VÌ ĐẢNG ĐỘC TÀI 212

1/212- 

Băm lăm năm xa lìa đất nước,

Để tránh vòng nanh vuốt Cộng nô.

Sống trên đất nước tự do,

Dân quyền đệ nhất chẳng lo nỗi gì.

Lìa quê Mẹ chỉ vì giặc Cộng,

Lũ không tim, xuẩn động vong nô.

Huênh hoang tư tưởng “bác Hồ”,

Miệng Nam Mô, bụng chứa bồ dao găm.

Chúng ra sức gây mầm chia rẽ,

10/212- 

Lại giở trò bánh vẽ mị dân.

Quả là một lũ vô thần,

Hiện thân giống qủy, bạo Tần cũng thua….

Nhớ lại thủa đầu mùa lá uá,

Bày mưu gian gậy múa vườn hoang.

Hô hào  giải phóng quê hương,

Toàn dân sầm sập lên đường chiến chinh.

Khi hết giặc hoà bình chớm nở,

Quê hương mình chúng nỡ chia đôi.

Oán thù gieo rắc khắp nơi,

20/212- 

Kẻ đi, người ở dậy trời khóc than.

Dân Miền Bắc vô vàn khốn kh

Khắp xóm làng đấu tố gắt gao.

Thành phần Trí, Phú, Địa, Hào

Tù đầy, đâm chém xiết bao thảm sầu.

Giới tu sĩ thâm sâu thiện tánh,

Sống cuộc đời đạo hạnh từ bi….

Chân tu hỏi tội tình gì?

Cớ sao đầy ải chỉ vì giác tha ????

Cả dân tộc trẻ già ngơ ngác,

30/212- 

Sống đọa đầy uống nước cầm hơi.

Oan khiên chồng chất ngút trời,

Ruộng đồng đỏ máu, núi đồi trắng xương.

Chúng ngu xuẩn chủ trương hiếu chiến,

Quyết xua quân lấn chiếm Miền Nam.

Nga, Hoa, Anh, Mỹ hội đàm,

Cùng nhau bán đứng Việt Nam Cộng Hòa.

Ôi bằng hữu mù lòa bỏ cuộc,

Tiền bạc không, đạn dược cũng không.

Trung Xô viện trợ chất chồng,

40/212- 

Phi cơ, tăng, pháo, phòng không đổ vào.

Miền Nam chịu lao đao dai dẳng,

Quân Cộng Hoà ngậm đắng lui binh.

Đồng bào thống khổ điêu linh,

Tướng quân họ Nguyễn (1) dứt tình nhường ngôi.

Người kế nhiệm da mồi hốc hác (2)

Sức cỗi mòn tóc bạc, răng long.

Chính trường như mớ bòng bong,

Lại trao ngôi báu cho ông “Phệnh Đường” (3)

Quân chiến đấu kiên cường từng khắc,

50/212- 

Tướng “Phong Lan” (4) gục mặt đầu hàng.

Bao năm dày dạn chiến trường,

Mà nay bó giáo “quy hàng” thảm không ?

Bọn đồ tể Khu, Đồng, Thọ, Duẩn,

Lại bày mưu tối khẩn lừa dân

Dấu đầu lòi cả bốn chân,

Vẫn là bản chất vô thần ác ôn.

Từ thành thị nông thôn rừng núi,

Khắp trẻ già trốn lủi vượt biên.

Đạp lên gian khổ triền miên,

60/212- 

Lênh đênh trời biển tìm Miền Tự Do.

Mặc cướp biển, bão to, sóng lớn,

Mặc kình ngư dữ tợn bủa vây.

Đàn ông, cướp giết phanh thây,

Đàn bà, giặc hiếp chết ngay giữa trời.

Bao trẻ nhỏ đêm thời khát sữa,

Ngày chang chang nắng lửa cào da.

Trăm nghìn người đã thành ma,

Vùi thân đáy biển sót xa não nề.

Bọn Việt cộng hả hê chiến thắng,

70/212- 

Gây vô vàn cay đắng, nhiễu nhương.

Bày trò cải tạo Công, Thương,

Mưu ma, chước qủy thói thường giở ra.

Nào cống hiến cửa nhà, hãng xưởng,

Lại cúng dâng nghìn lượng vàng ròng.

Rằng ai con cháu Lạc Hồng,

Thương nòi thì phải dốc lòng hiến dâng.

Miệng ngọt xớt, tay nâng báng súng,

Ai không ưng mổ bụng,moi gan.

Cô hồn, các đẳng làm càn

80/212- 

Cắn răng dâng hiến, bởi làn cây cong.

Người tiếc của nát lòng, tan dạ,

Đành quyên sinh khỏi họa về sau.

Thương gia sống sót chặt đầu,

Tội rằng bóc lột làm giàu hại dân ??

Bắt già lão, thanh tân cải tạo

Chẳng kể gì vô đạo, phi nhân.

Địa, Hào, Trí, Phú quy phần,

Nếu không phản tỉnh là giần nát xương.

Quân, Cán Chính khôn lường uất hận,

90/212-

Bị tù đầy cam phận lao nô.

Núi rừng cò gáy, khỉ ho,

Sơn lam, chướng khí giày vò xác thân.

Đêm giá buốt không chăn mền ấm,

Ngày oi nồng, cuốc bẫm cầy sâu.

Bữa thường nước mắt chấm rau,

Thay xe chuyển gỗ, thế trâu kéo cầy.

Phải vượt suối chặt mây khốn khổ,

Lại trèo đèo đốn gỗ gian nguy.

Ngổn ngang cây chắn lối đi,

100/212- 

Đồi cao, dốc đứng khôn bề vác cây.

Ngày lam lũ thân gầy hốc hác,

Đêm “tụng” bài Các Mác, Lê Nin.

Ác ôn thay lũ mẹ mìn,

Bùa mê, thuốc lú bôi đen sử vàng.

Miệng xoen xoét nói ngang nói ngược,

Nhận riêng mình yêu nước thương dân.

Trại giam đầy ắp tù nhân,

Khổ sai lao động vô ngần sót xa.

Người yêu nước nếu là chống Cộng,

110/212- 

Gán tội rằng phản động ác ôn.

Tai nghe miệng đã buồn nôn,

Rõ ràng là bọn cáo chồn đần ngu.

Không án lệnh nhốt tù vô hạn,,

Chính quyền này quái đản bất lương.

Mười ba năm trải đoạn trường,

Tấm thân tù rạc trơ xương mới về.

Dân thành thị trăm bề khốn đốn,

Bữa thường ngày ăn độn ngô khoai.

Đêm khuya chúng đuổi ra ngoài,

120/212- 

Lệnh truyền quản lý gia tài “Ngụy quân”

Đồ tế nhuyễn, áo quần, giầy dép,

Hết thảy không được phép mang theo.

Nửa đời vun quén gieo neo,

Tan tành một phút như bèo trôi sông.

Đàn trẻ nhỏ đói lòng ủ rũ,

Không cửa nhà để ngủ qua đêm.

Bao năm cuộc sống ấm êm,

Ngờ đâu “giải phóng” càng thêm khốn cùng.

Lùa dân chúng lên vùng kinh tế

130/212- 

Khai phá rừng triệt để trồng khoai.

Lệnh rằng gương sáng nước ngoài,

Phất cờ sản xuất, gái trai một lòng.

Theo kế hoạch ruộng đồng trù mật,

Kết quả là mùa mất trắng tay.

Bo bo, khoai sắn hàng ngày,

Mồ hôi pha nước mắt đầy bữa ăn.

Khu kinh tế khó khăn chồng chất,

Dân quyết tâm bỏ đất về thành,

Từng đoàn lếch thếch chiếu manh,

140/212- 

Khổ đau cam phận, năm canh ngủ hè.

Ngày lam lũ đạp xe kiếm sống,

Đêm giãi dầu bên cống nằm co.

Não nùng khôn lấy thước đo,

Nhờ ơn “giải phóng”, nỗi lo chất chồng!

Cả sản nghiệp trong vòng một phút,

“Đảng” cướp không còn chút dính tay.

Ớ trời cao ! Ớ đất dày!

Cộng nô đã hiện ra bầy yêu tinh.

Miệng xoen xoét nghĩa tình dân tộc,

150/212- 

Bụng chứa đầy thuốc độc bùa mê.

Mặt trơ trán bóng làm hề,Cá trê chui ống, lời thề quỷ ma.

Chúng tuyên bố nước nhà thống nhất,

Dân ba Miền cờ phất mừng vui.

Bắc, Nam, Trung một giống nòi,

Thương nhau xẻ ngọt, chia bùi cho nhau.

Mới bữa trước nói câu nhân nghĩa,

Đã hôm sau tay chĩa gươm đao.

Công, Thương cải tạo ngọt ngào,

160/212- 

Đổi tiền, cướp bạc, khác nào hổ lang.

Gây thù hận giam hàng Giáo phẩm,

Tạo oan khiên gạt gẫm Thầy Tu.

Khắp nơi san sát trại tù,

Oán than mãn địa, hận thù xung thiên.

Lũ cán bộ võ biền ngu ngốc,

Được cử làm Giám đốc, Thanh tra….

Vàng ròng vơ vét tối đa,

Đất đai cướp đoạt, cửa nhà tịch thu.

Từ tay trắng không xu dính túi,

170/212- 

Nay đã thành tiền núi, bạc sông.

Quốc Gia mặc nỗi tồn vong,

Lòng tham chỉ ngửi hơi đồng là say.

Trung Ương Đảng một bầy qủy sứ,

Ác độc hơn thú dữ rừng hoang….

Gác ngoài Tổ Quốc quê hương,

Tam vô, chuyên chính chủ trương độc tài.

Người yêu nước nằm gai tranh đấu,

Chúng âm mưu thảo khấu giết ngay.

Độc quyền trên dưới múa may,

180/212- 

Buôn dân, bán nước ních đầy túi tham.                                    

Cả dân tộc lầm than tủi hận,

Băm lăm năm đành phận lao nô

Trung Ương Đảng lũ điên rồ,

Tài nguyên qúy hiếm từng lô bán dần.

Chúng như giống thiêu thân gặp lửa,

Tựa hươu non sừng ngứa húc càn.

Mặc cho đất nước nát tan,

Mặc dân tím mật, sôi gan hận thù….

Tiền làm chúng đui mù cặp mắt,

190/212- 

Lao đầu vào trận giặc đô la.                                

Chúng làm nghiêng ngửa sơn hà,

Quê hương xơ xác, quốc gia nghèo hèn,

Cứ giành giật, túi lèn vàng khối,

“Đảng quang vinh” phản bội quê hương.

Hiện tình xã hội tang thương,

Tệ đoan đầy dẫy phố phường, thôn quê.

Chúng vẫn cứ làm hề múa rối,

Miệng ba hoa sớm tối thương dân.

Dối lừa lấy giả làm chân,

200/212- 

Đã rơi mặt nạ vô thần khó coi..

Mưu lấy thúng úp voi qủy quyệt,

Ắt không lâu đào huyệt tự chôn,

Xưa nay bè lũ ác ôn,

Chẳng ai tránh khỏi huyết bồn Diêm Vương.

Nào người Việt bốn phương hải ngoại,

Xiết vòng tay dựng lại quê hương.

Phát huy truyền thống kiên cường,

Chung lưng già trẻ lên đường đấu tranh

Lấy đau khổ biến thành hành động,

210/212- 

Quyết giải trừ Đảng Cộng ác ôn.

Đập tan huyền thoại Cáo Chồn,

212/212

Để cho dân tộc trường tồn quang vinh

TRƯỜNG GIANG




THƠ: Con Trâu Mộng – Trường Giang

Nguồn hình: Internet

CON TRÂU MỘNG.   

    

Trâu là giống hiền từ rất mực,

Giúp nhà nông gắng sức cầy bừa.

Chẳng nề cực nhọc sớm trưa,

Cũng không quản ngại nắng mưa bão bùng.

Dù rét mướt lạnh lùng băng giá,

Vẫn kéo cầy đến vã mồ hôi.

Làm ra thóc gạo giúp đời,

Dẫu thân vất vả không lời thở than.

Mùa Hạ tới thi gan với nắng,

10- Vẫn triền miên có gắng kéo cầy.

Bóng chiều khi ngả về Tây,

Mới ngừng “lao động” một ngày hụt hơi.

Màn đêm xuống thảnh thơi yên nghỉ,

Sái quai hàm bền bỉ miệng nhai.

Tính hiền như một củ khoai,

Bon chen không chút đoái hoài ganh đua.

Mỗi năm cả chiêm, mùa hai vụ,

Đã cần cù vì chủ đảm đang.

Lẫm trên, kho dưới gọn gàng,

20- Đầy lên tới nóc lúa vàng thơm tho.

Thân lam lũ trời cho sức mạnh,

Tính siêng năng không tránh khó khăn.

Suốt đời cực nhọc vì dân,

Chỉ mong thiên hạ tấm thân an nhàn.

25- Riêng mình chi xá lầm than…

         TRƯỜNG GIANG




CÔNG ƠN CHA MẸ

Người ta đứng ở trên đời,

Ai không cha mẹ dễ trời sinh chăng ?

Công cha mẹ sánh bằng sơn hải, (1)

Đạo làm con ta phải báo ơn.

Ngồi mà nghĩ lại nguồn cơn,

Công Cha như núi Thái Sơn (2) chưa tầy.

Ôi từ mẫu (3) dài thay nghĩa Mẹ !

Nước đầy nguồn khôn lẽ nào đong.

Công Cha, nghĩa Mẹ mênh mông,

10- Để dạ từng phút, ghi lòng từng giây.

Ngày lên MỘT chân tay mềm mại,

Tuổi lên HAI ai phải giắt đi ?

aaaaLên BA thơ dại biết gì,

Ai cho học nói, ai thì dạy ăn ?

Ngày lên BỐN áo quần mặc ấm,

Hỏi ai người mua sắm cho con ?

Lên NĂM tuổi khá lớn khôn,

Con đau ai phải bồn chồn lo toan ?

Ngày lên SÁU họp đoàn bạn nhỏ,

20- Ai dạy câu nhớ Tổ Hùng Vương ?

Tuổi vừa lên BẢY đến trường,

Bút ai vẫn sắm, giấy thường ai mua ?

Ngày lên TÁM thi đua sớm tối,

Ai mong con học giỏi Thầy vui ?

Đến năm lên CHÍN, lên MƯỜI,

Ai mong con được sáng ngời tương lai ?

Ngày MƯỜI MỘT, MƯỜI HAI tươi thắm,

Tuổi thanh xuân như gấm thêu hoa,

Đến năm tuổi đã MƯỜI BA,

30- Văn chương, Sử địa,(4a) Kỷ hà (4bnhập tâm. (4c)

Tuổi MƯỜI BỐN, MƯỜI LĂM  đã tới,

Thời gian đi chẳng đợi ai đâu !

Xưa nay trong cõi hoàn cầu,

Nếu không Cha Mẹ, ai sau nên người ??

Tuổi MƯỜI SÁU tốt tươi dáng vóc,

Ai ngày đêm săn sóc cho con ?

Đến năm MƯỜI BẢY tuổi tròn,

Ai khuyên con luyện tâm hồn thẳng ngay ?

Tuổi MƯỜI TÁM tràn đầy nhựa sống,

40- Đem sức dài vai rộng đua chen.

Trả xong món nợ sách đèn(5)

Nghìn sau bia đá (6) còn tên rành rành.

Khi con đã trưởng thành khôn lớn,

Tuổi vào đời mơn mởn như hoa.

Anh trên em dưới thuận hòa,

Gả chồng dựng vợ ấy là hợp luân (7)

Rồi con cháu dần dần đông đúc,

Thuận lẽ trời kế tục (8) ông cha.

Măng non thay thế tre già, (9)

50- Nuôi con mới hiểu lòng Cha Mẹ mình.

Lời Cha Mẹ đinh ninh (10) trong dạ,

Chữ hiếu thân (11) chớ khá lãng quên.

Nếp nhà phải giữ lấy nền,

Để cho giòng họ vang rền tiếng khen.

Phải nghĩ đến ơn đền nghĩa trả,

Giọt máu đào nước lã một ao. (12)

Công Cha núi Thái ngút cao,

Thẳm sâu nghĩa Mẹ khác nào biển Đông.

Ăn trái chín, kẻ trồng phải nhớ, (13)

60- Uống nước trong ai nỡ quên sông. (14)

Người mà bỏ chữ gia phong (15)

Là không nhớ gốc Cha, Ông trong đời.

Ghi lòng tạc dạ con ơi !!

64-Đừng nên tiếng xấu để đời người khinh.

TRƯỜNG GIANG

GHI CHÚ : Chỉ dành cho giới trẻ VIỆT NAM sinh tại ngoại quốc

1-SƠN HẢI: SƠN= trái núi, Hải=biển nước. Ý nói : Công ơn Cha Mẹ sinh đẻ ra con cao như núi, rộng như biển, khó lấy vật gì khác dể so sánh được .

2- THÁI SON: Tên một trái núi rất cao và to lớn ở phía Tây nước Tàu.

3- TỪ MẪU:.Từ = hiền lành , mẫu = người mẹ. TỪ MẪU = Người mẹ hiền lành, phúc hậu, không làm việc gì độc ác  có hại đến người  ở xung quanh.

4a-SỬ ĐỊA ; Một cuốn sách ghi chép mọi việc quan trọng ở trong và ngoài nước Việt Nam

4b-KỶ HÀMôn toán đo lường trong toán học .

4c- NHẬP TÂMGhi nhớ trong lòng (trái tim)

5- TRẢ XONG MÓN NỢ SÁCH ĐÈNCuốn sách và ánh sáng của cây đèn là do cha me và các thầy cô cung cấp cho học trò sinh sống, học tập. Sau khi tốt nghiệp, các Tân khoa phải tận lực dùng sự hiểu biết của mình dể truyền dạy lại cho các thế hệ tuong lai. Đó là cách người học trò trả lại món nợ trong suốt thời gian học tập dể họ báo dáp công ơn::

A-Dưỡng dục của các đấng sinh thành

B- của các thầy cô đã tận tụy giảng huấn cho học sinh trở nên người trí thức..

Điều quan trọng là các tân khoa đã góp công vào việc làm cho dất nước văn minh giàu mạnh, không thua kém bất cứ mot Quóc gia nào trên thê giới.

6-BIA ĐÁ:Một tảng đá do thợ chuyên môn đẽo gọt thành một hình chữ nhật trong đó ghi tên vinh danh các Cử Nhân, Tiến sỹ thời xưa, đồng thời khuyến khích các thế hệ tương lai noi gương những người  đi trước dể cố gắng học hành.

7- HỢP LUÂNViệt Nam tuy đã văn minh, tân tiến,vẫn theo luân thường, dạo lý  do Thánh Tổ Khổng Tử người nước Lỗ bên Tàu sáng lập gọi là Đạo Nho..

Luân lý của Đạo Nho là:

Anh em nhu thể chân tay”

“Vợ chồng như đũa có đôi”

Trong gia đình, trai gái khi dã dến tuổi trưởng thành (18 tuổi) thì phải dưng vợ, gả chồng để nhân số trong giòng họ ngày một tăng thêm. Đó là nguyên tắc hợp luân, xưa nay tại VIỆT NAM chưa có gì thay dổi.

8– KẾ TỤC:  Kế tiếp, người đi trước, kẻ theo sau, tại Việt Nam chưa bao giờ thay dổi

9- THAY THẾ TRE GIÀ:Luật sinh tồn xưa nay, khi cây tre đã già, khô héo thì phải chết, nhường chỗ cho mầm  măng non thay thế. Người ta cũng vậy, khi  còn trẻ tuổi, có dùng sức khỏe đẻ nuôi nấng, chăm sóc cha mẹ thì mới biết đến công ơn khi mình còn trẻ, cha mẹ đã chăm lo, săn sóc dến mình như thế nào.

Có nuôi con mới biết long cha mẹ là như vậy đó….

10- ĐINH NINH:Luôn luôn ghi nhớ trong lòng, không bao giờ thay đởi

11- HIẾU THÂN:.Người con trai biết vâng lời cha mẹ.

12:NƯỚC LÃ MỘT AO Phương ngôn tục ngữ Việt Nam có câu : “ Một giọt máu đào, hơn ao nước lã”. Nghĩa là, Anh em cùng mốt cha mẹ sinh ra bao giờ cũng quý yêu nhau. Chính vì thế, người Việt thường nói” không ai có thể lấy một ao nước lã để làm thành một giọt máu  được.

13- KẺ TRỒNG PHẢI NHỚTục ngữ Việt Nam có câu “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Được ăn trái cây ngon ngọt, phải nhớ ơn người trồng ra cây đó. Ý nói, con dược nên người  có tài, có đức dộ hon người, không làm diều gì có hại đền ngườii xung quanh là nhớ có cha mẹ tận tình giáo huấn, Vậy bổn phận của con là phải có bổn phận báo ơn sự giáo huấn của cha mẹ mình.

14- AI NỠ QUÊN SÔNGTỤC NGỮ ViỆT NAM cũng có câu” Uống nước nhớ nguồn.. Khi được uống nước trong cho khỏi khát thì phải nhớ đến dòng sông chứa đựng nước đó.

Trong gia dình, nếu  con cái mọi người đều làm điều tốt lành là nhò có ông bà,cha mẹ phúc đức, chí làm việc tốt lành dối với mọi người xung quanh dể làm gương.Bởi vậy, con cháu phải nhớ ơn ông bà, cha mẹ  về phương diện này.

15- GIA PHONG:Lề thói, khuôn phép của mỗi gia đình, con cháu phải tuân theo./.




THƠ: CỤ VĂN THƯỢNG ĐÀI – CÔNG CHA – CÔNG ƠN SINH DƯỠNG – Thơ & Thơ Song Ngữ – Trường Giang & Thanh Thanh