém, xấu xa, hèn hạ, nham hiểm, độc dữ , cùng hung cực ác thế nào đó không???
CÓ HIỂU BIẾT MỚI THƯƠNG YÊU”, MỚI XÓT XA! Đức PHẬT đã dạy khuyên như vậy.

               Nói tóm lại, CÔNG LÝ thì phải Nghiêm Minh, Công Bằng, Vô Tư, nhưng cần phải có TỪ BI, BÁC ÁI kèm theo, thì mới tạo được AN VUI HẠNH PHÚC  cho người người, giúp nhau TIẾN HÓA!

               Một triết gia, trong quyển “Zen và Ý Thức về Ăn Chay’, tr. 220-222 đã than rằng  “Kiếp nhân sinh sở dĩ lắm ĐAU THƯƠNG là vì CON NGƯỜI ‘THIẾU LÒNG TỪ BI’ đối với nhau: Con Người khép chặt cửa lòng. Cam tâm ‘nô lệ’ cho SI, THAM, SÂN, ÁI (ái dục và Chấp trước), kiếm đủ cớ để chia rẻ nhau, lửa bịp nhau, lung lạc nhau, ngược đãi nhau, khống chế nhau, hận thù nhau, tranh đoạt nhau, tàn hại nhau, gieo rắc biết bao đau thương thống khổ cho nhau!  Nào hay tự mình là người Khổ Trước, trên hết và nhiều hơn hết.”
               Ni sư AYYA KHÉMA Ấn Độ cũng nhận xét chí lý rằng:” Tất cả chúng ta đều là KHÁCH trên trái đất này!  Không ai sở hữu được thứ gì, dù là những gì thân, yêu, quý, nhất của ta!”
               Đức ĐẠT LAI LẠT MA Tây Tạng đã than thở và có ý khuyên răn, nhắn nhủ người đời rằng:
                                 “Chào Đời hai bàn tay trắng!
                                “Lìa Đời trắng hai bàn tay!
                                “Sao mãi nhặt cho đầy?
                                “Túi Đời như Mây bay?!”

Vậy thì tại sao Con Người không ý thức điều chí lý ấy để HIỂU BIẾT, để kềm chế thất tình lục dục, để cảm thông nhau, để cố gắng ban rải TÌNH THƯƠNG cho nhau, để rồi tha thứ cho nhau, xóa bỏ tất cả ‘oan trái’,  ‘hận thù’, không ai làm ‘Đao Phủ’ của ai nữa, thì lo gì khi chết đi phải sa ‘ĐỊA NGỤC’, khi chinh Con Người đã tạo lấy biết bao cảnh Địa Ngục thê thảm nơi trần gian này rồi!  Rất nhiều người đã vô tình đóng vai những kẻ ‘Đầu Trâu, Mặt Ngựa’ tay-thước-tay-đao, và biến nhau thành những kẻ “Tội Đồ”, những kẻ “Bị lưu Đày” thê lương, thống khổ?! 

Hỡi quý giới chức Lãnh đạo các Nước, hỡi các nhà Lập pháp, hỡi quý vị quan tòa nước VIỆT NAM và trên toàn thế giới, hãy suy gẫm lại xem:CÓ NÊN LÊN ÁN TỬ HÌNH NHỮNG TRỌNG TỘI KHÔNG???”, dù là Trọng Tội gì, dưới bất kỳ hình thức nào ???

Và các vị lãnh đạo Nước nếu có phạm lỗi chi nặng, thay vi LUẬN TỘI và Lên ÁN XỬ TỬ HÌNH thì người dân có nên chỉ cho « LƯU ĐÀY ĐI BIỆT XỨ », THA TỘI CHẾT mà  KHÔNG THA TỘI SỐNG vậy?!  CÓ ĐƯỢC KHÔNG???

16/ Và sau đây, xin lạm bàn thêm về vấn đề ‘HẠN CHẾ SINH SẢN’ để bảo vệ SỨC KHỎE CHO NGƯỜI MẸ, là bảo vệ Hạnh Phúc Gia Đình, tức bảo vệ An Vui, Cường Thịnh cho xã hội, cho quốc gia!  Nếu-Sanh-Con-Quá-Nhiều thì Nuôi Dạy Cực Khổ và Khó Chu Toàn Cho Tất Cả Các Con, nhất là các trẻ sanh sau chót!  Và gây khổ nhọc, thương đau nhất cho người “LÀM MẸ”, người phụ nữ. 
Nhưng, thay vi Chỉ-Sanh “HAI-CON” mà thôi, thì CÓ-NÊN-CHO-SANH “BA-CON”???
Vì rằng:

1/ Tài nguyên thiên nhiên tối yếu trong vũ trụ là có BA: THIÊNĐỊANHÂN.  Đó là “TAM TÀI”:Trên là TRỜI, Dười là ĐẤT, ở giữa là CON NGƯỜI!
 TRỜI CHE TA, ĐẤT CHỞ TA. 
Có BẦU TRỜI CON NGƯỜI mới có Không khí để thở để Sống Còn, có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, Con Người mới có sinh khí để Sinh Tồn.

Và CÓ ĐẤT thì CON NGƯỜI mới có nơi ăn chốn ở, mới tạo dựng được nhà cửa để cư trú.  CÓ ĐẤT mới trồng trọt, mới có được ruộng vườn, cây trái, hoa mầu; mới có sông, hồ, ao, rạch ; mới có núi đồi, rừng cây, biển cả; mới có các loài động vật, thực vật!
Thì, CON NGUÒI mới có gạo, có thức ăn , mới có muông thú v.v.. thì CON NGƯỜI MỚI CÓ THỂ SINH TỒN được!
2/ Đứa Con Thứ Ba thường lại là‘Kinh Nghiệm’ của  2 người ‘Cha và Mẹ’ (Nam-Nữ) chung sống với nhau, có kinh nghiệm trong sự hòa hợp thể xác và tinh thần, về đời sống kinh tế, lịch lãm hơn, vững chải hơn, thoải mái, nhẹ nhàng hơn, về vật chất cũng như tinh thần.  Và có sự thương yêu quí mến, trân trọng nhau, hạnh phúc bên nhau hơn, nên khi bào thai được kết tụ sẽ được hưởng nhiều lợi lạc về nhiều phương diện hơn hai lần đầu. Cho nên, các vĩ nhân, những thiên tài,  những người con ưu tú về tài đức, thì có thể thường thấy xuất hiện ở người con thứ 3e! Phải vậy chăng?
Vậy, “NẾU CẢN” ‘KHÔNG-CHO-SINH-ĐỨA-CON-THỨ-BA’ thì gia đình cũng như xã  hội, quốc gia, Đất Nước sẽ Mất-Đi-Biết-Bao-Nhân-Tài, có thể đó là nhà bác học, là bác sĩ, lương y đại tài,  là nhạc sĩ, văn sĩ, thi sĩ, hiền triết nổi tiếng, là vĩ nhân, cũng chưa biết chừng v.v…  Đó là những Con Người Ưu Tú!
3/a- Vả lại, có thể nói không quá đáng chăng: Nếu không-cho-sanh-đứa-Con-Thứ 3e thì, nếu lở đã kết thành Bào Thai, dù chưa tượng hình hay đã thành hình, người Cha và người Mẹ vì Sợ-Phạm-Luật sẽ bị phạt, nên phải uống thuốc PHÁ-THAI, hay dùng phẩu thuật thì, chẳng khác nào như là XỬ-TỬ-một-Người-đang-còn-trong-Bụng-Mẹ vậy !!! Trẻ đó có TỘI gì mà phải

BỊ XỬ TỬ ?!

3/b- Hoặc, Để-Ngừa ĐẬU THAI, thì người đàn bà Phải-Uống-Thuốc-Ngừa-Thai, RẤT -RẤT-NGUY BIẾN!  Đó là cả một Tai-Họa!
 Vì, Nếu Rủi Đậu Thai thì chắc chắn Đứa-Trẻ-Sanh-ra-Thường-Bị-Dị-TẬT, đủ mọi loại; hoăc Trí Suất IQ RẤT-THẤP-KÉM (!), có khi chẳng khác nào một-loài-động-vật-hạ-đẳng,  chỉ biết ĂN UỐNG NGỦ mà thôi !  Ngoài ra không biết sinh hoạt chi hết, ngay như tắm rửa, mặc áo  quần, cầm đủa muỗng v.v..cũng không biết làm, có người lại không thể nói năng được, không biết thương yêu giận ghét v.v…thì làm-sao-Làm-Một-Con-Người để Tiến Hóa lên?!!!  Đó là một CON NGƯỜI BẤT HẠNH, và là gánh nặng cho gia đình và xã hội!!!

3/c- Hoặc, Nếu đặt-Vòng-Xoắn để TRÁNH  ĐẬU THAI’ thì, đó là một vật bằng kim loại, đặt vào bộ phận sinh dục người đàn bà!  Đặt vào trong mình lâu ngày có thể sanh bệnh KHÓ-TRỊ (cancer) thì đáng thương biết bao!  Một khi người đàn bà trong gia đình BỆNH HOẠN thi biết bao vấn đề bi thảm sẽ đến với gia đình đó!

3/d- Nếu theo luật ÂM DƯƠNG thì ‘HAI’ là  ĐÚNG!  Nhưng trong vũ trụ có Tài Nguyên Thiên Nhiên là “TAM TÀI”, là 3 BẢO BỐI RẤT QUÝ, thì thiếu mất một rồi vậy!!!
Nếu chỉ có BẦU TRỜI và TRÁI ĐẤT mà Không-Có-CON-NGƯỜI, thì đó chỉ là tình trạng sơ khai thuở Tạo-Thiên-Lập-Địa mà thôi!!!
Vậy thì “Chẳng-nên-chỉ-cho-sanh-Hai-Trẻ mà là “NÊN-CHO-SANH “ĐỨA-CON-THỨ-BA”,  phải vậy không???!!!
Vì đức HIẾU SINH xin có đôi lời trăn trở, xin quý vị Nguyên thủ quốc gia và các Nhà Lập pháp, trong nước và trên thế giới suy gẫm minh triết.

23/02/2020 

GIÁC ĐẠO-LÊ THỊ NGUYỆT ÁNH
Một Cựu Giáo Chức VĨNH LONG
(Cựu Chuyên viên Nghiên cứu Giáo Dục SAIGON trước 1975)
 




Cảm Tạ Hoa Kỳ

Thơ Thanh Thanh

CẢM-TẠ HOA-KỲ

Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ đã cứu chúng tôi
Thoát quỷ dữ cướp Quyền Người, Quyền Sống.
Trên quê cũ, chúng trù nòi, dập giống,
Dù trí-thức, bình-dân, cách-mạng, tu-hành.

Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ về bài học phân-ranh
Giữa quân-lực với quyền-hành chính-trị.
Nước cũ chúng tôi, nằm trong tay vũ-bị,
Dị-ứng độc-tài nên cơ-cấu khuynh-vong.

Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ về gương sáng nêu chung,
Phân-lập rõ giữa giáo-quyền, chính-sự.
Dân cũ chúng tôi bị khuôn rào trí-lự,
Giáo-sĩ độc-tôn nên sự-nghiệp suy-đồi.

Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ đã hiến sẵn sinh-môi
Cho thể-xác lẫn tinh-thần phát-triển.
Dân nước chúng tôi mất tự-do thể-hiện
Quyền làm ăn, suy nghĩ, phát-biểu, an-sinh.

Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ đã nuôi dưỡng Niềm Tin
Về một Tương-Lai phục-hồi chân-giá-trị
Cho Quê Mẹ chúng tôi rỡ-ràng địa-vị
Trên mặt địa-cầu ai nấy góp công xây…

                                          THANH-THANH

THANK YOU, AMERICA!

Thank you, America! for rescuing us from hell,
Humble humans deprived of all rights to life.
In our old country our enemies cruelly quell
Laborers, intellects, revolutionaries, monks alike.

Thank you, America! for teaching us systematism
By which military is only a part of attribution.
In our late republic existed militarism
Causing dictatorship to erode the constitution.

Thank you, America! for the example to settle
The difference between politics and religion.
In our poor nation the priests did meddle
In worldly powers, and it was mutual demolition.

Thank you, America! for granting us medium
To develop our bodies and expand our minds.
In our left-behind state there is no freedom
To work and enjoy, think and express any kinds.

Thank you, America! for nursing us deep hope
For a near future we can True Virtue attain
So that our Motherland emerge on the globe,
Our People, with your help, Man’s Value regain.

                                        THANH-THANH

                           (Poems by Selected Vietnamese)

ThiNhanVietNam

PoetFromVietNam

Vietnamese Choice Poems




MẮT LỆ CHO NGƯỜI – Bích Huyền

MẮT LỆ CHO NGƯỜI

Bích Huyền biên soạn và thực hiện trong Chương trình Thơ Nhạc VOA thập niên 1990′

***

Khoảng từ vài năm đầu thập niên 1980, đời sống dân chúng Sàigòn còn vô cùng thiếu thốn, đói khổ. Có nhiều đợt tù nhân chính trị được thả về. Họ là những người sĩ quan trẻ nhưng bị bệnh tật vì thiếu thuốc men hay vì “lý lịch khá trong sáng ”, không có “nhiều nợ máu với nhân dân”. Những người tù binh trở về ấy đã được dân Sàigon rỉ tai loan tin nhau, ra bến xe, ra ga đón tiếp một cách âm thầm (như mang quà bánh, nước ngọt, trái cây, quần áo và tiền để tặng, những người phu xe xích lô chở về nhà không lấy tiền …v v…).

Năm 1990, tôi được sang định cư tại Mỹ, theo chương trình HO 1. một trong những tình cảm đẹp trong hành trang tôi mang theo là tình thương yêu ấy của đồng bào hai miền Nam Bắc dành cho những người trẻ tuổi anh hùng thất thế ấy- mà nhà cầm quyền CS gọi là “ngụy quân ngụy quyền”.

Năm 1992, tôi được cộng tác với đài VOA, tiếng nói chính thức của chính phủ Hoa Kỳ phát thanh về Việt Nam. Tôi không bao giờ quên những người ở lại, khi đó vẫn còn đang trầm luân đói rách. Thế cho nên, trong những bài tường thuật gửi qua làn sóng VOA, những sinh hoạt Cộng đồng người Việt, những tấm lòng nhân ái tại nơi xứ người hướng về người ở lại. Những bản tin như thế, mang niềm hy vọng cho người miền Nam, nhất là những người tù, người vợ, người mẹ, người con Tù nhân Chính trị.

Ngay cả đến chương trình Câu ChuyệnThơ Nhạc mỗi tốithứ sáu của đài VOA, tôi cũng vẫn có những bài dành cho những người bất hạnh nhất trong một đất nước đã hết chiến tranh. Vâng, cho dù chiến tranh đã tàn nhưng khói của nó vẫn làm cho ta cay mắt.

Tôi nhớ có một chương trình nói về một câu chuyện bắt nguồn từ một cảm xúc về bài thơ mà tôi đã giới thiệu trên đài. Bài thơ ấy như sau:

Một chiều qua bến đò ngang

tình cờ nghe bài hát cũ

người hành khất mù và cô gái nhỏ

cây guitar lạc phím tự bao giờ

Cô gái hát

nỗi đau mênh mông của người tình phụ

chiều bay mưa hiu hắt dòng sông

khách qua đò cuối năm lưa thưa

có người dừng lại

xót xa trong lòng nhưng túi rỗng không

Mấy mươi năm rồi người con gái qua sông

tôi viết lời ca sao buồn quá vậy?

những câu hát cho lòng tôi thuở ấy

ai biết bây giờ

người hành khất hát để ăn xin…

Yêu bài thơ ấy của Đynh Trầm Ca, tôi đã biên soạn một ch/trình Thơ Nhạc “Nhớ người thương binh” và sau bài thơ là ca khúc Mắt Lệ Cho Người của Từ Công Phụng.

Thời gian sau đó, tôi nhận được một lá thư thính giả từ trong nước. (khi đó chưa có email nên phong thư giấy rất thô sơ, vàng úa vì loại giấy dùng rồi phải nấu lại vài ba lần, tem thư cước phí rất đắt do nhiều người chung góp).

Trong thư kể rằng, cũng từ cảm xúc của bài thơ ấy, những người tù xưa đã kể lại một câu chuyện tình ly biệt.

“Có hai người bạn ở trong tù, rất thân nhau. Họ là hai người bạn thời trung học. Lớn lên mỗi người một nơi, cho tới ngày gặp lại nhau thì buồn thay, lại ở trong một trại tù của người Cộng sản.

Sau năm năm trong nhà tù, họ lại chia tay nhau. Một người được thả về mang theo chiếc vòng của người bạn còn ở lại, nhờ trao đến tay một người con gái ở quê nhà. Chiếc vòng đeo tay làm bằng vỏ đạn có khắc bông hoa điên điển. Nhưng tiếc thay, khi tìm được đến nơi thì người con gái ấy đã không còn ở địa chỉ đó nữa…” Phần cuối câu chuyện không có kết thúc, cho nên nó đã để lại cho người đọc một niềm ray rứt thương cảm khôn nguôi.

Nhưng sau đó tôi lại nhận được thư vị thính giả khác. Ông cho biết về một người bạn cùng ở một tiểu bang, người đã nhận mang chiếc vòng của người bạn đồng tù. Người ấy có về lại tìm người bạn xưa. Còn nỗi đau nào bằng khi gặp lại người bạn học thân thiết thời thanh bình cũ, giờ đây trong một hoàn cảnh rất bất ngờ, đầy thương tâm. Người bạn xưa ấy sau khi ra tù bị mù đôi mắt, đang là một hành khất hát rong trên một bến đò… Hai người bạn cũ gặp lại nhau trong một buổi chiều cuối năm trời mưa bay rất nhẹ. Khung cảnh buồn hiu hắt cả lòng…

Được nghe kể rằng người yêu xưa có tìm gặp nhưng người hành khất đã chối từ: “Tôi không phải là người cô muốn tìm lại, chắc người giống người mà thôi”. Khi người đàn bà ấy buồn bã qua cầu, văng vẳng từ phía sau tiếng ghi ta và tiếng hát như đuổi theo…

“Mưa theo dấu chân em qua cầu

Theo những cánh rong trôi trên niềm đau

Đời em đã khép đi vội vàng

Tình ta cũng lấp lối thiên đàng

Như cánh chim khuất ngàn

Còn mong còn ngóng chi ngày yêu dấu

Mưa… soi dấu chân em qua cầu

Theo những cánh rong trôi trên niềm đau

Thời nào yêu hết trái tim buồn

Lời nào yêu hết trái tim buồn

Xin giữ trong mắt lệ

Nhòa theo từng gót chân người trông vời

Mưa âm thầm buổi chiều thổn thức,

Sẽ nhạt nhòa từ ngàn năm nữa như em khóc hồn nhiên

Nỗi muộn phiền ngày tàn hơi thở

Em thấy không cõi đời vô vọng…

Xin em hãy cho tôi tạ tình,

Khi em đã đi qua quãng đời tôi

Dù một khoảnh khắc sớm phai tàn,

Và lệ em rớt trên môi nhạt

Đôi mắt em rất buồn,

Đôi chúng ta rất buồn,

Vàng câu tình cũ

Xin gửi cho đời…

Trong đời sống, chia ly là chuyện bình thường. Nhưng có lẽ không có cuộc chia ly nào mà không có nhiều nước mắt đớn đau kể từ năm 1975. Bao nhiêu gia đình tan nát. Hai vợ chồng đôi ngả chia xa, hai người yêu nhau muôn đời cách biệt. Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng dù thời gian có xóa nhoà đi tất cả, dù không gian có cách xa, họ vẫn mãi nhớ nhau. Rồi có một phút giây nào đó gặp lại, họ nói với nhau lời tạ từ, nghẹn ngào trong hạnh phúc đắng cay, nhạt nhòa mắt lệ…

Tháng 6/2012

Bích Huyền




Văn: ĐẸP NHƯ SUỐI MƠ – Thơ Xướng Họa: XỎA TÓC GỌI THƠ – Cao Mỵ Nhân & Phương Hoa

ĐẸP NHƯ SUỐI MƠ

Có lẽ quý vị gốc Huế thuần thành chả bao giờ muốn rời cố đô đi mô hết. Bởi vì đất Thần Kinh có thung thổ đặc biệt, là đi xa hay ở gần, vẫn nhớ Huế mới lạ.

Như thế cũng có nghĩa là nếu đúng Huế chính tông, thì chẳng thể nào dứt bỏ một mảy may, một tích tắc chất Huế, nỗi Huế được.

Tôi hay kể chuyện Huế một cách …loanh quanh thôi. “Chớ răng tui có thể bước vô cái vòng Huế kiên cố, thâm cung đó được. Là ri, tui có sinh trưởng ở Huế mô, người ngoài đạo Huế mờ”.

Song tôi lại ở Huế tới mấy chục năm, quen thuộc cảnh vật, người ta, và những điều rị mọ suốt ngày, tôi cũng biến thành dân …lai Huế chút chút, chỉ dở một cái, là không bắt chước được giọng Huế.

Nên, cách nào tôi cũng là người xa lạ, có ưa thích Huế tới mấy, thiên hạ Huế cũng dửng dưng với tôi.

Nói thế chứ tôi “tiền hô hậu ủng” toàn bạn Huế đấy, quý vị khỏi cần thương hại tôi nha.

Trong khi tôi cứ mong nói được giọng Huế, thì bà mẹ chồng tôi lại nói toàn tiếng Bắc với tôi.

Có lẽ bà sợ tôi không hiểu bà nói chuyện gì, bà dùng ngôn ngữ bắc để khỏi phải nhắc lại việc bà vừa sai hay nhờ tôi làm, cho đúng và mau chóng.

Một hôm, mẹ chồng tôi dặn trước khi bà đi công việc gì đó, rằng tôi lấy gói bồ kết để trên nóc trạn, khui bếp tro ủ lửa suốt đêm ngày kia, thổi cho đỏ mấy miếng than, rồi nướng bồ kết.

Nướng bồ kết cháy vừa đủ thơm thôi, đập sơ cho rơi bụi than cháy ra. Xong bẻ những quả bồ kết đó vụn rồi bỏ chúng, những mảnh bồ kết mới nướng đó, vô một chậu nước lã, bưng chậu ra sân đang nắng phơi cho nóng lên, để gội đầu.

Tôi làm trong nháy mắt, là vì tôi đã thấy các bà, các cô thủa tôi còn bé, gội đầu bồ kết thế nào rồi.

Chậu nước bồ kết đó nóng vừa ấm tay, sủi bọt thơm dìu dịu, quý bà, quý cô muốn pha thêm nước nóng cũng được, rồi gội đầu bình thường, tóc chảy thật mướt xuống chậu hứng phía dưới, đẹp như …suối mơ.

Có khi khách gội còn vắt những nửa quả chanh bóp trên tóc, cho thơm thêm nữa.

…Mạ ơi, ông Chánh đòi hầu

    Mua chanh, bồ kết, gội đầu cho thơm…

             (ca dao )

Tôi không biết “ông Chánh” nào mà sướng thế chứ.

 Kêu người ta tới hầu chi chả biết. Và chắc ổng phải hào hoa, phong nhã lắm, mới được kẻ hầu ưng ý, đến nỗi phải mua chanh, bồ kết để gội đầu cho thiệt thơm tho, kẻo ông Chánh chê, mai mốt không chiếu cố nữa, thì lại tức.

Mấy lần nói chuyện xưa tích cũ, tôi định hỏi anh là thời anh ở Huế, anh có biết “ông Chánh” nớ không, thời đó thì anh còn nhỏ quá, mần răng biết được thế giới của ” ông Chánh ” trong ca dao Huế chớ.

Nhưng chưa hỏi, mình đã biết câu trả lời của anh rồi: “Thì tui là một… ông Chánh đây nì, hỏi chi xa rứa. Lâu ni, không thấy tui rất …ông Chánh, có điều ông chánh nì không cần đòi ai hầu, mà có người cứ tình nguyện tới đó tề”.

Ố ô, anh thì nguỵ rồi, rất tự tin, song tự trọng ghê hồn, lỡ ai vô phước nói hớ, hay tỏ vẻ không biết tới bản ngã đặc biệt của anh, là thôi, coi như đời sau cũng không gặp lại, chớ đừng nói kiếp ni nghe.

Hôm tê, mấy bà o ở Bên sông, phía Ngự Bình điện thoại viễn liên cho tôi, các o bảo: “Chớ răng mi, là tôi đó, chưa chịu về thăm tụi tau vậy ? Ít năm nữa cái lớp tau chết đi, không còn ai Huế thiệt nữa mô, không tin, mi về thử đi, toàn Huế…giả, ở mô chui ra lắm nợ…”

Tôi cũng đã nghe một phần như vậy lâu rồi.

Dẫu tôi không là con dân Huế, nhưng tôi cũng biết phân biệt Huế xưa đã dần dần đi khỏi thành phố cũ, nơi mà đàn bà con gái suốt ngày mượt áo dài, dù đi chân đất.

Mớ tóc thề thả ngang lưng dù gánh hàng quà rong trên đường mưa bụi bay.

Bỗng dưng tôi nhớ bài hát hồi mới có thành phần bên kia sông Bến Hải tràn vô, bài hát của một ” nữ cán bộ làm trưởng ban văn nghệ đài phát thanh thành Hồ ” bà ta viết nội dung là tất cả chỉ ở Huế, không nơi nào có được, đại khái thế.

Tới người cộng sản chủ trương san bằng giai cấp, mà cũng phải chào Huế mộng mơ, vẻ đẹp mà không đâu có được vậy.

Huế thật hay giả, vẫn hiển hiện sông Hương núi Ngự, có dập khuôn nhân dáng Huế, có tô vẽ dung nhan Huế, vẫn chỉ là Huế bên ngoài thôi.

Nói như anh nhận xét về thổ ngơi, thổ ngữ, thì giọng Huế rất khó đồng hoá, người giả bộ nói thế nào cũng lòi ra các lỗi vụng về, mà không phải họ không luyện kỹ hay tập chệu chạo dăm ba câu giả hò, giả hẹn cũng lộ liễu ngay.

Thế nhưng, có điều lạ là chính Huế, thì lại giả Hà Nội, Saigon in hệt.

Và để kết thúc bài này, tôi xin lỗi dẫn chứng chưa đúng, khiến anh sẽ cho điểm dưới trung bình, ấy là “ông Chảnh” chớ không phải ông chánh kiểu bắc kỳ quốc đâu.

Nói “ông chảnh” (dấu hỏi) phải hiểu chính là “ông chánh” (dấu sắc), ông chánh để ám chỉ những ngôi thứ nhất vừa thực tế, vừa mơ hồ.

Đồng thời ” ông chảnh “, cũng có nghĩa là ông ” chảnh ” với suy nghĩ ” bình dân học vụ ” của tôi, đừng giận nha quý ông …chánh thứ thiệt .

               Cao Mỵ Nhân




Hồn Ca Trên Biển Đông -VÕ ĐẠI TÔN (Hoàng Phong Linh)

(Tưởng niệm Ngày Thuyền Nhân)

(Tưởng niệm Ngày Thuyền Nhân)

  • Kính dâng lên hương hồn hơn nửa triệu đồng bào đã tử nạn trên biển Đông, mong vượt thoát chế độ cộng sản VN, mưu tìm Tự Do sau cơn Quốc Nạn 30 tháng Tư Đen 1975.

                                                                              Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)

 1.

Hồn ai đó ?

Chập chờn trên khói sóng

Dòng máu tươi theo nước chẳng hòa tan.

Hồn ai đó ?

Vạn tinh cầu chao bóng

Đảo ghềnh xa còn vọng tiếng kêu than.

Hãy về đây – trên sóng nước dâng tràn

Chung tiếng khóc nghẹn đau cùng Dân Tộc.

Hồn ai đó?

Đã lìa xa Tổ Quốc

Vẫn còn ôm sông núi xuống mồ hoang.

Tiếng oan khiên từ đáy vực còn vang

Hay chìm đắm giữa khơi ngàn sóng dữ ?

Mảnh thuyền tan, bập bềnh trôi viễn xứ

Biết về đâu ? Hồn phiêu bạt nơi đâu ?

Thân cá Hồi tan tác đã chìm sâu

Không tìm thấy lối quay về chốn cũ !

Giữa trùng khơi vang tiếng cười dã thú

Hải tặc giằng co thân xác – kinh hoàng.

Tiếng Mẹ kêu, dòng máu chảy đầy khoang

Tay vời níu đàn con run khiếp sợ.

Biển lạnh chiều hoang, trần gian nín thở,

Vòng tai ương kiếp nạn đến vô cùng.

Hồn ai đó ?

Bờ Tự Do bốn hướng, cõi mông lung

Tìm đâu thấy – giữa muôn trùng đen thẳm ?

Tiếng kêu “Trời!” trước phút giây chìm đắm

Biến tan vào giông bão, thét trùng dương.

Vực mồ sâu thịt rã máu còn vương

San hô trắng hay là xương ai trắng ?

Dòng tóc đen bám ghềnh xa hoang vắng

Thành rong rêu sẫm tím một màu tang.

Hồn ai đó ?

Chiếc thuyền Không Gian

Trôi về Vô Tận.

Bánh xe Thời Gian chuyển ngàn uất hận

Chập chờn mấy cõi U Minh.

Lịch Sử nghìn thu trang giấy rợn mình

Ghi chép lại phút kinh hoàng Vượt Biển !

2.

Hồn ai đó ?

Đảo hoang sơ, ai về đây khấn nguyện

Mộ bia tàn, ai thắp nén hương dâng ?

Nơi Ba-Đình vui chuốc rượu Vô Thần

Cười nghiêng ngả mừng reo hò chiến thắng !

Đồng ruộng phơi bày xương trắng

Oan khiên máu lệ thành sông.

Bao thây vùi trong sóng nước biển Đông

Còn sót lại mấy hoang tàn di tích ?

Hồn ai đó ?

Đảo xa xôi mộ phần cô tịch

Giấc ngủ chẳng bình an.

Họ còn theo, cố phá đập tan              

Để tô hồng chế độ :

• “Chủ nghĩa huy hoàng, không ai chối bỏ

Không có người vượt thoát để tồn sinh !!!”      (*CSVN tuyên truyền)

Nhưng bia đời như nắng rọi bình minh

Luôn soi rõ từng vết sâu tội ác

Của loài dã tâm với ngôn từ khoác lác

Đang tôn thờ chủ thuyết lai căng.

Hồn ai đó ?

Từ bao cõi vĩnh hằng

Xin về đây chứng kiến.

Tấm lòng chúng tôi, trọn đời Tâm Nguyện

Chí bền gan, xin vẹn Nghĩa Tình.

Dù ngăn cách Tử Sinh

Giữa hai bờ Nhật Nguyệt.

Dù có ai phá tan mộ huyệt

Đến nghìn sau hồn mãi còn đây.

Nhìn trùng khơi sóng nước dâng đầy

Gửi mơ về cố quốc.

Hồn vẫn sống trong lòng Dân Tộc

Vì hai chữ Tự Do.

Chiều GALANG bão tố sóng to

Hay tĩnh lặng trăng rơi thềm đá.

Sáng PINANG nắng xuyên rừng lá

Hay đêm vờn tiếng hát nhân ngư.

Hồn mãi còn đây, dù bia mộ hoang vu

Không tên tuổi – sá gì tên với tuổi !

Dù xác thân đã hòa chung cát bụi

Biển Đông còn – HỒN MÃI SỐNG THIÊN THU!

                                                                         VÕ ĐẠI TÔN (HOÀNG PHONG LINH)


46 TẾT LƯU VONG/QUỐC HẬN
(LỜI DÂNG LÊN MẸ VIỆT NAM)

MẸ VIỆT NAM ơi
46 năm rồi
Áo con đã rách.
Còn sợi chỉ nào, từ nguồn thiêng huyết mạch
Cho con xin, vá lại áo Đời.
Con đã đi, đường gai góc mòn hơi
Xuyên rừng núi, mồ hôi pha trộn máu.
Về quê hương, nguyện lòng son chiến đấu
Nửa đường đi thành đêm tối lao tù.
Mười năm ôm hận nghìn thu
Lênh đênh chìm theo vận Nước.
Và hôm nay, vạn nẻo đường xuôi ngược
Con vẫn còn tiếp bước Cha Ông.

*

Bao nhiêu năm – Mẹ đã đau lòng
Nghe con khóc từ trùng dương sóng chuyển.
Huyền sử xưa năm mươi con theo Cha về biển
Giống Rồng Thiêng mở rộng cõi bờ.
Còn hôm nay vì hai tiếng Tự Do
Trăm ngàn thây vùi tan nơi vực thẳm.
Năm mươi con vượt rừng sâu muôn dặm
Theo Mẹ hiền – thơm nửa máu dòng Tiên.
Dựng quê hương hùng sử khắp ba miền
Nay Văn Hiến cằn khô cùng sỏi đá.
Những địa danh chôn xương tù gục ngã
Tên kinh hoàng, tủi nhục đến nghìn năm.
Hoàng Liên Sơn không nấm mộ con nằm
Cổng Trời nghe máu khóc.
Dã thú vờn quanh, xiềng gông, tang tóc,
Nghĩa “Con Người” thua chữ sắn khoai.

*

Bao nhiêu năm – em bán hình hài
Tìm miếng cơm manh áo.
Đại Hàn, Đài Loan, xông xáo
Mua em về làm món đồ chơi.
Năm nghìn năm dù nước lửa dầu sôi
Chưa bao giờ mẹ bán con vì đói.
Bầy trẻ thơ còm cõi
Bươi rác nghèo, rách rưới lang thang.
Nghe quanh mình loa vẫn thét “vinh quang”
Đường Tương Lai đá cũng tan thành lệ.

*

Bao nhiêu năm tưởng chào vui thế hệ
Ngẩng cao đầu, tay vói đến năm Châu.
Nhưng cội nguồn và đạo lý chìm sâu
Lo sáng tạo những đua đòi vật chất.
Mùi kim tiền thơm hơn bánh mật
Giấc mơ vàng : – mong thoát khỏi quê hương.
Thúy Kiều xưa, rơi sóng nước Tiền Đường
Nay viết lại thành Tiền Giang, phản động ! () Lũy tre xanh, cánh tay thần Phù Đổng Bao anh hùng dựng Nước thuở ban khai Còn lại đây hoang phế cả đền đài Tên Hùng Vương đành thua tên Bill Gates. ().
Túi càn khôn đã nghèo, thêm rỗng tuếch,
Văn Hóa này còn lại tiếng “bia ôm” !

*

Bao nhiêu năm – răng hổ đói đỏ ngòm
Luôn gầm thét, xé tươi hồn Dân Tộc.
Từ địa đạo ùn lên bao cơn lốc
Thành “đại gia” chễm chệ một phương trời.
Miệng “vô sản” toàn men rượu nồng hơi,
Tay “chuyên chính” ôm bao đầy châu báu.
Dinh thự nguy nga, dựng lên từ máu
Của nhân dân khổ hạnh một đời.
Người thương binh ngẩng mặt nhìn trời
Nghe tiếng khóc trong tiếng cười vang vọng.
Chiếc xe lăn bánh mòn, gãy gọng
Lê thân tàn về cuối hẻm đơn côi.

*

MẸ VIỆT NAM ơi
46 năm rồi, niềm đau quặn thắt.
Đã có bao người lửa lòng nguội tắt
Dĩ vãng quên rồi, hiu hắt tình Quê ?.
Lớp già nua mơ ước nẻo về
Không nhắm mắt, cuối đời lên tiếng nấc.
Còn tuổi trẻ hồn nhiên hoa mật
Nơi xứ người chấp nhận quê hương.

*

Nhưng một ngày mai :
Đường hoa nở hướng dương
Hành trình thôi cúi mặt.
Sẽ có những đàn con vòng tay siết chặt
Kéo mặt trời về lại phương Đông.
Tổ Quốc sẽ tươi hồng
Giữa hào quang Dân Tộc.
Cây Tự Do sẽ đâm chồi nẩy lộc
Lửa Nhân Quyền bừng sáng nẻo thâm u.
Mái trường vui thay thế chốn lao tù
Cho con học từ cội nguồn Nhân Bản.
Không kẻ nào được quyền mua bán\
Thịt da em, nguồn sống của Rồng Tiên.
Hồn Tổ Quốc linh thiêng
Đài cao về chiếm ngự.
Cuộc hành trình từ quê hương – viễn xứ –
Chuyển xoay thành trẩy hội hoa đăng.
Từ phương Nam tung vút cánh chim Bằng
Thành Rồng thiêng Đông Á.
Từ núi cao nghiêng mình ra biển cả
Rạng ngời soi hai chữ : VIỆT NAM.

*

Lời trần tình bao nhiêu năm
Con viết bằng tim máu.
Từ nỗi đau âm thầm chôn giấu
Kính dâng lên TỔ QUỐC hằng yêu.
Mỗi chữ-vần mong gói trọn một điều :
Từ Tâm Thức xin góp chung Hành Động.
Đại cuộc Toàn Dân ban con Lẽ Sống
Hiến dâng đời cho trọn nghĩa Quê Hương.
MẸ VIỆT NAM ơi
Dù gian lao xin tiếp máu Lên Đường
Cho con về với Mẹ.
Vững chân đi, qua trăm ngàn dâu bể
Được quỳ ôm từng mảnh đất quê Cha.
Phút cuối đời xin biến lệ thành hoa
Giữa triều vui Dân Tộc.
Trong lòng con : – Vĩnh hằng TỔ QUỐC
Huy hoàng Văn Hiến – Tự Do !.

VÕ ĐẠI TÔN.

Ghi chú :

  • Văn Học – Trong kỳ thi tốt nghiệp trung học tại Việt Nam năm 2004, qua đề tài bình luận về truyện Kiều của Nguyễn Du, đã có nhiều thí sinh nộp bài viết : Thúy Kiều vì buồn chuyện gia đình đã tự vận tại sông Tiền Giang, may nhờ một nữ cán bộ cộng sản vớt lên, cải tạo tư tưởng phản động, Thúy Kiều giác ngộ, xin được kết nạp vào dảng.
  • Lịch sử – Trong cuộc thăm dò ý kiến sinh viên các trường đại học ở Việt Nam về các vĩ nhân thế giới và dân tộc, đa số sinh viên đều tuyển chọn Bill Gates làm thần tượng số 1 của giới thanh niên hiện nay trong nước.

CÁC ANH CÒN SỐNG MÃI …

(Viết nhân cuộc biểu tìnhngày Quốc Hận lần thứ 36 tại thủ đô Canberra, Úc Đại Lợi, trước tòa đại sứ cộng sản Việt Nam, do Cộng Đồng Người Việt Tự Do tổ chức. Kể từ năm Quốc Hận đầu tiên 30.4.1975 đến nay, đã có những Anh Hùng Nghĩa Sĩ Phục Quốc  bí mật hoạt động tại quốc nội, hoặc từ hải ngoại trở về,  và đã có những người hy sinh vì Quê Hương Dân Tộc,  trong lao tù, nơi pháp trường, hay trên đường về.  Xin kính dâng lên hương hồn Các Anh, với Tâm Nguyện tiếp nối cuộc hành trình của Các Anh một  thời dang dở…)

Võ Đại Tôn

Các Anh đã lên đường

Mấy mươi năm về trước.

Lòng quặn nhớ Quê Hương

Rừng sâu Anh tiến bước.

36 năm rồi, còn ai lội ngược

Dòng sông đời, tưởng nhớ các Anh đây ?

Sau Quốc Nạn, vượt thoát khỏi trùng vây,

Trên sóng nước mang Hồn Quê viễn xứ.

Đời lưu vong, cội nguồn luôn chiếm ngự

Tháng năm dài thao thức chuyện non sông.

Nhìn mây bay, ôm ấp mộng tang bồng

Hồn tượng đá thi gan cùng tuế nguyệt.

Bỏ lại sau lưng trời xứ người băng tuyết

Hay kinh thành hoa lệ chốn phồn vinh.

Đời tự do, sung túc cõi nhân sinh,

Anh trở lại – cùng Toàn Dân chiến đấu.

Nỗi đau riêng, nhìn đàn con yêu dấu,

Người vợ hiền lạc lỏng cảnh xa quê,

Anh lên đường, xuyên mấy nẻo quay về

Cùng Dân Tộc, mong cứu Người cứu Nước.

Bao triệu người ra đi, còn Các Anh về ngược

Vì Quê Hương, chân xẻ núi băng ngàn.

Niềm cô đơn gói trọn một hành trang

Dâng Tâm Nguyện lên Hồn Thiêng Tổ Quốc.

Rừng Hạ Lào lót đường gai góc

Đêm thâm u mưa lũ ngút ngàn.

Sương lạnh chiều hoang

Trăng mờ biên giới.

Đường Anh đi, nẻo xa vời vợi

Hành trang nghèo nhưng nặng nỗi thương Quê.

  • Phút sa cơ Anh vẫn vẹn câu thề

Xin gửi lại lòng son về Đất Mẹ.

Anh nằm xuống, nơi rừng hoang quạnh quẽ

Máu hoen mờ, cây lá phủ thân Anh.

  • Nơi pháp trường, Anh vẫn ngẩng đầu xanh

Mong Tổ Quốc nhận hồn Anh phút cuối.

  • Chốn tù lao, ngàn đêm ngày tăm tối

Anh âm thầm chôn giấu nỗi cô đơn

Vào đáy lòng, không cần khẩn van lơn,

Nuôi sức sống bằng lửa thiêng Sông Núi.

Chỉ xin nguyện làm Người không tên tuổi

Lót đường đi bao Thế Hệ ngày mai !.

                              *

                            *  *

36 năm dài

Trời Úc Châu hôm nay vào Thu lạnh

Thủ Đô người nắng hồng soi ngợp ánh

Cờ Vàng thiêng Tổ Quốc vẫn tung bay.

Bao người con đất Mẹ tụ về đây

Đòi Lẽ Sống, Nhân Quyền trong Tự Chủ

Cho Quê Hương, bị chìm sâu thác lũ

Mấy mươi năm do chế độ hung tàn.

Trời Trung Đông bừng dậy, vết dầu loang

Đòi nhân phẩm, chung thành cơn bão táp.

Bao triều đại độc tài xuôi tay ngã rạp

Trước cuồng phong uất hận của Lòng Dân.

Trời phương Nam rồi cũng sẽ dự phần

Cùng nhân loại thoát ra vòng sợ hải.

Hoa Cách Mạng dù mang tên đủ loại

Cũng đâu bằng Dân Tộc đóa hồi sinh.

Chúng tôi đây, chuyền ánh lửa bình minh

Về Đất Mẹ, cùng Toàn Dân đứng dậy.

Giữa rừng cờ, hôm nay tôi vẫn thấy

Các Anh về – chung tiếng thét loa vang.

Bước Anh đi từ thuở trước băng ngàn

Máu Anh đổ nơi rừng hoang biên giới.

Tiếng Anh thét trong xà lim tăm tối,

Nơi pháp trường Anh đã đứng hiên ngang.

Đang hiện về, trong ánh rợp Cờ Vàng

Chung góp sức cùng chúng tôi vững tiến.

Tôi đứng đây, khóc mừng trong hãnh diện

Biến đau thương ngày Quốc Hận hôm nay

Cùng triệu lòng xin nối tiếp bàn tay

Vung ngọn đuốc lửa thiêng về Đất Tổ.

Chung Lòng Dân, chuyển tang thương phẩn nộ

Thành cuồng phong phăng gốc rễ tham tàn.

Một mùa Xuân đầy ánh sáng vinh quang

Toàn Dân Tộc viết ngàn trang Sử mới.

Trên đỉnh trời, VIỆT NAM cao vời vợi

 Cùng nhân loài vui hạnh phúc ấm no.

Tạ ơn Anh, trong hàng ngũ Tự Do

Anh vẫn sống cùng thiên thu Tổ Quốc !.

Võ Đại Tôn

Canberra, thủ đô Úc Đại Lợi

This image has an empty alt attribute; its file name is space-1024x162.gif

CUỐI ĐƯỜNG MẸ ĐI

(Quê hương, những ngày di tản đầy máu và nước mắt,

trong tháng 4, 1975 – QUỐC HẬN)

Võ Đại Tôn

Mẹ già đi từ Cam Lộ

Nước mắt chảy mềm Gio Linh.

Gia tài không đầy đôi rổ,

Mẹ nhìn máu lửa Thần Kinh.

Đá đổ mồ hôi : Thạch Hãn

Chạy dài đến đỉnh Hải Vân.

Leo đèo, Mẹ như mê sảng,

Chân voi : sưng đôi bàn chân.

Mẹ đi giữa trời thiêu đốt

Thây con lớp lớp trải dài

Dọc theo con đường Số Một,

Nằm bên dăm củ sắn khoai.

Tam Kỳ chạy vô Quảng Ngãi

Bầy con đói khát bên đàng.

Biển người xô nhau, quằn quại,

Ngã dần… trong tiếng khóc than.

Mẹ vào Quy Nhơn, Phú Bổn,

Nhìn trời khói lửa Pleiku.

Đoạn đường mang tên Mười Bốn

Thành mồ hoang lạnh, thâm u.

Thây ai quàng manh chiếu rách,

Bàn tay nào vói trời cao ?

Ngập vùng tang thương Darlac,

Chân đi, Mẹ khóc nghẹn ngào.

Máu chảy lan dần mạch đất

Nha Trang chết vạn đàn con.

Vào Nam, sức già lây lất

Về đâu ? – Nẻo sống không còn !

Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá,

Mẹ lần đến mũi Quê Hương

Cà Mau nhìn ra biển cả

Tàn hơi, Mẹ chết bên đường !

Mẹ già đi từ Cam Lộ

Cuối đường, chết mũi Cà Mau.

Trọn đời sống trong đau khổ

Chết còn trông thấy khổ đau !…

Võ Đại Tôn (1975).

CON SẼ ĐƯA MẸ VỀ…

(Viết trong một  ngày biểu tình Quốc Hận… Trời mưa.)

Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)

This image has an empty alt attribute; its file name is image-41.png

Cụ bà gần 100 tuổi bên cạnh tác giả trong ngày biểu tình Quốc Hận tại thủ đô Canberra, Úc Đại Lợi. )

Hơn Bốn Mươi  vành khăn tang

Trên đầu tôi quấn chặt.

Lòng lính đau quặn thắt

Rụng xuống mặt trời đen.

Đâu phải kẻ ươn hèn

Sao đành buông súng , – khóc !

Đôi giày xưa bên vệ đường tang tóc

Đạp giấc ngủ từng đêm.

Màu áo trận dường như đã lãng quên

Vẫn bao trùm cơn mê thảng thốt.

Đời lưu vong tôi ôm hình Tổ Quốc

Máu chuyển về Quê, tiếng gọi Lên Đường.

Thủ Đô người, trời buốt lạnh mù sương

Tôi đứng cạnh Mẹ Già, rưng nước mắt.

Mẹ nghe không ? – Tiếng đàn con đang thét

Đòi lại Tư Do, Dân Chủ, Tình Người !

Xin Mẹ cho con, dù chỉ một nụ cười

Con cũng đủ vươn mình lên thẳng đứng.

Cho con ôm Mẹ để lòng con thêm vững

Chí bền gan, xuyên suốt hành trình.

Mẹ thấy không ? Trong gió lạnh run mình

Cờ Đại Nghĩa tay đàn con cao phất !

Mẹ nhìn con, ban thêm dòng hương mật

Chuyển Tình Thương, hơi ấm xuyên lòng.

Tuổi Mẹ già, ánh mắt chẳng còn trong

Nhưng con thấy vẫn nguyên dòng Lịch Sử.

Từ thuở ban khai, xuyên rừng sâu núi dữ

Mẹ dắt Con đi, vạn nẻo thăng trầm.

Cầm tay Con tô đậm nét Từ Tâm

Khuyên dựng Nước , trời Nam luôn Tự Chủ.

Nhưng giờ đây, như cuồng phong thác lũ

Trên quê hương bao tội ác tuôn dòng.

Mẹ lưng còng, đời bóng xế lưu vong

Đang đứng giữa đàn con trên xứ lạ.

Xin Mẹ yên lòng, ngày mai rồi hoa lá

Giữa Mùa Xuân Dân Tộc sẽ bừng hương.

Đàn Con đưa Mẹ về, dựng lại Tình Thương

Quỳ dâng Mẹ tháng ngày tươi sáng mới.

Đàn Con dìu Mẹ đi, nắng Xuân hồng phơi phới,

Mẹ-Con mình vui sống với Quê Hương !

Võ Đại Tôn.

This image has an empty alt attribute; its file name is space-1024x162.gif
This image has an empty alt attribute; its file name is Hai-BaTrung.jpg

VĂN TẾ TƯỞNG NIỆM HAI BÀ TRƯNG

Hôm nay, nhân ngày Tưởng Niệm Nhị Vị Trưng Vương,

Chúng con xin Thành Tâm Kính Lạy :

ANH LINH NHỊ VỊ TRƯNG NỮ VƯƠNG

CÙNG CÁC DANH THẦN, DƯƠNG TƯỚNG,

LIỆT NỮ, ANH HÙNG THẾ HỆ NHỊ TRƯNG

HIỂN LINH CHỨNG GIÁM

Đạo Sống ngàn đời còn sáng tỏ

Muôn Dân vạn thuở tạc công ơn.

Nhị Trưng vì Nước quên thân ngọc

Một dạ sắt son cùng núi sông.

Đất Nước Trời Nam, kết tụ tinh hoa hiển lộ Anh Thư, ngàn năm vằng vặc gương Liệt Nữ,

Non Sông Hồng Lạc, hun đúc gan vàng lẫy lừng Nhi Nữ, muôn đời sáng chói đức Trưng Vương.

Uy linh còn thắm đượm

Danh tiếng vẫn ngát hương.

Vượt thời gian, ân đức thấm nhuần đến cành cây ngọn cỏ

Ngoài vòng định lượng, công ơn ghi tạc cùng sử sách lưu phương.

Nhớ xưa NHỊ VỊ ĐẠI VƯƠNG

Sinh trưởng chốn nho phong nền nếp, vốn dòng lương tướng,

Chuyên nghề canh cửi nông trang, dáng ngọc thiên hương.

Nhưng không may gặp buổi

Đất nước lâm cơn quốc nạn

Đồng bào thảm họa tai ương.

Phường xâm lược chủ trương hưng Hán diệt Di, ưa đồng ghét dị,

Giặc Bắc phương bày nhiều quỷ kế mưu sâu, thủ đoạn khôn lường.

Khát máu tanh lòng, túi tham không đáy, chúng vơ vét sạch sành sơn trạch,

Lòng lang dạ sói, mạnh được yếu thua, giặc san bằng lãnh thổ biên cương.

Bắt cống nạp sừng tê đá quý

Bày dâng hiến trai ngọc đinh hương.

Hãm hại nhân tài anh kiệt

Dập vùi ân đức hiền lương.

Tàn mạt đến côn trùng cây cỏ

Đảo lộn cả luân lý cương thường.

Căm giặc nước, sôi gan tím mật,

Hận thù nhà, lòng quặn đau thương.

Bởi vậy cho nên NHỊ VỊ phải

Liễu yếu đào tơ ra oai tỳ hổ, giục toàn dân giải thù cho Nước,

Khăn tang mài kiếm tỏ dạ kiên trinh, Chị cùng Em rửa hận cho chồng.

Chiêng trống vang rền, giục giã quân dân tướng sĩ quyết vùng lên trừ bạo,

Tuốt gươm vung dáo, quản bao máu lửa hiểm nguy thề tận diệt bạo cường.

Nhi Nữ mà yên cương rong ruổi, tỏ lộ gan vàng dạ sắt,

Anh Thư song gươm dáo xông pha, phô bày chí khí phi thường.

Sáu mươi ngả tiến quân, đánh tan tành giặc Hán,

Trăm nẻo đường vây kín, hãm thái thú họ Tô.

Trời PHONG CHÂU phất phới ngọn cờ tự chủ

Thành MÊ LINH rạng ngời nền bá nghiệp vương.

Ba năm GIAO CHÂU thịnh trị

Ngàn đời ÂU LẠC lưu phương.

Nào ngờ nước Nam chưa qua vận bể dâu

Giặc Hán chưa buông tham vọng

MÃ VIỆN vội vã lên đường.

Móng nền tự chủ còn non yếu

Khó ngăn bầy lang sói điên cuồng.

Tự cổ kim thịnh suy mấy độ

Trường đấu tranh thắng bại lẽ thường.

Tận trung với Nước, dòng SÔNG HÁT sóng gào, thương tiếc Anh Thư tuẩn tiết,

Hết dạ thương Dân, đất MÊ LINH rung chuyển, thấm ơn Liệt Nữ TRƯNG VƯƠNG.

Hơn một ngàn năm Ngài hằng linh hiển cứu Dân độ Nước,

Trải muôn vạn đời, toàn dân thành kính hương khói miếu đường.

Cột Đồng MÃ VIỆN tịch mịch, vùi sâu trong cát bụi,

Sóng xanh SÔNG HÁT uy linh, tỏa sáng khắp muôn phương.

Nước biếc non xanh phơi phới ân sâu nghĩa nặng,

Trời cao đất rộng lồng lộng uy đức Anh Hùng.

Chúng Con nay

Nhân ngày Thánh hóa

Dâng nén Tâm Hương

Hướng lòng tưởng niệm.

Ghi tạc Công Ơn

Cúi xin phù trợ

Cho Con Dân thoát đọa đày tan tác

Cho Đất Nước sớm Dân Chủ Phú Cường !

Uống nước nhớ nguồn

Nhân ngày Giỗ Thánh

Chúng con kính cẩn

Dâng tấc lòng thành.

THƯỢNG HƯỞNG !

********

                        (Võ Đại Tôn cúi đầu chấp bút)

This image has an empty alt attribute; its file name is tranh-ca-coi-1024x495.jpg



THƠ Cho Ngày 19 Tháng 6: LY RƯỢU CẠN & THỜI THẾ…THẾ THỜI – Lê Tuấn + Hoàng Mai Nhất & Chiều Không Gian – CƠN MƯA TUYẾT – Tình Thơ LÊ TUẤN + THƯƠNG NHỚ BA – Thơ Ngày Từ Phụ – Hoàng Mai Nhất




Niềm Vui Của Cha – MINH THÚY & Hình Ảnh Ngày Quân Lực VNCH, Kỷ Niệm Ngày 19 Tháng 6 2021 – Lê Văn Hải

       Ông Lang được chích thuốc phòng dịch Coronavirus từ tháng ba năm nay. Sau bao ngày bó chân bó cẳng ở tiểu bang Alabama nơi gia đình con gái, hôm nay ông mới được về Cali thăm con trai. Trời Cali thật lạ, tuy đã tháng sáu nhưng ông vẫn thấy lạnh, ngày lạnh ít mặc áo ấm nhẹ, đêm lạnh nhiều mặc áo dày vẫn thấy run, hay tại tuổi trên 80 của ông cơ thể đã bị yếu đi nhiều?!

Hùng (con trai) và vợ là Vân sang nhà hàng cuối năm 2019, làm ăn chưa được 5 tháng thì bị tình trạng đóng cửa vì dịch bệnh, vợ chồng lo lắng xanh mặt, tình trạng kéo dài phải chịu trả tiền rent chờ đợi. Bao nhiêu tiền dành dụm trước đây đã đắp đổ hàng tháng, may có bà ngoại giúp đỡ và con gái lớn vừa học vừa làm có tiền dành dụm đưa ba mẹ. Hùng xót xa thương con, cha mẹ  nào muốn con mới ra đời đã phải nặng gánh lo toan nhu vậy, nhưng tình thế làm ăn lao đao chung, nên đành phải nhận lòng hiếu thảo của con. Mấy tháng qua quán ăn được mở trở lại phục vụ dưới hình thức “Food togo”, nhưng nơi Hùng Vân bán, đa số là sinh viên thuê nhà chung quanh trường   San Jose State University, nay các em học online tại nhà, vợ chồng cố cầm cự khách vãng lai, bỏ công cầu mong đủ trả tiền rent chờ đợi tương lai hy vọng sáng sủa hơn. Tình hình xăng dầu mắc mỏ, vật giá leo thang kinh khủng, Hùng Vân mua hàng thực phẩm giá cả tăng gấp ba, tháng trước vợ chồng hì hục dán thay đổi lên giá chút xíu khiêm nhường, thì nay mua hàng lại tiếp tục tăng, vợ chồng khổ sở không dám nghĩ đến chuyện tăng thêm sợ mất khách.

Ông Lang nhìn hoàn cảnh con cháu cũng buồn rầu lo lắng thêm, tuổi ông nay cũng gần đất xa trời, nhưng rước vào biết bao nhiêu sự lo lắng trước cuộc sống hiện tại từ kinh tế, dịch bệnh và mới đây là sự kỳ thị dân Á Đông. Hằng ngày xem tin tức hình ảnh dân Á đông bị hành hung, ông chỉ biết âm thầm thở dài, không dám đi dạo bộ ngoài đường như trước nữa, suốt ngày loanh quanh sau khu vườn. Sống với con này lại nhớ con kia, mỗi con làm việc và sinh sống mỗi tiểu bang, ông luôn cầu mong có nhiều sức khỏe để còn đi thăm các con.

Về đây, nhìn vợ chồng Hùng đầu tắt mặt tối, sáng rời nhà sớm, tối về muộn, các cháu đi học, ông cũng chẳng còn ai để chơi. Bạn lính, bạn tù, bạn thời đi học có nhiều, thường liên lạc bằng email. Ngày xưa thỉnh thoảng họp hội đoàn nơi này nơi kia, nay từ từ đã rụng lần hồi, bạn bè còn lại, đa số không còn lái xe được, gọi phone thăm nhau đều nghễnh tai nói chuyện, ông nói vịt, bạn nói gà, mở volume thật lớn, nghe và hiểu được bao nhiêu thì hiểu. Thế giới người già bị thu hẹp niềm vui và tăng dần sự cô đơn lạc lõng.

Sáng nay cháu gái đầu của Hùng là Sophia Thu Hằng được nghỉ ở nhà, lần đầu tiên ông Lang thấy cháu có thì giờ kể từ khi qua đây. Tuổi trẻ bận rộn theo việc học hành, nhiều sinh hoạt bên ngoài, may mắn gặp bữa có cháu ngồi chung mâm cơm, thăm hỏi đôi điều rồi các cháu trở về phòng sớm lẹ, mà nếu có ngồi chung cũng cúi mặt vào phone. Nhiều lúc ông cũng muốn cười nhìn các cháu ngồi kề nhau nhưng nói chuyện bằng text qua phone, tiết kiệm lời nói tối đa, không ngờ cái phone nó có sức thu hút và điều khiển mạnh mẽ như vậy, chả bù với ông bây giờ muốn nói nhưng không ai nghe, và cũng chẳng nghe được ai nói dù đôi tai đã gắn hearing aid.

Trời nắng ấm, Ông đi dạo quanh vườn, cầm kéo cắt tỉa những bông hoa héo, lá sâu, nhặt rác, nhổ cỏ dại. Những chậu hoa tươi sáng lên dưới ánh nắng vào hạ, hoa Snapdragon hồng, vàng xinh tươi thường bán nhiều nơi của tiệm Trader Joe’s, hoa Hồng mấy cây đủ màu sắc nở nụ thật xinh, hoa chuối màu gạch đậm đà, hoa Cúc vàng tươi rực rỡ, còn nhiều hoa nữa ông không biết tên, ông dừng lại cắt tỉa thật kỹ loài hoa màu tím, hình thù như hoa Phượng, màu tím gợi nhớ nhiều kỷ niệm, ánh  mắt  ông xa xăm về vùng quá khứ…

                                    ***

Thủa ấy cuộc tình của ông được trải dàn hình ảnh thơ mộng nơi đất Thần Kinh. Hương (vợ ông) học trường Đồng Khánh, ông học trường Quốc Học. Từng chiều tan trường ông đạp xe về hướng Vỹ Dạ, tình cờ cũng thấy cô gái đạp cùng hướng, thường hay để chùm hoa dại màu tím trên giỏ xe, ông bị cú sét “phút đầu gặp em tinh tú quay cuồng”, với nét mặt đẹp thánh thiện, trong sáng. Từ đó mỗi giờ tan trường ông thường nấn ná đợi chờ trước cổng trường mình, mắt nhìn đoàn nữ sinh đi bộ, đoàn đạp xe rất rõ ràng chứ không như Hàn mặc Tử “ áo em trắng quá nhìn không ra “. Rồi từng ngày xe theo xe  nhặt bóng nắng đường dài,  Ông đạp chậm theo ai hát vừa đủ họ nghe 

Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi

Cô đi về đâu tan buổi học rồi

Cô xuôi Đạp Đá hay về Nam Giao

Cô về Vỹ Dạ hay ngược Kim Luông…   (Thu Hồ)

May mắn cho Hương chưa tới Vỹ Dạ, cũng chưa qua Đập Đá thì nàng đã rẽ vào đường Nguyễn Công Trứ có chợ Cống lối sâu, nếu không sẽ còn nghe “gả điên” có giọng ca khàn đục bám theo sau. Đều đặn thời gian có lẽ cô thấy anh thanh niên mặc áo trắng, quần xanh với nét mặt thanh tú không đến nỗi tệ, nên có lần cô cũng mở miệng trả lời câu hỏi làm quen của ông, vừa đạp xe vừa giữ chiếc nón quai tím thật duyên dáng làm tim ông đập mạnh rung động. Hai người quen nhau từ đó, chỉ tiếc nàng không đạp xe qua khỏi Đập Đá để thấy con đường thơ mộng trải nhẹ xác hoa Sầu Đông, ông ước chi được thấy loài hoa nhuỵ tím cánh trắng nhỏ tí theo làn gió thoảng bay rụng bám trên áo nàng, tóc nàng chắc sẽ làm ông ngây ngất thêm nữa.

“Khi gió mới lên làn tóc tung tăng.

Xõa ngang bờ vai khi tuổi dậy thì

Đôi môi hồng thắm duyên là nên duyên 

Mắt tròn như mộng say đời xinh xinh 

Cô là tất cả trời đẹp xứ kinh”

Mối tình kéo dài bằng những cánh thư trao gởi được hơn một  năm thì ông đi lính vào Thủ Đức sau khi đậu Tú Tài 2, lúc đó Hương đang học lớp đệ nhị. Ông ra trường sợ mất Hương, về phần nàng đang ham yêu nên tốt nghiệp trung học xong lo sợ”một ngày xa nhau xóa bao hình bóng”, nên cũng muốn lấy chồng để giữ tình yêu. Cha mẹ Hương lo lắng đời lính phiêu bạt, còn Hương thì chưa có nghề nghiệp gì, nhưng lúc yêu nhau con người ta thường mạnh mẽ chẳng sợ điều gì, ông luôn trấn an Hương “trời sinh voi, trời sinh cỏ”.

Cuộc đời binh nghiệp rày đây mai đó, nên Hương bồng con theo ông sống từ tỉnh này đến tỉnh khác cho đến ngày mất nước. Ông đi tù cải tạo. Hương ôm hai đứa con dại vô Sài Gòn ở ké nhà mạ đã vào trước đó. Tuổi đời còn dại chưa từng va chạm, Hương theo người ta buôn gì lỗ đó, vốn liếng chẳng có, đi họp tổ nghe dụ dỗ vợ tù cải tạo nếu đi kinh tế mới chồng sẽ được về sớm. Hương tìm lên hướng Long Thành dựng nhà làm rẫy chờ ngày ông về. Hai năm, ba năm, rồi tới tám, chín năm chưa về, chồng ở tù ‘mút mùa Lệ Thủy.” Hương trở lại Sài Gòn vì muốn con cái học hành, nhờ em chồng giúp đỡ cho ở ké góc nhà sau. Hương kiếm được chỗ ngồi đầu hẻm nấu xôi bán, ngày nào bán ế các con than thở “ăn xôi hoài sợ quá mẹ ơi”. Bòn nhặt chút tiền dư Hương lặn lội ra miền Thanh Hóa đèo heo hút gió thăm ông, tủi tủi mừng mừng chẳng nói được điều gì, ông chỉ biết nhìn Hương nước mắt ràn rụa. Những đêm trong tù thao thức, ông đã từng nghĩ với nhan sắc của Hương ra đời thế nào cũng có nhiều người theo đuổi, Ông chẳng trách hờn nếu Hương bước thêm bước nữa, trái lại còn thương hoàn cảnh người đàn bà yếu đuối mất dần tuổi xuân, chồng lại tù tội không có ngày về. Trước mắt ông là hình ảnh người thiếu phụ đen sạm ốm yếu tàn tạ, khiến ông càng đau lòng thắt ruột, nhưng biết làm gì hơn trong hoàn cảnh này. Sau chuyến  thăm chồng về Hương bị mất chỗ ngồi bán xôi, nàng chỉ biết cắn răng vác thúng đi dạo quanh vùng bán rao. Tình cờ có người bà con thấy hoàn cảnh quá nghèo khổ, nên giới thiệu hàng may gia công, Hương cặm cụi sáng tối ngày mười mấy tiếng, gắng nuôi con ăn học, mòn mõi đón chồng sau gần 14 năm “cải tạo”.

Ông ngừng tỉa cây, ngồi xuống bộ bàn ghế đặt dưới gốc Phượng tím, mắt ông lại càng xa vời như người mộng du tiếp tục quay về vùng ký ức…Bao nhiêu năm trong tù, đau khổ nhục nhã lao động bào mòn thể xác tinh thần, nhưng khi về nhà đối diện cảnh thực tế, ông càng đau đầu lo âu đủ thứ nhìn cuộc sống vợ con vất vả, ông đã sụt mất nhiều cân. Ông làm đủ nghề thợ mộc, thợ hồ, làm thuê làm mướn, chỉ muốn nhắm mắt lại mỗi lần thấy lá cờ đỏ sao vàng, tim đau nhói khôn tả, nuốt nước mắt chảy ngược vào lòng nhức nhối.

Vài năm sau ông đi diện HO qua Mỹ, đau lòng  rời xa Quê Hương Đất Tổ sống đời tỵ nạn mà vết thương trong tâm hồn thầm lỡ loét mỗi ngày mỗi sâu hơn. Vợ chồng ông bắt tay cày cuốc cố gắng lo gầy dựng cuộc sống mới, nhưng cuộc đời đếm trên đầu ngón tay niềm vui chẳng được bao nhiêu, vợ ông ngả bệnh bất ngờ, chỉ nửa tháng sau buông nghiệp trần ra đi. Ông mất thăng bằng tâm lý, có những đêm uống rượu say mèm trốn chạy sự thật đau đớn, thức giấc nửa đêm thấy bão tuyết ngoài trời, ngôi nhà trống vắng lạnh lùng, ông ước chi được đi theo vợ giải thoát. Các con đã lập gia đình ở riêng rất lo lắng, gọi phone đến thăm, ông sợ hãi dọn dẹp sạch những chai rượu, không để lại dấu vết gì vì sợ các con buồn. Thấy tình trạng cha suy sụp như vậy, các con muốn ông về sống chung. Ông không vực dậy nỗi bản thân, bỏ bê công việc nên bị laid-off. Con ông lệ thuộc công việc, nên di chuyển sang tiểu bang khác, từ đó ông ở hai nơi…

           – Ông đang ngồi nghĩ gì vậy ?

Tiếng bé Hằng đang bước ra vườn hỏi làm ông choàng tĩnh trở về thực tại 

– Ờ ông đang ngắm và cắt tỉa hoa cho gọn cháu à 

Ông có thể kể con nghe chuyện VN, chuyện ông được không?  Con đọc vài tài liệu nhưng chưa hiểu hết.  

            Ông gật đầu mừng rỡ, các cháu ngoại còn quá nhỏ, nhưng hôm nay cháu nội đã trưởng thành và muốn tìm hiểu về quê hương Việt Nam. Ông rửa tay và hai ông cháu ngồi đối diện. Nắng xuân pha lẫn giọt hạ hồng tươi sáng ấm áp, mùa hè đang chào đón, bầu  trời trong xanh dịu mát, ông hít thở không khí trong lành, kể giọng chậm rãi….

– Khi giặc miền Bắc xâm lấn miền Nam… ông bị đi tù, bà nội con đã dầm mưa dãi nắng ngồi bán xôi nuôi ba và cô của con, ông từng bị còng tay ngồi xà lim, đi lao động làm đủ việc nặng nhọc, nhiều lúc ông không ngờ được có ngày mình còn sống trở về. May mắn đất nước Hoa Kỳ dang tay cứu vớt, đưa HO sang đây làm lại cuộc đời. Dân VN rất sợ Cộng Sản cai trị bởi chế độ độc tài, nên liều mình tìm cách trốn thoát bằng đường bộ hoặc đường biển, đàn bà bị cướp hãm hiếp bắt cóc, người ta bỏ mạng rất nhiều ngoài biển cả vì tàu chìm.

         Bé Hằng chớp mắt lia lịa như cố đè nén nỗi xúc động, cháu đứng lên quay vào trong, hồi sau cầm ra ly nước cho ông uống, mặt mày tỉnh táo hơn ngồi xuống chờ đợi ông kể tiếp. Ông phải tìm chữ giải thích cách này cách kia vì nhiều từ ngữ cháu không hiểu.

         – Cháu biết dân tỵ nạn trên khắp các nước luôn bảo vệ lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, đó là lá cờ tự do mà đời ông đã gìn giữ đất nước trong hai mươi năm, biết bao người đổ xương máu hy sinh mất một phần thân thể, nay đã tàn phế bên quê nhà, cho nên cháu cố gắng học thật giỏi, góp công trả ơn nước Mỹ nói chung và giúp cộng đồng Việt Nam nói riêng nhé, đó là điều ông mong cháu luôn ghi nhớ…

       Bé Hằng ngồi yên mắt đỏ hoe, bỗng dưng choàng ôm ông 

         – Con thương Ông lắm, giống như con thương ông Ngoại cũng đi tù mấy năm, con chỉ nghe qua lời mẹ kể vì Ngoại mất khi con nhỏ quá, may mắn nay được nghe Nội kể, “I love you so much”. 

Câu chuyện ngưng ngang đó vì cháu còn chuẩn bị đi dạy học ở KM (Kumon Learning Center).

         Tháng sáu bé Hằng tốt nghiệp hai năm trường Chabot College để chuẩn bị vào U.C Berkeley.  Quá đỗi kinh ngạc của ông và cha mẹ, cháu mặc áo, mũ làm lễ kèm theo khăn quàng cổ bằng cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ thân yêu của người tỵ nạn Cộng sản đã trân quý gìn giữ khắp nơi. Có niềm vui nào bằng với ông bây giờ, cháu đã tìm hiểu lý do về chuyện tỵ nạn của người Việt trên xứ người. Riêng đối với Hùng và vợ, niềm hạnh phúc dâng tràn nhìn con ngoan hiền, tiền kiếm được đưa hết cha mẹ lúc vợ chồng Hùng gặp khó khăn về business. Hơn một tháng nay công việc buôn bán có vẻ hồi sinh trở lại, Hùng hy vọng tình hình sẽ khá hơn, vợ chồng anh sẽ cố gắng làm lụng, phụ giúp vào ước mơ của con gái chọn ngành theo ý muốn. 

Sắp đến ngày lễ Father’s Day, bé Hằng hỏi cha và ông thích quà gì để cháu mua, vì cháu muốn món quà được dùng không bị bỏ xó. 

Ông Lang mỉm cười vỗ đầu bé Hằng 

– Cháu biết choàng lá cờ vàng, lá cờ chính nghĩa người dân tỵ nạn VN luôn tranh đấu để được xuất hiện trong các buổi lễ một cách trân trọng, cháu đã hiểu phần nào về quê hương đất nước, thì là món quà quý giá tặng cho ông rồi, ông chẳng cần thêm gì nữa hết.

Hùng cũng âu yếm nhìn con 

– Con đã là món quà lớn mẹ Vân tặng cho cha rồi, con biết chăm chỉ học hành, hiếu thảo với cha mẹ, ngoan hiền như vậy cha đặt hết kỳ vọng về con, cha vui lắm không cần quà cáp gì đâu con. 

Buổi tối gia đình dùng cơm với những món hơi đặc biệt, gọi là ăn mừng bé Hằng ra trường. Không khí đầm ấm, hình ảnh gia đình hạnh phúc giữa ba thế hệ ông, cha, và cháu, bữa cơm thêm ngon miệng.  Ông Lang và Hùng cụng ly bia, nháy mắt ra dấu chia sẻ niềm vui chung của những ông cha.

Bất chợt Hùng sực nhớ ra điều quan trọng đã quên nói

– Con báo ba tin mừng nữa là năm ngoái vì bệnh dịch Covid_19 nên Liên Hội Quân Nhân gác kiếm không tổ chức ngày Lễ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, nhưng năm nay tổ chức đúng ngày 19 tháng 6 tại đường West Hedding St. San Jose, con đã nắm thông báo và địa chỉ đây, hôm đó con sẽ chở ba đi dự lễ, như vậy là quà Father’s Day đó nhé, khỏi cần mua gì tặng phải không ba?

            – Cha mày…chỉ được cái lém lỉnh. 

Lâu lắm rồi nụ cười của ông mới mở rộng hết ga như vậy, ông nghĩ “chuyến về Cali này thật hên, ông sẽ được hồi sinh lại quá khứ trong ngày lễ QLVNCH…”

Minh Thúy (Thành Nội)

2021




TƯỞNG NIỆM NHÀ VĂN MINH ĐỨC HOÀI TRINH – KIỀU MỸ DUYÊN

Nhà văn Nguyễn Quang, nhà văn Khánh Lan, Kiều Mỹ Duyên, nhà văn Việt Hải

          Chị Minh Đức Hoài Trinh mới mất đây mà đã 4 năm, nhưng gia đình và bằng hữu vẫn nhớ đến chị, làm lễ tưởng niệm chị. Buổi tưởng niệm được tổ chức ở nhà hàng Diamond Seafood, thành phố Westminster sau dịch cúm vô cùng cảm động. Ba thế hệ tham gia buổi lễ tưởng niệm, đồng thời cũng nhân ngày của Cha. Phụ nữ trong những tà áo dài màu sắc sặc sỡ, tha thướt như ngày nào còn là nữ sinh trung học. Nhà văn Việt Hải, trưởng ban tổ chức, nói về lý do buổi tiệc hôm nay. Lệ Hoa, vợ của Việt Hải vẫn đẹp như ngày nào nhưng không đi bên cạnh chồng lúc Việt Hải phát biểu ý kiến. Giọng nói của Việt Hải rất mạnh, tinh thần minh mẫn mặc dầu đã qua cơn bạo bệnh. Người có tâm huyết thì nhất định phải sống lâu trăm tuổi để làm việc cho cộng đồng.

          Lời nói của Việt Hải nhắc về nhà văn Minh Đức Hoài Trinh rất tình cảm và chân thành. Người đi thì đã đi nhưng người ở lại nhớ mình là một điều rất khó. Nhà văn Minh Đức Hoài Trinh đã ra đi nhưng để lại nhiều bài viết rất xuất sắc. Thơ của chị đã được phổ thành nhạc ở Âu Châu và Mỹ Châu. Bài hát Ai trở về xứ Việt do nhạc sĩ Phan Văn Hưng phổ thơ của chị Minh Đức Hoài Trinh được hát khắp nơi trong các cuộc họp mặt hoặc các buổi cắm trại sau năm 1975 ở Âu Châu và Úc Châu.

Nhà văn Thụy Lan, Việt Hải, Khánh Lan

          Nhà văn Việt Hải nói ít nhưng phát biểu đầy ý nghĩa. Nhà văn Nguyễn Quang, phu quân của chị Minh Đức Hoài Trinh nhắc về những kỷ niệm của anh chị từ ở Pháp sang Hoa Kỳ định cư. Nhạc sĩ Võ Tá Hân, con trai Đại Tá Võ Sum, cũng phổ nhạc nhiều bài hát từ thơ của thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh. Nhạc sĩ Võ Tá Hân gọi thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh là cô. Trong một gia đình có nhiều văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ Linh Bảo cũng được nhắc nhở đến n

          Trong buổi họp mặt chủ nhật ngày 13/6/2021 có sự hiện diện của các bậc trưởng thượng như Đại tá Lê Thương (Chỉ huy trưởng Pháo binh SĐ2 Bộ binh), Đại tá Lê Bá Khiếu (Tỉnh trưởng Quãng Ngãi), Trung Tá Hà Văn Thức (Chỉ huy trưởng quân nhu bốn vùng chiến thuật), Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhường (Tiểu đoàn 34 Pháo Binh), Giáo sư Dương Ngọc Sum, Bác sĩ Nguyễn Trọng Việt, Giáo sư Lê Tinh Thông, ông Nguyễn Đức Luận. Ban hợp ca cất tiếng hát lảnh lót, đa số là nữ ca sĩ, chỉ có một nam ca sĩ, là nhà văn Vi Khiêm Nguyễn Văn Liêm, tươi sáng như gươm lạc giữa rừng hoa.

          Các diễn giả phát biểu ý kiến xen những bài hát được phổ nhạc từ thơ của Minh Đức Hoài Trinh, làm cho buổi tưởng niệm nhà văn Minh Đức Hoài Trinh thêm phần hào hứng. Lúc đầu, nhà văn Việt Hải nói dự trù khách tham dự chừng 50 người, không ngờ cuối cùng hàng trăm người đến dự. Buổi lễ rất vui, khai mạc đúng giờ, các MC gồm 3 cô luân phiên điều hợp chương trình là các ca sĩ Mộng Thủy, Khánh Lan và Thụy Lan, những người điều khiển chương trình duyên dáng, tha thướt trong chiếc áo dài nhu mì không kém phần thời trang. Các nàng người nào cũng ăn mặc đẹp, bận rộn trình diễn ca nhạc và tiếp khách. Nhà thơ Dương Hồng Anh (cháu nội của danh sĩ Dương Khuê) tươi cười và có sách, thơ in hàng năm tặng bằng hữu, sách không bán. Sự lạc quan của các thi văn sĩ trong những bài hát làm cho những người trẻ hiện diện thích thú. Nếu đến đám đông mà nghe rên than thì tuổi trẻ không thích, nhiều người trẻ phát biểu ý kiến như thế. Ban Tổ Chức cố gắng dung hòa giữa những thế hệ. Buổi lễ được Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian  thực hiện, đây là do sự kết hợp bởi 2 nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật chuyên về thi ca văn học và nhóm Tiếng Thời Gian chuyên về âm nhạc và ca kịch, ca vũ nghệ thuật. Tổ chức ra đời được gần 7 năm, với nhân số hội viên hơn 70 người.

Nữ sĩ Dương Hồng Anh ký tên tặng sách.

          Giáo sư Quyên Di nói về ngày của Cha rất có ý nghĩa, với năng khiếu thuyết trình trong phong thái ý nhị và dí dỏm khi trình bày đề tài. Giáo sư Quyên Di hát về Cha giống như ca sĩ chuyên nghiệp, được vỗ tay nồng nhiệt nhưng lại hát có mấy câu, chờ lần sau hội ngộ.

Kiều Mỹ Duyên kể lại những kỷ niệm đẹp với chị Minh Đức Hoài Trinh

          Kiều Mỹ Duyên nhớ về chị Minh Đức Hoài Trinh là gặp chị ở trong thang máy đến nơi họp báo của hòa đàm Paris, năm 1969. Chúng tôi bàn với nhau về việc đặt câu hỏi với phái đoàn Bắc Việt về biến cố Mậu Thân. Tại sao các ông giết 6 giáo sư người Đức sang Việt Nam dạy học trong chương trình trao đổi văn hóa quốc tế? Câu hỏi này được sự thu hút của giới truyền thông quốc tế, nhất là ký giả người Đức. Tối hôm đó, chúng tôi lại gặp nhau tại buổi tiệc của Liên Hợp Quốc. Chị em có cơ hội ngồi gần nhau. Sau này, chúng tôi gặp lại, chị kể chị du học ở Trung Quốc. Khi Trung Quốc biến thành Cộng Sản, chị sang Hồng Kông, nhờ người bạn bán cây đàn dương cầm để giúp chị đi sang Pháp. Ở Pháp, chị học về báo chí.

          Chị kể cho chúng tôi nghe rất nhiều về cuộc đời của chị, rất sống động và đầy hứng thú. Xa quê hương, nhưng năm nào chị cũng về Việt Nam vào gần Tết để giẫy mã cha mẹ. Chị Minh Đức Hoài Trinh cuối đời được phước có anh Quang chăm sóc cho chị. Chị định cư ở Hoa Kỳ, tại Midway City, Orange County. Thỉnh thoảng, tôi đến thăm chị. Chị dạy đàn tranh và thường cùng học trò trình diễn đàn tranh trong đại hội. Tôi rất thích nghe tiếng đàn của chị vì tiếng đàn rất lạc quan.

          Có nhiều người trong buổi tiệc là góa phụ. Không hiểu tại sao sang đây đàn ông đi trước nhiều hơn đàn bà?

          Nhiều người thương nhà văn Minh Đức Hoài Trinh và ca ngợi nhà văn Nguyễn Quang vì anh đã chăm sóc chị cho đến cuối đời. Có bao nhiêu đàn bà được hưởng hạnh phúc như thế?

Nhà văn Nguyễn Quang, phu quân của chị Minh Đức Hoài Trinh nhắc về những kỷ niệm của anh chị từ ở Pháp sang Hoa Kỳ định cư.

          Nhà văn Quyên Di nói về Cha rất ý nghĩa và thâm thúy, cảm động nhất là đoạn chót. Đàn ông cũng khóc nhưng nói mình chảy nước mắt là do mùi hành.

          Kiều Mỹ Duyên thì cho rằng đàn ông Việt Nam người nào cũng làm vua vì được hầu, những bàn tay của phụ nữ hiện diện vỗ tay như pháo.

          Sau đây tôi xin trích đoạn một phần mà Giáo sư Quyên Di kể chuyện về Minh Đức Hoài Trinh: “Mở đầu sách Đại Học, tức là một trong Tứ Thư của Nho giáo, chúng ta đọc được câu: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện,” có nghĩa là: Đạo học làm việc lớn là ở chỗ làm rạng tỏ cái đức sáng của mình, thương yêu người dân, đạt tới chỗ vô cùng chí thiện. Khi được gợi ý và rồi chấp nhận tên Minh Đức làm bút hiệu, cô thiếu nữ có tên thật là Võ Thị Hoài Trinh đã có một chí lớn, noi theo gương Triệu Thị Trinh: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ.” Tuy nhận tên Minh Đức nhưng cô thiếu nữ ấy không quên gốc gác của mình, bởi vậy đã thêm vào bút danh hai chữ Hoài Trinh để trở thành Minh Đức Hoài Trinh. Hoài là ôm ấp, giữ gìn. Hoài Trinh là ôm ấp, giữ gìn một lòng trung trinh, chung thuỷ với quốc gia dân tộc.

          Minh Đức Hoài Trinh sinh ở Huế ngày 15 tháng 10 năm 1930; trở về với Đại Ngã tại Cam Thành ngày mồng 9 tháng 6 năm 2017 (tức là cách đây 4 năm.) Trong 87 năm tại thế, Minh Đức Hoài Trinh đã làm những việc lớn lao. Năm 1964, Minh Đức Hoài Trinh sang Pháp, theo học đại học lừng danh Sorbone, ngành Báo Chí và Hán Văn. Tốt nghiệp năm 1967, Minh Đức Hoài Trinh trở thành phóng viên đài truyền hình Pháp. Năm 1972, MĐHT được cử theo dõi để tường trình về hoà đàm Paris.

          Đây là những công việc hết sức khó khăn đối với một người nữ, với thân hình mảnh mai, xinh đẹp. Nhưng Minh Đức Hoài Trinh đã vượt qua tất cả để thực hiện được.

          Năm 1974, Minh Đức Hoài Trinh về nước, làm giáo sư ngành báo chí tại Đại Học Vạn Hạnh. Năm 1975, Minh Đức Hoài Trinh sáng lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và là chủ tịch tiên khởi. Ngoài ra, như tôi được biết, Minh Đức Hoài Trinh còn được đề cử vào ban tuyển lựa những tác phẩm của giải Nobel Văn Chương.

          Những việc làm lớn lao Minh Đức Hoài Trinh làm một mình, âm thầm mà làm, nhưng đã làm rực sáng lên con người Minh Đức Hoài Trinh. Những công việc này không phải dễ dàng để ai cũng làm được, nhưng Minh Đức Hoài Trinh đã làm được.

          Hôm nay chúng ta tưởng niệm Minh Đức Hoài Trinh. Nghiêng mình trước di ảnh của bà, tôi rất xúc động và lấy làm hãnh diện vì nữ giới Việt Nam có một người như Minh Đức Hoài Trinh.

          Trong lúc này, tự dưng tôi nhớ đến một bài hát của Nguyễn Đức Quang. Anh viết du ca rất nhiều, trong đó có một bài không phổ biến lắm, nhưng đã nghe hay đã hát thì ai cũng thích. Đó là bài “Chiều Quan Tuy Hoà.” Bài này được viết trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam khốc liệt. Một ngày nào đó, nhạc sĩ đến Tuy Hoà, thấy cảnh xơ xác của đồng quê Việt Nam. Tuy nhiên trong đêm đen xơ xác đó, nhìn lên bầu trời, chúng ta thấy lấp lánh một vì sao. Tôi xin hát một đoạn, để chúng ta “thưởng thức” tâm tình của Nguyễn Đức Quang. Tôi hát đoạn này vì thấy có cái gì liên quan đến Minh Đức Hoài Trinh. Đoạn ấy như sau:

“Rồi khi tia nắng phía non tây tàn,

Người đây như cũng như dần tan.

Nhịp đêm tiếng súng đong đưa ngoài ngõ,

Người qua song chắn ngó nhìn trời xa.

Ôi, đỉnh trời lấp lánh trong đêm dài,

Mình tu chưa chín nên nào hay.”

          Minh Đức Hoài Trinh như là một vì sao sáng trong đêm dài, nhưng có khi chúng ta chưa nhìn thấu được cái lấp lánh đó. Một lấp lánh của mong ước Việt Nam được hoàn toàn tự do, nhân quyền, dân chủ. Và ước vọng của Minh Đức Hoài Trinh, bà đã từng thổ lộ với tôi và nhiều người khác, là dựng lại cờ vàng tại Việt Nam.

          Những điều đó làm sao chúng ta không cảm phục được.  Một mình mà làm, âm thầm mà làm, nhưng…”.

          Phải chăng Minh Đức Hoài Trinh đã ra đi, nhưng sự ngưỡng mộ và luyến tiếc vẫn ở mãi với nhiều người.

Ảnh chụp kỷ niệm nhân Giỗ 4 năm của nhà văn Minh Đức Hoài Trinh, 13/06/2021.

          Những buổi tiệc vui và nhớ về người đã ra đi là cơ hội gặp gỡ nhau, nghe nhạc, hàn huyên, nhắc về quá khứ và nói đến tương lai.

          Nhà văn Minh Đức Hoài Trinh suốt đời tranh đấu cho Việt Nam có Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Chị là Chủ Tịch văn bút Việt Nam.

          Bây giờ chị đã về với ông bà. Xin chị linh thiêng phù hộ cho người Việt Nam tị nạn có ngày về khi Việt Nam thật sự có Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền.

Sinh viên Minh Đức Hoài Trinh đang đi trong khuôn viên  Sorbonne, Paris, 1955.
Nữ sĩ Minh Đức Hoài Trinh và phu quân Nguyễn Quang sinh hoạt với Liên nhóm, 2016

Orange County, 13/6/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)




Bài Thơ Cuối Cùng

Huyền Chi – Thanh Thanh




THƠ: Chào Mừng Ngày QL VNCH 19/6 Cao Mỵ Nhân + VĂN: Đám Mây Vàng – Cao Mỵ Nhân & Thơ Cảm Tác Phương Hoa + Chung Văn

ĐÁM MÂY VÀNG

Cao Mỵ Nhân

    Buổi sáng ở Denver Colorado, tôi theo gia đình chị Nhàn, nguyên chị là một nữ tiếp viên hàng không, của hãng Hàng Không Việt Nam ( Air Vietnam ) thời đệ nhị Cộng Hoà (Việt Nam Cộng Hoà ) lên ngọn núi danh tiếng sát ngay thành phố đá đó.

    Trên đỉnh ngọn núi này, có một “đại hí trường”  có thể chứa hàng chục ngàn tân khách.  Chung quanh đại sảnh trường đó, toàn là vách đá dựng cao ngất, nhưng lòng động lại mái trống, lộ thiên.

     Gia đình chị Nhàn đông đủ dâu rể cháu nội ngoại, tất cả đều tỏ ra thân quen với lâu đài hí trường khổng lồ đó .

     Nghe tiếng gió từ bốn phương đổ về, chị Nhàn nói với tôi một cách trân trọng lắm : “Mỵ ạ, nơi đây người ta còn gọi là Chiếc đàn  “Phong cầm gió” vĩ đại nữa đấy .

     Tôi chỉ biết ngưỡng mộ và thán phục thiên nhiên, Đấng Tạo Hoá đã cho nhân thế này bao nhiêu là công trình tuyệt tác.

     Đang lúc mọi người trầm trồ khen ngợi vũ đình trường gió mưa sương gió thiên nhiên, tự đến, tự đi tới cái động to lớn mịt mù đó, thì nóc động hửng lên một khung nắng rỡ ràng…

      Một đám mây mầu vàng mỡ gà lững thững bay qua, tưởng như tà áo của thiếu nữ nào rơi trên mái động …

      Chị Nhàn và tôi đều sững sờ thốt :

     ” Mây vàng Hà Nội ” .

      Tại sao mây Hà Nội mầu vàng ?

       Ôi phải rất nhiều lời , hay rất nhiều thì giờ mới giải thích được điều thơ mộng đó, chỉ biết rằng nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh ngày xưa, đã mang mây vàng từ trung nguyên về Hà Nội.

       Và gần nhất với tôi thủa là thiếu nữ ở Saigon, đã có một nhà thơ tài tử, Nhị Thu viết cuốn thơ  “Mây Hà Nội” , năm 1961, cùng lượt với cuốn “Thơ Mỵ 1961” của tôi.

      Tất nhiên tôi chỉ nêu ra hình ảnh mây vàng Hà Nội dĩ vãng, nghĩa là trước 20 – 7 – 1954, hay trước khi chúng tôi di cư vào Nam thời sông Bến Hải  chia đôi đất nước.

   Đám mây vàng lặng lẽ rời khỏi nóc vũ đình trường đá đó, nắng còn ở lại cửa động lộ thiên một thoáng, cả chị Nhàn và tôi đều như có chút buồn phảng phất .

   Tôi hỏi chị một cách nhớ nhung rằng:

  “Chị ơi, ngày di cư, em ở tuổi vài năm “teen” đầu, chị gần gấp đôi tuổi em, thủa đó, chị có may áo dài lụa mầu vàng mơ, và nhất là, chị có may áo “vest” mầu mơ chín ở phố Nhà Thờ Hà Nội không ?”

   Chị Nhàn cười xa vắng :

  “Thế Mỵ cũng biết tiệm chuyên may áo vest ở phố Hàm Long đó à?”

 Bỗng lòng tôi chùng xuống chi lạ, ba tôi có lần đã cho mấy chị em tôi từ Hải Phòng về Hà Nội để may cho mỗi đứa một áo vest mầu vàng mơ tuỳ theo sở thích, hoặc mơ non, mơ chín, mơ sậm, mơ lạt v.v…

  Và chính buổi đi may áo dài, áo vest ở hiệu may danh tiếng phố Hàm Long xa xưa ấy, mà tôi nhớ mãi mầu mây thu Hà Nội. Ôi, có thể nói, ngoài mây thu vàng ở cái nơi tôi chỉ thấy đẹp thủa ấu thơ và thiếu niên ra, tôi không còn thấy thêm cái chất Hà Thành thanh lịch trong văn chương tiền chiến nữa.

    Thế nhưng hôm nay, tôi muốn nhắc tới một mầu mây Hà Nội rất kinh điển, chính mầu mây vàng lợt thôi, nhẹ nhàng , thơ mộng mà những người đã một thời say đắm nó, mây Hà Nội, như nhà thơ Nhị Thu, hay sau này, khi tôi lớn lên, trưởng thành rồi già đi như bây giờ, sắc mây vàng mỡ gà, vừa rực rỡ, vừa hoang mê, vừa thần thoại, chỉ còn trong cổ tích mất mát thôi.

    Ngay tức khắc tôi nhớ tới quý vị sĩ quan Quân Lực VNCH danh tiếng thơ ca lẫy lừng trong Cục Tâm Lý Chiến, mà không thể nào không nhắc tới mây vàng cố đô Thăng Long, là các vị người Bắc di cư năm 1954.

     Để rồi tôi ngồi một mình xót xa, bây giờ “điểm danh lại” thì số quý vị đó đã không còn trên trái đất: Thi sĩ đại tá Cao Tiêu, Thi sĩ, Hoạ sĩ Tạ Tỵ, Nhà văn Trung tá Hà Thượng Nhân, Nhà văn Trung tá Phan Lạc Phúc, Nhà văn Thiếu tá Đặng Trần Huân, Nhà văn Thiếu tá Phạm Huấn, Thi sĩ Đại uý Du Tử Lê, Thi sĩ Trung uý Thanh Tâm Tuyền.

   Thưa, rất nhiều văn nghệ sĩ quân đội nhưng ở các đơn vị khác, chẳng hạn Nhà văn Trung tá Duy Lam ở QĐI/ QKI.

    Hay, Thi sĩ Thiếu tá Tô Thuỳ Yên Trưởng phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến VNCH, nhưng, không gốc Hà Nội.

     Tôi chỉ đan cử hôm nay về quý vị Sĩ quan QLVNCH gốc Bắc di cư đã mãn phần, và ít nhiều một thời gắn bó tới mầu mây vàng Hà Nội thôi.

  Bởi vì quý vị nêu trên đã mang theo sắc mây vàng quá khứ ra đi. Và, thực sự tôi muốn hoài niệm hình ảnh Thi Sĩ đại tá Cao Tiêu cùng phu nhân đã thưởng lãm mầu mây vàng Hà Nội ở Hồ Gươm, trước khi Thi Sĩ Cao Tiêu tức cựu Đại tá Hoàng Ngọc Tiếu nhập ngũ.

    Một bức ảnh đen trắng xưa thôi, trên một ghế đá ở bờ hồ Gươm Hà Nội, Thi sĩ và phu nhân ngồi ngắm mây thu lượn quanh thành phố được tiếng là thanh lịch từ các thế kỷ trước.

   Buổi tôi hướng dẫn các động tác tập thể dục Dưỡng Sinh cho quý cụ cao niên, bịnh hoạn ở Câu Lạc Bộ Dưỡng Sinh Saigon, sau khi tôi ra tù cải tạo.

   Tôi tiếp chuyện một vị rất trưởng thượng quen quen.

    Cụ cho tôi coi một bao hình nhỏ, cụ đưa tôi bức hình vừa nêu, cụ hỏi:

“Cô có biết Đại tá Hoàng Ngọc Tiếu không, Thi sĩ đấy …”

   Tôi thưa với cụ là Thi sĩ Đại tá Cao Tiêu.

    Cụ gật đầu : “Ông ấy là em ruột tôi”.

    Tôi a  lên mừng rỡ, cụ tiếp “Tôi là Hoàng Mai Đạt”.

    Cụ Hoàng Mai Đạt nghệ sĩ hơn Đại tá Cao Tiêu, cụ vẫn vui vẻ thơ ca ở Câu lạc bộ Dưỡng Sinh trước khi qua Hoa Kỳ sau đó ít lâu.

    Lại một câu  chuyện về mây thu Hà Nội, cụ Hoàng Mai Đạt kể: “Tôi biết cô không có ở Hà Nội nhiều như chúng tôi, cái thế hệ mà thanh niên của thành phố có nhiều hồ, nhiều hơi thu lành lạnh, những đám mây vàng nhẹ như mối tơ vương sắc vàng rơi lững lờ trên thành phố thơ mộng từ ngõ hẻm ra đại lộ.

   Tôi lắc đầu, “Cháu không phải người Hà Nội của các cụ nhìn đâu cũng thấy chút gì vừa thân mật vừa kín đáo. Cháu lớn lên ở Saigon. Khung trời rộng quá, hầu hết mây trắng 4 mùa, nếu mây xám là sắp mưa…đơn giản, mau chóng như những cơn mưa rào, thật nhanh và chưa kịp lạnh cụ ạ.

     Thế rồi thì mỗi người mỗi chạy theo cái dòng chảy không riêng lẻ, nên chẳng thấy cô đơn lắm.

    Tôi qua Hoa Kỳ giống như quý vị tị nạn, lại càng chẳng bao giờ nhớ cái mùa thu mây vàng như trong văn chương thơ nhạc tiền chiến, hay trước ngày đất nước qua phân.

   Tôi cũng không về Bắc sau khi mọi người bảo là “thống nhất”. Tôi không nhớ nhung gì hết phần đất bên kia sông Bến Hải, dù tôi rất nhiều lần đứng bên cầu Hiền Lương do công tác xã hội tôi phục vụ trong Quân Lực VNCH, suốt cả chiều dài lãnh thổ từ Bến Hải tới Sa Huỳnh, cận nam Quảng Ngãi.

   Cũng có lúc tôi buồn nhìn mây bay, nghe gió thổi ở miền địa đầu giới tuyến, nhưng quả thực, không thấy lại mây mầu vàng mỡ gà mà thuở thiếu niên ba tôi cho về Hà Nội, để may áo vest phố Hàm Long chỉ còn trong ký ức.

   Và hôm theo gia đình chị Nhàn lên núi nghe gió hú trong đại hí trường, có một làn mây vàng ấm áp nhưng mong manh bay ngang đỉnh động đá khối khổng lồ, lộ thiên năm 1996.

Mầu mây vàng bất ngờ, khiến tôi nhắc đến hằng loạt tên tuổi những nhà thơ văn xuất thân ở Hà Thành thanh lịch, đã một thời hội tụ ở khuôn viên Cục Tâm Lý Chiến VNCH, rồi lưu vong, thả mây thu Hà Nội đi bát ngát, mênh mông…

Quý vị ấy không ai gặp ai nữa, kể cả những đám mây vàng tan loãng, hay đổi mầu trong không gian vô cùng mịt mù ngoài vũ trụ càn khôn…

    Hawthorne  10 – 6 – 2021

           CAO MỴ NHÂN

ĐÁM MÂY VÀNG

(Cảm tác từ bài viết “Đám Mây Vàng” của nữ sĩ Cao Mỵ Nhân)

Tha hương hạnh ngộ đám mây vàng

Mây-của-Hà-Thành, tâm dội vang

Ngắm núi bâng khuâng đôi mắt lạc

Nhìn trời xao xuyến mảnh hồn hoang

“Phong cầm gió” quyện âm lung luyến

“Đại hí trường” vương nắng loáng loang

Cảnh sắc thiên nhiên ôi tuyệt diệu

Bút nâng ghi lại phút huy hoàng

Phương Hoa – JUN 10th 2021

**

NHỮNG ĐÁM MÂY
(Cảm tác sau khi đọc “Đám Mây Vàng của CAO MỴ NHÂN)

Mây Hà- Nội, mây Sài- gòn, hoa cúc
Rồi thăm mây tận đỉnh Co-lo-ra-do
Nhịp gió reo nơi Đại hý trường Denver
Thành cây đàn “đại phong cầm” cao ngất

*
Tôi cũng có đám mây vàng trong mắt
Khi heo may xào xạc đón thu về
Phố Hàng Đào, em áo dài vàng huê
Gã lãng tử tưởng mây vàng trước gió

*
Nước Hồ Gươm xanh rêu màu Tháp cũ
Ngõ Gia Ngư họp chợ Lụa Hà Đông
Để em đi mặc tấm áo phiêu bồng
Cho nhà thơ tưởng đến màu hoa cúc

*
Người nhạc sĩ thấy thu vàng nước Úc
Còn nhà thơ cảm giác mái Denver
Một màu vàng rực rỡ rất là thơ
Hôm nay chợt nảy sinh trong tâm thức

Chung Văn – 10/06/202




VĂN: Nghĩ Về Người Vợ Lính & THƠ: Lời Người Vợ Thương Binh VNCH – VÕ ĐẠI TÔN

                     NGHĨ VỀ NGƯỜI VỢ LÍNH

Võ Đại Tôn

Đêm xứ người, trời bỗng nhiên trở lạnh. Chập chờn qua khói thuốc còn đọng lại trong căn phòng âm u, tôi nghe tiếng nấc của bà quả phụ Thiếu Tướng Lê Văn Hưng thoát ra từ cuộn băng ghi âm : “Xin mình cho em chứng kiến giây phút cuối cùng của mình…”. Một tiếng đạn nổ, khô khắc vang lên từ ống loa hay từ một thuở nào trong cơn biến loạn. Có lẽ cũng từ lòng tôi. Ngậm ngùi, tôi đứng dậy tắt máy. Nhìn ra khung cửa mù sương, trí tưởng nhạt nhòa lại đưa tôi về một vùng trời hẻo lánh Tiền Giang  với khu đồn Giồng Riềng bó rọ trong mấy vòng kẽm gai hoen rỉ và mười sáu quả lựu đạn cuối cùng. Nghĩa Quân Lê Văn Hùng và người vợ lính Phạm Thị Thàng. Hơn mấy chục năm về trước, thuở tóc tôi chưa đau từng sợi bạc. Quân ta tăng viện, chiếm lại khu đồn sau trận tiến công biển người của địch. Trong khói lửa ngập vùng, hỏa châu bừng sáng, tiếng nấc của thương binh và tiếng vặn mình của gỗ sắt hòa lẫn với tiếng nổ rời rạc của vài viên đạn gặp lửa bùng lên. Tôi nghe anh Phó Đồn cụt chân kể lại : – sau khi chồng bị tử thương, chị Thàng ôm hai con nhỏ sắp chết vì đạn địch, núp sau ụ đất với một thùng lựu đạn 16 quả. Cánh tay của người vợ lính vung lên, từng tiếng nổ ầm, át cả tiếng khóc cuối cùng của con thơ. Mười lăm quả lựu đạn vút đi, ngăn chân biển địch.

Thùng lựu đạn chỉ còn đây một quả

Xin theo nhau cho vẹn Nghĩa chung Tình.

 Chị Thàng đã tự sát, tay ôm xác hai con trẻ đã chết, để đi theo chồng là Nghĩa Quân Lê Văn Hùng vào cõi vĩnh hằng, cô đơn, côi cút và âm thầm trong cuộc chiến. Người vợ lính đã nuôi con bằng gạo Quân Tiếp Vụ, hạnh phúc bình thường qua bữa cơm với cua đồng cá nội. Ảnh của chị đã được treo lên tại góc đường Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt ở Saigon một thuở nào giữa dòng người thờ ơ qua lại. Người phụ nữ miến Nam với nụ cười đơn sơ chất phác, e ấp qua mảnh khăn rằn. Từ Bến Hải đến Cà Mau, bước chân của người vợ lính ẳm con đi theo chống khắp bốn vùng chiến thuật. Không có những móng chân đỏ hồng nhưng đã tạo nên những vần Thơ dường như huyền sử.

Tôi quay lại bấm máy. Tiếng nói của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn vang lên qua từng loạt đạn nổ … “Thiếu Tướng biểu y lệnh hả Chị ? Dạ, tôi sẵn sàng…”

Tôi lại tắt máy, không dám nghe nữa, có lẽ vì mặc cảm tự ti, hay thấy mình quá nhỏ bé trước những tiếng vọng anh hùng. Lại châm thêm điếu thuốc, ngọn đồi Chu Prao hiện về. Người nữ sinh sắc tộc Thái Trắng sinh tại Đơn Dương, hoa khôi Đà Lạt một thời với tên Đèo-Nàng-Hoa. Lấy chồng là Trung Sĩ Biệt Kích Trường Sơn, tên Neo Krông, da sạm đen với bắp tay cuồn cuộn như một nhánh cây rừng. Trong một lần đi toán, Neo Kkrông đã không về lại. Tặng tiền tử của chồng cho một viện mồ côi, Đèo-Nàng-Hoa đã đi tu và xin chuyển ra làm việc trong trại cùi ở Qui Nhơn. Có một lần tôi gặp lại nàng khi tôi đến thăm mộ Hàn Mặc Tử. Người nữ sinh vợ lính thuở nào như bóng của huyền thoại đã trở thành Dì Phuớc. Nhìn cặp mắt đen mà nghe cả tiếng thông reo. Bàn tay của Dì Phước Đèo-Nàng-Hoa đã bắt đầu ửng đỏ bệnh phong, sự thật hay do tôi tưởng tượng ? Khi ra khỏi trại cùi, tôi không dám quay nhìn lại, tâm hồn của người vợ lính bình thản đã nạm vàng trong khi bóng tôi bên đường chỉ là cát bụi.  Tiếng thơ của Hàn Mặc Tử lại vọng qua gió thổi rì rào : “Run như run hơi thở chạm tơ vàng”.

Tiếng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam trầm buồn nhưng cương quyết : “Làm tướng mà không giữ được nước được thành thì phải chết theo thành theo nước…”. Tôi nghe mủi lòng rưng rưng. Hình ảnh của người vợ lính ven sông Thu Bồn dắt con qua bao chuyến tàu chợ từ Quảng Nam ra miền Bắc tìm chồng trong tù gọi là “cải tạo”. Nước mắt âm thầm chảy xuống dặm đường oan nghiệt, chân giẫm lên sỏi đá chia lìa. Một gói đường phèn, một lon muối ớt, với tất cả tình thương mộc mạc, đơn sơ như thửa ruộng bờ đê, chắt chiu từng đồng, lặn lội gần một tháng trường gian khổ để chỉ được vài ba tiếng đồng hồ im lặng nhìn con, nhìn chồng tả tơi trong manh áo tù không án. Tù của một giai đoạn lịch sử oan khiên, tù của một chế độ bạo tàn, mà người mẹ và vợ lính không bao giờ hiểu nghĩa. Gần suốt đời cam phận bóng mờ di chuyển theo chồng qua bao trại gia binh, sinh con trong những khu đồn hẻo lánh, để rồi hôm nay bên cạnh tên cúng cơm lại bị ghi thêm hai chữ “Vợ Ngụy” ! Từ ngữ sao mà cay nghiệt, nặng trĩu hận thù!

Người vợ lính chẳng hiểu vì sao ?

Có người cầm tấm thiệp mời dự Ngày Quân Lực, mấy chục năm rồi xa Tổ Quốc, nhếch môi phán rằng : Quân với Lực làm gì nữa, phí một ngày đi chơi cuối tuần ! – Tôi cũng cầm tấm thiệp, vặn máy tăng âm cho tiếng vang từ cuộn băng bừng lên, căn phòng dồn dập tiếng đạn xa xưa … Tôi ôm đầu, quặn đau cả lòng. Từ trong tâm tưởng, tôi nghe có tiếng bước chân âm thầm của những người mẹ và vợ lính. Phạm thị Thàng, Đèo-Nàng-Hoa… và hàng triệu bóng dáng phụ nữ Việt Nam một thời khói lửa, son sắt thủy chung, đang nhìn tôi qua màn sương lạnh. Tôi cũng nao lòng nghĩ đến những người Mẹ và vợ của các chiến sĩ kháng chiến phục quốc hải ngoại/quốc nội sau ngày mất Miến Nam, sống âm thầm cô đơn trong bóng đêm lưu vong xứ người hoặc bị đọa đày ngay trên quê hương. Nỡ nào quên tình đồng đội, quên những người mẹ và vợ lính đạm bạc, không cần lịch sử ghi danh, đã và đang khóc, thương con thương chồng cùng thương Nước với tấm lòng biển rộng trời cao ! Hình ảnh của người mẹ và vợ lính sống mãi trong Hồn Dân Tộc với niềm hãnh diện cô đơn.

Rồi một ngày không xa, tôi cầu mong sẽ được vô vàn diễm phúc đứng bên cạnh đường lịch sử vinh quang rợp bóng Cờ Vàng trên quê hương để ngắm nhìn các mẹ, các chị, các em, mỉm cười trong ân nghĩa Tình Người :

Gặp nhau biết nói gì hơn

Cười vui trong gió tóc vờn cờ bay !

Võ Đại Tôn

LỜI NGƯỜI VỢ THƯƠNG BINH VNCH
(Kính tặng Quý Chị-Em một đời tận tụy thủy chung lo cho người chồng Thương Binh từ trận chiến trở về…hiện nay còn sống dưới chế độ bạo tàn CSVN).

 Bao năm trời chiến chinh
Từng đêm nghe tiếng súng.
Lòng thảng thốt, em nguyện lời kinh tụng
Cầu xin anh được mọi an bình.
Ôm con vào lòng, không nghĩ lẽ Tử Sinh,
Luôn mong đợi phút anh về, chiến thắng.
Dòng lệ âm thầm giữa đời mưa nắng
Còn tình nhau, nuôi sống tâm hồn.
Rồi một chiều mưa, trong bóng xế hoàng hôn
Tin anh về, xác thân không toàn vẹn!
Em nhìn anh, cố lau dòng lệ nghẹn,
Anh vẫn còn! – Như thế đủ cho em.
Đồng đội bao người vào Quân Sử, không tên,
Anh còn sống – Đời cho em diễm phúc.
Hoàng Tử lòng em, dù máu loang quân phục,
Vẫn còn nguyên Tình đẹp thuở anh đi.
Con nhìn anh, đầu thơ dại nghĩ gì,
Như muốn hỏi: – “Ông nào đây, xa lạ!”.
Em khẽ nói: – “Con hãy nhìn tượng đá
Dù rêu mờ, vẫn đẹp giữa trời xanh”!
Xác thân anh không còn được nguyên lành
Em vẫn sống cùng tim anh trọn kiếp.
Hơn 40 năm – bao nhọc nhằn nối tiếp
Sá gì đâu! – Ta mãi sống bên nhau.
Quê hương mình còn bao nỗi khổ đau
Ta cố sống – dù cháo rau từng bữa.
Dìu nhau đi, như ngày xưa đôi lứa
Dưới hàng me tan học, bước chân về.
Xin anh cười, em vẫn vẹn câu thề
Bờ hạnh phúc, thuyền em không tách bến.
Một ngày mai bình minh rồi sẽ đến
Quê Hương mình vui hát bản Tình Ca.
Em tưởng thấy nạng gỗ nở thành hoa
Anh chiến thắng, cùng Toàn Dân trẩy hội.
Em và con dìu anh chung bước vội
Trên đường Xuân Tổ Quốc đã hồi sinh.
Anh vẫn còn tình đồng đội bên mình
Và có cả em-con cùng chia sống.
Dù thân tàn, anh mãi là hoa mộng
Một đời em: – Xin hãnh diện về anh,
Người Thương Binh, chung máu tạo Công Thành!

Võ Đại Tôn




NGÀY CỦA CHA – Kiều Mỹ Duyên

KIỀU MỸ DUYÊN

Thân phụ của Kiều Mỹ Duyên

Viết về cha, viết hoài, viết mãi, không bao giờ hết chuyện. Cha tôi hiền và ít nói. Có một điều đặc biệt ở cha tôi là cha tôi hứa điều gì thì làm điều đó, suốt cuộc đời của ba tôi hình như không bao giờ thất hứa với ai điều gì . Ba tôi hứa giúp ai việc gì thì làm việc đó một cách tận tình. Vì ít nói, nghe nhiều nên ba tôi ít làm mất lòng người thân. Ba tôi giỏi võ nhưng khiêm tốn. Lúc tôi còn nhỏ, đêm đêm ba tôi dạy võ dưới ánh trăng. Tôi còn nhớ những đường quyền ba tôi đi vun vút, người nào trúng phải đường quyền của ba tôi thì toi mạng.

          Ba tôi rất hiếu thảo với ông bà, cha mẹ. Ông bà nội tôi chết sớm, năm nào gần Tết, ba tôi đi giẫy mã (tảo mộ) cho ông bà nội tôi. Ba tôi thăm viếng, phát cỏ dại, chặt cây cối quanh mộ, sửa sang, tu bổ mộ phần của ông bà nội tôi và thường đưa chúng tôi cùng đi thăm mộ ông bà. Ba tôi dạy:

Con người có tổ có tông

Như cây có cội, như sông có nguồn.

          Ba tôi thường kể chuyện về ông bà nội. Ông bà nội tôi thương ba tôi và chú tôi lắm. Ba tôi chỉ có 1 người em trai duy nhất là chú tôi. Ba tôi kể rằng khi tôi ra đời, tôi là con cả của ba má tôi nên được ông nội thương lắm. Ông nội thường ẵm tôi, hát cho tôi nghe những bài dân ca. Bà nội tôi mất sớm, khi tôi sinh ra đời chỉ còn ông nội. Ông bà ngoại tôi cũng qua đời sớm, nên tôi được các dì thương lắm.

          Ba má tôi đều giống tính nhau, giúp gì được cho ai thì giúp tận tình không bao giờ từ chối, giúp thì giúp ngay không đợi ngày mai. Nhà của tôi có vườn rộng, cây trái xung quanh, tàng cây che phủ sân nhà, sân rộng để ba tôi dạy võ. Bây giờ mỗi lần đến Minh Đăng Quang Tịnh Xá ở thành phố Santa Ana, thấy các võ sinh đi những đường quyền nhanh như gió, tôi thấy hình ảnh của ba tôi hiện về trong những đường quyền thấp thoáng này.

Đêm đêm, ba tôi dạy võ dưới ánh trăng, những đường quyền ba tôi đi vun vút.

Ba tôi là võ sư, rất khiêm tốn, không khoe khoang, không kiêu ngạo, không bao giờ nói về mình. Trong những võ sinh học với ba tôi có 2 trò là Mau và Khá, con ông xã Mo (ngày xưa gọi là ông xã, bây giờ là thị trưởng). Ba tôi thương 2 trò này vì họ học rất giỏi, học rất nhanh, có lòng nhân đạo, quảng đại, con nhà giàu nhưng rất khiêm tốn (thật ra tất cả những học trò võ đều có tánh khiêm tốn). Ba tôi nhất định không cho con gái học võ vì sợ sẽ không ai “rước”. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao cha mẹ cứ sợ con gái của mình không ai “rước”.

          Ông bà mình thường nói:

          – Con là nợ, vợ là oan gia, cửa nhà là tội báo.

          Nhưng có ai trên cõi đời này mà không mơ có một ngôi nhà để ở, có vợ, có con để buổi tối sau khi đi làm về có mái ấm gia đình, có ánh đèn thấp thoáng xa xa đợi mình trở về. Con là nợ nhưng vẫn thích có nợ, vợ là oan gia nhưng vẫn thích oan gia, ôi thói đời này là như thế?

          Con gái thường theo cha. Ông bà mình thường nói con gái giống cha giàu ba họ, nhưng không hiểu tại sao tôi không giàu như truyền thuyết nhân gian nói. Không biết có đúng không, nhưng nếu con mà giống cha thì bên nội thương lắm, hãnh diện lắm. Nhiều người thường nghe người này khoe với bạn của mình:

          – Anh chị thấy không, cháu nội của tôi giống ba của nó quá.

          Cháu của mình không giống mình mà giống ông hàng xóm thì phiền lắm, buồn lắm.

          Ba tôi có giọng nói hiền lành, ấm áp, nhưng mỗi lời nói của ba tôi là lệnh, con cháu răm rắp nghe theo, không ai dám cãi, chưa bao giờ tôi thấy ba tôi phẫn nộ hay lớn giọng với bất cứ người nào.

          Ba tôi bệnh nhưng không bao giờ rên. Ba tôi có 1 em trai duy nhất. Chú tôi có 3 người con trai, còn ba má tôi có 4 con gái. Sau này, mẹ tôi đi chùa cầu khẩn mới được 1 con trai để nối dõi tông đường. Tôi là con cả nên được cưng lắm, chưa bao giờ tôi bị đòn, với lại tôi chạy rất nhanh, dù có bị đòn thì tôi cũng chạy nhanh không ai đuổi kịp.

Ba là cả Trời yêu thương.

          Ba tôi không cho con gái học võ thì tôi nhất định phải học võ. Không học võ với ba tôi thì tôi đi học với võ sư khác. Võ đường tôi bái sư học võ là võ đường Aikido của giáo sư Đặng Thông Phong, du học ở Nhật về, mở võ đường ở đường Hiền Vương. Tôi học vào buổi sáng sớm, võ đường trên lầu, tôi rất say mê võ nghệ. Tôi học chuyên cần, sáng nào mặt Trời còn ngủ thì tôi đã thức dậy đến võ đường, lạy sư tổ, bái sư phụ, sư huynh, sư tỉ rồi bắt đầu học võ. Những ngày đầu té ngã rầm rầm bầm mình, người ê ẩm như ai cầm búa bổ vào thân thể mình, nhưng dần dần quen. Về nhà, tôi dạy các cháu, con của người chị. Các cháu té ngã trên sàn gạch, anh chị không hề la tôi một tiếng. Các cháu rồi cũng say mê học võ, khỏi đến võ đường vì có tôi dạy cho các cháu. Nhà chị tôi có người làm, người làm cũng thích học võ, nhưng người làm mập quá, té ngã mấy cái đã bỏ cuộc. Các cháu nhỏ của tôi tiếp tục học Aikido, tôi học được bài học nào thì về dạy các cháu bài học đó.

          Nói về ba tôi thì nói hoài không hết. Khi tôi ra tranh cử Dân Biểu của Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa thì ba tôi đi vận động cho tôi khắp nơi. Lúc đó tôi còn rất trẻ, vừa đủ tuổi để tranh cử vào Quốc Hội. Tôi thất cử, thua người thắng cử vài ngàn phiếu. Ba tôi không buồn dù ba tôi bỏ công sức vào việc vận động này rất nhiều. Ba tôi tỉnh bơ như không có việc gì xảy ra mặc dù ba tôi tốn tiền, dốc sức đi vận động cho tôi, ba tôi đi cả ngày từ sáng đến chiều vận động cho tôi. Tôi được nhiều phiếu ở những đơn vị quân đội, trại gia binh, chùa và nhà thờ. Tôi được phiếu ở nhà thờ, vì mẹ tôi buôn bán làm ăn với những người ở nhà thờ, ai cần gì thì má tôi giúp đỡ họ. Ba má tôi thường làm việc xã hội, có lẽ tôi lớn lên trong gia đình thích làm việc xã hội, có dòng máu di truyền làm việc xã hội. Nhà của tôi rất sùng đạo Phật nhưng không phân biệt tôn giáo, ba má tôi thường nói tôn giáo nào cũng tốt, vị lãnh đạo tinh thần nào cũng dạy những điều tốt lành. Niềm tin mãnh liệt về sự mầu nhiệm tôn giáo trong gia đình của chúng tôi, bên nội cũng như bên ngoại.

          Có niềm tin tôn giáo, cuộc sống hạnh phúc hơn. Ba mẹ tôi sùng đạo, chúng tôi nhìn việc làm của ba mẹ chúng tôi mà noi theo, giúp người nào được thì giúp, giúp một cách chân tình. Cậu tôi mất sớm, mẹ tôi đem cháu về nuôi, cho ăn học, tới khi lập gia đình, ba mẹ tôi lo cưới gả các anh chị yên bề gia thất.

          Ba tôi mất lúc tôi ở Mỹ, nhìn hình ảnh từng đoàn người đi đưa đám tang, tôi xúc động vô cùng. Bà con đưa đám tang ba tôi rất đông, 6 con chó chạy theo quan tài của ba tôi. Ba tôi rất thương chó, chó rất thông minh. Tôi nghe người lớn kể lại rằng sau khi mọi người đưa đám tang ra về hết, mấy con chó vẫn còn ở lại mộ của ba tôi. 6 con chó nằm cạnh mộ của ba tôi mấy ngày rồi trở về nhà. Tôi cũng thấy lạ, nếu đi theo quan tài, theo đoàn người đưa tang thì chó biết đường mà đi, nhưng tại sao mấy hôm sau chó lại biết đường về nhà? Tôi nghe chuyện chó có tình nghĩa rất cảm động.

          Ngày xưa, ông nội tôi có nuôi một người thiểu số đến từ cao nguyên Trung phần. Sau đó, ông nội tôi mất, người này làm một cái chòi nhỏ ở trong nghĩa trang gần bìa rừng, ở đó báo hiếu ông nội tôi 3 năm, rồi trở lại miền Thượng.

          Ở đời này mình làm gì cho người khác thì khi hữu sự sẽ có người khác giúp lại mình. Ba tôi có lòng quảng đại và được mọi người thương mến. Ba tôi thương con cháu và tất cả mọi người xung quanh. Hàng năm, ba tôi về làng Bưng Cầu, tỉnh Bình Dương giẫy mã cho ông cố tôi. Ở đó còn nhà thờ tổ, nhiều đời, ông tổ của ba tôi từ miền Trung vào, lấy vợ Nam rồi ở luôn miền Nam lập nghiệp. Thật ra cháu của ba tôi hàng trăm người ở làng Bưng Cầu, đâu cần ba tôi về giẫy mã cho ông bà vào những ngày Tết. Thường mỗi năm, con cháu ở đó làm việc này, nhưng tất cả các con cháu đều về tề tựu trong những ngày trước Tết.

          Sau này, tôi trở về, tôi cũng thăm nhà thờ Tổ. Nhà thờ Tổ khang trang, nhiều tượng trước nhà, mộ sau vườn, 5 căn nhà cùng một dãy, từ xa lộ trở vào. Nhà thờ Tổ không ai ở nhưng lúc nào cũng bóng loáng, không một hạt bụi. Trên bàn thờ có bài vị từ đời thứ nhất đến đời thứ năm. Tôi thuộc đời thứ sáu. Bác tôi viết gia phả từ đời thứ nhất, từ 3 anh em ông Tổ của chúng tôi từ miền Trung theo vua Quang Trung vào Nam, cho tới đời sau này.

          Ba má tôi thường dạy chúng tôi giúp ai được gì thì nên giúp ngay, hứa điều gì thì phải làm điều đó. Má tôi dạy con gái đừng nhờ người ta nhiều quá. Thiếu nợ người khác nhiều quá, kiếp sau người ta làm Hoàng Tử, còn mình làm tỳ nữ, suốt đời cứ hầu trà, hầu nước, không dám ngước mặt lên nhìn ông chủ.

          Lúc nghe mẹ tôi nói, tôi cười trong bụng và tự nhủ với lòng nếu sinh ra làm tỳ nữ thôi đừng sinh ra đời cho xong. Thuộc lòng những điều cha mẹ dạy bảo sao tôi cứ nhờ người này việc này, nhờ người kia việc kia, lạ thật? Tôi thích quen người giỏi để học những điều hay của người đó, tôi nhờ ai việc gì tôi nhờ thiệt tình, quen người nào có kiến thức uyên thâm, tôi như bắt được vàng, nhờ và nhờ mãi, nhờ cho hết kiếp này.

Đêm đêm thắp ngọn đèn trời,

Cầu cho CHA MẸ sống đời với con.

          Nói về ba tôi, nói hoài không hết, cho nên gặp người có tính giống ba tôi, tôi ngưỡng mộ và kính nể vô cùng. Tôi cũng nhờ nhiều người làm nhiều việc hữu ích cho cộng đồng nhưng cũng xin Thượng Đế kiếp sau đừng bắt tôi trả nợ.

          Ba tôi qua đời 46 năm nhưng tôi cứ tưởng ba tôi vẫn còn hiện diện nơi đây, quanh quẩn bên tôi. Hình ảnh đẹp nhất của ba tôi là một người hiền lành, có tấm lòng quảng đại, hạnh phúc trong việc giúp người khác, dù một việc rất nhỏ. Quen người nào có tính tình giống ba tôi, tôi rất kính mến và trang trọng như một Đặc Ân của Thượng Đế.

          Hạnh phúc thay cho những người còn ông bà, cha mẹ, hạnh phúc cho những người nào tổ chức tiệc ngày của cha, của mẹ. Người nào không còn ông bà, cha mẹ thì những ngày lễ hiền mẫu, hiền phụ nên cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ mình ở cõi Vĩnh Hằng.

Orange County, ngày 8/6/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)




KHI TÔI CHẾT – THANH THANH Dịch Thơ Tràm Cà Mau: WHEN I HAVE DIED

TRÀM CÀ MAU & THANH-THANH




Khóc Cha

Thơ Vũ Uyên Giang

Thanh Thanh chuyển dịch

KHÓC CHA                              

Trời mùa đông tâm hồn con giá lạnh             

Con về đây nhưng cha đã đi rồi!                   

Không bao giờ còn thấy mặt cha tôi              

Bao giọt lệ trào dâng trong khóe mắt            

Lòng nghẹn ngào nhói đau như dao cắt         

Chỉ vài ngày con đã mất cha yêu.                  

ngày xưa, cha nghiêm khắc rất nhiều            

Vì mong muốn con nên người hữu dụng       

Công ơn cha như trời cao bể rộng         

Như suối nguồn tuôn chảy mãi không ngừng          

Nhớ nụ cười và khuôn mặt bao dung            

Ôi tiếng nói ôn tồn khi giáo dục                    

Nhớ cả những ngọn roi vì lười học       

Bởi ham vui với bè bạn gần nhà…        

Biết làm sao kể lại hết tình cha?                    

Giọt nước mắt lăn dài trên gò má                  

Ngày hôm nay con không còn cha nữa         

Tìm đâu ra hình bóng của cha tôi???             

                             VŨ UYÊN GIANG    

HOT TEARS FOR DAD

The world is in winter but colder is my inner heart;

Here I do return but from this life Dad did depart.

From now on I cannot see any longer my father’s shine;

How to stop from my eyes the stream of fervid brine!

My inside shoots as if cut by knives, the stings gather;

Only in a few days I have lost my beloved father!

I reminisce the old days you were so formidable

Just because you wanted me to become serviceable.

Your immense merit was like high sky, vast ocean,

Your watercourse of love never ceased its motion.  

How I recall your merciful smile and generous face,

Temperate voice when educating me in each case.

I even remember the rod to your good will to bend

For being work-shy festal with a neighboring friend…

Of your bosom I can’t find any word that fully speaks;

Drops of choler are rolling down on my hollow cheeks.

From now on I do not have any more my dear Dad;

Where on earth can I find my father’s image  So sad!

                                Translation by THANH-THANH

Thanh-Thanh

Cơn Ác-Mộng

Với Thượng-Đế

Bảy Mươi Năm Làm Thơ

Vietnamese Choice Poems




BIỂN VÀ NGƯỜI ĐẦY SỨC SỐNG: Kiều Mỹ Duyên

BIỂN VÀ NGƯỜI ĐẦY SỨC SỐNG

KIỀU MỸ DUYÊN

Kiều Mỹ Duyên (biển ở Đan Mạch)

          Tôi yêu biển. Tôi yêu biển từ bao giờ tôi cũng không nhớ, có lẽ từ lâu lắm, từ khi tôi còn bé. Trường tiểu học của chúng tôi thường tổ chức cho học trò đi cắm trại ở biển Vũng Tàu, có lẽ tôi yêu biển từ lúc đó. Khi vượt biên, sóng gió hãi hùng, nước biển gần tràn vào thuyền, những người trẻ thay nhau tát nước, thuyền nghiêng nghiêng gần chìm, nhưng tôi không nhớ biển đáng sợ khi đó bằng tình yêu muôn đời của tôi đối với biển. Tôi yêu màu xanh của biển và tôi yêu những đàn chim trắng bay bay trên biển.

          Người trai trẻ hỏi:

          – Má ở đây mấy chục năm, có bao giờ má đến biển này chưa?

          Tôi cười cười:

          – Con giỏi thật, con là luật sư làm việc ở xa, sao con biết biển đẹp này?

          – Mỗi năm con thường đi biển, lên rừng. Má làm việc đầu tắt mặt tối, má không có thì giờ thưởng thức cảnh đẹp.

          Có những lúc tôi tội cho chính tôi, biển đẹp, rừng đẹp, sông hồ, thiên nhiên đẹp, phải có lúc mình phải sống với thiên nhiên chứ. Mình sinh ra đời cũng do sự tình cờ, mình đâu có quyền chọn lựa được sống ở đâu, được sinh ra trong gia đình nào, quen với ai, thương ai? Tất cả đều ngoài tầm tay của mình. Mình có chọn lựa cuộc đời của minh được không hay tất cả đều có sự sắp xếp của Đấng Tối Cao?

          Tôi yêu biển. Nhà tôi không xa biển lắm, sao tôi không đến biển mỗi ngày? Tôi yêu biển, sao tôi không mua nhà gần biển dù tôi có khả năng có một ngôi nhà nho nhỏ ở gần biển hoặc ở trên đồi nhìn xuống biển? Việc làm ở thành phố làm cho tôi tối tăm mặt mũi không còn thì giờ nghĩ hay làm điều gì cho chính mình.

Tôi thích câu châm ngôn: “Cuộc đời là biển cả, ai không bơi sẽ chìm.”

          Đường ra biển Crystal Cove phải qua những khu rừng nho nhỏ với cây xanh, sóng biển chập chùng. Phải lên đồi nhìn xuống biển, phải đậu xe rồi bước xuống từng bậc thang bằng gỗ. Hàng ngàn người ở biển, ánh nến lung linh chiếu xuống mặt biển. Hình như biển buổi tối chỉ dành cho người trẻ, tiếng cười nói vang vang, sức sống của người và biển, một khung trời thơ mộng và lãng mạn.

          Tôi vẫn thưởng thức gió biển với những người trẻ. Một cô gái trẻ rất lãng mạn, thích biển Corona Del Mar. Đến đây, đậu xe trên đồi cao, rồi đi dọc theo bờ biển, nhìn lên những ngôi nhà lộng lẫy, uy nghi tráng lệ trên đồi. Cô gái nói:

          – Em mơ ước có một căn nhà như vầy.

          Cô gái vừa nói vừa đưa tay chỉ căn nhà 2 tầng sát bờ biển, đẹp lộng lẫy với vườn hoa rực rỡ.

          Tôi nói:

          – Nhà này chắc khoảng 50 triệu.

          Nhiều lâu đài không có người ở, người mua rồi để đó, lâu lâu về nghỉ mát, trong lúc xã hội này có nhiều người không nhà.

          Tôi yêu biển nhưng cũng thấy sự bất công của xã hội. Người thì không nhà ở, lang thang, sống màn Trời chiếu đất, nhưng có người có nhà không ở, vẫn phải mướn người chăm sóc nhà của mình, quét dọn, tưới cây cỏ. Vườn hoa của những ngôi biệt thự trên đồi nhìn xuống biển đẹp lộng lẫy, màu sắc rực rỡ, hoa nở quanh năm, làm cho người bất hạnh mơ ước phải chi mình được làm hoa ở sân của những nhà giàu để được quan tâm, được chăm sóc hàng ngày? Là con người có ai mà không thích được quan tâm chứ?

          Tiếng thì thầm của biển như lời ca bất tận. Những chiếc thuyền xa xa ngoài khơi nghiêng nghiêng theo gió như thách thức sóng biển, đẹp quá!

          Niềm mơ ước của cô gái trẻ đẹp về ngôi biệt thự 50 triệu Mỹ kim đâu có gì là khó, khó là ở chính mình. Nếu mình quyết tâm có ngôi nhà ở biển thì sẽ được thôi? Thời gian còn dài, tương lai trong tay của chính mình? Buổi chiều nhìn ánh hoàng hôn rực rỡ trên biển cả, ngắm mặt trời lặn trên biển rất đẹp. Hàng ngàn người ở biển, tiếng cười, tiếng nói hạnh phúc không che được lời thì thầm của sóng biển. Biển vẫn ở đó, sóng biển vẫn thì thầm, biển đem đến cho mọi người sự tĩnh lặng, bình yên. Yêu biển là yêu đời, buồn phiền gì cũng biến mất khi chúng ta đứng trước biển.

          Biển đem đến niềm vui cho mọi người, biển là sức sống cho người đang phiền muộn. Hãy yêu biển như yêu người. Trong trái tim của chúng ta có hình ảnh của người mình yêu nhất thì trong trái tim của chúng ta cũng nên có biển. Biển đẹp, gió biển mát rười rượi, biển đem lại hạnh phúc cho người nào yêu biển.

          Biển mênh mông, biển vô tận như tình thương của cha mẹ đối với con cái. Công ơn cha mẹ như Trời, như biển. Yêu biển, yêu cha mẹ, cha mẹ đến tuổi nào đó sẽ về với ông bà, nhưng biển ngàn năm vẫn còn đây. Biển đem sự bình yên cho mọi người. Khi chúng ta buồn, hãy ra biển, hưởng gió biển. Khi ta muốn khóc, hãy ra biển, khóc với tiếng thì thầm của biển, nhìn mặt Trời mọc trên biển, nhìn hoàng hôn rực rỡ trên biển để cảm thấy lòng mình hòa nhịp với biển cả, nỗi muộn phiền tan biến. Biển đưa người tị nạn đến bến bờ Tự Do, biển cũng vùi hàng trăm ngàn xác người trong lòng đại dương. Nhìn sóng biển, nhìn biển mênh mông vô tận mới cảm nhận được thân phận con người quá nhỏ bé. Biển xanh, biển đẹp. Nếu người nào có người tình mà chiều chiều nắm tay nhau dạo trên bờ biển, nghe sóng vỗ rì rào thì chắc sẽ nhớ nhau trọn đời?

Nhìn biển mênh mông vô tận mới cảm nhận được thân phận con người quá nhỏ bé.

          Tôi yêu biển, biển không phản bội người, chỉ có người phản bội người. Ngàn đời biển vẫn ở đó, vẫn một màu xanh biếc. Tôi yêu biển, gió biển ngàn đời vẫn mát. Những người dân ở biển khỏe mạnh, vô tư, yêu đời, yêu người. Nhìn những đứa bé con của người chài lưới vác bao muối thật nặng đi thoăn thoắt, miệng tươi cười, vừa đi vừa huýt gió, tiếng huýt gió vui như tiếng nhạc. Tôi yêu biển, ngàn đời tôi vẫn yêu biển, tôi đi biển nhiều nơi trên thế giới. Biển ở Monaco, sóng biển, nước biển đến tận đất liền không có bãi cát ngăn cách. Biển ở Nice làm cho những chàng không quân Việt Nam du học ở Pháp nhớ về biển Nha Trang. Biển ở Costa Rica, Jamaica, Bricillia, Thụy Sĩ, Bỉ, Đài Loan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Đan Mạch, Hòa Lan, Phần Lan, v.v., biển nơi nào cũng đẹp, nhưng có lẽ biển ở Việt Nam (Vũng Tàu, Đà Nẵng, Nha Trang, Phan Thiết) là đẹp nhất.

Biển đẹp Nha Trang, Việt Nam

          Tôi còn nhớ lúc tôi là ký giả đi làm phóng sự ở miền Trung, tôi ở Hải học viện Nha Trang, sát biển. Tiếng sóng biển như tiếng nhạc ru tôi vào giấc ngủ. Mấy năm sau đó, tôi ở lại nhà ba má của chị bạn, gần bờ biển. Buổi sáng, chúng tôi thức dậy rất sớm, chạy ra biển, vừa chạy vừa hát bài Khỏe Vì Nước. Bài ca này tôi còn nhớ mãi cho đến bây giờ.

          Biển là một phần sự sống của người yêu biển. Nếu trong tử vi của người hợp sống ở biển thì nếu được sống ở biển, họ sẽ sống khỏe mạnh, vui vẻ, sống lâu hơn và hạnh phúc hơn.

          Hy vọng người yêu biển sẽ được sống ở biển, dù sống ở cuối đời của mình.

          Biển đẹp lắm, biển có sự sống hùng vĩ của biển, biển yêu người, người yêu biển.

          Tôi yêu biển, tôi yêu biển và mãi mãi tôi yêu biển.

Orange County, 2/6/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)




THƠ Xướng Họa: ĐÔI DÒNG KÍNH TẶNG BÁC TRƯỜNG GIANG: Phương Hoa, Trường Giang & Minh Thúy




OPEN HOUSE SAU MÙA DỊCH CÚM

OPEN HOUSE SAU MÙA DỊCH CÚM COVID-19

KIỀU MỸ DUYÊN

          Làm nghề buôn bán nhà cửa, nếu lạc quan lúc nào cũng vui, tin rằng sống chết có số, buôn bán cũng có số. Trong suốt mùa dịch cúm Covid-19, văn phòng Ana Real Estate không đóng cửa ngày nào, nhưng khách đến văn phòng phải đeo khẩu trang, đứng cách nhau 2 mét. Cửa ra vào, phòng tiếp khách phải lau chùi cẩn thận. Khách hàng rời khỏi văn phòng, chúng tôi phải lau chùi cửa ra vào, phòng khách, cứ thế ngày nào cũng phải lau chùi. Khẩu trang đeo mỗi ngày cũng thường xuyên thay mới. Ai vào văn phòng lấy báo cũng phải đeo khẩu trang. Mùi thuốc khử trùng nồng nặc, thật là khó chịu vì thuốc khử trùng hơn là bệnh và chết.

          Thứ sáu tuần trước, chúng tôi vừa được cho phép OPEN HOUSE, nhiều broker gọi đến để xin OPEN HOUSE nhà của văn phòng chúng tôi được khách hàng giao cho bán.

          OPEN HOUSE có nghĩa là gì?

          Thưa, nhà để lên thị trường bán, chuyên viên địa ốc phải mở cửa mời khách hàng có ý định mua nhà đến xem nhà. Họ tự động đến không cần có chuyên viên địa ốc đưa đi. Thường thường, OPEN HOUSE nhà vào thứ bảy và chủ nhật. Bảng OPEN HOUSE đầy đường với mũi tên dẫn đến nhà để bán. Chuyên viên làm sẵn các tờ bướm in các thông tin về căn nhà, giá tiền, nhà rộng bao nhiêu square feet, đất rộng bao nhiêu square feet, nhà mấy phòng, v.v.

          Chủ nhật tuần rồi, chúng tôi OPEN HOUSE 4 căn nhà. Một căn ở Placentia, cách đại học Fullerton không xa, nhà có hồ, ở góc đường, 2 tầng, hàng xóm tốt, nhà tương đối mới, xây năm 1992. Căn thứ hai ở Anaheim, 2 tầng lầu, có hồ bơi, chủ sửa nhà rất đẹp. Căn thứ ba ở Garden Grove, góc đường, đất rộng, xây thêm 1 căn phòng ở sau nhà có giấy phép của thành phố. Căn thứ tư ở Long Beach, góc đường, nhà này cũng đã sửa rất đẹp.

          OPEN HOUSE mở ra lúc 1pm. Khách đến đúng hẹn, nhiều người không hẹn mà tới. 3 chuyên viên địa ốc tiếp khách không kịp. Nhà ở Garden Grove chỉ trong vòng 3 phút, 9 nhóm đi xem. Nhà này do 2 chuyên viên địa ốc Minh Văn và Phương Vũ tiếp tân. Khách hàng rất lịch sự, đa số là vợ chồng cùng đi với nhau, người này đợi người khác đi ra rồi mới vào, có những người khách xem rất kỹ. Các chuyên viên địa ốc Thu Anh, Hạnh Vũ, Phương Vũ và An Nguyễn trả lời những câu hỏi của khách hàng. Khách hàng nào cũng xin flyer và họ đọc rất kỹ.

          Những chuyên viên khác OPEN HOUSE nhà ở Placentia là Thảo Đoàn và Hiếu Mạnh, ở Long Beach có Kỳ Lê và Thu Vân. Tất cả chuyên viên địa ốc đều tiếp khách rất ân cần niềm nở.

          Đi xem nhà OPEN HOUSE cũng rất thú vị, vì khách hàng muốn ở bao lâu thì ở, muốn ngắm hoa đang nở, hay nghe tiếng chim hót líu lo trong vườn thì cứ tự nhiên xem như nhà của mình.

          Tony Mai gắn 16 tấm bảng OPEN HOUSE ở mọi ngả đường dẫn đến nhà ở Anaheim. Khi trở về, Tony Mai nói:

          – I  love OPEN HOUSE.

          Tony Mai là dược sĩ đang làm việc toàn thời gian, chỉ làm real estate cuối tuần. Người trẻ này rất chịu khó học về luật địa ốc với luật sư hay với những chuyên viên các ngành nghề khác nhau huấn luyện ở văn phòng Ana Real Estate. Làm nghề địa ốc phải học hỏi không ngừng vì luật lệ nhiều quá, năm nào cũng có thêm luật mới mà chuyên viên địa ốc phải học, phải hiểu, không học thì không biết gì hết. Tony Mai sang Hoa Kỳ lúc còn rất nhỏ, học ở miền Đông, tiếng Việt không rành nhưng làm việc với cộng đồng người Việt từ từ sẽ giỏi tiếng Việt nếu chịu khó học.

          Thu Anh cùng OPEN HOUSE với Tony Mai nói:

          – Khách xem nhà đông lắm cô ơi.

          Đông là nhờ cắm bảng khắp các nẻo đường, nếu chỉ cắm bảng trước cửa nhà thì đâu có ai biết mà tới?

          Chuyên viên địa ốc nào đi OPEN HOUSE về cũng vui vì khách đến rất đông. Kỳ Lê và Thu Vân OPEN HOUSE nhà ở Long Beach nói:

          – Cô ơi, nhiều khách lắm. Con viết offer cho khách và có thể sẽ mở Escow ngay thứ hai.

          Ngày xưa, khi vừa đậu bằng broker, lúc đó tôi vừa tốt nghiệp đại học Cal State Fullerton, tôi đến một công ty Mỹ xin việc, họ nhận vào làm việc ngay. Trong lúc còn học huấn luyện để thành chuyên viên địa ốc, mỗi chuyên viên địa ốc đặt mua 40 tấm bảng OPEN HOUSE. Làm việc với những công ty nổi tiếng, nếu mình không làm việc theo những điều họ dạy thì chuẩn bị lấy giấy thôi việc.

          Một giáo sư thường nói với chúng tôi:

          – Nếu làm việc toàn thời gian 3 tháng mà không bán được căn nhà thì chuẩn bị ra đi, nếu không đi thì hãng cũng gửi giấy mời đi. Cho nên  mọi người phải cố gắng, cố gắng học hỏi không ngừng.

          Làm bất cứ việc gì cũng cần có sự đam mê, học hỏi không ngừng mới đưa đến thành công. Hàng tuần, đồng hương đưa nhà cho chúng tôi bán hay cho thuê. Chúng tôi quảng cáo trên tivi, radio và báo. Làm việc tận lực để đưa đến kết quả tốt đẹp, làm việc nhiều hơn mới có thành tựu tốt đẹp hơn.

          OPEN HOUSE một ngày cuối tuần, chỉ 3 giờ đồng hồ, nhưng 8 chuyên viên của chúng tôi chuẩn bị cả tuần: đăng trên MLS, làm flyer, đi phát flyers, cắm bảng, lo nước uống, bàn bạc chia nhau từng công việc, v.v. Họ  làm việc không ngừng nghỉ cho 4 căn nhà này. Chuyên viên của chúng tôi rất siêng năng, lúc nào cũng làm việc với nụ cười thật tươi, làm việc và làm việc không cần ăn uống. Cũng nhờ Trời thương và đồng hương thương nên việc làm không bao giờ hết. Cảm ơn đồng hương, cảm ơn những người làm chung sở với đồng hương giới thiệu khách hàng đến với chúng tôi mà chúng tôi không biết những ân nhân để tạ ơn, thôi thì cầu nguyện cho những vị tốt bụng được sức khỏe tốt, may mắn và hạnh phúc.

          Quý đồng hương có nhà muốn giao cho chúng tôi, chúng tôi sẽ OPEN HOUSE, quảng cáo trên tivi, radio và báo, giúp nhà của quý vị bán càng sớm càng tốt. Nếu quý đồng hương có cần thông tin miễn phí về việc làm từ thiện hay các sinh hoạt tôn giáo muốn gởi thông báo, hãy gọi đến văn phòng, chúng tôi sẽ thông tin miễn phí cho quý vị trên tivi, radio và báo hàng tuần.

          OPEN HOUSE cũng là bài học cho chuyên viên địa ốc, phải cắm bảng đúng nơi quy định, tùy theo thành phố: cột bảng OPEN HOUSE vào gốc cây của thành phố Garden Grove là bị phạt hay bỏ flyer vào thùng thư của chủ nhà cũng bị phạt vì hộp thư của chính phủ chứ không phải của tư nhân.

          Ở văn phòng Ana Real Estate có một chuyên viên OPEN HOUSE vào bậc nhất là Nguyễn Phương Lan. OPEN HOUSE một căn nhà ở Josephine mà cắm bảng từ Bolsa, Magnolia, chạy đến đường Garden Grove rồi tới Josephine. Khách hàng cứ theo mũi tên chỉ mà đến nhà đang OPEN HOUSE. Chủ nhà rất hài lòng khi thấy chuyên viên địa ốc Phương Lan làm việc hết lòng hết dạ của mình. Một hôm, Phương Lan đang cắm bảng nhà sắp OPEN HOUSE thì chủ nhà bên cạnh chạy tới nói:

          – Nhà tôi muốn bán, cô vào nhà tôi xem để bán nhà cho tôi nhé.

          Thế là Phương Lan lại có thêm một căn nhà nữa để bán. Một người làm việc tận tụy và có sáng kiến thì mọi người biết ngay. Văn phòng của chúng tôi có nhiều người thích OPEN HOUSE. Việc gì cũng vậy, thích thì mới làm được một cách tốt đẹp, còn làm việc miễn cưỡng thì người khác nhìn vào biết ngay. Sự thành công của con người cần có sự tận tụy, chịu khó, làm việc không ngừng nghỉ, học hỏi không ngừng, nhưng có người học xong, chữ nghĩa đi mất vì trong lúc học không tập trung, học mà đầu óc để ở đâu thì làm sao mà nhớ được?

          Có người OPEN HOUSE thì cả trăm người đến xem nhà, có người OPEN HOUSE chỉ vài người đến vì không cắm nhiều bảng OPEN HOUSE, không rao trên tivi, radio, báo và MLS ngày giờ OPEN HOUSE để cho người có ý định mua nhà tìm đến. Cho nên giàu nghèo cũng tự do mình, làm việc tận lực, hết lòng hết dạ vào công việc mình làm thì chắc chắn một điều ai cũng biết là mình sẽ không có thì giờ để xài tiền. Mình không có thì giờ để xài tiền thì người phối ngẫu xài dùm. Nếu không xài tiền thì đầu tư vào địa ốc sinh lời, hay mua nhà cho cha mẹ ở, hữu ích lắm.

          Đất Mỹ là đất của cơ hội. Biết bao nhiêu người từ tay trắng mà đến đất nước này, không bao lâu đã trở thành triệu phú. Người Việt Nam tị nạn cũng có người thành tỷ phú, như Trung Dung, người Việt gốc Chăm, bán cổ phần trị giá 1,8 tỷ khi đó ông chưa đến 30 tuổi. Còn triệu phú thì nhiều lắm, nhiều lắm. Người trẻ, người già, ai cũng có thể thành triệu phú nếu muốn. Nếu muốn thành triệu phú thì phải làm việc. Một việc nhỏ xíu như cắm bảng OPEN HOUSE mà làm không xong thì làm việc gì bây giờ? OPEN HOUSE mà người mua nhà không tới thì OPEN HOUSE làm gì?

          Lúc nào tôi cũng khuyên các chuyên viên của văn phòng Ana Real Estate làm việc gì cũng phải tận lực, nếu không thì đừng làm. Làm việc gì cũng phải làm hết lòng, hết dạ của mình. Làm việc cho khách hàng phải tận lực như làm việc cho chính mình và gia đình mình. Phải học hỏi không ngừng, sự thành công nhất định sẽ đến.

          100 người vào nghề địa ốc nhưng thành công chừng 10 người, nhiều người bỏ cuộc vì nhiều lý do. Cho nên làm bất cứ nghề nào không thành công thì phải tự hỏi mình: mình đã làm việc tận lực chưa? Mình có học hỏi về nghề của mình liên tục để có sự tiến bộ không?

          Chúc tất cả quý đồng hương làm việc gì cũng thành công và thành công vượt bậc.

Orange County, 25/5/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)




KHÔNG-TẶC TIÊU KHÁNH NHA

Ngày 15-7-1981, tù “Ngụy” Lê Xuân Nhuận (người làm thơ, với bút-danh Thanh-Thanh) được đưa từ Đà-Nẵng ra Hà-Nội, bằng phi-cơ. Thấy các biện-pháp an-ninh nên liên-tưởng đến các vụ “không-tặc” trước và sau 1975, Thanh-Thanh đã làm bài thơ “Hà-Nội” trong đó có đề-cập đến một phi-công Việt-Cộng tên Tiêu Khánh Nha, mà tin-tức nghe lén trong các trại “cải tạo” cho là đã cướp phi-cơ bay thoát khỏi Việt-Nam.

Nay được đọc bài “Cướp máy bay quân sự C130 để vượt biên”của Hòa Ái, thuộc Đài RFA (dưới đây) mới biết thêm nhiều chi-tiết liên-quan.

Đây là bài thơ “Hà-Nội” của Thanh-Thanh, in trong tập “Cơn Ác-Mộng” do nhà “Xây-Dựng” xuất-bản năm 1998:

                HÀ-NỘI

Tôi vốn mơ đi khắp nẻo đường

Thăm từng thắng-tích của quê-hương;

Nhưng, từ giới-tuyến1 qua rào trại2,

Tôi khó mong ngày tới Bắc-phương.

1 Vĩ-tuyến 17 (1954-75) phân chia hai Miền Bắc/Nam.

2 Các trại tập-trung “cải-tạo”.

Ấy thế mà tôi bỗng được đi

Ra ngay Hà-Nội – đất “Kinh-Kỳ”

Thoả niềm ao-ước từ thơ-bé,

Tận mắt trông nhìn những biến-di.

Này, chiếc phi-cơ hai quạt quay:

Nhanh năm trăm, và cao năm cây;

Ghế ngồi gọn hẹp kê liền sát;

Người Việt, người Âu, khách đủ đầy.

Chiêu-đãi hai cô nữ-tiếp-viên:

Tóc trần, ống nhựa quấn hai bên,

Vét-can màu trắng, cầu-vai ngược;

Kiến-thức nông+non, sượng dáng-duyên.

Một lát dưa leo, hai miếng ram;

Chả heo nửa lát, lát mì lam;

Chuối chưa chín tới; đường chê bánh;

Trà nhạt… mà ai cũng thoả đàm!

Những vụ An, Trung, Nha, Sơn, Bình3

Bận lòng “chiêu-đãi” lẫn “an-ninh”.

Tôi cười trong bụng:  ngày xưa ấy,

Những Viết và Tân4 đã quấy mình!

 3 Sau Tháng Tư Đen 1975:

      *Vũ Hoàng An, nguyên đại-uý QLVNCH, cướp phi-cơ Việt-Cộng tại Đà-Nẵng, bất-thành, bị xử tử.

      *Có tin đồn Nguyễn Thành Trung (cựu trung-uý phi-công VNCH, đem phi-cơ theo VC trước 30-04-75) đã cướp phi-cơ thoát khỏi Việt-Nam.

      *Tiêu Khánh Nha, thiếu-tá phi-công VC, gốc Hoa, cướp phi-cơ bay thoát VC nên khỏi bị chúng thanh-trừng sau vụ Hoa-Cộng tấn-công 1979.

      *Sơn và Bình là hai trung-uý phi-công VC, thuộc một tổ-chức “bạo-loạn”, cướp trực-thăng bay qua Hoa-Cộng.

 4 Trước 1975:

      *Nguyễn Cửu Viết toan cướp phi-cơ Air Vietnam, đã nổ một chiếc Dakota tại phi-trường Phú-Bài, Huế.

      *Lê Đức Tân toan cướp phi-cơ Air Vietnam, đã nổ một chiếc Boeing gần phi-trường Bửu-Sơn, Ninh-Thuận.

      Cả hai chỉ là phần-tử bất-mãn, không phải VC (cf hồi-ký “Về Vùng Chiến-Tuyến” của Lê Xuân Nhuận).

Hà-Nội đây rồi: dưới nắng trưa,

Sông Hồng đỏ đục nước nguồn mưa;

Quanh nhà đất thấp, vườn ngâm nước;

Tường+mái rêu phong nét cổ xưa.

Mấy chiếc hai hay ba quạt quay

Cong đuôi nằm nghỉ cuối sân bay,

Làm như nhớ thuở chồm lưng địch

Bắt bê-năm-hai hạ xuống đây!5

VC tuyên-truyền:  chúng bay cao hơn B-52, nhảy xuống trên lưng B-52, dùng dao-găm nạy cửa-sổ chui vào, chĩa súng-lục bắt phi-công Mỹ đáp xuống sân bay Gia-Lâm; thế là chúng đã nhiều lần “bắt sống” được cả “giặc lái” lẫn B-52 (!) 

Đáp xuống Gia-Lâm, thấy bán-khai:

Tiếng Anh hai bảng cả hai sai6;

Nhà-ga cũ-kỹ từ Tây-thuộc;

Vắng xưởng, im kho, lặng-lẽ đài.

6 Xem Chương “Sân Bay Gia-Lâm” trong cuốn hồi-ký “Cảnh-Sát-Hoá, Quốc-Sách Yểu-Tử của Việt-Nam Cộng-Hoà” của Lê Xuân Nhuận.

Chẳng tiễn-đưa đi, chẳng đón về;

Phi-công, hành-khách: dép mòn lê.
Đầu đường dăm chiếc mô-tô Nhật,

“U-Oát”, “Com-Măng”, vài ba xe.

Xế trước, bên kia, khách xúm đông:

Cộng-đồng ăn-uống cửa-hàng công.

Mấy tay Tây-Cộng dùng bia lạnh:

Trộn đá trong thau, múc uống chung.

Vào phố, này đây cầu Long-Biên;

Giữa: đường xe-lửa; xe: hai bên.

Qua cầu: xe chạy đường bên trái;

Mỗi nhịp cầu rung: răng lão-niên!

Xe đẹp Miền Nam: của “ngoại-giao”!

“Công-trường”, “vận-tải”: của cần-lao!

Xích-lô, xe đạp; xe bò; ngựa;

Gánh, vác, khiêng, mang, kéo, đẩy nhau.

Không “vét”; không giày; không áo hoa,

Dây chuyền, vòng, nhẫn, nơ, trâm, thoa!

Mọi người tất-tả lo làm-lụng;

Sự sống… gian-nan… hiển-hiện ra.

Chẳng khải-hoàn-môn, kỷ-niêm-đài,

Cờ, hoa, tranh, ảnh, tượng, toà, ngai,

Bích-chương, biểu-ngữ, loa, chiêng, trống

(Tội-nghiệp “Đàng Trong” tưởng “Miệt Ngoài”…)!

Vách, mái lâu năm… nứt, dột rồi!

Tróc sơn bảng hiệu, ố màu vôi!

Có nhà xiêu, vẹo: người còn ở

(Nhiều mái: tranh, rơm, mo, lá thôi)!

Hoa chẳng bồn chăm; nhãn chẳng lồng;

Nước vòi đỏ đục tự nguồn sông;

Cá: nguyên vi, vảy, kho không mỡ;

Rau muống quê chàng, có phải không?

Nóng bức, môi khô, mắt đổ quàng;

Inh tai, nhức óc tiếng đài vang;

Bỗng như điện chạm, da-gà nổi:

Có tiếng buồng bên hát “nhạc vàng”!

Có cái gì như ứ nghẹn hơi;

Mây vây, khí uất tự lưng trời…

Người ta chờ đợi cơn giông tới…

Hà-Nội trân mình – Hà-Nội ơi!

Tôi ngó trừng-trừng miếng bánh khô:

Kiến Nam lơ lảng, Bắc chui vô!

– Hôm nay có một tên tù “Ngụy”

Tới “thủ-đô” mà… tiếc “thủ-đô”!

        Trại Thanh-Liệt (Hà-Nội) 15-7-1981

                           THANH-THANH

================================

Cướp máy bay quân sự C130 để vượt biên – Hòa Ái, RFA

Vào ngày 24/11/1979, một cuộc không tặc máy bay quân sự C130 vô tiền khoán hậu tại sân bay Tân Sơn Nhất của một nhóm 13 người trốn chạy khỏi VN gây chấn động thế giới. Họ là ai? Cuộc vượt biên bằng máy bay này ra sao? Ông Trương Văn Ẩm, người lên kế hoạch cuộc không tặc kể lại câu chuyện sau 36 năm:

“Không có động cơ nào hết bởi vì năm 1975 tôi đã sắp xếp đầy đủ, sẵn sàng chỗ máy bay cho ông già bà già, cho vợ con đi mà cuối cùng bà già với anh em cương quyết không đi. Tôi không đi được thì tôi nghĩ không bao giờ đi nữa”.

Ông Trương Văn Ẩm, một nhân viên trong ngành kỹ thuật hàng không làm việc tại sân bay Tân Sơn Nhất, được giữ lại trong Cục Kỹ thuật Không quân sau năm 1975 bắt đầu câu chuyện kể của mình qua câu hỏi của Hòa Ái rằng động cơ nào khiến ông đi đến quyết định trở thành một tên không tặc đối với chính phủ VN lúc bấy giờ.

Tuy cuộc sống của ông và gia đình không còn được sung túc như thời VNCH nhưng vẫn tốt sau khi Sài Gòn đổi tên thành TP. HCM. Ông Ẩm không hề manh nha nghĩ đến một cuộc ra đi nào sau khi cả gia đình quyết định ở lại VN. Thế nhưng, một chuyến công tác ra Hà Nội đầu tiên và cũng là cuối cùng đã tác động ít nhiều đến cuộc không tặc định mệnh trong cuộc đời ông:

“Đùng một cái vào ngày mùng 2 tháng 9, lễ Quốc khánh năm 1979, tối đang ở nhà coi ti vi với bà con lối xóm thì ông thủ trưởng lái xe jeep ra, đi với mấy người lính, nói với tôi rằng anh có lệnh phải đi công tác Hà Nội. Từ hồi mất nước khi tôi ở lại dù có yêu cầu đi Hà Nội mấy lần nhưng tôi không muốn đi. Không biết tại sao động lực nào xui khiến lần này tôi đi liền. Nhiệm vụ của tôi, thứ nhất là tôi phải coi một chiếc máy bay C30 bị hư lâu rồi mà không sửa được. Nhiệm vụ thứ hai là tôi phải vào Cục Kỹ thuật Không quân, thuộc Bộ Tư lệnh Không quân để thuyết trình những hoạt động máy bay của Mỹ trong này cho mấy ông lớn ngoài đó nghe. Tôi ra Hà Nội, tôi coi thì chiếc máy bay không bị hư hỏng nặng, chỉ bị hư nhẹ thôi nhưng vì mấy người không có kinh nghiệm. Tôi lên coi máy, tôi hỏi rồi tôi chỉ anh em làm có nửa tiếng đồng hồ xong”.

Nhiệm vụ thứ nhất đã hoàn thành nhanh chóng và đến giờ vào Cục Kỹ thuật để thuyết trình. Thế nhưng bức tranh về xã hội miền Bắc dưới chế độ Cộng sản lần lần được hiện ra rõ nét trong tâm tưởng ông Trương Văn Ẩm. Bắt đầu từ giây phút ông bị anh lính gác cổng không cho vào thuyết trình vì cách ăn mặc miền Nam không đúng theo tiêu chuẩn quy định cho đến Thượng úy trực ban cũng không thể can thiệp cho vào để ông làm tròn nhiệm vụ thứ 2 được giao. Vì nguyên nhân này mà ông Ẩm có thời gian tham quan Hà Nội, được tận mắt thấy cảnh đời sống thường nhật của người dân Hà thành, kể cả những trí thức trở về từ các nước Đông Âu.

Do thời tiết bị bão, không có máy bay về lại miền Nam, ông Trương Văn Ẩm quyết định về thăm cố hương Thái Bình, nơi ông di cư từ hồi 8, 9 tuổi. Họ hàng gần xa đều đến đông đủ tay bắt mặt mừng. Trong thời gian 3 ngày thăm viếng, lời khuyên ngắn gọn của người cậu ruột ám ảnh ông Trương Văn Ẩm:

“Cậu tôi nói là tôi phải đi, không được ở lại. ‘Bởi vì mày ở lại mai mốt cũng về cuốc đất. Nó chỉ sử dụng mày một thời gian thôi đến khi nào nó biết hết’”.

Rồi buổi gặp mặt tình cờ với phi công Tiêu Khánh Nha đã khiến ông Trương Văn Ẩm đi đến quyết định cho một chuyến vượt biên bằng máy bay quân sự sau khi nghe chia sẻ của Thượng úy “chế độ mới” này:

“Ông nói cái vụ chiến tranh biên giới năm 1978, tôi mang họ Tiêu, nó nói tôi gốc Tàu mà tôi có biết ông cố nội tôi có phải Tàu không. Nhưng bây giờ nó muốn hất tôi ra khỏi sân bay, không cho tôi được phép đi tới gần máy bay, chờ nó cho về vườn thôi”.

Kế hoạch cho một cuộc vượt thoát bằng cách cướp chiếc máy bay quân sự C130 đang được ông Ẩm phụ trách sửa chữa ở sân bay Tân Sơn Nhất được lập ra chớp nhoáng. Mọi dự trù về xăng nhớt, an ninh, phòng không đều được bàn tính chi ly chỉ vỏn vẹn trong 3 ngày.

“Nếu đi đúng giờ giấc thì mình cất cánh rồi thì F5 Biên Hòa chưa cất cánh. Lý do khi nghe báo động dưới này thì phải gọi lên phòng tác chiến trên đó. Phòng tác chiến phải kiểm tra tới, kiểm tra lui. Đúng thì mới ra lệnh xuống Phòng hành quân và Phòng hành quân mới ra lệnh cho phi công ra máy bay thì mất khoảng 10 đến 15 phút. Thời gian nói chuyện với nhau cũng mất 5,10 phút rồi. Khoảng 25 đến 30 phút máy bay mới cất cánh được mà mình cất cánh 15 phút thì đã mất tiêu rồi”.

Kế hoạch bị trì hoãn, thay vì xuất phát vào giờ G ngày thứ Tư thì mãi đến giờ cơm trưa ngày thứ Bảy, nhóm người trong tổ nhân viên kỹ thuật hàng không của ông Ẩm và 1 bộ đội canh gác máy bay trên mặt đất bị khống chế bắt đầu giây phút trở thành không tặc:

“Khoảng 11 giờ bắt đầu tôi cho anh em quay máy. Khi vừa quay máy được chút xíu, khoảng 5 phút thì có 2 anh bộ đội kéo một chiếc máy bay loại C119 đi ngang ‘taxi way’(đường di chuyển nội bộ trong khu vực sân bay), dừng lại ngay giữa đường, đứng đó là mình không bay ra vô được nữa. Chiếc máy bay đó lớn lắm”.

Theo kế hoạch, vợ chồng và 2 đứa con nhỏ của phi công Tiêu Khánh Nha sẽ xé hàng rào chạy vào sau khi nghe tiếng 4 động cơ chiếc C130 được khởi động. Nếu trục trặc xảy ra thì các động cơ sẽ bị tắt. Đây là tín hiệu cho gia đình phi công này không được di chuyển tiếp cận máy bay. Do bị chiếc C119 chắn ngang, 4 động cơ bị tắt trong khi ông Ẩm đang cố gắng tìm cách giải quyết thì phi công Tiêu Khánh Nha không làm theo kế hoạch:

“Ông Nha nóng ruột, chung hàng rào chạy vô. Ông cứ hỏi, tôi nói anh cứ đi ra đi, ăn cơm xong rồi liên lạc sau. Anh đi ra khỏi đây đi. An ninh, Bảo vệ mà thấy anh với tôi nói chuyện là phiền phức”.

Sau đó không lâu, mọi việc suôn sẻ:

“Tôi sắp xếp xong đàng hoàng thì quay máy khoảng 5 phút sau, nhìn ra phía hàng rào vẫn không thấy gia đình ông Nha đâu hết”.

Trong giây phút căng thẳng không thấy gia đình phi công Tiêu Khánh Nha xuất hiện thì 1 bộ đội chạy đến khiến mọi người chết đứng. Hóa ra là người trong gia đình phi công Nha “ăn theo”, mặc đồ lính, xé rào chạy về hướng máy bay. Cuối cùng 13 người có mặt trong phi hành đoàn bất đắc dĩ và chiếc C130 bắt đầu lăn bánh sau 2 giờ chiều ngày 24/11/1979.

“Vừa lái thẳng chiếc máy bay tới ngang Ga Hàng không Việt Nam, chỗ Đài kiểm soát là tống ga cất cánh lên liền quẹo về hướng Cát Lái. Lúc đầu định đi qua Biên Hòa rồi đi thẳng ra Vũng Tàu nhưng phút chót lại đổi ý. Khi cất cánh lên được rồi thì bay về hướng Thủ Thiêm. Bay khoảng 10 phút là chúng tôi thấy biển đến Vũng Tàu là bắt đầu lên cao. Anh em mừng ôm nhau khóc. Chúng tôi khóc trong máy bay vậy đó”.

Dường như kế hoạch được trót lọt, không gặp trở ngại nào từ lực lượng phòng không VN. Thế nhưng, thời tiết buổi chiều ngày thứ Bảy định mệnh là một thách thức cho nhóm không tặc bao gồm 2 trẻ em:

“La bàn thì không có, bị hư. Bản đồ không có. Chúng tôi theo cách hồi xưa được học địa lý, ra bờ biển Vũng Tàu thì theo bờ biển đi thôi. Trời xấu quá, tối và mưa nên phải bay lên cao. Bay lên cao khoảng 5,7, 10 phút lại xuống. Xuống lần thứ 4 thì chúng tôi thấy cái mỏm của Malaysia. Qua Malaysia thì sẽ đến Singapore. Chúng tôi học địa lý, chúng tôi biết. Bay khoảng 10 phút thì lên lại. Xuống trở lại thì thấy cảng của Singapore đèn đuốc sáng. Chúng tôi nói đúng Singapore phía trước rồi”.

Cất cánh được êm xuôi. Thế hạ cánh thì thế nào:

“Chúng tôi bật liên lạc. Chúng tôi không có tần số nên liên lạc không được. Không có ai trả lời hết thành ra chúng tôi phải đáp bằng tín hiệu gọi là MCC quốc tế. Chúng tôi lắc cánh 3 lần. Bật đèn xanh chớp rồi lắc cánh 3 lần. Khi lắc cánh 3 lần thì chúng tôi nhìn thấy Đài Kiểm soát của sân bay Singapore chớp đèn đỏ. Như vậy đã nhận được tín hiệu của mình nhưng đèn đỏ là không được đáp”.

Và chiếc C130 đáp xuống sân bay Singapore một cách an toàn. Mọi người được yêu cầu chờ trên máy bay, được cung cấp thức ăn và được chở đi vệ sinh. Sau vài giờ đồng hồ, cảnh sát Singapore nói rằng sẽ cho máy bay dẫn đường bay qua Philippines. Đoàn người nhất quyết không đồng ý và khẩn thiết xin được gặp nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Singapore.

Nhóm 13 người được giữ lại Singapore. Ngày Chủ Nhật hôm sau được làm việc với cảnh sát của đảo quốc Sư Tử. 2 ngày kế tiếp được gặp nhân viên Hoa Kỳ:

“Trong ngày khai báo thứ Hai và thứ Ba, có một ông Mỹ là Đại úy. Ông nói thẳng ông là CIA. Ông nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt Nam như người Việt Nam vậy. Ông nói chào mừng chúng tôi. Ông nói rằng ‘mấy anh đi làm náo loạn không những Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, mà náo loạn cả nước Mỹ và thế giới. Chúng tôi nhận các anh nhưng chúng tôi không tin tưởng bởi chúng tôi còn đặt nghi vấn có chuyện sắp xếp của Việt Cộng cho các anh đi. Thành ra tôi đang ở Đức nhưng được lệnh về gấp gặp các anh”.

Kết quả là cả 13 người được quy chế tị nạn chính trị và sẽ được định cư ở Hoa Kỳ. Trả lời câu hỏi “mọi người mong muốn điều gì sau khi nhận được kết quả này”, ông Trương Văn Ẩm ước ao được đặt chân đến Mỹ trước ngày Noel sắp đến. Điều mong ước tưởng chừng không tưởng ấy được đáp ứng. Trong khi mọi người hài lòng với món quà một bộ đồ và đôi giày ba-ta mới chuẩn bị lên đường qua Mỹ đón Noel chỉ trong vòng 1 tuần thì người bộ đội “con tin” lại xin được quay về VN. Dù mọi người khuyên can thế nào thì anh lính cụ Hồ vẫn không thay đổi quyết định:

“Nó khóc lóc nói ba em già 70 tuổi, nếu cho em về nhìn ba em một cái rồi chết cũng được”.

Như hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do, 12 người này đã trở thành không tặc để đi tìm sự sống trong cái chết. Nhà nước CHXHCNVN mở phiên tòa xét xử khiếm diện, tuyên án tử hình đối với Thượng úy phi công Tiêu Khánh Nha, ông Trương Văn Ẩm và những người còn lại bị tuyên từ 20 đến 35 năm tù giam.

Cuộc đời mới ở Hoa Kỳ của 12 người thoắt đó đã 36 năm với nhiều đổi thay. Sau khi đến Mỹ không lâu, 1 người trong nhóm bị bạo bệnh. Tro cốt của người này được gửi về cho gia đình qua đường bưu điện. Thế nhưng tên họ của người đã khuất mang “tội phản quốc” nên bị gửi trả ngược lại Hoa Kỳ. Trong mấy năm qua, 1 thành viên khác trong nhóm trở về VN lại được chào đón như một Việt kiều yêu nước.

Riêng người chủ mưu cuộc không tặc vô tiền khoán hậu, ông Trương Văn Ẩm vẫn kiên định tư tưởng “Tôi chỉ về khi nào không Cộng sản. Còn Cộng sản thì không bao giờ tôi về”, đồng thời vẫn luôn thăm hỏi tông tích của người bộ đội tên Tạo dù đến nay vẫn chưa có manh mối nào. Trong những phút giây bất chợt nhớ về lần vượt thoát, lẫn trong âm thanh văng vẳng tiếng động cơ và cánh quạt của chiếc C130, còn có tiếng khóc nghẹn ngào đòi trở về VN của anh Tạo. Và ông Ẩm tự hỏi “liệu rằng sau bao vật đổi sao dời, người lính trẻ có còn giữ vững lập trường của mình hay chăng?”.

Hòa Ái, phóng viên RFA

Xin đừng send, reply, forward đến địa-chỉ email này. Cám ơn.

Thanh-Thanh@Thanh-Thanh.com




Ngày chiến sĩ trận vong 2021

Giao Chỉ, San Jose.

Nhân ngày tưởng niệm chiến sĩ tại Hoa Kỳ, ghi lại câu chuyện về trận tái chiếm Cổ Thành Quảng trị tôi phải gửi tặng nhiều người. Nhà báo Trùng Dương, tài tử Kiều Chinh và đại tá Ngô văn Định, Đại úy Phan Nhật Nam. Những người còn sống. Đại tá Phạm Văn Chung và chuẩn tướng Trần quốc Lịch những người đã ra đi. Các anh Định, Chung và Lịch cùng khóa võ bị với chúng tôi. Năm 2019 đã hy vọng rằng tháng 4 năm 2020 ghi dấu 45 năm từ khi mất nước 1975 sẽ cùng về San Jose dự quốc hận tại Việt Museum. Cùng ôn lại một thời oanh liệt. Năm 1972 Đại tá Phạm văn Chung Khóa CuongQuyet Đà Lạt lữ đoạn trưởng Mũ Xanh đang giữ vững phòng tuyến trên sông Mỹ Chánh. Tướng Ngô quang Trưởng khóa Cương Quy êt Thủ Đức vừa ra nhận chức quân đoàn 1 để phản công. Ông đã đến ngay Mỹ Chánh và hỏi riêng Phạm Văn Chung.  Giữ được không, ông tương hỏi?  Thưa trung tướng tôi giữ được. Người sinh viên khóa Cương Quyết Đà Lạt bình tĩnh trả lời. Tiếp theo đại tá Trần Quốc Lịch, khóa Cương Quyết Đà Lạt chỉ huy lữ đoàn mũ đỏ vượt sông Mỹ Chánh tiến quân phía núi. Đại tá Ngô Văn Đình, Cương Quyết Đà Lạt vượt sông Mỹ Chánh tiến quân phía biển. Mục tiêu là Cổ Thành. Khi một đơn vị đầu tiên của nhảy dù đã bám được vào tương thành thị trấn thì tai họa chiến tranh đã xảy ra. Phi cơ của phe ta đã thả bom vào đội hình của cả đại đội mụ đỏ. Lính dù bị tổn thất nặng nên ông Trưởng cho lữ đoàn của Trần Quốc Lịch tạm lùi lại để lữ đoàn mũ xanh của Ngô Văn Định lên thay. Trong trận Quảng Trị khóa chúng tôi có mặt một lần 3 đại tá chỉ huy. Viet Museum dự trù xây một tượng đài với 4 trận đánh lịch sử để các bạn cùng khóa về tham dự lễ khánh thành nhưng rồi Covid chặn mất đường về. Phạm văn Chung và Trần quốc lịch đã ra đi. Tháng 3 năm 54 đám thanh niên Bắc Kỳ chúng tôi lên Đà Lạt từ Hà Nội. Đã tình cờ có mặt tại Quảng Trị năm 1972. Cầm quân tham dự trận lịch sử. Nhưng đành lỗi hẹn năm cuối cùng tại San Jose. Xin các bạn đọc câu chuyện dài về cổ th ành Quảng Trị để nhớ về những người không còn nữa. Nhân ngày chiến sĩ trận vong tại Hoa Kỳ.

Ngày chiến sĩ trận vong 2021

Cách đây hơn 150 năm, giữa khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ đang diễn ra, tổng thống Lincoln trong bài diễn văn tại Gettyburg đã nói những tư tưởng đi trước thời đại. Ông nói đại ý rằng những người lính bên này hay bên kia đều là những người yêu nước. Mới đây, tôi có dịp xem trên mạng hình ảnh buổi họp mặt của các gia đình tử sĩ miền Bắc VN hy sinh trong trận Quảng Trị năm 1972. Diễn giả cho chương trình tưởng niệm là đại tá Nguyễn Quý Hải, thời gian đánh Quảng Trị ông là sĩ quan chỉ huy pháo đội Bông Lau. Một diễn giả khác là bác sĩ Lê văn An của Bắc Quân. Ông là bác sĩ duy nhất đã có mặt trong Thành Cổ Quảng Trị và là một trong 11 chiến binh còn sống. Vị bác sĩ này đã tả lại những giây phút đau thương oan nghiệt cuối cùng trong vòng vây thị xã. Câu chuyện nhắc đến các chiến binh còn sống dưới hầm sâu của tòa tỉnh trưởng bị bom đánh xập nhưng không có phương tiện để cấp cứu. Hôm nay, giữa không khí vui tươi trong dịp lễ cuối tuần Hoa Kỳ, dù tưởng niệm chiến sĩ trận vong nhưng với dân Mỹ vẫn là ngày Lễ Hội, tôi xin mở lại câu chuyện cũ về cuộc chiến Quảng Trị. Nửa thế kỷ trước, chúng tôi có dịp ra thăm Quảng Trị sau khi Miền Nam lấy lại được Cổ Thành. Sau 81 ngày ác mộng đã trôi qua. Hàng ngàn chiến binh 2 bên đã chết trong một thị xã bé nhỏ ở miền hỏa tuyến. Hà Nội gọi là Thành Cổ. Sài Gòn gọi là Cổ Thành. Khi miền Bắc có lệnh rút quân, chỉ có 11 chiến binh còn sống để trở về. Chúng tôi có dịp gặp một vài chiến binh cộng sản bị bắt tù binh. Trong số này có em nhỏ vượt qua bờ Nam sông Thạch Hãn nhưng không lọt vào trong Thành Cổ. Em thuộc toán quân bơi lạc vào đơn vị TQLC. Ông bạn tôi, đại tá Cao Tiêu của tổng cục chiến tranh chính trị buồn bã nhìn thằng bé quân đội thù nghịch mà hỏi rằng. Con quê ở đâu. Bao nhiêu tuổi. Thưa ông con quê Thái Bình, 16 tuổi. Sao 16 tuổi đã phải đi bộ đội. Con đi thay cho anh con. Anh con bị què chân. Nhưng nhà nào cũng phải đi. Ông Tiêu thở dài mà nói rằng. Để ông sẽ thu xếp cho con. Quê ông cũng ở Thái Bình. Chúng tôi không bao giờ quên được câu chuyện thẩm vấn tù binh ngày hôm đó. Vì vậy, nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong với không khí lễ hội tưng bừng tại Hoa Kỳ, xin kể lại những chuyện không vui của hai miền Nam Bắc trong chiến tranh. Chuyện từ Đại Lộ kinh Hoàng cho đến 81 ngày trận chiến Quảng Trị. Như vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ đã nói. Trong chiến tranh, những chiến binh của hai bên đã hy sinh đều là những người yêu nước. Từ Hà Nội, anh Ba Lê Duẩn ra lệnh phải giữ Thành Cổ bằng mọi giá. Từ Sài Gòn, Tổng Thống Ng Văn Thiệu ra lệnh phải lấy lại Cổ Thành bằng mọi giá. Quảng Trị là con bài trong canh bạc chính trị tại Paris. Chiến binh hai miền Nam Bắc chết trong thị xã Quảng Trị ai là phe thắng ai là phe bại. Xin bằng hữu cùng tôi đọc lại các tác phẩm viết về Đại Lộ Kinh Hoàng và Mùa hè đỏ lửa của miền Nam. Xin đọc qua Mùa hè Cháy, Mãi mãi tuổi 20 và Một thời hoa lửa của miền Bắc. Những mẩu chuyện như sau:

(1)Ngày Chiến sĩ Trận Vong                                                     

 Người Mỹ tưởng niệm những quân nhân đã hy sinh vì đất nước trong ngày lễ Chiến Sĩ Trận Vong. Ngày quốc lễ này năm nay là Thứ hai 31 tháng 5-2021.  Dù còn giới hạn vì Covid nhưng trên khắp nước tổ chức tưởng niệm các tử sĩ với những cuộc diễn hành, các buổi hoà nhạc nói lên tinh thần yêu nước. Có các cộng đồng khác sẽ đánh dấu ngày này bằng những giây phút suy ngẫm trong tĩnh lặng về những người đã ngã xuống trong khi đang phục vụ trong quân đội. Ngày lễ này từng được gọi là Ngày Vinh Danh được tổ chức tại nghĩa trang Arlington vào năm 1868. Ba năm sau cuộc nội chiến đẫm máu ở Hoa Kỳ gây thiệt mạng cho trên 600.000 người. Nhiều trường học được nghỉ lễ vào 3 ngày cuối tuần này và được xem như ngày khởi đầu không chính thức của mùa nghỉ hè. Nhiều gia đình tổ chức các buổi ăn ngoài trời hay đi đến vùng biển, công viên hoặc cắm trại. Nhân dịp đặc biệt này, năm trước chúng tôi đã phổ biến loạt bài về tổn thất trong chiến tranh. Năm nay xin gửi đến tài liệu ghi nhận được về trận Quảng Trị năm 72 để quý vị đọc trong những ngày nghỉ lễ.

(2) Năm 72 Ở Quảng Trị .

Ghi Chú: Một phần bài này viết năm 1990 phổ biến khắp nơi. Bỗng có một cựu pháo thủ Bắc quân thuộc đoàn pháo Bông Lau gửi email cho tôi báo tin rằng không phải pháo Bông Lau của cộng sản bắn trên Đại Lộ Kinh Hoàng. Tôi hỏi lại, nếu Bông Lau không bắn thì pháo nào. Không thấy trả lời. Sách của Dương Phục và Thanh Thủy phát hành có đoạn tả về Đại Lộ Kinh Hoàng.

Thời kỳ trước 1975, khi tôi có dịp phụ trách về binh thư tại bộ Tổng Tham Mưu, thường qua bên Phòng Nhì hoặc Trung ương tình báo tìm đọc các sách báo của miền Bắc. Đọc và ghi chép lại, thêm 1 chút nhận xét, nhưng không phê phán. Đôi khi phải tóm lược lại để trình lên hay phổ biến nội bộ nhưng tuyệt đối không viết thêm những lời tuyên truyền hay lên án.

Ngày nay trên đướng đi tìm tài liệu cho trận Quảng Trị, chúng tôi giữ các nguyên tắc đó. Bây giờ xin quý vị cùng chúng tôi tìm hiểu về miền Bắc Việt Nam thời kỳ đầu thập niên 70.

Để chuẩn bị cho trận mùa hè 72, Hà Nội bắt lính từ năm 1970. Sau khi vét hết nông dân, qua năm 1971 tổng động viên toàn bộ nhân lực thành thị. Các học sinh và sinh viên trên 18 tuổi chuẩn bị nhập ngũ hết. Cũng trong thời gian này, Nga và Tàu hoàn toàn đồng ý viện trợ cho Hà Nội đánh Mỹ. Trong lúc Hoa Kỳ rút quân, bên ta Việt Nam hóa chiến tranh thì Nga Sô viện trợ tối đa cho miền Bắc qua Trung Cộng.

(3) Sau trận mùa hè Phan nhật Nam viết cuốn “Mùa hè đỏ lửa” thì 33 năm sau Hà Nội mới cho ra đời 2 cuốn sách viết về Quảng Trị. Đại tá pháo binh quân đội nhân dân Nguyễn Quý Hải ra đời cuốn “Mùa Hè Cháy” ghi lại con đường nhận pháo Nga Sô từ biên giới Tàu đem về Hà Nội đưa vào đến Quảng Bình, rồi qua Quảng Trị trong trận mùa hè. Với số lượng pháo đủ loại và hỏa tiễn, 5 sư đoàn Bắc quân đã được yểm trợ tối đa để tấn công miền Nam trực tiếp qua Bến Hải.

Tất cả đều ghi rõ trong tác phẩm “Mùa Hè Cháy” và chính từ tác phẩm này tôi có thể đối chiếu với tài liệu còn lưu giữ để có được những trang sử gần chính xác về phía Việt Nam Cộng Hòa. Cũng vào năm 2005 một tác phẩm khác của phe cộng sản tựa đề “Một Thời Hoa Lửa” đã ra đời, cũng nói về đề tài Quảng Trị. Bài viết này sẽ ghi lại rất nhiều chi tiết từ Hoa Lửa do các tác giả miền Bắc sáng tác.

(4) “Mãi mãi tuổi 20” Tập hồi ký được Hà Nội nhắc nhở đến nhiều nhất là: “Mãi mãi tuổi 20,” hồi ký của 1 thanh niên tên Nguyễn văn Thạc. Anh là Sinh Viên đại học Tổng hợp Hà Nội. Đi lính binh nhì truyền tin ngày 6-9-1971 và hy sinh tại chiến trường Quảng Trị ngày 30-7-1972, lúc chưa đầy 20 tuổi và chưa đủ 1 năm lính. Anh bị pháo cắt ngang đùi trái, mất máu nhiều quá nên đã chết. Chôn ngay tại mặt trận Quảng Trị. Thạc để lại cuốn nhật ký 260 trang, viết lời cuối vào ngày 27-7-1972. Ba ngày sau tử trận. Tháng 5-1973 tức là gần 1 năm sau, gia đình chưa có tin tức từ đơn vị, nhưng được đồng đội về báo tin. Sau tháng 4-1975 gia đình không có phương tiện đi tìm xác. Phải chờ đến cuối năm 1976 mới có điều kiện đi tìm. Cải táng từ quận Triệu Phong về huyện Từ Liêm, gần Hà nội vào dịp tết 1977. Tôi đã đọc 2 lần 260 trang sách nhưng không tìm được những dữ kiện về trận Quảng Trị. Hồi ký ghi lại 10 tháng trong quân ngũ của 1 thanh niên miền Bắc, nhưng mới vào trận đã bị thương rồi chết. Nội dung là lời lẽ chân thành đơn giản nhưng không có tình tiết hấp dẫn. Tác phẩm này được giới trẻ miếm Bắc tìm đọc vì đã nhắc đi nhắc lại đến tình yêu tuổi học trò với cô bạn học Như Anh. Cô này hiện nay là di dân sống tại Đức quốc. Vì tác phẩm nặng về tình yêu và thiếu quyết tâm nên đã không được phổ biến suốt 33 năm. Phải chờ đợi đến cuối thế kỷ thứ 20, nhạc vàng miền Nam chinh phục hoàn toàn nền văn hóa vô sản thì hồi ký tình yêu của Nguyễn văn Thạc mới được phổ biến và quảng bá mạnh mẽ.

(5) “Một Thời Hoa Lửa” Đây là tên 1 tác phẩm, đồng thời cũng là tên 1 chương trình do đài truyền hình Việt Nam tại Hà Nội và công ty viễn thông quân đội nhân dân phối hợp tổ chức vào ngày 31 tháng 10 năm 2005. Ban tổ chức mời tất cả bộ đội đã tham dự trận Quảng Trị trên 1.000 người về lại Thành Cổ để dự 1 chương trình văn nghệ. Cùng 1 lúc họ tập hợp lối 5.000 sinh viên Hà Nội tại sân trường đại học Khoa học, Xã hội, Nhân văn cùng tham dự. Báo Nhân dân đã ghi lại là vào ngày 6 tháng 9 năm 1971 tại 30 sân trường đại học và cao đẳng, tổng cộng 10.000 sinh viên lên đường nhập ngũ

Như vậy là 50 năm trước đảng cộng sản đã động viên hầu hết các sinh viên miền Bắc để tấn công miền Nam. Có nhiều trường đại học sau đó đóng cửa, các giáo sư cũng đi lính với học trò. Hầu hết có được 4 tháng huấn luyện và đầu năm 1972 tất cả lên đường vào Nam tham dự vào 3 mặt trận. An Lộc, Kontum, và Quảng trị. 70% bộ đội hy sinh hoặc bị thương. Trận Mậu Thân 68 Việt Cộng hy sinh toàn bộ các đơn vị thuộc Mặt trận giải phóng miền Nam và bộ đội tập kết.

Qua đến trận Mùa hè 72 đảng cộng sản Việt Nam hy sinh khối nhân lực trí thức tương lai của miền Bắc. Người có quyết định sắt máu đó là Lê Duẩn.

  Lúc 10 giờ 30 sáng ngày 30/3/72 trung đoàn pháo Bông Lau khai hỏa trận địa pháo vào căn cứ Carroll, Ái tử và Mai Lộc. Ngày 2/4/1972 căn cứ Carroll thất thủ. Sau đó Ái Tử, Mai Lộc rồi Quảng Trị đều rút quân. Một tháng sau, ngày 1 tháng 5-1972 Bắc quân chiếm đóng trên tỉnh Quảng Trị từ sông Bến Hải đến sông Mỹ Chánh. Sau khi miền Nam rút quân, xác người và di sản chiến tranh vẫn còn trên quốc lộ số 1. Báo chí Sài Gòn ghi lại con đường đã trở thành đại lộ Kinh Hoàng.

Hội nghị hòa đàm Paris bước vào năm thứ 4. Hoa kỳ đơn phương rút quân. Khối cộng sản Nga Sô và Trung Cộng đổ chiến cụ và tiếp viện tối đa vào miền Bắc.

Mở đầu cho giai đoạn thử thách Việt Nam hóa chiến tranh, quân lực Việt Nam Cộng Hòa hành quân Lam Sơn 72. Nam quân vượt sông Mỹ Chánh ngày 28 tháng 6-1972 và kết thúc việc chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị ngày 16 tháng 9-1972. Sau 81 ngày tại một chiến trường khốc liệt nhất trong chiến tranh Việt Nam. Báo chí miền Bắc gọi là Cuộc đụng đầu của lịch sử. Hơn 30 năm qua và cho đến ngày nay, Hà Nội luôn luôn nhắc đến chiến tích đã cầm cự được 81 ngày.

Tại viện bảo tàng lịch sử Thành Cổ hiện nay có bảng tưởng niệm với 81 tờ lịch ghi dấu 81 ngày trong cuộc chiến mùa hè 72. Thêm vào đó có 11 tấm phù điêu tiểu sử 11 chiến binh đã có mặt trong Cổ Thành và còn sống đến ngày nay. Mỗi người đều ghi lại cuộc đời sinh viên, nhập ngũ, chiến đấu và trở về. Phù điêu gọi là Dương bản. Còn Âm bản là mộ bia tưởng niệm chung trên 10.000 bộ đội đã hy sinh.

Trong đêm văn nghệ Hoa Lửa 31/10/2005 họ đã dùng 81 nhạc công trong ban hòa tấu để nhắc lại ý nghĩa của 81 ngày lịch sử.

(7) Cổ Thành gian khổ. Cũng theo tài liệu của miền Bắc, tuyển tập Hoa Lửa ghi lại bút ký, bài viết và lời phát biểu của gần 100 nhân vật về trận mùa hè 72. Sách xuất bản năm 2005 ngôn ngữ Hà Nội đã có khác biệt với tài liệu tuyên truyền phổ biến trước và sau 1975. Không còn những lời miệt thị miền Nam. Họ gọi quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tổng thống Nguyễn văn Thiệu, trung tướng Ngô quang Trưởng. Đồng thời qua tài liệu với nội dung mở rộng đã có đề cập đến số tổn thất, thương vong khủng khiếp, nỗi sợ hãi, việc đào ngũ của chiến binh.

Đặc biệt có những chỗ ghi rõ tuổi tân binh có nhiều em dưới 18 tuổi. Các chú lính mới chưa được huấn luyện và cán bộ quân sự đã dạy bắn hay ném lựu đạn lúc còn ở dưới hầm trong Cổ Thành. Họ lùa tất cả đám lính mới qua sông rồi sẽ huấn luyện sau. Cuộc sống của hàng ngàn bộ đội dưới hầm là một thế giới cực kỳ gian khổ. Các hầm đều ngập nước. Không đủ nước uống. Không đủ ăn. Điều kiện vệ sinh hết sức khốn nạn. Người sống ở chung với thương binh và người chết. Trên 20% thương vong khi vượt sông Thạch Hãn. Sau đây là 1 đoạn nguyên văn của cán bộ quân sự viết lại: “Trong 81 ngày đêm đó, trung bình hàng đêm có 1 đại đội tăng cường hơn 100 người vượt sông và cũng từng đó con người đã ra đi không trở về. Máu thịt hòa vào nước sông trôi ra cửa Việt.”

Một chiến binh khác viết về những ngày sau cùng: Đêm 13/9/1972 Hồ Tú Bảo là sinh viên đại học toán, làm trinh sát cho sư đoàn 325 được lệnh qua sông vào tiếp viện. Suốt 2 ngày 13 và 14 tháng 9 không vượt được sông Thạch Hãn, Ngày 15 tháng 9-72 chuẩn bị vượt sông nhưng bến đáp cả 2 bờ Bắc Nam không còn nữa. Trong thành vẫn có súng nổ. Đến ngày 16/9/72 thì Cổ Thành Quảng Trị đã hoàn toàn im tiếng. Chỉ còn những ngọn khói bốc lên.

Đơn vị được lệnh rút về và hiện nay anh lính trinh sát sư đoàn 325 trở thành giáo sư tin học tại đại học Hà nội.

(8) Cờ bay trên Thành Cổ. Phía Việt Nam Cộng Hòa rất hiểu rõ ý nghĩa của việc tái chiếm Cổ Thành để dành thắng lợi trên bàn hội nghị. Phía Hà nội cũng ghi nhận đây là điểm quan trọng nhất. Hòa đàm Paris dự trù tái nhóm ngày 13 tháng 7-1972. Tài liệu của miền Bắc ghi lại rằng:“Tướng Ngô quang Trưởng đôn đốc nhẩy dù phải chiếm bằng được nhà thờ Tri Bưu ngày 12 và sau đó chỉ còn 500 thước đến Cổ Thành thì phải cắm cờ vào ngày 13/7/72. Kết quả quân Dù của VNCH chiếm được Tri Bưu nhưng quân ủy trung ương Hà Nội ra lệnh trung đoàn 48 và 2 tiểu đoàn địa phương, trung đoàn 95 của sư đoàn 325 phải sẵn sàng để chống vụ cắm cờ bằng mọi giá.

Một trang báo dài của đại tá Nguyễn Hải Như, tham mưu trưởng trung đoàn Thạch Hãn đã mô tả về trận quân Dù đánh xong Tri Bưu nhưng thất bại trong việc treo cờ Cổ Thành ngày 13/7/72. Sau trận đánh đẫm máu mà lính mũ đỏ hy sinh rất nhiều. Tài liệu của cộng sản cũng ghi rõ cách đánh rất dũng mãnh của cả 2 binh đoàn nhẩy dù và thủy quân lục chiến trong trận Cổ Thành. Bên Việt Nam Cộng Hòa có lợi thế thay quân. Đánh rồi ra nghỉ. Đưa thương binh tử sĩ ra khỏi trận địa. Trong khi phía miền Bắc không có điều kiện thuận tiện vì thay quân là phải qua sông và thương vong trên sông Thạch Hãn rất cao.

(9) Sau cuộc chiến. Cũng từ tài liệu của miền Bắc ghi lại, trên toàn thể Việt Nam, Quảng Trị là nơi có 2 nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất. Nghĩa trang Trường Sơn và nghĩa trang Quảng Trị. Phần lớn chiến binh cộng sản tử trận được gom lại chôn tại Quảng Trị. Một số lớn còn thất lạc. Các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa khi qua Mỹ được hỏi về di hài lính Mỹ cũng đã tiết lộ thêm về các mộ phần của bộ đội tại miền Nam do bên ta chôn cất. Phía Hoa Kỳ có chuyển tin tức này cho Hà nội. Tuy nhiên về việc tìm kiếm mộ phần của phía Việt Nam Cộng Hòa trước 75 bao gồm thêm di hài tù tập trung “cải tạo“ hiện vẫn chưa được chính quyền Hà Nội lưu tâm. Gần 45 năm sau tháng 4-1975 dân Việt tỵ nạn đã có cả triệu lần trở về cùng với hàng tỷ mỹ kim gửi quà hàng năm, nhưng vết thương chính trị vẫn còn là gánh nặng nên chưa giải tỏa được con đường vào chốn tâm linh.

Thuần túy trên lãnh vực tâm linh, nghĩa tử nghĩa tận, chỉ có chính quyền Hà Nội mới có thẩm quyền và trách nhiệm tối thiểu đối với di hài chiến sĩ miền Nam.

Với danh nghĩa người Mỹ gốc Việt, với sự cộng tác mạnh mẽ của tòa đại sứ Mỹ tại Việt Nam, việc tìm kiếm tảo mộ di hài chiến binh miền Nam đưa về nguyên quán hay chôn tại Nghĩa trang Biên Hòa với sự bảo quản tối thiểu, không có gì khó khăn.

Hà Nội đã bước vào kỷ nguyên mới, phải ý thức được những điều phải làm trong trách nhiệm với lịch sử dân tộc, theo trào lưu tiến hóa của nền văn minh nhân loại.

(10) Hàn gắn thương đau. Năm 1992, hai mươi năm sau mùa hè 72, Hội VMA (Vietnam Memorial Association) gồm các cựu chiến binh Hoa Kỳ muốn hàn gắn thương đau của Việt Nam hậu chiến. VMA dự trù xây trường học tại các nơi hẻo lánh cả 2 miền Nam Bắc. Ban quản trị họp để tìm 1 địa điểm đầu tiên. 8 ông bà Hoa Kỳ bàn về các địa điểm. Ý kiến rất khác biệt, Cô Kiều Chinh là người Việt duy nhất, đồng sáng lập viên của VMA đã đề nghị ngôi trường đầu tiên sẽxây tại Quảng Trị. Nơi mang vết thương lớn nhất của chiến tranh Việt Nam. Nơi chia cắt 2 miền suốt 21 năm. Toàn thể VMA đều đồng ý chọn đất cho ngôi trường tại Đông Hà coi như món quà của người phụ nữ Việt Nam tỵ nạn cộng sản gửi lại quê hương. Bức thông điệp đẹp đẽ biết dường nào. Năm 1954, cha của cô Kiều Chinh bị Việt cộng bỏ tù không bản án và chết trong tù. Thêm một ngôi trường được xây cất tại làng Mọc, quê hương của ông Nguyễn Cửu, thân phụ của cô Nguyễn thị Chinh, tên thật của tài tử Kiều Chinh. Cô ra đi lúc còn nhỏ 1954 và từ đó không bao giờ thấy được mặt cha. Trong phim “Người tình không chân dung” có đoạn Kiều Chinh quay tại nghĩa trang Biên Hòa cũng vào năm 1972. Một ngày nào đó, cô sẽ lên thăm lại nghĩa trang quân đội miền Nam, nơi có rất nhiều chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị mùa hè 72. Không thiếu bất cứ 1 quân binh chủng nào, không thiếu bất cứ màu cờ sắc áo nào. Kể cả lính Dù chết dưới chiến hào với cờ vàng pha máu và lính thủy quân lục chiến hy sinh trong thành nội 10 ngày sau cùng, chưa thấy được lá cờ bay trên trời xanh của Cổ Thành Quảng Trị. Phía bên kia Bến Hải một thời, có câu chuyện của họ. Bây giờ đến lượt chúng ta phải kể lại câu chuyện của mình. Nếu anh không nói, ai nói. Bây giờ không nói, bao giờ.

(11) Tổn thất chiến tranh. Vì vậy sau khi nghe chuyện bên kia, chúng ta hãy nói chuyện bên này. Rồi mai đây, vào năm 2025, nửa thế kỷ sau cuộc chiến, sử Việt sẽ ghi rằng chiến tranh Việt Nam đã làm chết 2 triệu dân trên khắp các miền đất nước. Riêng tại Quảng Trị, mùa hè năm 1972 cuộc chiến dằng xé điên cuồng đã giết chết 50 ngàn thanh niên của cả hai miền Nam Bắc. Lịch sử sẽ không cần ghi phần tổn thất hay thắng bại của các đơn vị. Sau này những đóa hoa tưởng niệm thả xuống dòng Thạch Hãn hay con sông Bến Hải sẽ cùng trôi ra biển Đông. Thể hiện tấm lòng của thế hệ tương lai gửi chung cho tất cả linh hồn các chiến binh đã hy sinh cho cuộc chiến tương tàn cuối thế kỷ thứ 20 tại Việt Nam.

(12) NHÂN CHỨNG TRÊN ĐẠI LỘ KINH HOÀNG

Khi đi tìm nhân chứng của 1 chiến trường hết sức oan nghiệt và thê lương, hết sức dũng mãnh và hào hùng, tôi vẫn không quên đoạn đường đầy xác người trên quốc lộ số 1. Ngay khi chiến trường còn vương khói súng, cây bút nhẩy dù, đại úy Phan nhật Nam đã viết “Mùa hè đỏ lửa.” Tác phẩm đem vinh quang cho tác giả đồng thời cũng làm khổ ông sau 1975. Nhưng trước sau “Mùa hè đỏ lửa” đã gắn liền vào tên tuổi Phan nhật Nam.

Phải chờ đến 32 năm sau, Hà Nội mới xuất bản cuốn “Mùa hè cháy“ của đại tá pháo binh “Quân đội Nhân dân” viết về trận pháo kích của trung đoàn pháo Bông Lau, trận pháo dã man trên đường di tản của dân Quảng Trị, giết chết hàng ngàn người và làm đoạn đường trên 2 cây sốgiữa con sông Thạch Hãn và Mỹ Chánh trở thành Đại lộ Kinh Hoàng.

Chúng tôi vẫn đi tìm xem ai là người đặt tên cho đoạn đường của trận thảm sát mùa hè năm 72. Có lẽ chỉ trong chiến tranh Việt Nam mới có cái đại lộ mang tước hiệu kinh hoàng.

Anh phóng viên của bộ Thông Tin có mặt tại Quảng Trị nói rằng bác đi hỏi ông Lê Thiệp trên DC. Khi quân ta phản công ở Mỹ Chánh, ông nhà báo Lê Thiệp có đi theo trên quốc lộ 1 qua lối này. Năm 2005 nhân dịp gặp ông Thiệp tại DC, ông nói rằng không biết tay nào đặt cái tên Đại lộ Kinh Hoàng thật hay. Câu chuyện dừng tại đó. Một lần khác, chúng tôi rao lên là muốn tìm gặp những ai đã chạy trên con đường ác độc vào đúng lúc địch pháo kích. Tôi biết có trung tá Lê huy Linh Vũ của Tổng cục Chiến tranh Chính trị là người đã trải qua và đã viết lại thành cuốn sách. Con gái của trung tá Vũ là họa sĩ Hương Alaska có cho phép chúng tôi in lại cuốn này để tặng các bạn. Nhưng ông Vũ nay không còn nữa. Đại tá Hà Mai Việt, tỉnh trưởng Quảng trị thời kỳ 72 đã nói rằng: “Tại ông không lưu tâm đọc sách của tôi. Mở trang này ra mà xem, nhân chứng sống là ông Phan văn Châu. Tôi đã viết rõ từng trường hợp của trận Quảng Trị trong tác phẩm Thép và Máu. Ông nhân chứng này không những chịu đựng trực tiếp trận pháo trên quốc lộ mà còn nằm lại 1 đêm giữa các xác chết.”

Sau cùng nhờ ông Hà mai Việt, chúng tôi đã gặp nhân chứng sống. Trung sĩ Phan văn Châu năm nay 68 tuổi quả thực là 1 người dân tiêu biểu của miền đất Quảng. Qua máy điện thoại, dường như cả một trời tâm sự tuôn tràn. Những hình ảnh quê hương, chiến tranh, loạn lạc, pháo kích, khói lửa, lẫn lộn giữa trận 72 và trận 75.

Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi. Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Đà Nẵng đang đi công tác về Ái tử.

Đến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng 1 đứa cháu, dẫn vợcó bầu với 3 đứa con nhỏ, năm một, sáu, bẩy, tám tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ Bắc của sông Thạch Hãn.

Vợ con đi trước 1 đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo 1 chiếc xe gỗ 2 bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Đa số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Đạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chếtở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bịpháo rồi cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng 1 ngày pháo kích. Đủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được 1 lúc.Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống. Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợcó bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Đêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Đại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ. Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi. Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại1 cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Đi đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt Nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Đó là cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị. Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ bầu đã dẫn 3 đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Đoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.

Vợ con dắt díu nhau đi suốt 1 ngày 1 đêm về đến Mỹ Chánh rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm 3 ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và có gia đình cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ.

Những bước chân trần ai trên bãi cát Quảng Trị mùa hè năm 72 của bà mẹ mang bầu không biết có còn vương vấn chút nào trong lòng cô bé nghe pháo kích từ lúc chưa ra đời. Ông Châu nói rằng: Tụi nhỏ chẳng biết gì đâu. Chỉ có đứa lớn nhất năm nay ngoài 40 tuổi là còn nhớ đôi chút. Hỏi rằng thế ông có được bao nhiêu con tất cả. Ông tính nhẩm rồi nói rằng tất cả 10 con. Bà đầu tiên 6 con. Bà thứ hai 3 con. Bà này bỏ tôi đi lấy chồng nên bây giờ vẫn còn ở Việt Nam. Tôi đưa cả 3 cháu đoàn tụ bên này. Bà hiện nay ở với tôi có 1 cháu. Năm nay cháu cũng 24 tuổi rồi. Bà sau này có 1 con riêng. Như vậy là chúng tôi có 11 con. Thế bác có hạnh phúc không. Hạnh phúc chứ. Tất cả là số trời. Ông Châu nói rằng, cái đêm nằm ở đại lộ kinh hoàng, uống nước máu người và phân trâu tôi không bao giờ giờ nghĩ đến có ngày đi Mỹ như bây giờ. Tôi nghĩ rằng bây giờ vợ con chết hết thì mình sẽ ra sao. Làm sao tìm xác. Rồi chôn ở đâu. Hàng trăm xác người chung quanh, biết bao nhiêu xác trẻ con, vợ con tôi đều trong số đó. Không hiểu nó bắn pháo đạn gì quá ác. Tất cả xác chết như than củi chẳng làm sao biết được người nào là người nào.

“Năm 1973 tôi có trở lại, đi qua con đường thấy có đài tưởng niệm, rồi có các mồ chôn tập thể, có mồ chôn riêng rẽ. Lòng tôi hết sức xúc động. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn xúc động. Con cháu tôi thì nhiều nhưng mà làm sao các con hiểu được những gì tôi đã trải qua. Trận 72 quân ta mới lấy lại một nửa Quảng Trị. Đứng bên này dòng Thạch Hãn, bên kia là Nhan Biều, nơi tôi ra đời còn cả ngôi nhà thân yêu. Bên ta đã bị địch chiếm bờ Bắc, chỉ giữ được bờ Nam, đến 75 thì bờNam cũng chẳng còn.”

“Vâng thưa bác, năm nay em 67 tuổi,” ông Châu nói tiếp, “quê ở Nhan Biều, bờ Bắc sông Thạch Hãn, ngay dưới cầu Ga. Nhà em thi vào làm trung sĩ thông dịch viên năm 1966 khóa 11 tại quân đoàn I. Sau 75 em trốn được. Nếu khai thật chắc là bị buộc tội CIA.

Bờ sông Mỹ Chánh và cây cầu mới năm 2009. Mùa hè năm 1972, Nam quân và thường dân đã chạy qua “Đại lộ Kinh hoàng” để rút về phía Nam sông này.

Sau đó em vượt biên rồi đoàn tụ. Trước sau 3 vợ, 11 người con. Bà sau này là bà bền chặt nhất đã sống với nhau 25 năm. Vâng, thưa bác đây chắc chắn là bà sau cùng. Gia đình em rất hạnh phúc. Phần em, dù có bị kinh hoàng nhưng cũng chỉ có 1 ngày 1 đêm. So với người ta có người cả đời kinh hoàng thì nỗi khổ của chúng em có thấm vào đâu.”

Đó là câu chuyện của ông Châu, nhân chứng số 1 của chúng tôi. Tôi hỏi ông Châu câu cuối cùng. “Ông có biết ai đặt tên Đại lộ kinh hoàng.” “Không đâu,” bây giờ ông gọi tôi là cụ. “Cụ với cụHà Mai Việt không biết thì ai mà biết. Nhưng quả thực là kinh hoàng thực đấy các cụ ạ.”




TRÁI MỒNG TƠI – THƠ Xướng Họa CAO MỴ NHÂN + PHƯƠNG HOA + MINH THÚY & Loài Hoa Mắc Cỡ – LÊ TUẤN

TRÁI MỒNG TƠI

Cao Mỵ Nhân

*

Quán đẫm sương thu buồn rỉ rả

Mồng tơi ai nhuộm má môi em

Chiều hoang sắc tím trên tầng lá

Không lỗi lầm sao vẫn lấm lem

*

Anh hỏi thơ xưa anh viết tặng

Giấy vàng mực tím có còn nguyên

Em cười: lời đã dần xa vắng

Nên chữ hình như cũng nhạt thêm

*

Tơ trắng thu vương càng chất ngất

Mùa mưa vãn hạ, chớm heo may

Lá rơi theo gió bay đi mất

Ngõ vắng, hồn thơ bỗng đắm say

*

Nhấm thử mồng tơi, e hoá dại

Tay anh hoen tím cả trang thơ

Thương em ưa chuốc sầu quan tái

Ngay lúc đường quen vẫn đợi chờ …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)

MoMonMongMonMoM

TÍM MỰC MỒNG TƠI

(Kính họa)

*

Ngày xưa bờ giậu xanh rôm rả

Tím ngát chùm chùm ửng má em

Bướm chập chờn đùa vờn nhánh lạ

Nhập nhoè hạt chín mực màu lem

*

Lá tre bút viết lời trao tặng

Tím cả tình yêu nét tím nguyên

Môi mắt ngọt ngào tim rộn lắng

Nụ cười hạnh phúc má hồng thêm

*

Chữ màu tim tím hồn ngây ngất

Xuân đến hạ về lẫn chớm may

Vết mực xưa nhoà buồn chứa chất

Đêm tàn loang loáng giấc mơ say

*

Tình mực mồng tơi thời tuổi dại

Tím còn in đậm sẫm lời thơ

Muốn tìm kỷ niệm nhưng lòng ngại

Biết nửa hồn kia có mãi chờ?

Phương Hoa – MAY 28th 2021

***

GIẬU MỒNG TƠI

*

Nhớ chuyện ngày xưa lòng rộn rả

Vui buồn một thủa sống trong em

Mồng tơi giậu sát tường xanh thắm

Vặt trái đùa chơi mực tím lem

*

Tập vẽ bôi màu trang giấy tặng

Trao người bức ảnh cảnh đào nguyên

Là khơi ý tưởng thời mơ mộng

Có lúc run làm xáo trộn thêm

*

Kỷ niệm êm đềm tim cảm ngất

Sương tàn khoát nhẹ bóng trăng lay

Mồng tơi vẫn mãi khơi nguồn cảm

Góc bể chân trời gối mộng say

*

Khó ngỡ hành trang thời trẻ dại

Tâm hồn vướng víu thả dòng thơ

Soi vùng ký ức câu vần quyện

Chén nguyệt từng đêm rũ rượi chờ

             Minh Thuý (Thành Nội)

                 Tháng 5/30/2021




Văn Thơ Lạc Việt MỪNG LỄ CHIẾN SĨ TRẬN VONG: Lê Văn Hải, Lê Tuấn, Phương Hoa, Minh Thúy, Hoàng Mai Nhất

DƯỚI ĐÂY LÀ hai bài thơ phỏng dịch của Phương Hoa, một bài dịch thể thơ Lục Bát và bài kia thể thơ bảy chữ, từ bài thơ tiếng Anh của thi sĩ John Mccrae: “In Flanders Fields,” bài thơ nổi tiếng được viết trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất bởi Trung tá John McCrae, một bác sĩ người Canada, thường được đọc trong ngày lễ Memorial Day.




Mừng Lễ Phật Đản: ĐI CHÙA – MINH THÚY (Thành Nội)

ĐI CHÙA

            Tôi đi Chùa theo Mẹ từ lúc chưa vào lớp tiểu học, hình như khoảng ba, bốn tuổi thì phải. Hồi đó Mẹ hay đi tụng kinh mỗi tối là ngôi Chùa Tịnh Bình nằm trên đường Tăng Bạt Hổ (thành phố Huế), sau mẹ có duyên quy y chùa Diệu Đế trên đường Bạch Đằng. Những mùa lễ lớn các chú điệu đạp xe vào đưa giấy mời, mẹ cúng dường tịnh tài, tới ngày lễ ghé chợ mua cá đem ra sông phóng sanh.

           Còn nhớ tuổi thơ rất rõ… mỗi lần lên Chùa tôi thường được các cụ xoa đầu nựng má, cho bánh kẹo hoặc quả quýt và khen “cháu giỏi lắm, mẹ ngồi đọc kinh cả tiếng đồng hồ mà cháu ngồi yên không phá phách”, chưa kể được các chú điệu hay các thầy trẻ cho cả bọc bánh In đủ màu sắc (có lẽ lúc nhỏ vì ham quà bánh nên thích theo mẹ chăng?). Khi tuổi thiếu nữ không còn đi theo mẹ nữa, mà thích đi với bạn vào dịp lễ Phật Đản hoặc Vu Lan, lúc đạp xe tới Chùa gần, khi dùng hai chuyến xe Đò lên chùa Từ Đàm, chùa Tường Vân hoặc xa hơn là chùa Thiền Lâm Tự nằm trên núi. Mỗi lần đi cả nhóm ghé vô chợ Đông Ba mua hoa Sen dâng cúng Phật, hôm đó dặn nhau mặc áo dài trắng đàng hoàng nghiêm chỉnh, dù rằng không còn được quà nhưng ngôi Chùa có sức thu hút theo không khí hiền hoà, cảnh vật đầy hoa thơm đủ sắc thật đẹp, nhất là những cây hoa Sứ trước sân Chùa nở hoa trắng toát ra kỳ hương nhẹ nhàng.

            Những năm từ 1980 đến 1984 tôi vào Sài Gòn tìm đường vượt biên, có lúc ở nhà Dung (bạn hàng xóm Huế) thêu hàng, em trai Dung khoảng 13 tuổi  rất hiền lành thường ăn chay nhưng giấu gia đình, ngồi một góc nhai cơm với xì dầu, chị em hợp mạng, em hé môi cho biết mỗi tối lặng lẽ đi Chùa tụng kinh, từ đó sau giờ cơm chiều em nháy mắt tôi đi đúng giờ nhập lễ. 

Vượt biên đến đảo trải qua cuộc hành trình tưởng bỏ mạng nơi biển cả, từ đảo Pulau  Bidong chuyển tiếp qua trại Sungei Besi, hai nơi đều được dựng Chùa, nên mỗi chiều tôi thường lên bám víu lời kinh tiếng kệ cho tâm trí tỉnh lại. Qua Mỹ năm 1985 chân ướt chân ráo đã đi cày sáng mờ sương đến tối trời về đầu tắt mặt tối không còn thời giờ. Một buổi chiều được về sớm, cô em dâu chở tôi tới ngôi Chùa Đức Viên trên San Jose lúc đó Sư Bà Đàm Lựu làm trụ trì, tôi mừng hết lớn vì được ngồi trên xe ngắm màu nắng hai bên đồi của Freeway 680. Được thấy ngôi Chùa lần đầu nơi xứ Mỹ, tiếng trống Bát Nhã, hồi chuông thức tĩnh cho tôi cảm giác bồi hồi về kỷ niệm những ngày theo chân mẹ đi Chùa, tôi cố ngăn không để cảm xúc trào dâng nhưng nước mắt cứ tuôn ra như đứa con trôi sông lạc chợ, lăn lóc bụi thời gian đang trở về bến bình yên tạm thời giây lát. 

Sáu năm sau tôi chuyển job, có được ngày cuối tuần nhưng chỉ thuận khi gặp một công mấy việc mới lên San Jose. Một trưa ghé Chùa thỉnh tượng Phật và tìm quyển Hư Hư Lục của sư cô Như Thủy, quý bác đang đổ bánh xèo dùng trưa, sự niềm nở mở rộng tấm lòng làm chúng tôi khó từ chối lời mời, tôi yêu không khí thanh tịnh, hình ảnh quý bác, quý sư cô ăn nói nhẹ nhàng cùng nụ cười nhân từ hiền hậu tăng sự kính mến của tôi vô cùng. Tuy nhiên đường xá xa xôi nên thỉnh thoảng mới viếng Chùa được, tôi hằng mơ ước giá chi dưới vùng mình sinh sống có được ngôi Chùa.

            Trung Tâm Phật Giáo mọc lên nơi thành phố Hayward năm 1986 nhưng tôi không hề hay biết. Nhận job mới nên tôi dời nhà lên vùng Hayward tiện công ăn việc làm, tình cờ dự đám cưới, ngồi chung bàn nói chuyện, cháu B cho biết có ngôi Chùa nhỏ nằm trên đường Calaroga. Từ đó duyên đến với tôi, mỗi chiều thứ sáu sau giờ làm, lòng tôi hớn hở như bao người vì được “xả trại” nghỉ ngơi hai ngày weekends không bị kim đồng hồ báo thức, mà niềm vui trước nhất là được đi Chùa về tối sẽ ngủ dậy trễ sáng sau. Cuối tuần tôi dành thì giờ một ngày đi chợ, nấu ăn đàng hoàng thịnh soạn so với những ngày đi cày, chủ nhật lên Chùa sinh hoạt có khi cả ngày hoặc nửa ngày theo chương trình sắp xếp của Chùa. 

Thầy Tôi 

Tu hành “hữu xạ tự nhiên hương” 

Dũa đức mài tâm giữa sắc thường

Giảm thiểu rau cà thông mạch lạc

Đơn sơ y áo ngộ am tường

Trì kinh sáng tụng rèn nhân đức

Điểm hạt chiều thiền quán thiện lương

Chúng dẫn, tăng dìu đường chánh pháp 

Danh Thầy Từ Lực sáng vầng dương 

                                MTTN 

             Thầy Từ Lực trụ trì ngôi Trung Tâm Phật Giáo Hayward là người con của xứ sông Hương núi Ngự, Thầy chuyên cần vừa học vừa tu đã tốt nghiệp cử nhân ngành thư viện, mỹ thuật tại San Francisco State University, sau đó tiếp tục theo ban cao học tại California State University Hayward. Thời gian ấy Thầy cũng rất vất vả vì ban ngày đi làm việc trên trường UC Berkeley, tối về hướng dẫn đại chúng tụng kinh vào thứ hai, tư, sáu. Càng ngày việc phật sự càng nhiều, đám tang cần ma chay tụng niệm cầu siêu người chết, những tiểu bang lạnh mời Thầy đi hoằng pháp lưu động, vì bên đó thiếu vắng Thầy. Các bác họp đạo hữu lại vận động mỗi người một tay cố gắng hỗ trợ tài chánh thêm nữa trang trải hàng tháng, và yêu cầu Thầy nghỉ việc giữ gìn sức khỏe, để còn hướng dẫn đại chúng tu tập. Tưởng yên thân thầy trò lo việc tu học, nhưng vài năm sau County gởi giấy về báo địa điểm Chùa không hợp lệ dùng nơi tụ tập đêm ngày, hàng xóm gởi đơn khiếu nại. Cuối cùng đạo hữu cho Chùa mượn trong vòng 5 năm không lấy tiền lời cộng thêm sự cúng dường của tứ chúng. Thầy tìm được địa điểm trên đường Meekland cũng thuộc thành phố Hayward, xem như Chùa Phổ Từ được thành lập từ năm 2000. Công trình xây cất gặp lắm gian nan vất vả, nói như kiểu người phàm thì thầy “làm dâu trăm họ”, nhưng rồi thiện thần hộ pháp che chở, mọi trở ngại từ nội ma, ngoại ma, nội chướng, ngoại chướng của thế gian cũng được túc đắc tiêu diệt.

CHÙA PHỔ TỪ

(Tung hoành trục khoán)

MÁI ấm tâm linh dội trống đồng

CHÙA Từ tĩnh lặng nhẹ ngân chuông

CHE lòng mộ đạo nơi thiền quán

CHỞ dạ mến Thầy chốn tịnh không 

HỒN  đậm pháp môn thường tự tại

DÂN đằm giáo lý cũng thong dong

TỘC hành cuộc sống gieo nhân thiện

NẾP SỐNG MUÔN ĐỜI CỦA TỔ TÔNG

                                                MTTN

Ngày tháng tiếp tục đi qua từng mùa xuân, hạ, thu, đông…Tôi vẫn đều đặn sinh hoạt cùng quý bác, quý anh chị và bạn hữu như tìm về nơi chốn bình an cho tâm hồn, bên cạnh cuộc sống chồng chất nhiều lo âu, trách nhiệm đôi khi nhận chịu áp lực nặng nề đè nén tiếng thở dài.

            Đến Chùa gặp những thiện hữu tri thức, tu tập hạn chế lời nói, họ chỉ thực hành bằng công việc cho tôi học hỏi gương tốt rất nhiều. Nhớ những sáng chủ nhật tới Chùa sớm, có lúc quét lá, có khi vào bếp phụ được việc gì trong lúc chờ đợi chương trình đúng 9 giờ hành lễ. Trước tiên Thầy hướng dẫn đại chúng ngồi thiền kêu gọi tâm trở về tĩnh lặng, tập hít sâu thở ra ý thức sự sống phút hiện tại, sau đó thầy trò tụng niệm kinh cầu an, hoặc nếu có cúng hương linh thì tụng thời kinh Di Đà, kinh Địa Tạng và Chú Vãng Sanh, 10 phút thư giãn hoặc thiền hành trong sân, kế tiếp Thầy ban thời pháp hướng dẫn các pháp của Đức Phật dẫn dắt con đường tươi sáng an lạc, buổi trưa dùng cơm thanh tịnh 

       “Có không còn mất chẳng bận lòng 

       Yêu ghét được thua chẳng mong trông

       Mở rộng tâm ra lòng thanh thản 

       An vui tự tại dạ thong dong”

              Mỗi tháng có ngày tu học từ sáng đến chiều, ngày xưa các cụ gọi là Thọ Bát Quan Trai phải tuân theo các điều lệ nghiêm túc (không đeo nữ trang, không phấn son, không nghe nhạc, chỉ thọ nhận buổi cơm trưa và không được ăn tối). Qua Mỹ cuộc sống bận rộn, thời gian quí báu, Thầy Tự Lực tìm con đường trung dung thích hợp mọi lứa tuổi nên đổi lại “Ngày Tu Học”. Sáng tham thiền, ôn tụng Tam Quy Ngũ Giới và Thập Thiện Giới, hành thiền và nhận thời pháp lời hay ý đẹp của đạo Phật. Thọ chay trước tiên ngồi quán chiếu và hồi hướng công đức tới người trồng ra thực phẩm, người mua về nấu nướng cúng dường cho mình thọ trai. Sau giờ nghỉ ngơi buổi trưa một tiếng, tiếp tục vào chánh điện dưới sự hướng dẫn lạy sám hối 108 lần. Buổi  chiều ra về lái xe nhìn khung cảnh chung quanh thật đẹp, thật bình an, lắng đọng soi lại tâm mình để sửa  đổi, ngẫm trong thời gian qua đã hành được bao nhiêu điều tốt, bao nhiêu việc thiện, bao nhiêu lần nóng giận, và bao nhiêu lần mắc khẩu nghiệp nói điều có thể làm người khác buồn lòng?

              Ban đầu chúng tôi thọ “Tam Quy Ngũ Giới” tại Trung tâm Phật Giáo được Thầy quy y, tháng ăn chay 4 ngày, chỉ từng đó mà khó lắm đấy, gieo lòng sợ hãi của chúng sinh không đạt tới, nhưng nhờ có sự ân cần khéo léo của Thầy rằng :

             – Cố gắng với nội tâm và ý chí nếu đạt được một điều, hai điều cũng là quý, từ đó mỗi ngày rèn luyện, thanh lọc thân tâm  dần thêm.

“Trăm năm trước thì ta chưa gặp

Trăm năm sau biết có gặp lại không?

Cuộc đời sắc sắc , không không

Thôi thì ta hãy hết lòng với nhau”

            Nhờ Thầy dẫn dắt đường đi nước bước nên bà con yên lòng tu tập. Hai năm sau tôi thọ Thập Thiện Giới tại Chùa Quang Nghiêm của Sư Ông Minh Đạt dưới Stockton trong buổi đại lễ, cùng đi cả nhóm đệ tử theo thầy Từ Lực, giới này phải ăn chay tháng 10 ngày. Biết bao nhiêu điều tu tập tôi rớt lên rớt xuống, tập đi tập lại nhưng rất hãnh diện đã thành công điều này. Chiêu dụ người khác theo mình cũng khó, tôi áp dụng tuần hai ngày, tuần ba ngày chay, những ngày còn lại nấu mặn. Nhiều chị bảo “cứ nêm nếm rồi nhổ ra súc miệng sạch hoặc nấu cầm chừng không nếm”, tôi nghĩ phải nấu đàng hoàng mới yên tâm không bị ray rức “bỏ đời theo đạo”, trong khi đang còn bổn phận trách nhiệm, thôi thì đem đạo vào đời, lúc sống cho mình và lúc làm vui lòng người khác.

Mong Trọn Tình Lam

“Thể Sắc Thái” 

Tình lam  đón tuổi  mấy mươi ngoài 

Đã hết xanh đầu thuở trẻ choai

Sắc tím chân trời còn đắm cảnh 

Màu cam vạt nắng vẫn mơ loài

Lời vàng bút ký nào quên được

Ý ngọc thầy trao mãi nhớ hoài 

Máu đỏ thi nhân hoà cảm xúc 

Đen trời nguyệt tỏ gợi thơ ngoai

                                    MTTN

           Đến Chùa khung cảnh luôn tươi sáng, bông hoa nở rộ, chim hót ríu rít từ đầu cổng ra đến vườn lộ thiên Phật Quan Âm, bên cạnh có hòn non bộ. Ngồi yên, lắng lòng thanh tịnh, nghe tiếng chuông Chùa tĩnh thức đánh tan niềm tục lụy trong giây phút hiện tại. Hình ảnh bức tượng chiếu sáng trong tâm, cảm nhận sự nhiệm mầu của những bậc giác ngộ soi đường nở hoa. Gần gũi thấy lối sống quý sư Cô, quý Thầy suốt ngày lo việc Phật sự, bữa ăn đạm bạc, hình ảnh giản dị với bộ nâu sòng không sắc, cuộc sống thật đáng kính phục hơn nữa khi biết một số ra trường với mảnh bằng PHD hoặc Matter khi còn trẻ tuổi, nếu như ở ngoài đời đã kiếm tiền thật nhiều và dễ dàng,  nhưng họ chẳng luyến tiếc để tìm con đường chân lý, hoằng hóa độ sanh thế giới đầy não trượt, buông bỏ vui thú trong cuộc đời giả tạm.

Ánh Sáng Phật Đạo 

Đồng tu tứ chúng hương dâng nguyện 

Thắp dậy niềm tin luyện pháp kinh

Hồi chuông lay động vô minh 

Hành Tứ Diệu Đế tâm bình an vui

Dòng đời vạn biến vùi đau khổ

Bát Nhã chèo thuyền ngộ vực sâu

Trầm luân lắm cảnh bể dâu

Phật đài đánh lễ cúi đầu lắng tan

Thầm xin tuệ đuốc ban mầu nhiệm

Khép cửa tham, sân, nghiệm …Có, Không

Phật đường ánh đạo khai thông 

Hoa bừng, chim hót nắng hồng vươn cao

                                    MTTN

            Đôi khi cũng có những nỗi lo theo sự khốn đốn của các Chùa nói chung, lòng cũng nặng nề khó tả, dẫu biết Chùa chiền mọc lên nhiều thì đất thánh nhiều càng tốt, nhưng chỉ là biết mà không kham hết được đành nhắm mắt tuỳ duyên. Tánh tôi thuộc loại cứng đầu cứng cổ, nhỏ lớn không để những vấn đề dị đoan ảnh hưởng như mua nhà xem phong thủy, coi ngày giờ, cầu xin…Tu hành cũng cần có tinh thần Bi, Trí, Dũng. Quý Thầy nói điều gì thuận thì nhập vào não và duy trì, điều gì không hợp thì quên nhanh, nhất là sau này nhìn những youtube bên VN người dân quá mê tín theo sự hướng dẫn sai lạc của một số Chùa thật là chán nản. Tôi đọc bài Tản Văn Phật Giáo (Đi Chùa để làm gì) của tác giả Mạnh Kim thấy biết bao nhiêu điều xấu làm mờ đi hình ảnh của ngôi Chùa, có đoạn của Albert Einstein từng nói “Chính những người dung thứ hay khuyến khích việc xấu ác đã làm cho thế giới này trở nên nguy hiểm nhiều hơn là những người nhúng tay vào việc ác”, (nói một cách đơn giản hơn thì sự im lặng trước những điều xấu ác cũng chính là đồng loã) 

Một lần em chồng tôi lên Chùa nhờ Thầy cúng giải Sao, thầy Tự Lực nói khéo

– Chị gieo việc thiện nhiều sẽ tiêu trừ hoặc giảm bớt những nghiệp xấu.

Lần nọ trong buổi giảng pháp của Ôn Minh Đạt có người đến xin giúp việc ma chay, coi giờ tốt để chôn cất người mất. Ôn nhẹ nhàng nói: 

– Thầy chỉ truyền thừa sứ mạng Đức Phật giao phó là có nhiệm vụ hộ niệm cho người mất, Thầy không biết xem giờ, khi họ ra đi có chọn được giờ tốt không?

            Đó là những vị Thầy đã phát huy tinh thần giáo pháp của Đức Phật, ngày xưa Phật không cần Chùa, nhưng bây giờ số lượng đạo hữu quá đông cũng phải cần ngôi Chùa để sinh hoạt, nhất là nơi nuôi dưỡng tuổi trẻ gia đình Phật Tử mầm mống xây dựng xã hội lành mạnh, nên Chùa phải cần sự hộ trì tam bảo, giúp đại chúng cùng nhau nương tựa tìm con đường chánh pháp tu tập. 

       “Lắng lòng theo những nhịp chuông 

       Buông dần tục niệm bên tuồng đời kia 

       Miệt mài thương ghét sớm khuya 

       Rồi mai cũng vất xuống bia mộ mình”

           Thầy giao chìa khoá cho tôi giữ tủ sách, những buổi lễ lớn dọn ra phát hành, một số phật tử về VN thăm gia đình, mua áo tràng, xâu chuỗi cũng như các tượng Phật, ly đèn nguyên thùng đem qua cúng dường Chùa gây quỹ, thì tôi phải dọn ra bán, thêm đồng nào cũng để bù vào những buổi cơm Chùa lo liệu, mời phật tử dùng trưa mỗi chủ nhật đến sinh hoạt. Lúc nhỏ tôi thường hay nghe người ta nói đùa “cơm Chùa, của Chùa không ăn cũng uổng”, giờ tôi mới thấy tận mắt cảnh ấy… một bàn dài thức ăn, không kể quen biết hay xa lạ, đã đến Chùa là được Sư Cô, bạn đạo mời dùng. Cà phê trà nóng sẵn bình, các ông nội bà nội, ông ngoại bà ngoại hay cha mẹ dẫn con cháu đi học tiếng Việt, sinh hoạt gia đình Phật Tử, trong lúc chờ đợi, cha ông đi dọn rác làm vườn, mệt nghỉ vào uống cà phê, hoặc lấy thức ăn ngồi dưới gốc cây bóng mát dùng, các bà mẹ vào bếp nấu lo các em nhỏ. Tôi rất thích khung cảnh thanh bình tuyệt vời này, đó là điểm tuyệt vời tôi thích đến đây vì được thấy lối sống hiền hoà, tâm phật, ý Phật, tứ chúng cùng tu. Tâm người như ngựa không cương, nếu ở nhà chắc gì tôi được yên thân hay bị phone gọi, bếp réo chưa kể ma nhác nổi lên lười biếng.

Tôi được đi hành hương theo tổ chức của Chùa rất nhiều lần. Khi ghé về Sacramento và Stockton thăm Chùa Phước Thiện, Chùa Phổ Minh, Thiền viện Diệu Nhân, lúc lên San Francisco thăm dự lễ Tam Bộ Nhất Bái, hoặc thăm Chùa Sư Nữ người Mỹ, tràn ngập niềm vui trong tình đạo. Các đạo hữu tự sắp xếp chia ca, chia nhóm, mỗi người hai khay lo thức ăn cho ngày Tu Học hoặc các lễ nhỏ, những lúc khách đến bất ngờ quá đông, đạo hữu của Chùa nhịn miệng đãi khách phương xa, nhưng lúc thức ăn quá dư các sư cô nhắc nhở bới về, chị em lấy hộp nhận thức ăn cười và chọc nhau “tu tâm thì ít mà togo thì nhiều”.

            Càng ngày bàn thờ vong càng đông, có những hôm lễ 49 hoặc 100 ngày cúng thất có tới 7, 8 di ảnh nhìn lạnh người. Sự chết không đợi lão 80, 90 mà vẫn có 60, 20,  thậm chí ngay cả 5 tuổi. Đối diện và hộ niệm mỗi tuần, tôi thường quán chiếu về sự sống, sự chết, về lẽ vô thường, sâu xa triết lý là Không Sanh, Không Diệt để cố tu tập hơn nữa, ra đi chẳng đem theo thứ gì ngoài công đức để lại.

“Trăm năm nhìn xuống đời hư ảo 

Phút chốc nhìn lên ngộ lẽ trời 

Ta trồng hạt giống từ bi

Ngày sau kết trái vô vi cúng dường 

Nguyện trên khắp nẻo vô thường 

Người đi phổ độ vào đường chân như”

         Có lần tôi gặp thầy (quên tên) nơi Chùa Thiên Trúc, thầy tốt nghiệp bằng tiến sĩ về môn Thần Học, ngồi trà đạo về đề tài Sống Chết, thầy cười chỉ nói một câu “chết là một cuộc chơi”, không hiểu sao câu nói đó truyền trong tâm thức tôi sự bình thản, khiến tôi không cảm thấy sợ hãi trước sự chết. Đời người một lần ra đi, còn hơi thở ngày nào biết ngày đó, tôi tâm niệm quan trọng khi sống là biết chia sẻ, góp công những điều phước thiện làm đẹp cho đời sống. Sinh, Lão, Bệnh, Tử, nhưng con ma vô thường vẫn không đợi tuần tự như vậy, dĩ nhiên khi đối diện cảnh ngộ của sinh ly tử biệt, ai cũng đau lòng, nhưng phải chuyển hoá sự suy nghĩ để bớt khổ đau hơn, và nghiệp báo mỗi người mang theo phải chấp nhận, chỉ nên cố gắng tu tập, can đảm nhận mọi thử thách và rèn luyện kiên nhẫn như kinh Đức phật từng nhắc nhở “Như Lai chỉ là bậc Đạo Sư, học hay không là do chính bản thân mình, có học thì tới, không học sẽ không bao giờ tới “

  “Vô minh rớt lại ta bà 

   Soi trong tự tánh thấy ta lại về 

   Thoát ra từ vực u mê

   Vô thường được mất có hề chi đâu”

              Chỉ còn vài ngày nữa Lễ Phật Đản, năm nay tình trạng bệnh dịch đang còn phòng ngừa  dẫu đã được chích thuốc, thôi thì ở nhà dâng hoa quả thắp hương tưởng nhớ đấng Từ Phụ, vị Phật trong tâm nhắc nhở con mỗi khi sai phạm lỗi lầm, nhắc nhở con soi lại tấm gương nội tâm. Mùa của quý Thầy nhập hạ, mùa cho tôi sống nhiều kỷ niệm êm đềm thời thơ ấu bên mẹ, thời hoa mộng bên bạn bè viếng những ngôi Chùa xa gần “che chở hồn dân tộc” nơi thành phố Huế thân yêu thuở nào….

 Tán Phật 

Bảy bước hoa sen xuất thế trần

Ta bà hoá độ khắp hoàn luân

Rừng cây suối cỏ thiền an trí

Góc gội Bồ Đề quán tịnh thân

Khai ngộ môn tu bừng ánh đuốc 

Tri thông Phật pháp tỏa làn vân

Mười phương ánh đạo lan truyền sáng 

Bốn biển năm bề độ cõi nhân 

                                                Minh Thúy (Thành Nội)

                                                Mùa Phật Đản 2021