CHÙM THƠ: CAO MỴ NHÂN

CHÍNH KHÁCH – THI SĨ – VÀ TƯỢNG ĐÁ      

       CAO MỴ NHÂN

*

 Hình như Chính khách làm Thi sĩ

 Cũng dễ như đang ở chính trường

 Thi sĩ một thời mê chiến sử

 Đã từng lập quốc, dựng ngôi vương

*

 Thủa nay ai giúp người thiên hạ

 Xây mộng công hầu giữa nhiễu nhương

 Chính khách trầm ngâm xem Tượng đá

 Ra đi hay đứng lại bên đường

*

 Tượng đá suy tư, buồn nhỏ lệ

 Giọt sầu tan nát cả hoa thơ

 Ngươi ơi, thà chẳng là chi cả

 Đỡ phải băn khoăn với đợi chờ …

      CAO MỴ NHÂN

***

TRONG GIÓ GỌI.    CAO MỴ NHÂN

*

Một mình đứng giữa bao la

Sau lưng núi thẳm, trước là biển khơi

Tàu đi về cuối chân trời

Trăm câu hò hẹn, một lời thuỷ chung

*

Ánh vàng rực rỡ non sông

Cờ vui sắc lửa mênh mông bạt ngàn

Quân reo quang phục giang san

Lẫn trong gió gọi chiêng vang, trống mừng

*

Dập dồn lửa đạn sa trường

Đốt tan cuộc chiến đau thương đoạ đầy

Vòng ôm ấm áp thân gầy

Nụ cười quê mẹ hồn say nghĩa tình

*

Đi bên thiên hạ có mình

Hỡi anh yêu dấu hành trình có em

Một lòng, đừng nói gì thêm

Triệu người chung một nhịp tim kiêu hùng…

                CAO MỴ NHÂN

BÓNG THIÊN THẦN.    CAO MỴ NHÂN

Vào một sớm, ngày xưa, nơi ký ức

Em đứng chờ người đến, giữa không gian

Áo hoa rừng, mũ đỏ, cõi thênh thang

Ôi đẹp quá, tình ơi, tình quá khứ

*

Yêu cho tới bây giờ, đời lữ thứ

Anh lính dù, em hậu cứ tha phương

Tuổi hồn nhiên ta bỏ lại thiên đường

Sao chua chát mỗi lần ôn chiến sử

*

Anh bẻ gẫy súng trường trong nỗi nhớ

Mặt trận nào hoang hoá đã xa khơi

Viết cho anh thơ khói lửa bên trời

Như đau xót từng tháng ngày lưu lạc

*

Em quỳ xuống, lạy cuộc tình tan tác

Thiên thần ơi, nhân dáng đẹp hư vô

Sáng hôm nay hương khói chợt mơ hồ

Bên hoa nở mùa xuân về lãng đãng …

       CAO MỴ NHÂN

***

MÙA XUÂN TRUYỀN THÔNG.    CAO MỴ NHÂN

Sao anh từ chối mùa xuân

Khi em còn đang đốt pháo

Ngòi nổ văng vào thân áo

Cháy vòng thành một hình tim

*

Anh bảo :

Thủa xưa  không là pháo binh

Nên anh không chờ tiếng nổ

Vốn anh chiến sĩ truyền tin

Giữ gìn âm ba trận tuyến

*

Những ngày xuân ở tiền phương

Nối liền ngữ ngôn trận mạc

Khi lính kích giặc biên cương

Các anh truyền tin thao thức

*

Giờ đây anh làm truyền thông

Đôi tai chia tình cặp mắt

Đôi tay thả lỏng mênh mông

Kéo về  điện tin tức khắc

*

Thế nên mùa xuân vui hát

Còn tưởng nhạc khúc quân hành

Pháo nổ trường chinh tin tặc

Em vào ” tiếp lửa ” cùng anh…

                CAO MỴ NHÂN

***

 BÀI KỆ CUỐI NĂM.    CAO MỴ NHÂN

*

Một người lỡ bộ đi tu

Một người vội vã xách dù bước theo

Về đâu ? Xóm núi tiêu điều

Qua sông, hoa nở yêu kiều đón sư

*

Sư rằng : Chân thiện, tương như

Điều chi cũng giống chốn từ bi ra

Đất trời chỉ có đôi ta

Chúng sinh trong cõi sa đà Nam mô

*

Thực hư nghe thật mơ hồ

Người này lãng đãng trên bờ tử sinh

Người kia ôm khối u tình

Lênh đênh bóng giác thả hình mê xưa

*

Áo sư mang sắc đại thừa

Vàng như ánh đạo mới vừa khai nguyên

Chiếc dù  che mảnh tình riêng

Chơi vơi nắng gió ngả nghiêng mưa mù

*

Hai người tìm tới thiên thu

Chùa trong sa mạc hoang vu kiếp này

Lặng thầm mở những ngón tay

Kết thành bài kệ đắm say tặng đời …

         CAO MỴ NHÂN

***

BUỒN QUÁ SỨC BUỒN.   CAO MỴ NHÂN

*

Một người vừa bỏ về xa

Một người ngồi tưởng tượng ra nỗi buồn

Hai người trên quả đất tròn

Tìm đâu cũng thấy, mà còn làm thơ

*

Đố anh, ai kẻ mong chờ

Ai rơi nước mắt những giờ nhớ thương

Vẫn em đơn lẻ trên đường

Bao nhiêu người ngó nắng sương độc hành

*

Ỡm ờ, anh sẽ làm thinh

Nôm na anh lại cho mình…trẻ con

Cần chi phải tưởng tượng buồn

Em đang buồn quá sức buồn rồi đây…

     CAO MỴ NHÂN

ĐÁM MÂY LẠNH.   CAO MỴ NHÂN

*

Như một đám mây lạnh

Đứng lại ở sân nhà

Anh không về chắp cánh

Cho em bay đi xa

*

Ngọn gió lùa phất phới

Đám mây rơi sương mưa

Đôi chim khuyên chới với

Trên cành lá lưa thưa

*

Em chờ nơi song cửa

Vén màn nhìn ra đường

Mặt trời không toé lửa

Trốn thật kín trong sương

*

Ngày đầu tiên mùa tối

Nhớ anh đến vô cùng

Nắng chưa vươn bóng tới

Sưởi ấm tình mông lung…

     CAO MỴ NHÂN

***

TỪ TIỀN KIẾP.    CAO MỴ NHÂN

*

Kiếp xưa ta có gặp nhau

Vội vàng quá, khiến quên câu giã từ

Bây giờ bỗng thấy trong mơ

Bóng anh đang thả lưới tơ êm đềm

*

Em theo sương khói kiếm tìm

Từ nguồn xưa, tới những miền nước xa

Từng cơn lũ lụt, phong ba

Lưới tơ anh vẫn thả ra khắp trời

*

Theo anh mọi ngả đường đời

Trái tim e cũng cạn lời nỉ non

Núi cao, biển rộng, lòng son

Nhớ nhung triều cạn, mỏi mòn đường đi

*

Kiếp xưa chưa định từ ly

Đời nay chia biệt cả khi xum vầy

Thế là tình cũng phủ mây

Bóng anh thấp thoáng nhưng đầy hồn em…

       CAO MỴ NHÂN

***




THƠ – NHỮNG CÁNH HOA DẠI MÀU VÀNG – Lê Tuấn: Tặng Nhà Văn Hồng Thủy- Lời Chào Mừng “Nhận Tình Thân” từ VTLV – Lê Văn Hải & Phương Hoa – Hoàng Mai Nhất

Vui quá!Tuyệt vời!
Đây là lần đầu tiên VTLV xảy ra chuyện lạ lùng như thế! Tưởng chỉ là diễn đàn quen biết qua Văn Thơ thôi, ai ngờ “ruột thịt” thứ thiệt!
Mừng cho Anh Lê Tuấn và Chị Hồng Thủy nhé!
Chúc mừng! Chúc mừng!

Lê Văn Hải

Những Cánh Hoa Dại Màu Vàng

*

Những cánh hoa vàng ngây dại đó

Lẻ loi chớm nở mọc bên đường

Không người mong đợi, không ai đón

Lặng lẽ mà sao đẹp lạ thường.

*

Hoa dại màu vàng cánh mỏng thôi

Từ xa xưa đến mọc nơi đây

Đặt cho tên gọi loài hoa dại

Hương sắc gửi về theo gió mây.

*

Phủ kín tình em “Hồng Thuỷ” chung

Hường tình thêm dại gió mây ngàn

Miên man hoa nở trên đường phố

Ai mượn tình yêu hoa dại vàng.

*

Lê Tuấn

Viết tặng nhà văn Hồng Thuỷ

Qua tác phẩm (Những Cánh Hoa Dại Màu Vàng)

Cũng để kỷ niệm ngày Anh Em gặp lại nhau.

NGÀY THU

*

Mây trời xuống thấp lối thu sang

Gió lạnh chiều nay thổi lá vàng

Sương mỏng nhẹ bay tà lụa trắng

Tình thu còn mãi tiếng âm vang.

*

Cành trơ trụi, thấm ướt hơi sương

Lá rụng đêm qua phủ lấp đường

Áo lụa trắng, thu buồn ảm đạm

Tiếng dương cầm nhịp điệu yêu thương

Lê Tuấn

***

Thu Vắng

Trời hong khô lá rải ven đường

Phủ kín hoàng hôn, lấp dấu chân

Hoa lá oằn mình cơn gió lạnh

Nỗi buồn ùa đến lòng phân vân.

*

Thu đem thêm lá phủ chân em

Cho bước chân mềm tiếng nhạc êm

Đến lúc mặt trời vừa khuất núi

Vẫn còn luyến tiếc buồn trong đêm.

*

Lê Tuấn

10-7-21

CHÚC MNG NHN TÌNH THÂN

(Kính tặng chị Hồng Thuỷ & thầy Lê Tuấn)

*

CHÚC MỪNG sum hiệp nhận tình thân

Thu sắc vàng pha ánh đẹp ngần

HỒNG THUỶ văn tài hừng khắp chốn

TUẤN LÊ thơ ý rạng muôn phần

Hữu duyên thiên lý còn tương hội

Bạc phúc cận kề vẫn cách phân

VĂN BÚT VÙNG ĐÔNG và LẠC VIỆT

Tuy xa giờ đã hoá nên gần

*

Phương Hoa – OCT 5th 2021

**

MỪNG NHẬN HỌ

*Viết tặng bạn hiền Lê Tuấn và chị Hồng Thủy

Cuộc thế nhân gian thật lắm điều

Nào ai biết được mai sau nhỉ

Đổi thay thay đổi biến thiên nhiều

Mai kia mốt nọ chưa đặng chí

Giống cánh chim di lạc nẻo về

Rồi ra bổng chốc không hề nghĩ

Lạc Việt Văn Thơ nhận tình thân

Bài thơ viết gởi mừng Tuấn & Thủy

Họ tộc hôm nay lại thêm người

                                   Hoàng Mai Nhất

                               (Seattle, WA 10/9/21)

* Cảm thán chuyện bạn, nghĩ về mình.




THƠ THU: Đi Tìm Chiếc Lá Thu Rơi & Loài Hoa Dại Bên Đường -Lê Tuấn – Thơ THU HỜ HỮNG: Phạm Phan Lang – Ca Khúc THU HỜ HỮNG (Thơ : Pham Phan Lang. Nhạc : Vĩnh Điện) Ngọc Quy




THƠ SONG NGỮ Anh & Việt – Cao Mỵ Nhân & Thanh Thanh

CÚC CỐ NHÂN           

Anh về, yêu lại màu hoa cúc 

Rực rỡ bình minh lộng lẫy xuân

Cúc đỏ, cúc vàng chen chúc nở     

Phương trời như thiếu cúc tri âm

Anh giữ trên tay hoa cúc trắng      

Một cành đơn độc giữa phù vân    

Mây, hoa cùng thấy lòng hoang vắng

Từ thưở người đi đã cách ngăn      

Cố nhân cột tóc bằng nơ tím  

Áo tím làm xuân chợt thoáng buồn

Chiếc nón bài thơ quai lụa tím              

Hiên chùa cúc tím nhuộm hoàng hôn    

Ảo giác say hoa xưa bát ngát         

Chao ôi, ngày tháng cứ xa dần              

Hương gây mùi nhớ, thơm ngào ngạt    

Thanh sắc nào thay cúc cố nhân            

                       CAO MỴ NHÂN   

      OLD CHRYSANTHEMUM

Back home, I resume my love of chrysanthemums.

Red tansies, yellow tansies, do bloom as a whole

With their colors so radiant as when spring comes;

But this place seems to lack the flower of my soul.

I hold a white nice chrysanthemum in my hand,

The poor solitary blossom in this ephemeral state:

Clouds and flowers appear fallen in a forlorn land

Since my sweetheart and me are already separate.

The old lover used a purple tie to bind her hair rap;

Her violet dress suddenly caused spring to frown;

The poem-woven conical hat with purple silk strap

And the pagoda purple tansies imbrued the sundown.

So vast was my fancy addiction to this flower kind!

Alas, time has passed further and further, it by rolled.

The fragrance excites the recollections in my mind.

Which hue could replace my chrysanthemum of old?

Translation by THANH-THANH




Mùa Thu và Bộ Tách Trà – NGỌC HẠNH

Ngọc Hạnh

Ánh nắng bình minh nhẹ nhàng xuyên qua cành cây kẽ lá. Đàn chim tung tăng nhảy nhót, líu lo chào mừng ngày mới.Trên cao trời xanh trong vắt, các khóm hoa, bụi cỏ còn ướt hơi sương.Thu đã đến rồi. Những người đi bộ trên con đường trước nhà đều mặc thêm áo khoác nhẹ. Mấy khóm cúc vàng nở rộ khoe  sắc màu rực rỡ trông vui mắt, quyến rũ bướm ong.Từ mấy tuần trước chúng đã hé nụ vàng bé bé xinh xinh.Đó đây, siêu thị và những  nơi bán cây cảnh bày rất nhiều hoa cúc : vàng, tím, cam, trắng… Hôm qua đi ngang qua bãi đậu xe ngân hàng cũng thấy họ bày bán các chậu  hoa cúc lớn nhỏ bên cạnh đống bí đỏ xếp thành hình kim tự tháp.Hình người nộm thân bằng rơm, đội nón, mặt trắng môi đỏ, tay cầm cây gậy đứng bên các kim tư tháp bí đỏ. Mấy cây bắp khô cao, thẳng đứng bày bên cạnh các người rơm mang cà vạt bảnh bao.

Với tôi mùa Thu có nhiều kỹ niêm vui và buồn. Cách đây hơn 30 năm nơi xứ Cờ Hoa vào mùa Thu người bố yêu quý các con tôi đã rời bỏ gia đình thân hữu về cõi vĩnh hằng khi các con còn đang đi học. Buồn ơi là buồn. Mất bờ vai nương tựa, ai là người dìu dắt các con thơ nơi xứ lạ quê người. Mùa Thu năm ấy thật ảm đạm, buồn hiu hắt. Tôi làm việc như điên cho đến khi các con tốt nghiệp. Cũng may nhờ ơn trên các con có học bổng toàn hay bán phần và mọi việc rồi cũng ổn định, tôi có dâu, có rể, có cháu trai cháu gái. Khi cháu nội học lớp 1, tôi giữ phần đưa đón các cháu đi học vì lúc đó tôi đã nghỉ hưu. Tôi cũng thường theo cháu làm bảo mẫu khi cháu đi dã ngoại do trường tổ chức. Trường tư vùng Hoa Thịnh Đốn các lớp nhỏ từ lớp 1 đến lớp 4 thường được nhà trường cho đi dã ngoại vùng ngoại ô cách trường khoảng 1 tiếng lái xe hay hơn chút ít. Nơi đó các em được xem gà, vịt, ngỗng, heo, cừu thật chứ không phải chỉ thấy qua màn ảnh hay hình vẽ. Các học sinh còn được cho xem các cây con để trong nhà kính chờ ngày đem trồng xuống đất. Có khi các cô cậu tí hon được đưa đi sở thú xem cá, chim, rắn, voi… Vào mùa Thu các học sinh má phính môi hồng còn được nhà trường cho đi xem ruộng trồng bí đỏ. Những trái bí to được hái vào chất đống ở sân trang trại chờ đưa đi các nơi tiêu thụ, bán lẻ ở các siêu thị. Theo người chủ trại họ chỉ hái những trái bí to, những trái bé thì để cho lừa, dê, cừu ăn trước khi cho máy cày ủi, xới đất trồng mùa mới. Các em mầm non thích lắm nhưng nhà trường thì bận và cực hơn ngày thường.

Mỗi khi đi dã ngoại phụ huynh được nhà trường cho bảo mẫu đi cùng đứa trẻ nếu muốn và phải đóng số tiền nhỏ. Học sinh miễn phí. Lúc đi gần cả chục chiếc xe bus chở học sinh chạy trên đường một dọc dài trông thật vui mắt. Mỗi chiếc xe là một lớp học. Trên xe ngoài học sinh có 1 cô giáo và vài ba bảo mẫu. Thật ra cẩn thận thì đi theo để trông nom con cháu mình chứ các trẻ con Hoa Kỳ thường ngoan và nghe lời cô giáo. Trước khi lên đường các bảo mẫu được căn dặn tuyệt đối không cho trẻ em khác ngoài con cháu mình thức ăn, nước uống, kẹo bánh… Trẻ con Mỹ dạn lắm, thích là xin nhưng nên từ chối để tránh phiền phức có thể xảy ra.

Ngày còn ở Viêt Nam tôi nhớ hoc sinh Trung Học Saigon thỉnh thoảng được nhà trường cho đi cắm trại Biên Hòa, Thủ Đức hoặc Vũng Tàu. Tôi không nhớ các lớp nhỏ có được đi dã ngoại thăm viếng miền quê như trẻ em nước văn minh giàu có xứ Cờ Hoa không. Ở thành phố các em chưa bao giờ được trông thấy con cừu, con dê… tận mắt, sờ hay vuốt ve chúng nên rất thích khi được đi đến vùng ngoại ô.

Mùa Thu ở Viêt Nam cũng rất đẹp, dễ thương với khí hậu mát mẻ, ánh nắng nhẹ nhàng, chim bay bướm lượn,

trời xanh trong vắt không bị áng mây che khuất và nhất là một không còn cảnh “cái nóng nung người, nóng nóng ghê”. Mùa Thu cũng là mùa các giáo chức bận rộn chuẩn bị cho năm học mới. Các thầy cô giáo sẽ có  học sinh mới, nam và nữ. Thầy trò lạ lẫm buổi đầu nhưng nhanh chóng vào nề nếp, quen biết tính nết nhau. Vào đầu mỗi niên học có thêm một vài giáo sư, nhân viên mới và có thể thiếu vắng vài ba vị như về hưu hay đổi đi trường khác. Vị nào làm việc lâu năm cùng một trường mọi việc sẽ dễ dàng, và tình bằng hữu cũng thân thiết đậm đà hơn.

Viết đến đây tôi nhớ một đồng nghiệp cũ trường Trung Học NT Saigon và muốn rơi nước mắt. Chị ấy và tôi cùng dạy học chung một trường hơn 10 năm và chị đã vĩnh viễn từ bỏ trần thế cách đây hơn hai tháng. Chị Bích Hà ra đi ngày 14/7/21. Với tôi giống như chuyện chiêm bao vì chị ra đi thật bất ngờ: té, hôn mê, vào bệnh viện độ 1 tuần và đi luôn, không một lần tỉnh dậy để lại bao tiếc thương cho gia đình, bạn hữu, cựu môn sinh.

Nhà văn, nhà giáo, nhà báo Bùi Bich Hà dạy học trườngTrung Học Nguyễn Trãi Saigon gần 20 năm, được  học trò  yêu thương, đồng nghiệp quý mến… Tôi  ở trường Nguyễn Trãi khoảng 17 năm nhưng cùng thời gian với chị khoảng hơn 10 năm. Tôi đến trường trước chị và rời quê hương sớm hơn chị. Chị Bích Hà nhanh nhẹn, đảm đang, hoạt bát, tác giả nhiều truyện ngắn truyện dài, tươi cười, hay giúp đỡ người khác. Trước năm 1975 chị Bích Hà và tôi được ông Hiệu Trưởng cử học lớp “Hướng Dẫn Khải Đạo” tương đương counselor của Mỹ. Hai người cùng học một lớp, cùng giáo sư nhưng sang Hoa Kỳ chị tiếp tục làm người cho chi em bạn gái tâm sự, giữ mục “Bạn Gái Nhỏ To” cho tờ tuần báo có tiếng ở Cali. Còn tôi cũng có tờ báo đề nghị giữ mục “Tâm Sự Bạn Gái” nhưng biết thân, tôi đâu dám nhận lời. Chị viết đều đặn tờ cho báo Việt có nhuận bút, phát thanh hàng tuần cho đài phát thanh ở Cali, làm MC thành công cho các buổi “Ra Mắt Sách”, các buổi tiệc trong cộng đồng, họat động không ngừng nghĩ trong các lãnh vực văn chương, học đường, thường dự các buổi họp mặt với các học sinh trường cũ… Còn tôi, hởi ơi, chậm chạp, cù lần, viết có khi sai dấu hỏi ngã, may mà mấy ông nhà báo tốt bụng không rầy rà chỉ im lặng sửa những sai sót. Khác nhau như thế mà chúng tôi bạn bè hơn ½ thế kỷ.

Lúc định cư Hoa kỳ tôi ở miền Đông, chị ở miền Tây ít khi gặp nhau chỉ liên lạc qua điên thoại. Sau này nhờ khoa học tiến bộ chúng tôi có thể dùng điện thư hay gởi các tin nhắn (message) trong đôi phút đã nhận hồi âm, biết tin tức của nhau, không phải qua bưu điện chờ đôi ba ngày mới đến tay người nhận như xưa, cách đây 5, 10 năm. Gần đây chị than đau lưng không ngồi lâu được, đi châm cứu, dùng  thuốc Bắc sau khi đến các bác sĩ nổi tiếng Hoa kỳ nhưng chỉ bớt it lâu rồi lại đau. Tuy thế chị vẫn viết và đến đài phát thanh hàng tuần.

Vào tháng đầu 12/2020 tôi nhận được bộ tách trà và bánh ngọt do tiệm Quốc Việt Foods… gởi đến dù tôi không đặt hàng. Gọi Quốc Viêt hỏi thì ra của Bích Hà gởi tặng. Tuy đau chân, bân rộn nhưng chị Bích Hà vẫn nhớ người bạn ở xa, tôi rất cảm động. Bánh ngọt được tiêu thụ vì không thể để lâu nhưng bộ tách trà còn nguyên chưa mở. Tôi định chờ khi hết dịch cúm Bích Hà đến thủ đô sẽ khai trương, cùng nhau thưởng thức trà xanh với bộ ấm mới. Hởi ơi, nay Bích Hà mãi mãi đi xa, vĩnh biệt cõi trần. Người viết sẽ mang bộ tách trà tặng cho nhóm chị em Cô Gái Việt để khi chị em dùng trà nhớ đến nhà văn, nhà giáo, nhà báo hoạt bát, tươi cười trong mọi hoàn cảnh.

Xin cầu chúc người bạn viết nhanh nói khéo Bích Hà được an nhàn nơi cõi thọ và đồng bào Việt Nam, nhân dân thế giới luôn bình an, sống trong tình yêu thương, ấm no, hạnh phúc…

Tôi có mấy câu văn vần để tặng người bạn tốt đã vĩnh viễn ra đi:

           Nhớ Bùi Bích Hà

Thương nhớ Bích Hà người bạn hiền

Giã từ bằng hữu về cõi tiên

Con ngoan, cháu thảo, người tri kỷ

Vĩnh biệt từ nay hết muộn phiền

Tám mươi ba tuổi, hàng cao niên

Làng văn nghiệp báo vẫn còn duyên

Môn sinh độc giả nhiều thương tiếc

Cầu chúc bạn hiền vui cõi tiên

 VA, tháng 9 năm 2021 –  Ngọc Hạnh




Xin Được Làm Hạt Muối

Xin được làm hạt muối

Tan vào lòng biển khơi

Sài Gòn trong đau nặng

Thương lắm, đồng bào ơi !

Hạt muối không thêm mặn

Mà trọn vẹn nghĩa tình

“ Lá lành đùm lá rách “

Đùm mãnh đời điêu linh

Biết làm sao nói hết

Bần cùng bao phận đời

Vì ngăn sông cấm chợ

Đau qúa, Sài Gòn ơi !

Tri ân nhóm thiện nguyện

Cùng những lòng hảo tâm

Nhọc nhằn vượt rào chốt

Giúp mãnh đời tối tăm

Mỏi mòn gói trợ cấp

Đảng, Bác hứa giúp dân

Vì nặng “ơn Bác, Đảng”

Dân dài cổ ngóng trông

Đảng ra tay tàn độc

Đang cướp bóc dân lành

Trong vật tư y tế

Nơi trạm chốt vây quanh

Vì đâu mà nên nỗi

Cai trị bởi nhóm người

Gian tham và tàn ác

Đau lắm, Việt Nam ơi !

Đồng bào ơi ! Của tôi

Tiếng vọng buồn đâu đây

Thương người đi kẻ ở

Cánh chim đau lìa bầy

Biết bao giờ dân hiểu

Đất nước đang thụt lùi

Dập vùi bao thế hệ

Chỉ riêng lòng Đảng vui…?

San Jose, California 09/30/2021

Vệ-Trà Huỳnh Kim Anh

San Jose, California 09/30/2021




THƠ Tặng VTLV: Tháng Chín Họp Vui – DƯƠNG HUỆ ANH




THƠ: Đêm Thu Không – THƠ Xướng Họa: Đón Thu – Nhớ Huế – Mặc Khách & cao Mỵ Nhân




VĂN: CHIM BAY VỘI VÃ – CAO MỴ NHÂN 

CHIM BAY VỘI VÃ.     CAO MỴ NHÂN 

Còn 10 phút nữa mới 8:00 pm, trời vẫn sáng, mình vẫn thích cái không gian như vầy, mùa sắp vào hạ, nhưng sao mình vẫn lạnh, vẫn 3,4 cái áo len, thung nỉ…vẫn không rời đôi vớ. 

Anh chưa hề hỏi thăm mình nóng mùa hạ, lạnh mùa đông …bao giờ.

Còn mình, mình vẫn nghe rất rõ tiếng chim én rời tổ bay đi, chúng chỉ ở lại đây có đúng 3 tháng mùa xuân.

Mình vừa khép cửa sổ lớn trong phòng, ngó về phương nam, trời bắt đầu tối, ánh sáng nhá nhem, hay giờ gà lên chuồng như ở quê xưa thường nói thế. 

Một năm xa cách …Rồi sẽ 10 năm, và bao nhiêu năm sau chả biết, sẽ hết trăm năm. 

Anh là nhân vật tiểu thuyết của mình, nên có đứng sát bên mình, vẫn là xa cách. 

Anh thân kính ơi, tại sao chỉ với một bàn tay thôi, là chúng ta mở được cửa thiên đường hạnh phúc . 

Ố ô, lâu nay mình vẫn cảm nhận được điều hạnh phúc dù ở xa anh, mà vẫn tưởng anh đang ở cạnh mới tuyệt vời chi lạ.

Hôm qua mình gặp lại một nhà văn cũ, ông ta hỏi thăm một cách chân tình rằng: mình có vừa ý cuộc sống đương thời không? 

Mình hỏi lại để làm gì ? Ông nói vì thấy các nhà văn, các nhà thơ hay trả lời phỏng vấn, quý vị được hỏi thường chuẩn bị sẵn câu trà lời có lợi cho cuộc đời và sự nghiệp họ . 

Nhưng mình có là nhân vật được hỏi đâu, nên chả cần phải giữ gìn, mình nói với ông nhà văn nêu trên cũng rất chân tình: 

” Ông ạ, tôi thích cuộc sống này quá, chỉ sợ thời gian không kéo dài thêm cho tôi được sống mãi … như vầy thôi.” 

Ông nhà văn trố mắt nhìn tôi: 

” Ôi, lần đầu tiên tôi gặp một người, mà là nữ giới nữa, bằng lòng với số phận của mình. ” 

Chu choa, thì tôi có lúc tự hỏi là trên đường đời tôi đã đi qua, lên cao, xuống thấp đã từng, chắc tôi cũng đã so sánh phần nào số phận mình, để kết luận: tôi đang thực sự ” Yêu Quí ”  

thời gian này. 

Sau cuộc đổi đời 30-4-1975, là một Sĩ quan Nữ quân nhân chế độ cũ, tôi có 2 lần bị trả lời một câu hỏi, mà họ, bạo quyền cộng sản nghĩ là tôi không thật lòng khai báo . 

Câu hỏi được đặt ra như vầy:

” Chị cho biết thời gian nào chị sung sướng nhất, và thời gian nào chị …khổ sở nhất “. 

Khi đặt câu hỏi này, là người ta dư biết câu trả lời : 

Nó sẽ là sự miệt thị chế độ csvn, lòng hoài cảm chế độ cũ, VNCH. 

Để sau đó tuỳ cách ứng xử, nếu trong tù cải tạo thì theo luật rừng, mà ngoài xã hội thì theo luật …rú chẳng hạn. 

Tuy nhiên tôi đã nói thật với lòng mình, là cứ lấy cái mốc thời gian 1975  cho dễ hiểu. 

Thì trước 30-4-1975, cuộc sống tôi dư thừa vật chất, chan hoà phương tiện. Nhưng tinh thần tôi, đúng ra là tâm tư tình cảm tôi rất không như ý, vì ông xã tôi quá hào hoa phong nhã, nên tình chồng vợ có hao hụt ít nhiều.

Sau 30 -4 -1975, cuộc sống vật chất hoàn toàn phá sản. Nhưng tinh thần tôi, vẫn tâm tư tình cảm thôi nhé, thư giãn ít nhiều, vì ông xã tôi trực tiếp chấm dứt tình trạng phong lưu, hào phóng, cuộc sống gia đình yên ổn phần nào. 

Theo như nhận xét của chị, thì ngoài xã hội đang khó khăn, vất vả hay sao ? 

Tôi nghĩ đó không phải đặt ra câu hỏi, vì ai trong xã hội đương thời ( CSVN )đều biết cuộc sống trước mặt. 

Thế rồi thì tôi dù muốn dù không, bị cuốn vào cái xã hội mà chủ trương của nó là tôn sùng vật chất. 

Như lý luận học thuyết duy vật, mà biện chứng, lý giải thì hẳn là điều không khốn khó, khổ cực, sẽ không phải phương châm đấu tranh của họ. 

Tới lúc tôi thèm nhìn một cánh diều trên đồng cỏ cháy nơi nông trường Tây Nam, buổi trưa ngồi giữa nắng chờ nghe tiếng chim bay vội vã lên núi Bà Đen, lòng trống trải buồn vô hạn. 

Ông xã tôi đã trên đường vượt biển, để lại cho tôi nỗi mông mênh chán nản . 

Câu chuyện sướng khổ vẫn được nối tiếp theo những trang nhật ký, mà tôi nghĩ rằng nếu có bị bạo quyền phát giác, trong nhật ký cũng chẳng có gì động chạm tới xã hội của họ. Bởi vì điều quan trọng nhất đối với tôi, vẫn là tâm tư, tình cảm

bỗng như bị bỏ quên, như mất mát, mình không có một hình ảnh, một lời nguyền đúng nghĩa trong tâm tưởng. 

Tôi có lại cuộc sống trước 30-4-1975, giống một bức tranh có đường nét cũ, nhưng mầu sắc mới, khi tôi đến được Hoa Kỳ. 

Tất nhiên thời gian chồng chất thêm, tuổi tác cũng bắt kịp chuỗi ngày vội vã, thực dụng, tưởng như không thoát ra được cái khuôn sáo xã hội mới mẻ, bởi vì còn nơi nào khác nữa để tái định cư vui vẻ, tươi đẹp hơn xứ Mỹ này chớ. 

Nghĩa là muốn gì có nấy, thích chi thì làm, nhưng phải trong điều kiện không chạm tới quyền lợi của ai. 

Do đó, tôi lại đi tiếp con đường của tôi.

Nhìn lại hành trình, có vẻ ngắn bớt, hành trang thì bỏ đi nhiều, nên tôi cảm thấy nhẹ nhõm, tha hồ tung tẩy như thủa mới vào đời. 

Có một điều ít ai để ý, là hình như mình biến thành vai phụ trong chính những công việc của mình. Đôi khi mình không tự quyết định công việc mình sẽ làm, mà cứ phải hỏi thăm hay nhờ vả người thân hoặc bạn bè giúp đỡ. 

Tức là đang ở trạng thái không đứng vững, hay không chắc chắn đúng, thế nên cuộc sống cũng bớt đi phần nào vui vẻ lạc quan kiểu  ngày xưa. 

Như vậy lại tự hỏi là: Thế có thể làm được gì khác hơn hoàn cảnh hiện tai ? 

Ở thời điểm tôi bây giờ, tôi thẳng thắn trả lời: ” Chẳng làm được gì cả đâu, hãy giữ gìn sức khoẻ để không bị đau ốm, làm phiền con cháu thôi ” .

Nhà văn xưa mới tái ngộ cười: Bà nói đúng, ngay đến thế hệ sau chúng ta cả chục năm, chúng đã sớm có tư tưởng về hưu rồi . 

Thế nên tôi mới nói ở trên là tôi đang thích cuộc sống này, chưa hoàn hảo lắm, nhưng thực sự thoải mái, thảnh thơi …

Với tôi, còn có thì giờ mơ mộng nữa chứ …

              CAO MỴ NHÂN 




VĂN: Từ Bến Sông Thương & Chapa Dang Dở – Cao Mỵ Nhân

Nguồn ảnh: Internet

TỪ BẾN SÔNG THƯƠNG.     CAO MỴ NHÂN 

Vào khoảng giữa thập niên 80 thế kỷ trước, nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội ( 1914 – 2007 ) nói với tôi là bà sẽ cùng tôi đi lang thang thăm các văn nhân thi sĩ lớn tuổi, ở cả 2 miền nam bắc mà bà quen biết. 

Tôi rất hào hứng chờ dịp đi ” lang thang ” này. 

Trước nhất, tôi khỏi cần phải đọc sách báo, mới biết được thân thế và sự nghiệp một nhà văn, thơ nào đó mà mình muốn tìm hiểu, hay là muốn ” tham khảo” để định viết lách gì đó . 

Kế tới,  là tự nhiên tôi không cầu cạnh được giới thiệu, hay muốn diện kiến dung nhan quý vị tên tuổi ấy, mà bỗng nhiên được thấy tận mắt quý vị danh tiếng như các cụ Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Đông Xuyên, Bàng Bá Lân …vốn sống ở trong nam. 

Các vị nổi tiềng từ tiền chiến, như Thế Lữ, Anh Thơ… vốn sống ở ngoài bắc, sau 30-4-1975 lại vô nam cư trú vv… 

Người đầu tiên là nữ sĩ Anh Thơ ( 1921 – 2005 ), vì nhà bà ấy  ở số 11 đường Thiệu Trị, gần với biệt thự Úc Viên, cuối đường Nguyễn Mình Chiếu, của nữ sĩ Mộng Tuyết và cố thi sĩ Đông Hồ, giáo sư Hán học trường Đại học Văn Khoa Saigon trước 1975 . 

Mỗi lần đi như thế, nếu gần thì đi bộ lai rai, xa thì ngoắc cyclo chạy lài dài, thích lắm . 

Tôi thua bà đến ba chục tuổi, nên được hội thơ Quỳnh Dao của chúng tôi, do tôi tôn phong nữ sĩ Mộng Tuyết là niên trưởng kỳ 3, tức sau 2 vị niên trưởng đã quá cố : nữ sĩ Cao Ngọc Anh và nữ sĩ Đào Vân Khanh.

Quý vị hội viên coi tôi là em út Quỳnh Dao, đồng thời tôi là ” cây gậy ” của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội luôn. 

Do đó, đi đâu tôi cũng được vời tới …

Tuy nhiên, cũng là sẵn dịp vừa từ tù cải tạo ra, tôi chưa có công ăn việc làm, mới rảnh rang như thế, chứ sau này tôi đi làm rồi, thì rong chơi làm sao được nữa. 

Từ cái thập niên 30, nhị vị nữ sĩ: một trong nam Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, một ngoài bắc Anh Thơ, đã làm nổi đình đám thơ phụ nữ của nền thi ca mới, không bay bướm, sâu xa được như quý nam thi sĩ cùng thời: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, không trẻ trung, nội tâm được như Nguyễn Bính, Thâm Tâm vv…

Nhưng nhị vị Mộng Tuyết, Anh Thơ, lại mỗi người tự trải cho mình một cái chiếu thi ca riêng biệt trong làng thơ bấy giờ . 

Đi song song với quý nữ sĩ đương nêu, về thơ thôi, thì còn có các nữ tác giả khác như Hằng Phương ( phu nhân nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan) Vân Đài ( sau theo Bác Đảng 

CSVN cùng với nữ sĩ Anh Thơ) .

Cũng thời tiền chiến đó ( trước 1945 ), 2 cây bút nữ thi sĩ rất đáng trân trọng, quen thuộc trên cả nước là Ngân Giang và Tương Phố . 

Tất nhiên còn quý vị nữ thi sĩ khác nếu có, không nổi bật lên, chẳng hạn Mai Đình ( một trong số nữ nhân vật của nhà thơ hẩm phận Hàn Mặc Tử) vv…

Vì chỉ nhắc tới thi ca, nên quý vị nữ văn sĩ cùng thời hoặc xê xích, như quý bà nhà văn Thụy An , Mộng Sơn, Nguyễn Thị Vinh, Lính Bảo ( sau 1945 ) . 

Thi ca phái nữ VN thập niên 30 thế kỷ trước, có một sự kiện riêng biệt, một huyền thoại, mà khởi sự thì như một hiện tượng lạ, sau mỗi lúc mỗi huyễn ảo hơn, bởi cái tên ký tắt kín đáo, và nội dung không mới mẻ, nhưng đi vào đại chúng lan rộng mau chóng, đồng thời năm tháng cứ chất chồng thêm những bí ẩn của tác giả, chứ không phải câu chuyện. 

Đó là hiện tượng TTKH với hình ảnh ” Hai Sắc Hoa Tị Gôn ” .

Tôi đi hơi xa về mục đích bài viết này. Tôi chỉ muốn ghi một chút kỷ niệm về nhị vị mang chính danh nữ thi sĩ trên thi đàn thế kỷ vừa qua thôi : Mộng Tuyết , Anh Thơ.

Tất cả những chi tiết như khuynh hướng thơ, sự nghiệp thơ, cuộc đời nhị vị ấy, thì đã đầy đủ trên sách báo vv…

Có chăng là một thoáng gần cuối đời quý bà, mà tôi có cơ hội gặp gỡ. 

Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội và tôi đã ngồi trong căn nhà nhỏ thôi, tầng trệt và cái lầu có ban công hẹp, bình thường . Tất nhiên nhà đó là của một gia đình trung lưu miền nam, đã bỏ đi ngoại quốc,  vì cộng sản Bắc Việt xâm chiếm miền nam. 

Nữ sĩ Anh Thơ theo ” cụ Hồ” cùng với bà Vân Đài, mà tôi chẳng rõ văn nghiệp bà này thế nào . 

Riêng bà Anh Thơ thì lặn lội theo đảng, theo thâm niên và tuổi tác bà đã lên tới chức ” thứ trưởng hàm” như một số văn nghệ sĩ tiền chiến theo Việt Minh lúc đầu , sau theo cộng sản là lẽ đương nhiên, như thi sĩ Huy Cận chẳng hạn.

Tức là cái chức để đó cho có vị , chớ chả có quyền hạn gì. Một nữ thi sĩ kiêm họa sĩ miền nam đã thản nhiên kêu đích danh nhà thơ Anh Thơ là ” Thợ thơ bậc 7 “cho phù hợp với giai cấp công nông đi lên. 

Nữ sĩ Mộng Tuyết giới thiệu tôi, Cao Mỵ Nhân, nguyên là thiếu tá VNCH, ngành Chiến Tranh Chính Trị , đã xong chuyện đi tập trung cải tạo về. 

Bà Anh Thơ im lặng một lúc, rồi cười cười kêu tên tôi, bà xưng là ” chị” như tất cả các nữ sĩ trong hội thơ Quỳnh Dao đều xưng ” chị ” với tôi . 

Bà “Thứ trưởng văn hoá” hay “Thợ thơ bậc 7 ” do thi họa sĩ XXX đặt cho bà, vốn có cái tên rất ” mĩ miều xa xưa” do cụ thân sinh đặt cho là Vương Kiều Ân.

Sau, dầu muốn tham gia kháng chiến, để có vẻ tân thời, phá khuôn thước phong kiến, nhưng trong lòng vẫn thích là  mệnh phụ phu nhân như hầu hết quý nữ sĩ ở thi đàn Quỳnh Dao. 

Chẳng hạn như nữ sĩ Vân Nương phu nhân luật sư Lê Ngọc Chấn, nguyên đại sứ VNCH ở Anh và Tunisie, như nữ sĩ Thu Nga phu nhân của kỹ sư Lương Sĩ Phu, như nữ sĩ Đinh thị Thục Oanh phu nhân của giáo sư thi sĩ Vũ Hoàng Chương vv…và hàng chục phu nhân quý vị tên tuổi khác …

Nên sau này bà thường tới dự tiệc ở các khuôn viên quý bà Quỳnh Dao . 

Bà kể lại giai đoạn bà được giải thưởng thơ của Tự Lực Văn Đoàn, và tìm cái bằng ghi giải thưởng thơ đó, do 3 thi sĩ ký tên là : Tú Mỡ , Thế Lữ và Xuân Diệu. 

Khi tôi đi Mỹ theo diện tị nạn, thì có mấy diễn đàn báo chí đang tranh luận là : Xuân Diệu có trong Tự Lực Văn Đoàn không ? Lý do cặp bài trùng thi sĩ lớn Huy Cận, Xuân Diệu như chim liền cánh, mà sao chỉ có Xuân Diệu trong Tự Lực Văn Đoàn là thế nào ? 

Nhà văn Đặng Trần Huân nêu chi tiết, là Cao Mỵ Nhân đã nhìn thấy tấm bảng ghi giải thưởng thơ Tự Lực Văn Đoàn do 3 thi sĩ nêu trên ký ở văn bằng nữ sĩ tiền chiến Anh Thơ, tất thi sĩ Xuân Diệu là thành viên Tự Lực Văn Đoàn. 

Như trên tôi đã trình bầy, là hậu tù cải tạo, tôi chưa có việc làm, nên cứ thế rong chơi. 

Nhị vị nữ sĩ Mộng Tuyết và Anh Thơ đều đề nghị tôi nên tới giúp bà Anh Thơ cái việc đọc lại những trang nhật ký của bà Anh Thơ đang viết theo yêu cầu của đâu đó ngoài trung ương, viết hồi ký mà có tiền …lương mấy đồng một trang, tôi chả nhớ . 

Tôi đang phây phây mỗi sáng ghé nhà bà Anh Thơ để đọc những trang bà viết, cũng chỉ là đường trường đi…cách mạng, xem một số chấm, phẩy , câu cú vv… văn phạm, chính tả sơ sài. 

Đương nhiên cũng có lúc tôi ở lại chơi, cơm nước vv…vì bà chỉ có một mình với cuốn nhật ký dở dang. Phu quân bà lúc đó là bác sĩ trưởng khoa thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy. 

Tôi chẳng tò mò, nhưng tình cờ một lần nữ sĩ Mộng Tuyết kể rằng vị bác sĩ ấy nguyên xưa là y tá bệnh viện Chợ Rẫy tập kết ra Bắc năm 1954, nay trở về tiếp thu và được nhận ngay chức trưởng khoa thần kinh như đương nêu . 

Đã gần xong cuốn hồi ký ấy,có thêm một thanh niên tới đánh máy kiểu tạch tạch ngày xưa cho tác giả Anh Thơ . 

Phút cuối cùng kêu rang rảng, là bà hỏi tôi nên đặt tên cho cuốn hồi ký đó là gì ? 

Bà đã đặt cho hồi ký cái tên đằng đằng sát khí là: “Sống Chiến Đấu ” , chỉ còn thiếu mấy chữ ” theo gương bác Hồ ” nữa là đúng cái câu hằng ngày của đảng bà : ” Sống chiến đấu theo gương bác Hồ vĩ đại…” vẫn nói. 

Tôi chưa định trả lời thế nào, thì nữ sĩ Anh Thơ tiền chiến chợt nhớ ra, bà nói: ” ngày xưa nhà mình ở nơi có dòng sông Thương chảy qua đấy ” …

Thế là tôi đề nghị bà Anh Thơ đặt cho hồi ký bà : ” Từ Bến Sông Thương “, tôi giải thích đã hết chiến đấu rồi, chị cũng muốn kỷ niệm ” Từ Bến Sông Thương” đó chị thoát ly theo …cách mạng vậy . 

Bà Anh Thơ thú vị lắm, đã hoàn tất có lẽ là tập 1. Còn tập 2 đang coi lại . 

Tôi được nữ sĩ Mộng Tuyết kéo vào một nơi yên lặng nhất của Úc Viên, tư thất của nữ sĩ , dặn dò rằng : ” Thôi Cao Mỵ Nhân đừng ghé nhà chị Anh Thơ nữa, bà ấy là bà Anh Thơ, không giữ được bản lãnh như những người mình đâu, bà ấy nghe ông Thọ nào đó, vừa từ Bắc vô, nói rằng tại sao chị dám để một sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị địch đọc hồi ký trước khi phát hành . ” 

 Chu choa cũng may cái mối thân tình của nữ sĩ Mộng Tuyết với bà Anh Thơ lâu năm, chứ không thì họ vu vạ cho tôi tệ hơn nữa cũng chẳng kêu trời được . 

Tiếp theo, có một bữa tiệc  ở Úc Viên, cả bà Anh Thơ lẫn tôi đều có cách nhìn là muốn chào nhau mà cứ ngần ngại, tuy nhiên tôi chỉ là ” chiếc gậy “của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội niên trưởng Quỳnh Dao của chúng tôi, việc tới lui với bà Anh Thơ cho dù có thuận thảo, cũng chỉ là thứ yếu …

                      CAO MỴ NHÂN 

=================================================================

CHAPA  DANG DỞ.     CAO MỴ NHÂN 

Trở lại Chapa năm nay, có lẽ là lần cuối tôi với chàng không còn cơ hội gặp nhau nữa.

Tại sao tôi có ý nghĩ này, bởi lý do rất khách quan, là cả chàng lẫn tôi đều chán nhau đến độ tôi cứ nhìn đồng hồ xem đêm đã hết tới đâu.

Tiếng tích tắc của chiếc kim đếm thời gian, như tiếng búa đóng đinh trên nắp quan tài tình ái rỗng tuếch, trái với ước mơ thủa ban đầu, những cặp tình nhân thường thiết tha thổ lộ : ” Chúng mình sẽ chết cùng nhau trong một huyệt mộ ” .

Mùa xuân này hoa đào vẫn nở như những mùa xuân trôi qua thung thổ núi rừng  Chapa, khi tôi được sinh ra, lớn lên, trong bầu không khí ẩm ướt quanh năm .

Tôi bỗng muốn khóc thét như những cô nàng Mèo đến tuổi cập kê xưa, hay khóc oà ra như trẻ thơ thèm sữa mẹ quá, mà người mẹ đi mãi không về. 

Mùa xuân ư ? 

Mùa xuân ở một miền lâm nguyên xa nhất, cao nhất đất nước Việt Nam . 

Quý vị sẽ cười mỉm, rồi nói rằng: ” Lâm nguyên nào mà chẳng ở xa nhất so với nơi chúng ta đang sinh sống thường ngày, thí dụ người ở Cao Bằng nhìn về Đà Lạt . Hay người ở Cà Mâu ngó tới Lạng Sơn chẳng hạn …” 

Nhưng cao nhất, thì không thể lý luận chung chung thế được, cao nhất hay không, phải so từ mặt đất xuống bờ đại dương chứ . 

Đại dương là cái bình thông đáy khổng lồ, tuy nó được Thượng Đế cho hiện hình theo độ cong của địa cầu, nhưng tôi không dám lan man …

Tôi chỉ đang muốn tưởng tượng lại chốn xưa, nơi tôi được sinh ra : Chapa như nêu trên, danh xưng nghe tưởng là câu thần chú nhật tụng mỗi lần tôi nhớ lại, tưởng tượng thêm, vì mỗi ngày mỗi chồng chất thêm năm tháng . 

Bức thư của người Chapa gởi cho tôi, bảo rằng : 

” Cô có về không, cả một phương trời đầy hoa anh túc, đa sầu đa sắc, đã tất cả cùng phai như mầu tóc thượng tầng cao nguyên Xuân Viên, làng nghỉ mát Chapa, Đông Dương…” 

Ôi sao chúng ta cứ phải níu kéo dĩ vãng cả trăm năm trước thế ? 

” Thế cô không nhớ tôi là chàng a phủ thời đó ư ? 

Hãy lắng lòng thêm một chút nữa, hình ảnh mùa xuân đầy khói sương đã huyễn hoặc chúng ta cho đến giờ này, dẫu cô đang xa cách thiên đường chúng ta cả nửa vòng trái đất, tôi vẫn bồi hồi xúc động, nhớ nhung… “

Tôi chạnh nhớ tới mùa xuân sau cùng, khi bố mẹ tôi quyết định rời bỏ Chapa , đưa chị em tôi về suôi . 

Tức là sau mùa xuân năm đó, chúng tôi đã ở đồng bằng . 

Mỗi lần mẹ và chúng tôi, ngước nhìn trời mây châu thổ bay về hướng núi xa xôi, tất cả đều buồn, chị lớn tôi tên Thy , lại kể chuyện Chapa, làm  như chỉ có mình chị Thy tôi biết : 

” Có nhớ không, cái đám rước từ lòng rừng ra khỏi dốc hoa đào, ngang cửa nhà mình, tiếng kèn Mèo quyện vào tiếng thanh la, rung cả nhà cửa, em Mỵ , là tôi đấy , sợ quá , 2 tay bịt mắt lại , chúi xuống gầm bàn …” 

Bà cô tôi đang lo tết nhất nhà quê ngoài Bắc, dừng tay quấy nồi chè kho, là chè đậu xanh đánh như chè Huế, nhưng bỏ mật ( mật là loại đường đen lỏng ) hỏi chị Thy  tôi:

” Vậy người Mèo thế nào ? Ăn mặc thế nào ? Dữ hay hiền ? ” 

Người Mèo ở độ cao nhất các thứ người thiểu số đó . 

Họ dệt vải ” thổ cẩm ” chủ yếu  có 3 mầu thôi, đen , đỏ và chàm. 

Thấy trong đám rước hôm đó, đàn ông mặc quần, áo lá, đàn bà mặc váy , áo lá . 

Đó là ngày xa xưa, chứ bây giờ, thanh niên dân tộc thiểu số đã văn minh, mặc quần jean, áo thung, xe honda  leo núi như điên rồi .

Đám rước gồm đàn ông, đàn bà đi hàng dọc lộn xộn, đông độ mấy chục người thôi, không có người già quá, cũng không ai bế ẵm con nít quá nhỏ đi theo. 

Họ đi suốt con đường chính của thành phố Chapa mà thủa đó kéo dài cho tới bây giờ, cơ sở đẹp nhất vẫn là ngôi nhà thờ xây bằng đá . 

Ở ngay cửa ra vô lòng nhà thờ , có cây hoa đào cánh kép . 

Đám rước  xuống khu chợ, dừng  ngang nhà bà đồ Mèo . 

” Bà đồ Mèo ” là tiếng của người Kinh gọi bà người Mèo, bà chuyên nghề ” xỏ lỗ tai ” cho các cô bất kể Kinh Mèo…và nhất là các bé gái .

Chị em tôi cũng được mẹ dẫn tới xỏ 2 lỗ tai để đeo khuyên bạc với kiềng bạc như tất cả chị gái và bé gái ở Chapa xưa. 

Bà đồ Mèo bỏ rừng ra thành phố lập nghiệp ” xỏ lỗ tai ” . 

Bà đồ Mèo lấy một chiếc kim may nhỏ đã luồn sẵn một sợi chỉ tơ trắng ngả mầu cháo lòng làm dụng cụ xỏ tai. 

Điều quan trọng là bà đồ Mèo chỉ dùng 2 đầu ngón tay cái và trỏ bên tay trái, bóp vào trái tai, giữ yên đó, xong tay phải cầm cây kim may  kể trên . 

Đoạn bà xuyên cây kim qua trái tai đang có 2 ngón tay bà giữ, cho cây kim chui qua hẳn lỗ nhỏ với sợi chỉ tơ để một khúc chỉ nối lại, đánh dấu 2 lỗ tai của khách hàng .

Cho tới khi lỗ tai tự lành, cắt chỉ toong teng, còn lại 2 lỗ thủng ở 2 trái tai sẵn sàng đeo đôi khuyên bạc như tất cả con gái Mèo . 

Cứ cách xỏ tai chuyên nghiệp đó, bà đồ Mèo là người duy nhất làm nghề quen thuộc này ở Chapa.

Thái độ nửa tỉnh thành, nửa man dại của bà đồ Mèo, đã hấp dẫn hầu hết khách bất kể ai muốn xỏ lỗ tai. 

Bữa có đám rước nêu trên, bà đồ Mèo kê ngoài cửa nhà một cái lu bự đựng nước mưa trong veo, gác mấy cái ống bương đã được cưa mấy đoạn có cái mắt bương, để làm đồ dùng múc nước  uống, như ở miền suôi họ có gáo dừa múc nước .  

Đám rước Mèo dừng lại, mấy người thay nhau uống nước . 

Rồi theo nhau líu ríu trở vô rừng đang có chút nắng xuân . 

Chắc bộ lạc ấy cũng đông, ước độ vài trăm người.  

Cuộc sống lẩn khuất, huyền bí của họ , chẳng làm phiền ai. 

Sa Pa  trẻ trung bây giờ là hậu thân của Chapa già lão  cỗi cằn, mà tôi cứ thương nhớ mãi . 

Trung Tâm Du Lịch Sa Pa lâm nguyên, như cô gái  tầm xuân, cứ lượn lờ trước mắt khách du, không sao tìm được quá khứ, cho dẫu quá khứ đó không đẹp, huống chi quá khứ đó lại quá tuyệt vời . 

Tôi cúi xuống thau nước ấm mùi hoa đào, che dấu những giọt nước mắt não nùng đang lã chã tuôn rơi…

Thì cũng phải  ra phố một lần trước khi vĩnh viễn chia tay. 

Tôi thay chiếc áo lụa bạch, mầu tóc cũng lạt phai như tình ái cuối mùa tang chế…

Chàng đăm chiêu buồn, chắc đang tưởng nhớ thời gian chúng tôi gặp nhau ở “chợ tình ” . 

Nghĩ đến ” Chợ Tình “, tôi lại buồn cười . 

Sự thực cách đây hơn nửa thế kỷ, không ai nói hay là nhắc tới, bởi lẽ khi người Pháp còn trên đất nước VN nói chung, và ở Chapa nói riêng, Chapa do tên Tây đặt cho phần đất mà họ gọi là ” Làng nghỉ mát ” để những ông tây bà đầm đi du lịch hay dưỡng bệnh . 

Nếu đúng dịp 14-7 dương lịch hàng năm, thì những người Tây đó họ tổ chức tiệc tùng vui chơi kỷ niệm ngày phá ngục 

Bastille 14-7-1789, dựng Khải Hoàn Môn ở Paris. 

Họ căng dù mầu, kết hoa, rượu Tây, bánh ngọt vv…

Người Kinh và người Mèo thường nói ” ngày hội ” Cát tó zdu zdee ” có nghĩa ” 14 – juillet ” vậy thôi. 

Danh xưng ” Chợ Tình Sa Pa ” sau này như một hứng thú với khách du lịch trong và ngoài nước, âu là cái số lãng mạn cho một thành phố núi rừng thời đại . 

Rằng nơi đó, chợ tình nhóm họp ở vài chỗ công cộng trong thành phố . 

Nơi nam nữ thanh niên có thể tới đó gặp gỡ, hẹn hò vui vẻ, và cũng đã từng người bản xứ vừa ý, nên duyên chồng vợ . 

Ở Praha Tiệp Khắc có ” Cầu Tình “, nhưng chiếc cầu này chỉ có những nghệ sĩ lãng tử ngồi đàn ghi ta, phong cầm dửng dưng, ai muốn nghe thì nghe, không hề thấy những đôi nhân tình tới đó ngó mây trôi dưới đáy sông. 

 Bất giác tôi mỉm cười nhẹ như hơi gió bấc thổi tới lâm nguyên lạnh lẽo, buồn bã: 

” Anh ạ, hương hoa anh túc sẽ ủ hồn em cho tới khi Chapa tan vào khói sương nha phiến …”

Chàng hôn khẽ vào đôi mắt mờ lệ tủi, tại sao tôi phải khóc khi chính nguyên nhân giã biệt không cần phải đặt ra. 

Như thế nghĩa là sao ? 

Có ai bắt buộc chàng và tôi phải xa nhau vĩnh cửu trọn đời này ? Ôi, câu hỏi tự nó trả lời rồi. Đất trời đã là vực sâu ngăn cách đấy . 

Chẳng lẽ tôi ở lại đây ? 

Còn chàng, thì chẳng lẽ theo tôi đi đến cuối trời xa tít mù khơi ư  ? 

Tức là chúng tôi thiếu sức khoẻ, hay nói thẳng ra chúng tôi không còn tuổi trẻ để trang trải tình yêu say đắm hương xuân của hoa rừng ngạt ngào, trên những vạt cây anh túc muộn phiền mê muội . 

Nhưng sao cứ mỗi mùa xuân về, tôi cứ phải gặp lại Chapa, 

vì tôi không có gì ngoài Chapa làm vốn liếng  . 

Tôi chỉ có vùng trời đó, phần đất đó làm vốn liếng cho tư duy, nuôi dưỡng tâm tư tình cảm tôi, điều sáng rỡ lấy làm hãnh diện cho tôi bầy tỏ với mọi người . 

Tôi đứng ở biên đình, như một người sống giữa quê hương, đợi khách lỡ viễn phương, cả hai đều mang tâm sự về Sa Pa dang dở . 

Biên giới hoa đào đã khai quang lãnh địa. 

Ngày xưa chỉ toàn một mầu hồng phấn miên man, thủa nguyên sơ tĩnh lặng không một dấu thú hoang, vì là rừng cảnh, nên chỉ có vết hoa rơi ướt hài khách văn nhân, tài tử . 

Khi ra khỏi nhà ở cửa rừng hoa đào cánh kép, con dốc đổ xuôi hình thước thợ . 

Đó là đoạn dốc ngắn trước cửa nhà ba tôi. 

Ngôi nhà với 3 mặt lắp kiến  dày, và phần lưng nhà thì lại là vách núi cheo leo. 

Cuối đoạn dốc, rẽ qua tay trái, bắt đầu đại lộ chính của Sa Pa, cũng dốc, nhưng thẳng tắp, đại lộ này đã có lần thật xa xăm, bà vú em bồng tôi trên tay, để bước theo đoàn rước của người Mèo, vào mùa xuân năm ấy. 

Chị Mỹ tôi đang được cha cố người Pháp làm lễ rửa tội , và cả gia đình bố mẹ tôi thủa ấy đang sắp sửa bữa tiệc trưa nơi sân nhà thờ đá, để hân hoan mừng đón ân sủng của Chúa vừa cho chị Mỹ tôi trở lại đạo . 

Chị Mỹ tôi bây giờ không còn nữa, nhưng hình ảnh bé gái mũm mĩm mặc áo dài, tóc bum bê, mở to đôi mắt nhìn cha cố 

đọc những lời ” mặc  khải  ” của  Thiên Chúa tối cao, lại khiến tôi thương nhớ Chapa thần thánh nhiều hơn. 

Tôi thở dài, nhà thờ đá vẫn hiện thân của một thời xưa cũ không thay lòng đổi dạ. 

Nhưng sao tôi vẫn thấy lòng mình chẳng vẹn toàn .  

Thế là tôi từ giã chàng, người tình Chapa nguyên thuỷ của tôi, cũng sẽ là người tình muôn đời chỉ hiện diện trong ký ức xa mờ . 

Tôi cúi xuống ven đường vòng quanh Cát Cát, hái một nụ hoa sún mầu xanh biếc, hoa dại chưa từng ai đặt tên, tôi thầm thì nói thật nhỏ, nhỏ thêm chút nữa, bởi vì nếu tôi có nói lớn hơn, cũng chẳng có ai nghe, Chapa sẽ bị chôn vùi cùng cát núi, cỏ rừng …

Tên tuổi nó, mang hình ảnh chàng ta đang lịm chết dưới tảng đá khổng lồ, vô cùng trừu tượng ở muôn xưa Fang ci Pan.

Đã từ nửa thế kỷ trước, người ta khoác cho nó một cái tên hiền lành nhưng thơ mộng là Hoàng Liên Sơn hay Núi Sen Vàng.

 Khi tôi đứng cạnh anh, tôi chỉ là tấm bia đá sầu  ghi nhớ cuộc tình si thung thổ của lâm nguyên này .

Chiếc xe rời khỏi cầu Mây, tôi bâng khuâng tự hỏi: ” Tới bao giờ trở lại ? Ô hay vĩnh biệt rồi mà . ” 

Dẫu không tử biệt, cũng là sinh ly. 

Trăm năm như một luồng gió thổi qua vách núi, mang khí lạnh về suôi, không có một hơi ấm nào ngoài năng lượng của mặt trời, ấp ủ tình yêu mất dần ý nghĩa : Chapa huyền thoại đâu còn nữa, chỉ có Sa Pa huyễn hoặc ở thủa này . 

               CAO MỴ NHÂN 




Chùm THƠ Trăng Và Mùa Thu: Lê Tuấn + Minh Thúy + Hoàng Mai Nhất + Thái Phạm + Phương Hoa

Nguồn ảnh: internet




THƠ Song Ngữ Việt + Anh “CÂY MÙA THU VỚI NGƯỜI” Hùynh Mai Hoa &Thanh Thanh

CÂY MÙA THU VỚI NGƯỜI

Cây đã sống qua mùa đông rét mướt

Hứng tuyết sương nuôi cành mới đâm chồi

Trong âm thầm nắn nót nụ hoa tươi

chờ dâng hiến cho đời bao sắc thắm

Cây đã sống qua muà xuân êm ấm

Ðón nắng hồng tô màu lá thêm xanh

Ðón gió đưa nhè nhẹ lá ru cành

Cành với lá nâng niu chùm hoa nở

Cây đã sống qua muà hè nắng đổ

Chở hạ vàng trên thân nám da khô

Vẫn hoài mong cho trái chín ai chờ

Trái ngọt mát dù thân cây cằn cỗi

Cây đã sống qua mấy muà thay đổi

Xuân có vui và Ðông có lạnh lùng

Giữa hạ nồng cây có khát hay không?

Khi đã vắt cho đời bao giọt nước

Cây có mỏi, nên khi hè vừa bước

Thu vội về để nhận lá vàng rơi

Thu ru cây ngủ giấc chết bên đời

Tìm nhựa sống mong ngày hồi sinh mới

Người nhìn cây có bao giờ tự hỏi

Cây với người ai gian khổ hơn ai?

Lá trên cây còn có những lần thay

Người trọn kiếp được mấy lần ngơi nghỉ

Nếu người được muà thu ru giấc ngủ

Rũ nhọc nhằn năm tháng bám trên vai

Người sẽ đi không ngại quãng đường dài

Ðể làm lại những gì còn đổ vỡ.

                    HUỲNH MAI HOA

AUTUMN TREES AND HUMANS

Trees have passed through the cold winter,

To nourish budding branches, receiving mist and snow.

In silence they create fresh flowers

To offer life so many beautiful colors to glow.

Trees have experienced the warm spring,

Welcoming rosy sunlight greener leaves to render,

Hosting the wind to softly lull the boughs

As twigs and blades cosset the blooms’ splendor.

Trees have subsisted through the sand season,

Bearing summer on trunks tanned and barks dry,

Still waiting for ripe fruits so long longed for,

The fresh sweet produce, being stunted to defy.

Trees have survived so many changing periods,

Feeling merry in spring and numbed in cold.

Do trees suffer thirst in sultry summer

After dripping for life so many drops of water gold?

Do trees sense fatigue so when summer just left

Autumn hurries back to accept falling yellow leaves?

Autumn lulls trees to a deadly sleep on the sidelines,

Awaited resuscitation, to seek for sap that achieves.

Have humans, looking at trees, ever wondered:

Trees or humans are to endure more displeasure?

Leaves on trees can be changed many times;

How many times may humans all life rest at leisure?

If humans were lulled by autumn to sleep

To cast off their shoulders what has been downbeat,

They would advance up in spite of long distances

To perfect everything that is still incomplete.

Translation by THANH-THANH

PoemsBySelectedVietnamese

Vietnamese Choice Poems

Dragon & Fairy in Poetry







Thơ Xướng Họa: THUNG LŨNG MÙA THU -Lê Tuấn + Phương Hoa & NHỊP TANGO – THƠ Phương Hoa




CHÙM THƠ: Nguyện Cầu & Bốn Màu Thu – HỮU THIÊN PAUL PHẠM

CHỜ ƠN CHÚA

 Rât nhiều lần cảm thấy đời vô nghĩa

Sống để rồi mang khắc khoải đầy vơi

Tại sao đời lại như thế Chúa ơi

Nếu có thể cho tôi hay nguyên cớ

*

Tôi đã gõ để xin Ngài rộng mở

Ban từ nhân thêm nữa xuống trần gian

Cho chúng tôi bớt khổ lụy điêu tàn

Vì tin Ngài luôn sẵn sàng thương cứu.

*

Nếu có phải cho danh Ngài cả sáng

Nên mang nhiều sóng gió thử đời tôi

Nhưng vì đã theo Ngài bao năm tháng

Nên cúi đầu và vâng chịu thế thôi .

* * *

ĐÊM NGUYỆN CẦU

* Ý nhạc Lê-Minh-Bằng *

Lắng tiếng nói vang trong hồn bất diệt

Của trái tim chân chính chẳng hề phai

Đời chinh chiến bao năm trường mài miệt

Lòng mang nặng thương tích vết trần ai…

*

Bao lúc chuông đêm buồn vọng sâu

Rưng rưng tay chắp khóc hồn sầu

Nghẹn ngào vận nước ngàn u tối

Rướm máu toàn tim cúi gục đầu .

*

Hỡi Thượng Đế, thấu cho đời dân Việt

Bao nhiêu năm sóng gió dạt dào đau

Bao nhiêu năm chiến đấu khổ ngập đầu

Để tiêu diệt quân thù tàn bạo quá

*

Thượng Đế hỡi, đoái nhìn đời thảm họa

Của dân hiền, hòa tiếng khóc triền miên

Vì đất nước lầm than vạn ưu phiền

Cho Việt Nam sớm tốt lành hùng mạnh...

****

THÁNG TƯ ĐEN …

Em nhớ lắm, cuộc tình ta xa cách

Trong đau thương : biến cố Tháng Tư Đen

Ba anh tù : vì thù hận ác hèn .

Nên Mẹ anh , gia đình đau khổ sống .

*

Oan nghiệt quá : Ba em lầm, theo cộng .

Coi trại  tù , đã hành hạ Ba anh

Với tháng năm , kiệt thân sức , tan tành

Rồi gục chết trong ngục hình đen tối .

*

Đời em lạnh : với chuỗi ngày sám hối ...

Đến xin anh , vài xúc cảm khoan dung ...

Lặng nhìn anh, trong đau đớn tột cùng .

Khóc , khóc, khóc , em chỉ còn biết khóc .

***

TÌNH CHÚA

Tạ ơn Chúa cho con thần trí óc

Cùng trái tim hoà nhịp điệu đôi tay

Để phác lên những niềm cảm vui say

Vinh danh Đấng Thiện Toàn , Vua vũ trụ
*

Nguyện xin Chúa, trên đường đời thế sự

Giữ gìn con lúc thập tử, lâm nguy

Hướng dẫn con khỏi trí lạc, tâm suy

Nếu lỗi phạm, lượng từ bi tha thứ …

****

ÔI LẠY CHÚA

Ôi lạy Chúa ! con cúi đầu tạ lỗi

Linh hồn con đã mê muội trôi hoang

Lạc loài nhiều mê mải lụy trần gian

Chối tình Cha, theo trăm ngàn dịp tội.

*

Nhưng lạy Cha ! xin Ngài thương ngoảnh lại

Nhìn con đây tuôn suối lệ ăn năn

Xin Cha thương , tha thứ mọi lỗi lầm

Nài xin Cha , với tâm hồn thống hối .

BỐN MẦU THU

THU TÍM

Tím một mùa thu, gió lạnh buồn

Tím đầy ngoại cảnh nhập hồn tuôn

Tím hoài như nhuốm dòng tâm niệm,

Tím khoảng đời xa, lạc cội nguồn .

*

THU XANH

Xanh mãi trong hồn nhẹ ước mơ

Xanh mầu mắt cảm người em thơ

Xanh khung trời thắm đầy lưu niệm

Xanh động tình em, nét hững hờ ?

*

THU VÀNG

Vàng toả khung trời thu dấu yêu

Vàng bay nhẹ áo nét yêu kiều

Vàng trăng rằm tỏ, hồn lưu luyến

Vàng lá thu say, quyện nắng chiều.

*

THU HNG

Hồng thắm cõi hồn điểm sắc yêu

Hồng môi em ngọt thoả thu kiều

Hồng thương trìu mến người trao lại

Hồng ấm lòng ai ? hỡi gió chiều .

Huu-Thien Paul Pham




THƠ Hoàng Mai Nhất: Chuyện Tình Buồn + Tiếc Thay




CHÙM THƠ VỀ TÌNH & ĐÁ – CAO MỴ NHÂN




THƠ XƯỚNG HỌA -Mùa THU Của Em Và Của Anh -Lê Tuấn & Họa Sợi Tơ Thu – Phương Hoa




THƠ Dư Thị Diễm Buồn: TÔI MUỐN QUÊN




THƠ: Tiễn Em Mùa Covid – XUÂN MAI

nguồn ảnh: Internet




MỪNG LỄ LAO ĐỘNG HOA KỲ: Lê Văn Hải & THƠ Phương Hoa

Cuối Tuần Này: Mừng Lễ Lao Động Hoa Kỳ (Labor Day)

Ý nghĩa ngày Lễ: Chỉ có Lao động, lao động, lao động! Với bàn tay lem luốc, công việc cực nhọc, vầng trán thấm mồ hôi. Mới biến thế giới này tốt đẹp hơn! Không còn cách nào khác!

Danh Ngôn Vinh Danh Lao Động:

-Tôi chưa bao giờ vô tình làm điều gì, cũng như không phát minh nào của tôi đến từ sự vô tình cả. Chúng đến từ những vất vả, kết quả của lao động! (Thomas Edison)

-Ý tưởng phải được tạo thành qua khối óc và bàn tay cần cù lao động của những người tốt và can đảm. Không thì tất cả cũng chẳng hơn là những giấc mơ. (Ralph Waldo)

-Người lao động là người hạnh phúc nhất. Chính những kẻ nhàn rỗi, lười biếng, mới là người khốn khổ! (Benjamin Franklin)

-Anh phải lao động không mệt mỏi và táo bạo, nếu anh thực sự muốn sống hạnh phúc và có ý nghĩa! (Vincent Van Gogh)

-Thế giới đang tiến về phía trước, không phải bởi những cú đẩy mạnh mẽ của những anh hùng, những thần thánh. Mà bởi tổng hợp những cú đẩy yếu ớt của những người lao động lương thiện. Chúng trở thành sức mạnh vô song! (Helen Kell)

-Người lao động chăm chỉ, không bao giờ tuyệt vọng, bởi họ tin tưởng rằng, tất cả điều tốt đẹp đạt được, tất cả bằng sự chăm chỉ lao động!

Mừng Lễ Lao Động

Ngày lễ này, được mừng vào thứ Hai đầu tiên, của tháng 9 mỗi năm. Năm nay, vào  Thứ Hai, ngày 6/9/2021.

Đây là một trong những ngày lễ lớn quốc gia, mọi người dân được hưởng một cuối tuần dài vui vẻ, để nghỉ ngơi, vui chơi với bạn bè và người thân.

Lễ Lao Động là ngày dành riêng để tôn vinh và ghi nhận sự đóng góp quan trọng Lực Lượng Lao Động, cho xã hội và kinh tế, đóng góp vào sự phát triển phồn thịnh của đất nước Hoa Kỳ, một trong những quốc gia giầu có nhất thế giới.

Ý tưởng có ngày lễ này, do từ một người thợ máy, tên Marguire Matthew, người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan, cũng là một đoàn viên trong trong Nghiệp đoàn lao động. Ông muốn những công nhân phải có một ngày được vinh danh và nghỉ ngơi, như nước láng giềng Canada đã thực hiện, và tranh đấu để có một ngày như thế tại Mỹ.

Lễ lao động đầu tiên được tổ chức vào năm 1882, nhưng đến năm 1884 mới thành ngày lễ chính thức.

Trong ngày lễ này, các hiệp hội công nhân, các nghiệp đoàn, thường tổ chức những buổi diễn hành lớn, hòa nhạc, bắn pháo bông, sự kiện thể thao, nhằm tôn vinh các lực lượng lao động đủ mọi ngành nghề của đất nước.

-Không chính thức, nhưng hầu hết người Mỹ dùng ngày này, để đánh dấu sự chấm dứt của Mùa Hè, để bước qua Mùa Thu.

-Sinh viên, học sinh bắt đầu mùa tựu trường.

-Mùa Football bắt đầu! (NFL thường chơi trận banh đầu tiên vào thứ Năm, sau ngày lễ.)

– Đây cũng là dịp đánh dấu ngày mua sắm hàng hóa, quà bánh, vật dụng sửa soạn cho những ngày lễ lớn cuối năm. Thương vụ thu nhập chỉ thua ngày Black Friday (Lễ Tạ Ơn)

-Dịp cuối cùng để thực hiện các sinh hoạt ngoài trời, như cắm trại, ra biển, picnic, nướng barbecue, giã từ những ngày nắng ấm, trước khi trời trở lạnh.

Lời Chúc Mừng

Kính chúc Quý Vị, Gia Đình vả Người Thân: Một ngày lễ Lao Động Vui Vẻ, Hạnh Phúc, Khỏe Mạnh,  An Vui và đạt mọi điều ước muốn trong cuộc sống.

Lê Văn Hải




THƠ Song Ngữ Anh + Việt: NGĂN TỦ CŨ – LÊ MAI & THANH THANH

NGĂN TỦ CŨ

Ngăn tủ cũ

mười năm về sắp lại

xương lá bồ-đề nhuộm tím rơi ra

sách vở ướp

tháng năm dài, tuổi dại

sống một thời thơ mộng

bướm hoa xa

những lưu-bút ngày xanh đầy bụi phủ

lật từng trang chữ chứa-chan xưa

bâng-khuâng điểm

bạn còn, bạn mất

có người xa vắng…

đã về chưa?

nghe như vẳng tiếng cười vang đâu đó

áo trắng tung-tăng từng buổi tựu trường

góc quán nhỏ ly chè xanh tuổi nhỏ

chéo áo dài ai buộc dính… yêu thương

ôi kỷ-niệm

mang-mang đầy nỗi nhớ

chất-ngất lòng

ngăn tủ của ta ơi!

mười năm nữa

và sau mười năm nữa

tóc bạc đầu

thương nhớ mãi khôn nguôi…

                           LÊ MAI

THE OLD SHELF

The old shelf

After ten years I came back to rearrange.

From the books and notebooks range

Fell out the veins of violet-dyed fig tree leaves:

The sight of which more and more aggrieves

Reminding me of my dear green years

With now so long-ago those cheers…

The dusty autograph books each showing

Each page with friendship overflowing

As I turned over, I reviewed each classmate:

Who were still alive, who had already found fate,

Who succeeded in fleeing as yearned,

And who however returned…

In my mind revived the white dresses of fays

And their laughters like on back-to-school days,

The small kiosk with the glasses of juice,

The rear laps sneakily knotted love to introduce…

Oh memories of youth! Thence

Nostalgia immense

In my self!

Oh my old shelf!

Ten more years, ah!

And after ten more years – who could debar?

When has grown white my hair

To-pine-for and to-miss shall I for ever bear…

                     Translation by THANH-THANH