VTLV TRANG ĐẶC BIỆT CHO VĂN THƠ MÙA THU

******

*****

TIN VUI! TIN VUI! MỚI NHẤT!

Thưa quý vị và quý anh chị,

Lâu nay, anh Chinh Nguyên đã khóa cái công cụ đếm views của trang nhà VTLV.  Và mới gần đây P.Hoa nhờ thầy Thái Phạm mở ra để “Xem thử trang nhà chúng ta có nhiều khách viếng hay không.” P.Hoa đã nói với thầy như vậy. 

Thầy Thái đã mở ra theo lời P.Hoa, và bữa giờ P.Hoa cũng không chú ý gì tới chuyện này.   Cho đến hôm Thứ Bảy vừa rồi, P.Hoa tình cờ kéo xuống xem thử và thấy con số độc giả views lên tới… trên một triệu rưỡi! (1,521,121).  Vui quá là vui!

Mong rằng quý vị quý anh chị tiếp tục chia sẻ trang nhà VTLV
 để ngày càng có nhiều người biết đến để lan tỏa văn thơ Việt tới nhiều người hơn nữa.

Phương Hoa – VTLV

Tùng! Tùng!…Tùng!

Xin trân trọng thông báo cho làng trên, xóm dưới, cô bác gần xa, bạn bè tít mù, một tin vui to bằng… cái đình…làng!

Trang Nhà Văn Thơ Lạc Việt (VTLV) đã chính thức cán mốc hơn 1 TRIỆU view rồi đó ạ! Đó là chút khiêm nhường thôi, con số chính thức trên một triệu rưỡi! (1,545,537)

Nhưng… công lao lớn nhất, thành thật mà nói, thuộc về quý bà con, cô bác, anh chị em văn thi sĩ, bạn hữu, thân hữu khắp nơi, đã thương, đã mến, đã chịu khó “click” vô đọc, rồi “ghé” vô coi, rồi lại “lần sau nhớ ghé nữa nghen!”. Nếu không có tình thương, mến thương đó, VTLV làm sao có được ngày hạnh phúc hôm nay!

Nghe phong phanh đâu đó có luật mới: cứ 1 view đổi được 1 đô-la! Nếu đúng, thì xin cao nhân nào chỉ giúp VTLV, kẻo Ban Biên Tập mừng quá, bỗng nhiên trở thành triệu phú,… xỉu luôn! (À, mà có chi thì VTLV xin hứa… chia ngay 50% hoa hồng).

Một lần nữa, xin gởi lời tri ân cả nhà, cả xóm, cả làng, cả nước – nói hoài cũng không hết!

Chỉ biết rằng: trên 1 triệu view hôm nay, là niềm vui chung, là kết quả tình thân gắn bó, và là động lực, để VTLV tiếp tục bước tới, dọn thêm nhiều “mâm cỗ chữ nghĩa” tuyệt vời, ngon hơn nữa, để đáp lại lòng thương mến của Quý Vị!

Chúc Mừng Ban Biên Tập VTLV, xin được hô to:

******

LỜI “TÍN HỶ” CỦA MỘT THI HỮU

*

Chao ôi! Mừng quá – bạn tin yêu

Triệu triệu Quý Nhân loát mạng VIU

Mặc Khách Tao Nhân hòa tứ hướng

Văn Thơ Lạc Việt tỏa đa chiều…

In nhiều kẻ thẩm là Kỳ MỸ

Viết lắm người xem mới TUYỆT CHIÊU!

Vườn Mộng “tự nhiên hương hữu xạ”

Vươn tầm SÂU – RỘNG, chẳng hề kiêu.

Nguyễn Huy Khôi

02-10-2025

BÀI HỌA SONGQUANG

NIỀM VUI CÙNG VTLV

*

Híhí ! Mừng ghê các bạn yêu

Trang thơ hơn triệu lượt người “ view”

Tao nhân đã đến hoà trăm hướng

Mặc khách đà xem tỏa vạn chiều

Kẻ thẩm văn thơ thì cảm hứng

Người am Lạc Việt sẽ tung chiêu 

Hương thơm hữu xạ “ bay xa mãi…

Thành tựu ban đầu chớ ngạo kiêu 

songquang 

20251002

VTLV CẢM TẠ

*

Tuyệt quá! Triệu người đã quý yêu!

Trang nhà Lạc Việt ngút trời view!

Vì chưng tác phẩm từ muôn chốn

Nên rủ khách quan khắp mọi chiều

“Tòng bách” vung tay, tay…vút chưởng!

“Đa đề” vẩy bút, bút…tung chiêu!

VĂN THƠ LẠC VIỆT đầy hương sắc

Cảm tạ bao người, há dám kiêu!

Phương Hoa – VTLV – OCT 2nd, 2025

NIỀM VUI CÙNG VTLV

*I

Tuyệt quá đi thôi Tín Hỷ yêu

Bên trời hạnh ngộ nhận tin view

Xứ người chữ nghĩa lan muôn hướng

Lạc Việt Văn Thơ tỏa mọi chiều

Thi phú rạng ngời truyền gợi hứng

Anh tài thỏa sức lộ ra chiêu

Góp phần phóng bút thời lưu mãi

Diễn tiến danh xưng thế chẳng kiêu

Hoàng Mai Nhất
     10/3/2025

CA KHÚC DẤU THU – THƠ CAO MỴ NHÂN – NHẠC THÁI PHẠM

**

***

***

LỜI BÀI HÁT  SẮC VÀNG HOÀNG HOA. – CAO MỴ NHÂN 

*

*

*

***

***

CÁC BÀI THƠ HỌA

PHƯƠNG HOA (HỌA)

***

SONGQUANG (HỌA)

***

***

CAO MỴ NHÂN (HỌA)

ĐIỆP KHÚC THU

Thu dịu dàng cùng điệp khúc sang

Thu trao nhân thế nét đài trang.

Thu tô sắc nắng, làn mây bạc

Thu vẽ màu chanh, áo lụa vàng.

Thu gợi niềm thương, ngâm mấy vận

Thu khơi nỗi nhớ, viết dăm hàng.

Thu hoài nuối tiếc tình tri kỷ

Thu biết cho chăng mộng lỡ làng.

DUY ANH

SONQUANG (HỌA)

THU VÀNG

(bát điệp tự Thu & Vàng)

Cứ mỗi vào Thu lá lại Vàng

Chiều Vàng nắng nhẹ lúc Thu sang

Ô hay ! Thu nhạt Vàng hoa cỏ

Ờ nhỉ ! Thu Vàng đẹp sách trang

Thu diệp Vàng cây bừng ngõ xóm

Thu trăng Vàng đất khắp thôn làng

Võ Vàng Thu đến lòng dâng cảm

Vàng vọt hồn Thu họa mấy hàng

songquang 

20250921

THÁI HUY (HỌA)

VÀNG SẮC THU HƯƠNG

(Nương vận họa vui)

Chớm Thu em diện lụa thêu Vàng

Khiến rực Vàng lên lúc cậu sang

Vàng biểu vu qui treo trước ngõ

Trầu Vàng đám hỏi xếp ngay hàng

Rể dâu dáng nổi duyên Vàng chuẩn

Hai họ Vàng khoe ý thật trang…

 Khách dự thơ Vàng chung mến chúc

Vàng khâu hạnh phúc nhất trong làng.

Thái Huy 9/25/25

TRẦN CẨM THÀNH (HỌA)

CẢNH THU

       (Bát điệp Thu)

Cây bến trời Thu rực ánh vàng

Chyển màu cảnh vật tiết Thu sang

Thu sơn lồng bóng mây vờn gió

Thu thuỷ gợn hình sóng rẽ hàng

Thi sĩ cảm hoài Thu đất mẹ   

Sắc Thu tô điểm cảnh thôn trang

Hồn Thu bàng bạc từ muôn thuở

Thu nhuộm quan san đến xóm làng.

          Trần cẩm Thành – Thu 2025

****

***

NHẶT LÁ THU VÀNG

(bát điệp THU – Họa)

Cúi nhặt lá THU đã úa vàng

Thương thân phận lá mỗi THU sang

Không gian THU đến như thêm cánh

Thời tiết THU đi sắp có hàng*

THU viết âm thầm ghi ý nghĩa

THU vờn lặng lẽ ghép hành trang

Cuộc đời THU góp người bao mộng

Để lại tình THU đẹp xóm làng

songquang 

20250918

*thu đi sắp có hàng = thu đi theo Xuân,Hạ, Thu ,Đông theo thứ tự

***

**

THU CẢM

Lác đác rừng THU lá chuyển vàng

Bầu trời lãng đãng tiết THU sang

Mơ màng THU đến sương mờ lối

Xao xuyến THU về chữ ngập trang

THU cúc rộn ràng hoa mấy chậu

THU phong xào xạc liễu đôi hàng

Tâm hồn ngây ngất tràn THU cảm

Viết áng thơ THU kẻo lỡ làng.

Sông Thu(21/09/2025)

***

***

***

BÀI HỌA BẢO TRÂM

THU ẤY

Thu đến, lòng anh cũng úa vàng

Cửu tuyền em có biết Thu sang

Bao mùa những tưởng Thu chờ đợi

Mấy thủa đâu ngờ Thu rẽ ngang

Gió thổi Thu về  ươm ảo mộng

Mây vờn Thu ẩn sắc đài trang

Nay còn Thu ấy, người xa nhỉ 

Chững bước, Thu nao đã lỡ làng

BẢO TRÂM

BÀI HỌA MẶC KHÁCH

THU SẦU

Tĩnh lặng rừng Thu tỏa sắc vàng

Hồn Thu ngơ ngác gió đùa sang

Thu buồn lăng lẽ trong đêm vắng

Thu nhớ tù thăm phải xếp hàng

 Ngày tháng Thu quên từng đứng đợi

Thu gom nhật ký với hành trang

Tình Thu ly biệt đời hư ảo

Thu đến làm chi-nhớ xóm làng !

 MẶC kHÁCH

CẢM NHẬN TÌNH THƠ (tiếp theo)

Anh Chị thương mến,

Cứ ngỡ bài viết CẢM NHẬN TÌNH THƠ với 11 bài họa là khóa sổ rồi (bài họa của bạn hiền Minh Thúy là bài họa cuối cùng) nhưng không ngờ Như Thu nhận thêm 2 bài họa tiếp theo nữa, rất vui và cảm động vô cùng!

Mặc dù thi sĩ Bảo Trâm ít tham gia xướng họa, nhưng lần này anh đã dành chút thời gian tặng Như Thu bài họa thứ 12 là THU ẤY, cảm ơn Anh nhiều nhé!

Có phải từ lâu thi sĩ chất chứa niềm riêng sâu lắng, giữ kín trong lòng biết tỏ cùng ai? Như Thu thầm hỏi khi đối diện trước ba mùa Xuân, Hạ và Đông có ảnh hưởng gì đến Anh hay chăng? Rồi lại đoán thầm: hay là có đấy, nhưng không mãnh liệt chi nhiều chỉ thoáng qua: một phút chạnh lòng, một phút bâng khuâng…thế thôi, phải không anh?

Niềm riêng ấy tưởng chừng như đã quên, nhưng không làm sao quên được vì mỗi độ tiết Thu về đã đánh thức hồn thơ dâng trào lai láng và cũng từ đây kết hợp nỗi buồn ray rứt, ngỡ như đồng cảnh ngộ với nàng Thu

Thu đến lòng anh cũng úa vàng

Biết rằng âm dương cách trở sao dạ mãi mến thương bạn tình…nhớ nhung, nhung nhớ khôn nguôi, vì thế Anh ngập ngừng hỏi:

Cữu tuyền em có biết Thu sang?

Chao ôi, câu hỏi tuy nhẹ nhàng nhưng da diết buồn, nghe thương quá đi! Xin mời anh chị hãy đọc 2 câu thực, tác giả khéo léo ghê: dùng chữ không cầu kỳ, hoa mỹ nhưng đối rất chỉnh như sau:

bao mùa những tưởng…” đối lại với

mấy thuở đâu ngờ…” hay quá Anh ơi!

Bao mùa những tưởng thu chờ đợi

Mấy thuở đâu ngờ Thu rẽ ngang

Anh chị cũng đồng ý phải không nào?

Thi sĩ Mặc Khách đã tặng Như Thu bài họa sau cùng thứ 13 tựa là THU SẦU chan chứa nỗi sầu vây quanh suốt bài họa (bát điệp Thu) của một mùa Thu buồn tẻ quá đi thôi!

Anh Chị ơi! Nếu như có dịp rảnh rỗi chúng ta hãy chọn lấy một ngày đẹp trời nào đó để cùng với Như Thu đi viếng cả hai nơi đó là biển và rừng nhé! Sở dĩ Như Thu chọn hai địa điểm này bởi vì một bên là động và một bên là tĩnh. Nhìn bao quát hơn và so sánh dễ dàng hơn vì dưới mây trời một vùng biển rộng vô bờ, chúng ta cảm nhận mình nhỏ bé trước biển cả rì rào, âm thanh gián đoạn, khi thì sóng vỗ lào xào, có khi giận dữ, nhìn kia xa xa có đàn chim hải âu lượn lờ trên ngọn sóng để săn mồi chuyển động không ngừng.

Tiếp theo chúng ta hãy đi vào khu rừng vắng vẻ, ngồi dưới một gốc cây, khép hờ mắt, loại bỏ lao xao trong đầu, thôi nghĩ ngợi thư giãn đi sẽ thấy tâm hồn mình tĩnh lặng làm sao!

Tỉnh lặng rừng thu tỏa sắc vàng

Một cơn gió nhẹ hiu hiu cũng khiến cho nàng Thu ngơ ngác…

Hồn Thu ngơ ngác gió đùa sang

Cảnh vật nên thơ quá đi!

Bóng thời gian trôi nhanh, chẳng chờ đợi ai, bởi thế mùa thu cũng không ngoại lệ, đà quên lửng tháng ngày vẫn lạnh lùng trôi

Ngày tháng Thu quên từng đứng đợi

Một buổi sáng bình yên nàng Thu xếp lại hành trang từ giã khu rừng tĩnh mịch ấy!

Thu gom nhật ký với hành trang

Rừng ơi xin chào mi nhé!

Lời kết:

Một lần nữa Như Thu xin cảm ơn tất cả Nam Nữ/Thi sĩ rất nhiều đã thương mến gửi tặng 13 bài họa gói ghém tình cảm đậm đà ấm áp và những câu đối thật chỉnh tuyệt vời lắm người ơi!

Như Thu xin chúc cả nhà vui khỏe, hạnh phúc và thân tâm thường lạc.

Thương mến,

Như Thu

10/05/2025

                THAY LỜI ĐÁP TẠ

           (Kính tặng tỷ Như Thu!)

Được tiếng động viên tựa cởi lòng

Ngọc Châu khôn đổi trái tim nồng!

Bình ngôn khiêm hạ ngời tâm thưởng

Nhuận sắc minh chân vẹn khí đồng

Đo đắn câu vần đâu quản sức

Tận tường ý tứ quản chi công…

Tri âm đắc kỷ cầu an lạc

Chúc Tỷ muôn Xuân hưởng Phước Hồng!

Nguyễn Huy Khôi

******

Sông Thu rất cảm động và vô cùng thán phục khi đọc bài cảm nhận của Như Thu. Cảm động vì tác giả đã đọc rất kỹ và đồng cảm sâu xa với bài họa của mình, thán phục vì NT đã có nhận xét thật đầy đủ và tình tế đối với từng bài họa. Điều này làm cho ST, và có lẽ các thi hữu khác cũng thế, vô cùng cảm kích vì thấy thơ của mình được trân trọng làm sao ! Cám ơn Như Thu thật nhiều và cũng xin cám ơn anh Huy Khôi đã thay lời mọi người gởi lời cám ơn đến NT qua một bài thơ thật hay.

Xin gởi đến Như Thu và các thi hữu lời chúc sức khỏe, niềm vui và hạnh phúc.

Sông Thu

01-10-2025

***

Như Thu ơi ! Anh SQ chưa kịp gởi lời khen đến NT thì thi hữu Sông Thu đã nói lời khen tặng đến NT rồi và đã nói rất đủ ý những gì NT viết trong bài cảm nhận.Hết ý và lời rồi nên anh SQ đành buông 2 tiếng khen NT là “ TUYỆT VỜI” hay hơn thế nữa là “ TRÊN CẢ TUYỆT VỜI” nhé! Và cũng mượn lời thơ của thi hữu NHK là cám ơn NT với tất cả chân tình . Sẵn đây cũng không quên tỏ lòng khen ngợi và cám ơn Phương Hoa đã chăm sóc cho vườn hoa Thu đượm sắc màu cũng nhờ PH vun xới.

       Xin trân trọng đến các bạn 

                  songquang 

                  20251001

***

Như Thu xin cám ơn lời khen khích lệ của anh Huy Khôi cùng chị Sông Thu

Rất vui vì bài viết được đón nhận quá nhiệt tình. 

Cũng không quên cám ơn Phương Hoa đã nhanh tay post bài nhé!

NT xin góp họa cùng anh Huy Khôi vì thơ xướng ngọt ngào quá đổi!

Chúc cả nhà vui khỏe luôn!

Như Thu

CẢM TẠ HIỀN HUYNH

Vần thơ đón nhận quả ưng lòng

Chắc mẩm từ nay giấc điệp nồng 

Học hỏi bao điều tâm mực thước

Lo âu bấy vận nghĩa tương đồng

Hoàng hôn thỏa ý luôn nhờ bạn 

Hửng sáng ghi bài chẳng nệ công 

Cảm tạ hiền huynh vừa chấp bút 

Dường nghe hổ thẹn má thêm hồng!

Như Thu 

10/01/2025

***

Thưa quý Thi Sĩ và Nữ Sĩ NHƯ THU vô cùng quý mến,

Sau Thi Sĩ  NGUYỄN HUY KHÔI, là Nữ Sĩ SÔNG THU,  2 cây thơ cổ thụ Bonsai thành tích sáng tác với tất cả mọi đề tài, Cao Mỵ Nhân xốc đứng ông GÙ ( Google ) lên , để muốn hỏi ông GÙ rằng ông có thể tìm cho Mỵ tôi một số từ ngữ nào, diễn tả  lòng ngưỡng mộ quý vị Nhà Thơ đương nêu ( trừ bản ngã ) rằng thì là có thể nói : 

          Quý ông : Đỗ Quang Vinh, Song Quang, Nguyễn Huy Khôi , Trần Cẩm Thành, Thái Huy , Duy Quang

          Quý cô : Sông Thu, Phương Hoa, Minh Thúy và chủ xướng Như Thu

          Tất cả là 10 ngôi sao “ MỜI THU “ chói sáng nơi bàn thơ ( thay vì chiếu thơ ) , 

mà nếu tiệc mặn thơ thì đúng một thồi, thưởng thức những thi đơn quý hiếm hơn bất cứ không gian nào, đang rực rỡ Thu Vàng sắc lá phong kiều diễm,  xin mời đọc lại nơi bài “ CẢM NHẬN HOẠ MỜI THU CỦA NHƯ THU “. 

        Mỗi vị một bài họa, riêng Thi Sĩ Song Quang 2 bài tả hữu cộng tri thu .

        Trong tinh thần “  CẢM NHẬN THƠ XƯỚNG HOẠ “ , Mỵ tôi cũng bắt chước NHƯ THU, nói ra cái điều mình muốn viết vì sao.

        Đó là sự hiện diện gần như  tạm đầy đủ các danh thủ bút hoa :

        Song Quang , Sông Thu, Phương Hoa, Minh Thúy với sự nghiệp thơ e đã quá tải.

        Nay thêm Huy Khôi vừa “ tái hồi “  Thơ trọng , không phải Tái hồi Kim Trọng như trong “ Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Nguyễn Du “ , nghĩa là  mới hai tuần nay, Mỵ tôi đã đếm được  gần trăm bài cả xướng lẫn họa của Nhà Thơ Huy Khôi.

         Quý cụ Giáo Sư Đỗ Quang Vinh  vừa thưởng thu vàng ở Canada cùng phu nhân qua bức hình tuyệt đẹp của hai cụ .

         Nhà Thơ Thái Huy thời gian trước đây cũng sáng tác Thơ  mệt nghỉ, liên tục , nay

 chắc tạm ngơi, đếm lá thu rơi tuyệt vời từng lá để ngẫm câu “ ngô đồng nhất diệp lạc  “.    

Thi sĩ Trần Cẩm Thành xuất hiện như một khách thơ, nhàn lãm nguồn vui bất tuyệt .

           Vị Thi Sĩ trẻ trung nhất hội Thơ lâu nay, mang cả một hoài bão tiếp nối hoài bão xưa của ông , quan võ Duy Anh , cũng đang bước vào hàng kiện tướng xướng họa hàng loạt không ngơi nghỉ đề tài , dẫu thế thái  T2  Trump xứ tạm cư , hay Như Thu tha nhân tình nghĩa . Nhưng với Nhà Thơ  Chiến Sĩ Không Quân VNCH Duy Anh, thì có thể sẽ là Thơ mọi sắc thái khác nhau .

       Thế thì, thật ra Cao Mỵ Nhân chỉ muốn gởi lòng  ngưỡng mộ Thơ và Thi nhân qua xướng họa MỜI THU  của Nữ Sĩ  NHƯ THU qua cảm tính thi ca bất tuyệt vậy .

         Xin lỗi quý vị viết dài lẩm cẩm quá.

        Kính chúc VẠN AN , Thơ Ca vô tận .      

                    CAO MỴ NHÂN 

CHÙM THƠ THU CỦA NHƯ THU

NHỚ THU

(Độc vận)

Ta đợi lâu rồi hẳn nhớ Thu

Ta thầm hy vọng sánh cùng Thu

Ta hòa bảy nốt xin mời bậu

Ta chép đôi hàng gởi tặng Thu

Ta mải chờ trông nào toại ý 

Ta hoài nghĩ ngợi ước dìu Thu

Ta đành cặp bến về thôn dã

Ta biết bao giờ gặp gỡ Thu?

Như Thu

***

BÀI HỌA – MINH THÚY

Đợi Thu 

(Thủ Nhất Thanh) 

Đợi mãi từng ngày tím dáng thu

Đợi chiều nắng úa lịm trời thu 

Đợi mây ủ ngọt vờn chim én 

Đợi tóc pha nồng thổi gió thu

Đợi buổi màn sương nhàu cỏ lá 

Đợi giờ ánh nguyệt nhạt màu thu 

Đợi gom dĩ vãng hồn ngây dại 

Đợi hiến dâng tình níu bóng thu 

Minh Thúy Thành Nội 

Tháng 9/28/2025 

09/17/2025

THU SẦU 

(Bát vĩ đồng âm)

Dõi ánh trăng rằm bởi lụy ai?

Sầu hoen dạ tủi suốt canh dài

Bờ mi nhoè nhoẹt hồn tê tái

Cảnh trí im lìm sắc nhạt phai

Một bữa thuyền neo nhìn ái ngại

Đôi phen sóng vỗ tự an bài

Chiều thu lá rụng vườn hoang hoải

Ấp ủ bao mùa trĩu nặng vai!

Như Thu – 09/17/2025

***

BÀI HỌA MINH THÚY

Mùa Thu Đi Một Nửa 

( Ngũ độ thanh ) 

Mỗi lúc thu về tự hỏi ai 

Nhiều khi trở giấc giữa đêm dài 

Ru tình huyễn ảo tìm hương nhạt 

Rũ dạ mơ hồ điểm sắc phai 

Nẻo cũ trăng thề thua mệnh chấm 

Đường xưa cảnh hứa chịu duyên bài 

Mùa đang trỗi dậy niềm nhung nhớ 

Lệ đẫm mi nhòa ướt khoảng vai

Minh Thúy Thành Nội 

Tháng 9/28/2025

***

THU CẢM

Sáng nay thấy bỗng hơi se lạnh

Bên tách trà mông quạnh ngó ra

Sương Thu phơn phớt la đà

Ô hay ! Thu đến hiên nhà rồi cơ !

*

NẮNG THU

Hè đã hết đâu còn phượng đỏ

Thu lại về mở ngõ trời không

Làn mây xam xám mênh mông

Nắng thu nhàn nhạt khiến lòng bâng khuâng !

*

CHIỀU THU MƯA

Chiều một mình nhìn Thu lãng đãng

Chợt thấy lòng nhớ quảng ngày xưa

Cũng chiều thu ấy rơi mưa

Là ta ngỏ ý mới vừa yêu em!

*

TRĂNG THU

Trăng Thu trải khắp ngời hoa cỏ

Bên vườn khuya Nguyệt tỏa chơ vơ

Thời gian sao khéo hững hờ

Sao không nói thật trăng giờ già chưa ?

*

TUỔI THU

Tuổi thu giờ bao nhiêu Xuân đã…?

Mà dung nhan chẳng ngã phôi pha

Dù qua bão táp phong ba

Thu đi thu lại vẫn là hương thu !

*

songquang

20250917

***

THƠ MẶC KHÁCH

DÁNG THU

Thu về lay nhẹ cánh phong Lan

Hoa nở hương bay sắc điểm vàng

Sương ánh tơ hồng chờ Lãng từ

Gió reo rộn rã đón Giai nhân

Tình Thơ xúc cảm âm thầm nhớ

Xao xuyến trong lòng mãi chẳng tan

Em có nghe cung sầu thổn thức

Vui bên nhau kẻo chóng phai tàn !

MẶC KHÁCH

 ***

HOANG LẠNH

Buồn theo chiếc lá từ lúc người đi

Rừng đang thay lá chẳng thấy tin về

Mùa Thu yêu thương hay mùa thu chết

Hàng cây lặng buồn rừng lá tái tê

*

Tình đã chia xa tình như đã chết

Rồi trong cơn mê còn ai đợi chờ

Tình đến rồi đi tình không trở lại

Dù mưa hay nắng thấy mình bơ vơ

 *

Tiếng gió xa đưa lời ai giã từ

Tình ngỡ dài lâu đâu ngờ mong manh

Hồn như chết lặng nhìn nhau lần cuối

Vệt nắng chiều tàn ngơ ngác xoay quanh

 *

Em đã đi rồi anh vẫn nơi đây

Gió mùa trở lạnh, lạnh suốt đêm dài

Núi rừng hoang vu từng cơn gió lạ

Lưu luyến trần gian chắc chẳng còn ai

 *

Nắng tắt vội giữa núi rừng buồn lắm

Đông cũng tàn gió lạnh buốt xương da

Cảnh thê lương sao nỡ đành bỏ lại

Để hồn anh Hoang Lạnh giữa chiều tà !

MẶC KHÁCH

***

***

**

***

***

CA KHÚC THU TÍM – THÁI PHẠM

THƠ LÊ MỸ HOÀN

Beautiful oak tree on a lawn with the setting autumn sun shining warmly through its leaves

CHỚM THU

Heo may thoảng nhẹ qua hiên vắng

Gió gọi thu sang giấc mộng lành

Cành ngọc lung linh sương còn đọng

Mây trôi lặng lẽ phía trời xanh.

*

Lá biếc thôi rơi, vừa trở gió

Tiếng ve não nuột buổi chia tay

Một thoáng hương xưa vờn mái tóc

Ngỡ bàn tay cũ vỗ bờ vai.

                        *

Con phố trầm tư vương nỗi nhớ

Người qua khẽ bước giữa chiều phai

Lòng ai chạm nhẹ mùa xao xuyến

Thu mới vừa sang bóng tỏa dài.

 *

Mắt biếc ngỡ ngàng trong luyến tiếc

Tình xưa như gió cuốn đêm thâu

Chớm thu thức dậy bao niềm cũ

Rót mộng thanh xuân xuống mái đầu.

Dương Thượng Trúc – Houston 9/2025

                        ***

CHỚM THU (II)

Gió nhẹ mơn man trên ngọn cỏ

Mây vàng dắt nắng xuống ven sông

Thu về khẽ gọi hàng cây thức

Một cánh chim xa lạc giữa đồng.

                        *

Lá úa chưa rơi mà se sắt

Hương trà thơm thoảng giữa hoàng hôn

Chiều nghiêng bóng nhớ trôi mơ mộng

Một chút tình xưa thoáng chạnh hồn.

*

Tiếng guốc ai xa rơi vội vã

Gợi lòng man mác nỗi bâng khuâng

Thu chưa trọn giấc mà đã ngỡ

Lạc miền cổ tích dấu lặng câm.

*

Chớm thu dịu vợi như lời hát

Nghe vọng ngân xa một khúc tình

Lối cũ ai còn hay đã lạ

Mà ta chờ mãi một bình minh…

Dương Thượng Trúc – Houston 9/2025

***

THU XƯA, THU NAY

Thu xưa gió lộng bên thềm nhỏ

Chiếc lá vàng rơi, tiếng guốc xa

Áo trắng ai bay chiều lặng lẽ

Hồn ta mộng tưởng một trời hoa.

*

Thu xưa có tiếng lòng khe khẽ

Ngỡ gió ngừng trôi cũng biết buồn

Ngõ nhỏ in hằn đôi bóng cũ

Mắt nhìn chưa nói đã vấn vương.

*

Thu nay vẫn lá rơi nghiêng ngả

Mà lòng chẳng nhẹ tựa ngày xưa

Thềm cũ rêu phong mờ dấu cũ

Chỉ nắng mồ côi với gió thưa.

*

Thu nay quán nhỏ chiều yên ắng

Người đến rồi đi chẳng đợi chờ

Ta uống ly cà phê không sữa

Ngẫm đời như gió thoảng trong mơ…

Dương Thượng Trúc – Houston 9/2025

THƠ DƯƠNG THƯỢNG TRÚC

KHÔNG ĐỀ

Gửi em, giọng hát mùa Thu

Gửi em giọng hát sáng ngời,

Như mây vờn nắng giữa trời thinh không.

Tiếng em ngân nhẹ trên sông,

Giúp ta quên hết bụi hồng trần ai.

*

Giọng em êm tựa sương mai,

Ru hồn chiếc lá miệt mài buông theo.

Lời ru thoảng nhẹ hiu hiu,

Hòa trong hương cốm, lặng chiều mênh mang.

*

Thu về ướp tiếng dịu dàng,

Ngân nga trên bậc thềm vàng lá rơi.

Ta nghe hồn mộng chơi vơi,

Theo em đi mãi giữa trời thu xanh.

*

Giữ hoài giọng hát mong manh

Như giọt sương sớm long lanh cánh đồng.

Hương Thu ngào ngạt mênh mông

Cho tình còn đó, cho lòng còn em…

Dương Thượng Trúc – Houston 9/2025

***

Charlie Kirk tuổi ba mươi,

Một đời dâng hiến, tiếng cười MAGA.

Chao ôi! Đại học Utah, 

Viên đạn cố bắn vào nhà đấu tranh.

*

Sinh viên trùng điệp vây quanh,

Lời anh dang dở, biến thành sấm vang!

“Ôn hòa, đối thoại tương quan,

Làm cho nước Mỹ huy hoàng tương lai!”

*

Erika, lệ tuông dài,

Ôm hai con nhỏ, mờ phai mộng tình.

Bé gái ba tuổi đẹp xinh,

Một trai chưa biết thân mình mồ côi!

*

Còn đâu ngày tháng có đôi,

Riêng em hóa đá, đứng ngồi khôn nguôi.

Dân Utah, khóc ngậm ngùi

Arizona đón buồn vui quan tài.

*

Vance cùng Hegseth cả hai.

Bạn thân chung cuộc tuyền đài xót xa!

Kirk ơi! Người trẻ tài hoa,

Turning Point ở Ta bà ghi công!

*

Tổng Trump tình nghĩa thắm nồng,

Trao anh huy hiệu Cộng Đồng Tự Do.

Khắc ghi lời triệu vang to:

“Không ai lặng lẽ dập vò tiếng anh.”

*

Lời tuông tận chốn mây xanh,

Tự do ngôn luận biến thành trào lưu.

Người đi, chẳng chút oán cừu.

Tiếc thương kẻ ở sầu ưu thẫn thờ.

*

Nối dài lý tưởng ước mơ

Gương anh phản chiếu không mờ trong tim.

Tuổi trẻ “Sự thật” đang tìm,

Quảng trường đại học hết im tiếng mình!

*

Charlie Kirk, một minh tinh,

Dấu chân anh thấm đẫm tình MAGA.

Vĩnh hằng tuổi trẻ cờ hoa,

Bước theo lý tưởng chan hòa nghĩa nhân.

*

Gia đình, tôn giáo, tinh thần.

Đạo đức luân lý chuyên cần phát huy.

Bảo vệ đất nước, biên thùy.

Đối thoại, luật pháp, phụng vì nhân dân.

*

***

*

VĂN MINH THÚY THÀNH NỘIMùa Thu Nào Gặp Lại

MÙA THU NÀO GẶP LẠI

*

Suốt tuần nay loay hoay sửa soạn hành lý cho buổi họp mặt dưới Santa Ana. Lòng buồn vui lẫn lộn, có lúc ngồi sững sờ nhìn ra cửa nghĩ ngợi mông lung … Chúng ta ai cũng có ký ức về tuổi thơ. Nhớ thuở lên bảy được cha dẫn đến trường buổi đầu tiên, thuộc lòng đoạn viết của nhà văn Thanh Tịnh “Tôi Đi Học”.

“Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.”. 

Nói đến chuyện giáo dục học đường và chuyện “Tôi Đi Học”. Mấy hôm nay xem tin tức trên nét hoặc đài Sài Gòn 57.3 chương trình bình luận của cô Hoàng Vy. Hình ảnh ngày tựu trường các miền xa gần rừng núi bên VN, cô giáo đèo cõng các em lội qua con suối, gây lòng xúc động mãnh liệt. Từ lâu tôi vẫn thường ám ảnh những trẻ thơ ham học, nhà nghèo lội sông như vậy. Muốn thực hiện sự quan tâm của mình với đồng tiền chắt chiu nhỏ nhoi, nhưng rồi sợ đủ điều khi đọc những bài viết khuyên lơn: Không chuyển tiền về VN làm lợi Cộng Sản có tiền tệ, dù là người thân cũng phải hy sinh. Trí óc tôi thấp kém chỉ thấy trước mắt cha mẹ mình đau yếu cần chữa bệnh, anh chị cần cơm gạo trong hoàn cảnh khó khăn, các cháu cần đóng tiền vào Đại học. Những việc xa vời hơn thì nghi ngờ, chẳng dám tin ai khi xã hội đào tạo thành phần tham nhũng, cắt xén quá nhiều. Chỉ còn niềm tin nơi những chân tu Phật Giáo hoặc Cha bên Công Giáo, nhưng rồi vấn đề sợ hãi nhất vẫn là sự bình luận của người thân, chưa kể bên ngoài “lớp trên ăn no, dư bạc gởi con du học và chuyển tiền ra nước ngoài, hoặc những vụ ăn hối lộ giàu có tiền rừng bạc biển, tại sao không để họ làm mà người nước ngoài phải giúp.” Tôi không phải là nhà tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo chủ tịch Sovico tài trợ gần 212 triệu đô la Mỹ tương đương 155 triệu bảng Anh, cho trường Linacre College của nước Anh, được hội đồng dự tính sẽ thay tên trường là Thao College. Tôi chỉ biết ngậm ngùi đau xót, rơi lệ nhìn biết bao nhiêu trẻ em lội qua sông, mình mẩy ướt dầm vào lớp học. Có lần liên lạc với vị mục sư, gặp người vợ kể chuyện: mục sư về VN lựa những nơi đông dân cư quá nghèo khổ, nếu đến địa phương nào chính quyền đòi nhúng tay vào việc, mục sư bỏ đi và chỉ thực hiện cùng dân hợp sức chung nhau xây cất cầu. Suy đi nghĩ lại rồi sợ đủ điều như kể trên và lòng thì luôn xót xa, nhất là đối với lứa tuổi trẻ thơ cần đi học. Ôi quê hương còn quá nhiều cảnh nghèo đói thiếu thốn nhu cầu ngay trong môi trường giáo dục quan trọng.

Lòng rung cảm dạt dào về tuổi thơ, về thời dưới mái trường xưa. Đồng thời tôi cũng cảm nhận nỗi buồn xa vắng. Hình ảnh ngôi trường Nữ Thành Nội hiện ra trước mắt. Thành phố Huế có thêm ngôi trường nữ thứ hai được thành lập năm 1964 trên con đường Đinh Bộ Lĩnh, để giải quyết tình trạng trường Đồng Khánh không đủ lớp, và giúp học sinh trong thành tránh nguy hiểm qua đò sông Hương dưới trời mưa gió của mùa đông. Ngôi trường do cô hiệu trưởng Tôn Nữ Tiểu Bích điều hành cho đến năm 1975 thì mọi sự đều thay đổi. Biết bao nhiêu kỷ niệm thời áo trắng hồn nhiên dễ thương. Tôi nhớ nhiều cô giáo thành goá phụ sau tết Mậu Thân vào dạy học. Cô H mái tóc thả buông lơi, nét mặt buồn rười rượi trong bộ áo dài đen. Bạn tôi mê nét đẹp như tranh ấy, buổi trưa dưới bóng nắng gay gắt “chân theo chân nhặt bóng nắng đường dài,” bạn nói “mình bị nét buồn ấy thu hút cứ muốn theo cô hoài.” Hầu như học trò ai cũng mê cô Tuyết Nhung vợ thầy họa sĩ Đinh Cường, cô mặc áo dài do thầy vẽ, dáng cô ốm gầy, tóc ngang vai như nàng thơ. Cả lớp đứng xếp hàng chờ thầy xuống để vào lớp, nhưng chẳng ai để ý đến thầy mà cứ ngoái cổ nhìn bóng dáng cô đi xuống lớp khác, cho đến khi thầy lớn tiếng “các em ngắm đủ chưa?” mới chợt tỉnh đi vào lớp. Nhớ rất nhiều thầy cô, thế hệ ấy giờ đã trên dưới 90 tuổi và lần lượt ra đi…

            Mỗi khi có họp mặt hay có thông báo, cựu nữ sinh đóng góp, chị Xuân Ba chuyển về ban xã hội bên VN, các chị em chia từng nhóm đem quà đến thăm cô thầy vào dịp Tết, hoặc sau mùa lụt, hoặc thầy cô bệnh. Những tấm hình gởi qua group NTN, được nhìn lại cô thầy thật vô cùng xúc động và trong lòng học sinh có chút hãnh diện về tình nghĩa chị em NTN luôn nể trọng như câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư “. Chưa kể hai cô hiệu trưởng trường Đồng Khánh và Thành Nội còn phối hợp quyên góp giúp Thương phế binh VNCH và được học trò hưởng ứng mạnh mẽ thể hiện sự biết ơn và lòng nhân ái.

Tính 60 năm xây dựng ngôi trường thì sang năm mới đủ tuổi, nhưng năm nay chị Xuân Ba cố gắng tổ chức sớm hơn buổi họp mặt khi thấy cô hiệu trưởng tuổi cũng gần 90, và có dấu hiệu nhớ nhớ quên quên. Chị lên trang nhà NTN mời tham gia, cô Đạm Tuyết cũng nhắn qua điện thoại số danh sách nắm trong tay. Có lẽ vì lý do bận rộn không đi được, nên chị em ngại ngần tránh lên tiếng trả lời, một số đã tâm tình riêng với tôi  

– chị ơi! em ao ước được thăm cô và có dịp gặp bạn bè lắm, nhưng không thoát được. Các con đi làm, giữ bốn cháu nội ngoại, chồng đưa đi học hai đứa lớn, em giữ hai cháu và nấu ăn 

– Hãng đang cần việc, em không dám xin nghỉ sợ họ lai-off

– Muốn đi lắm, mà sức khỏe không tốt, chân di chuyển một tí là sưng vù sau lần té bị nối xương 

            – Em rất mong thăm cô hiệu trưởng mình, nhưng chồng đang bịnh không chở được.

– Dâu mới sinh một tuần, phải ở nhà chăm sóc cháu, lỡ dịp uổng ghê

– Quá tiếc vì phải bay qua Texas nuôi dâu sinh

              Một bạn tuy đã ở tuổi hạc nhưng chất xám còn nhiều, vẫn theo đuổi việc học, trùng ngày tốt nghiệp ra trường nên đành vắng mặt bên này.

           Bạn gần khu PLT, đã bàn tính hăng say sẽ gặp tôi và thăm Cô, đúng thời điểm em trai đi chơi xa, bạn tiếc nuối:

– Em trai chăm sóc ba mạ, giờ đi chơi xa thì mình phải đến thay thế nhiệm vụ, cho em nghỉ ngơi đổi gió bên ngoài.

Chị trưởng ban văn nghệ ở Colorado mấy ngày trước nhắn qua lại với tôi và bạn khác:

phải tập thuộc bài hát “Trường Làng Tôi” trình diễn mục tam ca, hoạt cảnh Mỵ Nương, Trần Khắc Chung và vua Chế Mân trong bản nhạc “Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi ). giờ phút cuối bị sưng chân và đau lưng dữ dội không lết được. Bạn thân cũng đang du lịch bên Châu Âu chưa về. Tin giờ chót các bạn đã ghi tên: Người cảm cúm nghi bị covid. Người có đứa con bịnh mọi hôm mẹ đi đâu nhờ anh trai giữ, nay anh trai là huynh trưởng gia đình Phật Tử phải dự lễ quan trọng nơi Chùa. 

           Tôi hít sâu thở nhẹ trong lúc tinh thần đang đi xuống. Mùa thu đã về, lá chưa biến sắc vàng và gió chưa “tung bay từ muôn phía, tới đây ngập hồn em” để lòng nghe chơi vơi… Buồn thiếu bạn. Buồn cái duyên không thuận theo ý muốn. Nhưng thôi gạt bỏ, có bao nhiêu người cũng quý. Biết ra sao ngày mai, cứ vui lên từng phút, từng giây, từng giờ trong hiện tại. Tôi cố lấy lại niềm tin yêu.

Anh Tân đón tôi về nhà, đáng lý có thêm cặp vợ chồng từ Houston qua ở chung nhà, bất ngờ người chồng lớn tuổi sức khỏe yếu kém không lượng sức nỗi. Anh Phước chị Thí đón các chị từ Seattle qua, đón các em và cô Tiểu Bích từ Sacramento tới. Nhiều bạn đến từ Houston., vợ chồng từ Oklahoma, San Diego, vùng Santa Ana một số nữa, bên Việt Nam có hai em qua dự.

Lần nào tổ chức cũng do hai ông rể Phước và rể Tân luôn tài trợ tiền bạc, bỏ công vất vả đưa đón nhiệt tình chị em về nhà. Nhờ vậy chị em mới có buổi hội ngộ thân tình vui chơi gần gũi cô giáo thể hiện tinh thần “tôn sư trọng đạo”. 

Ở lứa tuổi trên dưới sáu mươi thì còn cày, trên dưới bảy mươi ai không bệnh mới là lạ, nhưng nếu còn ít sức khỏe các con tha hồ nhờ vả mà “lòng mẹ thì luôn bao la như biển thái bình”. Chồng tôi cũng bị bệnh Parkinson nặng, tôi nhờ người chở tới xe đò Hoàng. Còn bốn ngày nữa họ gọi phone giọng nghe cảm nặng và ho sùa sụa báo tin bị nhiễm covid. Cuối cùng ông xã tôi hứa sẽ chở, nhiều người ngăn cản nhưng ông bảo đảm sức khỏe.         

Chủ nhật anh Tân chở chúng tôi về nhà vợ chồng anh chị Phước Thí vùng Rosemead thuộc quận hạt Los Angeles. Lần này chị Xuân Ba bàn tính mượn nhà chị Thí cho gọn theo số người ghi danh tham dự, thức ăn theo kiểu “Potluck”. Chị Thí lo nồi bún bò, nồi bún chay và nhờ em dâu phụ nhiều việc. Các chị em đem thức ăn ngập mặt nào bánh lọc trần, bánh ít ram, bánh đúc, gỏi mít, gỏi vả trộn, bánh bao… v… v…

Cô Hiệu Trưởng nhan sắc vẫn mặn mà. Gặp trò cô rất vui, trao ánh mắt yêu thương nhìn bầy chim tung cánh lạc loài khắp nhiều phương trên đất Mỹ. Học trò tha hồ chụp hình, kéo cô ngồi trước rừng hoa vàng, đứng bên giàn hoa giấy đỏ.       

Buổi lễ trang trọng do anh Phước điều khiển chương trình, chào cờ Việt Mỹ và mục tưởng niệm. Chị Xuân Ba ngỏ lời cùng chị em, sau đó cô Tiểu Bích có vài hàng vắn tắt với nụ cười hiền hoà, vui vẻ thân mật. Mở đầu chương trình văn nghệ là màn hợp ca “Học Sinh Hành Khúc” (Lê Thương). Lần lượt chị Xuân Ba ngâm bài thơ “Cô Nữ Sinh Thành Nội”. Phương Chi “Nỗi buồn Hoa Phượng” (Thanh Sơn). Tam ca Thuý, Chi, Xuân Thảo “Trường Làng Tôi” (Phạm trọng Cầu), anh Xuyến “Hoa Soan Bên Thềm Cũ” (Tuấn Khanh) và “Sương Trắng Miền Quê Ngoại” (Đinh Miên). Anh Phước nhạc tiền chiến. Anh Bân nhạc tình cảm của Ngô Thụy Miên, Phạm Duy. Anh Quang, chị Thảo song ca nhạc lính. Huỳnh Thơ và Thu Trinh hát bè “Thương Về Xứ Huế” (Minh Kỳ), “Nhìn Những Mùa Thu Đi” (TCS). Tôi đọc bài thơ “Dạ Thưa Cô” làm theo thể Lục Bát, và bài “Hỏi Em” cảm tác từ bức tranh nữ họa sĩ Thúy Vinh vẽ cô gái đạp xe trên những con đường xứ Huế theo thể thơ Trường Thiên Tứ Tuyệt.

Phần ăn trưa thật ngon miệng, hàn huyên tâm sự rồi lại tiếp tục văn nghệ. Chị em bắt đầu nóng máy hăng say. Mục thay đổi không khí là các ông rể lên hết hát nhạc giật gân, anh Tân hát bài tựa đề “Ca Vang Khúc Yêu Đời”, tôi không nhớ rõ chỉ thấy các ông giật điệu twist lắc lư theo lời ca “tròn tròn, méo méo, vuông vuông” rồi đổi lại “vuông vuông, méo méo, tròn tròn…” cứ thế hát đi hát lại chọc chị em cười nghiêng ngửa. Chị Xuân Thảo cũng sung lên tìm nhạc twist “Sáu Mươi Năm Cuộc Đời” “Sài Gòn Đẹp Lắm” (Y Vân), “Lính Mà Em” (Anh Thy) rồi phe kẹp tóc ra hết tập thể dục sau buổi ăn trưa quá căng bụng.

Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Trước khi chia tay chị Xuân Ba lên đọc danh sách toàn bộ chị em ủng hộ tiền. Chị Nguyễn Thị Yến (khóa đàn chị,) và Mai Trang tuy không dự nhưng vẫn ủng hộ, hai em Nhàn & Mai cũng góp phần nhưng BTC không nhận, nghĩ từ VN qua dự được đã là tình nghĩa quá rồi. Cũng nhờ chị Thí cho mượn nơi tổ chức, nên phần tổng kết tiền bạc rất hậu hỷ. Chị Xuân Ba tuyên bố trên group NTN trong và ngoài nước sẽ chuyển bốn số về để thủ quỹ bên nhà giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn của cựu học sinh hoặc quý thầy cô, đó là đường lối của NTN hải ngoại trọng Thầy quý Cô.

Ngày kế tiếp anh Tân hướng dẫn cả đoàn đến “Sherman (Library & Gardens) “, nơi trồng các loài hoa màu sắc rực rỡ. Phe đàn bà thấy những bụi hoa thì mê mệt đứng bên, cầm hoa, hôn hoa, tựa nghiêng tạo dáng. Đàn ông đi theo phái nữ là bị dính vô chuyện chụp hình liên tục tối mặt mày. Tôi nhớ có lần đi theo nhóm văn thơ, miệng la ơi ới “chụp… chụp… chụp…” có ông hỏi lại “chụp cái gì?” thì chụp hình cho các kiều nữ chứ còn ai nữa. Khi tôi không thấy chị Thí đâu, lên tiếng gọi nhiều lần, mới nghe tiếng nói nhỏ sau lưng như thì thào” chị đứng đây”, tôi quay lại nhìn nét mặt chị phờ phạc, nín cười và thương quý lắm, vì chị lo đủ việc và còn o bế hai nồi bún cũng đừ sức. Nghĩ thêm chị Xuân Ba về VN đón con qua Mỹ theo diện đoàn tụ, thay vì thong thả vài ngày sau giá vé máy bay sẽ hạ hơn, nhưng chị phải qua gấp cho kịp ngày họp mặt, nên giá vé hơi đắt. Hai chị là những con người sống bằng trái tim, sống cho người nhiều hơn cho mình.

            Ngắm vườn hoa xong, lại được đưa đến khu “Bolsa Chica Ecological Reserve”, nhìn sông hồ thoáng mát, nước xanh, trời xanh thật dịu dàng êm ả. Vinh Phạm và Hoàng Yến rung cảm nhiều trước cảnh thiên nhiên, nên muốn đóng phim “Titanic Trên Cạn”, bạn khác đòi đổi đề tài, “Jack & Jose”, “Kìa Con Bướm Vàng…”

Tiếp tục lại về tập trung nhà anh Tân quậy phá tiếp. Trước đây mỗi tuần đi nhà thờ, ôn mụ cắt đủ thứ rau răm, rau quế, rau húng, rau ngót, rau mồng tơi, rau dền bó lại, hoặc bầu, bí, mướp, đậu ván, đậu ngự, thanh long, khế… v…v… đem tới nhà thờ bán sung vào quỷ. Tuần này hai người đem cho chị em NTN trong ngày họp mặt. Giờ đây lại quậy phá thêm lần nữa, ra vườn tha hồ hái, ai cũng có một bọc quà mang về. Anh Phước mua pizza đặc biệt đãi, chị em cụng ly “dô… dô…” cười sằng sặc, quên mình đã tuổi “mệ” trên dưới 70 rồi. Chương trình buổi chiều sẽ đến nhà hàng, nhưng bụng ai cũng no ách, và thấm mệt, nên chia tay từ giã. Còn lại vợ chồng Phương Chi ngồi chờ qua giờ kẹt xe, anh Tân mời ăn cơm chiều. O Điểm bắt tay vào bếp lẹ làng dọn mâm cơm cá nục kho, canh bí đỏ, đậu ván luộc chấm ớt xì dầu, chao ơi mâm cơm quê hương làm nhớ mạ quá, ngon tuyệt cú mèo đó các bạn ơi.

Mọi người hẹn mùa thu gặp lại. Tôi ngậm ngùi không biết mùa thu năm nào…  

Cuộc sống ở Mỹ quá bận rộn. Trốn thoát đất nước quê hương để tìm miền tự do, đặt chân nơi vùng đất khách đã nhập cuộc cày cấy như người ta. Dân Á Đông, nhất là dân VN nói chung, dân Huế nói riêng hầu như ai cũng biết lo xa. Ăn hôm nay lo ngày mai, dành dụm tiết kiệm góp nhặt từng đồng. Nói hơi …ốt dột chứ bản thân mình luôn trên sàn dưới sẩy đi theo đường lối của trùm Sò là “quyết không để rơi rớt”, nhưng việc đáng làm vẫn muốn làm. Điển hình trước mắt là Dạ Điểm (vợ anh Tân Nguyễn), vườn trồng đủ thứ rau trái. Dưa leo, su hào, khế nhiều quá ăn không hết, O cắt mỏng phơi héo dầm muối đường nước mắm thành những hủ như dưa mắm. Cuộc sống tiết kiệm, làm việc siêng năng cần cù, vậy đó rồi ai cũng có nhà cửa “an cư lạc nghiệp” và còn giúp đỡ biết bao nhiêu việc thiện.      

Tới tuổi nghỉ hưu thì con níu, cháu níu, thương dâu muốn có trách nhiệm. Chưa kể đến giai đoạn Sinh, Lão, Bệnh: chồng bệnh, vợ bệnh đa số gặp khó khăn. Một trong hai em từ VN qua, đi chơi nhưng nét mặt rất buồn, em kể mới biết chồng đang bị ung thư, thương vợ từ lâu khổ cực bên cạnh chồng, nên chồng khuyến khích vợ đi cho khuây khỏa, mọi việc có con thay thế chăm sóc, đó là trường hợp đặc biệt. Ngoài ra những hoàn cảnh chung quanh đều gặp bao nhiêu thứ gia duyên ràng buộc khó dứt ra, để thỏa mãn ước muốn gặp thầy cô và bạn bè, muốn quay lại thời hoa mộng dù chỉ vài ngày cũng không dễ dàng thoát được. Điều phước báu là cô hiệu trưởng vẫn còn khỏe mạnh, chỉ có dấu hiệu hơi quên một chút. Cô cũng được may mắn “bà con xa láng giềng gần” nhờ ba học trò Kim Xuân, Phạm Vinh, Huỳnh Thơ kề cận, luôn gặp thường xuyên đem đến cho cô nhiều niềm vui. Tôi cũng muốn nói lời cám ơn đến vợ chồng anh Phước & chị Thí, vợ chồng anh Tân & Dạ Điểm, và chị Xuân Ba đã bỏ tiền của công sức “ba cây chụm lại thành hòn núi cao” trước là đem đến niềm vui cho Cô, sau là các chị em được tắm dòng sông xưa nhiều kỷ niệm.

Trên đường trở về, ngồi trên xe đò Hoàng xuôi Bắc Cali. Nắng vẫn lên cao, trời trong xanh bát ngát. Xe đi qua vườn nho, qua đồi núi, cây lá chưa vàng phai, chỉ có vạt nắng hồng dịu dàng xuyên qua khung cửa. Tôi thả mặc tâm hồn xoay về miền quá khứ, ngậm ngùi vài người bạn đã qua đời. Thời gian còn được bao nhiêu ngày nữa các bạn ơi, cố gắng hẹn nhau mùa thu nào gặp lại nhé. Mong mọi điều được thuận duyên.

Họp Mặt Mùa Thu 

Tháng chín thu đà bước nhẹ sang

Trường xưa họp mặt dẫu xa ngàn 

Quê người “trọng đạo “gìn văn hóa 

Đất khách “tôn sư “giữ phẩm hàng 

Hội ngộ luôn nồng chung hát nhuyễn 

Tao phùng vẫn thuận hợp ca vang 

Muôn điều cứ “dạ thưa cô” mãi 

Đón tiếp rừng hoa nở sắc vàng

 
Minh Thúy Thành Nội

Mùa Thu 2023

TÌNH THU

Thu gọi lay ai bừng ngõ mộng 

Như vừa đánh thức tiếng lòng đang 

Mơn man gió thổi trên làn tóc 

Nắng nhạt thu rơi nhuộm lá vàng 

*

Thu đến thêm say đời ảo ảnh 

Đất trời dịu vợi thắp mù sương 

Chơi vơi lá rụng từ muôn phía 

Tan tác phân ly xác ngập đường 

*

Có phải vì thu nhiều chất chứa 

Mơ màng quay lại khoảng ngày xa 

Rưng rưng nhặt bóng “hồn thu thảo”

Tiếng gọi mờ tan lấp tuổi già 

*

Tận hưởng mùa thu buồn lãng đãng 

Tranh màu ảm đạm dậy niềm yêu 

Vì thu sầu muộn lên đôi mắt 

Ấp ủ hồn thơ nét diễm kiều 

*

Minh Thúy Thành Nội 

Tháng 9/2025

THƠ LÊ TUẤN

image.png

Ngày Ấy Thu Vàng

Lá thu tạo hoá dát vàng
Bay theo cõi mộng lang thang mây chiều
Áo em lụa mỏng hồn phiêu
Ngõ hồn lãng đãng liêu xiêu ngại ngần.

Tóc em xõa xuống ngực trần
Thơm từng hương phấn xa gần nhớ quên
Phố buồn xa vắng mông mênh
Hàng cây bóng đổ chênh vênh đợi chờ.

Cánh hoa ngày ấy còn mơ
Sắc hương đôi tám ngây thơ giữa trời
Tuổi nào em bước vào đời
Tuổi em mười tám xuân thời đắm say.

Hương trinh thơm nhẹ trên tay
Thu về mở cửa tháng ngày ngao du
Em cười nở đóa hiền từ
Cõi hồn phiêu lãng cho dù hư không.

Tế Luân
Phiêu lãng mùa thu
image.png


Mùa Thu Vàng Áo

Đâu phải mùa thu, nhuộm em vàng úa
Đâu phải lá rơi, che giấu niềm đau
Một thoáng ngẩn ngơ nhìn chiều tắt nắng
Tuổi đã già ngày tháng sẽ qua mau.

Đôi mắt em làm chiều thu nhuộm tím
Mái tóc dài bay theo cánh đồng hoa
Môi hồng đỏ nụ cười dòng suối mát
Làm ướt hồn anh, hạnh phúc chan hoà.

Em hiện diện mùa thu chợt bừng sáng
Toả ngát hương cho tình yêu tái sinh
Mùa thu có em, hồn anh bối rối
Cho một ngày rực rỡ ánh bình minh.

Tế Luân
Tình yêu mùa thu


image.png

Thung Lũng Lá Vàng

Sương mù giăng phủ một mùa sang
Cánh lá nhẹ bay thung lũng vàng
Bóng ai như dáng em đùa bước
Mảnh áo lụa đào, ngắm nở nang.

Ngọn gió thổi về rung nhánh lá
Ngày buồn ly biệt nỗi cô đơn
Em không trang điểm nhìn hoang dại
Làm khổ lòng tôi nét giận hờn.

Em vẫn kiêu sa, lạnh hững hờ
Mắt buồn xa vắng, thoáng trơ vơ
Nhưng sao cuốn hút tình tôi lại
Để lá thu vàng thêm xác xơ.

Dạo bước chợt nghe tiếng lá khô
Tình em như sương trắng mơ hồ
Lời thơ làm ướt thêm dòng mực
Trang giấy buông rơi xuống mặt hồ.

Lê Tuấn

image.png

Hạt Sương Non

Tình như hạt sương non
Long lanh đọng trên cành
Nắng vừa lên đã vỡ
Ngỡ ngàng qua rất nhanh.

Khi xưa tuổi còn son
Dáng xinh xinh mượt mà
Em là hoa biết nói
Viết thành lời tình ca

Em là một đoá hoa
Loài hồng gai sắc nhọn
Đâm vào tim rịn máu
Thuốc tiêm chủng bào mòn.

Tình từ đó đã quen
Loại biến thể yếu mềm
Trái tim côi miễn nhiễm
Không còn sợ xa em.

Tế Luân

***

THƠ TUYẾT NHUNG

THU HÀ NỘI (1)

Hồ Gươm sóng gợn ánh trăng

Tháp rùa nghiêng bóng thu giăng mơ màng

Lá rơi nhẹ bước lang thang

Hàng cây nghiêng ngả, lá loang mặt hồ.

*

Trúc Bạch hồ biếc như thơ

Nắng vương tà áo, bóng ai dịu dàng

Tình nhân sánh bước bên nàng

Mắt chàng lấp lánh, mơ màng trao nhau.

*

Hà Nội Thu đến thật mau

Sương giăng phố cổ, nhịp cầu nhớ thương

Ai qua bỗng thấy vấn vương

Hồ Gươm gợi nhớ, khói sương mơ màng

*

Hà Nội Thu đẹp dịu dàng

Hàng cây ngả bóng in ngang mặt hồ

Ai về lạc giữa sương mờ

Tình yêu kết nụ hẹn thề trăm năm.

*

Tuyết Nhung

Mùa Thu 2024

*

THU HÀ NỘI (2)

Là Bàng Thu đỏ thắm tươi

Heo may gió thổi tóc vời tơ bay

Bên hồ thiếu nữ vai gầy

Dáng nghiêng nghiêng bóng, hồn đầy nhớ thương.

*

Mắt xanh gợn sóng hồ Gươm

Tương tư vọng lại nẻo đường năm xưa

Thu về hoa nắng vàng thưa

Phố nghiêng nghiêng bóng mặt hồ lăn tăn.

*

Bâng khuâng giữa chốn ngại ngần

Người đi để lại muôn lần nhớ ai

Hàng cây lay lắt thở dài

Nghe hồn thổn thức qua rồi bao Thu!

*

Tuyết Nhung

Mùa thu Hà Nội 2024

***

NHỚ VỀ MÙA THU HÀ NỘI

Mỗi độ Thu về, Hà Nội như khoác lên mình một tấm áo mới, vừa dịu dàng, xinh đẹp, vừa man mác buồn.

Trên những con phố cổ, những cây bàng lá bắt đầu chuyển màu. Những tàn lá xanh của những ngày hè rực rỡ giờ chuyển sang màu vàng, màu đỏ rơi lả tả theo từng cơn gió nhẹ. Mỗi chiếc lá rơi xuống mặt đường như đánh thức lòng người đi ngang, gợi lên một chút bâng khuâng, một chút hoài niệm về quá khứ.

Gió heo may se lạnh, khẽ luồn qua mái tóc, thổi tung vài sợi tơ mềm của thiếu nữ dạo chơi bên hồ. Hồ Gươm, Hồ Tây, hay hồ Trúc Bạch… những ngày này đều mang vẻ đẹp trầm lắng. Mặt nước gợn sóng lăn tăn, phản chiếu bầu trời xanh ngắt và những hàng cây soi bóng xuống mặt hồ, làm khung cảnh càng trở nên mơ màng, tĩnh lặng, và rất trử tình.

Giữa khung cảnh ấy, có một bóng hồng đứng lặng yên bên bờ hồ, ánh mắt nàng xa xăm như đang tìm về những kỷ niệm đã qua.

Bóng dáng mảnh mai trong bộ cánh màu vàng hoàng yến thướt tha của nàng, một người về từ nơi xa xứ, hoà nhập cùng sắc Thu, khiến người ta cảm giác như Hà Nội không chỉ là Mùa Thu, mà còn là một nỗi nhớ, một nỗi buồn man mác, của mối tình chưa trọn vẹn…

Thu Hà Nội không ồn ào, không rực rỡ quá mức, nhưng có hồn và một sức hút đặc biệt. Đó là sự giao hòa giữa trời và đất, giữa thiên nhiên và con người, khiến cho bất cứ ai đã từng đi qua mùa Thu nơi đây đều mang trong lòng một ký ức khó phai.  Cho nên, Thu Hà Nội đã từng gợi hứng cho nhiều thi nhân mang Thu vào Thơ và để lại cho đời những thi phẩm trác tuyệt.

Thân kính chào Quý vị, và chúc Quý Vị có một Mùa Thu tràn đầy sức sống trong Mùa Thu 2025!

Thân ái

Tuyết Nhung

Hà Nội mùa thu 2024

HOÀNG HÔN DẦN BUÔNG

Đỗ Dung

Buổi sáng bà Giáo thức dậy vươn vai. Nhẹ nhàng ngồi bên mép giường, khoắng chân xuống sàn nhà tìm đôi giép.  Ngồi yên một lúc bà mới từ từ đứng lên, kéo màn, mở tung cửa sổ nhìn ra vườn sau.  Bà mỉm cười, nhớ lại một buổi sáng khi bà thức giấc,  bà ngồi bật dậy xỏ chân vào giép, định chạy ngay vào nhà vệ sinh như thường lệ thì đầu óc choáng váng, vạn vật quay cuồng và bà ngã bật ngửa, đầu đập mạnh xuống người ông chồng đang còn nằm kéo gỗ kế bên, khiến ông giật bắn mình:

_ Cái gì vậy? Cái gì vậy?  Mẹ có sao không?

_Mẹ chóng mặt quá bố ơi… Mọi vật quay cuồng, mẹ ngã ngửa, đập đầu mạnh vào người bố đó!

_Thôi chết, mẹ bị vertigo rồi!  Nằm im một lúc, thở đều cho hết chóng mặt rồi hãy ngồi lên!

Sợ quá, bà hỏi thăm bạn bè và chịu khó tập theo phương pháp của chị TH và TD chỉ dẫn thì may quá, sau vài tuần thấy bịnh chóng mặt hết hẳn!  Từ đó mỗi buổi sáng bà đã chịu nghe lời ông, làm gì cũng phải thật từ từ, không vội vàng, hấp tấp nữa.

Trời đã cuối hạ, những ngày nắng gắt đã qua, vạt nắng vàng đã dịu dàng, gió chớm thu đã nhè nhẹ, hiu hiu.  Nhìn ra vườn sau, rặng sồi già vươn những cành lá cao to in trên nền trời xanh trong mà đôi khi bà đã tưởng tượng như có các đạo sĩ hay cao thủ võ lâm đang bay qua bay lại rồi ngồi trên những chạc cây to đàm đạo như trong tiểu thuyết kiếm hiệp.  Ông lại quý cụ sồi to nhất, già hơn năm trăm tuổi. Theo ông những cây sồi lão chứa những năng lượng mạnh mẽ, trong lành từ thiên nhiên nên ông hay ngồi ngay gốc cây để hưởng những năng lượng quý báu từ cụ toả ra.

Mùi cà phê thơm ngát.  Tiếng ông từ nhà ngoài vọng vào:

_ Mẹ dậy rồi à?  Cà phê xong rồi đây!

Cả hai cùng làm những động tác thể thao buổi sáng cho giãn gân cốt rồi ngồi đối diện nhau bên chiếc bàn tròn nhỏ, hai tách cà phê nóng và hai bát miến gà còn bốc khói.  Hai già mỗi người uống một vốc thuốc rồi bắt đầu điểm tâm.

Ông khen:

_ Sáng nay có miến gà.  Ngon qúa!

Bà nháy mắt, nói đùa:

_Mẹ hóa phép mà!

Tối qua trước khi đi ngủ bà đã lấy sẵn miếng lườn gà trong tủ đông ra để trong hộp trên bàn bếp, ngâm một ít nấm mèo và thái hành ngò sẵn sàng.  Khi ông bận trong nhà tắm thì bà chỉ mở một lon chicken broth, luộc miếng thịt gà, ngâm tí miến là xong ngay.

Hai ông bà vừa ăn vừa nghe tin tức thời sự trong ngày qua những Youtube.  Vừa xong “Đầu Ghềnh Cuối Bãi” thì cũng vừa xong bữa sáng.  Hai già chia tay mỗi người riêng một góc trời.

Ông giắt con chó Chandler ra vườn sau chạy nhẩy, chơi đùa với nó trong sân cỏ, khi mệt thì ngồi nghe tiếp tin tức hoặc những truyện đọc qua Ipad rồi ngồi cạnh gốc sồi chơi Sudoku. 

Bà dọn dẹp trong nhà một lúc rồi vào computer lướt mạng. Trong không gian yên lặng, một mình một cõi, thỉnh thoảng hồn lên chơi vơi, bà nhớ về thuở xa xưa, những ngày hoa mộng của một thời con gái; nhớ những tháng ngày cực nhọc, vất vả sau ngày mất nước; cuộc đời chông gai, lên bổng xuống trầm. Ngày xưa ấy có bao giờ bà nghĩ đến lúc này, một bà già đầu tóc bạc phơ, sắp thành bà lão tám bó!

Bà nhớ bầy cháu nội ngoại sáu đứa mà ông bà trông nom chăm sóc từ lúc chúng ra đời đến khi khôn lớn, vững vàng ông bà mới buông. Ba thằng cháu ngoại Kobe, Carter đã trưởng thành, có công việc ở tiểu bang xa từ mấy năm nay, Logan cũng đã là sinh viên năm thứ hai Đại Học SanDiego.  Michelle, cháu nội gái độc nhất hết hè đã lên năm thứ ba ở UC Irvine, hai thằng em  Kenneth, Ethan cũng chỉ một, hai năm nữa lên Đại Học, sẽ chắp cánh bay xa.

Nhìn các cháu bà mới nhận rõ là mình già!

Những lần bà đi họp hội cựu nữ sinh trung học, gặp gỡ bạn xưa, bạn của một thời, bạn một đời.  Thật vui khi nghe những chuyện tốt lành, bạn bè gặt hái những thành công; nhưng cũng thật bùi ngùi khi nghe những chuyện buồn cũng như những trắc trở không may cuả vài bạn.  Bà đã cảm nhận lứa của bà như những chiếc lá mùa thu đang rực rỡ trên cành của một cây cổ thụ, lác đác vài chiếc lá rồi lần lượt tiếp theo, những chiếc lá đã bay xa. Lá rụng từ từ rồi đến cuối thu, một cơn gió thổi mạnh là cả đám lá vàng sẽ cuốn theo chiều gió.  Bà bất giác thở dài.

Nhìn ra vườn sau ông đang nằm trên chiếc ghế bố ngước nhìn trời cao, chả hiểu ông đang nghĩ gì.  Liếc nhìn đồng hồ đã hơn bốn giờ.  Bà vào bếp soạn bữa ăn chiều, sẵn còn nồi thịt kho bà bóc mấy lá bắp cải rửa sẵn sàng, lát nữa chỉ lấy thêm hai quả trứng bỏ vào luộc chung với bắp cải là có ngay đĩa thịt kho bên cạnh đĩa bắp cải luộc chấm nước thịt kho dầm trứng với bát nước rau luộc là xong. Cơm bà nấu một tuần hai lần thôi, để sẵn trong hộp cất tủ lạnh, khi ăn thì lấy ra hâm trong lò vi sóng cho nóng.

Một ngày ông bà chỉ ăn hai bữa, sáng khoảng chín giờ.  Chiều khoảng sáu đến bẩy giờ, khỏi ăn trưa.

Bà sửa soạn ra vườn:

_Bố, nông dân đến giờ đồng áng!

Ông nhỏm dậy đi lấy vòi nước tưới cây một vòng từ trong ra ngoài.  Bà xách xô đựng đồ nghề, một cái bay, một cái kéo, một cây kềm cắt cây, thêm một cái ghế đẩu và một cái rổ.  Bà săn sóc vườn rau thơm và hành lá, cắt bỏ lá héo, tỉa bớt cành già và thâu hoạch một mớ rau tươi.  Năm nay các cháu đã bán xe của bố, không cho bố mẹ lái xe nữa sợ nguy hiểm nên ông bà không có phương tiện đi mua hoa mới và cây mới trồng thêm như mọi năm, có gì thì trồng nấy.  Mỗi khi đi ăn phở bà lại nhặt nhạnh những cành húng về giâm, một bà bạn thương tình cho một cây tiá tô lão, cao hơn hai gang tay.  Thế mà bây giờ bà đã gây được một chậu tía tô và một chậu húng quế rậm rạp. Rau răm và húng lủi còn sót lại từ năm cũ mọc lại mạnh mẽ đầy hai bồn bự.  Xả cũng ra đầy chậu to.  Hành lá thì ra nhiều quá, ăn không kịp, bà phải cắt ra cất vào hộp kín bỏ vào tủ lạnh, bà cũng thái nhỏ bỏ vào vài hộp cất trong tủ đông.

Xong công việc đồng áng ông bà đến giờ tập Dịch Cân Kinh, ông một góc, bà một góc, cùng nhau vẫy đến đủ một ngàn cái thì ngồi bên chiếc bàn nhỏ bên hông nhà, xoa bóp chân tay.

Trong không gian êm ả của buổi chiều rơi xuống thật êm đềm.  Ông bà ngồi bên nhau với tâm thanh thản, hạnh phúc thật an nhiên. Ông bà đã hiểu lẽ trời, những điều nhân quả, những lẽ vô thường.  Bà không còn oán than trời đất, buồn phiền vì những éo le trong cuộc sống; không còn so sánh với bạn bè, với chị em để buồn tủi với những đắng cay, nghiệt ngã của đời mình.

Quá khứ đã qua đi, không tiếc thương, không hờn dỗi, không hậm hực, oán trách nữa. Hiện tại còn đây, các con trai gái, dâu rể hiếu đễ.  Các cháu yêu thương gần gũi ông bà. Hai ông bà già còn có nhau. Đôi khi “cẩm chướng” cũng tưng bừng nở rộ nhưng nhìn đi, nghĩ lại “đôi ta cùng cẩm chướng” nên lại cười xoà và dùng đó để trêu ghẹo nhau làm vui.  Biết chọn những gì tốt đẹp, lạc quan và bỏ đi những khía cạnh bi quan hay những mặt xấu của cuộc đời.

Cuộc sống của ông bà bây giờ giản dị.  Ăn uống đạm bạc, thì giờ nhàn rỗi.  Mỗi người đều có thú vui riêng.  Ông đọc sách, chạy chơi, đùa giỡn với “thằng cháu chó” và xem những chương trình, những game vận động trí óc qua TV.  Bà  tha hồ muốn làm gì thì làm, viết văn, vẽ vời, đùa vui với con cháu.  Thích thì làm không bị bó buộc về thời gian hay bất cứ điều gì tự tạo ra để ràng buộc mình như ngày xưa.  Ông bà ung dung an hưởng những ngày trời cho còn lại bên nhau trong TUỔI HOÀNG HÔN CỦA CUỘC ĐỜI với tâm hồn thật thanh thản.

Đo Dung

Tìm Mây
Đỗ Dung

Trời cuối thu, những chiếc lá vàng bay lượn trên không rồi từ từ thả mình xuống
mặt đất. Thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ lướt qua, đám lá trên cành lao xao và khi
trời lộng gió từng đám lá lià cành tung mình khắp không trung. Cảnh đẹp như
tranh vẽ. Chỉ vài ngày nữa thôi, chiếc lá cuối cùng rụng xuống, cây sẽ chỉ còn
những cành trơ trụi, khẳng khiu.
Bà bước ra khu vườn nhỏ, lững thững đặt chân trên thảm lá vàng, những chiếc lá
khô như vỡ vụn dưới từng bước chân. Không gian tĩnh lặng, êm đềm. Bà hít thật
sâu, thở ra thật nhẹ. Bà đếm từng hơi thở, chú tâm đến từng bước chân đi, đầu
óc nhẹ nhàng, tâm hồn thanh thản. Cứ lẳng lặng như thế cho đến lúc thấm mệt
bà ngả người trên chiếc võng ngước nhìn lên trời cao tìm mây. Trời xám buồn, chỉ
có vài quầng mây mỏng, ửng nắng.
Như vòng xoay của tạo hoá, một năm có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Một ngày
có bốn buổi: Sáng, trưa, chiều, tối. Bà đang ở vào giai đoạn cuối của cuộc đời:
Buổi tàn thu hay lúc chiều tà chạng vạng.

  • Bà ơi, tôi đi đây!
    Tiếng ông từ trong nhà vọng ra. Bà nhỏm dậy định bước vào. Ông như biết ý nói
    thêm:
  • Tôi thấy giỏ đồ ăn bà sắp sẵn đây rồi. Cứ ở ngoài đó đi, tôi tự đóng cửa
    được mà.
  • Ờ, trời lạnh, khi cho chúng nó ăn ông nhớ bỏ vào “microwave” hâm nóng.
    Mỗi hộp chỉ cần bốn mươi giây là đủ ấm, vừa ăn đó nha!
  • Nhớ rồi, cứ ở đó đi, khi thấy lạnh bà phải nhớ vào nhà. Tôi đi!
    Chả là mỗi ngày, cỡ hai giờ chiều ông sang nhà con trai cũng ở gần, cách khoảng
    mười phút lái xe. Đợi các cháu đi học về, ông trông cho chúng nó làm bài vở, cho
    chúng ăn uống rồi ông ngồi chơi cho có người lớn trong nhà. Đợi đến khi bố mẹ
    chúng nó về thì ông từ giã. Hôm nào có giờ bơi lội hay học đàn, tập võ, ông chở
    luôn cả đám trẻ đi. Và lúc ông sửa soạn ra đi thì bà luôn lăng xăng bên ông, tiễn
    ông ra tới ngoài đường mới quay vào đóng cửa nhà xe.

Hồi còn ở nhà cũ bên tiểu bang Texas, khi đã về hưu ông vẫn có thói quen mỗi
ngày phải lái xe ra khu chợ Việt Nam gặp mấy ông bạn già, chỉ để ngồi bên tách cà
phê chuyện gẫu, hết chuyện nước non nhà lại đến chuyện nhân tình thế thái.
Hình như các ông không thể ngồi nhà cả ngày. Hễ hôm nào biếng đi là y như rằng
không nhức đầu cũng cảm mạo, ho hắng. Bà chỉ thích quanh quẩn trong nhà, thu
xếp dọn dẹp rồi ra cắt tiả ngoài vườn. Bà chơi với vườn rau, vườn hoa của bà cả
ngày không biết chán. Thêm nữa bà có nhiều thú vui khác như sơn phết, trang
hoàng nhà cửa, may vá, viết văn, đọc sách, nghe nhạc… Đôi khi bà thấy một ngày
có hai mươi tư tiếng với bà không đủ. Mặc dù vậy bà vẫn dành những phút thả
hồn theo những cụm mây trắng lang thang, bềnh bồng phiêu lãng.
Ông bà có hai người con, một gái một trai, xong trung học cả hai đều được nhận
vào trường đại học Berkely, California. Khi ra trường cả hai đều gặp được người ý
hợp tâm đầu, lại được công việc tốt nên lập nghiệp bên ấy. Khi ông bà về hưu đã
có hai thằng cháu ngoại, cậu con trai cũng lập gia đình rồi. Cả hai đều có nhà
riêng.
Cuộc sống hưu trí của hai vợ chồng già êm ả trôi cho đến ngày nghe tin con trai
sắp có con đầu lòng, bà bàn với ông:

  • Mình dọn nhà về ở gần các con được không ông?
    Ông còn ngần ngừ:
  • Chúng nó có cần không mà về? Nhà Cali đắt đỏ, sao mình mua nổi? Đang ở
    bên này nhà cửa rộng rãi, thoải mái!
    Như có thần giao cách cảm, cô con gái điện thoại sang thủ thỉ với mẹ:
  • Mẹ ơi, bố mẹ sắp có cháu nội. Bố mẹ thu xếp sang ở gần chúng con. Bố mẹ
    ngày một già, có chuyện gì chúng con ở gần vẫn dễ hơn. Bây giờ đứa nào
    gia đình cũng đùm đề. Bố mẹ ở xa chúng con cũng khó thăm viếng. Vả lại
    các cháu cũng cần nhờ ông bà trông nom, dậy dỗ.
    Khi các bà bạn nghe nói ông bà có ý định dọn về Cali, ở gần con để trông cháu, có
    bà đã nói:
  • Cẩn thận nghe bà, đừng mắc bẫy chúng nó. Khi cần thì nói ngon nói ngọt.
    Khi hết cần thì chúng sẽ có cả ngàn lý do để quét mình đi thẳng cánh. Già
    rồi, hãy lo cho thân mình đi.

Bà bạn già khác cũng nhắn nhủ:

  • Cô đừng tưởng không có mình trái đất sẽ ngừng quay. Không có cô mọi việc
    cũng sẽ đâu vào đấy. Hồi chúng mình mới sang đây, có nội ngoại nào ở gần
    đâu, vậy mà chúng nó cũng nên người đó thôi. Việc chính là hai vợ chồng
    già phải lo cho nhau. Khi rảnh rỗi thì đi chơi chứ vướng cháu thì chả còn đi
    đâu được nữa.
  • Mẹ chồng nàng dâu là truyện truyền kiếp, từ xưa đến nay, từ Âu sang Á. Bà
    hãy nghĩ cho kỹ trước khi quyết định. Đừng để mắc vào cảnh dở khóc dở
    cười. Nhất là đừng ở chung, phức tạp lắm.
  • ………..
    Những lời dặn dò cũng khiến bà nao núng. Những kinh nghiệm và hoàn cảnh đau
    thương cuả những người quen mà bà chứng kiến cũng khiến bà ngại ngùng. Bà
    nhớ ngày xưa ấy, buổi tối trước ngày bà lên xe hoa, mẹ bà đã dặn dò con gái về
    nhà chồng phải nhớ chữ nhẫn nhịn và trong đời cứ đối xử tốt sẽ gặp hay. Cứ ăn ở
    cho đầy đượm, hết lòng, cho phải đạo làm người. Gieo nhân lành sẽ gặp quả
    tốt… Bà đã về nhà chồng với niềm tin phơi phới, với hành trang là trái tim đầy ắp
    yêu thương. Tình thương bà sẵn sàng cho đi trước để mong được nhận lại.
    Nhưng thực tế đã khiến bà ngỡ ngàng, những đối xử khó khăn của mẹ chồng làm
    bà không hiểu nổi, chỉ biết im lặng chịu đựng. Cuối cùng nhân lành của bà gieo
    cũng nhận được quả ngọt. Những năm tháng về sau hai mẹ con đã thông cảm
    nhau hơn, thương yêu nhau hơn, nhất là những ngày sau biến cố Tháng Tư năm
    bẩy lăm. Trong phút lâm chung cụ đã nắm tay bà mà nói: “ Bỏ qua nhé, bỏ qua hết
    nhé… Mẹ sẽ phù hộ cho các con, mẹ sẽ phù hộ cho các cháu…”. Khi đi vượt biên,
    lúc nào bà cũng cảm thấy như có cụ ở kế bên. Nguy hiểm nào cũng như được cụ
    phù hộ để vượt qua.
    Bây giờ bà là mẹ chồng và có nàng dâu. Bà tâm niệm rằng sẽ yêu thương dâu, rể
    hết lòng để lịch sử không hay về mẹ chồng nàng dâu không tái diễn. Lịch sử phải
    sang trang!
    Cô con dâu phải sinh mổ nên đã chọn ngày. Bà sắp sẵn công việc để sang Cali
    trước ngày sanh cháu. Bà muốn là người đầu tiên ôm cháu nội vào lòng như
    trước kia bà đã vào phòng sanh với con gái và là người thân đầu tiên bế thằng
    cháu ngoại. Con bé thật xinh, đôi mắt tròn to, vầng trán cao thông minh. Ôm con
    bé vào lòng mà bà sung sướng ngất ngây, niềm yêu thương dào dạt. Bà gửi hình

cho ông và báo cho ông biết là bà sẽ ở lại chơi với cháu, trông nom mẹ con nó cho
đến khi đầy tháng bà mới về. Ông biết là ông lại bị bà bỏ rơi như khi bà sang chăm
lo cho thằng cháu ngoại.
Một tháng nuôi gái đẻ bà đã lo lắng chu toàn như mẹ đẻ lo cho chính con gái ruột.
Cô con dâu theo kiểu xưa nên kiêng rất kỹ. Cô ở trên lầu, bếp ở nhà dưới, hàng
ngày bà phải ba bữa sửa soạn cơm nước sắp vào khay bưng lên tận phòng. Bà nấu
cơm nghệ, hầm chân giò với hạt sen, rim thịt thăn với nước mắm, hạt tiêu, thật
khô cho bà đẻ. Mỗi ngày bà lại nấu một nồi nước xông bỏ thêm vỏ bưởi, vỏ quít
để cô hơ mặt, lau mình. Bà đã làm tất cả bằng sự thương yêu, tự nguyện. Con bé
cháu thì bà vuốt ve, nắn bóp chân tay. Ầu ơ ví dầu hát ru cháu, cả ngày bà thủ thỉ
chuyện trò với con bé. Mỗi sáng bà bế nó sang giường bà phơi nắng. Những vạt
nắng vàng tươi, trong trẻo, xuyên qua cửa sổ ngay cạnh giường bà. Nắng vuốt ve,
ôm ấp cái lưng xinh xinh, bé xíu.
Sau ngày đầy tháng con bé bà trở về Texas. Bà nhớ quắt quay ba đứa cháu nội,
ngoại bên Cali. Bà nài nỉ:

  • Ông ơi, mình dọn về Cali nhá!
  • Mình đang sống yên ổn bên này. Chúng mình mỗi ngày một già, bà liệu còn
    sức mà chạy theo mấy đứa nhỏ không? Cố gắng rồi gục xuống, đau ốm lại
    khổ.
  • Đến đâu hay đến đó ông à. Mình ở đây rảnh rang, chúng nó thì bận rộn.
    Giúp cho chúng nó được lúc nào hay lúc ấy. Ông lo gì xa quá.
    Bà hạ giọng thuyết phục thêm:
  • Ông này, nhìn con bé tôi thương lắm. Hay là mình về trông cháu vài năm.
    Khi con bé biết nói thì thôi. Nghĩ đến việc mướn người hay gửi người ta
    trông tôi ngại lắm ông ạ. Nhỡ nó bị hành hạ… Nó đã biết nói đâu mà mách.
    Ông xem trên truyền hình hay trên mạng đi. Bây giờ có nhiều kẻ bịnh hoạn,
    nhiều người độc ác lắm đó ông ơi… Về nhá…!
    Ông nghe cũng hơi xiêu lòng:
  • Để tôi nói chuyện với chúng nó xem sao. Bà sửa soạn đặt vé máy bay đi. Bà
    với tôi cùng về Cali một chuyến. Tôi cũng muốn sang thăm mấy đứa cháu.
    Đi về rồi mới tính được.

Nghe nói bố mẹ sang chơi thăm thú tình hình để xem có thể dọn về không, hai
người con đều dọn dẹp một phòng riêng tươm tất ở mỗi nhà để tuỳ bố mẹ thích ở
nhà nào cũng được vì hai nhà cũng gần nhau.
Gặp mặt ba đứa trẻ ông như bị hớp hồn. Thằng cu Bi, cháu ngoại lớn, mới ngày
nào đến thăm ông, nó mới biết đi lẫm chẫm mà mỗi buổi chiều khi nghe chuông
cửa đã biết ông đi làm về để lủn tủn như con chó con vẫy đuôi chào rồi cất mũ,
cất giầy cho ông, bây giờ đã học lớp hai tiểu học. Thằng cu Tý, em nó, khi mới đẻ
nằm trong nôi cứ toét miệng cười đã sắp vào mẫu giáo. Con mé MiMi trắng trẻo,
bụ bẫm, đôi mắt tròn xoe đã biết nhìn ông hóng chuyện. Ông bà ở chơi một tuần
với con cháu, đi thăm khắp vùng xung quanh. Hai thằng cháu ngoại đưa ông bà
đến thăm ngôi trường chỉ cách nhà hơn một block. Khung cảnh quanh đó cũng
êm ả, thanh bình.
Nhà hai con ông chỉ cách nhau vài khúc rẽ. Đi bộ thì mất độ nưả giờ mà lên xe thì
không đến mười phút. Cả hai nhà đều tươm tất, sạch sẽ; vườn trước, vườn sau
rộng rãi, khang trang. Đi xem giá nhà thì quá đắt so với bên chỗ ông. Bằng căn
nhà ông đang ở thì bên này giá gấp bốn hoặc năm lần. Nếu dọn về thì đó thật là
vấn đề nan giải.
Những cặp mắt đen láy của các cháu ngước nhìn ông, những câu nói ngây thơ hồn
nhiên, những tràng cười khanh khách, giòn tan của hai thằng nhỏ quyến rũ ông,
khiến ông bà quyết định về gần chúng nó.
Những năm đầu thật hạnh phúc, đúng như ao ước của bà, nhà có già có trẻ, vui
vẻ, ấm cúng. Thoạt đầu ông bà ở nhà con trai vì bé Mimi nhỏ nhất. Bà trông nom
con bé, nấu ăn cho cả hai nhà. Mỗi buổi sáng ông xách giỏ đồ ăn bà nấu sẵn sang
nhà con gái, trông nom dậy dỗ hai thằng cháu ngoại. Được một năm cô con thèm
một đứa con gái nên ráng sanh thêm, nhưng lại ra thằng con trai nữa. Thằng bé
tuổi chó nên ông gọi là con chó Lu. Ông bà lại dọn sang nhà bé Lu vì bé nhỏ nhất.
Bé Mimi lớn hơn nên mỗi buổi sáng bố nó phải đưa sang nhà bác trước khi đi làm.
Buổi chiều mẹ nó đến đón, tiện xách cơm về luôn. Ông bà quên hết các thú vui
khác, suốt ngày chạy theo các cháu.
Ông bà như trái banh bị đá qua đá lại giữa hai nhà vì năm sau cô con dâu cũng lại
sanh thêm đứa nữa.

Thấm thoắt ông bà về Cali đã hơn mười năm, cu Bi sắp vào đại học. Nếu ở Việt
Nam thì Mimi sắp là nữ sinh Trưng Vương. Thời gian qua thật nhanh, ông bà cũng
già yếu đi nhiều. Các cháu đã lớn không cần sự săn sóc nhiều nữa, cu út cũng lên
bẩy, đã đến trường. May mắn gặp được căn nhà nhỏ vừa túi tiền, vừa với nhu
cầu nên ông bà đã ra ở riêng. Sống với con cái cũng có những đụng chạm, bà coi
như đó chỉ là những chuyện nhỏ, những suy nghĩ khác nhau cuả hai thế hệ, cung
cách sống, quan niệm về đời sống khác nhau giữa già và trẻ để giữ cho mình được
cái tâm thanh thản. Mình không biết trước được những gì xẩy ra nhưng được an
lạc hay không là do tâm mình.
Bây giờ bà đã chính thức về hưu chỉ còn ông vẫn “đi làm” ngày vài tiếng, để ông
khuây khoả, khỏi phải lái xe đi tìm bạn già chuyện gẫu. Bà cũng có một khoảng
thời gian riêng, không gian riêng của mình bà. Bà lại ngước mắt tìm mây, những
cụm mây trắng nhẹ như bông lang thang trong bầu trời, ở đó bà đã gửi gấm
những mộng mơ, lãng mạn của thời niên thiếu. Bà cũng đi tìm mây để hỏi khi
vướng phải những trắc trở, chông gai. Bà đã biết chấp nhận những đau khổ, đã
tìm ra những khiá cạnh lạc quan của sự việc và cho rằng đó chỉ là những thử thách
nên mọi chuyện cũng thoáng qua, nhẹ bay đi như những làn mây trắng.
Thu tàn trời sẽ sang đông. Mỗi muà đều có những vẻ đẹp riêng. Hết muà đông
cây cối sẽ đâm chồi nẩy lộc. Xuân về với những chùm Wisteria tím rung rinh trong
nắng. Muôn hoa sẽ khoe sắc, toả hương. Buổi sáng ông bà sẽ cùng đi bộ trên
những con đường có hai rặng anh đào hồng thắm, những rặng Dogwood trắng
muốt tinh khôi. Mây trắng trên cao vẫn lờ lững theo bà. Chim chóc ríu ríu hát ca.
Cảnh thiên nhiên khiến bà ngất ngây. Bà muốn ôm hết vũ trụ này, lòng bà ngập
tràn hạnh phúc.

Đỗ Dung

THƠ ĐƯỜNG XƯỚNG HỌA: NGUYỄN HUY KHÔI &

Thi Nhân VTLV Cùng Thân Hữu

GỬI CỐ NHÂN – MIỀN VIỄN XỨNGUYỄN HUY KHÔI

NHƯ THU (HỌA)

GỬI CỐ NHÂNMIỀN VIỄN XỨ

(Xướng)

Dốc hũ Quỳnh Tương buổi biệt ly,

Men nồng tửu đắng lệ lòa mi !

Tâm lương gắn kết tình thi hữu,

Tuệ khí giao hòa nghĩa cố tri.

Xa ngái Biên Khu sầu Nhạn lạc,

Tuyệt mù Quan Ải xót Câu phi !

Cho dù sương tuyết đông hàn giá

Vẫn nhủ lòng nhau giữ ngãi nghì !

                                20-9-2025

                         Nguyễn Huy Khôi

***

THU VỀ GỢI NHỚ

(Họa)

Thu vàng gợi nhớ buổi chia ly

Ngắm lá thay màu rũ nét mi

Hẳn kẻ năm châu đều thấu rõ

Và người bốn bể thảy tường tri

Quê cha rời bỏ chùn chân bước

Đất Tổ xa lìa sững cánh phi

Đau đáu chờ mong ngày trở lại

Hằn sâu tâm khảm… bất tư nghì!

Phương Hoa – SEP 19, 2025

***

***

NHỚ VỀ CỐ LÝ

           cmn

Vạn dặm vơi đầy rượu cạn ly

Từ phen lệ xót dưới hàng mi

Cố hương đôi lúc như tương kiến

Cựu cảm nhiều khi tưởng hỗ tri

Tuổi trẻ có thời cung kiếm mỏi

Lão phu quên thủa ngựa xe phi

Tấc lòng se sắt bên trời gió

Khói lửa hoàng hôn cuốn bất nghì …

           Utah 20 – 9 – 2025

               CAO MỴ NHÂN

***

TRÁCH BẠN

Lòng buồn dằng dặc phút chia ly

Lệ thảm dâng sầu ướt đẫm mi

Khắn khít keo sơn niềm hạnh ngộ

Mặn nồng đằm thắm nghĩa tương tri

Đinh ninh tình cảm dường non trụ

Mặc kệ tháng ngày tựa ngựa phi

Mười mấy năm qua cùng gắn bó

Thế mà bỗng chốc nhạt tâm nghì.

Sông Thu

(21/09/2025 )

***

**

*VƯỜN NHẠC THU PhamPhanLang

1)- KHÚC TÌNH LƠI – Nhạc Mai Hoài Thu – Thơ PhamPhanLang – Tiếng hát Thanh Lan – Đệm đàn Đàm Hà

KHÚC TÌNH LƠI

Lá rơi rơi mãi ở lưng đồi
Chao xuống hồn nghiêng tim lẻ loi
Ôi thu diễm tuyệt thu say đắm
Ngây ngất môi buồn mộng chơi vơi


Một áng mây chiều trôi lờ lững
Xin hãy đưa ta đến góc trời
Nơi ấy thu vàng thu rực rỡ
Có người mắt nhắm chốn xa xôi.


Ơ kìa một cánh chim đơn lẻ
Chao xuống bên đời mắt chơi vơi
Thu mộng sắc màu thu bảng lảng
Có người ngồi nắn khúc tình lơi…

PhamPhanLang

***

2)- THU HẢI ĐẢO (Thơ PhamPhanLang. Nhạc Vĩnh Điện) Đông Nguyễn

THU HẢI ĐẢO

Thu đã về rồi ai có hay
Tôi ở nơi đây những tháng ngày
Thu về không sắc không se lạnh
Hải đảo nắng vàng mây trắng bay


Nhớ lắm mùa thu ngập lá vàng
Ngẩn ngơ trong gió chuyển mùa sang
Tôi thường đi mãi trong rừng vắng
Nhặt lá thu bay tưởng đến chàng


Nhưng mùa thu ấy không còn nữa
Hải đảo nơi này không dáng thu
Muốn tìm một chút hương thu cũ
Chỉ thấy non cao phủ sương mù…

PhamPhanLang

**

3)- Vân Khánh: TIẾNG THU – Nhạc: Mai Hoài Thu – Thơ: PhamPhanLang

**

TIẾNG THU

Lá thu vàng thẫm đất trời
Mùi hương của gió làm tôi nhớ chàng
Mỗi năm cứ độ thu sang
Tôi đi ngơ ngẩn giữa hàng phong thu


Tìm anh lãng đãng sương mù
Lắng nghe lá rụng như ru cõi nào
Anh ơi giờ ở nơi nao?
Thong dong nhàn nhã bên hào sậy lau?


Hay anh phiêu bạt về đâu?
Có còn nhớ đến mưa ngâu chốn này?
Vàng thu ngắm lá thu bay
Nhớ anh nhớ quá lệ cay ngậm ngùi


Từ anh vĩnh biệt nói cười
Trăng không sáng tỏ đất trời âm u
Xa xa trong cõi mịt mù
Thoảng như vọng lại tiếng thu ru hời…

PhamPhanLang

**

4)- THU MỘNG -Thơ phamphanlang -Nhạc Mộc Thiêng -Ca sĩ Hoàng Quân

**

THU MỘNG

Ta đến bên thu nghe gió lạnh
Nhìn mây lờ lững giọt chiều rơi
Tâm tư mộng tưởng hồn như thoát
Nghe tiếng ai về nhịp bước lơi


Khe khẽ xin đừng lay động gió
Để ta níu hái cánh mây trời
Mắt ai êm ái trong như ngọc
Ôm trọn hồn ta mộng chơi vơi


Choàng tỉnh tìm xem người vẫn đó
Không gian lạnh vắng lá vàng rơi
Lá vàng rơi mãi ta ngồi khóc
Người đã đi rồi thu lẻ loi….

PhamPhanLang

**


5)- THU HỜ HỮNG (Thơ : Pham Phan Lang. Nhạc : Vĩnh Điện) Ngọc Quy

**

THU HỜ HỮNG

Nắng đi chiều ở lại
Ta đứng mãi bên sông
Canh chừng con nước chảy
Nhìn thu rơi xuôi dòng


Nhớ những chiều gió lộng
Lá vàng rụng đầy sông
Con đò neo bến đợi
Biết người có về không?


Bao thu qua hờ hững
Đò xưa đã sang sông
Dòng sông càng thêm rộng
Cõi lòng vẫn nhớ mong


Thu này bao thu nữa?
Người sẽ về ngang sông?
Lá vàng ơi thôi rụng
Để má thắm còn hồng…

PhamPhanLang

NHỮNG BÀI THƠ THU CỦA THI NHÂN MẶC KHÁCH

LỆ BÚT

Bao mùa lá rụng mỗi Thu sang

Thoáng đã qua mau chợt ngỡ ngàng

Nhớ mãi luyến lưu buồn giã biệt

Đâu ngờ đôi ngã khóc ly tan

Em đi…vui với đời hoa gấm

Anh vẫn…áo tù cảnh xốn xang

Đói, lạnh mưa rơi lòng trống vắng

Mượn Thơ lưu bút lệ dâng tràn…

MẶC KHÁCH

**

THU HIU HẮT

U Minh buồn một chiều Thu phai nắng

Bước chân Em thoăn thoắt giữa đồng hoang

Anh nghe như ai giẫm nát linh hồn

Em run sợ bóng chiều buông hoang vắng

Nhanh lên Em, hòang hôn đang tắt nắng

Rừng chuyển mình, gió lộng cảnh đìu hiu

Em về mau kẻo lỡ chuyến đò chiều

Anh lo ngại đường xa đầy bất trắc

Nhìn theo Em…vòng kẽm gai, se thắt

Xót xa lòng nhớ mãi dáng Em thơ

Em trở về cô lạnh nét bơ phờ

Anh đứng lặng …cõi lòng nghe tan nát

Trăng Thu lạnh, nhạt nhòa đêm ngơ ngác

Muôn hồn ma tức tưởi khóc âm thầm

Lá vàng rơi phủ kín kiếp tù nhân

Em đã hiểu ! Thu về sao HIU HẮT?!

MẶC KHÁCH (1980)

**

           MÙA THU và THI NHÂN

             Thu về ấm áp làn hương

      Muôn hoa đua nở yêu thương mong chờ

             Dường như ấp ủ tình thơ

      Gió mùa êm ả đêm mơ ngỡ ngàng

             Lắng nghe nhẹ bước Thu sang

     Xôn xao con phố rộn ràng Thi nhân

            Trăng Thu e ấp bâng khuâng

     Tình Thu âu yếm lâng lâng dịu dàng

            Thu đi sao nỡ vội vàng

     Tâm tư khép mở dở dang ý tình

             Mùa Thu tình tứ đẹp xinh

     Buồn chi khép lại cho tình dâng cao

             Hồn Thu tựa ánh trăng sao

      Hương Thu dịu vợi sắc mầu dấu yêu

            Yêu Thu thương cả những chiều

     Êm như gió thoảng mỹ miều dáng Thu!

           Tìm đâu hương vị thuở nào

    Nhìn nhau cũng đủ xuyến xao tâm hồn  

            Đêm Thu đọng giữa môi hôn

Trăng Thu đồng lõa đêm còn nhẫn nha …

      Mặc khách

CHIM ĐẦU ĐÀN

Chúc mừng Lạc Việt dón Thu sang

Tà áo hương bay dáng dịu dàng

Rộn rã nàng Thơ khoe bút ngọc

Âm thầm lữ khách tiếc cành vàng

Văn chương trầm bỗng đời thêm sắc

Thi phú du dương tận Đại ngàn

Năm ấy người xưa*  lòng chạnh nhớ

Thời gian hờ hững bóng dần tan

 MẶC KHÁCH

( *Vts Chinh Nguyen )

***

ĐÓN THU

Lặng lẽ Quê Người đón lá phong

Thỏang nghe hương tỏa đóa Lan Hồng

Ngọt ngào sương ngậm còn e ấp

Rực rỡ đêm về vẫn đợi trông

Mặc Khách bâng khuâng tơ tưởng nhớ

Tao Nhân xao xuyến dạ chờ mong

Thu sang thôi hãy vui giây lát

Đừng để buồn vương se sắt lòng ?!

Mặc Khách

***

THU MƠ (Bài họa)

Lặng đứng bên rừng Thu lá phong,

Ngất say giữa sắc đỏ chen hồng.

Lung linh dải nắng khom mình ngó,

Lộng lẫy cây ngàn ngửa mặt trông.

Mây lướt rộn ràng khơi nỗi nhớ,

Gió lùa ríu rít gợi niềm mong.

Thu mang nét đẹp cho trần thế,

Xui khiến thi nhân nao nức lòng…

Thu T.10-2012

***

THU VỀ (Bài họa)

Thu về Trung Mỹ đón nam phong

Ngây ngất hương thơm tỏa dậu Hồng

Mặc khách đê mê lòng ngóng đợi

Giai nhân bẻn lẻn dạ chờ trông

Trộm nhìn âu yếm hồn chất ngất

Thầm liếc lả lơi tình nhớ mong

Tưởng nhớ thu sang ngày tháng cũ

Người đi kẻ ở vấn vương lòng ?!

Kim Hương (Costa Rica 29-10-2012)

***

THU VẮNG (Bài họa)

Đất khách mưa rơi ngợp lá phong.

Sắc bay vàng –tím- đỏ -cam- hồng…

Nhà rung bảo giật ,người sơ tán

Đêm vắng mưa giầm, mắt ngóng trông.

Lảng đảng thơ xưa, còn xướng họa.

Âm thầm bạn cũ vẫn chờ mong.

Quê nhà thu đến buôn vui nhỉ.

Thầm hỏi thi nhân có bận lòng.

Lam Điền NT

(Viết trong ngày bảo Sandy miền Đông Bắc Hoa Kỳ. Và bảo số 8 Sơn Tinh tại VN 30/10/2012)

***

THU ĐỢI (Bài họa )

Lá vàng rơi rắc quyện Thu phong

Quanh khóm vườn lan chớm nụ hồng

Nhớ tới bóng Ai mà mỏi ngóng

Thương về đất Mẹ những mòn trông

Niềm tin canh cánh bằng nung nấu

Tình ái mơ màng chút đợi mong

Hẳn biết đón chờ đầy ước vong

An vui sâu lắng đọng trong lòng

Tố Nguyễn, San Jose 30/10/2012

***

Một mình nhặt lá dưới vi phong

Trong mưa cành lan ửng chút hồng

Cú ngỡ bên lá vàng trông ngóng

Người trai Lính Chiến thỏa ước mong

Lời nguyện hôm nào còn hun đúc

Thôi thúc người em nhỏ đợi trong

Được một ước mơ trong thương vọng

Vóng tay người lính mãi bên lòng…

Hoàng Lan

**

Lá vàng rực rỡ gió reo phong

Từng chiếc thu sang tựa cánh hồng

Mòn mõi chờ ai trên bến lạ

Con đò thấp thoáng vẫn chờ trông

Người đi biền biệt phương trời đó

Có biết nơi này dạ nhớ mong

Ngày đó chia tay tiếc nuối quá

Thôi đành chôn kính ở trong lòng

Hoa Thông NM, 31-10-2012

***

Quê người se sắt trận thu phong,

Rơi lá vàng luôn rụng lá hồng.

Trống trải cuộc đời đau đớn hận,

Ngùi thương đất mẹ mõi mòn trông.

Ngọn cờ dân chủ người đang đợi,

Câu hát nhân quyền dân mãi trông.

Đất khách thân già còm cõi mộng…

Không buồn sao được thiết tha lòng !

Liêu Xuyên

***

Hạ chưa đi hết đã thu phong

Phương nhớ xa xôi cánh hạc hồng

Bay bổng đêm sương sao xuyến gọi

La đà ngày muộn thiết tha trông

Hương cau thấp thoáng niềm hy vọng

Ly rượu vơi đầy nỗi ước mong

Mùa sẽ vàng thêm bao chiếc lá

Tao nhân hoà mực thả tơ lòng…

 Hawthorne 18 – 02–2019      

CAO MỴ NHÂN

                    (Họa 4 vận)

Bừng thức mùa về – Thu rước sang

Văn Thơ Lạc Việt thỏa sang trang

Lời trao đơm nụ bừng hoa trắng

Bút vẫy khai bông ngợp nắng vàng

Hương tỏa ngạt ngào tràn hải địa

Mạch khơi lai láng ngập non ngàn!

Giao lưu bằng hữu phiêu hồn cảm

Mở sáng bình minh, Hội khó tan!

                      Nguyễn Huy Khôi

                            5-10-2025

**

Vàng mơ nắng suộm lá thu phong

Bâng khuâng nuối hạ vãn sen hồng

Đường trăng xa ngái làn môi nở

Ngõ trúc ngùi vương ánh mắt trông…

Cò chớp chiều vơi sầu bến đợi

Cuốc kêu bãi vắng tạnh đò mong…

Biên khu nhớ bóng Giai Nhân…biệt…

The thắt niềm riêng đắng đót lòng!

                       Nguyễn Huy Khôi

                              5-10-2025

                 Hà Nội chiều nay, mưa phùn rơi khe khë.

                 Phố cổ im lìm, dưới mái ngói rêu phong,

                 Mưa mưa bay,  như lời em khẽ nói,

                 Sao mưa buồn, làm tan nát ngày vui! 

                        Nước lăn tăn hồ gươm mờ sương khói. 

                        Gánh hàng rong, lâng lẽ giữa phố quen,

                        Áo ai bay, bên hàng cây liễu rủ,

                        Nhớ cuộc tình, như một thoáng mây bay.

                Hà Nội ơi, xin mưa đừng rơi nữa,

                Để lòng ta, còn những phút ngây thơ,

                Dẫu xa rồi, nhưng tim luôn nhắc nhở,

                Chiều mưa phùn, làm tan nát tình ta! 

                                             Tuyết Nhung 

                                              Một chiều mưa phùn 2024

**

                 Hà Nội chiều nay mưa giăng lối,

                 Giọt buồn rơi rớt xuống hàng cây.

                 Ngõ nhỏ bâng khuâng vương hơi thở,

                 Như tiếng thì thầm, tháng ngâu bay.

                       Góc phố rêu phong mền theo gió

                       Mái ngói Hồ Tây loang bóng chiều.

                       Dáng ai vội vã trong mưa lạnh,

                       Áo mỏng ve sầu, tim hẳt hiu.

                 Ngâu ơi nối nhịp cầu thương nhớ,

                 Cho lứa đôi xa hoá hẹn hò 

                 Dù ngắn ngủi thôi, mưa ngâu kể

                 Chuyện tình chờ đợi tự thủa nao.

                      Hà Nội ướt mềm trong  kỳ ức.

                      Mỗi bước chân qua thấm mộng lành.

                      Nghe hồn phố cũ ngâm câu hát 

                      Mưa ngâu còn rớt xuống… mong manh.

                                      Tuyết Nhung 2024

**

                 Hà Nội xe lanh chiều nay,

                 Mưa ngâu ườt phố heo may gọi về.

                 Mái rong rêu phủ sơn thề,

                 Hồ Tây gợn sóng, tóc thề thoáng bay.

                       Bước chân vội giữa hàng cây,

                       Ai mang nỗi nhờ theo mây cuối trời 

                       Ngâu rơi nối mộng đôi người,

                       Cách xa rồi lại tìm lời hẹn thưa.

                Hà Nội nghiêng bóng trong mưa,

                Ngõ xưa chợt rộn, gió lùa khóm tre,

                Mưa ngâu rớt xuống lối về.

                Cho lòng Hà  Nội se se nỗi buồn.

                                      Tuyết Nhung 

                                       Hà  Nội mưa ngâu 2025




VTLV & THÂN HỮU: TRANG ĐẶC BIỆT MỪNG LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ – INDEPENDENCE DAY

***

MỪNG NGÀY ĐỘC LẬP HOA KỲ

Phương Hoa

Đón mừng ĐỘC LẬP July Fourth

Thung Lũng Hoa Vàng ăn lễ to

Đất nước Cờ Hoa – hoa pháo rực

VĂN THƠ LẠC VIỆT – Việt thi hòa

Cali hạnh phúc từ muôn nẻo

Miền Bắc niềm vui khắp mọi nhà

Kính chúc bình an toàn Mỹ Quốc

Diễn hành thật đẹp tỏa lan xa.

  Phương Hoa  – BBT VTLV

THƠ CAO MỴ NHÂN

 “JULY 4“  NGƠ NGẨN

*

Khi tới đây, tôi nhớ tháng ngày này

Fourth of July Lễ  Độc Lập

Independence Day … vui dồn dập

Mới đó, đã phần ba thế kỷ

*

Đứng bên cầu Golden Gate năm 1992

Tôi cứ tưởng một lần rồi không tới nữa

Hơn ba chục mùa hạ vàng rực rỡ

Chính nơi này đẹp nghĩa đất Tự Do

*

Ngó về phương tây, mặt trời đỏ xuống thấp

Phố núi miên man ôm hình hài sắc tộc

Tiếng kèn đồng người dạo khúc tha phương

Quê Việt tôi bên kia Thái Bình Dương

*

Đêm July 4 th man dại cửa thiên đường

Nhưng nếu bạn kéo tôi về cố lý

Tôi sẽ nhảy xuống Cầu Vàng hệ lụy

Vì không muốn thấy những xót thương

*

Bầy quạ kêu chia sẻ nỗi đau buồn

Tôi đứng giữa lằn ranh đời cũ, mới

Mai mốt chắc chôn thân già nẻo cuối

Chốn quạnh hiu, sấp mặt khóc … vô thường …

*CAO MY NHÂN

San Francisco 30 – 6 – 2025

**

Mỗi năm khi tháng Bảy về, nỗi đau năm xưa lại âm thầm trở giấc trong tim tôi. Ngày Lễ Độc Lập 1985 đã vĩnh viễn cướp đi người chồng yêu quý – một sĩ quan Hải Quân VNCH can đảm, một người chồng, người cha luôn hết lòng vì gia đình và người khác. Anh đã hy sinh mạng sống mình khi lao xuống sóng dữ cứu các em bé đang bị cuốn ra khơi, trong đó có con gái út mới 11 tuổi của chúng tôi.

Trong niềm đau không nguôi của một người vợ, tôi viết bài thơ Hạ Buồn vào ngày July 4th 2014 để ghi khắc một ký ức định mệnh của đời mình. Năm năm sau, bài thơ được nhạc sĩ Vĩnh Điện phổ nhạc thành một ca khúc tha thiết và đã được danh ca Bảo Yến truyền cảm một cách xúc động đến nao lòng.

Xin mời nghe và chia sẻ…

PLang

HẠ BUỒN

Tháng Bảy lại về lòng buồn hiu hắt

Nhớ ngày này bao năm trước anh đi

Môi bất động anh chẳng nói lời gì

Và cứ thế anh đi không từ giã…

*

Đau đớn quá tôi điên cuồng vật vã

Trời Phật ơi xin cứu lấy chồng con

Anh nằm đây nhưng thân xác không hồn

Biết làm sao, làm sao anh trở lại??

*

Đã mấy mươi năm tôi còn nhớ mãi

Buổi sáng nào sóng dữ cướp đời anh

Để bao đêm nhìn trăng chiếu qua mành

Lòng thổn thức ôi mùa hè định mệnh…

phamphanlangJuly 4th 2014

Every year, as July returns, a deep ache quietly stirs within me. Independence Day 1985 forever marked my life with grief, as it took away my beloved husband — a brave former Navy officer of the Republic of Vietnam, a devoted father, and a man who always put others before himself. He gave his life to save a group of children swept away by a sudden undertow, including our youngest daughter, who was only eleven at the time.

In the silence of anguish, I wrote this poem, Hạ Buồn (Summer of Sorrow), on July 4th, 2014, to honor that tragic yet heroic moment. Five years later, it was beautifully set to music by composer Vĩnh Điện and soulfully performed by the renowned singer Bảo Yến, whose haunting voice captured the heartache and depth of that day.

I invite you to listen, to feel, and to remember — through each verse and note — the weight of love and loss

SUMMER OF SORROW

July returns — my heart falls still,
Haunted by the day fate broke its will.
You left in silence, lips unspeaking,
No last goodbye… just slow soul-leaking.

Grief devoured me in raging cries,
I begged the heavens, tears in my eyes.
You lay there — body cold, soul flown,
How could I bring you back… alone?

So many years, and still I see
That morning wave that stole you from me.
Each night I watch the moonlight creep,
And ache for that summer I cannot keep…

phamphanlang
July 4th, 2014

Translated from Vietnamese poem “Hạ Buồn” by Phạm Phan Lang

MINH THÚY THÀNH NỘI

MỪNG LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ

*

Mùa hè đang rực rỡ

Ánh nắng đẹp tươi hồng

Cánh Én lượn thong dong

Bươm bướm bay tràn ngập

*

Cảnh ra đường tấp nập

Ngày lễ lớn Hoa Kỳ

Shopping chật người đi

Hớn hở vui đầu hạ

*

Bóng nắng xuyên cành lá

Đỏ, tím, vàng lối hoa

Con cháu trở về nhà

Tiệc tùng theo dòng họ

*

Cờ treo chào trước ngõ

Các nơi màn diễn hành

Trống nhạc dồn dập nhanh

Biểu dương sức hùng mạnh

*

Bầu trời đêm gió lạnh

Pháo bông bắn đì đùng

Những sắc màu nở tung

Chào mừng Lễ Độc Lập

*

Minh Thúy Thành Nội

Tháng 7/4/2025

**

MỪNG LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ – NGUYỆN CẦU ĐỘC LẬP CHO UKRAINE
Phương Hoa

Lần đầu tiên tôi chú ý đến ông già Mỹ trắng ngồi xe lăn trên lề đường,
khi xe tôi dừng đèn đỏ chuẩn bị quẹo vào trung tâm bán sỉ Costco. Tôi
nhớ đó là khoảng thời gian quân Nga bắt đầu tấn công Ukraine, cách đây
cũng đã bốn, năm tháng gì đó. Chiếc quần jean lưng lửng, loang lổ vết
bẩn và rách te tua, lộ ra hai đầu gối nám đỏ bầm và đôi chân lông lá; áo
thun ngắn tay màu xanh rừng của lính, màu áo quen thuộc của Tổng
Thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy, vị tổng thống anh hùng của một
dân tộc anh hùng mà cả thế giới đều kính nể; trên cánh tay áo ông ta còn

gắn một lá cờ màu vàng xanh của đất nước Ukraine.

Tôi chợt cười thầm. Là “fan” hâm mộ của tổng thống Ukraine đây mà.
Tôi cũng là người rất hâm mộ ông tổng thống thông minh gan dạ này.
Lần đầu tiên thấy Zelenskyy phát biểu với giọng nói hùng hồn, lời lẽ
khôn khéo, mạnh mẽ, kêu gọi thế giới giúp đỡ Ukraine, làm tôi rất khâm
phục. Nhưng khi nhìn ánh mắt chứa đựng sự oán hận, lẫn đau khổ, và sự
chịu đựng tột cùng của Zelenskyy, tôi muốn rơi nước mắt.
Ông già ngồi trên xe lăn khổ người phốp pháp với cái bụng bự tròn quay
nhú ra dưới lớp áo. Khuôn mặt khắc khổ và buồn bã, nhưng hàm râu
quai nón rậm rì khiến ông toát ra một vẻ mạnh mẽ kiên cường, và không
thấy có chút gì là đáng tội nghiệp, dù trên tay ông cầm tấm bảng có mấy
chữ viết tay xiêu vẹo: “Please help!”

Điều khiến tôi xúc động và chăm chú quan sát kỹ ông già là vì ông đội
chiếc mũ dìm đen có hàng chữ màu vàng in thật lớn: VIETNAM WAR
VETETRAN. Một cựu chiến binh Việt Nam. Người này đã từng bay
qua nửa vòng trái đất giúp dân tộc tôi gìn giữ tự do và hòa bình. Tôi biết chính phủ Mỹ rất ưu đãi các cựu quân nhân, tại sao ông già này lại đi ăn
xin như thế nhỉ.

Đèn chuyển sang màu xanh. Tôi chợt giật mình bừng tỉnh vì tiếng còi
hối thúc của xe sau. Làn đường hẹp không có chỗ tắp vô, nên tôi vội
chụp lấy cái điện thoại, moi hết số tiền lẻ trong ngăn bên của cái vỏ bọc,
và rà xe tới gần chỗ ông già. Hạ cửa kính xuống, tôi chồm tới nhét nắm
bạc lẻ vào tay ông rồi nhấn ga chạy đi, bỏ lại đàng sau ánh mắt sáng lên
đầy thiện cảm với đôi bàn tay chắp xá và tiếng “Com on” thật to. Vào
trong Costco lựa đồ mà tâm trí tôi mãi nghĩ về người cựu chiến binh Việt
Nam với cái vẻ mặt oai hùng nhưng buồn bã ấy.

Tôi ở không xa Costco, nên tôi thường xuyên đi mua đồ và đổ xăng ở đây. Những lần sau đó, mỗi khi đi Costco tôi đều cố ý mang theo một ít tiền để cho ông già này, vì hầu như ông luôn luôn ngồi tại chỗ cũ. Và tôi trở thành khách hàng của ông lúc nào không hay.

Một lần, chẳng hiểu sao ông lại đổi hướng, thay vì ngồi bên phải thuận tiện xe cộ qua lại dừng đèn đỏ cho tiền, ông lại chuyển sang ngồi phía bên trái, trên lề cái “only” quẹo trái ngăn đôi giữa hai bên đường xuôi và ngược chiều. Thế nên trên đường đến tôi không thể đưa tiền cho ông.


Mua sắm xong ra xe tôi lục lấy cái phong bì rồi bỏ tiền vào đó, và lái chầm chậm vô làn thứ nhì từ bên trái. Khi dừng lại đợi đèn xanh tôi hạ cửa xuống cầm lấy cái bì thơ, chồm ra ngoài và thảy qua cho ông già. Tôi cố ném vào chiếc xe lăn ông đang ngồi, nhưng không ngờ cái bì thư va vào chiếc xe sau vừa trờ tới, và nó rơi xuống đất nằm trong lòng đường. Bì thư không dán nên số tiền văng tung tóe, làm tôi cảm thấy rất áy náy. Tôi định đậu xe để xuống nhặt lại cho ông, thì người phụ nữ da trắng trong xe đã bước xuống gom hết lại những tờ bạc dưới đất và bước tới đưa cho ông già. Đúng là “Người Mỹ tử tế,” tôi thầm nghĩ. Từ những việc cỏn con này, tuy chưa một lần trò chuyện, tôi có cái cảm giác ông già Mỹ đã là “người quen.”

Nhưng đó là lần cuối cùng tôi cho tiền ông. Những lần sau tôi cũng mang theo tiền, nhưng không còn thấy ông già xuất hiện chỗ đó nữa, và mỗi lần chạy ngang qua tôi có cảm giác hơi buồn, nghĩ là chắc ông ấy đã … vĩnh viễn ra đi. Tồn tại từ thời chiến tranh Việt Nam, tuổi ông nay cũng đã cao rồi còn gì.
*
Ngày 4 Tháng 7 năm 2022, ngày Lễ Độc Lập Hoa Kỳ. Vì được “xả trại Covid,” mấy đứa con đưa tụi nhóc cháu nội đi chơi xa hết, không đứa nào về chung vui như trước kia, nên tôi rảnh rang việc nấu nướng. Qua hơn hai năm trốn dịch trong nhà cũng bị “cuồng chân,” ông xã tôi muốn dành ngày lễ Độc Lập đi tháp tùng đoàn diễn hành của thành phố cho thư giãn gân cốt. Đặc biệt, năm nay thành phố có tổ chức cuộc thi chạy bộ 5 km quanh thành phố, trước giờ xe hoa bắt đầu cuộc diễn hành, để gây quỹ cho Nhà Tạm Trú Phụ nữ và Trẻ em. Đáng tiếc, chúng tôi dù cũng từng là dân chạy bộ nhưng vì bận rộn quên mất thời hạn, ghi danh trễ nên không thể tham dự. Cuộc thi này rất thú vị, vì dọc đường các cơ sở kinh doanh địa phương cung cấp miễn phí thức ăn nhẹ, các loại nước uống, trái cây. Sau cuộc thi có cả… bia cùng rượu cho người lớn giải lao nữa. Tất cả mọi thí sinh đều được phát áo đồng phục với số báo danh.
Dọc đường ai mỏi mệt có thể dừng lại bốc vài cái bánh, chai nước, rồi
vừa chạy vừa thưởng thức. Già trẻ gái trai đều tham dự được, ai đến
đích trước nhận phần thưởng và huy chương, những người mỏi mệt cứ
chạy sau hay đi bộ tà tà thì khi đến đích cũng được tặng những món quà
an ủi.

Buổi sáng, tôi thức dậy ăn uống xong là “diện đồ July 4th” áo đỏ có hình cờ Mỹ rồi cùng nhà tôi đi bộ ra phố. Thành phố nhỏ chúng tôi dọn về sau khi nghỉ hưu ở gần biển, thuộc vùng Đông Vịnh San Francisco, là một thành phố cổ. Chính quyền và người dân ở đây luôn luôn giữ gìn truyền thống tổ chức diễn hành xe hoa trong ngày Lễ Độc Lập hàng năm, trừ vài năm dịch Covid vừa qua. Năm nay mở cửa trở lại nên cả thành phố náo nức rộn ràng lo chuẩn bị cho cuộc diễn hành và cuộc thi chạy bộ.

Theo lịch trình, sau khi cuộc thi chạy 5 km bắt đầu, thì đoàn xe hoa cũng khởi hành từ tụ điểm gần bờ biển, chạy quanh downtown, dọc theo khu vực dân cư, giáp một vòng thì về lại chỗ cũ, chiều dài cũng trên bốn, năm dặm. Tôi háo hức ngắm nhìn, chạy tới chạy lui theo đoàn xe đủ màu sắc và kiểu dáng để chụp hình. Tôi mãi mê nhìn những kỵ mã cảnh sát thành phố oai phong trên lưng những chú ngựa nòi cao lớn bờm lông đen mượt, khoác những bộ yên cương rực rỡ sắc màu, và tôi bỏ lạc ôngxã trong dòng người coi đông nghịt hai bên lề đường.

Đến đoạn đường có những chiếc xe hoa thật dài và đẹp, tôi vội đưa điện thoại lên. Bấm được vài tấm hình, tôi xoay lưng lại định đi tiếp bỗng đụng phải một người đang bước tới thật nhanh. Tôi bị mất trớn ngã nhào vào đám đông đang ngồi coi diễn hành trên lề đường. Chiếc điện thoại vuột khỏi tay, và theo phản ứng tự nhiên tôi chụp vội cái tay nắm của một chiếc xe lăn gần đó để giữ thăng bằng trở lại. Bị xấu hổ, tôi vội cúi nhặt chiếc điện thoại lên rồi lắp bắp lời xin lỗi với người ngồi trên chiếc xe lăn có cắm đầy những lá cờ Mỹ nhỏ:

“I’m… sorry!”

“No problem!’Người đó trả lời, và rồi kêu lên với vẻ kinh ngạc,“Oh….thì
ra là cô à?”

Tôi chưa kịp hoàn hồn, nghe thế bèn nhìn kỹ ông ta, và chợt nhận ra người ngồi trên xe lăn chính là người ăn xin gần Costco tôi vẫn cho tiền mấy lúc trước. Vẫn chiếc mũ dìm có hàng chữ in “VIETNAM WAR VETETRAN,” vẫn “chiếc áo thun Tổng Thống Ukraine,” và lá cờ vàng xanh trên tay áo. Nhưng nhìn ông ta gọn gàng hơn, sạch sẽ hơn, và thần thái ông lúc này trông rất tốt, mặt mũi tươi tắn, nét mặt sinh động, không còn nét bơ phờ và buồn phiền như trước nữa. Tôi vừa ngạc nhiên vừa vui. Rủi mà may, tình cờ được dịp gặp lại ông già cựu chiến binh Việt Nam, người mà lâu nay tôi thường nghĩ đến mỗi lần chạy ngang qua chỗ ông từng ngồi xin ăn.

“Thì ra là ông!” Tôi cũng kêu lên mừng rỡ như gặp lại bạn cũ. “Ông có
khỏe không? Lâu nay ông làm gì mà tôi không thấy ông nơi… chỗ cũ?”


Tôi nói, không tiện nhắc lại chỗ cũ là chỗ nào. Ông ta chỉ cười, rồi quay
qua người phụ nữ Mỹ trắng lớn tuổi ngồi trên chiếc ghế xếp bên cạnh:


“Honey, cô đây là người anh thường kể với em trước kia, người bao giờ
cũng dừng lại giúp anh mỗi khi cô ấy đi mua sắm ở Cotsco.” Quay sang
tôi, ông tiếp, “Xin chào! Tôi tên là Scott, còn đây là Sue, bạn gái tôi.


Bà Sue gật đầu chào tôi với nụ cười hiền lành và đầy thân thiện. Thấy bà
có vẻ xuề xòa tôi cũng chào bà tự nhiên không chút dè dặt, tự giới thiệu
tên mình, rồi quay qua ông, chỉ vào chiếc mũ ông đang đội:


“Ông là cựu chiến binh Việt Nam? Lần đầu tiên tôi chú ý đến ông vì
chiếc mũ này. Có phải ông đã từng sang Việt Nam chiến đấu giúp quê
hương tôi?”


“Yes, I did! Vâng, tôi đã từng.” Rồi như còn có rất nhiều điều muốn nói,
ông già vừa quay đầu chiếc xe lăn, vừa ra dấu cho tôi và bà bạn ông tách
khỏi đám đông, “Chỗ này ồn ào quá, chúng ta hãy qua bên kia nói
chuyện đi.”

Bà Sue cởi chiếc áo khoác máng vào thành chiếc ghế xếp bà vừa ngồi,
để người ta biết là ghế có chủ, rồi bước vội theo ông. Tôi cũng hào hứng
bước theo hai người đến chỗ gần trạm xăng, nơi có một rừng cờ Mỹ thật
lớn đang phất phơ tung bay trong nắng.

Trước nhất, tôi xin cám ơn ông,” tôi nói khi xe ông dừng lại bên cạnh
hàng cờ bay phất phới, “ngày ấy đã sang tận Việt Nam chiến đấu giúp
quê hương tôi.”


Ông Scott vội lắc đầu, và nói bằng cái giọng có vẻ nặng nề:
“No! Chúng tôi đã không giúp được gì cho các bạn. Cho đến tận bây
giờ, tôi luôn nghĩ rằng chúng tôi còn mắc nợ các bạn.”

Tôi thấy tội nghiệp ông. Đã mấy chục năm qua mà ông vẫn còn ấm ức,
nói ra những điều tôi thường nghe trước giờ mỗi khi nói chuyện cùng
những cựu quân nhân Hoa Kỳ trở về từ Việt Nam. Ông nới một hơi,
phàn nàn về chuyện thời chiến tranh Việt Nam, về cánh báo chí phản
chiến Mỹ, về người dân Mỹ xuống đường biểu tình, về chính phủ Mỹ…
càng nói càng hăng, mặt ông đỏ bừng.

Bà Sue đứng im lặng nghe, thỉnh thoảng lắc đầu, có vẻ như bà đã quen
với chuyện này
:


“Ông ấy vẫn thường như thế, mỗi khi có ai nhắc về chuyện chiến tranh
Việt Nam.” Bà nói.


Tôi muốn giúp ông quên đi cái quá khứ đau lòng ấy lúc tuổi già, nên
hướng qua chuyện khác:

Cám ơn ông, Scott. Nhưng chuyện đã mấy chục năm rồi, làm ơn hãy
quên đi để cho tâm trí ông được nhẹ nhàng.” Tôi nói xong đổi đề tài:
“Bây giờ cho tôi hỏi, hình như ông rất hâm mộ Tổng Thống Zelenskyy
của Ukraine? Tôi thấy ông mặc áo màu giống Zelenskyy và còn đeo cờ
Ukraine, đã từ lâu lắm rồi?

Ánh mắt Scott sáng lên, và tôi biết là tôi đã… bắt đúng huyệt của ông.
“Oh yeah! Absolutely, yes!” Tất nhiên rồi! Ông kêu lên đầy vẻ thán
phục. “Cũng nhờ chứng kiến sự kiên cường của họ mà tôi mới ‘là một
con người’ như bây giờ!”

Có lẽ sự thân thiện và kính trọng của tôi đối với ông lâu nay đã khiến
ông tin tưởng. Cho nên dù mới gặp lần đầu, qua vài câu hỏi tế nhị và
cảm thông của tôi (bạn tôi thường nói tôi có năng khiếu trong việc khai
thác thông tin từ người khác mà!), Scott đã mở lòng kể cho tôi nghe về
chuyện của ông, về lý do tại sao ông trở thành kẻ ăn xin và bây giờ thì
trở lại phong độ cũ.

Và rồi, tôi quên mất đoàn xe hoa diễn hành, quên mất ông xã đang đi tới
đâu, quên luôn đám đông đang vỗ tay từng đợt mỗi khi có chiếc xe hoa
chạy qua. Tôi đứng lặng người, đắm chìm vào câu chuyện đầy cảm
động và đau thương của ông già Mỹ
.
*
Gần cuối năm 1974, ông Scott là thương binh trở về từ Việt Nam sau
một trận pháo kích của Việt Cộng vào nơi đóng quân của ông. Một mảnh
đạn pháo đi lạc đã ghim vào đốt sống nên ông bị liệt hai chân
.

Người vợ trung thành Cathy và đứa con trai độc nhất Richard của hai người đã
chăm lo cho ông suốt cả cuộc đời. Con trai ông ăn học thành tài, ra đi
làm nhưng không hề kết hôn, dù anh ta cũng có bạn gái đó đây. Mấy
năm về trước, gia đình ông gặp phải một cơn đại họa. Vợ ông và
Richard đã qua đời cùng lúc trong một tai nạn xe hơi, bỏ lại ông một
mình với tấm thân tàn phế.

Ông bị sốc vì quá đau khổ, quá thương nhớ, làm cho bấn loạn tâm thần. Do dùng thuốc gây nghiện quá nhiều để giảm stress, và còn mượn rượu giải sầu, ông đã trở thành con nghiện cả hai món. Cuối cùng, ông làm thân “homeless” không nhà vô ngụ trong “shelter” của thành phố. Vì nghiện ngập, số lương hưu hàng tháng đều
bay sạch, nên ông phải đi xin thì mới có thêm tiền mua thức ăn hoặc
thuốc để “phê” hay vài lon bia để uống. Ông kể xong thì nói:

Cho đến thời gian tôi gặp cô, là tôi đã làm ăn mày cũng hơn một năm
rồi.

“Tôi thật là xin lỗi chuyện vợ con ông, Scott!” Tôi nói cùng với sự xúc
động tận đáy lòng vì câu chuyện thương tâm của ông. “Cầu Thượng Đế
phò hộ cho ông.”

I’m okay now.” Bây giờ tôi ổn rồi, cám ơn cô.

“Cô biết không,” bà Sue nãy giờ đứng im, bây giờ thấy ông ngừng lại bà mới lên tiếng, “nếu không có chiến tranh Ukraine, không có Tổng Thống Zelenskyy, nhất là gần đây không có hai tù binh Mỹ bị Nga bắt giữ, thì hiện tại ông ấy vẫn còn đói khổ dài dài, còn ngồi ăn xin ở chỗ cổng vào Costco như cô từng thấy. Trước đó cho dù tôi đã hết lời khuyên can ông hãy đi cai nghiện nhưng ông không chịu nghe.”

“Là sao ạ?” Tôi hỏi với vẻ tò mò lẫn thích thú.

Là do tôi quá ngưỡng mộ Zelenskyy và dân tộc Ukraine, tôi mới tự cai
nghiện!” Scott trả lời thay bà Sue. “Hằng ngày xem tin tức, tôi thương
đất nước họ lắm, những con người dũng cảm vô song.” Ông dừng lại
quay qua bà Sue, “Tôi quen Sue từ Trung tâm Tạm Trú cho kẻ không
nhà. Bà đã khuyên bảo và lo lắng cho tôi rất nhiều, và tôi nghe lời bà
mọi việc, ngoại trừ chuyện cai nghiện. Cám ơn em yêu!” Ông nói, đưa
tay vỗ vỗ vào lưng bà một cách rất âu yếm
.

“Wow! Ông làm tốt lắm! Good Job, Scott!” Tôi nói và đưa ngón cái lên.
“Nhưng tôi hơi… chậm tiêu một chút, ông có thể cho biết tại sao ông
ngưỡng mộ Tổng Thống và dân tộc Ukraine mà ông tự cai nghiện thành
công? Chả lẽ ông muốn… qua Ukraine đánh nhau với quân của Putin
giúp họ?” Tôi đùa.

I wish!” Tôi rất muốn thế! Không ngờ Scott hăng hái trả lời. “Phải, tôi
rất khâm phục họ, ước gì tôi lành lặn và còn trẻ, khỏe, tôi sẽ qua Ukraine
giúp họ ngay không chần chừ! Nhất là gần đây mỗi lần xem tin tức,
thấy hình ảnh Alexander và Andy Tai ở Alabama bị quân Nga bắt giữ tôi
thương họ vô cùng, và tôi đã tự nguyền rủa tôi. Tôi nghĩ lại mình thật vô dụng, khi bao nhiêu đồng đội của tôi đang trong vòng nguy hiểm chiến đấu cho tự do, thì tôi ở nhà ăn no mặc ấm lại đi hủy hoại đời mình trong một thời gian dài như vừa qua, đến xém chút nữa bỏ mạng. God, cám ơn Thượng Đế! Tôi đã làm được!” Ông nói với một vẻ tràn đầy hãnh diện
.

“Đúng vậy, Scott đã tự mình cai nghiện, không cần tới trung tâm.” Bà Sue nói tiếp theo ông. “Và ông ấy đã làm rất tốt, kết quả chỉ trong vòng mấy tháng. Nhờ cả ngày ngồi theo dõi tin tức từ Ukraine, ông đã đánh gục và chiến thắng được các cơn ghiền vật vã. Tôi cũng phụ giúp ông nữa. Trong thời gian qua ông ấy và tôi đã tiết kiệm được một số tiền. Thay vì dùng mua ma túy và hoang phí rượu bia như trước, mới đây chúng tôi đã đem cho Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ một ít để giúp cho người tị nạn Ukraine. Amazing! Quả là chúng tôi đã làm được điều đáng
kinh ngạc!

Tôi cảm động đến rưng rưng, không thốt ra lời. Ông Scott đúng là một người rất giàu tình cảm. Mất hết một lúc im lặng, cuối cùng tôi nói:

“Scott, ông quả thật là người tốt! Xin Thượng Đế phù hộ cho ông!” Rồi
tôi hỏi: “Ông có biết một trong hai tù binh đó là người Việt Nam của
chúng tôi không, anh Andy Tai Huynh. Không biết bây giờ họ ra sao.”

“Tôi biết, Tai là người Việt Nam. Chính phủ Mỹ vẫn đang cố gắng bằng
mọi cách để đưa họ về với gia đình, cô yên tâm đi.

Biết Scott theo dõi kỹ tin tức về cuộc chiến Ukraine, tôi hỏi:
“Theo ông, thì cuộc chiến Ukraine rồi sẽ đi tới đâu? Tôi xem tin tức thấy
tổng thống và dân tộc Ukraine rất kiên cường, nhưng quân Nga cậy
người đông tiền lắm, cứ tiếp tục xâm chiếm chứ không chịu dừng lại.
Bây giờ thế giới phải làm sao mới tốt cho Ukraine?

“Chắc chắn có một ngày quân Nga sẽ phải rút thôi!” Scott nói như
khẳng định. “Quân dân vô tội của Ukraine đã thiệt mạng quá nhiều rồi.
Thượng Đế công bình sẽ phán xét, kẻ ác sẽ phải đền tội. Cũng có lúc, tôi
giận các nước phương Tây quá chết nhát “chicken” không chịu giúp vũ
khí sớm cho Ukraine, để Zelenskyy phải kêu gào khản cả cổ mới chịu
gửi vũ khí cho họ.” Ông ngừng lại, lấy chai nước từ phía sau lưng ra hớp
một miếng rồi nói tiếp, “Cho tới sáng nay, quân Ukraine vẫn đang cố
gắng chận đứng quân Nga ở biên giới Donetsk, nhưng chẳng biết họ có
giữ nổi hay không đây.” Ông nghẹn ngào, “Poor Ukraine! Ukraine tội
nghiệp, mỗi ngày đều có rất nhiều thường dân vô tội bị quân Nga giết.
Tính tới nay, đã có hàng chục nghìn thường dân Ukraine lớp bị giết lớp
bị thương.” Và ông bỗng cao giọng như nấc lên, “Cuộc chiến này không
thể kéo dài! Hãy cầu nguyện cho họ!”

Tôi gật đầu:

Đúng vậy. Chúng ta nên cầu nguyện cho đất nước và người dân
Ukraine. Cầu nguyện cho cuộc chiến này chấm dứt càng sớm càng tốt!”

Phải! Hãy cùng cầu nguyện. Xin Chúa thương xót và cứu lấy
Ukraine!” Bà Sue cũng nói và đưa tay lên làm dấu thánh giá. “Ukraine
không thể nào thua, Chúa ơi!


Tự nhiên tôi cảm thấy trong lòng buồn bã vô cùng. Nếu rủi như Ukraine
không chiến thắng nổi quân Nga… Tưởng tượng tới đó, tôi chợt lắc đầu
rùng mình, không dám nghĩ tiếp
.

Chào từ giã Scott và Sue, tôi thất thểu bước theo những chiếc xe hoa cuối cùng của đoàn diễn hành để về nhà.

Trời đã quá xế trưa. Ánh nắng hè rực rỡ lung linh, những chùm phượng tím hai bên đường đong đưa trong cơn gió nhẹ từ biển thôi vào man mác. Nhưng trong tôi mọi hào hứng của buổi mai khởi hành ra đi bây giờ đã biến mất.

Lạy Trời xin cứu lấy Ukraine. Tôi khấn thầm.

Phương Hoa

**

KHÁT VỌNG TỰ-DO

*

Đã quyết ra đi, chẳng trở về …

Ta thà chôn kín mối tình quê

Thay tên, đổi họ, đời du tử

Nuốt nhục vào trong chén rượu hề!

*

Đã quyết ra đi chẳng trở về …

Sá gì ngộ nhận hoặc khen chê.

Chí ta ta biết, lòng ta quyết,

Dứt áo ra đi chẳng trở về!

*

Lạy mẹ, lạy cha, một lạy này …

Xem như con chết kể từ nay

Họ tên xin chép vào bia mộ

Nhang khói hồn ma giữ lấy ngày.

*

Máu chảy đời nay ruột chẳng mềm,

Thù hằn chia cắt nghĩa anh em …

Ta đi … dẫu phải vào sinh tử,

Cũng lấy làm vui nấm mộ tàn

*

Đã quyết vung dao rạch đá thề

Bỏ mình biển cả hoặc sơn khê

Sướng khổ đói no đường đã chọn

Quyết chẳng lùi chân bước trở về …

*

Buồm đã căng rồi, lộng biển khơi

Hồn ta khát bỏng cánh chim trời

Đã quyết ra đi không ngoảnh lại

Tự do hay chết…một đường thôi!

-Chàng Đông Ry Nguyễn

**

GỬI EM NGƯỜI NỮ CHIẾN BINH UKRAINE

*

Thấy bom nổ trên đất người xinh đẹp

Ta tức mình căm ghét lão Putin

Nếu còn trẻ ta ngán gì trận mạc

Sẽ lên đường giáp mặt với đao binh

*

Bạn bè ta cũng đã từng chiến đấu

Rất ngoan cường chống lại lũ xâm lăng

Những thế lực vô thần tay vấy máu

Giỏi tuyên truyền chuyên lừa gạt nhân dân

*

Ráng lên em hãy vững vàng tay súng

Đừng yếu lòng mà tin tưởng ngây thơ

Với độc tài quy hàng là…chán sống

Nền tự do không miễn phí bao giờ

*

Ta rất tiếc không còn trai trẻ nữa

Bên chiến hào chia lửa đạn cùng em

Thơ ta viết là tấm lòng chan chứa

Mong ơn lành các em được bình an

*

Ngày mai đến khi tin mừng chiến thắng

Em trở về trong bao lớp hùng binh

Quăng tay súng cùng chung vai xây dựng

Trời Ukraine nắng đẹp gió thanh bình…

Donry Nguyen

TẾ SỐNG ĐỘC TÀI

*

Trong thời đại văn minh tiến bộ,

Lại bất ngờ xuất hiện thằng điên.

Nuôi tham vọng lên ngôi đại đế

Đạp lê dân dưới gót bạo quyền.

*

Xua quân lính xâm lăng bắn phá,

Gieo hãi hùng bom đạn đau thương.

Miệng nhe nanh những lời dối trá

Mặt lạnh tanh thủ đoạn khôn lường.

*

Cả nhân loại đồng lòng lên án

Thế giới cùng cấm vận bao vây.

Người Ukraine đêm ngày chiến đấu

Vì tự do quyết một trận này.

*

Trời vốn chẳng dung đồ man rợ,

Bọn độc tài phải bị tiêu vong.

Ta viết sẵn một bài văn tế,

Đợi đến giờ lịch sử sang trang.

Donry Nguyễn

NGÀY LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ – BIỂU TƯỢNG CỦA TỰ DO VÀ LÒNG YÊU NƯỚC

Thái Phạm

Ngày 4 tháng 7 hằng năm, người dân Hoa Kỳ cùng nhau kỷ niệm Ngày Độc Lập – một trong những ngày lễ quan trọng và có ý nghĩa sâu sắc nhất trong lịch sử đất nước. Đây là dịp để tưởng nhớ sự kiện ngày 4 tháng 7 năm 1776, khi bản Tuyên ngôn Độc lập chính thức được thông qua, đánh dấu sự khai sinh của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ – một quốc gia được xây dựng trên nền tảng tự do, công lý và quyền bình đẳng.

Trước năm 1776, 13 thuộc địa ở Bắc Mỹ do Anh quốc cai trị đã chịu nhiều áp bức về thuế khóa và quyền tự quyết. Sau nhiều năm đấu tranh, vào ngày 4 tháng 7 năm 1776, tại Philadelphia, các đại biểu của 13 thuộc địa đã đồng lòng ký vào bản Tuyên ngôn Độc lập, do Thomas Jefferson chấp bút. Bản tuyên ngôn này không những tuyên bố Hoa Kỳ tách khỏi Anh quốc, mà còn khẳng định những giá trị cốt lõi về nhân quyền và dân chủ.

Ngày Lễ Độc Lập là thời điểm để người dân Mỹ thể hiện lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Khắp nơi trên đất nước, các thành phố lớn nhỏ đều tổ chức diễu hành, bắn pháo hoa, hòa nhạc ngoài trời và các buổi picnic gia đình. Màu cờ đỏ – trắng – xanh xuất hiện khắp nơi, từ trang phục, trang trí nhà cửa đến các sản phẩm tiêu dùng, như một biểu tượng gắn kết tinh thần quốc gia.

Dù trải qua hơn hai thế kỷ, tinh thần của Ngày Độc Lập vẫn còn nguyên giá trị. Đó là lời nhắc nhở về khát vọng tự do, về quyền con người, và về trách nhiệm của mỗi công dân trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị mà các bậc tiền nhân đã đổ máu để giành được.

Ngày 4 tháng 7 không chỉ là một kỳ nghỉ lễ, mà còn là một dịp để suy ngẫm: Tự do không phải là điều sẵn có – đó là thành quả của đấu tranh, của hy sinh, và cần được bảo vệ qua từng thế hệ.

Thơ mừng Ngày Độc Lập Hoa Kỳ

Thái Phạm




VTLV – TRANG ĐẶC BIỆT: VĂN THƠ & Sự Kiện TƯỞNG NIỆM NGÀY QLVNCH 19/06

**

*

VTLV MỪNG NGÀY QUÂN LỰC VNCH 19/06

*

VĂN THƠ Thung Lũng phố Hoa Vàng

LẠC VIỆT – đồng hương đã họp đoàn

MƯỜI CHÍN – Việt Nam thời dũng mãnh

THÁNG JUNE (06)- Quân Lực thuở huy hoàng

Nhớ ơn hào kiệt vào nguy hiểm

Tưởng niệm anh hùng vượt khổ gian

Chiến đấu không sờn quên tính mạng

Tận cùng phút cuối, giữ giang san.

Phương Hoa – BBT VTLV – 19/06/2025

LỊCH SỬ NGÀY 19/06

Ngày 19 tháng 6 năm 1965. Kể từ giờ phút lịch sử này, QLVNCH vinh dự gánh vác thêm trọng trách nặng nề nhất đối với quốc gia, dân tộc. Người Lính VNCH ngoài trách nhiệm “Bảo Quốc-An Dân”, họ còn phải lãnh đạo chèo chống con thuyền Quốc Gia trong cơn bão lửa chiến tranh, trên dòng sông nổi sóng lịch sử, cho đến tháng tư năm 75.

Từ đó, ngày 19 tháng 6, còn gọi là Ngày Quân Lực. Nói đến quân đội, là phải nói đến Người Lính VNCH, những người đã đem cả cuộc đời, hy sinh một phần thân thể và sinh mạng, để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam, trong cuộc chiến tang thương kéo dài trên 20 năm, bởi cuồng vọng nhuộm đỏ cả quê hương, do tội đồ Hồ Chí Minh và bọn CSBV gây nên.

*Người Lính VNCH “Vì Dân Mà Chiến Đấu, Vì Nước Mà Hy Sinh!”

Kỷ niệm Ngày Quân Lực, hàng triệu người dân miền nam, đã một thời hưởng không khí tự do no ấm, xin kính cẩn Vinh Danh-Tri Ân các anh linh tử sĩ, hơn 250 ngàn Người Lính VNCH đã nằm xuống, những người con yêu của Mẹ Việt Nam, đặt Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm lên trên hết, những người trân quý Tổ Quốc – Dân Tộc, hơn cả mạng sống của mình. Đã vì dân mà chiến đấu, đã vì nước mà hy sinh.

Người Lính VNCH: Tổ Quốc-Danh Dự-Trách Nhiệm!

Ngày Quân Lực, để nhớ về Người Lính VNCH, đã một thời chèo chống con thuyền quốc gia, trong cơn bão lửa chiến tranh, Họ đã cắm ngọn cờ Vàng chiến thắng khắp mọi nơi, khắp 4 vùng chiến thuật. Từ giòng sông Bến Hải miền địa đầu giới tuyến, dài xuống tận mũi Cà Mau, phần đất cuối cùng của quê hương. Tạo những địa danh lẫy lừng trong quân sử, bao nhiêu năm đã qua, cuộc chiến đã chấm dứt, vậy mà mỗi lần nhắc tới, địch vẫn còn run sợ. Sợ cả bộ quân phục!

Cao điểm nhất năm 1972, người lính với những trận chiến lẫy lừng: “Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu, vừa chiếm lại đêm qua bằng máu!…”. Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa kết thúc, người Lính VNCH đã dùng máu và sinh mạng tạo những chiến công lẫy lừng, làm cả thế giới nghiêng mình kính phục.

Lá Quốc Kỳ lại tung bay khắp mọi miền đất nước, dưới tia nắng ấm thanh bình vừa ló dạng nơi chân trời. Ôi! cũng là lúc Người Lính VNCH, bị đồng minh bỏ rơi, bắt đầu bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới, để rồi đưa đến cái chết tức tưởi của chính thể VNCH. Quân đội VNCH trở thành một quân lực bất hạnh nhất, trong lịch sử!

 *Người Lính VNCH “Tôi Còn Nợ Anh!”

Ngày Quân Lực, với hơn hai mươi năm khói lửa chinh chiến, xương thành núi, máu thành sông! Người Lính VNCH không bao giờ đòi hỏi Tổ Quốc bất cứ một điều gì. Người Lính chỉ mong đem máu xương, cuộc đời của mình, đổi lấy hai chữ Tự Do cho quê hương dân tộc, cho dù phải trả cái giá đắt nhất là hy sinh mạng sống của chính mình.

Hơn hai mươi năm miệt mài gìm súng canh giữ quê hương. Người Lính VNCH không yêu cầu người dân bất cứ một điều gì cho lợi ích cá nhân. Người Lính chiến đấu chỉ mong muốn nhìn thấy người dân được sống những tháng ngày an vui, hạnh phúc, cơm no, áo ấm, dưới nắng ấm thanh bình, trên quê hương mến yêu, mang tên Việt Nam. 

Tinh Thần Người Lính VNCH Bất Diệt!

Hôm nay, Ngày quân lực, 50 năm sau, những người lính “bên thua cuộc” sau thời gian cải tạo, tù tội, đọa đày trên chính quê hương của mình, hay lưu lạc khắp nơi, nhưng vẫn đem phần đời còn lại, miệt mài tranh đấu. “Những Người Lính năm xưa” không có bất cứ một tham vọng chức vụ nào. Những Người Lính Già xa quê hương, vẫn còn miệt mài góp công sức của mình, chỉ mong sao đất nước thoát khỏi gông cùm, xiềng xích của lũ cộng sản bạo tàn, bán nước, “hèn với gặc, ác với dân,” để người dân Việt Nam sớm có được nụ cười “Dân Chủ-Tự Do-Hạnh Phúc” mãi mãi nở trên môi. Cả đời hy sinh, họ chỉ muốn thế.

“Họ là những anh hùng không tên tuổi.

Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh.

Nhưng can đảm và tận tình giúp nước!”

Với ý nghĩa này, hình ảnh cao đẹp của người lính VNCH, luôn luôn sống mãi trong lòng người dân Việt yêu chuộng dân chủ, độc lập, tự do, dù đã qua hơn nửa thế kỷ!

KQ Lê Văn Hải

CHÀO MỪNG 19 / 6 –     CAO MỴ NHÂN

Từ nơi đây, bên một khung cửa sổ

Thấy bình minh hướng đó đang trở về

Chờ nắng gắt xem chân mây phai đỏ

Tay trên môi chưa nhạt sắc đam mê

*

Nên rạng đông mới vàng mầu áo cũ

Dù hôm nay thực sự hết mùa xuân

Vạt áo còn chứa chan năm tháng nhớ

Tiếng chim quyên tha thiết gọi toàn quân

*

Bức tranh thơ vẽ NGÀY QUÂN LỰC đẹp

Khắp muôn nơi vui khúc nhạc diễn hành

Trên vai anh rỡ ràng ngàn hoa thép

Sắc Cộng Hoà sáng lạn dưới trời xanh

*

Lý tưởng Quốc Gia trong lòng dân tộc

Hơn nhiều lần tay nới rộng vòng tay

Nối tây đông ngọn cờ vàng Độc lập

Sinh nhật anh tháng sáu mười chín đây…

*

       CAO MỴ NHÂN – 18 – 6 – 2025

Chiều Nhạc “Tình Cha, Tình Lính!” NGÀY QLVNCH 19/06 – Do VTLV Tổ Chức, Chủ Nhật Vừa Qua, Thành Công Tuyệt Vời!

*Trên hàng trăm khách tham dự, Quán không còn một chỗ trống!

*Không khí vui nhộn, ý nghĩa, đáng nhớ! Đầy đủ mọi tiết mục vinh danh người Cha nhất: Vòng hoa, quà tặng, bánh kem, bài hát! Gần 50 người Cha, được tặng quà, vinh danh! Sân khấu không còn sức chứa!

*Sân khấu hình có nền đẹp, nước giải khát, bánh mỳ, xổ số, nhạc hay, đóng góp vào sự thành công, của buổi tổ chức!

*Thi phẩm VTLV giới thiệu, được khách tiêu thụ kỷ lục!

Tóm lại, ít có buổi ca nhạc nào, thành công đến như thế! trên cả sự mong đợi của BTC.

Sau đây là lời tường trình ngắn và hình ảnh của MPD:

Mấy năm nay vào dịp Father’s Day, anh Lê Văn Hải Hội Trưởng Văn Thơ Lạc Việt, đều Mở Rộng Lòng Ra, tổ chức Chiều Ca Nhạc “Tình Cha – Tình Lính, hội tụ rất đông vui, nơi quán Cà phê Lovers, góc đường Quimby Rd thành phố San Jose ấm áp.

Chiều hôm Chủ nhật 15-6-25 cũng vậy, buổi ca nhạc khởi đi từ 2pm, với phần mở đầu là dịp ra mắt tập sách “Người Lính Làm Thơ Như Viết Sử” của Donry Nguyễn, đến từ Nam California, cựu pháo binh VNCH, sinh quán nơi Tuy Hoà, Phú Yên…

Sau đây là một vài hình ảnh buổi chiều Hè vui vẻ, tưng bừng, xin được chia xẻ cùng Quý Vị và Các Bạn xa gần…   

KQ Lê Văn Hải

**

https://www.youtube.com/watch?v=sfmQq8Kqc8I

**

**

**

**

CÚC NỞ VÀNG MEN RƯỢU.      CAO MỴ NHÂN

Sáng nay cúc nở vàng hoa lắm

Mầu cúc vàng tưởng sắc hoàng mai

Nắng chứa chan vàng như cúc rực

Đầy trời mây cúc rỡ ràng khai

*

Mùa về ư, đại hội toàn quân

Huynh đệ chi binh hơn một lần

Có nghĩa nhiều lần vàng cúc gọi

Mai về dựng lại những mùa xuân

*

Người trăm năm cũ dưới cờ vàng

Ẩn hiện uy hùng nếp võ trang

Em vẫn đợi anh trên đại lộ

Diễn hành Quân Lực thật vinh quang

*

Cộng hèn bôi bẩn cả non sông

Áp dụng “tam vô” sống ” đại đồng “

Một lũ vượn rừng về múa rối

Bày trò cướp cuộc, nhục cha ông

*

Sáng nay cúc nở vàng chung tửu

Anh uống cho xong nửa đoạn trường

Ta sẽ cùng nhau quang phục đẹp

Cờ vàng lộng lẫy khắp quê hương…

     CAO MỴ NHÂN 

**

HỎI THẦM NHAU THÔI.    CAO MỴ NHÂN

Chẳng thà đừng nói thương nhau

Thì cho biển cuối sông đầu cũng quen

Đằng này anh vẫn yêu em

Đầu sông cuối biển xa thêm tình buồn

*

Em ngồi chắp vá hoàng hôn

Bao nhiêu tiếc nuối không còn dửng dưng

Hỡi anh yêu dấu bên lưng

Một thời quá khứ ngập ngừng từ ly

*

Chia đôi núi biếc phân kỳ

Mùa Xuân ở lại, anh thì biệt xa

Có gì xa xót bao la

Khiến anh cùng với Sơn hà lặng câm

*

Anh không lỗi, em chẳng lầm

Tại sao phải chịu âm thầm thiệt thua

Đôi vầng nhật nguyệt nắng mưa

Trùng dương khổ lụy,  mình chưa thật lòng…

     Rancho Palos Verdes  5 – 5 – 2025

             CAO MỴ NHÂN

**

NỖI BUỒN.     CAO MỴ NHÂN

*

Đừng ngồi đốt đuốc phả hương thơ

Anh vẫn băn khoăn nén đợi chờ

Ánh lửa lưng trời ngày thắng trận

Bè mây đỉnh núi thủa đan mơ

Thương em chiu chắt tô mầu áo

Ngó bạn nâng niu giữ lá cờ

Cả đám lưu vong mà vẫn thiếu

Một người vận dụng chuyển thời cơ …

           CAO MỴ NHÂN  – 4 – 6 – 2025

**

MỘT GÓC PHỐ.      CAO MỴ NHÂN

Anh đứng lặng yên , góc phố này

Đoàn quân thao diễn đã qua đây

Quốc Quân kỳ lộng trên đường phố

Ngàn cánh  mai tươi  giữa nắng say

*

Nhạc khúc quân hành rộn mãi chân

Giày đinh , mũ trận   ” hội phong vân  “

Xưa anh xứng đáng trai thời loạn

Giờ cứ băn khoăn với ngại ngần

*

Anh biết làm chi , biết nói chi

Bạn bè kẻ ở ngóng người đi

Người đi , kẻ ở đều ngơ ngác

Sao chẳng cùng nhau khoác chiến y

*

Anh lịm người trong nỗi tủi hờn

Xuân qua , hạ tới  , vẫn cô đơn

Thụ sang, đông lại , mù tăm nhạn

Tín hiệu xa xăm nén giận buồn

*

Sinh Nhật Anh, sinh nhật bạn bè

Người tràn như sóng ngập đường xe

Kiêu hùng xưng tụng Ngày Quân Lực

Hoang vắng trưa nay những vỉa hè

*

Hãy gióng hồi chuông , khua trống vang

Hồn thiêng sông núi quyện mơ màng

Đốt trầm xua hết loài ma lửa

Ánh sáng hồi sinh đẹp rỡ ràng  …

     CAO MỴ NHÂN 

**

SỬ HÙNG CHIẾU SÁNG

Mừng ngày quân lực VNCH

Năm mươi năm tưởng Hồ Trường đã cạn

Nào hay chiến y còn rỉ máu oan khiên

Người trai hùng thuở ấy vẫn an nhiên

Niềm tự hào mãi nguyên trên đỉnh nắng

Gót giày anh bùn Xuân Lộc hoen lấm

Tiếng thét xung phong vang dậy trời Nam

Bờ lau khe suối xác thù ngổn ngang

Đại bác xe tăng dịch quân tơi tả

Tiếng súng anh đồi Charlie xối xả

Nhắm tim địch tới viên đạn cuối cùng

Nghe gió hú đáp tiếng gọi núi sông

Viết tên anh vào sử xanh vạn thuở

Bàn chân anh dấu Quảng Trị thành cổ

Chí trai ngất nghễu dựng lại cờ vàng

Khát vọng tự do chiếu sáng ngàn năm

Tuổi trẻ Việt nam vươn vai Phù Đổng

Máu anh nhuộm sàn tàu lửa bỏng

Hoàng Sa đất tổ ai nỡ chia lìa

Dành từng viên đá dựng lai mộ bia

Tổ quốc ghi ơn gia tài của mẹ

*

Thân xác anh vờn theo ngọn gió

Đại bàng gãy cánh giữa chốn thinh không

Hồn anh lửng lơ mây trắng bềnh bồng

Nợ nước tình nhà thân trai lỗi hẹn

Tên anh ghi khắc lá rừng suối vắng

Việt điểu ngang trời đậm nét sử xanh

Máu nở thành hoa chim Việt hiên ngang

Vòng tay Âu Cơ ngàn năm ngọt ấm..

(Ngô Đức Diễm)

BÀI THƠ KÝ SỰ MỪNG NGÀY QUÂN LỰC VNCH & CẢM ƠN VTLV CỦA TÁC GIẢ DONRY NGUYỄN ĐÌNH CHIẾN

KÝ SỰ SAN JOSE
(Mừng ngày QLVNCH 19-6)

Đến San Jose ra mắt tập thơ,
Được tiếp đón bởi Văn Thơ Lạc Việt.
Gặp cơ duyên sắp đến ngày Quân Lực
Lại đúng vào chủ nhật Father’s day.

*

Chị Phương Hoa cười nói: “cậu em may,
Ban tổ chức xếp chung vào một cuộc.
Mời tất cả cứ đúng giờ thưởng thức
Trọn chương trình, mừng người lính, tình cha.”

*

Xen màn đầu phần giới thiệu thơ ca,
Anh Văn Hải đi một đường rất điệu.
Nguyễn Hồng Dũng khi tiếp lời phát biểu
Giọng hùng hồn như truyền Hịch ba quân.

*

Ban hợp ca cất tiếng hát trầm hùng,
Làm không khí nóng bừng vui lễ hội.
Chị Thúy Nga, giọng ngâm thơ vừa trỗi,
Gợi nỗi buồn tưởng nhớ tháng tư đen.

*

Bài Kiêu hùng ca ngợi lính Pháo binh,
Được Minh Thúy ngọt ngào ru giọng Huế.
Chị Phương Hoa, ngược thời gian lần kể,
Nguyên do nào chị giới thiệu Đông ry.

*

Cả hai người đồng nhiệm vụ MC:
Cô Hạnh Thảo và trưởng ban Hoàng Thưởng,
Đã giúp gọi khách mời mua cuốn sách,
Khiến ba nàng thư ký bán liền tay.

*

Những người yêu đời lính tụ về đây,
Mừng gặp gỡ bạn bè và chiến hữu.
Những hồn thơ cùng đắm say vần điệu,
Lắng nghe lòng thổn thức chuyện xa xưa.

*

Tôi chỉ là người lính nhỏ làm thơ,
Ghi lại khúc bi ca mùa loạn sử.
Phút sa cơ quê hương mù khói lửa
Gánh oan khiên trả nợ mối thù hằn.

*

Cả miền Nam cùng chịu nỗi đau chung
Kẻ tù tội, người vượt biên đào thoát.
Và hôm nay, trên xứ người lưu lạc
Chúng ta về, cùng họp mặt tôn vinh.

*

Những anh hùng vì nước đã hy sinh,
Những người lính không may mang thương tích.
Những người cha đã sống đời cơ cực,
Vừa nuôi con, vừa chống trả quân thù.

*

Người trai hùng hào khí đọc câu thơ
Người ca sĩ vì đời dâng tiếng hát.
Buổi liên hoan cung đàn ngân réo rắt
Sưởi ấm lòng lính cũ nhớ quê hương.

*

Xin cảm ơn những bè bạn sơ, thân…
Những chiến hữu, những người yêu của lính.
Xin cảm ơn ban Văn Thơ Lạc Việt,
Đã hết mình ủng hộ tiếng thơ tôi.

*

Mẹ sinh tôi và nuôi lớn thành người,
Còn bạn hữu cho tôi tình thân ái.
Kỷ niệm này tôi sẽ ghi nhớ mãi …
Trong hành trình mai về lại phương nam.

Chàng Đông Ry Nguyễn.

**

**

VIẾT TRÊN ÁO LÍNH

Khi hoạt động Chiến Tranh Tâm Lý được cải tổ lại, các ngành nghề sinh hoạt quanh phạm trù này, đã được chỉnh trang bổ sung đầy đủ cấp khoản tương đối để làm việc, đáp ứng nhu cầu chiến trường, thì lập tức Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị được hình thành.

Thời gian đầu Tổng Cục CTCT bao gồm mấy nha sở trước, như Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Nha Xã Hội, Nha An Ninh, Sở Quân Tiếp Vụ vv…

Sau đổi thành Cục Tâm Lý Chiến, Cục Xã Hội, Cục An Ninh, Cục Quân Tiếp Vụ, thêm Cục Chính Huấn ( hoàn toàn mới). Một thời gian sau, Cục Quân Tiếp Vụ chuyển về Tổng Cục Tiếp Vận. Ít lâu sau, Cục An Ninh cũng xem như tách rời.

Ba phần hành chính của Tổng Cục CTCT còn lại là: Cục Tâm Lý Chiến, Cục Chính Huấn và Cục Xã Hội.

Bên cạnh đó, một quân trường đào tạo sĩ quan CTCT ở Đà Lạt, để cung ứng cho các đơn vị những sĩ quan chuyên nghiệp về ngành đặc biệt này. Ra trường, quý vị sẽ được bổ sung cho các phòng Tâm Lý Chiến và Chính Huấn.

Cũng là cơ hữu của các Cục liên hệ, mỗi cục có một trường lớp riêng trực thuộc, đào tạo nhân viên chuyên nghiệp như trường Xã Hội Quân Đội của Cục Xã Hội chẳng hạn.

Cục Tâm Lý Chiến, phối hợp lãnh thổ cấp vùng, có cácTiểu Đoàn CTCT. Thí dụ như ngoài QĐI/QKI của… tôi, có Tiểu Đoàn 10 CTCT. Tức là cứ mỗi Quân Khu có một Tiểu Đoàn CTCT.

Tôi chỉ kể sơ thôi, chứ đi vô chi tiết, thì dài dòng văn tự nhiều thứ lắm. Thí dụ: Tâm Lý Chiến còn có các Phòng, ban Báo Chí liên hệ, mà tôi sắp từ từ “lẻn” vào các phòng, ban báo chí ấy, để “ú tim oà” bắt gặp cả lô văn nghệ sĩ thứ thiệt.

Quý vị văn nghệ sĩ thứ thiệt “Toạ thiền” trong Cục Tâm Lý Chiến, vàcác phòng, ban TLC địa phương, từ từ xuống tới Đại Đội, thì vị Đại Đội Phó tác chiến còn kiêm nhiệm Đại Đội Phó CTCT luôn.

Tôi may mắn có mặt trong 24 Khoá CTCT cấp Đại Đội phó, để trình bầy về công tác của phần hành Xã hội địa phương, nên thú thiệt, tôi dám thưa với quý vị rằng: Đơn vị trưởng, đôi khi là sĩ quan tá lớn trong Quân Đội VNCH, ông rất giỏi điều binh khiển quan “oánh giặc”, nhưng phải xử dụng một quân nhân các cấp TLC hoặc CTCT, ông đã cho ngồi tạm đâu đó, hoặc xử dụng vào các việc ngoài ngành nghề họ.

Trong tất cả quý tướng và quý tá lớn đã vào ra Tổng Cục CTCT, phải đợi tới khi Trung Tướng Trần Văn Trung đảm nhiệmchức Tổng Cục Trưởng TC/CTCT, mới thấy hoạt động CTCT khởi sắc rực rỡ.

Vị quan sáu thân cận quan yếu của Tổng Cục, là đại tá Hoàng Ngọc Tiêu tức Thi sĩ Cao Tiêu, giữ phần hành Cục Trưởng Cục Tâm Lý Chiến, mới tổng hợp nhiều nhân dáng tao nhân mặc khách trong phạm vì Tổng Cục nói chung, và cục Tâm Lý Chiến nói riêng.

Thi sĩ đại tá Cao Tiêu thực sự là một văn nhân, thi sĩ… tài hoa, vừa có danh tiếng, vừa có tác phẩm, mới tâm phục khẩu phục được phe ta cầm bút.

Nhưng đánh võ mồm giỏi kiểu Trương Lương, thì OK quá chứ.

Ngán nhất là quý văn thi sĩ ta cứ đàm đạo ở cácquán cà phê nổi tiếng, các quán nhậu tà tà…làm thơ tình nhuyễn hơn viết công văn lính tráng thì thật..nản cho nhiệm vụ đấu tranh, ổn định hậu phương để nâng cao tiềm năng chiến đấu ngoài tiền tuyến của CTCT.

Hoá cho nên những vị Cục Trưởng nêu trên, phải chan hòa ưu đãi nhân tài (tài thực), chỉ thị uyển chuyển văn chương ngõ hầu công tác được hiệu quả nhanh chóng.

Một buổi kia, tôi có công tác về trung ương họp “Xã Hội”, đại tá Tham Mưu Phó CTCT nhờ tôi đưa 1 bức thư đến tận tay.

Đại tá Cục Trướng CụcTâm Lý Chiến.

Phần hành tiếp tân trình báo và nói tôi ngồi đợi.

Phòng khách không có ai, tôi hỏi thăm chừng, rồi nói:

Thư của đại tá Tham Mưu Phó ngoài QĐI/QKI, cần nhận hồi đáp ngay.

Phần hành vô văn phòng Cục Trưởng Cục TLC.

10 phút sau, tôi được diện kiến vị cục trưởng, thi sĩ đại tá Cao Tiêu hỏi vừa đủ nghe: “Cô có quen anh em văn nghệ sĩ nào trong này không?”

Tôi lắc đầu tức khắc mặc dầu tôi có quen vài vị bạn thơ từ trước khi tôi đi lính.

Đại tá Cục trưởng vừa coi thư của Đại tá Phan Phiên TMP/CTCT ngoài tôi, vừa nói:

“Uỷ viên thơ của hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội là thi sĩ Viên Lính đấy, Cao Mỵ Nhân quen mà, còn mấy ông dân sự nữa, chắc cũng quen hả?”

Tôi chỉ im lặng nhưng vui vẻ.

Sau đó ra về. Tôi nghĩ đến vị Cục Trưởng nho nhã này, tôi lại nhớ đến bữa tiệc đãi bên Tiểu Đoàn 50 CT CT, Hạnh Phước với tôi buổi đó nhất định không gắp miếng nào giữa cái bàn dài đầy thịt cá thơm lừng, 8 vị văn nghệ sĩ quân đội hiện diện trong bàn tiệc mà cả cái không gian đó, với “tao nhân mặc khách” cứ cười vỡ cả mái tôn lợp trên hội trường, chẳng ai chịu mời ai một câu.

Bấy giờ chúng tôi còn chưa ra trường Cán Sự Xã Hội, tối đó chúng tôi về nhà Phước ăn mì gõ Bình Hoà.

Khi tôi bước ra sân để xe của Cục Tâm lý Chiến, có tiếng người kêu tên mình, người mặc đồ dân sự cười toe nói:

Cao Mỵ Nhân về công tác hả? Nhớ tôi không? Tôi nhìn ra nhà văn Nguyễn Đình Toàn, liền gật đầu chào.

Cứ thế, tôi quên bẵng cái việc in thơ, khi trong tay đã có mấy trăm bài thơ. Thơ về lính lại rất nhiều nữa.

Tại Cục Tâm Lý Chiến có cả nhà in, kể như kiêm luôn phát hành nếu cần yểm trợ.

Phần thì đơn vị ở xa, phần công tác xã hội tại đơn vị và các trại gia binh nhiều quá, tôi không có cơ hội rảnh rang để in thơ qua hệ thống cơ sở xuất bản của Cục Tâm Lý Chiến.

Tuy nhiên các văn nghệ sĩ thứ thiệt lại thích in ấn và xuất bản

ởngoài… để thơ không mang màusắc linh, khó bán vv…

Thành ra có thể nói tôi mê thích danh nghĩa nhà binh hơn hào quang thi sĩ, mặc dầu làm thơ trước khi đi lính cả chục năm.

Lâu nay có dịp trở lại khúc dạo đầu của văn chương chữ nghĩa, giây phút trữ tình lãng mạn thủa thiếu niên xa vời, Cao Mỵ Nhân tôi tưởng như diều gặp gió, bây giờ viết lách thả ga, viết lấy được.

Anh bảo: “cho bù lại tháng năm quên lãng điệu vần, chỉkết chuyện: “một, hai, ba… chúng ta đi lính… bảo vệ tự do, bảo vệ chính nghĩa quốc gia”.

Đoạn anh gật đầu thú vị:” mà phải có căn cơ duyên nghiệp vậy, những huynh đệ chi binh mới tiếp bước quân hành trên mặt trận truyền thông được chớ”

Tôi nhìn anh thật lâu, có thể suýt khóc, là vì có làm thơ lãng mạn tới đâu, tôi vẫn luôn viết trên vạt áo lính…

Anh ngậm ngùi nói như an ủi tôi: Cao Mỵ Nhân là lính rồi, thì làm gì cũng mang âm hưởng lính, đó là điều chung thủy nhất, quý trọng nhất.    

CAO MỴ NHÂN

**

NHÂN NGÀY QUÂN LỰC, TƯỞNG NHỚ…ANH TÔI! CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI LÍNH VNCH!

-Ngày 13 Tháng 8 năm 1971, trưa hầm hập nóng. Cái nóng của Sài Gòn, hừng hực mái tôn, như chảo lửa đun… sôi. Chiến tranh… khói… khói… lãng đãng mặt người. Trong căn nhà trọ trong hẻm 482 đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, mình nằm chịu trận như một con cá mắc cạn, ngóc lên mà thở trong cuộc chiến khốc liệt nầy… thì nhận được thơ anh. Bức thơ nhầu nhĩ, bì thơ là một tờ giấy, người viết chỉ việc viết vào mặt sau, xếp lại, rồi đề địa chỉ ở mặt trước, có in tem sẵn, dán lại, gởi đi cho nó gọn mà những người lính từ mặt trận thường dùng để gởi về thân nhân là ba, má, vợ hay người yêu hoặc mấy đứa em thơ ngây còn ở hậu phương. Thơ anh viết từ ngọn núi Ba Hô nào đó, khoảng 17 cây số đường chim bay về phía Tây Bắc Quảng Trị, án ngữ đường 9 Nam Lào. Ai kiểm soát độ cao nầy là kiểm soát đường chuyển quân phía dưới. Và muốn tấn công, xâm nhập vào Quảng Trị thì phải tìm cách nhổ sạch quân trú phòng ở đỉnh Ba Hô! Anh nói những ngày ở đây thật là gian khổ và ác nghiệt nhưng gian khổ nhứt là đi lấy nước vì địch quân rình bắn sẻ. Anh nói: Gió Lào mùa nầy ác nghiệt cũng không kém mấy thằng Bắc Quân bên kia núi rình bắn lén. Bầu trời trên đầu, ngày lại ngày, không một đám mây, không mưa… khô khốc! Nước!

Đại đội 1, Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến của anh nằm trên đỉnh Ba Hô đó. Anh không biết ngày về vì hành quân liên miên như vậy và đóng chốt ở đây không biết đến bao lâu mới có đơn vị khác đến thay?

Thơ anh đến, chưa kịp trả lời, thì 21 tây, xác anh đã về tới. Người anh bà con bạn dì, trên chiếc xe Honda, mượn của thằng bạn học khác, chở mình lên Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Chạy trong cái nắng đổ lửa của Sài Gòn mà không nghĩ gì hết. Không tin gì hết. Đầu óc như cứng lại, khô khốc, đặc quánh lại… như cơn gió Lào vi vút, u u… thổi ngoài kia của dãy Trường Sơn.

Xe qua tượng Thương Tiếc, quẹo vào con đường vòng cung. Phía trên đồi là Nghĩa Dũng Đài sừng sững, rồi ngừng lại ở tiền sảnh của Nhà Quàn Liên Đội Chung Sự Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa! Không có ai chỉ dẫn. Như linh tính của tình anh em ruột thịt, mình đến ngay chiếc quan tài hình chữ nhựt màu xanh biển thẫm, đã phủ quốc kỳ. Đầu hòm có một chữ Hán không hiểu nghĩa là gì? Anh bà con đi chung đang học năm thứ hai Văn Khoa nói: “Chữ Thượng nghĩa là trên. Đầu nó nằm đây nè!”

Mặt trước quan tài có đính một tờ giấy. Trên đó viết vài hàng chữ: Cấp bậc: Thiếu Úy. Họ tên: Đoàn Xuân Hòa. Sanh ngày 14 tháng 9 năm 1949. Đại đội Phó, Đại đội 1, Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến. Tử trận ngày 15 tháng 8 năm 1971 tại Quảng Trị.

Nằm kế bên anh là Chuẩn Úy Lê Định, sanh năm 1952, sanh quán Huế, cùng chung đơn vị. Phía sau lưng anh là khoảng hai mươi chiếc quan tài nữa, chia làm hai hàng, có một vài cái thuộc Sư Đoàn 5, còn bao nhiêu đều là lính Đại Đội 1 với anh. Sau nầy, nghe kể lại, ngày 15 tháng 8 một trận đánh khốc liệt đã xảy ra trên đỉnh Ba Hô giữa bộ đội quân chánh quy Bắc Việt và Đại Đội của anh. Đại Đội bắn hết đạn, bị tràn ngập. Trận đánh xáp lá cà bằng lưỡi lê đã diễn ra và kết thúc bằng phi cơ phản lực đến ném bom. 24 chiến sĩ Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 6 Thần Ưng Cảm Tử tử trận! 24 chiến sĩ ngã xuống và bao nhiêu vành khăn tang đội lên đầu của thân nhân tử sĩ? Nào ai biết được con số chính xác. Nỗi đau người lính không còn đau nữa, đã đền xong nợ nước, mà nỗi đau của cha mẹ, vợ con, anh em của người chiến sĩ thì còn đau mãi đến tận bây giờ!

Quanh quẩn bên chân anh, nhang tàn rồi thắp nhang khác, nến tàn rồi đốt ngọn nến khác. Một cọng chân nhang, cắm vào đó một điếu thuốc thơm! Mời luôn những người đồng ngũ của anh mỗi người một điếu! Hà tiện chi nữa! Hết thuốc, lại dốc hết tiền trong túi ra, xuống câu lạc bộ nhà quàn mua cho anh hút trước khi xác thân các anh về với đất. Phía sau tiền sảnh là một căn phòng tối lù mù, chiếu sáng bằng những ngọn đèn tròn, vàng vọt. Rồi có tiếng trực thăng sơn chữ thập hồng, phầm phập xuống bãi đáp. Hai người lính cứu thương, quân y, bước ra, chuyển từ trong trực thăng xác một người lính thuộc Sư Đoàn 5, phù hiệu ngôi sao trắng và số 5 màu đỏ máu trên tay áo!

Xác tử sĩ nằm trên băng ca, một tay thòng xuống, còn đòng đưa theo nhịp đi của hai người lính đang khiêng… chứng tỏ anh vừa mới chết, xác hãy còn nóng hổi, chưa lạnh, nên chân tay hãy còn dịu nhỉu. Quần áo trận của anh vẫn còn ướt sũng và vấy đầy bùn đất! Xác anh được mang vào phòng và những người lính Quân Nhu thuộc Liên Đội Chung Sự xúm lại làm phần việc của mình trong im lặng. Trước hết dùng kéo cắt quần áo trận ra để tắm rửa cho tử sĩ lần cuối. Cái vòi nước xịt vào khuôn mặt giờ hơi tai tái nhưng vẫn còn lật qua lật lại được theo tia nước. Sau đó là lau khô xác, hớt tóc cho ngắn gọn, dùng phấn và son tô lại khuôn mặt, môi người tử sĩ để thân nhân nếu có lên nhìn mặt cho đỡ tủi. Mặc cho người lính vừa ngã xuống một bộ ka ki vàng còn hồ cứng. Công đoạn cuối cùng là đổi cáng. Hai chiếc thẻ bài đeo trên ngực tử sĩ được rứt ra. Một sẽ giao lại cho thân nhân và một gắn trên đầu hộc tủ, một trong khoảng ba trăm cái của phòng lạnh, để biết mà mở ra cho thân nhân lên nhận diện Năm giờ chiều thì Ba, Má dẫn mấy đứa em từ Mỹ Tho lên. Lúc đó thấy Má đi không nổi nữa. Chân như khuỵu xuống; phải tựa vào vai Ba mà bước! Mấy đứa em còn nhỏ quá nhìn quanh… ngơ ngác. Thấy Má như vậy, nước mắt mình bây giờ, trưa tới giờ có khóc được giọt nào đâu, mới trào ra như suối:

“Ảnh nằm đây nè! Má!”

Má chỉ kêu: “Con ơi!” Rồi khóc! Nghe thảm làm sao! Ba chỉ im lặng, không nói gì, mặt nhăn nhúm lại!

Đêm xuống, Ba, Má và mấy đứa em vô nhà khách nghỉ để bình minh, rạng sáng mai đưa xác anh về quê cũ. Mình không ngủ được, mặc chiếc áo ba-đờ-xuy cho đỡ lạnh. Trên đồi, gió nhiều quá, thổi u…u. Mình ngồi bó gối, dưới chân anh. Nhang tàn thắp khuya. Thuốc tàn lại đốt. Tiếng con vạc sành bám trên nóc sảnh lâu lâu lại rơi xuống, đập cánh xè xè, nghe như hơi người chết từ những chiếc quan tài chập chờn ánh nến, thoát ra.

Nhìn lên đồi cao nơi mộ ông Tướng Đỗ Cao Trí đèn thủy ngân sáng choang. Nhìn xuống dưới, những hàng bia mộ người chết trận… lặng im… chìm trong tối. Dọc đường từ nhà quàn vào khu gia binh của Liên Đội Chung Sự, những mảnh ván quan tài đang đốt dở, cháy leo lét trong gió. Những mảnh ván quan tài đang cháy dở là do việc thân nhân mướn những người thầu tư nhân rửa xác tử sĩ lại để còn nhìn mặt lần cuối. Hòm cũ bỏ đi, sau đó xác được đặt vô cái hòm kẽm mới, hàn chì lại để ngăn mùi tử khí không thoát được ra ngoài, có người nằm lại nghĩa trang cùng đồng đội, có người được mang về quê an táng.

Ba không muốn khui nắp quan tài anh ra nữa, không phải sợ tốn tiền. Mà ba sợ ảnh chết như vậy chắc không còn nguyên vẹn gì… mà nếu Má nhìn thấy thì làm sao chịu cho nổi!

Hai là hy vọng người tử sĩ nằm đó không phải là xác của con mình. Một hy vọng hão huyền là có thể ngày nào đó anh sẽ về, gặp lại Ba, gặp lại Má chăng? Rõ ràng hy vọng đó chỉ là ảo vọng; dù vậy Ba vẫn còn ráng nắm níu, ráng mà bám víu theo?!

Sáng hôm sau, một bán tiểu đội lính, 6 người, ông Trung Úy già, Trưởng Hậu Cứ Tiểu Đoàn chỉ huy và chiếc GMC mười bánh đến! Những người lính kê vai, vác, đưa chiếc quan tài lên xe! Và anh về quê cũ. Tiếng kèn đồng nghe u uất. Trước đầu xe có tràng hoa cườm và băng vải tím.

Người yêu anh, chị Loan, y tá Bệnh Viện Lê Hữu Sanh của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, nức nở: “Anh Hòa ơi! Anh Hòa ơi!” lúc di quan! Tình nồng thắm của anh chị như bọt nước đã đành tan theo vận nước sau đó.

Lại theo xác anh. Xe qua những đường phố Sài Gòn nhộn nhịp. Người lính tử trận… lẳng lặng đi qua. Có người dừng lại, chào kính xác người chiến sĩ. Có người dừng lại, ngả nón cúi đầu! Đa số vẫn tiếp tục đi. Và xe chở xác vẫn đi!

Mang anh về lại quê nhà, Mỹ Tho… nơi, anh vì nước phải bỏ nó mà đi chỉ mới có 4 năm! Mình không nghĩ được gì hết! Cuộc chiến tranh nầy ai gây ra ư? Tại sao vậy? Làm sao cắt nghĩa được tham vọng của một lũ điên? Chỉ biết một điều là một thanh niên mới vừa xong trung học là lên đường nhập ngũ, từ Mỹ Tho ra tận Miền Trung gió Lào khô khốc thổi, rồi ngã xuống ở Đỉnh Ba Hô nào đó của Quảng Trị để ngăn chận Bắc Quân tràn vào thị xã.

Ngày 25 tháng 8, ôm tấm di ảnh của anh, thằng em kế, thứ năm, nối bước theo sau, trên hai tay là chiếc gối nhỏ, màu vàng viền đỏ, màu cờ, có cặp lon trung úy và chiếc bảo quốc huân chương đệ ngũ đẳng kèm anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, đưa anh đến huyệt mộ! Thòng dây đưa quan tài anh xuống kim tĩnh mà mấy ông thợ hồ vừa mới xây xong, xi măng chỉ vừa kịp khô nước.

Ba loạt tiếng M-16 bắn chỉ thiên, chào vĩnh biệt người chiến sĩ.

Lại tiếng kêu khóc của người yêu anh ở giờ hạ huyệt: “Anh Hòa ơi! Anh Hòa ơi!”

Đất lấp lại! Và năm ấy mình vừa 20 tuổi. Ngày chôn anh, ngày 25 tháng 8, là ngày sinh nhựt của mình!

(Khuyết Danh)

**

MỘT CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG: CUỘC SỐNG CỦA MỘT THƯƠNG BINH VNCH.

Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi để mắt theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy vào nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.

       Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất, chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục. Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới, vì mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.

       Cứ thế, mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Tôi cố tình làm quen với thằng bé nhờ hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán. Thằng bé đứng nép vào ngày càng sâu hơn trong quán vì mưa ngày càng lớn chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không?

       Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây? và hiện sống với ai? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn rằng:

image.png

– “Con sống với ba má con, Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ…”

Tôi hỏi tiếp:

– “Còn con có đi học không ?”

Thằng bé nói:

– “Con không có đi học… con ở nhà phụ với má nuôi heo…”.

       Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy. Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa, và cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa. Và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà chị chủ quán cho nó vô phụ dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về và cho nó ăn uống để phụ việc. Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm.

Có lần thằng bé hỏi tôi:

– “Chú làm nghề gì vậy hả chú?”

Tôi chỉ trả lời ngắn gọn là “Chú đang làm thinh”.

       Đúng vậy mới cải tạo về mà, vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi, nghe đâu đã định cư bên Úc, nay về ở với mẹ già ngày 1 buổi cà phê hai bửa cơm độn qua ngày. Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua, may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà.

       Không biết chị chủ quán có bỏ bùa mê hay tôi ghiền chổ ngồi mà không bữa nào vắng tôi. Một hôm, tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm. Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt, tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì.

       Thương nó lắm, tôi dúi tiền cho nó hoài. Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo nó khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa. Khi thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ. Đứng dưới gốc cây Gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chổ đâu mà nuôi heo. Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều.

       Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà, một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu đủ loại muốn chui vào phải khom mọp xuống. Nghe thấy có tiếng chân dừng lại, có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất, thì nghe giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi, và hỏi tôi là ai, mời tôi vào…. Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt tôi.

       Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối, lam lũ và khắc khổ lắm. Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về. Vừa bàng hoàng, vừa cảm động vừa xót xa, nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén…

       Từ đó, tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ thủy chung tần tảo nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui. Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.

       Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết.

       Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng lắm. Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.

       Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày tôi đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa. Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu tôi hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.

       Mấy năm sau tôi về thăm gia đình, tôi có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết! Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan.

       Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin được việc làm đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha. Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang lãnh bên phụ hồ, tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ. Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi.

image.png

      Thằng Tuất vừa khóc vừa nói: “Sao ai cũng tốt với gia đình con hết đó, nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia dình con nhiều lắm, sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi”. Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói “Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé”…

       Đời này cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng, thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng trụ sở ở Sydney. Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến. Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống hết sức đói nghèo bên quê mẹ.

       Tôi xin cảm ơn cả hai: người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.

(Minh Tạo)

**

***

Canh bạc chưa chơi mà hết vốn

Cờ còn nước đánh phải đành thua (*)

Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa

thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:

1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ,

Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.

Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh”.

2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng

ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon.

Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, tướng Phát và những người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người lính chiến đấu này không có…radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.

Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng…bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon. Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.

Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.

Một câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu tướng”, rồi rút súng bắn vào đầu tự tử

Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10, 1998)

Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…

3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.

Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”

4/ Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”

Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu

có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”

Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa…

Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.

Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…” Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát

(Người lính cũ tổng hợp tin từ báo chí nước ngoài)

https://hangoc2020.blogspot.com/2025/06/so-ac-biet-ky-niem-ngay-quan-luc-vnch.html

https://hangoc2020.blogspot.com/2025/06/so-ac-biet-ky-niem-ngay-quan-luc-vnch.html



VTLV TRANG ĐẶC BIỆT MỪNG NGÀY TỪ PHỤ

**

**

**

THƠ CHÚC MỪNG NGÀY TỪ PHỤ

(Thủ nhất thanh – Nhị khúc)

CHÚC ngày tháng Sáu rộn ràng nha!

CHÚC khắp hoàn cầu mở tiệc hoa

CHÚC thọ Father dâng mỹ tửu

CHÚC an Từ Phụ hiến Tiên trà

CHÚC lòng trung hiếu luôn bền vững

CHÚC chữ nghĩa nhân mãi hiệp hoà

CHÚC hãy đừng quên ơn dưỡng dục

CHÚC toàn chốn chốn thảy mừng CHA

*

MỪNG Cha luôn được sống an nhàn

MỪNG kính Phụ thân thọ tuổi vàng

MỪNG nhận niềm vui thêm chất ngất

MỪNG mong hạnh phúc mãi đầy tràn

MỪNG trong gia đạo nhìn con hiếu

MỪNG chốn học đường thấy cháu ngoan

MỪNG Lễ Father’s xin ước nguyện

MỪNG chờ ngày trở lại giang san….

   Phương Hoa – HAPPY Father’s Day 

**

**

*Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ

Cách nhìn ngày nay về việc kỷ niệm Ngày Hiền Phụ có nguồn gốc từ Hoa Kỳ, sau đó truyền thống này lan truyền sang các nước trên thế giới. Thế giới mang ơn bà Sonora Louis Smart Dodd, một người con yêu thương ở Spokane (Washington) vì bà đã tranh đấu để có Ngày Hiền Phụ như ngày nay. Bà cho rằng chúng ta tôn vinh những người Mẹ mà lại quên công khó của những người Cha trên cương vị “chống mũi chịu sào”.

Ý tưởng về Ngày Hiền Phụ xuất hiện trong đầu bà Sonora khi bà tình cờ nghe bài giảng thuyết về Ngày Hiền Mẫu năm 1909. Lúc đó bà 27 tuổi, bà nghĩ: “Nếu có ngày tôn vinh Mẹ thì tại sao không có ngày tôn vinh Cha?”. Bà cảm thấy thương những người cha vì tình thương bà nhận được từ người cha của bà là ông William Jackson Smart, một cựu chiến binh. Mẹ bà qua đời do sinh con khi Sonora mới 16 tuổi. Ông Smart phải chịu cảnh “gà trống” nuôi 5 đứa con bằng tất cả lòng yêu thương và chăm sóc của người cha kiêm chức năng làm mẹ.

Được cảm hứng từ việc bà Anna Jarvis đấu tranh để có Ngày Hiền Mẫu, bà Dodd bắt đầu khởi xướng tổ chức Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ. Hiệp hội Chính quyền Spokane (Spokane Ministerial Association) và Hiệp hội Thanh niên Kitô giáo (Young Men’s Christian Association – YMCA) tại địa phương ủng hộ ý nguyện của bà Sonora. Kết quả là Ngày Hiền Phụ được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 19-6-1910. Dù ban đầu có sự lưỡng lự, nhưng vẫn được nhiều người ủng hộ, và Ngày Hiền Phụ được tổ chức tại các thành phố trong quốc gia Hoa Kỳ.

Thấy rất nhiều người tụ họp kỷ niệm Ngày Hiền Phụ tại Hoa Kỳ, tổng thống Woodrow Wilson phê chuẩn việc này vào năm 1916. Tổng thống Calvin Coolidge cũng ủng hộ Ngày Hiền Phụ mang tính quốc gia của Hoa Kỳ vào năm 1924: “Hãy thiết lập các mối quan hệ thân mật giữa cha con và nhấn mạnh vào trách njiệm của họ”. Sau 40 năm đấu tranh, tổng thống Lyndon Johnson ký lệnh dùng Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu là Ngày Hiền Phụ từ năm 1966. Năm 1972, tổng thống Richard Nixon ký quyết định vĩnh viễn kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu hằng năm. Bà Sonora Smart Dodd được tôn vinh vì bà đã góp phần vào Hội chợ Thế giới (World’s Fair) ở Spokane năm 1974. Bà Dodd qua đời năm 1978, hưởng thọ 96 tuổi.

father-7.gif

*Các giả thuyết về lịch sử Ngày Hiền Phụ

Có vài giả thuyết về Ngày Hiền Phụ. Một số người co rằng Ngày Hiền Phụ đầu tiên được tổ chức tại miền Tây Virginia năm 1908. Một số người khác cho rằng lễ này được tổ chức lần đầu tại Vancouver, Washington.

Chủ tịch câu lạc bộ Lions tại Chicago, ông Harry Meek, được coi là người tổ chức Ngày Hiền Phụ đầu tiên vào năm 1915 để nhấn mạnh vào việc tôn vinh những người cha. Ông chọn Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu để kỷ niệm, đó là ngày gần sinh nhật của ông Meek. Để đánh giá công việc của ông Meek, CLB Lions của Hoa Kỳ đã tặng ông chiếc đồng hồ bằng vàng, với lời đề tặng “Người khởi xướng Ngày Hiền Phụ” (Originator of Father’s Day) vào chính sinh nhật của ông, 20-6-1920. Một số sử gia tôn vinh bà Charles Clayton ở Tây Virginia là người khởi xướng Ngày Hiền Phụ.

Năm 1957, thượng nghị sĩ Margaret Chase Smith viết thư gởi quốc hội: “Dù chúng ta tôn vinh người cha hay người mẹ thì cũng đừng bỏ người nào. Người cha hay người mẹ bị bỏ quên cũng đều cảm thấy buồn vậy”.

Ngày Hiền Phụ được kỷ niệm vào những ngày khác nhau ở các nước khác nhau. Đa số các nước – kể cả Hoa Kỳ, Anh, Canada, Chilê, Pháp, Nhật và Ấn Độ – đều kỷ niệm Ngày Hiền Phụ vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Sáu.

Mặc dù Ngày Hiền Phụ không cố định giống nhau tại các nước và cách kỷ niệm cũng khác nhau, nhưng ở đâu cũng chung một tâm tình là tôn vinh công lao của những người cha và bày tỏ lòng yêu thương đấng sinh thành. Vào ngày này, con cái gởi thiệp mừng, hoa và quà cho cha mình để bày tỏ lòng yêu thương và kính trọng.

Tại nhiều quốc gia có đa số là người Công giáo thì Ngày Hiền Phụ được mừng vào ngày lễ kính Đức Thánh Giuse, ngày 19 tháng Ba.

Ngày Hiền Phụ được coi là rất quan trọng vì ngày này giúp nhận thức về công lao của những người cha đối với gia đình và xã hội. Việc cử hành Ngày Hiền Phụ không chỉ giúp những người con có cơ hội bày tỏ yêu thương và kính trọng đối với cha mình, mà còn giúp củng cố quan hệ phụ tử và phát triển tình cảm của người con dành cho cha mình.

Không quân Lê Văn Hải sưu tầm

**

NGƯỜI CHA LAO CÔNG

Phương Hoa

Buổi trưa, bầu trời trên thành phố biển Berkeley trong xanh. Nắng thật đẹp. Ánh nắng rực rỡ nhưng khí hậu lại man mác, dịu dàng. Hơi mát len nhẹ vào phòng đợi tầng hai của bệnh viện từ cánh cửa tự động mỗi khi có người vào ra, mang theo mùi hương thoang thoảng từ vườn hoa đủ loại ngoài sân thượng bệnh viện.

Đột nhiên trời trở gió. Những cơn gió mạnh ào theo bước chân của khách tạt vào làm bay tốc các tờ tạp chí và làm chao đảo các cành hoa đầy màu sắc trong mấy chiếc độc bình lớn trên bàn, cạnh những bộ sofa khách đang ngồi. Từ phía sau, một người đàn ông Việt Nam mặc bộ đồ màu xanh xám của nhân viên bệnh viện đẩy chiếc xe chất đầy dụng cụ lau nhà phăng phăng đi ngang qua phòng đợi, vừa đi ông vừa cởi chiếc khẩu trang ra thảy vào trong giỏ rác.

– “Hey! Mr. Lac!” Già Lạc ơi! Cô y tá từ trong phòng lab bước ra gọi. – Ông có thể giúp chỉnh đốn lại mấy bình hoa kia được không? Và cả những khay trái cây luôn, làm ơn nha! Lát nữa đây có phái đoàn trên trung tâm chính xuống khảo sát, mà tất cả mọi người đều bận, kể cả các thiện nguyện viên, nên mới nhờ đến ông đó.

– “Yes Anna! No Problem!” Được cô Anna ơi! Không sao đâu! Ông Lạc cười xởi lởi, khoe hàm răng ngả sang màu ngà vì khói thuốc đã bị mất chiếc răng nanh bên trái. – Để tôi cất cái xe này vào kho đã rồi sẽ làm ngay.

Ông Lạc trở ra sắp xếp mớ tạp chí và lau dọn sạch các mặt bàn rồi ngồi xổm xuống trước một bình hoa, tỉ mỉ sắp xếp lại và đổ thêm nước cho đầy bình để sức gió không thể lung lay. Bình hoa thật lớn. Chen lẫn trong nhóm hoa hồng hoa cúc và hoa huệ, là những đóa hướng dương màu vàng sậm, to lớn giống những chiếc gương tròn, nặng quằn dường như quá sức chịu đựng của cuống lá mảnh mai. Nhưng dù bị gió làm cho nghiêng ngả, chúng vẫn ngoan cường tươi tắn ngạo nghễ nhìn đời, và vẫn luôn cất cao đầu hướng về phía cửa, nơi có ánh nắng mặt trời chói chang vừa bị mây đen kéo qua che khuất.

Ngồi cắm lại những bông hoa xiêu vẹo, ông Lạc tẩn mẩn nghĩ, bịnh nhân ung thư đang điều trị trong khu này cũng giống như những bông hoa mặt trời. Những lần xạ trị đốt cháy thịt da, bao đợt hoá trị phờ người vật vã ói mửa, họ vẫn kiên cường chống chọi. Dù mang bệnh hiểm nghèo, họ gắng sức chiến đấu để giữ lại sự sống. Không biết có phải do vậy mà bệnh viện mới đem chưng loài hoa này ở đây hay chăng, vì ông thấy hầu hết các phòng, chỗ nào cũng có chưng hoa mặt trời.

Những người ngồi chờ nhìn ông làm việc, gật đầu khen ông làm “good job” làm ông cũng thấy vui vui trong lòng.

Làm xong ông Lạc bước lại chỗ kệ để thức uống và trái cây. Trong khay chỉ còn có mấy trái chuối, ông ra nhà bếp bưng tới một rổ táo, chuối, và cam quýt, chất vào cho đầy. Tất cả đều là những loại trái cây hữu cơ “organic” trái nào trái nấy trông sạch sẽ và mạnh mẽ. Nhìn những cái khay đặt cạnh bình nước nóng chứa đầy các loại túi trà, cafe khác nhau kèm theo nhiều túi đường sữa bên cạnh, rồi những bì chips, bánh quy mặn ngọt lạt gì cũng có, ông Lạc thấy khâm phục cách chăm sóc bệnh nhân rất chu đáo ở đây. Ngày ba bữa sáng trưa tối họ cung cấp thức ăn với đầy đủ dinh dưỡng cho bệnh nhân, ai muốn ăn món gì thì có thể đặt hàng cho mình, y tá sẽ đem tới bất cứ lúc nào. Trong tủ lạnh của khu vực này lúc nào cũng đầy ắp sữa tươi, bánh mì kẹp thịt, cá thu, cheese, yorgut, và các loại kem là những thức ăn vặt cho bệnh nhân đỡ lòng khi nào họ cảm thấy đói mà chưa tới giờ ăn chính.

Làm cái job lao công ở đây mười mấy năm, ông Lạc quen biết tất cả mọi người, từ bác sĩ, y tá đến các chuyên gia dinh dưỡng. Người ta cũng rất thích ông vì sự vui vẻ, hiền lành, và làm việc với sự tận tâm. Bà Hạnh vợ ông bị bịnh ung thư cũng được chữa trị ở đây. Các bác sĩ đã hết sức tận tình cứu chữa cho bà lành bệnh. Chỉ tiếc là sau khi hết bệnh bà đã quá ỷ y nên mải lo đi làm không chú ý theo dõi thường xuyên về sức khỏe. Chục năm sau, khi biết bệnh tái phát thì đã quá muộn màng. Các bác sĩ rất giỏi nên họ cũng giúp bà kéo dài thêm được mấy năm.

– Bố Lạc ơi! Làm dùm cho con một ly cà phê với “đường không ngọt” (nonsweetener) đi!

Ông Lạc giật mình quay lại. Đó là Tazee, cậu bệnh nhân “con bà phước” người Mỹ Trắng trẻ nhất, điều trị lâu nhất trong khu này. Một đứa trẻ tội nghiệp. Ông thường nghĩ vậy mỗi khi gặp Tazee. Cậu chỉ mới hơn 20 tuổi đầu mà mắc chứng ung thư mũi vào gian đoạn III trong khi đang học năm thứ hai ở trường Laney College. Suốt mấy tháng điều trị, không hề thấy có thân nhân nào đến thăm, dù khi cậu bị thuốc hành phải nằm cả tuần trong phòng cấp cứu, cũng chẳng có ai chở dùm đến bệnh viện dù chỉ một lần. Cậu lúc nào cũng tự lái xe đến phòng xạ trị và hoá trị rồi chạy về. Mọi người từ bác sĩ đến y tá đến nhân viên nhà bếp, kể cả nhân viên vệ sinh như ông Lạc cũng đều thương Tazee, vì cậu rất can đảm, chấp nhận điều trị căn bệnh hiểm nghèo, không bao giờ tỏ ra sợ hãi hay than phiền.

Tazee lớn lên bất hạnh. Cha mẹ ly dị khi cậu vừa đủ 18 tuổi phải ra tự lập. Cậu vào học đại học vừa đi làm ở McDolnal để có tiền sinh sống và học phí. Cha mẹ cậu sau đó đã tái hôn và dọn đi tiểu bang khác. Mỗi người tự lo cho hạnh phúc của riêng mình, nên họ không hề nhớ đến đứa con đang bệnh hoạn này. Cậu kể, cả cha mẹ cậu ngày còn ở chung hai người đều hút thuốc lá uống rượu mạnh, cho nên chỉ mười tuổi đầu cậu cũng bắt chước làm theo. Bác sĩ nói, rượu mạnh và thuốc lá là nguyên nhân chính dẫn đến căn bệnh của cậu. Ông Lạc thương Tazee hơn ai cả vì cậu ta cũng cỡ tuổi thằng Jimmy con ông. Ông thường vô nhà bếp lấy thức ăn mỗi khi cậu nhờ. Chỉ cần nói cho Tazee là món gì cậu cần nhà bếp cũng cho.

Tazee nhìn ông lạc cười rạng rỡ. Một tay cậu cầm chiếc mặt nạ xạ trị màu xanh lá mạ, tay kia ôm một khung hình.

– Hey bố Lạc! Bác sĩ vừa mới cho con xuất viện khi nãy! Tazee nói, đưa chiếc mặt nạ ra trước mặt ông. – Còn đây là “tấm bằng khen” con đã hoàn thành tốt việc chữa trị! “Ngon lành” chưa! Tazee đùa thêm một câu.

Ở khu này, mỗi khi bệnh nhân nào lành bệnh thì bác sĩ cho xuất viện và cấp một tấm giấy chứng nhận việc chữa trị đã hoàn thành, mọi người gọi đùa đó là “tấm bằng khen” hay là “giấy khai sinh thứ hai.” Điều này rất đúng! Những căn bệnh ung thư chữa hết thì coi như được tái sinh lại lần nữa chứ còn gì. Bác sĩ cũng đưa cho bệnh nhân cái mặt nạ xạ trị được thiết kế riêng cho họ để mang về nhà làm kỷ niệm.

– Wow! Chúc mừng Tazee nha! Ông Lạc kêu lên, nhìn vào tấm bằng trong khung hình và đưa ngón cái lên ra dấu “number one” rồi suýt xoa. – “You did it!” Cậu đã làm được rồi! Giỏi quá! Tôi sẽ làm cho cậu ly cà phê ngon… nhất nước để chúc mừng nghe! Ông đùa xong vội lấy ly pha cà phê cho Tazee.

Nhìn cậu thanh niên, ông Lạc chợt xúc động. Sự can đảm đã cứu lấy cậu trai này. Nhớ lại những ngày chữa trị, Tazee đã trải qua những khổ đau thế nào. Cậu vật vã với ói mửa, đau đớn, mặt mũi bị cháy nám ra tới ngoài da, kể cả ngất xỉu phải đưa lên phòng cấp cứu. Dù chính ông cũng từng chịu đựng bị hành hạ khi ở tù, nhưng chứng kiến cái cảnh bệnh hoành hành, ông không biết mình có thể chịu đựng được như Tazee hay chăng.

Nhìn theo dáng đi thật thong thả, thật nhàn nhã của Tazee so với những ngày cậu mới vào đây bước đi không nổi, ông Lạc bất giác thở dài, nghĩ đến thằng con Jimmy của ông. Trong khi Tazee và bao nhiêu bệnh nhân ở đây phải ráng chiến đấu với thần chết để giành lại mạng sống thì thằng con ông lại đi đâm đầu vô chỗ chết. Mấy tháng qua, cuối tuần nào ông cũng lặn lội qua thành phố San Francisco để tìm thằng Jimmy. Có lần tìm thấy nó đứng chung với mấy đứa Mỹ, ông mừng quá chạy vội tới. Trong lúc lính quýnh vừa chạy vừa dòm chừng sợ nó bỏ đi, ông vấp phải cái bục xi măng cạnh lề đường và ngã sóng soài. Đến khi ông lò dò đứng dậy được thì chỉ còn mấy đứa kia, thằng con biến đi đâu mất. Ông chạy lại hỏi, tụi nhóc cười hô hố không trả lời.

Chiều thứ Sáu đi làm về, ông Lạc ăn vội miếng cơm rồi khoác lên bộ đồ đen nhem nhuốc rách rưới, đôi giày cũ mèm mòn hết đế, đội chiếc mũ lác Mễ ông mua ở chợ 99 cent về bôi cho loang lổ. Kỳ này ông thay đổi chiến thuật, giả dạng làm người ăn xin để qua San Francisco lần nữa. Trong mấy ngày nghỉ cuối tuần, ông nhất quyết phải kiếm cho bằng được Jimmy. Với cái bao rác màu đen to đùng, bên trong đựng tấm nilon cùng chiếc mền rách và vài thanh kẹo cốm để đỡ lòng khi đói, ông ra vườn sau vơ mớ đất cát trong chậu cây thoa lên mặt và hai tay phụ họa cho phần cải trang để thằng Jimmy không nhận ra ông. Đón xe Bart qua San Francisco, ông Lạc vác cái bao từ đường Market đi lần về hướng sau lưng Toà Thị Chính.

Trời đã xâm xẩm tối, bầu không khí của thành phố biển trở nên lạnh dần. Dãy đèn đường giăng giăng ánh sáng vàng vọt trên những ngọn cây dọc theo đường Ellis và Olive như rải chút niềm hy vọng chở che cho đám người cùng khổ có chỗ nghỉ ngơi, sau một ngày lang thang tản mác khắp nơi kiếm sống. Đó là lúc các tiệm quán hai bên đường bắt đầu đóng cửa, “trả lại” vỉa hè cho những kẻ không nhà. Quả thật đúng như người ta nói, thành phố San Francisco là nơi dung chứa tốt nhất cho “Homeless.” Trời càng tối thì người ta càng lũ lượt, kẻ đẩy xe shopping cart trên chất ngổn ngang các thứ quần áo chăn mền, người mang cặp, kẻ vác bao, trở lại vị trí cũ của mình, trải những tấm nilon, tấm bạt xuống vỉa hè chuẩn bị cho giấc ngủ.

Ông Lạc cũng chen vào gần với họ vì không muốn ngồi một mình sẽ bị cảnh sát đi tuần để ý. Thấy chỗ góc đường Ellis gần đường Larkin còn một khoảng trống chưa có ai ngồi, ông lò dò bước lại đặt cái bao xuống. Trải tấm nilon ra ngồi, qua chiếc mũ sùm sụp ông quan sát thật kỹ xung quanh. Gần đó, nhiều người đã chui vô chăn trùm kín mít, chỉ còn vài người đang phì phèo thuốc lá, những đóm lửa tỏa sáng trên đầu môi họ.

Thấy hơi đói, ông mở túi nilon lấy một thẻ kẹo trái cây nhai xong, cột túm cái bao lại đặt trên tấm trải và đứng dậy lững thững đi ngược về phía con hẻm bên cạnh. Đâu có gì quý giá trong đó mà lo. Những kẻ không nhà này chắc không ai đi trộm đồ “đồng nghiệp” của mình. Tới cuối đường, ông Lạc nhìn vào trong hẻm. Đó là một khu vực tối tăm của đường Eddy, nơi ông đã có lần nhìn thấy Jimmy sau lần gặp nó gần Tòa Thị Chính. Con đường vắng vẻ không thấy bóng dáng ai, ngoài những cụm người đắp chăn nằm lù lù rải rác từ phía xa gần đường Polk.

Trời về khuya, xe cộ lúc này đã giảm bớt qua lại, những kẻ không nhà quanh đây cũng đà ngon giấc. Khu phố thật yên ắng. Thỉnh thoảng một vài chiếc xe của những người đi làm về trễ chạy chậm chạp mệt mỏi ngang qua, trông buồn tẻ cô đơn như những con nhạn lạc bầy. Ông Lạc ứa nước mắt nghĩ đến thằng con.

Là một người trước đây dù kẻ thù hành hạ cỡ nào nước mắt cũng không rơi, mà từ dạo vợ qua đời rồi đến lượt thằng con giở chứng, ông đâm ra như người “mít ướt,” nước mắt cứ chảy thường xuyên…

**

Thằng Jimmy là đứa “con trai cầu tự,” là đứa con…đẻ ráng, sau ngày vợ chồng ông đến Mỹ diện HO.  Ông Lạc từng là một sĩ quan của Quân Lực VNCH, đi tù khi Mỹ Hạ con gái đầu lòng của hai vợ chồng mới lên bốn tuổi. Lúc sinh Jimmy, bà Hạnh đã ngoài bốn mươi. Thời gian sau theo dõi, bác sĩ nói đứa bé có vấn đề tâm lý, bị trầm cảm, cần phải được chăm sóc cẩn thận. Nghe lời khuyên, vợ chồng ông tìm đọc sách báo để biết cách nuôi con. Khi thằng bé bắt đầu đi học, ông Lạc gửi nó vào một trường bán công (Charter School) để họ chăm sóc cho kỹ càng. Nhờ vậy, Jimmy lớn lên ngoan hiền, học giỏi, chỉ tội ít nói chuyện ngoài ra không có vấn đề gì trầm trọng.

Đứa con gái lớn Mỹ Hạ của ông bà học rất giỏi.  Đó cũng là tấm gương sáng cho Jimmy. Thằng bé cũng như chị gái, thay phiên nhau đem về khoe thành tích nhất nhì lớp của trường Oakland với cha mẹ. Ông Lạc rất mừng, từ những thông tin ông tìm được trước đây, trẻ mắc bệnh trầm cảm hoặc tự kỷ nếu chăm sóc tốt từ nhỏ, lớn lên nó có thể trở thành nhân tài.

Mỹ Hạ học xong đại học, ra đi làm rồi lấy chồng và dọn qua New York sống.  Jimmy tốt nghiệp trung học loại giỏi, đứng trong nhóm đầu bảng Top 10 học sinh giỏi của trường Oakland Charter Highschool và được nhận vào Laney College.  Vợ chồng ông thở phào nhẹ nhõm, vất đi nỗi lo canh cánh bên lòng về Jimmy.

Jimmy vừa học college vừa đi làm ở tiệm KFC trong thành phố. Mọi thứ đều suông sẻ. Thằng con học giỏi lại đẹp trai nên dù nhút nhát, ít muốn tiếp xúc với mọi người, nó cũng có được đứa con gái cùng lớp tên Anna người Mỹ Trắng theo hò hẹn. Điều này làm vợ chồng ông vui lắm.

Nhưng rồi tai họa đã giáng xuống cho gia đình ông, khi Jimmy bước sang năm học thứ hai. Đó là lúc bà Hạnh qua đời. Jimmy từ nhỏ rất thân thiết và gần gũi quấn quít bên mẹ. Bà cưng chiều, chăm chút cho con trai từng tý từng ly vì nỗi ám ảnh từ lời bác sĩ là nó bị bệnh. Dù đã lớn, mỗi lần đi học về Jimmy đều chạy tìm mẹ, mỗi tối trước khi đi ngủ thằng bé luôn vô phòng hôn mẹ và chúc ngủ ngon. Cho nên cú sốc mất mẹ làm cho Jimmy trở nên hoảng loạn.

Sau đám tang vợ, ông Lạc dù buồn khổ cũng phải cố gắng trở lại đi làm. Nhưng Jimmy thì không dậy nổi. Nó nằm bẹp dí, khóc cả tuần lễ, dù con bồ Anna thường tới an ủi vỗ về, nó cũng không chịu dậy đi học lại. Vốn là đứa học giỏi, giờ bỏ lớp giữa chừng, nên khi biết mình bị điểm F, rớt hết các môn, Jimmy càng căng thẳng và hụt hẫng. Nó nằm lì trong nhà, không thiết cả ăn uống tắm rửa hay đi ra ngoài. Ông Lạc bận đi làm, ông cố làm thêm nhiều giờ cho quên đi nỗi buồn, nên không hề biết những diễn tiến tâm lý tồi tệ của Jimmy.

Rồi đến một ngày, khắp người Jimmy bỗng nhiên nổi toàn mẩn đỏ, ngứa và tróc từng lớp ở da đầu, ở mặt, cùi chỏ, đầu gối… Nó mắc phải chứng bệnh người ta thường gọi là “chứng vảy nến.” Và con bé Anna bỏ nó đi luôn từ đó.

Căng thẳng tiếp nối căng thẳng, khổ đau liên tục khổ đau, Jimmy bộc phát mạnh chứng bệnh trầm cảm mà lúc nhỏ bác sĩ đã phán đoán. Vì mặc cảm thân mình gớm ghiếc, nó trở nên khó chịu, chán đời, nhưng nhất quyết không đi bác sĩ để chữa trị. Mặc cho cha khuyên bảo năn nỉ để cha đưa đi, nó vẫn không nghe. Ông hỏi thăm những bác sĩ trong bệnh viện và các y tá, thì họ cho biết chứng vảy nến tuy khó trị nhưng không lây lan nên ông cũng tạm yên tâm.

Khi căn bệnh Jimmy trở nên nghiêm trọng, các vảy nến rơi ra từ người nó lâu ngày chúng biến thành những con giòi trắng ngà, bò ngổn ngang khắp ra giường và phòng ngủ của nó trông rất ghê rợn.  Và ông Lạc đau đớn khám phá ra nó lén dùng ma tuý. Đi làm về bước vào nhà, ông nhận ra cái mùi hôi tanh của ma túy. Giờ ông mới biết tại sao lâu nay thằng bé có thể chịu đựng được sự ngứa ngáy dơ nhớp khó chịu thế kia. Mỗi ngày ông đều năn nỉ Jimmy để ông đưa đi bác sĩ, nhưng vô ích, nó không thèm đếm xỉa tới cha nữa. Muốn nhờ cảnh sát giúp, buộc đưa nó đi chữa trị và cai nghiện, nhưng ông không nỡ. Vậy mà vài tháng trước, nó bỏ nhà đi mất.

Vừa đi vừa miên man suy nghĩ, ông Lạc vượt qua con hẻm Eddy lúc nào không hay. Thình lình ông nghe có tiếng nhốn nháo từ phía đàng sau. Ông dừng chân quay lại, kéo sụp cái mũ xuống và bước dần về hướng đó rồi đứng nép sát người vào góc tường của một ngôi nhà nhìn vào.

Dưới ánh đèn đường, ông Lạc thấy một đám ba thằng choai choai mỗi đứa tay cầm một khúc cây ngắn đang bao vây một đứa con trai vào giữa, chúng nói gì đó có vẻ như đe doạ. Đứa nạn nhân ngồi bệt dưới đất, hai tay bị trói ngoặt ra sau, hai chân cũng bị trói đang cố sức vùng vẫy, nhưng tuyệt nhiên nó không kêu cứu hoặc kêu than một tiếng nào.

Bỗng nhiên có một đứa con gái từ đâu chạy nhào tới la hớt hải:

– “Stop it! Thomas!” Dừng lại Thomas! Đừng có đánh nó! Tao đã bỏ nó rồi mà! Nó bị bịnh hoạn tội nghiệp lại dơ nhớp thế kia mày ghen cái gì cơ chứ!

Ông Lạc giật bắn mình. Đó là tiếng của Anna, con nhỏ bồ của Jimmy. Ông vẹt hẳn cái mũ lên nhìn cho kỹ đứa ngồi dưới đất và sém chút nữa ông bật kêu thành tiếng:

– Jimmy! Trời ơi!

Nhưng ông kịp cắn răng và ngậm chặt miệng lại. Ông nhìn quanh quan sát để tìm cách cứu thằng con. Bên cạnh bọn chúng là cái thùng rác, bên kia cách vài mét là cây trụ điện. Ba thằng Mỹ tuy cao to nhưng cũng chỉ là mấy thằng nhóc mới lớn, lẽ nào cái người từng là cấp chỉ huy của một đại đội oanh liệt thiện chiến, học diệt thù có bài bản từ trường Võ Bị Quốc Gia, mà địch không lại bọn chúng hay sao. Ông nghĩ vậy, nhưng cũng chợt nhớ ra là mình bây giờ cũng đã trên sáu mươi, chân bắt đầu run, gối cũng đã mỏi. Nếu là thuở xưa thì cái đám này nghĩa lý gì. Ông lùi lại rút điện thoại ra gọi 911, phòng ngừa nếu lát nữa có chuyện gì xảy ra cho hai cha con thì có người tiếp cứu.  Báo cho cảnh sát biết địa điểm xong, ông nhẹ bước tiến dần về phía chúng nó.

– Ê! Jim! “Son of a bitch!” Ê! Thằng Jim chó đẻ! Một thằng trong bọn lớn tiếng nói, tay hươi hươi khúc cây trước mặt thằng Jimmy. – Anna đã xin cho mày đó! Mày hãy “beg,” van bọn tao đi! Tao sẽ tha cho mày!

Thằng Jimmy vẫn không nói một lời. Nhưng khi thằng kia chồm tới gần

định dọa nó hay nói gì đó thì nó nhổ toẹt một bãi nước miếng vào mặt thằng đó.

Như chỉ chờ có thế. Cả bọn nhào vô dùng khúc cây trên tay quật liên tiếp vào thằng Jimmy. Con Anna la hét om sòm, nhào vô vừa lôi kéo, vừa kêu tụi nó dừng tay, nhưng một thằng trong bọn xô mạnh con nhỏ té lăn quay xuống đất và dọa:

– Tụi tao chỉ trừng phạt chứ không có ý định giết nó! Nhưng nếu mày còn bênh nó mà la lối thì tao sẽ đập cho nó chết luôn!

Con nhỏ hoảng hồn bỏ chạy ra ngoài gọi cảnh sát.

Ông Lạc không thể chờ được nữa nên phóng vội tới để cứu Jimmy. Thấy thằng con nằm cong lại, oằn người nhận những cú nện như trời giáng của ba thằng du côn mà không kêu la, ông hét lên một tiếng thật to, chộp lấy cái thùng rác đẩy mạnh về phía hai thằng bên phải. Bất thình lình bị cái thùng rác tông vào, một trong hai thằng té nhào xuống đất. Nhưng ông Lạc bị mất thăng bằng cũng ngã nghiêng qua một bên. Ông nhanh chóng gượng dậy, đứng theo thế võ xuống tấn để lấy lại thăng bằng, rồi bay vụt lên đá mạnh vào đầu cái thằng đang vung khúc cây lên chuẩn bị táng xuống Jimmy, làm cho nó văng ra xa nằm im không động đậy. Khúc cây rời khỏi tay hắn đập vào cái trụ điện rồi văng lông lốc ra giữa đường.

Thằng còn lại và thằng té ngã bây giờ đã đứng dậy. Mới thoạt đầu chúng kinh hãi khi có người tới cứu Jimmy. Nhưng giờ hoàn hồn nhìn thấy người tấn công chúng là một ông già Á Châu ốm nhách, chúng không còn sợ nữa. Hai thằng bèn bỏ Jimmy, cùng lúc nhào vô tấn công ông Lạc. Ông chẳng hề nào núng chút nào. Tình thương con đã làm ông mạnh mẽ, phát điên lên, ông xông thẳng vào đánh bọn chúng bằng tay không nhưng mạnh như bão táp. Chỉ trong nháy mắt, hai thằng nhóc Mỹ to kềnh bị ông Lạc đánh cho bò lê bò càng, rồi ngã lăn ra ôm bụng nằm oặt oẹo. Quay sang con, ông thấy Jimmy nằm im không cục cựa nên vội chạy lại.

– Jimmy! Con có sao không? Để ba mở dây trói cho con!

Ông vừa thở hổn hển vừa nói, rồi cúi xuống mở dây cho Jimmy.

Trong lúc ông loay hoay mở dây trói trên tay cho Jimmy, bất ngờ cái thằng nằm xỉu ngoài đường tỉnh lại. Nó bò tới nhặt khúc gỗ lên, đứng bật dậy thật nhanh và nhào tới nhắm ngay đầu Jimmy bổ xuống từ phía sau lưng. Ông Lạc trông thấy hét lớn:

– Jimmy!

Ngay lập tức ông nhoài người tới ôm thằng con đẩy nó ngã xuống, và ông lãnh trọn cú đập như trời giáng vào đầu. Ông Lạc đổ gục xuống trên mình Jimmy, vừa lúc tiếng còi xe cảnh sát chạy tới hú lên vang dội…

*

Đã hai ngày trôi qua, tại phòng cấp cứu của bệnh viện San Francisco, ông Lạc vẫn còn nằm bất động, dây nhợ máy móc chằng chịt trên người.  Cú đánh vào đầu đã làm ông bị chấn thương sọ não. Bác sĩ phải giải phẫu, hút hết máu tụ trong đó ra, nhưng họ nói vết thương quá nặng, cho dù cuộc giải phẫu thành công nhưng ông có tỉnh lại được hay không thì họ chẳng có nhiều hy vọng.

Con gái ông, Mỹ Hạ từ New York bay về từ hôm trước đang ngồi ủ rũ trong phòng.

Thằng Jimmy đầu đội chiếc mũ dìm che mái tóc bù xù và cái trán ửng đỏ, mặc bộ quần áo rộng thùng thình phủ cả cổ và hai cánh tay vảy nến Mỹ Hạ mua về bắt nó mặc, đang ngồi cạnh giường ôm lấy hai tay cha khóc rưng rức. Nó đã không ăn, bỏ ngủ từ hôm thứ Sáu đến giờ. Cú sốc mất mẹ, rồi mất người yêu, đã khiến tinh thần Jimmy bạc nhược, sa sút, lâm vào cảnh khốn cùng. Bây giờ sắp mất cha khiến Jimmy đột nhiên trở nên tỉnh táo.

– Daddy! Nước mắt Jimmy ràng rụa, chảy ướt đẫm bàn tay ông Lạc.  Nó gọi cha trong tiếng nấc nghẹn ngào. Khóc một hồi, bỗng nhiên Jimmy cảm thấy mấy ngón tay của ông Lạc cử động trong tay mình. Nó vui mừng kêu lên:

– “God!” Trời ơi! Cha đã tỉnh! Nó reo lên. – Chị ơi!  Cuối cùng cha đã

tỉnh! Vậy mà bác sĩ nói cha có thể sẽ không bao giờ tỉnh lại. Để em đi gọi bác sĩ! Nói xong nó đứng dậy, định chạy đi.

Bàn tay ông Lạc trong tay Jimmy bỗng giữ nó lại, đôi mắt yếu ớt của ông nhìn thằng con thật âu yếm, rồi nhìn qua con gái. Đưa tay gỡ cái mặt nạ oxygen ra, giọng ông thều thào như hơi thở:

– Các con đừng đi! Cha khỏe rồi, và cha rất mừng thấy Jimmy đã biết biểu lộ tình cảm, nghĩa là con vẫn còn thương cha. Điều cha mong mỏi nhất là con phải cai nghiện, đi chữa bệnh, rồi trở lại trường học. Cha qua đây không giỏi tiếng Anh nên phải làm lao công cả đời. Nhưng con thì…

– Cha yên tâm đi! Jimmy thấy cha nói chuyện được thì mừng quính ngắt lời.  – Con hứa là con nhất định sẽ chữa bệnh và đi học lại, cha đừng lo! Hai ngày nay con đã cố gắng, mỗi lần lên cơn thèm thuốc là con nhìn vào cha rồi lén chạy vô phòng vệ sinh cắn chặt mấy ngón tay chịu đựng, khi qua cơn con mới ra ngoài, bây giờ cũng tạm quen dần. Con nhất định sẽ bỏ được…

Ông Lạc nở một nụ cười méo mó vì vết mổ còn đau, nước mắt chảy dài, nhưng trong mắt ông ánh lên niềm hạnh phúc vô biên. Ông sờ đầu thằng Jimmy, rồi đưa bàn tay ra cho Mỹ Hạ và nói:

– Cha mừng quá, con gái Mỹ Hạ! Con hãy phụ cha khuyến khích em nha! Mẹ con mà biết được em thay đổi nên người thì bà ấy cũng sẽ ngậm cười nơi chín suối.

*

Và Jimmy đã làm được.

Bảy năm sau, ông Lạc về hưu. Đó cũng là năm Jimmy được nhận vào thực tập bác sĩ chuyên ngành ung thư trong bệnh viện nơi mà ông Lạc đã làm lao công hơn hai chục năm. Và cũng là nơi đã điều trị cho vợ ông. Jimmy nói, nó học ngành này để giúp cho những bịnh nhân giống như mẹ nó ngày xưa …

              Phương Hoa

**

Lời Tâm Tình Từ Phạm Phan Lang Và Bài Thơ Song Ngữ Việt + Anh

Nhân ngày Lễ Phụ Thân, trong niềm thương nhớ khôn nguôi dành cho người Cha kính yêu đã khuất, PLang xin được chia sẻ với quý vị một bài thơ nhỏ – “Nhớ Cha Ngày Lễ Phụ Thân” – như một lời thì thầm từ trái tim của người con xa xứ.

Hai mươi mốt năm trôi qua kể từ ngày Cha ra đi nơi quê nhà Việt Nam, nhưng ký ức về những ngày cuối cùng được trở về bên Cha – đút từng thìa cháo, xoa bóp đôi chân đau buốt, đẩy chiếc xe lăn quanh sân nhỏ – vẫn còn vẹn nguyên trong tim. Những ánh mắt dịu dàng của Cha, những cái nhìn lặng lẽ ngày ấy… đã hóa thành thơ.

Bài thơ này được nhạc sĩ Thái Phạm phổ nhạc thành ca khúc cùng tên, và qua giọng ca tha thiết, nghẹn ngào của Đông Nguyễn – từng câu, từng chữ như được cất lên từ chính tận cùng sâu thẳm của nỗi nhớ, làm PL không tránh được giọt lệ rưng rưng.  Xin chân thành cám ơn nhạc sĩ Thái Phạm và ca sĩ Đông Nguyễn.

Xin trân trọng kính mời quý anh chị cùng nghe nhạc phẩm “nóng hổi mới ra lò”:

🎵 Nhớ Cha Ngày Lễ Phụ Thân – Thơ: Phạm Phan Lang, Nhạc: Thái Phạm, Trình bày: Ca sĩ Đông Nguyễn
🔗 https://www.youtube.com/watch?v=X-SZV6F16dM

NHỚ CHA NGÀY LỄ PHỤ THÂN

Cha ơi, con gọi nghẹn lời

Mùa Cha trở lại, một trời nhớ thương

Bao năm biệt xứ dặm trường 

Ngày đi đòi đoạn quê hương xa dần

Nhớ xưa Hè chớm vào sân 

Hay tin Cha yếu, đôi chân rã rời 

Con xin gác lại việc đời 

Trở về quê mẹ sớm mơi phụng thờ

Ngày ngày đút cháo nâng cơ 

Xoa chân run rẩy, đẩy xe quanh vườn 

Cha nhìn con mắt lệ tuôn 

Ánh nhìn chan chứa tình thương thuở nào

Thấy Cha đỡ bệnh mấy phần 

Con đành tạm biệt cánh bằng bay cao 

Về chưa xong việc là bao 

Tin Cha hấp hối như dao xé lòng

Vội vàng trở lại đêm đông 

Vượt bao cách trở, cầu mong ơn Trời 

Kịp bên Cha phút cuối đời 

Nhìn con lần cuối, Cha rồi… lặng im

Cha đi… trời đất lặng chìm 

Lệ buồn nhỏ giọt đẫm tim não nề 

Bao năm bóng ngã trưa hè 

Lòng con vẫn thấy Cha kề đâu đây.

Dẫu Cha khuất nẻo mây bay 

Ơn Cha như biển đong đầy tim con 

Mỗi mùa Lễ Phụ Thân còn 

Con dâng giọt lệ, thay tròn chữ yêu…

phamphanlang

1/6/2025 

Xin chúc quý anh chị luôn an lành, mạnh khỏe, và những ai còn Cha Mẹ – xin hãy trân quý từng phút giây sum vầy bên Người.

Kính  mến,

Phạm PhanLang

TB.   Below is the bilingual poem,

NHỚ CHA NGÀY LỄ PHỤ THÂN             MISSING FATHER ON FATHER’S DAY

Cha ơi, con gọi nghẹn lời,                         Oh Father, I call, choked with pain,
Mùa Cha trở lại, một trời nhớ thương.                         As Father’s Day nears, I miss you again.
Bao năm biệt xứ dặm trường                          Long years away, I still remain
Ngày đi đòi đoạn quê hương xa dần.                        A child of a land I may not regain…

Nhớ xưa Hè chớm vào sân,                         That summer, just as flowers came,
Hay tin Cha yếu, đôi chân rã rời.                            I heard you grew weak, your legs tired and lame.
Con xin gác lại việc đời,                             I laid aside rank, job, and name,
Trở về quê mẹ sớm mơi phụng thờ.                       Returned to your side, no thought of acclaim.

Ngày ngày đút cháo nâng cơ,                         Each day I fed you, eased your frame,
Xoa chân run rẩy, đẩy xe quanh vườn.                        Massaged your frail legs, wheeled you through the lane.
Cha nhìn con mắt lệ tuôn,                            You looked at me with eyes that rained—
Ánh nhìn chan chứa tình thương thuở nào.                      Still filled with the love that through childhood remained.

Thấy Cha đỡ bệnh mấy phần,                           When you seemed better, less in pain,
Con đành tạm biệt cánh bằng bay cao.                        I left with regret to fly home again.
Về chưa xong việc là bao,                            Not long had I tried to maintain
Tin Cha hấp hối như dao xé lòng.                           My scattered tasks—then grief sliced like a chain.

Vội vàng trở lại đêm đông,                            I rushed through the cold night and rain,
Vượt bao cách trở, cầu mong ơn Trời.                        Through borders and skies, I whispered your name.
Kịp bên Cha phút cuối đời,                              One last breath you spent just the same—
Nhìn con lần cuối, Cha rồi… lặng im.                            You saw me… then silence. No word ever came.

Cha đi… trời đất lặng chìm,                             You left… and the earth lost its frame,
Lệ buồn nhỏ giọt đẫm tim não nề.                           My heart drenched in sorrow no words could tame.
Bao năm bóng ngã trưa hè,                             Years fall like sunlight, just the same,
Lòng con vẫn thấy Cha kề đâu đây.                        Yet I still feel you, beside me, so near.

Dẫu Cha khuất nẻo mây bay,                          Though clouds may hide you from me here,
Ơn Cha như biển đong đầy tim con.                         Your love fills my heart like oceans sincere.
Mỗi mùa Lễ Phụ Thân còn,                             Each time Father’s Day reappears,
Con dâng giọt lệ, thay tròn chữ yêu…                          I shed one more tear, for a love most dear.

phamphanlang

1/6/2025

*

CA KHÚC NHỚ CHA NGÀY LỄ PHỤ THÂNTHƠ PHẠM PHAM LANG

*

**

Như Một Thoáng Mây Bay

Đỗ Dung

Ông cụ nằm kia, khuôn mặt trắng mịn, hiền hòa, đôi mắt khép lại nhẹ nhàng như người đang nằm ngủ. Khuôn mặt kia, hình hài kia rồi sẽ biến đi, sẽ tan vào hư vô, chúng tôi không bao giờ còn trông thấy nữa. Ai cũng biết ngày này rồi sẽ tới, ai cũng biết đến lúc phải chia ly nhưng trong sâu thẳm của tâm hồn vẫn có những nỗi đau vò xé. Trong cái mênh mang, êm lặng tột cùng vẫn có những nỗi xót xa. Hơn tám mươi năm, một khoảng thời gian dài cho cả một đời người cũng chỉ như một thoáng mây bay. Bố tôi nằm đó, bình an như đang say ngủ, những hình ảnh xưa về Bố chợt ẩn chợt hiện, chợt gần chợt xa…

Trước năm 1954, gia đình chúng tôi sống hạnh phúc trong căn nhà nhỏ trên đường Mai Hắc Đế, Hà Nội. Những ngày tháng êm đềm, có Bà, có Mẹ, có cô Nga em của Bố và cậu Thắng em của Mẹ. Bố tôi chưa đầy ba mươi tuổi và chúng tôi từ em Tuấn còn bế ngửa, anh Dũng chưa lên chín, ở giữa là ba bé gái, Tí Bun, Tí Xíu và Ông Lý Hạnh (Hồi nhỏ Hạnh hay đội cái mũ thóp giống như khăn xếp của ông lý nên Bố yêu gọi là Ông Lý Hạnh). Phòng khách nhà tôi kê bộ ghế với tràng kỷ kiểu Tàu, bộ sập gụ và tủ chè khảm xà cừ óng ánh sự tích Bát Tiên. Buổi tối sau khi ăn cơm, chúng tôi quây quần, cha ngồi xem báo, mẹ ngồi đan áo ở bộ sa lông và chúng tôi bò trên sập để học bài như cảnh Phạm Duy mô tả trong bài “Kỷ Niệm”, chỉ khác là không có cây đèn dầu hao nhưng căn phòng sáng ấm nhờ bóng đèn vàng từ trên trần toả xuống.

Buổi chiều mấy con bé đợi Bố đi làm về để bám vào cánh tay rắn chắc của Bố đang cong lại đưa ra, mấy đứa nhún chân lên đu đưa rồi cười như nắc nẻ. Ngày mùng một ta, Mẹ tôi hay cúng Thổ Công cái chân giò luộc để cạnh ba chén rượu trắng và một đĩa muối. Khi cúng xong Bố lấy con dao nhỏ từ từ xẻo từng miếng thịt chân giò, chấm muối tiêu rồi cứ Bố một miếng lại cho mỗi đứa con một miếng.

Thời buổi nhiễu nhương tranh tối, tranh sáng sau hiệp định Geneve, vì an ninh nên gia đình chúng tôi phải dọn vào nhà thương Võ Tánh. Bà tôi ngày nào cũng khóc vì không muốn rời quê cha đất tổ, mồ mả tổ tiên. Bà muốn cả nhà ở lại hoặc để Bà ở lại với cô Nga, ngày đó mới lập gia đình và nhà chồng cô quyết định không di cư. Một hôm Bà cũng đang sụt sùi nài nỉ, Bố tôi rút cây súng lục để ra bàn nói: “Cụ muốn ở lại để con bắn hết các cháu, con bắn chết con luôn để Cụ ở lại một mình được không?” Bà tôi sợ quá, cuống quýt: “Thôi tôi xin cậu, tôi xin cậu, tôi đi, tôi đi!” Thế là từ đó Bà chỉ thút thít khóc thầm chứ không dám khóc trước mặt Bố tôi nữa. Về sau Bố nói phải dọa già thế Bà mới chịu đi chứ ở lại thì chết cả đám.

Vào đến Sài Gòn, gia đình gồm chín người, ngơ ngác nơi vùng đất lạ, tất cả phải làm lại từ đầu, Bà tôi ngán ngẩm cố nén tiếng thở dài. Chúng tôi định cư tại căn nhà ở đường Thành Thái, một căn nhà gỗ nhỏ, một tầng, xung quanh còn cây cối xum xuê. Mặc dù rất bận rộn trong sở làm, ưu tư về nơi ăn, chốn ở mới, ngày nào đi làm về Bố tôi cũng tắm rửa cho chúng tôi. Ông yêu các con và đó cũng là cái thú của ông, mặc dù nhà có người làm, có Bà, có Mẹ chúng tôi. Tôi còn nhớ cứ vào cuối tuần ông hay đem chúng tôi ra cắt tóc, cạo mặt, ngoáy tai, cứ từng đứa, từng đứa. Đứa nào nhúc nhích không chịu ngồi yên, tóc không đều, ông cắt lại, cắt nữa, đôi khi tóc chỉ còn như cái “mủng dzùa” úp lên đầu. Khi vào Nam tôi mới bảy tuổi nhưng có ba em nên coi như đã lớn, năm 1955 Mẹ tôi đi sanh Phương Nam. Rồi cứ cách một năm Mẹ cho ra đời thêm một đứa, tôi đưa Mẹ đi sanh và mỗi buổi sáng trước khi đi làm và buổi chiều trước khi về nhà Bố đều vào thăm Mẹ và em bé mới.

Nhân số gia tăng, nhà cũng được xây cất thêm, từ một căn nhà gỗ lụp xụp thành một căn nhà gạch bốn tầng, hai dãy. Bố tôi phải lập ra những luật lệ như nhà binh để cai trị bầy con của Bố. Nhà gắn một cái chuông điện to như chuông trường học ngay phòng khách. Mỗi người có một tín hiệu riêng, chuông bấm hiệu ai người đó phải có mặt. Riêng giờ ăn là ba tiếng chuông dài đến nỗi hàng xóm cứ nghe ba hồi chuông lanh lảnh là biết ngay nhà chúng tôi đến giờ cơm. Phòng ngủ là một trại nữ binh với một dãy giường và một dãy bàn học. Tuy là nhà binh nhưng Bố tôi rất nghệ sĩ và tâm hồn ướt át, lãng mạn. Chúng tôi cũng ít nhiều ảnh hưởng tính nết đó. Thuở còn bé Bố đã cho chúng tôi nghe những bản nhạc êm đềm, trữ tình như Suối Mơ, Con Thuyền Không Bến, Thiên Thai, Biệt Ly… Có một thời Bố tôi làm chủ bút tuần san Kiến Quốc, bác Nguyễn Xuân Đăng giữ việc trình bày. Bố viết văn, làm thơ… Ngày tôi học Trưng Vương, khi phải lên trần thuyết, nếu tôi về òn ỉ là Bố soạn ngay cho một bài, vào lớp chỉ việc đọc.

Nhà có ba người lớn, Bà bảo ban người làm và trông nom các cháu, Mẹ lo cái ăn, cái mặc còn Bố lo chuyện học hành. Tối nào Bố cũng giảng dạy và khảo bài chúng tôi. Bố và tôi rất thân, khi tôi mới mười hai, mười ba đã được Bố tôi đối xử như người lớn, việc gì Bố cũng cho tôi góp ý, chọn màn cửa, chọn kiểu bàn ghế, ngay cả việc bày biện đồ đạc trong nhà. Bầy con mười hai đứa của Bố lớn dần, lại là một bầy nhiều con gái. Trong cái vui vẫn có cái nghiêm, trong sự thân mật vẫn có những uy lực của ông Bố để hướng dẫn đàn con. Tôi là con gái lớn được hưởng những sự yêu thương, săn sóc đặc biệt của ông Bố trẻ nhưng ngược lại cũng bị những ngăn cấm khắt khe của Bố dành cho con chim đầu đàn. Hồi còn bé tôi được Bố tôi dắt vào nhà thương Võ Tánh xem những buổi tập duyệt binh, được diện quần áo đẹp để Bố đưa vào xem những buổi văn nghệ có Thanh Hằng, Thanh Hiếu đến hát ủy lạo chiến sĩ. Khi lớn lên, dù tôi đã vào đại học Bố vẫn đưa đón… Cho đến ngày tôi lập gia đình, Bố tôi đã khóc rất nhiều khi dặn dò con trước ngày vu quy và sụt sùi khi tiễn con về nhà chồng. Hai đứa con lớn của chúng tôi ra đời trong tình yêu thương đầy ắp của Ông Bà. Các cháu sang chơi Ông nằm xuống vạch bụng cho cháu bắn bi vào lỗ rốn, ông bò xuống làm ngựa cho cháu phi nhong nhong…

Tưởng cuộc sống cứ thế êm đềm trôi, Bố tâm sự với chúng tôi về những ước vọng của Bố. Chín đứa con gái của Bố đều học hành giỏi giang, đều là nữ sinh ưu tú. Bố đợi ngày Út Thùy tốt nghiệp Trưng Vương, Bố sẽ đặt tiệc lớn ăn mừng, Bố sẽ mời toàn ban Giám Hiệu và Giáo Sư Trưng Vương để tỏ lòng tri ân những người đã góp công lớn trong việc dạy dỗ các con của Bố. Rồi Bố Mẹ tôi ao ước có một ĐỖ GIA TRANG tại Đà Lạt, một dãy nhà hình chữ U gồm có mười ba phòng lớn, Ông Bà một phòng còn cho mỗi gia đình con một giang sơn nhỏ. Ngày giỗ tết, hội hè, con cháu về tụ họp, Bố sẽ cầm cái gậy chỉ huy của Bố để chỉ huy lũ cháu, chắt… Cả một gia trang sẽ rộn rã tiếng cười… Bố Mẹ chúng tôi đã mua mấy mẫu đất trên sườn đồi khu Mê Linh, Đà Lạt, trông ngay ra mặt hồ, phong cảnh thật hữu tình, nên thơ để thực hiện mơ ước đó.

Nhưng ai có ngờ đến cái ngày 30 Tháng Tư oan nghiệt! Tất cả các mộng ước nhỏ bé, giản dị của Bố tôi đều tan tành. Bố đã già sộc hẳn đi khi nhìn thấy tương lai mờ mịt của một lũ con bé bỏng, thương yêu. Bố đã bạc đầu vì tinh thần trách nhiệm quá cao đối với tổ quốc, với nhân viên thuộc cấp, với gia đình. Bố đã không bỏ chạy khi quân đội chưa rã ngũ.

Tất cả là định mệnh! Một tháng sau chồng tôi chở Bố tôi đến nơi tập trung và một tuần sau đó tôi cũng đưa nhà tôi vào đúng địa điểm ấy, để đi cải tạo không biết ngày về… Tôi đã khóc thật nhiều khi đọc những lời trong di bút của Bố: “Vì yêu Tổ quốc, mến quê hương nên tôi đã ở lại Việt Nam cho tròn trách nhiệm của sĩ quan cấp tá độc nhất của trường quân y còn ở lại. Chịu đựng cảnh tù đày suốt gần mười năm trong các trại lao tù ở Bắc Việt do Cộng Sản lập ra để trả thù những chiến sĩ quốc gia còn kẹt lại. Với bao cơ cực, đói khát của thời gian gọi là khổ sai cải tạo, tôi cố gắng giữ tinh thần bất khuất và nhân cách của một chiến sĩ khi thất thế, sa cơ.”

Và… Ngày 20/4/1990, chúng tôi, một bầy con cháu của Bố đã kéo nhau ra phi trường San Francisco để đón Ông Bà và dì Út. Bố đã già đi nhiều. Mười năm, từ năm mươi đến sáu mươi vẫn là tuổi sung sức của một đời người thì Bố tôi bị trong  vòng khổ ải.

Năm 1992 Bố tôi bị một cơn bạo bệnh tưởng khó vượt qua, sau khi Bố tôi thoát khỏi cơn hiểm nghèo, Bố Mẹ tôi được em Tuấn đưa đi du lịch vòng quanh thế giới để giải trí và cũng để phục hồi năng lực từ thể chất cũng như tinh thần cho Bố và đồng thời cũng để Bố đạt được những ước mơ của Bố thời niên thiếu.  Sau đó Bố tôi sống lặng lẽ như một cái bóng, chỉ vui với con cháu trong những dịp tụ họp đại gia đình, lâu lâu đi thăm các con cháu ở xa.  Bố không màng đến thế sự, không tham gia hội đoàn hay bất cứ một tổ chức nào.  Thì giờ rảnh rỗi Bố tôi đọc sách và soạn lại cuốn gia phả. Bố ngồi viết hồi ký về cuộc đời mình, kể lại cuộc đời truân chuyên của Bố, từ khi còn là thanh niên mắt sáng ngời ngời, theo kháng chiến lưu lạc khắp vùng núi đồi Việt Bắc, sang tận Trung Hoa rồi mới quay về, nhìn vợ dại, con thơ, nhìn lại lý lịch bản thân, thành phần tiểu tư sản thành thị… Bố đã ngao ngán quyết định đưa cả nhà hồi cư. Rồi cả một cuộc đời binh nghiệp, tận tụy với Tổ Quốc, với lý tưởng mình đã chọn lựa. Cho ra đời một bầy con.  Đến ngày đổi đời.  Đến ngày lạc lõng, cô đơn nơi xứ người mặc dù con đàn, cháu đống. Bố tôi đã viết với hy vọng con cháu sau này biết được dòng dõi cha ông, giữ lại những truyền thống tốt đẹp của dòng họ ĐỖ và cũng biết được một mảnh đời của một người Viêt Nam trong thời tao loạn.

Một đoạn trong tập hồi ký Bố tôi đã viết:

“… Tôi đang được sống quanh con cháu, tôi mong có ngày mà Trời Phật để cho tôi còn sống trên thế gian này, được thấy quê hương nhà thoát cảnh bị họa Cộng Sản ngự trị, được về sống tại quê cha đất tổ, bên cạnh phần mộ tổ tiên với họ hàng ruột thịt gần xa… ” và tôi nhớ một ngày trong quá khứ đã xa, khi Bố tôi còn tại chức, Bố đã nói: ” Cả một đời mặc áo nhà binh, lúc chết đi Bố muốn được an táng như một người lính theo lễ nghi quân cách…”

Bây giờ Bố tôi nằm đây… không lễ nghi quân cách, không được yên nghỉ trên mảnh đất quê hương.  Sau lễ hoả táng chỉ còn là tro, là bụi và tro bụi cũng sẽ tan vào đại dương.  Đời là vô thường.  Cuộc đời chỉ như một cơn gió thoảng, như một thoáng mây bay.

Đỗ Dung

**

**Bố tôi

Sao Khuê

Ba năm sau khi Sao Khuê chào đời thì bố mẹ Sao Khuê được ông bà cho ra ở riêng tại quê của bà nội, làng Đồng Xâm, tỉnh Thái Bình để trông nom ruộng đất mà bà nội được thừa kế từ các cụ. 

Làng Đồng Xâm thuộc xã Hồng Thái có đền thờ Triệu Vũ Đế tức Triệu Đà và hoàng hậu Trình thị,  hoàng hậu là người làng Đồng Xâm. Làng có nghề truyền thống là nghề chạm vàng bạc, thờ ông tổ Nguyễn kim Lâu.

Sao Khuê được ở lại với ông bà nội và hai cô tại làng Trình Phố. Thỉnh thoảng bố  trở về làng Trình Phố và chở SaoKhuê về thăm nhà của bố mẹ. Ở đó cái gì cũng nhỏ, căn nhà nhỏ có cái sân cũng nhỏ và có cái bể nước cũng nhỏ, cái cổng cũng sơ sài so với cổng tam quan nhà  ông bà nội và Sao Khuê cũng không lưu luyến gì căn nhà nhỏ này. Giản dị vì khi ở với ông bà nội thì Sao Khuê là cô công chúa nhỏ còn về ở vớibố mẹ thì  con bé nhỏ mới 4 tuổi hay bị sai vặt đi lấy tăm, lấy nước, quét nhà …sau đó còn phải bế em cho nên Sao Khuê chỉ mong mau mau được trở về nhà bà nội trên cái thanh ngang của cái xeđạp courses mà bố  dùng để di chuyển. Bố  kể lại rằng trên quãng đường đi không dài lắm đó, có lần bố hỏi:

– Nếu bây giờ mà ba chết thì con tính sao? 

 Lúc đó Sao Khuê bù lu bù loa khóc và nói bố phải cho con về nhà bà nội rồi mới được chết! 

Sau đó bố cũng hỏi y chang câu này với con em thì nó cũng bù lu bù loa khóc nhưng mà nó lại nói: 

– Ba ơi, ba đừng chết, ba đừng bỏ con một mình.

Bởi vậy bố thương nhỏ em này lắm.

Rồi Việt Minh nổi lên. Họ thủ tiêu những người trí thức không theo họ. Một đêm họ đến bắt bố, may quá, bố vừa đạp xe về thăm ông bà nội. Hôm sau thì xác ông lý trưởng, hàng xóm, bị thả trôi sông Trà Lý. Mẹ nhắn về Trình Phố. Và bố vội trốn ra tỉnh Thái Bình. Sau đó mẹ cũng bỏ nhà ra tỉnh với bố. Tất cả gia đình gồm gia đình bác cả,  gia đình bố mẹ Sao Khuê, gia đình cô  T và hai cô Út đều ở gần bên nhau.

Năm lên chín tuổi Sao Khuê mới thực sự ở với bố mẹ vì cả nhà đã phải từ bỏ ruộng vườn nhà cửa to lớn mà chạy ra tỉnh sống trong một căn nhà nhỏ xíu, đã vậy lại là nhà gianh vách đất. Thế mà có yên đâu, chỉ một năm sau lại phải bỏ hết để bồng bế nhau vào Nam.

Khi mới vào Nam, bố đi dạy học ở trường tư. Sao Khuê còn nhớ ngôi trường  nhỏ, mang tên là trường Phan đình Phùng nằm gần trường tiểu học Võ di Nguy ở Phú Nhuận, kế đó còn có lò mổ heo, bò…

 Thời gian ngắn sau, không đủ học trò, trường đóng cửa, bố Sao Khuê được bộ giáo dục bổ nhiệm dạy một trường trung học công lập  tại Sóc Trăng. Mẹ Sao Khuê làm thư ký đánh máy tại sở Công binh nên Sao Khuê lang thang tự đi xin học vào lớp đệ thất hết trường   nọ đến trường kia. Quý vị nhớ là con bé còm nhom, mắt thao láo. như đền pha, 10 tuổi, tự- tự- là mình ên à nghe, dẫn mình đi thi tiểu học rồi đi xin học. Sao Khuê di cư muộn, tháng 2, 1955 nên thi rớt kỳ thi tuyển vào đệ thất trường Trưng Vương. Sao Khuê phải lang thang xin đi học trường tư. Sau trường Phan đình Phùng là trường Thống Nhất có chú họ của Sao Khuê dạy học. Trường Thống Nhất đóng cửa, Sao Khuê  xin học trường Hoài An mới mở có chú ruột dạy nên chả phải đóng tiền học phí. Tại đây Sao Khuê an tâm dùi mài kinh sử đến khi đậu  trung học đệ nhất cấp thì vào trường Gia Long học tiếp, thi tú tài rồi vào trường dược học ra dược sĩ. Nhưng mà Sao Khuê học dốt lắm cơ, nói đúng ra Sao Khuê học cũng…giỏi nhưng lận đận khi thi cử. Chuyện, người ta đã nói học tài thi phận mà.

Có bao giờ quý vị tin là Sao Khuê thi rớt vì bài thi quá dễ không? Ỉ i mà, Sao Khuê chỉ ôn bài khó thôi. Một lớp có sáu mươi hai học trò, lớp giỏi của trường Gia Long hồi đó nghen, mà một đứa, “top” 10, lên bảng danh dự đều đều lại ở trong số 10 đứa thi rớt của cả lớp! Sao Khuê phải thi kỳ hai. Khi thi kỳ hai, gặp thầy toán đi ngang, thầy hỏi:  

-Đi đâu đây?  

Sao Khuê cúi gầm mặt  không dám trả lời.

Chưa hết đâu, Sao Khuê còn rớt nữa, rớt bốn lần trong đời lận. Hai cái rớt sau không oan tí nào vì không  học bài hay không  cách nào  học thuộc nổi  bài. Hừm, đang học toán ban B, bố bảo chuyển  sang ban A để đi học dược.

Sao Khuê nhớ mãi cái bài học đầu tiên của quyển vạn vật đệ nhất là bài  “Chất sống”, nó dài và khó hiểu, Sao Khuê học một tháng không cách nào thuộc nổi trong khi cả quyển sách toán Sao Khuê có thể thuộc từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Không thuộc nên Sao Khuê…quăng sách vào  vào gầm giường, khóc hu hu, không thèm học nữa. 

Sau khi thi rớt kỳ 1 năm tú tài 2, bố Sao Khuê bắt lấy giấy nháp viết lại bài và nộp cho bố.  Kết quả là Sao Khuê đậu bình thứ (năm 1962) bởi vậy “không bố đố mày làm nên”, không đậu tú tài thì lấy chi mà học dược. Vậy thì bố được điểm A+ bù cho điểm E- vì bắt Sao Khuê đi lấy chồng (SK dông dài để kể ơn bố).

  Như đã nói, bố Sao Khuê dạy học ở Sóc Trăng, bây giờ thuộc tỉnh Ba Xuyên cách Saigon cả ngày xe nên lâu lâu bố mới về thăm nhà. Mỗi lần về Saigon thì bố – Sao Khuê khi gọi là ba, khi gọi là bố, bố mang về, “chuối cau” từng buồng, trứng gà từng thùng sắt tây loại đựng dầu con sò, con gà gì đó 20 lít, bao nhiêu là trứng mà ba chị em phải ráng ăn vì trứng để lâu cũng hư. Kết quả là Sao Khuê có thể chế tạo nhiều kiểu ăn trứng.  Nhưng chuyện đặc biệt không phải thức ăn mà là chuyện bố bị các bà níu kéo xin làm bé!

Không hiểu sao mà bố Sao Khuê có nét lai nên đẹp trai tuy chưa cao bằng “ông Tây đen nằm trong cái đèn”. Đã đẹp trai lại còn xa nhà, đi ở trọ nên các bà goá,chủ nhà mê tít thò lò khiến bố cứ phải dời chỗ trọ. Bố kể có bà kia, mê bố quá, nhất định xin làm bé:

 – Ông về nói với bả, tôi xin làm bé, tôi nuôi ông, lương ông mang về nuôi vợ con, chừng ông về tôi bù thêm quà cáp cho xấp nhỏ, bả đâu có thiệt hại gì? 

Vậy mà ông già không ưng. Bà goá làm quá, bố phải viết thư kêu má xuống, lần đó má đi, có rủ cô Út theo.  

Bố dạy dưới tỉnh nên hai, ba lần bố đưavề Saigon mấy chị mà bố gọi là con nuôi.Thật ra không phải con nuôi, mà các chị đó muốn thay đổi hoàn cảnh nên nhờ bố đưa lên Saigon. Các chị làm công việc nhà, được trả công như người làm, nhưng được má hướng dẫn cho đi học nghề, học may, học chữ, học đánh máy… Khi đủ khả năng kiếm việc hay kiếm chồng thì các chị đó ra đi, bố lại mang về chị khác. Tóm lại hai bên cùng có lợi, các chị không sợ sa  vào ổ nhện và má Sao Khuê có người giúp việc. Ngay khi ở miền Bắc bố cũng từng nuôi hai chị em chị Nụ và khi lớn cho về lấy chồng chứ không bắt ở cả đời như nhiều nhà khác. Khi xưa, những nhà nghèo thường …

“cho” con, để con, ít ra cũng được no ấm  và mình cũng có một món tiền, nên có nhiều nhà giàu, khi con gái đi lấy chồng thì được mẹ tặng một bé gái, từ 7 đến 10 tuổi đế sai vặt. Bé này ở  với cô chủ tới già, thành u già…

Dần dần, từ Sóc Trăng xa xôi, bố được chuyển về quận Cần Giuộc rồi Cần Đước rồi Bến Lức,  thuộc tỉnh Long An và sau cùng về dạy trường Petrus Ký ở Sài Gòn.

Ở quận Cần Đước và Bến Lức, bố là hiệu trưởng nên bố kê cái giường nhỏ trong phòng để ngủ lại. Cũng “ghê ghê” vì ban đêm Việt Cộng có thể bắt ông “Bắc kỳ di cư” đi thủ tiêu, quăng  xác ngoài quốc lộ kèm bản án đeo vào cổ như chúng đã làm, nên bố, khi ngủ lại, khi về …thất thường và rất kín đáo như làm bộ ra về mà ngủ lại v..v..

Cái dở của bố là …cứng nhắc, không biết ngoại giao. Nắng Saigon mà không chịu mang ô, thanh liêm nên thanh bạch và hay bị đố kỵ. Ai mang quà biếu là Sao Khuê phải chạy theo trả lại cho bằng được.

Không học thuốc nhưng bố mát tay trị bệnh bằng “dầu nhị thiên đường” và “đánh cảm”. Mỗi khi có  đứa con nào bị cảm thì đứa khỏe được ăn lòng đỏ hột gà luộc. Bố má có mấy đồng tiền từ “thời Pháp thuộc”, làm bằng bạc. Luộc hai quả trứng gà, tách đôi, lòng đỏ cho đứa không bị bệnh “cho vào miệng”, đồng tiền bạc được đặt giữa lòng trắng sau đó dùng khăn sạch bao lại và chà như cạo gió khắp người  đến khi  lòng trắng trứng nát ra hết thì bỏ đi.

Nếu bị cảm, đồng bạc sẽ đen. Lấy muối chà cho đồng bạc trắng ra và cạo tiếp với con trứng còn lại. Thường hai con trứng là hết cảm …

Trong túi bố bao giờ cũng có một chai dầu “Nhị thiên đường” nhỏ xíu. Khi bị trúng mưa, sổ mũi chỉ cần cho một giọt dầu vào cái muỗng nhỏ, thêm tí nước, uống là bệnh tiêu tan.

Tội nghiệp bố, vất vả đi làm, nhưng phương tiện di chuyển chỉ có cái xe máy cũ trong khi hai ả tố nga, đứa nào cũng mua xe “gin” từ xe đạp đến xe gắn máy. Bố nhịn ăn, nhịn mặc, chăm lo cho con cái rất nhiều. 

Năm 1975, Việt Cộng vào. 

Trời! Sao Khuê phải len lén đốt bao nhiêu là giấy tờ sách vở thuộc loại phản động của bố. Má phải năn nỉ bố …im cái miệng đừng nói ngang hay công kích  chính quyền. 

Từ nhỏ bố đã không ngoan ngoãn hiền lành, chỉ biết học hành như bác Cả. Bố diện và sừng sỏ ra gì. Các cô, bác và bạn bố kể lại: xe đạp xịn, đầu bóng loáng brillantine đến nỗi ruồi đi ngang là khỏi bay được nữa. Học thì ít nhưng đua xe, bơi thi và đôi khi có dàn trận với bạn bè. 

Sau khi lấy vợ, bố tu tỉnh làm ăn. Đầu tiên, năm 1944 bố phiên lưu vào Nam, nghe nói trong đó dễ làm ăn. Chả hiểu tại sao lại không làm cũng chẳng ăn được, bố đổ tại trong Nam, nghe nói Tân sơn Nhất là họ ghét nên bố bị vây đánh, phải nói là Tân sơn Nhứt. Sức mấy mà ông già gân chịu uốn lưỡi nói theo. Nhất là nhất, chứ Nhứt là cái giống gì, lại còn Mèn đét ơi…Chu mẹc ơi…Thôi ta về ta tắm ao ta, bố về Thái Bình làm ăn.

Bố kể lại lần đầu bố đi buôn gạo. Gạo thì nhà ông bà có sẵn, chỉ đóng bao, xuống thuyền chở đi bỏ mối. Thế mà có xong đâu. Bao gạo lúc vào bao là hơn một tạ, lúc nhập kho, cân lại còn có 80-90 kí. Phu khuân vác khi vác gạo lên vai đã dùi vào bao để gạo từ bao tuôn vào cái túi họ đeo trong người nên qua hai ba lần khuân vác, bao gạo cứ hụt dần khiến không những mất tiền mà chủ thu mua cũng bực mình, không thu nữa. Nào, bây giờ hai bên nội ngoại chi viện cho bố mua xe đò. Coi bộ được à nghe, hợp với tính không điềm tĩnh của bố. Kết quả, bị tài xế và lơ xe lừa, tiền vé bị hao hụt  mà tiền mua xăng thì tăng lên… Tóm lại bố  không biết buôn bán, đó là lý do sau này bố cương quyết không gả con cho nhà buôn bán. 

Bác Cả mở trường trung học Bùi Viện ở Trình Phố nên khi ra riêng bố cũng mở lớp dạy học ở làng Đồng Xâm. Ông ngoại gửi hai cậu út cho bố đào tạo.Chiến tranh lan rộng, bố xém bị Việt Minh bắt thủ tiêu nên bỏ ruộng vườn nhà cửa, mọi người dắt díu nhau  chạy ra tỉnh Thái Bình. Bác Cả lại mở trường, trường mang tên trung học Trần Lãm, có bốn lớp từ đệ thất đến đệ tứ mà sau này nhà văn Duyên Anh có nhắc đến. Bác dạy toán lý hoá còn bố dạy Anh Văn, đôi khi Pháp văn. Sách dùng hồi đó và cả sau này khi Sao Khuê học trung học là quyển “Practice English” nên từ nhà, sát trường Trần Lãm, Sao Khuê nghe:

      Good morning class

      Good morning teacher

     How are you today .

Khi vào Nam, dân Nam kỳ nói tiếng Pháp như gió; với giọng  phát âm Bắc kỳ không Parisien mà lại giống dân đảo

Corsé  nên bố chuyển sang dạy Việt-văn rồi sau đó trong nhiều năm liền bố làm hiệu trưởng…khai phá (nghĩa là bố …dựng trường trung học từ  khi trường mới thành lập) tại quận Cần Đước và Bến Lức thuộc tỉnh Long An. 

Do thẳng tính, khí khái, thanh liêm và vụng về trong giao tiếp nên sau cùng bốkhông giữ  được chức hiệu trưởng và bộ giáo dục chuyển bố về dạy ở Petrus  Ký cho gần nhà.

Sau 1975, giáo sư trung học cũng gọi là giáo viên, bị bắt làm “giáo án”. Giáo án là bài soạn với 5 bước lên lớp, chủ trương mang chính trị Mác Lê vào bài giảng. Hừm! bực mình lắm, bố len lén làm mấy câu thơ, Sao Khuê nhớ có câu Giáo án hay là án giáo đây… Đấy, tính bố như vậy, ngang ngang, thơ thẩn nên con giống cha, đầu lòng hai ả tố nga, cũng ngang ngang và thơ văn…

Nào bây giờ đến chuyện “ Phi lạc sang Tầu”: ông Giáo sang Gia Nã Đại. 

Cuối tháng mười năm 1992, lá rụng gần hết, ông Giáo “dẫn” bà Giáo và hai con còn độc thân đi ngoại quốc do Sao Khuê bảo lãnh.  Căn nhà triplex Sao Khuê mua để đón gia đình với hai ấp đã không còn trống vì bà Giáo bị giữ lại một năm uống thuốc ngừa lao do khi chụp hình phổi bị mờ. Thế là tất cả chín   người chung nhau ba phòng ngủ, một phòng khách vì lúc đó basement còn chưa sửa (finition).

Ai đã từng bảo lãnh gia đình mới hiểu nổi nỗi khổ và cái vui của Sao Khuê.Thời gian đầu, chuyện trò râm ran, cười đùa ầm ý sau đó thì nhức cái đầu.

Mùa đông về, basement sửa xong, nhà mới toanh, trần cao nên sáng sủa, rộng rãi, khang trang cho ba, má và hai em ở. Ông chú họ từ Quebec lên Montréal chơi, ghé thăm cho  biết là bố đã than phiền với chú:

– “Nó” để bố nó ở dưới, nó đi trên đầu bố. Đã vậy còn phải ở gần chuồng xí!

Sao Khuê buồn cười nhớ lại ông vua Thái trong phim “Le Roi et moi”…

Trời lạnh:

– Bố ơi, hôm nay lạnh, bố đừng ra ngoài nhé.

Nhưng sau đó Sao Khuê nghe ầm ĩ dưới nhà, chạy vội xuống thì cái thảm mới toanh đang cháy: chả là bố ra đường, lạnh quá, vội trở về, cho vớ vào micro wave để sưởi nóng, khiến vớ bốc cháy,mẹ chỉ kịp gạt vớ khỏi micro wave.

– Con đã dặn bố đừng ra đường mà.

– Bố phải ra xem lạnh tới mức nào.

Việc này thì quả là bố bắt chước con. Mùa đông đầu tiên, năm mà  SaoKhuê mới   chui vào cái tủ lạnh khổng lồ Gia Nã Đại này, nó lạnh ơi là lạnh, không những thế còn vô cùng  trơn trợt. Cô em họ ở Toronto đã bị té gẫy tay…Ngày hôm đó, dự báo thời tiết nói trơn lắm, mọi người nên ở trong nhà. Vậy mà chả có việc gì phải ra đường, nhưng Sao Khuê vẫn mặc áo ra xem …đường trơn tới mức nào, may mà không té, không gãy tay.

Mùa đông, đường phố vắng tanh, bố bảo:

– Phố xá gì như tha ma buồn chết, sao cô không viết thư báo cho tôi hay?

– Con có nói bố đừng đi nữa, nhưng bố cứ đi đấy chứ.

– Tôi phải dẫn chúng nó sang chứ tôi đâu thèm ở cái xứ quái quỷ này…

Tin “Nó bắt tôi ở dưới hầm, gần chuồng xí” bay sang tận Mỹ, thế là hè năm đó cô Út bay sang xem cái  hầm con gái nhốt bố và sau cùng khi có người trả nhà Sao Khuê đã vội vã di chuyển bố mẹ lên lầu theo “ thỉnh nguyện thư “ hai trang bố viết cho trưởng nữ.

Sao Khuê mua nhà để sửa soạn đón gia đình và dĩ nhiên trả góp nhưng dưới mắt bố, Sao Khuê giầu lắm nên bố ra lệnh:

– Cô mở cho thằng Út một tiệm kha khá để nó buôn bán. 

Sao Khuê chỉ len lén liếc bố một cái thật dài.

– Cô xem có thằng bác sĩ nào thì gả em cô, nó cũng nhiều tuổi rồi.

– Bố à, nếu có bác sĩ chịu, con cũng lấy, đỡ cầy hai jobs trả nợ nhà. 

Hè sang, thay đổi không khí, Sao Khuê chở bố đi chùa.

– Chùa này tôi đi rồi, sao đi mãi một chỗ vậy? 

Sau cùng kiếm được cho bố cái computer cũ để bố làm việc và phải tạo điều kiện thuận tiện nữa cơ. Việc của bố là làm thơ, viết khảo cứu với bút hiệu là Trình Hương. Hương chắc là hương thơm, còn Trình từ tên quê nhà Trình Phố và chữ “cửa Khổng sân Trình” chỉ  về văn học.

Ngoài làm thơ thì bố viết những nghiên cứu về Phật Giáo. 

Hai năm sau, gia đình em trai lớn SaoKhuê, cũng do Sao Khuê  bảo lãnh, chui vào cái tủ lạnh, và khoảng 1 năm sau thìthuê nhà ở riêng. Từ đó bố mẹ ở với cậu trưởng nam. Sao Khuê rảnh rang đi cày liên miên trả nợ, một hay hai tuần mới đến thăm.

Vài năm sau thì đến lượt gia đình cô em gái, bốn người được bảo lãnh qua Canada. Cảm ơn Canada đã giúp Sao Khuê mang được 10 người thoát ách Cộng Sản. 

Vậy là trừ cô em kế, toàn nhà Sao Khuê chui hết vào cái tủ lạnh. Bố ở với em trai, rồi em gái và khi nào không hài lòng thì qua nhà Sao Khuê. 

 -Thỏ có ba hang, bố cũng có ba nhà, chạy đi chạy về.

Em gái bán được nhà ở Saigon, mang tiền sang cho bố mẹ. Nhà lúc đó rẻ nên chỉ được hai chục ngàn Mỹ kim, em mượn để mua nhà nên bố mẹ có phòng riêng tại nhà em. 

Khoảng năm 2002, bố làm chuyến Mỹ du thăm bà con bên Cali. Bố ở nhà cô Út, khi về bố than phiền:

– Ngày nào cũng đói. Nhà 4, 5 miệng ăn mà cái nồi cơm chỉ nhỉnh hơn cái niêu.

– Sao bố không nói cô nấu thêm? 

Đấy, người mình có lệ ăn nhiều cơm mà ít thức ăn. Ngày Sao Khuê  được anh chị chồng bảo lãnh qua Canada cũng vậy.  Hai gia đình tám, chín miệng ăn mà anh chị nấu mỗi người một chén cơm nhỏ, anh còn cười khì khì:

– Bên này ăn ít cơm lắm.

Cái nồi tí tẹo, muốn nấu thêm cũng không được, may mà chỉ ở chung có ba tháng.

Thiệt tình, ở Việt Nam thì “cơm ba chén, thuốc ba thang” và ông xã Sao Khuê ăn 6, 7 chén là thường nên từ ngày sang Canada ông mất bụng, ốm nhom…

Cuối tháng 2 năm 2005 là ngày giỗ bố chồng, Sao Khuê mời bố sang ăn giỗ.

 – Tôi bệnh, không đi được. 

 – Bố lại nhõng nhẽo!

Hôm sau, ngày 1 tháng 3,  Sao Khuê lúc đó cũng đang nghỉ bệnh và ngày hôm đó còn giữ cháu ngoại cho con đi làm thì  cháu trai gọi:

– Bác ơi, bác qua gấp. Mấy ngày nay ông không ăn và ông kêu mệt lắm.

Sao Khuê vội cùng cháu ngoại chạy sang. Thấy bố thở khó khăn: Bố hay bị nghẹt thở do khi trước hút thuốc lá nhiều. Sao Khuê xịt thuốc, bố dễ thở hơn, đói bụng và muốn ăn bánh mì chấm sữa đặc. Cô em gái mua thêm cả sữa ensure mang tới.

 – Bây giờ bố có muốn đi nhà thương không?

 – Cháu làm bác sĩ, sao phải đi nhà thương. Bảo chúng đến khám cho ông.

Sau đó bố kêu buồn ngủ và đi ngủ. Hai chị em rủ nhau đi ăn trưa. Khi Sao Khuê về nhà thì thấy cháu trai nhắn trong điện thoại:

 – Ông thức dậy, đi tiểu rồi té trong phòng tắm, cháu gọi 911, họ đưa ông vào nhà thương Jean Talon. 

Cùng cháu ngoại 5 tuổi, Sao Khuê chạy vội vào nhà thương. Họ cho biết đã chuyển sang nhà thương Saint Luc. Khi đến nhà thương thì thấy họ đang dùng “electrochoc” để hồi phục tim. Họ ấn cái máy như cái bàn ủi xuống ngực và người  bố lại giật tung lên.

Một bà y tá nhìn Sao Khuê ái ngại và lắc đầu, mươi phút sau bác sĩ cho biết sẽ ngưng điều trị vì cho dù cứu sống được bố sẽ sống như thực vật do máu đã ngừng lên não lâu rồi.

Họ chuyển  giường ra phòng ngoài. Em trai Sao Khuê cũng vừa đi làm về, chạy vào và hai chị em liên tục niệm Phật.Trong lúc miệng niệm “Nam mô  A di đà phật”, mắt Sao Khuê chợt thấy ngón tay bố còn cái nhẫn vàng một chỉ mang từ Việt Nam sang. Miệng vẫn “Nam mô” nhưng tay Sao Khuê thì tìm cách  tháo chiếc nhẫn ra (!). Tháo không được, xoa xà bông mấy lần cũng không xong. 

 – Bố à, bố để con tháo ra, lấy tiền cho người nghèo, bố giữ thì cũng sẽ bị người ta lấy mất thôi. 

Ấy vậy mà sau đó Sao Khuê tháo ra dễ dàng. Bây giờ cái nhẫn còn nằm trong tủ ở nhà băng nhưng Sao Khuê cũng đã làm từ thiện với số tiền tương đương hay hơn.  

Dù bố ra đi thình lình nhưng đám tang  cũng được tổ chức long trọng.

Vì bố mẹ Sao Khuê sang Canada do bảo lãnh nên phải sau thời hạn 10 năm mới được hưởng tiền già.  Sao Khuê đang   làm thủ tục xin tiền  thì bố ra đi. Bố vẫn mơ ngày có tiền già được tiêu pha thoải mái : “Vai mang túi bạc kè kè, nói quấy nói quá, chúng nghe rầm rầm …” 

Hồi đi “du học “ở Hà Nội, bác Cả và bố trọ học nhà cô Huyền, sau này cô là thanh tra sở Giáo dục và khá thân với gia đình, nhất là với bác Cả.

Nghe tin Bố mất, cô Huyền gửi lá thư trong đó có bài thơ:

             Tin bn

     Ôi thôi lão trượng đi ri

  Sao không gi lđôi li tri âm

  Lúc ti thế âm thm hđạo 

  Đạo quả ri, dch sách, in kinh 

  Thin sư dìu dt chúng sinh…

 Tây Phương thng tiến Niết Bàn gp nhau  

 Hn thiêng hn có anh linh 

 Xin về chng dám ti tình thứ tha

Trăng xưa còđó hng hờ …

Người xưđi mãi xin chờ kiếp sau

       Nguyn thị Huyn 

Con gái rượu và hai em gái, em trai của bố từ Cali sang tiễn bố. Bà con khắp nơi gọi, gửi thư hay phúng điếu. 

Sau khi cô chú ra về, cậu em Sao Khuê mới hội họp gia đình, trình lá thư bố viết ngày hôm trước khi ra đi, nội dung:

“ Tôi có 10 ngàn Mỹ, cô QA mượn mua nhà, số tiền đó chia làm hai, cho hai con trai là … “

(Bố thiệt, lúc nào cũng cưng con trai.)

“Cô P còn giữ của tôi vài trăm tiền Mỹ mà các anh chị, các cháu cho lúc tôi qua Mỹ, cô P giữ để lo chia vui, chia buồn bên Mỹ. Cô Sao Khuê còn giữ của tôi 2672 $ tiền Canada và 425$ tiền Mỹ. Cô dùng tiền này lo ma chay cho tôi, thừa thiếu bao nhiêu cô chịu”.

 Số tiền tang lễ thì nhiều nhưng Sao Khuê có mua bảo hiểm cho ba má và em trai cũng phụ một phần vào cho đủ. 

Hồi bố mẹ sang, Sao Khuê xem số tử vi của mình, thấy năm 1995 “Tang môn ngộ bạch hổ”, e có tang mà lúc đó nợ ngập đầu, lấy tiền đâu mà lo nên bấm bụng mua hai bảo hiểm cho bố mẹ. Vì tuổi tác và vì bố đã hút thuốc lại bị bệnh nên bảo hiểm rất đắt. Mỗi tháng đóng gần 100$ và đóng gần 10 năm, tiền nhận lại cũng bằng số tiền đóng. Đúng là thầy Sao Khuê… bói mò.

Bố Sao Khuê chưa muốn chết.Bố muốn sống thọ, ít ra thì hơn ông suôi gia,  mất vào năm 91 tuổi nhưng bố lại mất lúc 85 tuổi. Trừ chứng bệnh phổi, bố  Sao Khuê còn to lớn khoẻ mạnh, vững vàng và minh mẫn, bằng chứng là bố  nhớ rất rõ số tiền mà Sao Khuê còn giữ của bố. 

Những năm cuối đời , bố ăn chay trường trường, nhưng không tụng kinh mà chú trọng tìm hiểu về giáo lý của đức Phật. Bố có viết và muốn in tập khảo cứu “ Đường vào cửa Không”. Đáng tiếc, lúc đó Sao Khuê vừa bệnh vừa nợ nhà chưa xong nên không giúp bố hoàn thành tâm niệm và bố thì nhất định không dùng tiền của mình để in, mặc dù Sao Khuê đã hứa là khi bố nằm xuống Sao Khuê lo hết, do đã mua bảo hiểm… Bây giờ Sao Khuê mới giải mã là cụ muốn để giànhcho hai con trai.

Cũng như bà nội, bà nội biết rõ, rất rõ lúc ra đi. Bà vẫn khỏe mạnh và  đang ở chơi nhà con gái. Tối đó, tháng 10 năm 1974,  bà đòi con rể đưa về nhà bác Cả : 

 – Anh đón xe cho tôi về ngay, các “Cụ”cho người đến đón tôi rồi.

Khi về đến nhà, được đặt nằm trên giường, bà chắp tay và ra đi, thanh thản, bình an.

Bố, bố cũng có linh tính nên tối hôm trước bố đã viết và dặn dò hậu sự.

Khi bố ở nhà quàn, Sao Khuê có làm một bài thơ khóc bố. Ngày đó Sao Khuê viết và đưa in trong Đặc san Dược khoa  Montréal chứ không có lưu như bây giờ nên khó tìm lại.

Dù sao chăng nữa, Sao Khuê có linh cảm rõ ràng là bố đã đi một mạch, đi không vương thê nhi, bố về một nơi rất an bình nên chẳng bao giờ Sao Khuê thấy bố trở về.

“Father’s day” đến… Sao Khuê nhớ  bố. Chẳng bao giờ bố đánh đứa con nào, tuy la mắng khá dai khi Sao Khuê  thi rớt.

Coi kìa, bố đang la:

 – Cái con này, mang cả bố ra mà viết truyện, lại còn kể xấu nữa chứ… 

– Con chưa kể ra hết đó, khi có dịp con kể thêm nữa… 

Dù biết bố đi tuốt luốt nhưng lúc nào có trái cây mới, thức ăn ngon là Sao Khuê vẫn để trên ban thờ ông bà nội, ngoại, bố, bác, các chú, cậu em  cùng bố mẹ chồng.

Mỗi lần vắng nhà đi chơi xa là Sao Khuê lại giao:

– Con đi chơi đây, bác và bố trông nhà đấy nhé. 

Giao bác thì yên chí vì bác vốn cẩn thận.    Giáo sư toán mà lỵ, không vơ vẩn thơ thẩn như bố…

  Bố ơi! Con nhớ bố….

Sao Khuê 2023

**

Khóc Cha

Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?

Người cha cũng có nhiều công lao dưỡng dục, mặc dù không là người trực tiếp mang nặng đẻ đau như người mẹ, nhưng người cha đổ rất nhiều công lao như đi làm kiếm tiền trang trải cuộc sống, gánh vác cả gia đình; cuộc sống có tốt đẹp, ấm no, con cái có học hành, phẩm hạnh đạo đức không, chính nhờ phần lớn mồ hôi, công sức nuôi dậy của người CHA.

Tôi là đứa con trai giữa trong gia đình năm chị em, ba gái đầu liên tiếp và hai trai sau, mà tôi là người anh đầu. Lẽ ra ba chỉ muốn có hai người con, một trai và một gái thôi, hoặc ba người là nhiều rồi, vì ba bảo có nhiều con vui thật nhưng trách nhiệm nặng nề, phải nuôi con đến nơi đến chốn, cho ăn học và đến khi chúng lập gia đình mình cũng còn phải lo!

Mỗi lần mẹ mang bầu là mỗi lần ba đặt nhiều hy vọng, mong một thằng cu! Ba hay kể với bác Tư, bạn thân của gia đình là ba cảm thấy rất phấn khích, khỏe mạnh khi “gần” mẹ, chắc chắn kỳ này phải là đứa con trai. Thế nhưng kết quả là… người chị cả ra đời!

Ba tự an ủi, nói với ông bà Nội rằng:

– Không sao, đứa đầu lòng là gái hay trai cũng được, là con gái thì sau này nó dậy dỗ trông nom em càng tốt hơn nữa, nhất là chỉ bảo em trai thì tốt đẹp biết bao.

Hai năm sau, mẹ mang bầu, ba đặt tất cả kỳ vọng vào cái bầu tròn căng vượt mặt của mẹ. Thuở ấy chưa có siêu âm ở những vùng tỉnh nhỏ, nên chỉ nhìn dáng bụng thì suy đoán là trai hay gái mà thôi; ông bà nội với nhiều kinh nghiệm, ngắm cái bầu của mẹ khi lên Dalat thăm gia đình nhỏ của chúng tôi:

– Nhìn cái bầu tròn như thế thì 80% là con gái rồi!

Ba cố chống đối:

– Nhưng sao kỳ này mẹ chúng nó lại thích ăn ngọt chứ không thích ăn chua như lần mang bầu đầu tiên, có thể nào là con …trai?

Đứa con gái thứ hai ra đời, ba có hơi thất vọng.

Đến ba năm sau, ba lại nhất định “thua keo này ta bầy keo khác”, không chịu thua số phận, hy vọng tăng trội hơn khi thấy khuôn bụng của mẹ nhỏ gọn hơn hai lần trước.

Ngày mẹ đi sanh chỉ có ông bà ngoại bên cạnh vì ba phải đi làm xa, ở Liên Khương, ba phone về thấp thỏm hỏi ông bà ngoại:

– Vợ con sanh có tốt không bố? Baby sinh ra có khỏe không? và có phải là con… trai?

Ông ngoại ái ngại, không dám trả lời liền, ngần ngừ:

– …Ưm… nhờ Trời thương mẹ tròn con vuông!… Con bé khỏe mạnh!

Ba thốt lên một cách thất vọng:

– …Lại là con gái ư?!

Một khoảng thời gian yên lặng, rồi ba nói tiếp :

– Con nhờ ông ngoại đặt tên cháu nhé.

– …Ừ được rồi, nhưng con bé này rất kháu khỉnh, có cặp mắt tròn to, da trắng và rất nhiều tóc!

– Vâng! Ông cứ đặt tên cho cháu đi nhé, con cám ơn ông bà Ngoại giúp con nuôi vợ con và các cháu nhé; con phải làm đến hết tuần này mới về nhà được ạ.

– Được rồi, con cứ an tâm đi.

Chỉ nói thế thôi, ba cúp phone tiếp tục làm việc.

Ông Ngoại trầm ngâm suy nghĩ, biết ba đã « ngán » con gái lắm rồi, nếu mẹ cứ tiếp tục cái đà này thì chắc ba ở luôn trên Liên Khương làm việc!

Ba chị gái đầu ra đời làm ba tôi chán quá, đổi nhà về Saigon làm việc để có thể thay đổi không khí, thay đổi sinh hoạt, biết đâu….

Lần thứ tư mang bầu, mẹ tôi chẳng thèm kiêng cữ gì như ba lần trước, bà ăn uống xả láng vì cảm thấy lúc nào cũng đói, nhất là rất thích ăn kem, ăn đồ lạnh.

Ngày mẹ đau bụng, mới đến nhà thương, chưa kịp vào phòng sanh, đứa trẻ đã muốn lọt ra ngoài, họ vội vàng đẩy mẹ vào phòng ngay; ba đứng bên ngoài chờ cho mọi chuyện êm thắm một chút, định bỏ về đi làm thì nghe tiếng khóc thé của tôi vọng ra; ba đã biết đó là thằng con trai!

Ba đã mừng đến rơi nước mắt và đã chắp tay cảm ơn Trời Phật ngay tại trước phòng sanh của mẹ!

Tôi được cưng chiều đến nỗi chỉ một tiếng khóc nhỏ cũng được chị vú ẵm bồng, dỗ dành.

Mỗi buổi chiều đi làm về, ba đều vào thăm thằng cu Thơm, vì hồi bé tôi thơm mùi sữa, mùi phấn lắm nên được đặt tên ở nhà là cu Thơm, ba mua đồ chơi, hôn hít, bồng bế tôi. Tôi đem niềm may mắn đến cho gia đình, ba được thăng chức, được chính phủ cấp cho nhà rộng to, rất đẹp.

Dù ba cưng chiều tôi nhất nhà, nhưng ba chị của tôi cũng được ba chăm sóc, lo lắng cho từng người. Tôi nhớ chị lớn nhất của tôi đến tuổi có bạn trai, mỗi lần anh ấy đến, ba đều hỏi gia cảnh nhà anh ấy tưởng chừng như cảnh sát hỏi cung phạm nhân vậy, đến nỗi anh ấy không dám vào nhà nữa mà hẹn chị ở góc đường, ba nói :

– Đứa nào có can đảm đối đầu được với ba thì mới xứng đáng làm con rể của ba!

Mỗi lần tôi bị bệnh thì khỏi nói rồi, ba thức đêm lo cho tôi uống thuốc đúng giờ thay vì là mẹ, ba cẩn thận đến nỗi sợ mẹ mệt ngủ quên nên ba để đồng hồ báo thức dậy đúng giờ đó, và tự tay cho tôi uống thuốc.

Sau tôi, em trai ra đời, ba rất vui mừng và ngưng tại đây.

***

Những ngày vui hạnh phúc chưa được bao nhiêu thì miền Nam bị nhuộm đỏ, công việc dưới chính quyền cũ không còn nữa, ba phải cơ cực làm những công việc chẳng phải là chuyên môn của mình, hy sinh tất cả cho các con từ hạt cơm bo bo đến miếng thịt heo cả tháng mới mua được một lần ở hợp tác xã.

Sau đó là những lần vượt biên không thành, ba bán dần dần những đồ đạc trong nhà, ba ít nói hơn, mái tóc bất ngờ chuyển màu trắng toát chỉ qua vài đêm, ngồi yên nhìn vào khoảng trống như suy tính mọi cách làm sao cho con cái thoát thân trước, rồi ba mẹ mới là người cuối cùng.

May mắn làm sao đúng vào lúc gia đình cạn kiệt nguồn vốn để dành bao lâu nay, giấy tờ bảo lãnh của người thân bên Canada về đúng lúc, chúng tôi sửa soạn rời xa quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn đến một xứ sở thứ hai với hai bàn tay trắng, tương lai mịt mờ, chỉ còn mỗi niềm hy vọng mong manh trong tim.

***

Ba mươi năm sống ở xứ Canada lạnh giá, 15 năm đầu ở Montreal, ba đã bỏ cả tự ái, quên đi cái chức giám đốc nha hỏa xa, xưa kia ở Saigon, một thời cai quản hơn cả mấy chục nhân viên dưới quyền, ba đã phải làm công nhân với mức lương 4$/ giờ trong hãng làm giầy da, sáng sớm dậy chờ bus lạnh lẽo ở đầu đường, làm cho đến chiều 5 :00 về nhà mệt nhoài. Với số tuổi không còn trẻ, 55, Ba cố gắng quên mình, bỏ tự ái để đi làm công việc tay chân với một mức lương tối thiểu mà không hề than trách, để cho chị em chúng tôi đừng bị dang dở việc học.

Vài ba năm sau, năm 1990 dù lớn tuổi, ba vẫn lấy thêm chứng chỉ học ban đêm, mỗi tối cả nhà chúng tôi đều yên lặng, ai nấy đều gục đầu vào quyển sách, chỉ nghe tiếng trang sách lật; ba thi vào một chức vụ hành chính về quyền con người của cấp thành phố Montreal, tỉnh Quebec nơi chúng tôi đang cư ngụ, chức vụ này có đến trên 10 người thi vào, chỉ một mình ba là người Việt tỵ nạn đến Quebec được ba năm rưỡi, còn những kia toàn là dân bản xứ, họ thi lên ngạch, làm lâu năm và có kinh nghiệm cả chục năm trong guồng máy hành chính này. Ba nói với chúng tôi:

– Cứ thử sức xem sao, không mất mát gì cả, nếu đậu thì cả nhà chúng ta sẽ được thay đổi đời sống, mâm cơm sẽ khác hơn, sẽ có xe đi và chỗ ở tốt hơn; nếu không được thì mình cũng học cho có thêm sự hiểu biết về luật pháp của Canada, không có gì mất công hết!

Chúng tôi rất cảm động vì thấy tuổi ba đã lớn, trên 55 mới bắt đầu học lại, ba không muốn cho mẹ phải đi làm, không muốn thấy chúng tôi phải bỏ học ngang để đi làm kiếm tiền, ba lúc nào cũng tự cho mình phải mang trách nhiệm này đối với gia đình.

Nhiều đêm thấy ba đọc sách mà quyển sách đã tự rơi xuống đất vì buồn ngủ và mệt quá, ban ngày đi làm từ sáng sớm, tối thức khuya đến 12 :00 đêm làm sao sức nào chịu nổi, tôi thương ba vô cùng, tự hứa với lòng sẽ ráng học ra trường kỹ sư để ba hài lòng.

Rồi một ngày, ba về nhà mang trên tay bao nhiêu giỏ xách, ba hớn hở nói như reo, lần đầu tiên tôi thấy ba vui như thế:

– Mẹ chúng nó này! Tôi đã… thắng rồi nhé, tôi được chọn vào làm văn phòng của chính  phủ rồi, thứ hai tới này tôi đi làm công sở mới!

Lúc ấy ở nhà chỉ còn hai anh em trai chúng tôi thôi, ba chị lớn đã lần lượt đi lấy chồng sau khi ba mẹ tôi sang được một năm, tôi và em trai đã chạy ra ôm lấy ba, chúc mừng:

– Ba giỏi quá! Chúng con phải noi theo gương ba!… Hôm ba đi thi có đông người phỏng vấn ba không?

– Cả một phái đoàn 6 người, mỗi người hỏi một vấn đề, người thì hỏi về luật lệ Canada, kẻ thì đưa ra những tình huống xem mình giải quyết thế nào, còn người thì hỏi về học vấn và công việc trong quá khứ của mình ra sao…rất stress lắm, mỗi thí sinh phải qua cả tiếng đồng hồ với họ đấy chứ không dễ ăn đâu!

– Chúng con rất hãnh diện về ba, ba giỏi quá, ba làm gương cho chúng con noi theo đó!

– Vậy mấy người kia thì sao hả ba? Họ trả lời không được hay sao?

– Họ không đủ kinh nghiệm sống và có người chưa làm qua chức vụ đó thì làm sao trả lời được, còn ba thì đã làm mấy năm giám đốc hỏa xa, lại đi tu nghiệp ở Mỹ, Pháp về thành ra đối với ba không là vấn đề gì to tát, chỉ có cái mình nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ không nhanh bằng họ thôi, mình viết giỏi, nhưng nói thì chưa lưu loát lắm.

-B õ công ba học hành từ cả mấy tháng nay! Đây là món quà thật xứng đáng của ba!

– Cái gì cũng phải nỗ lực để đạt được, các con nhớ nhé, muốn gì phải đạt được bằng tất cả khả năng của mình, đừng từ bỏ, hãy theo đuổi mộng ước của mình đến cùng vì mình chỉ khổ vài năm thôi mà được hưởng cả đời.

Mẹ tôi chen vào:

– Ba nó mua nhiều thịt heo, thịt vịt quay quá, hôm nay tha hồ mà ba bố con nhậu với nhau!

***

Ba làm cho công sở cấp thành phố, tiểu bang Quebec này được 10 năm, đúng 65 ba về hưu, mọi người trong sở ai cũng quý mến ba, ba được thưởng bonus và được tiền hưu cao. Lúc ấy tôi và em trai đã tìm được một công việc khá ở Toronto về kỹ sư điện tử đã được trên sáu năm và cũng đã lập gia đình; ba mẹ muốn về gần con trai và các cháu nhỏ, nên đã từ giã Montreal, không muốn ở chung với các con, mà muốn ở riêng và thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm.

Mẹ mất khi 70 tuổi, sự ra đi nhanh chóng của mẹ làm cuộc sống của ba bị mất thăng bằng, ba không còn thấy vui sống nữa, nhưng vẫn cố gắng giữ nụ cười khi gặp con cháu. Ba cố gắng tự mình di chuyển bằng xe đạp, bằng phương tiện giao thông công cộng như bus hay metro để đừng phiền đến ai, ba cũng tự học làm cơm mà từ trước đến nay ba chẳng bao giờ đụng đến bếp núc mà chỉ lo kiếm tiền cho gia đình mà thôi, ba ăn uống qua loa… Vì thế nên ba ngày càng gầy đi, mỗi lần gặp chúng tôi ba đều cố vui để chúng tôi đừng lo lắng, đừng mất công làm cơm đem đến cho ba:

– Ba khỏe mạnh lắm, không bệnh hoạn gì hết, các con cứ lo đi làm, lo cho các cháu là được rồi, đừng mất công đem gì đến cho ba, ba đặt đồ ăn ở gần đây, họ làm ngon lắm.

Đến một ngày, tôi nhận được phone của ba từ nhà thương, ba cố nói với giọng vui vẻ:

– Ba đã xin được một chỗ ở đây rất tốt, phải chờ đợi lâu lắm mới được chỗ này đó, họ làm cơm cho mình ngày ba bữa, nơi đây vừa gần chỗ các con ở, vừa gần … nhà quàn…

– Ba! Cái gì vậy? Tại sao ba lại vào nhà thương ở? Chỗ đó đâu phải…. Sao ba không bàn gì với chúng con? Cancer phổi của ba các bác sĩ nói vẫn được theo dõi ok mà? Ba có bị đau đớn không? Ba có buồn giận gì chúng con không?

– Không đâu, chính ba là người quyết định, các con không có lỗi gì ở đây cả! đời người cũng phải có cái hạn mà con, ba đã sống hết đời rồi; từ ngày mẹ con qua đời đến giờ ba sống thật bấp bênh, thấy thiếu thốn một cái gì đó, cuộc sống không còn vui, không còn chất lượng nữa… Ba muốn… đi gặp Mẹ!

Tuy nhiên, ba rất vui thấy các con đã thành công, tự lực, nuôi nấng và giáo dục các cháu rất tốt, đó là điều mà ba thấy hạnh phúc nhất. Ba thấy mình đã thực hiện được ước mơ, trách nhiệm đã xong, sống lâu quá chỉ làm phiền các con cháu mà thôi, ba chọn cách ra đi nhẹ nhàng nên mới vào nhà thương này….

Ba phone đến các chị lớn để “trăn trối”, dặn các chị phải làm gì sau khi ba ra đi, ba muốn được thiêu, tro của ba hãy để vào chùa, chỗ bên cạnh mẹ mà ba mẹ đã chọn mua, ba để lại gia tài cho đứa nào cái gì…

Chúng tôi chỉ yên lặng nghe quyết định của ba mà trái tim tan nát, nước mắt rơi không ngừng, không nói được điều gì khi thấy ba đã suy nghĩ, đã sắp xếp cho chuyến đi xa của ba được toàn vẹn. Các chị tôi lúc nào cũng túc trực bên cạnh nhà thương; khi vào thăm ba, thấy ba còn mạnh khỏe, vẫn tự mình làm vệ sinh cá nhân, ăn uống ngon miệng đồ ăn của nhà thương, nơi đây là chỗ để cho những người bệnh già ở, không bị bệnh nặng lắm, có những người ở đây đến hai năm vẫn chưa ra đi.

Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm xưa với ba, nói những chuyện vui để ba có thể quên đi cái thực trạng bệnh hoạn, ba chỉ cười mỉm và lúc nào cũng nhắc nhở chúng tôi:

– Nhớ trông nom các em, các cháu cho tốt nhé, ba ra đi sẽ phò hộ cho các con!

– Ba ơi, ba hãy đi đầu thai, hãy làm việc của ba, đừng vì chúng con nữa ba nhé, ba đã cho chúng con một đời này là được rồi ạ!

Đến tháng thứ hai ở nhà thương, lúc 3:00 sáng, tôi nhận được cái phone định mệnh reng lên giữa đêm, họ nói ba đã từ chối ăn uống, cũng như uống thuốc từ hai hôm nay, để được thảnh thơi ra đi… Ba tôi hưởng thọ 86 tuổi!

Cha đi, bóng xế bên thềm,
Lá rơi theo gió, nỗi niềm rụng theo.
Lặng thầm lệ ướt khăn treo,
Con ngồi thổn thức giữa chiều buốt tim.

Một đời cha gánh nổi chìm,
Cho con nắng ấm, cho tim yên bình.
Giờ đây trời đất lặng thinh,
Cha ơi… tiếng gọi chỉ mình con nghe.


Sỏi Ngọc

Montreal June’25

**

Lời Ba Muốn Nói

Minh Thúy Thành Nội

Mùa Hạ đã bắt đầu báo hiệu, các loài hoa thi đua nở đủ màu sắc tươi vui. Anh Quang bước ra sân theo tiếng gọi của vợ nhờ bưng phụ mấy chậu hoa quỳnh lên bệ cao, vì muốn ngắm nét đẹp của loài hoa trang đài đang nở hàng chục đóa hồng và vàng. Bé LiLy bước chân cao chân thấp đi theo cha cười hồn nhiên.

– Con tránh ra để ba phụ mẹ chút nha

Lily nghiêng đầu qua, nghiêng đầu về vẫn níu áo, anh đành dừng chân nói với vợ “chờ chút…con đang vui vẻ”. Anh gỡ nhẹ tay con dìu vào ghế dài dưới tàng cây phượng vàng nay đã tàn hoa, chỉ còn bóng lá xanh tỏa mát. Anh ôm con, đặt đầu LiLy áp vào ngực anh, nghe luồng tim đập ấm áp chứa tình thương bao la.

Nhìn con lòng anh như quên hết chuyện phiền não hôm qua.

Vợ chồng anh mua vé hai tháng trước cho chuyến bay qua Hawaii nghỉ mát như thường lệ. Đã làm thủ tục check-in và ký gởi hành lý xong xuôi, vợ chồng anh hân hoan xếp hàng, bỗng bé Lily ngồi sụp xuống, níu chân ba mẹ nhìn về hướng ngược, biểu hiện ý đòi trở lui. Anh dỗ con “Ngoan Lily nhé, con sẽ vui đùa tắm biển khi qua đó”. Bé hất tay anh ra, rồi nằm lăn dài khóc lóc. Anh chị thay phiên dỗ dành, dìu con lùi qua một bên nhường chỗ cho khách hàng đang bước từ từ lên. Thời gian như muốn đứng lại, Anh chị nhỏ nhẹ, vuốt ve con sau gần một tiếng đồng hồ, cháu vẫn la hét đến khàn cổ. Cuối cùng anh chị phải chiều ý con gọi Uber trở về nhà. Anh liên lạc với nhân viên Airlines báo cáo hủy chuyến bay dù hành lý đã gởi, và được cho biết sẽ nhận lại một tuần sau.

LiLy ngồi yên ép sát đầu vào ngực anh, trong khi chị nhổ cỏ dại mọc xen chung quanh các chậu hoa trong lúc chờ đợi anh giúp đỡ việc nặng.

Anh nhìn màu nắng rực rỡ, ký ức ùa về của khoảng thời gian gần 30 năm trước. Anh giật mình “thời gian trôi nhanh quá, mọi chuyện cứ ngỡ như mới đâu đây…” Anh để dòng sông êm ả trôi về miền kỷ niệm…

Sinh ra trong một gia đình có ba anh em, Anh là trai lớn, thủa nhỏ đi học luôn đoạt bằng khen, bằng danh dự. Theo gia đình vượt biên qua Mỹ, anh hội nhập mau chóng và tiến bộ trong lãnh vực học đường, suôn sẻ tốt nghiệp bằng kỹ sư. Anh làm việc đi qua nhiều hãng nổi tiếng, hiện tại làm cho hãng Cisco tọa lạc vùng San Jose, nhưng được làm việc ở nhà.

Anh nhớ một mùa hè năm đó…. trong vài buổi làm việc thiện nguyện tại San Francisco, Anh gặp Ái Thanh (vợ anh bây giờ) đang là sinh viên của trường San Jose State, nàng rất đẹp và xông xáo trong công việc. Anh đã bị hớp hồn ngay từ phút đầu và tìm cách làm quen, quyết chinh phục cho bằng được. Chị lúc ấy cũng mến anh, một kỹ sư có nét thanh tú với dáng cao và tánh tình hiền lành ít nói. Anh chờ chị tốt nghiệp bốn năm, chị có việc làm trong phòng thí nghiệm của trường Đại Học. Mọi việc đều vững vàng bảo đảm đời sống, vì anh đã mua nhà trước đó. Sau vài năm tìm hiểu, anh chị quyết định tiến tới hôn nhân và hiện là cư dân của vùng Milpitas.

Mọi sự đều chuẩn bị sẵn sàng, đứa con trai Robert đầu đời, Anh chị chào đón trong niềm hạnh phúc vô biên. Ba năm sau bé Lily được sinh ra, những giây phút chờ trông cháu Lily lật trở vui nhộn biết bò theo thứ tự bẩm sinh. Sau gần hai năm, theo dõi bước thay đổi và phát triển của con, chưa thấy bé Lily biết đứng, biết bập bẹ phát ra âm thanh của trẻ con, anh chị lo lắng đem con đi gặp bác sĩ và bệnh viện nhiều lần, kết quả bác sĩ cho biết cháu bình thường, hãy chờ đợi thêm thời gian nữa”. Anh chị bắt đầu sống trong tâm trạng lo âu hồi hộp vì chẳng có gì tiến triển, ngày tháng trôi qua trong mòn mỏi, nhìn con vẫn bò quanh nhà dù đã lên bốn, năm, sáu…tuổi.

Khi con đầu lòng chào đời, anh chị tìm được người trung niên độc thân tên Sâm, sinh hoạt các chùa (do bạn giới thiệu), sau thời gian quan sát tìm hiểu tánh tình chị Sâm này rất hiền từ nhân hậu. anh chị yên tâm để chị Sâm ở lại sáu ngày, cuối tuần về thăm nhà, vì vậy vợ chồng yên tâm cày cấy trang trải nhiều thứ nợ.

Trước đây chị Sâm trông nom em gái Natalie con anh kỹ sư Lâm. Chị kể lại: “Em gái này đã trên hai mươi tuổi, bị bệnh Autism (tự kỷ) rất hung dữ, qua nhiều người đến chăm sóc nhưng họ phải đầu hàng vì em không chịu ai cả. Có những lúc em bị kinh nguyệt, em vùng vằng không cho chị Sâm thay băng làm vệ sinh, cuối cùng anh Lâm phải tự tay làm công việc ấy cho con, bởi vợ chồng đã ly dị, mà anh là người nuôi con. Chị Sâm thương lắm cũng đành nghỉ việc, sau bà Nội đến ở lại chăm cháu. Thỉnh thoảng cuối tuần chị Sâm cũng ghé thăm vì thương những mảnh đời đau khổ, thương những đứa trẻ không được bình thường sống trong hoàn cảnh thật xót xa. Câu chuyện được kể khi chị Sâm chứng kiến bé Lily có nhiều dấu hiệu không được bình thường, nhưng chị Sâm may mắn trông cháu bền lâu vì tánh Lily hiền lành dễ chịu hơn.

Một hôm tình cờ xem hình cha con anh Lâm trong buổi tiệc gia đình có chị Sâm chụp chung, nhờ vậy anh Quang nhận ra người bạn học xưa. Họ liên lạc hỏi thăm, tâm tình tìm sự cảm thông nhau từ đó.

Một buổi hai anh hẹn gặp uống cà phê cuối tuần. Sự mệt mỏi hiện ra trên nét mặt, mỗi người như bị áp lực đè nặng trong công việc và con cái. Anh Quang kể về hãng Cisco, anh Lâm làm cho hãng IBM, trao đổi những mẫu chuyện về nghề nghiệp. Anh Quang hỏi thăm bệnh tình cháu Natalie.

– Cháu vẫn chơi và khỏe đó chứ?

– Càng ngày tâm tính cháu càng hung hăng chướng kỳ, giai đoạn này cháu không thích mặc quần áo, cởi bỏ hết đi khắp nhà. Bà nội không đủ sức mặc vào cho cháu, tôi phụ giúp thật khó khăn vì cháu vùng vẫy, phải cố gắng dùng sức mạnh kềm tay chân cháu. Mặc quần áo xong rồi tôi phát hiện có vết bầm trên cánh tay cháu, biết mình vô ý lỡ mạnh tay tôi thật đau lòng, hối hận muốn khóc vì thương con mình quá.

Anh Lâm kể lại với ánh mắt buồn bã. Biết hoàn cảnh bạn mình đã ly dị chịu cảnh gà trống nuôi con, anh Quang nhẹ nhàng:

– Ông cũng nên tìm người bạn mới cho khuây bớt

Anh Lâm lộ vẻ uể oải chậm rãi:

– Nói gì, tôi cũng có bạn gái chứ, tháng trước dẫn về chơi dò ý con, cháu Natalie lộ vẻ giận dữ hai mắt đỏ ngầu, tôi sợ quá nghĩ từ nay không đem về nhà nữa. Lòng tôi cũng chẳng hứng thú gì khi nghĩ đến con, chỉ muốn để mặc dòng đời trôi… Mỗi ngày đi làm về nhìn con, chơi với con bằng tình phụ tử thiêng liêng dậy lên những cảm xúc dạt dào khôn nguôi thật khó tả.

Một hôm người quen khuyên anh Quang xin tiền phúc lợi Social Security Disability Insurance (Bảo Hiểm Khuyết Tật An Sinh Xã Hội – SSDI). Anh gạt ngang nghĩ thầm “Làm gì có chuyện đó đối với anh, khi mức lương vợ chồng cao, lại đang làm chủ hai ngôi nhà, một ở và một cho thuê, trường hợp anh không thể được quyền hưởng phúc lợi”. Anh hoàn toàn không tin, nhưng nghe nhiều người bàn cãi quá, điện thoại hỏi bạn Lâm, bạn cũng không biết. Hai anh điền đơn thử thì được xác nhận: trẻ em bị bệnh tự kỷ được hưởng quyền lợi là đúng, dù cha mẹ có dư điều kiện tài chánh đi chăng nữa.

Anh Quang không thể ngờ được nước Mỹ có chính sách nhân đạo đến vậy. Chính phủ không quan tâm ai giàu hay ai lương cao việc lớn mà chỉ chú trọng việc chăm sóc, hỗ trợ cho trẻ em, nhất là các trẻ em đặc biệt. Chính phủ trả lương cho người chăm sóc bé Lily và được hưởng thêm quyền lợi bảo hiểm sức khỏe. Bé được đi trường học lớp đặc biệt có xe đưa đón tận nhà, được cô giáo người bản xứ về nhà dạy riêng hai tiếng ngoài giờ. Anh muốn hét to “American vĩ đại, nhân từ bậc nhất…” Cho dù lương của anh bị trừ thuế 40% vẫn xứng đáng, vui vẻ góp phần xây dựng đất nước này phát triển vững mạnh thêm.

Mùa đông đi qua, mùa xuân lại đến, mùa hè trở lại, mùa thu tuần tự. Anh chị vẫn sống bằng niềm hy vọng bệnh tình bé Lily có phần tiến bộ, dù đã qua mười hai năm cháu vẫn chưa biết nói, biết đứng dậy. Tới năm mười bốn tuổi, bỗng dưng cháu đứng dậy và từ từ bước tập tễnh, còn niềm vui nào lớn hơn. Anh chị đã ôm nhau khóc vì mừng rỡ, bám tiếp tục niềm hy vọng để sống.

Nghĩ đến vợ, anh cảm thấy thường quý vô cùng. Nàng nấu ăn rất ngon, dù có chị Sâm trong nhà, nhưng bà xã chỉ muốn tự tay nấu những món ngon cho chồng con ăn vừa ý. Sau giờ làm vợ tất bật về nhà đứng mấy tiếng đồng hồ trong bếp, tối dành thì giờ chơi với con. Bé Lily rất kén ăn, nàng theo chiều con sát nút. Có điều đối với chị Sâm, bé dễ chịu vui vẻ, nhưng khi vợ anh về là bé chướng hết cỡ, đòi lung tung đủ thứ, bắt nàng bồng bế dù LiLy rất nặng ký. Bé có dấu hiệu: thích ngồi một mình, sợ người đông và sợ âm thanh mở lớn. Khi vui bé ngồi cười một mình xoay đầu liên tục, cô giáo có kỹ thuật chuyên môn dạy cháu chơi game để phát triển não bộ, cháu biết mở ipad và biết nhiều trò chơi trong máy khiến anh chị thấy phấn khởi vô cùng.

Anh chị ngoài thì giờ sinh hoạt, cũng tìm đọc các trang mạng về bệnh tự kỷ để hiểu thêm tâm lý. Chị là người mẹ rất tuyệt vời, luôn dặn anh “đừng bao giờ lộ nét mặt buồn giận con, mà phải cố gắng tạo nét mặt vui vẻ, ánh mắt trao nhìn con thật trìu mến”. Anh nhớ bao nhiêu năm, vợ luôn đè nén những ước mơ riêng tư, chịu đựng hy sinh cho con hết mực, những khi cháu nổi cơn bất thình lình. Như lần qua Florida ăn cưới cháu, trong buổi tiệc Lily nằm dài la hét làm anh chị không dự được phải ẵm con về khách sạn sớm; lần đi máy bay qua Nhật, cháu nằm lăn trên sàn khóc lóc lăn lộn, hành khách thật lịch sự ngồi yên như không có chuyện gì xảy ra dù cháu quậy rất ồn ào; lần qua đảo Big Island bên Hawaii, Lily cũng nằm vạ trên lối chờ vào máy bay, hôm đó tình cờ một viên phi công đi ngang qua, cúi xuống cầm tay em dẫn đi vào máy bay, cháu ngưng tiếng khóc bước theo, may mắn chuyến đó anh chị được thoát nạn; mỗi khi đến nhà ai hoặc ra ngoài công viên dự tiệc, thường chỉ có mình anh đi dự, họa hoằn đôi bữa có chị nhưng chị cũng nửa chừng bỏ cuộc.

Tiếng chị đánh thức anh về vùng hiện tại:

– Anh để con chơi, phụ em cho xong việc, em còn đi chợ vì tủ lạnh trống trơn rồi

– Được em! 

Anh đẩy nhẹ Lily ra khỏi vòng tay.

– Con dạo ngắm hoa đi nhé, con có thấy hoa nở đẹp không?

Bé buông tay anh bước chậm nhìn hoa, không biết con có hiểu lời anh nói!!??

Sau một hồi phụ vợ các việc nặng, anh ngồi nhìn con chơi trong sân. Robert, anh Hai của LiLy đã tốt nghiệp Đại Học và có việc làm nơi xa. Anh chị vẫn tựa vào niềm hy vọng một ngày được nghe con gái nói, dù tiếng nói bằng ngôn, anh chị ngữ riêng cũng tốt. Năm nay quỹ An Sinh Xã Hội cắt giảm tài trợ việc cô giáo đến nhà bày vẽ chơi game cùng Lily hai tiếng mỗi ngày. Nhưng không hề gì, anh chị vẫn tiếp tục trả lương cho cô giáo, để cô hướng dẫn dưới hình thức chơi game bằng phương pháp trị liệu tâm lý và khai triển bộ óc.

Lily quay nhìn anh, cười tươi tắn, trở lại ôm anh sờ ngực, sờ áo. Anh vuốt tóc con thì thầm “Lời ba muốn nói với con, là ba mẹ yêu con nhất trên đời. Con là hơi thở, là sự sống của ba mẹ. Dù sao con cũng được sinh ra trên nước Mỹ, một đất nước nhân bản, có nhân đạo luôn đặt quyền lợi các trẻ em bị bệnh lên ưu tiên hàng đầu”.

Năm nay LiLy đã hai mươi tuổi. Tuần trước anh chị định dẫn bé đi chơi xa như món quà sinh nhật, vì anh chị thấy cháu rất thích chơi đùa với sóng biển, thích tắm nơi bờ biển vắng người, nhưng chuyến này không may nên bất thành. Con bé cao giống anh, khuôn mặt trái soan, nét mặt giống chị. LiLy sinh ra đời được bao nhiêu người yêu thương ngoài ba mẹ, hai bên nội ngoại, chị Sâm, người quen và nhất là anh Hai Robert của bé, cũng biết dỗ dành, chiều chuộng, đút cơm hoặc thay tả cho em mình.

Đã vào tháng Sáu, ngày Chủ Nhật đẹp trời. Anh chị tổ chức sinh nhật cho LiLy ngoài park gần nhà. Mùa hè đến, cây cỏ xanh um, quang cảnh mang bộ mặt tươi vui đầy sức sống. Bà con đến đông chúc mừng quà cho cháu. Tuần trước bé không vui cản trở chuyến đi chơi, hôm nay bé vui, ngồi yên cho mọi người chuyện trò ăn uống khiến anh chị mừng lắm.

Chiều dần xuống Lily chỉ về hướng xa vắng người, nắm tay ba kéo đi. Anh nhờ chị tiếp khách, hai ba con bước tới những mô đá bên kia đường, bé ngừng lại muốn ngồi xuống. Anh cũng ngồi theo bé nhìn bóng chiều lung linh hoa nắng nhảy múa trên vạt cỏ. LiLy nhìn quanh quẩn lộ nét mặt dễ chịu nơi có không khí yên tĩnh thoáng đạt. Mặc bên kia mọi người rôm rả nói chuyện, ăn uống tiếp tục, anh vẫn lặng lẽ ngồi bên con cả tiếng đồng hồ, nhìn mây trời trôi lãng đãng, nghĩ đến những mảnh đời khác nhau biến chuyển theo cuộc sống.

“Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, nghĩ người bạn có con bị bệnh giống Lily, anh thấy mình được may mắn hơn, vì còn có đứa con trai thành đạt, có vợ bên cạnh chung nhau chăm sóc Lily. Anh nhớ điều đã đọc trong tài liệu về phương thuốc chữa bệnh Tự Kỷ Tâm Lý: “Tình yêu thương của người thân chính là phương thuốc hữu hiệu nhất cho người bị tự kỷ. Nên trò chuyện với họ nhiều hơn để tinh thần được thoải mái”.

Anh lẩm bẩm “Nhất định xóa tan đau khổ, thất vọng, chống phá căn bệnh trầm cảm chen vào. Con là giọt máu, là tình yêu thương lớn nhất trên đời. Ba Mẹ sẽ chiều ý con, dù lúc con vui hay khi con nổi chướng, miễn Ba Mẹ được sống bên con gái yêu quý …”

Minh Thúy Thành Nội 

2/

Nhớ Cha

Cha ơi ! Thấy họ quây quần tiệc

Con đã từ lâu thiếu cảnh này

Bởi Lễ Father’s Day ý nghĩa

Hương đèn nhang khói mắt cay cay

*

Tha phương chỉ giấu lòng thương cảm

Kỷ niệm ngày xưa nhớ những gì

Sớm cảnh mùa đông trời xứ Huế

Cha đèo xe đạp chở con đi

*

Đến trường nhắc nhở con vào lớp

Chớ nghịch cô la, chúng bạn cười

Cố học cho nên người hữu ích

Mặt trời sẽ tỏa chiếu vui tươi

*

Quê hương biệt xứ không về lại

Phụ mẫu xa lìa lúc ốm đau

Bất hiếu con quay cuồng xót dạ

Từng đêm nghĩ ngợi nặng trong đầu

*

Công Cha tựa núi nuôi con lớn

Vất vả trăm bề trải gió sương

Tổ Quốc vai mang tròn trách nhiệm

Gia đình gánh vác bọc tình thương

*

Người ta quà biếu dâng Từ Phụ

Họp mặt hân hoan khắp mọi nhà

Chỉ có mình con buồn lặng lẽ

Lệ trào nghe khúc nhạc “ Tình Cha “

Minh Thúy Thành Nội

Tháng 6/ 15/2025

*

3/

Màu Áo Tôi Yêu

Nửa thế kỷ rồi vẫn luyến thương

Tôi yêu màu áo chốn sa trường

Cộng Hoà anh lính ngày Quân Lực

Tháng sáu vào mười chín biểu dương

*

Một thủa anh hùng giữ núi sông

Bút nghiên xếp lại ý tâm đồng

Hy sinh đánh giặc cuồng

xâm chiếm

Hai chục năm trời mẹ đợi trông

*

Kỷ niệm Nội Thành các nữ sinh

Vòng hoa chiến thắng khoác ân tình

Vân Lâu áo lụa in hoa nắng

Anh lính cười tươi đối diện mình

*

Áo trận còn vương lắm bụi đường

Anh về phố thị dáng phong sương

Đứng chờ lấp ló giờ tan học

Gặp gỡ mừng vui trước cổng trường

*

Chẳng phận không duyên khóc lỡ làng

Ai làm thống khổ cảnh ly tan

Người đi biền biệt mờ tin tức

Mộng ủ buồn say, giấc mộng tàn

*

Dĩ vãng xa dần vẫn thiết tha

Xanh rừng bộ lính nhạc hùng ca

Bao nhiêu binh chủng cờ cao phất

Bước diễn hành oai dẫu tuổi già

Minh Thúy Thành Nội

Tháng 6/19/2025

**

NGÀY BA RỜI CALIFORNIA.

Ngày 16 tháng 7 năm 2021 Video quay cảnh Ba rời California đã làm chị em tôi vừa xem vừa khóc, hình ảnh một ông già dáng yếu bệnh đang sửa soạn hành lý, ba tần ngần lựa chọn và gấp mấy bộ quần áo cần thiết nhất thường mặc nhất trong số quần áo treo đầy trong closet và trong mấy cái va ly rồi để mớ quần áo ấy vào trong cái túi xách. Ba quay qua Thiện, con trai út đứng kế bên :

–          Chỗ còn lại con cho Goodwill giùm ba.

Giọng nói và đôi mắt ba buồn. Không như những lần trước rời California đi chơi xa Texas với đám con cháu bên ấy, ba cũng sửa soạn vài ba bộ đồ nhưng lòng vui vẻ vì sẽ trở về. Lần này ba biết là không thể.

Đi đâu ba cũng luôn ăn mặc chỉnh tề lịch sự dù lo âu phiền muộn như lúc này. Ba mặc bộ đồ đẹp, áo bỏ trong quần, khoác ngoài bằng chiếc áo  của cháu ngoại gởi tặng mùa Giáng Sinh năm trước, với chiếc mũ trên đầu, với chiếc gậy chống chân. Ba xách cái túi nhẹ tênh có vài bộ quần áo chậm chạp từng bước đi ra cửa, dường như ba chẳng muốn đi nhanh, chẳng muốn rời khỏi căn nhà thân thương.

Đến bên chiếc xe mở cửa sẵn ngoài sân, ba quay ra nói lời từ biệt chào từng người đang chờ đợi sẵn, toàn là người thân con cháu. Họ òa khóc trong khi ba lẳng lặng nhìn căn nhà mình từng ở bao nhiêu năm trước khi ngồi vào trong xe. Cánh cửa xe đóng lại. Thế là hết, chốc nữa hay ngày mai ngày mốt ba sẽ không trở về căn nhà này. Gương mặt ba khuất sau cửa kính xe, không biết ba có khóc không khi chiếc xe lui xuống đường và từ từ lăn bánh để đến phi trường LAX.

Chị em tôi cùng coi video đến đây càng khóc thêm, vì biết rằng đây là một chuyến đi buồn, buồn nhất đời của ba.

Ba đang bệnh nặng, không chỉ giã từ thành phố Westminster tiểu bang California mà ba có thể giã từ cõi đời bất cứ lúc nào, ngày đó đang tới, thật gần thôi.

Video do con tôi quay và gởi cho những người thân ở Texas, ở Canada. Coi như cả đám  con cháu gần xa cùng tiễn ba rời California và cùng theo ba trên chuyến bay về thành phố Dallas tiểu bang Texas.

Đến Mỹ năm 65 tuổi ba chọn sống ở miền nam California nơi chỉ có gia đình một con trai đang sinh sống và làm việc ở đó, ngoài ra còn có gia đình anh ruột của ba cùng đàn con của ông anh, trong khi đám con cháu còn lại của Ba đang ở Texas đông hơn. Nhưng ba chọn Cali vì điều kiện khí hậu ấm áp và vì cộng đồng người Việt đông vui.

Khi ba được hưởng quyền lợi trợ cấp của chính phủ ba cùng người anh ruột nộp đơn xin chung một căn nhà housing  2 phòng ngủ. Có 2 người sẽ dễ xin nhà housing và nhất là hai anh em cùng chung  sở thích sở trường chơi cờ tướng rất giỏi, ba và bác lại là handyman khéo tay. Hai ông già sống chung sẽ vui và bớt cô đơn lại càng thuận tiện cho con cháu gần xa viếng thăm.

Ba rất thích cuộc sống tự lập, chẳng lệ thuộc hay nhờ vả ai. Ở nhà thuê mà ba chăm chút giữ gìn như tài sản của mình. Nấu nướng xong ba lau chùi bếp, ba quét nhà sạch sẽ. Ba không muốn làm phiền chủ nhà, nhà cửa hư lặt vặt ba và bác tự sửa nếu có thể, cái bồn tắm cũ mèm tróc men hình thức bề ngoài xấu xí nhưng  vẫn  xài được thay mới làm gì tốn công tốn của. Ông chủ nhà này thật may mắn khi có người thuê nhà vô cùng dễ chịu như ba và bác, hầu như chẳng bao giờ họ phàn nàn hay đòi hỏi sủa chữa gì, ông chủ cứ việc ăn ngon ngủ yên chờ đến tháng thu tiền nhà.

Mỗi khi tôi rủ rỉ khuyên ba về Texas sống với chúng tôi để dễ bề chăm sóc lỡ khi ba đau yếu thì ba rất lạc quan:

–          Ba khỏe mạnh lắm, còn lâu ba mới đau ốm.

–          Bệnh hoạn có thể đến bất cứ lúc nào mà ba.

Ba vẫn cương quyết như khi đi một nước cờ trên bàn cờ tướng:

–          Khi nào ba cảm thấy yếu mệt thì sẽ về Texas với con cháu bên ấy

Đã có những dịp ba về Texas và ở chơi vài tuần, nơi đây chẳng có gì lạ để đưa ba đi chơi, hàng quán người Việt chẳng đông vui như khu Bolsa, chợ búa người Việt thì ba chẳng lạ gì. Ngày nào cũng thế, ăn cơm trưa xong ba nằm nghỉ ngơi, chợp mắt chút cho khỏe rồi lại tới cơm chiều, ăn xong xem ti vi chán rồi đi ngủ. Ba nói sống như máy móc, thậm chí sống như…tù binh vì ba chẳng thể đi đâu theo ý mình trong khi ở Cali ba có thể đi  xe đạp ra biển hóng mát, ra hàng quán người Việt, đi chợ người Việt, đi gặp bạn bè để đánh cờ tướng tại hội người Việt, tại khu Phước Lộc Thọ….

Một chị bạn thân hàng  xóm của gia đình tôi ngày xưa ở Việt Nam nay bạn lại là hàng xóm của ba sống cách ba mấy block đường, chị nói thỉnh thoảng thấy ba đạp xe trên phố chưa kịp chào hỏi thì ba đã đi qua cái vèo. Một ông già Việt Nam yêu đời  đạp xe trên các hè phố Bolsa, treo trên tay lái xe là một túi đồ ăn, ổ bánh mì thịt, gói xôi hay tờ báo Người Việt có thể là ba tôi đó.

Tuổi chạm 80 mà mắt ba chưa bị Cataract, vẫn đọc báo khỏi cần kính mắt, ba ít khi ốm vặt nên ít khi đi bác sĩ gia đình. Thỉnh thoảng văn phòng bác sĩ gia đình phải gọi ba nhắc nhở đi khám tổng quát hàng năm.

Có lẽ  khí hậu nam California thích hợp cho tuổi già như ba, tinh thần ba thoải mái vì sống trong cộng đồng người Việt, ba ăn nói đi lại dễ dàng và nhất là ba đã sống với tấm lòng cởi mở yêu đời  nơi mà ba thích, xem như quê hương thứ hai thân thương nên sức khỏe ba mới tốt như thế. Nhiều người già sống cùng con cháu ít nhiều cũng lệ thuộc con cháu, phải theo cách sống nhà nó. Nhiều người già ốm đau nằm trong nursing home phải ăn những món tây món Mỹ, nhớ và thèm những món ăn Việt Nam biết bao.

Nhưng đâu ai trẻ khỏe mãi với thời gian, tới ngoài 80 ba không thường xuyên đạp xe trên phố nữa, khi cần đi xa thì con cháu chở, gần thì ba đi bộ cho khỏe đôi chân. Tôi khuyên ba xin người chăm sóc tại nhà, họ sẽ giúp đỡ ba nhiều việc, nhưng ba từ chối ngay vì ba không muốn làm hao tiền của chính phủ và vì ba tự tin là vẫn có thể tự lực được. Tính ba là thế, không muốn làm phiền bất cứ ai: con cháu, chủ nhà cho thuê và không muốn làm phiền cả chính phủ. Ba thường nói:

–          Hàng tháng ba được “lãnh lương”, được chính phủ trợ giúp trả hầu hết tiền nhà, nhất là được miễn phí y tế là sướng như tiên rồi. Đòi hỏi chi nhiều.

Ba kể có những người già ở đây đã tận dụng xin hưởng mọi quyền lợi, họ xin xe lăn, xe chạy điện mà thật sự họ không cần thiết lắm nên chẳng mấy khi dùng đến, có khi họ phải kiếm người mà bán rẻ hay cho không vì để vướng bận nhà cửa.

Cho tới năm 2021 sức khỏe ba bỗng yếu dần, Ba xuống cân, ho và khó nuốt khi ăn. Lúc này ba không đợi văn phòng bác sĩ nhắc nhở nữa, Ba đi gặp bác sĩ gia đình, rồi bác sĩ chuyên khoa cuối cùng đã chẩn bệnh ba ung thư vòm họng giai đoạn cuối.

………………………..

Đón ba tại phi trường Dallas Fort Worth chúng tôi vẫn bồi hồi vì khúc video ba rời California lúc nãy, vì đã được biết rõ tình trạng bệnh và sức khỏe của ba. Khi ba vừa bước ra khỏi cổng security tôi đỡ cái túi xách cho ba và rươm rướm nước mắt, ba gầy đi rất nhiều. Nắm cánh tay ba mà không biết sẽ giữ được ba gần gũi mình bao lâu nữa.

Về nhà  ba nghỉ ngơi với con cháu vài hôm. Chúng tôi đưa ba vào bệnh viện trong thành phố Arlington trước rồi mới lo vụ chuyển giấy tờ của ba từ California đến Texas sau.

Những ngày ba nằm bệnh viện, ngoài những thân nhân bạn bè chúng tôi ở đây đến thăm hỏi, còn có những thân nhân ở California gọi phone đến. Mỗi khi nghe người gọi từ California hình như ba khỏe hơn, tỉnh ra hơn và nhận biết đó là ai, ba lắng nghe họ nói, hình như ba đang theo họ trở về nơi nhà cũ trên con đường Bushard, ba đang đạp xe đến  chợ ABC hay khu Phước Lộc Thọ gặp người quen.

Ba tuần ba nằm bệnh viện, các bác sĩ đã không cứu chữa được bệnh tình của ba. Từ lúc sang Mỹ cho đến giờ ba đã được sống như ý, có sức khỏe để tự túc, chẳng “làm phiền” con cháu cho đến những giờ phút cuối đời. Ba ra đi  94 tuổi.  

Sau khi ba mất, dù an táng ba tại nghĩa trang thành phố Arlington tiểu bang Texas nhưng em tôi cúng thất cho ba tại chùa ở California. Cầu mong rằng suốt 7 tuần cúng thất tại đây, hương hồn ba trước khi siêu thoát đã “trở về” thăm thành phố Westminster tiểu bang California, nơi ba đã có một cuộc sống an vui như ý, nơi ba đã  ở suốt 29 năm dài.

Nguyễn Thị Thanh Dương.

( June 1- 2025)

**

CÓ NHỮNG NGƯỜI CHA

Kim Loan

Có những người Cha tôi đã gặp

Hiến dâng đời, phục vụ tha nhân

Sáng danh Chúa, sống Phúc Âm

Gieo lời Chân Lý xa gần nơi nơi …

(KL)

Đó là những vị linh mục mà tôi đã có dịp tiếp xúc trong thời gian bốn năm sống ở trại tỵ nạn Thái Lan. Nói về các Cha thời tỵ nạn thì có rất nhiều điều muốn nói, nhưng có nói thêm trăm ngàn lời cũng vẫn chưa đủ.

Ở trại, chúng tôi may mắn có được các Cha người Việt Nam (cũng là nguời tỵ nạn vượt biên). Các Ngài là những người khởi đầu lập nên nhà thờ đơn sơ đầu tiên nơi trại cấm Panatnikhom, viết tắt là Panat, (gọi là Trại Cấm vì chúng tôi là những thuyền/bộ nhân đến trại tỵ nạn sau ngày Cao Ủy tuyên bố đóng cửa không nhận người tỵ nạn, nên chúng tôi bị xem là bất hợp pháp, phải ở Trại Cấm chờ nước sở tại thanh lọc, xét duyệt tư cách tỵ nạn).

Cuộc sống trong Trại Cấm khó khăn, dù Cao Ủy vẫn nuôi “báo cơm” nhưng nếu không có tiền viện trợ từ thân nhân nước ngoài thì làm sao chi phí cho những nhu cầu cá nhân, như xà bông, kem đánh răng, tem thư, nên các Cha đã liên lạcvới bên hải ngoại, vận động tài chánh cho trại mang tên “Hội Mekong”, phát tiền hàng tháng cho những gia đình tỵ nạn nghèo, không phân biệt tôn giáo. Dù số tiền ít ỏi, nhưng cũng trang trải phần nào cho đời sống trong trại. Cứ tới những ngày đầu tháng, tôi lại được nghe người ta hớn hở gọi nhau đến nhà thờ lãnh tiền Mekong, rất thân thương và ấm áp tình đồng loại, trong hoàn cảnh “một miếng khi đói bằng một gói khi no”.

Trong số các Cha ở trại (Cha Phan, Cha Hậu, Cha Lãm), thì tôi biết và gặp Cha Giuse Nguyễn Đức Hậu nhiều hơn. Biết Cha từ khi vào trại, nhưng từ khi tôi đậu thanh lọc trở lại Panat thì mới có nhiều dịp nói chuyện với Ngài. Ngoài việc hàng ngày đi lễ, thỉnh thoảng tôi và Cha có gặp nhau chuyện trò nơi văn phòng Cao Uỷ Định cư nơi tôi làm việc, và tôi thường xuyên đến nhà xứ mượn báo Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp về nhà đọc. Dù Cha đậu thanh lọc rất sớm, nhưng theo chỉ định của Tòa Thánh, Ngài phải hy sinh ở lại trông coi “giáo xứ tỵ nạn Panat” cho đến ngày trại chính thức đóng cửa hoàn toàn vào năm 1995-1996.

Khi tôi qua Canada, hai cha con lại có cơ duyên gặp nhau nhiều lần tại thành phố Edmonton khi Cha Hậu từ Oregon bay qua thăm Cha Giuse Đinh Văn Hoành (hồi ở trại là Thầy Hoành). Thầy lúc đó rớt thanh lọc, nhưng được Cha Hậu giúp giấy tờ bổ sung nên đậu tái thanh lọc và qua Canada tiếp tục vào nhà Dòng rồi thụ phong linh mục. Chẳng may, Cha Hoành mắc bệnh hiểm nghèo, và Cha Hậu từ Oregon nhiều lần qua Edmonton thăm Cha Hoành, tôi lại được dịp tháp tùng Ngài, nói chuyện xưa chuyện nay. Khi Cha Hoành mất, Cha Hậu cũng bay qua, đồng tế Thánh Lễ an táng tại giáo xứ Edmonton…biết bao nhiêu kỷ niệm biết nói sao cho vừa.

Cha Hậu cũng là người sốt sắng nhận lời viết giới thiệu cuốn sách Buồn Vui Đời Tỵ Nạn của tôi phát hành năm 2017. Ngài bảo, gì chớ, viết về trại tỵ nạn thì Ngài ủng hộ hai tay hai chân, bởi Ngài cũng muốn là một phần của quãng thời gian ấy, không bao giờ phai nhòa trong tâm trí của bất cứ ai đã từng trải qua, chia sẻ ngọt bùi đắng cay với nhau.

Nói về những linh mục ngoại quốc thì không thể không nhắc đến Cha Pierre Ceyrac, vị linh mục dòng Tên người Pháp đáng kính, với tấm lòng hiền hậu bao la. Tất cả những ai từng đến trại tỵ nạn Thailand, đường bộ hay đường biển, đã một lần gặp Ngài, đều quý mến yêu thương Ngài và âu yếm gọi Ngài là vị Thánh sống giữa trần gian.

Ngài có mặt ở trại tỵ nạn rất sớm, đầu thập niên 1980s, khi mà những xung đột ở đất nước Cambodia vào thời kỳ nhiễu nhương, quân đội Hunsen đánh bật thể chế Polpot và Khmer Đỏ, hàng ngàn người dân Cambodia lũ lượt chạy về vùng biên giới Thailand lánh nạn. Lúc đó, phong trào vượt biên bằng đường bộ và đường biển của người Việt Nam đang ở cao trào, và những trại tỵ nạn vùng biên giới được lập nên cho tất cả những người vừa đến bờ tự do.

Thời gian này, Cha Pierre đã có mặt giúp đỡ đồng bào mình. Vì chưa có bưu điện ở trại tạm biên giới, nên Cha dùng hộp thư của mình cho dân tỵ nạn Việt Nam liên lạc với thân nhân ở quê nhà cũng như ở nước ngoài. Thế là hàng tuần, người tỵ nạn mong ngóng chiếc xe truck màu nâu của Cha dừng trước cổng trại, chờ bóng cao gầy của Ngài bước xuống với nụ cười tươi rất hiền, đôi mắt trìu mến đầy yêu thương sau cặp mắt kiếng to, trên vai Cha là cái túi màu đen, có những lá thư, và đôi khi Cha còn mang thêm bánh kẹo cho trẻ con và thuốc lá cho thanh niên đàn ông.

Có một lần, những tên lính Thái dở chứng, kiểm tra túi thư của Cha rồi quyết định tịch thu những lá thư đó, không biết Cha năn nỉ gì với họ, nhưng nhìn mặt Ngài rất đau khổ vì sợ mất thư của người tỵ nạn, cuối cùng bọn họ quyết định, nếu Cha chịu chui qua gầm xe truck của Cha thì sẽ được vào trại đưa thư. Tội nghiệp thay cho Ngài, dù là người gầy gò, nhưng với dáng cao nghều, những người tỵ nạn đã chứng kiến vị Cha già 70 tuổi bò lê lết chui qua gầm xe mà xót xa. Đường đất đỏ và sỏi đá làm cho quần áo Ngài lấm lem và mồ hôi nhễ nhại, vậy mà khi chui qua xe xong, Ngài nhanh nhẹn đứng dậy cười tươi rạng rỡ mang thư đến cho những người đang mong chờ.

Câu chuyện nổi tiếng về hình ảnh người Cha già, cứu tinh của dân tỵ nạn ở vùng biên giới được loan truyền khắp nơi. Khi tôi đến trại Panat thì toàn bộ dân tỵ nạn người Việt vùng biên giới Thái-Miên cũng được đưa về đây, Cha Pierre Ceyrac không làm việc chính thức cho trại Panat nhưng thỉnh thoảng Ngài vẫn vào thăm đồng bào tỵ nạn kết hợp với chút công việc. Tiếng tăm và ảnh hưởng của Ngài được chúng tôi ghi nhớ và luôn khao khát được gặp Ngài.

Hôm ấy tôi đang ngồi bên phòng bưu điện làm việc, nhìn qua cửa sổ đối diện văn phòng Mental Health, một phụ nữ dắt theo đứa con gái nhỏ vừa bước ra khỏi phòng (chắc vừa lấy thuốc xong), thì Cha Pierre đi ngang qua, chị ấy mừng rỡ chặn đường Cha, ôm tay Cha vừa nói vừa khóc nức nở bằng tiếng Việt, Cha không hiểu gì, vẫn bình tĩnh mỉm cười, mời chị trở lại văn phòng với anh phiên dịch. Anh bạn tôi là người phiên dịch ấy, kể lại rằng, khi vào văn phòng, chị ấy tâm sự với Cha, chị đang rất đau khổ vì người chồng ở Mỹ vừa viết thư báo tin đã có người đàn bà khác nên không thể bảo lãnh mẹ con chị được, chị bị khủng hoảng tinh thần, phải vào phòng Mental Health lấy thuốc uống, tình cờ gặp Cha hôm nay, chị thấy nơi Cha toát ra sự nhân từ, đầy lòng ủi an, nên chị liều xin gặp Cha để giải tỏa nỗi lòng bởi chị không có đạo, không đi lễ nhà thờ và chưa bao giờ nghe về Cha! Nghe vậy, Cha lặng người đi, xúc động, nét mặt đăm chiêu trìu mến, ôm hai mẹ con chị, rồi thông qua người phiên dịch, Cha nói chuyện với chị, để chị tâm sự hết cõi lòng.

Mỗi lần đi trong trại, dáng cao gầy của Cha lập tức được mọi người nhận ra, trẻ con người lớn đứng hai bên đường giờ tay chào đón, Ngài luôn nở nụ cười hiền rất trong sáng ngây thơ, đáp lại tấm chân tình của đồng bào tỵ nạn, có khi còn dừng lại xoa đầu vài đứa trẻ rồi lại bước đi.

Sau khi rời trại tỵ nạn Thái Lan, Ngài qua Ấn Độ tiếp tục sứ vụ mới, sống giữa những mảnh đời nghèo khó và bất hạnh không phân biệt tôn giáo, vì đối với Ngài tôn giáo chính là con người.

Nơi đó cũng là hành trình cuối cùng của Ngài trên trần gian, Ngài được Chúa gọi về ngày 30/5/2012 tại Madras, India, hưởng thọ 98 tuổi, trong sự tiếc thương của các con chiên khắp nơi. Những dòng chữ này hôm nay là nén hương lòng tôi gửi đến Cha Pierre kính yêu, mà tôi đã may mắn được gặp gỡ, nói chuyện và chụp hình với Ngài, và lời nói của Ngài chúng con xin mang theo làm hành trang cuộc đời: “Cái gì không cho đi thì sẽ mất” (What is not given is already lost).

Cuối cùng, (như tiếng Anh có câu, last but not least-cuối nhưng không phải là hết), tôi xin dành sự ưu ái sau đây, cho Cha Peter Prayoong Namwong, cũng là một vị ân nhân khác của dân tỵ nạn Việt Nam tại Thái Lan.

Theo lời Cha kể, tổ tiên của Cha là người Việt Nam, từ 300 năm trước trong cuộc bách đạo, đã phải chạy trốn xuống Rạch Giá, rồi lưu lạc qua tỉnh Ratchasima, Thailand cho đến nay.

Những ai vượt biên qua Thái Lan sau ngày đóng cửa 14/3/1989 đều có một hành trình chung: ở trại Panat một thời gian, rồi được chuyển về trại Sikiew chờ thanh lọc, rồi sau khi có kết quả thì được về lại Panat chuẩn bị định cư nước thứ ba. Và tại Sikiew, Thiên Chúa đã mang đến cho chúng tôi một vị ân nhân mới, một mục tử nhân lành để ủi an, giúp đỡ chúng tôi qua những năm tháng khó khăn nơi đất tạm dung.

Những người đi đến trại sớm, đầu thập niên 1980s kể lại rằng, trên trại Sikiew lúc ấy, Cha đã tất bật xin tiền ở khắp mọi nơi trên thế giới để xây trường học “Our School” từ lớp 1 đến lớp 9, tiếp theo là xây bệnh viện chữa bệnh (có luôn khu vực sinh sản, phụ khoa). Cha còn thành lập Trung Tâm Minor để nuôi nấng các em dưới 18 tuổi qua trại một mình không có thân nhân, ngoài ra Cha còn có quỹ để trợ cấp cho những gia đình tỵ nạn khó khăn, có con nhỏ, và để phục vụ nhu cầu giải trí của dân tỵ nạn, Cha mướn Drive-in Movie Company vào trại mỗi năm vài lần chiếu phim, mỗi lần chiếu khoảng 5-6 phim liên tục, xem từ tối cho đến sáng, thực sự là ngày hội được mong chờ nhất của đời tỵ nạn ngày dài buồn tênh.

Những “di sản” đó, chúng tôi, những kẻ “trâu chậm uống nước đục”, đến trại tỵ nạn muộn màng, vẫn còn được hưởng ké. Đó là ngôi nhà thờ kiên cố khang trang, xây bằng gạch, nằm dưới chân bãi đá. Đó là bệnh viện có đầy đủ phòng ốc, dụng cụ y tế, là chương trình tiền trợ cấp hộ nghèo neo đơn. Nhưng “di sản” lớn nhất mà chúng tôi rất hạnh phúc đón nhận, chính là Cha Peter NamWong, người nuôi dưỡng đời sống tinh thần của tất cả người tỵ nạn, không phân biệt tôn giáo.

Tuy chúng tôi được bảo vệ bởi Cao ủy Liên Hợp Quốc, nhưng phép Vua vẫn thua lệ làng. Những lần Cha Namwong vào trại làm lễ thỉnh thoảng vẫn bị lính Thái làm khó dễ, và Cha lại luôn nhớ xã giao quà cáp để được vào trại suông sẻ với đoàn chiên. Chẳng ai quên được những buổi sáng Chúa Nhật, từ 10 giờ, nhiều người đã chỉnh tề áo quần, ngồi rải rác từ bãi đá cho đến cổng trại, trông ngóng chiếc xe của Cha Namwong dừng lại, tươi cười bước vào, cả trại rộn ràng xôn xao trở về ngôi nhà thờ bé nhỏ chờ đón Thánh Lễ.

Nhưng tỵ nạn cuối mùa cũng phải đến ngày kết thúc, những người may mắn đậu thanh lọc được chuyển về Panat chờ đi định cư, và những ai rớt thanh lọc ở lại Sikiew được khuyến khích tự nguyện hồi hương, và sau đó là cưỡng bách hồi hương năm 1996. Khoảng tám chục người, đã lần lượt trốn ra ngoài trại trong những khoảng thời gian khác nhau, tìm đến giáo xứ Cha Namwong, lập tức được Cha tận tình gửi gắm ở nhờ những gia đình con chiên trong xứ, giúp họ kiếm việc làm, sinh sống. Cha đã vận động Toà Giám Mục Bangkok can thiệp cho những đồng bào này được tạm trú (dù bất hợp pháp) tại Thái Lan.

Thời gian trôi qua hơn 20 năm, có người lập gia đình, sinh con cái, chuyển lên Bangkok hoặc các vùng phụ cận sinh sống, rất nhiều người trong số họ không phải đạo Công Giáo, nhưng mỗi năm vào ngày sinh nhật Cha, họ lại tụ tập về vùng Sikiew (Ratchasima), đến nhà Cha quây quần, dự Thánh Lễ, tâm tình với Cha, mong ngày được đổi đời ở xứ tự do.

Tạ ơn Chúa, cũng nhờ Cha kết hợp với các luật sư và thiện nguyện viên của tổ chức VOICE (Vietnamese Overseas Initiative for Conscience Empowerment) miệt mài vận động với chính phủ Canada, những gia đình tỵ nạn cuối cùng này đã qua đến Canada. Trong những chuyến bay này, Cha Namwong luôn đồng hành tiễn đưa bà con đến tận phi trường, lên máy bay, thậm chí có đôi lần Cha còn bay qua bên Canada rồi mới an tâm bay về Thái Lan.

Trong nhóm những người tỵ nạn đến Edmonton mà tôi cùng Hội Người Việt cùng ra sân bay đón chào, có lần tôi có hỏi một người bạn trẻ:

– Vậy là 25 năm sống trên đất Thái, cũng là 25 năm xa quê! Khi có quốc tịch Canada, em sẽ về thăm gia đình cha mẹ ở Việt Nam chứ?

Em ấy đã trả lời không cần suy nghĩ:

– Thưa chị, nơi đầu tiên em về thăm chính là Thailand và Cha Prayoong Namwong, bởi nếu không có sự đùm bọc che chở của Cha thì chúng em không có ngày hôm nay. Với em, Cha chính là người sinh ra em lần thứ hai.

Với truyền thống biết ơn của người Việt, năm 2013 những cựu thuyền nhân tỵ nạn Thailand đã mời Cha Namwong một chuyến Mỹ du (con chiên tỵ nạn của Cha ở khắp mọi nơi trên thế giới nhưng đông đảo nhất là ở Mỹ). Trong hành trình 25 ngày ở Mỹ, Cha đã đi nhiều tiểu bang, nhiều thành phố, thăm thú các con chiên (và kể cả những người ngoại đạo), nhắc lại bao kỷ niệm của thời gian ở trại tỵ nạn dưới bàn tay chăm sóc của Cha.

Ở hai thành phố lớn tại California, là Orange County và San Jose, những cuộc đón tiếp Cha rất tưng bừng, đậm tình thương yêu. Họ choàng cho Cha những vòng hoa nhiều màu sắc, mọi người vây quanh người Cha thân yêu nay đã già để tỏ lòng tri ân đậm đà sâu xa.

Tôi rất xúc động khi xem trên Youtube cuộc phỏng vấn Cha do đài Hương Quê tại San Jose thực hiện, không phải vì Cha đã già đi theo thời gian, nhưng bởi Cha đã trả lời phỏng vấn hoàn toàn bằng tiếng Việt, dù có phần phát âm và dùng từ chưa chính xác. Điều đó nói lên sự gắn bó mấy mươi năm qua của Cha với người Việt tỵ nạn ở Thái Lan, bởi thời gian ở Sikiew, Cha không biết nói tiếng Việt, vào trại phải có thông dịch, và khi làm lễ thì Cha giảng bằng Tiếng Anh rồi có Thầy giảng lại cho cộng đoàn.

Cũng trong chuyến thăm miền Bắc Mỹ, khi Cha đến Canada có đi qua Toronto, Calgary và đến Edmonton, thành phố của tôi trước khi bay qua Vancouver. Thật vui và xúc động khi tôi được đón Ngài, gặp lại Ngài, khi mà cả Cha và các con đều …có tuổi. Nhìn những nếp nhăn trên khuôn mặt Cha, tôi vẫn nhận ra một vị linh mục có nụ cười hiền, bao dung như đã từng thấy ở Sikiew thuở nào.

Năm 2022 Cha lại có một chuyến Mỹ du, mà Cha gọi là chuyến cuối cùng vì sức khỏe bắt đầu yếu kém. Cuộc đón tiếp và tiễn biệt Cha lần này có nhiều cảm xúc đặc biệt, ai cũng luyến lưu ôm Cha, nắm tay thật chặt, rồi nhìn theo bóng Cha già vẫy tay với nụ cười lặng lẽ mà rưng rưng.

Mới ngày nào đây, Cha còn trẻ trung khỏe mạnh, hoạt động dọc ngang nơi đất Thái, mười mấy năm trường, sau đó là hơn hai mươi năm bảo bọc chở che những người tỵ nạn “bất hợp pháp” cho đến ngày họ được tái định cư an toàn ở nước thứ ba.

Vậy là gần năm mươi năm của một đời người, Cha đã gắn bó với người tỵ nạn, một cơ duyên của định mệnh đã sắp đặt, là một sự may mắn lớn lao cho người tỵ nạn Việt Nam tại Thái Lan.

Những thông tin về Cha Pierre Ceyrac hoặc Cha Peter NamWong, ai cũng có thể tìm kiếm được trên internet, riêng tôi viết bài này như là một kỷ niệm nhỏ bé với hai vị Linh Mục đáng kính.

Trong những ngày này Giáo Hội Công Giáo vừa có Đức Giáo Hoàng mới, Cha Leo XIX, chúng con dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ, vì đã dẫn đưa những vị Linh Mục đến với chúng con trong giai đoạn khó khăn lưu vong trên mảnh đất trại tỵ nạn.

Cũng trong năm nay, tưởng niệm Năm Mươi Năm ngày mất nước, ghi dấu hàng hàng lớp lớp người Việt Nam chạy trốn Cộng Sản, ra khơi tìm tự do, chúng ta xin được tri ân những đất nước tạm dung đã mở rộng vòng tay chào đón những đoàn người tỵ nạn từ năm 1975 đến 1996.

Xin được tri ân những người thiện nguyện viên từ khắp nơi, những vị ân nhân, trong đó có những “Người Cha” mà tôi đã may mắn được gặp gỡ và có những kỷ niệm không bao giờ quên.

Edmonton, Tháng 6/2025

KIM LOAN

**

CA KHÚC TẠ ƠN CHA  – NHẠC SĨ VĂN DUY TÙNG

**

**

HAI  CHA  CON

Truyện của Phương Lan

Bữa cơm chiều hôm đó vắng mặt thằng Tuấn, nó nói đến nhà bạn học bài,  và sẽ về trước giờ ăn.  Nhưng ngoài trời đã tắt hẳn nắng, thành phố lên đèn đã từ lâu rồi, mà Tuấn vẫn biệt tăm.  Mọi người bắt đầu sốt ruột, không hiểu đã xảy ra chuyện gì.  Ông Bình cứ đi qua, đi lại trong phòng cả chục lần.  Sau cùng, khi chuông đồng hồ gõ tám tiếng, không thể chờ đợi lâu hơn, ông ra lệnh cứ ăn trước.  Mọi người cầm đũa một cách uể oải, mặt người nào cũng lộ vẻ lo lắng.  Thường thì bữa cơm chiều là lúc vui nhất, cả nhà quây quần bên bàn ăn, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện xảy ra trong ngày.  Nhưng hôm nay, mọi người đều im lặng, nhai, nuốt chậm chạp, mặc dù đồ ăn rất ngon.  Thằng Cường, con Dung thường ngày nói tía lia, ồn ào nhất nhà, bây giờ cũng chỉ cúi đầu ngồi ăn, thỉnh thoảng lại liếc nhìn cha mẹ với vẻ sợ sệt, làm như chính chúng là kẻ có lỗi.  Không khí trong phòng ăn có vẻ nặng nề, chỉ nghe tiếng lách cách của chén đũa, và tiếng máy lạnh chạy ù ù.

Ông Bình hỏi vợ:

–         Dạo này nó hay vắng nhà, mà bà có biết nó đi đâu không?

–         Làm sao biết được?  Bà Bình dè dặt trả lời, thấy nó nói là đến nhà bạn học bài, tôi nghe vậy thì chỉ biết vậy, chứ làm sao kiểm soát?

–         Hừ! bà là mẹ thì phải để mắt đến con cái chứ?

Sau cùng, gần 9 giờ, khi bữa ăn sắp chấm dứt, mọi người sắp sửa dùng đến món tráng miệng, thì có tiếng xe dừng ngay trước cửa nhà, một đứa bạn của Tuấn đưa nó về.  Bà Bình vui mừng đứng dậy, toan lấy thêm thức ăn, nhưng Tuấn lắc đầu nói:

–         Con ăn ở nhà bạn rồi.

Nói xong, nó đi một mạch lên lầu, không nhìn ai cả.  Ông Bình nhìn theo con, chăm chú quan sát một hồi, rồi cau mày nói:

–         Nó nói dối, đến nhà bạn học bài mà sao không đem theo sách vở chi cả?  Thằng này hỏng, phải phạt nó mới được, tôi sẽ không mua xe cho nó như đã hứa.

Noi xong ông cũng lên lầu, nhưng vào phòng riêng của ông, chứ không vào phòng Tuấn.  Bà Bình ngạc nhiên, rồi thở ra nhẹ nhõm. Tự thuở giờ, ông Bình vốn có tiếng là một người cha nghiêm khắc, bà chờ đợi một cơn thịnh nộ của chồng sẽ bộc phát dữ dội, nào ngờ chỉ có thế.  Dạo này, báo cáo của nhà trường cho thấy điểm số trong học bạ của Tuấn tụt xuống một cách thê thảm, gần như đội sổ.  Mặc dù Tuấn làm ra vẻ siêng năng, hay đi sớm về khuya, lúc nào cũng nói là đến nhà bạn để học nhóm.  Nhưng bà biết là Tuấn nói dối, linh tính của một người mẹ cho bà thấy là Tuấn đang có điều gì lo nghĩ, trông nó có vẻ chán đời mà bà không hiểu tại sao.

Năm nay Tuấn mười bảy tuổi và đang học lớp 12.  Ở Mỹ, mười tám tuổi là có thể sống độc lập, nên nhà trường và phụ huynh tiếp tay nhau sửa soạn cho học sinh vào đời.  Ngay từ lớp 11, nhà trường đã bắt đầu dạy học trò tập và đi thi bằng lái xe.  Nhiều đứa bạn của Tuấn đã được cha mẹ sắm cho xe hơi riêng, Tuấn cũng vừa mới đậu bằng lái xe, và được cha hứa sẽ mua cho một cái xe hơi cũ vào cuối học kỳ này.   Cả ba anh em nó đều háo hức, và Tuấn đã hứa sẽ cho các em đi ké.  Nhưng bây giờ thật là hết hy vọng, Cường và Dung tiu nghỉu, chúng lẻn vào phòng anh, báo tin chẳng lành, Tuấn chỉ nhếch miệng cười nhạt:

–         Cam đoan ông già sẽ không phạt tao đâu.  Đừng lo, ổng chỉ dọa  thôi.  Rồi tụi bây coi, ổng sẽ phải mua xe cho tao mà.

Hai đứa nhỏ nhìn nhau ngơ ngác, không hiểu gì cả, chúng cho rằng anh chúng nói ngông, nhưng Tuấn vẫn cười một cách tự tin:

–         Tao không xạo đâu, chúng mày cứ chờ coi.

Vì sao Tuấn có thể nói một cách quả quyết như thế?  Thật ra cũng chẳng có gì khó hiểu cả, chỉ vì Tuấn tình cờ biết được bí mật của ông bố.  Từ đó, cậu đâm ra xem thường, không còn kính phục cha như trước nữa.

Số là hôm đó, ông Bình có việc phải đi vội, và bỏ quên điện thoại di động ở nhà.  Tuấn đang ngồi học bài, tiếng điện thoại reo liên tục làm cậu bực mình vì bị chia trí, đến lần thứ năm, thứ sáu… thì cực chẳng đã, cậu phải bốc điện thoại lên nghe.  Những tiếng nói ở đầu dây bên kia làm cậu giật nảy mình, ngồi thẳng người lên:

–         A lô, anh Bình đó hả? em, Diễm Thu đây! anh khoẻ không? lóng rầy bị mụ vợ già kiểm soát chặt chẽ lắm hay sao, mà không thấy gọi cho em?  Bận gì thì bận cũng phải nhắn lại cho em vài lời chứ?  sắp đến sinh nhật em rồi đấy, liệu mà chuẩn bị quà cáp gởi về cho em.  Còn cái vụ căn nhà đã đặt cọc, anh phải lo tiến tới đi chứ? chủ bán cứ dục phải trả nốt, mà em thì làm gì có tiền?

Tuấn há miệng kinh ngạc, không nói được lời nào, cậu còn đang bàng hoàng thì tiếng nói bên kia lại tiếp tục, lần này đổi qua giọng nũng nịu, vòi vĩnh:

–         Tết này mình về với em được không?  Nhớ quá, có người yêu ở xa buồn chịu không nổi.  Hay là mình ly dị phứt con mụ khọm già ấy đi cho rồi? thu xếp công việc xong rồi về Việt Nam ở luôn với em, chịu không cưng?  Kìa! sao không thấy anh nói chi cả?

Bấy giờ Tuấn mới mở miệng được, lạnh lùng:

–         Tôi không phải là Bình.

Ngỡ ngàng một giây, rồi tiếng người đàn bên kia đầu giây vội vã:

–         Ồ xin lỗi, tôi gọi nhầm số.

Lập tức bà ta tắt máy nghe cái cụp, Tuấn cũng đặt điện thoại xuống, bàng hoàng như người vừa tỉnh dậy sau một cơn ác mộng.  Ngồi một lát, chờ cho tim bớt đập, Tuấn dò theo số điện thoại, và đọc được nhiều tin nhắn cũng của người đàn bà tên Diễm Thu ấy, toàn một giọng tình tứ lả lơi, và sau cùng là… nã tiền.  Không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là cha cậu đã có nhân tình.  Sau khi bình tâm nhớ lại, suy xét, và phối hợp mọi sự kiện, bây giờ thì cậu hiểu cả, cậu hiểu vì sao dạo này cha cậu hay tìm cớ để về Việt Nam nhiều như đi chợ.  Ông viện đủ mọi lý do: khi thì thăm người nhà đau yếu, khi về xây mộ ông bà, khi về nghiên cứu tình hình để sửa soạn cho một cuộc kinh doanh trong tương lai… Bà và các con nghe vậy thì chỉ biết vậy, chứ chẳng ai nghĩ tới việc tìm hiểu xem ông nói thiệt hay là nói dối.

Gia đình Tuấn thuộc loại khá giả, ông Bình là chủ nhân của hai tiệm buôn vải vóc, quần áo phụ nữ và một trung tâm băng nhạc khá đông khách, lợi tức đủ để gia đình sống một cách thoải mái, lại có của ăn, của để.  Ông Bình vừa chẵn sáu mươi, bà Bình mới ngoài năm mươi tuổi, ông bà có ba người con: hai trai, một gái, Tuấn là lớn nhất, đang học năm chót của trung học, hè tới sẽ thi vô đại học.  Ông Bình là một doanh gia thành công trên thương trường, con cái đều ngoan ngoãn, chăm học.  Người ngoài nhìn vào, ai cũng nói đây là một gia đình hạnh phúc, chính mẹ cậu cũng thường hãnh diện khoe với mọi người, rằng bà có ông chồng đàng hoàng, đứng đắn.  Ngờ đâu bà đã lầm, cũng như mọi người đều lầm, có ai ngờ con người trông đạo mạo, nghiêm trang kia, thật ra chỉ có cái vỏ bề ngoài, che dấu một tâm địa thấp hèn ở bên trong.  Còn đâu hình ảnh của một người cha đạo đức, mẫu mực, mà cậu vẫn tôn kính?  Những lời giáo huấn nghiêm trang cha cậu vẫn răn dạy con cái chẳng qua chỉ là diễn xuất mà thôi, như người đóng kịch trên sân khấu.  Khi bức màn nhung đã buông xuống, son phấn đã rửa sạch, bộ mặt thật của diễn viên mới lộ ra, khác hẳn.  Tuấn đau lòng nhận thấy bi kịch của gia đình cậu không phải mới xảy ra lúc gần đây, mà thật sự đã bắt đầu từ hai năm về trước.  Sau chuyến theo bạn bè đi du lịch Việt Nam về, Tuấn thấy cha có vẻ hơi khang khác, ông có vẻ lo ra, và luôn luôn than phiền dạo này làm ăn thất bại, tiền chỉ có ra, mà không vô.  Ông nói dạo này kinh tế xuống thấp, thất nghiệp đông, hàng hoá ít được tiêu thụ, phải giảm giá mới có người mua, vì vậy những nhà buôn không kiếm ra lời, cứ phải ăn vào vốn.  Ông nói vậy để giải thích cho bà vì sao tiền để dành trong chương mục tiết kiệm của gia đình cứ hao hụt dần.  Ông nói sao thì bà hay vậy, không hề nghi ngờ, bà vốn tin chồng, và thật ra lời lãi rất khó mà kiểm soát.  Nghe vậy, cả nhà đều lo lắng, nào ngờ ông đem tiền cho gái…

Từ lúc tình cờ khám phá ra những bí mật của cha, cậu thiếu niên mười bẩy tuổi, chưa bao giờ nhìn thấy mặt trái của cuộc đời này, đâm ra thất vọng não nề.  Từ nhỏ, cậu đã coi cha như một vĩ nhân, tượng trưng cho tất cả những gì  cao đẹp nhất.  Bây giờ ông vĩ nhân đã tự hạ bệ, Tuấn thấy ông sao tầm thường quá, cậu xót xa nhận thấy lòng kính trọng của cậu đối với cha không còn được như xưa.  Tuy trong tâm bất bình, nhưng Tuấn vẫn giữ kín, không hé môi cho ai biết, cậu không muốn thấy cảnh một gia đình đang đầm ấm, yên vui, bỗng dưng bị xáo trộn, cậu cũng không muốn thấy mẹ buồn.  Nhưng lòng cậu lại buồn vô hạn, vì đã mất hết niềm tin vào cuộc đời. Trong tâm trạng hoang mang, chán nản đó, Tuấn bị lũ bạn xấu rủ rê, và cậu đã buông thả, theo chúng bạn tập tành con đường ăn chơi, để trả thù đời.

Ông Bình, qua lời kể của cô nhân tình, cũng đoán biết là Tuấn đã rõ những bí mật của ông, nên trong lòng ông cứ bứt rứt không yên.  Ông hay lén rình xem thái độ của con, và nghĩ bụng nếu nó cũng bắt chuớc ông, đi vào con đường hư hỏng sớm như thế, thì nguy quá, phải cứu vãn tình thế mới được.  Ông chờ dịp bà vắng nhà, qua tiểu bang khác, thăm ông bà nhạc, mới gọi Tuấn vào phòng riêng, cho ông nói chuyện.

Chẳng cần thông minh, Tuấn cũng biết ngay là chẳng có chuyện gì ngoài chuyện cha có bồ nhí.  Không hiểu ông sẽ thanh minh, thanh nga thế nào để chối tội? hay là ông định hối lộ cho cậu một món tiền, để cậu khỏi mách mẹ?  Một ý nghĩ làm cho Tuấn mỉm cười, nhân dịp này tống tiền ông già cho bõ ghét?  Nhưng rồi cậu lại gạt ngay ý tưởng đó, dù sao cậu thiếu niên mới tập tành hư hỏng này cũng chưa đến nỗi đánh mất nhân cách.  Cậu chỉ muốn nhắc nhở cha thôi, rằng ông đang là tấm gương để con cái noi theo mà bắt chước, rằng con cái nên hay hư là tùy tư cách của người cha.  Nghĩ thế, cậu chuẩn bị thái độ, và ung dung vào phòng, ngồi đợi.

Ông Bình mở đầu câu chuyện bằng một giọng tra hỏi, nhưng không có vẻ gì gay gắt:

–         Tối qua, con đi đâu mà quá nửa khuya mới về?

–         Con đến nhà bạn học bài.  Tuấn nói dối tỉnh bơ.

–         Đứa nào?

–         Thằng Hùng.

Tuấn nói đại tên một đứa bạn chăm học, nào dè cha cậu đập tay xuống bàn đánh thình một cái, quát:

–         Nói láo!  Tối qua tao mới nói chuyện với ba thằng Hùng, mày đâu có tới nhà nó?

Tuấn giương mắt nhìn cha, không chút  sợ sệt.  Ông già đang tra gạn, hỏi tội cậu ư? thật là buồn cười, ông cũng dối trá, lại tra vặn thằng con về tội dối trá? Được, đã thế phải cho ông biết là cậu đã rõ hết mọi chuyện, để xem thái độ của ông ra sao?  Nghĩ vậy, Tuấn sửa thế ngồi ngay ngắn lại, điềm tĩnh:

–         Vậy thì con nói thật, hôm qua con đi vũ trường, nhảy đầm với bạn gái.

Ông Bình ngạc nhiên, không ngờ thằng Tuấn dám to gan đến thế, nó dám nói huỵch tẹt cả ra, mà không cần che đậy chi cả, chứng tỏ nó đã hết sợ ông rồi.  Coi cái bản mặt ngang tàng của nó kìa! sẵn sàng nghênh chiến đó, găng với nó bây giờ là hỏng hết, nó sẽ đương đầu cho tới cùng.  Mà đấu với nó, chắc chắn ông sẽ thua thê thảm, bởi vì nó đã nắm được cái tẩy của ông.  Ông xìu xuống ngay, thôi đành chịu lùi một bước vậy, ông cố nén tiếng thở dài, lần đầu tiên người cha lầm lỗi này cảm thấy nhục nhã, vì đã đánh mất oai quyền làm bố.  Ông xuống giọng, nhỏ nhẹ:

–         Năm nay con đang học lớp 12 là năm then chốt ở trung học, nếu điểm số kém, con sẽ không được lên đại học, vì không trường nào sẽ nhận con cả. Tương lai của con là do con quyết định, sau này con sẽ làm nghề gì? nếu không có chút vốn học vấn trong tay?  Còn nhỏ, sao con không học hành chăm chỉ, lại đi vào con đường ăn chơi sớm thế?

–         Vậy ba nói hễ lớn tuổi thì mới có quyền ăn chơi hay sao?

Tuấn hỏi một câu rất ngây thơ làm ông Bình bối rối, lúng túng mãi mới tìm ra câu trả lời:

–         Không phải vậy, nhưng… nhưng người già làm gì có tương lai mà sợ hỏng?

–         Con lại nghĩ khác, người già không có tương lai, nhưng có quá khứ, nếu không cẩn thận, họ có thể phá hỏng tất cả những gì họ đã xây dựng trong quá khứ.

Ông Bình giật mình, thằng Tuấn không còn con nít như ông tưởng, nó đã biết nhận xét, suy nghĩ như người lớn, cậu thiếu niên thông minh, can cường  này giống y chang hình ảnh của ông thời còn trẻ.  Ông nhìn con bằng ánh mắt thương yêu:

–         Con đã trưởng thành rồi đó!

Tuấn cười ngượng nghịu:

–         Con cũng nghĩ vậy, mà ba có biết cái gì đã làm cho con trưởng thành trước tuổi không?

Ông Bình lại giật mình, nét mặt hơi biến đổi. Thấy vậy Tuấn vụt hối hận và thôi ngay ý định khiêu chiến, vì thật lòng cậu cũng không muốn dồn cha vào thế bí.  Vội vã cậu sửa lại nét mặt hiền hoà:

–         Mà thôi con cũng chẳng nói, vì có thể là con hiểu lầm.

Ông Bình thở ra nhẹ nhõm, nhìn con bằng cặp mắt thầm cám ơn.  Người cha tội nghiệp này thấy cần phải nói một cái gì đó để vớt vát lại một chút sĩ diện, nhưng ông nghĩ không ra.  Hai cha con ngồi im một lúc lâu, sau cùng ông lên tiếng, ông nói với con như tâm sự với một người bạn:

–         Dạo này ba có nhiều chuyện lo nghĩ.  Công việc làm ăn của ba bị thất bại, vì kinh tế suy thoái là tình trạng chung, gia đình nào cũng bị ảnh hưởng, vì vậy ba có ý định dời đổi cơ sở làm ăn về Việt Nam…

Tuấn buồn cười và thương hại cho cha, ông đang cố tìm cớ để bào chữa cho những việc làm sai quấy của ông đây.  Cậu mỉm cười, hỏi:

–         Ba có chắc về Việt Nam làm ăn, ba sẽ thành công không?

–         Không chắc lắm, nhưng nếu không thử thời vận thì sao biết được? Đó là lý do dạo này ba hay về Việt Nam… Việc này tốn nhiều thì giờ lắm, trước hết là phải nghiên cứu tình hình, tìm địa điểm thuận lợi, tìm người hợp tác, rồi còn phải giao thiệp, phải xuất vốn nữa…

Tuấn lại cười thầm trong bụng, nhưng không nỡ làm cho cha bẽ mặt, cậu vờ tin thật và gật gù:

–         Con hiểu rồi, ba giải thích vì sao mà quỹ tiết kiệm của gia đình mình hao hụt và ba hay về Việt Nam.  Nhưng…Tuấn ngưng lại, cố lựa lời cho cha khỏi đau lòng, nhưng ba nên cân nhắc, suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi quyết định xem có nên đem tất cả vốn liếng mà ba má đã khổ công gây dựng, chắt chiu dành dụm trong hai mươi lăm năm trời, để đổi lấy một thứ mà chính ba cũng không biết chắc là sẽ thành công?  Ba có nghĩ đến hậu quả không? nếu thất bại thì gia đình mình tan vỡ là chuyện dĩ nhiên, mà tương lai của các con cũng sẽ hỏng cả, vì tụi con còn tâm trạng đâu mà học hành?

Ông Bình thầm phục đứa con khôn lanh, nó vừa giữ thể diện cho ông, nhưng đồng thời cũng không quên mục đích, nó đang gián tiếp ra điều kiện cho ông chọn đó, hoặc là gia đình, hoặc là mối tình phù phiếm, chứ ông không thể có cả hai.  Mấy lúc gần đây, ông đã suy nghĩ lại và thấy mình dại, chỉ vì một chút thú vui bất chính, ông muốn hưởng thụ để vớt vát tuổi già, mà ông đã đánh mất bao nhiêu thứ: uy tín đối với con cái, hạnh phúc gia đình và cả tiền bạc nữa chứ.  Ấy là chưa kể những tiếng thị phi, những khổ tâm nhọc trí mà ông phải lo đối phó che đậy, dấu giếm tội lỗi.  Bây giờ thì ông tỉnh ngộ rồi, ông nhất quyết làm lại, ông muốn nói cho con ông hiểu để nó yên lòng.  Dịu dàng mỉm cười, ông vỗ nhẹ vai Tuấn:

–         Con nói phải, đó chỉ là một việc làm hồ đồ nhất thời.  Mấy lúc sau này, ba đã bình tâm suy nghĩ lại, và thấy không thể tiếp tục một chuyện làm ăn bấp bênh như vậy được, nên ba đã quyết định chấm dứt.  Ba không còn ý định thay đổi công việc nữa, ba sẽ lo chấn chỉnh, tu bổ lại mấy cơ sở làm ăn của gia đình mình ở đây, con yên tâm.

–         Cám ơn ba!

Lòng Tuấn bừng lên một niềm vui khó tả, cậu cũng nhìn cha bằng cặp mắt vô cùng thương yêu:

–         Con cũng xin lỗi đã làm ba buồn lòng bấy lâu nay.  Con hứa từ nay sẽ chăm học và không lêu lổng nữa.

Ông Bình gật đầu, giọng cảm động:

–         Phải vậy mới đúng con ạ.  Đời người ai cũng có lúc lầm lỡ, nhưng phải biết tỉnh ngộ và dừng lại đúng lúc, đừng để sự việc đi quá xa. Thôi bây giờ con về phòng học bài đi!

Tuấn chào cha và bước ra cửa.  Nhìn theo bóng con đi khuất sau hành lang, ông Bình lẩm bẩm một mình:

–         Mong nó cũng rút được một bài học kinh nghiệm, để sau này đi trên con đường đời, khỏi vấp phải vết bánh xe cũ mà ta đã đi.

Ông thấy lòng nhẹ nhõm như vừa trút được một gánh nặng đeo đẳng làm ông bứt rứt, khó chịu cả mấy năm trời.  Ông thong thả bước ra vườn sau, nhìn mấy cây mai, cây đào đơm chi chít những nụ, ông mỉm cười:

–         Lại sắp tết nữa rồi.

Tết năm nào bà cũng gói bánh chưng. Tội nghiệp người vợ hiền đã đi bên cạnh ông suốt hai mươi lăm năm trường, tận tụy hy sinh, chăm lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho chồng, con.  Năm nay bà không gói bánh chưng, cũng chẳng sửa soạn nhà cửa, vì bà tưởng ông không ăn Tết ở nhà, bà buồn nên đi thăm ông bà ngoại của xấp nhỏ cho khuây khoả.  Ông đang sốt ruột mong bà về, để nói cho bà biết rằng ông đã tỉnh ngộ rồi, bà không có gì phải lo buồn nữa.  Thay vì về Việt Nam với nhân tình, ông sẽ đưa vợ con đi du lịch một chuyến, sau khi ăn một cái Tết lớn ở nhà.  Tối nay ông sẽ điện thoại cho vợ biết quyết định ấy và dục bà về sớm.

–         Chắc má nó mừng lắm.

Vừa tỉ mẩn ngắt mấy cái lá mai, ông vừa mỉm cười một mình, mấy hôm nay thời tiết thay đổi rõ rệt, lại một mùa Xuân nữa sắp về.

PHƯƠNG – LAN

( Trích trong tập truyện Lấy chồng xa )

**

BA TUI – NGUYỄN THỊ THÊM

**

Đúng ra tui phải kêu ba bằng Cha vì đó là tên thường dùng ngoài quê nội ở Bình Định. Nhưng ba tui vào nam thuở còn thanh niên rồi bị đôi mắt lé kim của má tui hớp hồn. Nên “Khớp, khớp, khớp, khớp  con ngựa ô… ứ ư ư ừ theo nàng dìa dinh” ở Biên Hòa Xứ Bưởi cho tới ngày quy tiên.

      Tui đã viết nhiều bài về Mẹ. Má tui là người phụ nữ miền Nam có một không hai chiều chồng tới bến. Bà là mẫu đàn bà mà đàn ông nào cũng mơ ước có được. Tui tin chắc như vậy vì khi lớn lên anh em tui đứa nào cũng ấm ức tức thay cho má. Mấy bà chị dâu, em dâu tui cũng không hoan nghinh kiểu làm vợ giống osin như má tui. “Má làm gương kiểu này không công bình cho phe phụ nữ. Làm vợ như má tụi con chịu thua.”

      Má đã để lại cho các con dâu con gái một cẩm nang mà không đứa nào muốn rờ tới đừng nói chi thực hành. Chỉ có ông Khổng tử bên Tàu là vuốt râu gật gù khoái chí. Ổng vỗ bàn cái chách, uống cạn ly rượu Minh Mạng hả hê vì hậu bối làm rất tốt. Má đi đúng đường ông Khổng tử chỉ giống y như cái GPS gài trong xe bây giờ. (Chồng con nhỏ bạn tui có lần đã tuyên bố “Khổng Tử là kẻ thù của đàn bà”).

*****

      Ba tui người Bình Định, 1 vùng đất nhiều núi non lừng danh tam kiệt. Có Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tức Quang Trung Đại Đế cho hậu thế tự hào. Vùng đất của Võ Bình Định nổi tiếng trong nước.

      Tiếc thay ba tui chẳng biết đánh võ Bình Định mà võ mồm ông cũng không có vì ông rất kiệm lời, hay khớp trước đám đông. Bà nội tôi xuất thân con nhà quan nên bàn tay tiểu thư mềm mại, đi đâu có người hầu không quen làm việc nặng nhọc. Nội lấy chồng, chồng cưng chiều cung phụng. Khi cha chết, chồng chết, bà bơ vơ như dây chùm gửi không có thân cây để leo. Thế là ba tui bỏ học theo người xuôi nam tha phương cầu thực. Ông tằn tiện làm đủ việc, nhiều nghề để kiếm tiền gửi về nuôi mẹ, nuôi em ăn học. Ông thề với lòng chỉ về quê khi thật là giàu.

      Khi đã lấy má tui và đã tạo lập 1 gia đình vững chắc, ba tui sai má tui về quê rước bà nội tui vào phụng dưỡng. Ông rước cả gia đình chú tui vào Nam sinh sống. Chú tôi văn hay võ giỏi nhưng cực kỳ sợ anh Hai vì ba tui đã lo cho chú như cha. Từ miền Trung khô cằn được vào miền Nam trù phú, ruộng lúa mênh mông, đời sống khá giả, chú tui bắt đầu tạo lập sự nghiệp bằng sự bảo trợ của ông anh tốt bụng.

      Ba tui cũng giúp đỡ một số người cùng quê vào Nam lập nghiệp. Cho nên lúc đó nhà tui rất là đông mà người nào người ấy sức dài, vai rộng. Chỉ lo cho họ ăn uống no đủ thôi má tui cũng đã đau đầu. Mới vào Nam họ rủ nhau làm kẹo kéo để bán. Đó là lần đầu tiên tui biết kẹo kéo làm thế nào. Lâu dần một số xin vào làm công nhân cao su, một số đi nơi khác tìm việc làm, nhà tui là điểm hẹn dừng chân mỗi khi họ gặp khó khăn. Tới mùa hột, má giao cho chú tui thu mua hột cao su, nhân lực đông đảo nên má tui cũng tạm an tâm. Chiều chiều chú tui múa gậy, đi quyền dạy võ Bình Định ở sân trước nhà tui. Nhà tui thật rộn rịp và vui. Tiếc quá má tui cương quyết không cho tui tập võ. Chắc má muốn tui phục tùng chồng tuyệt đối không động tay động chân. Nên câu:

Ai về Bình Định mà coi

Con gái Bình Định đánh roi đi quyền….. không hề có tui.

      Chú tui có ăn học, viết chữ tàu rất đẹp, chú thông minh và biết xoay sở. Chú từng bước quen dần với lối làm ăn nên sau đó đứng ra thầu mua mủ đất cao su. Cái thứ mủ chảy theo thân cây và dính dưới đất coi như bỏ đi, vậy mà chú tui vẫn tìm được mối thu mua. Chú ký hợp đồng với chủ tây và làm ăn phát đạt, cất nhà và ổn định cuộc sống. Ba tui trút được gánh nặng về gia đình và Bác Hai là một tấm gương cho con cháu noi theo.

      Tui nhớ trong nhà chú tui có treo một bức tranh khá to. Trên đó chú viết câu đối bằng chữ tàu và chữ việt rất trang trọng các hình vẽ hoa văn tỉ mỉ:

HUYNH ĐỆ NHƯ THỦ TÚC, PHU THÊ NHƯ Y PHỤC.

      Hôm đó 2 vợ chồng mới cưới, chúng tôi đến nhà chú để biếu quà lễ, đốt nhang bàn thờ ra mắt thân tộc. Chú chỉ bức hoành phi và giảng cho cháu rể 1 bài học về đạo làm người. Chú giữ đúng quan niệm của người xưa “Anh em như chân tay, vợ chồng như quần áo”. Chồng tui mới cưới vợ nên gân cổ cải lại về đạo vợ chồng “tôn kính như tân.” Tôi ngồi nhìn 2 người đàn ông vừa uống rượu vừa tranh luận mà không biết can thiệp cách nào cho không khí bớt căng thẳng. Tui biết chồng tui mới cưới vợ nên lập luận còn hăng để lấy điểm, chứ cũng dân miền Trung, nặng nề về gia tộc, đạo lý làm người chắc cũng giống y chang nhau. Ba tui còn 1 người em út nữa, nhưng chú không muốn đi xa, chú ở lại quê để giữ nhà từ đường, chăm sóc mồ mả tổ tiên. Chú làm nghề tráng bánh tráng gia truyền Bình Định. Chú út tui nhỏ con, lùn hơn ba tui nhưng chú đi bộ rất nhanh và khỏe. Chú nói ở quê, chú lội bộ đường núi từ nhỏ nên quen rồi. Chú rất hiền và chất phác. Chú uống rượu rất chì vì nhà chú nấu rượu, thử rượu thành quen. Những ngày chú tới thăm gia đình tui, chú tuyệt đối không uống rượu. Mấy ông anh ba xị đế của tui thấy vậy rất thương, lén lút dụ khị chú cụng ly nhưng chú cương quyết từ chối. Câu trả lời của chú là:

– Anh Hai không thích chú uống rượu, chú không dám uống.

      Nghe đâu hồi còn nhỏ, chú rất quậy phá và ba tui đã trị chú ra trò. Bây giờ chú vẫn còn kính, sợ anh Hai không dám làm trái ý. Chú tui là vậy, nhưng mấy ông anh tui tuy cũng sợ ba, nhưng lai rai ăn và nhậu tới bến không bỏ được. Có lẽ tại mấy ổng lai dòng máu Nam Kỳ.

      Ba tui lùn lùn, người rắn chắc và đẹp trai. Ông kiệm lời, chỉ cười cười khi vui và lắc đầu đi thẳng nếu bất bình hay không thích nói. Làm việc gì ông cũng tận tâm, trung thực và hết sức mình. Ông rất thích thể thao, dưới tay ông là đội tuyển đá banh khá giỏi. Ông là đoàn trưởng Thanh Niên Cộng Hòa hoạt động tích cực. Ông là người giao thiệp rộng, mấy món ăn chơi có lẽ thứ nào ông cũng thử qua nhưng không sa đà vướng vào. 

      Tuy không khá giả lắm nhưng ông rất chịu chơi, ông dám sắm giàn dĩa hát loại lớn có quay dây thiều, sắm cây đèn măng xông sáng rực. Tối tối nhà tui vang lên tiếng ca vọng cổ mùi tận mạng của Út Trà Ôn, Hữu Phước, Thành Được, Út Bạch Lan, Thanh Nga. Nào Văn Hường đi chợ Tết, nào tiếng hát Út Bạch Lan “Ngày mai đám cưới người ta. Tại sao sơn nữ Phà Ca lại buồn”. Khi cô đào hát kéo hơi nhựa nhựa là ông vội vào nhà quay tiếp dây thiều. Vui quá một thời bình an.

      Bà nội tui được ông phái hiền thê là má tui về Bình Định rước vào Nam. Má tui lặn lội ra tận quê chồng, bà kể lại hành trình vất vả tìm mẹ chồng nghe mà thương. Để ra mắt họ hàng gia tộc bên chồng, má tui đi chợ làm tiệc đãi khách. Bà nói tiền đi chợ nhiều như gánh 1 gánh tiền đổi 1 gánh thức ăn vì lúc đó quê ba tui xài tiền cụ Hồ, đồng bạc rẻ rề.    Tui chẳng biết đúng sai  thế nào chỉ nghe bà kể lại. Muốn tới chợ phải đi bộ thật xa, vượt qua đồi núi rồi xắn quần lội nước qua hói. Ra chợ họ nói tiếng Bình Định má tui không hiểu gì hết, chỉ biết trả tiền và cười. Mọi việc mua bán đều do thím tôi quyết định. Tui nhớ lại lúc tui về quê chồng xứ lạ, tui cũng lơ tơ mơ như má của tui.

      Bây giờ quê nội tui đã khác, đường xá mở rộng, nhà cửa khang trang nên chuyện má kể y như chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa.

      Ba tui sinh sống lâu trong Nam, nhất là ở Sài Gòn nên tiếng nói đã thay đổi rất nhiều. Bà nội tui theo con dâu vô Sài Gòn. Nhìn nội chưa kịp mừng 2 chị em tui hết hồn chạy trốn. Da bà ngăm đen mà hàm răng cũng nhuộm đen thùi dễ sợ. Bà mặc bộ đồ đen quấn đầu cái khăn cũng đen. Một mắt bà che lại bằng một cái khăn xéo cũng vải đen. Thiệt tình bà nội tui giống Hắc y nữ hiệp quá đi.

      Nói thiệt không có tiếng nói nào quê và khó hiểu như tiếng Bình Định mà bà nội tui dùng. Thí dụ “Nẫu” là người ta. “Dẫy na” là vậy hả. “Dẫy á” là vậy đó. “Chu cha wơi” là trời đất ơi. “Dẫy nghen” là vậy đó nghen, “Đừng làm dẫy, nẫu cừ” là đừng làm như vậy, người ta cười cho.

      Kỷ niệm tui nhớ hoài là khi nội tui bảo tui lấy cái đòn. Tui xuống nhà dưới vác cây đòn gánh ra. Nội tui là bài hải:

– Chu choa wơi, không phải cái đòn này.

      Thì ra cái đòn nội tui cần là cái ghế thấp để ngồi. Tui không coi thường quê nội của tui, tui cũng không xấu hổ hay quê khi nói mình cũng là dân nẫu. Bởi vì quê cha tôi có những điểm đặc thù mà vùng miền khác không có. Ba tui là biểu tượng của tính tình người dân Bình Định: Chất phác, cần kiệm, cương nghị, gan dạ và trung thực.

      Ba tui có số đào hoa, nhiều người phụ nữ đã đến với ông. Cuộc đời ông chìm nổi trong chữ ái dục, làm khổ cuộc đời của má tui và ảnh hưởng không nhỏ đến 3 dòng con. Các dì tôi đều yêu ông tuyệt đối, chăm sóc và cung phụng ông không thua gì má tôi. Hồi đó, khi tui còn nhỏ, Việt Cộng cứ đắp mô hoài, ba tui bắt tui ở lại nhà dì ghẻ để đi học cho an toàn. Tui thương má, đương nhiên tui ghét dì ghẻ. Tui nghe thiên hạ nói dì ghẻ là yêu tinh quyến rũ chồng người nên tui cũng ngầm để ý theo dõi. Dì Ba tui bỏ nhà theo ba tui từ khi còn con gái. Ba của dì không lớn tuổi hơn ba tui bao nhiêu nên ông cương quyết chống đối. Ông đánh và nhốt dì lại. Thế nhưng dì vẫn tìm cách bỏ trốn theo ba tui và làm vợ nhỏ cho đến cuối đời.

      Nhà dì có 1 cái tủ đứng mà mỗi lần ba tui ghé nhà ngủ lại, dì trân trọng lấy đồ trong đó ra dùng. Đó là mùng, mền, khăn, gối, áo quần… những đồ dùng cá nhân của ba tôi dì cất riêng ở đó, ướp long não cẩn thận. Mỗi khi ba tui ghé nhà, dì mừng quá đi chợ nấu thức ăn thật ngon vui vẻ nói nói cười cười. Có một lần dì dọn cơm lên mà không có nồi cơm vì mừng quá quên nấu. Cho nên cái nghiệp duyên đó khiến ba tui làm kẻ phụ tình không chung thủy với má tui. Trái tim người đàn ông mềm yếu dễ đi sai hướng. Ba tui cũng vậy tình cảm bị lung lay, người đào hoa suốt đời bị tình lụy.

      Không hiểu sao, ba tui kiệm lời lại không biết nói lời hoa mỹ mà đàn bà vẫn bị ông quyến rũ. Sau 1975, khi ông đã trên 70, con cháu 1 bầy vậy mà cũng có người theo. Bà ta lấy lòng từ má tui, chị dâu tui, tui và mọi người để được lân la bên ba tui. Bà ta không ngại làm cỏ vườn, phụ làm cỏ lúa xen canh và nấu thức ăn đem đến tận nhà. Tui hỏi ba tui:

– Sao vậy ba, bộ ba có gì với dì ấy hả?

Ba tui cười cười:

– Ba có làm gì đâu! Ba già sợ đàn bà lắm rồi.

Tui hỏi má tui:

– Sao Má? Má thấy dì ấy thế nào?

Má tui cũng cười cười:

– Già rồi! Hồi xưa không ghen bây giờ còn gì nữa mà ghen. Thây kệ cô ta đi. Ba mày không có gì đâu. Ổng cũng tu rồi.

      Đối với con cái ba tui chưa 1 lần nào đánh anh em tui. Hồi còn nhỏ chỉ có má tui đánh con còn ba tui chỉ nhìn và nói mà con cái răm rắp nghe lời. Lớn lên, con cái làm sai, ông ngồi trên ghế, chỉ cái ghế đối diện bảo ngồi xuống và ông nói chuyện. Ông là nghiêm phụ, dạy con bằng chính những gì ông sống và thực hành. Bản thân ông là tấm gương để chúng tôi noi theo. Tất cả những ưu đãi má tui làm cho ông đều do má tui tự nguyện bằng trái tim yêu thương và tôn trọng chồng. Ba tui rất mực thương con nhưng không dùng từ ngữ để nói. Thương vợ nhưng không dùng hành động biểu lộ. Ông có cái uy mà cả nhà đều phải phục tùng kính nể. Tui nhớ ngày tui mới lớn, ngực đã có nhưng má tui nhà quê quan niệm của bà rất ư là cổ lỗ sĩ. Bà may cho tui một miếng vải khá dài và bắt tui cột lại đè cho cái ngực xẹp lép như trong phim mấy người con gái giả trai. Bà nói ngực nhô lên là xấu, đàn ông nhìn vào có tư tưởng không tốt nên phải giấu đi.

Ba tui trái lại, ông nói với má tui:

– Con gái đã lớn, bà đi mua cho nó mấy cái xú chiêng để nó mặc đi học.

Má tui ra chợ, bà mắc cỡ nói nhỏ với chị bán quần áo:

– Lấy cho tui mấy cái xú chiêng.

      Bà bán hàng nhìn ngực má tui bán mấy cái size bự của đàn bà đang cho con bú. Tui cầm mấy cái áo muốn khóc, tháo hết nó ra và may nhỏ lại. Cuối cùng có dịp đi Sài Gòn, ba tui mua cho tui mấy cái áo ngực đúng cỡ và một số quần lót. Ba tui là số một của con gái, là chỗ dựa khi tui trưởng thành.

      Ngày  tui còn nhỏ, Tết đến ông mua cho tui quần áo đẹp, đích thân đeo hoa tai, dây chuyền, kiềng vàng cho tui để tui làm 1 cô con gái nhà giàu. Ông đặt tui ngồi lên bình xăng chiếc xe mô tô đen, ngồi phía sau ông là các anh tui. Ông chở các con về đốt hương bên ngoại. Chiếc xe mô tô nổ máy, ông ngồi lên uy nghi, chúng tôi tự hào biết mấy.

      Khi tui bắt đầu đi dạy, ông cất cho tui nhà riêng sát vách nhà dì ghẻ. Tui có 1 căn nhà nhỏ với cửa rèm màu tím của riêng mình. Tui vào hướng đạo, làm thiếu trưởng, mỗi khi đi cắm trại xa, không gặp được ông để xin phép, tui chỉ viết mấy chữ dán ở cửa nhà riêng để báo tin. Vậy mà ông cũng không giận hay la. Ông tin con gái rượu của mình. Tui là niềm vui và tự hào của ba tui. Ngày xưa ông trọng nam khinh nữ. Ông quan niệm con gái không cần học cao. Con gái phải có công dung ngôn hạnh và biết phục tùng chồng. Nhưng sau này ông đã thay đổi, ông lo cho em gái tui ăn học đến nơi đến chốn.

      Ngày tui lấy chồng, ba má tui ở vùng xôi đậu nên tổ chức lễ cưới ngay tại nhà tui. Nhóm tráng và thiếu đoàn hướng đạo đến che rạp, chặt cây đùng đình làm cỗng Vu Quy, sắp đặt bàn ghế. Các em nữ sinh tui dạy đến trang trí phòng tân hôn, dán giấy kết hoa. Tui lấy chồng không có rước dâu vì nhà chồng ở tận Quảng Trị. Ba má tui cũng an tâm vì con gái không phải làm dâu, coi như mình bắt rể. Nhưng có ai ngờ rồi tui cũng bỏ ba má tui khăn gói theo chồng.

*****

      Kể từ ngày ba tui rước tăng đoàn đến tụng kinh cho bà nội tui trước lúc lâm chung, ba tui dường như hiểu ra hai chữ vô thường. Ông tin Phật Pháp và dốc tiền của công sức tái thiết lại ngôi chùa đã bỏ hoang. Ông cùng các bạn già trang lứa tổ chức lại hội chùa và thỉnh chư tăng về trụ trì.

      Ba tui rất cẩn trọng trong việc quy y Tam bảo. Ông đi tìm cho mình 1 vị minh sư mà ông kính phục để làm lễ quy y cho ông. Khi được quy y Tam Bảo và chấp hành Tam Quy Ngũ Giới ông dốc lòng niệm kinh học Phật. Ông tu tại gia và hay lên chùa tụng kinh, nghe pháp. Thật buồn cười, tới già ông vẫn được phụ nữ chiếu cố. Một số các bác lớn tuổi tu học như ông, tôn ông làm huynh trưởng và nhận làm tiểu muội. Ông hay kể cho tui nghe về các vị ấy. Một số theo con cháu ra nước ngoài định cư vẫn thường liên lạc thăm hỏi. Họ chăm chỉ học Phật và rất tôn trọng quý mến ba tui.

      Khi má tui mất và tui đi định cư tại Mỹ, trong căn nhà vắng vẻ ông thật sự sám hối và quyết chí đi tu.Anh em tui và 1 bầy cháu nội ngoại hết lòng can ngăn. Các anh tui thấy như mình bất hiếu vì ba đã già không thể chịu được cuộc sống kham khổ của người xuất gia. Thế nhưng ba tui đã quyết và ông xuất thế ly gia, vào chùa cạo đầu làm một Sa Di.

       Vị Sa Di già hiền lành ngày ngày niệm kinh học Phật. Ông rất an lạc và được thầy trụ trì các tăng ni và phật tử yêu mến. Anh tui can ngăn không được nên cho con đi theo làm thị giả cho ông nội. Cháu ở bên cùng ăn, cùng ngủ, săn sóc ông mỗi khi đau yếu. Khi ba tui mất, cháu chính thức quy y và bây giờ đã là 1 đại đức với 26 năm tuổi đạo.

      Hôm nay là ngày Father’s Day, tôi nhớ ba tui quá nên viết bài này. Đứa con gái ông yêu thương đã là một lão bà, nhưng có lẽ dưới mắt ông tui mãi mãi là con gái nhỏ ông yêu thương chiều chuộng.

Ba ơi!
Cỡi hạc ba về với đất trời
Bao năm trần thế đã rong chơi
Náo nương cửa Phật tìm chân lý
Biết rõ trần gian, đạo với đời.
Con quỳ bên gối vị Sa Di
Cha tôi trưởng lão đã quy y
Đoạn ly ái dục đầy phiền não
Tâm lành an tịnh sống từ bi.
Con gái bây giờ cũng đã già
Bao năm lặn ngụp chốn ta bà
Đốt nét tâm hương con kính lạy
Đức Phật từ bi độ cho cha.

Nguyễn thị Thêm.




VTLV TRANG ĐẶC BIỆT NGÀY CỦA MẸ. Thành Viên VTLV và Thân Hữu.

BÀI THƠ TẶNG MẸ.     CAO MỴ NHÂN

Tặng Mẹ bài thơ viết dở dang

Đèn trời thắp sáng cửa thiên đàng

Mẹ đi khi đó con ngơ ngác

Bà khóc lúc nào lệ chứa chan

Hơn nửa trăm năm rời đất Bắc

Đôi phần nhật nguyệt sống trong Nam

Chẳng bao giờ nghĩ về quê cũ 

Đốt nén hương xa thấy bẽ bàng

Ngày Lễ Mẹ  danh vang xứ người

Hoan ca phụ nữ đón hoa tươi

Bạch hồng đài các thơm vòng cổ

Hoàng cúc hồn nhiên thắm nụ cười

Không một niềm vui thêm kỷ niệm

Tròn nguyên nỗi khổ mãi trùng khơi

Kiếp sau hạnh ngộ làm con Mẹ 

Mẫu tử tình thâm suốt cuộc đời …

Rancho Palos Verdes  8 – 5 – 2025

           CAO MỴ NHÂN 

   11 -5 – 2025

NHỚ MẸ HIỀN – THƠ Trần Công/Tiền Giang Tử

Nhớ thương Mẹ lắm, Mẹ hiền ơi!

Mẹ đã xa con mãi mãi rồi

Đã mấy mươi năm con mất Mẹ

Mà lòng thương nhớ vẫn không nguôi.

       Mẹ đã đưa con đến với đời

       Khổ công dưỡng dục con nên người

       Đến ngày ly loạn con xa Mẹ

       Không gặp mẫu thân thưa mấy lời.

Ngày Mẹ bước lên tàu thiên cổ

Con đang lưu lạc ở quê người

Không về gặp Mẹ giờ phút cuối

Đau lòng con lắm, Mẹ hiền ơi!

   Nuôi con nhờ lúc tuổi về già

       Đến lúc Mẹ già, con bỏ đi

       Tích cốc phòng cơ, cơ bất cốc

       Dưỡng nhi đãi lão, lão vô nhi.

Hương lòng bốc khói tận trời xanh

Tưởng nhớ công ơn đấng sanh thành

Đã lỡ kiếp này con bất hiếu

Xin nguyền đáp nghĩa kiếp lai sanh.

                      Hoa Đô(Lockwood House)

                      Trần Công/Tiền Giang Tử.

CHÙM THƠ VỀ MẸ – ĐÔNG RY NGUYỄN

BÁNH XÈO CỦA MẸ NGÀY MƯA

*
Hôm nay được đãi bánh xèo
Mực cơm tôm thẻ nước lèo rau xanh
Ngồi ăn trong dạ chẳng đành
Bâng khuâng chống đũa nhớ hình ảnh xưa
Bánh xèo Mẹ đúc ngày mưa
Bột không với chút dầu dừa mà ngon!

*
Nhớ thuở xưa những ngày mưa lạnh lẽo
Cha thường kêu mẹ đúc bánh xèo
Thấy đàn con háo hức hò reo
Mẹ vui vẻ liền đi ngâm gạo
Sang hàng xóm xay nhờ bột nhão
Lục măng-rê tìm lại chén dầu dừa
Rau ngoài vườn đủ thứ chẳng cần mua
Thế là đủ cho khuôn tròn lên bếp nóng:

Củi riu riu
…lửa hồng lan sức ấm
Dầu dừa thơm
…réo gọi vị con tì
Tiếng xèo xèo
…bột chín nổ văng đi


  • Bánh nóng hổi
    …mẹ hớt vào lá chuối
    Chén mắm cái
    …đỏ au màu ớt tỏi
    Chấm vào nhai
    …tay quẹt mũi hít hà!
    Nhìn con ăn
    …ngấu nghiến mẹ cười xoà
    Niềm hạnh phúc
    …bừng lên bên ánh lửa
    Cuộc sống nghèo
    …nhưng nghĩa tình chan chứa
    Quên sao đành
    ….hình ảnh mẹ thân thương!

  • Xa rồi tổ ấm quê hương
    Giờ con chén đắng viễn phương một mình
    Chiều nay mưa bất thình lình
    Ngồi trong quán lạ nhớ hình ảnh xưa…

  • Bánh xèo mẹ đúc ngày mưa
    Bột không với chút dầu dừa mà ngon!

  • –Chàng Đông Ry Nguyễn.

Mẹ Ơi…!

Kiều My

Tháng Năm lại về, mang theo nắng nhẹ và hương thơm của những cành hoa mẫu đơn – loài hoa tượng trưng cho tình mẹ. Giữa cuộc sống nơi xứ người, lòng con luôn hướng về Mẹ – người đã âm thầm nuôi con khôn lớn bằng cả một đời hy sinh. Dù Mẹ còn hay đã khuất, Mẹ vẫn là hình ảnh thiêng liêng không gì sánh bằng, hình bóng Mẹ vẫn luôn là nơi bình yên nhất trong trái tim con.

“Tình Mẹ” thật thiêng liêng và sâu lắng! Có lẽ trên đời này, không có tình cảm nào dịu dàng, bền bỉ và bao la như tình mẹ. Dù ta lớn lên, đi xa hay trải qua bao sóng gió, thì vòng tay và trái tim của mẹ vẫn luôn là nơi chốn bình yên nhất.

Khi con lớn khôn rời xa vòng tay Mẹ, đi đến những chân trời xa lạ rộng mở, con cảm thấy thấm thía nỗi nhớ mỗi lần nghe giọng Mẹ qua điện thoại, mỗi lần thấy bóng dáng ai đó giống Mẹ giữa chợ đông người. Những lời Mẹ dặn con năm nào, giờ đây vang vọng mãi trong tâm hồn con, như ngọn hải đăng soi lối giữa giông tố cuộc đời. Mẹ ơi, nếu có điều gì con luôn muốn nói – ấy là: Con thương Mẹ và con biết ơn từng phút giây được làm con của Mẹ. Dù Mẹ đã ra đi, con vẫn tin rằng tình yêu của Mẹ  luôn dõi bước con đi trên đường đời đầy chông gai này và chở che con như thuở nào. Ngày Mother’s Day, con thầm nói: “Mẹ ơi… con thương Mẹ và nhớ Mẹ thật nhiều!”

Ngày Hiền Mẫu, để nhớ về người Mẹ đã ra đi trong nỗi ngậm ngùi– Người đã để lại trongcon một khoảng trống không gì lấp đầy; nhưng cũng là suối nguồn thương yêu bất tận, sống mãi trong tim con. Con nhận ra: Mẹ đã không còn nữa, Mẹ đã về cõi vĩnh hằng; nhưng tình yêu Mẹ để lại vẫn còn nguyên vẹn trong con như ngày nào. Con nhớ Mẹ  từng khoảnh khắc sống trong đời, là khi con nấu món canh chua Mẹ từng ưa thích, nghe bài hát Mẹ hay hát không trọn vẹn, hay những câu nói ví von của Mẹ… Những điều nhỏ bé ấy cứ âm thầm nhắc con về Mẹ – về một hình bóng dịu dàng, thân thương mà vĩnh viễn con không thể gặp lại lần nữa.

Có những nỗi nhớ không thể gọi thành tên, chỉ biết rằng từ thẳm sâu trong tâm hồn, con luôn có một chỗ dành cho Mẹ – không ai có thể thay thế. Và con tin, ở một nơi nào đó thật bình yên và thanh thản, Mẹ vẫn dõi theo con. Mỗi lần con vấp ngã, con vẫn cảm nhận được bàn tay Mẹ vô hình đỡ con dậy. Mỗi lần con làm được điều tốt, dường như có nụ cười của Mẹ thoáng hiện trên nền trời mây trắng.

Ngày Mother’s Day, con không thể tặng Mẹ một bó hoa, không thể ôm Mẹ thật chặt; nhưng con có thể thắp lên một ngọn nến, một nén nhang và thì thầm với trời xanh: Mẹ ơi, con nhớ Mẹ vô cùng… và con sẽ sống sao cho xứng đáng với tình yêu Mẹ dành cho con cả một đời.

Ngày Hiền Mẫu, tôi nhớ lại ngày tôi rời nhà, Mẹ không khóc trước mặt tôi, đôi mắt Mẹ đỏ hoe và Mẹ nắm chặt tay tôi hơn thường lệ. Mẹ dặn dò đủ thứ –“Qua đó nhớ giữ gìn sức khỏe và cẩn thận mọi sự việc nơi xứ lạ quê người, nghe con…”; rồi Mẹ gói ghém từ cái áo ấm đến thuốc cảm cúm đặt trong giỏ xách cho tôi.  Biết Mẹ lo, nhưng cũng biết Mẹ tự dặn lòng phải mạnh mẽ, để không làm tôi chùn bước. Mẹ tôi không biết nói những lời triết lý cao siêu, không giỏi thể hiện bằng những câu thơ văn, Mẹ chỉ lặng lẽ yêu thương bằng những chăm sóc chu đáo cho tôi. Tình Mẹ tưởng như giản dị mà hóa ra thiêng liêng vô cùng. Nhưng những ngày ấy đã lùi xa vào ký ức. Dù vậy, tôi biết tình mẹ chưa bao giờ xa tôi. Nó vẫn ở đây, trong từng nhịp thở, từng dòng chữ tôi viết, từng đêm trăn trở nhớ mẹ giữa mùa đông lạnh.

Ngày mẹ ngã bệnh, tôi đang ở xứ người và phải lo toan nhiều việc. Mẹ nói: “Đừng về vội, con à. Mẹ còn chịu được.” Tôi nghe mà nhói lòng, vì biết Mẹ  sợ tôi lo lắng và bận tâm. Tôi cứ ngỡ còn thời gian một tháng nữa, hai tháng nữa, hay lâu hơn nữa… Rồi bỗng một ngày điện thoại reo giữa đêm khuya… Tôi lặng người! Thời gian không chờ ai, và Mẹ tôi… đã không chờ đợi được nữa!

Chuyến bay trở về nhà  hôm ấy là chuyến đi dài nhất trong đời tôi. Không phải vì khoảng cách địa lý, mà vì lòng tôi nặng trĩu. Tôi không dám khóc giữa sân bay đông người, nhưng trong tim tôi, nước mắt đã chảy từ lâu – chảy từ khoảnh khắc tôi biết mình đã không kịp trở về, để nhìn Mẹ lần cuối và nghe Mẹ trối trăn!

Tôi đứng trước bàn thờ Mẹ, gục đầu, thì thầm: “Mẹ ơi, con về rồi đây… Nhưng muộn quá phảikhông Mẹ?” Mẹ lặng thinh! Chỉ có khói nhang bay lên di ảnh của Mẹ làm nhạt nhòe mắt Mẹ như ánh mắt Mẹ ngày tôi xa lìa gia đình. Từ ngày ấy, tôi sống với một vết thương không thể lành – vết thương của sự xa cách cuối cùng. Nhưng cũng từ đó, tôi hiểu sâu hơn về “tình mẹ”: đó là tình yêu không cần sự có mặt, vẫn âm thầm nâng đỡ tôi mỗi ngày, dù Mẹ đã đi xa. Giờ đây, mỗi khi nhìn lên bầu trời, tôi lại khẽ nói: “Mẹ ơi, con nhớ mẹ nhiều lắm.”Và tôi tin đâu đó, Mẹ vẫn mỉm cười nhẹ nhàng như những năm tháng xưa – khi Mẹ đứng trước cửa chờ tôi về, mái tóc bạc lấp lánh trong nắng chiều.

Mẹ –là hình dáng của tình yêu vĩnh cửu. Trong dòng đời hối hả, có một điều luôn âm ỉ cháy không tàn, đó là “ tình yêu của mẹ.” Tình yêu ấy không cần lý do để bắt đầu, cũng không chờ điều kiện để tồn tại. Mẹ là tiếng gọi đầu tiên ta thốt lên, là bóng hình cuối cùng ta giữ mãi trong tim. Có nhiều đại văn hào trên thế giới cũng đã từng ca ngợi “Tình Mẹ” như Victor Hugo viết: “A mother’s arms are made of tenderness and children sleep soundly in them.”

 (Vòng tay mẹ được dệt bằng sự dịu dàng, và trong đó con trẻ ngủ giấc bình an.)

Mẹ không chỉ là người sinh ra ta — mà còn là người chắp cánh cho ước mơ, dạy ta biết yêu thương, biết vươn lên giữa giông bão. Dù thời gian có đưa Mẹ đi xa, thì tiếng gọi “Mẹ ơi” vẫn mãi là lời thì thầm thiêng liêng nhất đời người.

Plato đã từng nói: “There is no greater love than that of a mother.”

(Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người mẹ.)

Trong mắt Mẹ, ta luôn là đứa trẻ nhỏ cần được vỗ về, dù ta đã là người trưởng thành giữa cuộc đời. Mẹ âm thầm lo lắng khi ta đi xa, thầm lặng vui mừng mỗi lần ta trở về. Mẹ cười sau lưng những thành công của ta, và khóc lặng lẽ cho những tổn thương mà ta chẳng hay biết.

Có một câu nói khuyết danh, nhưng hàm chứa một chân lý sâu xa:

“God could not be everywhere, and therefore he made mothers.”

(Thượng đế không thể có mặt ở khắp nơi, vì thế Ngài đã tạo ra người mẹ.)

 Mother’s Day không chỉ là dịp để tặng hoa, gửi quà, mà là một khoảnh khắc để ta lắng động tâm hồn, gởi đến Mẹ một lời cảm tạ từ trái tim. Dù Mẹ còn trên đời hay đã về bên kia thế giới, tình mẹ vẫn là nơi ta hướng về, mỗi khi đời bão giông.

Abraham Lincoln đã nói:

“All that I am, or hope to be, I owe to my angel mother.”

(Tất cả những gì tôi có được, hay hy vọng đạt tới, tôi đều nhờ người mẹ thiên thần của tôi.)

Cùng một nỗi niềm chung về “Tình Mẹ”, ngay trong thế giới âm nhạc mênh mông không biên giới, cũng vẫn có chỗ cho những bài hát ca tụng “Tình Mẹ”. Như hai ca khúc tiêu biểu: Maman oh MamanLòng Mẹ – hai bản nhạc cảm động đến tận cùng trái tim, tuy đến từ hai nền văn hóa, địa ly khác nhau; nhưng lại cùng chan chứa một tình yêu vĩ đại; đó là: tình mẫu tử.

“MAMAN OH MAMAN” – LỜI GỌI TỪ TRÁI TIM

Maman oh Maman là một ca khúc Pháp nổi tiếng, một bản tình ca dành cho Mẹ với tất cả yêu thương và biết ơn. Giai điệu của bài hát mộc mạc, dịu dàng như lời thủ thỉ của một đứa con nói với mẹ, nhưng lại chứa đựng cả một trời yêu thương và khát khao. Ca khúc này vượt thời gian và biên giới vì nó chạm đến sợi dây thiêng liêng nhất của con người – đó là tình mẹ. Mỗi lần nghe, người ta như được trở về thuở ấu thơ, được nép vào vòng tay yêu thương nhất, nơi không có lo toan, chỉ có hơi ấm và tiếng ru ngọt ngào.

Maman oh Maman, toi qui m’as donné. Tant de tendresse depuis tant d’années

Tu le sais bien, quand je serai grand. Je penserai à toi, Maman

Maman oh Maman, le jour et la nuit. Je veillerai toujours sur ta vie

Je serai là à tout les instants. Pour te protéger, Maman…

LÒNG MẸ” – BẢN THÁNH CA CỦA TÌNH MẸ

Nếu Maman oh Maman là lời hát của đứa con dành cho mẹ, thì Lòng Mẹ – một ca khúc bất hủ của nhạc sĩ Y Vân – là khúc ngợi ca cao nhất tình mẹ Việt Nam: sâu như biển Thái Bình, bao la như trời lồng lộng. Với những hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp:

“Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào

Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…

“Lòng Mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa thu

Tình Mẹ âu yếm như làn gió đùa mặt hồ…”

Bản nhạc Lòng Mẹ rất tha thiết, mỗi khi âm điệu của bản nhạc cất lên làm rung động cả con tim và giọt lệ chợt ứa trong khóe mắt. Tình Mẹ sao quá đỗi ngọt ngào, Mẹ hy sinh cả một đời cho con, Mẹ luôn là người duy nhất không bao giờ bỏ rơi con, dù con thành công hay thất bại, giàu sang hay nghèo khó. Giai điệu ca khúc nhẹ nhàng, da diết, tràn đầy cảm xúc như lời ru vọng lại từ ký ức; khiến không ít người khi cất lên bài hát này đã không thể cầm được nước mắt.

Dù khác ngôn ngữ, khác văn hóa, nhưng Maman oh MamanLòng Mẹ đều chạm đến sâu thẳm trái tim người nghe. Mama oh Maman – như tiếng con trẻ nói với  Mẹ với tất cả yêu thương hồn nhiên; Lòng Mẹ là tiếng hát thành kính, dạt dào như khúc thánh ca dâng lên người Mẹ hiền đã hy sinh cả cuộc đời cho con.

Hai ca khúc – hai thế giới – nhưng chung một tình yêu: – đó là Tình Mẹ vĩnh cửu.

Happy Mother’s Day
DẤU CHÂN MẸ

Kiều My

      (Kính tặng những người Mẹ – còn đó hay đã xa…)

Trên đường đời con bước
Có dấu chân ai quen
Âm thầm như hơi thở
Nhưng ấm từng bước lên.

Có Mẹ là có nắng
Chợt một ngày đông tan
Có Mẹ  là tiếng hát
Ru con suốt tháng năm.

Mẹ xa rồi trăng khuyết
Hương bếp cũ mơ hồ
Bóng Mẹ như trong gió
Về bên cửa đợi chờ…

Con ngồi nghe mưa rớt
Trên mái nhớ ngày xưa
Từng bữa ăn đạm bạc
Mẹ nhường con hơn thừa.

Dẫu Mẹ còn hay khuất
Trong tim con vẫn đầy
Một vầng trăng không tắt
Dẫn con suốt tháng ngày…

Trong cuộc đời viễn xứ, đôi khi chúng ta không ngờ rằng giây phút chia xa cuối cùng với Mẹ lại đến quá đột ngột. Những dòng hồi tưởng này chan chứa nỗi ngậm ngùi của một người con sống xa quê nhà, mang trong tim nỗi ray rứt không thể ở cạnh Mẹ trong những ngày cuối đời của Mẹ. Nhưng cũng từ đó, ta nhận ra rằng tình mẹ vẫn luôn hiện hữu – âm thầm, bao la, và vĩnh viễn không rời xa. Dù Mẹ còn trên đời hay đã đi xa, tình mẹ vẫn luôn là ánh sáng dịu dàng dẫn lối  trong suốt hành trình của đời ta.

Kiều My

California, Mother’s Day 2025

Buồng chuối chín sau vườn
Lá vàng rụng con mương ngoài ngõ
Văng vẳng tiếng ầu ơ

Con chinh chiến chưa về
Đêm nghe gió đường quê mơ màng

Thấy Mẹ trong giấc mơ
Áo hoa con biếu Mẹ ngày nào
Che phủ tấm lưng cong

Ngày xưa một đóa hồng
Nay áo đẹp má hồng Mẹ phai

Vườn sau xanh bông cải
Mẹ thương con tháng ngày dầu dãi
Trông con đầu bạc trắng

Dạ con tấc lòng son
Đêm nhớ Mẹ mỏi mòn từng đêm

Hoa sứ nở đầy cành
Dây trầu xanh lá vẫn vấn quanh
Con ơi, sắp về chưa?

Dù đường đời trắc trở
Con sẽ về têm miếng trầu xanh

phamphanlang

Bài thơ mộc mạc ấy đã được hai nhạc sĩ tài hoa ưu ái phổ thành hai ca khúc sâu lắng và cảm động:

Nhân dịp Lễ Mẹ, PL xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến hai nhạc sĩ Vĩnh Điện, Mộc Thiêng và hai ca sĩ Diệu Hiền, Đông Nguyễn – những người đã thổi hồn vào bài thơ bằng giai điệu và giọng ca tuyệt vời, giúp bài thơ nhỏ bé này lan tỏa và chạm đến trái tim người nghe.

Xin kính mời quý vị cùng lắng nghe và tưởng nhớ những người Mẹ thân yêu trong mỗi chúng ta.

Kính chúc quý vị một mùa Lễ Mẹ an vui và tràn đầy yêu thương.

PLang

==

BÀI HÁT “NGÀY MẪU TỪ NHỚ MẸ

NGÀY MẪU TỪ NHỚ MẸ

*

Từ xa con nhớ Mẹ nhiều

Mơ về cố quốc mỗi chiều quắt quay

Hoàng hôn bảng lảng vầng mây

Hạc vàng xoải cánh chở đầy yêu thương

*

Ngày con từ biệt quê hương

Mẹ già tóc bạc sầu vương chập chùng

Đông Tây sương khói mịt mùng

Bao năm chờ đợi tương phùng vấn an

*

Nhà đưa tin đến bàng hoàng

Đất trời chao đảo hoang mang vô bờ

Từng mong từng ước từng giờ

Ước mong gặp Mẹ cơn mơ ngập sầu

*

Ai làm biển cả ruộng dâu

Mẫu Từ vĩnh biệt lòng đau nghẹn ngào

Mộ phần hương khói ra sao

Đông tàn Xuân đến biết bao nỗi niềm

*

Chiều nay con nhớ Mẹ hiền

Từng cơn gió lượn ngoài hiên não nề

Gian nan đời Mẹ trăm bề

Vì con vất vả không hề trách than

*

Mẹ đà vĩnh biệt trần gian

Bước chân con vẫn lang thang cõi nào

Hoàng hôn thắm trải xôn xao

Nhưng lòng con trẻ dạt dào nhớ thương

*

Chiều về giọt nắng buồn vương

Cầu nơi Cực Lạc Mẹ nương phật đà

Thân con, bốn biển là nhà

Ngày Mẫu Từ, con nhớ Mẹ già…Mẹ ơi….

*

Phương Hoa – Ngày Mother’s Day, MAY 2025

===

MẸ TÔI

Năm lên sáu
Tôi đã thích đá banh
Một bó giẻ tròn
Mẹ tôi khâu kết
Một trái bưởi xanh
Mẹ hái sau vườn
Tôi mê chơi
Tới tắt mặt trời
Quên cả giờ cơm
Mẹ la, mẹ rầy

Năm mười sáu
Tôi đã biết hẹn hò
Ðèn sách biếng lười
Mẹ buồn, mẹ lo
Tương lai con
Không được bằng người

Năm hai mươi
Tôi lên đường
Ðáp lời sông núi
Mẹ không mấy vui
Sợ mình sẽ mất
Ðứa con trai
Ðộc nhất trên đời

Ðơn vị đóng đồn xa
Cả năm không về
Lòng mẹ xót xa
Từng ngày từng giờ
Thương con mình vất vả
Mũi tên hòn đạn
Biết đâu ngờ

Những ngày về phép
Ít khi gần gũi mẹ
Quen tính lang bạt
Tôi tìm lại bạn bè
Ðàn ca xướng hát
Nửa đêm mới về
Mẹ hỏi
Sao con không ở nhà với mẹ?
Tôi hôn trán mẹ, mỉm cười

Vận nước nổi trôi
Chí trai không tròn
Tôi đi tù
Mẹ già không ai nương tựa
Thương con – Nỗi nhớ – Hao mòn
Mẹ tôi mất
Sáu tháng mới nghe tin
Không cầm được nước mắt
Hồn đau – Vỡ nát con tim

Trong trại tù
Con thèm một tiếng rầy la
Con thèm một lời hờn dỗi
Con thèm một bàn tay trìu mến
Con thèm một điệu ru hời
Cuả mẹ ngày xưa
Ðưa con vào đời
Nhưng, nay còn đâu nữa
Mẹ ơi!

                               NHƯ HOA

ANH NGỮ

MY MOTHER

When I was just a six-year-old boy
Iá began playing soccer to enjoỵ
A ball of rags my mother sewed around
A green pomelo picked from the rear ground.
I indulged in the matches forgetting to eat
Causing my mother to chide, nearly to beat.

When coming to the age of sixteen
I already became on dates keen.
I neglected my lessons to learn
Leading my mother to sadness and concern
That my future would be inferior to my peers’.

When I reached of age twenty years,
My country got in danger, I joined the army.
This position was not deemed balmy
But dangerous and made my mother fear
The loss of her only begotten son so dear.

My unit was stationed all year far away.
I had no home leave even for half a day.
It pained my mother again and again to regard
My trying conditions as too hard:
Exposed to arrows and bullets, who knows?

After surviving many deadly blows,
I obtained permission.  But, used to roaming,
I went with friends on carousing and foaming,
And only came home late at night
Allowing myself little time within her sight.
My mother asked why.  Fearing she got riled,
I kissed her on the forehead, and smiled.

The fortune of the country turned ill
From bad to worse against my he-man’s will.
I became a POW.
                           My mother had no help.
She loved me, missed me, but did not yelp.
I heard the sad news six months late
After she had pined away to fate.
I could not hold back and burst into tears;
I felt my heart broken for all my life’s years.
                             *
                          *    *
During my days  in the enemy’s jail,
How I wished I could hear at me you rail!
How I craved for your against-me grudge,
Your hand to move my mind hard-to-budge,
Your lullaby to raise my good-natured soul
Leading me into life, guiding me toward a goal:
But now I can’t about those myself bother
— Oh my dear mother!                                 

                       THANH-THANH

Hôm Nay Ngày Lễ Mẹ

Tôi muốn viết những vần thơ tặng Mẹ
Gửi lên trời nhờ mây gió mang đi
Mẹ ở trên cao ngàn thu cách biệt
Ngày lễ Mẹ, giọt lệ ướt trên mi.
Dâng lên Mẹ những vần thơ sầu muộn
Cách biệt thiên thu, hoài niệm quay về
Trên Thiên quốc nhìn về nơi trần thế
Hồn ca dao vang vọng gió hương quê.
Chiếc nôi êm ru con ngủ trưa hè
Lời Mẹ ru giọt mật thấm trong mê
Mẹ là dòng sông êm đềm xuôi bến
Tắm ướt hồn con soi sáng đường về.

Dòng sông ơi! Sóng vỗ về lưu luyến
Nhớ về Mẹ hồn đau nhói lệ rơi
Con ôm cả bó hồng dâng tặng Mẹ
Thắp nén nhang buồn khói toả chơi vơi.
Tế Luân

Tưởng nhớ đến Mẹ tôi

người đã yên nghỉ trên Thiên Đàng

Bó Hồng Tặng Mẹ

Con cung kính. Bó hồng riêng tặng mẹ

Cả tình thương, sâu thẳm của tâm hồn

Mẹ là suối nguồn, dòng chảy tinh khiết

Nuôi con một đời, đến tuổi lớn khôn.

Dâng lên Mẹ ngàn đóa hồng thắm đỏ

Dòng máu hồng. Mẹ trao tặng cho con

Ngày lễ Mẹ, bồi hồi thêm nỗi nhớ

Nhớ ơn người, nuôi nấng thuở măng non.

Tình yêu mẹ, dạt dào như sóng vỗ

Vỗ giấc bình yên, chăm sóc đời con

Viết về Mẹ, lời thơ đầy nước mắt

Vào nỗi buồn, tuổi xuân đã hao mòn.

Công ơn Mẹ, sánh núi cao, biển cả

Thấu trời xanh. Thượng Đế phải ngậm ngùi

Mẹ là thảo nguyên bao la bát ngát

Dòng suối nguồn, tuôn chảy những ngọt bùi.

Mẹ trên cao, như sao sáng trên trời

Mẹ hiền từ, ôm con cả một đời

Lời nguyện cầu, con ước mơ về mẹ

Tiếng mẹ dịu dàng, nhớ mãi không ngơi.

Tình yêu của mẹ bao la biết mấy

Sáng như mặt trời, đẹp như mây bay

Ai! Còn Mẹ, đừng làm Mẹ bật khóc

Đừng để buồn, giọt lệ ướt trên tay.

Xin gửi đến Mẹ, ngàn đóa hoa hồng

Thắm sương long lanh, ướt cả nỗi lòng

Lời nghẹn ngào, bài thơ ngày lễ mẹ

Buộc vào hoa, gửi mẹ những hoài mong.

Lê Tuấn

Vần thơ tưởng nhớ đến Mẹ.

Gửi đến Mẹ ngàn đóa hoa hồng,

Thấm ướt trên nhánh lá những giọt nước mắt long lanh

thương nhớ Mẹ hiền.

4 Ca Khúc Thơ & Nhạc Lê Tuấn – Hòa Âm & Trình Bày AI

https://cuocsongthica.blogspot.com/2025/05/ca-khuc-do-ai-hoa-am-va-trinh-bay-hen.html

===

Lịch Sử Ngày Lễ Hiền Mẫu, Mother’s Day!

-Ngày của Mẹ (Mother‘s Day) ấn định mừng vào ngày Chủ Nhật thứ nhì của tháng 5 hằng năm. Đây là ngày để tôn vinh các bà mẹ, bà nội, bà ngoại, vì những đóng góp to lớn của họ cho gia đình, cộng đồng và xã hội

Nguồn gốc ngày của Mẹ có từ rất lâu, vào thời kỳ cổ Hy Lạp và La Mã. Nhưng cái gốc lịch sử Ngày Của Mẹ, có thể tìm thấy ở Anh Quốc, nơi đó Chủ Nhật Ngày của Mẹ, đã được tổ chức tưng bừng, trước khi lễ mừng này được “di cư” thành hình, bên Hoa Kỳ.

Dầu vậy, việc ăn mừng liên quan của ngày này, lại được coi là một hiện tượng, chỉ mới gần đây, mới hơn một trăm năm.

Thật ra, phải cảm tạ công khó của những phụ nữ tiền phong, như Julia Ward Howe và Anna Jarvis, mà “ngày này” mới được chính thức thành hình.

Ngày nay, việc tổ chức, tiệc mừng cho Ngày của Mẹ, đã được trên 50 quốc gia của thế giới công nhận. (Mặc dầu vào những ngày khác nhau) Trở thành những Ngày Lễ ý nghĩa, mà mọi người yêu thích nhất! Hàng triệu người trên khắp thế giới, dùng cơ hội này để nhớ đến, kiếm cách trả ơn bà mẹ của mình, tri ân họ về việc sanh thành, dưỡng dục, để họ thành người.

Ngày của Mẹ, được tổ chức tưng bừng nhất ở những quốc gia như: Mỹ, Nga, Anh Quốc, Ấn Độ, Đan Mạch, Phần Lan, Ý, Thổ Nhỉ Kỳ, Úc Đại Lợi, Mễ Tây Cơ, Gia Nã Đại, Trung Hoa, Nhật Bản, và Bỉ. Người ta dùng cơ hội của ngày này, để tỏ lòng tôn kính mẹ của mình và tri ân họ về tình yêu thương, sự nâng đỡ của Mẹ trong đời sống.

Nhưng ngày này, càng ngày càng phai mờ ý nghĩa, vì bị thương mại hóa. Đường dây điện thoại thì bận rộn, kẹt cứng nhất trong năm. Tiêu thụ hoa, quà, card, nhiều nhất! Nhà hàng cũng có khách đông nhất vào ngày lễ này. Ngày của Mẹ trở thành ngày làm ăn hốt bạc, cho những tiệm cắm hoa, những nhà làm thiệp và người bán quà tặng, cho cả dịch vu du lịch. Cơ hội hiếm có để kiếm tiền trong ngày này. Bằng chứng qua những cuộc quảng cáo quy mô, trước đó vài ba tháng, để thu hút khách hàng.

Thật là tiếc để ghi nhận rằng, bà Anna Jarvis đã bỏ hết cuộc đời, cho việc vinh danh ý nghĩa cao đẹp ngày của Mẹ. Giờ chỉ còn là dịp để vui chơi, quà cáp, ăn uống, trong ngày lễ. Những bà mẹ già, vẫn cô đơn mừng ngày này, trong các viện dưỡng lão. Trong khi các con của mình, tưng bừng hội hè ăn chơi phía ngoài, chẳng còn nhớ gì đến Mẹ của mình cả. Thật chua xót về tính cách thương mại hóa của ngày này. Mà đâu phải một lễ này đâu, lễ nào trên đất Mỹ này cũng thế!

 y89hy8ohiohipjhopjhopjo.jpg

Những câu danh ngôn về Mẹ nổi tiếng và ý nghĩa nhất

1. Với mẹ, dù lớn bao nhiêu, con mãi là một đứa trẻ! trong trái tim mình.

(Khuyết danh)

2. Chúa không thể ở khắp mọi nơi, để ban tình thương, ơn lành, nên Ngài sinh, tạo ra người mẹ!

(Proverbe Yiddish)

3. Khi bạn nhìn vào mắt của một người mẹ, bạn sẽ nhận biết được, tình yêu tinh khiết nhất, tuyệt vời nhất, mà bạn có thể tìm thấy trên trái đất.

(Mitch Albom)

4. Mẹ là người có thể thay thế bất kỳ ai khác, nhưng không ai có thể thay thế được mẹ.

(Gaspard Mermillod)

5. Tương lai của đứa con, luôn là công trình, tuyệt phẩm! hãnh diện nhất của người mẹ.

(Napoleon)

6. Tình thương của người mẹ, không bao giờ bị già nua, khi năm tháng trôi qua.

(Tục ngữ Đức)

7. Vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt diệu, quý báu nhất, là trái tim người mẹ!

(Bernard Shaw)

8. Không tình yêu nào vĩ đại, như tình yêu của người mẹ, dành cho đứa con của mình.

(Khuyết danh)

9. Người mẹ thật sự chẳng bao giờ rảnh rỗi, hình bóng con, luôn luôn hiện diện trong đầu và trái tim của Bà suốt cả đời!

(Balzac)

10. Tình yêu của người mẹ là yên bình, bình đẳng. Nó không cần bạn phải thông minh, đẹp đẽ, giỏi giang. Nó không cần bạn phải xứng đáng hay không! Nhiều khi khuyết tật, bạn còn nhận được nhiều hơn nữa!

(Erich Fromm)

11. Mẹ hiền sinh con ngoan, cây tốt sinh trái ngọt, lúa tốt cho gạo ngon.

(Ngạn ngữ Trung Quốc)

12. Người ta không bao giờ hiểu hết, nói hết về Thượng Đế, cũng như nói hết về người Mẹ.

(Ngạn ngữ Ấn Độ)

13. Mẹ nuôi con biển bờ lai láng, con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.

(Tục ngữ Việt Nam)

14. Con đi ngàn dặm mẹ lo âu, Mẹ đi ngàn dặm con chẳng sầu.

(Ngạn ngữ Trung Quốc)

15. Khi bạn là một người mẹ, bạn không bao giờ thực sự cô độc trong suy nghĩ của mình. Một người mẹ luôn phải nghĩ hai lần, một lần cho bản thân và một lần cho con cái.

(Sophia Loren)

16. Một người mẹ vẫn mãi là một người mẹ, luôn luôn quan tâm đến những đứa con. Cho dù những đứa con đó đã lớn lên, vẫn là những đứa trẻ của riêng mình.

(Khuyết danh)

17. Trái tim của người mẹ là vực sâu muôn trượng, mà ở dưới đáy, bạn sẽ luôn tìm thấy sự tha thứ.

(Balzac)

18. Làm mẹ là một thái độ sống, thiêng liêng, không chỉ là mối liên hệ về sinh học.

(Robert A Heinlein)

 jkmjopjopookkokk.jpg

Phong tục “Happy Mother’s Day!” tại các nước trên thế giới

-Đa số các quốc gia trên thế giới ngày nay, ăn mừng Ngày của Mẹ, với các phong tục bắt nguồn từ Bắc Mỹ và Châu Âu. Khi được phổ biến tại các nước khác, ngày của mẹ đôi khi được thay đổi đôi chút, để phản ảnh nền văn hóa từng nơi. Một số nước để hợp nhất ngày lễ này, với những sự kiện quan trọng của nhiều phong tục bản xứ (ví dụ như tôn giáo, lịch sử, và truyền thuyết)hh8hhiohijhijhiji.jpg

*Ngày của mẹ ở Anh

Ngày của mẹ ở Anh cũng trùng vào ngày Chủ Nhật, bởi vậy mọi người thường tới nhà thờ làm lễ, sau đó mới trở về nhà của mình. Các thành viên trong gia đình, dù ở xa cũng sẽ cố gắng họp mặt đông đủ trong ngôi nhà của cha mẹ. Họ thường tổ chức một buổi tiệc có thiệp mừng, bánh gato, hoa quả, rượu và tặng quà cho những người mẹ.hhjh9j9j9pjopjopjo.jpg

*Ngày của mẹ ở Mỹ

Ngày của mẹ được khởi xướng trở lại sau thế chiến thứ hai tại Mỹ, do bà Anna Marie Jarvis đấu tranh xác lập, tại phố Grafton, tiểu bang Tây Virginia, Hoa Kỳ. Bà Anna Marie Jarvis quyết tâm thực hiện di nguyện của người mẹ quá cố. Người mẹ của bà Anna khi còn sống là một nhân viên an sinh, luôn đấu tranh không ngừng để làm rạng danh các bà mẹ, tri ân công sức của họ trong đời sống và vì hòa bình. Sau khi người mẹ mất, cộng thêm thái độ thờ ơ lãnh đạm của người dân Hoa Kỳ với thân mẫu của mình, càng thôi thúc quyết tâm của bà. Sau nhiều năm đấu tranh quyết liệt, vào năm 1911, Ngày Của Mẹ được tổ chức ở hầu hết các tiểu bang ở Mỹ. Vào ngày 8/5/1914, tổng thống Mỹ đã ký quyết định ấn định ngày Chủ nhật thứ hai của tháng Năm hàng năm là Ngày của Mẹ. Dần dần trở thành, một trong những ngày lễ được yêu thích nhất. Tiệc tùng cũng linh đình nhất!hioh8h8ohhiohiohio.jpg

*Ngày của mẹ ở Ấn Độ

Người Ấn Độ gọi ngày của mẹ là Durga Puja, trong đó “Durga” là tên của một nữ thần bảo vệ cho người dân Ấn Độ, khỏi mọi nguy hiểm trong cuộc sống. Họ tổ chức Ngày của mẹ như một lễ hội lớn vào tháng Mười, trong vòng… mười ngày! Đồng thời, với những người mẹ thật sự trong cuộc sống, mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày, cũng sẽ được người con vào bếp trổ tài nấu ăn và tặng quà cho mẹ.pvfyyffgyggugugu.jpg

*Ngày của mẹ ở Tây Ban Nha

Ngày của Mẹ được tổ chức vào ngày Chủ Nhật đầu tiên của tháng năm ở Tây Ban Nha. Người lớn thường tặng mẹ sôcôla, thiệp chúc mừng hay một số món quà ý nghĩa khác. Còn trẻ em thì tự tay làm tặng mẹ những tấm thiệp, hoặc làm món quà đơn giản.i0-jjjipjpjopjkopjph8.jpg

*Ngày của mẹ ở Nhật Bản

Trong ngày của mẹ, trẻ em sẽ vẽ những bức tranh dành tặng cho mẹ của mình và tập hợp những bức ảnh đó thành một cuộc triển lãm nhỏ, với chủ đề tình cảm mẹ con và sự hi sinh thầm lặng của các bà mẹ Nhật.ik0jopjopjopjopjopjkop.jpg

*Ngày của mẹ ở Úc

Hoa cẩm chướng là loài hoa biểu trưng cho ngày của mẹ ở Úc. Bông hoa cẩm chướng vàng dùng để tặng người mẹ đang còn sống. Còn hoa cẩm chướng trắng được dành tặng một người mẹ đã quá cố. Vào ngày này, trẻ em thường dậy sớm, làm tặng mẹ đồ ăn sáng và mang đến bên giường ngủ, để mẹ thức dậy và thưởng thức.

 

jojjjpjopjojojj.jpg

Con Xin Hôn Mẹ!

(Thơ Trần Quốc Bảo)hiojhiojiopjojojkok[kp[.jpg

-Con quí trọng vết nhăn trên mặt Mẹ,

Lớp da chập chùng như sóng đại dương!

Ấp ủ muôn trùng, lòng Mẹ yêu thương,

Muôn trùng hi sinh! – Muôn trùng đau đớn!

Để con sinh ra, để con khôn lớn.

Để hôm nay, con hiện diện giữa đời.

Me dạy con sống trọn đạo với Trời!

Và yêu người, như chính mình ta vậy.

Con không bao giờ quên lời Mẹ dạy,

Yêu Quê hương, yêu Tổ Quốc, giống nòi.

Mẹ đã dạy con: Thất bại mỉm cười…

Vịn lời Mẹ mà đứng lên can đảm!

         Lời Mẹ dạy con: Thành công điềm đạm,       

Mở rộng vòng tay giúp đỡ tha nhân.

Mẹ đã về Trời, xa cõi trầm luân…

Con vẫn yêu Mẹ như xưa còn bé.

Vì trong tim con, đậm hình bóng Mẹ!

Kỷ niệm tràn đầy như sóng đại dương.

Lòng Mẹ dạt dào, biển cả yêu thương.

Con xin hôn lớp nhăn trên mặt Mẹ!




Tưởng Niệm Tháng Tư Đen – 50 Năm Ly Hương

**

**

ĐAU ĐỚN QUÁ: VIỆT NAM CỘNG HÒA THUA DO

SỰ PHẢN BỘI CỦA KISSINGER!!!

**

**

Trong niềm thao thức sau 50 năm xa xứ, Phan Lang đã viết bài thơ Tháng Tư Trong Tôi vào ngày đầu tháng Tư năm 2025. Từ những vần thơ mộc mạc ấy, nhạc sĩ Vĩnh Điện đã phổ thành một ca khúc mang âm hưởng hoài niệm thiết tha, được thể hiện thật sâu lắng và truyền cảm qua giọng hát của ca sĩ Tuấn Giang. 

**

**

THÁNG TƯ TRONG TÔI

Bốn bể trôi thân lạc
Tháng Tư đen u hoài
Quê hương thành mây khói
Một thời nét tranh phai

Gót lưu vong lạnh giá
Trời tự do chưa xanh
Mắt khô cùng năm tháng
Tim rướm máu không lành

Nghe quê nghèo nức nở
Ngục tù thay mái tranh
Tre già rơi tiếng nấc
Lúa non rụng đầu cành

Thuyền nhân trôi sóng dữ
Xác tan theo mộng lành
Chim bay không thấy tổ
Chỉ còn gió mong manh

Con lớn khôn đất lạ
Cháu quên tiếng mẹ hiền
Ta gom lời thầm lặng
Dệt giấc mộng đoàn viên

Năm mươi năm biệt xứ
Tóc pha sương mịt mù
Tim còn nghe thổn thức
Nhớ một thời hoang thu

Mái tranh xưa rêu phủ
Giếng làng còn đợi ai?
Khóm cau già lặng lẽ
Ngóng bóng người lạc loài 

Mơ một ngày đất mẹ
Tan khói lửa, yên lành
Ta trở về thăm lại
Lối nhỏ phủ cỏ xanh

Dẫu chân run, lưng mỏi
Dẫu trán hằn gió sương
Lòng vẫn mang quê cũ
Như thuở còn sân trường

Cầu quê hương thanh bình
Hận thù chóng đi qua
Cho cháu con ca hát
Giữa mảnh trời ông cha

1/4/2025

phamphanlang

Xin được gửi lời tri ân sâu sắc đến nhạc sĩ Vĩnh Điện và ca sĩ Tuấn Giang – những người đã thổi hồn vào bài thơ mộc mạc này bằng những giai điệu và giọng ca tuyệt vời, giúp nó thăng hoa và chạm tới trái tim người nghe.

Trong ngày Quốc Hận đánh dấu 50 năm mất nước, xin kính mời quý chị em ùng lắng nghe và thắp lên một niềm hy vọng – rằng sẽ có một ngày quê hương thanh bình, để những người con ly hương có thể quay về, dẫu chỉ để cúi đầu trước mảnh đất mẹ bằng đôi chân đã nhuốm bụi thời gian.

PL xin chân thành cảm ơn và kính chúc sức khỏe, bình an.

Thân kính,
Phạm Phan Lang

**

**

**

**

**

Mới nghĩ tới thôi, cái Trái Tim Tháng Tư nó bỗng nở to chi lạ, có lẽ bất cứ với ai bị đảo lộn sinh hoạt của tháng tư, bị nhào lộn thói quen bởi tháng tư, và bị mất mát, bị tước đoạt, thân bại danh liệt cũng qua danh nghĩa tháng tư bất hạnh, mà 42 năm nay, người dân miền Nam gọi là Tháng tư Đen.

Mình quên bẵng cái Tháng Tư Đen này, trái tim mình bị bất ổn như thế nào?

Ngay từ đầu tháng, đã phải tới văn phòng Bác sĩ Vĩnh Khiêm và bác sĩ Tuyết Mai khám định kỳ 3 tháng/ 1 lần trái Tim và cặp Mắt.

Vào một sáng thứ 7, ngó chỗ nào cũng thấy chiến sĩ VNCH lưu vong, phong cách cũ, nhưng nhân dáng đã đổi thay ít nhiều…

Quý vị huynh đệ chi binh nêu trên, có 2 bửu bối quý giá, thì hết cả 2 đang trong thời kỳ hư hao, lão hoá.

Bác sĩ Khiêm sẽ theo dõi nhịp tim cho quý vị, bên cạnh đó, Bác sĩ Mai coi thử ánh mắt quý vị còn linh hoạt, hay đã mờ mờ.

Lẽ thường quý vị niên trưởng đang ở niên tuế 80-90, hơn một chút, hay kém một chút, đơn thân tới khám bịnh hay kèm theo phu nhân, cũng một thời xuân sắc. Cũng không ngoại lệ, tôi đã quen thuộc nơi này từ cả chục năm nay.Trái tim tôi được cân đo là “lớn vừa”, nhưng nếu coi thường … “quả thịt đỏ” ấy, nó sẽ chín hơn và rụng xuống bất cứ lúc nào không hay.

Mặt khác, nó, trái tim, được đong đếm chính xác, là nó có thể đập mau hơn, nhẩy tưng lên bất loạn, trật nhịp, lỡ nhịp, hay sai nhịp một cách… khủng khiếp.

Nếu anh không níu nó lại, giữ cho thăng bằng, thì khó mà an toàn trong cuộc sống thường tình thôi, đừng nói sôi nổi, nhiệt thành làm gì cho uổng đời hoa gấm.

Anh dư biết điều đó, song cho là chẳng có gì quan trọng. Bởi điều gọi là quan trọng đã phá sản từ 42 năm nay, bây giờ tìm một dấu lửa binh trong quá khứ, như tìm con ốc vỡ dưới lớp cát thiên thu.

Sáng nay, anh khuyên mình là đừng chăm chú cái định kiến sợ hãi mình sai, vì chưa chắc những người phê phán mình đã đúng.

Mọi sự việc phải được hiểu thật rõ ràng, trong cuộc chiến ngày xưa, hay giữa cuộc tình hôm nay, đừng để trái tim phải “bức xúc” vì sao đó.

Tại sao không nói trái tim xúc động, mà “bức xúc” chớ.

Ôi, nếu chỉ làm công tác chiến tranh chính trị, thì với đám đông kia, quen nghe tiếng “bức xúc”, ta phải xài “bức xúc” để đi nhanh vào tập thể đó, còn nếu viết lách văn hoa, thì cuốn tự điển dày cộm của anh, rất có ích cho ta tìm kiếm.

Mà thôi, hãy để cho trái tim “yêu”, đừng “bức xúc” những chuyện không đáng, hay không cần thiết.

Ô, anh cũng đánh giá đúng công việc của trái tim à?

Mình tưởng chỉ có mình đắm chìm vào cõi mê si, khổ luỵ, bắt trái tim thổn thức khá nhiều, khiến nó, trái tim, đập tăng tốc, đập quá tải…khiến bây giờ mỗi 3 tháng phải đi tới phòng mạch Bác sĩ, khám lại một lần.

Anh sợ mình không hiểu ” thiện chí ” của anh, nên anh nêu ra một loạt từ ngữ mà bây giờ trong nước thích dùng, không phải chữ nghĩa chuẩn của cái gọi là giai cấp “công nông “thống trị, mà chính ở thực thể dân chúng tự phát ngôn ngữ xem như mới lạ với họ.

Nay muốn họ” theo ta”, ta phải chuyển hoá họ.

Quý vị truyền giáo ngày xưa, đi tới đâu phải hiểu tiếng nói nước đó, nên ta không lạ, là quý vị truyền giáo tới Ấn Độ thì học tiếng Ấn Độ, tới Trung Hoa thì học tiếng Trung Hoa vv… sơ đẳng nhất là ở nước ta ngày xưa, quý vị học chữ nôm, khai sáng chữ Quốc ngữ vv…, nhưng vẫn tìm hiểu tiếng Thượng, để truyền giáo thẳng cho đồng bào Thượng.

Tôi chạnh nhớ hồi chúng tôi học “Cán sự Xã hội”ở Trung Tâm Caritas của các soeurs dòng Nữ tử Bác Ái, chúng tôi được lên tĩnh tâm ở Trung Tâm Công giáo Tiến hành Đalat do Linh mục Nguyễn Văn Nhân , gốc Canada, chính danh ngài là Gerard Gagnon, tổ chức và điều hành.

Cha Gerard Gagnon bảo rằng: cha thấy người VN đa số họ Nguyễn, nên cha xin là người họ Nguyễn, phái Nam nên tên lót chữ Văn, còn chữ Nhân thì đúng với nhiệm vụ truyền đạo của cha, phải có lòng nhân từ, nhân ái, nhân đạo vv…

Cha Gerard Gagnon viết một quyển sách tiếng Việt ngợi ca tinh thần nhân ái, hiếu hoà của đa số người Việt, tác phẩm tên Hồn Việt, tác giả ghi Nguyễn Văn Nhân (Gerard Gagnon) .

Do đó, trở lại chuyện anh khuyên mình không nên đặt nặng vấn đề về những linh tinh, khi phải viết một bài văn có những ý kiến khác với điều… mình lỡ viết theo thói quen, giống với mọi người.

Hãy để trái tim “yêu” thôi, mệt quá rồi, nếu yêu đến phải vong mạng, thì phản lại chân lý sống của một thành viên trong hội yêu đời như tôi đấy.

Nên, tôi phải chăm sóc trái tim, nhất là mùa tháng tư đen, mà vô hình chung những ai bị tan hoang cuộc sống sau cuộc đổi đời bi thảm 30-4-1975, đều bị ôm một trái tim xúc cảm trầm kha, và ánh mắt tối mờ bởi cuộc sống tan hoang đó..,

CAO MỴ NHÂN

DẶM VỀ THÁNG TƯ .       CAO MỴ NHÂN 

Gởi em trọn vẹn nỗi lòng

Từ khi giã biệt phương đông, tới đoài

Từ khi tiếng quốc u hoài

Nghe trong thân phận lạc loài, xót xa

*

Năm châu thiên hạ bao la

Lòng thêm buồn tủi sơn hà hờn căm

Này đây gió thổi mê lầm

Lệ đang thả giọt âm thầm hoang liêu

*

Dặm về khói sớm , sương chiều 

Hồn nghe phiền muộn những điều trái ngang

Tháng tư phai sắc hoa vàng 

Đốt trầm lên, lạy dở đang mộ người 

*

Tháng tư hiu hắt bên trời

Níu chân bước lẻ trọn đời tiếc thương

Nén nhang thắp đã tàn hương

Biển dâu hay cả đại dương nghẹn ngào… 

       Utah  12 – 4 – 2025         CAO MỴ NHÂN 

===

XÉ LỊCH THÁNG TƯ  ( 1 ).     CAO MỴ NHÂN 

Này là ngày tháng cô đơn

Tháng tư cùng với nỗi buồn phục sinh

Xưa anh thắp lửa biên đình

Đốt tan hoang những u tình chiến tranh

*

Núi mùa xuân thắm rừng xanh

Mầu chinh yên vẫn nhuộm thành quách tươi

Mai vàng bát ngát nắng phơi

Ngắt bông ” bạch tuyết ” tuyệt vời tặng em

*

Bỗng bầy dã thú cuồng điên

Từ phương bắc đến bôi đen sử vàng

Tháng tư lịch rớt ngàn trang

Còn trong anh nỗi uất tràn phút giây

*

Bom rơi, đạn nổ đó đây

Tháng tư tử hận từ ngày ba mươi

Bốn mươi chín năm xa khơi

Ngó về cố tổ,  lệ rơi vạn trùng …

       CAO MỴ NHÂN 

11 – 4 -2025

===

XÉ LỊCH THÁNG TƯ  ( 2 ) .    CAO MỴ NHÂN

Xé bao nhiêu lịch tháng tư 

Vẫn không lấp được hận thù cộng nô

Bên tai đạn nổ, quân hô

Dân xô đẩy kiếm đường vô lánh thù

*

Chiến hào khói lửa mịt mù

Tiếng chuông báo tử, lao tù khắp nơi

Người đi sóng nổi trùng khơi

Người về phiền muộn tả tơi tháng ngày 

*

Sớm chiều ngó xuống đôi tay 

Thấy không kéo nổi trời mây tận tình

Quen nhìn trận địa đao binh

Còn nghe âm hưởng tiến trình hoang liêu

*

Hỡi ôi, thương nhớ  tan theo 

Nửa trăm năm đợi nhạc thiều quân ca

Bốn phương quang phục Quốc Gia

Từ nam ra bắc nước nhà Tự Do  …

    Utah  8 – 4 – 2025

      CAO MỴ NHÂN 

===

MẠC PHƯƠNG ĐÌNH: buổi văn nghệ Tưởng Niệm 50 năm Tháng Tư Đen của Công Đồng người Việt tại San José

https://www.youtube.com/watch?v=O5_SHYVv6YI

 ĐÔI LỜI TỪ TÁC GIẢ PHẠM PHAN LANG

Tháng Tư lại về, mang theo từng đợt sóng ký ức cuồn cuộn dội về. Năm nay đánh dấu 50 năm ngày đau thương lịch sử – ngày chúng ta mất nước, mất quê, mất cả một thời tuổi trẻ hoa mộng… để rồi lưu lạc bốn phương trời.

       Đã từ rất lâu, PL không còn làm thơ. Nhưng càng gần đến ngày Quốc Hận, lòng lại càng trĩu nặng, tim quặn đau khi nghĩ đến một quê hương vẫn còn chìm trong mù mịt, không ánh sáng của tự do. Trong nỗi buồn tái tê ấy, PL đã viết bài thơ “Tháng Tư Trong Tôi”, như một tiếng lòng hoài niệm và thương tiếc. 

        Xin kính mời quý vị cùng đọc, cùng cảm, và cùng thắp lên niềm hy vọng cho một ngày quê hương thanh bình để những người con xa xứ có thể tìm về, cho dẫu chỉ để cúi chào mảnh đất mẹ bằng đôi chân run rẩy.

        PL chân thành cảm ơn và kính chúc sức khỏe, an yên.

Kính quý,
PLang

THÁNG TƯ TRONG TÔI

Bốn bể trôi thân lạc
Tháng Tư đen u hoài
Quê hương thành mây khói
 Một thời nét tranh phai

Gót lưu vong lạnh giá
Trời tự do chưa xanh
Mắt khô cùng năm tháng
Tim rướm máu không lành

Nghe quê nghèo nức nở
Ngục tù thay mái tranh
Tre già rơi tiếng nấc
Lúa non rụng đầu cành

Thuyền nhân trôi sóng dữ
Xác tan theo mộng lành
Chim bay không thấy tổ
Chỉ còn gió mong manh

Con lớn khôn đất lạ
Cháu quên tiếng mẹ hiền
Ta gom lời thầm lặng
Dệt giấc mộng đoàn viên

Năm mươi năm biệt xứ
Tóc pha sương mịt mù
Tim còn nghe thổn thức
Nhớ một thời hoang thu

Mái tranh xưa rêu phủ
Giếng làng còn đợi ai?
Khóm cau già lặng lẽ
Ngong bóng người lạc loài 

Mơ một ngày đất mẹ
Tan khói lửa, yên lành
Ta trở về thăm lại
Lối nhỏ phủ cỏ xanh

Dẫu chân run, lưng mỏi
Dẫu trán hằn gió sương
Lòng vẫn mang quê cũ
Như thuở còn sân trường

Cầu quê hương thanh bình
Hận thù chóng đi qua
Cho cháu con ca hát
Giữa mảnh trời ông cha

phamphanlang

1/4/2025

Chuyển ngữ

April returns once more,  bringing with it wave after wave of surging memories. This year marks the 50th anniversary of a historic sorrow – the day we lost our homeland, our country, and the youthful dreams we once cherished… leaving us scattered across the world.

It has been a long time since I last wrote poetry. But as the National Day of Mourning draws near, my heart grows heavier, and a deep ache stirs within me when I think of a homeland still shrouded in darkness, devoid of the light of freedom. In that aching sorrow, I penned the poem “April Within Me” – a voice from the heart, filled with remembrance and mourning.

Please read, feel, and together let us kindle hope – lhope for a peaceful homeland,
where one day, we – its faraway children – may return,
if only to bow with trembling steps upon the sacred earth of our motherland

With heartfelt thanks and wishes for your health and peace,
Respectfully,
Pham Phan Lang

APRIL WITHIN ME

Across four seas, I drift, alone—
Dark April casts its mournful tone.
My homeland fades in smoke and haze,
A portrait lost in youthful days.

Exile’s path, so cold and bare,
Freedom’s sky still veiled with care.
Eyes gone dry through endless years,
A heart still bleeds its silent tears.

I hear the cries from poor, scorched lands,
Where prisons rise on thatched-roof strands.
Old bamboo sighs with breaking groan,
Young rice falls from its tender throne.

Boat people lost in storm-swept flight,
Dreams shattered in the endless night.
No nest awaits the wing-worn bird,
Just trembling winds and voices blurred.

Our children grow on foreign shores,
Grandkids forget our native lore.
We gather silent words once more,
To weave the dream we’re longing for.

Fifty years in exile’s hold,
Hair now streaked in misty gold.
Yet still the heart can feel the sting
Of autumns lost, of vanished springs.

That mossy thatch of long ago—
Who waits beside the village well?
Old areca trees in silence grow,
Still watching for lost souls to dwell.

I dream one day the war will cease,
Our motherland will rest in peace.
And we return, though frail we be,
To find that path beneath the green.

Though legs may shake, and backs be bowed,
Though time has carved its mark and shroud—
This heart still holds the schoolyard’s grace,
That homeland love no age can erase.

May peace at last embrace our land,
May hatred pass like drifting sand.
So children sing with voices free
Beneath the skies of ancestry.

phamphanlang

April 1st, 2025

Mời nghe nhạc

“Tháng Tư Trong Tôi” – bài thơ mang nỗi niềm về ký ức tháng Tư, đã được người bạn Ns Thái Phạm, cùng với sự hỗ trợ của AI, phổ nhạc thành ca khúc song ngữ Việt-Anh đầy cảm xúc. Mỗi giai điệu là một hồi ức, mỗi lời ca là một tiếng vọng của lịch sử và tình quê.

Xin mời nghe và cùng cảm nhận một Tháng Tư không bao giờ phai trong trái tim người Việt ly hương.

(April Within Me is a poem filled with deep and tender reflections on the memories of April. Now, beautifully set to music by my musician friend Thái Phạm, with the support of AI, it is presented as a bilingual Vietnamese-English song. Each melody is a memory; each lyric an echo of history and homeland. We invite you to listen and feel the enduring spirit of an April that forever lives in the hearts of Vietnamese living far from home.)

Vui lòng click vào hỉnh để đọc sách

Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài hơn hai thập niên, hàng triệu người đã ngã xuống, hàng triệu gia đình tan nát, và hàng ngàn đứa trẻ sinh ra trong cảnh loạn lạc, mang trong mình hai dòng máu nhưng lại không được xã hội chấp nhận. Những đứa trẻ lai Mỹ-Việt, kết quả của mối quan hệ giữa lính Mỹ và phụ nữ Việt, đã trở thành một trong những hậu quả đau thương nhất của chiến tranh. Họ lớn lên trong sự kỳ thị, nghèo đói, và bị xã hội ruồng bỏ, trở thành những kẻ lạc loài trong chính quê hương mình. “Những Đứa Trẻ Lạc Loài” là một tác phẩm xúc động và chân thực, kể về số phận của những đứa trẻ lai Mỹ-Việt sinh ra trong thời kỳ chiến tranh và lớn lên trong sự kỳ thị, nghèo khó, và bị xã hội ruồng bỏ. Cuốn sách không chỉ là câu chuyện cá nhân của Tâm An, nhân vật chính, mà còn là tiếng nói đại diện cho hàng ngàn đứa trẻ khác cùng cảnh ngộ.

War is not merely a confrontation between factions but also a tragedy for innocent people whose lives are caught in the whirlpool of violence. It is not just an armed conflict but also the lingering pain of those trapped between the crossfire. The Vietnam War lasted over two decades, with millions falling, countless families shattered, and thousands of children born into chaos, carrying two bloodlines yet not accepted by society. The Amerasian children, the result of relationships between American soldiers and Vietnamese women, became one of the most painful consequences of the war. They grew up in stigma, poverty, and abandonment by society, becoming outcasts in their homeland. “The Unwanted Children” is a poignant and authentic work that tells the fate of Amerasian children born during wartime and growing up in stigma, hardship, and neglect. The book is the personal story of Tam An, the main character, and a voice representing thousands of other children in similar circumstances.

CUỐI ĐƯỜNG MẸ ĐI

(Quê hương, những ngày di tản đầy máu
và nước mắt, trong tháng 4, 1975 –
QUỐC HẬN)

Mẹ già đi từ Cam Lộ
Nước mắt chảy mềm Gio Linh.
Gia tài không đầy đôi rổ,
Mẹ nhìn máu lửa Thần Kinh.

Đá đổ mồ hôi: Thạch Hãn
Chạy dài đến đỉnh Hải Vân.
Leo đèo, Mẹ như mê sảng,
Chân voi: sưng đôi bàn chân.

Mẹ đi giữa trời thiêu đốt
Thây con lớp lớp trải dài
Dọc theo con đường Số Một,
Nằm bên dăm củ sắn khoai.

Tam Kỳ chạy vô Quảng Ngãi
Bầy con đói khát bên đàng.
Biển người xô nhau, quằn quại,
Ngã dần… trong tiếng khóc than.

Mẹ vào Quy Nhơn, Phú Bổn,
Nhìn trời khói lửa Pleiku.
Đoạn đường mang tên Mười Bốn
Thành mồ hoang lạnh, thâm u.

Thây ai quàng manh chiếu rách,
Bàn tay nào vói trời cao?
Ngập vùng tang thương Darlac,
Chân đi, Mẹ khóc nghẹn ngào.

Máu chảy lan dần mạch đất
Nha Trang chết vạn đàn con.
Vào Nam, sức già lây lất
Về đâu? – Nẻo sống không còn !

Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá,
Mẹ lần đến mũi Quê Hương
Cà Mau nhìn ra biển cả

Tàn hơi, Mẹ chết bên đường !

Mẹ già đi từ Cam Lộ
Cuối đường, chết mũi Cà Mau.
Trọn đời sống trong đau khổ
Chết còn trông thấy khổ đau !…

Võ Đại Tôn (1975).

MẸ VIỆT NAM ƠI! CHÚNG CON VẪN CÒN ĐÂY

Thơ: Hoàng Phong Linh (Võ Đại Tôn)
Sáng tác năm 1972

Mẹ Việt Nam ơi! chúng con vẫn còn đây
Mẹ Việt Nam ơi! chúng con vẫn còn đây
Những đứa con bầu nhiệt huyết dâng đầy
Mang giòng họ của Lê Lý Nguyễn Trần
Mẹ mặc cho con vải thô áo mầu lam
Mẹ dưỡng nuôi con giòng sữa Bắc Trung Nam
Con của Mẹ đều một giống da vàng
Quyết một lòng diệt hết lũ tham tàn

Trên đầu voi rạng ngời vung ánh thép
Gái Triệu Trưng bồ liễu chống xâm lăng
Hé môi cười nghe tiếng sóng Bạch Đằng
Con Hưng Đạo như Rồng Tiên vùng vẫy
Vượt Trường Sơn, Nguyễn Huệ, Bắc Bình Vương
Quyết một lòng đi giữ vững quê hương
Và còn nữa con của Mẹ toàn danh tướng
Lòng Mẹ vui hãnh diện với đàn con

Nhưng Mẹ ơi giờ đây sao Mẹ khóc?
Hai vai gầy run rẩy nát tâm can
Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than
Áo nâu nghèo Mẹ rách để phơi than
Một đàn con rồi quên ơn Mẹ nuôi dưỡng
Súng đạn cày tan nát luống quê hương
Mẹ lòng đau thương xót cảnh lầm than
Xót xa nhiều phương Bắc chiếm phương Nam

Nhưng Mẹ ơi! Mẹ đừng than khóc nữa!
Vì chúng con tuổi trẻ vẫn còn đây
Chúng con nguyện cùng ra sức đắp xây
Quê hương mình trong TỰ DO ấm no

Xin Mẹ yêu Mẹ đừng than khóc nữa!
Vì chúng con mười bảy triệu vẫn còn đây
Chúng con nguyện cùng ra sức đắp xây
Chúng con nguyện đi dựng lại Quê hương
Mẹ Việt Nam ơi! chúng con vẫn còn đây
Mẹ Việt Nam ơi! chúng con vẫn còn đây…
Không phản bội giòng sữa thơm nuôi đưỡng
Chúng con nguyện đi dựng lại Quê hương

Mẹ Việt Nam ơi!
Mẹ Việt Nam ơi!
Mẹ Việt Nam ơi!

***

Hồn Ca trên Biển Đông

  • Kính dâng lên hương hồn hơn nửa triệu đồng bào đã tử
    nạn trên Biển Đông, mong vượt thoát chế độ cộng sản
    VN, mưu tìm Tự Do sau cơn Quốc Nạn 30 tháng Tư Đen
    1975.
    (Lưu niệm chuyến đi viếng thăm mộ bia Thuyền Nhân tại các
    đảo Galang và Pinang (Nam Dương) cùng phái đoàn Văn Khố
    Thuyền Nhân và các Bạn từ các quốc gia trên thế giới. CSVN
    đang yêu cầu chính quyền Nam Dương đóng cửa các khu di
    tích Thuyền Nhân trên các đảo. Ngày nào còn CSVN, ngay cả
    những người đã chết trên các đảo hoang vu, lìa xa Tổ Quốc,
    cũng không được yên nghỉ ngàn thu…)
    Viết tại đảo Pinang ngày 14.10.2009
    Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh)
    1.
    Hồn ai đó?
    Chập chờn trên khói sóng
    Dòng máu tươi theo nước chẳng hòa tan.
    Hồn ai đó?
    Vạn tinh cầu chao bóng
    Đảo ghềnh xa còn vọng tiếng kêu than.
    Hãy về đây – trên sóng nước dâng tràn
    Chung tiếng khóc nghẹn đau cùng Dân Tộc.
    Hồn ai đó?
    Đã lìa xa Tổ Quốc
    Vẫn còn ôm sông núi xuống mồ hoang.
    Tiếng oan khiên từ đáy vực còn vang

Hay chìm đắm giữa khơi ngàn sóng dữ?
Mảnh thuyền tan, bập bềnh trôi viễn xứ
Biết về đâu? Hồn phiêu bạt nơi đâu?
Thân cá Hồi tan tác đã chìm sâu
Không tìm thấy lối quay về chốn cũ!
Giữa trùng khơi vang tiếng cười dã thú
Hải tặc giằng co thân xác – kinh hoàng.
Tiếng Mẹ kêu, dòng máu chảy đầy khoang
Tay vời níu đàn con run khiếp sợ.
Biển lạnh chiều hoang, trần gian nín thở,
Vòng tai ương kiếp nạn đến vô cùng.
Hồn ai đó?
Bờ Tự Do bốn hướng, cõi mông lung
Tìm đâu thấy – giữa muôn trùng đen thẳm?
Tiếng kêu “Trời!” trước phút giây chìm đắm
Biến tan vào giông bão, thét trùng dương.
Vực mồ sâu thịt rã máu còn vương
San hô trắng hay là xương ai trắng?
Dòng tóc đen bám ghềnh xa hoang vắng
Thành rong rêu sẫm tím một màu tang.
Hồn ai đó?
Chiếc thuyền Không Gian
Trôi về Vô Tận.
Bánh xe Thời Gian chuyển ngàn uất hận
Chập chờn mấy cõi U Minh.
Lịch Sử nghìn thu trang giấy rợn mình
Ghi chép lại phút kinh hoàng vượt biển!

2.
Hồn ai đó?
Đảo hoang sơ, ai về đây khấn nguyện
Mộ bia tàn, ai thắp nén hương dâng?
Nơi Ba-Đình vui chuốc rượu Vô Thần
Cười nghiêng ngả mừng reo hò chiến thắng!
Đồng ruộng phơi bày xương trắng
Oan khiên máu lệ thành sông.
Bao thây vùi trong sóng nước biển Đông
Còn sót lại mấy hoang tàn di tích?
Hồn ai đó?
Đảo xa xôi mộ phần cô tịch
Giấc ngủ chẳng bình an.
Họ còn theo, cố phá đập tan
Để tô hồng chế độ:

  • “Chủ nghĩa huy hoàng, không ai chối bỏ
    Không có người vượt thoát để tồn sinh !!!” (*CSVN)
    Nhưng bia đời như nắng rọi bình minh
    Luôn soi rõ từng vết sâu tội ác
    Của loài dã tâm với ngôn từ khoác lác
    Đang tôn thờ chủ thuyết lai căng.
    Hồn ai đó?
    Từ bao cõi vĩnh hằng
    Xin về đây chứng kiến.
    Tấm lòng chúng tôi, trọn đời Tâm Nguyện
    Chí bền gan, xin vẹn Nghĩa Tình.
    Dù ngăn cách Tử Sinh
    Giữa hai bờ Nhật Nguyệt.
    Dù có ai phá tan mộ huyệt
    Đến nghìn sau hồn mãi còn đây.
    Nhìn trùng khơi sóng nước dâng đầy

Gửi mơ về cố quốc.
Hồn vẫn sống trong lòng Dân Tộc
Vì hai chữ Tự Do.
Chiều GALANG bão tố sóng to
Hay tĩnh lặng trăng rơi thềm đá.
Sáng PINANG nắng xuyên rừng lá
Hay đêm vờn tiếng hát nhân ngư.
Hồn mãi còn đây, dù bia mộ hoang vu
Không tên tuổi – sá gì tên với tuổi!
Dù xác thân đã hòa chung cát bụi
Biển Đông còn – HỒN MÃI SỐNG THIÊN THU!
VÕ ĐẠI TÔN (HOÀNG PHONG LINH)

Kính gửi quý vị, quý chiến hữu, thân hữu và các thế hệ hậu duệ VNCH tự do nhân bản, hải ngoại/quốc nội,

Người ta thường nói: “Thời gian là thần dược có thể chữa lành mọi vết thương”, nhưng theo tôi suy nghĩ theo kinh nghiệm sống lưu vong của kẻ mất quê hương cội nguồn thì ngày nào chưa giải trừ được chế độ cộng sản bạo tàn, quang phục quê hương tự do dân chủ, thì ngày đó vẫn còn ngập tràn máu đen trong tâm não. Nằm trên giường bệnh cuối đời, chờ phút cuối theo lẽ vô thường kiếp nhân sinh, tôi nhớ lại những bài thơ của tôi đã hân hạnh được nhiều nhạc sĩ nổi tiếng phổ nhạc và nhiều ca sĩ có lòng thương trình diễn.

Tôi xin chân thành cảm tạ.

VÕ ĐẠI TÔN

Xin gửi đến quý vị ba (3) bài thơ dưới đây được phổ nhạc.
Kính mong chia sẻ chung nỗi lòng vong quốc.

  1. Youtube/Video – Mẹ VN Ơi Chúng Con Vẫn Còn Đây.

Thơ võ đại tôn (hoàng phong linh) – 1972 – cố nhạc sĩ nguyễn ánh 9 phổ nhạc – ca đoàn văn nghệ la-san trình diễn.

2. Youtube/Video – Cuối Đường Mẹ Đi.

Thơ Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh) – Nhạc Sĩ Võ Tá Hân Phổ Nhạc.

  1. Youtube/Video – Hồn Ca Trên Biển Đông.
    Thơ Võ Đại Tôn (Hoàng Phong Linh) Nhạc Sĩ Yên Sơn Phổ Nhạc.

NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ –

BÀI VIẾT CỦA GIAO CHỈ – NHÂN DỊP KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY QUỐC HẬN

Chín lần cảm ơn


Giao Chỉ San Jose viết về lần tổ chức tại San Jose năm 2015. Đến năm 2017 dự trù sẽ trở lại San Jose nhưng không còn cô Hạnh Nhơn nữa. Cô ra đi 9 giờ tối hôm ấy. Xin đọc lại chuyện cũ để tưởng nhớ người xưa.

Hình ảnh Bà Hạnh Nhơn – ân nhân của thương phế binh VNCH

Kỳ đại hội văn nghệ Cám Ơn Anh, người thương phế binh VNCH tại San Jose đã ghi nhận có sự hiện diện của nhiều vị niên trưởng trong quân đội. Đô đốc Trần văn Chơn 95 tuổi vẫn không quản tuổi già bình tĩnh ngồi giữa trưa nắng với hàng ngàn khán giả. Một vị cao niên khác là trung tướng Hoàng Xuân Lãm 87 tuổi. Được tin ông qua đời nên bác đến tham dự cũng để bày tỏ ý nghĩa của lời ca nổi tiếng. “Anh không chết đâu em.” Đó là các vị cao niên trong hàng quan khách danh dự. Người đứng ra nhận trách nhiệm là đại tá không quân Nguyễn Hồng Tuyền. Năm ấy ông 85 tuổi. Mấy năm trước tưởng người đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây.Vị nữ lưu số một của cộng đồng bền bỉ 9 năm qua là trung tá nữ quân nhân không quân Hạnh Nhơn 87 tuổi. Chị là hội trưởng của tổ chức đứng mũi chịu sào tổng cộng 9 kỳ đại hội. Không có thành tích nào lớn hơn có thể so sánh với “9 lần gươm báu trao tay, thuyền quyên thay thế anh hùng một phen”. Tổng cộng kỳ nầy tổ chức lần thứ 3 tại San Jose thu được trên tám trăm ngàn. Trong đó có Canada góp 100 ngàn và riêng Texas đưa về 300 ngàn. Nếu tính chung tất cả các kỳ tổ chức thu được gián tiếp và trực tiếp con số đã lên đến trên 7 triệu mỹ kim. Trong khi đó hồ sơ thương phế binh ghi nhận hôm nay trên 14 ngàn.

Trung tá Hạnh Nhơn, nguyên trưởng đoàn nữ quân nhân không quân khi đứng ra nhận công tác hơn 10 năm qua, chị không biết đã bắt đầu trở thành con tằm.”Nàng” đã mang làm kiếp con tằm, dù cho đến thác vẫn còn vương tơ”. Câu chuyện năm xưa bắt đầu từ khi nhà văn Huy Phương dẫn cô Hạnh Nhơn lại gặp nghệ sĩ Nam Lộc. Xem ra chính Nam Lộc là người mở đường cho chương trình Cảm ơn anh từ đầu. Khi trận thứ nhất mở màn, Trúc Hồ vận dụng tối đa các nghệ sĩ của Asia nhập cuộc và tiếp theo sau này là phương tiện của truyền hình SBTN. Với khả năng truyền thông mở rộng toàn thể giới, tiếng ca của Asia chuyên chở hùng ca cùng nước mắt Việt Nam Cộng Hòa đã đem lại tiền bạc gửi về cho thương phê bình ở quê nhà.

Những yếu tố thành công

40 năm xưa, khi miền Nam thất thủ, Ngày 30 tháng tư một trăm ba mươi tư ngẩn người chạy thoát. Ngày 15 tháng 5-1975 chiến hạm của đệ thất hạm đội Hoa Kỳ rút khỏi biển Đông sau khi vớt hết dân ty nạn. Từ sau ngày đó, những con thuyền ra đi được coi là thuyền nhân đầu tiên. Những chuyến đi liên tiếp kéo dài từ 75 đến 95 với 1 triệu người vượt biển. Tiếp theo là ODP, HO, con lai chúng ta làm thành các cộng đồng tại hải ngoại. Ngày nay tổng cộng có 3 triệu dân tỵ nạn rải rác khắp năm châu. Nhưng chúng ta đã để lại 16 ngàn tử sĩ tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Đã để lại hơn 50 ngàn thương binh và trên 100 ngàn quả phụ. Ngay từ giữa thập niên 80 khi Việt Dzũng viết bài ca gửi chút quà về quê hương thì đã có nhiều người nghĩ đến thương binh chiến hữu còn ở lại Sài Gòn. Hai mươi năm sau, giữa thập niên 90 khi người Việt về thăm gia đình thì việc cứu giúp thương phế binh đã trở thành phong trào tại Âu châu, Úc châu, Canada và Mỹ châu. Qua đến thập niên đầu thế kỷ 21 thì lời cảm ơn anh mạnh mẽ cất lên bằng tiếng hát đã trải qua 9 mùa thu từ 2006 đến nay 2015.

Trong số các phong trào quần chúng hải ngoại 40 năm qua thì Cảm Ơn Anh đã trở thành truyền thống tốt đẹp và thành công nhất. Yếu tố căn bản là lòng người vẫn hoài niệm tinh thần Việt Nam Cộng Hòa và người lính Cộng Hòa. Đã gần nửa thế kỷ trải qua mà nam nhi vẫn còn muốn mặc bộ quân phục oai hùng và nữ nhi vẫn mãi mãi là người yêu của lính. Thêm vào đó, cuộc chiến ngày này không phải bằng vũ khí mà bằng phương cách đấu tranh chính trị thì nghệ sĩ, danh ca đã trở thành chiến sĩ và truyền thông Việt ngữ đã chuyển tải các thông điệp cảm ơn anh vô cùng hữu hiệu để nhận về tình nghĩa từ khắp bốn phương trời. Trong việc phối hợp tổ chức xem ra vẫn có nhiều khiếm khuyết, nhưng tinh thần hợp tác vì mục đích chúng đã thể hiện được sự thành công tốt đẹp sau cùng. Về phương diện quản trị và điều hành tài chánh lên đến hàng triệu mỹ kim, chắc hẳn cũng có nhiều điều cần cải tiến và công bố. Chúng tôi sẽ có dịp tìm hiểu và đóng góp ý kiến xây dựng sau này. Nhưng nói chung sự hưởng ứng của đồng bảo là điều quan trọng nhất. Xin chúc mừng đại hội thành công.

Các nghệ sĩ như Nam Lộc, Khánh Ly, Ý Lan, Kiều Chinh, Việt Dzũng và nhiều tài danh khác đã từng đến thăm viếng Viện bảo tàng Việt Nam tại San Jose. Buổi tối chủ nhật thêm anh chị Trúc Hồ là những người khách thăm viếng rất muộn. Sau một ngày dài đại hội, Trúc Hồ và Diệu Quyên đến vào lúc 7 giờ chiều. Kelley Park đã chính thức đóng của từ 5 pm nhưng Viet Museum cũng mở cửa đặc biệt dành cho người thanh niên vượt biên đường bộ hơn 30 năm trước. Trúc Hồ đến thăm Museum đồng thời cũng thăm lại người bạn văn nghệ Việt Dzũng với đầy đủ hình ảnh và đôi nạng sắt được lưu lại ở đây cả trăm năm sau. Sau khi thăm viếng suốt một giờ,

Trúc Hồ hỏi bác Lộc rằng cháu có thể làm được chuyện gì. Tôi nói rằng bác là quá khứ, cháu là hiện tại. Museum này là di sản quý giá từ quá khứ muốn giao cho hiện tại để chuyển cho tương lai. Hãy xử dụng phương tiện của Asia và SBTN để hải ngoại quan tâm đóng góp di sản và nuôi dưỡng lâu dài. Bản thông điệp từ quá khứ đã trao cho hiện tại vào buổi tối sau một ngày dài đại hội văn nghệ lần thứ 9 tại San Jose.

Đăng lại để tưởng niệm chị Hạnh Nhơn.

Giao Chi San Jose. giaochi12@gmail.com (408) 316 8393

                   TiểuThu

Đêm nay cơn ác mộng lại trở về. Thơ giật mình thức giấc, tâm trí hoang mang thảng thốt. Trái tim đập thình thịch trong lồng ngực. Bên cạnh nàng Tú vẫn ngủ say sưa. Sau biến cố mất nước năm 75, từ khi may mắn thoát khỏi Việt Nam vào phút cuối, lại được định cư ở xứ Canada, nhưng có lẽ bị chấn thương tâm lý khá nặng nên thỉnh thoảng Thơ lại gặp ác mộng trong giấc mơ. Thật sự kinh hoàng, vì lần nào Thơ cũng thấy mình về Sàigòn thăm gia đình và không cách nào tìm được phương tiện trở qua Canada. Nàng tự sỉ vả mình ngu ngốc, đang sống yên ổn với chồng con, khi không trở về Việt Nam làm gì để ra cớ sự! Có lần trong cơn mơ Thơ khóc sướt mướt, tỉnh dậy hai má còn ướt đẫm nước mắt.

Thơ kể cho vài người bạn nghe, không ngờ cũng có người gặp ác mộng y như nàng. Một người bạn thân kể rằng, trong mơ anh thấy mình đi vượt biên và bị bắt lại. Mà người bắt anh lại là tên thủ trưởng nơi anh làm việc. Anh nghĩ chắc chắc mình tiêu đời rồi. Khi giật mình tỉnh dậy, nhận ra mình đang ở Hoa Kỳ, anh thấy trong đời chưa bao giờ hạnh phúc đến thế!

Thấy đồng hồ chỉ 5 giờ, Thơ cố dỗ giấc ngủ lại, nhưng sao đầu óc vẫn tỉnh táo và tâm trí lan man nhớ về những ngày tháng xa xưa. Thủa còn ở Việt Nam và chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ bỏ quê cha đất tổ, đến một nơi xa lắc xa lơ, mùa đông lạnh thấu xương để sinh sống. Vì đâu và vì ai? Nếu không phải vì những người cùng giòng giống, cùng tổ tiên như nàng, nhưng lại đem cái chủ thuyết chết người của ngoại bang về áp đặt  một cách dã man lên đồng bào ruột thịt của mình?! Miền Nam của Thơ trước khi bị cưỡng chiếm xinh đẹp, hiền hòa biết bao. Lúa gạo đầy đồng, tôm cá đầy sông, đi lại tự do. Làm sao tả hết những cái hay, cái đẹp mà người dân miền Nam đã được hưởng cho đến ngày 30-04-1975!

Từ năm 1972 gia đình nhỏ của Tú và Thơ thuyên chuyển từ miền Cao Nguyên về tỉnh lỵ Sa Đéc. Thật tiện lợi vì quê nội Thơ ở Cao Lãnh và quê ngoại ở Vĩnh Long. Và qua Long Xuyên cũng cùng một quãng đường dài. Nàng nhớ những trái soài Hòn mập ú, ngọt như đường mà chỉ có ở Cao Lãnh. Qua Vĩnh Long thưởng thức món xôi chiên phồng ăn với gà rô ti nổi tiếng. Sầu riêng Cái Mơn không đâu ngon bằng. Vú sữa Lò Rèn cũng tuyệt diệu. Có khi theo bạn về quê Cái Bè ăn cam. Cam Cái Bè nổi tiếng ngon ngọt. Thích hơn nữa là đi thuyền qua mấy cái cù lao ăn chôm chôm, nhãn. Sa Đéc cũng là một địa danh nổi tiếng với nhiều loại trái cây và tôm cá, gà vịt. Loại  mận da người màu xanh cẩm thạch, ruột đặc không hột và rất ngọt. Vú sữa hột gà màu trắng ửng hồng ngon ngọt vô cùng. Đặc biệt vùng này có loại ốc gạo thịt béo ngậy, ăn một lần là mê tít luôn. Không thể quên loại cá thu nước ngọt, nhỏ hơn cá thu biển, mình óng ánh nhiều màu. Cá này kho với nước dừa tươi là tuyệt cú mèo. Nói đến vịt xiêm Sađéc thì ai cũng biết. Bình thường vịt được nuôi bằng lúa, tép riu đầy sông rạch nên rất mập, thịt mềm, thơm ngọt. Mỗi lần có bạn phương xa đến thăm thế nào họ cũng được Thơ đãi món thịt vịt trứ danh Sa Đéc. Khi cả nhà Thơ về Sài Gòn thăm gia đình Tú, ngoài trái cây đủ loại không bao giờ thiếu cặp vịt xiêm.

Lúc này Thơ đã có hai tí nhau, một trai hơn 3 tuổi và một gái chưa 2 tuổi. Tú đi làm và Thơ ở nhà trông con. Tưởng rằng giòng đời cứ êm đềm trôi như giòng Cửu Long hiền hòa. Chiến tranh khốc liệt ở đâu xa, chứ tại thị xã thì đời sống vẫn bình thường. Chợ búa vẫn họp đông đúc mỗi ngày. Nơi Tú làm cũng không thấy thay đổi gì cả. Chợt ngày 25 tháng 4, Tú nhận được điện thoại của bà chị trên Sàgòn bảo gia đình Tú phải lên SàiGòn gấp. Chị đã làm thông hành cho đại gia đình đi ngoại quốc. Thế là vợ chồng con cái chất nhau lên xe chạy một lèo lên Sàigòn. Té ra nhờ hai ông anh rể sĩ quan cấp Tá làm việc trong Tổng Tham Mưu nên họ biết người Mỹ đã rút khỏi Việt Nam và một số tướng lãnh cũng như công chức cao cấp đã tìm đường chạy ra ngoại quốc. Ôi chao, lên đây mới thấy cả Sàigòn hỗn loạn. Ngoài đường đông nghẹt người. Tất cả các tiệm vàng chen chân không lọt. Người mua vàng, kẻ đổi đô la. Thơ cũng chen lấn đổi được 80 đô la Mỹ.

Cả gia đình Thơ cũng được ông anh rể cho vào danh sách xin đi máy bay Mỹ. Cơ quan D.A.O bảo chờ họ sẽ tới rước. Chờ mãi đến hôm 28 Việt cộng pháo kích dữ dội vào phi trường Tân Sơn Nhất thì Thơ tuyệt vọng, ôm con khóc mùi mẫn. Sáng sớm 29, sau một đêm thức trắng, cả nhà lên xe chạy vào Cư xá Sĩ quan trong bộ Tổng Tham Mưu, nhà ông anh họ của Tú. Ông này thân cận với 1 ông Tướng vùng, ông Tướng hứa sẽ có máy bay đón. Hy vọng tràn trề, nhưng chờ gần tới trưa vẫn chẳng thấy gì, người nào mặt mày cũng buồn rầu ủ rũ, căng thẳng tột độ. May sao gần 12 giờ, một sĩ quan dưới quyền của ông anh rể báo tin có chiếc tàu Đại Hàn đang đậu ở Tân Cảng sắp nhổ neo. Mừng quýnh mọi người lên xe chạy ra Tân Cảng. Dọc đường rất hỗn loạn vì dân chúng đang hôi của trong mấy cơ sở Mỹ bỏ trống. Kẻ khuân, người vác chạy đầy đường. Thỉnh thoảng có những tràng súng nổ dòn dã và những người lính còn mặc quần áo trận, có người bị thương máu me tùm lum, tay cầm súng chạy dọc theo hai bên đường khiến Thơ kinh hãi ôm cứng hai đứa trẻ. Tụi nhỏ chắc cũng linh cảm thấy sự nguy hiểm nên im lặng không dám hó hé. Sau này nàng mới biết một nhóm lính Việt Nam Cộng Hòa lúc đó vẫn còn cố gắng đánh nhau với Bắc quân trên cầu Xa Cảng. Thương thay những người chiến sĩ miền Nam anh dũng, thà hy sinh đến giọt máu cuối cùng chứ quyết không đầu hàng quân địch!

Xe quẹo vào bến Tân Cảng. Trên bến tàu nhiều người Mỹ đang đứng chỉ huy cho đoàn người xếp hàng dọc lên tàu. Họ bắt tất cả quân nhân phải cởi quân phục và bỏ súng lại trước khi lên tàu. Tất cả mọi người phải xuống hầm tàu thông qua một cái miệng hầm nhỏ, vừa một người qua lọt. Đây là chiếc tàu của Đại Hàn do Mỹ thuê chở vũ khí sang Việt Nam. Giờ đây Mỹ thuê để chở người tị nạn rời khỏi đất nước. Hầm tàu dùng để chứa hàng hoá, chỉ có một chỗ lên xuống nhỏ xíu nên nóng hầm hập. Gia đình Thơ kể như là những người đến muộn nhất nên mười một người chia nhau một chỗ độ chừng một mét vuông ngay dưới miệng hầm. Nàng đưa mắt nhìn chung quanh thấy người là người, nằm ngồi ngổn ngang. Tháng tư trời nóng, trong hầm như cái hỏa lò nên người nào cũng dùng cái gì đó quạt phành phạch, trông toàn cảnh cứ như những cánh bướm đang bay chấp chới! Riêng hai nhóc tì của Thơ cũng phải cởi áo ở trần mới chịu nổi.

Độ nửa tiếng sau thì tàu tách bến chạy về hướng Vũng Tàu. Thú thật là đến giờ phút đó vợ  chồng nàng cũng không biết mình sẽ đi đâu? Thấy người ta chạy thì mình cũng chạy theo, miễn là thoát khỏi Việt Nam đang rơi vào tay Cộng quân. Gia đình Tú vốn người Bắc. Năm 54 ba mẹ anh đã bỏ hết của cải, cơ ngơi ở Hà Nội để chạy vào Miền Nam lánh nạn. Lần đó họ còn biết mình sẽ đi đâu. Nhưng lần này thì quả thật rất mơ hồ, chỉ biết nhảy lên tàu rồi sau đó phó mặc cho ông Trời!

Lúc tàu chạy ngang Rừng Sát, mặt mày người nào cũng nghiêm trọng, không dám thở mạnh. Chỉ sợ một quả đạn gì đó trong rừng bắn ra trúng tàu thì gần một ngàn sinh mạng sẽ đi chầu Hà bá! May quá không sao. Nhưng trọng trách của con tàu này là phải đón cho được một ông cố vấn gộc người Mỹ. Vì thế tàu cứ chạy dọc theo bờ biển từ Vũng Tàu cho tới Cà Mau suốt 3 ngày liền. Đến ngày thứ tư mới trực chỉ ra khơi từ Vũng Tàu. Lúc này mọi người đã biết tin Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng nên ai nấy đều buồn dàu dàu. Tàu ra khỏi Vũng Tàu thì gặp vô số thuyền con từ đất liền chạy ra. Họ vây quanh tàu nên thuyền trưởng bắt buộc phải vớt họ lên. Ôi thôi thì gồng gánh đủ thứ, cả TV, cả xe gắn máy. Tất nhiên thủy thủ Đại Hàn vứt hết mấy thứ này xuống biển để lấy chỗ cho người. Lúc rời Tân Cảng con số chưa tới một ngàn, giờ đây đã lên đến hơn ba ngàn người! Thì ra có vị linh mục dẫn cả làng Phước Tỉnh chạy ra khơi! Đến giờ thì vấn đề vệ sinh thật nan giải. Tất cả mọi người già trẻ bé lớn đều bị đau mắt. Mà làm gì có thuốc cho ngần ấy người? Đành chịu thua! Gia đình Thơ chạy vào phút chót, lại hy vọng đi máy bay nên không chuẩn bị đem theo lương khô, đành chấp nhận ăn những khẩu phần của lính tráng đi hành quân: gạo sấy và cá khô. Cũng có nhiều gia đình có quan hệ với thủy thủ Đại Hàn nên họ đã xuống tàu trước mấy hôm với đầy đủ lương thực, mì gói và bánh trái các loại. Nhưng lúc này hồn ai nấy giữ nên chẳng ai “dại gì” chia cho người không quen biết! Gạo sấy thì đổ nước lạnh cho nở ra, cá khô thì cứ vậy mà ăn. Tội nghiệp hai đứa nhỏ, Thơ phải năn nỉ chúng mới miễn cưỡng ăn chút ít nên suốt tuần lễ dưới tàu hai đứa gầy nhom.

Đến ngày thứ bảy thì tàu ghé Subic Bay Phi Luật Tân lấy thêm nhiên liệu để đi tiếp qua đảo Guam. Chỉ một số người được đặc biệt xuống tàu để sang đảo  Guam bằng máy bay. Nhờ hai anh rể sĩ quan cấp Tá nên gia đình nhỏ của Tú-Thơ cũng được hưởng ân huệ này. Số còn lại tiếp tục đi tàu sang Guam. Đặt chân xuống đảo, thấy cảnh trùng phùng của nhiều gia đình, vợ con đi trước bằng máy bay, chồng đi sau bằng tàu, may mắn gặp lại nhau thật vô cùng hạnh phúc. Mỗi gia đình được chia một căn lều, có ghế bố và mền để ngủ, ngoài ra trống trơn. Ngày 3 lần đi sắp hàng lảnh cơm do đầu bếp Mỹ nấu. Chỗ của Thơ thì trường kỳ mỗi người được 1 vá cơm trắng và 1 vá trứng gà bột chiên. Có chai xì dầu hay hủ muối nào nhà bếp bỏ ra cũng bị chôm mất nên mọi người ăn cơm lạt nhách cũng đành chịu. Những người có tiền thì vào căng tin mua thức ăn. Thơ chỉ có 80$ nên…không dám, vì “biết ra sao ngày sau??? Thấy những người lính Mỹ phục vụ dân tị nạn Việt Nam mà thương.

Thơ không nhớ có bao nhiêu người tới đảo, chỉ nhớ là đông lắm. Lều trại nhìn mút mắt. Chỉ khổ ngày thật nóng và đêm thật lạnh.  Suốt ngày đi sắp hàng lấy cơm (Mỗi bếp có 3 hàng. Mỗi hàng dài hàng trăm mét) nên ai cũng đen thui như Chà Và! Đến nỗi có người quen gần nhà, gặp Tú còn hỏi “phải anh Tú không?”May mà lúc gia đình Thơ đến đảo thì phái đoàn Canada cũng vừa đến mở văn phòng. Tú-Thơ vội vàng đến xin đi Canada. Ban đầu họ chỉ nhận dân professionel, nhưng sau đó Mỹ phản đối gay gắt nên họ nhận luôn mọi ngành nghề. Nhiều bác sĩ, kỹ sư, giáo sư phải khai gian là thợ sơn, thợ máy mới được nhận. Hai tuần sau thì đại gia đình Tú lên máy bay trực chỉ Québéc. Lúc quá cảnh Hawai có người bịnh nặng nên cả gia đình phải xuống để đưa người bệnh vào nhà thương. Rồi sau đó nghe nói họ lập nghiệp luôn ở đây. Cũng may mắn vì khí hậu Hawai quá tuyệt vời.

Dân tị nạn đến Montréal vào tháng năm nên khí hậu đã ôn hòa, dễ chịu. Người dân nơi đây thật hiền hòa, hiếu khách, tuy nhiên họ không biết tí gì về Việt Nam. Vì chỉ nhìn chiến tranh VN qua truyền thông, chỉ thấy cảnh quê nghèo, đồi núi chập chùng, rừng rậm âm u nên trong trí họ VN là một xứ nghèo nàn lạc hậu. Chẳng vậy mà có 1 conseiller người bản xứ đã khuyên các bác sĩ VN nên đi học nghề y tá để kiếm sống. Họ  không biết rằng trường Đại học Nha Y Dược Việt Nam là một chi nhánh trực thuộc trường Nha Y Dược của Pháp và sinh viên học bằng tiếng Pháp. Rồi chỉ vài năm sau họ ngạc nhiên xiết bao khi hầu hết các bác sĩ, dược sĩ đã trở lại hành nghề và trong trường trẻ em Việt Nam học hành  đều xuất sắc. Hơn thế nữa các em rất lễ độ với thầy cô nên được quý mến vô cùng. Tóm lại, thuở đó dân Việt Nam sống ở Montréal được người bản xứ hết sức  kính trọng.

Thơ nhớ lại những tháng ngày vất vả trong cuộc sống mới nơi xứ người. Những ngày đi làm trong bão tuyết lạnh căm, gió thổi muốn bay vì người mình vốn nhỏ bé. Nhưng gian nan nào rồi cũng qua. Cái giá tự do trả thế cũng còn quá nhẹ. Cuộc sống êm đềm vì cả Tú lẫn Thơ đều không nhìn lên, không ganh tị hay so sánh  với ai. Thơ vẫn tâm niệm rằng mỗi một con người đều có số mệnh riêng. Và mình biết đủ là đủ. Con cái lớn dần, đã ra riêng để sống cuộc sống của chúng. May mắn sức khỏe hai vợ chồng nàng khá tốt. Thơ luôn cám ơn Trời Phật đã cho gia đình nàng thoát khỏi chế độ bạo tàn và đưa đẩy đến xứ sở Canada, một xứ sở giàu mạnh lại đầy lòng nhân ái, vị tha. Một trong những nơi đáng sống nhất thế giới. Vợ chồng nàng không mong gì hơn. Thỉnh thoảng cơn ác mộng vẫn hiện ra, nhưng hình như càng ngày càng cách xa nhau. Thơ hy vọng trong tương lai “Nó” sẽ không đến quấy rầy nàng nữa. Thơ chỉ cầu mong được sống một cuộc đời bình lặng, thanh thản bên Tú và các con. Mong lắm thay!

TiểuThu

Mùa Đông 2024

NGUYỄN XUÂN GIÁO1

      1Cựu Trưởng Ty Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia, Tỉnh Thừa-Thiên.

Tôi ở “An-Điềm” mới chuyển qua,

Anh từ “Tiên-Lãnh” cũng đưa ra.

Một trăm bốn chục tù nguy-hiểm

Nhốt kín rừng sâu “Đồng-Mộ” xa.

Ai bảo!  Bên ngoài: dân không “an”!

Bên trong: can-phạm cũng không “ngoan”!

Những tên đầu-sỏ: cần cô-lập,

Dập tắt trong đầu… mọi tính-toan!

Chúng bắt đi làm, mệt xỉu xâm;

Ngày hai lạng sắn (quý hơn sâm!)

Trích trong tiêu-chuần không lao-động:

Mấy chục ăn vào, trăm mấy thâm!2

      2Mấy chục người đi “lao-động” được cấp thêm mỗi người mỗi ngày 200 gr sắn, xén bớt từ khẩu-phần cầm-hơi của hơn một trăm người không đi “lao-động”.

Những lúc đi chung một chặng đường,

Thấy anh tôi qúa ngậm-ngùi thương:

Tôi còn bước được theo đồng-đội,

Anh lết chân sên  một bộ xương!

Âu-dược gia-đình tiếp-tế cho:

Trại không có thuốc  nhập vào kho!

Cầu nhiều, cung ít, tù nhiều bệnh,

Đến lúc anh cần: hết sạch vo!

Bảy chín qua đi trong tối-tăm,

Tám mươi dời trại xuống “Thôn Năm”.

Rồi anh ngã bệnh, ngày càng yếu,

Đi+đứng xiên xiêu, phải dựa+nằm.

Xin chúng cho anh được viết thư:

Thư mang hy-vọng hoá huyền-hư.

Chúng cho viết hết, nhưng… không gửi!

(Điều đó, anh+tôi đã biết dư!)

Trí lụn, thân suy, óc muộn phiền;

Cháo ngày hai sét, đói liên-miên!

Thuốc-men chẳng có, không săn-sóc!

(Nếu chết thì lôi ra trước hiên!)

Đến lúc anh như đã hụt hơi,

Nửa mình lạnh cứng, tay buông xuôi,

Chúng cho võng chở về “Tiên-Lãnh”;

Chúng bảo: anh đi bệnh-viện rồi!

Đồng-bạn mừng cho anh gặp may:

(Không như Xuân, Xáng3 chết trong này)

Nào: “tiêu-chuẩn” thuốc!  nào: “y-tá”!

Nếu được cho về nữa, lại hay!

      3 Trung-tá Trần Như Xuân chết tại “Đồng-Mộ”; trung-tá Trần Phước Xáng chết tại “Nhà Trắng” trong trại “Thôn 5” (Trại “Tiên-Lãnh 2”); đều thuộc Quận Tiên-Phước, Tỉnh Quảng-Nam.

                       *

Tám mốt, tôi từ “Kho Đạn” lên

Mới hay anh Giáo đã… quy-tiên!

(Chúng đem về nhốt trong phòng tối

Được độ vài hôm… thì là… yên!)

Ấy đấy!  Công ơn chúng hải-hà:

Đã không giết chết, không đòn tra,

Còn cho “học-tập”, cho lao-động,

Để “tốt” mà mau trở lại nhà!

Biên-bản về anh chắc chúng ghi:

(Cũng như Xuân, Xáng: sướng ai bì!)

Thuốc-men! ăn+uống! và chăm-sóc!

Bác-sĩ  đồng-tù  ký… chứng-tri!

Còn nhớ hôm nào: anh với tôi

Cùng bàn thế-sự, máu cùng sôi;

Ta dùng tiếng Pháp trên đầu địch,

Thù giặc, căm-hờn lũ… tớ-tôi!

Anh đã là tù thuở ngáo-Ngô;

Tôi: tù phong+thực lẫn mê-nô.

Bây giờ ta lại tù man-Cộng:

Anh hết, tôi còn… tới lúc mô?

Nhưng, hễ trên cao còn Trời Xanh,

Thì còn lưong-hảo thắng gian-manh!

Tôi nguyền đóng góp cho Đời đẹp,

Cho thoả lòng Người, thoả dạ anh!

                  Tiên-Lãnh 1, 02/03/1981

                         THANH-THANH

CÁC BÀI VIẾT TỪ TRANG THÂN HỮU LONG HỒ VĨNH LONG:


Long Hồ Vĩnh Long: 50 Năm Bụi Mờ – Sáng Tác: Lê Tín Hương – Ca Sĩ: Anh Dũng
Long Hồ Vĩnh Long: Người Tôi Yêu-Tô Đình ĐàiLong Hồ Vĩnh Long: 50 Năm -Cao Vị KhanhLong Hồ Vĩnh Long: Hổ Tướng Đất Việt-Kim PhượngLong Hồ Vĩnh Long: Tháng Tư Nhớ Sài Gòn-Trần Bang ThạchLong Hồ Vĩnh Long: Kỷ Niệm Không Mờ Phai -Tiểu ThuLong Hồ Vĩnh Long: Saigon Xưa Không Còn – Nhạc & Lời Phạm Anh Dũng & Nguyên Bích – Ca Sĩ: Kim OanhLong Hồ Vĩnh Long: Ðêm Ba Mươi- Nguyễn Phan Ngọc AnLong Hồ Vĩnh Long: 50 Năm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa-NguyễnThịThanh DươngLong Hồ Vĩnh Long: Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi – Sáng Tác: Phạm Duy – Tiếng Hát: Mã Thị LợiLong Hồ Vĩnh Long: Nắng Hạn Tháng -Lê Mỹ HoànLong Hồ Vĩnh Long: Chiến Sĩ Bất Tử -Lê Huy TrứưLong Hồ Vĩnh Long: Tiệc Lính-Minh ThúyLong Hồ Vĩnh Long: Tháng Tư Về, Em Có Nghe? – Kim LoanLong Hồ Vĩnh Long: Bài Thơ Năm Mươi Năm – Nguyễn Vĩnh LongmLong Hồ Vĩnh Long: Ngày Tháng Tư-Kim PhượngLong Hồ Vĩnh Long: 50 Năm Vẫn Hoài…Kim Oanh

*********************************************

KHG Dương Nguyệt Ánh – Hình do cô Ánh gửi cho HLC 2025

Đã 50 năm qua kể từ ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản (CS). 50 năm là một thời gian đủ dài để cho những người Việt tha hương xây dựng lại mái nhà và một đời sống sung túc mới bên ngoài quê hương.  Nhưng 50 năm vẫn chưa đủ dài và có lẽ sẽ không bao giờ đủ dài để chúng ta quên đi cái tang chung và quên được Việt Nam (VN), hay nói rõ hơn là quên được Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Những ngày tháng đầu đặt chân đến Hoa Kỳ (HK) tị nạn, tôi vô cùng ngỡ ngàng khi thấy truyền thông, báo chí, sách vở, phim ảnh và học đường HK mô tả chiến tranh VN khác hẳn với những gì chính tôi và gia đình tôi đã sống qua. Vì thiên tả và phản chiến, họ đã thiếu lương thiện hoặc mù quáng đến nỗi bóp méo sự thật và nhục mạ không chỉ quân đội VNCH mà cả binh sĩ HK của họ. Vì thế quần chúng HK nói riêng và thế giới nói chung có một hiểu biết rất sai lệch về chính nghĩa của miền Nam. Bao nhiêu năm sau khi miền Nam sụp đổ, tôi vẫn mang trong lòng một cái hận. Cái hận nước mất nhà tan chưa đủ, tôi còn mang thêm nỗi uất hận và cảm giác đau đớn bất lực khi thấy chiến sĩ của mình tiếp tục bị hàm oan và sỉ nhục.  Những người quân nhân HK thì bị vơ đũa cả nắm là những tên sát nhân phụ nữ và trẻ thơ.  Những chiến sĩ VNCH vào sinh ra tử trong đó có anh ruột tôi thì bị vu khống là hèn nhát.  Cả quân đội VNCH bị bỏ rơi và cuối cùng bị ra lệnh đầu hàng vào 30 tháng 4 mà tại sao bị đổ tội làm cho mất nước.

Hôm nay, tôi vẫn còn mang trong lòng sự tức giận này nhưng tôi không còn cảm thấy bất lực nữa.  Trong khi tôi từ một người tị nạn buồn tủi năm xưa trở thành một công dân HK với đầy tự tin hôm nay thì tôi cũng đã học hỏi và nhận ra được nhiều điều.  Tôi nhận ra rằng chính chúng ta phải tự giúp mình, chính chúng ta phải lên tiếng phản bác lại bọn truyền thông thiên tả, phải tự giải oan và không trông chờ vào ai khác.  Ở những quốc gia tự do dân chủ như HK, ai cũng có thể lên tiếng tranh đấu hay bênh vực cho bất cứ một điều gì.  Ngày nay với những sách báo điện tử và những trang mạng xã hội, truyền thông dòng chính không còn giữ độc quyền hướng dẫn dư luận nữa, và tiếng nói của thiểu số như chúng ta sẽ không sợ bị át giọng, miễn là ta có đủ quyết tâm.

Là thế hệ tị nạn đầu tiên chúng ta đã tạm lo xong chuyện cơm áo, đã thành công rực rỡ trên quê hương mới ở nhiều phương diện, và đã dựng lên những cộng đồng Việt trù phú ở khắp nơi. Bây giờ là lúc chúng ta đủ phương tiện và kinh nghiệm để dồn nỗ lực vào việc trả lại sự thật cho lịch sử.  Chính chúng ta phải phục hồi danh dự cho chiến sĩ của mình và chính chúng ta phải giáo dục quần chúng về chiến tranh VN và chính nghĩa của quân dân VNCH, nhất là cho thế hệ con cháu của chúng ta.  Với tình trạng thiên tả ở các học đường HK, từ sách vở tài liệu giảng huấn cho đến khuynh hướng chính trị của giáo sư, chính con cháu chúng ta cũng sẽ hiểu biết sai lệch nếu cha mẹ không giải thích.

Hậu quả là con cháu chúng ta không những sẽ không biết hãnh diện mà có thể còn mặc cảm về nguồn gốc VNCH của họ, cho rằng cha ông chỉ là những kẻ thua trận cay cú nên mới chống chính quyền VNCS. Từ đó họ không tha thiết đến việc tìm biết thêm về cái gốc của mình, không tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt quốc gia (CDNVQG), và thờ ơ với những vấn đề liên quan đến sự trường tồn của dân tộc VN.  Còn nếu họ có lòng và vẫn quan tâm đến VN thì chính vì họ xa lạ với CDNVQG, họ sẽ dễ nhiễm tuyên truyền và dễ ngả về phía CSVN.

Một trong những chiêu bài bọn tay sai CS ở hải ngoại dùng nhiều nhất là kêu gọi hòa hợp hòa giải và hợp tác với chính quyền VN. Đã gọi là hợp tác tức là phải có một mục đích chung.  Mục đích của chúng ta là bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia của VN, là tạo tự do, cơm no áo ấm cho người dân VN.  Mục đích của họ chỉ là củng cố quyền lực cho đảng và giai cấp tư bản đỏ, bằng mọi giá và bất chấp mọi hậu quả cho dân tộc và tổ quốc VN, như đã được chứng minh bằng những hành động dâng đất dâng biển cho Trung Cộng và ăn cắp tài nguyên quốc gia làm của riêng.  Mục đích của họ và của ta không những không thể dung hòa mà còn đối kỵ nhau nên người Việt quốc gia hải ngoại không thể hợp tác hay hòa hợp hòa giải gì với nhà cầm quyền VN được. 

30 tháng 4 không thể chỉ là một ngày tang buồn với những hồi tưởng và nước mắt.  Khi nhớ đến những cái chết bi hùng của chiến sĩ VNCH và những tai ương đã đổ lên đầu quân dân miền Nam, chúng ta cần có những bước tới tích cực hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa, để trả lại sự thật cho lịch sử, để giáo dục tuổi trẻ VN và dư luận thế giới về chiến tranh VN và phục hồi danh dự cho quân dân VNCH. 

Tôi xin nhân dịp này bầy tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với những ai đã từng tranh đấu và hy sinh cho chính nghĩa tự do của miền Nam VN, những chiến sĩ đã bỏ mình, và những thưong phế binh đang sống tủi cực ở quê nhà.  Nhờ chiến sĩ mà hôm nay tôi được sống tự do và bình an, được có cơ hội để theo đuổi những hoài bão riêng và mưu tìm hạnh phúc cho riêng mình.  Tôi mãi mãi không quên ơn chiến sĩ.

Dương Nguyệt Ánh

April 2025

===============================

==============================

CHUẨN-TƯỚNG HUỲNH THỚI TÂY

Lê Xuân Nhuận

MỘt hôm, vào đầu tháng 3 năm 1975, tôi được Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia/Ngành Đặc-Biệt gọi vào mà không cho tôi biết trước lý-do hay mục-đích gì.

Cũng được xe-hơi dân-sự đón từ phi-trường, nhưng đến văn-phòng của Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương thì viên thiếu-tá bí-thư mời tôi qua gặp Trung-Tá Phạm Văn Ca, Giám-Đốc E2 (Nha Phản-Tình-Báo/Nội-Chính), theo lệnh của Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.  

Tôi đã từng cùng Trung-Tá Ca đi tu-nghiệp về “Chống Khuynh-Đảo” tại Úc-Đại-Lợi vào năm 1970 nên quen thân nhau.

Ca bảo tôi:

‒ Ông Tướng muốn biết trong thời-gian qua anh có làm gì sai trái hay không.  Anh hãy ngồi đây, viết bản tự-thuật, kể hết những gì mà anh thấy là khuyết-điểm, xong rồi hãy qua gặp ông.

*

Tôi ngồi ôn lại mấy việc lớn/nhỏ mà tôi nghĩ là có thể đã làm Tướng Tây bất-bình về tôi…

Trung-Tá Nguyễn Mâu

Trong một buổi họp các cấp Trưởng E (Giám-Đốc Nha tại Trung-Ương và Nha tại các Vùng), Đại-Tá Huỳnh Thới Tây hỏi về “Biệt-Đội Thiên Nga” cùng các cơ-cấu không thấy có ghi trong Sắc-Lệnh tổ-chức của Ngành.   

Tôi trình-bày về “Chiến-Dịch Đại Phong” và “Ký-Giả Tự Do”.

Chiến-Dịch Đại Phong” là tên gọi của một phương-thức hoạt-động, theo đó thì nhân-viên Đặc-Cảnh sử-dụng người chỉ-điểm, là cán-bộ/bộ-đội/cơ-sở Việt-Cộng bị bắt mà tự-nguyện hợp-tác với ta, bằng cách ngụy-trang và tạo ngụy-tích cho đương-nhân không bị công-chúng, nhất là đối-phương, nhận ra.  

Ký-Giả Tự Do” là một/vài viên-chức Đặc-Cảnh hoặc cảm-tình-viên của Ngành, có năng-khiếu viết báo, làm phóng-sự, được giao nhiệm-vụ bí-mật trà-trộn vào giới ký-giả hiện đang ào-ạt săn tin giật gân, trong đó có nhiều phần-tử phản-chiến, thân-Cộng và cả là cộng-sản trá-hình.  Ngành Đặc-Biệt can-thiệp với Bộ Thông-Tin, cấp “Thẻ Ký-Giả” cho họ, để phòng có ai thắc-mắc thì đưa ra cho họ xem.  “Tự Do” nghĩa là gửi bài đăng trên bất-cứ báo nào, không hẳn là cộng-tác-viên nhất-định của một báo nào.

Tôi đã thật-tình và vô-tình nói rằng đó là những sáng-kiến của Trung-Tá Nguyễn Mâu.

Đại-Tá Tây ném mạnh cây bút xuống bàn, dằn giọng:

‒ Tôi là Huỳnh Thới Tây; làm việc với tôi thì hãy chỉ biết có tôi; tôi không cần biết Nguyễn Mâu là ai.

Việc Thăng-Thưởng Nhân-Viên

Một lần khác, cũng họp tham-mưu như trên, bàn về vai trò của “Cán-Bộ Điều-Khiển” (Case Officer: Điệp-Trưởng) trong các công-tác xâm-nhập (nguời của ta, do ta xây-dựng rồi cài vào hàng-ngũ địch) và nội-tuyến (người của địch, được ta móc-nối, sử-dụng làm tay-trong cho ta).

Đại-Tá Huỳnh Thới Tây ngỏ ý muốn nâng-đỡ giới này.  

Tôi lấy tư-cách là người thực-sự đi sát và hiểu-biết nội-tình tại chỗ, trình-bày:

‒ Trước đây, Người Bạn Đồng-Minh đã nghĩ đến việc cấp một ngân-khoản phụ-trội hàng tháng cho tất cả viên-chức Ngành Đặc-Biệt, nhưng bên Cảnh-Sát Sắc-Phục phản-đối, nên việc không thành.  Theo tôi, đáng khuyến-khích nhất là Cán-Bộ Điều-Khiển, như đại-tá vừa nêu ra.  Nhưng đa-số Cán-Bộ Điều-Khiển thì là hạ-sĩ-quan.

“Nếu dùng sĩ-quan thì không những dễ-dàng hơn trong việc tiếp-xúc và nhờ-vã sự giúp-đỡ của người khác, mà còn có nhiều uy-tín và được tin-tưởng hơn đối với chính mật-viên của mình.  Nhưng sĩ-quan Cảnh-Sát Đặc-Biệt thì đa-số đều mong được giữ chức-vụ chỉ-huy, mà khi đã là cấp chỉ-huy rồi thì họ lại mong được qua Sắc-Phục, hay nói đúng hơn là họ mong được hưởng những lợi-lộc như bên Sắc-Phục.  Thí-dụ, ngay cả khi đã được cấp một chiếc xe Jeep rồi, mà xe lại có màu sơn và mang bảng số của xe thường-dân, thì họ vẫn thấy thua-kém xe Jeep sơn 2 màu lục+trắng của Cảnh-Sát (Sắc-Phục), vì bên Sắc-Phục vẫn được dân-chúng nể-sợ và dành cho nhiều ưu-tiên hơn.

“Còn muốn tưởng-thưởng các hạ-sĩ-quan CBĐK hữu-công thì cách xứng-đáng nhất là thăng cấp cho họ; nhưng họ vẫn nằm ở dưới các Trưởng G  (Phòng), Trưởng H (Ban), nên họ còn lâu mới được thăng lên sĩ-quan.”

Đại-Tá Tây dằn mạnh cây bút xuống bàn, thốt lên một tiếng chửi thề, bỏ ra khỏi phòng.

Mọi người lặng im, lo sợ giùm tôi.  Trung-Tá Nguyễn Văn Thuận, Trưởng D3 (Phụ-Tá Chuyên-Môn của Trưởng Ngành ĐB Trung-Ương) đưa tay ra dấu cho tôi chú ý đến anh.  Trước kia, anh cũng đi Úc cùng chuyến với Ca và tôi.

Thuận nói:

– Mọi sự thưởng/phạtthăng ai, giáng aiđều nằm trong tay của ông.  Nếu anh xin ông ban ơn đặc-cách thăng cấp cho các phần-tử hữu-công, thì ông sẽ mát lòng hơn.

Hệ-Thống Liên-Lạc Cảnh-Sát Hình-Sự

Trong vụ phi-cơ “Air Vietnam” bị nổ lựu-đạn tại Phi-Trường Phú Bài, Huế, khi tôi biết được thủ-phạm là Nguyễn Cửu Viết, tôi liền gửi điện cho Bộ Chỉ-Huy CSQG Quận liên-hệ tại Sài-Gòn, là nơi cư-ngụ của một người bạn của thủ-phạm (mà theo tin-tức tôi nhớ từ hồi còn ở Vùng II thì Viết đã nhờ chính người bạn này tìm-kiếm cho y một quả lựu-đạn) yêu-cầu trong đó chấp-cung “người-bạn” ấy.

Đại-Tá Tây cho rằng tôi đã vượt quyền, không trình lên ông là cấp trên, để ông ra lệnh cho các cấp dưới hữu-trách ở địa-phương khác thi-hành.

Theo tôi thì đây là thủ-tục hình-sự; tôi, với tư-cách Hình-Cảnh-Lại (danh-xưng mới, trước kia là Tư-Pháp Cảnh-Lại), Phụ-Tá Biện-Lý (Công-Tố-Viên) của Tòa Án Sơ-Thẩm, tại Đà-Nẵng (tôi cũng là Phụ-Tá Chưởng-Lý của Tòa Án Thượng-Thẩm Vùng I, tại Huế), tôi có thể phát lệnh truy-nã, trực-tiếp nhờ sự tiếp tay của các Hình-Cảnh-Lại khác (Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Khu, Tỉnh, Thị, Quận, v.v…) trên khắp nước, trong những vụ án cần được khẩn-cấp tầm+tra.

Huống chi CSQG của Việt-Nam Cộng-Hòa đã là Hội-Viên của Cảnh-Sát Quốc-Tế (InterPol).  

[Hoa-Kỳ đã giúp Việt-Nam Cộng-Hòa tuyển-dụng viên-chức có bằng đại-học luật-khoa, nghiên-cứu về luật quốc-tế, hướng-dẫn tham-gia tổ-chức Cảnh-Sát Quốc-Tế [InterPol], thành-lập chi-nhánh Việt-Nam của Cảnh-Sát Quốc-Tế, đặt trụ-sở tại Tổng-Nha (nay là Bộ Tư-Lệnh) Cảnh-Sát Quốc-Gia.]

Trong một số trường-hợp khẩn-cấp các Hình-Cảnh-Lại còn có thể liên-lạc phối-hợp hoạt-động với nhau, không những vượt quản-hạt hành-chánh trong một nước, mà còn có thể vượt cả biên-giới quốc-gia.

Cấp-Hiệu CSQG cho Thám-Sát Đặc-Biệt

Vì đã huy-động Thám-Sát Đặc-Biệt* đi hoạt-động chung với Cảnh-Sát Dã-ChiếnCảnh-Sát Sắc-Phục, và cả Nghĩa-QuânĐịa-Phương-Quân, nên tôi đề-nghị với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, và đã được ông chấp-thuận, cho một số cấp chỉ-huy của Thám-Sát Đặc-Biệt tại Vùng I được mang cấp-hiệu CSQG, để có uy-tín đối với các đơn-vị bạn mỗi khi đi phối-hợp hành-quân.

Họ mặc sắc-phục Cảnh-Sát Dã-Chiến, đội mũ-nồi bằng nỉ màu lục của Thám-Sát Tỉnh (PRU= Provincial Reconnaissance Unit) cũ, nhưng cấp chỉ-huy không mang dấu-hiệu gì để các cơ-quan đơn-vị bạn nhận biết rõ-ràng.

Nay thì tại Vùng I họ được mang thêm cấp-hiệu CSQG:  Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đội Thám-Sát Đặc-Biệt Khu I mang cấp-hiệu thiếu-tá.  Chỉ-Huy-Phó của đơn-vị này mang cấp-hiệu đại-úy.  Các Chỉ-Huy-Trưởng của Đội Thám-Sát Đặc-Biệt thuộc các Tỉnh/Thị trong Vùng I cũng mang cấp-hiệu đại-úy.

Đại-Tá Huỳnh Thới Tây cho rằng tôi đã lạm quyền, vì Quyết-Định của Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc là do đề-nghị của tôi.

Riêng về việc này thì tôi tự nhận là đã xúi ẩu để Đại-Tá Lộc chấp-thuận, vì nếu chờ-đợi Trung-Ương thì chắc khó có kết-quả, bởi lẽ Thám-Sát Đặc-Biệt chưa có quy-chế thực-thụ CSQGkhông có cấp-bậc, chỉ có chức-vụ và còn hưởng lương theo mức cố-định từ thời còn ở dưới quyền của CIA.  Vả lại, việc mang cấp-hiệu này chỉ có giá-trị đối với 2 viên-chức tại cấp Vùng, và một viên-chức tại mỗi Tỉnh/Thị, và chỉ trong khi tham-gia hành-quân phối-hợp mà thôi.  

[Hồi tôi còn làm Trưởng Ngành Cảnh-Sát Đặc-Biệt Vùng II, tôi đã trình xin và được Tư-Lệnh Quân-Đoàn II/Vùng II Chiến-Thuật chấp-thuận cho một trung-sĩ Cảnh-Sát Đặc-Biệt ở Tỉnh Bình-Thuận được mang cấp-bậc đại-úy QLVNCH để vào làm việc trong Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-bên.  Nay làm Giám-Đốc Đặc-Cảnh Vùng I, tôi cũng đã xin và đã được Tư-Lệnh Quân-Đoàn I/Quân-Khu I chấp-thuận cho vài trung-sĩ Cảnh-Sát Đặc-Biệt của tôi ở Đà-Nẵng được mang cấp-bậc đại-úy QLVNCH để vào làm việc tại Ban Liên-Hợp Quân-Sự 2-bên.]

Một Khẩu K-59 Tước Được của VC

Trong một cuộc hành-quân, Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam có tịch-thu được của Việt-Cộng một khẩu súng lục mới lạ, Địa-Phương chưa thấy lần nào.

Thiếu-Tá Chánh-Sở Lâm Minh Sơn báo-cáo lên tôi, tôi báo-cáo lên Bộ Tư-Lệnh/Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương.

(Lệnh trên ban xuống từ trước là trong trường-hợp tương-tự thì hãy chụp ảnh, mô-tả đặc-điểm hình dáng khẩu súng để xem nó thuộc loại nào.)  

Sau đó, tôi nhận được lệnh nạp trình chiến-lợi-phẩm ấy lên Trung-Ương.

Gặp lúc có một cuộc họp tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, tôi được mời vào tham-gia.

Sau phần thuyết-trình tổng-quát của tôi, Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây hỏi tôi về khẩu súng trên.

Tôi có mang theo bản sao của tờ báo-cáo kèm theo hình-ảnh mô-tả của khẩu súng lụcgửi rồi nhưng chắc chưa đến tay ôngnên tôi lấy ra đưa cho ông xem.  Tướng Tây đọc báo-cáo và nhìn hình-ảnh, xong hỏi khẩu súng đâu rồi, hãy trao cho ông.

Tôi đâu có khẩu súng ấy mà trao.

Số là Đặc-Cảnh ở Tỉnh đồng-thời cũng có báo-cáo kết-quả hành-quân lên Tỉnh, nên viên Tỉnh-Trưởng sở-tại đòi xem khẩu súng ra sao.  Thấy khẩu súng quý, vì mới bắt được lần đầu, viên đại-tá Tỉnh-Trưởng bèn giữ lại, nói là mượn xem ít hôm.  Liền đó, gặp dịp Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu ra thăm Quảng-Nam, viên Tỉnh-Trưởng sở-tại đưa khẩu súng ấy ra khoe; và thấy Tổng-Thống tỏ ý thích nó nên viên Tỉnh-Trưởng tặng luôn.

Thường thì chúng tôi báo-cáo tóm-tắt sự-việc ngắn gọn ra ở phần trước, còn các chi-tiết phụ-thuộc thì ghi ra ở phần sau, với các tài-liệu liên-hệ kèm theo.

Do đó, tôi đáp (như có ghi ở phần sau báo-cáo):

– Trình thiếu-tướng, Tổng-Thống đã lấy khẩu súng ấy rồi.

Nhưng Chuẩn-Tướng Tây chưa đọc phần sau của bản báo-cáo, không hỏi chi-tiết làm cách thế nào mà khẩu súng ấy lại đến thấu tay Tổng-Thống; ông nghĩ là tôi đã “qua-mặt” ông, tự ý vượt cấp tâng công trực-tiếp với vị Nguyên-Thủ Quốc-Gia.

Ông tức, gằn giọng:

– À, anh đã muốn “kiếm điểm” trực-tiếp với Tổng-Thống thì từ nay trở đi có gì anh cứ lên thẳng Tổng-Thống, đừng cần thằng này nữa nghe!

Vài Ngoại-Lệ

Tôi nghĩ cũng cần báo-cáo cả những việc-làm ra ngoài nguyên-tắc, phần thì để tỏ là mình thành-thật, phần thì để phòng Cấp Trên đã biết cả rồi (?).

1. Đời công:  Tôi đã tự-ý thành-lập một “Phòng Tình-Hình” (không có trong sơ-đồ tổ-chức chính-thức của Ngành), để nhân-viên thay phiên nhau cùng làm việc 24 giờ/7 ngày với tôi, bắt cả nhân-viên trực máy tại các Tỉnh/Thị cũng cùng ở trong tình-trạng sẵn-sàng làm việc bất-cứ lúc nào liên-tục suốt ngày+đêm như tôi.

2. Đời tư:  Có lần một viên Thanh-Tra Trung-Ương ngỏ ý muốn xem sinh-hoạt ban đêm tại Đà-Nẵng.  Trong thời-gian đó, Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng cấm các sĩ-quan quân-nhân không được đến khiêu-vũ tại các vũ-trường, nên các Tỉnh/Thị-Trưởng cấm chung mọi người, mặc dù các chủ tiệm-nhảy đã được chính-quyền cấp cho giấy phép hành-nghề.  Tôi đã đưa viên Thanh-Tra ấy vào một phòng trà+ca+vũ+nhạc; gặp lúc không có nhân-viên Cảnh-Sát Sắc-Phục, các cô vũ-nữ đã ào ra sàn, ông cũng ôm eo một cô lả-lướt như ai.

*

Tôi nhờ đả-tự-viên tại văn-phòng E2 đánh máy, xong ký tên, đưa bản Tự Thuật ấy cho Trung-Tá Phạm Văn Ca.  Anh mang ngay vào trình cho Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.        

Lát sau, Ca trở lại, nói rằng Ông Tướng đang bận, bảo tôi tiếp-tục tường-trình các hoạt-động tại các Tỉnh/Thị thuộc Miền Trung.

*

Công-việc của tôi không phải chỉ là gửi+nhận công-văn & công-điện và đi thanh-tra, bình-thường như một số cấp chỉ-huy trung-gian khác, nhất là cấp Vùng.

Tôi đã tích-cực thực-hiện công-tác an-ninh & phản-gián của chính cấp Vùng.  Có như thế mới xứng-đáng với sự hiện-diện và hiện-hữu của một cơ-quan cấp Vùng.

Đồng-thời tôi cũng hòa-nhập hoạt-động với các địa-phương, góp phần cụ-thể cùng họ vượt khó, tiến nhanh.

Tôi chỉ ghi lại một số sự-việc thí-dụ mà thôi.  Tính từ Quảng-Trị vào đến Quảng-Ngãi.  [Đã viết trong cuốn hồi-ký “Cảnh-Sát-Hóa” (trang 137-240) nên không nhắc lại ở đây.]

        Tôi đưa bản thảo nhờ đả-tự-viên đánh máy giùm, xong nghĩ là mình cũng nên ghi ra những gì mà các thuộc-viên có thể hiểu lầm, dẫn đến bất-mãn, xuyên-tạc gì chăng.

Đại-Úy Cao Viết Song của Tỉnh Quảng-Tín

Không hiểu vì sao mà Đại-Úy (sau này là Thiếu-Tá) Lâm Minh Sơn, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam, và Đại-Úy Cao Viết Song, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Tín, được Bộ Tư-Lệnh CSQG thuyên-chuyển vào Sài-Gòn; xong rồi Sơn được trở lại với trách-vụ cũ, còn Song thì không.

Nhân dịp vào Bộ Tư-Lệnh, tôi hẹn với Song hãy đến gặp tôi, để tôi dẫn vào trình-diện và xin với Đại-Tá Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, cho anh trở lại nhiệm-sở cũ.

Nhưng Song trễ hẹn.

Tôi chỉ có thể nhân lúc báo-cáo thành-quả công-tác mà xin cho Song.

Tôi vào gặp Đại-Tá Tâynhư một diễn-viên xuất-hiện trên sân-khấu vào một lúc nào đó nhất-định trong một vở tuồngchứ đã ra khỏi phòng-giấy của ông rồi, đã đóng xong vai tuồng của tôi rồi, thì diễn-viên-tôi không thể tự-dưng vào lại sân-khấu.  Tôi không thể nào trở lại, vào gặp bất-thường mà xin cho Song, bởi lẽ Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương bận rất nhiều việccó lần tôi thấy buổi chiều ông vẫn ở lại làm việc cho đến tối đêmvả muốn vào gặp thì phải trình xin phép trướcmà tôi thì không phải là một người thân-cận của ông.  Thế thôi.

Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên của E Khu I

Vì Đại-Úy X, Chánh Sở Nghiên+Kế tại E6 (Ngành Đặc-Biệt Khu I) của tôi, được Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, cử đi làm CHT/CSQG một Quận trong Vùng, tôi chọn một trong các đại-úy giảng-viên tại F4 (Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo Căn-Bản Khu I), là các sĩ-quan chưa giữ chức-vụ chỉ-huy, lên thay.

Tôi không quen biết ai, mà chỉ xét qua hồ-sơ cũng như nhận-xét của cấp chỉ-huy trực-tiếp là Trưởng F4, thấy họ đều tốt như nhau, nên tôi chọn Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên.  Tuyên là người có nét chữ viết tay khá đẹp, viết nhanh như tốc-ký (phòng khi tôi cần đọc gấp cho anh viết một văn-bản gì), và là tín-đồ Đạo Ki-Tô (để chứng-tỏ là mình không kỳ-thị aiNgay chính một viên vệ-sĩ và hai viên tài-xế của tôi, tôi cũng chọn người theo Đạo Kitô).

Nhân dịp cuối năm, có đợt thăng-thưởng chung cho mọi người, tôi đề-nghị cho anh lên thiếu-tá.

Tôi đích-thân thảo một Phiếu Trình đặc-biệt, bảo Tuyên cho đánh máy ngay, ghi số, đóng dấu, rồi trao tận tay cho tôi ký, để sáng hôm sau tôi mang vào Sài-Gòn, định sẽ nhân lúc tường-trình công-việc với Đại-Tá Huỳnh Thới Tây thì trao cho ông mà xin cho Tuyên.

Rồi tôi lo làm hồ-sơ thuyết-trình đến khuya, sáng lại là lên phi-cơ, vào gặp Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương.

Khi tôi đã làm xong việc tại Bộ Tư-Lệnh/Ngành Đặc-Biệt, nhân-viên biệt-phái tiếp-phát văn-thư tại Sài-Gòn mới tìm đến nơi tôi tạm-trú ở Sài-Gòn mà trao Phiếu Trình nói trên.

Cũng như trường-hợp của Cao Viết Song, tôi không thể nào vào lại, xin riêng cho Nguyễn Văn Tuyên.  Hồ-sơ (bình-thường) đề-nghị thăng cấp cho anh, nằm chung danh-sách với các ứng-viên khác, đã không qua lọt hội-đồng tuyển-lựa bình-thường tại Nha Viên-Chức/Tiếp-Trợ, vì không có kèm Phiếu Trình đặc-biệt của tôiđáng lẽ, nếu có, thì có bút-phê chấp-thuận đặc-biệt của Trưởng Ngành rồi.

Một Đại-Úy Muốn Có Chức-Vụ Chỉ-Huy

Có một đại-úy, tôi không nhớ tên, trong số các giảng-viên tại F4, có vợ là người quen thân với vợ của Đại-Tá Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, đã nhờ bà này xin cho chồng mình được giữ chức-vụ chỉ-huy.

Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc ngỏ ý với tôi.

Tôi hứa là sẽ thu-xếp giùm.

Nhưng đối với Ngành Đặc-Cảnh thì việc đề-cử trách-vụ có phần khó-khăn hơn bên Sắc-Phục.

Ở Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, hồi đó, có sự thi-đua hoàn-tất bổ-nhiệm, ổn-định chức-vụ, giữa các Khối, Nha, Sở, Phòng; từ Trung-Ương xuống các địa-phương.

Trưởng Ngành Đặc-Biệt tại Bộ Tư-Lệnh không muốn bị chê là mình làm chậm, hoặc không chính-xácnếu cứ thường-xuyên thay-đổi phương-vị người này, kẻ kia, nếu không có gì khẩn-thiếttức là xáo-trộn hệ-thống quản-trị, thống-kê, kế-toánvì mỗi chức-vụ (có hưởng phụ-cấp) đều cần được hợp-thức-hóa bằng một Nghị-Định của Bộ/Trung-Ương.

Rất tiếc là mãi rất lâu tôi vẫn chưa thể đề-cử anh được vào một vị-trí chỉ-huy nào, vì chưa có chỗ nào khuyếtđiều này hẳn là không làm vừa lòng bà vợ, và ngay cả cấp chỉ-huy trực-tiếp hàng ngang của tôi tại Vùng này…

*

Vì mọi người rất sợ Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, không dám trình ông nhiều hơn những gì ông đã chỉ-thị, nên Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây cũng theo cách đó, ít ai dám hỏi nhiều hơn những gì ông đã nói ra.  

Tôi nhớ có lần Đại-Tá Tây ra lệnh cho Cảnh-Sát Đặc-Biệt toàn-quốc báo-cáo về vấn-đề “giành lấn đất-đai”.  Các nơi đua nhau thu-thập tài-liệu về chuyện chủ đất tranh-tụng nhau về bất-động-sản, công-thổ, tư-điền.  Tôi hỏi Nha Tình-Báo (E1) là nơi phát ra lệnh ấy, thì trung-tá Giám-Đốc Nha ấy cũng chỉ nhắc lại lệnh của Cấp Trên như thế mà thôi.  

Riêng tôi tự nghĩ chủ-quyền đất-đai là một hộ-sự, không thuộc Cảnh-Sát Quốc-Giacoi về hình-sựhuống gì Ngành Đặc-Biệt là cơ-quan chính-sự.  Chắc-chắn là việc Việt-Cộng nhân dịp ngưng bắn theo Hiệp-Định Paris mà lấn chiếm lãnh-thổ ở vùng xôi-đậu, nên đã bảo riêng các Tỉnh/Thị tại Vùng I tường-trình thêm về vụ này.  Quả-nhiên, trong buổi họp tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương mà Đại-Tá Tây cho mời cả các Phụ-Tá Đặc-Biệt cấp Tỉnh/Thị tại Khu I vào dự, tất cả các Chánh Sở Đặc-Cảnh liên-hệ đều thuyết-trình giống như tài-liệu cấp Vùng của tôi; lúc đó mới biết là đúng nhu-cầu của ông.

Do đó, tôi không biếtvì hẳn Trung-Tá Phạm Văn Ca cũng không hỏi nên không biếtthực-sự Chuẩn-Tướng Tây muốn tôi trình-bày những gì.

*

Cuối cùng tôi được mời vào gặp Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.

Ông cười hỏi tôi:

– Anh ngạc-nhiên lắm hả?  

Tôi chưa biết phải nói gì thì Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương đã nói ngay:

– Chính tôi mới là người ngạc-nhiên, về anh.

“Ở Vùng I:  Chánh Sở An-Ninh Quân-Đội đề-cao anh; Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đoàn & Quân-Khu khen-ngợi anh; Trung-Tướng Tư-Lệnh Ngô Quang Trưởng ban-thưởng Anh-Dũng Bội-Tinh cho anh 3 lần, 2 với ngôi sao bạc, 1 với ngôi sao vàng.  Cộng chung, tại Vùng I, cũng như tại Vùng II, ngoại-trừ các sĩ-quan quân-đội biệt-phái qua, thì anh là sĩ-quan Cảnh-Sát có nhiều huy-chương nhất, cả các loại của các quân-chủng bên quân-sự lẫn các loại của các Bộ bên dân-chính, và các loại huy-chương của Cảnh-Sát Quốc-Gia.

“Ở Trung-Ương:  tôi hỏi các phụ-tá của tôi, Giám-Đốc các Nha, thì không ai chê-trách gì anh, mà họ còn tỏ ra quý-mến anh.

“Tôi đã phái Trung-Tá Phạm Trọng Tú, Thanh-Tra-Trưởng, ra tận nơi dò xét về anh, nhưng không tìm thấy điều gì sai trái, chỉ toàn ưu-điểm mà thôi…”

Ông cười, khiến tôitừ chỗ thoạt đầu lo-ngại, tiếp đến ngạc-nhiên, rồi là vui-mừngcũng cười theo ông.

Rồi ông đứng dậy, khiến tôi cũng đứng dậy theo.

Ông kết-luận:

– Tôi chỉ trực-tiếp trắc-nghiệm, để anh tự mình nói ra, rằng mình đã có làm gì bậy-bạ hay không.  Mà không thì là tốt rồi.  Thiếu-Tướng Tư-Lệnh cũng có đường dây kiểm-soát riêng, và cũng nhận thấy là anh có tài, có công, có tư-cách, đáng được tưởng-thưởng.  Thiếu-Tướng đã ra lệnh thăng cấp cho anh vào “Ngày Cảnh-Lực” 1-6-1975* này.  Bộ Tư-Lệnh đã dự-trù sẽ bổ-nhiệm anh vào một chức-vụ nào đó, quan-trọng và xứng-đáng hơn cương-vị hiện-thời.

“Thôi, chúc mừng anh. Tiếp-tục cố gắng.

“Và vui-vẻ ghé Nha-Trang thăm gia-đình nha!”

*Ngày ấy chưa đến thì Việt-Nam Cộng-Hòa đã tiêu-vong.

LÊ XUÂN NHUẬN  

Ghi chú:

   Cựu Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Biệt toàn-quốc (mà tôi gọi làTư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương), sau ngày mất nước, đau nỗi đau chung, đã lặng-lẽ ẩn mình trong bóng tối, không xuất-hiện nơi công-cộng, không tuyên-bố, phát-biểu điều gì. 

        Ông mất tại Westminster, CA, USA, ngày 12-9-2010, hưởng-thọ 78 tuổi.

=====

Lê Xuân Nhuận

TÔI đã phát-biểu với Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, có cả Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương, cùng nghe, rằng nếu tôi còn đảm-trách an-ninh & phản-gián Vùng I ngày nào thì ngày đó tôi còn ngăn-chận được mọi cuộc biến-loạn, cho Vùng ấy, và, do đó, cho cả Miền Nam*.

Tôi nói như thế liền sau khi tôi đề-nghị bổ-nhiệm hai sĩ-quan tín-đồ Kitô-Giáo làm Tỉnh/Thị-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị, là hai chức-vụ quan-trọng nhất trong chính-quyền tại Tỉnh Thừa-Thiên và Thị-Xã Huế. Như thế nghĩa là sau khi thay-đổi hai quan-chức ấy, mà nếu tình-hình ngoài đó vẫn còn bất-an, thì chính tôi mới là người có thể dẹp yên các mưu-đồ quấy rối nội-chính tại Huế và Thừa-Thiên.

Đề-nghị của tôi đã được Trung-Ương chuẩn-y ngay.

Thế rồi, mới dự lễ giao+nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị giữa Thiếu-Tá Liên Thành và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh ở Huế xong, tôi đã phải ra ngoài đó lại để chủ-toạ lễ giao+nhận chức-vụ Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh/Thị: Trương Công Đảm thay-thế Trương Công Ân.

*

Nhớ hôm Trung-Tá Hoàng Thế Khanh nhậm-chức, ngay sau buổi lễ tôi đã đi vào một số văn-phòng thuộc Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực cũng như thuộc Sở Đặc-Cảnh Tỉnh/Thị sở-tại, để quan-sát và nghe-ngóng tình-hình chung. Ngoại-trừ số đông lâu nay vốn có thiện-cảm với tôi, có một số ít viên-chức sắc-phục cũng như dân-phục mà qua ánh mắt của họ nhìn nhau trước, trong và sau khi họ nói chuyện với tôi, tôi cảm thấy rõ-ràng rằng, dù Ngành Công-Lực ở cố-đô có do cá-nhân hay phe-nhóm nào đứng đầu đi nữa, thì bây giờ, đối với thiểu-số ấy, tôi vẫn chỉ là một người khách lạ, một người dưng, đáng nghi, đáng phòng.

Trước kia, Liên Thành tưởng tôi ăn-ý với Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, là Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, vốn có khuynh-hướng Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng, để chống phe-phái Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng mà trong đó anh cùng Trương Công Ân là đảng-viên cấp cao.

Giờ đây, cánh ấy lại tưởng tôi thoả-hiệp với lớp mới là những phần-tử cực-đoan của dư-Đảng Cần-Lao để chống phá Phật-Giáo.

Trong lúc đó, chính Hoàng Thế Khanh cũng lo đề-phòng tôi, vì tôi nguyên là nhân-vật đầu tiên công-khai đơn-độc chống chế-độ độc-tài nhà Ngô, bị mật-vụ triều Ngô gán cho là thành-viên quá-khích của Đảng Đại-Việt để phát-vãng tôi ra khỏi Miền Trung vào năm 1960…

Tôi thì xưa nay vẫn là một người độc-lập. Tôi coi nhẹ các cấp lãnh-đạo nhất-thời; tôi chỉ chú-trọng quảng-đại quần-chúng miên-viễn ngoài đời và đa-số công-chức & quân-nhân trung-chính trong Chính-Quyền mà thôi.

Tôi tách mình riêng ra khỏi các bộ-phận đón-tiếp và tháp-tùng, để tiện tiếp-xúc với một số cá-nhân bộc-trực, trong số này có Đại-Uý Trần Vĩnh Thuận tức “Thuận Xù”*. (*Xem “Ông Đồn Lợi”). Anh có một bộ tóc bù-xù nên bạn-bè đặt cho anh cái tên như trên.

Thuận là một trong số các bạn thân của tôi ngày xưa, nhất là giai-đoạn liền trước biến-cố 1960, là năm chúng tôi xa nhau. Bây giờ anh là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Quận ngoại-ô trong Tỉnh Thừa-Thiên. 

Được tôi kéo ra để chuyện-trò riêng với nhau, câu nói đầu tiên của anh là trách-móc tôi:

– Tôi tưởng anh đã quên hết dĩ-vãng và bạn-bè!

Tôi chưa kịp nói gì thì Thuận đã nói tiếp, như để tăng phần khuấy-động tình-cảm trong lòng tôi:

– Anh Đặng Hữu Lợi đã chết, anh Trần Văn Cư đã mất, anh Phan Văn Trực đã qua đời, anh Lê Tấn Lực đã đi xa, anh Nguyễn Mầm đã thành phế-nhân, anh Nguyễn Duy Hát đã ra khỏi Ngành…

Những việc ấy, và cả nhiều việc khác nữa, tôi đã biết từ bao lâu rồi; nhưng khi nghe “Thuận Xù” nhắc lại tự-nhiên lòng tôi bỗng nhói đau như mới lần đầu tiên nhận được tin buồn về những người thân thương.

Chưa hết, “Thuận Xù” còn oái-oăm thò tay vào trong cổ áo tôi, nắn tìm xem tôi có mang một sợi dây chuyền nào không. Khi không thấy gì, anh mới ôm chầm lấy tôi mà hôn.

Ngày xưa, khi Ông Ngô-Đình Diệm mới về nước chấp-chánh, tôi là người đã ủng-hộ ông tận-tình, đơn-độc, liều-lĩnh ly-khai khỏi BTL Đệ-Nhị Quân-Khu, tức chống lại nhóm Hinh+Xương, dùng phương-tiện của Quân-Đội Quốc-Gia lúc ấy đang chống Diệm để phát-triển ảnh-hưởng ban sơ đang còn mong-manh của họ Ngô, mở đường cho thế-lực nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà sớm vững mạnh bắt đầu từ Miền Trung.

Do đó, sau khi chính-quyền Diệm đã ổn-định, giới-chức hữu-trách trong Quân-Đội đã đề-nghị Trung-Ương ban thưởng “Quân-Công Bội-Tinh” cho tôi. Các sĩ-quan lãnh-đạo Ngành Chiến-Tranh Tâm-Lý tại Đệ-Nhị Quân-Khu, lúc đó toàn là những phần-tử thân-tín của Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn, đã tặng tôi một sợi dây chuyền có treo một thập-tự-giá bằng vàng để làm kỷ-niệm khi quân-nhiệm của tôi đã mãn hạn-kỳ.

Thủa ấy, có nhiều công-chức và quân-nhân bỏ đạo của mình để theo Đạo Kitô. Số người cả trong lẫn ngoài chính-quyền tuy không phải là con chiên của Chúa mà cũng đeo thập-tự-giá dưới cổ thì khá đông. Không rõ do ai kể lại mà Thuận biết tôi cũng có một cái, nên anh cứ dòm chừng tôi, xem tôi có đeo hay không.

Ngày nay, “Thuận Xù” cố ý nhắc tôi nhớ lại cái vật trang-sức ấy, cái ý-nghĩa tượng-trưng của một phản-ứng người, trước một bối-cảnh đời.

Chỉ vừa mới thay-đổi cấp lãnh-đạo chính-viện Tỉnh có mấy hôm, và đến hôm nay thì mới thay-đổi cấp chỉ-huy Ngành An-Ninh (chưa động đến Ngành Phản-Gián) sở-quan, mà màu-sắc tín-ngưỡng của cá-nhân họ đã tác-động sâu-đậm lên tâm-lý của số đông viên-chức địa-phương như thế này sao?

Tôi cũng đã có linh-tính và ước-tính là sẽ có một cái gì đó xảy ra, nhưng tôi đã cắt đứt chiều-hướng xung-khắc của nhóm Linh-Mục Nguyễn Kim Bính ở Phú Cam đối với Chính-Quyền Tỉnh/Thị dưới thời Đại-Tá Tôn Thất Khiên rồi. Thế mà đường-lối đối-nghịch của họ lại nhắm sâu vào cả các chính-đảng và tôn-giáo khác, nhất là Phật-Giáo, mà tổ-chức quần-chúng là “Lực-Lượng Hoà-Hợp Hoà-Giải Dân-Tộc” thì cũng đang cùng đương-đầu với Chính-Quyền Trung-Ương.

Trong trường-hợp Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng bất-hòa với Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng, chắc “Thuận Xù” không cần nhắc-nhở gì tôi. Chỉ có trường-hợp Kitô-Giáo chèn ép Phật-Giáo, mới khiến anh phải bày-tỏ thái-độ như thế với tôi.

Thế mới biết, làm một người trung-lập không phải là việc dễ. Hầu như mọi người, nhất là trong Chính-Quyền, trong các giáo-hội và trong các chính-đảng, đều đinh-ninh rằng, người nào cũng phải là đảng-viên của một đảng nào đó, tín-đồ của một đạo nào đó, hay ít nhất cũng là đồ-đệ của một nhân-vật nào đó. Điều tệ-hại nhất là khi người ấy không thuộc cùng một cánh với mình thì người ta coi người ấy như kẻ phản-động, như kẻ thù.

Đáng lẽ tôi nói cho “Thuận Xù” biết về lập-trường của tôi; nhưng tôi lại ngại là anh sẽ kể lại với người khác, và người khác ấy lại tưởng rằng tôi cốt thanh-minh để mong cầu một chút ân-huệ gì của họ chăng.

Năm 1954, nếu tôi vượt qua những thủ-tục thông-thường trong các cơ-quan quân-sự và hành-chánh, nhất là vượt qua lòng tự-trọng của chính mình, như lắm kẻ đã làm, đến kể công với Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn, hoặc Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, hoặc chính Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm, thì chắc-chắn là tôi đã được ban cho nhiều đặc-quyền đặc-lợi rồi. Năm 1967, nếu tôi kể công với Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu rằng tôi đã bí-mật nhúng tay phá vỡ âm-mưu đảo-chính của Thiếu-Tướng Nguyễn Cao Kỳ để bảo-toàn kết-quả cuộc bầu-cử đem lại thắng-lợi cho ông ngồi vững trên ghế Nguyên-Thủ Quốc-Gia, thì cũng chắc-chắn là tôi đã được trọng-thưởng nhiều rồi.

Vì tự-trọng và tự-ái, tôi chấp-nhận im-lặng, chỉ mình tự biết lấy mình.

Và mình đã nghĩ đúng, nói phải, làm hay, là đủ rồi.

Tuy nhiên, về vấn-đề đối-nghịch giữa Kitô-Giáo với Phật-Giáo thì tôi phải nói, vì tôi là một chứng-nhân.

Xét chung thì chế-độ Ngô Đình Diệm đã tạo hoàn-cảnh cho một số tín-đồ Kitô-Giáo, và cả một số không phải là con chiên của Chúa, xúc-phạm đến các tôn-giáo khác, nhất là Phật-Giáo mà tổng-số tín-đồ lên đến trên chín mươi phần trăm dân-số, nên các lãnh-tụ Phật-Giáo phải đứng lên tranh-đấu đưa đến cuộc Cách-Mạng 1-11-1963.

Ngày xưa, dưới thời Pháp-thuộc, các quan cai-trị thực-dân Pháp và triều-đình Huế tay-sai đều nằm trong vòng ảnh-hưởng của các cha-cố thuộc Toà Thánh Vatican, nhưng việc lấn-át chỉ xảy ra trong một số lãnh-vực và nhắm vào một số đối-tượng nhất-định, chứ không chèn-ép tràn lan người dân nô-lệ Việt-Nam vốn đại-đa-số là đệ-tử Cửa Thiền.

Liền trước thời Diệm, khi đế-quốc Pháp trở lại với súng đạn viễn-chinh thì cụ Trần Văn Lý lên chấp-chánh ở Miền Trung. Dù là một nhân-sĩ Kitô-Giáo, được Pháp và giáo-hội hậu-thuẫn và nể-vì, nhưng cụ có ỷ vào chức quyền để rẻ-rúng người nào không cùng tín-ngưỡng với mình đâu.

Dù sao, nếu cho rằng mọi tín-đồ Đạo Kitô dưới thời Diệm đều muốn đè bẹp Đạo Phật thì cũng không hoàn-toàn đúng.

Năm 1960, tôi bị đày lên xứ Thượng và bị “mật theo-dõi hành-vi chính-trị”, nghĩa là tôi thuộc thành-phần “phản-loạn” (dưới chế-độ Diệm không có “đối-lập”). Trớ-trêu thay, tôi được Giám-Đốc Cảnh-Sát Công-An trên này cử làm Trưởng Ban Điều-Tra Đặc-Biệt của Nha, bất-chấp lệnh cấm của Tổng-Nha. Nhiệm-vụ và quyền-hạn của tôi là bắt giữ, thẩm-vấn và lập hồ-sơ truy-tố các vụ vi-phạm, cả hình-sự lẫn chính-trị, khắp các Tỉnh ở cựu-Hoàng-Triều Cương-Thổ này.

Tại thủ-phủ của Cao-Nguyên, tôi đã đối-diện với nhiều tín-đồ Kitô-Giáo, vừa là thanh-niên học-thức, vừa là chấp-sự thân-cận của các Cha Xứ ở các Địa-Điểm Dinh Điền và Khu Trù Mật nổi tiếng thịnh-vượng và an-ninh của đồng-bào Miền Bắc di-cư, như Châu Sơn, Kim Châu Phát, Khuê Ngọc Điền, v.v…

Về mặt chính-trị nội-bộ, các thành-viên Kitô-Giáo bị báo-cáo là có ngôn-ngữ và thái-độ chống-đối Chính-Quyền, mà tôi lần-lượt mời đến hỏi cung, đều mạnh-dạn vạch rõ sai-lầm của chế-độ Diệm trong vấn-đề tôn-giáo, và khẳng-định rằng họ phản-đối mọi âm-mưu và hành-động của những kẻ đàn-áp Phật-Giáo. Chính Linh-Mục Nguyễn Viết Khai, là cha đỡ-đầu của Diệm, mà cũng chống Diệm về vấn-đề này. Theo họ, Thánh-Kinh tức là Lời Chúa, có khuyến-khích con chiên mở rộng Hội Thánh, nhưng bằng rao-giảng chứ không phải bằng bạo-lực hay mồi-bả vật-chất của thế-gian.

Biên-Tập-Viên Nguyễn Hữu Liêm và Thẩm-Sát-Viên Nguyễn Giang, ngồi cùng phòng với tôi, vừa làm việc vừa liếc nhìn tôi mà cười. Mà buồn cười thật, chính tôi cũng tự cười mình: một viên-chức an-ninh bị chế-độ trừng-phạt vì chống-đối chế-độ mà lại nhân-danh chế-độ đứng ra bắt lỗi những phần-tử cũng chống-đối chế-độ như mình!

Không lâu trước ngày tôi bắt đầu điều-tra các đối-tượng này, ở Ban Mê Thuột đã xảy ra một cái chết gây sôi-nổi dư-luận gần xa. Nguyên dưới quyền của Biên-Tập-Viên Liêm có một Đội Biệt-Kích Công-An, chuyên đi lùng diệt Việt-Cộng tại khắp các tỉnh Cao-Nguyên. Một hôm, có một đội-viên tên Nguyễn Văn Nam, cùng với đồng-đội mới đi công-tác về, bị mót đại-tiện nên vừa từ trên xe nhảy xuống là đã vội-vàng chạy tuốt vào trong nhà tiêu. Vì gấp-rút và không có gì khác hơn nên anh đã dùng một mảnh giấy báo mà lau hậu-môn. Ngẫu-nhiên có một đội-viên khác, cũng vào cầu-tiêu, trông thấy mảnh giấy báo của Nam có in ảnh của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, nên lưu-ý anh về việc này. Người bị bắt gặp quả-tang “phạm-thượng” đã rút súng tự bắn vào đầu chết ngay tại chỗAnh sợ bị đưa ra “phê-bình” trong các buổi “Học-Tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục”, và sau đó là những hậu-quả khôn lường.

Một số trong các tín-đồ Kitô-Giáo nói trên, trong lúc khai-cung, đã đề-cập với tôi về vụ đó, và một người đã chất-vấn tôi:

– Dưới thời Nho-Giáo cực-thịnh, mọi người đều phải tôn-trọng ngay cả bất-cứ một mảnh giấy nào trên đó có Chữ Nho, vì Chữ Nho là biểu-tượng của Đạo Nho, của Đức Khổng-Tử. Tuy thế, nếu có kẻ dùng sách giấy có Chữ Nho, hình-ảnh Đức Khổng-Tử, mà lau hậu-môn, thì kẻ ấy chỉ bị quở mắng, hoặc bị đánh đòn, một lần rồi thôi, chứ có ai vì cái lỗi ấy mà bị hành-hạ tàn-nhẫn đến độ thà tự-tử chết còn hơn để bị bắt giam? Qua cái chết của anh ấy, cũng là đồng-nghiệp Công-An với các anh, các anh nghĩ sao về chế-độ này?

Các anh Liêm và Giang đã đồng-ý với tôi, dẹp bỏ biên-bản chấp-cung, để cho các phần-tử “Công-Giáo công-chính” ấy tự tay viết các lời khai theo ý họ, xong để họ ra về tự-do, rồi đệ-trình hồ-sơ lên Cấp Trên “để tuỳ-nghi thẩm-định” với cái đề-nghị đã trở thành công-thức là “tiếp-tục mật theo-dõi hành-vi chính-trị” của các đương-nhân.

Tôi nhấn mạnh với “Thuận Xù” điều đó, và nhắc thêm về biến-cố 1960: cùng bị đày ra khỏi Huế và các tỉnh thành lớn, lên miền lam-sơn chướng-khí một lần với tôi, còn có các anh Trần Văn Liệu và Trần Tòng; họ cũng là tín-đồ Kitô-Giáo, cũng là dân Phú-Cam, trung-tâm ảnh-hưởng của gia-đình họ Ngô. Trước đó, nhân-sĩ Trần Điền mà tôi quen thân hồi ông còn làm Giám-Đốc Nha Thông-Tin và hầu hết đồng-bào gần xa đều biết tiếng, là thủ-lãnh Hướng-Đạo Việt-Nam, là một nhà trí-thức Kitô-Giáo lừng danh, mà cũng chống-đối Diệm và bị Diệm kết án tử-hình…

Thế thì đâu có phải là đồng-bào Kitô-Giáo nào cũng dễ-dàng đồng-minh với Quỷ Satan?

Thế mà hiện nay vẫn còn có một số thuộc cả hai bên chưa chịu làm lành với nhau.

Ở Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, người ta kháo chuyện với nhau về một chuyến đi thanh-tra Thừa-Thiên/Huế vừa rồi của Trung-Tá Trần Văn Hương.

Các cấp chỉ-huy ở đây bố-trí cho Hương ngủ ở khách-sạn, ăn ở nhà-hàng, và chi-tiêu linh-tinh gì đó. Khi anh về Trung-Ương rồi, Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực ngoài này, dưới thời Thiếu-Tá Liên Thành, liền gửi một xấp hoá-đơn vào Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, nơi đã phái Hương đi công-tác, để xin thanh-toán tiền phòng, tiền ăn, v.v… cho Hương!

Ngoài việc Hương bị xem như đã có đòi-hỏi địa-phương cung-phụng này kia, các viên-chức khác từ đó về sau đều ngán Miền Trung, nếu phải ra Huế là lo giữ mình đủ điều.

Nguyên-do là Hương nguyên là Cảnh-Sát-Trưởng ở Huế, dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà, và là tín-đồ Đạo Kitô.

Vấn-đề tôi đặt ra với anh+em, không phải chỉ là cá-nhân Trần Văn Hương thật ra là một người tương-đối không quá xấu, không đáng để bị chơi khăm cách đó, nhưng mà là đối với bất-cứ ai, dù trong quá-khứ đã làm việc gì không hay, mà sau đó tình-trạng đã được giải-quyết rồi, và trong hiện-tại họ là người mới, không phạm lỗi gì, thì mình không nên tiếp-tục oán thù vì chuyện đã qua.

Chúng ta ai nấy đều có rất nhiều bạn thân, kể cả thân-nhân, không cùng tôn-giáo với mình. Đừng để sự khác-biệt tín-ngưỡng xen vào làm sứt-mẻ mối gắn-bó trong đời sống giữa những con người với nhau.

*

Trong nội-bộ Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên, có hai Phòng quan-trọng, là Nghiên+Kế và Tác-Vụ; mà hai Chủ-Sự Phòng thì không hợp nhau vì tín-ngưỡng khác nhau.

Trước kia, tôi được cho biết là Trung-Uý Dương Đại Chung báo-cáo tình-hình chính-trị quốc-nội cho Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, ngay cả trước khi lập công-điện hay công-văn trình lên Cấp Trên. Đây là một vấn-đề phức-tạp và tế-nhị vô cùng. Đúng ra, trên nguyên-tắc thì công-chức và quân-nhân không được tham-gia hoạt-động cho một đảng-phái chính-trị nào; nhưng trên thực-tế thì, dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà, Đảng Cần-Lao Nhân-Vị đã rập khuôn đảng cộng-sản mà đặt nền-móng bên trong các cơ-quan chính-quyền và đơn-vị quân-lực; và, dưới thời Đệ-Nhị Cộng-Hoà, Đảng Dân-Chủ tuy ra đời sau nhưng cũng đã lan tràn bên trong các công-sở và quân-doanh; cho nên không ai nhớ đến cái nguyên-tắc ấy nữa. Trong lúc đó, không có văn-bản nào cấm các tín-đồ tiết-lộ việc công và việc quân cho các vị “lãnh-đạo tinh-thần”. Có thể là người ta tin rằng việc ấy sẽ không xảy ra; hoặc có thể là người ta cố ý tránh né vì sợ làm mếch lòng các giáo-phái; mà cũng có thể là người ta mặc-nhiên chấp-nhận và cho phép việc làm này? Và, lẽ tất-nhiên, một khi các chính-trị-gia đã có tai+mắt trong các công-đường và binh-trại rồi, thì các tu-sĩ cũng chẳng chịu thua-kém gì ai. Cho nên tôi không trách phạt gì Chung, vì thật ra có một số viên-chức thuộc các giáo-hội khác, các chính-đảng khác, ở khắp nơi, sau này cũng có bắt chước hành-động như Chung, mặc dù không nhất-loạt và tích-cực bằng. Bù lại, lần nào ra Huế tôi cũng tiếp-xúc với anh, để xoá cho anh cái mặc-cảm bị lạc-lõng vì khác phe, và để tận-dụng trong anh cái tinh-thần phục-vụ vốn tiềm-tàng của mỗi người.

Tôi đã lập lại cái thế thăng-bằng trong quan-hệ đối-nhân, và thấy được kết-quả tốt. Ít nhất thì anh cũng đã góp phần gỡ bí chung, khi Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây trực-tiếp gọi máy hỏi tôi về cuộc mít-tinh đang diễn ra. Buổi sáng củ-mật ấy, Linh-Mục Nguyễn Kim Bính triệu-tập giáo-dân trước sân và xung quanh nhà thờ Phú-Cam, chuẩn-bị khí-thế cho một cuộc xuống-đường mới, dự-trù hùng-hậu và quyết-liệt hơn lần rồi.

Tôi đã ra Huế, có mặt tại chỗ, nhưng phải nhờ đến Chung, là người trong cuộc, mới biết đủ những gì khuất kín bên trong giáo-đường, vì các nhân-viên khác tín-ngưỡng khó lòng mà len-lỏi vào được trong cái tập-thể chọn-lọc và có cảnh-giác cao ấy, để chụp ảnh, ghi-âm, nhận-diện thành-phần cực-đoan, thu-thập hành-tung những kẻ khả-nghi, và định-vị cái đài vô-tuyến phát-thanh mà nhà thờ này được phép sử-dụng từ thời Đệ-Nhất Cộng-Hoàngày xưa là để giúp các tín-đồ già-yếu bệnh-tật, không đến giáo-đường nổi, cũng có thể ở nhà mà nghe giáo-lễ do đồng-đạo cử-hành; ngày nay là để phổ-biến đến khắp ngõ hẻm hang cùng những lời hô-hào chính-trị phát-động các cuộc mít-tinh, xuống đường chống chính-quyền.

Ngày nay, có Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh, Chung và các bạn của anh đương-nhiên thoả-thích hơn.

Ngược lại, Trung-Uý Dương Văn Sỏ, Trưởng Phòng Tác-Vụ, trước các cấp chỉ-huy đều mới, thì không khỏi giao-động tinh-thần, vì không ai đoán được chữ ngờ.

Thượng-Sĩ Lê Văn Y, một Trưởng Lưới Tình-Báo xuất-sắc của Đặc-Cảnh Quận Ba, Đà-Nẵng, mà vì Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực địa-phương không ưa nên đã phải đổi vùng. Thiếu-Uý Nguyễn Ba, một điệp-trưởng hữu-công của Tỉnh Thừa-Thiên, lại là người của Đảng Đại-Việt lúc đương-quyền, mà vì không được lòng các cấp chỉ-huy cùng Đảng nên cũng đã bị đẩy đi xa. Thiếu-Uý Trương Quang Thanh năng-động của Tỉnh Quảng-Nghĩa, phải sống xa quê vì tuy là đảng-viên Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng mà không cùng hệ-phái với các cấp chỉ-huy.

Huống gì gốc-gác của Trung-Uý Sỏ thì rõ-ràng xa-cách với thế-lực cầm quyền hiện giờ.

Do đó, tôi phải duy-trì chỗ đứng của Sỏ, vì đó vừa là tai+mắt vừa là tay+chân của Ngành, không thể để lọt vào người khác phe, khi mà vấn-đề phe-phái đã được chính Trung-Tá Hoàng Thế Khanh không ngần-ngại công-khai nêu lên với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc và tôi.

Một mặt, tôi giao-tiếp với Sỏ nhiều hơn, để tỏ là đã có tôi đích-thân chăm-sóc khả-năng phục-vụ của anh; mặt khác, tôi đề-cao hai viên-chức khác, chủ ý là nếu phải thay-thế Sỏ thì hẳn là Khanh sẽ phải chấp-nhận một trong hai người này mà thôi. Tôi làm như thế là để vẫn giữ cái thế thăng-bằng trong nội-bộ cơ-quan; nếu không thì một mình Chánh Sở Đặc-Cảnh Trương Công Đảm bị kẹt ở giữa khó lòng mà hoàn-thành trách-vụ của mình.

*

Cũng như ở các Tỉnh khác, ngoài các viên-chức Đặc-Cảnh địa-phương, tôi đã có một số bạn-bè thân-tín, thuộc nhiều giới, ở Thị-Xã Huế và Tỉnh Thừa-Thiên.

Dù không phải là kẻ đa-nghi, song kinh-nghiệm bản-thân không cho phép tôi làm kẻ dễ tin. Thỉnh-thoảng tôi vẫn phải xét lại một vài vấn-đề, dù là bề ngoài không có gì bất-thường.

Tôi tin vào các cộng-sự-viên của mình; nhưng nếu chính các đương-nhân thật tình không nắm vững tình-hình hoặc bị đánh lừa, thì lẽ nào tôi chịu để cho mình cũng cùng bị thiếu-sót hay sai-lầm sao? Nhiều khi gặp phải những bài toán khó giải, tôi đã nhờ vào linh-tính, trực-giác hay “giác-quan thứ sáu”, nhất là thái-độ vô-tư của mình. Nhưng xác-thực nhất bao giờ cũng là tin-tức, tài-liệu, và sự hiểu-biết của các thân-tình-viên nói trên; nhờ họ, tôi đã nhiều lần biết được, và cả biết trước, những mưu-đồ ám-muội của một số nhân-vật này, phe-phái kia…

*

Sau cuộc họp báo của Ngành Đặc-Cảnh chúng tôi tố-cáo Tổng-Hội Sinh-Viên Huế và cả “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, qua Linh-Mục Nguyễn Kim Bính tại Phú-Cam, đều đã bị Việt-Cộng xâm-nhập và lợi-dụng, thì tình-hình nội-an ở Huế, và cả toàn-quốc, đã lắng dịu đi rất nhiều.

Sinh-viên ở Huế trở lại sinh-hoạt bình-thường, chăm lo trau dồi kiến-thức văn-hóa, không còn bung xung hò hét ồn-ào như thời-gian qua.

Sinh-viên ở Sài-Gòn, mà cái Tổng-Hội trong đó vốn cũng đã bị Cảnh-Lực Quốc-Gia tố-cáo là bị cộng-sản giật dây, nay thêm sáng mắtchỉ trừ số ít phần-tử cơ-sở Việt-Cộng và thân-Cộng mà thôi.

Về phần “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, thì Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Cam, đã bị khựng lại, nên ngưng xuống đường; và Linh-Mục Trần Hữu Thanh trong Nam thì cũng, do đó, ngưng các mưu-tính biểu-tình.

Như thế là chúng tôi đã thành-công trong việc ngăn-chận và dập tắt các nỗ-lực xúi-giục toàn-quốc đồng-loạt tuần-hành, gây xáo-trộn trật-tự công-cộng, làm mất an-ninh chung trong mọi giới dân-nhân, tạo hoàn-cảnh và cơ-hội cho kẻ địch lèo-lái mà biến thành xung-đột đẫm máu, kể cả cơ nguy bị đối-phương xâm-chiếm từng cơ-quan, đơn-vị, hay khu-vực ly-khai hay tự-trị ngay trong nội-địa lãnh-thổ Quốc-Gia, mà ảnh-hưởng dây chuyền có thể là mất hẳn cả Miền Nam.

(Tuy nhiên, về mặt tinh-thần, “Phong Trào Chống Tham Nhũng” vẫn còn cố-thủ, tiếp-tục và gia-tăng các nỗ-lực sách-động cũ, trong các nhà thờ, trong các họ đạo, và cả trong giới giáo-dân quân-nhân, thậm chí kêu gọi làm binh-biến, dùng bạo-lực lật đổ Tổng-Thống Thiệutức là tuy không mở cổng cho địch vào đồn, mà lại mở lòng, mở ý, sẵn-sàng đón mời “đồng-minh”, vì cùng là kẻ thù của tổng-thống Việt-Nam Cộng-Hòa!)

Mục-đích của nhóm tu-sĩ Kitô-Giáo quá-khích không phải chỉ là lật đổ Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà là tái-lập một chế-độ kiểu Ngô Đình Diệm, nghĩa là dù cho sẽ không có một Tổng-Thống tín-đồ Đạo Chúa với một mạng lưới khủng-bố kiểu Đảng Cần-Laovì vào thời đó không có một nhân-vật nào có thể có đủ điều-kiện là một ứng-viên kiểu đó vào chức-vụ đóthì họ cũng sẽ tìm đủ mọi cách đưa vào Chính-Quyền những nhân-vật và những chính-sách hoàn-toàn do họ giật dây, mục-đích là đàn-áp các giáo-hội khác, để phát-triển Đạo Kitô.

Bây giờ, kế-hoạch thứ nhấttoàn-quốc xuống đường xáo trộn an-ninh, tạo sức ép lớn cả trong lẫn ngoài đủ để lật Thiệuvì tôi mà đã bất-thành, thì họ xoay qua kế-hoạch thứ hai.

Tôi đã cài-cấy tay-trong trong mọi tổ-chức, dù là chính-trị, kinh-tế, văn-hóa, xã-hội, kể cả tín-ngưỡng. Đặc-biệt trong vấn-đề này tôi càng theo sát ý-đồ và đường-lối của các mục-tiêu, bắt đầu từ Huế, từ xóm Phú-Cam mà ra.

Kế-hoạch thứ hai của họ là triệt-hạ dần các phần-tử nguyên là thành-viên hoặc có cảm-tình, hoặc bị nghi là liên-hệ gần+xa với phe “Phật-Tử Tranh-Đấu” vốn đã góp phần lật đổ Nền Đệ-Nhất Cộng-Hòa. Đối-tượng của họ nằm ở mọi nơi, dân cũng như quân, ở cả ba ngành lập-pháp, hành-pháp và tư-pháp trong Chính-Quyền Đệ-Nhị Cộng-Hòa.

Và họ bắt đầu ra tay.

Một hôm, không lâu trước ngày Thừa-Thiên triệt-thoái rồi Vùng I lui quân, một số đơn-vị Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa đi hành-quân trong hoạt-vực của Chi-Khu Phong-Điền, thuộc Tỉnh/Tiểu-Khu Thừa-Thiên, đã phá vỡ được một căn-cứ của Việt-Cộng, và tịch-thu được của chúng nhiều chiến-lợi-phẩm, trong đó có một số tài-liệu quan-trọng, kể cả một Nghị-Quyết của Đảng-Ủy Liên-Khu IV về Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế. Nghị-Quyết này đề-cập đến tình-hình các mặt của Việt-Nam Cộng-Hòa tại Tỉnh liên-quan, nhiệm-vụ của chúng, và kế-hoạch cho một cuộc tấn-công mới, nhằm chiếm-giữ thành-phố Huế lâu dài hơn, rút kinh-nghiệm từ cuộc tổng-công-kích vào mùa xuân năm 1968Tết Mậu-Thân.

Nguồn (tài-liệu VC): https://thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Thong-tin-du-dia-chi/tid/Tu-nam-1945-den-nam-1975/newsid/271876D3-36BE-4461-B109-206D14ED1596/cid/FFD5F879-74BC-4D55-AEB6-E0C0332427ACTrong đó có đoạn:{Ngày 10-2-1975: Quân ủy Trung ương xác định kế hoạch năm 1975 cho Trị – Thiên và nhấn mạnh phải “tích cực sáng tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn, kể cả giải phóng Huế”}. 

Như đã nói trên, nhiều tu-sĩ Kitô-Giáo đã tổ-chức cho tín-đồ mà là nhân-viên an-ninh & tình-báo của các cơ-quan & đơn-vị khắp nơi báo-cáo tình-hình, tin-tức mới nhất cho các linh-mục, ngay cả trước khi thực-hiện công-điện công-văn trình lên Cấp Trên của mình. Kết-quả hành-quân lần này cũng không ra ngoài lệ thường.

Cho nên người ta đọc thấy đoạn kết của bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ghi rõ: sau khi chiếm được Thành-Phố Huế, dứt điểm Tỉnh Thừa-Thiên, chúng sẽ dựng lên một chính-quyền mới, gồm toàn những “đồng-chí nằm vùng công-khai hợp-pháp” của chúng, đó là sáu Nghị-Viên đương-kim của guồng máy dân-cử sở-tại của Việt-Nam Cộng-Hòa, mà đứng đầu danh-sách là Ông Nguyễn-Khoa-Phẩm, Chủ-Tịch Hội-Đồng Tỉnh Thừa-Thiên, và Ông Nguyễn-Khắc-Thiệu, Chủ-Tịch Hội-Đồng Thị-Xã Huế, v.v…

Bộ Chỉ-Huy Tiểu-Khu Thừa-Thiên đã làm báo-cáo kèm với bản chụp sao các trang tài-liệu đánh máy của Đảng-Ủy Việt-Cộng nói trên, trình lên Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn I và Quân-Khu I, Bộ Tổng-Tham-Mưu, v.v…

Chánh Sở Đặc-Cảnh Thừa-Thiên/Huế trình lên tôi, tôi trình lên Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, rồi Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia (kiêm Đặc-Ủy-Trưởng Trung-Ương Tình-Báo) trình lên Tổng-Thống.

Kết-quả trông thấy trước mắt là các ông Nguyễn Khoa Phẩm, Nguyễn Khắc Thiệu, cùng bốn nhân-vật dân-cử nói trên, sẽ bị giải-nhiệm tức-thời.

Giải-nhiệm các Nghị-Viên Hội-Đồng Tỉnh+Thị-Xã không phải là một việc khó.

Trước đây, có một số Nghị-Viên Hội-Đồng Tỉnh Quảng-Nghĩa đã hành-sử tư-cách dân-cử của mình, xin Bộ Chỉ-Huy Tiểu-Khu sở-tại cấp phương-tiện phi-cơ trực-thăng cho họ chở thực-phẩm, thuốc-men, và nông-cụ lâm-cụ lên các Quận miền núi để cấp-phát cho đồng-bào vùng đó đang gặp khó-khăn. Đa-số các vật-phẩm ấy đã lọt vào tay những kẻ buôn lậu và tiếp-tế cho Việt-Cộng, thay vì đến tay người dân khó-nghèo. Thiếu-tá Đặc-Cảnh Hồ Anh Triết đã điều-tra ra sự thật, và kết-quả là Trung-Ương đã giải-nhiệm các Nghị-Viên liên-can.

Nhưng trong trường-hợp trên, các Nghị-Viên ấy chỉ phạm tội buôn lậu, chỉ bị biện-pháp hành-chánh hoặc bị phạt tiền. Đằng này, theo tài-liệu kể trên, thì nhóm Nguyễn Khoa Phẩm rõ-ràng là tay-sai của Việt-Cộng nằm vùng, lâu nay đã hoạt-động cho địch đắc-lực đến độ được chúng tín-nhiệm chọn cử cầm đầu bộ máy chính-quyền mà chúng sẽ dựng lên nay mai. Với bằng-chứng đó, các đương-nhân sẽ không những chỉ bị giải-nhiệm, mà chắc-chắn là sẽ còn bị câu-lưu truy-tố về tội phá rối trị-an, ở tù, và có vết-tích xấu về mặt chính-trị trong hồ-sơ lý-lịch cá-nhân, mất hết mọi cơ-hội để ra tham-gia chính-sự dù ở bên dân-cử hay bên công-quyền.

*

Ngay sau khi tài-liệu Việt-Cộng nói trên được Tiểu-Khu và chính-quyền Tỉnh Thừa-Thiên và Thị-Xã Huế làm bản sao gửi đi các nơi, tôi được nguồn tin tín-cẩn báo riêng cho biết: đoạn kết trong bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ấy là do một nhóm dư-đảng Cần-Lao quá-khích thông-đồng với nhau mà ngụy-tạo thêm.

Ông Nguyễn Khoa Phẩm, ông Nguyễn Khắc Thiệu, và tất cả các Nghị-Viên có tên trong đoạn kết của bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ấy, đều là tín-đồ Phật-Giáo, có quan-hệ chặt-chẽ với Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất; họ đồng-thời cũng là đảng-viên quan-trọng của Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng.

Đạo Phật và Đảng Đại-Việt, cùng các giáo-phái và chính-đảng khác, đã bị chế-độ Ngô Đình Diệm đàn-áp, và đã góp phần tích-cực vào việc lật đổ chế-độ ấy.

Hiện nay, Đại-Việt và Phật-Giáo đang ngăn-chận dư-đảng Cần-Lao, là một nhóm tín-đồ Kitô-Giáo và giáo-phái khác mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn-bó với chế-độ Diệm, không để cho họ tái-lập quyền sinh-sát để trả thù cho gia-đình họ Ngô.

Từ nhiều năm qua, hầu như mọi quyền hành-pháp và lập-quy tại Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế đều nằm trong tay Đảng Đại-Việt, và hầu như lần bầu-cử nào các liên-danh Phật-Giáo cũng thắng phiếu vào Hội-Đồng Tỉnh và Thị-Xã địa-phương.

Bây giờ thì nhóm cựu Cần-Lao ấy, cái thiểu-số tác-yêu tác-quái đã là tác-nhân tác-hại cho chính cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và các anh+em của ông phải mất mạng, và cho Đảng ấy phải tự xóa tên của mình, nhóm ấy đã lại nắm được vị-thế cầm đầu cả quyền hành-pháp lẫn ngành công-lực của toàn Tỉnh & Thị rồi.

Theo kế-hoạch thứ hai của các Linh-Mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Kim Bính, họ muốn gấp-rút thanh-toán các phần-tử đối-nghịch hiện còn cầm đầu cơ-quan dân-cử của Tỉnh+Thị nầy.

*

Đồng-thời với tin-tức mật riêng của tôi, đích-thân Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế, Trương Công Đảm, trình-bày với tôi là thuộc-viên của anh bị giao-phó công-tác thực-hiện việc giả-mạo đoạn văn vu-khống các Nghị-Viên kia.

Anh là bạn thân của Trung-Tá Hoàng Thế Khanh, hiện là cấp chỉ-huy tại chỗ của anh; nhưng việc này là “một tệ-nạn rất nguy-hiểm, vì nó là mầm-mống gây thù-nghịch ngay trong hàng-ngũ của những người đang đứng chung cùng một chiến-tuyến”. Do đó, vì “trung-thực”, vì “chính-tâm”, anh đã chọn đặt chính-nghĩa lên trên tình-cảm hay quyền-lợi cá-nhân, nên anh liền báo-cáo Sự Thật lên tôi.

Tài-liệu ngụy-tạo của Nguyễn Hữu Duệ thì chỉ đi theo hệ-thống báo-cáo tình-hình, chứ không thông-qua kỹ-thuật kiểm-tra; vả lại vấn-đề Việt-Cộng chủ-trương tái-diễn biến-cố Tết Mậu-Thân ở Huế là điều hầu như mọi người đinh-ninh là chuyện đương-nhiên; nghĩa là các cấp nhận được báo-cáo đều đã tin chắc nội-dung là đúng 100%.

Tôi liền lấy bản chụp sao của Nghị-Quyết ấy ra xem lại, chú ý nhìn kỹ thì thấy, dù bằng mắt thường, quả thật đoạn cuối đã được đánh máy bằng một máy đánh chữ khác, khác hẳn với các trang trước và với đoạn trước cùng trang.

Tôi lặng người đi một lát, rồi nhắm mắt lại ôn lại lời dạy của Đức Phật Thích-Ca: “Oán-cừu nên cởi, không nên buộc!” Năm trăm năm sau, Đức Giê-Su cũng rao-giảng như trên: “Hãy hết sức mình sống hòa-thuận với mọi người… Đừng tự mình trả thù ai… Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện mà thắng điều ác!” (Romans 12:18,21). Tôi lại lật lui, đọc thêm trong sách Proverbs 10:12: “Tính ghen-ghét phát-sinh tranh-chấp; chỉ có lòng thương yêu mới lấp hết tội-khiên”. Trước hết, và trên tất cả là “Mười Điều Răn” đã có từ xưa, trong sách Exodus 20:16: “Các con không được làm chứng gian để hại người xung quanh!”…

Kể từ biến-cố 1-11-1963, đã mười hai năm trôi qua, Đệ-Nhất Cộng-Hòa không còn, mà một nhóm nhỏ phần-tử thân-Diệm còn rơi-rớt lại vẫn còn hiểm-độc như thế. Họ mới gặp dịp chó-ngáp-phải-ruồi ngóc đầu lên được một chút mà đã gian-manh bày mưu thâm, tính kế hiểm vu-oan giá-họa để hãm-hại người khác tín-ngưỡng ngay, huống gì khi cái chế-độ độc-tài độc-tôn bạo-ác ấy đang còn phủ trùm lên khắp quê-hương, mà họ lại nắm chính-quyền trong tay, thì họ đã tác-yêu tác-quái đến mức nào.

Nếu vụ ngụy-tạo tài-liệu Việt-Cộng ở Huế mà đạt kết-quả do họ mong muốn, rồi các nơi khác cũng sẽ noi theogiống như kế-hoạch biểu-tình, Huế mà làm xong là các nơi khác cũng sẽ làm theokhông cần Tỉnh-Trưởng, Tư-Lệnh Hành-Quân; chỉ cần bất-cứ một cá-nhân nào có thể báo-cáo tin-tức, chuyển trình tài-liệu, là đã có thể thêm-thắt theo ý của nhóm chủ-trương: hậu-quả sẽ như thế nào trên khắp vùng đất gọi là Miền Nam Tự-Do?

Tôi không là người của bất-cứ một chính-đảng hay giáo-hội nào; mà Trương Công Đảm thì cũng không nặng tình đậm nghĩa với ai đến độ mù-quáng lý-trí và thui-chột lương-tâm mà bao che cho lũ gian-manh. Huống gì anh đã thấy rõ là chúng sẽ còn lợi-dụng anh thêm trong nhiều âm-mưu tiếp theo.

Trong vụ giả-mạo tài-liệu này, điều bí-mật đã được báo-cáo lên tôi cũng rất có thể sẽ được tiết-lộ cho người khác biết, và hậu-quả tất-nhiên sẽ là một phản-ứng mạnh của giới Phật-Tử, với mối liên-kết có sẵn với nhiều tổ-chức khác, thí-dụ Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng và Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng, mà ngoài Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc ra thì riêng Đại-Việt cũng đã là một chính-đảng có khối lượng đảng-viên đông nhất và mạnh nhất trên toàn cõi Việt-Nam Cộng-Hòa.

Việc làm bất-lương của vài ba con chiên ghẻ, làm chứng dối như thế, rất có thể sẽ châm ngòi cho một cuộc nội-chiến khốc-liệt giữa hai giới Phật-Tử và cựu Cần-Lao cực-đoan, sớm đẩy Việt-Nam Quốc-Gia đến bờ vực thẳm tương-tàn.

*

Hôm qua, tài-liệu bắt được của Việt-Cộng mà Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế trình lên thì tôi đã giao cho Sở Nghiên+Kế Khu I làm Phiếu Chuyển đệ-trình lên Bộ Tư-Lệnh CSQG/Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương theo lệ thường rồi.

Nhưng hôm nay, về vấn-đề ngụy-tạo đoạn kết, có tầm quan-trọng lớn-lao đối với tình-hình an-ninh và nội-chính của Quốc-Gia, thì tôi đã tức-tốc vào báo-cáo riêng với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, và tự tay đánh máy một Phiếu Trình mật, gửi riêng cho Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, bản sao gửi Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, và cử đại-diện thân-tín mang thẳng đến văn-phòng của hai vị ấy ở Sài-Gòn.

Tôi cũng báo-cáo thẳng lên Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư-Lệnh QĐI&QKI, tức Đại-Biểu Chính-Phủ tại Vùng I, theo đúng tinh-thần của Sắc-Lệnh của Chính-Phủ đã quy-định cho trách-vụ của tôi.

Tất-nhiên tôi đã nêu tên nguồn tin và giải-thích rõ trường-hợp nhận tin, đặc-biệt là Trương Công Đảm, để giúp Cấp Trên kiểm-chứng dễ-dàng. Ngoài ra, tôi còn tuyệt-đối giữ kín vụ này tại địa-phương mình, để tránh náo-loạn trong khi chờ-đợi quyết-định của Trung-Ương.

Nguồn tin của tôi nói rõ rằng chính Đại-Tá Nguyễn Hũu Duệ, Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Trưởng Thị-Xã Huế, là nhân-vật chủ-chốt trong việc thi-hành thủ-đoạn này, việc mà, nếu ông mà từ-chốinhân-danh dân Chúa, làm theo lời Chúa hơn là lời Chathì hẳn chưa biết chờ đến bao giờ Linh-Mục Nguyễn Kim Bính mới kiếm ra cho được một con chiên ngoan đạo kiểu đó theo ý của mình.

Đại-tá Duệ mà lên làm Tỉnh-Trưởng ngoài đó là do đề-nghị đặc-biệt có tính-toán của tôi, chứ không phải là do “tài” hay “đức” gì của ổng.

Nhưng ổng đã để lộ ra “tài đức” thật-sự của ổng.

Ổng đã nuôi lòng trả thù từ ngót mười hai năm nay, đúng theo lời trối của cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm (“Tôi chết thì trả thù cho tôi!), lạm-dụng Trung-Tá Hoàng Thế Khanhtôi nghĩ là Khanh ở thế bị-động, vì Khanh bản-chất chính-trựchiện là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị ở dưới quyền mình, hành-động theo kế-hoạch của nhóm “lãnh-đạo tinh-thần” cực-đoan của mìnhđứng đầu Miền Trung là Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Camtrong chương-trình chung là bứng-tỉa các nhân-sự mà họ cho là kẻ thù của phe Kitô-Giáo quá-khích và cựu-Cần-Lao ác-ôn, mà bước khởi đầu là ngụy-tạo đoạn kết vu-oan giá-họa tha-nhân trong bản Nghị-Quyết của Việt-Cộng nói trên.

Phóng-ảnh đoạn trích thư của Ô. Trương Công Đảm,

cựu Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế:

A paper with writing on it
Description automatically generated Trương Công Đảm hiện ở Thành-Phố Denver, Colorado, USA.

*

        Sau Quốc-Biến 30-4-1975, ra Hải-Ngoại, cựu Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ xuất-bản cuốn hồi-kí “Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng-Thống Ngô Đình Diệm”, được mời đi nhiều nơi thuyết-trình về “ước mơ chưa đạt” của dòng họ Ngô Đình.

        Tôi gửi thư trực-tiếp hỏi vài điều để thấy trình-độ và khả-năng của đương-nhân “trả thù cho lãnh-tụ anh-minh”.

Phóng-ảnh thủ-bút của cựu Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ:

A handwritten letter with a signature
Description automatically generated

“Tôi đổi ra Huế năm 1973* làm Tỉnh Trưởng Thừa Thiên và Thị Trưởng Huế – Tôi không nhớ rõ ngày tháng chỉ nhớ là thời gian rất ngắn khi rút lui khỏi Huế*.

Ngoài ra tôi chưa hề phục vụ ở Huế bao giờ.

Xin kính chúc ông và gia quyến an khang.

Kính thư,

(Chữ ký)

Xin cáo lỗi vì già nên tay run khi viết thư.”

——-

*Làm Tỉnh/Thị-Trưởng Thừa-Thiên/Huế “năm 1973” rồi “rút lui khỏi Huế” vào tháng 3-1975 mà bảo [1973-75] là “thời-gian rất ngắn”!

Viết thư là có thì-giờ tra-cứu, chứ không phải là trả lời tức-thì trên máy điện-thoại, mà còn nhớ sai ngày làm Tỉnh-Trưởng (thực-sự là nhậm-chức vào tháng 11 năm 1974), thì làm sao mà viết nổi sách hồi-ký lịch-sử (cuốn “Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm”)?

LÊ XUÂN NHUẬN 

====

 TRƯƠNG THANH TÂN

Cháu với chú chưa hề quen biết trước

Mà vào tù mới gặp đã thân nhau;

Bởi vì hai ta chung một niềm đau

Và trên hết là chung lòng phục-hận.

*

Cùng ý-chí quyết hồi-hưng quốc-vận,

Mình liều mình mong nhóm lửa dêm khuya:

Chú dò tình-hình biến-động ngoài kia,

Cháu kết-nạp anh+em trong các Đội.

*

Chú bị chợt tay? trầy chân? trặc gối?

Cháu có sẵn-sàng thuốc-đỏ, cồn, bông:

Ấy là mình tạo dịp để truyền-thông,

Qua mặt được “ăng-ten” cùng “bảo-vệ”.

*

Chú có nửa đời… quyền-hành, luật-lệ,

Nay ─ lộ-diện rồi ─ hoạt-động gay-go;

Cháu mới lớn lên đã mất Tự-Do

Nên tự-phát ─ do Dân ─ đầy khí-thế.

*

Nguyễn Đăng Thục, nghị-viên từ xứ Huế,

Phan Thành Sung, cảnh-chức tự Sài-đô:

Già ngành+nghề, lớn tuổi-tác, khác ranh-tô,

Mà đã chịu tham-gia cùng với cháu!

*

Trương Thanh Tân!  Cháu là hòn ngọc báu

Của Quảng-Nam xưa “ngũ phụng tề phi”.

Chưa thành-hình nhưng ngục-sử rành ghi

Cuộc nổi dậy ─ của “tù-nhân cải-tạo”!

*

Những hành-hạ, những đoạ-đày ngược-bạo

Của kẻ thù, đâu đáng kể vào đâu!

Cháu vẫn hiên-ngang phút chót ngửng cao đầu

Lấy cái chết để đền ơn Tổ-Quốc!

*

Trương Thanh Tân!  Làm sao quên cháu được,

Một anh-hùng trong vô-số vô-danh

Lấy máu mình chép tội lũ gian manh

Và tưới bón cho thắm lòng Đất Mẹ.

*

Cháu dám chết khi tuổi còn rất trẻ

Dù chưa hề là công-chức, quân-nhân;

Thì những cha, anh (như chú) phải mang ân

Và phải… làm gì?  Làm gì cụ-thể

Để trả thù cho cháu, cho toàn-dân,

Và để khỏi thẹn-thùng với cháu thương-thân:

                       Trương Thanh Tân…

                                THANH-THANH

====

NGÔ HẢI QUẢNG

Tôi kính phục Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng

Cả từ thời Nguyễn Thái Học đến hôm nay.

Riêng Miền Trung có Tỉnh Quảng-Nam này

Là xuất-phát nhiều đảng-viên “gạo cội”…

Nhưng, trong trại có tên Cam Úng Thối

Là…  Bí-Thư  Đảng-Uỷ  Tỉnh  nhà  ta

Mà đớn-hèn đi khuất-phục lũ tà-ma,

Khiến mọi giới gớm nhờm như ghẻ lở!

Tôi thắc-mắc thì anh+em chống-đỡ:

Không phải người nào cũng đốn-mạt hôi tanh!

Cũng là Bí-Thư, tôi nhận-diện ra anh:

Cùng Tỉnh-Uỷ nhưng khác nhiệm-kỳ, đảm-lược!

Ngô Hải Quảng! làm sao tôi quên được:

Trong một lần mình lén hẹn cùng nhau,

Anh thở dài: Trần Bình Trọng1 nay còn đâu?

Dám chọn chết, khiến quân thù khiếp phục!

      1 Anh-hùng lịch-sửViệt-Nam, bị quân Nguyên bắt, đã mắng thẳng vào mặt giặc để bị chúng giết chết hơn là bị cầm tù & làm nhục: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc!”

Nhưng, tôi lại tưởng là anh khích giục

Tôi hiến mình nêu gương sáng hy-sinh,

Nên tôi hỏi đùa: chết cái chết quang-vinh,

Sao anh chẳng chính mình làm việc ấy?

Rồi… sau đó, người nào hoàn-cảnh nấy;

Tôi xuống Chợ-Cồn, ra Hà-Nội, vô Hoà-Sơn.

Lúc chúng trả về Tiên-Lãnh, tôi mừng rơn

Vì… ít nhất… cũng trùng-phùng bạn cũ…

Nhưng, Trần Quang Trân2 trước pháp-trường thọ-tử!

Giữa kẹp-kìm Thái Khắc Lễ3 vong-thân!

Trong quật-cường dũng-liệt Trương Thanh Tân4!

Và với bất-khuất thành-nhân5 Ngô Hải Quảng!

2 Sĩ-quan An-Ninh QLVNCH, chuyên-viên điện-tử (được Hãng Panasonic bảo-trợ tu-nghiệp tại Nhật), đã chế được máy vô-tuyến liên-lạc từ trong trại “cải-tạo” ra bên ngoài, tổ-chức phá trại vượt biên, bị bắt vào ngày 27-05-1982 và bị xử-tử vào ngày 19-06-1982 (cùng vụ đã có 12 sĩ-quan và Xã-Trưởng bị tù chung-thân hoặc hằng chục năm; 75 đồng-bạn bị biện-pháp hành-chánh “tập-trung cải-tạo” vô-thời-hạn, thực-sự thụ-hình 10 năm trở lên; và nhiều người không bị kết án nhưng bị kiên-giam).

Sĩ-quan Cảnh-Sát Quốc-Gia, dịch-giả cuốn sách “Gạo Lứt, Muối Mè”.

Xem bài thơ “Trương Thanh Tân” của Thanh-Thanh trong sách này.

5 Danh-ngôn: “Dù không thành-công cũng đã thành-nhân”.

Từ tâm-thức bỗng nhói lên một thoáng

Tôi… ân-hận mình đã… gợi ý cho anh?

Nhưng, cái chết của anh xúc-động trời xanh,

Nên, tự nó, đã cao sâu đầy ý-nghĩa!

Vì bị đày-đoạ dưới đòn thù độc-địa,

Nhiều dân lành đành chấp-nhận hèn-ươn;

Nhưng anh là một trong số ít đã cao vươn

Vượt thoát khỏi mọi cường-quyền, bạo-lực.

Anh đã đổ máu đào làm son tươi thế mực

Chép việc và người nổi bật nét hùng-kiêu,

Để nói lên: dù mái dột, tường xiêu,

Chính-Nghĩa vẫn là móng nền vững chắc.

Anh đã nêu cao tinh-thần kháng-tặc

Không riêng Quảng-Nam hay Việt-Quốc

                    mà là cả toàn-dân.

Xây Vinh-Quang cho Tổ-Quốc hồi-xuân,

Anh là một trong những hòn đá tảng:

                    — Ngô Hải Quảng!

                                   THANH-THANH

===

NGUYỄN XUÂN GIÁO1

      1Cựu Trưởng Ty Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia, Tỉnh Thừa-Thiên.

Tôi ở “An-Điềm” mới chuyển qua,

Anh từ “Tiên-Lãnh” cũng đưa ra.

Một trăm bốn chục tù nguy-hiểm

Nhốt kín rừng sâu “Đồng-Mộ” xa.

*

Ai bảo!  Bên ngoài: dân không “an”!

Bên trong: can-phạm cũng không “ngoan”!

Những tên đầu-sỏ: cần cô-lập,

Dập tắt trong đầu… mọi tính-toan!

*

Chúng bắt đi làm, mệt xỉu xâm;

Ngày hai lạng sắn (quý hơn sâm!)

Trích trong tiêu-chuần không lao-động:

Mấy chục ăn vào, trăm mấy thâm!2

      2Mấy chục người đi “lao-động” được cấp thêm mỗi người mỗi ngày 200 gr sắn, xén bớt từ khẩu-phần cầm-hơi của hơn một trăm người không đi “lao-động”.

Những lúc đi chung một chặng đường,

Thấy anh tôi qúa ngậm-ngùi thương:

Tôi còn bước được theo đồng-đội,

Anh lết chân sên  một bộ xương!

*

Âu-dược gia-đình tiếp-tế cho:

Trại không có thuốc  nhập vào kho!

Cầu nhiều, cung ít, tù nhiều bệnh,

Đến lúc anh cần: hết sạch vo!

*

Bảy chín qua đi trong tối-tăm,

Tám mươi dời trại xuống “Thôn Năm”.

Rồi anh ngã bệnh, ngày càng yếu,

Đi+đứng xiên xiêu, phải dựa+nằm.

*

Xin chúng cho anh được viết thư:

Thư mang hy-vọng hoá huyền-hư.

Chúng cho viết hết, nhưng… không gửi!

(Điều đó, anh+tôi đã biết dư!)

*

Trí lụn, thân suy, óc muộn phiền;

Cháo ngày hai sét, đói liên-miên!

Thuốc-men chẳng có, không săn-sóc!

(Nếu chết thì lôi ra trước hiên!)

*

Đến lúc anh như đã hụt hơi,

Nửa mình lạnh cứng, tay buông xuôi,

Chúng cho võng chở về “Tiên-Lãnh”;

Chúng bảo: anh đi bệnh-viện rồi!

*

Đồng-bạn mừng cho anh gặp may:

(Không như Xuân, Xáng3 chết trong này)

Nào: “tiêu-chuẩn” thuốc!  nào: “y-tá”!

Nếu được cho về nữa, lại hay!

      3 Trung-tá Trần Như Xuân chết tại “Đồng-Mộ”; trung-tá Trần Phước Xáng chết tại “Nhà Trắng” trong trại “Thôn 5” (Trại “Tiên-Lãnh 2”); đều thuộc Quận Tiên-Phước, Tỉnh Quảng-Nam.

                       *

Tám mốt, tôi từ “Kho Đạn” lên

Mới hay anh Giáo đã… quy-tiên!

(Chúng đem về nhốt trong phòng tối

Được độ vài hôm… thì là… yên!)

*

Ấy đấy!  Công ơn chúng hải-hà:

Đã không giết chết, không đòn tra,

Còn cho “học-tập”, cho lao-động,

Để “tốt” mà mau trở lại nhà!

*

Biên-bản về anh chắc chúng ghi:

(Cũng như Xuân, Xáng: sướng ai bì!)

Thuốc-men! ăn+uống! và chăm-sóc!

Bác-sĩ  đồng-tù  ký… chứng-tri!

*

Còn nhớ hôm nào: anh với tôi

Cùng bàn thế-sự, máu cùng sôi;

Ta dùng tiếng Pháp trên đầu địch,

Thù giặc, căm-hờn lũ… tớ-tôi!

*

Anh đã là tù thuở ngáo-Ngô;

Tôi: tù phong+thực lẫn mê-nô.

Bây giờ ta lại tù man-Cộng:

Anh hết, tôi còn… tới lúc mô?

*

Nhưng, hễ trên cao còn Trời Xanh,

Thì còn lưong-hảo thắng gian-manh!

Tôi nguyền đóng góp cho Đời đẹp,

Cho thoả lòng Người, thoả dạ anh!

                  Tiên-Lãnh 1, 02/03/1981

                         THANH-THANH

===

==

Minh Thúy Thành Nội

Phần I

Ngày tháng trôi qua vùn vụt, mới đó đã nửa thế kỷ từ khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam. Năm nay hình như cơn buồn của người dân tỵ nạn tăng lên nhiều hơn, nỗi nhớ, nỗi uất hận cũng thấm đậm hơn. Tôi thấy nhiều hội đoàn xôn xao chuẩn bị ngày tưởng niệm mất nước trong “tháng Tư Đen” sớm hơn, thay vì những năm trước chỉ vào cuối tháng.

Chủ Nhật ngày 6 tháng 4/ 2025 chương trình ca nhạc “Kỷ Niệm 50 Năm Sài Gòn Mất Tên” do Nhóm Thân Hữu Sài Gòn, ban nhạc Sài Gòn Nhớ và ông Lê Văn Hải, Hội Trưởng cơ sở Văn Thơ Lạc Việt (VTLV), cũng là Trưởng ban Báo chí Bắc Cali và chủ báo Thằng Mõ kết hợp tổ chức tại quán Coffee Lovers tọa lạc tại 1855 Aborn Rd. San Jose, Ca 95121. Cũng như bao nhiêu lần tổ chức, người hùng Lê văn Hải luôn khoản đãi phần nước ngọt free và phần quà sổ số trúng thưởng.

Quan khách đến dự quá đông, nhiều cụ già con cháu đẩy xe lăn vào ngồi lắng nghe những bài hát mang chủ đề “Chiều Nhạc Tưởng Niệm 50 Năm Sài Gòn Mất Tên” Những khuôn mặt trầm tư với mái tóc pha sương, ánh mắt trĩu buồn xa vắng. Năm mươi năm tưởng như mới ngày hôm qua, dù Sài Gòn đã bị Việt Cộng (VC) đổi tên, nhưng nó vẫn còn sống mãi, hằn sâu trong tâm trí, và cất giữ trong trái tim người dân miền Nam đang ở trong nước, cũng như đồng bào tỵ nạn đang sống lưu vong trên khắp thế giới.

“Sài Gòn ơi! Tôi đã mất người trong cuộc đời

Sài Gòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời

Giờ còn đây, những kỷ niệm sống trong tôi

Những nụ cười nát trên môi

Những giọt lệ ôi sầu đắng…” (*1)

Tiếng hát vang lên trong không khí lắng đọng…hình ảnh Sài Gòn được mang danh Hòn Ngọc Viễn Đông nhộn nhịp đầy sinh động còn đâu nữa. Ký ức không thể quên được ngày 30/4 đen tối, tang thương bị Việt Cộng chiếm đoạt miền Nam. Niềm đau buồn của đất nước, đảo lộn cuộc sống đang ấm no hạnh phúc trở thành địa ngục chốn trần gian.

“Năm 1954 ông bà Nội tôi đã đưa gia đình trốn thoát ban đêm lên Hà Nội, tới Hải Phòng xuống tàu di cư vào Nam vì có tên trong danh sách chôn sống địa chủ. Tháng tư/1975 lúc VC vào chiếm, những tiếng thở dài, những lời gào khóc đau đớn. Mẹ tôi, đôi mắt trũng sâu và quầng thâm qua một đêm thao thức, tuyệt vọng kéo tôi ra góc sân:

– Con cầm tiền thích gì thì mua ăn. Rồi đến tiệm thuốc tây mua thuốc rầy, mấy mẹ con cùng uống. Mẹ đã từng sống với họ rồi. Không chịu nổi đâu con.

Tôi quay lưng, tránh nhìn đôi mắt đầy nước mắt của mẹ, bước vội ra phố. Tôi đã không làm theo lời dặn mua thuốc vì đầu óc đang còn ngơ ngẩn.

Cũng khoảng thời gian này, bà Nội đang ở với chú tôi tại Phan Rang đã nổi cơn điên, gào thét khi thấy lá cờ đỏ sao vàng: “Quân ăn cướp! Trả lại tài sản cho tao. Quân ăn cướp!” Nửa đêm bà Nội trốn ra khỏi nhà. Không biết bà chết, vùi thây nơi đâu, đến nay con cháu vẫn không có tin tức. Sau đó là những ngày đói rách cùng tận… Tinh thần mẹ con tôi bị khủng bố theo mỗi đợt họp cưỡng bách đi kinh tế mới, ép đi lao động thủy lợi.

Cha tôi hồi đó là Trưởng Cuộc Cảnh Sát. Sau hơn một năm rưỡi đi tù cải tạo về, bị cưỡng ép lên vùng kinh tế mới với dì Hai và bảy người em. Cha tôi lạnh lẹ mở lò gạch nên dân trên vùng kinh tế mới có việc làm. Ông vận động nhà cầm quyền địa phương, xin quyền lợi cho nhân công được lãnh tem phiếu và gạo mỗi tháng. Công việc trôi chảy nếu không nói là phát triển mạnh. Dưới thành phố bệnh viện, cơ quan, trường học lên ký hợp đồng mua gạch rất nhiều. Thế rồi chủ tịch kiểm soát vùng kinh tế mới đến mượn lò gạch và ngang nhiên chiếm trâu bò của em tôi (dùng vào rừng đốn củi). Cha tôi uất ức nghẹn ngào nói với con cháu “chưa thấy chế độ nào khốn nạn như vậy, mình bị ngã nó đạp cho xuống vực, mình vừa ngoi đầu lên nó lại ăn cướp công của tài sản”.

(trích từ bài viết “Nửa Thế Kỷ Nhìn Lại của tôi được in trong tuyển tập của hội Cô Gái Việt).

Trở lại buổi chiều nghe nhạc trong không khí trầm lắng, tiếng hát buồn vời vợi đưa tâm hồn mọi người đi về miền quá khứ, tiếc nuối một Sài Gòn hoa lệ với biết bao kỷ niệm. Tôi thầm cám ơn ông Lê văn Hải đã tổ chức hàng năm cùng sự góp mặt của các ca sĩ. Những năm trước tổ chức tại Câu Lạc Bộ Mây Bốn Phương, Cà Phê Lover, và bây giờ là lần thứ 7, chúng tôi được thưởng thức những bản nhạc gợi hình ảnh quê hương yêu dấu xa ngàn trùng đầy tiếc nuối.

Thứ Hai ngày 7 tháng 4 / 2025, theo tin của phóng viên thi sĩ Mạc Phương Đình cho biết “Tại tiền đình Quận hạt Santa Clara, Giám Sát Viên Betty Dương và Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Otto Lee đề xướng cùng Cộng Đồng Việt Mỹ Bắc Cali, phối hợp với Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Tây Bắc Hoa Kỳ, tổ chức buổi Thượng Kỳ và treo Cờ rũ VNCH để khởi đầu cho những chương trình tưởng niệm trong suốt tháng Tư, nhằm ghi nhớ và tưởng niệm một phần lịch sử chung của chúng ta.

Buổi lễ đã được long trọng khai mạc với hàng trăm các cựu quân nhân VNCH, các cựu chiến binh Hoa Kỳ và đồng hương Việt Nam tham dự. Theo dự kiến trong suốt tháng Tư, cờ Việt Nam Cộng Hòa sẽ tung bay tại trụ sở Hành Chánh của Quận Hạt, như một biểu tượng tưởng niệm những người đã hy sinh. Và như một ánh sáng dẫn đường cho hành trình tiếp tục gìn giữ các giá trị về tự do, dân chủ và nhân quyền”.

Chủ nhật ngày 13 tháng 4/2025, ông Lê Văn Hải hội trưởng của VTLV tổ chức buổi “Tưởng Niệm Tháng Tư Đen” tại County Hall (Isaac Newton Senter Auditorium 70 W Hedding ST. San Jose, CA 95110) được bảo trợ bởi Giám Sát Viên Hạt Santa Clara Betty Dương. Vẫn những khuôn mặt đáng kính của VTLV góp bàn tay đắc lực như thầy Phạm Thái lo bao quát, phóng viên Mạc Phương Đình, ông Hoàng Thưởng điều khiển nghi lễ chào cờ hát Quốc Ca Mỹ -Việt, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng mở đầu chương trình, ban nhạc Sài Gòn Nhớ do chị Thuý Nga đảm trách cùng các ca sĩ trình diễn, hai MC duyên dáng Hạnh Thảo, Thanh Loan phối hợp cùng ban Du Ca của ông Trương Tấn Mẫn, đặc biệt có cô xướng ngôn viên Đồng Thảo của đài phát thanh Quê Hương góp mặt.

Hội trường rộng với sự tham dự đông đảo của đồng hương. Sau phần phát biểu của những vị Dân Cử, Giám Sát Viên Betty Dương phát bằng tưởng lục cho ông Lê Văn Hải, phần tâm tình của Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Dũng bày tỏ về ý nghĩa đau buồn của mùa quốc hận. Tiếng nhạc vang lên quyện vào giọng hát.

Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt

Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương

Tự do ôi tự do! em đổi bằng thân xác

Vì hai chữ tự do! ta mang đời lưu vong … (*2)

Tôi nghe mắt mình cay cay vì ca từ diễn tả về chuyện thuyền nhân vượt biển. Ký ức đi rất xa, xa khoảng thời gian từ 1980 đến 1985 mà tôi đã ghi lại trong câu truyện “Tháng Ngày Tìm Tự Do trước đây.

*

Hơn năm năm vất vả ngược xuôi tìm đường trốn ẩn, có lần trên đường đến điểm hẹn bị bể, bà con chạy tán loạn, tôi và đứa em trai chạy chui vào rừng sâu, nghe tiếng súng nổ bà con bị Công An hốt lên xe, họ lùng sục đến nửa đêm và tôi thoát nạn ở vùng Rạch Sỏi (Kiên Giang). Theo đuổi từ năm này qua năm nọ vẫn miệt mài không sờn chí. Có lần trốn cả nhóm bảy người (dòng họ bà con) trong rừng mấy ngày bị bắt còng tay đi vào làng, được dân miền Nam hiền hậu tốt bụng đem cơm nước, thức ăn xin tổ trưởng cho chúng tôi được dùng, sau đó vào nhà tù An Biên (Rạch Giá).

Ký ức khó quên nhất trong ngày tháng bị tù đày là: Công an coi tù chỉ một hố sâu chứa nước toàn đất sét và rong rêu vàng khè tạm gọi là chỗ… phát nước uống. Mỗi sáng họ mở cửa cho lấy nước từ đó uống, bà con không uống nổi với mùi tanh của nước bẩn, các chị có sáng kiến nấu cơm đổ nước đầy nồi, nước sôi chắt ra bình để cơm cạn chín, từ đó uống bằng mùi nước gạo. Mỗi chiều họ mở cửa cho ra vệ sinh và tắm bằng con đầm nước cũng đục ngầu sau khi đàn trâu tắm trước, chỉ khác chút là không cho trâu tắm chung với người. Ra tù chẳng còn tờ giấy hộ thân, sống chui lủi tránh con mắt công an, đi tới đâu  mua vé chợ đen, đêm ngủ chung với đám ăn xin vì không có giấy tờ tuỳ thân, không dám vào phòng trọ quanh bến xe.

Chuyến cuối cùng lọt đến đảo Pulau Bidong, được Ban Trật tự dẫn về căn gác ở chung hai chị độc thân. Sáng hôm sau nghe loa gắn trên các ngọn cây “Đây là tiếng nói của người dân tỵ nạn Cộng Sản trên đảo Pulau Bidong …”, tôi mới thật sự biết mình còn sống, đã thật sự rời xa mảnh đất quê hương thân yêu, và ôm mặt khóc nức nở khi nghe Thanh Thúy hát “Ai về bến Ngự cho ta nhắn cùng. Nhớ chăng non nước Hương Bình! Có những ngày xanh…” *(3)

Ngày ngày ra bến đón những chuyến tàu tấp tới, lắm lúc chứng kiến cảnh phụ nữ được khiêng băng ca vào bệnh viện vì tàu bị hải tặc. Có em bé khoảng 15 tuổi ở đối diện trước mặt nhà, nghe những người đi chung chuyến với em, to nhỏ kể chuyện chuyến đi bị cướp, vét sạch tiền vàng, lôi phụ nữ qua tàu họ làm chuyện tồi bại, khi lôi kéo dằng co, em bé này đã khóc lóc gào to: “Lạy Chúa tôi, con đâu có tội tình chi?

Chị T nằm chung gác với tôi, kể chuyến đi của chị gồm mười một người, trên tàu chỉ có ba phụ nữ, trong đó một cô khoảng 18 tuổi đi cùng chồng chưa cưới. Hai tàu từ xa đến húc mạnh vào thuyền của chị tưởng chừng muốn bể đôi. Hải tặc nhảy qua lôi ba người phụ nữ, nó giở trò nhưng thấy chị đang có kinh nguyệt, tát mấy bạt tai mạnh xô chị xuống tàu. Hai cô kia chống cự rất mãnh liệt, nó xốc lên, hai cô vật xuống, cứ như vậy vài lần các cô đuối sức, chúng xé toạt áo, vài tên kềm giữ hai bên để tên khác cười man rợ bày trò khốn nạn trước mặt mọi người. Anh chồng chưa cưới chỉ biết ôm mặt gục đầu. Chúng bắt cóc hai phụ nữ đi luôn trong tiếng khóc nức nở của người chồng.

Tôi chuyển trại qua Sungei Besi (thủ đô của Mã Lai), được Cao Uỷ sắp xếp về khu Thanh Nữ Độc Thân sống chung phòng gồm mười chị em. Chị H cuối góc phòng ít nói chuyện, suốt ngày ngồi đan len, nét mặt ẩn hiện nỗi buồn sâu lắng nội tâm. Được biết tàu chị đi bị lạc hướng lênh đênh hơn một tháng, đói khát kiệt sức nướng thịt người ăn cầm cự nhưng rồi đều chết từ từ, chồng và đứa con trai chị cũng bỏ mạng, lúc gặp tàu quốc tế vớt chỉ còn lại vài người.

Chị A có chồng bên Mỹ, dẫn theo đứa con trai bảy tuổi vượt biên trên chiếc ghe vài người chỉ mình chị là phụ nữ. Gặp hải tặc kéo chị qua tàu, chúng dụ cháu nhỏ các món đồ chơi rồi hiếp chị. Chúng dội nước lạnh vào mặt chị, sau những lần chị bị ngất xỉu, thay phiên nhau làm chuyện tồi bại cho đến khi gặp tàu buôn, chúng phi tang tội lỗi bằng cách giao chị lại. Chị được bệnh viện chăm sóc tận tụy sau thời gian dài nằm liệt người. Mỗi sáng loa phóng thanh gọi tên chị lên kiểm tra sức khỏe, lúc trở về phòng chị cho xem thuốc ngừa thai và thuốc đề phòng bệnh Aids. May mắn tinh thần chị vững mạnh vượt qua chưa bị điên loạn.

Em C hay bị đau đầu thường lên bệnh viện khám, nguyên nhân tàu em gặp ba tàu cướp bao vây tấn công. Tàu đông phụ nữ sợ hãi nhảy xuống hầm trốn, em bị một tên cướp chụp đầu lôi lên trong khi em đang ôm chặt song sắt, tên cướp túm tóc kéo giật mạnh, đang lúc dùng dằng thì tàu tuần tra trên biển xuất hiện, bọn cướp phóng về tàu mình chạy nhanh.

Đáng lẽ tôi được chuyển qua Phi Luật Tân học ba tháng Anh Văn cũng như học về đời sống Mỹ, nhưng bên đó bị tình trạng ứ nghẹt người, nên được chuyển qua đảo Galang 2 của nước Indonesia. Nơi đây tôi sống chung bốn chị em ở dãy nhà dành riêng cho phụ nữ quay ra bìa rừng. Hằng ngày đến trường học, chúng tôi đi ngang qua khu Miếu được dựng dưới gốc cây đa rậm lớn. Nghe kể lại Miếu thờ hai chị em bị hải tặc hiếp, chờ đợi diện nhân đạo hơi lâu, hai chị em nhục nhã mỏi mòn rủ nhau ra đó treo cổ chết, bà con thương tâm lập Miếu thờ.

Hai chị em H và B chung phòng cũng kể tôi nghe: Trong chuyến đi bán chính thức của người Hoa năm 1977, cả gia đình được chia ra 2 tàu, hai em chứng kiến tàu ba mẹ bị đắm chìm giữa biển cả mênh mông, trước con mắt sững sờ của tàu còn lại, nhưng đành chịu bất lực. Hai em nói hình ảnh ấy luôn hiện lại trong giấc mơ đau nhói.

Trong dòng họ bên chồng tôi có cháu gái, hai em gái con bà O ra đi mất tích biền biệt. Vợ chờ chồng đi tù về (anh tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh), cả gia đình vượt biển gặp hải tặc giết hết đàn ông. Năm ngoái tôi được xem phim “Boat People” của đạo diễn Thanh Tâm từ Canada đem qua Mỹ chiếu trong ngày 30/4, có đoạn một nhân vật kể lại: Xác các em thiếu nữ đi chung một ghe tấp vào làng biển xa xôi, được dân chôn và lập nơi thờ, tôi giật mình liên tưởng đến hai dì cháu tuổi còn thanh xuân, đi trong một tổ chức nghe đâu chuyến đó chỉ toàn con gái. Tôi bị ám ảnh nặng đầu khi xem khung cảnh chiếu ngôi làng, muốn về kể cho người chị và bà O nghe, nhưng không có can đảm vì lo ngại khơi lại nỗi buồn cố lắng xuống đã gần 40 năm.

Tôi nép thân trên mảnh thuyền mong mạnh sương gió

Như một người tìm đường về nơi đáy mồ

Tôi bước đi vì không muốn làm kẻ tội đồ

vì tôi muốn lại kiếp con người

muốn cuộc đời còn có những nụ cười… (*4)

Tâm tư tôi đã trải mênh mông trên vùng biển, hình ảnh con tàu đêm giông bão như những chiếc thuyền giấy thả trên nước lụt chơi hồi còn nhỏ. Rùng rợn mỗi cơn sóng ào đến cao ngất phủ xuống con thuyền nghiêng sát mặt nước. Tiếng la hét, tiếng đọc kinh râm ran, tiếng người điều khiển “bà con bình tĩnh tát nước ra, nước đang ngập đầy”, chỉ một tích tắc thuyền sẽ chìm hoặc lật trong đêm tối mực. Tiếng ói mửa thi nhau vào đầu, vào mặt, mùi hôi tanh của kinh nguyệt, ngồi ngâm mình trong nước lạnh cóng, tôi đuối sức nghĩ mình sắp chết, lơ mơ tự hỏi thầm “cha mẹ có linh ứng gì không? con sắp ra đi rồi…” nhưng số còn sống, không bị gặp hải tặc và ký ức chưa bao giờ quên cuộc vượt biển liều lĩnh, tìm một phần sống trong 99 phần chết.

*

Thứ Bảy ngày 26 tháng 4/2025, tại tiền đình Quận Hạt Santa Clara số 70 West Hedding St San Jose, CA 95110, Uỷ Ban Chấp Hành Cộng Đồng Việt Mỹ tổ chức “Đại Lễ Tưởng Niệm 50 Năm Quốc Hận 30 Tháng Tư”.

Chúng tôi đến sớm mang tâm trạng hồi hộp khi thấy các anh lính Việt Nam Cộng Hoà mặc quân phục theo từng binh chủng. Hình ảnh oai hùng của một thời còn sôi sục tinh thần chiến đấu chẳng chịu buông, nhưng vận nước nổi trôi đành theo số mệnh. Các anh đã bị tù đày nơi chốn rừng sâu, bị đọa đày bởi quân Cộng Sản thâm độc hiểm ác. Nhắc đến chuyện tù tội, không làm sao kể hết chuyện dài của các anh đi “cải tạo” mà tôi được nghe kể lại trực tiếp, hoặc đọc nhiều sách như “Đời Tù Một Thiên Nga” của Nữ Tình Báo Thiếu Tá Thanh Thủy, “Con Trâu Đâu Có Cải Tạo” của Nhạc Sĩ Lê Hữu Nghĩa, tôi nhớ nhất hai câu nói của người tù và cán bộ:

Người tù:

– Thưa cán bộ, muốn gia tăng năng suất lao động, ở trại có nuôi một bầy trâu mấy chục con sao không sử dụng để kéo bừa.

Cán bộ:

– Các anh cải tạo chớ con trâu đâu có cải tạo mà bắt nó kéo bừa.

Mời đọc truyện ngắn trong đường dẫn dưới đây để thấm nỗi tù đày nhục nhã bị bóc lột dã man tàn nhẫn không thể tưởng.

http://nhinrabonphuong.blogspot.com/2020/03/con-trau-au-co-cai-tao-

Thật là đau lòng uất nghẹn: họ đã ký kết hiệp định ngừng chiến nhưng lại vi phạm trắng trợn, lì lợm cố chiếm miền Nam cho bằng được, để biến một miền Nam đang sung túc bị lộn ngược nghèo đói và lạc hậu. Tôi nhớ năm 2015, giai đoạn này còn đi làm, nhưng nghe cuốn phim “Ride the Thunder” (Cưỡi Ngọn Sấm) của ông Richard Botkin đã từng là vị cố vấn sát cánh với Trung Tá Thủy quân Lục chiến Lê Bá Bình (người thật việc thật) thời chiến tranh Việt Nam. Tôi đi làm về sớm để được xem phim tại rạp, phim chiếu cảnh tù đày của người lính VNCH khiến ai cũng nín thở, đau lòng phải khóc, con mắt mọi người đỏ hoe khi ra khỏi rạp.

Xin trích lời nhận xét:

 “Sự thật những người lính quân đội Việt Nam Cộng Hòa là những người quả cảm. Không ai muốn ngừng chiến đấu cả. Miền Nam Việt Nam đã gần đoạt được chiến thắng rồi. Nhưng họ phải bỏ súng vì Hoa Kỳ quyết định không hỗ trợ, không viện trợ nữa, trong khi miền Bắc vẫn tiếp tục được Nga và Tàu hỗ trợ. Còn nhiều sự thật nữa mà ông Richard Botkin muốn đưa lên màn ảnh. Sự thật về sự tàn ác của bên thắng cuộc tại những trại tù cải tạo.”

Sự thật về những người vợ có chồng đi cải tạo vừa bươn chải lo cho con, vừa đối phó với mọi khó khăn của cuộc sống, vừa chắt bóp thăm nuôi chồng, vừa mòn mỏi đợi chờ, cho đến ngày chồng hoặc được thoát khỏi ngục tù hay được tin chồng đã chết. Ông Richard Botkin cho biết cũng vì mục đích trả lại sự thật cho lịch sử mà ông muốn biến cuốn “Ride the Thunder: A Vietnam War Story of Honor and Triumph” thành phim.

Giờ đây nhìn những bộ quân phục, tôi lại liên tưởng câu chuyện của Trung Tá Võ Vàng chồng bà Đường (hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi), đã bị Việt Cộng lừa xuống suối một mình, bắn ngang nhiên nhiều phát đạn, đổ tội Trung Tá trốn trại (bạn tù kể lại), thật vô cùng dã man trong trại tù “cải tạo” và khi có dịp về Nam Cali thăm, Cô thường nhắc lại, nay thì Cô và Trung Tá Võ Vàng đã gặp nhau bên kia thế giới.

Chủ Nhật 27 tháng 4/ 2025 có 2 nơi tổ chức lễ:

1/ Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Tây Bắc Hoa Kỳ tổ chức “Lễ Giỗ Và Tưởng Niệm Anh Linh Các Chiến Sĩ Dân-Quân- Cán – Chính Việt Nam Cộng Hoà Tuẫn Tiết trong ngày 30/4 /1975” tại 2670S.White RD #175 San Jose CA 95148.

2/ Cộng Đồng Việt Nam Bắc Cali tổ chức” Tưởng Niệm Quốc Hận Lần Thứ 50” tại 1141 East William Street, San Jose CA 95116.

Thứ Tư 30/4/2025 có 4 nơi tổ chức lễ:

1/ Buổi sáng: Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức/QLVNCH tổ chức “50 Năm Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4/75 & Lễ Truy Điệu Quân Dân Cán Chính VNCH và Các Vị Tướng Tá Tuẫn Tiết” tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ “Thank You America” (Khu Công Viên Vườn Truyền Thống Việt) 1499 Roberts Ave, San Jose, CA 95112 lúc 9 giờ.

2/ Buổi sáng: Liên Hội Cựu Quân Nhân tổ chức “Lễ Thượng Kỳ và Rũ Kỳ” tại Tiền Đình Toà Thị Chính Thành Phố San Jose, số 200 E. Santa Clara St, San Jose CA 95113, được sự quan tâm, phối hợp của chính quyền Thành Phố lúc 11 giờ.  

3/ Buổi chiều: Tuổi trẻ Vietnamese American Roundtable tổ chức chủ đề “50 TH Anniversary Commemoration of The Fall of Sài Gòn. Honoring History, Shaping Tomorrow” tại City Hall Rotunda 200 East Santa Clara Street, San Jose CA 95113.

4/ Buổi chiều: Tại Đền Thánh Tử Đạo Việt Nam 685 Singleton Road, San Jose CA 95111: “Lễ Dâng Hương Tưởng Niệm 50 Năm Tháng Tư Đen, Thánh Lễ cầu nguyện cho những thuyền nhân đã chết trên đường vượt biển”

Mùa Quốc Hận năm nay, các hội đoàn thay phiên nhau tổ chức Lễ Tưởng Niệm ngay từ đầu tháng Tư. Thật quý hóa thay những tấm lòng yêu nước Việt Nam Cộng Hòa. Chân thành cám ơn các hội đoàn.

Chú thích:                                                    

(*1) Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt- NS Nam Lộc

(*2 & 4) Xin Đời Một Nụ Cười – Nam Lộc

(*3) Đêm Tàn Bến Ngự – Dương Thiệu Tước

Phần II

Thứ Tư đúng ngày 30 /4. Chúng tôi thức dậy thật sớm chuẩn bị lái xe lên dự lễ Tưởng Niệm ngày Quốc Hận tại công viên Vườn Truyền Thống Việt do Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức tổ chức. Biết giờ cao điểm bà con đi làm, đường xá kẹt xe nên khởi hành lúc 7:30, freeway 880 nhích xe từng đoạn, tôi không dám nhìn đồng hồ phó mặc cho số mệnh, đến nơi mới dám nhìn thấy kém 5 phút đúng 9 giờ làm lễ, tôi thở phào sung sướng vì sẽ được hát bài Quốc Ca Việt Nam.

Buổi lễ trang nghiêm do ông Hoàng Thưởng và ông Lê văn Hải điều khiển chương trình. Chúng tôi thắp nén nhang thành kính trước di ảnh các vị: Thiếu Tướng Phạm văn Phú, Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Nguyễn Văn Long là những vị anh hùng “Sinh vi Tướng, Tử vi Thần “đã tuẫn tiết trong những ngày mất nước. Ngoài ra còn biết bao nhiêu vị sĩ quan hoặc những người lính vô danh đã tự sát trong thời điểm đó. Thật là vinh danh các vị anh hùng đã vị quốc vong thân, đúng là “Anh Hùng tử, khí hùng bất tử”.

https://tienggoicongdan.com/2015/03/05/cdnvqghk-danh-sach-anh-hung-vnch-tuan-tiet-trong-thoi-gian-30-4-1975/canhsatquocgia.org

Màu nắng rực rỡ chan hòa, mây trời trong xanh tuy khí hậu còn hơi lạnh. Tôi ngẩng nhìn tượng đài Việt – Mỹ, pho tượng người lính Mỹ và người lính VNCH trong tư thế hiên ngang anh dũng đầy tinh thần bất khuất. Mắt nghe cay mờ, hồi tưởng biết ơn đến sự hy sinh của những người lính VNCH, quý báu hơn nữa là những người lính Mỹ, xin trích một đoạn trong bài viết “Ký Ức Chưa Phai” của tôi:

… “Trí óc tôi miên man càng lúc càng sâu về đề tài chiến tranh và sự hy sinh…  Điển hình về bức tường đá đen tại Washington DC, được khắc tên hơn 58,000 anh hùng lính Mỹ đã hy sinh tính mạng trong cuộc chiến tại Việt Nam. Điều thật đáng trân trọng và hiểu rõ nỗi đau đớn khôn cùng của những bà Mẹ, những người vợ trong hoàn cảnh mất con mất chồng. Làm sao chúng ta có thể quên được hay mất đi những cảm xúc nhức nhối này, người Mỹ không chết vì nước Mỹ, một sự hy sinh quá vĩ đại dù đã 45 năm trôi qua, nó luôn là nỗi đau buồn đối với người thân họ, và chúng ta cũng sẽ ray rứt phần nào với cái chết của họ” …

Thầm lặng nguyện cầu đến những anh linh tử sĩ đã hy sinh bỏ mình ngoài chiến trận, những người tìm tự do bỏ mạng trên biển cả, đường bộ, những tù “cải tạo” chết trong rừng sâu khổ nhục, những bạn đồng minh sát cánh chiến đấu trên trận tuyến Việt Nam. Còn cái “Ơn” nào bằng giờ đây tôi được định cư nơi xứ Cờ Hoa, nhờ nước Mỹ nhân đạo mở rộng vòng tay cứu vớt, được sống trong không khí tự do và hưởng một đời sống sung túc.

Xong buổi lễ chúng tôi chạy qua Tiền đình Tòa Thị Chính do Liên Hội Cựu Quân Nhân tổ chức. Rất phấn khởi và hãnh diện nhìn trên các con đường cũng như những khu thương mại lớn, một rừng cờ vàng tung bay rực trời. Lá cờ của hồn thiêng sông núi, vì mất nước đã sống chết đem theo mình, vận động vào dòng chính Mỹ để được phát huy, phát triển tinh thần quốc gia không chịu khuất phục dưới sự đàn áp độc tài đảng trị của VC nên trốn chạy. Nơi nào có dân tỵ nạn là có cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay khắp năm châu bốn bể trên toàn thế giới. Tại Bắc Cali có nhóm Hậu Duệ Cờ Vàng do em Minh Huy làm trưởng nhóm, hăng say cầm cờ diễn hành trong các buổi lễ lớn, hoặc theo dõi những tù nhân lương tâm bị bắt bớ trong nước để tìm cách vận động, đấu tranh.

 Giờ đây, trước Tòa Thị Chính, lá cờ bay trong nắng, sau khi làm lễ Thượng Kỳ và treo cờ rũ, chiếc máy bay ngày trước đã từng qua VN tham chiến bay rất nhiều vòng trước sự giới thiệu của MC, bà con xúc động ngẩng lên trời đưa tay vẫy chào cùng sự tham dự của chính quyền Thành Phố.

Chúng tôi tìm quán ăn ngồi nghỉ ngơi chờ 4:30 chiều vào trong Toà Thị Chính do nhóm trẻ có cái tên “Vietnamese American Roundtable” tổ chức, được sự bảo trợ của Nghị Viên Biên Đoàn. Người đến dự rất đông mặc toàn màu đen, hội trường rộng lớn đặt ghế nhiều nhưng vẫn không đủ nên số người đứng chật chung quanh. Đây là thế hệ nối gót “tre già măng mọc”, tuổi trẻ học cao, thành đạt trên xứ người hợp lực trong tinh thần đoàn kết. Các em đặt bàn thờ bảy vị tướng tá Vi Quốc Vong Thân, dâng những vòng hoa trắng trông rất trang trọng đẹp mắt, các em rất lễ phép chào hỏi người lớn tuổi và nhờ cầm cờ vàng chung ba thế hệ một tấm lòng.

Lúc đến giờ khai mạc, đoàn người ra dàn chào với 50 lá Quốc Kỳ phất cao trong khí thế mạnh mẽ. Chương trình được Thị Trưởng, Nghị Viên, Dân Biểu Thành Phố lên phát bằng khen thưởng. Sau đó chiếu những đoạn phim của thời điểm mất nước, cảnh quân dân chạy tán loạn, cảnh người vượt biển gợi nhớ ngày miền Nam Việt Nam đầy tang thương quá đau lòng. Tiếp tục những bài hát hướng về hương yêu dấu, vinh danh tên tuổi chiếu những nhân vật công trong mọi lãnh vực, xen kẽ lời phát biểu, tâm tình của các em đầy xúc động.

Tóm tắt lời phát biểu của các em:

 – Kính thưa các Cô Chú, các Bác, các Ông Bà. Chúng con sinh ra nơi đây, nhưng biết nguồn gốc của mình là người VN, lý do tại sao đến đây từ Cha, Ông kể lại lịch sử đau buồn của ngày 30/4, và cũng chính cha ông đã từng bị tù đày khốn khổ. Chúng con vô cùng biết ơn thế hệ đi trước đã hy sinh quá nhiều, để chúng con có được ngày hôm nay, và luôn nhớ mãi ngày quốc hận, cũng như quyết tâm gìn giữ nối tiếp ngọn Cờ Vàng…

– Hiện nay hàng ngày con được đi học, được sự chăm sóc của ba mẹ lo từng bữa cơm no, áo ấm. Lúc nhỏ con vô tư chẳng hiểu gì, chỉ biết vui chơi học hành, lớn lên theo ba mẹ đi dự những buổi sinh hoạt Cộng Đồng, nhất là dự những hội chợ Tết, thấy người VN chung tay tổ chức, con mới cảm nhận được hai chữ “đồng hương”. Trong nhà thương quý ba mẹ vô cùng, ra ngoài kính nể lớp người đi trước đã gầy dựng một Cộng Đồng gìn giữ truyền thống văn hóa tốt đẹp của đất nước mình trên xứ người, cho nên con đã ghi tên học lớp Việt Ngữ, nhận ra tiếng Việt mình đẹp hay quá, rồi tiếp tục dạy lại các lớp nhỏ…. 

– Rất mong những bạn trẻ hăng hái tham gia, góp sức gầy dựng Cộng Đồng VN mỗi ngày một vững mạnh thêm, như Tết năm nay nếu không có tổ chức buổi diễn hành hoa hậu, hay dạo ngắm quang cảnh các buổi chợ thì em sẽ buồn lắm, vì nơi đó là sức sống, là hơi thở của người Việt Nam nơi chốn tha phương…”

Vẫn còn nhiều nơi:

Buổi trưa:  Việt Museum tổ chức tại 2410 Senter RD, San Jose CA 95111.

Năm giờ chiều: tại Century nhóm văn nghệ của Nhạc Sĩ Hoàng Tường (Houston qua), ban Tuệ Đăng của Thu Nga, cùng đoàn trống La San.

Sáu giờ chiều tại Đền Thánh Tử Đạo, chưa kể Sacramento (thủ phủ của tiểu bang California), và nhiều tổ chức khác nữa.

Thôi thì tùy duyên tham dự, nơi nào có dân Việt Nam lưu vong tỵ nạn là có lá cờ vàng mà lớp cha anh đã tranh đấu, vận động mạnh mẽ để có được màu cờ của tự do dân chủ bay phất phới trên xứ người. Giờ đây đã 50 năm, trong mùa Quốc Hận ở đâu có tổ chức, chúng tôi đều muốn tham dự, dẫu đường xa lái từ nhà tới San Jose nếu không kẹt xe cũng mất 50 phút.

Nhờ những buổi lễ này, chúng ta được thấy lá cờ vàng, được hát bài Quốc Ca, được thắp nén hương cho các vị tướng lãnh đã can trường tuẫn tiết trong ngày 30/4/75, được có phút mặc niệm đến các anh linh hồn thiêng sông núi, hàng triệu người trốn chạy làm mồi cho cá và đổi bằng thân xác cho cướp biển, mồ chôn tù cải tạo trong rừng sâu, được thấy những bộ quân phục của người lính VNCH gợi nhớ một thời nữ sinh đi choàng vòng hoa chiến thắng, dẫu đau nhưng lại rất dịu vợi đắp lên miền dĩ vãng, được gặp gỡ đồng bào VN, những người cùng chung tâm trạng mất quê hương, tỵ nạn nơi xứ người nhưng luôn ấp ủ lá cờ vàng trong tim.

Chúng ta nhìn nhau thông cảm thì nỗi đau, sự uất ức được an ủi và ấm lòng biết bao nhiêu.

Minh Thúy Thành Nội

30 Tháng Tư/2025 (Bắc Cali)