Phan Lạc Phúc : Qua Cơn Mê

Biếm họa Bùi Bá: Năm Tân Mão 2011, con mèo châm ngòi cho nổ banh xác pháo.


Câu Đối Tết Con Mèo.

Ba Đình tâu với Thiên Đình, thú thật Triều Đình không nói dối. Hà Sĩ Phu (xướng).

Ái Quốc bám theo Trung Quốc, e gần Phản Quốc có đâu xa.  Hữu Tình (họa).

Bài đọc suy gẫm: Qua Cơn Mê ( hay Văn Nghệ Tết Trong Trại Tù Yên Hạ) – Phan Lạc Phúc (hình ảnh sưu tầm trên net chỉ có tính cách minh họa)

…”Bạn ơi nếu tôi có một điều ước, tôi ước mong cho ngày nào trời đất phong quang, chúng ta được trở về đất nước Việt Nam yêu dấu, muốn đi đâu thì đi. Tôi sẽ đi tới những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa, thăm lại các bạn tù chúng ta còn nằm lại. Tôi sẽ tới trại Yên Hạ, tới quận Phù Yên hỏi xem ông cụ Việt trại trưởng năm xưa còn sống hay không? Nếu gặp được ông cụ tôi sẽ nầm lấy tay mà nói “Tôi là là cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ còn nhớ tôi không, thưa cụ?”…Một mai qua cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng, tôi lại về bên em…- Trần Trịnh- Nhật Ngân.

Cả nước làm bạn với khoai mì, khoai lang.

Còn gần một tháng nữa mới đến Tết nhưng không khí thi đua văn nghệ giữa 2 khu A, B đã lan truyền khắp trại. Anh em khu A đi làm ngoài, có bữa kiếm được củ khoai, miếng sắn lại dấm dúi đem cho. Chúng tôi hiểu được sự chăm lo, kỳ vọng của anh em. Cuộc chiến tranh quân sự tàn rồi, cuộc chiến tranh văn hóa còn đang tiếp diễn.
Một hôm đang nửa buổi, trại trưởng ông cụ Việt vào hội trường dự khán anh em chúng tôi tập dượt. Thấy gần trưa rồi mà ban Văn nghệ khu A vẫn xuông tình, ông cụ hỏi: “Anh em không nghỉ ăn bồi dưỡng hay sao?” Mấy người có trách nhiệm mới trình bày với trại trưởng là chúng tôi vẫn tập “xuông” không có “bồi dưỡng”. Ông cụ Việt liền cho gọi thi đua (mấy anh tù được cất nhắc lên làm chân chạy việc cho ban giám thị) lên chỉ thị: “Cung cấp ngay chế độ bổi dưong hằng ngày cho đội văn nghệ khu A”. Ông cụ còn dặn thêm: “lệnh trại trưởng cấp thêm cho mỗi đội văn nghệ của A lẫn B mỗi ngày một gói trà. Anh em tập dượt ca, kịch cần thấm giọng”. Thế là hàng ngày, “phụ tá khói lửa” là tôi lại thêm việc đun nước pha trà cho anh em nhấm nháp.

Đi vào thực hiện kịch lịch sử đối với chúng tôi, nó có ưu điểm nhưng cùng một lúc nó kéo theo nhiều điều phức tạp. Thứ nhất tập dượt cầu kỳ. Người “ngày xưa” ăn nói cử chỉ khác người ngày nay. Một ông quan văn với một ông quan võ chào hỏi, vuốt râu nó khác nhau, không giống nhau. Cách phát âm hay nói theo giọng nhà nghề “đài từ” của kịch lịch sử khác với kịch thời đại. Hơn nữa trang trí sân khấu, cách phục sức cho nhân vật kịch “ngày xưa” nó đòi hỏi nhiều nghiên cứu, nhiều phụ tùng hơn kịch “bây giờ”, cái kho đạo cụ của trại không thỏa mãn được. Vào việc đạo diễn Th. già bấn xúc xích về việc dàn cảnh, về đạo cụ nên bạn già yêu cầu tôi lo giúp về phần tập luyện.

Bạn Th. già biết dạo xưa tôi có sinh hoạt trong Sông Hồng Kịch Xã ở Hà Nội trước khi động viên vào quân đội, trong khi đó Th. già viết cho báo Giang Sơn. Chúng tôi biết nhau từ ngày ấy. Vả chăng tôi vốn sinh trưởng ở nhà quê mà làng tôi vốn là đất chèo, có một phường chèo thường trực ở trong làng nên tự nhiên tôi quen thuộc với một số ước lệ của tuồng, chèo cổ. Những năm đi kháng chiến ngoài bưng, tôi đi theo một đoàn Tuyên truyền xung phong nên tôi cũng tàm tạm có một số kinh nghiệm về sân khấu. Cho nên nhận lời bạn già, tôi đang là “phụ tá khói lửa” lại thêm một chức vụ nữa “phụ tá đạo diễn”.

Không gian kịch là tư dinh Đinh Đề Lĩnh, viên quan trấn thủ kinh thành Đông Đô (Thăng Long – Hà Nội). Thời gian là đêm mồng 4 tháng Giêng năm Kỷ Dậu đêm trước của toàn quân vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Vở kịch đòi hỏi 5 vai quan trọng: Đinh Đề Lĩnh, trấn thủ Thăng Long; thất vọng trước sự yếu hèn của hôn quân Lê Chiêu Thống, căm hận trước sự tham tàn bạo ngược của quân tướng nhà Thanh nên phút cuối cùng Đinh Để Lĩnh nghe theo lời khuyến dụ của La Sơn Phu Tử, đặc sứ của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi nghĩa quân tấn công. Vai chính Đinh Đề Linh do Nguyễn Huy T., đại úy đài Tự Do cục Tâm lý chiến đảm trách. T. là một con người tài hoa, hát hay, nhảy giỏi, dáng người cao mà thanh, vừa văn vừa võ, đã nhập vai Đinh Để Linh rất đẹp. Anh chơi kịch từ thời sinh viên nên có đủ bản lĩnh trên sân khấu vừa say mê vừa tỉnh táo.

Vai La Sơn Phu Tử do Nguyễn T. cũng đại úy bên Tổng cục Chiến tranh Chính trị (người ở Seattle vừa viết thư cho tôi) nhận lãnh. Nguyễn T. vốn là em một người bạn tôi, nên tôi biết T. từ khi chưa bị động viên vào quân đội. T. đi Hướng đạo nên quen thuộc với sân khấu. T. không dám tin ở tài sức của mình nhưng tôi khuyến khích T. nhận vai La Sơn Phu Tử. T. vốn người Thanh Hóa, nói được giọng già, dáng người văn nhã mà cứng cỏi, lại chuyển sang gíọng Nghệ An – Hà Tĩnh rất ngọt nên có đầy đủ dáng vẻ của một mưu sĩ “đàng trong”. Một vai phản diện rất gay là vai tướng nhà Thanh, nói tiếng Việt ngọng líu ngọng lo mà tham dâm hiếu sắc do Trung tá Lê Văn Hóa, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn văn nghệ Quân đoàn 4 phụ trách. Anh là người tràn đầy kinh nghiệm sân khấu lại thêm là “vua cười” của đội, luôn mồm hát, no cũng hát, đói cũng hát “Ngộ bên Tàu à… ngộ mới sang – sang Nam Việt bán buôn làm giàu…” nên vai tướng Tàu như là vai viết riêng cho anh vậy.

Người nữ độc nhất, cô chủ quán mê hoặc tướng Tàu do đại úy Tôn Thất L. thủ vai. Anh đi tù cực khổ, đói khát như vậy mà vẫn da trắng tóc dài, mắt sắc như dao làm gái Thăng long rất đẹp. Riêng có một vai quê mùa, vai ông già chăn ngựa thọt chân, luôn luôn say xỉn do một đại úy Cảnh sát đảm nhận vai mà tập mãi chưa vô. Anh có nhân dáng quê mùa, cục mịch, say mê vai diễn nhưng tiếng cười, giọng nói của anh nó văn minh quá, thành thị quá thiếu mất chất nhà quê. Mà đây là vai quần chúng vai đại diện cho nhân dân phản kháng nên trại để ý lắm. Thiếu úy Công an Q. đại diện cho phòng Giáo dục, hằng ngày theo dõi chúng tôi tập dượt, lắc đầu trước vai ông già chăn ngựa mà phê bình đủng đỉnh “chưa được”. Sau rồi, đạo diễn Th. già mới tham khảo ý kiến anh em mà bảo tôi rằng: “Ông khỏi mất công dượt cho anh ấy nữa. Ông thì vừa già, vừa chân tập tễnh, lại vừa có chất quê… thế thì ông chơi ngay cái vai ấy đi cho nó tiện việc sổ sách.” Anh em cũng ồn ào đề nghị nên tôi lại kiêm luôn vai cụ Triệu ông già chăn ngựa. Sở dĩ đạo diễn Th. già và tôi chú ý đến giọng nói là vì khi diễn kịch ở đây, chúng tôi diễn “chay” không có ban nhạc làm nền (background music). Vì vậy phải đặt trọng tâm vào giọng “thoại”, đưa vào đó nhiều màu sắc để phần nào quên đi cái thiếu vắng nhạc nền kia.

Có giọng Bắc trầm hùng cứng cỏi của Đinh Đề Lĩnh, giọng miền Trung uyển chuyển, sâu sắc của La Sơn Phu Tử, giọng ngọng nghịu của tướng Tàu, giọng Bắc pha Huế đài các của cô chủ quán, giọng quê mùa bạo liệt của ông già chăn ngựa. Nút kịch được thắt khi La Sơn Phu Tử đang đêm được ông già chăn ngựa nhà ở gần bên đưa vào gặp Đinh Đề Lĩnh ở tư dinh, thuyết điều hơn, lẽ thiệt. Kịch được thắt thêm 1 nút khi tướng Tàu sục sạo đi tìm cô chủ quán xinh đẹp bất ngờ xộc vào tư dinh Đinh Đề Lĩnh khi La Sơn Phu Tử còn đang hiện diện. Để tránh cho cơ mưu của “đàng trong” đừng bại lộ, cũng là cởi nút cho vở kịch… ông già chăn ngựa liền dũng cảm nhảy vào đâm chết tướng Tàu rồi cùng chết. Cái chết bất ngờ của ông già chăn ngựa như một giọt nước làm tràn ly khiến Đinh Đề Lĩnh còn đang do dự, chuyển hẳn sang thế nghĩa quân… mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi đại quân vua Quang Trung tràn tới. Sau đó, bình minh ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu cũng vừa hiển hiện.

Để lo việc trang trí sân khấu và phục sức cho nhân vật kịch, trung tá Quân cụ Tr., nguyên sinh viên Mỹ Thuật ngày nào bây giờ là trưởng ban đạo cụ liền đem cái tài hoa còn lại của mình sửa chữa mấy đôi bốt hư của cán bộ thành hia cho văn quan, võ tướng nhà Lê , cải biến mấy cái mền dạ cũ màu đỏ, màu xám thành nhung y cho Đinh Đề Lĩnh, cho tướng nhà Thanh. Mấy cái đường kẻ đen trên tấm mền đỏ ngày nào bây giờ dưới bàn tay thần tình của Tr. đã biến thành hoa văn “thủy ba sóng rợn”. Tướng nhà Thanh thì nhung y lẫm liệt, hia mão đàng hoàng. Nhưng khi Đinh Dề Lĩnh, võ quan nhị phẩm triều đình đội mão theo đúng nghi thức thì tôi có ý kiến là Đinh Đề Lĩnh không nên đội mão chỉ nên đội khăn. Đội mão xem ra nó “cải lương” hơn, không truyền thống bằng cái khăn lượt Việt Nam. Đạo diễn Th. già đồng ý. Anh Tr. cũng đồng ý tuy rằng anh rất tiếc chiếc mão “võ quan nhị phẩm” rất công phu của anh.

Trong thành tích trang trí tư dinh của Đinh Đề Lĩnh ngày Tết, anh Tr. đắc ý nhất là 3 chữ đại tự anh viết trên bức hoành phi (bằng giấy): Huyết do hồng. Tr. vừa là nghệ sĩ vừa là trí thức. Th. già và tôi hiểu ý anh, nắm tay anh thông cảm. Thiếu úy Công an Q. người thường xuyên sinh hoạt với chúng tôi một bữa mới hỏi Th. già về ý nghĩa mấy chữ nho này. Th. giải thích: đây là 3 chữ cuối trong vế đối, nhắc lại chiến công chống xâm lược phương Bắc của tiền nhân “Đằng Giang tự cổ Huyết do hồng” (Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến nay vẫn còn đỏ máu). Tôi thấy Thiếu úy Q gật gù, ngẫm nghĩ, và từ đó thái độ đối với chúng tôi có khác. Anh em chúng tôi dù sống kiếp tội đồ khổ sở, đói khát nhưng trong công tác văn nghệ này ai củng cố gắng đóng góp một chút gì, để hi vọng nói lên rằng: chúng tôi thua trận, bị cầm tù, bị lăng mạ nhưng chúng tôi có văn hóa theo cách riêng của chúng tôi.

Đã đến ngày 30 Tết, năm Tỵ sắp sang năm Ngọ (1977-1978). Nghe anh em lưu cựu ở đây 1âu nói rằng chưa có bao giờ trại ăn Tết to như thế. Có lệnh của trại trưởng là bao nhiêu tiền quỹ của năm cũ chi cho bằng hết nên Tết đến thịt trên 10 con heo, 1 con bò; tát ao lấy cá chắm, cá chép lên ăn Tết. Mấy vườn su hào cũng nhổ “đại trà” làm dưa. Toàn là món “cao cấp” cho toàn trại, toàn thể tù nhân ăn Tết. Trong 10 năm đi tù cải tạo, tôi ngẫm lại chưa có năm nào, ở đâu được ăn một cái Tết tù như vậy. Ngoài các món ăn, anh em tù nhân còn được lĩnh mỗi người hai bánh chưng, thuốc lá, thuốc lào, và đêm 30 đi xem kịch tất niên về toàn trại còn có cháo lòng bò bồi dưỡng. Nghe phong thanh là sau Tết trại trưởng trung tá Trần Việt sẽ nghỉ hưu nên ông xã cảng “cái gì của tù là trả hết cho tù”.

Vài ngôi mộ của những người tù cải tạo.

Bữa tổng dượt có mặt đủ ban Giám thị trại, chương trình của khu A chúng tôi được cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. chăm chút rất kỹ. Y ta để ý rất nhiều đến những sự “đóng góp” của chúng tôi vào vở kịch, hỏi khá kỹ về câu đối “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng “. Vốn bản tính đa nghi nên y không muốn đưa vào bất cứ điều gì không có trong kịch bản. Ông cụ Việt, có lẽ ông ta là người rộng rãi kiến văn nên ông cụ nói: “Tư dinh một viên võ tướng có tâm hồn với đất nước mà treo bức hoành Đằng Giang tự cổ huyết do hồng thì được lắm. Để đối phó với cường lân phương Bắc lại càng hay nữa .” Nhưng cán bộ giáo dục tỏ ý ngần ngại, khi chúng tôi định hát đoạn đầu của bài Thăng Long Hành Khúc của Văn Cao vào đoạn kết của vở kịch. Nguyên văn trong kịch bản chỉ có “tiếng hô sát của đại quân ta nhỏ dần rồi màn hạ”. Ỏ đây chúng tôi trong hậu trường sẽ hô “sát, sát” đồng loạt rồi hát từ từ nhỏ đến to dần lên “Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng, trông khói sương chiều ám trên dòng sông. Nhị Hà còn kia Nhị Hà còn đó, lũ quân giặc Tôn sập cầu trôi đầy sông.” Màn từ từ khép và đến đó là dứt kịch. Chúng tôi muốn cho cái “coup de rideaư’ nó thêm sức thuyết phục. Đã thử lại lúc màn hạ này mà không có tiếng đồng ca Thăng Long Hành Khúc ở bên trong. Nó nguội đi nhiều lắm. Cán bộ giáo dục cuối cùng chấp nhận “cách đạo diễn” của chúng tôi nhưng nhất quyết không bằng lòng 2 chữ “giặc Tôn” mà phải đổi ra là nhà Thanh “cho nó rõ nghĩa” (chữ của y ta, bởi vì giặc Tôn có thể liên tưởng đến Tôn Đức Thắng chăng?).

Tối 30 Tết, trại Yên Hạ nôn nả hẳn lên. Mới 7 giờ đêm, mà hội trường đã chật cứng. Phạm nhân khu A ngồi bên phải. Khu B bên trái. Những dãy ghế phía trên là dành cho quan khách, gồm cán bộ khung xã sở tại, huyện ủy Phù Yên, cán bộ Công an và gia đình. Cứ như ý kiến bữa tổng dượt thì đêm 30 Tết, ban Văn nghệ sẽ diễn trong trại. Mồng 4 Tết chúng tôi sẽ ra huyện lỵ Phù Yên diễn cho dân chúng tới xem. Cho nên buổi diễn hôm nay là buổi diễn trong chương trình vui Tết đón Giao thừa, vừa là buổi phúc khảo trước khi ban Văn nghệ “đem chuông đi đấm xứ người”.

Chương trình khu B, bên hình sự được diễn đầu tiên. Cũng đồng ca, đơn ca, một màn kịch ngắn “đánh Mỹ” và kết bằng màn dân ca Quan họ Bắc Ninh. Anh em hình sự chơi chương trình này đã “thuộc” nên đối đáp, tung hứng rất là nhuần nhuyễn. Nhưng vì “bổn cũ soạn lại” nên nó làm cho tù chính trị chúng tôi chăm chú hơn là khán giả sở tại.

Bên hình sự có một ca sĩ tên Ng. hát rất hay, rất kỹ thuật; nghe nói anh ta đã tốt nghiệp thanh nhạc nên hát đâu có thua gì ca sĩ trên đài phát thanh. Ca sĩ bị tù mút mùa vì nghe nói anh mắc tội làm tem, phiếu giả. Kịch “đánh Mỹ” thì không có gì mới. Vẫn theo công thức cũ. “Mỹ cút, ngụy nhào, quân ta kẻ thù nào cũng đánh thắng, khó khăn nào cũng vượt qua”. Nhưng phải công nhận anh em hình sự chơi nhạc cảnh Quan họ “Mời trầu, giã bạn” rất đằm thắm, ý nhị và duyên dáng. Đây là một tiết mục hay. Khi anh em cúi đầu chào khán giả, chúng tôi dù ở trên sân khấu, đang sửa soạn “ra trò” mà chúng tôi cũng không ngừng vỗ tay tán thưởng. Đoàn trưởng đoàn kịch khu B. Quách H., đứng ở cánh gà phía bên kia, đứng nghiêm, để tay lên ngực cúi đầu chào lại chúng tôi như một sự cảm thông cái tình tri âm, tri kỷ.

Có lẽ “cái đinh” của đêm văn nghệ hôm nay đối với khán giả địa phương là Văn nghệ khu A, tù chính trị. Họ chưa bao giờ được biết miền Nam thật sự như thế nào? Miền Nam đã thua, đã tan nát nhưng những tàn dư của miền Nam, lũ tù chính trị chúng tôi, vẫn còn đây. Họ đã được nghe “nhà nước ta” nói rất nhiều về miền Nam, nhưng “trăm nghe sao bằng một thấy”. Văn nghệ, là một thái độ sống. Họ muốn biết thái độ sống của miền Nam thế nào qua những đại diện khốn khổ nhưng trung thực là chúng tôi Chúng tôi cũng cảm nhận được điều đó nhưng trong tình trạng tù đày, bó buộc như thế này, biết ăn, biết nói làm sao? Thôi thì “sức người có hạn, được đến đâu hay đến đó”.

Qua mấy màn ca nhạc, đồng ca, đơn ca, tôi nghiệm ra là về kỹ thuật, chúng tôi không sánh bằng anh em hình sự. Điều dễ dàng nhận thấy là tù chính trị già hơn, nên hơi hám kém hơn. Nhưng hiệu quả sân khấu thì chưa chắc ai hơn ai. Lấy ví dụ như ca sĩ Văn B . của chúng tôi hát làm sao tốt bằng, khỏe bằng Ng. bên khu B, nhưng khi anh hát xong tiếng vỗ tay có lẽ nhiều hơn, nồng ấm hơn. Ng. hát giọng ngực, lớn, vang nhưng anh hát theo lề lối thường thấy ở ngoài Bắc, không rõ lời. Nhiều khi không biết anh hát cái gì nữa chỉ thấy trước sau giọng ngân vang rền rĩ mà thôi. Còn Văn B. anh là ca sĩ tài tử (ngoài Bắc kêu bằng nghiệp dư, thích thì hát chơi không phải nhà nghề) nên hát bài nào anh phổ tâm tình vào bài hát đó. Anh không trưng bày giọng hát mà như văn nghệ thường thấy ở miền Nam, anh có một tâm sự để mà kể lại. Anh thuộc loại ca sĩ trữ tình (chanteur de charme) không phải ca sĩ Opera như khuynh hướng ngoài Bắc. Cho nên nghe Văn B . ca sĩ miền Nam, hát không giỏi bằng, không khỏe bằng nhưng nó dễ nghe hơn, nó thấm thía hơn, nó con người hơn. Mà cũng có thể vì cách hát của anh khác lạ hơn nên anh được chú ý và tán thưởng.

Tiết mục gây được nhiều tiếng cười sảng khoái là màn tốp ca. Anh em chúng tôi dựng tiết mục này theo lối AVT, nhằm kiếm được nụ cười trong tình trạng tối ám của nhà tù. Mà điều này cũng là một thực tế. Chúng tôi là phạm nhân nhưng trong đời sống chúng tôi vui cười nhiều hơn cán bộ coi tù. Ở ngoài Bắc, hoặc là người ta sống căng thẳng quá hoặc là người ta phải ngụy trang lối sống cho nên phần đông mọi người mặt khó đăm đăm. Đây là bệnh táo bón tinh thần thường thấy nơi xã hội thiếu tự do. Ba bạn Đỗ H., Văn B., Trịnh P. hát hò, đối đáp với nhau thoải mái. “Cái gì nhúc nhích là ta chén liền “. Tiếng cười đồng cảm vang lên. Từ cánh gà nhìn xuống, tiếng cười lan tỏa chỉ có người cau mặt là cán bộ giáo dục…

Màn gây ấn tượng sâu sắc là độc tấu Tây ban cầm. Đây là loại đàn nhiều người chơi. Nhưng tập tành đến nơi đến chốn chơi được nhạc cổ điển hay bán cổ điển thì có rất ít người. Người anh em chơi Tây ban cầm của chúng tôi đã có trên 10 năm cầm đàn. Anh bữa ấy độc tấu một bản bán cổ điển. Một cây đàn Tây ban cầm mà như một dàn nhạc. Có lúc réo rắt như violon, lúc nhảy nhót như mandoline, khi rộn rã như piano, khi trầm hùng như một đoàn quân nhạc đón đoàn chiến binh chiến thắng trở về . Tôi nghĩ đám đông khán giả kia chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của bài vừa diễn tấu nhưng nhìn bàn tay buông bắt đầy kỹ xảo, nghe âm thanh tiết tấu phong phú, họ hiểu rằng chơi đàn như vậy là một kỳ công. Kỳ công ấy là văn hóa.

Giọt nước mắt người vợ tù cải tạo trong ngày cựu tù Bình Điền họp mặt tại Nam California, ảnh Huy Phương. Hình dưới: triển lãm hình ảnh về trại tù cũ.

Links:

Bầu cho tương lai (Sơn Điền Nguyẽn Viết Khánh)

Bu Cho Tương Lai  
 
Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh
Barack Obama đã được bầu làm Tổng Thống Mỹ với đại đa số phiếu. Từ tuần qua, nhìn những người dân xếp hàng chờ đợi từ tảng sáng để sớm bước vào các phòng bầu phiếu, các nhà quan sát có ý thức cao đã thốt ra một câu bất hủ: "Họ đang viết lịch sử". Từ thời xa xưa hơn 200 năm trước, khi nước Mỹ mới thành hình, người da đen Phi châu bị bọn buôn người quốc tế bắt đem sang Mỹ bán làm nô lệ, có ai ngờ sẽ có ngày một người gốc Phi châu lên làm Tổng Thống Mỹ. Một chương sử mới đã bắt đầu. Thật ra từ tuần trước tôi đã có suy nghĩ về việc này nên đặt câu hỏi "Bầu cho ai?" mà không có trả lời rõ rệt "là ai" trước khi có bằng cớ cụ thể. Nhưng câu trả lời đã nằm sẵn trong đầu từ lúc đó, nên tuần này sau khi đã có kết quả bầu cử, tôi đã trả lời bằng tựa đề "Bầu cho tương lai". Bầu cho Thượng nghị sĩ Obama làm Tổng Thống, tại sao lại gọi là bầu cho tương lai?
Chữ "tương lai" quá thông thường, nên khi nói đến tương lai người ta nghĩ ngay đến những gì sắp tới. Chữ "quá khứ" cũng vậy, đó là những gì đã qua. Như vậy hiện tại cố nhiên là ngày hôm nay. Ở đây tôi muốn nhìn đến những luận lý khoa học, theo đó quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một chuỗi dài về thời gian theo một quy luật nhất định là thời gian như mũi tên bắn, có đi mà không trở lại. Bởi vậy quá khứ chỉ là những kinh nghiệm, những bài học cho hiện tại để định hướng cho tương lai. Vậy những bài học đó như thế nào? Nó đã được tóm gọn trong một câu châm ngôn của các nhà triết học trời Âu: "Hôm nay hơn hôm qua và kém hẳn ngày mai", có hàm ý nhắc đến sự tiến bộ tất yếu của loài người. Tiến bộ tức tiến hóa.
   Theo các bằng chứng cụ thể của các nhà khoa học, con người từ thời xa xưa nhất sống trên Trái Đất sở dĩ còn tồn tại được đến ngày nay là vì đã biết tiến hóa. Ở điểm này tôi thấy cần phải góp thêm một ý. Sự suy luận của con người từ cổ xưa có hai phần căn bản, một là lý trí hai là tâm linh. Khoa học là lý trí, còn tâm linh là đức tin tôn giáo. Khi nói đến tự nhiên, người ta nghĩ đến một chữ đồng nghĩa là "thiên nhiên". Thiên là Trời, mà bất cứ tôn giáo nào ngày nay đều nhìn nhận là đấng Chí tôn đã sáng tạo ra loài người, ban cho chúng ta một bản năng là tiến hóa để sống còn và phát triển, chớ không ù lỳ đứng nguyên một chỗ, để trở thành nạn nhân của mê tín và đần độn.
Nhưng làm thế nào con người sống trong hiện tại lại có thể quyết định cho một tương lai chưa thấy? Không thể quyết định, nhưng vẫn có thể chọn một hướng đi có xác suất lớn nhất cho một tương lai sáng lạn. Hãy nhìn đến một hiện tượng thông thường trong cuộc cuộc sống của chúng ta, coi hiện tại là hôm nay và tương lai là ngày mai. Thí dụ một người tham dự trực tiếp vào sinh hoạt xã hội, ngay từ buổi sáng hôm nay bắt buộc phải có dự liệu trước những gì chưa xẩy ra, như việc làm trong ngày để kiếm sống, đồng thời cũng phải dự tính cả đến những ngày mai xa hơn nữa cho sự làm ăn phát đạt để nuôi gia đình. Đó là định hướng cho tương lai. Quá khứ không thể tái diễn y trang trong cuộc sống hiện tại. Chúng ta không thể ôm lấy quá khứ để mà sống, quá khứ chỉ là những bài học kinh nghiệm hữu ích cho ngày nay. Chúng ta đang sống ở Thế kỷ 21, vậy cũng nên hít thở bầu không khí trong lành của Thế kỷ mới, đặt nặng sự tiến bộ chung của loài người, để quên đi một phần của quá khứ từng chìm đắm trong chiến tranh lạnh với khỏi lửa và hận thù. Để thực hiện việc đó, người dân Mỹ ngày nay cần phải hàn gắn sự chia rẽ do tranh chấp đảng phái gây ra, tạo lại đoàn kết nội bộ để chặn đứng nạn suy thoái kinh tế và chống kẻ thù chung là nạn khủng bố. Bởi vậy câu hỏi đặt ra là vị Tổng Thống mới của Mỹ sẽ phải làm gì?
   Ngay sau khi Obama được bầu làm Tổng Thống, người ta đã thấy những hiện tượng hiếm có hầu như cả nước Mỹ đã reo hò mừng rỡ, như hình ảnh đã thấy trên các màn hình TV của đêm thứ ba 4 tháng 11, chứng tỏ đại đa số dân Mỹ tin ở tài đức, trí tuệ và sự khôn khéo của vị Tổng Thống mới mặc dù đến tháng1-2009 ông mới tựu chức. Hãy nhìn lại một vài chi tiết của kết quả cuộc tổng tuyển cử. Obama đã thắng với 349 phiếu cử tri đoàn và 52% phiếu phổ thông, trong khi McCain chỉ được 163 phiếu cử tri đoàn và 47% phiếu phổ thông. Về Quốc hội tức ngành lập pháp, đảng Dân Chủ đã thắng với một đa số rõ rệt hơn trước. Tại Thượng-Hạ viện đảng Dân Chủ đã có thêm ghế, đủ đa số chắc chắn để từ nay loại bỏ được phần nào những màn tranh cãi kéo dài mà không có quyết định.
Và đặc biệt hơn nữa cũng nên nhìn đến phản ứng của Thượng nghị sĩ John McCain chỉ một giờ sau khi kết quả chính thức được công bố. Ông nhìn nhận sự thất bại của ông trong cuộc tranh cử và tuyên bố: "Người dân Mỹ đã nói lên tiếng nói của họ, một tiếng n&oacut
e;i thật rõ ràng. Đây là một cuộc bầu cử có tính lịch sử, tôi nhìn nhận ý nghĩa đặc biệt của cuộc bầu cử lần này cho những nguời dân Mỹ gốc Phi châu và niềm hãnh diện của họ cho đêm nay. Lúc này là thời có những khó khăn cho đất nước chúng ta. Đêm nay tôi cam kết với ông Obama, tôi sẽ làm với tất cả khả năng của tôi để giúp ông lãnh đạo chúng ta qua nhiều thử thách mà chúng ta phải đương đầu". Về phía ông Obama ngay sau khi có kết quả bầu cử, đã lên tiếng nhìn nhận việc hàn gắn lại nền kinh tế cũng như đối phó với các vấn đề đối nội và đối ngoại sẽ không thể có kết quả ngay trong một năm hay một nhiệm kỳ Tổng Thống. "Nhưng, ông nói, đêm nay hơn bao giờ hết tôi thấy có nhiều hy vọng nước Mỹ sẽ đạt được những kết quả đó. Tôi hứa với mọi người, chúng ta như một dân tộc sẽ đạt được". Cả hai ông đều có những lời lẽ làm nổi bật tư cách quý giá của những người làm chính trị.
   Tôi thiết nghĩ nước Mỹ hãy làm gương cho các nước trên thế giới thấy rằng các đảng phái chính trị làm việc cho dân chớ không làm việc cho đảng, và cần phải diệt trừ tận gốc nạn độc tài ở bất cứ nơi nào, vốn đã manh nha từ lòng tham không đáy, tính vị kỷ bảo thủ khư khư ôm lấy những gì đã có, từ đó đưa đến thói vô trách nhiệm, buông lỏng kỷ cương của đạo làm người. Người dân Mỹ đã bỏ phiếu bầu cho tương lai. Hy vọng đó cũng là tương lai của cả loài người.
 SƠN ĐIỀN NGUYỄN VIẾT KHÁNH



GS SD Nguyễn Viết Khánh: VĂN HÓA VÀ TÔN GIÁO

GS SD Nguyễn Viết Khánh: VĂN HÓA VÀ TÔN GIÁO

Cuộc họp báo của Ðạt Lai Lạt Ma được dự liệu vào ngày thứ hai tuần này bị hủy bỏ sau khi chính quyền Ðài Loan hiện do Quốc dân đảng nắm giữ đã tỏ ý quan ngại, sợ gây rắc rối với Trung Cộng. Cũng vì thế một cuộc thuyết giảng của Lạt Ma dự liệu tổ chức ở Cao Hùng, một đô thị lớn ở Nam Ðài Loan, tại một sân vận động chứa được 15,000 nguời, rút cuộc đã phải chuyển về một căn phòng ở khách sạn Lat Ma trú ngụ, chỉ có 1,200 ghế ngồi. Trong một bản tuyên bố chính thức, Cơ sở Tổ chức Ðạt Lai Lạt Ma ở Ðài Loan nói: “Những người tổ chức vụ này rất quan ngại cho sự an toàn của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma”. Ngoài ra theo lời một phát ngôn nhân chính thức, Tổng Thống Ðài Loan Mã Anh Cửu đã từng gặp Lạt Ma hai lần trong các chuyến đi lục địa trước đây, lần này không có dự liệu hội kiến. Ngoài ra Phó Tổng Thống, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc dân đảng Ðài Loan cũng không có chương trình gặp gỡ Ðạt Lai Lạt Ma.

Trước đó chính Ðức Ðạt Lai Lạt Ma cũng đã nói với phóng viên đài TV CNN rằng Ngài không muốn gặp Tổng Thống Ðài Loan vì e rằng sẽ chính trị hóa chuyến đi này. Ngày chủ nhật vừa qua Tân Hoa Xã của Trung Cộng đã nói Bắc Kinh “cương quyết chống” cuộc viếng thăm vì gây ra những ảnh hưởng tiêu cực giữa Hoa lục và Ðài Loan. Tân Hoa Xã còn thuật lại lời một quan chức trong Cơ quan “Ðài loan vụ” nói “Chúng tôi sẽ theo dõi chặt chẽ vụ viếng thăm”. Sự hăm dọa thật trắng trợn. Bắc Kinh vẫn coi Ðài Loan là một tỉnh “ly khai” của Hoa lục và tố cáo Lạt Ma tranh đấu cho sự tách rời của Tây Tạng khỏi Hoa lục để thành một nước độc lập.

Như vậy phải chăng một nhà tu hành coi như đứng hàng đầu của Phật giáo trên toàn thế giới đã làm chính trị? Tôi muốn trả lời câu hỏi này. Các bậc chân tu nói chung của các tôn giáo lớn trên thế giới ngày nay như Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Phật giáo và các hệ phái của các tôn giáo đó đều không làm chính trị. Ở đây cũng nên xác định cho rõ việc làm chính trị (politics) có nghĩa là sự tranh đấu của các chính đảng để tranh dành những ngôi vị cầm quyền, bất luận cấp bực nào trong hành pháp, lập pháp hay tư pháp. Chức tước hay danh vọng thường đi đôi với quyền uy, lợi nhuận, tiền bạc. Thế nhưng khi một nhà tu hành hô hào vận động cho dân chủ, nghĩa là một chế độ do dân làm chủ, chuyện đó lại khác hẳn. Bởi vì dân chủ là nếp sống của người dân được tự do sống có luật pháp che chở. Ðây là văn hóa chớ không phải chính trị.Văn hóa là một nét đặn thù của dân tộc tính, tức phong tục tập quán, cách sống, nề nếp sinh hoạt trong nhà cũng như ngoài xã hội, cách ăn, ở và mặc. Chế độ chính trị cũng như thể chế xã hội do chính dân tộc đó hình thành. Hiển nhiên dân tộc tính của mỗi dân tộc một khác tùy theo hoàn cảnh, kẻ ở bên ngoài không thể dùng bạo lực cưỡng ép một kiểu xã hội nào khác. Ðó là thủ đoạn xâm lược của bọn độc tài, quân phiệt hay tài phiệt. Văn hóa là cái gốc của một dân tộc, bắt nguồn từ thời xa xưa nhất trong lịch sử của họ. Văn hóa của bất cứ dân tộc nào cũng phải đi theo một luật thiên nhiên là luật tiến hóa, bởi vì nếu không có tiến hóa ngày một tiến, mỗi ngày một mới, nền văn hóa đó sẽ chết. Tuy nhiên bất luận tiến cách nào, mỗi dân tộc qua các thế hệ trước sau đều không được quên cái gốc căn bản của mình. Ðó là tiến bộ mà không mất gốc vậy.

Giữ được gốc có lợi ích gì? Ðó là để không quên quá khứ vì quá khứ là những bài học kinh nghiệm cho cuộc sống hiện tại. Khi đã xác định được chỗ đứng trong hiện tại, chúng ta mới định hướng được bước đường tương lai, sẵn sàng tiến lên nữa, để khỏi bị lạc hậu với thời gian. Nếp sống dân chủ là nếp sống thích hợp nhất cho các dân tộc trên thế giới. Bởi vậy dân chủ bắt buộc phải nằm trong văn hóa của mỗi dân tộc. Ở đây vai trò của tôn giáo như thế nào? Tôn giáo chỉ là một thành phần của nền văn hóa mỗi dân tộc, nên tôn giáo cũng phải theo một định luật căn bản là do dân chúng một nước được tự do lựa chọn theo quy định dân làm chủ, chớ không thể dùng bạo lực hay võ khí cưỡng ép, uy hiếp phải theo đạo.

Chúng tôi thiết nghĩ: Khác hẳn thời xa xưa hơn hai ngàn năm trước khi xã hội loài người còn sơ khai, thời nay không có tôn giáo nào cầm súng cầm gươm đi truyền đạo. Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận một sự thật là có những kẻ lợi dụng đức tin tôn giáo để làm bậy. Những kẻ đó chỉ là một thiểu số, nhưng chúng đã phạm phải những trọng tội mà không một xã hội nào của con người có thể dung thứ. Những tin tức trên báo chỉ hàng ngày thường cho thấy những thiểu số đó đã sa lưới pháp luật và vấy một vết nhơ lên đức tin mà họ rao giảng. Về mặt quốc tế từ đầu Thế kỷ 21, một nhóm khủng bố đã lợi dụng đức tin Hồi giáo để gây ra những cuộc chém giết rùng rợn làm chấn động dư luận toàn thế giới, tạo nhiều khó khăn phức tạp cho các nước lớn.

Tôn giáo có mục tiêu chủ yếu là thức tỉnh lương tri của con người chớ không phải mê hoặc. Riêng tôi đã biết các học giả và khoa học gia trên Thế giới mới đây đã xác định “Phật giáo gần gụi với Cơ học Lương tử” hơn bất cứ tôn giáo nào khác.

Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh.




Thiện Ý : TỪ TUNISIA QUA YEMEN, ĐẾN AI CẬP, BAO GIỜ ĐẾN CỘNG SẢN VIỆT NAM?

TỪ TUNISIA QUA  YEMEN, ĐẾN AI CẬP, BAO GIỜ ĐẾN CỘNG SẢN VIỆT NAM?

 

Thiện Ý

        

       

        Cảnh sát chống bạo động đã xử dụng vòi rồng và lựu đạn cay cùng các vũ khí chống biểu tình đưa đến những cuộc đụng độ đổ máu. Đến nay, sau sáu ngày bạo động, đã có hàng trăm  người biểu tình bị chết và bị thương, hàng ngàn người bị bắt. Một số xe của cảnh sát có cả xe bọc thép và cơ quan chính phủ, trụ sở của đảng cầm quyền đã bị quần chúng biểu tình đốt cháy. Các cuộc  biểu tình của các giới người dân Ai Cập đã có chiều hướng gia tăng cường đô xung đột và mức độ lan rông khắp nơi với hậu quả khó lường. Chính quyền của Tổng Thống Mubarak đã ban hành  lênh giới nghiêm ở những nơi có biểu tình.

         Người ta được biết biểu tình là chuyện hiếm thấy xẩy ra tại Ai Cập, nơi mà Tổng Thống Mubarak và đảng Dân Chủ Quốc Gia của ông cai trị chuyên chế suốt hơn 30 năm qua và những người bất đồng chính kiến bị đối xử một cách không nhân nhượng, chỉ thua cường độ đàn áp các nhà bất đồng chính kiến tại Việt Nam dưới quyền thống trị độc tôn của đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều thập niên qua. Trước đây vào năm 2005 cũng đã có cuộc biểu tình lớn nhưng đã bị nhà cầm quyền dập tắt. Cuộc biểu tình lần này xuất phát từ các nhà hoạt động cho dân chủ kêu gọi quần chúng nổi dậy trong một thông điệp phổ biến trên mạng internet và đã được hàng chục ngàn người dân Ai Cập hưởng ứng .

        Theo tường thuật và hình ảnh của các hãng thông tấn quốc tế, được phổ biến rộng rãi trên màn ảnh truyền hình khắp thế giới, cho thấy những người tham gia biểu tình không chỉ thuộc giới thanh niên sinh viên nam mà cả phụ nữ, người buôn bán nhỏ; thậm chí cả công chức mang cặp và mặc veston, thắt cà vạt cũng tham dự biểu tình lần này. Mục đích của các cuộc biểu tình là đòi dân chủ, cải tổ chính trị và nhất là đòi Tổng Thống Mubarak phải từ chức vì là nguồn gốc chính yếu của tình trạng bức bách về chính trị, bất công xã hội và đời sống kinh tế khó khăn của nhân dân Ai Cập.

          Nguyện vọng của  người dân Ai Cập được thể hiện qua những biểu ngữ, khẩu hiệu được hô vang trong các cuộc biểu tình, trong đó có việc gọi đích danh Tổng Thống Mubarak là nhà độc tài và đòi ông từ chức lập tức. Vào thứ sáu tuần trước (28-1-2011) Tổng Thống Hosni Mubarak đã giải tán nội các, bổ nhiệm ông Omar Suleiman, phụ trách cơ quan tình báo Ai Cập vào chức  Phó Tổng Thống, một chức vụ bị bỏ trống từ khi Ông Mubarak nắm quyền Tổng Thống Ai Cập vào năm 1981, từ vị thế Phó Tổng Thống, vào thời điểm tổng thống Anouar el Sadate bị ám sát. Đồng thời Tổng Thống Mubarak cũng đã chỉ định tướng Ahmed Shafik, nguyên bộ trưởng bộ Hàng không làm thủ tướng thàng lập nội các mới. Nội các cũ do ông Ahmed Nazif đã bị tổng thống Mubarak giải tán hôm thứ sáu,28/01/2011.Tân phó tổng thống và tân thủ tướng Ai Cập đều là những người thân cận của tổng thống Hosni Mubarak.

         Tất cả nỗ lực cải tổ chính phủ này dường như vẫn không đáp ứng được yêu sách của quần chúng biểu tình, họ không muốn một sự cải tổ vá víu, mà muốn thay đổi hoàn toàn chế độ, với sự ra đi của cá nhân ông Mubarak và đảng cầm quyền chuyên chế, thay vào một chế độ dân chủ.

     Theo nhận xét của giới báo chí, sở dĩ lần biểu tình này có sự tham gia đông đảo,  với quyết tâm cao và không khoan nhượng là vì nhân dân Ai Cập được thúc đẩy từ sự thành công của “Cuộc cách mạng Hoa Nhài”  nổ ra ở Tunisia, cũng là một nước Hội giáo Châu Phi vào đầu tháng này, đã lật đổ được chế độ độc tài  của Tổng Thống Ben Ali. Nhiều người biểu tình ở Ai Cập tuyên bố sẽ tiếp tục cho tới khi lật đổ được chính quyền Mubarak. Chính cuộc “cách mạng Hoa Nhài” ở Tunisia thành công này cũng đã là cảm hứng cho nhân dân một nước Hồi giáo khác là Yemen xuống đường biểu tình rầm rộ ở thủ đô Sanaa,  đòi Tổng Thống  Ali Absullah Saleh phải từ chức cũng sau hơn 30 năm nắm quyền cai trị độc tài.

     Như vậy là chỉ trong một tháng đầu năm 2011 đã có các cuộc biểu tình qui mô lớn của nhân dân ở ba nước Hồi giáo là Tunisia, Yemen và Ai Cập. Tất cả các cuộc xuống đường này đều có nguyên nhân và mục tiêu giống nhau.

      Nguyên nhân là vì  nhân dân cả ba nuớc đều bị thống trị bởi ba nhà độc tài cầm đầu ba đảng độc tôn, cai trị độc quyền kéo dài trong nhiều thập niên. Hệ quả là các nhân quyền và dân quyền căn bản bị hạn chế hoặc bị tước đoạt, kinh tế bất ổn, giá cả leo thang, tỷ lệ thất nghiệp lớn, tham nhũng tràn lan và xã hội đây rẫy bất công, sự cách biết giầu nghèo sâu sắc với thiểu số chức quyền giầu có thống trị trên tuyệt đại đa số nhân dân lao động nghèo khổ. Hệ quả này đã gây bất mãn, phẫn nộ trong mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba nước .

      Và do đó mục tiêu tối hậu của các cuộc xuống đường biểu tình của nhân dân ba nước Tunisia, Yemen và Ai cập đều giống nhau là nhằm lật đổ những nhà độc tài đứng đầu nhà nước  và cả các đảng hậu thuẫn cầm quyền ở cả ba nước, để thay thế bằng những người cầm quyền và đảng phái chính trị biết  tôn trọng các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền và nhân quyền,  trong một chế độ dân chủ đa nguyên, một xã hội công bằng, đời sống kinh tế ổn định và bảo đảm hơn cho nhân dân lao động nghèo. Mục tiêu tối hậu này đã thành đạt tại Tunisia, một trong ba nước đã và đang muốn giành lại chính quyền bằng sức mạnh của quần chúng nhân dân qua các cuộc xuống đường biểu tình lật đổ chính phủ phản dân chủ.

       Tân chính phủ Tunisia nói là  họ sẽ công nhận các đảng chính trị bị cấm hoạt động, gồm cả tổ chức Hồi giáo…, đồng thời ân xá toàn bộ tù nhân chính trị.Loan báo này được đưa ra khi nội các Tunisia họp phiên đầu tiên, gần một tuần sau khi tổng thống Zine al-Abidine Ben Ali bỏ nước ra đi trước làn sóng phản đối của dân. Điều này có nghĩa là sau cuộc “Cách Mạng Hoa Nhài” thành công Tunisia sẽ đi theo chiều hướng chế độ dân chủ đa nguyên đáp đúng ý nguyện của nhân dân, phù hợp với xu thế thời đại: dân chủ hoá chế độ độc tài các kiểu và thị trường tự do hoá về kinh tế trên phạm vi toàn cầu.

       Trông người lại nghĩ đến ta. Nhân dân Việt Nam tự hỏi: Bao giờ Việt Nam sẽ có cơ hội thực hiện một biến động như thế, để nhân dân Việt Nam bằng sức mạnh “Tức nước vỡ bờ” của mình, vùng lên quật ngã tập đoàn thống trị độc tôn độc quyền là đảng cộng sản Việt Nam, để giành lại quyền làm chủ đất nước, trong một chế độ tư do, dân chủ thực sự?

        Lời giải đáp đã có ngay trong câu tự hỏi, rằng Việt Nam rồi cũng phải có một ngày như thế, nếu như…Cộng đảng Việt Nam vẫn ngoan cố. Bởi vì tiền đề dẫn đến sự nổi dậy của quần chúng thực tế đã có ở Việt Nam từ lâu, không khác mà còn có phần vượt trội các nước Tunisia, Yemen và Ai Cập, về cường độ và mức độ của các nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Tức nước vỡ bờ”.

         Thế nhưng, sở dĩ ở Việt Nam “đã tức nước”“chưa vỡ bờ” là vì tập đoàn đảng trị Cộng sản Việt Nam đã khôn lanh quỷ quyệt thực hiện chính sách “mềm nắn rắn buông”, biết “lùi kịp thời” để thoát hiểm trước áp lực của  nhân dân và đòi hỏi của quốc tế, để kéo dài tuổi thọ cho chế độ độc tài toàn trị cộng sản, đồng nghĩa với kéo dài thời gian cho một tập đoàn thống trị khai thác lợi nhuận độc quyền, bảo vệ các ưu quyền đặc lợi của giai cấp thống trị. Nhờ đó, mức độ “tức nước” của người dân khi gần đến biên độ “vỡ bờ”, thì nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam tìm cách “dừng bơm thêm hay xả bớt nước”bằng chiêu bài “hoãn binh chi kế”. Thực hiện chính sách khôn lanh này, có lẽ là hơn ai hết, họ đã thuộc nằm lòng quy luật đấu tranh giai cấp với luận điểm Marxist- Leninnist về tình thế cách mạng chín mùi, rằng:

         Khi mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị phát triển thành mâu thuẫn đối kháng với mọi giai cấp trong xã hội, là lúc “tình thế cách mạng chín mùi”, cuộc cách mạnh của quần chúng nổ ra nhất định thắng lợi. Vì khi đó giai cấp thống trị hoàn toàn bị cô lập, đến ngay các lực lượng nòng cốt bảo vệ giai cấp thống trị là quân đội, công an mật vụ cũng đứng về phía nhân dân, buông vũ khí không còn giám bắn vào người dân nữa.

         Luận điểm này đã như một quy luật được thực tế chứng minh qua sự sụp đổ tan tành từ nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên Liên Xô, kéo theo sự tiêu vong của cả hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Luận điểm này cũng đã manh nha trong các cuộc biểu tình của nhân dân Ai Cập hiện nay, với sự tham gia của hầu hết giai cấp bị trị trong xã hội đang có nguy cơ biến thành mâu thuẫn đối kháng (một mất một còn) của toàn xã hội với giai cấp cầm quyền, và một số nơi biểu tình và nhà tù cảnh sát, quân đội đã bỏ nhiệm sở, tù nhân tự phóng thích….Phải chăng “tình thế cách mạng sắp chín mùi” ở Ai Cập, để cuộc cách mạng của quần chúng nhất định sẽ giành được thắng lợi nay mai?

       Có thể nhờ thấm nhuần luận điểm đã như một quy luật về đấu tranh giai cấp Marxist-Lennist trên đây, cùng những bài học thực tiễn về sức mạnh của quần chúng nhân dân, mà Cộng đảng Việt Nam mới có được kinh nghiệm, thủ đoạn kéo dài được sự tồn tại, không chỉ 30 năm như các nhà độc tài ở các nước đang có sự nổi dậy của quần chúng, mà đã kéo dài chế độ độc tài toàn trị CS, áp bức, bất công hơn nửa thế kỷ qua (1954-1975 trên nửa nước và từ 1975- 2011 trên cả nước).

       Tuy nhiên, kéo dài được tuổi thọ cho chế độ, không có nghĩa là không có ngày tận vong, tập đoàn thống trị độc tài, độc tôn và độc quyền CSVN cũng thừa biết điều này. Có điều, rồi dây liệu tập đoàn thống trị này có đủ khôn ngoan để chọn “một cái chết êm ả trong môi trường mật ngọt” (tự nguyện tự giác trao trả lại quyền làm chủ thực sự cho nhân dân) hay chấp nhận “Một cái chết đau đớn trong môi trường mật đắng” ( bằng sức mạnh vùng lên của quần chúng nhân dân bị áp bức, bóc lột tận qua lâu đến tận cùng).

     Câu trả lời chính xác xin dành cho những người lãnh đạo chóp bu chế độ giả hiệu “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” bao gồm: Bộ tứ  Nguyễn Phú Trọng, , Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng, các thành viên Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư, Ban Chấp Hành Trung Ương đảng “Cộng Sản Việt Nam” (giả danh)

       Để góp ý thêm cho câu trả lời và hành động phù hợp với thực tiễn của tập đoàn thống trị Cộng sản Việt Nam, xin được lấy cái nhìn của kinh tế gia, nhà nghiên cứu chính trị nổi tiếng của Pháp là Jacques Attali, trong bài viết tựa đề "Tunisia, rồi sau đó?" đăng trên tờ L’Express hôm 19/01/2011, bình luận về sự kiện ở Tunesia mà ông gọi là “Cuộc cách mạnh hoa nhài”, rằng những gì xảy ra tại Tunisia không phải là điều bất ngờ. Cả thế giới biết rằng thực tế trong ít nhất hai mươi năm nay, làn sóng dân chủ đã tràn qua cả thế giới. lý do không phải bởi các diễn biến chính trị, mà chính vì nền kinh tế thị trường. Đất nước Tunisia, chuyển sang kinh tế thị trường, chỉ có thể trở thành một quốc gia dân chủ. Attali viết, “sau đó sẽ là các trường hợp của Ai Cập, của Việt Nam, Trung Quốc, các nước hạ Sahara ở châu Phi; và sau nữa có thể tới Algeria rồi Syria…”.

       Bởi vì, cũng đúng  như chúng tôi đã nhiều lần dùng thuật ngữ “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường” để lý giải về quá trình  tiêu vong của “chế độ độc tài toàn trị cộng sản” tại Việt Nam theo ý nghĩa câu tục ngữ Việt Nam có giá trị như quy luật “Mật ngọt chết ruồi”. Nghĩa là “Con ruồi cộng sản Việt Nam” đã và đang sa vào và sẽ chết dần trong môi trường “ mật ngọt kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa”.

         Vì chính trong môi trường này: các cán bộ đảng viên cộng sản đã và đang được “Tư sản hoá” (thành các nhà tư bản đỏ, các đại gia…)- Nhà nước cộng sản đã và đang được “Tư bản hoá” (Giải tư các ông ty quốc doanh…) và chế độ độc tài toàn trị đã và đang được “dân chủ hoá” từng bước ( Nhà cầm quyền đã phải trả dần các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền…).

         Vấn để chỉ còn là ở cuối quá trình “diễn biến hoà bình” này, tập đoàn thống trị Cộng sản Việt Nam có biết khôn ngoan hơn, tự nguyện tự giac trả lại đúng lúc toàn bộ quyền làm chủ cho nhân dân (chế độ dân chủ đa nguyên, đa đảng), hay phải để nhân dân nổi giận dùng bạo lực của quần chúng để đạp đổ bạo quyền, giành lại quyền làm chủ, như nhân dân các nước Tunisia, Yeman và Ai Cập đang làm.

Thiện Ý

Houston, ngày 31 tháng 1 năm  2011

 




Đấu Tranh Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền VN (Vi Anh)

Đu Tranh T Do, Dân Ch, Nhân Quyn Vn…  
Vi Anh

Công cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN của người Việt trong ngoài nước có còn hợp thời không? Việt Cộng nói lỗi thời. Nhưng sự thật không phải như Việt Cộng nói .
Chủ Nhựt 26 tháng Mười, tạp chí điện tử Cộng Sản có đưa ra một bài  "Dân chủ, nhân quyền – chiêu bài đã lỗi thời của các thế lực thù địch với cách mạng VN", của Ô Nguyễn duy Quý, một cán bộ cao cấp của CS theo thông lệ có nhiều chức lắm, Giáo sư, Viện sĩ, Cựu Viện Trưởng Viện Viện Khoa Học Xã Hội VNCS.
Nhà lý luận CS này có đưa ra một vài luận điểm để biện minh cho quan niệm nhân quyền của Đảng. Thí dụ như Tây và Đông khác nhau, Tây Phương không thể áp đặt quan niệm tự do, dân chủ của mình cho dân tộc VN và Ong còn lôi ra cả nguyên tắc chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc Việt để chứng minh quan niệm "nhân quyền cao hơn chủ quyền" là sai.
Lý luận của nhà lý luận CS trên tạp chí CS này không có  gì mới lạ. Từ khi Thế Giới Đại Đồng của chủ nghĩa CS tan vở theo Đông Au và Liên xô; từ khi cuộc đấu tranh giai cấp vô sản tiến lên Cộng sản trở thành đóng tro tàn sau Chiến Tranh Lạnh; từ khi  hai chế độ CS còn sót lại ở Á châu, Trung Cộng và Việt Cộng, " chuyển hệ tư duy, đổi sang kinh tế thị trường", CS Bắc Kinh và CS Hà nội  thường lợi dụng quốc gia chủ nghĩa để tiếp tục lợi dụng người dân, hoá giải áp lực nhân quyền của xu thế thời đại tư do, dân chủ trên thế giới.  Đó là lý luận mà phát ngôn viên ngoại giao của chế độ CS Hà nội, Lê Dũng, đã ra rả lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần rồi khi CS Hà nội bị nhân dân, chánh quyển các nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế phê bình, chỉ trích, phản đối vì đã vi phạm tự do, dân chủ, nhân quyền đối với chính người dân của mình.
Vì tự  do, dân chủ, nhân quyền là vấn đề của Con Người, của thời đại, có giá trị phổ biến, có tính toàn cầu, một tiến hoá của Nhân Loại.
Quyền sống của Con Người xứng đáng là người không thể nào thấp hơn chủ quyền quốc gia dân tộc mà người dân là người chủ, người làm ra, dựng nước, giữ nước. Không thể lấy chủ nghĩa quốc gia cực đoan để thủ tiêu, hy sinh quyền của người dân là chủ thể như  Trung Cộng và Việt Cộng đang làm sau khi huyền thoại thế giới đại đồng đổ vở sau Chiến Tranh Lạnh.
Nhưng đừng tưởng những lý sự cùn này của những người CS còn sót lại đang thống trị VN, đã và đang chà đạp nhân quyền  của người dân Việt không có tác dụng đối với ngưòi Việt.
Ở hải ngoại nếu Tú Xương sống lại thời này ắt sẽ than, "Chống Cộng ngày nay đã hết thời, Mười người chống Cộng chín người thôi. HO về nước tìm bò lạc. Tỵ nạn về quê kiếm sự đời" như nhiều người bi quan đã thấy. "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng" những người Việt tỵ nạn CS ở Mỹ, nơi chứa hơn phân nửa tổng số người Việt tỵ nạn CS trên thế giới. Mỗi năm người Việt tỵ nạn CS gởi về nước khoảng 8 tỷ. Mỗi năm không dưới 300 ngàn lượt người Việt hải ngoại đi về VN. Càng ngày Mỹ càng phát triển bang giao giữa Washington – Hà nội. Nhiều người trẻ tỏ ra cấp tiến, hòa nhập sâu sát với Mỹ, chủ trương bỏ quá khứ ra sau nhìn về tương lai phiá trước, muốn "hoà giải hòa hợp" với CS Hà nội. Thương buôn thì len lỏi về làm ăn, lợi dụng việc CS kềm giá tiền công, bóc lột mồ hôi nước mắt đồng bào, "ăn theo" với CS. Một số báo chí tiếng Việt ở hải ngoại đổi chiều, cầu an, núp dưới chiêu bài độc lập, vô tư của nghề  báo, âm thầm đón gió trở cờ hy vọng CS cho về VN ra báo và  cho quảng cáo ở Mỹ.
Càng ngày càng có nhiều người ở Mỹ, đặc biệt ở Little Saigon thủ đô của người Việt tỵ nạn CS, bớt đi biểu tình chống Cộng, sợ  CS có hình chụp được mình, không được đi VN hay đi VN bị công an làm khó dễ. Càng ngày CS Hà nội càng chiêu dụ Việt Kiều đem chất xám,  giấy xanh về về phục vụ quê hương, miển chiếu khán nhập cảnh, cho tamua nhà đất. Càng ngày CS Hà nội càng mở rộng và làm mạnh Nghị Quyết 36, để lũng đoạn hàng ngũ, phá hoại tinh thần Quốc gia của người Việt hải ngoại.
Tại sao? Tại vì bên cạnh những lý sự cùn đó, CS Hà nội đã dùng nhiều hư chiêu nhưng thực dụng câu móc và lũng đoạn tập thể người dân Việt trong ngoài nước. Trước Nghị Quyết 36 nhằm nhuộm đỏ VN Hải ngoại, Ô Võ văn Kiệt, Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn minh Triết nói nhiều, nhiều chuyện lắm, kể cả kiếm chuyện và vẽ chuyện để chiêu dụ "Việt Kiều.". Nào là chuyện quên quá khứ hướng về tương lai đất nước; chuyện ra quyết định dân sự hóa Nghĩa Trang Quân đội Biên Hòa; chuyện ra quyết định giải tư một số lớn quốc doanh; chuyện Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng đi diện kiến Giáo Hoàng Công Giáo La Mã; chuyện Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN sẽ xét không cho đảng, quân đội, và Mặt trận Tổ quốc làm kinh tế trong đại hội sắp tới; chuyện có thể mời một số "Việt kiều yêu nước" về làm quan sát viên tại Quốc hội; chuyện phát hành sách trắng về Tôn giáo và chánh sách tôn giáo tại VN; chuyện miển chiếu kh&aa
cute;n cho Việt kiều về VN; chuyện cho Việt kiều mua nhà ở VN; và chuyện Việt kiều được ứng cử bầu cử không.
Đừng tưởng những tuyên truyền CS nói trên không có ảnh hưởng trong hàng ngũ người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại. Tin ghi nhận được ở Au châu, có người định đến thảo luận dân chủ với nhân viên sứ quán Cộng Sản Việt Nam ở Hoà Lan vì cho rằng họ rất cởi mở. Có luồng tuyền truyền ngầm về hạ trào chống Cộng "10 người chống Cộng 9 người thôi". Tại sao không về nước nhà cho rõ sự tình, đất nước bây giờ xây dựng lại "giàu mạnh" lắm. CS cũng là người Việt tại sao không đem tiền bạc và kinh nghiệm, kiến thức về xây dựng quê hương. CS bây giờ đâu còn là CS nữa, Mỹ đã vào rồi, tại sao không dựa vào Mỹ về "tham chánh", chia ghế, "dựa vào chánh quyền" phát triển đạo;  chống Cộng làm gì nữa, đấu tranh với CS rồi "tránh đâu." Số ấy tuy tối thiểu số, nhưng có người lén về VN, đi bằng hai đầu gối định xin "chia ghế" nếu không được dân biểu thì làm quan sát viên…
Thực ra đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN, là một cách nói tích cực của việc chống Cộng,  là sự nghiệp của đời người, công trình của thế kỷ, là sự sống còn của  đất nước dân tộc, tuổi thọ tính bằng đơn vị, trăm hay ngàn năm. Không có chuyện hợp thời hay lỗi thời. Tình hình thay đổi, chiến thuật có thể quyền biến. Nhưng cứu cánh chưa đạt thì không thế nói công cuộc đó hợp thời hay lỗi thời. 75 năm  dai dẳng và âm thầm đấu tranh bằng nhiều cách, người dân Nga, các dân tộc bị Liên xô đồng hoá thành cộng hòa trong Liên bang sô viết, và các nước Đông Au mới lật được chế độ CS, có ai nói lỗi thời hay lạc hậu đâu. 
 
                                                                                                                               VI ANH
 




GS SD Nguyễn Viết Khánh: VĂN HÓA VÀ TÔN GIÁOTinh Thần Lưỡng Đảng

Tinh Thần Lưỡng Đảng

Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

Tổng Thống Barack Obama đã từ trại David trở về Bạck Ốc kết thúc vụ nghỉ hè của ông, sẵn sàng đối phó với những khó khăn đang chờ đợi. Quốc hội cũng hết hạn nghỉ hè và tái nhóm thứ Ba tuần này. Đến thứ Tư, Obama sẽ ra trước Lưỡng viện Quốc hội đề cập đến tất cả những khó khăn đối nội cũng như đối ngoại. Trong các vấn đề này về mặt đối ngoại có hai chuyện cấp bách cần phải có quyết định sớm chớ không thể chần chờ để thương lượng như mọi vấn đề ngoại giao thông thường. Đó là hai cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan, nơi số thương vong Mỹ và đồng minh cũng như dân chúng tiếp tục gia tăng.
Tại Iraq trên toàn quốc hôm thứ Hai đầu tuần có 12 người dân, kể cả 2 trẻ em bị chết vì bom. Trong số này có 8 người chết vì xe bom tự sát ở một trạm kiểm soát tại thị trấn Ramadi, một cứ địa trước đây của al-Qaida. Thị trấn này có 540,000 dân, thuộc tỉnh Anbar nằm ở phía Tây Iraq, tức gần nước Syria. Hồi tháng 9 năm ngoái, Thủy quân Lục chiến Mỹ đã trao quyền kiểm soát bảo vệ an ninh của Anbar cho 28,000 Cảnh sát và 8,000 binh sĩ Iraq. Ngoài ra cũng trong ngày thứ Hai, các vụ tấn công xe hơi ở thủ đô Baghdad đã khiến 2 thường dân chết và 11 người khác bị thương. Đồng thời tại Kirkuk, một thị trấn ít người, hai anh em nhỏ 9 và 14 tuổi đã bị chết vì bẫy mìn trong khi chúng vui chơi. Tính từ ngày 1 tháng 9 đến nay ở Iraq có 450 người Iraq chết – 393 thường dân, 48 Cảnh sát và 15 lính – con số cao nhất từ tháng 7 năm 2008 khi có 465 người chết. Ngày 19 tháng 8 vừa qua, vụ khủng bố tấn công các bộ Ngoại giao và Tài chính của chính phủ Iraq đã giết chết 19 người và làm 600 người bị thương ở ngay Thủ đô Baghdad. Dư luận Mỹ đang đặt câu hỏi liệu chính quyền của Maliki có giữ nổi Baghdad sau khi quân Mỹ rút lui hay không?
Trong khi đó mặt trận Afghanistan còn tệ hại hơn. Đầu tuần này một nhóm độc lập tranh đấu cho Nhân quyền loan báo một vụ bắn phi đạn của chiến đấu cơ NATO hôm thứ Sáu tuần trước nhắm vào 2 xe bồn chở xăng bị quân khủng bố cướp đi, đã làm chết 70 thường dân khi bồn xăng trúng đạn bị nổ tan. Hai phi cơ này là của Không quân Mỹ đã hành động theo lời yêu cầu của bộ Tư lệnh Đức trong thành phần đồng minh của NATO. Ngay từ tuần trước sau khi đánh phá 2 bồn xăng, bộ Tư lệnh Đức đã nói cần phải đánh ngay các bồn xăng vì e ngại bọn khủng bố sẽ dùng làm xe bom tự sát đánh thẳng vào đồn binh của quân Đức trong tỉnh Kunduz gần đó. Mohammad Omar, Thống đốc tỉnh Kunduz nói ông ủng hộ vụ đánh bồn xăng, vì có đến 72 tay súng Taliban vị chết cùng một lúc. Nhưng bọn Taliban cũng ra một thông cáo kêu gọi Liên Hiệp Quốc điều tra vụ oanh kích vì có đến 500 dân làng chết. Vụ Taliban đưa ra con số dân chết quá lớn hiển nhiên là bịa đặt, nhưng vụ đánh hai xe bồn xăng chỉ có 2 tên khủng bố chết, còn dân làng ùa ra ngoài để múc xăng khi xăng chẩy lênh láng, đến lúc lửa bắt tới làm nổ bồn xăng đã khiến 70 người dân chết.
Vụ quân đồng minh NATO dùng võ lực quá đáng cũng gây ra sự bất mãn. Một nhóm Từ thiện đầu tuần này tố cáo quân lực Mỹ đã phá cửa xông vào một bệnh viện hàng tỉnh, bắt trói nhân viên bệnh viện và cả những người từ bên ngoài đến bệnh viện thăm người nhà nằm ở đó. Các vụ dùng sức mạnh quá lố như vậy đã làm dân chúng Afghanistan nổi giận và cả dư luận bên ngoài cũng phê phán. Vì thế tướng Mỹ Stanley McCrystal, vị tư lệnh cao nhất của Mỹ và NATO đã đưa ra những lệ luật rõ ràng để tránh gây thương vong cho người dân. Ông hứa sẽ điều tra vụ phi cơ đánh 2 bồn xăng. Trước tình thế đó đa số dư luận Mỹ đã tỏ ý muốn Mỹ rút quân khỏi Afghanistan.
Vụ tấn công 2 bồn xăng cũng làm dư luận ở Đức phẫn nộ, báo chí Đức loan tin và đưa ra những hình ảnh những người chết nằm la liệt ở gần nơi xẩy vụ không kích, làm gia tăng phong trào chống chiến tranh Afghanistan ở nước Đức. Hiện có 4,200 quân Đức đóng ở Bắc Afghanistan – đây là thành phần quân lớn thứ ba sau Mỹ và Anh trong khối NATO. Đức rất ngần ngại, không muốn gia tăng thêm quân ở nơi này, trái với chủ trương hiện nay của NATO. Dân Đức sợ lính của họ sẽ chết thêm. Đối với dân Đức hiện nay, vụ quân Đức tham chiến ở nước ngoài chỉ gợi lại cho họ những hình ảnh không vui của thời quân phiệt Đức Quốc xã. Tổng Thống Obama đã có quyết định từ trước là sẽ tăng thêm quân Mỹ ở Afghanistan. Nhưng tình thế có vẻ đã có những biến chuyển mới. Ngày 28-8, Afghanistan đã có cuộc bầu cử Tổng Thống, cho đến nay vẫn chưa có kết quả chính thức. Tin mới nhất cho biết cựu Tổng Thống Karzai đã dẫn đầu 54%, nhưng đối thủ Abdullah Abdullah liên tục tố cáo Karzai gian lận trong việc kiểm phiếu. Một Ủy hội kiểm tra độc lập được LHQ ủng hộ đã yêu cầu xét lại kết quả bầu cử. Sự nghi ngờ có gian lận sẽ gây khó khăn cho Tây phương trong nỗ lực ổn định tình hình Afghanistan và tạo sự ủng hộ của dân chúng trong công cuộc tiễu trừ bọn Taliban.
Về mặt đối nội TT Obama gặp những khó khăn chồng chất về việc biểu quyết ngân sách quốc gia, liên quan đến một vụ đã được dân ch&uacute
;ng theo dõi từ lâu qua các màn tranh cãi đối nghịch gay go giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ về Bảo hiểm Y tế. Tối thứ Tư khi ông ra trước Quốc Hội Lưỡng viện, đó là một sự thử thách rất lớn cho 8 tháng đầu của nhiệm kỳ Tổng Thống của ông. Mặc dù đảng Dân Chủ có đa số tại cả hai viện, nhưng cả hai đảng đều có những phần tử cực đoan chống lại sự cải cách Bảo hiểm y tế. Khi còn ở trại David thứ sáu tuần trước, Obama đã nói chuyện với Chủ tịch Hạ viện, bà Nancy Pelosy, và Thượng nghị sĩ Harry Reid, lãnh tụ đa số Dân chủ tại Thượng viện.
Tại Ủy ban Tài chính Thượng viện hiện nay có một nhóm 6 Nghị sĩ, 3 Cộng Hòa và 3 Dân Chủ, đang nỗ lực tìm một sự dung hòa giữa hai đảng để thông qua đạo luật Cải tổ Bảo hiểm Y tế của TT Obama. Trong nhóm này có TNS Max Baucus (Dân Chủ) đề nghị kế hoạch lập các hãng bảo hiểm không lấy lời để cạnh tranh với những công ty bảo hiểm lấy lợi nhuận như hiện nay vẫn có. Baucus cho biết ông sẽ đưa ra đề nghị này nếu cho đến ngày 15 tháng 9 vẫn không đạt được sự dung hòa giữa hai đảng về Bảo hiểm Y tế. Báo New York Times cũng ghi nhận một yếu tố rõ rệt nhất của đề nghị cải tổ Bảo hiểm Y tế do Obama đưa ra là làm cho kế hoạch của chính phủ cạnh tranh với Bảo hiểm của các đại công ty tư nhân, để bớt gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Liệu hai bên Cộng Hòa và Dân Chủ có đi đến sự dung hòa theo tinh thần hợp tác lưỡng đảng không? Chúng tôi mong có chuyện đó. Chúng tôi thiết nghĩ tinh thần lưỡng đảng có nghĩa là làm việc có lợi cho dân, không phải cho bất cứ đảng nào hay cho cả hai đảng. Nếu thiếu yếu tố đó, tinh thần lưỡng đảng sẽ không còn ý nghĩa gì nữa.

 SƠN ĐIỀN NGUYỄN VIẾT KHÁNH




Nguyễn Phúc Bảo Ân : VIETNAM SE BIEN THANH MOT TINH CUA TRUNG-QUOC ?

VIETNAM SE BIEN THANH MOT TINH CUA TRUNG-QUOC,
DIEU DO CO THE KHANG-DINH ROI "ME VIETNAM OI" ! !

XEM KẾ HOẠCH CHIẾM VIỆT NAM TỪNG PHẦN CỦA BỌN TRUNG CỘNG, ĐƯỢC SỰ TIẾP TAY CỦA BỌN VIỆT CỘNG BÁN NƯỚC. THEO KIỂU NÀY THÌ BỌN TÀU CỘNG SẼ TỪ TỪ NHUỘM  HẾT VIỆT NAM CỦA MÌNH RỒI.

 

 

 Một tiểu vương quốc của Thiên Triều của Mao Xếnh Xáng: "China Town" đầu tiên vừa được bác Hồ Cẩm Đào cho khởi công xây dựng tại tỉnh Bình Dương, Việt Nam vào hôm 22 tháng 5 vào đúng dịp bầu cử quốc hội bù nhìn của chư hầu Nam Man.

Phác thảo thiết kế Chinatown tại tỉnh Bình Dương.

Báo lề phải cho biết công trình này là một trung tâm thương mại có tên Ðông Ðô được xây dựng tại thành phố Bình Dương trên một diện tích hơn 8,000 m2, cao 3 tầng, “mang đậm nét kiến trúc truyền thống của Trung Hoa Mẫu Quốc”.

Cũng theo lề phải, Trung Tâm Thương Mại Ðông Ðô là trung tâm điểm của dự án “Ðông Ðô Ðại Phố” – khu thương mại đầu tiên dành cho người Hoa tại Bình Dương, rộng 26 ha với tổng vốn đầu tư lên hơn 6,000 tỉ đồng, tương đương 300 triệu đô la Mỹ.

Mặc dù chưa xác định chừng nào thì công trình xây dựng hoàn thành nhưng nguồn tin này nói trước rằng Ðông Ðô Ðại Phố sẽ là “khu thương mại phồn thịnh và sung túc nhất của thành phố Bình Dương và là cầu nối thương mại giữa tỉnh Bình Dương và Bắc Kinh, đây là một nổ lực của chính quyền trung ương Bắc Kinh nhằm kéo dài lãnh thổ của Thiên triều xuống tận Vĩ Tuyến 10”.

Từ xa xưa, khu vực Chợ Lớn được coi là vùng đất qui tụ đông đảo người Việt gốc Hoa đến sinh sống, làm ăn từ trước năm 1975. Sau cuộc chiến tranh giữa mẫu quốc Trung cộng và Việt Nam cộng sản hồi năm 1979 tạo ra một thảm cảnh “nạn kiều – bài Hoa” và các chiến dịch “bài trừ tư sản mại bản” của chế độ Cộng Sản Việt Nam đã đẩy hàng vạn người Hoa cùng với người Việt ào ạt xuống tàu vượt biên đi tìm tự do ở khắp các châu lục.

Gần đây, cháu con của Mao Chủ Tịch từ Mẫu Quốc Trung Cộng được chính quyền trung ương Bắc kinh đưa đi xây dựng kinh tế mới ở khắp các tỉnh thành của Việt Nam từ ải nam Quang đến tận mũi Cà Mau, với số lượng ngày một đông dần. Người ta ước tính tại tỉnh Bình Dương hiện có khoảng 120,000 “người Hoa mới” đến làm ăn sinh sống, đông nhất là vùng Lái Thiêu, thị xã Thuận An, thị xã Thủ Dầu Một, Tân Uyên…
Với dân số trên 1 tỷ 300 triệu người như hiện nay, chính quyền Trung Ương Bắc Kinh đang có kế hoạch mở rộng lãnh thổ Đại Hán xuống Đông Dương bằng cách di dân đường dài đến xây dựng các khu kinh tế mới tại hầu khắp các tỉnh thành của Ai Lao, Cam Bốt và An Nam. Với việc khởi công xây dựng khu China Town tại Bình Dương vào sáng 22 tháng 5 vừa qua, lãnh thổ Đại Hán của Bác Hồ Cẩm Đào đã kéo dài xuống tận vĩ tuyến 10.

Nguyễn Phúc Bảo Ân


Chuyện Xứ Người:

Thật khó ai có thể hình dung được rằng vào tháng 10 năm 1949, khi vệ binh Trung Cộng cưỡng chiếm một quốc gia hoàn toàn độc lập chủ quyền – Cộng Hòa Đông Thổ- East Turkistan – của người Duy Ngô Nhĩ – Uyghur để sát nhập vào nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa của Mao Chủ tịch, thì tỷ lệ người Hán trên cả xứ Tân Cương này chỉ xấp xỉ 4% vậy mà chỉ với 60 năm cai trị và áp đặt chính sách Hán hóa trên lãnh thổ tự trị Tân Cương này, đến nay, tỷ lệ người Hán đã lên đến 46%, nghĩa là chiếm gần một nữa dân số của xứ tự trị này.

HOA LÀI CUỘC CÁCH MẠNG THẦN TIÊN

 

Cách mạng Hoa Lài chính là bão lửa,

Ta hãy châm mồi cho lửa cháy bùng lên.

Kìa lửa thiêng như tiếng trống vang rền,

Làm nung nấu ngàn trái tim dũng liệt.

Cách mạng Hoa Lài chính là tiếng thét,

Hun đúc ta bầu nhiệt huyết Ông Cha.

Thúc giục ta bừng dậy cứu Sơn Hà,

Dân tộc thoát can qua cơn quốc nạn.

Cách mạng Hoa Lài có tôi bên bạn,

Đứng lên đi hỡi tuổi trẻ Việt Nam.

Hoa Lài đó bạo quyền đang run sợ,

Hoa Lài kia nhân loại ở cùng ta.

 

 

Đừng sợ nữa toàn dân hãy đứng dậy,

Đừng sợ nữa Hoa Lài khắp đó đây.

Hoa Lài đó trào lưu của thế giới,

Hoa Lài ơi ! Tổ quốc gọi ta đi.

Bao năm sống cuộc đời ô nhục,

Bao năm rồi sông núi ngả nghiêng.

Bao năm dài tang thương vì bạo quyền,

Bao năm dân máu lệ chảy triền miên.

Trịnh Xuân Tùng chết trong tay bạo quyền,

Lê Xuân Dũng, Nguyễn Hữu Nam chết oan khiên.

Và lớp lớp dân oan trong xích xiềng,

Đây Hoa Lài cuộc cách mạng thần tiên.

 

LÊ CHÂN

 

Đứng Lên Việt Nam!

Đứng Lên Việt Nam!

Tiếng kêu từ đất Mẹ,

Đang rên xiết quặn đau.

Tiếng kêu từ đất nước,

Sôi sục máu dâng trào.

 

Tiếng kêu hồn dân Tộc,

Đạp sóng dử trùng dương.

Xóa cuộc đời tăm tối,

Bừng lên ánh thái dương.

 

Mẹ ! Mẹ Việt Nam ơi!

Tiếng kêu vang đất trời.

Tiếng Mẹ kêu quật khởi,

Hãy trổi dậy con ơi !

Mẹ gọi con nữ kiệt,

Mang dòng máu Trưng vương.

Mẹ gọi con chiến sĩ,

Hãy mau tiếp lên đường.

Ôi ! trái Tim của Mẹ,

Là biển trời bao la

Mẹ Việt Nam rướm máu,

Trong con lệ sót xa

Tuổi trẻ Việt Nam ơi !

Giờ lịch sử đến rồi,

Cờ vàng bay phất phới,

Hồn sông núi rạp trời.

Hãy trổi dậy con ơi !

Hãy khắc ghi trong đời

Quốc gia là tất cả

Đây xương máu Ông Cha.

Nhìn non sông nghiêng ngả

Ai vò nát tim ta.

Vì tương lai thế hệ

Là ước vọng vươn xa.

 

LÊ CHÂN

 


http://www.youtube.com/watch? v=5MDYMN7DqIk

 

Đời Đời Nhớ Ơn quân cướp nước? (Ngô Nhân Dụng)

Đời Đời Nhớ Ơn quân cướp nước?
Ngô Nhân Dụng
Đảng CSVN xuống tệ đến như vậy rồi sao?
Tôi đi thăm La Phù Sơn ở tỉnh Quảng Đông vào đầu Tháng Hai 2009. Trong sân trước Xung Hư Cổ Quán, một ngôi đền theo Đạo giáo rất đông đảo khách thập phương, với những lư thắp nhang khổng lồ nghi ngút khói, một người Trung Hoa tò mò hỏi chúng tôi người nước nào. Khi biết chúng tôi là người Việt Nam, anh ta đã lớn tiếng nói, như giải thích cho những người Trung Hoa đứng chung quanh cùng nghe. Tôi nghe lỏm bõm, nhưng biết anh muốn nói rằng họ nên “hữu hảo” với ông già người Việt này. Vì các nước Miến Điện, Cao Ly, và Việt Nam cùng với Trung Quốc, bốn nước thực ra chỉ là một nước mà thôi, tất cả cũng như là đồng bào! Anh có dáng điệu mạnh bạo, quả quyết khi đưa tay giảng cho những người đang xúm lại lắng nghe. Nhưng khi nhìn tôi anh có đôi mắt sắc khiến tôi cảm thấy rờn rợn.
Đúng là vào đời Đường thì nước ta, Hàn Quốc, Tây Tạng, có lúc đã được nhập vào nước Trung Hoa hàng mấy thế kỷ. Nếu không có Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền, nếu không có Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, thì có thể biên giới Trung Quốc bây giờ lan tới tận Pleiku và Hà Tiên hoặc Xiêm Rệp! Người Quảng Đông đã từng lập vương quốc Nam Việt khi văn hóa của họ còn khác hẳn người Hán, nhưng bây giờ họ hãnh diện là con dân của Trung Quốc. Nước Đại Lý cũng là một quốc gia hùng cường, độc lập, cho tới thế kỷ 12 bị quân Mông Cổ xâm chiếm, từ đó người Bạch trở thành người Tầu. Nhưng rất khó giải thích cho người Trung Hoa hiểu rằng dân Việt Nam đã độc lập từ thế kỷ thứ 10, và nhóm người Việt này không bao giờ muốn được hơn một tỷ người Trung Quốc coi là đồng bào cả.
Mười năm trước, tôi đã có lúc thấy cảm giác rợn người giống như vậy, trong một chuyến đi thăm Quế Lâm. Một cô hướng dẫn địa phương đón chào nhóm du khách chúng tôi cũng hỏi thăm mọi người từ nước nào tới. Sau khi cho biết cả đoàn gốc đều là người Việt Nam, mắt cô sáng lên. “Việt Nam?” Cô hỏi, phát âm theo tiếng Việt chứ không gọi là “Duế Nàn” theo tiếng Tầu. Xác nhận rồi, cô bèn nhoẻn miệng cười rất tươi và cất tiếng hát, bằng tiếng Việt: “Việt Nam, Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông!” Giọng ca cô rất tốt và hát đúng giai điệu, phát âm tiếng Việt rõ từng chữ!
Nghe câu hát đầy thiện cảm của cô gái xinh đẹp và lịch duyệt đó, tôi cảm thấy ớn lạnh dọc đường xương sống. Nghe hãi thật. Núi liền núi, sông liền sông, đi mấy bước là tới! Có lẽ tôi thuộc loại người dễ xúc động quá nên mới có phản ứng như vậy. Nhưng có lẽ nhiều người Việt cũng sẽ cảm thấy thế sau mấy ngày đi qua các thành phố ở nước Trung Hoa thấy họ đầy những người là người, người đi nờm nợp, người bước ào ào, chen chân nhau trên lề đường, lách tránh nhau trên xa lộ, đông người quá. Và sau khi đã chứng kiến cảnh muôn ngàn người Trung Hoa làm việc, buôn bán, rán dầu cháo quẩy, đẩy xe, rao hàng, mặc cả, tiêu thụ, ăn uống trong nhà hàng, cười nói oang oang, ca hát, nhẩy múa, tập Thái Cực quyền khắp các chỗ đất trống ngoài công viên, bên bờ hồ, ngay ngã tư đường, khắp nơi. Ai cũng phải cảm thấy nước họ lớn quá, dân họ mạnh quá, và đông người quá, cảm thấy điều đó ngay trong da trong thịt muốn tức thở của mình! Nghĩ đến nước Việt Nam mình thì thấy người mình ít, dân lại nghèo, kinh tế còn chậm tiến hơn họ rất nhiều. Khi tai nghe một người Trung Quốc hát câu “núi liền núi, sông liền sông” đúng giọng y như người Việt, thấy hãi quá! Giá như có thêm núi, thêm sông ngăn cách xa hơn một chút, thì chắc yên tâm hơn!
Tôi đoán nếu có người Việt Nam nào sang Campuchia mà hát một bài đại ý, “Việt Nam, Cam Bốt, núi liền núi, sông liền sông” thì nhiều người Campuchia nghe cũng sẽ cảm thấy lạnh gáy, tự hỏi những người Việt này có “ý đồ” gì!
Khi Hồ Chí Minh còn sống, đảng Cộng Sản Việt Nam thân thiện với Cộng Sản Trung Hoa cho nên đã có những bài hát ca ngợi mối tình “trước là đồng chí, sau là anh em” giữa hai đảng, rồi kéo cả nước Việt Nam vào làm anh em hữu hảo với Trung Quốc luôn, di hưởng đến bay giờ.
Trong bài hát của Đỗ Nhuận có những câu thân thiện, nghe còn rợn người hơn nữa: Bên sông tắm cùng một dòng – Tôi nhìn sang đấy, anh nhìn sang đây – Sớm sớm chung nghe tiếng gà gáy cùng. Á a! Chung một ý, chung một lòng – Đường ta đi rực mầu cờ cách mạng. Á a, nhân dân ta ca muôn năm: Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông!”

Thử tưởng tượng người dân Việt ở Thanh Hóa hay Pleiku mà hát Á a như điệu Hồ Quảng, rồi nghĩ mình có ngày “tắm cùng một dòng sông” và “sớm sớm chung nghe tiếng gà gáy” cùng với các đồng chí Trung Quốc ở Quảng Đông, thì cũng hãi thật! Nếu tránh được thì ai cũng cố tránh! Bây giờ đảng Cộng Sản Trung Quốc dù không theo chủ nghĩa nào thì chắc họ cũng không bỏ ý muốn “núi liền núi, sông liền sông!”

Tôi xin xác nhận trong lòng không nuôi mối thù oán nào đối với người Trung Hoa. Trái lại, đi thăm đất nước họ nhiều lần, chỉ vì tôi rất yêu văn hóa Trung Hoa, từ ông Khổng Tử đến các ông Đỗ Phủ, Lý Bạch, Tô Đông Pha, cũng như Chiêu Quân, Thúy Kiều. Trong chuyến đi vừa rồi tôi đã “gặp lại” Tô Đông Pha ở Tây Hồ thành phố Huệ Châu, ở cây cầu Hội Tiên Kiều bên cạnh hồ Bạch Liên ở La Phù Sơn. Cả trong đường hầm với những hang động đào xuyên ngọn núi này, nơi các sư tổ đời xưa luyện công phu và thiền quán, cũng có tượng Tô Đông Pha nữa! Mỗi lần, lại thấy như gặp cố nhân từ nhiều kiếp trước!
Nhưng người Việt Nam quý mến văn hóa Trung Hoa đến đâu cũng không quên được là phải giữ mình, không nên bất cẩn, nếu không dân mình sẽ thành dân Trung Quốc hết. Và khi chìm trong cái nước vĩ đại đó, cả dân tộc mình sẽ thành một nhóm thiểu số, một nhóm rất nhỏ, giống như người Hồi, người Bạch, người Choang, người Tây Tạng vậy.
Nhiều người Việt Nam thán phục nền văn minh Trung Hoa, chúng ta đã học hỏi được rất nhiều và sẽ còn học thêm nhiều nữa. Nhưng trên mặt chính trị, ngoại giao, thì không người Việt Nam nào không dè dặt, lo ngại khi nghĩ đến chuyện phải đối đầu với quốc gia vĩ đại này.
Một điều nguy hiểm là chính quyền nước đó hiện giờ là một nhà nước độc tài, họ không chịu trách nhiệm với dân chúng. Họ có thể hy sinh dân họ, vì những lý do không ý nghĩa, không bổ ích, mà không lo sẽ bị dân bỏ phiếu bất tín nhiệm. Thí dụ như cuộc chiến tranh Trung Việt năm 1979. Đặng Tiểu Bình xua quân sang đánh Việt Nam, san thành bình địa những thành thị, những xóm làng, nhiều lần giết tập thể hàng trăm thường dân, chỉ vì muốn dậy cho đảng Cộng Sản Việt Nam một bài học về tội vong ân. Cuộc chiến kéo dài hai, ba tuần làm chết hàng chục ngàn người mỗi bên, cuối cùng không ích lợi gì cho nước Trung Hoa cả. Nhưng không một người Trung Hoa nào dám tỏ ra bất đồng ý kiến với nhà lãnh tụ cộng sản.
Đứng ở địa vị người dân Trung Hoa thì nếu nước họ không do một đảng độc tài cai trị, nếu họ có quốc hội độc lập để kiểm soát Hành pháp, nếu có báo chí tự do phê phán nhà nước, thì chắc bao nhiêu binh lính của họ không phải bỏ mạng ở Việt Nam vào năm 1979, những cai chết vô ích. Cái hại của những chế độ độc tài là như thế. Cho nên trong lịch sử không thấy những nước theo chế độ dân chủ tự do lại gây chiến với nhau. Khi người dân được quyền phán xét và quyết định thì bao giờ dân cũng tìm cách tránh chiến tranh.
Cái hại của chế độ độc tài ở Việt Nam cũng giống hệt như ở Trung Quốc. Tại sao Đặng Tiểu Bình muốn dậy Cộng Sản Việt Nam một bài học? Vì Lê Duẩn đã vong ân đối với Cộng Sản Trung Quốc thật. Sau bao nhiêu năm được Bắc Kinh viện trợ từ cây đinh, từ sợi chỉ đến nắm cơm sấy nuôi quân để xâm chiếm miền Nam Việt Nam, Lê Duẩn đã quay ngược lại, suy tôn Liên Xô là tổ quốc thứ hai, đoạn giao đến mức ghi vào hiến pháp gọi Trung Quốc là một kẻ thù truyền kiếp! Đó là nguyên nhân chính gây ra tất cả những xung đột giữa hai nước sau đó, kể cả cuộc xâm lăng năm 1979. Nếu Việt Nam được sống trong một chế độ tự do dân chủ thì người dân không bao giờ cho phép chính quyền có những chính sách ngoại giao dại dột như vậy. Gây thù hận và làm mất thể diện một quốc gia lớn láng giềng là điều không thể tưởng tượng nổi. Một chính quyền độc tài đảng trị, khi họ chỉ cần theo ý đảng không cần hỏi đến ý dân, mới có những quyết định điên rồ, để đưa tới một cuộc chiến tranh tàn hại như cuộc chiến Việt Hoa vào Tháng Hai năm 1979.
Một điều đáng kinh ngạc là cũng chính đảng Cộng Sản Việt Nam đó, bây giờ lại đổi thái độ quay ngược chiều, không những kết thân với Trung Quốc mà còn hoàn toàn thần phục, quỵ lụy đến mức lố bịch đối với nước đàn anh cộng sản. Có chứng cớ hiển nhiên.
Ngày hôm qua trên Nhật Báo Người Việt đã đăng tin về cảnh những người Việt được dẫn đi thăm nghĩa trang “Long Châu, Thủy Khẩu Trung-Việt Liệt Sĩ Mộ Viên,” nơi chôn những người lính Trung Quốc chết khi sang đánh Việt Nam, và những người lính Việt Nam bị thương và bị bắt mang về Trung Quốc rồi chết ở đó nhưng không được trả xác về quê hương mình.
Chúng ta kính trọng những tử sĩ hy sinh vì quốc gia của họ, người Việt hay người Trung Quốc cũng thế. Dù họ làm theo lệnh chế độ nào chỉ huy, họ đều xứng đáng được tưởng niệm và ai điếu. Những ai đến biên thùy Pháp Đức, đi thăm nghĩa trang chôn tử sĩ của hai đạo quân thù nghịch qua bao trận chiến tranh, đều có thể đến nghiêng mình trước những người lính đã hy sinh cho tổ quốc của họ.
Nhưng người Việt Nam khi đến thắp hương trên mộ những tử sĩ của quân đội Trung Quốc có thấy mình phải tỏ lòng “biết ơn” các chiến sĩ Hồng quân Trung Hoa đã sang đánh nước mình hay không? Chắc chắn là không.
Nhất là những người dân xã Đề Thám, thuộc thị xã Cao Bằng. Hai thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn đã bị quân đội Trung Quốc “làm cỏ” trong hai tuần lễ xâm lăng. Đài phát thanh BBC mới kể chuyện bà Hoàng Thị Lịch, năm nay 72 tuổi, đã chạy trốn khỏi nhà ở huyện Hòa An, Cao Bằng khi quân Trung Quốc đánh, trước đây 30 năm. Bà cho biết, 18 ngày sau khi quân Trung Quốc phải rút về, họ đi qua vùng bà ở, và họ đã bắt 43 thường dân, gồm những đàn bà, trẻ con, người già không chạy được, đem chém giết hết. Ngày hôm qua Nhật Báo Người Việt đã in bức hình tấm bảng ghi lại cuộc thảm sát này, chôn dưới chân một bụi tre ở xã Hưng Đạo, huyện Hòa An. Trong tấm bảng ghi nguyên văn là “Quân Trung Quốc xâm lược dùng cọc tre, búa bổ củi, đập chết 43 phụ nữ và trẻ em, quăng xuống giếng nước.” Cảnh tàn sát thường dân không phải chỉ xẩy ra ở xã Hưng Đạo, huyện Hòa An. Nơi nào quân Trung Quốc đi qua trong cuộc xâm lăng năm 1979 đều có thể diễn ra những cảnh như vậy.
Bên cạnh hình ảnh tấm bảng đó, hôm qua báo Người Việt in hình ảnh một vòng hoa ở nghĩa Trang Long Môn, với hàng chữ viết: “Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Xã Đề Thám – Đời Đời Nhớ Ơn Các Liệt Sĩ Trung Quốc.”

Không tưởng tượng nổi! Nếu vì phép lịch sự khi viếng mộ, người ta có thể viết hai chữ “Kính Viếng” hoặc “Thương Xót” những người đã chết, dù họ từng là kẻ thù của dân tộc mình. Nhưng tại sao phải nói “Đời Đời Nhớ Ơn?” Ơn gì? Ơn cướp nước, ơn đốt nhà, phá cầu, phá đường, ơn tàn sát những thường dân vô tội hay sao?
Chúng ta biết rằng chính quyền một xã như xã Đề Thám không bao giờ dám quyết định viết “Đời Đời Nhớ Ơn” những người lính Trung Hoa đã sang giết dân mình. Họ phải được lệnh của cấp trên. Hoặc ít nhất họ đã hỏi ý cấp trên trước khi đặt vòng hoa, và được khuyến khích viết những hàng chữ “Nhớ Ơn” như thế. Cấp trên nào? Cấp huyện? Cấp tỉnh? Không chắc những người ở những cấp này dám quyết định bắt dân chúng Việt Nam “Đời Đời Nhớ Ơn” những người lính đã đánh nước mình. Chỉ có những người chỉ huy trên cao nhất, là Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam mới có quyền quyết định những điều quan trọng như vậy.
Họ quyết định như vậy để làm gì? Có phải cũng vì những lý do giống như khi họ cho các công ty Trung Quốc vào khai thác bauxite ở Việt Nam, mặc dù các chuyên gia người Việt đã yêu cầu ngưng để nghiên cứu lại ảnh hưởng trên môi trường, hay không?
Nhưng khi bán tài nguyên quốc gia cho nước ngoài một cách mù quáng thì cũng chỉ làm thiệt hại của cải vật chất mà thôi. Còn khi bắt người dân Việt Nam phải “Đời Đời Nhớ Ơn” những người lính Trung Quốc đã sang nước mình tàn sát người mình, thì đó là một hành đồng làm nhục cả một dân tộc, một mối nhục ngàn đời khó rửa sạch.
Giới lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc có muốn người Việt mình phải cúi đầu chịu một mối nhục tập thể hay sao? Nếu là những người có học, chắc họ không làm việc đó. Hay là chính những người cầm đầu đảng Cộng Sản Việt Nam tự nguyện làm công việc nhục nhã này? Chỉ những người vô học mới có những hành động quỵ lụy ngu dốt như vậy.
Khi các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng đi Trung Quốc, không biết các ông ấy đã được giới lãnh đạo Bắc Kinh hứa hẹn những gì mà họ nhẫn tâm bắt dân Việt Nam phải “Đời Đời Nhớ Ơn” đám quân xâm lược giết thường dân vô tội đó? Họ có được tặng những biệt thự ở gần Trung Nam Hải để về nghỉ hưu (khi cần sống lưu vong) hay không? Bắc Kinh có yêu cầu Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam lập đền thờ để ghi công ơn của Toa Đô, Liễu Thăng, nữa hay không? Những ông đó cũng là những “liệt sĩ Trung Quốc” vào thế kỷ 13 và 15, họ cũng bị tử vong trong các hoàn cảnh giống như những “liệt sĩ Trung Quốc” đánh nước ta năm 1979 vậy!
Một chính quyền do dân bầu cử tự do không bao giờ dám làm những việc nhẫn tâm làm nhục dân nước mình đến mức bắt dân phải Đời Đời Nhớ Ơn quân xâm lược. Chính quyền nào làm như vậy sẽ bị dân bỏ phiếu đuổi đi ngay. Vì không một dân tộc nào lại chấp nhận sống nhục nhã.



GS SD Nguyễn Viết Khánh: VĂN HÓA VÀ TÔN GIÁONHÂN QUYỀN THẾ GIỚI

NHÂN QUYỀN THẾ GIỚI
Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh

Từ 10 năm qua, tôi vẫn nghĩ Liên Hiệp Quốc là một ông già vô dụng không còn hiệu năng nào nữa. LHQ được thành lập năm 1945, năm nay mới có 64 tuổi, lẽ nào đã hết hiệu năng? Sự thật LHQ chỉ là một tổ chức, có cơ cấu như một bộ máy chớ không phải là người. Một tổ chức cần phải tiến mau tiến mạnh cho kịp với sự phát triển rất mau lẹ của bộ óc con người. Ðó là sự phát triển của trí tuệ của tư duy, dễ thấy nhất là những tiến bộ về khoa học kỹ thuật tạo ra những máy móc, những tiện nghi của cuộc sống mà chúng ta đang sử dụng hàng ngày. Và lạ lùng thay chính những tiến bộ đó lại thúc đẩy thêm cho sự mở mang trí tuệ của con người gia tăng đến độ dù không phải là cấp số nhân cũng là cấp số cộng. Tại sao nhanh như vậy? Ðó là vì một ngành gọi là truyền thông đại chúng, tức là ngành trao đổi tin tức giữa con người và con người. Có trao đổi thông tin, con người mới học hỏi thêm được những gì thật mới, những kinh nghiệm của người khác. Dù muốn dù không, khi đã sống trong xã hội hiện đại, trí tuệ con người bắt buộc phải học để tiến lên chớ không thể đứng ỳ một chỗ… như một ông già dậm chân tại chỗ. Một thí dụ dễ thấy là hãy nhìn lại các liên mạng toàn cầu đã tiến như thế nào năm 2009 so với năm 1999, nghĩa là chỉ có 10 năm. Còn so với năm 1945 khi LHQ mới thành hình lúc đó chưa có TV, nói chi đến những cell phone hay những cứ điểm lưới đầy rẫy trên tầng không gian Internet hiện nay. LHQ đã quá già rồi. Bản Hiến chương cũ đã trở thành đồ cổ. Không những nó vô dụng mà còn có khi làm hại cho nền hòa bình thế giới và cản trở sự tiến hóa của nhân loại. Hãy trẻ trung hóa LHQ bằng một bản Hiến chương mới.

Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh




CỬU BÌNH : ĐÂY LÀ TẬP SÁCH DO CHÍNH NGƯỜI TRUNG QUỐC VIẾT VỀ CHÍNH HỌ.

ĐÂY LÀ TẬP SÁCH DO CHÍNH NGƯỜI TRUNG QUỐC VIẾT VỀ CHÍNH HỌ.

video 9 Bình Lun V Đng Cng Sn Trung Quc

 

Bình luận 1: Đảng Cộng Sản là gì
http://www.youtube.com/watch?v=TcdkbFNn5m4

 
Bình luận 2: Đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất sinh như thế nào
http://www.youtube.com/watch?v=otHPNk-TUzM
 
Bình luận 3: Chính quyền bạo lực của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=gBCjeOn53Sg
 
Bình luận 4: Đảng Cộng Sản – một lực lượng phản vũ trụ
http://www.youtube.com/watch?v=mgHJ9Bh_usk
 
Bình luận 5: Giang Trạch Dân và Đảng Cộng Sản Trung Quốc lợi dụng nhau đàn áp Pháp Luân Công
http://www.youtube.com/watch?v=p1BsIXr9nc8
 
Bình luận 6: Đảng Cộng Sản Trung Quốc phá hoại văn hóa dân tộc
http://www.youtube.com/watch?v=NQrBG_AKN8A
 
Bình luận 7: Lịch sử giết chóc của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=CKcWFH8ejl4
 
Bình luận 8: Bản chất tà giáo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=LBBYOyfoxyU
 
Bình luận 9: Bản tính lưu manh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=d_HNAggSEEA
 
Giới thiệu Cửu Bình và phong trào thoái Đảng ở Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=-7CMIgWGnp4
 
Video thêm (optional)
Cựu quan chức công khai thoái Đảng Cộng Sản Trung Quốc
http://www.youtube.com/watch?v=3AP13PWahN4

 

 




Khe Sanh Trong vòng Vây. William Dabney

Bình Luận
 Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
Khe Sanh Trong Vòng Vây  WILLIAM DABNEY . Việt Báo Thứ Ba, 3/3/2009, 12:00:00 AM
Khe Sanh Trong Vòng Vây
William Dabney
Lời giới thiệu: Tổng thống Obama vừa nhắc đến Khe Sanh trong bài diễn văn nhậm chức của ông như một chiến tích của nước Mỹ. Khe Sanh không phải là trận đánh có tính quyết định cuộc chiến Việt Nam như Điện Biên Phủ. Nhưng trận Khe Sanh có thể được xem là cuộc đọ sức giữa hoả lực vô giới hạn của Hoa Kỳ và sự bất chấp mức tổn thất sinh mạng bộ đội Bắc Việt của đảng cộng sản Việt Nam. Xin mời độc giả xem một góc độ của trận Khe Sanh qua bài “Under Siege – The Battle of Khe Sanh” của đại Úy William Dabney do Trà Bồng viết lại. Bài được trích từ cuốn The U.S. Marines in Action của  Villard Books New York phát hành năm 1986.
Người bắn tỉa núp rất kỹ trên sườn đồi um tùm bên kia, khoảng 200 mét về phía bắc nơi chúng tôi đóng quân, là đồi Nam 881 (881S). Anh ta đã nằm ở vị trí thuận lợi đó suốt một tuần qua. Thỉnh thoảng anh ta mới bắn, thường là khi trời nhiều mây và sườn núi không có sương mù bao phủ. Khi anh ta bắn thì chúng tôi chỉ có từ chết tới bị thương. Chỉ cần khoảng 20 phát anh ta đã gây tử thương cho 2 binh sĩ thủy quân lục chiến (TQLC) và làm bị thương năm sáu mạng.
Anh ta tỏ ra vô cùng kiên nhẫn, luôn luôn đợi lúc các pháo thủ phải ra khỏi giao thông hào để bắn đại bác yểm trợ quân bạn, hoặc khiêng băng ca ra các trực thăng tải thương. Lúc ấy chúng tôi là những mục tiêu rất ngon lành của anh ta. Một đặc tính nữa của anh ta là rất thận trọng. Một ngày quang đãng chúng tôi đã gọi phi cơ dội bom xăng xuống toàn bộ khu vực anh ta đang núp. Nhưng hôm sau, khi trời có mây bao phủ anh ta lại “cắc bùm”, và vẫn cực kỳ chính xác. Anh ta biết rõ khi có mây mù phi cơ không dám oanh tạc một mục tiêu gần chúng tôi như vậy.
Nhưng rồi cũng có lúc anh sơ xuất. Toán quan sát vẫn luôn dí mắt vào các ống viễn vọng kính cực mạnh hướng về phía anh ta, một hôm chợt thấy một lùm cây lay động. Hôm đó lại là một buổi chiều đứng gió! Biết chắc súng nhỏ không làm gì được vì anh ta núp trong hầm đào sâu vào núi, nên phải dùng súng lớn. Chúng tôi bắn cầm chừng để xác định vị trí, và để anh rút vào hầm, đồng thời cho khiêng khẩu đại bác không giật chống xe tăng qua. Vì cả đồi chỉ có hai khẩu nên phải đặt ở vị trí mà xe tăng của địch có thể tiến vào phía bên kia. Một quả đạn có sức công phá mạnh đã biến căn hầm của anh thành một hố sâu trong đó có đất đá lẫn với xác của anh ta.
Đồi đối diện khá xa, rừng lại rậm. Quân Bắc Việt di chuyển thoải mái vào ban đêm và trong sương mù, mà chúng tôi thì lại không đủ quân để kiểm soát bên đó. Cho nên chẳng bao lâu đã có một người bắn tỉa khác thay thế. Trong suốt 10 ngày sau đó anh chàng thứ hai này đã gây cho chúng tôi một tử thương và nhiều người khác bị thương. Nhưng rồi chúng tôi cũng xác định được vị trí của anh ta. Thế là lại phải khiêng khẩu không giật 106 ly qua, lại một quả đạn lọt vào hầm để biến nó thành mồ chôn xác người bắn tỉa.
Chỉ hai ngày sau chuyện bắn tỉa lại tái diễn. Mấy tay pháo binh và cứu thương là những người căng thẳng nhất. Chỉ cần xớ rớ vài giây đồng hồ bên ngoài hầm trú ẩn là lại nghe tiếng cắc bùm khô khan của anh ta. Tệ nhất là những chuyến bay tải thương. Khiêng băng ca đã nặng nhưng nghe tiếng súng là phe ta phải quẳng các thương binh xuống để tìm chổ núp. May thay mấy ngày sau chúng tôi cũng xác định được vị trí của anh ta. Thế là phải vật vã vác khẩu 106 không giật qua phía bên này. Ðang khi điều chỉnh để xác định mục tiêu thì một anh binh nhì nêu lên một nhận xét không giống ai. Anh ta cho rằng suốt một tuần nay tay xạ thủ mới này vẫn bắn đều như tay trước, nhưng chưa hề trúng một ai nên cứ để yên cho hắn sống. Nếu chúng ta loại tay này quân Bắc Việt sẽ có ngay một người khác vào thay, gặp tay bắn giỏi thì khốn cả lũ. Thật có lý! Thế là khẩu 106 không giật được đưa về vị trí cũ.
Thỉnh thoảng có quân nhân còn phá phách bằng cách vẫy lá cờ đỏ khi nghe tiếng cắc bùm của anh ta. Đó là hiệu kỳ khai hoả trong xạ trường. Nhưng rồi chúng tôi nhận thấy hình như tay này cố ý bắn trật, chứ không phải hắn bắn dở. Không chừng anh ta biết số phận của các tay xạ thủ trước nên cố ý không gây thương vong cho chúng tôi. Ðàng nào thì cấp chỉ huy của anh ta cũng không có cách nào kiểm chứng được kết quả.
Chẳng biết thực hư thế nào, nhưng đó là cách suy diễn của chúng tôi. Vì thế, để hỗ trợ cho anh ta chúng tôi ngưng trêu chọc và có khi còn giả bộ trúng đạn. Anh ta tiếp tục ở đó, vẫn bắn đều đặn và vẫn không gây thương vong nào trong suốt thời gian hai tháng còn lại của cuộc vây hãm.
Đồi 881S là một trong nhiều ngọn đồi khá cao nhìn xuống căn cứ Khe Sanh, là tiền đồn xa nhất nằm phía Tây Bắc của miền Nam Việt Nam. Khe Sanh có một trung đoàn TQLC Mỹ trấn giữ, và đã bị hai sư đoàn Bắc Việt bao vây vào đầu năm 1968. TQLC đóng ở Khe Sanh đã điều nghiên rất kỹ trận Điện Biên Phủ, nơi
quân Pháp đã bị lực lượng Việt Minh tràn ngập vào năm 1954. Lỗi lầm  quân sự nghiêm trọng nhất của người Pháp là đã để cho Việt Minh có điều kiện mang quá nhiều trọng pháo lên các ngọn đồi xung quanh. Chính hoả lực của trọng pháo đã phá tan hệ thống phòng thủ của Pháp. Từ đó TQLC Hoa Kỳ rút ra bài học then chốt để bảo vệ cứ điểm lòng chảo Khe Sanh là không cho quân Bắc Việt kiểm soát các ngọn đồi quanh vùng.
Không phải đồi nào cũng là vị trí phòng thủ được, nhưng chúng tôi chạm địch thường xuyên trong cố gắng chiếm giữ những cao điểm có tầm nhìn bao quát. Các điểm này quan sát được cả đường chuyển quân về phía Khe Sanh của Bắc Việt từ hậu cứ của họ ở phía tây nằm trên đất Lào. Trong số các ngọn đồi này không cái nào quan trọng, cheo leo, hiểm trở và trống trải hơn đồi 881S. Đồi có sườn rất dốc, cao khoảng 450 thước so với khu thung lũng bao quanh. Đồi nằm cách căn cứ Khe Sanh khoảng 8 cây số về phía Tây. Nơi này đã từng là một chiến trường đẫm máu cách đây một năm, khi quân trú phòng Bắc Việt quyết định cố thủ. Vào giai đoạn đó chuyện tử thủ đồi 881S của CSBV là một chuyện khó hiểu. Nhưng sau nhiều đợt tấn công với tổn thất nặng nề lực lượng TQLC Hoa Kỳ đã chiếm được nó. Những trận đánh bom và mưa pháo yểm trợ trong các đợt tấn công đã đốt cháy rụi sườn đồi, chỉ để lại toàn hố bom xen kẻ với các hầm bê tông bị phá nát. Các hầm này đã trở thành mồ chôn rất nhiều bộ đội Bắc Việt.
Đồi 881S nhìn được cả đường số 9, một quốc lộ cũ thời Pháp thuộc. Đường 9 chạy ngoằn ngèo phía tây Khe Sanh qua biên giới Lào, lên tận Tchepone. Theo cách ví von của các tay TQLC trẻ tại Khe Sanh thì đây đích thị là “Indian Country” (tức là “vùng Việt Cộng”) vì hướng nào cũng lúc nhúc địch quân.
Còn một con đường khác ở phía đông, chạy từ căn cứ Khe Sanh xuống hậu cứ của TQLC ở dọc phía biển, gần khu Phi Quân Sự. Nhưng đường này chạy lòng vòng suốt 24 cây số qua nhiều khe núi hẹp và một số cầu cheo leo nên đã bị quân Bắc Việt cắt đứt từ mấy tháng trước. Đường tiếp tế duy nhất cho căn cứ Khe Sanh và cứ điểm trên các đồi là đường không vận. Phi trường Khe Sanh có phi đạo khá dài được lót bằng những tấm thép ghép lại, nên có một thời gian vận tải cơ C-130 vẫn đáp thường xuyên để tiếp tế thuốc men, thực phẩm và đạn dược. Nhưng sau đó các dàn cao xạ phòng không của Bắc Việt tăng cường quá mạnh, máy bay không đáp được nên phải thả dù để tiếp tế. Nước uống thì có thể lấy từ các con suối, và từ một cái giếng trong căn cứ.
Các cứ điểm trên đồi xung quanh có diện tích quá nhỏ, chỉ có thể tiếp tế bằng trực thăng. Trực thăng lại không chở được nhiều nên phải tiếp tế thường xuyên. Riêng các đơn vị phòng thủ trên những đỉnh đồi thì không lấy đâu ra nước để uống. Đưa một toán quân xuống các khe suối để lấy nước thì chắc chắn là làm bia bắn tỉa cho quân Bắc Việt đóng đầy xung quanh. Nếu toán lấy nước có người bị thương – một điều gần như chắc chắn – thì phải gửi một toán khá mạnh từ trên đồi xuống tiếp cứu, lực lượng phòng thủ trên đồi sẽ yếu đi một cách đáng kể. Mà nhiệm vụ duy nhất của đơn vị là giữ đồi, cho nên chuyện xuống suối lấy nước là chuyện không thể làm được.
Chúng tôi được hoả lực yểm trợ vô giới hạn của không quân và pháo binh. Lợi điểm của TQLC là vị trí cố định trên đỉnh đồi, xung quanh là khu oanh kích tự do. Vì thế chạm địch ngoài vòng rào, phía chân đồi là một sai lầm về chiến thuật chỉ làm phức tạp thêm chuyện yểm trợ một cách không cần thiết. Cách đơn giản nhất để thắng trong tình huống này là nằm yên trên đồi. Không quân và pháo binh biết rõ toạ độ, nên chỉ cần gọi pháo binh, B52 hoặc gần hơn thì súng cối 60 ly hoặc súng máy và lựu đạn để tấn công bất cứ dấu hiệu động binh nào của địch.
Mỗi ngọn đồi có một đơn vị tương đương một đại đội trấn giữ. Tất cả đều thuộc trung đoàn 26 TQLC có trách nhiệm toàn bộ căn cứ Khe Sanh. Đồi 881S là ngọn đồi xa nhất và khó tiếp viện nhất. Ở đó có toàn bộ đại đội “India”, hai trung đội và bộ chỉ huy đại đội “Mike” của tiểu đoàn 3 trung đoàn 26 TQLC trấn đóng. Hoả lực gồm một phân đội với 2 súng cối 81 ly, 2 súng không giật 106 ly và một chi đội pháo binh có 3 đại bác 105 ly. Vào ngày 20 tháng Giêng năm 1968 tôi có tất cả 400 binh sĩ TQLC.
Tình báo đã tiên đoán từ trước là quân Bắc Việt có ý định tấn công hoặc bao vây Khe Sanh. Vì thế hồi tháng 12 và đầu tháng Giêng tiểu đoàn trú đóng tại căn cứ Khe Sanh đã được tăng viện thêm 3 tiểu đoàn khác, với quân số mỗi tiểu đoàn là 1,000 người. Ngoài ra còn có một tiểu đoàn 300 quân nhân của quân lực VNCH. (Có lẽ đây chính là tiểu đoàn 37 Biệt Động Quân của đại Úy Hoàng Phổ.) Nếu tính cả các đơn vị hậu cần và tiếp liệu thì lực lượng trú phòng ở Khe Sanh và các đồi lân cận lên tới 6,000 người.

không đụng trận nào đáng kể trước ngày 20 tháng Giêng (1968), nhưng chúng tôi vẫn hành quân rất đều khu vực bao quanh đồi 881S. Vào ngày 18 và 19 chúng tôi có vài cuộc chạm súng lẻ tẻ với Bắc quân ở phía bắc đồi 881S, nơi mà trong các cuộc tuần tra trước đây chúng tôi không gặp gì cả. Vì lo lắng việc quân Bắc Việt có thể đang tập trung lực lượng về phía bắc đồi 881S nên tôi đã xin cấp trên cho mang đại đội India ra thám sát, và nếu cần phá vỡ các vị trí bố phòng của địch.
Đại đội chúng tôi được trực thăng vận xuống trước vào tờ mờ sáng 20 tháng Giêng. Đang di chuyển một cách chậm chạp và thận trọng qua vùng cây cối rậm rạp, chưa đi được quá 500 thước thì hai trung đội tiền sát bị tấn công. Hoả lực địch rất mạnh chứng tỏ một lực lượng đáng kể đang chờ chúng tôi. Trung đội của Trung uý Richard Fromme ở bên phải đã bị kềm lại, vì nhiều thương vong nên phải chuẩn bị bãi đáp cho trực thăng tải thương rồi mới tiến tới được. Chiếc trực thăng cứu thương vừa sà xuống thì bị trúng đạn phải dạt qua một bên để đáp khẩn cấp xuống một chổ trũng gần đó. Những binh sĩ TQLC trong trung đội dự phòng của Trung úy Michael Thomas lúc đó đang bảo vệ bãi đáp, không cần đợi lệnh đã phóng nhanh xuống khoảng 200 thước về hướng chiếc trực thăng. Cú đột kích bất ngờ làm cho những cán binh CS đang nấp sau trảng tranh hoảng hốt cắm đầu bỏ chạy mất dạng, không kịp bắn lấy một phát súng.
Cả phi hành đoàn đều bị thương, nhưng đã được kéo ra khỏi máy bay và được TQLC đưa về vị trí phòng thủ. Tất cả những người bị thương sau đó đã được một trực thăng khác bốc đi an toàn.
Trong khi cạnh sườn bên mặt đang chống đở vất vã như vậy thì trung đội của Trung úy Thomas Brindley bên cánh trái còn tệ hơn. Họ bị kẹt cứng giữa một vùng đất không có chổ nấp, chỉ cách gò chỉ huy của địch chưa tới 200 thước. Đạn địch bắn tới tấp làm họ không cách chi ngóc đầu lên được. Brindley là một sĩ quan rất lỳ. Biết rằng nằm đây chỉ có chết, và không cách nào giữ được vị trí này nếu không có yểm trợ. Thế là chàng kêu một loạt đại bác nhắm vào gò chỉ huy của địch. Lợi dụng đợt trọng pháo Brindley đã sắp xếp lại đội hình, ngay sau quả đại bác cuối cùng chàng đã xung phong chiếm được vùng cao điểm sau khi phải trả giá rất đắt. Nhiều người tử thương, trong đó có Brindley, và rất nhiều người bị thương. Lúc ấy đạn dược còn rất ít, và đơn vị chỉ còn một hạ sĩ chỉ huy.
Địch lui về phía sau chuẩn tái chiếm cao điểm này, nhưng đã bị diệt sạch nhờ một đợt bom xăng thả gần đến độ lông mày của nhiều quân bạn bị cháy trụi. Tình hình vẫn còn rất bi đát nên tôi để Fromme ở lại lo bên phía phải, tôi mang một trung đội qua giúp cánh trái bên kia đồi, đồng thời di chuyển các thương binh về chổ chờ trực thăng tải thương.
Chưa qua tới bên kia tôi chợt nhận ra một nhóm thám sát tám người thuộc trung đội Brandley đang bị hoả lực địch áp đảo phía dưới. Nhóm này bị lạc đội hình vì mất phương hướng trong cuộc chạm súng. Thomas đã tình nguyện tiếp cứu, nhưng chưa tiến được quá 20 thước anh đã bị trúng đạn. Ngay tức thì Trung sĩ David Jessup nắm trung đội và tiếp tục mở đường đưa nhóm thám sát và những người bị thương trở lại vị trí một cách khá an toàn.
Vào lúc này tất cả vị trí địch đã được xác định. Đại đội India xin trọng pháo và phi pháo yểm trợ với hoả lực tối đa để chống đỡ. Nhưng trời cũng bắt đầu sụp tối, và bởi vì sứ mệnh chính của đơn vị là trấn giữ đồi nên đại đội không thể rời xa đồi 881S để truy kích địch. Đại đội India đã bắt tay lại được với đại đội Mike để cùng nhau rút về đồi 881S an toàn dưới sự che chở của trận mưa trọng pháo vào các vị trí địch. So với con số xuất quân lúc sáng chúng tôi đã sụt mất 50 người, vừa chết vừa bị thương.
Ngay hôm sau, lúc 2 giờ sáng ngày 21 tháng Giêng quân Bắc Việt đã đồng loạt tấn công vào các vị trí ngoại vi quanh căn cứ Khe Sanh. Dưới các đợt tấn công biển người một cứ điểm nhỏ ở làng Khe Sanh, cách vòng đai căn cứ khoảng vài trăm thước, phải di tản. Nhưng các điểm khác đã đánh bật được mọi đợt xung phong. Nhờ pháo binh rót đều đặn vào các khu chuẩn bị dàn trận của Bắc Việt, cũng như các đường tiến quân nên địch đã không khai thác được thế thượng phong lúc khởi đầu. Đồi 881S dù là đồi ở điểm trọng yếu nhất ngoài căn cứ nhưng không bị tấn công trong đợt này. Có lẽ các cuộc chạm súng ngày hôm trước với các toán trinh sát quanh đồi đã đánh tan tố bất ngờ và gây thiệt hại đáng kể khiến họ bỏ kế hoạch tấn công 881S.
Trong suốt trận đánh từ nửa đêm 21 này các pháo thủ của hai bệ súng cối đã bắn liên tục gần 700 quả ở tầm xa tối đa để ngăn không cho địch chọc thủng vòng đai đồi 861. đồi này nằm về phía đông bắc của 881S. Nòng súng cối nóng tới độ quả đạn chưa chạm kim hoả đã được kích hoạt phóng ra sớm khiến đạn bay lệch đạn đạo quá xa. Phải dùng số nước uống rất hạn chế trong đồn để l&agrave
;m nguội ống phóng trước khi xài tiếp. Nhưng rồi hết nước uống, phải dùng tới nước trái cây. Nước trái cây cũng cạn. Cuối cùng lính phải sắp hàng thay nhau dùng nước tiểu để làm nguội nòng súng cối.
Trận đánh đầu tiên đã chấm dứt. Mọi đơn vị trên các ngọn đồi lo chỉnh đốn hệ thống bố phòng để đón những trận tấn công liên tục có thể bắt đầu bất kỳ lúc nào. Chúng tôi không phải chờ lâu. Hừng đông ngày 22 căn cứ Khe Sanh bị hàng loạt mấy trăm quả đạn pháo và hoả tiển hạng nặng gây thiệt hại dọc theo phi đạo chính và làm nổ tung kho đạn. Đại bác thì gồm có 152 và 130 ly, chính xác một cách chết người, bắn tới từ bên kia biên giới Lào, nằm về hướng tây và tây nam căn cứ Khe Sanh. Thêm vào đó là hoả tiển 122 ly, loại bó thành khối của Nga, bắn đồng loạt, mỗi lần khoảng 30 đến 50 trái từ nhiều hướng khác nhau. Dù là một căn cứ lớn, nhưng loạt pháo kích chưa từng thấy này đã làm tê liệt nhiều phần căn cứ Khe Sanh.
Riêng đồi 881S, vì đã mất yếu tố bất ngờ và biết chúng tôi sẳn sàng đánh trả nên địch đổi chiến thuật. Quân Bắc Việt quyết định cắt đứt đường tiếp liệu của đồi 881S để buộc chúng tôi phải triệt thoái. Cũng may TQLC chúng tôi có một cơ cấu tổ chức độc nhất vô nhị gọi là “Air-Ground Team”, nếu không thì không chừng quân Bắc Việt đã thành công. (Air-Ground Task Force là một công thức hành động phối hợp giữa TQLC trên không và TQLC trên bộ để hoàn tất một sứ mệnh đã định.)
Quân Bắc Việt bắt đầu đặt súng cối 120 ly phía tây 881S khoảng 5 cây số. Súng được đặt gọn trong các đường hầm ngắn đào sâu vào vách núi với góc độ cần thiết để tác xạ. Máy bay không thể nào phát hiện vị trí các ổ súng này, và nếu có biết cũng không thể nào làm nó câm họng được, trừ khi thả bom hay bắn trọng pháo lọt đúng ngay vào miệng hầm. Đồi 881S là một mục tiêu cố định, vì thế địch chỉ cần điều chỉnh một hai ly chiều thẳng đứng hay ngang là có thể bắn trúng bất cứ điểm nào trên đồi. Cả tiếng “thụp” khô khan của súng cối cũng chìm mất vào trong lòng núi. Âm thanh của súng cối khai hoả là tiếng kêu rất đục và ngắn, chỉ có những lỗ tai thính lắm mới nghe được. Ấy là trong điều kiện không có gió, không có tiếng bom hay trọng pháo, không có tiếng máy bay… tức là phải yên lặng như tờ. Điều kiện này chẳng mấy khi có được ở Khe Sanh.
Lúc đầu chúng tôi chỉ cần một trực thăng tiếp tế. Phi công thường yêu cầu chúng tôi phải sẳn sàng trong giao thông hào, đồng loạt bắn tưới lên các hướng núi dày đặc cao xạ phòng không để chặn, trước khi anh ta giảm cao độ để đáp. Nhưng kết quả thật thê thảm. Ngay khi phi công hướng về một điểm đáp, tiền sát của quân Bắc Việt báo ngay vị trí này cho các tay bắn súng cối. Các tay này chỉ tốn vài giây đồng hồ điều chỉnh là họ có thể “đặt” quả đạn vào đúng vị trí họ muốn trên đồi 881S. Họ biết rất chính xác các góc độ vì họ vẫn bắn như thực tập hàng ngày. Trong tiếng ồn của máy bay trực thăng chúng tôi không thể nghe được tiếng súng cối khai hoả, nhưng chúng tôi biết quả đạn chỉ cần 25 giây đồng hồ để bay tới mục tiêu. Chuyện cất hàng xuống và đưa thương binh lên trong vòng 25 giây là chuyện không thể làm được.
Vào ngày 22 (tháng Giêng) hai loạt súng cối chụp xuống ngay bãi đáp khi người bị thương sau cùng đang được đưa lên trực thăng tải thương. Đúng 22 người, vừa chết vừa bị thương nội trong cú đó, kể cả phi hành đoàn. Chiếc trực thăng hoàn toàn bị phá hủy cùng tất cả lính bị thương trong đó.
Tới đầu tháng Hai súng cối và hoả lực phòng không liên tục đã làm hai đại đội India và Mike thiệt hại tới 150 TQLC và 6 trực thăng. Nếu kể cả các binh sĩ chết hay bị thương vì bắn tỉa thì mức thiệt hại của chúng tôi là 50%, và không có dấu hiệu nào cho thấy tình hình bi đát này sẽ chấm dứt.
Với tỷ lệ này thì chẳng bao lâu nữa sẽ không thể giữ được cứ điểm 881S. Quân bổ sung thì thỉnh thoảng lại bị trúng đạn ngay khi chưa kịp rời trực thăng. Lính tráng thì chỉ còn được phần tư bi đông nước uống mỗi ngày. Với khí hậu tại đây thì lượng nước này không thể nào chấp nhận được. Mỗi khi phá được ổ phòng không nào thì lập tức quân Bắc Việt thay thế ngay, cũng nhanh như thay thế các tay bắn tỉa vậy.
Giải pháp cho tình hình này của chúng tôi là một giải pháp khác thường nhưng có hiệu quả ngay tức thì, và lần nào cũng y như lần nấy. Có lẽ ít quân đội nào trên thế giới có thể làm được. Kế hoạch tiếp vận được tính toán và tập dượt rất kỹ lưỡng, thời gian phải chính xác tuyệt đối để phối hợp lược lượng trên không với dưới đất. Chúng tôi thực hiện chiến thuật “Super Gaggle” – đàn ngỗng siêu hạng – vào một ngày quang đãng giữa tháng Hai.
Sau khi ra hiệu trước, các khẩu súng cối trên đồi 881S bắn hàng loạt đạn khói trắng về hướng các vị trí s&ua
cute;ng phòng không mà chúng tôi đã xác định được. Loạt đạn khói vừa chạm đất thì lập tức 4 phản lực cơ tấn công A4 Skyhawk đâm xuống bắn phá các vị trí này theo các trái khói định vị của chúng tôi. Mỗi chiếc Skyhawk đều mang dưới cánh nhiều hoả tiển chống xe tăng hạng nặng (5inch). Tiếp theo ngay lập tức là 4 phi tuần Skyhawk khác mang bom xăng (napalm) xuất hiện nối đuôi nhau tạo một bức tường lửa quanh đồi. Mục đích loạt bom napalm này là tiêu diệt các tay súng vẫn luôn luôn nằm ngữa dưới các hầm cạn quanh vòng đai để bắn vào bụng trực thăng khi phi công sà xuống chuẩn bị đáp. Rồi tới 2 phi tuần Skyhawk rãi hàng ngàn trái bom tí hon đều khắp cạnh sườn thung lũng. Loại bom tí hon này được chỉnh giờ khác nhau để phát nổ lai rai và liên tục trong nhiều phút. Sau đó đồi 881S bắn một loạt đạn trái khói khác về hướng các vị trí phòng không. Nếu họ chưa bị không quân tiêu diệt thì các cột khói phosphorus trắng này sẽ khiến họ không thấy được gì trên bầu trời.
Súng từ các vị trí địch im tiếng, chỉ còn lác đác vài quả đạn cối rơi lưa thưa. Chắc chắn quân Bắc Việt đang còn núp dưới các hầm cá nhân, nếu họ còn sống, hoặc đã bị chôn vùi dưới vài thước đất đá.
Lẫn trong khói súng và bụi đất mịt mù có 10 chiếc trực thăng CH-46 của TQLC lù lù xuất hiện. Mỗi chiếc mang theo khoảng một tấn đồ tiếp liệu và đạn dược. Khi các trực thăng CH-46 tới gần đồi 881S thì thêm 4 phi tuần Skyhawk xuất hiện. Mỗi bên 2 chiếc trải thêm một màng khói bên hai cạnh sườn giữa đồi 881S và các vị trí cao xạ phòng không của địch. Mục đích là tạo một giải không gian hẹp cho các trực thăng CH-46 đáp xuống 881S giữa hai bức tường khói.
Trực thăng cứ theo đội hình năm chiếc lần lượt đáp xuống, bỏ hàng, nối đuôi nhau cất cánh ngay vào giữa hai đám khói. Trong đội hình thứ hai có một chiếc chở các quân nhân bổ sung đồng thời mang người bị thương cũng như tử thương về hậu cứ. Vị trí đáp của chiếc này luôn luôn thay đổi, nhờ đó đạn súng cối của địch không bao giờ rơi trúng một chiếc trực thăng tải quân nào khác.
Toàn bộ cuộc phối hợp tác chiến và tiếp viện có tên gọi là Super Gaggle này kéo dài không đầy 5 phút, và từ khi màn khói chắn được trải ra cho tới lúc chiếc trực thăng cuối cất cánh không bao giờ quá 30 giây đồng hồ. Hoả lực phòng không của quân Bắc Việt vẫn quét ngang dọc qua đỉnh đồi, nhưng chỉ là bắn bừa với số lượng ít hơn nhiều cho nên không hiệu quả gì. Đạn súng cối vẫn tiếp tục rơi đều cả giờ sau khi tất cả các phi cơ đã rời trận địa, nhưng không làm gì được chúng tôi vì tất cả đã chui xuống hầm. Khoảng một chục tấn hàng tiếp liệu nằm rãi rác khắp nơi. Lực lượng bổ sung đã an vị dưới các giao thông hào, những người lính TQLC bị thương đã rời xa khỏi căn cứ. Thường thì chúng tôi không chịu thiệt hại nào về nhân sự trong các chuyến tiếp quân này.
Chiến thuật này được điều khiển từ chiếc phản lực TA-4 hai ghế do chính ông phi đoàn trưởng phi đoàn A4 lái, ghế sau là phi đoàn trưởng trực thăng lo việc liên lạc vô tuyến thường xuyên xuống đất với tôi. Tất cả đều là dân TQLC đã từng huấn luyện với nhau, cùng diễn hành, cùng tiệc tùng với nhau nhiều năm trời. Nhờ vậy chúng tôi mới có thể thực hiện một chiến thuật phức tạp đến từng giây từng khắc một cách hoàn hảo.
Màn đêm vừa phủ xuống là lúc chúng tôi bò ra gom đồ tiếp liệu, vì lúc đó quân Bắc Việt không thấy được các hoạt động của chúng tôi. Kiện hàng nào cũng đầy mảnh đạn súng cối. Sau khi phân phối xong chúng tôi phải vào vị trí ứng chiến. Từ sụp tối đến nửa đêm chúng tôi thay nhau, phân nửa thức phân nửa ngủ. Từ nửa đêm tới sáng chúng tôi ứng chiến 100%.
Lý do rất đơn giản là ban ngày địch không động binh vì sợ chúng tôi phát hiện, nên phải chờ đến tối. Từ chạng vạng tối mà leo từ chân núi lên, nếu leo giỏi thì sớm lắm cũng phải nửa đêm địch mới tới được vòng đai của chúng tôi. Bọn TQLC chúng tôi vẫn leo hoài nên biết rất rõ. Lúc ấy chúng tôi đã sẵn sàng rồi.
Đồi 881S không bị tấn công lần nào. Thỉnh thoảng địch có vài hoạt động thăm dò bên ngoài vòng đai. Đây là cơ hội để binh sĩ TQLC chứng minh rằng chúng tôi ném lựu đạn xuống dễ hơn quân Bắc Việt ném lên, và nhất là lựu đạn chúng tôi ném không bao giờ lăn ngược trở lại phía chúng tôi! Để tiết kiệm nước và tránh thương vong chúng tôi làm việc chủ yếu vào ban đêm, ban ngày chỉ tập trung vào việc quan sát. Thương vong tuy vẫn có, nhưng so với trước khi thực hiện chiến thuật Super Gaggle thì nhẹ hơn nhiều vì binh sĩ luôn ở dưới hầm.
Trong khi hoả lực của quân Bắc Việt giảm đi thì của chúng tôi lại tăng lên. Thời tiết tốt hơn nên ngày nào cũng có phi cơ yểm trợ. Các địa điểm đặt hoả tiễn của địch bị bắn phá thường xuyên. Một chuyện nhỏ nói lên lòng kiên nhẫn và sự tinh mắt của một binh sĩ trẻ, đó là Hạ sĩ Molikau Niuatoa, người Mỹ Samoan. Anh ta
dùng viễn kính 20x của hải quân đã tình cờ thấy được ánh chớp của đại bác địch khai hoả ở tít chân trời, cách chúng tôi khoảng 15 cây số. Anh ta là người vẫn quan sát ngày này qua tuần nọ, dựa vào tiếng khai hoả của trọng pháo bắn vòng qua đầu chúng tôi hướng tới căn cứ Khe Sanh. Hạ sĩ nhất Robert Arrotta, người hướng dẫn phi cơ oanh kích đã gọi ngay một phi cơ quan sát tới vùng đó, nhưng không ai có thể thấy được chiếc phi cơ ở xa như vậy để hướng dẫn đến mục tiêu.
Vì sự quan trọng của mấy khẩu đại bác này nên dù chưa xác định được mục tiêu phi công quan sát đã nôn nóng gọi mấy oanh tạc cơ đến. Lượn vòng mãi vẫn chưa có toạ độ, phi cơ quan sát bắn một trái khói trắng để làm chuẩn, nhưng ở đồi 881S không nhìn thấy được cột khói xa như vậy. Rồi tới các oanh tạc cơ sắp phải quay trở về nếu không sẽ bị cạn nhiên liệu. Sốt ruột, phi cơ quan sát đề nghị thả một quả bom 150 ký xuống một mỏm đá để làm dấu, và các quan sát viên ở đồi 881S đã thấy được điểm này. Sau vài lần điều chỉnh viên phi công quan sát cho biết đã xác định được vị trí. Kết quả là 5 khẩu 130 ly do Nga chế tạo bị phá hủy. Loại đại bác này có tầm đạn gần 30 cây số và rất chính xác nên đã gây cho chúng tôi không biết bao nhiêu là tổn thất.
Vào tháng Ba thì vòng vây quanh Khe Sanh đã nới lỏng. Đại Úy đại đội trưởng Harry Jenkins của đại đội Mike và tôi có thể chơi trò “nhạc trưởng”, dùng máy vô tuyến truyền tin làm gậy điều khiển một dàn đại hoà tấu của bom đạn. Chúng tôi có hoả lực gần như vô giới hạn của trọng pháo và phi pháo, gọi là có ngay để tấn công vào bất cứ cái gì nhúc nhích, bất cứ tiếng động lạ nào, bất cứ mùi nào khả nghi, hay bất cứ điểm nào chúng tôi chỉ linh cảm là có quân Bắc Việt. Âm thanh của giàn nhạc này kéo dài liên tục. Vùng cao nguyên xanh tươi trước đây ba tháng giờ trông chẳng khác nào mặt trăng cháy nám, đầy những hố bom nối liền nhau nằm lẫn với các gốc cây chỏng trơ.
Cuộc vây hãm không chấm dứt một cách đột ngột. Quân Bắc Việt như từ từ tan biến đi, chỉ để lại vài chốt tử thủ kháng cự một cách vô vọng cho lực lượng tăng viện làm cỏ. Cuộc tấn công toàn diện vào căn cứ Khe Sanh không bao giờ được thực hiện. Một chuyện diễn ra, hình như vào ngày 1 tháng 4, khi quân tiếp viện đã tới, rất có thể là lý do tại sao cuộc tấn công đã không diễn ra.
Giữa thanh thiên bạch nhật chợt có hai bộ đội Bắc Việt trần truồng chạy về hướng vòng đai của chúng tôi, chân chạy tay vẫy tờ truyền đơn xin gọi là “giấy thông hành” ra đầu thú. Một người bị đồng đội anh ta từ phía sau bắn hạ ngay, người kia ngã xuống ngoài vòng rào. Chúng tôi bắn yểm trợ cho một binh sĩ TQLC bò ra kéo anh ta vào. Anh ta là một người to con, cao gần thước tám, vạm vỡ, trông rất khoẻ mạnh. Chúng tôi bắt đầu hỏi cung anh ta, nhưng bị gián đoạn vì một phản lực cơ của TQLC bay ngang. Anh ta hoàn toàn biến thái, mất tự chủ mọi thứ, từ con mắt tới cơ bắp và dĩ nhiên cả chuyện tiểu và đại tiện. Anh ta run lẩy bẩy và té xụm ngay trong giao thông hào. Một tiếng vỗ tay mạnh sau lưng anh ta cũng gây nên trạng thái kinh hoàng y như vậy.
Trạng thái tâm lý của người hồi chánh đã bị bại liệt hoàn toàn vì anh ta và đồng đội đã bị hoả lực kinh hồn của chúng tôi vùi dập trong suốt 77 ngày. Những lúc tỉnh táo anh cho biết nhiều đồng đội của anh cũng bị khủng hoảng như vậy. Thế thì họ không đánh lớn vào Khe Sanh được là phải rồi.
Đại đội India trở về vùng duyên hải với quân số vỏn vẹn có 19 người, so với lúc đến đóng quân ở đồi 881S là 200. Đại đội Mike làm ăn khá hơn đôi chút. Khi dừng chân qua đêm ở một hậu cứ khá an toàn tại Quảng Trị đại đội India mất thêm 6 trong số 19 người còn lại vì một hoả tiễn rớt ngay lều trú quân của họ. Công cuộc phòng thủ cứ điểm Khe Sanh kể như thành công, nhưng với tổn thất rất cao. (Trà Bồng viết lại)



GS SD Nguyễn Viết Khánh: VĂN HÓA VÀ TÔN GIÁOTÂM LÝ CHIẾN AFGHA?

Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh: TÂM LÝ CHIẾN AFGHA?

StanleyBản tường trình tóm lược lại có 5 trang, trong đó có câu viết: Nguồn tài nguyên tiếp viện không thể thắng cuộc chiến, nhưng thiếu tiếp viện có thể đưa đến chiến bại. Dù cho đến nay những nỗ lực đáng kể và hy sinh xương máu đã tạo được một vài tiến bộ, nhiều dấu hiệu cho thấy tình hình đang trở thành tồi tệ. Ông Geoff Morrell, Phó Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng về các vấn đề thông tin, tuyên bố sự đánh giá tình hình qua tài liệu mật trước khi có quyết định của cấp cao, là nhằm để cung cấp cho TT Obama và ban An ninh Quốc gia của TT những điểm căn bản cho một cuộc thảo luận rất quan trọng về vấn đề hiện nay tình hình Afghanistan như thế nào và phương pháp nào tốt nhất để thực hiện điều chúng ta muốn có ở đó. Trong khi xét tới việc cần tăng thêm quân, tướng McChrystal còn vạch ra rằng cấp bách nhất là phải nghiêm chỉnh xét lại chiến lược chiến thuật. Ông viết Mỹ cần phải có tương tác tốt hơn nữa với người dân Afghanistan, tổ chức tốt hơn nữa với các lực lượng đồng minh NATO. Tướng McChrystal ghi: Chúng ta có mối nguy bị thất bại chiến lược trong khi theo đuổi những thắng lợi chiến thuật đã gây ra thương vong và những thiệt hại không cần thiết lây lan đến những người dân ở bên lề cuộc chiến. Nhìn nhận sự kiên trì bám rễ liều lĩnh của bọn phản loạn Taliban, tướng McChrystal cảnh giác trừ phi Mỹ và đồng minh lấy lại được thế chủ động và đảo ngược lại đà xung kích của bọn phản loạn trong vòng năm tới, nước Mỹ sẽ có thể lâm vào một giai đoạn không còn cách nào tiễu trừ bọn phản loạn được nữa.

Tờ báo đầu tiên nêu ra những đoạn viết trong bản tường trình mật là tờ Washington Post phát hành sáng thứ Hai, trong đó báo này cho biết đã giữ lại một vài đoạn không loan ra ngoài theo lời yêu cầu của chính phủ. Báo này cũng trích thêm một đoạn như sau: Tướng McChrystal mô tả chính quyền Afghanistan đầy rẫy tham nhũng và một lực lượng quốc tế bị phá hoại bởi những chiến thuật gây phẫn nộ trong dân chúng. Ông cũng bộc lộ rất rõ những chi tiết mới về bọn phiến loạn Taliban, mà ông gọi đó là một kẻ thù có gân cốt ứng cáp và thủ đoạn tinh diệu, biết sử dụng kỹ thuật tuyên truyền hiện đại và đã ngầm xâm nhập các nhà tù, tiếp xúc với tù nhân để tuyển mộ lính của chúng và ngay cả đặt các kế hoạch hành động. Bản tường trình của tướng McChrystal là một trong số các lựa chọn để Bạch Ốc cứu xét. Đề tài này có thể làm gia tăng các cuộc tranh luận với những nhân vật Dân Chủ trong Quốc hội, vì họ đã tỏ ra rất ngần ngại về việc tăng thêm quân cho một cuộc chiến tranh không được lòng dân như cuộc chiến Afghanistan. Tại Quốc hội đang có sự bất đồng giữa hai đảng về chiến tranh này, các Nghị sĩ Cộng hòa yêu cầu phải gia tăng thêm quân Mỹ ở Afghanistan, một cuộc chiến đã sắp qua đến năm thứ 10, trong số có TNS John McCain rất hăng say đòi đánh tới cùng. Trong khi đảng Dân Chủ của TT Obama lại muốn đạp thắng cho chiến tranh chạy chậm lại. Trong các cuộc phỏng vấn mới đây hồi tối chủ nhật vùa qua, Obama nói ông sẽ không để cho chính trị điều khiển các quyết dịnh của ông. Các nhà báo hỏi Obama ông hay các phụ tá của ông có yêu cầu McChrystal rút lại lời xin tăng quân hay không? Tổng Thống Obama nói: Không, không, không, không có chuyện đó. Riêng về hậu quả của cuộc chiến Afghanistan, người ta đã thấy kể từ khi có cuộc chiến này từ 8 năm trước, năm 2009 là năm số thương vong của quân đồng minh lên cao nhất cho đến nay với 350 quân tử trận, trong số này có 197 quân nhân Mỹ. Tính đến tháng 8, năm 2009 là năm chết người nhiều nhất cho quân đội Mỹ. Chính vì thế tướng McChrystal đã phải nói tình hình chiến tranh Afghanistan đang trở thành tồi tệ. Obama không đặt ra một hạn kỳ nhất dịnh nào để đưa thêm quân đến nơi hiểm họa, một khi chưa giải quyết được dứt khoát vấn đề chiến lược. Đô đốc Michael Mullen, Chủ tịch Hội đồng Tham Mưu Trưởng Liên quân, tuần trước nói ông nghĩ rằng tướng McChrystal sẽ yêu cầu gia tăng thêm quân và các dụng cụ chiến tranh trong tương lai gần đây. Trong khi đó Bạch Ốc lại tỏ ra mơ hồ về thời gian bao giờ sẽ có lời thỉnh cầu và nếu có, liệu có làm thỏa mãn lời thỉnh cầu đó không. Đến đây tôi liên tưởng đến một câu chuyện bên lề. Tình cờ làm sao bản tường trình mật của tướng McChrystal lại được tiết lộ vào đúng Ngày Hòa bình Quốc tế của LHQ. Nhân ngày này Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Ngoại giao của Afghanistan tại Thủ đô Kabul, cho biết quân đội Afgha sẽ ngưng mọi cuộc tấn công. Và cũng thật lạ, phía Taliban cũng lên tiếng vì Ngày Hòa Bình đó. Qari Yusuf Ahmadi, nhân vật vẫn được coi là Phát ngôn nhân của Taliban đã tuyên bố: Chúng tôi cũng chỉ ở tư thế phòng thủ như vẫn làm thôi. Cứ điểm (website) chuyên về cứu trợ ReliefWeb loan lời tuyên bố đó và tỏ ý hy vọng Taliban cũng không tấn công. Sự thật câu nói của Taliban có thể có dụng ý muốn nói thêm là: Chúng tôi bình thường không tấn công, chỉ khi nào bị tấn công chúng tôi mới đánh trả. Đòn tâm lý chiến chăng? Hãy chờ xem. Chờ đến bao giờ?

Sự thật ở Mỹ người ta cũng đang chờ xem đến bao giờ Mỹ quyết định tăng thêm quân. Nhưng TT Obama nói chưa giải quyết được vấn đề chiến lược chiến thuật là chưa có chuyện tăng thêm quân. Rút cuộc đây cũng chỉ là những đòn tâm lý chiến để thăm dò và chờ thời. Trong các cuộc chiến tranh từ cổ chí kim, những đòn tâm lý chiến không phải là chuyện lạ. Gần đây nhất trong Thế chiến II cũng như trong cuộc chiến tranh lạnh vào cuối Thế kỷ 20, và cả trong 9 năm đầu của Thế Kỷ 21 cũng không thiếu gì những đòn tâm lý chiến. Thế nhưng hiện nay nếu Mỹ thấy cần phải xét lại chiến lược chiến thuật như TT Obama đã nói, thiết tưởng cũng nên chờ xem tình thế có thể thay đổi đến độ nào trên thực tế. Liệu có ngừng bắn hay không và cuộc ngừng bắn đó sẽ có những chi tiết như thế nào. Lúc này còn quá sớm để đi đến một kết luận dứt khoát.

Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh




L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p. : Cánh chung luận là gì?

ÔNG GIÁM MỤC CÁNH CHUNG LUẬN

 

 

                                                                        Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

 

     Giám mục Nguyễn Văn Khảm vốn là một nhân vật nổi tiếng về khoa ăn nói, dân nhà quê như người viết gọi là  lẻo mép, còn bậc trí thức người ta kêu là hùng biện. Một nhà hùng biện làm tới giám mục giáng về vấn đề “Cánh Chung” trong đạo thì nhất định là đúng người, đúng việc rồi chứ có gì mà phải théc méc. Ấy vậy mà sau khi ngài giám mục giảng, con chiên bổn đạo nổi lên nhao nhao phản đối. Sự thể đáng sợ thật, chỉ sợ tội thôi, bởi vì Chúa dậy trong Phúc Âm rằng tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ kia mà. “Họ” ở đây là chỉ các “đấng làm thầy” (tiếng nhà đạo). Dám cãi lại lời đức cha là tội trọng, chết sa hỏa ngục chứ chẳng chơi. Thế nhưng, đọc kỹ lại đoạn Phúc Âm thì mới thấy yên tâm. Chúa khuyên người Do Thái nên nghe lời giảng dậy của các kinh sư khi họ ngồi trên tòa Moyses để giảng lời Chúa, chứ không phải Chúa bảo bổn đạo VN phải nghe lời giảng của giám mục Nguyễn Văn Khảm. Vì rằng, bài giảng của ngài giám mục không dính dáng đến Chúa, mà nói về Marx. Như vậy không những là lạc đề, mà còn đưa đến nhiều nghi ngờ trong con chiên bổn đạo nữa. 

      Ngày lễ kính Chúa Kitô Vua (Christ the King), giám mục Khảm không giảng theo nội dung của ngày lễ, mà lại lái sang vấn đề cánh chung, còn là cánh chung của Karl Marx mới chết, không lạc đề thì còn là gì nữa. Nói thế thật ra cũng chưa đúng hẳn, vì Phúc Âm ngày lễ Chúa Kitô Vua theo thánh sử Mathew có đề cập đến vấn đề Cánh Chung. Nhưng cánh chung ở đây là ngày tận thế, Chúa quang lâm ngự xuống phán xét nhân loại, người lành cũng như kẻ dữ. Cuối cùng Thánh Sử kết luận: Thế là họ (kẻ dữ) ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời. Đấy là giáo lý và là học thuyết về Cánh Chung của người công giáo.  

     Ít nữa trong ngày lễ này, người tông đồ của Chúa như giám mục Khảm phải giảng thuyết làm sao chứng minh cho giáo dân thấy, và để thuyết phục những người chưa tin Chúa, nhất là bọn cộng sản vô thần chung quanh ông rằng, Chúa Giêsu là một vị đế vương. Ngài xứng đáng là vua thật. Hơn nữa còn là một minh quân, một vị hoàng đế rất thương yêu dân, biết lo cho dân, nhưng vấn đề thưởng phạt của Ngài cũng rất mực công bình, không thiên vị ai bao giờ. Con người chết đi bị Ngài xét xử để được luận thưởng hoặc phạt theo những việc làm của họ khi còn tại thế. Đó là sự cánh chung của người công giáo. Cũng nên nói cho bọn cộng sản chung quanh ông hay rằng tuy Chúa là vua, nhưng chúng mày đừng có sợ. Ngài không tranh quyền đoạt vị của chúng mày đâu, bởi vì chính Ngài đã xác nhận trước mặt Tổng Trấn Philatô, đại diện của Hoàng Đế La Mã rằng, nước của Ngài không phải là quốc gia trần tục, mà là Nước Trời. Tài cán và hùng biện như giám mục Nguyễn Văn Khảm mà sao không vẽ ra được một thiên quốc hấp dẫn để chiêu hồi bọn cộng sản. Rằng, Nước Trời là một quốc gia có tự do, và cũng có kỷ cương, chứ không loạn xà ngầu giống như nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa của chúng mày, bởi vì ở đấy có một vị vua anh minh là Chúa Kitô. Ngài lấy đức mà trị dân. Người dân trong nước của Ngài lấy thương yêu bác ái để đối xử với nhau trong tình huynh đệ. Do đó Nước Tròi của Chúa mới là Thiên Đường thực, khác xa cái thiên đàng viển vông của Karl Marx nơi trần thế.  Ở Nước Trời không bao giờ có chuyện ngưòi bóc lột người. Ở đó mới có công bình và công lý thật. Mọi công dân trong Nước Trời của Chúa mới sống đích thực mình vì mọi người và mọi người vì mình. Họ không phải lao động cực nhọc mà vẫn sung mãn và hạnh phúc tràn trề …… 

     Thiếu gì chuyện để diễn giảng về vương quyền và lòng nhân hậu của Vua Giêsu ông giám mục không nói tới, mà lại nói về vấn đề Cánh Chung của Karl Marx, thế mới là trật duộc và sinh chuyện. Cánh Chung là gì thì lời giải thích và thí dụ ông giám mục đưa dẫn chứng cũng lại sai bét luôn. Theo từ điển Thiều Chửu, Cánh có nghĩa là trọn vẹn, sau rốt. Thí dụ như: hữu chí cánh thành nghĩa là có chí sau cùng nhất định sẽ thành công. Hoặc, cứu cánh nghĩa là xét đến cùng của sự việc. Còn chữ Chung có nghĩa là hết hoặc chết. Cánh Chung là một từ kép hán nôm, các nhà dịch giả và chú giải Kinh Thánh dùng để nói về ngày tận thế, Chúa quang lâm để phán xét loài người. Tiếng Anh chữ Cánh Chung là Eschatology, là môn nghiên cứu về những sự việc sau hết ( the study of the “last things”). Last Things trong ngoặc kép muốn nói là những sự việc sau cùng của cuộc đời sau khi con người nhắm mắt xuôi tay. Đây là một luận đề phổ thông trong các tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo và Do Thái Giáo. Eschatology bàn về số phận sau cùng của thế giới, của loài người, và của mỗi cá nhân. Cánh Chung trong giáo lý Công Giáo bao gồm các học thuyết về sự chết, sự sống lại, thiên đàng, hỏa ngục, sự trở lại của Chúa Giêsu và việc phán xét của Ngài. Như vậy Cánh Chung luận là luận về sự việc gì xẩy ra ngay sau cái ngày tàn của vũ trụ vạn vật hay cái chết của mỗi con người, hoàn toàn không phải là đường lối giải quyết những vấn đề thực tại của xã hội trần tục. Rõ ràng, một đàng là những vấn đề sau cái chết, còn một đàng là những vấn đề của con người còn đang sống. Hai vấn đề hoàn tòan khác nhau. Giám mục Nguyễn Văn Khảm đã thuyết giảng ra ngoài vấn đề của ngày lễ, và còn giảng sai về đề tài mà ông đề cập tới. Dưới đây xin trích lại phần chính diễn giải chữ Cánh Chung trong bài thuyết giảng của giám mục Nguyễn Văn Khảm: 

    “Dĩ nhiên, bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận, triết thuyết nào có khả năng cung cấp cho con người một cánh chung luận hấp dẫn, cũng có nghĩa là cung cấp một niềm hy vọng có sức thuyết phục thì triết thuyết đó cuốn hút con người. Tôi lấy một cái thí dụ, ta đang sống rất là cụ thể trong một đất nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên cái nền tảng triết học của Marx. Thế thì có nhiều người có thể nghĩ Mác xít vốn là một hệ tư tưởng vô thần cho nên là không có cánh chung luận. Không phải thế, trái lại nó có một cánh chung luận rất là hấp dẫn, rất là cụ thể, nó đã trình bày cái điểm tới của lịch sử nhân loại, là một xã hội cộng sản hoàn hảo trong đó:

  không còn cảnh người bóc lột người,

  mà mỗi một người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng còn như cầu có bao nhiêu là cứ việc xài.

     Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng tại thế, và khi mà có cái điểm tới của lịch sử cả nhân loại như thế, thì mỗi cá nhân trong lịch sử đó khám phá ra cái ý nghĩa của một sự hy sinh mình chịu. Tôi chết đi nhưng sự nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi trong nhân dân. Tôi hy sinh nhưng mà sự hy sinh đấy không vô nghĩa, bởi vì nó xây dựng cho thế hệ tương lai, xây dựng cho nhân dân.

     Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai, cho nên có chứ không phải không đâu…” 

     Trích đoạn ngắn trên đây có thể nói là bản copy bức tranh cảnh thiên đàng trần thế mà Karl Marx đã tưởng tượng ra. Đó là một xã hội trong đó mọi người yêu thương nhau như anh em, không ai hà hiếp bóc lột ai, mọi người tự giác làm việc đúng khả năng và hưởng cái công lao động tùy theo nhu cầu của mình. Khung cảnh thiên đường tốt đẹp mà Marx vẽ ra hấp dẫn đến độ có hàng triệu con người dám hy sinh cả cuộc đời để kiến tạo nên nó. Những con người này chết đi chẳng cầu Niết Bàn của Đức Phật, cũng không mơ tưởng Thiên Đàng của Chúa. Họ cho là họ đã mãn nguyện rồi vì, “sự nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi mãi trong nhân dân.” Vô thần mà, đâu còn cái gì nữa sau khi chết. Câu này nói rõ ý nghĩa “cánh chung” của người vô thần. Đấy là Cánh Chung Luận của CS theo giám mục Nguyễn Văn Khảm. Ông không bình luận, nhưng sự diễn tả của ông cho thấy ông rất ngưõng mộ luận điểm Cánh Chung của Marx. Giám mục Khảm nói: “Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai ….” Bởi vì ông giám mục giảng cho bổn đạo trong một thánh lễ, lời giảng của ông tức là lời giáo huấn, cho nên phải hiểu rằng giám mục Khảm chủ tâm dậy bổn đạo nên noi theo hàng triệu con người CS kia mà thực hiện cái cánh chung của Marx: mãi mãi để lại sự nghiệp trong nhân dân. Thế thôi, Thiên đàng là chuyện vớ vẩn chăng? 

     Cánh Chung của Marx tốt đẹp và hấp dẫn như thế, nhưng Marx là ai, và người đầu tiên có công lao nhất thực hiện Cánh Chung Luận của Marx là Lenin đã suy nghĩ thế nào về luận điểm này thì giám mục Nguyễn Văn Khảm lại không nói tới cho giáo dân của ông biết.  

     Hầu như mọi người trên thế gian này đều cho rằng Marx là một người vô thần (atheist). Điều đó chỉ đúng trên sách vở. Thực ra Marx là một ngưòi hữu thần. Ông ta không tin có Thiên Chúa hay bất cứ thần linh nào, nhưng ông lại là một tín đồ ngoan đạo của giáo phái thờ Satan (Satanist cult). Linh mục Richard Wurmbrand, một tác giả nghiên cứu thâm sâu về Marx, phát giác ra rằng Marx là một đệ tử của giáo chủ Joana Southcott, tông đồ của thần Shiloh tức Satan. Ngay từ hồi còn là sinh viên, Marx đã sáng tác những vần thơ ma quái như thế này:

                        The hellish vapors rise anh fill the brain,
                        Till I go mad and my heart is utterly changed.
                        See the sword?
                        The prince of darkness
                        Sold it to me.
                        For me he beats the time and gives the signs.
                        Ever more boldly I play the dance of death.

(Xin tạm dịch: những luồng gió địa ngục nổi lên tràn đầy cả trí óc, cho đến khi tôi bị điên loạn, và tim tôi toàn toàn đổi khác. Có thấy không cây kiếm mà vị hoàng tử của tối tăm đã trao nó cho tôi. Nó đánh nhịp và ra dấu cho tôi. Cứ như thế tôi càng hăng tiết đùa dỡn với tử thần.)

     Một câu hỏi đặt ra là, thế thì Karl Marx xướng xuất ra thuyết duy vật vô thần không phải là vô lý sao? Không đâu, lý thuyết Marx đẻ ra chỉ là để triệt hạ các tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo, sau đó xây dựng một thế giới mới không còn có thần linh mà chỉ tôn thờ tiền tài, danh vọng, và dục vọng mà thôi. 

     Nếu như Cánh Chung Luận của Marx đáng trân quí thật như Gm Nguyễn Văn Khảm ca tụng thì người thực hiện lý thuyết của Marx là Lenin đã chẳng phải hối hận trước khi nhắm mắt lìa đời. Trên giường bệnh, Lenin đã cay đắng thố lộ tâm sự thật của lòng mình như sau: I committed a great error. My nightmare is to have the feeling that I’m lost in an ocean of blood from the imnumerable victims. It is too late to return. To save our country, Russia, we would have needed men like Francis of Assisi (*). With ten men like him, we would have save Russia

(xin tạm dịch: tôi đã phạm phải một sai lầm lớn. Cơn ác mộng của tôi là cảm thấy như mình bị rơi vào trong một đại dương toàn máu của không biết bao nhiêu là nạn nhân. Quá trễ để quay đầu trở lại rồi. Để cứu nước Nga, quê hương của chúng ta, chúng ta cần có những con người như Francis Assisi. Được 10 người như ông ta, chúng ta có thể cứu vãn được nước Nga.) 

     Giám mục Nguyễn Văn Khảm nói chắc như định đóng cột rằng, bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận. Câu khẳng định này thiết tưởng cần phải được ngài giám mục làm sáng tỏ. Một vị gám mục tiến sĩ thần học không thể nói năng mù mờ được. Nếu hiểu chữ cánh chung trong lý thuyết của Marx như giám mục Khảm diễn giải thì vấn đề khỏi bàn tới, vì sự diễn giải của giám mục sai rồi như chúng tôi đã trình bầy ở trên. Cánh chung trong triết thuyết của Marx là mục tiêu xây dựng xã hội mà ông mơ ước đạt tới. Nhưng nếu hiểu chữ cánh chung như học thuyết công giáo dậy thì quả thật câu nói của giám mục Khảm đã trở nên hàm hồ. Khổng Giáo chẳng hạn thì Cánh Chung Luận của đạo Khổng là gì. Khổng Tử đã chẳng nói: Đạo khả đạo phi thường đạo. Và ông còn muốn cho quan điểm của mình về các vấn đề siêu hình được rõ ràng hơn, cho rằng, với quỉ thần chỉ nên kính nhi viền chi mà không nên đề cập tới. Hay như Phật Giáo thì thật sự Cánh Chung Luận của đạo Phật giải thích ra sao khi mà Đức Phật dậy rằng vũ trụ vạn vật là một chuỗi tiếp nối “sinh diệt – diệt sinh.” Con người chết đi đầu thai vào một kiếp sống khác. Đó có phải là một chung cuộc đâu? 

     Cứ cho rằng trong lý thuyết của Marx có bao gồm Cánh Chung Luận như giám mục Nguyễn Văn Khảm khẳng định, nhưng điều khó hiểu là học thuyết này của Marx ngày nay đã bị cả loài người vứt bỏ vì nó sai lầm và không tưởng rồi. Thế nhưng tại sao người môn đệ tông truyền của Chúa lại nhắc lại trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua, vị tôn sư của mình, và còn ca tụng nó ngụ ý là khuyên tín hữu thực hành con đường Marx vạch ra. Hầu như mọi tín hữu đều băn khoăn và thắc mắc về điểm đó. Câu trả lời đã có thể tìm ra được ngay trong Phúc Âm rồi. Chúa dậy: “… Vì lòng có đầy thì miệng mới nói ra. Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình …” (Mt 12, 34-35). Nếu giám mục Khảm không ấp ủ Marx canh cánh bên lòng thì ông đã không rao giảng về Cánh Chung Luận của Marx trong ngày lễ kính Chúa Kitô Vua, người thầy của các tông đồ. 

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất 

*  Francis of Assisi là một vị Thánh công giáo sống vào đầu thế kỷ thứ 13. Thánh nhân sinh ra trong một gia đình thương buôn giầu có người Ý, nhưng Ngài đã từ bỏ hết của cải, sống đời khó nghèo và lo giúp đõ cho những ngưòi vần cùng và bất hạnh.

 

Merry Christmas FREE WEBSITE - FREE DOMAIN - FREE HOSTING

VỀ BÀI GIẢNG CỦA GIÁM MỤC NGUYỄN VĂN KHẢM

 BS Nguyễn Tiến Cảnh

Tôi đã tính không định viết, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thấy “Đã Quá Sức Rồi”. Đó là lời bố mẹ trách con cái không những đã cãi lời cha mẹ mà còn chửi thẳng vào mặt cha mẹ, thành thử tôi phải viết để nói lên ý nghĩ của tôi và có lẽ cũng của đa số bà con công giáo VN nói riêng và cả thế giới nói chung. Bởi vì vấn đề đã quá rõ ràng cả trên lý thuyết lẫn thực tế mà khắp thế giới ai cũng nhận thấy.

Số là có người đã lợi dụng tòa giảng trong nhà thờ chánh tòa Saigon , mượn danh Phúc Âm tôn giáo để ca tụng chủ thuyết cs. Nghe xong bài giảng, tôi không ngờ vị giảng thuyết lại là một chức sắc lớn trong Giáo Hội CGVN, và có lẽ ông đang ngắm nghé một tước vị cao hơn nữa là Tổng Giám Mục Saigon hay Hanoi, rồi có thể là Hồng Y? Tôi không ngờ vị đó lại là GM Nguyễn văn Khảm.

Cho đến giờ này, có thể tất cả trong và ngoài nước, ai cũng biết GM Khảm ca tụng cs như thế nào rồi. Ông đã mượn bài Phúc Âm ngày lễ kính Chúa Giêsu Vua nói về thời cánh chung đê so sánh với cái thiên đàng địa giới của cs mà ông tổ Marx đã đề ra để mê hoặc con người. Gm Khảm đã đồng hóa đạo Công Giáo với thuyết cộng sản một cách bừa bãi.

KHÔNG PHẢI TRỪU TƯỢNG NHƯ KIỂU GIÁM MỤC KHẢM NÓI

Ngày Cánh Chung là ngày phán xét sau cùng của Chúa để xét sử, phân biệt giũa người lành và kẻ dữ. Người lành là những người trong cuộc sống ở trần gian đã ăn ngay ở lành, lấy tình yêu thương đối xử với nhau, không ăn gian nói dối, không hận thù oán ghét, không cướp của giết người và bóc lột nhau. Kẻ dữ là những kẻ vô đạo đức, có những hành động không giống người lành, nghĩa là họ chuyên môn ăn gian nói dỗi, có nói thành không, không thành có, dùng hận thù ganh ghét làm ân oán, cướp của giết người không nương tay, miễn sao được việc cho mình. Chúa sẽ thưởng phúc thiên đàng cho người ngay lành và phạt xuống địa ngục khốn khổ đời đời những kẻ gian ác. Như vậy quả là công bằng và hợp lý chẳng có gì là trừu tượng như Gm Khảm đã mập mờ phê phán.

MARX MỚI THỰC LÀ KHÔNG TƯỞNG

Ngược lại, Gm Khảm đã bạo gan so sánh ngày cánh chung của Chúa với thiên đàng địa giới của Marx. Ông ca tụng Marx là thực tế, cái thực tế chết người mà cả thế kỷ nay đã có bao nhiêu triệu con người phải chết đi mà chưa thấy một mảy may gì là thực tế, đến nỗi ngay chính địa danh tổ của cs là Nga Sô Viết, Đông Âu, những nước cs anh em đều đã trà đạp và từ bỏ nó, ngoại trừ Trung cộng và VN vẫn cố bám lấy để tiếp tục ru ngủ dân chúng hầu cướp đoạt tài sản của dân của nước, chia nhau miếng đỉnh chung bất kể nỗi khốn khổ cơ cực nghèo đói của dân lành cho đến khi nào không thể tiếp tục giữ được nữa mới chịu nhả ra..

Gm Khảm đã nhắc lại cái bánh vẽ mà Marx đã đưa ra. Ông rất khôn khéo, có tài ngụỵ biện, phủ dụ người nghe, giáo dân là triết thuyết nào, tôn giáo nào, cũng có cánh chung luận, nhưng nơi nào đưa ra được một cánh chung luận hấp dẫn, thực tế mới thuyết phục được lòng người. Rồi ông lấy ngay thí dụ của XHCN VN với chủ thuyết Marx và cho rằng nó có một cánh chung luận rất hấp dẫn và cụ thể, không phải là vô thần, một xã hội hoàn hảo trong đó:

-Không còn cảnh người bóc lột người
-Mỗi người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng, còn nhu cầu có bao nhiêu cứ việc sài.
-Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng dịa giới.

Không biết Gm Khảm được huấn luyện về Marx ở đâu mà đã trở thành Marx hơn cả Marx, cs hơn cả cs. Trước tiên ông trích lời Marx cũng sai. Nói là sai, nhưng có lẽ ông cố ý nói trại đi một tý để người nghe dễ lọt tai hơn chăng? Marx nói “Mọi người làm việc theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu”, nhưng ông lại nói: “…Nhu cầu có bao nhiêu cứ việc sài. Chắc quí vị nhận ra sự khác biệt giữa câu nói của Marx và lời trích của Gm Khảm. “Hưởng thu theo nhu cầu” hẳn phải khác với “Nhu cầu có bao nhiêu cứ việc sài”. Bao che cho cs hay đến thế là cùng. Hưởng thụ kiểu đó thì đâu còn là công bằng nhỉ? Đó là lý do tôi nói Gm Khảm ma lanh mánh khóe hơn cả cs. Còn nói không còn cảnh người bóc lột người thì thực tế cho thấy tại những nước cs, tại TQ và VN hiện nay cảnh người bóc lột người còn tàn tệ và kinh khủng hơn cả thời phong kiến thực dân nữa ai chẳng biết. Gm Khảm quả là bạo phổi thật.

Một sai lầm nữa là Gm Khảm đã cố tình so sánh bừa bãi thời cánh chung của Chúa vời thiên dàng địa giới của Marx. Sau ngày cánh chung là đời sau của con người sau khi chết, còn thiên đàng địa giới của Marx là cuộc sống trên trần thế khi cách mạng của cs, của Marx đã thàng công. Chúng ta thử chờ xem đến bao giờ mới có thiên đàng địa giới như Marx đã vẽ ra.

Gm Khảm có biết rằng để có ngày cánh chung tốt đẹp, Chúa và Marx đã dạy chúng ta thế nào không? Có lẽ ông biết rõ Chúa đã dạy những gì, nhưng ông lờ đi để chỉ ca tụng Marx với mục đích riêng tư của ông.

CĂN BẢN ĐẠO CHÚA LÀ TÌNH YÊU

Chúa Giêsu giáng trần làm người phàm như chúng ta là để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi, để có ngày cánh chung tốt cho mọi người. Ngài lấy tình yêu thương làm căn bản của đạo. Hai chữ TÌNH YÊU được chính Chúa thể hiện qua cái chết của ngài trên thập giá. “Yêu cho đến chết”. Một quá trình giảng huấn của Chúa Giêsu trong 30 năm trời chỉ tóm gọn lại hai chữ Yêu Thương. Tất cả moị người không phân biệt giàu nghèo sang hèn đều như nhau, là anh em một nhà, cùng một cha chung ở trên trời ( ) Anh em hãy yêu thương nhau như yêu thương chính mình vậy (Mat,22: 39). Thông điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói quá sâu sắc và ý nghĩa về hai chữ Tình Yêu rồi tưởng Gm Khảm cũng đã biết.

THIÊN ĐÀNG ĐỊA GIỚI CỦA CS / MARX

ĐẶT CĂN BẢN TRÊN BẠO ĐỘNG, HẬN THÙ, ĐẤU TRANH GIAI CẤP.

Vây mà GM Khảm lơ đi để ca tụng Cánh chung luận của Marx / thiên đàng địa giới

của cs. Ai cũng biết Marx chủ trương đấu tranh giai cấp, ân oán hận thù làm căn bản, đường lối thực hành để đi tới thiên đàng địa giới không cần biết việc đó tốt hay xấu. Phương Châm “Cứu cánh biện minh cho phương tiện” của người cs đã bị thế giới, nhất là những nhà đạo đức và Giáo Hội CG cực lực phản đối. Cả hàng triêu triệu người chết dưới bàn tay cs từ ngày chủ thuyết cs xâm nhập và được thi hành ở Nga Sô Viết, Đông Âu và tất cả các nước cs trên thê giới, ngay cả cho đến giờ này ở TQ và VN vẫn còn tràn ngập chết chóc oán hận và tù ngục. Đọc lại những câu thơ mới đây dưới thời cs mà lòng vẫn cảm thấy rùng rợn:

Bước đi trên hè phố

Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ (Trần Dần)

Hoặc: Giết, giết, giết..…

Cho đồng cỏ xanh tươi! ( Huy Cận )

Đạo Chúa, đạo của Gm Khảm có bao giờ chủ trương “Giết, Giết.., đấu tranh giai cấp, oán ghét hận thù như vậy đâu mà ông ca tụng những người nằm xuống để có được cái gì để lại cho hậu thế, một cánh chung, môt thiên đàng địa giới của cs. Lừa bịp. Đọc suốt 4 Phúc Âm Thư, Công Vụ Tông Đồ, Sách Khải Huyền chưa hề thấy có một chữ nào nói hoặc cổ võ cho chém giết hận thù như vậy. Trái lại Chúa còn dạy “Nếu ai tát anh má này hãy đưa má kia cho họ” hay “Thầy không biểu tha thứ bảy lần, mà là bảy mươi bày lần” (Mat.18:22). Gm Khảm lại cho rằng thiên đàng địa giới của Marx thực tế hơn cả canh chung của Chúa, “không còn cảnh người bóc lột người” thì quả là bạo gan thiật. Nhìn vào VN hiện giờ thì ai bóc lột ai? Gm Khảm đã nguỵ biện, dùng duy vật biện chứng để chối bỏ học thuyết công giáo, ca tụng cs!

MARX LÀ BẤT CÔNG NHẤT

Đến đây vẫn chưa đủ, Gm Khảm còn công khai nói lên toàn bộ cái mà cs đế cao thiên đàng địa giới là :

Không còn cảnh người bóc lột người

Moị người làm việc theo khả năng, còn nhu cầu có bao nhiêu thì sài

Mọi người sống chung thương yêu nhau….

Đọc thì thấy hay lắm, đẹp lắm, nhưng :

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào….(Kiều)

Chúng tôi nghe những điều này khi ở trong nhà tù cải tạo chỉ biết bụm miệng không dám cười ra tiếng. Người cs biết suy nghĩ, có chút đỉnh lương tâm cũng phải nói thầm trong bụng: Thằng cha này tối dạ quá, đến giờ này mà vẫn chưa sáng mắt tỉnh ngộ. Có nịnh thì cũng vừa vừa thôi chứ. Có thật không còn cảnh người bóc lột người không, khi mà xã hội VN hiện nay, cái cảnh người bóc lột người còn lộ liễu tàn ác và lan tràn hơn bao giờ hết. Cán bộ nhà nước, các ông lớn chiếm đoạt tài sản, ruộng vường của dân là hiển nhiên và công khai. Tham nhũng hối lộ là chuyện bình thường không dấu diếm. Làn sóng người từ Nam chí Bắc lũ lượt vể Saigon, Hanội khiếu kiện suốt năm này tháng nọ mà nhà nước đâu thèm giải quyết. Chiếm đoạt tài sản của tôn giáo, của giáo hội CG như tòa khâm sứ, dòng chúa cứu thế Thái Hà ở Hanội v.v…làm chốn ăn chơi, thương mại, bè phái chia chác nhau làm của riêng vẫn hiển nhiên hiện đang xẩy ra. Có thật mọi người sống với nhau yêu thương tình huynh đệ không Gm Khảm ? Chắc chắn chẳng ai công nhận có tình trạng « dễ thương » đó ở nước CHXHCN-VN hiện giờ. Máu vẫn đổ, người chết oan uổng vẫn thường xuyên xẩy ra ở VN hiện nay. Công an đánh người chết tỉnh bơ chỉ vì tội rất bình thường là phạm luật giao thông, đả thương giáo dân đốt nến đòi hỏi công lý và sự thật, tranh đấu cho tự do tôn giáo một cách ôn hòa ở Thái Hà, Đồng Chiêm, ……vẫn còn rõ ràng như vừa xẩy ra hôm nay. Bắt người bỏ tù vô cớ như cơm bữa. Gm Khảm có nhìn thấy những hiện tượng đó không ? hay chỉ ngồi trong tháp ngà nghe những ông chính ủy giảng thuyết cho nhuần nhuyễn lý thuyết cũ rích của cs không một chút thực tế. Nếu bố mẹ, anh em bà con của Gm Khảm có ai chạy trốn cs từ Bắc vào Nam năm 1954, rồi liều chết chạy ra hải ngoại tỵ nạn chính trị từ 1975 thì hãy hỏi họ tại sao họ lại chạy trốn cs, bỏ lại cái thiên đàng cs mà giám mục đang ca tụng xem họ trả lời ra sao?

Có thât là làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu không ? Hoàn toàn là xạo, bịp và không tưởng. Tại sao giám mục Khảm lại ngồi mát ăn bát vàng sung sướng trong toà giám mục ở Saigòn, muốn nói gì thì nòi, muốn ăn gì thì phán trong khi các linh mục ở xứ xa xôi hẻo lánh nơi truyền giáo như ở Kontum, Ban mê Thuật…thì sống kham khổ, cơ cực, không được nói, không được ăn, không được hành đạo theo ý mình ? Họ cũng có nhu cầu như Gm Khảm vậy, có khi còn hơn nữa vì nhu cầu Chúa đòi hỏi.

Cho rằng có như vậy đi nữa thì cũng là lỗi phép công bằng . Ngụ ngôn nén bạc mà chúng ta mới nghe trong ngày Chúa Nhật gần đây nói lên sự công bằng. Làm nhiều thì hưởng hiều, làm ìt thì hưởng ìt, không làm thì không được hưởng, có khi còn bị phạt nữa (Mat.25 : 14-30). Không thể cào bằng như kiểu cs làm cho người giàu thành nghèo, hoặc Giáo hội CG miền Bắc từ xưa vẫn kiên trì với Chúa và Giáo Hội chống lại bất công của bạo quyền vô thần cs thì phải được cào bằng với GH miền Nam để cùng cúi đầu vâng phục bạo quyền chống Chúa lừa GH như trong bài giảng của Gm Khảm giảng cho các linh mục và tu sĩ của giáo đoàn Hanội mới đây trong dịp cấm phòng hàng năm với sự đồng lõa của TGM Nguyễn văn Nhơn. Té ra quí vị lợi dụng tòa giảng, lời Chúa, việc nuôi dưỡng đời sống tâm linh của giaó si, giáo dân để ca tụng cs, lôi cuốn những người không đồng ý với mình về với cs.

KẾT LUẬN :

Quá lắm rồi. Nhắc lại, tôi tính không viết nữa như đã ngồi yên từ lâu, nhưng nay cảm thấy không thể cứ thụ đông như vậy được nữa nên phải lên tiếng, mặc dù sẽ có vị cho là « chửi cha mắng chúa » thì cũng chịu. Nếu có thực như ý gán ghép của những người nào đó vì không ưa thì cũng chỉ là chửi các « cha », tức những linh mục, giám mục hay hồng y đi theo cs thôi chứ không dám đụng đến Đức Giáo Hoàng, còn « Chúa » là Thiên Chúa thì nhất quyết và tuyệt đối là không bao giờ, mà chỉ do thiên hạ đổ vạ cho thôi. Chúa và những vị hiểu lòng chúng tôi chắc không trách mà có thể còn thầm khen trong bụng và khuyến khích. Xin hết lòng cám ơn. Nhưng với bài giảng của Gm Nguyễn văn Khảm thì thực sự ông đã chửi Cha tức là Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, người đã viết thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu và phê phán rất gắt gao những kẻ chủ trương chủ nghĩa thực dụng, những kẻ đầy tớ của Chúa là những con chó câm không biết sủa khi sói lang đến ăn thịt đoàn chiên của mình, nhưng ngược lại, lại đồng thanh cùng với tiếng sủa của sói, sủa inh ỏi để ca tụng rước sói vào nhà. Mắng Chúa phải chăng là chối Chúa, vì vô hình chung Gm Khảm đã đồng ý với Marx chấp nhận oán thù, đấu tranh giai cấp…trái ngược với lời Chúa truyền dạy là « Hãy Yêu Thương Nhau Như Anh Em », ca tụng kẻ chủ trương Tam Vô : Vô gia đình, vô tổ quốc và nhất là Vô Tôn Giáo. Cs rõ ràng chủ trương, không chấp nhận có tôn giáo, không có Chúa là đấng linh thiêng, không có linh hồn. Vậy mà Gm Khảm dám công khai bào chữa, vỗ vào mặt Chúa nói cs không vô thần. Đó chẳng phải là mắng Chúa hay sao.

Không biết phải nói Nguyễn văn Khảm là giám mục của Chúa hay của cộng sản ?

Fleming Island , Florida

Dec 12, 2011

NTC

 

Cánh chung luận là gì?

 L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.

"Đó là một sự mạo nhận không mấy lương thiện, một sự gán ghép giả tạo, vì “Mác-xít là một hệ tư tưởng vô thần cho nên không có cánh chung luận”. Đúng như thế, chứ không phải ngược lại."

Cụm từ này khó hiểu vì không có trong từ điển và trong đời thường. Trong tự điển, chỉ thấy những từ như chung kết, chung cục, chứ không thấy cánh chung. Còn trong đời thường, chỉ thấy nói đến cánh chim, cánh cửa, cánh kiến, cánh nhạn v.v…, chứ không thấy nói đến cánh chung, sở dĩ như vậy vì từ cánh chung mới xuật hiện vài chục năm nay thôi, khi linh mục Nguyễn Thế Thuấn nói đến “nhỡn giới cánh chung” ở trang 560 trong bản dịch Kinh thánh của mình. Đàng khác, cánh chung là một cái gì rất xa lạ đối với đời thường của dân chúng.

Khi muốn dịch từ eschaton ƐσχαƮoν (những sự sau) trong Kinh thánh và eschatos logos ƐσχαƮoς λογος (lời về sự sau) trong thần học, nhiều người không biết dùng từ nào, nên mượn từ cánh chung của linh mục Thuấn cho tiện. Từ đó dần dần cánh chung trở thành chữ phổ thông trong sách báo công giáo.

Vậy chính ra, cánh chung là gì và cánh chung luận là thế nào? Theo nguyên ngữ Hy lạp eschaton là những sự sau và eschatos logos là lời về những sự sau. Eschatos logos trở thành eschatology trong tiếng Anh và eschatologie trong tiếng Pháp. Đây là môn học về những sự sau, gọi là tứ chung hay bốn sự sau, tức sự sống, sự chết, thiên đàng, hỏa ngục trong khoa thần học công giáo mà hiện nay người ta nói cách văn vẻ là cánh chung luận.

Sự sống, sự chết, thiên đàng, hỏa ngục là nội dung được bàn đến trong cánh chung luận. Đây là những tín điều người công giáo phải tuyên xưng trong các Chúa nhật và các ngày lễ trọng. Họ buộc phải tin rằng khi chết rồi, mỗi người phải ra trước tòa Chúa để bị phán xét về các việc mình làm khi còn sống. Nếu ăn ngay ờ lành thì được thưởng. Nếu ăn ở bất nhân thì bị phạt. Người lành được thưởng trên thiên đàng còn kẻ dữ bị phạt sa hỏa ngục. Bài Tin Mừng trong lễ Chúa Giê-su Vua vũ trụ cho thấy cảnh tượng đó đối với những người ăn ngay ở lành:

“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25,34-36)

Còn đối với những kẻ bất nhân :

“Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỉ và các sứ thần của nó. vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” (Mt. 25, 41-43)

Ngày cánh chung là ngày cuối cùng, ngày chu kỳ lịch sử loài người hoàn tất, ngày Chúa ngự giá mây trời mà đến trong tư thế lẫm liệt uy hùng, để phán xét người sống và kẻ chết.

Qua những lời Chúa phán trong ngày phán xét chung, những người được ân thưởng là những người làm những việc từ thiện bác ái. Những người này không phải là những người chỉ biết sống cho riêng mình mà là những người có các mối liên hệ với xã hội, với con người. Các Ki-tô hữu được thánh Phê-rô và thánh Phao-lô dạy rằng quê hương của họ ở trên trời: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20) và họ ở trần gian này như lữ khách : “Anh em thân mến, anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt vốn gây chiến với linh hồn”. (1 Pr 2,11)

Quê trời là đích điểm cùa những người tin Chúa. Vì thế, cánh chung phải là ngày các Ki-tô hữu nhắm tới. Vì ngày đó mà họ cố sống theo lời Chúa dạy, khi còn ở trần gian này.

Quê hương Ki-tô hữu ở trên trời và họ ở trần gian này như những lữ khách, nhưng không phải vì thế mà họ xa lạ với trần gian. Hiến chế Vui mừng và Hy vọng cũng như học thuyết xã hội của Hội thánh luôn đặt Ki-tô hữu trước những bổn phận đối với trần gian theo cái nhìn của đức tin. Phải góp phần vào việc xây dựng xã hội trần gian để đem ơn cứu độ của Chúa cho xã hội đó.

Căn cứ vào nội dung môn cánh chung luận trong thần học công giáo thì không một triết thuyết hay chủ nghĩa nào có thể mang danh hiệu là cánh chung luận, vì triết thuyết hay chủ nghĩa đó không nhìn nhận Thiên Chúa là Chủ tể càn khôn và cùng đích của loài người, Đấng thưởng người lành và phạt kẻ dữ trong ngày chung thẩm. Vì vậy, nói rằng :

ĐGM phụ tá Sài Gòn Phero Nguyễn Văn Khảm

“Bất cứ một tôn giáo nào cũng hàm chứa bên trong một cánh chung luận, triết thuyết nào có khả năng cung cấp cho con người một cánh chung luận hấp dẫn, cũng có nghĩa là cung cấp một niềm hy vọng có sức thuyết phục thì triết thuyết đó cuốn hút con người. Tôi lấy một cái thí dụ, ta đang sống rất là cụ thể trong một đất nước xã hội chủ nghĩa, dựa trên cái nền tảng triết học của Marx. Thế thì có nhiều người có thể nghĩ Mác xít vốn là một hệ tư tưởng vô thần cho nên là không có cánh chung luận. Không phải thế, trái lại nó có một cánh chung luận rất là hấp dẫn, rất là cụ thể, nó đã trình bày cái điểm tới của lịch sử nhân loại, là một xã hội cộng sản hoàn hảo trong đó: không còn cảnh người bóc lột người, mà mỗi một người trong anh chị em và tôi chỉ cần làm việc theo khả năng còn nhu cầu có bao nhiêu là cứ việc xài. Người ta sống với nhau trong tình huynh đệ, một thiên đàng tại thế, và khi mà có cái điểm tới của lịch sử cả nhân loại như thế, thì mỗi cá nhân trong lịch sử đó khám phá ra cái ý nghĩa của một sư hy sinh mình chịu. Tôi chết đi nhưng sư nghiệp của tôi vẫn còn tồn tại mãi trong nhân dân. Tôi hy sinh nhưng mà sự hy sinh đấy không vô nghĩa, bởi vì nó xây dựng cho thế hệ tương lai, xây dựng cho nhân dân, Trong cái cánh chung luận rất là cụ thể và hấp dẫn và chính vì thế nó đã cuốn hút cả triệu con người chấp nhận bao nhiêu hy sinh để xây dựng tương lai, cho nên có chứ không phải không đâu…” (Ngưng trích bài giảng về lễ Chúa Giê-su Vua vũ trụ ngày 20.11.2011 đọc thấy trên mạng NVCL của ĐC Phê-rô Nguyễn Khảm)).

thì đó là một sự mạo nhận không mấy lương thiện, một sự gán ghép giả tạo, vì “Mác-xít là một hệ tư tưởng vô thần cho nên không có cánh chung luận”. Đúng như thế, chứ không phải ngược lại.

Thuyết Mác-xít có chăng thì chỉ là một cái bánh vẽ, một sự mơ tưởng hão huyền về một tương lai tốt đẹp cho con người, một sự ru ngủ những người cả tin vào những lời đường mật của những kẻ khéo nói có tài che đậy, để lường gạt thiên hạ mà thôi. Cứ nhìn xem những gì đã xẩy ra hay còn đang xẩy ra tại những nước áp dụng chủ nghĩa Mác-xít mà Cuốn sách đen về chủ nghĩa Cộng sản, là đủ thấy.

L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế o.p.

Thắp nến cùng Đức cha Long

Quỳnh Hương

Cho đến nay đã có ít là 3 buổi thắp nến trên nước Úc để cầu nguyện cho Thái Hà, cho 15 thanh niên công giáo vừa bị bắt, và cho cả giáo hội Công giáo Việt Nam. Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ vẫn là buổi đầu tiên tại Melbourne. Giữa mưa gió ướt át của buổi chiều ngày 19 tháng 11 năm 2011 những ngọn nến đã thắp lên cùng Thái Hà trước tiền đình Quốc Hội Tiểu bang Victoria. Trước các vị dân biểu Úc cùng đông đảo đồng bào đến tham dự, Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long, giám mục phụ tá Tổng giáo phận Melbourne đã bắt đầu bài phát biểu của ngài như sau: “Hôm nay, chúng ta, những người quan tâm đến tình hình đất nước và đặc biệt là tại Giáo Xứ Thái Hà, đến đây để bày tỏ sự liên đới của chúng ta với đồng bào quốc nội và nhất là những người đang tranh đấu cho tự do, công lý và những giá trị nhân bản đang bị một chính phủ độc tài đảng trị chà đạp coi thường. Nhân danh ban tổ chức, tôi xin chào đón và cảm ơn quý vị, Công Giáo cũng như không Công Giáo, các đoàn thể tổ chức, cũng như mọi người đến đây không những vì một Thái Hà hay một tôn giáo mà vì tương lai cho cả một dân tộc và vì tiền đồ cho cả một Tổ Quốc.”
Bài phát biểu của ngài đã đem đến niềm vui và nỗi xúc động cho nhiều người Việt Nam. Nhiều giáo dân đã bày tỏ niềm hân hoan vì cho rằng những lên tiếng từ các linh mục ở ngoại quốc vẫn còn rất giới hạn trước tình trạng đàn áp các giáo dân trong nước ngày càng gia tăng. Như mới đây, tại giáo phận Con Cuông nhà cầm quyền đã dùng loa, đá và cả hơi cay tấn công các linh mục, giáo dân đang dâng Thánh lễ, đọc kinh tại Nhà nguyện. Và lúc 2 giờ sáng ném bom vào nhà nguyện nổ sập một góc nhà. Tại xã Bình Lộc (thuộc giáo xứ Mỹ Lộc) chỉ vì giáo dân phản đối việc nhà nước lấn chiếm một con mương mà nhà cầm quyền đã ra tay đàn áp họ một cách dã man. Hơn một chục người đã bị thương, 8 người phải nhập viện để cấp cứu, 3 người bị thương nặng! Những giáo dân đi chợ bị đánh đập, hàng quán của họ bị đập nát. Thêm vào đó, ban đêm nhà cửa họ bị ném đá, tinh thần họ bị khủng bố. Trong lá thư gởi từ giáo xứ Mỹ Lộc những câu cuối là lời than phẫn uất: “… giáo dân Mỹ Lộc vẫn cô đơn, vô vọng trong đau thương của máu và nước mắt”.
Đứng trước vấn nạn của các giáo xứ nói riêng và của đất nước nói chung, Thái Hà không là biệt lệ. Tuy nhiên Thái Hà đã đối mặt với bạo quyền Hà Nội một cách bình tĩnh, chấp nhận mọi hệ quả vì sự thật và công lý. Thái Hà đã không chỉ dâng thánh lễ thắp nến cầu nguyện cho các giáo xứ, mà còn dâng lễ cầu nguyện cho những người yêu nước gặp nạn như tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, Luật sư Lê Quốc Quân, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn … dù họ có là con chiên của Chúa hay không. Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long đã nhắc đến cuộc đối đầu với bạo lực của những con người chỉ có tay không và lòng nhân ái tại Thái Hà như một biểu tượng của “chí khí anh dũng của dân tộc ta”. Và ngài còn cho rằng: “sau những biến cố ở Toà Khâm Sứ, Đồng Chiêm hay Cồn Dầu, Thái Hà là thành lũy cuối cùng của lòng kiên cường có tổ chức. Đối với một chính phủ độc tài, không gì đáng sợ cho họ hơn là ý chí bất khuất có tổ chức.”
Và như ngài nói: “Chúng ta hiểu tại sao chính quyền cộng sản Việt Nam lại quyết tâm triệt hạ Thái Hà cho bằng được, họ đã dùng những thủ đoạn hạ cấp nhất để đạt mục tiêu đó. Ngày 3 tháng 11 mới đây, họ đã cho hơn 100 du đãng và côn đồ đến để nhục mạ, đe doạ tính mạng các linh mục, giáo dân. Sau đó những người này còn dùng búa lớn để đập phá khu vực thờ phượng linh thiêng. Thế mà, ở nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước còn “vừa ăn cướp vừa la làng” qua các phương tiện truyền thông của họ. Thử hỏi một tập đoàn lãnh đạo như thế thì sẽ đưa đất nước chúng ta đi về đâu? Thật trớ trêu, khi đất nước chúng ta đứng trước bao thử thách, từ thành thị đến thôn quê, từ Nam Quan tới mũi Cà Mâu, từ đất liền đến hải đảo, thì những người lãnh đạo lại đối xử với đồng bào một cách dã tâm như vậy.” Đức cha Long đã sót sa so sánh nghịch cảnh ấy như một con tầu lửa đang lao xuống vực thẳm mà người điểu khiển con tầu lại sách nhiễu hành khách thay vì cứu nguy cho cả tầu!
Chưa đầy một tháng sau đêm thắp nến cho Thái Hà, ngày mùng 2 tháng 12 người Việt khắp nơi đã rất tức giận và đau lòng khi nhìn thấy cảnh công an bắt bớ các linh mục, đánh đập tàn nhẫn các giáo dân Thái Hà giữa đường phố Hà Nội. Những thách thức dành cho Thái Hà không còn là những thách thức riêng của một giáo xứ, của một tôn giáo, bởi vì Thái Hà đang là một biểu tượng của những con người Việt Nam chấp nhận trả giá cho quê hương, cho đồng bào mình. Là người Việt Nam, công giáo hay không công giáo chúng ta biết ơn và hãnh diện vì Thái Hà. Đức cha Long đã bày tỏ tâm tình của ông: “ Tôi là giám mục Công Giáo, nhưng tôi vẫn mang dòng máu Việt Nam và không thể không thao thức trước một thực tế quá bi quan về hiện trạng đất nước. Nhưng con đường dẫn đến tương lai tươi sáng cho quê hương là con đuờng dài và chúng ta là những viên gạch lót đường.”
Đức Cha cũng nhắc lại lời bà Aung San Suu Kyi rằng bất cứ cuộc tranh đấu nào không thể rơi từ trời xuống hay một người nào đó ban cho ta, chính chúng ta phải tranh đấu lấy. Và Đức cha khẳng định rằng tranh đấu cho một tương lai tươi sáng cho Việt Nam là bổn phận và trách nhiệm của những người mang dòng máu Việt Nam. “Thiết nghĩ, đây cũng là cơ hội để người Việt chúng ta tại hải ngoại đồng tâm nhất trí với nhau trong cùng một mục đích chung, không phân biệt tôn giáo, khuynh hướng chính trị; không phân biệt Bắc, Trung hay Nam; thậm chí không phân biệt là công dân Úc hay còn là công dân Việt Nam. Mục đích chung đó là gì, là một Việt Nam tự do, công bằng, văn minh.”
Điều cuối, Đức cha kêu gọi rằng tổ quốc chúng ta đang lâm nguy, bóng đêm của sự độc tài gian ác đang bao phủ trên quê hương. Nhưng nếu chúng ta đều đồng lòng đốt lên một ngọn nến thì bóng đêm đó sẽ phải tan biến. Hãy cùng nhau tiếp sức cho Thái Hà “Khi hồi chuông Thái Hà vang lên, người giáo dân đã tới để cứu nguy cho giáo xứ. Hôm nay, chúng ta, những người con của Tổ Quốc ở hải ngoại hay ở trong nước cùng nghe tiếng chuông Thái Hà báo động tổ quốc lâm nguy. Chúng ta hãy cùng nhau giải cứu Việt Nam thân yêu đang đứng trước vực thẳm của sự băng hoại hoàn toàn. Tiếng chuông Thái Hà sẽ là tiếng chuông báo hiệu cái chết của chủ nghĩa cộng sản lỗi thời và sự quang phục của quê hương.”
Chắc chắn không chỉ Thái Hà mà còn rất nhiều người công giáo và không công giáo cũng đang lắng nghe nhịp tim của Đức cha, nhịp tim của một người Việt Nam đang đồng hành: “Đất nước Việt Nam muôn năm, dân tộc Việt Nam muôn năm”. Phải chăng chính vì niềm tin này, tiền nhân đã đổ bao công lao và xương máu để gìn giữ và gởi trao đất nước lại cho con dân Việt. Và trải bao can qua, không ít lần, niềm tin ấy đã được lập lại, được gởi lại cũng bằng chính câu nói ấy, như một lời nhắn nhủ cuối cùng.
Truyền thống đoàn kết đùm bọc lẫn nhau trong đức tin để đi qua những giai đoạn khó khăn là truyền thống và sức mạnh của người công giáo Việt Nam. Là một Phật tử, tôi cũng xin được cùng Đức cha Vinh Sơn Nguyễn văn Long thắp một ngọn nến cho Thái Hà; hiệp thông với tinh thần bất khuất của dân tộc Việt để sớm chấm dứt nghiệp dữ của những kẻ vô minh, chấm dứt mọi khổ đau trên quê hương tôi.


                                      


Lá Thư ngỏ gởi các Linh mục, Tu sĩ và Cộng đồng Dân Chúa hải ngoại

Kính thưa qúy Đức Ông, Linh Mục, Tu Sĩ và anh chị em tín hữu,
Trong tuần vừa qua từ ngày 28 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12, ba anh em chúng tôi là Dominic Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange, Hoa Kỳ, Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Toronto, Canada và Vincent Nguyễn Văn Long, Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, Australia, đã có dịp gặp gỡ và chia sẻ những kinh nghiệm mục vụ cũng như những thao thức của các Cộng Đồng Dân Chúa nơi chúng tôi đang sống và làm việc. Chúng tôi cũng có dịp lắng nghe những quan tâm, ưu tư của các linh mục, tu sĩ và giáo dân qua những cuộc đối thoại trong tinh thần đoàn kết và xây dựng. Mặc dù đây chỉ là buổi gặp gỡ hữu nghị, chúng tôi nhận thấy cũng cần chia sẻ với anh chị em một số điều như sau:
1. Chúng tôi chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa đã thương dìu dắt khối người Việt Công Giáo hải ngoại. Sau những năm tháng nhiều đau thương, vất vả và khốn khổ, chúng ta đã ổn định và trở thành một trong những phần tử năng động nhất trong các Giáo Hội địa phưong, nơi chúng ta sinh sống. Lực lượng các linh mục, tu sĩ, giáo dân đông đảo và nhất là đời sống đạo nhiệt thành đã làm rạng rỡ cho truyền thống và di sản đức tin mà các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng.
2. Chúng tôi cũng cảm tạ Thiên Chúa vì tấm gương trung kiên anh dũng của Đức Cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận. Quá trình phong thánh đã được xúc tiến cho vị “Tôi Tớ Chúa” này với nhiều cuộc lắng nghe các nhân chứng ở nhiều nơi trên thế giới. Chúng tôi kêu gọi anh chị em tiếp tục cầu nguyện và hợp tác khi có thể, ngõ hầu Ngài sớm được tôn phong vào hàng hiển thánh, làm vinh danh Giáo Hội và dân tộc Việt Nam.
3. Chúng tôi cảm thấy cần phát huy tinh thần đoàn kết và liên đới trong các thành phần Dân Chúa, hầu tạo sức mạnh và hữu hiệu hóa các sinh hoạt của chúng ta từ trong các giáo đoàn đến giáo phận, quốc gia và quốc tế. Chúng tôi rất hoan nghênh và khuyến khích các sinh hoạt nhằm tạo tình liên đới, giúp nhau thăng tiến trong công việc mục vụ và sống đạo.
4. Chúng tôi cũng nhận thấy cần đáp ứng với các nhu cầu mới trong hoàn cảnh mục vụ mới: các anh em linh mục tu sĩ thế hệ trẻ, giới trẻ thuộc thế hệ thứ hai và thứ ba tại hải ngoại, các cháu thiếu nhi… Nỗi ưu tư chung của chúng ta là làm sao duy trì gia sản đức tin và văn hóa đặc thù Việt Nam cho các thế hệ nối tiếp trong môi trường tục hóa đang đe dọa đến đời sống siêu nhiên của người tín hữu.
5. Sau cùng, chúng tôi biểu lộ sự liên đới với Giáo Hội quê mẹ Việt Nam trong cuộc hành trình tiến về tương lai tươi sáng hơn cho Giáo Hội và cho đất nước. Nhất là, chúng tôi đặc biệt biểu tỏ sự liên đới với giáo xứ Thái Hà hiện đang chịu nhiều thử thách trong khi đòi hỏi những điều chính đáng. Chúng tôi kêu gọi nhà cầm quyền hãy tôn trọng tự do tôn giáo và nhân quyền, để người dân được sống đúng với nhân phẩm theo hiến chư ơng của Liên Hiệp Quốc và có đủ điều kiện để phát huy một đất nước thật sự tự do, độc lập và thịnh vượng.
Chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa đã quan phòng cho chúng tôi có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ và lắng nghe. Chúng tôi cũng nhận ra sự hạn hẹp trong cuộc gặp gỡ lần đầu tiên này trước nhiều kỳ vọng của nhiều tổ chức, đoàn thể cũng như cá nhân trong khối người Việt Công Giáo hải ngoại. Ước mong của chúng tôi là tiếp tục lắng nghe và cầu nguyen để dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, chúng tôi sẽ phục vụ anh chị em một cách hữu hiệu hơn và mang lại nhiều lợi ích cho Giáo Hội.
Trong Chúa Giêsu Kitô,
Các Đức Cha đồng ký tên
+Dominic Mai Thanh Lương 

+Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu 

+Vincent Nguyễn Văn Long

Viết tại Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam
Orange County, ngày 2 tháng 12 năm 2011

Nguồn: http://vietcatholic.net/News/Html/94662.htm




MẤT NƯỚC, MẤT ĐẢNG

MẤT NƯỚC, MẤT ĐẢNG

Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

Trung Quốc muốn cải thiện bang giao với Mỹ nên đã phái Ngoại trưởng Dương Khiết Trì đến Washington để chuẩn bị cho cuộc hội kiến giữa Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và TT Barack Obama vào tháng tới khi họ Hồ đến viếng thăm Mỹ. Nhưng xui xẻo làm sao, vào lúc họ Dương đến Mỹ, giữa chính phủ Mỹ và chính quyền Cộng sản Bắc Kinh lại xảy ra hai chuyện rắc rối lớn. Trước hết là vào dịp kỷ niệm 50 năm nổi dậy của dân chúng Tây Tạng đưa đến vụ đàn áp đẫm máu của Trung Cộng, khiến Đức Đạt Lai Lạt Ma phải chạy qua Ấn Độ. Vụ thứ hai nghiêm trọng hơn là 5 chiến hạm Trung Cộng vây chặn và hăm dọa một tàu Hải quân Mỹ trong vùng biển ở phía Nam đảo Hải Nam ngoài khơi bờ biển Trung phần Việt Nam, phía Tây quần đảo Hoàng Sa, tức bên trong hải phận Việt Nam nơi Bắc Kinh vẫn tự nhận là lãnh thổ và lãnh hải của họ.
Vụ đàn áp Tây Tạng đã khiến Bộ Ngoại giao Mỹ ngay từ tuần trước lên tiếng nhắc nhở Bắc Kinh rằng Mỹ vẫn quan tâm đến những vụ Trung Cộng vi phạm nhân quyền. Nhưng trước mắt vẫn là việc chiến hạm của Trung Cộng bao vây và hăm dọa chiếc tầu của Hải quân Mỹ. Tầu này, có tên là Impeccable vốn là tầu không võ trang. Mỹ nói tầu này chỉ có nhiệm vụ thăm dò các hoạt động của tầu ngầm dưới biển (ngụ ý của Trung Cộng) và quả quyết tầu Mỹ hoạt động trong vùng biển quốc tế. Còn Bắc Kinh cãi lại, nói đó là vùng biển của họ. Vậy tại sao tầu Mỹ dù không võ trang lại đến phía nơi gần Hoàng Sa để thăm dò? Các giới chức bộ Quốc phòng Mỹ nói vì vùng đó là nơi có tranh cãi về quyền hải phận nên Mỹ phải quan tâm và sẽ tiếp tục làm nữa, bất chấp sự phản đối của Bắc Kinh. Đến tuần này vẫn không có việc gì đáng tiếc xẩy ra, nhưng vụ cãi cọ gay go đã tạo ra một một đám mây u ám trước khi họ Hồ đến Mỹ. Xét ra muốn cải thiện bang giao với Mỹ cũng không phải chuyện dễ.
Ở đây chúng tôi muốn nhìn đến khía cạnh của Việt Nam vì đó hiển nhiên là hải phận của nước này. Vậy chế độ Cộng sản Hà nội nói sao? Năm xưa khi chỉ mới chiếm được mảnh đất miền Bắc, chính quyền Cộng sản chưa vững chắc, Phạm Văn Đồng đã ký công văn mặc nhiên nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của "người anh em phương Bắc". Nhưng về sau khi đã chiếm đươc cả miền Nam, Cộng sản Hà Nội đã "đổi mới" để mở cửa đón đô-la, bằng cách công khai nói các đảo nhỏ đó là của Việt Nam. Khi sự rắc rối về vụ tầu Impeccable của Mỹ xẩy ra tuần trước, theo tin đài BBC, phát ngôn nhân bộ Ngoại giao Hà nội tuyên bố: "Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử về chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Mọi hành động của các bên liên quan đến vụ này mà không có sự đồng ý của Việt Nam đều là vi phạm chủ quyền của Việt Nam và không có giá trị pháp lý". Phía Bắc Kinh, phát ngôn nhân bộ Ngoại giao, trong một cuộc họp báo thường kỳ tuyên bố: "Các đảo Hoàng Nham (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa) luôn luôn là lãnh thổ của Trung Quốc. Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi đối với các đảo này và và bất cứ tuyên bố chủ quyền nào của nước khác cũng là bất hợp pháp và vô giá trị". Câu này hiển nhiên ám chỉ lời tuyên bố của Hà Nội, kèm theo một sự hăm dọa trắng trợn.
Thế nhưng chính Bắc Kinh đã có một tham vọng quá lớn đi ngược lại luật lệ quốc tế về vùng biển. Với các nước ở ven biển ngoài lãnh hải thường lệ, các nước đó còn được hưởng một vùng kinh tế đặc biệt khai thác tài nguyên dưới biển, chạy dọc theo bờ biển với chiều rộng là 200 hải lý. Nếu nước nào có thềm lục địa xa hơn nữa, vùng khai thác tài nguyên cũng xa hơn. Tài nguyên ở đây là những mỏ dầu mỏ khí nằm ở dưới đáy biển. Có lẽ vì thế mà tầu Impeccable của Mỹ cần phải thăm dò khá kỹ hơn về khoản này và còn thăm dò nhiều nơi khác ở Nam Hải. Khi có "hơi hám vàng đen" ai mà chẳng mê, chờ đến lúc thấy rồi là tranh dành nhau và đánh nhau chí mạng. Mỹ phải đo lường trước để tránh hậu họa, sợ cũng giống như lò lửa ở như Trung Đông.
Hãy nhìn bản đồ do Bắc Kinh ấn hành, đường lãnh hải Trung Quốc tự nhận ở Nam Hải  bắt đầu từ dưới đảo Hải Nam chạm cả vào đường vạch của vùng kinh tế đặc biệt Việt Nam, từ đó kéo dài xuống phía Nam theo dọc đường hình chữ S của hải phận Việt Nam thu gọn nhóm đảo Hoàng Sa vào hải phận Trung Quốc, rồi chạy xuống đến gần Mã Lai Á, bao trùm cả nhóm đảo Trường Sa, kế đó chạy vòng lên bám sát hải phận Phi Luật Tân đến gần hải phận Đài Loan. Như vậy là tất cả miền Đông của Nam Hải đều thuộc Trung Quốc của mấy anh Tầu Cộng. Và họ còn cao ngạo nói "bất cứ tuyên bố chủ quyền nào của nước khác cũng là bất hợp pháp và vô giá trị". Nhưng người ta cũng nhìn thấy rõ lời tuyên bố của Bắc Kinh chỉ là lời của một phát ngôn nhân bộ Ngoại giao, rõ rệt để chọi lại lời của Hà Nội cũng do phát ngôn nhân bộ Ngoại giao nói ra. Tóm lại đây chỉ là lời mấy anh Bắc Kinh dằn mặt mấy anh Hà Nội.
Trong c&aacut
e;c cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại, đã có câu loan truyền về tình hình rất thực tế mà mấy anh lãnh đạo CSVN đã lâm phải từ lâu. Đó là câu: "Đi với Tầu thì mất nước, đi với Mỹ thì mất đảng". Cố nhiên nếu đi với Mỹ, mấy anh lãnh đạo Cộng sản Việt Nam làm sao còn giữ được đảng. Một khi đã mở của rước tư bản vào nhà, đảng Cộng sản chỉ còn cái vỏ như cái thùng rỗng, đánh thì kêu lớn nhưng bên trong chẳng còn cái gì. Rồi đến khi dân trí lên cao, tuổi trẻ nhìn ra thế giới bên ngoài và đòi hỏi, cái thùng rỗng chẳng bao lâu sẽ bị liệng bỏ nốt. Nếu đi với Tầu thì mất nước, vậy còn giữ được đảng chăng? Hãy quên đi cái ảo tưởng đó.
Mất nước là vì nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa sẽ không còn, mà biến thành một chư hầu của Nhân dân Trung Quốc, y hệt các chư hầu của Liên Sô trước đây. Dù vậy vẫn còn đảng của mấy anh lãnh đạo Hà Nội chăng? Cái ảo tưởng này còn lớn hơn và nguy hiểm hơn nữa. Lúc đó đảng Cộng sản Việt Nam chỉ còn cái tên, thực tế nó sẽ là một chi bộ của Trung ương đảng Trung Cộng.

Còn các anh lãnh đạo đảng Cộng sản VN hiện nay, may lắm là được cho về hưu đuổi gà, nuôi heo, tiền của bị lột sạch băng, bọn bành trướng Bắc Kinh không quên thái độ của mấy đồng chí Việt Nam khi các đồng chí có quyền trong tay. Còn nếu không may, các đồng chí có thể còn mất cả chỗ đội nón. Bởi vậy chớ dại ôm lấy đảng mà bỏ nước.




GS Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh: TRÁCH NHIỆM LIÊN HIỆP QUỐC

Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh: TRÁCH NHIỆM LIÊN HIỆP QUỐC

Hội Ðồng Bảo An LHQ năm nay họp có một điểm đặc biệt. Ðó là cuộc họp Thượng đỉnh. Kể từ khi LHQ thành lập năm 1945, đây là lần thứ 5 HÐBA họp trên cấp tối cao như vậy. TT Obama là vị Tổng Thống Mỹ đầu tiên ngồi ghế chủ tọa cuộc họp này, ông đã tuyên bố “dự thảo nghị quyết đã được đồng thanh chấp thuận”. Từ tuần trước báo chí đã loan nội dung nghị quyết này nhằm “loại bỏ vũ khí hạt nhân trên thế giới”. Nga, Trung Quốc và các nước đang phát triển tán thành bản nghị quyết do Mỹ chủ trương, tạo ra một thế mạnh và một sự yểm trợ toàn cầu. Bản nghị quyết kêu gọi tăng cường nỗ lực ngăn ngừa sự lan tràn của vũ khí hạt nhân, khích lệ giải giới và “tiết giảm hiểm họa khủng bố hạt nhân”.

Sau cuộc bầu phiếu, TT Obama tuyên bố: “Bản nghị quyết lịch sử chúng ta vừa chấp thuận đã nêu cao sự gắn bó của chúng ta đối với mục tiêu là một thế giới không có bom hạt nhân và cũng tạo ra sự thỏa hiệp của Hội Ðồng Bảo An về một khuôn khổ hành động để làm giảm bớt hiểm họa hạt nhân khi chúng ta tiến đến mục tiêu đó”. Obama còn nói: “Chỉ một vũ khí hạt nhân nổ ở một thành phố lớn trên thế giới cũng đủ gây ra một sự phá hoại lớn lao”. Ông cho biết một nỗ lực toàn cầu sẽ nhằm “khóa chặt lại mọi vật liệu hạt nhân trong 4 năm”. Ông nhấn mạnh: “Nỗ lực toàn cầu không phân biệt một nước riêng nào. Luật quốc tế không phải là một sự hứa hẹn rỗng không, hiệp ước quốc tế cần phải được thi hành. Chúng tôi giã từ cuộc họp này với một ý chí cương quyết gia tăng”.

Tổng Thư Ký LHQ Ban Ki-moon hoan nghênh các nhà lãnh đạo quốc gia đã tới dự phiên họp thượng đỉnh Hội Ðồng Bảo An về vũ khí hạt nhân và nói “Ðây là giờ phút lịch sử, khởi đầu cho một tương lai mới của thế giới”. Tổng Thống Nga Dmitry Medvedev nói mục tiêu chung của chúng ta là “cởi mở vấn đề những nút rối” giữa những quốc gia tìm kiếm sự giải giới và chống lan tràn vũ khí nguyên tử. Trước cuộc họp HÐBA, trong phiên họp chung của các nước hội viên LHQ, với các hàng ghế đầy chật người tại Ðại sảnh đường, TT Obama đã hô hào các nhà lãnh đạo thế giới hãy kề vai tiếp sức để gánh những gánh nặng quốc tế khẩn trương, ông hứa sẽ có một sự hợp tác mới của Mỹ, Nhưng Obama cũng nhẹ nhàng nhắc nhở các nước khác không còn có thể chỉ trích Mỹ là nước cậy sức mạnh của mình để tự tung tự tác, trong khi các nước đó vẫn đòi hỏi Mỹ cứu nguy những mối họa chung của Thế giới.

Obama nói: “Những ai thường chỉ trích Mỹ một mình tự tung tự tác, nay không thể đứng ngoài mà chờ nước Mỹ một mình giải quyết các vấn đề của cả thế giới. Bây giờ là lúc tất cả chúng ta phải gánh vác phần trách nhiệm của mình để có một giải pháp chung trước những thử thách trên toàn cầu”. Ông hứa nước Mỹ sẽ tiến tới “một thời đại mới căn cứ trên quyền lợi chung và sự kính trọng lẫn nhau”. Obama đặc biệt muốn nói đến các nhà lãnh đạo thế giới trước đây đã từng dùng các cuộc họp quốc tế để nặng lời lên án nước Mỹ. Ông nói “hầu như có một sự bài Mỹ rộng lớn” đã bao trùm cả thế giới dưới thời vị tiền nhiệm của ông là TT George W. Bush. Và TT Obama nói tiếp: “Ðiều đó không thể biện minh cho thái độ chỉ biết khoanh tay ngồi nhìn mà không chịu làm gì cả”.

Vậy bây giờ có chuyện gì cần phải làm ngay? Hôm thứ Năm HÐBA chấp thuận nghị quyết “loại trừ vũ khí hạt nhân” của TT Obama, thì hôm sau thứ Sáu các nhà ngoại giao và giới chức Tình báo Tây phương bỗng tiết lộ tin “Iran có một trung tâm bí mật, trung tâm thứ hai, thanh lọc chất Uranium, ở thành phố Thánh Hồi giáo Qom, trong một vùng núi non hiểm trở”. Lập tức TT Obama, Thủ tướng Anh Gordon Brown và Tổng Thống Pháp Nicolas Sarkozy tố cáo Iran có một trung tâm bí mật mà các thanh sát viên quốc tế không biết. Khối Liên hiệp Âu châu cũng lên án gắt gao. Thấy bị rơi vào bẫy của LHQ và cả Tây Âu khiến kế hoạch mật làm bom bị “dính chấu” không còn rồ máy được nữa, hôm Thứ bẩy vừa qua Iran đành phải tuyên bố chấp nhận cho các thanh sát của Cơ quan Nguyên tử năng LHQ được đến nhà máy này để điều tra.

Nhưng đến Chủ nhật, Iran lại có một trò chơi chiến tranh khác để hù dọa thiên hạ. Iran phóng thí nghiệm 3 loại phi đạn tầm ngắn, Fateh (120 dậm), Tonda (93 dậm) và Zelzal (130 dậm). Một ngày sau, tức Thứ hai tuần này theo đài TV nhà nước Iran, bộ Tư lệnh Vệ Binh Cách Mạng, lực lượng quân sự mạnh nhất của Iran, đã phóng thử thành công hai loại phi đạn tầm trung mới được nâng cấp, Shahab-3 và Saijil. Cả hai đều là loại phi đạn hai tầng có thể phóng đầu đạn xa đến 1,200 dậm, tức là đặt Israel, các căn cứ của Mỹ ở Trung Ðông và một phần của Âu châu vào tầm bắn của phi đạn Iran. Không thể hù dọa bằng bom nguyên tử vì bị LHQ xiết chặt, bây giờ Lãnh tụ quân sự Iran cầm quyền trong bóng tối chơi trò chiến tranh mới. Liệu nó có làm ai sợ không?

Về bom nguyên tử, theo sự ước lượng của Mỹ, Iran phải mất từ 1 đến 5 năm nữa mới chế tạo được một quả bom, mặc dù các giới chức tình báo tin rằng các nhà lãnh đạo Iran chưa quyết định chế tạo bom nguyên tử. Ðiều này cũng có lý vì trên thực tế chỉ cần một đầu đạn nguyên tử Iran bắn vào Israel hay một căn cứ quân sự Mỹ, lập tức Thủ đô Teheran hay cả nước Iran sẽ lãnh đòn trả đũa bằng những vũ khí nguyên tử mạnh gấp 10 lần hơn. Không ông Iran nào dám chơi trò đùa dai đến độ đó. Vậy Iran bắn phi đạn để làm gì?

Mục tiêu chính của Vệ Binh Cách Mạng Iran vẫn luẩn quẩn nằm trong mối lo sợ bị mất quyền hành tối cao trong nội bộ. Theo Thông tấn bán chính thức Fars của Iran, tướng Abdollah Araqi, tư lệnh cao cấp của Vệ Binh Cách Mạng tuyên bố: “Các phi đạn của Iran có thể bắn đến bất cứ nơi nào đã hăm dọa Iran”. Phát ngôn nhân bộ Ngoại giao Iran Hasan Qashqavi nói “các cuộc thí nghiệm phi đạn không liên hệ gì đến sự căng thẳng về vụ trung tâm thanh lọc Uranium ở ngầm sâu dưới đất đã được công bố mới đây”.

Mặt khác, theo nguồn tin AP, vụ trung tâm hạt nhân của Iran mới bị phát giác đã khiến có một cuộc họp cấp bách vào thứ Năm tuần này ở Geneva giữa Iran và 6 nước lớn để tìm cách chấm dứt ngay chương trình vũ khí hạt nhân của Iran. Savier Solana, người cầm đầu ngành Ngoại vụ của Liên hiệp Âu châu, nói ông rất quan ngại các vụ thí nghiệm phi đạn của Iran. Cuộc họp cấp bách tuần này ở Geneva sẽ nằm trong “một bối cảnh mới”. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton nói bà không tin trong cuộc họp sắp tới Iran sẽ có thể thuyết phục Mỹ và các đại cường khác trên thế giới là chương trình hạt nhân của Iran chỉ có mục tiêu hòa bình. Xét ra Iran đã bị đưa vào trò hát xiệc mới rồi.

Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh




Vi Anh : Cộng Sản Sợ Internet, Blog


Cộng Sản Sợ Internet, Blog

(03/10/2012) (Xem: 1870)
Tác giả : Vi Anh

Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đều sợ Internet, sợ blog chánh trị do xa lộ thông tin tòan cầu Internet chuyển tải.
 Tin mới đây của thông tấn xã Pháp AFP, lợi dụng được một trục trặc kỹ thuật của búc tường lửa do  CS Trung Cộng bố thiết để ngăn chặn không cho người dân Trung Quốc tham khảo các trang mạng không hợp ý chế độ, rất nhiều người dân TQ đã bất ngờ vào được trang Google+ của Tổng thống Mỹ Barack Obama, để lại những lời bình luận về chua cay về tình trạng nhân quyền và tự do tại Trung Quốc. Đọc rất thấm thía, “nghe sao ngậm đắng nuốt cay thế nào.”

Như lời ca của hai bài hát của Việt Khang “Anh Là Ai, Việt Nam Tôi Đâu” đang làm rúng động lòng người dân Việt ở hải ngọai khiến cả một trăm bốn mươi mấy ngàn người Mỹ gốc Việt ký thỉnh nguyện thư gởi vào trang web We the People của Phủ Tổng Thống Mỹ, yêu cầu TT Obama áp lực CS Hà nội thả tù chánh trị và không mở rộng giao thương với chế độ CS Hà nội nếu không cải thiện nhân quyền.

Những người dân TQ đã bất ngờ vào được trang Google+ của Tổng thống Mỹ Barack Obama đã có  những lời đau đớn của  phận người dân Trung Hoa là một dân tộc có một trong vài nền văn minh lớn cỗ đại – văn minh Sông Hòang Hà — lâu đờì  nhưng còn tồn tại tới ngày nay. Thuở xưa khi  người Âu châu còn sống trong rừng, chưa có quốc gia đô thị thì người Trung Hoa đã có đường sá, lữ quán, triều đình, triều cương, triều nghi rồi.

Nhưng trong thời CS thống trị nước Trung Hoa trong nửa thế kỷ, thì người Trung Hoa một dân tộc của một nền văn minh tốt đẹp và ảnh hưởng lớn ở Á châu, lại nói trong trang Google+ của Tổng thống Mỹ Barack Obama, như vầy nè. «Nhiều người không hiểu vì sao có đông đảo người Trung Quốc muốn qua Mỹ định cư. Chúng tôi ao ước có được nền dân chủ và quyền tự do mà nhân dân Mỹ được hưởng ». «Chúng tôi không phải là dân man di mọi rợ, chúng tôi chỉ đơn thuần là một dân tộc bị bóp nghẹt». Có người yêu cầu Tổng thống Mỹ «hãy qua giải phóng Trung Quốc».

Cũng trong khỏang thời gian ểm tường lửa của CS ở Trung Quốc bị trục trặc kỹ thuật, thì đàn em CS VN thô bạo siết an ninh mạng mạnh hơn nữa, chặt hơn nữa. Tin đài VOA  của Mỹ cho biết chỉ trong vài tháng qua, có tới 9 nhà báo và 33 blogger bị bắt giam. Ông Phil Robertson thuộc Tổ chức Human Rights Watch nhận định Hà nội cảm thấy bị đe dọa vì các công dân Việt Nam gia tăng sử dụng mạng internet. Số người Việt Nam sử dụng Internet  tăng nhiều. Năm 2000, chưa tới 1% dân số truy cập được internet. 10 năm sau, con số ấy đã tăng vọt lên tới 27%, và có phần chắc sẽ tăng cao hơn nữa ngay tại thời điểm này. Thêm vào đó điện thọai cầm tay bây giờ như một máy computers di động, gởi tin, hình nhanh như ánh sáng. Công an trấn áp dân thì trong nháy mắt hình ảnh có trên mạng, loan truyền khắp nơi trên thế giới. VN dân số 86 triệu nhưng có tới 111 triệu điện thoại cầm tay chánh thức ghi danh sử dụng. Đó là chưa nói những người gọi điện thọai bằng thẻ, rất kín đáo, khó cho nhà cầm quyền kiếm sóat, điều mà đài Á châu Tự do của Mỹ khéo léo khuyên khán thính giả trong nước VN gọi vào đài nên sử dụng “vừa rẻ vừa thuân tiện”. 

Hơn nữa, các cuộc nổi dậy ở các nước Á rập, đa số người dân dùng tiến bộ khoa học kỹ thuật Tin Học để loan truyền tin tức và nghị luận cũng như vận động, huy động biểu tình lật đổ độc tài. Nên Ông Robertson nói  những gì xảy ra trong thế giới Ả rập đã gây rất nhiều quan tâm cho nhà cầm  quyền VNCS nên họ siết mạnh Internet.

CS siết thô bạo Internet và blog vì sợ Internet và blog giải thóat con người ra khỏi vòng kềm kẹp của chế độ.

Nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ. Đảng Nhà Nước CS Hà nội có công an đông như kiến cỏ trang bị tận răng, cái gì cũng dám làm dù phi pháp, phi nhân nhứt. CS Hà nội cũng  có hàng ngàn “báo đài” làm cái loa tuyên truyền cho Đảng Nhà Nước. Nhưng CS Hà Nội thua  lực lượng  bloggers chánh trị của người dân, được tiến bộ khoa học tin học yểm trợ, giúp cho một vũ khí êm nhưng rất thấm trong việc chống độc tài, làm CS bị tự “diễn biến hòa bình” thành  diễn biến không còn hòa bình nữa, như vụ kỹ sư Đòan văn Vươn dùng súng và mìn tự chế bảo vệ tài sản mình khi công an đến cướp chế.

Vì blog nguy hại cho nhà cầm quyền CS độc tài, nên CS thường xuyên đánh phá blog, kiểm soát Internet. Đặc biệt trước đại hội Đảng  CSVN vào tháng 1 năm 2011, vì sợ blog khui thâm cung bí sử, những bế bối, đấu đá nhau thúi cả Đảng Nhà Nước, CS Hà nội  mở chiến dịch đánh phá blog khốc liệt..

CS sợ blog vì trong đấu tranh chánh trị trường kỳ có những thứ êm mà thấm đau lắm, chẳng những ê ẩm cả mình mẫy mà còn bầm gan tím ruột, lồng phổi trụy tim  nhà cầm quyền nữa. Nó ép phê hơn bạo động và võ lực thường là chuyện xảy ra sau cùng kết thúc của cuộc đấu tranh.

Nên CS mở chiền dịch đánh phá blog khốc liệt. Cơ quan chuyên môn an ninh mạng SecureWorks, ở thành phố Atlanta, Hoa Kỳ, đã từng tố cáo vũ khì CS xài là virus tin học có tên là Vecebot. Nó đã phá  hơn 10 ngàn máy tính kết nối vào các diễn đàn trên mạng phê bình, chỉ trích Đảng CSVN.

Thoạt kỳ thủy, blog trên phương diện khoa học, kỹ thuật  tin học chỉ là những trang nhựt ký trên mạng Internet. Những người dân yêu nước thương dân, những nhà báo có đức nghiệp, có trách nhiệm với độc giả đồng bào và có lương tâm Việt với nước nhà VN đã biến phát minh khoa học của thời đại là blog thành blog chánh trị, thành khẩu thần công nã vào  chế độ độc tài CS.

Những người viết blog chánh trị đó đã dùng tình yêu nước, thương dân, hận cái nhục do nhà cầm quyền gây ra cho quốc gia dân tộc làm thuốc nổ. Loại thuốc nổ bằng tinh thần quốc gia, tình tự dân tộc, tình yêu  Tổ quốc, quê hương, tánh ghét kẻ mạnh hiếp yếu, tình thần kiến nghĩa bất vi vô dõng dã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng, tạo thành sức xuyên phá tuy êm mà rất thấm cho đảng và nhà cầm quyền CS. Nhờ những đức tính đó mà người Việt trong 4000 năm lịch sử đã chống chọi, đánh đuổi giặc Tàu 1000 năm, đã chiến thắng đội quân Tàu Nguyên Mông sừng sõ nhứt đã chiếm cả Á Châu và Đông Âu.

CS Hà nội sợ Internet,  blog vì càng ngày càng nhiều người viết blog chánh trị. Nhiều tổ chức theo dõi báo chí toàn cầu như Phóng Viên Không Biên Giới bản doanh ở Pháp và Ủy ban Bảo vệ các Nhà báo CPJ ở New York và người Việt ở Bắc, ở Nam, ở Trung và ở hải ngoại nhận thấy càng ngày càng có nhiều những người Việt, nhà báo, trí thức, đấu tranh, trẻ già, suốt từ Bắc chí Nam viết blog chính trị va blog chánh trị tràn ra hải ngoại VN. Theo tìm hiểu mới dây của trang mạng xã hội Facebook, việc viết blog đã phát triển rất nhanh tại Việt Nam kể từ 2005. Hiện có tới 24 triệu người dùng internet.

CS Hà nội phải cầu viện “Anh Cả Đỏ TC” giúp kiểm soát internet, xa lộ chuyên chở những phát minh thông tin nghi luận trong đó có blog giải thoát con người ra khỏi ách độc tài. Các cơ quan an ninh của CS Hà nội đã học, đã nhờ sự giúp đỡ của TC để đối phó mặt với những đe dọa đến từ các nhà ly khai dùng internet. Trước đây, họ cố gắng ngăn chặn truy cập, giờ đây, họ tìm cách đánh sập các website.

Nhưng CS Hà nội bắt một blogger thì hai ba người xông tới. CS Hà nợi chận nẻo này thì blogger quay sang nẻo khác, mới hơn. Xu thế thời đại và tiến bộ khoa học kỹ thuật đứng về phía dân blog, giải toả con người khỏi vòng kềm toả và tuyên truyền giả dối  của độc tài./.

Ý KIẾN ĐỘC GIẢ (3)
 Được gửi bởi Ba D (Guest) vào 03/10/2012

Nghĩ mà tức thật ! Mình là TT của 3 triệu đảng viên và là "đầy tớ " của 85 triệu dân VN , xin vào Tòa Bạch Ốc thì họ lại cho mình đi cửa hậu…Còn chúng nó chỉ là nhóm nhỏ mà có đến 148 ngàn người xin vào, họ lại cho cả 200 người mang cờ xí rợp trời vào khắp nơi từTòa Bạch Ốc và Quốc Hội mà vào cửa chính những 2 ngày cơ ! Rõ là nhân quyền ! Internet lợi hại đến thế này cơ ! Các đ/c công an đâu?(ủa sao mà hô có ít vậy?) bắn hết " in- tờ- nết "cho tui! 
 Được gửi bởi Lối Mòn (Guest) vào 03/10/2012

Cộng sản sợ internet là phải rồi.Cũng như quỷ xứ mà sợ Trơì ,Phật vậy thôi.
 Được gửi bởi Việt (Guest) vào 03/10/2012


Đúng vậy Vi Anh ! 
CSVN sợ Internet, Blog ! Nếu hàng trăm ngàn Việt Kiều chống Cộng đã về Việt Nam mà trực diện với chính quyền CSVN…có lẽ họ sẽ càng sợ hơn ! Nhưng rất tiếc là mới chỉ có vài người dám nói, dám làm !



THỊNH NỘ VÌ TIỀN

THỊNH NỘ VÌ TIỀN

Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

Tuần trước người ta đã chứng kiến một cơn thịnh nộ lan rộng từ Quốc hội cho đến đại đa số dân chúng Mỹ vì có tin Tổ hợp AIG, sau khi lãnh 170 tỷ đô-la gọi là tiền cứu nguy các ngân hàng, đã dùng 165 triệu để tặng thưởng (bonus) những cấp lãnh đạo của tổ hợp. Điều khó coi nhất là tiền cứu nguy đó là tiền của dân chúng đóng thuế, thay vì lo thay đổi cấu trúc và sách lược để sống còn, AIG tiếp tục dùng tiền đó để thưởng công cho những cấp lãnh đạo đã vì tham lam, vô trách nhiệm gây ra cơn khủng hoảng tài chính hiện nay ở Mỹ và cả thế giới. Ngay sau đó Quốc hội đã đưa ra đề án lấy lại những món tiền thưởng đó để làm dịu cơn giận của người dân.

Đầu tuần này chính phủ Obama đã loan báo một nỗ lực mới nhằm chấm dứt tình trạng tê liệt của hệ thống ngân hàng không muốn cho vay tiền để dân chúng làm ăn. Nỗ lực chủ yếu là chính phủ sẽ hợp tác với các nhà đầu tư để góp tiền thành một ngân quỹ 500 tỷ đô-la mua lại những những tài sản xấu, nói chung là những món nợ khó đòi. Loan báo kế hoạch này Bộ trưởng Tài chính Timothy Geithner nói dân chúng hãy kiên nhẫn để chính phủ cứu nguy các ngân hàng, trong khi dân chúng tức giận vì AIG đã dùng tiền cứu nguy để cấp tiền thưởng cho nhân viên lãnh đạo của mình từ năm ngoái khi chính phủ Bush đưa ra ngân quỹ 700 tỷ để cứu nguy ngân hàng. Từ lúc đó cái tên AIG đã nổi bật. AIG (American Insurance Group.Inc) là một Công ty Bảo hiểm và đã trở thành một công ty tài chính quốc tế từ lâu. AIG thành lập cách đây 90 năm ở Thượng Hải, nó lớn lên rất mau lẹ vì năm 1919 là thời nhà Mãn Thanh mới bị lật đổ, chính phủ Cách Mạng của Tôn Dật Tiên ra đời, nhưng mấy năm đầu Trung Hoa gặp nạn nội chiến, đến đầu thập niên 20, chính phủ Tưởng Giới Thạch lên cầm quyền, nạn tranh chấp nội bộ vẫn chưa dứt hẳn, nhưng dân chúng đã có dịp làm ăn buôn bán và Thượng Hải là nơi kinh doanh lớn nhất. Đã làm ăn là cần có tiền và cần có bảo hiểm, công ty Mỹ AIG mở cửa ở đó là chọn đúng thời điểm để làm ăn phát đạt mau lẹ.

Nhưng đến năm 1939 trước họa Thế chiến, Tổ hợp AIG phải dọn trụ sở chính về New York và tiếp tục trong mấy chục năm sau AIG đã hoàn tất một hệ thống quốc tế có mặt ở nhiều nước Âu châu để rồi sau Thế chiến đến năm 2005 AIG đã trở thành một trong những tập đoàn công ty lớn nhất thế giới, liên hệ đến nhiều ngân hàng và tài chính quốc tế. Bây giờ khi nói đến cứu nguy ngân hàng, lẽ tất nhiên ngoài AIG còn nhiều ngân hàng khác như Golden Sachs, Société Générale, Deustche Bank, Barclays, Merryll Lynch, Bank of America, UBS, BNP Paribas, HSBC, Dresdner Bank, cũng được nhận tiền cứu nguy tùy theo mức lớn nhỏ của mỗi ngân hàng. Nói chung một khi hệ thống ngân hàng tê liệt, nền kinh tế không có cách nào ngóc đầu lên được. Bây giờ nói đến việc chính phủ chủ trương lấy lại những khoản bonus tất nhiên các ngân hàng khác cũng phải chịu, không riêng gì AIG.

Theo dự định tiên khởi loan báo từ cuối tuần trước, chính phủ sẽ lấy lại đến 90% những khoản tiền bonus mà AIG và một số các Ngân hàng khác đã trả cho cấp lãnh đạo của họ. Nhưng ngay sau đó trong Quốc hội có những sự dè dặt bởi vì tính chung như vậy có thể sẽ bất công. Nhất là các dân biểu Cộng Hòa chỉ trích luật lệ đó chỉ nhắm đánh vào những người giầu có, nên phản đối. Đầu tuần này khi Bộ trưởng Tài chính Geithner ra trước Ủy ban Tài chính Hạ viện trình bày chi tiết về đạo luật cứu nguy ngân hàng, nói đến việc lập ra ngân quỹ 500 tỷ, có thể lên đến 1,000 tỷ để mua những món nợ khó đòi. Chiều thứ hai tuần này, chỉ số Chứng khoán Dow Jones ở Walt Street đã vọt lên đến gần 500 điểm, điểm vọt cao nhất nội trong một ngày kể từ hơn một năm qua. Đến sáng thứ ba, chỉ số Dow Jones khựng lại và đến chiều xuống 50 điểm. Trong khi đó có tin cho biết 15 trong số 20 cấp lãnh đạo của AIG sẽ trả lại món tiền bonus họ đã lãnh.

Chưởng lý New York Andrew Cuomo tỏ ý hy vọng sẽ có thêm nhiều nhân viên khác của AIG sẽ đem trả lại tiền bonus. Tính chung các nhân viên của AIG quốc tế sẽ trả lại khoảng 50 triệu trong số 165 triệu tiền thưởng mà tổ hợp này đã phát từ đầu tháng. Sáng thứ ba, Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang Ben Bernanke ra điều trần trước Ủy Ban Tài chính Hạ viện nói ông muốn đưa AIG ra Tòa về tội cấp hàng triệu đô la tiền thưởng, nhưng ông không muốn làm Tổ hợp Quốc tế này tan vỡ. Ông nói AIG là người khổng lồ quốc tế, nó có 74 triệu khách hàng trên thế giới và hành sự mọi việc ở 130 quốc gia. Nếu AIG tan vỡ, cả một hệ thống toàn cầu về tài chính và kinh tế cũng tan luôn với tất cả những hậu quả của nó. Cũng vào dịp này, Bộ trưởng Geithner đã yêu cầu Hạ viện cho phép ông có quyền tương đương với quyền của Tổ hợp Liên bang Ký thác Bảo hiểm là quyền được kiểm soát các Ngân hàng, tịch thu tài sản xấu và bán lại tài sản tốt cho những hãng cạnh tranh.

Tối thứ ba, vào giờ cao điểm của tin tức trên các đài TV, TT Obama mở cuộc họp báo tại Bạch Ốc có rất nhiều ký giả tham dự. Ông đã trình bày toàn bộ kế hoạch làm việc của ông về các mục tiêu như tạo thêm công ăn việc làm, giải quyết các vụ nợ thế chấp mua nhà, tăng thêm quỹ để nâng cấp nền giáo dục, bảo hiểm y tế cho mọi người dân, tìm nguồn năng lượng mới v.v…Để thực hiện những chương trình đó, TT Obama dự liệu cần phải chi đến 3.6 ngàn tỷ đô-la, trong khoảng 5 năm tới. Đây là một con số khổng lồ, Mỹ đang lâm nạn kinh tế khủng hoảng, ngân sách đã sẵn thâm thủng hơn 1,000 tỷ, làm sao chịu nổi? Số chi quá lớn này được loan truyền từ cuối tuần trước đã làm Quốc hội Mỹ dội lại, đảng Cộng Hòa và một số phần tử ôn hòa của Dân Chủ cũng không tán thành.

Vào những giờ đầu của sáng thứ tư 25-3, chỉ số Dow Jones đã vọt lên trở lại đến 150 điểm. Trong khi đó TT Obama đến Quốc hội để bàn thảo về dự chi ngân sách 1 năm cho tài khóa từ 10-09 đến 10-10. Quốc hội do Dân Chủ nắm đa số sẽ quyết định về ngân sách quốc gia, nên Chủ tịch Ủy ban Ngân sách Thượng viện Ken Conrad (Dân Chủ) hứa sẽ giảm bớt thâm thủng 1.7 ngàn tỷ năm nay xuống còn 508 tỷ năm 2014. Tại Hạ viện, Chủ tịch Ủy ban Ngân sách là John Spratt (Dân Chủ) nói Konrad sẽ dùng biện pháp biểu quyết cấp tốc, tránh thủ đoạn kéo dài thảo luận của Cộng hòa để dự án cải tổ hệ thống bảo hiểm sức khỏe cho người dân của TT Obama được thông qua.

Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh




GS Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh: Canh Bạc Nguyên Tử

Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh: Canh Bạc Nguyên Tử

iranCuộc họp ở Geneva tuần trước giữa đại biểu của Iran và các đại biểu của 6 nước: Anh, Trung Quốc, Pháp, Ðức, Nga và Mỹ là cuộc họp đầu tiên sau 15 tháng ngừng trệ về vấn đề này. Các nước thỏa thuận sẽ họp lại vào ngày 19 tháng 10 để thảo luận tiếp về chương trình nguyên tử của Iran. Tuần này Phát ngôn nhân Hassan Ghashghavi của bộ Ngoại giao Iran trong một cuộc họp báo ở Teheran nhắc lại rằng chương trình nguyên tử năng của Iran là một chương trình hòa bình, song lại không nhắc đến lời yêu cầu của Tây phương là Iran phải cam kết bảo đảm cho mục tiêu đó. Phát ngôn nhân nói ông ta không có nhiệm vụ “phán xét” về các cuộc họp lần tới sẽ đi về chiều hướng nào, nhưng quả quyết Iran sẽ “tiến mạnh về mục tiêu tích cực đó”. Ông ta nói: “Chúng tôi nghĩ là tích cực vì các cuộc thương lượng đã có tiến bộ. Sự tiến hành thảo luận cho thấy có chất lượng để bàn bạc trong các cuộc thảo luận tiếp trong tương lai. Chúng tôi không thấy có lý do gì để bi quan.”. Các cuộc thảo luận kế tiếp ngày 19-10 chỉ nhằm mục đích giúp Iran thanh lọc quạng Uranium tốt hơn. Hai năm trước đây, các cơ quan tình báo Mỹ công bố một báo cáo đầy dủ chi tiết kết luận Teheran đã đình chỉ nỗ lực đặt kế hoạch làm một quả bom hạt nhân vào năm 2003. Nhưng trong những tháng gần đây, Anh, Pháp, Ðức và cả Israel đã đưa ra những tranh cãi bất đồng về kết luận nói trên để nói rằng Iran đã tiếp tục trở lại kế hoạch làm bom. Tuần vừa qua một giới chức cao cấp Mỹ cho biết hiện nay Mỹ đang xét lại những kết luận tình báo của năm 2007. Cơ quan Nguyên tử quốc tế cũng đưa ra những chứng cớ cho thấy ngoài việc thâu thập những tiến bộ về cách làm bom do các tay chuyên gia bất lương đưa ra cách thức chế tạo bom đem bán chợ đen để vơ vét tiền bạc, Iran đã tự khảo cứu và thử những máy móc làm nổ hạt nhân. Cuối tuần qua, Chủ tịch Cơ quan Nguyên tử năng LHQ ông Mohamed ElBaradei đã đến thăm Teheran để thảo luận với nhà cầm quyền Iran về thủ tục cho các thanh sát viên LHQ đến điều tra cơ sở thanh lọc Uranium mới bị tiết lộ ở Qom. Sau mộl loạt hội họp với các giới chức Iran, ElBaradei cho các phóng viên biết các chuyên gia LHQ sẽ đến nhà máy nói trên vào ngày 25 tháng 10. Ông cũng cho biết sự tranh cãi về vụ Iran làm bom nguyên tử cũng sẽ được giải quyết vào dịp đó. Ông nói về mối quan hệ giữa Iran và cơ quan Nguyên tử năng như sau: “Hiện nay chúng tôi đã chuyển đổi từ thế đối đầu qua thế hợp tác và tôi đã yêu cầu Iran mọi việc cần phải công khai hóa cho minh bạch. Lúc này chúng tôi đã theo con đường thích hợp nhất. Cơ quan chúng tôi, cộng đồng thế giới và Iran đã có những cuộc thảo luận xây dựng”. Dù vậy, một câu hỏi quan trọng nhất vẫn còn: Lần này Iran có giở trò “tháu cáy” trong canh bạc xì phé quốc tế để chế tạo bom hay không? Chúng tôi nghĩ Iran không dám bịp bợp như trước, vì 3 nguyên nhân. Trước hết là luật lệ quốc tế, thứ hai là sự trói buộc của khoa học kỹ thuật và thứ ba là một thực tế đơn giản: Nếu có “bom”, Iran định làm gì với quả bom đó? Về mặt luật pháp quốc tế, LHQ hôm nay đã khác LHQ hôm qua. Sau khi Hội đồng Bảo An LHQ gồm 5 nước lớn vì lý do sống còn của chính mỗi nước đã biểu quyết “chống sự lan tràn của vũ khí hạt nhân, nghĩa là cấm nước nào chưa có bom, không được bí mật làm bom nguyên tử”. Ðể trừng phạt kẻ vi phạm HÐBA sẽ ra lệnh cấm vận, phong tỏa. Một nước như Iran vốn yếu kém về kinh tế, trong nước lại có mầm mống chia rẽ, khi bị phong tỏa tất nhiên trong nước sẽ có nội loạn. Hiện nay đa số dân Iran không muốn có bom nguyên tử, họ chỉ muốn được hít thở không khí trong lành, thay vì bị nghẹt thở trong bầu không khí u ám tàn bạo của bọn Vệ binh Cách mạng. Chế độ đương quyền sẽ sụp đổ, Vệ Binh Cách Mạng Iran đang sợ bị mất quyền nên không dám chơi trò lừa bịp lần này. Về mặt khoa học kỹ thuật có lẽ còn nhức nhối hơn. Muốn có một quả bom nguyên tử, trước hết anh phải có đủ dụng cụ và vật liệu làm ra nó. Rồi sau khi làm ra bom, anh có thể chôn ngầm nó dưới đất và xoa tay thoải mái chăng? Kỹ thuật học không cho làm như vậy, nó bắt buộc anh phải cho nổ thử một quả xem có đúng là bom không hay chỉ là một cái túi phóng xạ làm hại mọi người sống quanh nó, kể cả kẻ làm ra “quả” phóng xạ. Chính vì lý do đó nên Bắc Hàn đã phải cho nổ thử một quả bom thô sơ, làm cả thế nổi lên phản đối. Hơn nữa dù đã có bom rồi, anh còn cần phải có khí cụ để phóng nó đi. Iran đã thử các loại phi đạn tầm ngắn và tầm trung. Nhưng bắn được phi đạn vẫn chưa đủ, mà còn phải làm thế nào chế tạo một đầu đạn nguyên tử nhỏ xíu để gắn vào phi đạn. Và sau hết một vấn đề nhỏ nhưng nhức nhối vô cùng. Ðó là vấn đề điều khiển phi đạn cho nó bay đi trúng đích, không bay lạc hướng để trúng nơi khác, nhất là không bị những lá chắn chống phi đạn của nước thù nghịch bắn hạ nó trên đường bay. Sau hết một lý do rất thực tế. Phi đạn bom nguy&ecirc
;n tử của Iran nhắm bắn ai? Bất cứ nhằm vào Israel hay một căn cứ quân sự nào của Mỹ hay một nước Tây Âu đã sẵn có cả kho bom nguyên tử, kẻ đánh bom sẽ lãnh đòn trả đũa nguyên tử thê thảm. Chiến tranh hạt nhân đã hết thời rồi.

Hồi cuối Thế kỷ 20, chiến tranh nguyên tử là hình bóng một con quái vật hăm dọa toàn thế giới. Nhưng qua Thế kỷ 21, con quái vật chiến tranh hạt nhân đã chết, bởi vì từ nước lớn cho đến nước nhỏ với các kho vũ khí hạt nhân hiện nay đã được tích lũy ở 5 nước lớn trong Hội Ðồng Bảo An, người ta đã biết chắc đánh bom nguyên tử chỉ là một cách tự sát không hơn không kém.

Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh




Cơn đói cá của Trung Quốc và thảm họa

Cơn đói cá của Trung Quốc và thảm họa

Lữ Giang

Hôm 23.11.2013 khi Trung Quốc công bố quyết định lập vùng nhân diện phòng không (ADIZ) bao trùm lên vùng trời trên quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang tranh chấp với Nhật, ông Minh Hiền, Giám đốc Sở nghiên cứu Chiến lược và sự vụ quốc tế thuộc Đại học Đạm Giang của Đài Loan đã nói với Thông tấn xã Đài Loan rằng việc Bắc Kinh tuyên bố ADIZ trên Hoa Đông chỉ là cái cớ Trung Quốc nghi binh, Biển Đông mới thực sự là chuyện phiền phức. Cách đó một năm, tờ Wall Street Journal ngày 27.12.2912 đã đăng một bài dưới đầu đề “China’s Hunger for Fish Upsets Seas” (Trung Quốc đói cá làm biển rối tung) nói về những tai họa do cơn đói cá của Trung Quốc gây ra. Tiến sĩ Ian Storey, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, còn nói rõ hơn: năng lượng và nguồn cá là nguyên nhân chính của các cuộc tranh chấp. Như vậy Trung Quốc có ý đồ gì trên Biển Hoa Đông và Biển Đông, các chuyên gia đều thấy trước. Nói một cách tổng quát, Trung Quốc đang đói cả thực phẩm lẫn nhiên liệu và đang biến Biển Đông thành nguồn cung cấp riêng cho họ.

Ngày 26.11.2013, Trung Quốc cho hàng không mẫu hạm hạng bét Liêu Ninh rời cảng Thanh Đảo ở Hoàng Hải đi qua biển Hoa Đông và xuống Biển Đông để thực hiện cái gọi là “sứ mệnh huấn luyện và nghiên cứu khoa học”. Khi tàu Liên Ninh vừa trở lại cảng Thanh Đảo vào ngày 1.1.2014, Trung Quốc bắt đầu công bố lệnh cấm đánh cá trên một vùng rộng lớn ở Biển Đông.

 

LỆNH CẤM ĐÁNH CÁ CỦA TRUNG QUỐC

Theo các bài báo đăng trên một số trang web của tỉnh Hải Nam hôm 3/12/2013, lệnh ngư nghiệp Trung Quốc được chính quyền tỉnh Hải Nam ban hành ngày 29/11/2013 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2014, tàu cá nước ngoài phải xin phép trước khi đánh bắt hay dò tìm trong khu vực rộng tới 2 triệu cây số vuông, chiếm 2/3 diện tích Biển Đông. Lệnh này được coi là một phần của chính sách thực thi Luật Thủy sản của Trung Quốc.

 

Vùng cấm đánh cá do Trung Quốc thiết lập

 

Như vậy Trung Quốc đã “địa phương hóa” Biển Đông, biến nó thành một vùng nước thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Quốc (xem bản đồ sẽ thấy rõ).

Ngày 24.12.2013, Bộ Nông Nghiệp Trung Quốc còn ra thông báo về thời gian nghỉ đánh bắt cá bằng lưới tại một số khu vực, bao gồm cả khu vực quyền chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.

Theo quy định của Trung Quốc, các tàu cá nước ngoài tự ý đi vào vùng nước trên Biển Đông mà họ tuyên bố do tỉnh Hải Nam quản lý để thực hiện sản xuất ngư nghiệp và các hoạt động điều tra tài nguyên nghề cá sẽ bị buộc phải rời khỏi khu vực, bị phạt 500.000 nhân dân tệ (tương đương 82.600 USD) và số cá đánh bắt sẽ bị tịch thu. Trong một số trường hợp, tàu đánh cá nước ngoài còn có thể bị tịch thu và thủy thủ đoàn bị truy tố theo luật pháp Trung Quốc.

Dĩ nhiên, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Phi Luật Tân, Việt Nam và cả Đài Loan đã lên tiếng phản đối lệnh cấm của Trung Quốc vì nó không phù hợp với quốc tế công pháp. Nhưng Trung Quốc đã dựa vào căn bản nào để đưa ra quyết định nói trên?

Như chúng tôi đã nói nhiều lần, Trung Quốc đã dựa vào lý thuyết “vùng nước lịch sử” (historic waters) được học lý và án lệ về luật biển cũ công nhận, đó là vùng nước sinh tồn đã lâu đời của một quốc gia, để thiết lập đường 9 đoạn và coi đó là ao nhà của Trung Quốc. Nhưng vì lý thuyết “vùng nước lịch sử” quá phức tạp, nên Luật Biển 1982 không còn công nhận lý thuyết đó nữa mà thay bằng “vùng đặc quyền kinh tế” dành cho mỗi quốc gia là một vùng 200 dặm tính từ đường cơ sở. Nói cách khác, Trung Quốc đã dựa vào một lý thuyết không còn tồn tại trong Luật Biển 1982 để tuyên bố chủ quyền của mình. Trung Quốc biết rõ như thế là sai nhưng cứ cãi chày cãi cối rồi dùng sức mạnh để áp đặt. Trung Quốc lại biết Mỹ chỉ phản đối lấy lệ chứ không can thiệp nên làm tới.

 

THẢM HỌA CHO NHÂN LOẠI

Trong bài “China’s Hunger for Fish Upsets Seas” nói trên, hai chuyên gia là Chuin-Wei Yap và Sameer Mohindru đã mở đầu bài nhận định của mình như sau: Cơn đói cá ngày càng trầm trọng của Trung Quốc đang thử thách quan hệ với nhiều nước khác nhau, đồng thời làm cho các viên chức và các khoa học gia ngoại quốc lo lắng về tiềm năng thiệt hại mà đội tàu cá khổng lồ của nước này có thể gây ra cho khối lượng cá tồn trữ trên toàn cầu”

Tài liệu chính thức của Trung Quốc, một nước có số lượng tiêu thụ cá cao nhất thế giới, cho biết đến năm 2015 Trung Quốc sẽ sản xuất 60 triệu tấn hải sản, so với 57,3 triệu tấn của hai năm trước. Tuy nhiên nhu cầu hải sản của Trung Quốc rất lớn và ngày càng tăng. Theo ước tính của ngân hàng Rabobank của Đức, vào cuối thập nhiên này trị giá khối lượng hải sản nhập cảng của Trung Quốc sẽ lên đến 20 tỷ USD thay vì 8 tỷ USD như hiện nay. Peru là nước bán nhiều hải sản cho Trung Quốc, nhưng nguồn hải sản của Peru ngày càng cạn kiệt.

Để có đủ cá cung cấp cho nhu cầu trong nước, Trung Quốc đã tung ra 2300 tàu đánh cá xa bờ, tới tận Nam Mỹ và Tây Phi, trong khi Mỹ chỉ có 200 chiếc. Tài liệu của Trung Quốc cho biết trong 2 năm 2010 và 2011 các tàu đánh cá xa bờ của họ chỉ bắt được có 368.000 tấn hải sản, nhưng các chuyên gia nói rằng con số đó lên tới 4,6 triệu tấn.

Riêng trong Vịnh Bắc Việt, một cuộc nghiên cứu cho thấy kể từ thập niên 1960, các loài cá trong vùng này đã giảm từ 487 loại xuống 238 loại. Khối lượng dự trữ chạm đến mức thấp nhất năm 1998, chỉ bằng 16,7% so với năm 1962!

Trước đây Trung Quốc có trên 200.000 tàu đánh cá, nhưng năm 2004 đã loại đi trên 8.000 tàu nên hiện nay còn khoảng 192.000 tàu. Đây là một khối lượng tàu đánh cá khổng lồ.

 

THẢM HỌA CHO VIỆT NAM

Với vùng cấm đánh cá mà Trung Quốc vừa vạch ra, vùng đặc khu kinh tế 200 hải lý của Việt Nam không còn. Muốn đánh cá xa bờ trong Biển Đông, Việt Nam phải xin phép Trung Quốc.

Lực lượng Hải Giám của Trung Quốc đang kiểm soát các tàu thuyền đánh cá trên Biển Đông. Lực lượng này là một bộ phận của Cục Quản Lý Biên Phòng thuộc Bộ Công An, được tổ chức theo mô hình của Liên Xô cũ. Hiện nay lực lượng này có khoảng 40.000 quân nhân với 304 thuyền nhỏ trên 100 tấn, 149 tàu tuần tra nhỏ trên 500 tấn, 19 tàu tuần tra vừa trên 1500 tấn và 8 tàu tuần tra lớn trên 3.500 tấn. Tàu tuần tra cao tốc của Trung Quốc có tên là Hải cẩu HP1500-2 với thủy thủ đoàn từ 6 đến 8 người, có thể đạt tốc độ lên đến 52 hải lý và tầm hoạt động trong khoảng 250 km. Chúng ta chưa nói đến lực lượng của Hải Quân Trung Quốc.

So với Mỹ hay Nhật, lực lượng hải giám của Trung Quốc chẳng có nghĩa lý gì, nhưng với các nước trong khối ASEAN, khó có lực lượng nào có thể địch nổi. Học giả Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu biển Đông của Việt Nam, nói với phóng viên đài RFA  rằng với lực lượng tàu hải giám hùng mạnh, Trung quốc hoàn toàn có khả năng thực thi quy định mới của mình. Trong thời gian qua chúng ta nhìn diễn biến trên biển Đông thì chúng ta thấy rõ là Trung Quốc đưa nhiều tàu hải giảm để ức hiếp ngư dân, phạt tiền… mà phản ứng của các nước như thế nào chỉ là phản ứng cho có, mà chủ yếu là không làm gì được với Trung Quốc. Sự đoàn kết của các nước ASEAN trước tham vọng bá quyền của Trung Quốc là không có.

Ngày 25.12.2000, Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết một hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Việt với tổng diện tích là 33.500 km², chiếm khoảng 27,9% diện tích vùng Vịnh. Một vùng đệm cho các tàu đánh cá nhỏ qua lại ở ngoài cửa sông Bắc Luân đã được thiết lập. Nếu phát hiện tàu cá loại nhỏ của bên kia vào hoạt động nghề cá trong vùng đệm, có thể cảnh cáo và áp dụng các biện pháp cần thiết để buộc tàu đó rời khỏi vùng nước đó, nhưng nên kiềm chế: không bắt bớ, giam giữ, xử phạt hoặc dùng vũ lực. Thế nhưng tàu đánh cá Trung Quốc vẫn đánh cá trên vùng nước của Việt Nam. Ngày 3.11.2013, tỉnh Thanh Hóa còn khám phá ra 276 dân Việt Nam đang làm việc cho các tàu đánh cá bất hợp pháp đó.

Chuyện Trung Quốc cho tàu họ húc tàu đánh đá Việt Nam đã trở thành“chuyện thường ngày ở huyện.”  Việc Việt Nam mua tàu ngầm của Nga cũng chỉ để bảo vệ vùng đặc khi kinh tế 200 hải lý của Việt Nam chứ không phải để khai chiến với Trung Quốc. Với việc Trung Quốc quy định vùng đánh cá mới, Lê Thanh Nghị, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Hà Nội chỉ nói: “Việt Nam yêu cầu Trung Quốc hủy bỏ những việc làm sai trái nói trên, đóng góp thiết thực vào việc duy trì hòa bình, ổn định tại khu vực.”

Đài Á Châu Tự Do (RFA) đang xúi Hà Nội đi kiện Trung Quốc trước các tòa án quốc tế. Đây là vấn đế chúng tôi sẽ nói sau.

Ngày 16.1.2014

Lữ Giang




BẮT TAY KẺ THÙ

BẮT TAY KẺ THÙ
Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

Trong cuộc họp thượng đỉnh các nước Mỹ châu tại Port-Of-Spain, Trinidad, Tổng Thống Barack Obama đã nêu rõ sự bớt găng trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và nước Cộng sản Cuba và cả nước Venezuella thiên tả. Đại biểu Cuba không có mặt vì Cuba đã bị loại ra khỏi tổ chức này từ năm 1962, nhưng tuần trước Obama đã giải tỏa sự cấm đoán việc gửi tiền giúp đỡ thân nhân cũng như sự thăm viếng của những công dân Mỹ và dân gốc Cuba. Có thể Mỹ sẽ lập lại quan hệ ngoại giao với Cuba . Cũng trong cuộc họp này Obama đã bắt tay niềm nở với Hugo Chavez, Tổng Thống Venezuella, khi ông này lên chào hỏi và tặng quà kỷ niệm. Chavez là người thiên tả, khi ông Bush còn cầm quyền, Tổng Thống của Venezuella, vốn thuộc loại hăng tiết vịt, đã từng lên tiếng đả kích Bush dữ dội trước Hội đồng LHQ họp ở New York.
Bây giờ thấy Obama thân thiện với kẻ thù, mấy ông cực đoan trong đảng Cộng Hòa phản đối và Newt Gingrich, cựu Chủ tịch Hạ viện, kêu ré lên: “Làm như vậy là hợp thức hóa nó rồi!”. Sự thật chẳng cần chờ đến bây giờ, Chavez đã được LHQ công nhận là Tổng Thống từ lâu rồi. Kể cả Cuba , Mỹ đã đoạn giao từ 52 năm qua, chế độ Cộng sản vẫn không chết. Một bài báo Mỹ lấy tin của AP, nêu lên tựa đề hấp dẫn: “Obama: Đưa tay ra với kẻ thù làm nước Mỹ mạnh hơn”. Để nêu rõ chủ trương đặc biệt của ông về chính sách đối ngoại, Obama nói ông “tăng cường sức mạnh cánh tay của chúng ta” bằng cách với tới những kẻ thù của nước Mỹ, để cho thấy chúng ta là một nước lãnh đạo, chớ không phải ông thầy diễn giảng về dân chủ. Riêng tôi rất thích câu nói này. Từ lâu tôi vẫn nghĩ dân chủ không phải từ bên ngoài áp đặt cho một nước, dân chủ phải do chính người dân của nước đó quyết định. Đem dân chủ “dạy” cho nước đó là sai. Nhưng dân chúng ở nước đó bị đàn áp đẫm máu không thể ngóc đầu lên được thì sao? Kinh nghiệm của mấy năm gần đây đã cho thấy có nhiều cách – chớ không chỉ có một – làm sụp đổ một chế độ độc tài độc đảng.
Tuần này lại có chuyện đặc biệt nữa. Đó là cuộc Hội nghị của LHQ chống nạn kỳ thị chủng tộc, họp ở Geneva . Cuộc họp này đã bị rắc rối ngay từ đầu, vì Tổng Thống Iran Mahmoud Ahmadinejad, đích thân đến trong khi phần lớn các nước khác chỉ có các phái đoàn đến tham dự. Các vị trưởng phái đoàn có lệ đọc diễn văn trong buổi lễ khai mạc nên các bài diễn văn đó đều được dịch ra Anh ngữ trước để tiện bề theo dõi. Trong bài diễn văn của TT Iran có những đoạn thóa mạ Israel rất dữ dội, chẳng hạn nói Holocaust (lò hỏa thiêu của Đức quốc xã thời Thế chiến II để đốt sống dân Do Thái) là chuyện mơ hồ, đáng hoài nghi. Ahmadinejad còn tố cáo các nước Tây phương dùng chuyện Holocaust làm “cái cớ” để gây hấn chống dân Á rập Palestine .
Sáng thứ ba lễ khai mạc bắt đầu, hàng loạt các đại biểu của các nước Liên Âu đã đứng dậy lũ lượt kéo nhau ra ngoài. Nhưng các đại biểu của các nước khác, kể cả đoàn đại biểu của Vatican đã ngồi lại, vì có tin Ahmadinejad đã sửa lại vào giờ chót đoạn chối bỏ Holocaust. Riêng phái đoàn Mỹ và 8 nước Âu châu khác đã tẩy chay lễ khai mạc, vào dịp đêm trước là Ngày Tưởng niệm Holocaust, nơi hơn 2 triệu người Do thái bị đốt sống, và tỏ ý quan tâm về tính vô tư công bằng của buổi họp. Trong lễ khai mạc tại Geneva có tin diễn văn của Ahmadinejad đã được sửa lại, nhưng cả LHQ và phái bộ Iran ở Geneva cũng không cho biết tại sao có thay dổi. Người ta chỉ biết Tổng Thư Ký Ban Ki-moon hôm thứ hai nói ông đã gặp TT Iran, trước khi ông này đọc diễn văn, và nhắc nhở ông ta rằng LHQ đã từng chấp thuận các nghị quyết “bác bỏ quan niệm coi chủ nghĩa Zionism (đề cao dân tộc tính Do thái) là chủ nghĩa kỳ thị sắc tộc”, và xác nhận những sự kiện lịch sử kể cả vụ Holocaust.
Lúc mở đầu phiên họp, cả hội trường đã nhốn nháo, vì hai người phản đối đã ném lên diễn đàn những lỗ mũi mầu đỏ, đồ trang sức quen thuộc của mấy anh hề sân khấu, khi Ahmadinejad mở đầu bài diễn văn bằng một câu tụng kinh Hồi giáo. Nhóm sinh viên gốc Do thái từ Pháp đến, nói đó là họ muốn vạch trần một sự lừa bịp. Một số người phản đối bị đuổi ra khỏi phòng họp. Thói ba hoa chính chòe của Ahmadinejad không xa lạ gì với thế giới, nhưng ông ta chọn đúng thời điểm này để ra trò cứng rắn, có thể sẽ gây khó khăn cho những nỗ lực của Mỹ muốn làm bớt tình trạng đông lạnh trong mối quan hệ với Teheran. Tại Teheran trước đó một ngày, Tòa án Cách mạng đã lên án 8 năm tù một nữ ký giả 31 tuổi, Roxana Saberi, bị tố cáo làm gián điệp cho Mỹ. Nhưng qua ngày thứ ba tuần này, phát ngôn nhân Tư pháp Iran nói “bản án có thể được xét lại nếu chống án” – ý nói bản án có thể giảm. Trước đó các giới chức Mỹ nói Iran sẽ được hưởng thiện chí của Mỹ, nếu đáp ứng cụ thể điều Mỹ muốn là phóng thích nữ ký giả.
Hồi đầu tháng Tư, khi Mỹ đề nghị cải thiện bang giao với Iran Ahmadinejad đã nói: “Nước Iran hoan nghênh bàn tay chìa ra của Mỹ, nhưng nó phải chân thật và phải căn cứ trên trung thực, công bằng và tôn trọng lẫn nhau”. Nhưng chưa đầy một tuần sau, Ahmadinejad lại trở giọng chống Mỹ và tại Hội nghị Geneva, tuy đã bỏ đoạn nói đến Holocaust, nhưng vẫn tố cáo Israel là “kỳ thị chủng tộc”. Tại sao vậy? Đó là vì đến ngày 12-6, Iran sẽ có cuộc bầu cử Tổng Thống, Ahmadinejad hết nhiệm kỳ, sẽ ra tranh cử lại. Đối thủ của ông ta là cựu Thủ tướng Mir Hossein Mousavi, một người chủ trương cải cách và ủng hộ mối quan hệ tốt hơn với Mỹ. Mousavi có hy vọng thu được nhiều phiếu của giới trẻ, chiếm 40% cử tri. Những người ủng hộ Ahmadinejad đều thuộc phe phái cực đoan, nhưng tình hình kinh tế Iran hiện nay rất khó khăn, vì nạn lạm phát và thất nghiệp lan tràn, nên phe cực đoan càng ngày càng giảm. Tuy nhiên Ahmadinejad vẫn phải tỏ ra cứng rắn để vớt vát được phần nào hay phần nấy vào giờ chót.
Như vậy TT Obama chìa tay ra với cộng đồng thế giới, bạn cũng như thù,là…"hòa cả làng” chăng? Xin đừng tưởng bở. Cái chìa tay đó là thực tâm không phải giả dối, nhưng nó cũng có một ý nghĩa thật sâu sắc. Đó là Obama muốn mớm cho một chút tinh thần trách nhiệm, mỗi nước phải gánh vác lấy một phần đóng góp của mình vào việc giải quyết những khó khăn chung của thế giới, từ khủng hoảng kinh tế, môi sinh cho đến nạn binh đao mà có địa phương đang xẩy ra hay có thể sẽ xẩy ra vì bất cứ lý do gì. Nếu có mấy anh ngang bướng lấy le, không chịu thì sao? Dễ dàng thôi. Mấy anh cò con xé lẻ đó sẽ bị gạt ra ngoài sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Vận mạng sống chết ra sao, mấy anh hãy ráng chuốc lấy mối họa do chính mấy anh đã gây ra.
Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh.



GS Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh: Bom Tự Sát Ở Iran

Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh: Bom Tự Sát Ở Iran

Bom nổ ở thành phố Pishin, trong tỉnh Sistan-Baluchi thuộc miền Ðông Nam của Iran, nơi tiếp giáp với Pakistan. Hôm chủ nhật nhà cầm quyền Iran đã chính thức loan báo tin này và cho biết có 6 Tư lệnh của Vệ Binh Cách mạng, trong đó có Phó Tổng Tư lệnh và 26 người khác bị chết, ít nhất có 28 người bị thương. Vụ đánh bom xẩy ra vào lúc có cuộc họp cao cấp của các giới chức Iran và những người cầm đầu cư dân địa phương.

Gốc dân Baluchi ở vùng này sống rải rác trên một miền đất rộng lớn bao trùm cả hai bên biên giới Iran và Pakistan. Ðầu tuần này Ðại tướng Mohammad Ali Jafari, Tổng tư lệnh Vệ Binh Cánh Mạng, một lực lượng quân sự lớn nhất của Iran, đã tố cáo ba nước Mỹ, Anh và Pakistan, có liên hệ với dân quân Hồi giáo Sun-ni gây ra vụ đánh bom tự sát, theo kiểu thường thấy là khủng bố cột bom vào người rồi trà trộn vào đám đông, nhấn nút cho bom nổ, tóm lại là “bom người” của al-Qaida. Jafari thề sẽ trả đũa dữ dội.

Ðây là lần đầu tiên Iran nói 3 nước Mỹ, Anh và Pakistan đã xúi dục khủng bố. Nhưng Jafari tố như vậy chỉ nhằm vào một nhóm dân quân nhỏ ở trong nước. Từ nhiều năm qua Iran gặp rắc rối nghiêm trọng ở tỉnh Baluchi. Dân thiểu số Sun-ni sống ở đây có nhóm tranh đấu địa phương gọi là Judallah tức Thánh Quân (cũng giống như Jihad là Thánh Chiến). Nhóm này xuất hiện năm 2002, đã tố cáo từ bao thế hệ qua, dân Baluchi hệ Sun-ni đã bị đa số gốc Shi-a ở Iran ngược đãi. Theo một cứ điểm lưới (website) của đạo Hồi vẫn thường đưa ra những lời tuyên bố của bọn al-Qaida, một bản tin nhân danh nhóm Judallah đã nhìn nhận trách nhiệm đánh bom tự sát. Không thể kiểm chứng sự nhìn nhận này là thật hay giả, nhưng cũng không hề thấy nói đến có sự tiếp trợ từ bên ngoài.

Hiện nay nội tình Iran đang có chuyện bất ổn lớn kể từ khi kẻ độc tài Ahmadinejad được tái đắc cử Tổng Thống vào tháng 6 năm nay, mặc dù phe đối lập có đa số dân ủng hộ đã nhiều lần biểu tình chống đối. Sự đàn áp dữ dội bằng vũ lực đã dẹp tan các vụ chống đối, nhưng niềm bất mãn vẫn âm ỷ trong đa số quần chúng. Bây giờ nếu nhóm Judallah mồi thêm ngọn lửa bùng lên, tình thế sẽ nguy hiểm vô cùng. Vào lúc này đại diện của hai nước Tây phương đang hội họp với đại diện Iran ở Vienna để thảo luận kín về chương trình hạt nhân của chính quyền Teheran. Ðại diện Iran đã hăm dọa gây khó khăn, nói Iran có thể không chấp nhận thỏa hiệp mới đạt được là Iran sẽ chuyển ra nước ngoài 3/4 kho dự trữ nhiên liệu nếu Tây phương không cung cấp cho Iran những loại nhiên liệu mới. Ngoài ra Iran cũng có một ý đồ khá độc đáo khi tố cáo bọn khủng bố đã từ Pakistan xâm nhập Iran.

Sự thật tin tức cho biết đây chỉ là hành động riêng của nhóm Judallah gốc Baluchi ở miền Nam, chớ không liên hệ đến nhóm Taliban và al-Qaida hoạt động ở miền Bắc Pakistan. Theo đài TV chính thức của Iran, Ahmadinejad đã điện đàm với Ali Zardari, Tổng Thống Pakistan, để nói: “Sự hiện diện của bọn khủng bố ở Pakistan là điều không thể chấp nhận được. Chính phủ Pakistan cần phải giúp vào việc bắt giữ chúng và trừng phạt bọn tội phạm càng sớm càng tốt”. Vẫn theo TV trên, Ahmadinejad còn nói: “Chúng tôi nghe nói một vài giới chức của Pakistan đã hợp tác với các phần tử gây ra các cuộc tấn công chúng tôi, nên chúng tôi có quyền đòi bắt các phần tử đó giao cho chúng tôi”.

Theo môt bản tuyên bố từ Phủ Tổng Thống Pakistan trong cuộc điện đàm, Zardari đã lên án gay gắt vụ đánh bom tự sát ở Iran và nói vụ này là “một hành động ghê tởm và mọi rợ, mang dấu tích của những bọn thù nghịch đang trốn chạy”. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại từ hơn tuần qua quân đội chính quy Pakistan đã mở trận đánh dữ dội nhằm vào bọn khủng bố al-Qaida và Taliban ở vùng núi Nam Waziristan, tiếp giáp với Afghanistan. Vùng này ở phía Bắc cách xa với vùng Baluchi tiếp giáp với biên giới Iran ở phía Nam. Từ cuối tuần qua 30,000 quân chính quy Pakistan tăng cường tấn công khoảng 10,000 loạn quân, gồm có các nhóm khủng bố Taliban và al-Qaida ở Afghanistan đã xâm nhập từ lâu. Mỹ đã đặc biệt quan tâm tới trận đánh này. Ðầu tuần Ðại tướng Mỹ David Patreus, Tư lệnh vùng Trung Nam Á, đã hội kiến với Thủ tướng Raza Gilani và Tư lệnh quân đội Pakistan ở Islamabad. Tướng Artar Abbas, phát ngôn nhân quân đội cho biết 78 tên phiến loạn đã bị giết. Cuộc hành quân chủ yếu nhằm loại trừ bọn Taliban trên lãnh thổ Pakistan, bọn này liên kết với bộ lạc Mehsud đang kiểm sót lối một nửa vùng núi Nam Waziristan. Chính bọn này đã gây ra lối 80% vụ đánh bom tự sát ở Pakistan. Hôm thứ hai Abbas cho biết quân đội Pakistan chia ra làm ba mặt tiến quân sâu vào vùng bọn phiến loạn kiểm soát, tấn công chúng bằng rốc-kết, các chiến đấu cơ bắn phá và thả bom ở các khu phiến loạn như Ladha và Makeen. iranTheo tin tức dân chúng địa phương di tản, lần này bọn phiến loạn kháng cự dữ dội hơn so với cuộc hành quân ở Thung lũng Swat miền Bắc hồi đầu năm nay. Các giới chức Pakistan cho biết cuộc hành quân này có thể kéo dài hai tháng, khi mùa Ðông tới các hoạt động quân sự sẽ trở thành khó khăn. Trong khi đó Mỹ gửi gấp các chiến cụ đến giúp quân đội Pakistan, trong đó có cả kính nhìn ban đêm. Về mặt viện trợ Mỹ, ông John Kerry, cựu ứng viên Tổng Thống năm 2004, đã đồng bảo trợ một đạo dự luật viện trợ mỗi năm 1.5 tỷ đô-la cho các chương trình kinh tế và xã hội của Pakistan, trong 5 năm liền. Tổng Thống Obama dã ký đạo luật này tuần vừa qua. Chính phủ Pakistan tán dương luật viện trợ này, nhưng các phe đối lập và quân đội than phiền một số khoản viện trợ lại có những sự trói buộc khiến Mỹ có thể can thiệp vào việc nội bộ của nước này. Trói buộc gì vậy? Không có tin nào nói về khoản này, nhưng chúng tôi thiết nghĩ nó có thể liên hệ đến nỗ lực hòa giải giữa Pakistan và Ấn Ðộ, để quân đội Pakistan bớt canh phòng biên giới miền Ðông tiếp giáp với Ấn Ðộ, dồn sức mạnh vào biên giới miền Tây tiếp giáp với Afghanistan, nhất là để truy lùng bọn khủng bố len lỏi vào vùng Kashmir, nơi có sự tranh chấp lâu đời về lãnh thổ giữa Ấn và Hồi. Hôm thứ hai Cảnh sát Pakistan cho biết họ đã bắt sống được tên cầm đầu nhóm Taliban ở Karachi. Xét những diễn biến như trên, người ta có cảm tưởng cuộc chiến chống khủng bố đang trở thành phức tạp. Chống khủng bố là nhằm loại trừ những thành phần Taliban và al-Qaida của hệ phái Hồi giáo Sun-ni. Nay Iran theo hệ phái Shi-a chỉ muốn lợi dụng chiến dịch chống khủng bố al-Qaida để loại trừ nhóm Judallah ở trong nước, với mục tiêu tối hậu là củng cố chế độ độc tài ở Iran, đó chỉ là ảo tưởng.

Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh




Tiến sỹ Alan Phan và làm ăn ở Việt Nam

Tiến sỹ Alan Phan và làm ăn ở Việt Nam

gocnhinalan.com – được ra mắt tại hội quán báo Thằng Mõ ở San Jose vào trưa Chủ nhật 23/8.
Trên 100 khách đã đến tham dự, trong đó có nhiều doanh nhân vùng Vịnh San Francisco như ông David Dương, Tổng giám đốc California Waste Solution; ông Trần Hồng Phúc Chủ tịch Phòng Thương mại Việt Nam Oakland; ông Đỗ Vẫn Trọn của Truyền hình Viên Thao; ông Nguyễn Xuân Nam của TV và báo Calitoday; ông Huỳnh Lương Thiện của Tuần báo Mõ SF.
Ngoài ra còn có cựu phó thị trưởng Madison Nguyễn, kĩ sư Đỗ Thành Công và ủy viên giáo dục Vân Lê, là ba ứng viên cho chức Dân biểu Tiểu bang Địa hạt 27 vào năm tới.
Còn lại đa số là các bạn trẻ, trong đó có những sinh viên du học đến từ Việt Nam.
Tình hình còn mù mờ