Vài Nét Về Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại – Và Ngày Ra Mắt Sách Phạm Đoan Trang -LÊ VĂN HẢI

Vài Nét Về Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.

(Mà rất nhiều Quý Anh Chị trong VTLV đã hoạt động, có mặt trong tổ chức này)

Văn Bút Việt Nam, là tổ chức quy mô, quy tụ những Nhà Văn Thi Sĩ VN, hoạt động, dựa trên tinh thần “hiệp sĩ” của Văn Bút Quốc Tế. Một hiệp hội người cầm bút cấp lớn toàn cầu. Hội được thành hình năm 1926, gồm các tác giả, của 104 Cây Bút Quốc Tế.

Được thành lập năm 1921 do Bà Catherine Dawson Scott sáng lập. Vị Chủ Tịch đầu tiên là John Galsworthy.

Mục đích chính của Văn Bút Quốc Tế là: “Quảng bá văn hóa, Văn Bút Quốc tế hô hào dùng văn chương chữ nghĩa, để cách mạng nâng cao đời sống xã hội và văn hóa trong cộng đồng thế giới. Mà văn thi sĩ đóng vai trò quyết định then chốt trong vấn đề này.” Đi xa hơn, nữa Văn Bút Quốc Tế đã đưa ra đường hướng: “Bảo vệ quyền tự do tư tưởng, tiếng nói của những nhà văn phải được tôn trọng. Văn Bút Quốc Tế, chống đối lại hành động đàn áp, kiểm duyệt, tù đày hay đánh đập, hành hạ những văn nghệ sĩ…”

Trên thế giới, không có tổ chức hoạt động văn hóa nào, lớn hơn tổ chức này cả. Trên hàng trăm quốc gia tham dự. Diễn đàn Quốc tế mạnh nhất, uy tín nhất! Tiếng nói mạnh mẽ tranh đấu cho lẽ phải của người cầm bút. Sau nhiều năm hoạt động được công nhận là tiếng nói, tượng trưng cho Trái tim của lương tâm nhân loại.

Văn Bút Việt Nam, là thành viên lâu đời của Văn Bút Quốc Tế.

Miền Nam trước 75, Văn Bút Việt Nam được thành lập từ năm 1957 và kéo dài cho đến Tháng Tư đau thương mất nước. Và sau đó duy nhất chỉ có “Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại” là còn tồn tại, (VC không có tên) tiếp tục sinh hoạt và được Văn Bút Quốc Tế công nhận, từ đó cho đến nay.

Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, được Văn Thi Sĩ Minh Đức Hoài Trinh gầy dựng lại năm 1979, tại Paris, Pháp. Để tiếp tục hoạt động lại cho đến ngày hôm nay. Rất nhiều các cây bút đấu tranh cho một Việt Nam dân chủ tự do, bị nhà cầm quyền CSVN bịt miệng! tù đày, đánh đập, đã được Văn Bút Quốc Tế can thiệp, lên tiếng vì lẽ phải. Gần đây nhất là Phạm Thị Đoan Trang. Văn Bút VNHN đã gửi Kháng Thư Ngày 14 tháng 12 năm 2021 Lên án hành động vi phạm nhân quyền của Hà Nội trong việc khởi tố và kết án Tác giả Phạm Đoan Trang 9 năm tù. Link ở đây:

Chủ Nhật, Lúc 3 Giờ Chiều! RMS Phạm Đoan Trang!

Lời Mời Tham Dự:

Chiều Ra Mắt Sách: “Cẩm Nang Chống Độc Tài” Của Phạm Đoan Trang!”

*Đây là tác phẩm mới nhất! Do Văn Thơ Lạc Việt Xuất Bản.

*(Nhà đấu tranh dân chủ nổi tiếng, đang được dư luận chú ý nhất hiện nay, Cô cũng vừa được lãnh giải “Phụ Nữ Can Đảm Quốc Tế Năm 2022”: Phạm Đoan Trang! Với bản án 9 năm tù! Cũng là Thành viên quốc nội của Văn Thơ Lạc Việt gần 10 năm qua, từ năm 2014)

*Giới thiệu Tác Giả và Tác Phẩm: Nhà thơ Chinh Nguyên và Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Dũng.

*Giá sách:15 đô la.

Lúc 3 giờ chiều (ngày mai!) Chủ nhật, ngày 20 tháng 3 năm 2022.

Tại Quán cà phê Lover, số 1855 Aborn Rd, San Jose, Ca 95121.

*Chiều Ra Mắt Sách còn phụ họa với một chương trình ca nhạc đấu tranh đặc sắc, do những giọng ca hay nhất của miền Thung Lũng Hoa Vàng đảm trách. Phụ trách văn nghệ: Ca sĩ Thúy Nga. Nghi lễ: Hoàng Thưởng. Âm thanh: Văn Khoa. MC Hạnh Thảo.

*Với những nhạc phẩm rực lửa Đấu Tranh và những bài ca thắm đậm tình Quê Hương Đất Nước.

Vào cửa, cũng như nước giải khát, hoàn hoàn miễn phí!

Trân trọng kính mời.

Thay mặt BTC: Lê Văn Hải

Đôi Nét Về Phạm Đoan Trang, Tác Giả Tác Phẩm “Cẩm Nang Chống Độc Tài”

Trước khi bước vào nội dung sách, người đọc, bị thôi miên bởi dòng chữ:

“Với tất cả tấm lòng yêu mến và kính phục, xin dành tặng cuốn sách này cho  những người Việt Nam đã, đang và sẽ cống hiến, đấu tranh không mệt mỏi và sẵn sàng hy sinh vì  một đất nước Việt Nam dân chủ, tự do và thịnh vượng.

Người trẻ Phạm Đoan Trang, đang làm biểu tượng đấu tranh, mà dư luận nhiều quốc gia tự do để mắt chú ý nhất. Tinh thần dấn thân đấu tranh của Cô nổi bật. Có điều kiện du học Mỹ, học xong, từ chối không ở lại Mỹ, quyết định về VN. Để đối đầu trực diện với nhà cầm quyền độc tài CS.

* Tổ chức Nhân Quyền Thế giới, Hội Phóng Viên Không Biên Giới, nhiều tổ chức khác đã lên tiếng công nhận: “Phạm Đoan Trang là Nhà báo kiên cường, Nhà văn tài năng, Blogger có kiến thức chính trị cao. Cô ấy, nằm trong số những nhà đấu tranh nổi tiếng nhất Việt Nam hiện nay!”

* “Một hiện tượng đấu tranh trí thức bền bỉ, hiếm có!” Mà rất nhiều các Quốc gia như Mỹ, Canada, Liên Hiệp Âu Châu, Anh Pháp Đức, Hòa Lan, Tiệp Khắc. Qua các Tòa Đại Sứ, đã tỏ lòng ngưỡng mộ Cô, đòi CSVN thả Cô ra ngay tức khắc.

*Rất nhiều người cảm động khi Cô tuyên bố: “Tôi chỉ ước mong, độc tài CSVN, đừng đập nát bàn tay tôi, để tôi còn được viết, được đánh đàn!”

*Tham dự Buổi RMS do VTLV tổ chức, để cùng nhau châm thêm ngọn lửa đấu tranh cho bừng sáng, lấy Đoan Trang làm gương, hy sinh cả tuổi thanh xuân, quên mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình, để tranh đấu cho lý tưởng dân chủ tự do. Cho tất cả những nạn nhân đã bị chế độ Cộng Sản Việt Nam bức hại suốt gần 70 năm qua, đã chà đạp lên các quyền căn bản của con người. Mong ước một Việt Nam tươi sáng không CS.

Rất đáng khen ngợi! Cô xứng đáng là con cháu Trưng Triệu, một phụ nữ đã vượt trên nỗi sợ hãi, kiên cường, dù súng đã kề sát bên màng tang!

Bước vào “Tháng 3 Gẫy Súng!” trước “Tháng Tư Đen!” Chắc chắn khó có Buổi Chiều Nhạc và RMS nào, đặc sắc và ý nghĩa hơn như thế!




**Cập Nhật Lần 8: TRANG TƯỞNG NIỆM & THÀNH KÍNH PHÂN ƯU: Văn Thi Sĩ DƯƠNG HUỆ ANH, Cố Vấn Của VTLV & Thành Viên Văn Bút VNHN & Văn Bút Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, Vừa Tạ Thế.

Tôi xin mạn phép thay mặt Ban Truyền Thông Văn Thơ Lạc Việt. Thực hiện Cáo Phó Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh. Để kính thông báo cùng quý vị.

Một chút lòng thành kính dâng lên tiền bối Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh. Cúi xin Trời Phật đón nhận hương linh cụ ông Dương Huê Anh Sớm yên nghỉ trên cõi Niết Bàn.

Thành Kính Phân Ưu

Lê Tuấn

Lời Mời tham dự:

Chiều Tụng Kinh Cầu Siêu Cho Thi Sĩ Tiền Bối Dương Huệ Anh, Sáng Lập Và Cố Vấn Văn Thơ Lạc Việt.

Tại Chùa An Lạc, Lúc 6 Giờ 30 Chiều, Thứ Sáu Tuần Này! Ngày 25 Tháng 2 Năm 2022.

Thưa Quý Niên Trưởng và Quý Anh Chị Em,

Ngày 17 tháng 2/2022 vừa qua, VTLV của chúng ta mất đi một người “Anh Cả” thương yêu, dễ mến, cũng là Vị Sáng Lập và Cố Vấn của Hội.

Đó là Văn Thi Sĩ Dương Huệ Anh. Tên thật là Phạm Ngọc Tường. Mất tại san Jose. Hưởng đại thọ 97 tuổi.

 “Nghĩa tử là nghĩa tận” Trong niềm tri ân tưởng nhớ. Hải đã mạo muội thay mặt VTLV, đứng ra xin Sư Bà một Buổi Tụng Kinh Cầu Siêu, cho Hương Linh Thi Sĩ Quá Cố đầy tình thương, tình mến của chúng ta, chóng được siêu thoát.

Lúc 6 giờ 30 chiều, Thứ Sáu tuần này, ngày 25 tháng 2 năm 2022. Tại Chùa An Lạc. Số 1647 E. San Fernando St, San Jose Ca 95116.

Mong  Quý Niên Trưởng, Quý Anh Chị Em, bớt chút thời giờ, tham dự đông đủ, buổi Cầu Kinh đặc biệt này. Cùng nhau Hợp lực, thắp nén nhang tưởng nhớ, tụng chung câu kinh, hy vọng Hương Linh người Anh Cả của chúng ta, cũng ấm lòng, thanh thản về Cõi Cực Lạc.

Xong buổi cầu kinh, nhà Chùa có thiết đãi ly trà nóng và tô bún chay.

Rất Hân Hạnh và Trân Trọng Kính Mời.

Lê Văn Hải

https://www.youtube.com/watch?v=Nql8WojHeBM

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Tin buồn đưa đến quả lòng đau

LẠC VIỆT VĂN THƠ quá nghẹn ngào

CỐ VẤN thi đàn đi chẳng giã

HUỆ ANH thi sĩ biệt không chào

Bao năm tại thế ôi thương quý!

Chớp mắt về Trời thật tiếc sao!

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG QUYẾN THUỘC

Chúc người cõi Phật bước nhanh vào

Thay mặt

Ban Biên Tập Văn Thơ Lạc Việt

Phương Hoa – FEB 19th 2022

**

TÂM THI

 (Họa 4 vận cùng Phương Hoa)

Tiền bối ly từ,… dạ nhói đau!

Tinh hoa văn nghiệp quyện hương ngào!

Khôn cầm  tương ngộ đôi lời giã

Chẳng kịp tri ân một tiếng chào!

Thư nhã ngao du hòa cảnh sắc

Thanh nhàn phiêu ngoạn giỡn trăng sao!

Rượu bầu,thơ túi tràn phong lãng…

Nhân nghĩa lưu thơm mãi nhiệm mầu.

                                  21-2-2022    Nguyễn Huy Khôi

**

KÍNH  TIỄN  BIỆT


Nhói đau tin đến thật thình lình

Bác Huệ Anh về chốn lặng thinh

Cách biệt từ nay thôi chẳng gặp

Chia ly xa hẳn hết tâm tình

Cuộc đời là thế đành như thế

Phân ngả đôi bờ chuyện tử sinh

Lạc Việt Thơ Văn đồng tiễn biệt

Tiếc thương Tiền Bối kính nghiêng mình                                       

 Hoàng Mai Nhất (Seattle, WA, 20/2/2022)

CHIA BUỒN TỪ VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI VÙNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ & VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI:

Hồng Thủy (Chủ Tịch VBVNHN VĐBHK) xin thông báo một tin rất đau buồn cho tất cả chúng ta và VBVNHNVĐBHK nói riêng, VBVNHN nói chung:

Anh BA DƯƠNG HUỆ ANH của chúng ta đã bỏ chúng ta đi rồi (HT được Nhà Văn CHINH NGUYÊN của VTLV thông báo). Chưa biết nguyên nhân anh ra đi nhanh chóng, đột ngột như vậy. HT SẼ XIN THÔNG BÁO KHI ĐƯỢC BIẾT THÊM CHI TIẾT. Chúng ta đã mất một người anh đáng kính, hiền hòa. VBVĐBHK và VBHN đã mất một Thi Sĩ kỳ cưu tài đức song toàn. Xin tất cả các anh chị cùng cầu nguyện cho ông anh đáng kính, đáng quí của chúng ta được siêu thoát về miền vĩnh cửu.

Thân mến

Hồng Thủy

*****

VĂN THI SĨ LÊ TUẤN (VTLV &VBVNHN VĐBHK):

Nhận được tin Văn Thi Sĩ tiền bồi Dương Huệ Anh đã xa rời chúng ta, ông lặng lẽ ra đi vào ngày 17 tháng 2 năm 2022. Khi câu thơ của ông còn văng vẳng đề lại, như một lời tiên tri về sự ra đi của chính mình.
“Thoáng rồi…đã cuối tháng Hai.
Nắng, mưa cũng hết, buồn vui… có còn?”
Dương Huệ Anh.

Tôi nhớ lại mới đây VTLV tổ chức mừng sinh nhật Thi Sĩ Dương Huệ Anh còn viết bài thơ chúc mừng
…Tháng ngày như ngựa chạy, tên bay,
Chín chục hơn, bừng tỉnh giấc say…
Bè bạn vắng dần, tình vẫn nặng,
Cháu con đầy đó, số còn may?
Già rồi yếu, thịt kiêng. mong đậu,
Vui lại buồn, đàn họa thiếu gì dây…
Sinh nhật, chúc nhau thêm tuổi thọ
Hòa Bình thế giới, nối vòng tay…
“Thương yêu, Tha thứ”, theo lời Chúa,
Hỉ, Xả, Từ, Bi…nhớ đức Thầy…
Tinh Độ: Ta Bà trong hiện hữu,
Nỗi đau đòi, nhẹ bớt, mong thay!!!
Dương Huệ Anh

Đó chỉ là những vần thơ trao đổi gần đây nhất mà ông đã post trên email, đủ thấy được tấm lòng của thi nhân đối với anh chị em trong nhóm VTLV. 
Tôi đã viết tặng ông 4 câu thơ.
Dương Huệ Anh
Ông già chín chục tuổi xuân
Vẫn còn nặng nợ nhân quần làm thơ
Cõi lòng trải rộng đôi bờ
Văn Thơ Lạc Việt, dựng cờ vinh quy
Lê Tuấn
Kính tặng. Tiền bối nhà thơ Dương Huê Anh

Vậy mà ông đã lặng lẽ cưỡi hạc bay theo mây trắng về trời, bỏ lại trần gian những tác phẩm văn chương, những vần thơ hay, bỏ lại niềm thương nhớ, tiếc thương một nhân tài.
Nhà tôi ở gần nhà ông, có lần tôi ghé thăm, tặng ông vài quyển sách, ông có nhờ tôi xem giúp computer của ông bị trở ngại, thú thật là cái computer của ông quá cũ và rất chậm, nếu đụng vào thì sẽ thay đổi hết trật tự vốn có trong máy mà ông đã quen sử dụng, thôi thì tôi đành bó tay. Tôi rất kính phục ông, mặc dù tuổi đời đã cao nhưng lúc nào ông cũng muốn học hỏi thêm.
Gần đây nhất là trung tuần tháng 1 năm nay 2022. Ông gọi phone cho tôi và khoe, có đứa cháu cho ông một cái computer cũ, nhưng mới với ông, ông ngỏ ý nhờ tôi hướng dẫn cách layout book. Ông muốn tự mình hoàn tất một tác phẩm, mà không cần nhờ ai. Thú thật là tôi cũng rất bận và tôi biết sức khỏe của ông không cho phép ông ngồi lâu và hơn nữa người già thì hay quên, rất khó layout một quyển sách.
Đây cũng là lần cuối cùng tôi thưa chuyện với ông qua điện thoại. Thôi thì viết tặng ông bài thơ ngắn. 
Ngày ông cưỡi hạc về trời cũng là ngày Nguyên Tiêu, trăng rằm vẫn còn hiện diện.

Trời sai hạc xuống theo mây trắng
Trăng sáng Nguyên Tiêu soi bóng cây
Tử sinh trong cõi vô hình ấy
Hương hồn thi sĩ ở quanh đây.
Lê Tuấn

Bây giờ tôi phải viết một bài thơ lục bát, để kính tặng một Văn Thi Sĩ đáng kính trong diễn đàn Văn Thơ Lạc Việt.

***

Dương Huệ Anh Vì Sao Vừa Chợt Tắt

Có một vì sao chợt tắt
Muôn ngàn vì sao cúi mặt xót thương
Tiễn đưa về cõi vô thường
Thi nhân tao nhã vấn vương một thời.

Câu thơ thay cả vạn lời
Gửi theo mây gió, cuối trời tiễn đưa
Mắt buồn đọng ướt cơn mưa
Khơi dòng ký ức ngày xưa trở về.
Dương Huệ Anh vọng lời thề
Nhìn về cố quốc, bộn bề núi sông
Tha phương một khối tình không
Bảo tồn tiếng Việt, điểm hồng văn chương.

Lịch sử có lật từng chương
Thì xin cắm một nén hương lòng thành
Gửi thi sĩ Dương Huệ Anh
Niết bàn, nơi chốn vãng sanh yên bình.

Lê Tuấn
Thành Kính phân ưu
Thi sĩ  Dương Huệ Anh

***

 Nguyễn Diệm + Bích Liên, Phó Chủ Tịch & Điều Hành Website VBVNHN VDDBHK xin thành kính phân ưu cùng tang quyến.  Đời sống này vô thường quá!  
Xin Vĩnh Biệt Bác Dương Huệ Anh! 

VĨNH BIỆT BÁC DƯƠNG HUỆ ANH

Buồn ơi ! nhận được hung tin

Chủ tịch khả kính buông mình rời xa

Trải qua Sinh, Lão, Bệnh già 

Thi nhân yên nghỉ mộ tà dương sâu 

Văn Thơ Lạc Việt bước đầu 

Là cây cổ thụ che lâu vững vàng

 Màu Xuân rực rỡ chưa tan

Mùa Xuân đã khóc vội vàng tiễn đưa

Mắt mờ như bám hạt mưa 

Rơi dòng ký ức mộng xưa trở về 

Dương Huệ Anh đảm muôn bề 

Một thời gánh vác hẹn thề non sông 

Tha phương gầy dựng bỏ công 

Giữ gìn tiếng Việt gom lồng văn chương 

Hội viên quy tụ bốn phương 

Phú thi trải rộng yêu thương một nhà 

Bóng thời gian khó níu là 

Mái đầu sương bạc dần dà nghỉ ngơi 

Thơ Xuân bác gởi mấy lời 

Bài thơ để lại người rời thế gian

 Lãng du hưởng gió mây ngàn

 Âm dương cách biệt muôn vàn vấn vương 

Trang đời ghi lại những chương 

Góp chung lời nguyện nén hương lòng thành 

Cầu về Tịnh Độ vãn sanh 

Phương Tây Cực Lạc Huệ Anh hưởng đầy

   Minh Thuý Thành Nội                

 Tháng 2/19/2022

Thư Khanh cũng xin cầu cho Hương Linh Thi Sĩ Dương Huệ Anh mau được về Nơi Cõi an Lành.

SANH GIÀ BỆNH TỬ 

Trẻ Già ai cũng đến lần thôi

Kẻ trước sau mãi thế rồi

Luật Trời muôn thuở âu là thế

Cầu xin Thi Sĩ được Về Trời

THƯ KHANH – 2/19/ 2022

Thành Kính Phân Ưu Cùng Tang Quyến

Nguyện cầu Hương Linh nhà văn Dương Huệ Anh sớm về Cõi Phật

Lê Thị Nhị – VBVNHN

Thành kính chia buồn cùng tang quyến thi sĩ Dương Huệ Anh.

Xin hiệp lời cầu nguyện hương linh bác Dương Huệ Anh yên nghỉ chốn vĩnh hằng.

Ngọc Thúy – VBVNHN VĐBHK

Thành Kính Phân Ưu với gia đình nhà thơ Dương Huệ Anh.

Nguyện hương linh thanh thản

Nguyện ra đi an nhàn

Nguyện vong hồn siêu thoát

Nơi cõi trời thênh thang.

Nguyễn thị Thêm 

**

Thưa quý anh chị,

Buồn quá, anh Ba là người khiêm nhường tế nhị.

Trong tuyển tập VB anh đã nhắc đến nhiều người trong chúng ta đấy ạ.

Sao Khuê

Tôi sững sờ và hết sức đau buồn nhận được hung tin nầy. 

Tôi rất ngưỡng mộ thi hữu Dương Huệ Anh.

Tôi xin chia buồn cùng tang quyến

Và cầu chúc hương linh người quá cố được an vui miền Cực Lạc.

Trần Công /Lão Mã Sơn

Em cảm ơn chị Hồng thuỷ báo cho biết.

Em thật là bàng hoàng với tin buồn này.

Cũng may là tuy em chưa gặp anh Ba VB VĐNHK, nhưng em thường đăng tác phẩm anh Ba trên trang VietPEN.

Em biết anh đọc và vui nên hay gửi tác phẩm cho em đăng.

Chỉ có chút an ủi này để nguôi ngoai thôi.

Cung Thị Lan (Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại)

**

Thật là bất ngờ vì trong thơ từ qua lại chưa từng thấy anh Ba than phiền về sức khỏe. 

Xin thành kính chia buồn cùng gia đình anh Ba trước sự mất mát to lớn này. 

Nguyện cầu vong linh anh Ba, Dương Huệ Anh sớm tiêu diêu miền cực lạc.

Thành Kính Phân Ưu,

Dương Vũ

Cám ơn chị Hồng Thủy

Nhìn hình chân dung anh Ba trông anh rất hiền, dễ mến…

Chưa được gặp mặt anh mà anh đã vội ra đi…

Những câu thơ của anh thật dễ thương, sâu lắng…
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG GIA QUYẾNCẦU XIN LINH HỒN ANH DƯƠNG HUỆ ANH SỚM ĐƯỢC VỀ MIỀN CỰC LẠC
𝓽hái 𝓷ữ 𝓵an

Được tin buồn

Anh Ba Dương Huệ Anh vừa mới bỏ mọi người ra đi rất đột ngột,

thật là tiếc thương.

Xin thành kính chia buồn cùng gia đình anh Ba,

nguyện cầu hương linh anh Ba được tiêu diêu nơi cõi Vĩnh Hằng. 

Mỹ Hoàn 

Tin rất buồn Thi Sĩ DƯƠNG HUỆ ANH đã mệnh chung hôm nay 19 -2 – 2022 tại Thung Lũng Hoa Vàng San Jose.

 Xin kính lời phân ưu cùng tang quyến Nhà Thơ lão thành.

Cầu nguyện hương linh cụ sớm Phiêu diêu miền Vĩnh Cửu.    

Kính bái.  

Cao Mỵ Nhân. 

THƠ ĐIẾU THI SĨ DƯƠNG HUỆ ANH.

Cụ bảo rằng không bỏ bóng xuân 

Sao hôm nay lại biệt dương trần 

Xưa từng xướng hoạ lời chân thiện 

Giờ đã phiêu linh cõi thánh thần

Hội ngộ văn đàn từ sáng lập 

Chia ly thi hữu chẳng gieo vần

Vô cùng thương tiếc Dương Thi Sĩ 

Hoa “Huệ Anh Đường” nở vạn năm … 

 

Los Angeles  19 – 2 – 2022         

CAO MỴ NHÂN 

*

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU

Tin buồn đưa đến quả lòng đau

VĂN BÚT VÙNG ĐÔNG BẮC nghẹn ngào

Thi bối đi rồi, đi chẳng giã 

HUỆ ANH đã biệt, biệt không chào

Mấy trăng nhập hội thân nhiều lắm!

Chớp mắt về Trời tiếc xiết bao!

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU CÙNG QUYẾN THUỘC

Chúc người cõi  Phật bước nhanh vào

Phương Hoa – FEB 19th 2022

Thật là bất ngờ và đau buồn!

Thuy Messegee

*

Vô cùng  ngạc nhiên hay tin thi sĩ Dương Huệ Anh mãi mãi ra đi về chốn vĩnh hằng.

 Xin chia buồn với tang quyến và đại gia đình Văn Bút Hải Ngoại, Văn Thơ Lac Việt.

Cầu nguyện hương linh nhà thơ Dương Huệ Anh được an nhàn nơi cõi phúc 

THÀNH KÍNH PHÂN ƯU   

Ngọc Hạnh

*

* Xin Chân Thành Kính Nguyện Cầu Linh Hồn Lão Tiền Bối

Thi Sĩ Đa Tài Hoa Thật Cao Quý DƯƠNG HUỆ ANH Sớm Được Siêu Thoát Về Cõi Vĩnh Hằng*

*Xin Chân Thành Kính Phân Ưu Cùng Tang Quyến*

**Xin Chân Thành Kính Bái

LuânTâm

*

Chị Hồng Thủy kính mến.

Em cám ơn chị báo tin, em thật sự bàng hoàng khi biết anh Ba đã ra đi.

Tuy em chưa biết anh Dương Huệ Anh, nhưng em cũng được hân hạnh đăng bài của anh.

Em vô cùng thương tiếc, xin hiệp lời cầu nguyện cho Hương Linh anh Dương Huệ Anh sớm yên nghỉ nơi miền Cực Lạc.

Thành kính phân ưu cùng gia đình và tang quyến trong nỗi đau mất mát này.

Kính nguyện.

KIM OANH

*

Xin được thành kính phân ưu cùng tang quyến của nhà thơ Dương Huệ Anh và hội VBVNVĐBHK

Nguyện cầu hương linh người quá cố được thanh thản nơi miên viễn.

Thành kính phân ưu

Nguyễn hữu Mỹ Nga

*

Cháu xin chân thành được chia buồn với gia quyến chú Dương Huệ Anh

và cầu nguyện cho hương linh chú sớm yên nghỉ nơi vùng Cực Lạc

Trân trọng

Kim Vũ

Tin Rất Buồn!

Dù biết Thi Sĩ Lão Thành Dương Huệ Anh đã có tuổi và thời gian sau này, sức khỏe không được khả quan cho lắm. Nhưng tin Ông qua đời, vẫn là tin bất ngờ, bàng hoàng đau xót với tất cả Anh Chi Em trong VTLV.

Thi Sĩ  Đương Huệ Anh, là Thành Viên Sáng Lập Văn Thơ Lạc Việt từ năm 1992. Với nhiều Thi Sĩ khác, như có Cụ Hà Thượng Nhân, Hoàng Anh Tuấn….Tên gọi ban đầu là Thi Đàn Lạc Việt, sau đổi thành Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.

Tính tình hiền lành, dễ mến, sống chan hòa tình nghĩa với mọi người.

Cả đời say mê với chữ nghĩa văn thơ. Đã có những tác phẩm xuất bản trước 75. Cây viết Dương Huệ Anh, là một văn nghệ sĩ đa năng, có mặt trong nhiều bộ môn: Thơ, Văn, Nghiên Cứu, Nhạc, Truyện, Ký. Ông được biết là một người có số lượng thơ sáng tác rất nhiều ở Hải ngoại.

Sau đây một chút tiểu sử của: Thi Sĩ DƯƠNG HUỆ ANH & TÁC PHẨM

Bút hiệu khác: Y Lương, Triều Ðông, Thái Uyển, Huyền Sương.

Sinh quán: Hải Phòng, Bắc Việt Nam .

Nghề nghiệp: Trước 1975: Công chức hành chính.

Sau 1975: Công, tư chức, các ngành xã hội, kinh doanh, bảo hiểm, tài trợ và địa ốc, khảo cứu Ðông Y.

Tác phẩm đã xuất bản.

Trước 75:

-Thơ Xanh

-Tâm Lý Phụ Nữ Qua Ca Dao Tục Ngữ

Tại Mỹ:

– Huyền Ca, Diễm Ảnh

– Quê Hương Vĩnh Cửu Tình Yêu

– Ðường Nào Có Hoa Ðào

-Tha Hương Mười Tám Năm, Sầu Có Ai.

– Ðông Y Lược Giải

-Những Cánh Thư Hồng

-Thơ Việt Hải Ngoại

-Thiên Niên Kỷ Mới

– DVD 12 Bến Nước

-Chân Dung & Giá Trị Truyện

-Những Bước Đường Đã Qua

-40 Năm Tị Nạn Buồn Vui

Một Vài Bài Thơ của Thĩ Sĩ Dương Huệ Anh

CỨ VUI

Lửa nóng Sa Bà, ta cứ vui,

Lên voi, xuống chó, gắng yêu đời!

Bởi ta có cái người không có,

Sức mạnh, Bi tâm, những nụ cười!

Tuổi trẻ, xe lăn, ngồi, chẳng thiếu,

Bạn già, chống gậy, cũng thường thôi!

Phi Châu, dân đói, vô cùng khổ,

Bệnh quỉ, Sida, cả triệu người!

Do Thái, Muslim thù khó giải,

Thánh Thần, rồi Chúa cũng buông xuôi!

Năm châu quấy động*, niềm tin mất,

Bởi quá tham, điên đảo cuộc chơi!

* Khủng hoảng tiền tệ, ngân hàng, địa ốc.

20/01/09

LẠI GIÁNG SINH

Ngày tháng trôi mau, lại Giáng Sinh,

Trời mưa, trời gió, lạnh run mình.

Tám mươi hơn, tuổi, thơ còn mặn,

Sáu chục tròn, cân, bạn dám khinh?

37 năm, buồn thân tị nạn,

Tháng mươi lần, dạo bước* điêu linh!

Ngày ba bữa, giữ cho bền sức,

Đêm mấy phen đi…khổ thật tình!

Răng cửa lung lay, chừng muốn rụng,

Tóc trần trụi lùi, ngó mà kinh!

Ngáp dài, thích ngủ quay trên thảm,

Quên hết, ưu tư với bất bình!!

* Đi bộ

24/12/12

CUỐI NĂM MƯA GIÓ

Cuối năm mưa, gió, lạnh ê da,

Trời vẫn âm u, dễ chán a!

Uốn cái lưng còng, lo chống đỡ,

Thẳng đôi chân sậy, gắng xông pha!

Mắt mờ, sớm, tối lên thăm mạng (net),

Tai lãng, – con, em…- khó tặng quà!

Ba bữa rau dưa, mong giữ sức,

Một lòng tu tập, khởi từ ta!

Vui trong hiện hữu, quên năm tháng,

Tịnh độ không gần, cũng chẳng xa!

29/12/12

THẾ LÀ LẠI HẾT NĂM

Thế là lại hết năm Tây,*

2012- Lạnh. Gió ngày, mưa đêm…

Chiến tranh, khủng bố, triền miên,

Thày tu ngậm máu, Đức Tin xuống đường!

Phi Châu, dân đói thảm thương,

Vô lương, tài phiệt một phường lưu manh,

Gian thương nào nghĩ nhân tình,

Đầu cơ, lũng đoạn, Giàu, thành giàu thêm!

Độc tài ngoan cố, giữ quyền,

Tự do, hạnh phúc hão huyền, dân mơ!

Xứ này, Mỹ, thích tự do,

Tha hồ mua súng, tha hồ giết nhau!

Trẻ thơ vô tội, ngờ đâu,

Chết trong lớp học,

thêm sầu Giáng Sinh!

31/12/12

LÂU NGÀY, GẶP BẠN

Lâu ngày, gặp bạn, mừng a,

Hỏi thăm địa chỉ?

– Hơi xa!

– Ngại gì!

Thôi cho số điện thoại đi,

Khi nào rảnh ghé…

nhâm nhi …chuyện đời…

Tay ghi hàng số, miệng cười,

“Quan Âm Thiền Viện” ít người biết, anh!

Nhớ thêm đạo hiệu Tâm Minh,

Vào Google Search cũng nhanh, mấy hồi!

… Hai lần phone, – chẳng trả lời,

Cuối tuần, xe phóng…tìm hoài, thấy đâu?!

Quan Âm Bồ Tát, khẩn cầu,

Ngất ngư, lội bộ, trước, sau, hỏi đường…

Bỗng…xa thoáng bóng áo vàng,

Ai đưa lối,

Hẳn đạo tràng không xa!

…Cờ bay, vui cõi Ta Bà

Tháng 4, mồng 8, Phật Đà đản sinh…

18/5/2013

ĐI BỘ

Về chiều, thả bộ, khỏe mà vui,

Thêm được nhìn phong cảnh đất trời.

Sẵn dịp, ghé mua hàng hạ giá,

SafeWay, SaveMart…nửa giờ thôi !

Nắng vàng, gió mát dịu hồn ta,

Thoáng…đến đầu đường Berryessa…

Chợt nhớ Hà, Hàn, Búi… mấy bạn

Quế Đào, Liên Bích…ở đâu xa?*

Thiên Đường, lạc cảnh mấy tầng cao,

Thanh tịnh, thơm hương suối, động đào…

Ngọc nữ, tiên đồng trì nguyện độ

Muôn loài, ngạ quỉ sớm tiêu dao…

Ta Bà tranh chiến, lửa tràn lan,

Đường Lưỡi Bò, Trung quốc nhận càn…

Irak, Afgan…còn tử đạo,

Đối đầu nguyên tử, Bắc, Nam Hàn…

Phi Châu nghèo đói cũng can qua,

Do Thái, Iran dữ lắm mà!

Dân Chủ, Độc Tài sao hợp tác?

Cường quyền, – nhược tiểu – dễ gì tha?!

* Hà Thượng Nhân, Hàn Nhân, Đào Thanh Quế, Nguyễn Bích Liên đã khuất.

13/6/2013

Sự ra đi của Thi Sĩ Dương Huệ Anh là một mất mát lớn với VTLV. Hình ảnh Ông sẽ sống mãi trong tim những Bạn Bè thương mến.

Nguyện cầu Hương Linh Người Thi Sĩ Quá Cố vui hưởng cõi Vĩnh Hằng.

Thành Kính Phân Ưu.

Lê Văn Hải

THAY LỜI PHÂN ƯU

 Phụng kính hương linh Thi Nhân Dương Huệ Anh!

*

Thi đàn Lạc Việt tiễn thi nhân

TÀI đức toàn song ấm phước phần!

“Diễm ảnh”…* trường tồn cùng vạn lộc

“Huyền ca”…* còn mãi với muôn xuân.

“Lưng còng, chân sậy”…** tiềm tuệ trí

“Tai lãng, mắt mờ”…** rạn tấm thân!?

Chữ thắm “Thơ Xanh”…* tràn mẫn cảm

Lợi danh nhẹ tễnh cõi dương trần!?

                              21-2-2022

                      Nguyễn Huy Khôi

*  Tiêu đề các tác phẩm của trưởng thượng Dương Huệ Anh.

** Chữ dùng của TT Dương Huệ Anh.

Nghe tin nhà thơ lão thành Dương Huệ Anh vừa qua đời, chúng tôi, Trần Sung Phước thuộc đám con cháu của bác,

Xin thành kính phân ưu cùng gia quyến của bác và nhóm Văn Thơ Lạc Việt.

SỰ ra đi của Bác là một mất mát lớn của  Văn thơ hải ngoại.

Luôn tiện xin ban tổ chức cho chúng tôi biết ngày và giờ mất của bác để chúng tôi tụng kinh cầu siêu cho bác theo nghi lễ Phật giáo.

XIn cám ơn và gủi lời chúc bình an , mạnh khỏe cả thể chất và tinh thần, sáng tác mạnh đến toàn ban.

KÍnh,

Trần Sung Phước

Phan Lang rất xúc động khi nhận được tin bất ngờ thi sĩ Dương Huệ Anh đã từ giã chúng ta về miền miên viễn. 

Tuy chưa một lần được gặp mặt nhưng PL rất quý trọng và ngưỡng mộ tư cách cũng như tài thi phú của anh trên các văn đàn.  Xin cám ơn Ns Lynh Phương đã sáng tác và trình bày ca khúc Niệm Khúc Cuối thật tuyệt vời, nghe mà lòng bồi hồi, cảm xúc dâng đầy.  PL cũng xin cám ơn quý văn thi sĩ Phương Hoa, Hồng Thúy, Cao Mỵ Nhân, Kiều Mỹ Duyên, Lê Tuấn… đã cho thưởng thức những áng thơ, văn tưởng niệm cố thi sĩ Dương Huệ Anh. 

Rất tiếc PL ở xa không thể về tham dự Buổi Tụng Kinh Cầu Siêu cho nhà thơ lão thành, nguyện cầu hương linh người quá cố sớm được siêu sinh tịnh độ.  Xin cám ơn anh Hải đã đứng ra tổ chức bổi cầu siêu ý nghĩa này.     

Kính chúc sức khỏe và bình an đến với tất cả quý anh chị VTLV.Kính mến,

Phạm PhanLang

Phương Thúy (Trang Chủ Diễn Đàn Cô gái Việt) xin phân ưu với gia đình cố Thi sĩ Dương Huệ Anh và VTLV.

Tuy chưa được hân hạnh gặp Thi sĩ lúc sinh tiền nhưng đã có lòng mến phục người đã tự nguyện vác cái ngà voi khổng lồ, sáng lập nên Cơ sở VTLV từ năm 1992.

Rất thương tiếc Thi sĩ, người có kiến thức, có tâm, và có tầm nhìn xa cho tương lai chữ Quốc ngữ. 

Kính bái vong hổn Thi sĩ!

Phương Thúy

SYDNEY – AUSTRALIA – 24.2.2022

XIN CHÂN THÀNH CẢM TẠ ĐÃ CHO BIẾT BUỔI TỤNG KINH CẦU SIÊU CHO THI SĨ TIỀN BỐI DƯƠNG HUỆ ANH.

TỪ NƠI XA XÔI NÀY, TÔI KHÔNG THỂ THAM DỰ ĐƯỢC, CHỈ XIN DÂNG LỜI CẦU NGUYỆN CHO HƯƠNG LINH THI SĨ TIẾN BỐI SIÊU THOÁT VÀO CÕI VĨNH HẰNG

VÀ XIN CHIA BUỒN CÙNG TANG QUYẾN VÀ QUÝ THÂN HỮU VTLV

HOÀNG PHONG LINH – SYDNEY.

https://www.youtube.com/watch?v=Nql8WojHeBM

NHÀ VĂN HÓA DƯƠNG HUỆ ANH – PARIS, MẠN ĐÀM VĂN HỌC&NGHỆ THUẬT – Đỗ Bình

Để tưởng niệm một nghệ sĩ lão thành, một nhà văn hóa vừa bỏ trần gian về cõi vĩnh hằng, tôi xin trích một đoạn văn của cố Nhà văn Hồ trường An viết đôi dòng cảm nhận về nhà thơ Dương huệ Anh : « Năm 2003, tức là năm thứ ba của tân thiên kỷ, mảnh vườn hồng của Dương Huệ Anh là một cõi ngự uyển thịnh phóng rất nhiều bông hoa. Với 291 bài thơ được sáng tác đều đặn và cần mẫn trong vòng 12 tháng, tiên sinh có thể dùng làm một hiến lễ mùa thơ rất đẹp, rất đáng trân quý cho khách yêu thơ. Ở hải ngoại, những thi nhân có mạch sáng tác dòi dào nhất phải kể: Tuệ Nga, Cao Mỵ Nhân, Huệ Thu, Sương Mai, Ngô Minh Hằng, Hà Huyền Chi, Dương Huệ Anh, Du Tử Lê, Phương Triều… Có lẽ tiên sinh đứng hàng đầu về lượng. Còn về phẩm thì mỗi người có một sở trường riêng, một nét độc đáo riêng.<!> Tuy nhiên, Dương Huệ Anh vẫn là một tiếng thơ thời thế . Nếu ngày xưa, qua tiếng thơ thời thế, thi hào Victor Hugo đã được giới yêu thi ca tặng cho ông ta là L’écho du siècle (tiếng đồng vọng của thế kỷ). Vậy thì hôm nay, trên thi đàn(Việt Nam) ở hải ngoại, Dương Huệ Anh cũng có thể nhận lãnh cái danh dự ấy lắm chứ.»(Hồ Trường An-Paris, 04/02/2004)

Xin kể lại một câu chuyện văn học ở Paris mà ngày đó nhà thơ Dương Huệ Anh đã được các bằng hữu trong giới văn nghệ đón tiếp rất trân trọng và chân tình do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN Paris tổ chức trong đó có buổi Thảo luận về văn học & nghệ thuật giới thiệu Tác phẩm và Tác giả.Tác giả Dương Huệ Anh rất đa tài, nhưng tôi quen gọi ông là Nhà Thơ. Từ ngàn xưa người đời vẫn quan niệm:«Nhà thơ là một danh hiệu cao quý cho người làm thơ, khi mà thơ ca của người đó phục vụ cho chânthiệnmỹ, cho ánh sáng xua tan bóng tối, cho lương tâmtrí tuệ và tiến bộ cũng như hạnh phúc của con người. »Nhà thơ Dương Huệ Anh sáng tác từ lúc còn trẻ, thuở ấy hồn thơ ông lai láng và xanh mướt, thơm ngát như hoa xuân. Nhưng vì những tác động ngoại cảnh, những biến động thăng trần của thời thế đã ảnh hưởng đến đời sống và sự sáng tác của ông, làm hụt hẫng nguồn cảm hứng, từ đó duyên tình thơ bị ông bỏ rơi vào quên lãng! Đến khi ra hải ngoại, sự đời đã lắng, ông không còn lo việc mưu sinh thì hồn thơ ẩn sâu trong tâm hồn thi nhân bỗng trỗi dậy dạt dào. Nhà thơ đã tìm lại được nguồn cảm hứng sáng tác vì biết mình vẫn còn nặng nợ với duyên thơ tình bạn mà bấy lâu đã hờ hững với nàng thơ. Thơ là nguồn sống của thi nhân nào có phụ người, chỉ có thi nhân đã bỏ thơ không còn đam mê Chân Thiện Mỹ, thiết tha với ý nghĩa cuộc sống thì nguồn thơ sẽ tàn úa và hồn thơ cũng bay mất! Thời gian như mây bay, gió thoảng, tâm hồn và suy nghĩ của thi nhân cũng như con nước chảy trên dòng sông và trôi theo dòng thời gian nên có nhiều thay đổi. 

Cũng một vầng trăng huyền ảo, cảm súc của thi sĩ lúc trẻ nhìn trăng khác với tuổi xế chiều, nhà thơ không cảm thấy sự mơ màng ảo mộng trong ánh trăng, không còn đắm say thả hồn bay theo mây gió tìm hình tướng độ khuyết tròn của vần trăng, mà chỉ nhìn thấy màu kỷ niệm và bóng thời gian. Nơi phương trời Mỹ, nhà thơ Dương Huệ Anh đã bước vào tuổi xế chiều, ở đây có những nỗi buồn tha hương luôn ẩn trong tâm hồn người xa xứ, đó cũng là chất liệu, nguồn cảm hứng cho thi nhân. Dù mang nỗi sầu tha hương nhưng nhà thơ vẫn yêu đời nên hồn thơ lại dâng trào nguồn cảm xúc, ông đã sáng tác theo dòng cảm xúc và sáng tác rất mạnh với nhiều đề tài khác nhau. Nhờ kiến thức sâu rộng tác giả đã có những sáng tác giá trị về lãnh vực thi ca, văn chương và biên khảo. Tuy nhiên chất thơ đã không còn hồn nhiên màu sắc xanh hồng, óng ả như hoa mùa xuân thuở đôi mươi, cho dù hình ảnh trong ngôn ngữ thơ có mới hơn, cấu trúc thơ vẫn giữ những niêm luật mang tính luân lý đầy triết lý nhân sinh và tôn giáo. Thơ của ông hay và sâu sắc như những nhánh lúa hạt vàng, ngoài mùi hương thơm của lúa, giá trị thực tế của gạo là thực phẩm rất cần thiết để nuôi sống con người, lúa còn mang ý nghĩa cao cả hơn là sự hy vọng, nguồn sống.

Xin sơ lược về tiểu sử và tác phẩm của ông: Nhà thơ Dương Huệ Anh, tên thật : Trần Quang Tương, sinh quán: Hải Phòng.Bút hiệu khác: Triều Đông , Thụy Cầm. Thái Uyển, Y Lương.Nghề nghiệp trước 1975, Công Chức.
Sáng lập và là chủ tịch Thi Đàn Lạc Việt miền Bắc Cali.năm 1992 .Năm 1993 thành lập thêm Cơ Sở Văn Học Nghệ Thuật. (đóng góp cho văn học về phương diện thơ đã xuất được 8 tập).

Tác Phẩm:Thơ Xanh.(1955). Biên khảo:Tâm Lý Phụ Nữ Qua Phong Dao. Năm 1958 Huyền Ca, Diễm Ảo tập 1,2. Năm 1991(Mỹ): Quê Hương Vĩnh Cửu Tình Yêu ; Đường Nào Có Hoa Đào; Tha Hương 18 Năm Sầu Có Ai ? Đông Y Lược Giải (tập 1) ;1994 Thơ Dương Huệ Anh, Tổng Tập I (gồm 6 thi tập), Những Khúc Buồn Vui, (Thơ Nhạc) ;1998, Những Cánh Thư Hồng 1,2: Truyện dài ; Thơ Việt Hải Ngoại, Một Góc Nhìn (2001) ; Thơ Việt Thế Kỷ 20(1) ; 2002 Ba Mươi Năm, Ngàn Kỷ Niệm (Thơ Nhạc) 2004 ; Độc Hành Ta Vui (Thơ, 2004) ; Dịch Và Bói Dịch(sơ giải, 2005). Tìm Hiểu Về Phật Giáo, Những Vần Thơ Đạo 2006, DVD Thương Về 12 Bến Nước (Thơ, Nhạc).»

Tao Ngộ Thi Nhân
Năm 1998 tôi hân hạnh được hội Thơ ở Sacramento mời sang để nói chuyện về đề tài Tính Nhạc Trong Thơ do các nhà thơ Nguyễn Phúc Sông Hương, Nhà thơ Hoàng Thanh và nhà thơ Như Hoa Lê Quang Sinh tổ chức. Ngày đó quy tụ nhiều nhà thơ ở khắp nơi đến tham dự, trong số người đến có nhà thơ Dương Huệ Anh, Nhà thơ Hà Thượng Nhân, Nhà thơ Diên Nghị, Nhà thơ Song Nhị, Nhà thơ Lê Nguyễn, Nhà thơ Vũ Hối, Nhà thơ Phan khâm, Nhà thơ Hà Trung Yên, Nhà thơ Mạc Phương Đình, Nhà thơ Hà Ly Mạc, Nh à th ơ Huệ Thu, Nhà thơ Yên Bình, Nhà thơ Nguyễn Phan Ngọc An, Nhà thơ Sương Mai, Nhà văn Nhật Thịnh, Nhà văn Khuê Dung, GS, Trần Kiêm Đoàn, Nhà báo Tô Ngọc, Nhà báo Đỗ Hữu… thời gian này tôi còn được các hội đoàn sinh hoạt văn hóa ở San Jose như Văn Bút Bắc Cali, Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn, Thi Đàn Lạc Việt cùng một số bằng hữu văn nghệ đã tiếp đón trao đổi văn nghệ rất chân tình…
Đến năm 2005 tôi sang Bắc Cali giới thiệu cuốn biên khảo Thơ: Khung Trời Hướng Vọng của GS, Nhà thơ Nguyễn Thùy và cuốn Dạy Con của GS Trần Minh Xuân ở Sacramento do các Hội đoàn ở đó tổ chức, trong số người tham dự vẫn có nhà thơ Dương Huệ Anh đến từ San Jose…. Sau đó tôi và giáo sư Nguyễn Thùy được Hội Văn Bút ở Nam Cali mời nói chuyện về đề tài văn học, do nhà thơ Nguyễn Duy Trại tổ chức. Ở đây tôi cũng thấy có sự tham dự của nhà thơ Dương Huệ Anh, Học giả, BS Nguyễn Hy Vọng, Nhà biên khảo Mạc Đông Pha, nhà thơ Thái Tú Hạp và phu nhân nhà thơ Ái Cầm…

Sự hiện diện của nhà thơ Dương Huệ Anh trong những buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật mà tôi tham dự làm tôi khích lệ và xúc động, đối với một hậu bối như tôi quả là một món quà chân tình cao đẹp mà ông dành tặng tôi. Sau này trong số tác phẩm biên khảo, thơ văn của ông, thơ của tôi được ông đưua vào sách. Khi ông sang thăm Paris, chúng tôi đã tổ chức nhiều nơi để đón tiếp ông và đưa ông đi gặp những khuôn mặt văn hóa đặc biệt ở Paris. Ông đã đi thăm thăm nữ sĩnh Minh Châu và xem tranh của Bà. Ông được mời đến xưởng vẽ và tượng điêu khắc của nữ điêu khắc gia Anh Trần, ở đây có một phòng hội tiếp tân, ông đã gặp gỡ nhiều người bạn măn xưa rời Hải Phòng, Hà Nội qua Pháp du học từ thập niên 40, 50, tất cả mọi người hiện diện hôm đó đều trân trọng ông. Họ chia nhau mời ông và đưa ông đi thăm những di tích lịch sử và thắng cảnh đẹp ở Paris.

Trong cuốn sách: Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại sẽ ra mắt vào năm 2022, các anh chị trong ban biên tập đưa Tiểu Sử của ôngvào sách để vinh danh một Nhà văn Hóa. Họ chọn ông Không phải ông đã sáng tác nhiều thơ, ra nhiều tác phẩm, mà vì những việc làm tận tụy của ông đối với việc bảo tồn văn hóa ở hải ngoại trong thời gian ông sinh hoạt trong Thi Đàn Lạc Việt.Để minh họa con người của ông, tôi xin trích lời tâm tình ông viết trong cuốn:Dương Huệ Anh ThơThơ…& Những Giao Cảm Ngọc Ngà » ( trang 3,4,5)

« Thơ! Thơ! LạiThơ!Gần một năm trước,- còn thiếu vài ngày !- vào dịp ra mắt tuyển tập » 50 Năm Thơ &Người Thơ » ở địa phương, một số thân hữu đùa hỏi: « Thế nào ông còn định sáng tác nữa hay không ? », vì theo niên kỷ đã thấy quá tuổi cổ lai hy rồi.Câu trả lời thành thật là: Cũng tùy (theo sức khỏe) thôi!Kể từ ngày tập tành theo bước các đàn anh trong Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy…cóp, dán (copy, paste) từng câu, từng chữ thành vần điệu….để khoe với các bạn khác phái, cũng đã hơn nửa thế kỷ. Thơ mình làm ra có lẽ cũng khá nhiều, – riêng thời gian từ thập niên 1990 đến nay đã được vài ngàn bài, có một số nghe tạm được, nhưng tựu trung vẫn nghĩ là mình nói chưa hết những điều muốn nói, viết chưa đủ những lời cần viết. Ấy chỉ vì chuyện Đời bao la quá , phức táp quá, như là vô thủy vô chung! Nghĩ sâu thì có phải là vũ trụ, nhân sinh…luôn biến động, vô thường?Hồi tưởng lại, những ngôi sao trong làng thơ thập niên 1940 là: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên…rồi là Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng…Bên cạnh, là những Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, J. Leiba, Lưu trọng Lư, Bích Khê…Câu chuyện TTKH sau này mới được làm nóng lại, chứ thời gian ấy chưa ai lưu ý mấy đền nhữgng vần thơ « Hoa Ti Gôn ».Số người làm thơ những năm thập niên 1940-1950 chỉ tính hàng trăm, chú không Đông đảo như hiện thời. Tập Thi nhân Việt Nam của hai ông Hoài Thanh, Hoài Chân ấn hành năm 1941, chọn lựa không chặt chẽ lắm mà cũng gom được 40 nhà thơ ba miền Trung, Nam, Bắc.So với hiện thời, số người làm thơ có thể lên đến hàng vạn, báo nào, tạp chí, đặc san nào cũng có một số bài thơ mới…hiện tượng này đáng mừng hay chăng,là tùy quan điểm nhận xét của từng bạn đọc ; người viết không tiện nêu ra ý kiến riêng. Mới đầu, người viết lấy cảm hứng từ những mối tình trong trắng, hồn nhiên của tuổi học trò: từ cô Thái/Thủy họ Bùi (sau là ca sĩ đài Phát thanh Việt nam-Hà Nội), qua Nam Hải (Tây Thi) (con một đại thương gia ở cảng Hải Phòng)…sau đến những nàng thôn nữ bạn, học trò còn đôi tám…Dù ở đâu hay thời điểm nào, rung cảm chính trong thơ mình cũng bắt nguồn từ những hình ảnh người nữ thuộc mọi giai tầng, khởi đi từ tâm, dựa vào triết lý Đại Bi của Phật giáo. Bên cạnh nó là những trăn trở, góp ý thực tiễn tìm một giải pháp diệt khổ: chấp nhận hiện hữu, biến khổ thành vui…Từ đôi mươi, trong thời kháng Pháp cũng như khi trưởng thành, đi làm để mưu sinh, soạn giả đã gặp nhiều mối duyên kỳ ngọ nhưng đa số dang dở – và tất cả đã được ghi lại trong tập Thơ Xanh ( 1955) và Huyền Ca Diễm Ảnh1, 2 (1991). Rất tiếc đa số những sáng tác trong loạn ly, khói lửa đã bị thất lạc, tiêu hủy qua nhiều cuộc di cư, tị nạn, lưu vong, chính biến… Có vài tác giả thắc mắc về sự vắng mặt của tác giả trên văn đàn suốt thời gián dài, – từ 1955-1991- như cCo Mỵ Nhân, Hà Huyền Chi… lý do đơn giản của «vấn đề » là trong suốt thời gian ấy, soạn giả đã phải vận dụng «nội lực và tinh thần, liên tục, kiên trì phấn đấu để sinh tồn, xây dựng hạnh phúc cho một gia đình đông con nhỏ, và luôn gặp những biến thiên trọng đại, bất ngờ.

Kể từ thập niên 1990, tương đối rảnh rỗi, – sau khi bày nhỏ, nói chung đã an cư lạc nghiệp soạn giả mới nghĩ đến việc sắp xếp lại và in ấn những sáng tác trong mất chục năm qua: Năm 1992 pjhoổ biến thi tập » Quê Hương, Vĩnh Cửu Tình Yêu », năm 1993 trình lành hai tập «Đường Nào Có Hoa Đào» và « Tha hương, Mười Tám Năm, Sầu Có Ai ?»Đây cũng là thời gian soạn giả, cũng vài văn thi hữu- đứng ra vận động Thi Đàn Lạc Việt, và sau đó là Hội Trao Đổi Văn Học Nghệ Thuật, để tập hợp những nhà văn, thơ yêu mến và muốn góp phần nhỏ mọn bảo tồn văn hóa nước nhà. Hơn mười năm hoạt động, cơ sở đã tổ chức được hai cuộc Thi Thơ toàn quốc, có gần 150 nhà thơ tham dự trong những năm 1994 và 1996.Mặt khác, cơ sở đã ấn hành được 5 Tuyển tập Một Phía Trời Thơ 1,2,3,4,5 ; hai tiuển tập 4 Biển Thơ Chung Nối Nhịp Cầu ;3 tuyển tập Thơ Văn Xuân Thu 1,2,3 (chưa kể mấy số tam nguyệt san Xuân Thu), với nội dung thuần túy văn nghệ.

Năm 1997 cơ sở bát đầu chuyển hướng đi vào phần vụ nghiên cứu, biên khảo, xuất bản: tổ chức nhiều buổi nói chuyện trao đổi về thơ văn như Ca Dao Việt Nam, Viết truyện ngắn, Ngâm Thơ, Mệnh Số học, Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương, Thiền, Nhạc.. và năm 2000 tổ chức Ngày Kỷ niệm Thi hào Nguyễn Du, khá thành công.Giữ năm 1997 soạn giả cho ra mắt Tổng tập I Thơ Dương Huệ Anh gờm 6 thi tập: Thương Cả Trăm Hoa ; Gót Ngọc Quan Âm ; Tho Xanh ( tái bản)….. »
Câu Chuyện Sinh Hoạt Văn Hóa:
Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris là một hội được thành lập từ luật 1901. Mục đích nhằm Bảo tồn và phát huy Văn Hóa Việt Nam ở hải ngoại. Điều lệ của hội rất đơn giản vì nặng tính thân hữu, k hông gò bó người tham gia và cũng không ràng buộc người khi rời CLB. Đa số hội viên thuộc giới trí thức văn thi sĩ, mà trong đó có những thành viên Ba Lê Thi Xã. Nhà thơ Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu phát biểu về Ba Lê Thi Xã:

«Ba Lê Thi Xã, một hội thơ có khuynh huớng Đường Thi do hai cố thi sĩ Hương Bình GS Cao Văn Chiểu và Hàm Thạch GS Nguyễn Xuân Nhẫn sáng lập. Thời gian sau, Nữ sĩ Minh Châu GS Thái Hạc Oanh cùng với nhà thơ Phương Du là những cột trụ của Ba Lê Thi Xã. Hội quy tụ nhiều trí thức khoa bảng, như giáo su đại học, bác sĩ, luật gia, học giả, dịch giả…vv…nhưng có tâm hồn thơ, nên có nhiều nguời đã thành danh trong làng thơ truớc 75 và hiện nay. Thời gian trôi đi, nhiều nguời trong nhóm đã khuất như: nhà thơ Đào Trọng Đủ, nhà thơ Hương Bình Cao Văn Chiểu, nhà thơ Hàm Thạch Nguyễn Xuân Nhẫn, nhà thơ Bằng Vân Trần Văn Bảng, nhà thơ Đàn Đức Nhân, nhà thơ Huỳnh Khắc Dụng, nhà thơ Luong Giang Phạm Trọng Nhân, nhà thơ Phuợng Linh Đỗ Quang Trị, nhà thơ Nguyễn Thuờng Xuân, nhà thơ Việt Hoài, nữ sĩ Liên Trang Phạm Thị Ngoạn (Ái nữ cụ Phạm Quỳnh), nữ sĩ Thanh Liên. Những nguời còn sống như: Nhà thơ Song Thái Phạm Công Huyền (ngoài cửu tuần), nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh, nữ sĩ Quỳnh Liên Công Tằng Tôn Nữ Quỳnh Liên, nữ sĩ Phạm Thị Nhung, nhà thơ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, nhà thơ Khuê Trai Vũ Quốc Thúc, nhà thơ Phuong Du Nguyễn Bá Hậu, nhà thơ Huong Giang Thái Văn Kiểm, nhà thơ Hoài Việt Nguyễn Văn Hướng, nhà thơ Hồ Trọng Khôi, nhà thơ Đỗ Bình …vv… Nhà thơ Đỗ Bình là nguời trẻ tuổi nhất đã bỏ ra nhều công sức giúp ích rất đắc lực cho Ba Lê Thi Xã quy tụ những nhà văn nhà thơ hải ngoại».(Những nhà thơ đã tạ thế: Nhà thơ Hồ Trọng Khôi, Nhà thơ Song Thái Phạm Công Huyền, hưởng thọ 101 tuổi. Nhà thơ Khuê Trai Vũ Quốc Thúc, hưởng thọ 101 tuổi. Nhà thơ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, hưởng thọ 95 tuổi. Nhà thơ Phương Du Nguyễn Bá Hậu, hưởng thọ 95 tuổi. Nhà thơ Hương Giang Thái Văn Kiểm, hưởng thọ 93 tuổi.)

Nhà Thơ Dương Huệ Anh Gặp gỡ Bằng Hữu Paris:
Vào ngày 25 03 2003, một buổi sinh hoạt văn học nghệ những người hiện diện: Nhà thơ Dương Huệ Anh từ miền Cali nắng ấm đến Paris, nhà văn Hồ Trường An từ Troyes lên, nhà văn Võ Đức Trung từ Lille đến, cùng các văn thi hũu Paris: Học giả Võ Thu Tịnh, nhà thần học Nguyễn Tấn Phước, nhà thơ Vân Uyên GS Nguyễn Văn Ái, nhà thơ Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu, GS Phạm Đình Liên, GS Nguyễn Thị Minh Cầm, Nữ sĩ Minh Châu GS Thái Hạc Oanh, nữ sĩ Quỳnh Liên, nhà thơ nữ Thụy Khanh, nhà thơ nữ Hà Lan Phương, nhà văn Trần Đại Sỹ, nhạc sĩ Xuân Lôi, nhạc sĩ, GS Lê Mộng Nguyên, nhạc sĩ Trịnh Hưng, nhạc sĩ Trong Lễ ,họa sĩ René, Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng, nhà báo, GS Nguyễn Bảo Hưng, nhà báo Song Nguyễn GS Nguyễn Ngọc Chân, Nữ điêu khắc gia Đặng Vũ Anh Trần, nữ điêu khắc gia Vương Thu Thủy, đạo diễn Trần Song Thu, dịch giả Liều Phong, BS Thân Trọng Kỳ, BS Nguyễn Bá Linh, Nhà thơ Đỗ Bình, nghệ sĩ Linh Chi, Nghệ sĩ Thúy Hằng….VV……..

Mở đầu chương trình, Nhà thơ Đỗ Bình giới thiệu vài nét về nhà thơ Dương Huệ Anh:«Cụ Dương Huệ Anh là một con người đa tài. Ông tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Gia Hành Chánh và là cựu công chức cao cấp của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Vì tâm hồn đa cảm ông thích thơ văn, âm nhạc và nghiên cứu văn học hơn là sự phấn đấu tiến thân trong sự nghiệp quan trường. Ông là Nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo, nhà soạn nhạc. Từng là cựu Chủ tịch Thi Đàn Lạc Việt ở San Jose, miền Bắc Cali nơi quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng mà chúng ta đã từng đón tiếp những vị đó khi sang thăm Paris, như nhà thơ Yên Bình, nhà thơ nữ Nguyễn Phan Ngọc An, nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh, nhà thơ nữ Ngọc Bích, nhà thơ nữ Sương Mai. Trong thi đàn Lạc Việt có những vị liên lạc trao đổi thơ với chúng ta như Nữ sĩ Trùng Quang ,(Hội thơ Trúc Liên, Quỳnh Dao ), nữ sĩ Đinh Thị Việt Liên( Hội thơ Thi Lâm Hợp Thái,Thi Đàn Quỳnh Dao 1962 – 1975), thi sĩ Hà Thượng Nhân, thi sĩ Trình Xuyên , thi sĩ Hàn Nhân… .

Nhà thơ Dương Huệ Anh:
“ Kính thưa qúy vị, cảm ơn qúy vị đã không quản thì giờ, đường xa cho chúng tôi gặp mặt ngày hôm nay. Thú thật, đối với qúy vị về văn thơ tôi là người đi sau mặc dầu tuổi tác thì có thể nhiều hơn một số người. Tôi xin đề nghị xin đừng gọi chữ cụ nghe nó già quá mà chính tôi cũng không muốn già, vì già khó làm thơ lắm không còn thơ thẩn được ! Do đó xin đề nghị mình cứ coi nhau như văn thi hữu anh em nó sảng khoái tự do hơn. Xin phép được giới thiệu về sinh hoạt của chúng tôi:Thi Đàn Lạc Việt được thành lập năm 1992 với hình thức hết sức khiêm tốn khởi đi từ nhóm thơ, chủ trương: Bảo tồn và phát huy văn học nghệ thuật VN ở hải ngoại. Qua 1993 thành lập thành Thi Đàn bên cạnh đó chúng tôi thành lập thêm Cơ Sở Văn Học Nghệ Thuật vì quan miệm rằng thơ phải có bộ môn diễn ngâm đi theo dù rằng tự thơ nó có nhạc rồi nhưng để chuyên chở đi xa cần có bộ môn nhạc. Mặc dù có những hạn chế về sức khỏe, phương tiện nhưng chúng tôi cũng cố gắng đóng góp cho văn học về phương diện thơ cơ sở đã xuất được 8 tập, trung bình mỗi năm là một tuyển tập. Ngoài ra chúng tôi còn xuất bản một tuyển tập văn Xuân Thu không định kỳ, khi nào có tiền thì chúng tôi ra. Đây là một tuyển tập được chăm sóc kỹ, nhưng sau khi ra được hai số phải đổi thành tam cá nguyệt nhưng cũng không liên tục vì nhiều khó khăn tài chánh. Sự tự lực của chúng tôi không đủ nuôi dưỡng tuyển tập, do đó cuối cùng đành phải ra định kỳ vài năm ra một bản !Nói về phương diện cá nhân thì có nhiều anh chị em có nhiều sáng tác rất đáng kể. Xin cho phép tôi được trình bày những đóng góp của cá nhân : Năm 1955 in tác phẩm Thơ Xanh rồi ngưng dù vẫn sáng tác, mãi đến năm 1990 bắt đầu lại và đã xuất bản khoảng 10 tập thơ. Sau những thi tập đó tôi sản xuất khá nhiều nên gom 4,5 tập vào nhau. Vì thế năm 1997 in 6 tập vào nhau lấy tên Tổng Tập 1 gồm 6 thi tập: Gót Ngọc Quan Âm Lấm Bụi Trần ,(thơ đạo), Thương Cả Trăm Hoa, Hai Mươi Năm Lưu Vong, Ba Mươi Năm trước, Thơ Hồng.”

Nhà thơ Vân Uyên, GS Nguyễn Văn Ái bỗng hỏi:“ Bao giờ thì có thơ Tím ?”Nhà thơ, nhà văn Dương Huệ Anh:“ Sắp có rồi, tôi chỉ không có thơ màu đỏ thôi, trong tương lai chúng tôi sẽ có đủ các thứ màu.”Dương Huệ Anh nói tiếp:“Sau đó tôi chuyển sang văn vì ai cũng khuyên là thơ nhiều quá rồi không có ai đọc đâu!”Hồ Trường An:“Ai Nói Vậy? ”Dương Huệ Anh:“ Một nữ sĩ ở Cali nói với tôi: Ông in Thơ dày quá không ai đọc!”Dương Huệ Anh:“Tôi in thế này tước hết để cho tôi đáp ứng được phần tài chánh của tôi. Sau đó tôi chuển qua văn, Truyện ký thì đúng hơn vì dựa vào chuyện có phần tôi trong đó. Tôi tôi đặt tên là Những Cánh Thư Hồng dày khoảng 500 trang. Như qúy vị đã biết biển văn học nó mênh mông lắm nên tôi chuyển sang giới thiệu tác giả giới thiệu các nhà thơ khoảng 100 nhà thơ in năm 2001”Đỗ Bình:“Xin các bậc trưởng thượng cho biết, thế nào là một tác phẩm hay, tác phẩm đó dựa theo tiêu chuẩn nào để đánh giá ?”Dương Huệ Anh:“Nói là giới thiệu tác giả, tôi không làm công việc phê bình mà chỉ viết theo lối tản mạn về văn học, bởi vì nói ngbiêm túc quá ít người đọc, mà có lẽ mìnhcũng không đủ sức chưa đủ thì giờ chưa đủ khả năng nên tôi chọn thể loại này. Nhưng khi ra sách cũng có nhiều người phê bình lắm vì họ cho rằng đây là một biên khảo văn học. Anh em không hiểu, lhông đọc kỹ lời trần tình của mình ban đầu! Nên họ cho là biên khảo văn học có lẽ đối với họ là đứng , nhưng đối với tác giả hơi oan vì mình không chủ trương như vậy mà chỉ là tản mạn văn học!”GS Lê Mộng Nguyên:“Cuốn phê bình văn học Thi Nhân VN của Hoài Thanh Hoài Chân chẳng hạn ? ”Nhà thơ Dương Huệ Anh:“Vâng, đúng thế. Chúng tôi rất thành thật xin qúy vị chỉ giáo, tôi nghĩ rằng mình không thể biết hết được dù mình sống tới trăm tuổi. Xin qúy vị chỉ những khuyết điểm chúng tôi xin sẵn sàng thụ lãnh. Xong cuốn này anh em phê bình dữ lắm nhưng cũng có nhiều người khem và vài người ta không tán thành ! Sau cái này chúng tôi nghỉ và chuyển qua một cái khác, tôi hơi tham vọng mà cái tham vọng đó không phải là cái xấu không đáng kết án, nó không phải là cái tội. Tôi nghĩ có nhiều khía cạnh quá cái nào mình cũng muốn đi sâu vào xem mới biết mới hiểu được. Sau đó tôi viết cuốn : Vài Nhà Thơ Việt Thế Kỷ Hai Mươi, trong tập chúng tôi viết không phân biệt trong nước ngoài nước, Bắc Nam, tuy nhiên mình phải tránh những gì gây xúc động với độc giả. Nhưng khi đem in gặp nhiều khó khăn vì phải tự lực cánh sinh ! Tôi xin phép được dừng ở đây nếi qúy vị có muốn sáng tỏ điều gì tôi xin thưa . xin cảm ơn qúy vị.”Đỗ Bình:“Theo tôi, viết về những tâm hồn phụng sự cái đẹp của người nào đó đã lao tâm lao trí trên con đường văn học nghệ thuật là việc làm đáng khen. Trong lãnh vực phê bình văn học ở hải ngoại hiện nay còn hiếm vì rất ít người chịu dấn thân làm công việc này, người am tường văn học thì già yếu, dần dần ra đi; còn lớp trẻ dù có bằng cấp cao nhưng lại am tường văn hóa xứ người! Do đó người làm công việc phê bình rất qúy vì nhờ họ đã khám phá ra những điều ẩn chứa trong tác phẩm để giới thiệu đến công chúng những chân dung của những người sáng tác. Đánh giá một tác phẩm tùy theo trình độ của người đọc và còn phải đợi thời gian, nhưng hiện tại vẫn cần những người điểm sách, giới thiệu khái quát về nội dung lẫn hình thức để giúp bạn đọc đi vào trọng tâm đỡ mất thời gian.”Và sau đây tôi xin trân trọng giới thiệu đến qúy vị nhà văn Hồ Trường An : Tác giả gần 50 đầu sách về trường thiên tiểu thuyết, tiểu thuyết,và biên khảo, phê bình.”

Nhà văn Hồ Trường An:“Thưa các bậc niên trưởng, và qúy văn hữu:Tôi làm văn nghệ tùy vào cảm hứng vui đâu chuốc đó chứ không nhất định cái gì, nếu cảm thấy hứng là làm. Cần phê bình là phê bình, khi tôi viết về biên khảo không phải là viết toàn sự nghiệp văn học của tác giả nào, mà viết từng cuốn chứ không dám ôm đồm. Nếu có cảm hứng làm thơ thì làm những bài thơ Đường, vui đâu chuốc đó. Tôi có một đức tính: Nếu ai khen thì cũng mừng, còn ai chê thì cũng rán chịu trận chứ không một lời nào đính chính trên báo hết. Bởi càng đính chính thì càng làm cho người ta làm dữ !…. Do đó ai chê tôi thì chê ; ai khen thì mừng tôi không có một phản ứng, thật ra tôi không có buồn, mình làm một món ngon người này ăn thì khen người kia ăn thì chê, kẻ thích mì người thích hủ tíu, còn có người ăn mì ăn hủ tíu nhiều quá lại thích ăn bún riêu. Qúy vị đã đọc qua cuốn biên khảo Thập Thúy Tầm Phương thì cuốn biên khảo thứ tư Tôi đang viết cuốn:Tập Diễn Ngưng Huy trong đó có hai người hiện diện ở đây là anh Võ Đức trung và chị Thụy Khanh: Tôi xin giải thích cái tựa sách: Tập: kết tập, Diễm là đẹp, Ngưng là ngưng lại, Huy là ánh sáng, ánh sáng ngưng đọnglại tôi rút ra từ Hồng Lâu Mộng chứ không phải do tôi đặt. Tóm lại tôi không có chủ trương gì lớn lao, tôi không có tham vọng. Xin dứt lời.”

Đỗ Bình giới thiệu vài nét về nhà văn Võ Đức Trung: “Tác giả nhiều tập truyện, biên khảo. Là một người khiêm tốn giữ được phẩm chất của một cựu giáo chức. Là người chủ xướng thực hiện cuốn Một Phần Tư Thế Kỷ Thi Ca VN Hải Ngoại gồm những bài thơ đắc ý của nhiều tác giả có chung một hoàn cảnh ly hương trong số các nhà thơ hải ngoại. Thời gian chúng tôi chuẩn bị cho thi tập mất 2 năm, khi đua ra thảo luận tại nhà tôi lúc đó gồm: Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh, nhà văn Nguyễn Hũu Nhật, nhà văn Võ Đức Trung và tôi, trong thảo luận thì được biết cái Tựa sách này đã được các nhà thơ Diên Nghị, Song Nhị , Duy Năng ở Cali đã chọn từ lâu và sắp in, họ muốn thực hiện một tập văn học ghi dấu một giai đoạn đời 25 năm xa xứ. Sau đó tôi đã liên lạc với các nhà thơ trên để giải thích sự việc của chúng tôi và đề nghị họ chọn một cái tựa khác. Khoảng một tuần sau họ trả lời là đồng ý, và đã chọn cái tựa khác cho tuyển tập là : Lưu Dân Thi Thoại, hay25 Năm Bút Luận do Cội Nguồn xuất bản.Nhà văn Võ Đức Trung phát biểu:“ Nhận được phôn của anh Đỗ Bình mời tôi nghĩ là lên Paris họp bạn văn nghệ như mọi khi, nhưng khi xem lại thư mời tôi thấy quan trọng quá nên lấy làm ái ngại ! Tôi ở tỉnh lẻ, thỉnh thoảng mới về Paris sinh hoạt sợ phát biểu sẽ trở ngại , hơn nữa như anh Đỗ Bình và Hồ Trường An biết; tôi viết văn về đồng quê mộc mạc nếu có gì sơ xuất mong các anh chị thứ lỗi cho. Tôi xin tâm tình tại sao tôi lại có ý định thực hiện cuốn Một PhầnTtưThế Kkỷ Thi Ca Hải Ngoại. Kể từ sau biến cố năm 1975 mọi người ồ ạt bỏ nước ra đi, dòng thi ca lúc đầu gần như tan tác, cho đến đầu thập niên 80 thì khởi sắc vì số ít nhà thơ vượt thoát ra ngoài được đã bắt đầu viết, hồn thơ còn nhiều tâm tư cảm xúc, nhưng đến cuối thập niên 80 thì bắt đầu có chiều hướng đi xuống vì đa số phải hội nhập với cuộc sống mới! May mắn thay là qua thập niên 90 có một số nhà thơ trong diện anh em H.O khi vừa đặt chân đến ơi định cư họ đã cầm bút lại, dòng thi ca lại dâng cao qua những bài thơ tố cáo sự đàn áp và nhà tù trongchế độ CS, chúng tôi muốn bảo tồn và lưu trữ những sự kiện đó qua thi ca nhưng khi bắt tay vào thực hiện mới biết muôn vàn khó khăn! Chúng tôi tiếp xúc 350 tác giả nhưng phải chọn lựa như thế nào khi cuốn sách chuẩn bị in chỉ giới thiệu có 24 tác giả mà không kêu sự đóng góp ? Cuốn 1 đã phát hành vào tháng 2 vừa rồi, chúng tôi nhận được thư, điện thư, và phôn đến chúc mừng và khích lệ, điều đó là một món quà tinh thần đối với chúng tôi trong công việc bảo tồn văn hóa VN nơi xứ người.”

Nhà thơ Đỗ Bình phát biểu:«Có một nữ sĩ bảo nên thận trọng khi đề cập đến lãnh vực tế nhị tác phẩm và tác giả. Nếu bài giới thiệu không đưa ra những điểm mạnh, độc đáo, thì bài viết đó chỉ là bài khen nhau có tính tâng bốc mà không phải là bài nhận xét, phê bình văn học nghệ thuật! Theo tôi, viết về một người nào, là viết về những tâm hồn của người đó đã bỏ bao tâm trí phụng sự Chân Thiên Mỹ trên con đường văn học nghệ thuật. Đó là việc làm đáng khen, mặc dù đánh giá một tác phẩm rất khó !Sự nhận xét còn tùy theo trình độ, khuynh hướng cảm quan của mỗi người viết, hơn nữa trình độ người đọc hôm nay rất cao. Tuy nhiên thời gian sẽ là thước đo, gạn lọc những điều không phải nghệ thuật, để chỉ còn lại chân gía trị đích thực của một tác phẩm đọng lại trong lòng người.. Nhưng dầu sao, bộ môn văn học & nghệ thuật luôn cần những người giới thiệu khái quát về nội dung lẫn hình thức một tác phẩm để giúp bạn đọc đi vào trọng tâm đỡ mất thời gian.”

Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oanh trước năm 1975 là giáo sư trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, Bà còn là một họa sĩ có tranh triển lãm quốc tế. Tác giả nhiều thi tập và biên khảo:Nữ sĩ Minh Châu:« Có người bảo viết để khen nhau là tâng bốc mà không phải là phê bình văn học nghệ thuật ?»

Đỗ Bình:“Từ bao lâu nay người ta tranh cãi về những chuẩn mực trong văn học nghệ thuật giữa cái hay và cái dở. Trong khi đó thích hay không thích chỉ là chủ quan của người đọc. Tôi thấy hôm nay người làm thơ ngày càng nhiều, đó là điều đáng mừng vì tâm hồn thơ sẽ giúp cho đời thêm hoa, bớt đi sự cay đắng. Nhưng tiếc thay có những bài thơ đạt được cả tứ thơ lẫn cấu trúc thì không nổi tiếng, nhưng có bài chẳng phải là thơ lại được quảng cáo rầm rộ !”

Nữ sĩ Minh Châu:“Tại sao không phải là thơ, văn xuôi khác thơ ở điểm nào?”Đỗ Bình:“Một bài viết cẩu thả, viết cho lấy có, chỉ dựa vào thể tự do để gọi là “thơ” thì chưa chắc đã là một bài thơ, và cũng không thể gọi là văn xuôi? Thơ hiện đại và tự do rất gần gũi với văn xuôi, nhưng làm một bài thơ tự do, hay một bài thơ hiện đại rất khó ! Nhưng khi đã thành thơ thì bài đó sẽ đặc sắc và độc đáo. Theo tôi, một bài thơ hay phải bao gồm mỹ học và ý thơ.”Nhà báo, GS Nguyễn Bảo Hưng:“Văn xuôi là ngôn ngữ thực dụng của kinh nghiệm diễn giải bằng lý trí để mô tả hoặc giải thích một sự vật hay một ý niệm, thơ là một cảm xúc của tâm hồn được diễn tả bằng nghệ thuật.”

Trong lãnh vực phê bình văn học& nghệ thuật ở hải ngoại hiện nay còn hiếm những nhà lý luận phê bình văn học& nghệ thuật, vì rất ít người chịu dấn thân làm công việc này, người am tường văn học thì già yếu, dần dần ra đi; còn lớp trẻ dù có kiến thức rộng, bằng cấp cao nhưng lại am tường văn hóa xứ người! Do đó người làm công việc phê bình rất qúy vì nhờ họ đã khám phá ra những điều ẩn chứa trong tác phẩm để giới thiệu đến công chúng những chân dung của những người sáng tác. Đối với những nhà phê bình văn học, chức năng của họ là khám phá những cái hay cái đẹp và độc đáo trong tác phẩm. Nếu nhà phê bình không khách quan và đi ngoài các khuynh hướng chính trị, tôn giáo thì lời phê đó rất ảnh hưởng cho một tác giả và tác phẩm. Nhà phê bình Văn học với tinh thần khách quan lúc nhận xét một tác phẩm luôn đi tìm để khai phá cái hay, cái đẹp, cái sâu sắc của tác phẩm cùng cái sâu thẳm nơi tâm hồn tác giả, không phải để làm vừa lòng tác giả mà cốt để người đương thời cùng lịch sử văn học sau nầy thẩm định được nếp sống, nếp nghĩ của một thời. Do đó, người làm công viêc phê bình ít nhiều đều chịu trách nhiệm với lịch sử sau nầy. Vì thế, nhà phê bình văn học đứng đắn không khen hão, không chê bừa, không tâng bốc, cũng không cố tình hạ giá tác phẩm cùng tác giả do chủ quan của mình hay do tình cảm thân sơ, yêu ghét đối với tác giả. Công việc phê bình không là công việc dễ dàng vì có nhiều tác phẩm cùng tác giả vô cùng sâu sắc mà đọc không kỹ, khó tìm ra cái đẹp, cái nội dung sâu sắc đó. Do đó, người làm công việc phê bình luôn phải thận trọng, nghiền ngẫm, khám phá ra những nét đẹp ẩn tàng nơi tác phẩm vì đây không phải là công việc làm chơi, làm lấy có mà phải chịu trách nhiệm với lịch sử Văn học, Nghệ thuật. Thường thì tác giả nào cũng muốn được khen, được đề cao giá trị tác phẩm mình mà không để ý đến trách nhiệm lịch sử của nhà phê bình đối với Văn học, Nghệ thuật nên hoặc hân hoan với những lời khen «bốc đồng», vội vã hoặc buồn trách nhà phê bình không «tán dương» tác phẩm mình. Nhà phê bình còn có trách nhiệm khác nữa là khuyến khích, gây tin tưởng cho những tài năng ngày càng được phong phú để có những tác phẩm hay đẹp hơn trước. Khá nhiều trường hợp một tác giả lúc đầu chỉ sáng tác đôi tác phẩm bình thường nhưng do các nhà phê bình đúng đắn mà có được những sáng tác phẩm trổi vượt hơn trước rất nhiều. Vì chính những phê bình dù khen hay chê đã khiến tác giả chăm chút tác phẩm mình, học hỏi, đào sâu tâm thức và nghệ thuật để từ đó có những trước tác nổi bật so với trước. Dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa những nhà lý luận, phê bình dù có kiến thức uyên thâm, lý luận sắc bén, khám phá được cái hay cái đẹp, cái độc đáo trong tác phẩm nhưng lệch đường lối của đảng cũng không dám viết ra; mà chỉ dám viết những điều đảng đã chỉ đạo cho phép! Đối với những tác giả ngoài đảng, có những tác phẩm phản ánh xã hội mang tính phê phán, gây bất lợi cho đảng sẽ bị các «nhà văn hóa đảng» làm nhiệm vụ nhà phê bình, cực lực lên án trù dập tác giả và tác phẩm. Họ tìm những điểm tiêu cực, hoặc những điểm sơ xuất trong tác phẩm rồi phê phán gay gắt, nhằm hướng dẫn dư luận hiểu theo quan niệm của họ. Kết quả là số phận các văn nghệ sĩ cùng tác phẩm của họ bị ghép tội phản động ! Điển hình là vụ án thời Nhân Văn Giai Phẩm, và vụ Văn Hóa Đồi Trụy, thời kỳ sau năm 1975.

Nhạc sĩ Trịnh Hưng, tác giả những nhạc phẩm nổi tiếng một thời: Lối Về Xóm Nhỏ, Tôi Yêu…. :“Thưa Các Bậc trưởng thượng và qúy Anh Chị, cách nay vài tháng chúng ta có làm buổi Kỷ niệm 65 năm sinh hoạt văn học nghệ thuật của nhạc sĩ Xuân Lôi và cũng mừng lễ thượng thọ 85 tuổi để vinh danh người nghệ sĩ lão thành. Hôm đó thật đông, đầy đủ các khuôn mặt văn nghệ sĩ, điều đó nói lên được cái tình nghệ sĩ là chúng ta biết thương yêu và trân trọng nhau thì có khác nào những bài viết khen.”

Nhạc sĩ Xuân Lôi:(giải thưởng Quốc Gia với những ca khúc Tiếng Hát Quê Hương, Bài Hát Của Người Tự Do 1960 ở Miền Nam. Ca khúc nổi tiếng Nhạt nắng: “ xin chào các qúy vị tôi xin độc tấu Hạ Uy Cầm nhạc phẩm Xa Quê Hương điệu valse lente nhạc của Xuân Tiên, lời Đan Thọ viết ngày 28 05 1956.”

GS TS âm nhạc Quỳnh Hạnh (GS trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài gòn. Huy chuơng vàng Giải nhất giải Văn Học Nghệ Thuật toàn quốc do Phủ tổng thống VNCH trao tặng, Sài gòn 1974):“ Âm nhạc, ngoài sự thưởng ngoạn ra còn có giá tri về khoa học. Đó là Musicothérapie hay Phương Pháp Trị Bệnh Bằng Âm Nhạc. Thực vậy, bô môn trị bệnh này có từ thời Hy lạp cổ xưa, phối hợp với trị bệnh bằng suối nước nóng, mục đích làm êm dịu thần kinh và xua đuổi đi những sự lo âu, phiền nảo… Ở Châu Á cũng có cụ Khổng Phu Tử có nói trong Lễ Nhạc : Nhạc là để giáo hóa lòng người…Ngày nay qua những bài thuyết trình tại Đại Hoc Sorbonne, Đai Học Y Khoa de Paris, các Phân khoa Tâm Lý Học cũng gây được chú ý của người nghe, nhất là giới trẻ quá nhiều lo âu trong cuộc sống hằng ngày và củng để xả Stress..”

Nhà văn Trần Đại Sỹ, tác giả nhiều bộ trường thiên tiểu thuyết Dã Sử :“thật là một hân hạnh cho tôi được gặp qúy vị, nhất là một người tôi biết rằng hôm nay tôi sẽ gặp, là người mà tôi mắc nợ ngay từ lúc tôi học 6ième mà bây giờ tôi được đến để trả nợ đó là ông Lê Mộng Nguyên. Thưa qúy vị lúc đầu tiên tôi học nhạc là thày Hùng Lân đã đem bản Trăng Mờ Bên Suối dạy tôi. Hễ cứ nói đến ông Lê Mộng Nguyên dù ông có làm cả ngàn bản nhạc thì tôi cũng chỉ biết có Trăng Mờ Bên Suối. Hôm nay tôi có chút quà văn nghệ xin tặng lại hai bộ cuối cùng tiuểu thuyết lịch sử là bộ Nam Quốc Sơn Hà thuật lại chiến công Lý Thường Kiệt đánh sang Tống, Anh Hùng Đông A Dựng Cờ Bình Mông tức là giai đoạn 1đánh quân Mông Cổ lần thứ nhất, còn đánh Mông Cổ lần thứ hai chưa in xin tặng giáo sư.”

GS Lê Mộng Nguyên:“Xin cảm ơn anh Trần Đại Sỹ , tôi rất cxảm động không nói gì được.”

Nhà văn Võ Đức Trung:

“ Riêng về anh Lê Mộng Nguyên cái bài Trăng Mờ Bên Suối hay quá hay! Nói thiệt anh, cho dù anh có làm hằng trăm bài khác hay như vậy cũng không rung động được tôi nữa, là bởi vì bài Trăng Mờ Bên Suối khi tôi nghe lên là tôi nhớ đến thuở còn trẻ của tôi khi đi ngang nhũng dòng suối có nước chảy róc rách có những tảng đá tôi băng qua, lại thêm những vần trăng ở quê hương không thể nào quên được những thứ đó nó ngấm vào tâm hồn của tôi nên nghe bài hát có thể chảy nước mắt. ”Vài Nét Về Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên:Lê Mộng Nguyên sinh ngày 5 tháng 5 năm 1930, tại Phú XuânHuế. Lê Mộng Nguyên dùng tên thật cho hầu hết các sáng tác, đôi khi ông dùng một bút danh khác là Yên Hà hoặc Lan Đào. Ông là con trai áp út của một gia đình nho giáo, điền chủ ở tỉnh Thừa Thiên. Cha ông tên Lê Viết Mưu, mẹ là bà Hồ Thị Ngô. Ông bà có bảy người con, trong đó Lê Mộng Hoàng, anh của Lê Mộng Nguyên là một đạo diễn điện ảnh nổi tiếng.Lúc nhỏ, Lê Mộng Nguyên bắt đầu đi học ở trường làng Phú Xuân, rồi vào học trường Tiểu học (École Primaire) Chaigneau ở Huế. Sau đó ông thi tuyển vào trường trung học Khải Định và là một trong ba người đỗ đầu, được Chính phủ cấp học bổng. Ông học ở đó từ 1943 đến khi thi Tú tài năm 1950. Lê Mộng Nguyên làm thơ, nhạc và viết văn từ thuở nhỏ, lúc 9 tuổi khởi sự làm thơ và có nhiều bài được đăng trong nội san của trường trung học Khải Định với bút danh Yên Hà.Năm 15 tuổi, trong một cuộc thi Văn chương Học sinh trường Trung học, ông viết một bài về Phan Đình Phùng và đạt giải thưởng Hoàng Đế Bảo Đại, năm đó ông cũng sáng tác ca khúc đầu tay “Xuân Tươi” (dưới bút hiệu Lan Đào), được báo ‘’Quốc Gia’’ đăng trong ‘’Đặc San Mùa Xuân’’.

Năm 18 tuổi Lê Mộng Nguyên đã được cấp thẻ nhà báo, cộng tác cùng nhiều tờ báo khi đó: Phật Giáo Văn Tập, Quốc Gia, Việt Nam Tân Báo, Đường Mới. Năm 1950, sau khi tốt nghiệp Tú tài toàn phần tại Việt Nam, Lê Mộng Nguyên sang Pháp du học, được ông Nguyễn Khoa Nam bảo lãnh tại Paris[1]. Ban đầu ông muốn theo học hòa âm tại Trường âm nhạc Paris nhưng sau đó bỏ ý định, quay sang học luật tại Khoa luật và Khoa học Kinh tế Đại học Paris 1 Panthéon Sorbonne (Faculté de Droit et de Sciences Economiques).Năm 1954, Lê Mộng Nguyên tốt nghiệp Cử nhânLuật. Từ năm 1955 tới năm 1958, ông được mời làm tùy viên kinh tế và xã hội cạnh Tòa đại sứ Việt Nam tại Paris (Attaché économique et social près l’Ambassade du Vietnam à Paris) dưới quyền của đại sứ Việt Nam Phạm Duy Khiêm. Sau đó ông quay lại trường đại học và thi đậu cuộc thi để được hành nghề luật sư. Năm 1962, ông đậu Tiến sĩ quốc gia (Doctorat d’État) với ba bằng cao học về Droit public, Droit privé và Sciences Politiques. Sau khi thôi hành nghề luật sư, năm 1967, Lê Mộng Nguyên dạy luật Hiến pháp (Droit constitutionnel) và Khoa học Chính trị (Sciences politiques) tại trường Đại học thành phố Besançon, miền Đông nước Pháp. Năm 1985 ông quay lại Paris và giảng dạy tại Đại học Paris 8 Saint Denis đến khi về hưu năm 1997. Trong thời gian đó, ông cũng sáng tác nhiều ca khúc, nhưng không phổ biến. Tuy ít tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Pháp, nhưng ông cũng đã ký tên ủng hộ việc cứu trợ nạn thuyền nhânvượt biển. Sau khi về hưu, ông cộng tác với vài báo chí Việt tại hải ngoại, trong đó có nguyệt san Nghệ Thuật của nhạc sĩ Lê Dinh và Hồn Việt của ký giả Vương Huyền.Lê Mộng Nguyên thành hôn với Nicole Moulin, một phụ nữ người Pháp vào ngày 8 tháng 1 năm 1959. Trước đó hai năm, họ gặp nhau sau một cuộc biểu tình tại quận La Tinh Paris. Hai người không có con. Ông cũng chưa từng về lại Việt Nam từ khi đi du học năm 1950.Ngày 5 tháng 12 năm 1997, Lê Mộng Nguyên được bầu vào Hàn lâm Viện Khoa học Hải ngoại (Académie des Sciences d’Outre-Mer) của Pháp, thay thế cho Cựu Hoàng Bảo Đại. Người được bầu vào Hàn Lâm Viện này phải có những tác phẩm được xuất bản, những công trình nghiên cứu đáp ứng đường lối của hàn lâm viện trong công cuộc phát triển văn hóa, khoa học, kinh tế, kỹ thuật hay nhân loại của những quốc gia hải ngoại trong khối Pháp. Lê Mộng Nguyên là người Pháp gốc Việt đầu tiên được bầu làm hội viên chánh thức (membre titulaire), có thể được bầu làm chủ tịch Hàn Lâm Viện này và có quyền bầu để chọn người vào làm hội viên. Trước đó, đã có một số người Việt làm hội viên liên lạc (membre correspondant) như Phạm QuỳnhPhạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng; hội viên cộng tác (membre associé) Thái Văn Kiểm. Cựu Hoàng Bảo Đại cũng là hội viên chánh thức tự do (membre titulaire libre), có nghĩa là hội viên thực thụ không thuộc ban (section) nào cả nhưng có quyền bỏ phiếu hay tranh cử bất cứ chức vụ nào của Hàn Lâm Viện.
Nhà văn Trần Đại Sỹ:“Tôi xin trả nợ nguời đàn anh nhưng cũng ít gặp, tôi qúy ông lắm đó là ông GS,BS Nguyễn Văn Ái, đây là bộ Giảng Huấn Khoa Tình Dục bằng Y Học Trung Quốc (sexologie médicale Chinoise) bây giờ tôi viết sang tiếng việt, bản tiếng Tây thì chưa xong, bản tiếng Anh và Trung Hoa thì ra rồi. Đây gồm 3 quyển, thưa qúy vị: “Người ta cứ bảo sách “dâm thư”, nhưng đây là sách giáo khoa, xin tặng đàn anh, đáng lẽ tôi phải tặng ông Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu nhưng ông Phương Du tu rồi sắp sửa thành linh mục đến nơi rồi. Thưa qúy vị mục đích của sách này là làm sao giữ được sức khỏe tăng tiến tuổi thọ, nhiệm vụ nó quan trọng như vậy, xin kính biếu đàn anh.”…..

Ở Pháp không nhiều nhà văn Việt Nam, nhưng lại có 3 nhà văn sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt rất khó khăn khi cầm bút, nhưng một đời yêu văn chương nên vẫn miệt mài viết. Người thứ nhất là: Cố Nhà văn An Khê, tên thật là Nguyễn Bính Thinh sinh 01.09.1923 tại làng Tân An, tỉnh Sa Đéc ; nhưng trưởng thành ở Rạch Giá Kiên Giang). Ông là một cây bút lâu năm trong nghề, gia nhập vào làng báo VN từ đầu năm 1950 cho đến ngày 30. 04. 1975, với các bút hiệu : Nguyễn Bính Long viết về gián điệp, Trương Thanh Vân viết về trinh thám. Năm 1952 ông vào quân đội và năm 1954 ông bị thương ở đèo An Khê hỏng cánh tay mặt. Từ đó ông lấy bút hiệu An Khê và gõ máy một tay để viết tiểu thuyết Dã Sử VN. Ông viết rất khỏe, viết tiểu thuyết đăng các báo hàng ngày cho các nhựt báo ở thủ đô. Năm 1966 ông là chủ nhiệm nhụt báo Miền Tây, là tờ báo đầu tiên của vùng. Sau biến cố năm Mậu Thân tờ báo đình bản. Trước năm 1975 ông cộng tác với các tạp chí : Đời Mới, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tiếng Chuông, Buổi sáng, Công Nhân, Dân Tiến, Vận Hội mới, Tin Sớm, Tia Sáng, Quyết Tiến, Thời Báo, Cấp Tiến, Dân Chúng, Dân Nguyện, Tiến,… Đã viết khoảng 250 quyển tiểu thuyết, và đã in thành sách ở VN được 22 bộ. Ra hải ngoại vì tuổi tác và sức khỏe kém, nhất là cánh tay bị đau nhức nên ông chỉ viết được ít truyện ngắn cộng tác với một số báo ở hải ngoại như : Làng Văn, Tiểu Thuyết Nguyệt San, Văn Nghệ Tiền Phong, Viên Giác Ái Hữu và Ngày Mai. Năm 1993 Cơ sở Làng Văn (Canada) có giúp ông hoàn thành tác phẩm cuối đời cuốn hồi ký ngắn : Từ Khám Lớn Đến Côn Đảo.

Người thứ nhì là Cố nhà văn Duyên Anh phải viết bằng tay trái sau khi bị tai nạn! Nhà văn Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo…Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Di cư vào Nam năm 1954, ông từng làm đủ nghề : dạy kèm, dạy nhạc..vv. Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy…. ở thể loại lãng mạn đầy hoài niệm về thời kỳ ấu thơ tại quê hương miền Bắc. Sau đó ông trở thành một ký giảchủ bút, chủ báo, giám đốcnhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc…Những tác hẩm của Duyên Anh trước năm 1975 thường mang tính hiện thục xã hội, diễn tả những mảnh đời sống trong một góc khuất ở những con hẻm, những ngõ cùng nơi đô thị. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi. Sau biến cố 30 tháng 4, 1975, cùng với Doãn Quốc SĩDương Nghiễm MậuNhã CaPhan Nhật NamThanh Tâm Tuyền…vv. Duyên Anh bị liệt danh là một trong 10 nghệ sĩ nêu danh là “Những Tên Biệt Kích của Chủ Nghĩa Thực Dân Mới Trên Mặt Trận Văn Hóa – Tư Tưởng” và tác phẩm bị cấm lưu hành. Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo Trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam tháng 4, 1976 của nhà cầm quyền CS ban hành, Duyên Anh cùng chung số phận với các văn nghệ sĩ khác đều bị bắt vào tù . Ông được ra tù tháng 11 năm 1981, sau đó ông vượt biên. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại mang tính phê phán chế độ độc tài CS VN, sách ông được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông còn làm thơ và soạn nhạc. Năm 1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này. Ngày 6 tháng 2 năm 1997, ông mất vì bệnh xơ gan tại ParisPháp, để lại hơn 100 tác phẩm.Người thứ ba là Nhà văn Hồ Trường An : Tác giả 80 đầu sách về trường thiên tiểu thuyết, tiểu thuyết,và biên khảo, phê bình. HồTrường An tên thật là Nguyễn Viết Quang, sinh năm 1938 ở Vĩnh Long. Tốt nghiệp khóa 26 trường Sĩ Quan Thủ Đức. Phục vụ tại Ban Thông Tin Báo Chí Quân Đoàn 2&3 cho tới tháng 4 năm 1975. Ông gia nhập làng báo từ thời còn là sinh viên trường Dược qua ngòi bút phóng viên kịch trường từ giũa thế kỷ trước. Thuở đó ông đã làm thơ nhưng khi vào quân đội ông chuyên về báo chí. Sau năm 1975 ra hải ngoại ông cộng tác với nhiều tạp chí, từng làm Tổng Thơ Ký các tập san Quê Mẹ, tập san Làng Văn. Sau khi rời Paris về cư ngụ ở tỉnh Troyes năm 1982, ông đã dành thì giờ chuyên về tiểu thuyết. Văn phong của ông mang chất miệt vườn Miền Nam, sâu sắc, thắm đầy tình người và tự quê hương.

Từ cuốn truyện dài Phấn Bướm ấn hành 1986 đến nay ông đã xuất bản được gần 80 tác phẩm thuộc nhiều thể loại gồm 22 truyện dài, 12 tập truyện ngắn, 22 tập biên khảo và 2 tập thơ : Thiên Đường Tìm Lại (2002), và Vườn Cau quê Ngoại (2003). N ăm 2009 ông bị tai biến mạch máu não nặng, toàn thân bất động, lúc đầu không nói được, và trí nhớ cũng quên! Sau một thời gian điều trị trí nhớ của ông được khôi phục và đã dần dần nói được dù rất khó khăn. Chưa lúc nào nhà văn Hồ trường An ham sống hơn lúc này, vì ông còn thiết tha đến văn chương, nặng nợ chữ nghĩa, vì có những mộng ước hoàn thành ! Do đó ông đã cố tập luyện để khắc phục bệnh tật, nhờ quá yêu văn học nghị lực đã giúp ông vượt qua những khó khăn để thực hiện được hai tác phẩm biên khảo chỉ gõ máy bằng một ngón tay, đó là cuốn Núi cao Vực Thẩm, viết về 9 vóc dáng văn học VN của Thế Kỷ 20, và cuốn : Ảnh Trường Kịch Giới, ký ức về điện ảnh VN. Mới đây chúng tôi đến thăm nhà văn Hồ Trường An. Anh Hồ Trường An vừa in xong thêm một tác phẩm thể loại phê bình văn học : «Trên Nẻo Đường Nắng Tới » Gío Văn xuất bản 2013, hiện nay anh có 60 tác phẩm. Mặc dù tuổi đã cao lại bệnh tật và ăn chay trường nên ốm hơn trước, nhưng tinh thần của anh rất sáng suốt. Anh ngồi trên xe lăn trước mặt lúc nào cũng là computeur, anh cặm cụi viết sách, như muốn chạy đua với thời gian. Anh gõ máy bằng một ngón tay còn xử dụng được , thế mà cũng thực hiện được 4 tác phẩm kể từ khi bị đột qụy. Mỗi cuốn khoảng 500 trang, thật là phi thường.

Ông giã từ cõi đời một cách đột ngột ngày 27 tháng 1 năm 2020 tại thành phố Troyes để thả hồn vào một giấc ngủ say. Ông đã rũ bỏ những buồn phiền nhân thế, những nỗi buồn nhớ quê mà suốt đời lưu vong ông chưa một lần trở lại. Giã từ chiếc xe lăn theo áng mây bồng bềnh bay về cõi miên viễn.

Đỗ BìnhParis 24 tháng 2 năm 2022

MẠC PHƯƠNG ĐÌNH:

Vào buổi chiều tối hôm qua, Thứ Sáu 25/2/2021, Lễ Cầu Siêu cho ông Dương Huệ Anh, một văn thi sĩ kỳ cựu của Văn học Hải ngoại vừa qua đời trong tuần trước tại tư gia thuộc thành phố San Jose, đã được tổ chức tại chùa An Lạc, toạ lạc trên đường San Fernando, San Jose CA 95133, với sự hiện diện tham dự của một số thành viên trong Hôi Văn thơ Lạc Việt- một cơ sở Văn học do chính ông Dương Huệ Anh sáng lập trước đây vài mươi năm – cùng một số thân hữu.
Sau đây là một vài hình ảnh chúng tôi đã ghi lại, xin được gửi đến Quý Vi, cùng Các Bạn Xa Gần như thay một lời Phân ưu đến Tang quyến,mà Quý Bạn chưa kịp chia xẻ

LỜI TRI ÂN CỦA NGHỆ SĨ KHÁNH HÀ:

Trước tiên tôi xin có lời cảm ơn đến hai người bạn trong văn nghệ lâu đời. Đó là thi sĩ Song linh và nhạc sĩ Lynh Phương đã báo tin cho tôi biết về sự ra đi của thi sĩ lão thành Dương Huệ Anh là người sáng lập Thi Văn Đàn Lạc Việt bây giờ là Văn Thơ Lạc Việt và tôi cũng xin chân thành cảm ơn ông Lê Văn Hải đã tổ chức buổi lễ cầu siêu cho bác Dương Huệ Anh tại chùa An Lạc để tôi có dịp góp lời cầu nguyện và chia buồn cùng tang quyến.

Sự ra đi của bác là sự mất mát lớn lao của thi đàn, là con chim đầu đàn trong giới văn học thi văn.  Một buổi lễ trang nghiêm với đông đảo thi văn hữu và người thân yêu của Bác, những lời đọc kinh cầu nguyện vang lên trong chánh điện nghe ngậm ngồi thương tiếc.  Đặc biệt trong buổi lễ này ông Lê Văn Hải người Chủ Tịch tiếp nối của Thi Đàn đã phát biểu lời cảm tưởng thương tiếc và hát bài “Kiếp Nhân Sinh” của ông rất cảm động, ông nói lý thuyết của Phật Giáo về sự hợp tâm hợp lực cầu nguyện của nhiều người, cầu siêu thoát cho người mất cũng sẽ được năng lượng hỗ trợ nghe kinh mà tĩnh tâm sáng suốt niệm Phật, hồn người mất sẽ đi theo về cảnh giới tốt hơn qua nghiệp lực của mình. Tôi rất kính nể ông Lê Văn Hải không phân biệt tôn giáo, ông là người Công Giáo mà hiểu thâm thúy về thuyết giáo của Đạo Phật như người Phật Tử thuần thành vậy.  Nhờ đến đây tôi được gặp lại các anh bạn Phạm Thái quen biết ngay ngày xưa đã hàng mấy chục năm không gặp và gặp các anh Luynh Phương, Nguyên Phương, Thi Cầm, Mạc Phương Đình, v.v… những người bạn lâu năm không gặp vì nạn dịch Covid.

Và cũng nhờ đến đây tôi mới biết Thi Văn Đàn Lạc Việt đã đổi mới, những cuộc tổ chức cộng đồng như ra mắt sách, trao giải thưởng hằng năm, những buổi họp văn nghệ, và tổ chức sinh nhật tập thể cho các anh chị em trong đoàn, ông Chủ Tịch Lê Văn Hải rất có tâm và vô cùng xứng đáng trong chức vụ của mình.

Hai thành viên trong ban biên tập Phương Hoa, Phạm Thái rất năng nổ, sốt sắng trong việc in ấn, và đăng tải bài vở rất nhanh, trình bày đẹp. Nhiều năm về trước Bác Dương Huệ Anh lúc ông còn là Chủ Tịch Thi Văn Đàn Lạc Việt cũng đã nhiều lần tâm sự, “Bác rất mong lớp trẻ tiếp tay để sự nghiệp thơ văn được mãi mãi trường tồn, bác rất cần sự giúp sức của giới trẻ trong công việc in ấn…” Giờ đây chắc bác vô cùng mãn nguyện, tâm thanh thản ra đi một cách rất bình yên, thơ thới, nhẹ nhàng.

Lời sau cùng con kính nguyện cầu hương hồn Bác Dương Huệ Anh sớm được siêu sinh về nơi cõi Phật và xin kính chia buồn cùng tang quyến, cũng không quên chúc mừng ông Chủ Tịch và các thành viên trong Văn Thơ Lạc Việt.  

Xin kính chúc sức khỏe an khang đến mọi người, các thi văn hữu xa gần, các nghệ sĩ, và các độc giả luôn an bình hạnh phúc.

Khánh Hà JS.




LÊ VĂN HẢI – ĐƯA ÔNG TÁO VỀ TRỜI

Tiễn Đưa Ông Táo Về Trời!

Hôm nay tiễn Táo về trời
Gởi bao hy vọng nhờ Người bao dung
Xét theo hoàn cảnh nói chung
Gia đình góp sức chung lưng nên người!

Cuộc đời đôi lúc khóc cười
Nhưng ta đã cố vượt thời vươn lên
Sang năm may mắn gặp hên
Cháu con thành đạt, không quên cội nguồn!

Giữ cho tươi sáng tâm hồn
Lạc quan tiến bước vuông tròn nghĩa nhân
Khó khăn tháo gỡ lần lần
Chắp tay xin Táo góp phần giúp cho!

Bếp núc luôn được ấm no
Bàn tay tần tảo chăm lo hằng ngày
Cảm ơn ông Táo từ rày
Siêng năng lao động việc hay chẳng từ!

Giữ gìn truyền thống cần cù
Việc nhà việc nước giữ cho rạch ròi
Quyết tâm xây dựng giống nòi
Tự Do Dân Chủ dân thời yên vui.

 (Phan Hạnh) Lê Văn Hải (sưu tầm)




TIN VTLV – Chương Trình Văn Nghệ Xuân Nhâm Dần- Lê Văn Hải.

Giới Thiệu Một Chương Trình Văn Nghệ Độc Đáo, Ý Nghĩa Nhất Xuân Nhâm Dần 2022. Lê Văn Hải

Chiều Nhạc “Xuân và Người Lính VNCH.”

Lúc 2 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 23 tháng 1 năm 2022. Tại Quán Cà phê Lover, 1855 Aborn Rd, San José.

*Vào cửa, nước giải khát hoàn toàn miễn phí!

*Đây là dịp Hội Ngộ của những Người Lính Năm Xưa, để cùng  đón Mừng Năm Mới với nhau, sau thời gian dài không có dịp gặp gỡ.

Lời Mời

Tết là thời gian thiêng liêng nhất trong năm của người Việt. Tết ngầm mang ý nghĩa sum họp, nói tới Tết, là nghĩ đến niềm ao ước đoàn tụ!

Dù ai buôn bán nơi đâu

Nhớ đến ngày Tết, rủ nhau mà về!

(Ca Dao)

Vâng, đó là truyền thống của tất cả gia đình người Việt chúng ta, từ xưa đến nay. Ngày Tết, không có mặt với cha mẹ, anh em, người thân, người yêu, là một điều bất hạnh nhất! buồn thảm nhất! “Xuân đến làm chi, chỉ thêm sầu!” Nhưng với người Lính “Xuân này con không về!” là chuyện rất bình thường. Cả thời gian cầm súng, hầu như Người Lính nào mà có Mùa Xuân?

Hễ mỗi độ Xuân về, khi Mai Đào hé nụ, ai cũng đều ước muốn sum họp với cha mẹ, gia đình, con cái, người yêu và bạn bè quyến thuộc, để cùng chung vui 3 ngày Tết. Hạnh phúc nào bằng! Cho dù suốt năm phải xa gia đình vì nhiều hoàn cảnh bắt buộc. Tuy nhiên, vẫn có những người gánh chịu nhiều thiệt thòi, phải dầm sương, dãi nắng, ngủ ở ven rừng, bờ suối, chung quanh dày đặc quân thù, để trấn thủ biên thùy, năm này qua tháng nọ. Hoặc xông pha trên chiến trường, mù mịt lửa đạn. Hên, thì Họ chỉ hưởng được chút hương vị Tết, qua những món quà ít ỏi do thân nhân gởi đến. Thiếu hẳn cái không khí Tết vui vẻ, mặn nồng tình thân, giống như người ở hậu phương. Thiếu hẳn đồng bánh chưng, mứt ngọt, dưa hấu, múa lân với tiếng trống, tiếng kèn, rộn ràng. Không có cành đào, hoa cúc “nếu Mai không nở, Anh đâu biết Xuân về hay chưa?” Họ thiếu, thiếu tất cả!

Nhưng họ là ai? Họ chính là những người Lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Những người Lính đã một thời anh dũng chiến đấu trong suốt gần 21 năm, để bảo vệ Miền Nam tự do, no ấm. Trong thời gian dài này, hàng trăm ngàn người người Lính đã nằm xuống. Rồi sau 75, một số đã chết trong các trại tù khổ sai, được khoác cho cái mỹ danh là “trại cải tạo”. Rồi rất đông là những người Thương Phế Binh, đói rách, lang thang xin ăn, trên khắp nẻo đường thành phố.

-Để tưởng nhớ và tri ơn Những Người Lính Năm Xưa. Chiều nhạc “Xuân và Người Lính,” nhằm Kính tặng đến tất cả những người Lính VNCH, một thời mặc Bộ Quân Phục, chân mang bốt đờ sô, cầm súng bảo vệ Quê Hương. Cũng như vinh danh sự hy sinh cao cả của Họ, những chiến binh anh dũng năm nào, chiến đấu bảo vệ, để cho chúng ta được sống.

-Chiều Nhạc như thay một lời “Cám Ơn Anh!” Hình ảnh lý tưởng Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm cao đẹp của Họ, sống mãi trong trái tim người Việt yêu chuộng Tự Do. “Tôi viết tên Anh trong trái tim tôi, để còn nhớ thương hoài!”

*Với những giọng ca của nhiều Cựu Quân Nhân một thời Bạc Áo Trận và Nhóm Văn Nghệ Liên Khóa KQ 72-73.

* Không thể bỏ qua, Buổi văn nghệ ý nghĩa nhất, đầy tình Huynh Đệ Chi Binh, một thời chiến đấu, sống chết bên nhau, của Mùa Xuân Nhâm Dẩn năm nay.

Lúc 2 giờ chiều Chủ Nhật, ngày 23 tháng 1 năm 2022. Tại Quán Cà phê Lover, 1855 Aborn Rd, San José.

*Vào cửa, nước giải khát hoàn toàn miễn phí!

Trân Trọng Kính Mời

Trưởng Ban Tổ Chức

Người Lính Lê Văn Hải




Tường Trình Về Buổi Ra Mắt Sách SỐNG VỚI TÂM NHÀN Của VTLV California

Tường Trình Về Buổi Ra Mắt Sách “SỐNG VỚI TÂM NHÀN”

Của Văn Thơ Lạc Việt, Tại San Jose, California

Chúa Nhật vừa qua, 26 tháng 9, 2021, Thi Văn Đàn Văn Thơ Lạc Việt (VTLV) đã tổ chức một buổi Ra Mắt Sách (RMS) đầy thân thiện và ấm cúng tại COFFEE LOVER 1855 ABORN ROAD, SAN JOSE, CA, nhân dịp ra mắt Tân Hội Trưởng VTLV và Tân Ban Chấp Hành VTLV niên khóa 2021-2023, cũng như tiệc mừng sinh nhật các hội viên có ngày sinh trong các tháng 7,8, và 9. Mặc dù hiện tại vẫn còn trong thời kỳ chống dịch, nhưng nhờ bà con đồng hương đã hoàn thành đủ hai mũi thuốc ngừa Covid-19 nên số khách mời mạnh dạn và tự tin đến tham dự  khá đầy đủ.

MC TS Nguyễn Hồng Dũng

Theo truyền thống lâu đời, buổi RMS đã được tổ chức rất “bài bản” dưới sự điều khiển chương trình của hai MC “rường cột” của VTLV, là TS Nguyễn Hồng Dũng và ca sĩ Hạnh Thảo, với tiết mục mở đầu trang trọng chào cờ Mỹ và chào cờ VNCH do trưởng Ban Nghi Lễ VTLV Hoàng Thưởng đảm trách. Tiếp theo là các tiết mục văn nghệ rất rộn ràng do Ban văn nghệ Thuý Nga với Ban nhạc Sài Gòn Nhớ thực hiện cũng đã làm mọi người sôi nổi với những tràng pháo tay rôm rả.

Chào cờ

Sau phần giới thiệu Tân Hội Trưởng, nhà báo Lê Văn Hải chủ cơ sở “Thằng Mõ” San Jose, và các thành viên mới trong Ban Chấp Hành VTLV, và cựu Hội Trưởng Chinh Nguyên lên bắt tay chúc mừng, Tân Hội trưởng Lê Văn Hải đã có một bài phát biểu thật chân tình, xin ghi lại nguyên văn:

Kính thưa Quý Niên Trưởng, Quý Anh Chị Thành Viên trong VTLV và Quý Thân Hữu.

Tuy ảnh hưởng lớn của mùa dịch, mà chúng ta vẫn có số Quan Khách tương đối hiện diện như hôm nay, đã là sự an nủi lớn lao cho VTLV. Gần 2 năm nay, nhiều hội đoàn, cộng đồng, không dám tổ chức gì trong thời gian này. Chỉ có VTLV, vì hăng say “theo tiếng Mẹ kêu” mới chẳng sợ Cô Vi, Cô Víc, cô Na gì cả, vẫn sinh hoạt, tổ chức đều đặn trên nửa năm qua! Rất đáng khen ngợi về hành động tiên phong can đảm này, nhằm để khuyến khích mọi sinh hoạt xã hội trở lại bình thường. (Sợ mãi đến bao giờ!)….

(Đến đây, rất xứng đáng, để xin mọi người cho một tràng pháo tay, cho sự hiện điên của tất cả chúng ta!)

Kính thưa tất cả Quý Vị,

Cách đây 3 tháng, tức tháng 5 vừa qua, tôi hân hạnh, lần đầu tiên, đứng điều hợp buổi họp của VTLV. Thời điểm đó, tôi rất hoang mang, như người lính mới ra trận, và thiếu tự tin. Vì tôi chưa bao giờ điều hành một hội nào, nhiều đoàn viên và có chiều dày sinh hoạt Văn Học Nghệ Thuật lâu đời, trên 30 năm như thế.

Nhưng tôi thật may mắn, số “đẻ bọc điều,” Trời thương, cho chung quanh tôi, cộng tác toàn là những Anh Chị tài năng thiện chí, tuyệt vời! Nên sau 3 tháng, mọi chuyện mới “xuôi chèo, mát mái” như thế.

Đặc biệt xin gởi lời cám ơn đến Anh Cựu Chủ Tịch Chinh Nguyên, đã gánh hơn một nửa

phận sự của tôi, suốt trong 3 tháng qua và vẫn còn tiếp tục.

Cám ơn tất cả quý Anh Chị, trong các Ban, nhất là các Anh Chị trong Ban In Ấn, Ban Media, Ban Văn Nghệ, Ban Xã Hội,v.v… nhờ sự cộng tác quý báu của quý Anh Chị, để tôi có thể tự tin, giữ được tôn chỉ của hội: VTLV vẫn là nơi quy tụ các Văn, Thi Sĩ, Nghệ Sĩ đông nhất ở miền Bắc Cali này. Hoạt động trong mục đích “Bảo tồn và phát huy tiếng Mẹ” hữu hiệu nhất. Và quý hơn hết, là các thành viên coi nhau như gia đình, có tình thân thương văn nghệ nhất.

Xin tất cả quý vị tiếp tục giúp đỡ tôi, trong những ngày sắp tới, để VTLV trở thành một ngôi nhà chung, nơi những trái tim còn yêu thương “tiếng nước tôi,” cùng nắm tay sinh hoạt chung.

Vì: “Ngôn ngữ là hồn, hồn mất trước, nước mất sau!”

Chân thành cảm tạ.

Kính chúc tất cả Quý Vị luôn mạnh khỏe, “Sống Với Tâm Nhàn” và một buổi chiều sinh hoạt văn nghệ đầm ấm nhiều ý nghĩa.”

Kế đó là phần văn nghệ giúp vui. Và rồi bữa tiệc nhỏ mừng Sinh Nhật quý III của những thành viên VTLV sinh vào các tháng 7, 8, và 9 trong năm bắt đầu. Anh Chinh Nguyên thường nói, tình cảm thành viên VTLV đối với nhau như người trong một nhà, hôm nay đã chứng minh điều đó. Trong bữa tiệc nhỏ mừng Sinh Nhật này, ngoài những món quà tặng rất đặc biệt của mạnh thường quân “Cây Đa” từ khi còn là Phó Hội Trưởng, Lê Văn Hải, hôm nay còn… đặc biệt hơn, là thành viên Brenda Huynh đã mang tới tặng một chiếc bánh sinh nhật vừa đẹp vừa ngon lại vừa to, to đến đủ cho cả mọi người trong buổi lễ. Chưa hết, trưởng ban Xã Hội Lê Diễm còn khệ nệ lớp xách lớp mang, đem đến tặng ba khay bánh bông lan kem nhìn thật là hấp dẫn. Mọi người vui vẻ nhận quà, nhận hoa, rồi sau khi cùng nhau hát bài Happy Birthday rộn rã, cắt bánh, xong là chụp hình tới tấp.

Tiếp tục chương trình, trưởng Ban Biên Tập (TB BT)Thái Phạm lên trình bày về Tuyển Tập Sống Với Tâm Nhàn. Thật là thú vị khi nghe anh TB BT giải thích về ý nghĩa của hai bức tranh mà nhà họa sĩ, nhà báo, nhà…Hội Trưởng VTLV Lê Văn Hải đã đặc biệt vẽ cho Tuyển Tập. Dưới đây là nguyên văn bài phát biểu ngắn gọn của TB BT Thái Phạm:

Trưởng BBT Thái Phạm & P.BBT Phương Hoa

           Kính thưa quý vị,

Trước hết, tôi xin trân trọng cám ơn quý vị đã dành thời giờ đến tham dự buổi ra mắt Tuyển Tập “Sống Với Tâm Nhàn” do Văn Thơ Lạc Việt (VTLV) thực hiện. Đặc biệt, hôm nay chúng tôi thật cảm động khi được biết có hai vị khách từ xa đã lái xe 7 giờ đến tham dự, điều này cho thấy tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của VTLV đối với các thành viên như thế nào.

Theo thông lệ, mỗi năm VTLV phát hành một tuyển tập, gồm những bài viết của các thành viên VTLV. Năm ngoái, chúng tôi có Tuyển tập “Quê Hương Và Nỗi Nhớ”. Năm nay, Tuyển tập “Sống Với Tâm Nhàn” được thực hiện dưới chủ đề Thiền Trong Văn Thơ do Trưởng Ban Truyền Thông Lê Tuấn đề xướng. Tuyển tập “Sống Với Tâm Nhàn” có những điểm khác biệt như sau:

–        Sách in màu, cả hình bìa lẫn bên trong sách.

–        Ngoài những bài viết của thành viên VTLV, còn có những tác phẩm của một số thân hữu trong các văn-thi-sĩ trong thi văn đàn khác.

–        Đặc biệt, hình bìa sách là 2 tác phẩm của Họa sĩ nhà báo Lê Văn Hải, cũng là đương kim Hội trưởng VTLV. Bìa sách phía trước, là hình chim bồ câu ngậm một cành non báo hiệu tin vui. Hình bìa sách phía sau là một đóa hoa Sen mọc lừng lững giữa thác nước và một người đàn ông ngồi bên bờ suối trong dáng điệu mệt mỏi, mắt hướng về đóa Sen. Tác giả cho biết, đó là hình ảnh một người sau những ngày tháng băng rừng vượt suối, cuối cùng đã tìm được chốn yên bình cho tâm hồn.

Tôi cũng nhân cơ hội này để cám ơn Ts Lê Tuấn đã phụ giúp layout và trình bày những bức tranh thơ đẹp mắt. Và tôi cũng xin cám ơn Ts Phương Hoa đã bỏ rất nhiều thời giờ kiểm soát toàn bộ quyển sách. Ts Phương Hoa cho biết, vì hăng say với công việc nên thường thức khuya và đôi khi quên cả ăn.

Một lần nữa, xin cám ơn toàn thể quý vị.”

MC Hạnh Thảo + Hồng Dũng

Xin được kể thêm, MC Hạnh Thảo ngoài tài ăn nói lưu loát, hoạt bát, tính tình hiền dịu dễ mến, còn là một trong những giọng ca đặc biệt của vườn văn nghệ VTLV.  Nữ nghệ sĩ Thúy Nga cũng thật xứng đáng là một trưởng Ban Văn Nghệ với giọng ca luôn mượt mà, dầu năm tháng đổi thay giọng hát của chị vẫn luôn được mọi người ủng hộ.

Sau phần văn nghệ tiếp nối rộn ràng, là bài phát biểu của phó Ban Biên Tập Phương Hoa.

Phương Hoa + Thái Phạm

Những điểm chính yếu trong bài phát biểu của P.Hoa bao gồm: Cám ơn sự đóng góp bài vở của 34 tác giả khắp nơi, từ Hoa Kỳ đến các nước trên thế giới. Trong tuyển tập dày 428 trang này, có trên 165 bài thơ đủ thể loại, từ Đường Luật Thất Ngôn Bát Cú, đến Thất Ngôn Tứ Tuyệt Trường Thiên, xướng họa, rồi thơ Lục Bát, Ngũ Ngôn, và cả Thơ Tự Do… tất cả đều viết về Thiền, về cách làm sao để Sống Với Tâm Nhàn, do các nhà thơ nổi tiếng kỳ cựu như TT Thích Tánh Tuệ, Dương Huệ Anh, Cao Mỵ Nhân, Ngô Đình Chương, và rất nhiều nhà thơ trẻ gửi đến.

Đặc biệt, là 32 bài viết, gồm truyện ngắn, thuyết pháp, biên khảo, hồi ký… với những lời hay, ý đẹp, hướng dẫn thiền định, khí công, giúp người sống đời an lạc từ Thầy Thích Tánh Tuệ, GS Đỗ Quang Vinh, TS Mai Thanh Truyết, nhà văn Hồng Thủy, Sương Lam, Sao Khuê… và rất nhiều nhà văn khác nữa. Thêm vào đó là những bức thư họa đẹp và ý nghĩa vô song, giúp người xem thấy lòng thơ thới, cộng thêm và 2 bản nhạc thật hay, thật mượt mà từ lời ca đến nốt nhạc, về Thiền, và về tình yêu trong sáng, mà có lẽ độc giả sẽ phải tìm nghe cho bằng được trên YouTube sau khi xem, chưa kể đến một số bức ảnh nghệ thuật độc đáo, đẹp mê hồn, từ những nhiếp ảnh gia đầy chuyên nghiệp chụp.

Quan trong nhất, vì đây là TT chủ đề Thiền, nên VTLV không chủ trương bán quyển sách quý thuộc loại “gối đầu giường” này để gây quỹ cho sinh hoạt của hội như trước đây, và như các diễn đàn khác thường làm. Sách TT Sống Với Tâm Nhàn kỳ này in toàn màu, giá thành từ nhà xuất bản $19.98/quyển. Quý vị dù là thành viên hay không phải thành viên, ai muốn có sách thì mời liên lạc VTLV để đặt mua, sách sẽ được gửi đến địa chỉ quý vị, và quí vị chỉ gửi trả đúng với giá tiền sách + thuế + cước phí. (Giá tổng cộng trung bình 1 Book + Tax + Shipping mỗi tuyển tập gửi trong nước Mỹ total là $25. – Nếu mua nhiều có thể được giảm shipping)

Kế tiếp, là phần văn nghệ giúp vui với nhiều ca sĩ trẻ tại San Jose và đến từ thành phố khác như, Anh Khoa: Keyboard; Thanh Tuấn: Âm Thanh (SJ); Cùng các ca sĩ: Duy Hải, Hồng Hạnh (Sacramento); Khôi Nguyên (SF); DIệu Thảo; Thanh Trúc; Thiên Duyên (SJ)…  thật đặc sắc làm cho mọi người vừa thưởng thức những ly cà phê, sinh tố, trà trân châu… ngon tuyệt vời của quán COFFEE LOVER do VTLV chiêu đãi, vừa xem ca nhạc sống động, và vừa nhâm nhi hai món bánh kem ngon…mê ly.   

Trưởng ban Truyền Thông Lê Tuấn

Sau đó là Trưởng Ban Truyền Thông VTLV, nhà thơ Lê Tuấn, lên phát biểu cảm tưởng về Tuyển Tập Sống Với Tâm Nhàn mà anh cũng là người bỏ nhiều tâm huyết ra cùng chung tay thực hiện với BBT.  Đáng tiếc, khi ấy người viết đang bận rộn cùng trưởng BBT Thái Phạm ký sách SVTN phía bên ngoài cho những khách tham dự hỏi mua. Và vì cảm động thấy sự ưu ái của quý khách, P.Hoa khi ký sách đã chăm chú viết tặng kiểu “mì ăn liền” cho mỗi người hai câu thơ Lục Bát vào trang đầu sách, nên đã không ghi nhận hết được những gì nhà thơ Lê Tuấn phát biểu để tường trình, mong nhà thơ Lê Tuấn và quý vị thông cảm cho phần thiếu sót này. Những gì P.Hoa nghe, khi được khi không, gom lại là nhà thơ đã đọc bài thơ của Thượng Toạ Thích Tánh Tuệ,  “Vội đến vội đi, vội nhạt nhòa – Vội vàng sum họp vội vàng xa – Vội ăn vội nói, rồi vội thở – Vội hưởng thụ mau để vội già,” cộng với lời mời gọi mọi người hãy bước vào thiền định để sớm nhận biết sự bình an trong tâm hồn.,” cũng như mời gọi khán giả “hãy tìm đọc Tuyển Tập Sống Với Tâm Nhàn.”

Cảm động nhất, là những quan khách có tấm lòng hào hiệp, họ đã nhận thấy sự phục vụ vì cộng đồng, vì bảo tồn Văn Hóa Việt vô vụ lợi của VTLV nên trong dịp này đã biếu tặng cho VTLV một số hiện kim. Thân hữu chỉ cho cái tên ngắn gọn là “Trâm” đã tặng phong bì $500, nhà thơ Minh Thúy Thành Nội tặng $100, và tân Hội Trưởng Lê Văn Hải tặng $400, cộng với một số hội viên, cố vấn… của VTLV cũng đã tặng một số tiền không nhỏ trong mấy lần gần đây, để VTLV mua máy lạnh cho phòng thu hình, và trang trải rất nhiều chi phí khác.  Thật là rất đáng trân trọng vậy.

Và đây là tin mới đặc biệt hiện tại của VTLV: Để phục vụ quý tác giả và độc giả có hứng thú đọc sách online, BBT VTLV đã upload sách lên trang nhà, quý vị có thể ghé vào website vantholacviet.com để đọc.

Sau cùng, VTLV mong rằng sẽ gặp lại các tác giả và quý vị trong những TT sắp tới của VTLV, để chúng ta cùng làm cho:

VĂN THƠ xoay chuyển đất trời

LẠC VIỆT mãi mãi không rời VĂN THƠ

Phương Hoa




KÍNH MỜI QUÝ THÀNH VIÊN VTLV Tham Gia Chương Trình “Tác Giả Và Tác Phẩm” của VTLV- Giới Thiệu Sách Mới Của Mình

Kính quý thành viên VTLV,

Ban truyền thông VTLV sẽ thực hiện một loạt Video với Chủ Đề “Tác Giả Và Tác Phẩm” với sự điều hợp của MC Hạnh Thảo – MC Nguyễn Hồng Dũng, và Trưởng Ban Media Lê Tuấn.

Loạt Video này sẽ được quay tại phòng thu nhà của cựu chủ Tịch Chinh Nguyên.

Để mở đầu cho loạt Video này, nhà thơ Lê Tuấn sẽ là tác giả đầu tiên, (Làm mẫu) trình bày 4 tác phẩm đã ấn hành.

1- Tình yêu Của Tôi

2- Sen Già Nở muộn

3- Hồi Ký Đội Đập Đá Trại Tù Số 6 Nghệ Tĩnh

4- Lang Thang Cõi Người

Lưu ý: Mỗi tác giả muốn tham gia hãy cầm theo tác phẩm của mình và chuẩn bị đôi lời giới thiệu ngắn gọn, trước khi hai MC phỏng vấn, những câu hỏi liên quan đến tác phẩm. Mỗi tác phẩm sẽ là một Video với thời lượng 30 phút.

Bất cứ tác giả thành viên VTLV nào cần giới thiệu tác phẩm, Ban Truyền Thông VTLV sẵn sàng đáp ứng.
Xin liên lạc Ban Truyền Thông VTLV để biết thêm chi tiết và sắp xếp lịch thu hình thuận tiện cho thời gian và điều kiện của quý vị.

Trân trọng

Trưởng Ban Truyền Thông VTLV

Lê Tuấn




CHÚC MỪNG Hai Nhà Văn Nữ VTLV – Phương Hoa

KÍNH MỜI ĐỌC BÀI TRONG LINK:

https://vvnm.vietbao.com/a247590/viet-ve-nuoc-my-nam-thu-xxii-12-05-2021-le-phat-giai-va-ra-mat-sach




CHÀO MỪNG NHÀ VĂN HỒNG THỦY GIA NHẬP VTLV – Lê Văn Hải – Thơ Phương Hoa + Minh Thúy + Dương Huệ Anh & Truyện (Ra mắt) Hồng Thủy –

Tóm tắt tiểu sử:

*Viết văn từ 1958, Bút hiệu Mộng Huyền

*Ngừng viết khi lập gia đình. Viết lại tại Hoa Kỳ 1986

Đã xuất bản:

*Những Cánh Hoa Dại Mầu Vàng, 2010

*Hoa Tương Tư, 2017

*Góp mặt trong:

*Truyện ngắn Phụ nữ Việt, 1994

*Tuyển tập Phụ nữ Việt, 2006, 2008

*Hương đời kỳ diệu, 2007

*Du Tử Lê Tác giả và Tác phẩm

*Tuyển tập Thơ Cỏ Thơm

*Tuyển tập Văn chương Phụ nữ, 2013

*Hồi Tưởng Dấu Yêu, 2015

*Tuyển tập Cô gái Việt, 2016

*Nguyễn Ngọc Bích, Tấm lòng cho quê hương, 2016

*Chủ bút Nguyệt San Kỷ Nguyên Mới

*Trong Ban biên tập Cỏ Thơm

*Thành Viên Câu lạc bộ Văn Học Nghệ Thuật vùng HTĐ

*Chủ Tịch Văn Bút Hải Ngoại Vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ (2018-hiện tại)

***************************

Phương Hoa & Hồng Thủy

ĐÀN BÀ LÀ GÌ NHỈ?

Phiếm Hồng Thuỷ

Đàn bà là món quà quí giá đặc biệt Thượng Đế tặng cho trái đất. Từ ngày có đàn bà, trái đất sống động vui vẻ hẳn lên. Ngày xưa lúc chưa có đàn bà, đàn ông cảm thấy tâm hồn cằn cỗi chả có đối tượng nào để mà mơ, mà mộng. Cuộc đời chán nản, khô khan. Ăn rồi chỉ muốn nằm chèo queo ở nhà.

Có bóng hồng xuất hiện, mắt các chàng bỗng sáng lên, tâm hồn bỗng phơi phới, yêu đời, đầu óc đâm ra mơ mộng, nghĩ toàn những danh từ thật bóng bẩy ướt át đế tán tỉnh các nàng. Bề ngoài các chàng cũng đẹp trai sáng sủa hẳn ra, vì tối ngày được trau chuốt.

Không đi tán đào, ăn diện làm gì cho mất công, phải không quí vị liền ông? Quên nữa, điều này mới là quan trọng. Có đàn bà các ông sạch sẽ hẳn ra. Ông nào lười biếng không chịu tắm gội, sửa soạn đi gặp đào cũng phải tắm rửa sạch sẽ, đánh răng đánh lợi kỹ càng. Để chắc ăn có ông còn súc miệng thêm bằng Listerine nữa chứ. Tóm lại là nhờ có đàn bà, đàn ông lúc nào cũng phải cố gắng ăn ở hợp vệ sinh thơm tho sạch sẽ. Tưởng tượng ghé vào tai nàng thì thầm mà hơi thở không thơm tho thì các nàng chạy de hết.

Các ông hà tiện không chịu chi tiêu cũng trở nên rộng rãi hào hoa hơn. Đi tán đào thì phải bao các nàng ăn uống. Lâu lâu cũng phải quà cáp đế lấy lòng người đẹp. Thành ra, dù kẹo cách mấy, các ông cũng phải mở bóp chi tiêu. Chi mãi thành quen, tính kẹo đỡ đi được một chút.

Trên đây chỉ là ba cái “công dụng” lẻ tẻ. Cái công dụng có chưởng lực mạnh nhất là đàn bà đã mang lại sự trường tồn cho nhân loại. Không có đàn bà trái đất sẽ vắng hoe. Làm sao loài người có thể sinh sôi, nẩy nở nếu đàn bà không mang nặng đẻ đau? Không có đàn bà chắc chắn loài người sẽ tuyệt chủng.

Như vậy đàn bà xứng đáng được vinh danh là người quan trọng nhất trên trái đất (VIP đấy).

Dù là VIP đàn bà vẫn bị xếp đặt ở một vị trí rất  khiêm tốn. Xã hội Việt Nam đặt ra những phong tục tập quán thật bất công với đàn bà. Chắng hạn như “Tại gia tòng phụ.Xuất giá tòng phu. Phu tử tòng tử.”

Về phương diện mê tín dị đoan cũng trọng nam khinh nữ. Hễ ra ngõ gặp trai là hên, gặp gái là xui. Sau khi lập gia đình, người đàn bà phải mang tên của chồng. Tên của mình bị chìm vào quên lãng.

Lớn lên con gái bị lép vế đủ thứ. Trong gia đình, bao giờ người con gái cũng phải làm việc nhiều hơn con trai và không được cưng chiều bằng con trai. Trong việc “bồ bịch” con gái chỉ là người bị động, nghĩa là bị dụ dỗ tán tỉnh. Con trai mới là chủ động, tự mình đi bắt bồ tán gái.

Vậy mà nếu con gái có nhiều bồ vẫn bị coi là đồ gái hư, lăng loàn, trắc nết. Con trai có nhiều bồ lại được khen là “anh chàng “đắt mèo” nhiều gái mê, hào hoa phong nhã.

 Khi lập gia đình, ông nào cũng muốn cô dâu phải còn mới toanh trong trắng nguyên vẹn, trong khi các ông đã cũ xì, cũ xịt, xài tới xài lui không biết bao nhiêu lần. Lấy nhau rồi, đàn ông vẫn có quyền “trai năm thê bảy thiếp”, nhưng đàn bà ngược lại “gái chính chuyên chỉ có một chồng.”

Đến lúc có con, đàn bà là người mang nặng, đẻ đau. Thức khuya, dậy sớm, lo cho con cho đến ngày chúng khôn lớn. Người mẹ bao giờ cũng vất vả với con nhiều hơn là bố. Vậy mà hễ cái gì dính dáng đến mẹ thì bị gọi là họ ngoại. Có nghĩa là vòng ngoài, ngoại tộc. Cái gì dính dáng đến bố được gọi là họ nội. Nội là bên trong, gần gũi thân thiết. Bị đối xử bất công như vậy mà đàn bà vẫn chấp nhận vui vẻ, coi đó là cái truyền thống của dân tộc, thử hỏi có tội nghiệp không?

Dù có bất công và theo lối cổ lỗ sĩ, quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” coi thường đàn bà tới đâu đi nữa, cũng không ai có thế chối cãi đàn bà đáng yêu vô cùng.

Đọc đến đây, nhiều đấng mày râu bị vợ đì hay bị đào hành hạ sẽ mắng mỏ tôi tới tấp “nhờ chị tí nhé! mấy điều chị nói về đàn bà ở trên chúng tôi nghe đã ngứa tai lắm rồi, nhưng không cãi được vì chị nói có lý quá. Nhưng còn cái câu chị khen đàn bà đáng yêu vô cùng thì phải xét lại. Chả hiểu mấy mụ bà chằng đang hành hạ chúng tôi, nó đáng yêu cái cái chỗ nào.

Bình tĩnh suy nghĩ lại đi các ông ơi! Khởi thủy đàn bà bao giờ cũng đáng yêu. Không đáng yêu các ông dại gì mà theo đuổi, o bế, tán tỉnh. Hứa nhăng hứa cuội đủ điều, rồi mang xe bông rước về làm vợ. Có ai đi tán một con mẹ đáng ghét để mong được làm người yêu hay làm vợ đâu. Bằng chứng cụ thể là thư tình gửi cho đàn bà bao giờ các ông cũng viết “Em yêu”, “Em yêu quí”, “Em yêu dấu”. Cuối thư bao giờ cũng không quên “yêu em nhiều lắm” v.v… và v.v…

Vậy nếu em không đáng yêu, các ông điên gì mà yêu em lắm thế? Vậy thì đàn bà đáng yêu là cái chắc chứ còn phải xét đi xét lại gì nữa. Lấy các ông rồi những người đàn bà đáng yêu nếu có thể trở thành bà chằng đáng ghét cũng chẳng có gì phải ngạc nhiên. Đàn bà vốn thông minh “nhập gia” phải “tùy tục” chứ làm sao hơn được. Ông chồng “quá trời”, cực chắng đã, bà vợ mới phải ra tay. Lý do thật đơn giản, đàn bà vốn mềm dẻo “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Ông chồng “quá xá quà xa” mà vợ hiền khô thì coi “hổng hợp”. Đàn bà phải tập thay đổi cho nó “xứng đôi vừa lứa” với chồng.

Như vậy các ông phải khen đàn bà mới phải. Nỡ lòng nào các ông lại gọi đàn bà bằng những cái tên chẳng êm ái tí nào “cọp cái”, “bà chằng”, “sư tử Hà Đông” v.v… Ăn ở kiểu đó là hổng có “phe” đâu à nghe. Trời phạt chết đó. Muốn lên thiên đàng với niết bàn, các ông nên ăn ở có trước có sau. Nghĩ đến đàn bà, các ông nên nghĩ đến những hình ảnh đẹp đầy mộng mị mà các ông mê mẩn ở những giây phút của thưở ban đầu. Hãy nhớ đến căn nhà các ông sống hồi độc thân nó lạnh lẽo, im vắng, chán nản như thế nào. Đến khi có nàng xuất hiện, tất cả đều biến đổi một cách nhiệm mầu. Trong nhà đầy tiếng cười nói ríu rít của trẻ thơ. Căn bếp lúc nào cũng ấm cúng với cơm dẻo canh ngọt, chiếc giường xưa kia lạnh lẽo vì chăn đơn gối chiếc, nay đã được sưởi ấm bằng ái ân nồng thắm của tình nghĩa vợ chồng.

Nghĩ như vậy các ông sẽ thấy đàn bà không chỉ đơn thuần là những người vợ. Đàn bà là những chiếc đũa thần, đã mang sự sống, niềm vui, hạnh phúc đến cho nhân loại. Tưởng tượng thế giới toàn đàn ông sẽ buồn nản đến thế nào. Tim các ông sẽ không có đối tượng để mà rung động. Hồn các ông sẽ không bao giờ có cơ hội để mà nhung nhớ mộng mơ. Các ông sẽ chẳng bao giờ được hưởng niềm vui nhìn đàn trẻ thơ tung tăng đùa giỡn. Và cuối cùng các ông sẽ chẳng bao giờ hiểu được ý nghĩa của tình yêu.

Tôi nhớ mỗi năm khi ngày “Mother’s Day” đến, các ông thường kiếm cớ “em là vợ anh chứ có phải là má anh đâu mà anh phải mua quà.” (Câu này tôi nghe…quen quen quí vị ạ) Dù những người vợ không phải là má của các ông, nhưng là…má của các con ông! Các nàng đã cho các ông những đứa con xinh đẹp ngoan ngoãn. Những người vợ xứng đáng được tặng một món quà trong ngày Mother’s Day, dù nhỏ bé cũng được, nhưng thể hiện cái tình nồng thắm của nghĩa vợ chồng.

Đàn bà dù là…chiếc đũa thần (tự khen đó nha!) nhưng vẫn thèm được chồng yêu, chồng chiều và nhất là “chồng cho quà.”

Các ông đừng bao giờ quên điều đó nhé!

                Hồng Thuỷ                                          




CHÀO MỪNG GS TS MAI THANH TRUYẾT Gia Nhập VTLV – CT Lê Văn Hải & Thơ Chúc Mừng – Phương Hoa

Tin thật là vui cho VTLV! Cây bút này “nặng ký” lắm, khó có ai trong lãnh vực biên khảo hơn Giáo Sư Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết cả!!!

Lê Văn Hải

Chúc mừng Văn Thơ Lạc Việt càng ngày càng lớn mạnh!

CHÀO MỪNG

GS TS MAI THANH TRUYẾT

LẠC VIỆT Văn Đàn rộn sắc hoa

Mừng MAI THANH TRUYẾT đã vào nhà

Giáo Sư bể học khôn người sánh

Tiến Sĩ rừng tài khó kẻ qua

Nghiên cứu môi trường, danh thế giới

Bảo toàn nguồn nước, tiếng Cờ Hoa

Ầm ầm bút lướt như dông bão

Năm bữa ba ngày tác phẩm ra

Phương Hoa – JUN 9th 2021

Lê Văn Hải

Nhân đây, xin được giới thiệu chút tiểu sử và một bài tiêu biểu trên trang nhà của Hội Ái Hữu Petrus Trương Vĩnh Ký:

Đôi Nét Về Giáo Sư Tiến Sỹ MAI THANH TRUYẾT

Cựu học sinh Petrus Trương Vĩnh Ký niên khóa 1953-60

Tiến sĩ Hóa Học Đại học Besancon, Pháp.

Assistant phụ trách Thí nghiệm Hóa Vô cơ, Trường Institut de Chimie, Besancon, Pháp.

Chức vụ ở Việt Nam trước năm 1975:

  • Giảng sư (Associate-Professor), Trưởng ban Hóa học, Đại học Sư phạm Sài Gòn, Việt Nam.
  • Giám đốc Học vụ, Viện Đại học Cao Đài, Tây Ninh, Việt Nam.

Chức vụ ở Hoa Kỳ:

  • Nghiên cứu cho Chương trình thuộc Viện Y tế Quốc gia (NIH) của Đại Học Y Khoa Minnesota.
  • Giảng dạy Hóa học Đại cương tại King College, Fresno, CA.
  • Giám đốcPhòng thí nghiệm và Giám đốc Xử lý Phế thải, Chemical Waste Management, Kettleman City, CA.

Hiện tại:

  • Giám đốc nhà máy xử lý nước thải (Leachate Treatment Plant), BKK Corporation, West Covina, CA.
  • Giám đốc Kiểm soát An toàn và Phẩm Chất (QA/QC), Weck Laboratories Inc., Industry City, CA.
  • Giám đốc Kỹ thuật, EnvironmenD Consultant Services, LA.

Công tác Hội đoàn: – Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Hội Khoa học & Kỹ thuật Vịệt Nam tại Hoa kỳ (VASTS).

Hội Ái Hữu Petrus Trương Vĩnh Ký Úc Châu xin chân thành cám ơn anh Mai Thanh Truyết đã cho phép chúng tôi trích đăng các bài viết của anh.

Làm Thế Nào Hạn Chế Sự Hâm Nóng Toàn Cầu?

Mai Thanh Truyết

Ngày nay, có thể nói rằng hầu hết mọi người trong chúng ta đều đồng ý hiện tượng hâm nóng toàn cầu là một thách thức lớn cho toàn thế giới. Chúng ta đang sống trong một tình trạng bất ổn chung và sự phát triển bến vững (sustainable) gần như không có căn bản vững chắc dù các quốc gia đang phát triển hay đã phát triển viện dẫn bất cứ lý do nào để biện minh cho hành động phát triển không bền vững của mình.

Trước thực tế kể trên con người phải làm gì?

Trước hết, lượng năng lượng cần thiết cho nhu cầu hàng ngày cho nhân loaị là xăng dầu và nước. Xăng dầu dùng cho việc di chuyển trên thế giới không ngừng tăng lên đều đặn đồng biến với thời gian và giá cả cũng tăng vọt cũng như chưa có dấu hiện nào báo trước là giá xăng sẽ được bảo hoà ở một thời điểm nào đó. Và nước dùng cho sinh hoạt trong cuộc sống có khuynh hướng ngày càng cạn kiệt, cũng như hiện tại vẫn chưa có phương cách giải quyết thoả đáng. Do đó, danh từ bền vững (sustainability) hiện tại khó có chỗ đứng dưới mắt nhân loại và những nhà khoa học trên thế giới.

Làm sao có thể phát triển bền vững được khi giá xăng cao, nước sinh hoạt giảm và cũng tăng giá đồng biến theo thời gian, kéo theo tất cả vật giá của mọi nhu cầu hàng ngày của con người. Từ đó, ảnh hưởng lên sự phát triển xã hội, và sự hâm nóng toàn cầu ngày càng tăng trưởng nhanh hơn, với lượng khí phát thải vào không khí như CO2 đã vượt mức 400 mg/lít không khí vào ngày 4/3/2013, sớm hơn dự trù theo mô hình toán của các nhà khoa học hơn một năm. Thế giới hiện nay không còn thích ứng với điều kiện bền vững nữa như yêu cầu của Liên Hiệp Quốc nêu ra trong Nghị trình-21 là phát triển xã hội, tăng cường phúc lợi cho nhân loại, và bảo vệ hài hoà môi trường sống.

Sự bền vững của xã hội loài người

Nhiều hội đoàn chuyên môn về khoa học, công nghệ từ các NGO thiện chí đến những hiệp hội khoa học của các chính phủ đều đánh giá vấn đề bền vững trong phát triển là một vấn đề cấp bách trong hiện tại. Tại Hoa Kỳ, Hội Hoá Học (ACS) với châm ngôn:”Science & Technology for Sustainable Well-being” (tạm dịch Khoa học và Công nghệ cho Nhận thức bền vững), cũng như Hội Nghiên cứu cho sự Tiến bộ Khoa học Hoa Kỳ (American Association for the Advancement Science (AAAS)) đã lần lượt tổ chức hàng năm nhằm mưu tìm một giải pháp thích ứng cho việc xử dụng hai loaị năng lượng căn bản nầy.

Mục tiêu của các buổi họp là thêm một lần nữa, hai cơ quan khoa học lớn nhất nước Mỹ hy vọng khơi động ý thức nhân loại và nhấn mạnh ý nghĩa thực sự của danh từ bền vững (sustainability). Theo định nghĩa, sự bền vững là sự tập trung khả năng để đạt được một đời sống an toàn và khoẻ mạnh cho tất cả nhân loại ngày hôm nay mà không ảnh hưởng hay di hại đến các thế hệ về sau. Định nghĩa trên bao gồm tất cả mọi khía cạnh của đời sống như chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường, văn hoá v.v… và đíều nầy đòi hỏi các quốc gia đã phát triển chẳng những phải duy trì và không ngừng cải thiện tiêu chuẩn của đời sống hiện tại cho người dân trong nước sở tại, mà còn phải có bổn phận giúp đở những quốc gia kém phát triển cần phải tăng cường phúc lợi thêm cho con dân của họ.

Theo hướng suy nghĩ trong một quyển sách viết vào năm 2005 của Jared Diamond, giáo sư UCLA dưới tựa đề: “Sự sụp đổ: Xã hội chọn lựa để thành công hay thất bại như thế nào?” (Collapse: How societies choose to Fail or Succeed?), và quyển thứ hai đã được giải Pulitzer “Súng đạn, Mầm bịnh, Sắt thép: Thành phẩm sau cùng của Xã hội loài người” (Gun, Germs, & Steel: The fates of Human Societies), GS Diamond đã khảo sát tại sao và làm thế nào mà những quốc gia Tây phương ở Bắc bán cầu có khả năng phát triển công nghệ và thống trị hầu hết thế giới.

Trong quyển sách đầu, ông cũng đã phân tích tại sao một số quốc gia đã phát triển mạnh nhưng lại sụp đổ sau đó, và từ đó có những bài học rút ra từ hiện tượng nầy. Ông cũng đã lý giải sự sụp đổ của nền văn minh cổ như thành phố Mayan ở Trung Mỹ, sự hũy diệt của xã hội Viking ở Greenland v.v…

Và để kết luận, GS Diamond đưa ra 5 yếu tố căn bản đóng góp vào sự sụp đổ của một số xã hội văn minh thời cổ đại. Đó là:

*1-Sự tàn phá môi trường.

*2-Sự thay đổi khí hậu thiên nhiên.

*3-Sự tàn ác của xã hội lân bang.

*4-Sự hỗ trợ thương mãi từ các xã hội khác.

*5-Và sau cùng sự thích ứng hay không thích ứng của xã hội trước những vấn nạn xã hội cùng sự gia tăng dân số và nhu cầu tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên quá độ.

Từ đó, ông đưa ra nhận định là các quốc gia xưa bị sụp đổ vì những yếu tố trên, và ngày hôm nay, các quốc gia đã phát triển cũng sẽ đối mặt với những thách thức tương tự. Ngoài ra, cũng còn thêm một yếu tố thứ sáu mới nữa do loài người ngày hôm nay tạo dựng ra; đó là sự phá hủy đa dạng sinh học (biodiversity) của thiên nhiên.

Nếu tiến trình “phá hoại” của nhân loại tiếp tục, nếu con người không còn khả năng giải quyết những vấn nạn căn bản trên, thế giới chắc chắn sẽ bị hủy diệt toàn diện, chứ không phải từng vùng hay từng địa phương nữa.

Vai trò của nhà hóa học

Qua một số nhận định nêu trên, câu hỏi được đặt ra là sự bền vững được các nhà hoá học nhìn dưới nhản quan nào?

Hiện tại, đã có hàng trăm cuộc nghiên cứu để sống còn và nhiều tài liệu giáo dục về hiện tượng bền vững nầy cũng như những đề nghị để bảo toàn sự bền vững toàn cầu của những nhà hoá học trên thế giới. Mục tiêu sau cùng không những là truy tìm công nghệ mới và sạch mà cũng phải cải thiện những công nghệ hiện tại cho được đắc dụng hơn và giảm thiểu sự phát thải ô nhiễm ra môi trường trong sản xuất hay dịch vụ.

Từ đó, vai trò của nhà hoá học sạch và xanh rất cần thiết trong lúc nầy và Viện Hoá học Xanh (Green Chemistry Institute) thuộc American Chemistry Society của Hoa Kỳ đã bắt đầu làm cầu nối trong học đường, kỹ nghệ, và chính quyền để cùng nhau giải quyết vấn nạn toàn cầu.

Một thí dụ điển hình là TS John Warner, nhà hoá học xanh ở Đại học Massachusetts, Lowel, Giám đốc Trung tâm Hoá học Xanh, đã hướng dẫn một phái đoàn hoá học xanh đi khảo sát phát triển bền vững ở Nam Phi. Ông và phái đoàn cùng thảo luận với các nhà hoá học Phi về sự bền vững toàn cầu. Đối với những nhà hoá học Phi, nhiệm vụ của họ tương đối dễ dàng và giản dị trong việc phát triển ngành hoá học dựa theo tài nguyên của bản địa và áp dụng kỷ thuật tiên tiến từ các quốc gia đã phát triển. Nhưng vai trò của nhà hoá học xanh là làm thế nào để mang vào hội nghị khái niệm về bền vững hướng đến tương lai đến cộng đồng Phi châu mà chính họ không hề đề cập đến.

Cụ thể hơn hết là phái đoàn Warner đã thăm viếng đại nông trường Maine trồng khoai tây, nơi chỉ sản xuất khoai tây để làm khoai chiên lát mõng hay nấu ăn. Trong khi đó, ông cố gắng thuyết phục các khoa học gia Phi châu phải thay đổi não trạng là biển đổi những sản phẩm từ khoai thành những sản phẩm cao cấp hơn, có hiệu quả kinh tế cao hơn. Đó là thiết lập những nhà máy biến chế bột khoai thành polylactic acid, thành bio-polymer để làm những sản phẩm bao bọc thực phẩm hay quần áo. Điều nầy giải quyết được một số nhu cầu của địa phương và cũng là một giải pháp đóng góp vào sự cải thiện môi trường bền vững trong phát triển.

Do đó, có rất nhiều chiều hướng con người có thể làm để đạt được sự phát triển bền vững trong đó những nhà hoá học xanh và sạch là một thành phần đóng góp không nhỏ trong việc bảo vệ môi trường trong tương lai.

Vai trò của chúng ta

Theo thống kê Hoa Kỳ vào năm 2010, lượng khí carbonic (CO2) phát thải vào không khí do nhiều nguồn khác nhau và có tỷ lệ như sau: việc chuyên chở chiếm 41%, điện năng 22%, công kỹ nghệ không dùng khí đốt 15%, khí đốt thiên nhiên 14%, và kỹ nghệ dầu hoả 8%.

Phương án California: Tại California, mức phát thải CO2 tính trên đầu người là 11 tấn/năm vào năm 2006 và toàn Cali, tổng lượng khí phát thải lên đến hơn 500 triệu tấn/năm. Do đó, tính đến năm 2020, Cali phải giảm 174 triệu tấn. Các biện pháp dự trù cho mức giảm thiểu nầy đứng về phía chính quyền là:

  • Xe sạch: Bắt đầu từ năm 2009, tiểu bang cần phải đạt được 33% xe sạch so với 28% năm 2006;
  • Bảo quản và tăng cường rừng để có khả năng hấp thụ 20% khí CO2 phát thải vào không khí;
  • Năng lượng: Bảo quản và hạn chế năng lượng sử dụng trong các cơ xưởng để giảm bớt 30 triệu tấn khí CO2 hàng năm.

Đối với mức gia tăng dân số hiện tại, cần tăng cường hệ thống chuyển vận công cộng để giảm việc xử dụng phương tiện di chuyển cá nhân.

Về năng lượng tái tạo: Cố gắng đạt 20% năng lượng tái tạo cho điện năng, giảm 10% lượng CO2 phát thải;

Về nhà máy phát điện: Dùng công nghệ khí than (carbon gasefication) làm giảm thiểu tối đa việc phát thải CO2, giảm được 10%.

Có thể giảm được 4% lượng CO2 phát thải trong việc thu hồi khí methan từ các bãi rác để biến thành điện năng và giảm thiểu được các khí phát tán trong kỹ nghệ dầu khí hiện tại.

Đứng về phía cá nhân, chúng ta cần có vài hành động tích cực ngõ hầu đóng góp vào việc cải thiện sự hâm nóng toàn cầu. Câu nói bất hủ của Edmund Burke, một triết gia người Anh vào cuối thế kỷ 18:”Không một ai làm một lỗi lầm lớn hơn việc anh ta không làm gì hết mặc dù anh ta có thể làm một chút gì đó!” (Nobody made a greater mistake than he could only do a little!). Do đó, mỗi người trong chúng ta cần phải ghi nhận rằng nguồn năng lượng trên thế giới lớn nhứt chính là nguồn bảo toàn năng lượng. Chúng ta cần phải chuẩn bị tư tưởng trong việc cải thiện, tái sử dụng, và bảo quản năng lượng để hướng đến việc dùng chúng một các bền vững và làm cho môi trường được trong sạch.

Một vài thí dụ cụ thể sau đây đóng góp vào việc bảo vệ môi trường cũng như hạn chế sự hâm nóng toàn cầu mà mỗi người trong chúng ta có thể làm được:

  • Sửa chữa giày dép, quần áo để dùng lại, giảm được mức sử dụng năng lượng dùng trong việc sản xuất sản phẩm mới;
  • Điều chỉnh nhiệt độ nóng/lạnh thấp/cao hơn tiêu chuẩn 50F có thể hạn chế được 5% năng lượng tiêu dùng trong việc xử dụng nước nóng và máy lạnh hay máy sưởi ấm;
  • Máy giặt: 90% năng lượng xài trong nhà là do nguồn nước nóng dùng cho máy giặt. Nên thay thế bằng nước ấm. Phơi quần áo ngoài sân; kiểm soát và bảo quản thường xuyên và có định kỳ máy nước nóng có thể giảm được 20% năng lượng dùng trong nhà;
  • Bánh xe của bạn cần được bơm cao hơn áp suất trung bình cho phép có thể giảm được 5% lượng xăng tiêu dùng. Bảo trì xe thường xuyên cũng giảm được một lượng xăng tương tự;
  • Tránh dùng máy lạnh càng nhiều càng tốt. Uỷ ban Năng lượng California (CEC) khuyến cáo nên thay mái nhà màu xậm bằng màu sáng hơn sẽ hạn chế được mức năng lượng tiêu dùng trong nhà;
  • Tránh việc đổ hoá chất dùng trong nhà vào đường thoát nước cũng như hạn chế tối đa việc dùng hoá chất trong sinh hoạt gia đình và ngoài sân cỏ;
  • Dùng kiếng cửa sổ có màu và sử dụng hệ thống skylights trên mái nhà để tiết kiệm năng lượng;
  • Nên tắm bằng búp sen thay vì ngâm mình trong bồn tắm. Nên nhớ một bồn nước tắm tương đương với 4 lần tắm bằng búp sen;
  • Kiểm soát nước rò rỉ từ các vòi nước trong nhà. Một giọt nước rỉ liên tục trong một năm tương đương với lượng nước sinh hoạt một ngày cho 200 người;
  • Trong sinh hoạt gia đình, tránh việc dung các sản phẩm chứa dung môi (solvent) để tránh ô nhiễm không khí, cố gắng dùng bao bì bằng giấy, cartông, hay plastic bằng thực vật thay vì bằng hoá chất như PE, PCE, PVC v.v..;
  • Sử dụng thực phẩm, rau trái đúng mùa để không khuyến khích việc trồng trọt trái mùa, phải tốn thêm nhiều năng lượng.

Tóm lại, vấn đề đặt ra nơi đây là mỗi người trong chúng ta hãy tự vấn lấy chính mình. Một khi ý thức được rõ ràng sự hiện hữu của con người cũng như trách nhiệm trước toàn cầu và tương lai, chúng ta sẽ tự hạn chế mọi sinh hoạt có thể được xem là làm tăng thêm nguy cơ hâm nóng toàn cầu; từ đó chúng ta sẽ biết phải làm gì. Làm để cho sự tồn vong của nhân loại và nhất là đừng để các thế hệ về sau nhận lấy nhiều hệ lụy xấu của con người ngày hôm nay.

Nên nhớ, chúng ta đang ở trên Quả Địa cầu nầy là do sự vay mượn của Thiên Nhiên, và chúng ta cần phải trả lại sự Nguyên Thủy của Thiên Nhiên cho các thế hệ tương lai.

Làm được như thế, chúng ta mới xứng đáng là con người của sự toàn cầu hoá.

Mai Thanh Truyết




CHÀO MỪNG Nữ Sĩ Phan Hà

CHÀO MỪNG Nữ Sĩ Phan Hà

“Tôi Yêu Tiếng Nước Tôi!”

Văn Thơ Lạc Việt,

Nơi quy tụ những Trái Tim nhiệt huyết nhất, chỉ với mục đích Bảo Tồn và Phát Huy Tiếng Mẹ.

Một trong những Nhóm đông nhất, hoạt động lâu đời nhất, hữu hiệu nhất và yêu thương, giúp đỡ nhau nhất!

“Nào về đây ta hợp đoàn cùng nhau!” Một cánh én không tạo ra mùa xuân, nhưng khi Đàn Én xuất hiện, là dấu báo hiệu…Chúa Xuân về!

Lê Văn Hải – Chủ Tịch VTLV

***

CHÀO MỪNG NỮ SĨ PHAN HÀ

*

WELCOME người mới kính đôi hàng

CHÀO ĐÓN thành viên đã…nhập làng

NỮ SĨ lời hay, tay ngọc nhả

PHAN HÀ ý đẹp, bút hương loang

VĂN THƠ thi phú rồi rôm rả 

LẠC VIỆT xướng hòa sẽ rộn vang

Sinh hoạt cùng nhau chờ diện kiến

Niềm vui rạng rỡ xứ Hoa Vàng

Phương Hoa – APR 30th 2021

**

CHÀO MỪNG

Chào đón cô bạn Phan Hà 

Bước vào nhập hội một nhà kính tương 

VĂN THƠ LẠC VIỆT thân thương 

Phú bày thi trải đầy vườn kỳ hoa 

Dòng văn ý nghĩa mượt mà 

Giữ gìn tiếng Việt nước ta lưu đời 

Chúc mừng nữ sĩ đôi lời   

Chung lòng hợp thuận tiếng cười rộn vang

     Minh Thuý (Thành Nội) – Tháng5/1/2021




Thư Mời : Lễ Trao Giải VTLV 2016

THƯ MỜI

 vtlv9l  levanhai  victory-thuy-vi

Kính chào quí vị.

 

Trân trọng kính mời quí vị tham dự buổi trao giải Văn Thơ Lạc Việt 2016.

Chiều Chúa Nhật, ngày 18 tháng 12 năm 2016
Thời gian từ : 4:00 PM.
Tại địa điểm : Nhà Hàng Phú Lâm
3082 Story Dr.
San Jose CA 95127
MC:
         TS Nguyễn Hồng Dzũng
Nghệ sĩ Hạnh Thảo


Có phụ diễn văn nghệ rất đặc sắc của ca nhạc sĩ  VTLV.
và tặng sách cho quý vị Mạnh Thường Quân.                 

Sự hiện diện của quí vị là vinh dự lớn lao cho ban tổ chức, và thể hiện sự đoàn kết tranh đấu cho tự do dân chủ.

TM Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.
Phó chủ tịch nội vụ/Trưởng ban tổ chức.
Nhà Báo Lê Văn Hải

thiep-moi-trao-giai-vtlv-2016

thiep-moi-vtlv2016-t

 




Thư Mời : Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam.

Thư Mời : Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam.

 

thong-cao          logovtlv1

Thư Mời “Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam”.

vtlv-0

Ghi dấu Ngày Quốc Hận năm thứ 42 (1975-2017) của tập thể Người Việt Tự Do toàn cầu, Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, Cơ Sở Văn Hóa Đông-Phương & Nhóm Bạn Văn Nghệ sẽ tổ chức 3 ngày “Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam kỳ I” vào trung tuần tháng tư năm 2017, tại Thung Lũng Hoa Vàng (San Jose, California).

Ban Tổ Chức gồm: Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt thành lập từ năm 1992, liên tục hoạt động văn học nghệ thuật hơn 24 năm, đã duy trì giải thưởng văn thơ nhiều năm qua – Đông Phương Foundation thành lập từ năm 1976, liên tục sinh hoạt văn học nghệ thuật & cộng đồng hơn 40 năm, từng tổ chức Giải Quốc Tế Tượng Vàng Ca Sĩ VN 19 năm + Đại Hội Văn Chương Phụ Nữ VN Toàn Cầu hơn 11 năm – và Nhóm Bạn Văn Nghệ quy tụ đông đảo văn nghệ sĩ tên tuổi.
Nay, nhân dịp trọng đại nêu trên, Nhóm chúng tôi hân hạnh kính mời quý Nam & Nữ Văn Nghệ Sĩ Việt Nam toàn cầu (nhà thơ, nhà văn, bình luận gia, kịch tác gia, chủ báo, chủ đài, chủ websites, nhà truyền thông, nhạc sĩ, họa sĩ, điêu khắc gia, nhiếp ảnh gia, đạo diễn điện ảnh, soạn giả, tác giả v.v…) tham dự 3 ngày “Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam kỳ I” trong 3 ngày 14, 15 & 16 tháng tư năm 2017.
vtlv-2

 

Chương Trình tổng quát như sau:

  1. Thứ Sáu ngày 14/4.

    – Từ 6:00G chiều, Ban Tổ Chức chào mừng quý Nam/Nữ Văn Nghệ Sĩ VN đến San Jose từ khắp thế giới, với tiếp tân & ca nhạc tại Câu Lạc Bộ Mây Bốn Phương.
  2. Thứ Bảy ngày 15/4.

– Từ 9:00G sáng tới 1:00G trưa: 4 nhóm hội thảo văn hóa/cộng đồng, tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng Việt VACC & CLB Mây Bốn Phương.

– Từ 2:00G trưa tới 6:00G chiều: Đại Nhạc Hội (đặc biệt Ca nhạc & thuyết trình về “Đại thi hào Nguyễn Du & Truyện Kiều) – Hội Chợ Sách/Báo, tranh/ảnh/tượng, DVDs/CDs thơ/nhạc v.v… Tại hội trường lớn Y.B. High School.

  1. Chủ Nhật ngày 16/4.

– Từ 9:00G sáng tới 3:00G chiều: Du ngoạn San Francisco (trả thêm lệ phí nhỏ)..

– Từ 6:00G chiều tới 11:00G đêm: Dạ Hội & vinh danh quý Nam/Nữ Văn Nghệ Sĩ VN đến từ khắp nơi trên thế giới, tại một nhà hàng lịch sự 800 ghế tại San Jose.

vtlv

Điều kiện tham dự: Tất cả quý tác giả (Nam & Nữ) có tác phẩm đã xuất bản; chủ báo/đài hoặc đại diện thẩm quyền; nam/nữ nghệ sĩ (nhạc sĩ, ca sĩ, cổ nhạc…) đã có tối thiểu 1 CD/DVD hoặc 1 quyển sách trên thị trường; nam/nữ nghệ nhân (hội họa, nhiếp ảnh, phim ảnh…); chủ websites đã hoạt động từ 4 năm trở lên; Trưởng một Tổ Chức Văn Hóa trên 5 năm; quý Nam/Nữ hành nghề truyền thông báo chí hoặc nghệ thuật chuyên nghiệp 5 năm trở lên.

Thư ghi danh, quý vị nhớ kèm theo 1 tấm hình chân dung và tiểu sử, để Ban Tổ Chức thực hiện tập sách giới thiệu các văn nghệ sĩ có mặt trong Quốc Tế Đại Hội 2017.

Khi nhận được sự nhận lời tham dự của quý Nam/Nữ Văn Nghệ Sĩ, Ban Tổ Chức sẽ gởi Thư Mời “3 ngày Quốc Tế Đại Hội” chính thức & chương trình chi tiết tới quý vị ngay. Hạn chót ghi danh là ngày 30 tháng 1/2017. Chia xẻ phí tổn 3 ngày Quốc Tế Đại Hội là 125 Mỹ kim (bao gồm ăn uống, và các sinh hoạt suốt 3 ngày). Check hay Money Order, xin đề: Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.
Kính mong qúy Nam/Nữ Văn Nghệ Sĩ Việt Nam thuộc giới văn học nghệ thuật & truyền thông báo chí, cùng nhau tham dự cuộc gặp gỡ giữa những văn nghệ sĩ và nhà truyền thông (báo/đài/website) lần đầu tiên được tổ chức tại Hoa Kỳ sau 42 năm Người Việt lưu vong nơi hải ngoại. Qúy Nam/Nữ Văn Nghệ Sĩ vui lòng liên lạc sớm, về 1 trong 3 địa chỉ sau đây:
vtlv-3

* Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt 640 Rettus Ct, San Jose, CA 95111; Tel: (669) 251-5366;
Email: cnchinhnguyen7@gmail.com

* Cơ Sở Văn Hóa Đông-Phương P.O.Box 18104 Seattle, WA 98118; Tel: (206) 722-
0231; Email: tuongvang@gmail.com.

* Nhóm Bạn Văn Nghệ 9155 Pacific Ave #246, Anaheim, CA 92804; Tel: (714) 360-
7356; Email: tran_hao47@yahoo.com./.

 

vtlv-1

Thành thật cám ơn quý vị.

TM Ban Tổ chức.
Chinh Nguyên
stampVTLV




Thông Báo Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016

Dầu Thư VTLV

Thông Báo Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016


Nhằm mục đích bảo tồn và phát triển văn học dân tộc nơi hải ngọai, đồng thời cũng nhằm khuyến khích tinh thần sáng tác của mọi tầng lớp người Việt yêu thích văn thơ. Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt xin trân trọng thông báo đến đến quý vị, cuộc thi Truyện ngắn, và Thơ của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt lấy tên là Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016.

 

  1. Nội dung: Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016 không hạn chế đề tài, tuy nhiên ưu tiên những tác phẩm viết về: Tình yêu quê hương, Ca ngợi lòng ái quốc đang nổi lên trong nước bằng những cuộc biểu tình vừa qua, để lật đổ chế độ Cộng Sản đảng trị, và chống đối Trung Công xâm lăng lãnh thổ.
    Không chấp nhận các bài viết đề cao hoặc tuyên truyền cho Cộng Sản, không phỉ báng đoàn thể hay cá nhân trong cộng đồng.
  2. Điều kiện dự thi:
    2A/ Tất cả mọi người Việt không kể tuối, sống trong, và ngoài nước đều có quyền dự thi. Một người có thể dự thi cả hai bộ môn văn và thơ ,

2B/ Mỗi người được gửi hai truyện ngắn tối đa, mỗi truyện năm trang đánh máy, và thơ tối đa ba bài, mỗi bài không quá 28 câu. (Nếu bài thơ dài quá giới hạn 28 câu sẽ bị loại)
2C/ Tác phẩm dự thi chưa hề công bố trên bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng, hoặc ấn phẩm nào. Trong thời gian cuộc thi diễn ra, các tác phẩm dự thi không được công bố trên các tuyển tập và báo chí. Trừ trường hợp tác giả dự thi đề nghị được rút tác phẩm khỏi cuộc thi.

  1. Điều kiện gởi bài:

3A/ Bản thảo được đánh máy rõ ràng gởi qua e-mail,
3B/ Dùng Unicode – Font chữ Time New Roman-12, và không trình bày khác lạ. (Nếu có trình bày khác lạ sẽ bị loại)
3D/ Không nhận bài viết tay, hoặc bài đánh máy trên giấy gởi qua bưu điện.
3E/ Bài gửi qua e-mail về xin ghi kèm địa chỉ, email, số điện thoại. Lý lịch kèm theo một tấm hình (Phần này sẽ được dùng để in Tuyển Tập nếu có thể.)
Các tác phẩm dự thi sẽ được chọn đăng trên báo chí Việt ngữ vùng Vịnh, và web site VTLV.
3F/ VTLV giữ bản quyền những bài trúng giải, Ban tổ chức không trả lại bản thảo.
3G/ Trong trường hợp VTLV dự trù in Tuyển Tập Đặc Biệt giải thi Văn Thơ Lạc Việt sẽ thông báo sau tới các tác giả dự thi về vấn đề tài trợ in ấn phí.

  1. Giải thưởng: Giải nhất, nhì, và ba đối với tác gỉa trên 20 tuổi.
    Giá trị giải thưởng cho mỗi bộ môn văn và thơ như sau:
    Giải Nhất : $500.00 US
    Giải Nhì : $300.00 US
    Giải Ba : $200.00 US
  2. Thời gian: Bắt đầu nhận tác phẩm dự thi từ tháng 03 năm 2016, hạn cuối cùng là ngày 30 tháng 10 năm 2016. Công Bố kết quả tháng 10 năm 2016 phát giải thưởng vào tháng 11, năm 2016.5- Gửi Tác Phẩm:
    5A/ Tác phẩm gởi qua địa chỉ email giaivantholacviet@gmail.com Phần lý lịch, hình cá nhân : Ghi rõ tên các tác phẩm dự thi dưới phần lý lịch.
    Ban Tổ Chức dành quyền loại bỏ những tác phẩm vi phạm thuần phong mỹ tục hoặc gây chia rẽ hận thù.
    Ban Điều Hành Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, tác giả đã trúng giải VTLV không được dự thi.

Muốn biết thêm chi tiết và gởi bài xin liên lạc :
Nhà thơ : Đông Anh : donganhndt@gmail.com, (408) 896-0158.
Nhà văn : Chinh Nguyên: cnchinhnguyen7@gmail.com, (669) 279-2532.
Nhà báo: Lê Văn Hải: khongquanlevanhai@gmail.com, (408) 365-2947

Nhà văn : Thanh Xuân : sueannec@hotmail.com (408) 679-1400
Nhà văn Thai NC : thainc2013@gmail.com  (408) 891-0991

Ghi chú :
Để việc chấm thi được công bằng BDH/VTLV sẽ thực hiện như sau :
1/ Không công bố ban giám khảo trước ngày công bố kết quả trúng giải.
2/ Xóa bỏ tên tác giả trên tác phẩm và đánh dấu mật mã cho mổi tác giả trên mỗi tác phẩm.
3/ Sau khi điểm chấm từ các quí vị giám khảo gởi về, Ban Điều Hành làm tổng kết trung bình cộng để thấy tác phẩm nào cao điểm.
4/ BDH sẽ bỏ tên tác giả trở lại cho mỗi tác phẩm để biết ai trúng giải.
5/ Báo cáo với quí vị giám khảo kết quả giải thi Văn Thơ Lạc Việt năm 2016.
6/ Thông báo trên web Văn Thơ Lạc Việt và Facebook kết quả giải thi Văn Thơ Lạc Việt năm 2016,
7/ Dự trù ngày phát giải.
8/ Liên lạc với quí vị giám khảo và tác giả trúng giải để thông báo về ngày phát giải Văn Thơ Lạc Việt năm 2016.
San jose, ngày 20 tháng 05 năm 2016
Chủ tịch Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt
Chinh Nguyên

stampVTLV




LẠ LÙNG MÀU NƯỚC HỒ MÀU HỒNG

LẠ LÙNG MÀU NƯỚC HỒ MÀU HỒNG
Không giống như những hồ nước bình thường khác, hồ Lac Rose ở Senegal có màu hồng cực lạ. Nếu bạn đến Senegal bạn sẽ không thể bỏ qua được những cây baobab khổng lồ, nhưng một trong những điều thú vị khác khi bạn đến với Senegal đó là một hồ nước màu hồng, hồ nước kỳ lạ này có tên là Lac Rose, nằm cách thủ đô Dakar khoảng 30 phút đi xe.

Hồ nước màu hồng ở Senegal Sở dĩ hồ nước này có màu hồng kỳ lạ như vậy do nó chứa nhiều khoáng và vi sinh vật. Đây là một hồ nước mặn nên hàng ngày những người dân Senegal thường ở đây đến 14 tiếng để lấy muối. Một lít nước ở hồ này chứa đến 380 gam muối. Vì thế hồ nước này góp phần quan trọng mang đến thu nhập và công việc cho những người dân sống ở đây.

Hồ Lac Rose cung cấp một lượng muối lớn

Điều đặc biệt là nếu bạn đến hồ nước này vào lúc bình minh hoặc lúc hoàng hôn bạn có thể thấy những vi sinh vật lắng đọng xuyên qua mặt nước đấy.

Thu hoạch muối mang lại nguồn thu nhập cho những người dân ở đây
Trẻ em cũng làm việc nhé
Mọi người đều làm việc rất chăm chỉ
Chân họ dính đầy muối
Nếu bạn có cơ hội đến với Senegal thì đừng bỏ qua hồ nước màu hồng thú vị này nhé!  



Tuyết Mai : Gây quỹ giúp TPB/VNCH

Liên  Hội  Cựu Chiến sĩ VNCH/HTĐ và Phụ cận gây  quỹ giúp TPB/VNCH

Tuyết Mai

 

  anh em TPB. Đặc biệt năm nay có sự hợp tác của Tuần Báo Thương Mãi Miền Đông, Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH /HTĐ và phụ Phụ cận  đã tổ chức buổi gây quỹ giúp Thương Phế Binh VNCH với các ca sĩ nỗi tiếng đến từ Cali. Chương trình được  tổ chức vào lúc 7 giờ chiều  Ngày 13 Tháng 6, 2010 tại Nhà Hàng Thần Tài, Falls Church, VA.

 

Có trên bốn trăm người tham dự, trong đó có sự hiện diện của nhiều vị cựu tuớng lãnh trong QLVNCH, nhiều đại diện quân binh chủng và các hội đoàn dân chính. Chương trình được điều hợp bởi hai Cựu sĩ quan Tạ Cự Hải và Bùi Mạnh Hùng.

 

Nghi lễ chào quốc kỳ Mỹ Việt rất trang nghiêm với hai  hàng quân,gồm đại diện các quân binh chủng,  trước sân khấu. Sau đó Tiến sĩ Tạ Cự Hải , đại diện cho Ban Tổ Chức có lời chào mừng quan khách. TS Hải nói,  làm trai thời loạn không có gì gian nguy hơn là đời lính. Làm trai thời loạn không có gì hy sinh cao  cả hơn là đem tấm thân của chính mình để bảo vệ non sông bờ cõi và bảo vệ đồng bào hậu phương,  dân chủ, tự do và thịnh  vượng. Trong suốt cuộc hành trình trong  cuộc chiến VN,  người lính VNCH luôn luôn hãnh diện và chiến đấu can trường ở bất cứ mặt trận nào trên toàn quốc. Do đó những người  lính VNCH lúc nào cũng hãnh diện là cựu quân nhân của QLVNCH.

 

TS Tạ cự Hải nhấn mạnh, để  ghi ơn, tưởng nhớ và xoa dịu phần nào vết thương của người lính VNCH đã hy sinh bỏ mình vì Tổ Quốc và những người đã bỏ một phần thân thể để bảo vệ quê hương và dân tộc, hằng năm LHCCSVNCH/HTĐ và phụ cận có tổ chức gây quỹ giúp TPB/QLVNCH. Năm nay cũng giống như những năm trước,  đặc biệt có sự hợp tác với Tuần Báo Thương Mãi Miền Đông. TS Hải   thay mặt  BTC tri ân đồng bào đến tham dự và đóng góp  giúp TPB/QLVNCH.

 

Ông Đoàn Hữu Định, Chủ Tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH/HTĐ và phụ cận phát biểu, buổi gây quỹ này được tổ chức để chúng ta cùng nhau xoa dịu phần nào sự đau khổ, nhọc nhằn, của những chiến sĩ đã hy sinh một phần thần thể của họ cho quê hương và đời sống yên bình của chúng ta trước năm 1975. Hơn 35 năm năm qua, cuộc chiến tương tàn đã chấm dứt , nhưng ngừơi TPB của Miền Nam VN vẫn còn bị chính quyền CS bỏ quên bên lề đường,  bỏ quên bên ngoài cuộc sống. Họ sống cơ cực,  khó khăn,  khổ sở .

Hiện có hằng trăm ngàn TPB như thế, chưa kể thành phần cô nhi, quả phụ, đang sống trong hoàn cảnh nghèo khổ. Liên Hội CCSVNCH/HTĐ và Phụ  cận thay mặt anh em TPB gởi đến toàn thể quý vị,  những ngừơi có mặt hôm nay và những vị không đến dự được nhưng đã gởi tiền tặng,  những lời tri ân sâu xa nhất.

 

Ông Bùi Mạnh Hùng nhắc lại là hằng năm Liên Hội Cựu Chiến sĩ tổ chức hai lần gây quỹ giúp TPB/VNCH ở quê nhà, nhưng vì tình trạng kinh tế khó khăn hiện tại , nên LHCCSVNCH/HTĐ  chỉ tổ chức  một lần năm nay. Nhiều ngân phíếu và tiền mặt của đồng hương tham dự được gởi đến BTC để chuyển về giúp TPB ở quê nhà, coi như một món quà nhỏ để bày tỏ lòng biết ơn những chiến sĩ đã hy sinh một phần thân thể để bảo vệ  sự bình yên cho người dân và Miền Nam dân chủ, tự do.

 

Theo sau là chương trình văn nghệ giúp vui với hai ca sĩ nỗi tiếng từ Cali là Philip Huy và Y  Phương. Phần  dạ vũ rất hấp dẫn với ban nhạc  Twister. Chương trình được chấm dứt lúc 12 giờ đêm. Mọi người ra về trong niềm hân hoan đã thưởng thức một chương trình văn nghệ thật xuất sắc, vừa đóng góp để chia sẻ phần  nào nỗi cơ cực, buồn tủi của người TPB VNCH còn ở lại quê nhà, đã nghèo khổ thiếu thốn vật chất, còn bị kỳ thị  đọa đày dưới chế độ CS vô nhân.

Được biết số tiềnthu được trong đêm gay quỹ này là trên mười  ngàn mỹ kim.

 

Đồng hương muốn giúp đỡ TPB/VNCH xin gởi ngân phiếu về

Liên Hội Cựu Chiến Sĩ  VNCH/HTĐ

3912 Gallows Rd Annandale, VA 22003.

lhccsvnch@ureach.com

Video clip Gây quy giúp TPB

www.youtube.com/tuyetmai45

 




Đồng Thảo : The 1st Annual Fall Benefit Concert, September 18, 2010.

Xin đọc tiếp

 

 ————————————————————————————–

Ca sĩ Đồng Thảo với album nhạc đầu tay

THANH TÙNG/Việt Tribune

Đi hát đã nhiều năm, tham dự hầu hết các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng tại địa phương cũng như trình diễn khá thường xuyên ở các phòng trà và show ca nhạc những vùng phụ cận, vậy mà phải đợi đến đầu năm nay 2010, Đồng Thảo mới chịu thực hiện cho riêng mình một album nhạc chọn lọc chủ đề “Giòng nhạc quê hương” gồm các ca khúc: “Nương chiều” (Phạm Duy), “Hải ngoại thương ca” (Nguyễn Văn Đông), “Xin đời một nụ cười” (Nam Lộc), “Người tình không chân dung” (Hoàng Trọng), “Gởi người giời tuyến” (Nhật Lệ), “Sài Gòn ơi, vĩnh biệt” (Nam Lộc), “Đêm nhớ về Sài Gòn” (Trầm Tử Thiêng), “Chiều mưa biên giới” (Nguyễn Văn Đông), và “Chiều trên phá Tam Giang” (Trần Thiện Thanh). Cô ca sĩ không chịu nhận mình còn trẻ này đã dành cho Thanh Tùng- Việt Tribune phần tâm tình thân mật sau đây.

                                                                Ca sĩ Đồng Thảo tại San José. Hình do nghệ sĩ cung cấp

THANH TÙNG: Album vừa được Đồng Thảo thực hiện cũng như giới thiệu đến bạn bè và thân hữu là sản phẩm văn nghệ đầu tay của mình? ĐỒNG THẢO: Dạ thưa đúng.

Sau bao nhiêu năm ca hát thì Đồng Thảo mới thực hiện cuốn album đầu tay này?
ĐỒNG THẢO: (cười) Hơi cảm thấy mắc cỡ vì Thanh Tùng cũng biết ca hát đối với Thảo chỉ là niềm vui và sự đam mê, chứ không phải là con đường chuyên nghiệp. Thảo bắt đầu có mặt trên các sân khấu tại địa phương và các vùng lân cận vào khoảng năm 2001. Mặc dù bạn bè thường hỏi sao không thực hiện CD, Thảo vẫn không có thời gian vì quá bận bịu công ăn việc làm và gia đình. Đến bây giờ, nhờ một lần chợt ngẫu hứng và được ông xã và bạn bè thân thiết thúc giục nên Thảo bắt tay vào thực hiện album. Ban đầu, Thảo chỉ nghĩ là làm chơi cho vui. Nhưng sau đó, Thảo nhận ra rằng khi mình làm một điều gì đó, mà nhất là làm nghệ thuật, đem nghệ thuật đó đến với người nghe thì mình không thể xem thường được. Chính vì vậy, mà Thảo đã dồn tâm huyết để thực hiện album này.

                                                                    Ca sĩ Đồng Thảo tại San José. Hình do nghệ sĩ cung cấp

Đa số các ca sĩ trẻ khi thực hiện album đầu tay thường chọn dòng nhạc tình yêu đôi lứa lãng mạn. Riêng Đồng Thảo lại chọn chủ đề “Giòng nhạc quê hương” cho sản phẩm đầu tay của mình. Vì sao vậy?
ĐỒNG THẢO: Cũng có nhiều người đã hỏi Đồng Thảo câu hỏi đó. Khi đi hát ở các sân khấu địa phương hoặc các phòng trà thì Đồng Thảo hát nhạc tình. Nhiều khán giả rất thích nghe Thảo hát nhạc tình. Bây giờ khi Thảo ra mắt album đầu tiên không phải là nhạc tình thì cũng đã có một số người thất vọng. Tuy nhiên, như đã tâm sự lúc đầu, đi hát đối với Thảo chỉ là niềm đam mê và Thảo không chọn sân khấu như nghề nghiệp chính. Trong số những chương trình văn nghệ mà Thảo góp mặt, hầu như hơn một nửa là sinh hoạt hội đoàn, cộng đồng, và đa số những lần hát về lính hoặc hát về quê hương. Chính vì vậy, Thảo đã hát khá nhiều nhạc quê hương, hát cho quê hương và hát cho các anh chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thảo đã có một số vốn nhạc quê hương từ đó, cộng thêm với niềm yêu thích, nên để không quá trễ, Thảo trang trãi nỗi lòng mình với quê hương và tỏ lòng biết ơn cũng như kính trọng đến những người chiến sĩ VNCH mà trước nay Thảo đã từng gặp và đã từng hát cho họ nghe.

Lần đầu tiên tự tay đứng ra thực hiện album nhạc chắc chắn Đồng Thảo đã gặp khá nhiều khó khăn?
ĐỒNG THẢO: Đối với bản thân Thảo, ban ngày đi làm, tối về lo cơm nước cho gia đình, cuối tuần có thể phải đi hát, sức lực cũng không được dồi dào cho lắm nên quả thật thực hiện album là điều gay go với Thảo trong một thời gian không dài. Thảo rất vui và lấy làm an ủi cũng như khiêm tốn khi nhận được một số feedback không đến nỗi nào.

Thảo vừa cho biết ban ngày phải đi làm. Thế công việc chính của Đồng Thảo hiện nay là gì?
ĐỒNG THẢO: (cười) Thì cũng đi làm như mọi người thôi, cũng chỉ là cạo giấy văn phòng như mọi người thôi.

Một ngày 8 tiếng làm việc, thời gian còn lại, Đồng Thảo mới dành cho ca hát?
ĐỒNG THẢO: Dạ đúng!

Đã có nhiều lần cùng góp mặt với Đồng Thảo trong một số chương trình văn nghệ tại địa phương, Thanh Tùng nhận ra được mỗi lần bước lên sân khấu, Đồng Thảo hát rất lửa, hát bằng tất cả nỗi đam mê của mình. Tại sao yêu ca nhạc như thế mà Đồng Thảo lại không quyết định đi theo hẳn con đường chuyên nghiệp?
ĐỒNG THẢO: (suy nghĩ giây lát) Cũng không biết tại sao nữa! Có lẽ tại hoàn cảnh là nguyên nhân đầu tiên. Nguyên nhân thứ nhì là vì Thảo sinh ra trong một gia đình Bắc Kỳ khuôn khổ. Bố mẹ cũng hơi khó, cộng với quan niệm ngày xưa: xướng ca vô loài, nên với Thảo, hát chỉ là hát chơi cho vui thôi. Cho đến sau này khi mình đã hơi quá date, dù có muốn bon chen cũng đã trễ rồi. Tính Thảo lại cũng không thích bon chen nên Thảo nghĩ thôi kệ, mình cứ hát vui với đời thôi.

Dẫu biết “chỉ hát cho vui với đời thôi” nhưng album này, Đồng Thảo dự định sẽ phát hành như thế nào đến tay những khán giả yêu mến tiếng hát mình?
ĐỒNG THẢO: Thảo cũng đi hát khá thường xuyên nên Thảo nghĩ có lẽ mình sẽ có dịp được gặp gỡ khán giả trong những lần ca hát đó. Nhờ bạn bè giúp đỡ, Thảo đã hoàn tất website dongthaomusic.com. Quý vị nào yêu mến Đồng Thảo, xin mời đến với website này, hoặc gặp Thảo trong những buổi văn nghệ tại địa phương hay những show xa.

Tại sao Đồng Thảo không gởi CD để bán tại các đại lý nhạc tại địa phương?
ĐỒNG THẢO: Thanh Tùng ơi, từ lúc ban đầu, Thảo đã nói là Thảo không có ý định đi theo con đường của các ca sĩ chuyên nghiệp hoặc làm thương mại.

Sau khi nghe lại 9 ca khúc đã hát trong album nhạc quê hương đầu tay của mình, ca khúc nào làm cho Đồng Thảo hài lòng nhất?
ĐỒNG THẢO: Thật ra lý do Thảo không làm album trong những năm vừa rồi cũng vì Thảo không bao giờ cảm thấy hài lòng với chính mình. Đây cũng là một thử thách để biết khán giả yêu thích mình ở chỗ nào. Thảo đã chịu khó và rất cầu tiến. Thảo muốn nghe được feedback từ tất cả mọi người, bạn bè cũng như khán giả đã nghe album này của Thảo. Điều ngộ nghĩnh là có người thích nghe Thảo hát bài này, nhưng cũng có người lại thích nghe Thảo hát bài kia. Thảo đã biết mình có những khuyết điểm gì từ trước rồi, nên khi Thảo nghe lại, Thảo cũng đã nhận ra. Rất thú vị là Thảo nghe được feedback của mọi người. Có những chỗ mình nghĩ rằng mình dở nhưng người ta lại thích. Có chỗ mình hài lòng thì cũng có những người đồng quan điểm với mình. Riêng với cá nhân mình, Thảo không thấy có bài nào mình hát đặc sắc nhất. Tất cả đều như nhau. Thảo ước gì mình có điều kiện, sức khỏe và thời gian nhiều hơn để mọi thứ trở nên hoàn hảo hơn.

Sinh hoạt ca hát hiện nay của Đồng Thảo như thế nào?
ĐỒNG THẢO: Thảo thường xuyên ca hát tại nhiều chương trình ở địa phương cũng như một vài nơi khác gần đây như Sacramento, Stocton…Hễ bất cứ nơi nào yêu mến Đồng Thảo và mời Thảo hát thì Thảo đi ngay. Vì Thảo mê hát và thích đến với những chương trình để phục vụ cộng đồng.

Có bao giờ đi trình diễn chung với các ca sĩ tên tuổi đến từ những trung tâm ca nhạc lớn tại hải ngoại, Đồng Thảo gặp những đối xử bất công?
ĐỒNG THẢO: Thật ra nói không thì cũng không đúng. Nhưng Thảo không để ý đến những chuyện đó lắm đâu. Vì những chuyện như vậy về sau này cũng không xảy ra nhiều lắm. Đa số những chương trình Thảo tham dự, khi Thảo được hát chung với các ca sĩ lớn từ trung tâm Asia, Thúy Nga thì đó là những chương trình chọn lọc, Thảo cũng được góp phần như các anh chị ca sĩ đó. Còn trong những chương trình lớn có tới mấy chục ca sĩ, thí dụ như trong những buổi gây quỹ cho thương phế binh hay Hát cho Sài Gòn, nếu như có vì vô tình mà người ta đối xử bất công với mình Thảo cũng vui lòng bỏ qua vì Thảo nghĩ điều đó khó tránh khỏi trong những chương trình lớn.

Đồng Thảo có buồn không khi đa số khán giả vẫn dành tình cảm nồng nhiệt đối với các ca sĩ nổi tiếng từ các trung tâm hơn là đối với các ca sĩ từ địa phương?
ĐỒNG THẢO: Thảo vẫn rất tự tin. Thảo vẫn cảm thấy rằng mình sẽ chinh phục khán giả bằng giọng hát của mình. Thảo vẫn rất tự tin.

Dòng nhạc chính mà Đồng Thảo sẽ theo đuổi trong thời gian tới sẽ là…?
ĐỒNG THẢO: Dự định của Thảo trong tương lai là nếu có điều kiện, Thảo sẽ làm tiếp album thứ hai. Chắc chắn, album đó sẽ chủ yếu là dòng nhạc tình yêu. Nhiều khán giả thích Đồng Thảo hát nhạc tình, Đồng Thảo sẽ thực hiện điều đó.

Chúc Đồng Thảo luôn thành công với niềm đam mê âm nhạc của mình.
ĐỒNG THẢO: Cảm ơn Thanh Tùng.




Lê Văn Hải Tóm Lược : Tháng Tư Đen !!!

 

thang tu den 2.jpg

 

 

 BA MƯƠI SÁU NĂM TRƯỚC, NGÀY 30-4-1975 , TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH ÐẦU HÀNG HAY BỊ CỌNG SẢN BẮC VIỆT BẮT TẠI DINH ÐỘC LẬP ?

                                                               MƯỜNG GIANG

 

            Ðiện Kinh Thiên ở Hà Nội, được xây dựng từ đời Nhà Hậu Lê (1428), trên nền cũ của các cung điện thời Lý,Trần.. và trở thành Hành Cung của Nhà Nguyễn từ năm 1802, vì kinh đô của nước ta, được dời vào Huế. Năm 1873, thực dân Pháp chiếm Hà Nội, chúng đã biến hoàng cung thành một pháo đài rất kiên cố. 

            Năm 1954 tới cuối tháng 4-1975, Cộng Sản làm chủ nửa nước Từ đó Ðiện Kinh Thiên, trở thành Tổng hành dinh của Bộ Tổng Tham Mưu/Bộ đội Bắc Việt. Ðây là chỗ của các đầu sỏ Bắc Bộ Phủ, từ Hồ Chí Minh tới Lê Duẩn,Phạm Văn Ðồng.. trực tiếp lãnh đạo 8 đời Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng và Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Phùng Quang Thanh.. Tổng Tham Mưu Trưởng, bày binh bố trận mọi kế hoạch, chiến lược xâm lăng Miền Nam VN,qua cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , cánh tay nối dài của Trung Ương Ðảng Cộng Sản VN.. 

            Từ năm 1967 về sau, chiến tranh càng lúc thêm ác liệt, lan rộng tới tận miền Bắc, khiến Hà Nội phải xây thêm căn cứ D-67, vừa làm nơi trốn bom đạn oanh tạc của các chóp bu, thật vô cùng khủng khiếp do Mỹ thả. Ðây cũng là nơi họp tuyệt mật, của Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương Ðảng. Theo Võ Nguyên Giáp viết trong ‘ Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng ‘, thì từ tháng 4-1973 Bộ Thống soái tối cao, đã giao cho Bộ Tổng tham mưu, lập một tổ đặc biệt gồm Lê Trọng Tấn, Vũ Lăng, Võ Quang Hồ và Lê Hữu Ðức, nghiên cứu kế hoạch tổng tấn công cưởng chiềm VNCH. Bản dự thảo đầu tiên ra đời ngày 5-6-1973 và sau đó qua bảy lần xét duyệt, cuối cùng vào ngày 30-9-1974, mới được Bộ Chính trị nghị quyết ‘ Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức tổng tấn công Miền Nam ‘. 

            Ngày 18-12-1974 tới 8-1-1975, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng, để quyết định lần cuối cùng kế hoạch trên. Sau khi chiếm được Thường Ðức (Quảng Nam) và Phước Long, mà không thấy phản ứng nào từ Mỹ, nên ngày 9-1-1975, Quân ủy trung ương họp với quyết định mở chiến dịch 275, tấn chiếm Ban Mê Thuột, do Văn Tiến Dũng , từ Bắc vào Nam chỉ huy trực tiếp trận địa. 

            Sau khi Cao nguyên và Quân đoàn 1 của VNCH thất thủ, tại Hà Nội vào ngày 31-3-1975, Cọng Sản Bắc Việt quyết định lập Bộ Chỉ huy và Ðảng Ủy Sài Gòn, do Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng chỉ huy. Ngày 7-4-1975, Võ Nguyên Giáp ban lệnh bằng mọi cách phải đánh chiếm cho được Miền Nam. Ngày 14-4-1975, mở chiến dịch HCM. Ngày 25-4-1975, Quân Ðoàn 1 Cọng sản từ Bắc Việt vào và đúng 17 giờ ngày 26-4-1975, mở đầu cuộc tấn công vào Sài Gòn bằng 5 cánh quân. Ngày 28-4-1975, Ðại tướng Dương văn Minh thay Trần Văn Hương làm Tổng thống, để trưa ngày 30-4-1975,ra lệnh toàn dân, toàn quân VNCH buông súng đầu hàng Cọng sản. 

            Trong lúc đó Miền Nam VN đã bị Hoa Kỳ và Thế giới tự do bỏ rơi tức tưởi, phải một mình đơn độc tiếp tục cuộc chiến chống xâm lăng trước mặt. Ðồng lúc lại phải hứng chịu những đòn thù thê thảm, của bọn con buôn chính khứa, cứ tàn nhẩn đạp bừa trên xác lính, để múa rối bỉ ổi trên sân khấu chính trị. Dữ dằn nhất vẫn là bọn trí thức khoa bảng,tư xưng là thành phần thứ ba, đã đi đêm với Bắc Việt từ lâu, gồm có Hồ Ngọc Nhuận, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung, , Hồ Văn Minh, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh.. Tháng 3-1975, tình hình VNCH trở nên nguy ngập sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Ngô Công Ðức, nguyên Dân biểu Quốc hội VNCH phản bội đất nước, sống lưu vong tại Pháp, đã vội vã sang Mỹ đòi chấm dứt viện trợ, thay ngựa bằng lá bài Dương Văn Minh, để chuẩn bị đầu hàng. Ðó là lý do truất phế Trần Văn Hương sau 5 ngày làm Tổng thống, kế vị TT.Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21-4-1975. 

            Ngày 27-4-1975, đúng 17 giờ 5 phút, trong phòng khánh tiết của Dinh Ðộc Lập, đang diễn ra buổi lễ bàn giao chức vụ tổng thống VNCH, giữa Trần Văn Hương và Dương Văn Minh. Ðây là lần bàn giao tổng thống lần thứ hai xảy ra chưa đầy 10 ngày, trong chính quyền Nam VN, giữa lúc đất nước đã mất hơn hai phần ba lãnh thổ và nguy ngập nhất là nửa triệu quân Bắc Việt đã ập sát Sài Gòn.. Theo phóng viên Ðài Phát Thanh Sài Gòn, mô tả hôm đó, thấy có sự hiện diện của ba Phó Thủ Tướng Trần Văn Ðôn, Nguyễn Văn Hảo, Dương Kích Ngưỡng, Quốc Vụ Khanh Nguyễn Xuân Phong, thêm Chủ Tich Thượng Viện Trần Văn Lắm và nhiều Nghị Sĩ, Dân Biểu như Tôn Thất Ðính, Nguyễn Văn Ân, Trần Cao Ðể, Mã Sái, Hồ Ngọc Cứ, Ðinh Văn Ðệ, Huỳnh văn Cao, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu.. và cả Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện là Trần Văn Tiết. Ngoài ra còn có hơn 100 phóng viên và nhiếp ảnh tham dự, làm cho quang cảnh buổi lễ bàn giao thật sôi nổi. Vậy mà Tân Tổng Thống chỉ mới giữ chức chưa đủ hai ngày, thì đã vội vã đầu hàng giặc, khiến cho đất nước và đồng bào, suốt ba mươi sáu năm qua, sống kiếp nô lệ mới cay đắng ngậm ngùi, dưới ách thống trị siêu phong kiến của bọn đầu sỏ Cộng Sản Bắc Việt, bạo tàn độc ác. Vì thế có thể nói rằng , chưa có đời nào trong giòng sử Việt, cả nước phải chịu nhiều đau khổ như hiện tại. 

            Là người của một giai đoạn lịch sử cận đại, Tướng Dương Văn Minh, chỉ trong vòng 12 năm ngắn ngũi, đã là nhân vật chủ chốt, hai biến cố trọng đại của cận sử VN. Ngày 1-11-1963 làm sụp đổ nền Ðệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam, ra lệnh hạ sát anh em Tổng thống Ngô Ðình Diệm. Ngày 30-4-1975, lợi dụng chức vụ tổng thống và quyền Tổng tư lệnh quân đội, bắt cả nước đầu hàng đế quốc đệ tam cọng sản. Nay ngồi đọc lại lời phát biểu của TT Trần văn Hương, trong buổi lễ bàn giao hôm đó, mới thấy thương xót tận cùng cho người lính chiến VNCH, suốt đời làm thân trâu ngựa để cho bọn sâu bọ đội lột người ưởn ngực ngẩn đầu bước lên đài danh vọng làm hề

‘ Một trang sử mới được mở ra, do Ðại Tướng Dương Văn Minh viết. Ông Minh nhậm chức lúc này, không những chỉ vì thiện chí, mà còn là CAN ÐẢM TỪ BỎ GIẢI PHÁP QUÂN SỰ, vì đã chọn con đường Hòa Giải, Hòa Hợp để có Hòa Bình.. ’ ’ 

            Ðúng lúc lễ bàn giao bắt đầu, thì trên bầu trời tên phản tặc Nguyễn Thành Trung, đứa con rơi của VC bỏ lại tại Bến Tre, sống nhờ sự dưỡng dục của người miền Nam VN nhưng vô ơn bạc nghĩa, đã lái và hướng dẫn 5 phản lực A37 của VNCH bỏ lại, oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, đồng thời đặc công Bắc Việt cũng lội vào bờ, chiếm kho tiếp liệu của Usaid bỏ lại, sát chân cầu Sài Gòn. Nhiều người lúc đó, cho là Ðại Tướng Văn Minh bị bệnh tâm thần, nên mới tin tưởng là cọng sản Hà Nội sẽ ngưng bắn, trong khi chúng sắp chiếm được miền Nam. Ngây thơ hơn hết, là việc Dương Văn Minh, đêm 27-1-1975, đã mời Ngô Công Ðức lúc đó đang lưu vong bên Pháp, về làm Bộ trưởng thi hành Hiệp định Ba Lê 1973, thực chất chỉ là một tờ giấy lộn không hơn không kém. Ðại bàng tối cao mà như vậy, thì trách làm sao được những trận đánh không tên trong quẩn sử đã không có đại bàng ? 

            Hởi ôi, khi người Mỹ còn chiến đấu ở VN, với tiềm năng quân sự to lớn, nên lúc nào nếu muốn, cũng có thể tiêu diệt Bắc Việt dễ dàng. Thế nhưng trong các lần hội nghị, để tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh bằng con đường hòa bình. Trăm lần như một, người Mỹ đều bị Bắc Việt lừa bịp, tới lần cuối cùng bị TT Nixon ra lệnh oanh tac và phong tỏa Miền Bắc kinh khiếp chưa từng có. Vậy mà sau khi hết bom rơi, Hà Nội vẫn xạo dù chịu ký vào bản hiệp ước ngưng bắn tại Paris tháng 1-1973, khi mấy trăm ngàn bộ đội Bắc Việt, được Mỹ cho phép ở lại tại chỗ, để tiếp tục xâm lăng Miền Nam. 

            Trong lúc đó, khi Ðại Tướng Dương Văn Minh lên nắm quyền Tổng Thống VNCH vào chiều ngày 28-4-1975, thì đất nước đang ở vào giờ thứ 25 hấp hối. Vậy chúng ta có điều kiện gì để mà bắt cọng sản chịu ngưng bắn, để hòa hợp có hòa bình ?. Nham nhở nhất, là từ sáng ngày 29-4-1975, đài VC lên tiếng phủ nhận luôn chính phủ Dương Văn Minh mới lên tối hôm qua, đồng thời ra lệnh đánh chiếm Gia Ðịnh-Sài Gòn. 

            Sau này Trần Văn Hương có tiết lộ với tác giả ‘ L’Adieu à Sài Gòn ‘ cũng là sử gia người Pháp Jean Larteguy, rằng sự thật Dương Văn Minh cũng giống như ông, chẳng có liên lạc được ai bên phía Bắc Việt, để mà hòa hợp hòa giải. Còn Ðại Tướng Minh cho biết là mình đã tin vào lời của Vũ Văn Mẫu. Rốt cục tất cả đều là những người mù rờ voi, sau đó ảo tưởng đẻ ra kế hoạch vĩ đại đề cứu nước cứu dân, trong khi mặt thật là chẳng nắm được gì hết, ngoài bên cạnh có một đám quân sư xôi thịt xúi bậy làm càn. 

            Trong lần kỷ niệm 17 năm quốc hận vào năm 1992, tờ nguyệt san Phụ Nữ Diễn Ðàn của người Việt Hải Ngoại, số đặc biệt có đăng những bài bút chiến của Bùi Tín, Bùi văn Tùng, Nguyễn Trần Thiết, Bùi Biên Thuỳ,.. quanh hai chủ đề : ‘ Ai là người đầu tiên vào Dinh Ðộc Lập ? và Ai là người có thực quyền lúc đó, nhận sự đầu hàng của TT và Nội Các Dương Văn Minh ?’ 

            Mượn lại danh từ của những người cọng sản, trong cuộc đấu võ mồm vô duyên trên, là họ đã biếm xưng lịch sử. Vì thật ra cả bọn chẳng có ai là người đầu tiên bước vào Dinh Ðộc Lập. Mà từ xa lắc xa lơ, nơi này đã có hằng tá điệp viên cao cấp Bắc Việt như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Phạm Ngọc Thảo, Trần Ngọc Hiển, Lê Ðình Ẩn,Ðinh văn Ðệ.đã.bước chân vào rồi.. 

            Riêng việc đầu hàng cọng sản của Dương Văn Minh, thì cũng chẳng có gì là lạ, vì Ðại Tướng là Thủ Lãnh của Lực Lượng Thứ Ba, có chủ trương Phản Gián qua lớp võ Hòa Giải, để đầu hàng giặc từ lúc chưa được lên ngôi Tổng Thống vào những ngày cuối tháng 4-1975. Có khác chăng, là phải đóng kịch đầu hàng như thế nào, để sau này trước Tòa Án Lương Tâm và trên trang lịch sử, Tổng Thống Dương Văn Minh , được trắng án và tiếng thơm là người yêu nước, vì đã dám hy sinh ở lại giữa chốn ba quân, trong lúc giặc xâm lăng đã ập sát biên thành. 

            Vì vậy từ lúc nhận lời đuổi Mỹ, tới khi lên đài ra lệnh cho quân đội buông súng rã ngủ, thời gian từ trưa 29-4-1975 cho tới trưa 30-4-1975, tổng thống không hề chợp mắt. Ðây là thời gian dài nhất trong đời làm chính trị của một vị nguyên thủ cuối cùng của VNCH, tuy ngắn ngủi nhưng lại bị tai tiếng nhất trong dòng Việt Sử cận đại. 

            Trong lần kỹ niệm 30 năm (4/1975 – 4/2005), cả nước VN được sống trong thiên đàng xã nghĩa. Dịp này, trên các báo Khoa Học Phổ Thông (18) và Thế Giới Mới (631-632), xuất bản tại thành Hồ,có Phùng Bá Ðạm lớn tiếng về cái gọi ‘ Bắt Tổng thống Dương Văn Minh và Nội các Chính quyền Sài Gòn’ vào trưa ngày 30-4-1975 tại Dinh Ðộc Lập. Ðặc biệt trong những bài viết trên, không hề nhắc tới nhân vật Bùi Tín, một thời qua tập sách ‘ Sài Gòn Trong Ánh Chớp Chói Lọi Của Lịch Sử ‘ , lúc nào cũng to tiếng nhận là mình cho Dương Văn Minh đầu hàng.           

            Vậy đâu là sự thật vì Tổng Thống Dương Văn Minh giờ đã mất, còn đồng bào cả nước từ ấy đến nay, sống dưới thiên đàng xã nghĩa, sau hàng rào kẽm gai, lưởi lê, họng súng, nên chỉ dám nói viết những lời đảng dạy, để mà giữ lấy cái mạng cùi rất mong manh. Vì vậy làm sao, có ai dám nói hết lời, cho dù rất muốn nói , ngoại trừ những kẽ cò mồi được đảng dựng lên làm đối lập qua mấy thúng ‘ dân chủ ‘ nghe thấy rất tình tứ và lãng mạn. 

            Nay nhìn lại cuộc tranh giành quyền lực của các chóp bu trong đảng và thảm trạng VN sắp diệt vọng trước cuộc xâm lăng trắng trợn của giặc Tàu đỏ, Vì vậy, cho dù ai trong tập đoàn lãnh đạo của đảng cướp hiện nay, thì cũng chỉ đưa dân tộc và non sông Việt, đến hố sâu của ngu dốt, nghèo đói và trên hết là mất nước vào tay ngoại bang. Tất cả cũng chỉ vì chúng ta trong quá khứ ,đã thờ ơ với vận nước,phần lớn lại quá tin vào lãnh đạo, cho dù đó là những sâu bọ hại nước hại người .

 

‘ Ba mươi sáu năm rồi, nay quá đủ
hãy đứng lên tự bẽ gảy xích xiềng
cả tội hèn làm đất nước đảo điên
giúp cho giặc thành bạo quyền ác chúa
chôn chúng đi nhưng thây ma thúi rửa
vứt vào mồ lũ quan tướng âm binh
để cả nước quên bớt nổi bất bình
vì trót lở tin theo phường đạo tặc.. ’ ’

 

1- TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH ÐI TÌM HÒA BÌNH Ở CUỐI ÐƯỜNG HẦM : 

            Ba muoi sáu qua, kể từ ngày Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho QLVNCH buông súng rả ngủ, giúp cho cọng sản Bắc Việ, có cơ hội kết thúc sớm cuộc chiến xâm lăng Miền Nam. Cũng kể từ đó, đã có nhiều tài liệu của mọi phía liên hệ tới lịch sử, bật mí vén màn bí mật những uẩn khúc một thời, mà nguời Việt đọc tới, cứ tưởng như đang trong mộng hay đi trên mây, vì tất cả đều do bàn tay lông lá của ngoại bang dàn dựng. 

            Riêng về sự nghiệp của tổng thống cuối cùng của VNCH là Dương Văn Minh, cũng có rất nhiều nhưng chỉ có các bài viết của ký giả Pierre Denicron và ‘ Decent Interval ‘ của Frank Sneep.. là viết rõ ràng nhất. 

            Theo ‘ Những Ngày Cuối Cùng VNCH ‘ của Nguyễn Khắc Ngử xuất bản sau năm 1975 tại Canada, thì ngay khi Bắc Việt vừa chiếm được Cao Nguyên Trung Phần (QDII) ngày 24-3-1975. Nhận thấy thời cơ đả tới, Phạm Văn Ðồng lúc đó là Thủ tướng Bắc Việt, đã ra lệnh cho bọn phản tặc ăn cơm Quốc Gia thờ ma Hồ, với cái gọi Lực Lượng Thứ Ba (LLTB) ở Sài Gòn, công khai ra mặt chống đối Chính Phủ VNCH, qua trung gian Ðại Sứ Pháp ở Hà Nội là Phillipe Richer. Ðồng noí : ‘ thế nào ?bao giờ người Pháp mới hành động ? giờ đã đến lúc các bạn ông trong phe thứ ba ở Sài Gòn, ra khỏi sự dè dặt, công khai lật đổ Nguyễn VănThiệu, để lập chính phủ mới trung lập, mới có đủ tư cách nói chuyện thương thuyết với chúng tôi ‘.Ðó chính là lý do mà Ðại sứ Pháp tại Sài Gòn, J.M.Mérillon, tiếp xúc với LLTB, áp lực Mỹ thay ngựa hết TT. Thiệu tới TT.Hương và tìm đủ mọi cách đưa Dương Văn Minh lên ghế Tổng Thống 

+ Những Ngày Chuẩn Bị Lên Ngôi Vua :  

            Người Pháp hết bị Nhật rồi tới VN đánh đuổi ra khỏi Ðông Dương một cách nhục nhã và thảm bại vào năm 1955, nhưng De Gaule và thực dân lúc nào cũng hằng nuôi ảo vọng trở lại làm trùm miền đất này. Bởi vậy không lúc nào chúng bỏ quên mọi cơ hội, rình rập và chợp thời cơ để trục lợi. Ðó cũng lý do Hòa đàm Paris được tổ chức trên đất Pháp . Ngoài ra đây cũng là nơi dung thân của các chính khưa lưu vong, sào huyệt của phong trào trí thức sinh viên tôn giáo thân Cộng Sản. Vì vậy suốt cuộc chiến, Hà Nội đã lập ra tại đây 4 Tổ Tuyên truyền, thuộc thành phần MTGPMN, Phòng Thông tin Bắc Việt và Hội Việt kiều yêu nước XHCN.nhưng tất cả , đều đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương cục miền Nam, một tổ chức nối dài của Ðảng Cộng Sản . 

            Ý đồ lưu manh trên, đã được Mérillon nói một cách công khai và hãnh diện, trong tác phẩm của mình. Ðó chính là những ngày cuối tháng 4-1975, giữa lúc VNCH đang hấp hối vì Hoa Kỳ phản bội, đại bàng bỏ trốn, Việt gian đâm sau lưng, tạo dịp tốt ngàn năm một thuở, cho Pháp nhảy vào ăn ké hột hụi chót, được hay thua, cũng không bị lỗ vốn. 

            Cũng theo lời kể của vị cựu đại sứ Pháp, kể từ ngày 18-4-1975, Hoa Kỳ coi như đã dứt khoát bỏ VN, qua vai trò của đại sứ Martin. Nói chung người Mỹ nhờ Pháp thay thế, lo giùm hậu sự cho cái xác của VNCH đang hấp hối chờ chôn. Bởi vậy Mérilon đã liên hệ khắp nơi, kể cả phái đoàn của Bắc Việt trá hình là VC, do Phan Hiền cầm đầu, được Mỹ bảo vệ và cho ở làm gián điệp, nơi trại David nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất, để xúc tiến thành lập một chính phủ MA mới tại VNCH, gồm ba thành phần Quốc Gia, Cọng sản và Trung Lập, như lệnh của Phạm Văn Ðồng. 

            Ðảng đối lập tức Lực lương thứ ba lúc đó, gồm có Thủ Lãnh là Ðại Tướng Dương Văn Minh, hợp với Huỳnh tấn Mẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung.. được Mérilon tiếp kiến ngày 22-4-1975 nhưng tất cả lũ đều là bọn hề, không có một chút tiếng tăm gì trên trường chính trị lúc đó, ngoài vai trò làm tay sai phá hoại, nên bị đuổi về vì không đủ điều kiện để lọt vào mắt của Bắc Bộ Phủ. Riêng Dương văn Minh được giữ lại chờ nói chuyện với Hà Nội, qua đường dây chuyển tiếp của Toà đại sứ Pháp tại Sài Gòn-Tân Gia Ba-Bắc Việt, do Võ Ðông Giang làm trung gian. 

            Trong lúc chờ đợi, Ðại sứ Pháp dâng lên tổng thống tương lai, kế sách bình thiên hạ, trung lập hóa miền Nam, chung qui cũng vẫn là vai trò của Pháp, Trung Cộng và Nhật sẽ thay chân Mỹ làm chủ nhân ông VNCH. 

            Ðể Miền Nam mau chết, Hoa Kỳ đã quyết định cắt đứt hết mọi quân viện, khiến Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cắt đứt luôn sự liên hệ với Tòa Ðại Sứ. Bởi vậy, trong đêm 20-4-1975, thân hành đại sứ Martin phải vào Dinh Ðộc Lập, áp lưc TT phải từ chúc tức khắc, bằng tối hậu thư của CS Bắc Việt gửi Mỹ. Tóm lại TT Thiệu lúc đó chỉ có hai con đường lựa chọn, một là từ chức TT để giữ mạng, nếu không sẽ chết như TT Diệm vào ngày 2-11.1963. 

            Theo luật pháp quốc gia, cũng như Hiến Pháp và Quốc Hội qui định, nên Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay thế chức vụ TT. Nhưng cụ Trần Văn Hương, từ trước tới nay vốn nổi tiếng Diều Hâu, điếc không sợ sấm dù là sấm Chúa hay Phật, một nhân vật chống Cộng cực đoan, tuổi tuy già nhưng đầu óc tỉnh táo và cương quyết. Cho nên ông đâu phải là nhân vật tuyển của thực dân Pháp và giặc xâm lăng Bắc Việt. Bởi vậy Dương Văn Minh được mời ra cứu nước, đó cũng là bài bản tuồng tích đã được các soạn giả sắp xếp, đâu có gì lạ. 

            Ðể áp lực với tổng thống Hương nhường ngôi cho Dương văn Minh, tối 24-4-1975, cọng sản lại ra thông cáo : 

            1- Trần văn Hương bù nhìn của Nguyễn Văn Thiệu, phải ra đi.

            2-Mỹ phải rút khỏi VN.

            3-Không chấp nhận các cơ cấu của VNCH hiện tại. 

            Như vậy việc Dương văn Minh lên làm tổng thống, theo thông cáo trên, là do ý của cọng sản Hà Nội, chứ không phải do Hiến Pháp VNCH quyết định. Ý đồ cướp nước của giặc đã công khai rõ ràng như ban ngày, vậy mà Tướng Minh và phe nhóm vẫn mù tịt. Khôi hài nhất là việc ông đại sứ Pháp, cứ liên tục thúc hối Tổng thống Trần Văn Hương mau từ chức, để Dương Văn Minh kịp cứu dân cứu nước ? 

            Nhưng cụ Hương tuy tuổi già chứ không lẫm cẩm, hơn nữa lại là thầy của Dương Văn Minh, nên đâu có lạ gì tánh tình và nhân phẩm của người học trò mình. Theo ‘ Saigon et Moi’, chính cụ Hương đã trả lời thẳng với Mérilon như sau ‘ Nước Pháp luôn hái nho trái mùa, tưởng chọn ai, chứ Dương văn Minh không phải là hạng người dùng được, trong lúc dầu sôi lửa bỏng’. 

            Do các lý do trên, TT Hương không muốn trở thành một tội nhân thiên cổ đối với lịch sử, nên đã khôn khéo trao quyền quyết định cho Quốc Hội và Tối Cao Pháp Viện. Cuối cùng Tướng Minh được chỉ định làm Tổng Thống thứ tư của VNCH, vào lúc 20 giờ 45’ đêm 27-4-1975, với tỷ số 132/02. Rồi lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng khánh tiết, Dinh Ðộc Lập lúc 17 giờ 01 phút, chiều ngày 28-4-1975. Lần nửa Việt Sử cận đại lại được lật sang trang nhưng vô cùng ngắn ngủi, vì tổng thống Dương Văn Minh, chỉ nắm quyền chưa tới 48 giờ, thì mất nước. 

+ 30-4-1975 : Ngày Dài Nhất Của Tổng Thống Dương Văn Minh 

            Theo các tác phẩm dẫn thượng, thì suốt 40 giờ tham chính, TT Minh và Nội Các của ông, hoàn toàn làm việc tại Dinh Hoa Lan và dưới sự chỉ đạo kiểm soát của Ðại sứ Pháp gần như 24/24. Jean Larteguy, tác giả ‘ L’adieu à Saigon ‘, có viết rằng cụ Hương trước khi mất, cho tác giả biết, cả ông, Dương văn Minh lẫn Vũ Văn Mẫu, đều chẳng liên lạc được gì với cọng sản Bắc Việt. 

            Ðiều này cho thấy ông Dương văn Minh cùng phe nhóm, chẳng có một kế hoạch nào để giải quyết cuộc chiến, mà mặt thật chỉ là những người bị cọng sản Bắc Việt lừa bịp, phỉnh gạt mà thôi. Bởi vậy khi Dương Văn Minh vừa đăng quang xong lúc 17 giờ ngày 28-4-1975, lập tức VC cho Nguyễn Thành Trung oanh tạc phi trường, đồng thời trở mặt tức khắc. 

            Trong trại David vào đêm 28-4-1975, Võ Ðông Giang bảo thẳng với phái đoàn thương thuyết của Dương Văn Minh, gồm Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng ‘giờ tấn công đã sẵn sàng, nên Dương văn Minh chỉ có hai điều kiện : Ðầu hàng hay không Ðầu hàng ‘.Cả ba sứ giả bị giữ lại làm con tin. Sáng sớm ngày 29-4-1975, Hà Nội lập tức ra thông cáo, đòi tổng thống Minh cùng nội các từ chức, giao Miền Nam cho chúng, ban lệnh đuổi Mỹ, ngưng bắn và đầu hàng vô điều kiện. 

            Trong lúc ngoài vòng đai thủ đô, các đại đơn vị còn lại của QLVNCH đang tử chiến để ngăn giặc khắp năm cửa ô, thi Sài Gòn đã hỗn loạn vì sự trốn chạy của Mỹ bằng trực thăng trên mái nhà.Nhiều phi công đã bỏ chiến đấu, bỏ đồng đội đang tử chiến dưới đất, bay sang tận Thái Lan, trả máy bay cho Mỹ để đước tới định cư ở Hoa Kỳ. Theo W.W.Monyer trong ‘ Vietnammese Airforce (1955-1975), thì Mỹ đã thu hồi lại được 132 phi cơ đủ loại, qua lệnh của Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, lúc đó là R.Armitage và E.V Marbod. Các đại bàng lớn nhỏ lần lượt chắp cánh tung trời , từ TT Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Ðại Tướng Viên, Quang rồi Ðồng văn Khuyên, Vĩnh Lộc, Nguyễn văn Chức (công binh), Nguyễn văn Toàn.. đều ra đi. 

             Tóm lại giặc đang còn tận Biên Hòa, Bến Cát, Long Thành, Củ Chi và Long An.. thì Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư Lệnh KQ,HQ, BTL QDIII và Biệt Khu Thủ Ðô đã tan hàng, khiến Tổng Thống Minh như cua gãy càng, đành gọi bọn sâu bọ Nguyễn Hửu Có, Nguyễn Hữu Hạnh, Triệu Quốc Mạnh vào dinh, cho mang lon trở lại, để giúp ngài có đủ can đảm đầu hàng giặc. Tổng thống đã thức trọn đêm, cho tới sáng 30-4-1975, để bin một canh bài xì phé khi con tẩy của mình chỉ là lá bài lũng, để định một sự kiện lịch sử, mà thật ra khả năng của ông, vốn không bao giờ có thể vói tới được. 

            Từ 7 giờ sáng ngày 30-4-1975, Nguyễn Hữu Thái tới Chùa Ấn Quang, yêu cầu Thượng Tọa Trí Quang, dùng uy tín khuyên Dương văn Minh đầu hàng. Chính cuộc điện đàm ngắn ngủi giữa Trí Quang, Nguyễn Hữu Thái và bộ ba Minh, Mẫu và Lý Quý Chung , khiến Dương văn minh, quyết định đầu hàng giặc sau một đêm dài thức tron đủ năm canh. 

+ Nguyễn Đình Đẩu Làm Sứ Giả Hòa Bình : 

            Vào ngày 30-4-2005 tại Sài Gòn, VC có đưa bốn nhân vật liên quan tới những giờ phút cuối cùng của VNCH vào tháng 4-1975 lên TV phỏng vấn : Ðó là Nguyễn Hửu Có, Nguyễn Hửu Hạnh, Phạm Quốc Mạnh và Nguyễn Ðình Ðẩu. Trong 4 người, Có, Hạnh và Mạnh là sĩ quan cao cấp của QLVNCH. Riêng Ðẩu là một nhà nghiên cứu địa bạ rất nổi tiếng, qua các sách đã xuất bản, trong đó có tỉnh Bình Thuận xưa. 

            Qua hồi ký đăng trên ‘ Thế Giới Mới số 385 ‘, xuất bản tại thành Hồ vào năm 2000, Ðẩu cho biết mình là một trong 4 sứ giả hòa bình, vào những ngày cuối tháng 4-1975, được Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền mời vào phái đoàn, đến trại David là nơi đóng quân của Phái đoàn Bắc Việt trong phi trường Tân Sơn Nhất, để thương thuyết ngưng bắn. Ðẩu viết : 

            Ngày 29-4-1975 : Lúc 6 giờ 30 sáng, Ðẩu đi tìm Nguyễn Văn Huyền, mới được TT Minh phong chức ‘ Phó Tổng thống đặc trách hòa đàm ‘.Theo Ðẩu, lúc đó chính phủ Dương Văn Minh chưa có ai liên lạc hay tiếp xúc với phía bên kia. Do đó Ðẩu xung phong, cùng với Nguyễn Văn Diệp (Tổng trưởng kinh tế thương mại vừa mới phong), Nguyễn Văn Hạnh (Nhà thầu), Tô Văn Cang (kỹ sư). Lúc 11 giờ 15 cả bọn vào trại David bằng công xa của Bộ trưởng Diệp, có cận vệ, nhưng trống không vì phái đoàn VC đã rút đi hết. Lúc 13 giờ 30, theo lệnh Nguyễn Văn Huyền, Ðẩu viết lời tuyên bố của Chính phủ VNCH, chấp nhận điều kiện của VC đòi hỏi ngày 25-4-1975., sau đó được đọc trên đài phát thanh Sài Gòn vào lúc 14 giờ 30’. 

            Lúc 19 giờ cùng ngày, Ðẩu cùng Nguyễn Văn Huyền vào Dinh Hoa Lan gặp Tổng Thống Minh và cho biết ‘ Giải pháp chính trị chấm dứt chiến tranh ‘ đã không thể thực hiện được, vì Bắc Việt không chấp nhận trong lúc đang thắng thế quân sự.. Ngày 30-4-1975, lúc 7 giờ 30 sáng, Ðẩu lại theo Nguyễn Văn Huyền đi trên công xa của Tổng thống, tới họp tại Văn phòng Thủ tướng Vũ Văn Mẫu ở số 7 đường Thống Nhất. Theo Ðẩu, ngay trên xe lúc đó, Huyền nói với đương sự bằng tiếng Pháp ‘ Phải đầu hàng ‘. 

            Tại Phủ Thủ tướng lúc 8 giờ 30 sáng, bộ ba Minh, Huyền, Mẫu hợp kín. Lúc 9 giờ 15, cũng tại đây, TT Minh dùng điện thoại, đọc lệnh ngưng bắn đơn phương trên Ðài Phát thanh Sài Gòn và Quân Ðội. Lúc 9 giờ 30 cùng ngày, bộ ba Minh-Huyền-Mẫu và nhiều người trong nội các, dùng công xa kéo về Dinh Ðộc Lập, chờ Cộng Sản Bắc Việt tới giao quyền hành. Dịp này Ðẩu cũng tháp tùng nhưng lại bỏ về nhà, nên cho biết không chứng kiến những gì đã xảy ra tại Dinh Ðộc Lập, vào lúc 11 giờ 30 khi xe tăng Bắc Việt có mặt ở đây. 

2 – NGÀY 30-4-1975 TẠI DINH ÐỘC LẬP, TT DƯƠNG VĂN MINH ÐẦU HÀNG HAY BỊ QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT BẮT ? : 

            Theo Nguyễn Khắc Ngữ, thì sau khi cuộc di tản của người Mỹ trên mái nhà chấm dứt vào 7 giờ sáng. Lúc đó Tổng thống Dương Văn Minh cũng chưa biết là mình phải làm gì trước giờ thứ 25 của VNCH. Tuy nhiên xung quanh lại có nhiều thành phần trở cờ, thân hay là VC nằm vùng xúi giục, nhất là Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, Phạm Quốc Mạnh.. bởi vậy đã ra TUYÊN CÁO ÐẦU HÀNG, thâu băng ở Dinh Thủ tướng và được Ðài phát thanh Sài Gòn, phát lúc 9 giờ sáng, với nội dung : 

“ Ðường lối chủ trương của chúng tôi là  Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc  để cứu vãn sinh mệnh của đồng bào. Chúng tôi tin tưởng sâu-xa vào sự hòa giải của người VN với nhau, để phải khỏi phí phạm xương máu của người VN chúng ta . Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và đâu ở đó . Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Lâm thời miền Nam VN hãy ngưng nổ súng. Chúng tôi đang ở đây chờ gặp Ðại diện Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam VN, để cùng nhau thảo luận, về việc bàn giao chính quyền, trong vòng trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào .” 

            Sau đó Nguyễn Hữu Hạnh, mới được TT.Dương Văn Minh gắn lon Chuẩn tướng và phong chức Phụ tá Tổng Tham mưu mưởng QLVNCH lúc đó là Trung tướng Vĩnh Lộc. Vì tướng Lộc đã di tản hồi sáng sớm, nên Hạnh phải thay thế đọc NHẬT LỆNH , với đại ý bắt QLVNCH phải tức khắc tuân lệnh TT. Dương Văn Minh, buông súng đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt. Chính lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh, đã làm tan rã ngay QLVNCH, một Quân đội hào hùng, dũng liệt, lúc đó dù đã bị Hoa Kỳ bán đứng và bỏ rơi nhưng vẫn can trường tiếp tục chiến đấu với kẻ thù xâm lăng phương Bắc. 

             Những tướng lãnh Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Lê Minh Ðão, Lý Tòng Bá, Trần Quang Khôi, Lê Văn Thân, Ðổ Kế Giai.. người quyên sinh chết, kẽ vào tù khổ sai tại các trại giam ở tận biên giới Việt Bắc. Riêng đồng bào cả nước cũng cùng chung số phận với người linh, chịu cảnh hẳm hiu, lầm than.suốt ba mưoi sáu năm qua, dưới chế độ tham tàn bạo ngược, mà Tổng thống Dương văn Minh và phe nhóm, đã vô tình hay cố ý, lót đường, trải thảm, rước giặc vào tàn sát đồng đội, đồng bào qua danh từ hoa mỹ “ Hòa hợp, hòa giải dân tộc “. 

            Ðầu hàng lúc đó, để bom đạn khỏi tàn phá Sài Gòn và tránh bớt đổ máu cho đồng bào, vào những ngày cuối tháng tư quốc hận. Nhưng Sài Gòn và cả nước vẫn bì tàn phá hũy diệt, đồng bào cả nước vẫn đổ máu gục ngả, ngay sau khi Cộng Sản Bắc Việt chiếm được cả nước ngày 1-5-175. Chết nào cũng chết, tàn phá nào cũng là hũy diệt. Vậy tại sao không để cho QLVNCH và đồng bào chết một cách oanh liệt khi đối mặt với giặc thù, mà lại bắt họ và đất nước phải chết đau hận nhục. dưới gót giầy xâm lược của Ðế quốc Ðệ tam Cộng Sản ? 

            Có một sự kiện lịch sử cần phải viết nhớ, là lúc Dương văn Minh cùng phe nhóm vừa từ Dinh Thủ tướng về Dinh Ðộc lập, đã thấy trong sân cỏ có rất nhiều Chiến xa M48 của VNCH nhưng đã bị Tổng thống ra lệnh trở về đơn vị, để chờ đầu hàng. Cũng vì vậy mà Tăng 54 của Bắc Việt mới phách lối ủi xập được cửa sắt của Dinh Ðộc lập và những trận giặc miệng trên báo chí trong và ngoài nước của Bùi Tín, Bùi văn Tùng, Bùi Biên Thùy và mới đây thêm Nguyễn Ðình Ðẩu, Phùng Bá Ðạm, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Khang Thái.. về cái gọi là ‘ Bắt Dương Văn Minh tại Dinh Ðộc Lập ‘. 

            Ngày nay đọc ba quyển hồi ký của Võ Nguyên Giáp và  “ Bộ Chung Một Bóng Cờ “ của Tập đoàn Giải Phóng Miền Nam gồm Nguyễn Hửu Thọ, Trần Nam Trung, Trần Bạch Ðằng, NguyễnThị Bình.. viết chung, do Nhà xuất bản Chính trị của Ðảng độc quyền phát hành , qua những tiết lộ về các bí mật hậu trường chính trị miền Nam trước năm 1975. Nhờ đó ta mới biết chân tướng của Nguyễn Xuân Oánh, Phó Thủ tướng ‘ Tôi cảm thấy sống rất thoải mái và phấn chấn, vì trong mấy chục năm qua nằm vùng trong Chính quyền miền Nam, tôi cũng đã giúp Ðảng ta nhiều công lớn ‘.Còn Nguyễn Hửu Có, nguyên Tổng trưởng Quốc phòng thì nói ‘ Ðảng ta mau tuyên truyền ra hải ngoại, để Việt kiều biết tìm cơ hội cống hiến yêu nước XHCN ‘.Nhưng nhức nhối hơn cả vẫn là Nguyễn Khánh, trong lúc Miền Nam đã nguy ngập vào tháng 3-1975, chẳng những không tìm cách giúp đở, mà còn đâm sau lưng chiến sĩ , bằng cách đòi hỏi Mỹ phải chấm dứt ngay quân viện cho VNCH. Ngày 17-4-1975 khi Cộng Sản đang vây khổn Sài Gòn, thì Khánh viết ‘ The Peace must be Vietnamized- Phải VN hóa hòa bình ‘ , đăng trên tờ New York Times. Cuối cùng, khi được tin Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Khánh lại liên lạc với MTGPMN hỏi là ‘ Mình phải tiếp tục làm gì ? ‘ 

            Còn Ðại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống hai ngày cũng là tổng thống chót của VNCH, ngoài việc dùng quyền hành vua nước và tổng tư lệnh quân đội, bắt QLVNCH buông đầu hàng rã ngủ. Sau ngày 1-5-1975 còn Họp báo công bố ‘ Chính Sách Khoan Hồng Của Cách Mạng ‘ và nói ‘ Riêng cá nhân tôi rất hân hoan, vì cho tới năm 60 tuổi , tôi mới được trở thành công dân của một nước VN độc lập, tự do ‘. 

            Về chuyện gì đã xảy ra trong Dinh Ðộc Lập, vào trưa này 30-4-1975, hiện đã có rất nhiều tài liệu của cả hai phía, cũng như ngoại quốc ghi nhận. Nói chung tất cả sự kiện gần giống nhau, chỉ có khác biệt là ai cũng dành công, việc bắt TT Dương Văn Minh và Nội các VNCH, là của mình. 

+ Nguyễn Khắc Ngữ : 

            Viết trong ‘ Những ngày cuối cùng của VNCH ‘ cho biết vào lúc 12 giờ 30 ngày 30-4-1975, lúc quân Bắc Việt do Bùi văn Tùng chỉ huy, đã vào được bên trong Dinh Ðộc Lập. Về phía VNCH, tại phòng Khánh Tiết , hầu như có đủ các nhân vật thuộc phe nhóm DVM và nội các của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, tất cả đang ngồi trên ba hàng ghế chờ. Chính TT.Minh đã ra đón cán binh Bắc Việt  tận cửa Phòng Khánh Tiết và nói về việc ban giao. Nhưng chúng nhất định không chịu, đòi Dương Văn Minh phải đầu hàng VÔ ÐIỀU KIỆN và cho biết TUYÊN CÁO phía VNCH do Minh và Hạnh vừa đọc, không có giá trị. Sau cùng Lê Văn Minh nói thẳng là Dương Văn Minh đã bị bắt, thì còn gì để bàn giao. 

            Biết mình đã lở dại, nên TT Minh, Thủ tướng Mẫu đành để cho giặc áp giải tới Ðài phát thanh, ra lệnh cho QLVNCH buông súng đầu hàng vô điều kiện, đồng thời tuyên bố giải tán Chính quyền VNCH, từ trung ương trở xuống địa phương. Còn Vũ văn Mẫu thì nhân danh Thủ tướng chính phủ, kêu gọi đồng bào hoan hĩ đón giặc vào. 

+ Bùi Tín Có Bắt Được TT Dương Văn Minh ? 

            Ðây là bài viết của Bùi Văn Tùng, trả lời Thành Tín, tức Bùi Tín qua ‘ Sài Gòn trong ánh chớp chói lọi của lịch sử ‘, được VC in và phát hành năm 1978. Trong bài viết của Thành Tín, cho biết Bùi Văn Tùng, Chính Ủy Lữ Ðoàn Thiết giáp 203, đã áp giải TT Minh và Thủ tướng Mẫu, từ Dinh Ðộc Lập tới Ðài phát thanh Sài Gòn, rồi tự Tùng và Thệ viết ‘ Bản Tuyên bố đầu hàng ‘ đưa cho Tổng thống đọc nhưng Minh không muốn dùng chức vụ ‘ Tổng thống ‘, mà chi muốn xưng danh hiệu ‘ Ðại tướng ‘.Cuối cùng trước mũi súng, Tổng thống kiêm Ðại tướng Dương Văn Minh, đã phải tuân hành theo mọi mệnh lệnh. 

            Năm 1992, Bùi văn Tùng có viết một bài liên quan tới các sự kiện trưa ngày 30-4-1975 tại Dinh Ðộc Lập, Sài Gòn. Trong bài viết, Tùng cho biết sau năm 1975, Bùi Tín có làm một Bộ phim về chiến tranh VN nhưng Tùng đã tố Tín, cố tình đạo diễn, để cho mọi ngưởi tưởng lầm, chính Tín đã bắt và buộc Dương Văn Minh đầu hàng. Cuối cùng Bùi văn Tùng xác nhận Bùi Tín đã có mặt tại Dinh Ðộc Lập vào chiều ngày 30-4-1975, qua tư cách một nhà báo phóng viên. Nhưng theo Tùng, thì việc bắt Tổng Thống Minh đầu hàng vào lúc 13 giờ 15 ‘ tại Ðài phát thanh Sài Gòn, chứ không phải Dinh Ðộc Lập. Sự thật là thế nào, chỉ có TT Minh mới biết, tiếc thay ông đã không còn để trả lời. 

+Nguyễn Trần Thiết : 

            Thiết là một nhà báo Bắc Việt, cho biết vào lúc 12 giờ 12 ‘, Ðại tá CS Nam Long lúc đó đang có mặt trong Dinh Ðộc Lập, đã tiếp phái đoàn báo chí phe mình, trong đó có Bùi Tín. Thiết cho biết mình vào Dinh DL, với nhiệm vu phỏng vấn TÙ BINH VNCH có mặt tại chỗ lúc đó, gồm TT kiêm Ðại tướng Dương Văn Minh , Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu.. Theo Thiết, vì chỉ trong mấy ngày, mà VNCH đã thay đổi ba lần nội các , qua các Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Bá Cẩn, cuối cùng là Vũ Văn Mẫu, nên quá nhiều ông lớn, nên chẳng biết đâu mà mò. 

            Trong bài của Thiết, có nhắc tới việc Bùi Tín chửi Dương Văn Minh khi Tổng thống đòi bàn giao Chính quyền với MTGPMN ‘ Nhưng ông đâu có chính quyền để bàn giao ? Người ta không thể giao cái gì không có trong tay bọn Ngụy quyền cũ từ dưới lên trên đã sụp đổ hoàn toàn ‘.Nhưng Minh vẫn có cãi ‘ Các ông có thấy Sài Gòn không đổ máu ? đó là mơ ước của tôi ‘.Và đã được Bùi Tín trả lời ‘ Ðúng, Sài Gòn gần như không đổ máu, không bi tàn phá. Ðó là do sức áp đảo và khí thế thần tốc của cách mạng ‘. 

            Mai mĩa nhất là Nguyễn văn Hảo lúc đó đòi được bắt tay với bộ đội Bắc Việt và khoe chính mình đã ngăn cản không cho bất cứ kẻ nào phá hoại nguồn lợi kinh tế của nước ta. Kho bạc còn, vàng dự trữ còn. Công lao của tụi này đấy.. 

            Tóm lại, tại Dinh Ðộc Lập ngày 30-4-1975, theo Nguyễn Trần Thiết thì chính Sáu Hoàng Cao Minh Chiếm, mới là người Ðại diện chính thức của Bắc Việt, chấp nhận sự đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh và nội các. 

            Riêng Nguyễn Hửu Hạnh nhờ năm vùng, nên sau tháng 5-1975 được Cộng Sản thưởng công làm Ủy viên Ủy Ban Mặt Trận GPMN, thành phố Sài Gòn-Gia Ðịnh rồi lên Ủy viên Ủy Ban Trung Ương Mặt trận Tổ Quốc VN.

 

+ Phùng Bá Đạm :  

            Tháng 4-2005, trên báo Khoa học phổ thông số 18 xuất bản tại thành Hồ, có đăng bài ‘ Gặp lại một nhân chứng lịch sử ‘ của Nguyễn Khang Thái ‘.Bài viết ghi lại lời kể của Phùng Bá Ðạm, tự nhận thuộc Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, Quân đoan 2, là đơn vị đã vào Dinh Ðộc Lập đầu tiên ngày 30-4-1975. Theo Ðạm kể, khi xe tăng Bắc Việt còn cách Dinh Ðộc Lập khoảng 300m, thì Tô Văn Thành,thuộc Ðại đội 3, Tiểu đoàn 7, ngồi trên xe tăng trúng đạn chết. Vì vậy khi tới gần Dinh DL, xe tăng VC đã mở hết tốc lực ủi sập cổng và tiến vào sân cỏ trước dinh. 

            Nhờ các nhà báo hướng dẫn, Phạm Xuân Thệ, Phùng Bá Ðạm, Ðào Ngọc Vân.. với lá cờ của MTGPMN chạy lên lầu và gặp Nguyễn Hửu Hạnh ở tầng 2, đón đưa vào phòng khánh tiết, lúc đó đã có TT Minh và nội các đang ngồi chờ đầu hàng. Do Ðài phát thanh Sài Gòn lúc đó đã ngưng hoạt động, nên Thệ, Ðạm áp giải TT Minh và Vũ Văn Mẫu, tới nơi để lên đài, mặc dù Ðại tướng cố từ chối. 

            Trên đường tới Ðài phát thanh, ngồi trên xe Jeep do Ðào Ngọc Vân lái. Ở băng trước TT Minh ngồi với Phạm Xuân Thệ. Còn Vũ văn Mẫu, Phùng Bá Ðạm, Ðinh Thái Quang cùng 2 bộ đội, ngồi phía sau. 

            Ðài phát thanh Sài Gòn lúc đó đã bị Tiểu đoàn 8 Bắc Việt chiếm. Chính bản văn ‘ Tuyên bố đầu hàng ‘, mà TT Dương Văn Minh đọc trên đài, là do Phạm Xuân Thệ, Ðinh Thái Quang, Trịnh Ngọc Ước và Phùng Bá Ðạm đạo diễn. Lúc này Trung tá Bùi văn Tùng, Chính Ủy Lữ đoàn 203 Thiết giáp cũng vừa tới. Theo Ðạm kể, vì lúc đó trong bọn, Bùi văn Tùng có cấp bậc cao nhất, nên thay mặt quân Bắc Việt, chấp nhận lời đầu hàng của TT Dương Văn Minh, vào lúc đồng hồ chỉ 11 giờ 30 ‘, ngày 30-4-1975. 

            Kể từ giờ phút đó Sài Gòn tan hoang và thê thảm nhất là tại Tòa Ðại sứ Mỹ, nằm trên đường Thống Nhất-Mạc Ðỉnh Chi. Phủ Thủ tướng Mẫu, cả con dấu cũng lăn lóc dưới sàn gạch. Trong Bộ Quốc Phòng, Tổng Nha Cảnh Sát, Bộ Tổng Tham Mưu.. đâu đâu cũng ngổn ngang xe Jeep, súng ngắn.. mà người xưa đã đi đâu mất. 

            Từ đó người VN chịu cảnh đổi đời. Tất cả đều bị giặc Hồ gọi là “ Nguỵ, lính tráng là Ngụy quân, công chức là Ngụy quyền và đồng bào Miền Nam cũng thành Ngụy Dân “. Nhờ Tổng Thống Minh kịp thời đầu hàng, tránh cho Sài Gòn còn nguyên vẹn, kể cả 16 tấn vàng của Ngân hàng quốc gia do Nguyễn văn Hảo giữ, giúp cho Bắc bộ Phủ, thâu tóm trọn vẹn tài sản của dân chúng và công khố nhà nước một cách đầy đủ. Từ đó nhờ công cách mạng giải phóng, nên người Việt từ bắc vào nam, chịu chung cảnh người thành vượn, đói rách thảm thê, không có bút mực nào diễn tả cho trọn vẹn, phải liều mạng bỏ nước ra đi để được làm người. 

            Cũng từ đó dân chúng căm hờn, đổ hết mọi trach nhiệm cho ông Dương văn Minh, một tổng thống cuối cùng của VNCH, vì ngu muội khiến cho dân chúng lầm than dưới chế độ bạo tàn của đệ tam quốc tế, tạo cợ hội cho đảng cọng sản VN, đem đất đai biển đảo, tài nguyên quốc gia, nhượng bán cho kẻ thù không đội trời chung của Dân Tộc là Trung Cộng. Thế là cuộc bút chiến xảy ra công khai trên báo chí hải ngoại giữa hai phe thương và ghét Dương Văn Minh. 

            Người ta trách ông Minh không phải là trách ông đã ra lệnh cho QLVNCH buông súng đầu hàng giặc, nhưng trách ông, tự biết mình là người rất ấu trĩ về chính trị, từng là bại tướng của Khánh, Khiêm, Thiệu nhiều lần. Tài năng như vậy, mà dám xưng phong ra nhận lãnh trách nhiệm cứu nước trong giờ thứ 25, khiến cho nước non phải thảm nhục. 

            Người ta trách ông Minh ham sống sợ chết, không biết hành xử xứng đáng với cương vị và thân phận của mình. Ðường đường là một Ðại tướng, Lãnh tụ phe thứ ba và trên hết là Tổng thống của một nước nhưng ông Dương Văn Minh, đã cố tình làm ngơ, các gương trung liệt nghĩa khí của người xưa, gương anh hùng bất khuất của thuộc hạ trước mắt ‘ Chết để giữ tròn khí tiết, chết vinh hơn sống nhục ‘. 

            Thật vậy hoàn cảnh của tướng Minh, đâu khác gì thảm trạng của hai tướng giữ thành Bình Ðịnh, vào năm Tân Dậu 1801. Lúc đó thành bị Tây Sơn vây hãm lâm vào cảnh tuyệt lộ, trong không lương ngoài chẳng binh cứu. Trong nổi tuyệt cùng, Võ Tánh và Ngô Tùng Chu đã viết thư cho tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu ‘ Phận ta làm chủ tướng, thì đành liều chết dưới cờ. Còn tướng sĩ và dân chúng không có tội tình gì, không nên giết hại ‘.Sau đó Võ Tánh tự đốt chết, còn Ngô Tùng Châu uống thuốc độc quyên sinh. 

            Trưa 30-4-1975, khi TT Minh ra lệnh QLVNCH buông súng đầu hàng. Nhiều binh sĩ đang chiến đấu tại mặt trận đã tự tử chết, vì họ không muốn đối mặt với kẻ thù tàn ác dã man. Các tướng lãnh Phạm Văn Phú (Tư Lệnh QD2), Nguyễn Khoa Nam (Tư lệnh QD4), Lê văn Hưng (Tư Lệnh Phó QD4), Lê Nguyên Vỹ (Tư lệnh SD5BB), Trần Văn Hai (Tư Lệnh SD7BB).. kẻ trước người sau, quyên sinh để bảo toàn khí tiết cho quân đội Miền Nam nói chung và danh dự của một cấp chỉ huy, lúc sa cơ thất thế. 

            Trái lại Ðại Tướng cũng là Tổng thống Dương Văn Minh, khúm núm ra trình diện trước các tên cán binh tép riu của Bắc Việt như Bùi Quang Thận, Ðại Ðội Trưởng DD Chiến Xa, để rồi bị tên chủ nhiệm chính tri của đoàn xe tăng mang số 203 là Lê Văn Minh nạt nộ :’ các anh đã bị bắt, không có bàn giao gì cả ‘. 

            Mới đây đào hát cởi truồng một thời phản chiến Jane Fonda, vì muốn quảng cáo cho một tuỳ bút nói về chuyện tình của mình, đã lên đài CBS, nhỏ những giọt nước mắt cá sấu, để nhận tội phản quốc với Hoa Kỳ, khi ả sang Bắc Việt, vào năm 1972, ngồi trên các khẩu cao xạ chửi Mỹ. Câu chuyện khôi hài của đám con buôn chính trị thập thành cũng chẳng có gì lạ nhưng đối với người Việt tị nạn, thì lại có một ý nghĩa, vì ít ra cô đào hát còn có can đảm nhận sự sai lầm của mình. Trong lúc đó thử hỏi những kẻ từng đâm sau lưng người lính đã hy sinh cho họ, hiện nay đang sống nơi hải ngoại, có ai dám muối mặt như Fonda để nhận sai trái năm nào, dù thời gian tới 36 năm và mặt nào phản chiến, phản tặc, tới nay ai cũng đều biết. 

            Thanh niên nam nữ, miền Nam VN, thế hệ sinh từ 1900 về sau, thường mượn tư tưởng làm trai của Nguyễn Công Trứ, để làm hành trang xử thế khi vào đời : 

            ‘ Ðã mang tiếng đứng trong trời đất phải có danh gì với núi sông ‘           

            Còn ông Dương văn Minh lại là một nhân vật lớn của lịch sử, tại sao không vì lịch sử, mà lưu lại cho hậu thế cái khí tiết ‘ Nhất Tướng Công Thành, Vạn Cốt Khô ?’ 

            Thì ra con người cũng có năm bảy hạng người . 

             Ngày 29-4-1975 Dương Văn Minh làm tổng thống ra lệnh cho quân dân Miền Nam đầu hàng CS Bắc Việt, khiến cho cả nước phải sống trong cảnh cùm gông địa ngục, hận tủi trùng trùng vì giặc Hồ bán nước cầu vinh. Ngày 29-4-2008, tập đoàn lãnh đạo Bắc Việt mở cửa để đón Tàu đỏ vào VN, qua vở tuồng rước đuốc thế vận Bắc Kinh 2008. Cùng chung một ý nghĩa ‘ thể thao ‘ nhưng tại các quốc gia khác, đuốc máu của Tàu đỏ , được đón hay bị tẩy chay là do người dân quyết định. Trái lại tại VN, chính quyền gần như công khai hoan hô đuốc máu của giặc, hết lòng bảo vệ và cấm tuyệt dân chúng trong nước biểu tình phản đối. Ðau nhất là đuốc máu của giặc sẽ ra tận Hoàng Sa & Trường Sa của chúng ta, để biểu dương cho thế giới biết là VN ngày nay chỉ còn là một quận huyện của thiên triều. 

            Cũng từ cái sĩ diện trên, mà những người tuổi trẻ VN trong nước hiện này như các nhà báo Điều Cầy, Mẹ Nấm và nhiều trí thức như Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn, Luật Sư Đổ Nam Hải, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân.. và nhất là LS Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ..đã vì nhục nước, mà từ bỏ tất cả những độc quyền của đảng ban phát đang có, để dấn thân vào con đường cứu nước, tranh đấu đòi tự do dân chủ, bất chấp tù tội và sự trả thù của ngụy quyền Hà Nội. 

            Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn CS khắp nơi trên thế giới, đã hết lòng lo lắng về sinh mạng của những anh hùng nam nữ trện, cũng như đã không quên “ Cám Ơn Họ “. Trong lúc đó tới giờ phút này, dù đã 36 năm qua, những kẻ nối giáo và bán đứng dân nước cho giặc Hồ, vẫn còn nợ “ lời xin lỗi “ về hành động của mình trong quá khứ, đối với đồng bào và những người lính VNCH. 

            Non nước điêu linh mạt rệp tới độ không còn chữ nghĩa nào để mà diễn tả cho hết niềm đau nổi nhục này nhưng biết làm sao hơn ?.  

            Đó là những lý do, nên “ cực Chẳng Đã “ phải nhớ vào những giạy phút Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30-4 hằng năm.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO :

– Những ngày cuối cùng của VNCH ốNguyễn Khắc Ngử

– VN. Niên Biểu Nhân vật Chí của Chánh Ðạo

– Nam Kỳ Lục Tỉnh (IV) của Hứa Hoành

-Ðôi dòng ghi nhớ của Phạm bá Hoa

-QLVNCH trong giai đoạn hình thành của Bộ TTM.

-Những bí mật cuộc cách mạng 1-11-1963 của Lê Tử Hùng

-Hồi ký của Nguyễn Chánh Thi

-Les Guerres du VietNam của Trần văn Ðôn

-sách vở bao chí KBC,PNDD,TP

 

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

Tháng Tư Quốc Hận 2011

MƯỜNG GIANG 

 

 Lữ đoàn 3 kỵ binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn 3 trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến

 

Tác giả/Nhân vật: Trần Quang Khôi

Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh là đơn vị Thiết Giáp nồng cốt và là đơn vị khung của Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3. Lực Lượng này do Đại Tướng Đỗ Cao Trí thành lập giao cho tôi tổ chức huấn luyện và chỉ huy từ tháng 11 năm 1970 dể phục vụ chiến trường Cam Bốt.

Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 là một lực Lượng liên binh gồm nhiều binh chủng hợp đồng chiến dấu trên chiến trường. Lúc cao điểm, quân số và khả năng tác chiến của lực lượng này tương đương với một sư đoàn cơ giới. Đây là một lực lượng cơ động cao, hỏa lực mạnh, thuộc Quân Đoàn 3, khi thì can thiệp vàạ khu vực hành quân của Sư Đoàn 25 Bộ Binh, khi thì tác chiến trạng khu vực hành quân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Trong Vùng 3 Chiến Thuật, chỗ nào “nặng” là có mặt Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3. Thời Đại Tướng Đỗ Cao Trí là tư lệnh Quân Ðoàn 3 kiêm tư lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, đây là lực lượng chủ lực của Quân Đoàn, luôn luôn chủ động và thường xuyên hoạt dộng trên chiến trường ngoại biên Cam Bốt.

http://hung-viet.org/blog1/wp-content/uploads/2011/03/quandoivnch-thietgiap-300x225.jpg

Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 đã từng quần thảo nhiều với các Công Trường (tương đương với sư đoàn) 5, 7 và 9 của Cộng Sản Bắc Việt ở Peang Cheang, Chup, Chlong, Dambe, Krek, Snoul, Đức Huệ, An Điền, và Rạch Bắp. Lực lượng Xung Kích Quân Ðoàn 3đã từng cứu Chiến Đoàn 5 Biệt Động Quân của Đại Tá Đương ở Chlong và Dambe hồi tháng 2 và 3 năm 1971 khi rút ra Quốc Lộ 7. Sau đó, lại tiếp cứu Chiến Đoàn 8 ở Snoul rút về Lộc Ninh vào tháng 6 năm 1971. Và rồi giải vây cho Tiểu Đoàn 30 Biệt Ðộng Quân của Thiếu Tá Võ Mộng Thùy ở căn cứ Alpha trên mặt trận Krek tháng 11 năm 71.

Cuối năm 1971, tôi rời Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh. Trong hai năm từ 1972 đến 1973 tôi đi du học. Không bao lâu, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 giải tán lữ đoàn này, đồng thời ông cũng giải tán Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3. Khi trận An Lộc ở tỉnh Bình Long bùng nổ dữ dội vào mùa Hè 1972, lực Lượng Thiết Giáp của Quân Ðoàn 3 hoàn toàn bị tê liệt.

Khi tôi trở về nước, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Trung Tướng Nguyễn Văn Minh yêu cầu tôi trở về lại Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh. Ngày 7 tháng 11/1973 tôi tiếp nhận lữ đoàn và đề nghị với Tướng Thuần tổ chức lại Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 theo mô hình tổ chức của Tướng Đỗ Cao Trí. Tướng Thuần cho tôi toàn quyền hành dộng. Tôi gom Thiết Giáp lại. Bấy giờ mình đã có chiến xa M-48. Tôi thay đổi tổ chức, mỗi chi đội có 3 chiến xa M-48, vừa nhẹ nhàng, vừa linh hoạt và hữu hiệu hơn một chi đội 5 chiến xa.

Mỗi chi đoàn 11 chiến xa M-48 thì bây giờ được tái tổ chức với 4 chi đoàn với 44 chiếc và 3 xe chỉ huy. Một thiết đoàn chiến xa M-48 thì được tổ chức theo quân đội Mỹ sẽ gồm 54 chiếc. Vì vậy tôi có dư ra 7 chiến xa M-48 làm dự trữ. Tôi cho cơ động hóa Tiểu Ðoàn 61 Pháo Binh với các khẩu đại bác 105 ly, thuộc Quân Đoàn 3 bằng cách dùng xe xích M-548 (xe chở đạn thiết giáp) cho quân cụ biến cải để chở đại bác 105 ly. Ðồng thời huấn luyện pháo thủ cách vận chuyển và hạ súng tác xạ.

http://hung-viet.org/blog1/wp-content/uploads/2011/03/quandoivnch-thietgiap2-300x175.jpg

Được tăng phái Liên Đoàn 33 Biệt Ðộng Quân, Tiểu Đoàn 46 Pháo Binh với các đại bác 155 ly, Tiểu Đoàn 61 Pháo Binh (105 ly) và Tiểu Đoàn 302 Công Binh, tôi tái tổ chức Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 trở thành 3 chiến đoàn Thiết Giáp. Lực lượng ngày gồm có Chiến Đoàn 315, Chiến Đoàn 318 và Chiến Đoàn 322. Các Chiến Đoàn đều có tổ chức giống nhau. Sau khi kiện toàn tổ chức, huấn luyện chiến đấu hợp đồng binh chủng, học tập chính trị và giáo dục tư tưởng, tôi báo cáo lên Tư Lệnh Quân Đoàn 3 là chúng tôi đã sẵn sàng.

Ngày 2 tháng 4/1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 lại xuất quân, bất thần tiến vào vùng liên ranh Củ Chi-Trảng Bàng, đánh giải tỏa áp lực dịch chung quanh đồn Bò Cạp ở phía Bắc Củ Chi và đồn Chà Rày thuộc Chi Khu Trảng Bàng. Chiến Đoàn 315 đập tan Tiểu Ðoàn Tây Sơn của Việt Cộng (họ thuộc Trung Đoàn 101 địa phương). Cuối tháng 4/1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 đánh bại hoàn toàn Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, giải vây cứu Tiểu Ðoàn 83 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng ở Căn Cứ Đức Huệ. Ngoài ra, lực lượng xung kích còn yểm trợ cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh phản công chiếm lại An Điền, Căn Cứ 82 và Rạch Bắp tháng trong tháng 7 và 8 của năm 1974.

Tại mặt trận phía Bắc tỉnh Bình Dương, lực lượng xung kích tiêu diệt Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn Phú Lợi vào tháng 2/1975. Rồi tham gia hành quân ở các chiến trận Gò Dầu Hạ, Dầu Tiếng, Khiêm Hạnh vào tháng 3 năm 1975 để yểm trợ cho Sư Ðoàn 25 Bộ Binh tấn công lên phía Bắc Tây Ninh. Và đặc biệt từ ngày 11 tháng 4/1975 đến ngày 25 tháng 4/1975, trong 14 ngày đêm, chính lực lượng xung kích này đã chận đứng mũi tấn công của 1 quân đoàn Cộng Sản Bắc Việt ở Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây và đánh giải vây tiếp cứu Chiến Đoàn 52 Bộ Binh.

5 NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CUỘC CHIẾN

Tình hình vào hạ tuần tháng 4/1975 biến chuyển dồn dập. Áp lực Cộng Sản ở mặt trận phía Đông ngày càng nặng. Tôi được Quân Đoàn tăng cường Trung Đoàn 8 của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực Lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây. Lúc đó, Không Quân VNCH thả hai trái bom Daisy Cutter gây thiệt hại nặng cho quân Bắc Việt. Ở Saigạn có âm mưu lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. Phi trường Biên Hòa dóng cửa. Ngày 20 tháng 4/1975 Sư Ðoàn 18 Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo rút bỏ Xuân Lộc về Long Bình. Ngày 21 tháng 4/1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức.

Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung Tướng Charles Times, Phụ Tá Đại Sứ Martin ở Saigon, đại ý nói: “Thưa Trung Tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các sư đoàn Cộng Sản ở đây thì cũng là lúc Quốc Hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm cho Quân Lực VNCH không. Tình hình gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ Quốc Hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho quân đội chúng tôi đi nữa thì cũng đã quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin trung tướng giúp cho gia đình tôi được di tản dến một nơi an toàn…”

Sau khi Sư Ðoàn 18 Bộ Binh được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25 tháng 4/1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom-Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3, lúc ấy được lệnh rút về Biên Hòa dưỡng quân. Trung Đoàn 9 của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh thì được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 trở thành lực Lượng trừ bị cho Quân Đoàn.

http://hung-viet.org/blog1/wp-content/uploads/2011/03/tranquangkhoi.jpg

Trần Quang Khôi

Về tới Biên Hòa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25 tháng 4/1975, có tin lực lượng địch đang tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân Đoàn, tôi liền phái Chiến Đoàn 322 tăng cường một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngã Ba Lạng Thành-Trường Thiết Giáp. Chiến đoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, thì chạm địch nặng và giao trang dữ dội với chúng đến khuya, bắn cháy 12 chiến xa T-54 và buộc chúng phải rút vào bên trong.

Ngày 29 tháng 4/1975 có lệnh mới của Quân Đoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 được tăng phái thêm Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Yểm trợ hỏa lực trực tiếp gồm có Tiểu Đoàn 46 và Tiểu Ðoàn 61 Pháo Binh.

Mười hai giờ trưa ngày 29 tháng 4/1975, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Long Bình. Chỉ có tướng Toàn, Đảo và tôi. Tướng Toàn chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho Sư Ðoàn 18 của tướng Đảo phòng thủ khu vực Long Bình và kiểm soát xa lộ Biên Hòa. Kế đó ông ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 của tôi phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa và đặt lực Lượng Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân của Tiểu Khu Biên Hòa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này bị bắt vào trại cải tạo, tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực Sư Ðoàn 25 Bộ Binh ở Củ Chi đã bị Việt Cộng chiếm. Sư Ðoàn 25 tan rã và Tướng Lý Tòng Bá bị địch bắt. Tướng Nguyễn Văn Toàn đã giấu tôi và Lê Minh Đảo tin xấu này. Ông chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn.

Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất Ðại Tá Hiếu (Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ Binh) với giọng rung rung xúc động. Hiếu báo cáo: “Quân địch đang tấn công Trảng Bom và Trung Đoàn 43 đang rút quân về hướng Long Bình.” Mặt cau lại, Toàn nổi giận la Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ. Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Đông Biên Hòa ở Trảng Bom của Sư Ðoàn 18 khó có thể cầm cự nổi vì họ đã bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc và đã không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Đảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: “Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh.”

Trở về Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3, tôi liền họp các vị sĩ quan lữ đoàn trưởng, liên đoàn trưởng, chiến đoàn trưởng và các đơn vị yểm trợ. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Hòa kể từ 15 giờ 00 ngày 29 tháng 4/1975, chỉ thị cho các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân chung quanh thị xa Biên Hòa bố trí tại chỗ, ở đâu thì đóng ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Hòa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Để phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa. Tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 như sau:

  • Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù bố trí trong phi trường Biên Hòa, giữ mặt Bắc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3.
  • Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến: Một tiểu đoàn bảo vệ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3, một lữ đoàn bố trí phòng thủ mặt Nam của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn.
  • Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù: Tổ chức phân tán thành nhiều tiểu đội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới và Cầu Sắt Biên Hòa, đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố.
  • Chiến Đoàn 315: Bố trí án ngữ từ ngã tư Lò Than đến ngã tư Lò Than (gần trại Ngô Văn Sáng).
  • Chiến Đoàn 322: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến cổng phi trường Biên Hòa.
  • Chiến Đoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Hòa đến Cầu Mới Biên Hòa.
  • Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực.
  • Bộ Tư Lệnh Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh được đặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn 3.

Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29 tháng 4/1975, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh tư lệnh Quân Đoàn, thình lình chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống bãi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. Thiếu Tá Cơ, phi công, chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long Bình, Cơ đưa Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu. Nơi đó anh thấy có các Tướng Lam và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu dánh cá ra Hạm Đội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ý vì đơn vị trực thăng của anh giờ này không còn ở Biên Hòa nữa.

Lúc 17 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một vòng quan sát tình hình trong và chung quanh thành phố Biên Hòa. Tình hình chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt dầu xâm nhập vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố từ hướng phi trường, đụng độ với lính Biệt Cách Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh bắt dầu, một cánh quân Biệt Động Quân của Chiến Đoàn 315 cũng chạm súng với địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Địch bám sát vào tuyến phòng thủ mặt Bắc và Đông Bắc của quân ta. Hai bên bám sát trận địa nằm cách nhau từ 10 đến 15 mét. Cho dến giờ phút này, các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn chiến đấu vững vàng và tự tin. Không có tình trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy lui địch ra xa tuyến phòng thủ.

Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Đổng ở Saigon. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không liên lạc được. Tôi nóng lòng chờ lệnh của Saigon. Tôi tự hỏi Đại Tướng Dương Văn Minh, tân Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội có giải pháp gì không? Có lệnh gì mới cho chúng tôi không?

Đến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo. Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: “Tôi là Trung Tướng Có đây. Tôi đang ở bên cạnh Đại Tướng, anh cho chúng tôi biết tình hình ở Biên Hòa như thế nào?”

“Thưa Trung Tướng, tôi giữ thị xã Biên Hòa, Đảo giữ Long Bình, Toàn đã bỏ chạy, phi trường Biên Hòa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Đông Biên Hòa.”

Một, hai, rồi ba phút trôi qua, ở dầu giây, Tướng Có nói tiếp: “Đại Tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai để Đại Tướng nói chuyện với bên kia được không?” Tôi trả lời không do dự, “Được, tôi có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai.” Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Đại Tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: “Lệnh của Đại Tướng cho anh: Chỉ huy phòng thủ bảo vệ Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng ngày 30 tháng 4/1975. Chúc anh thành công.” Tôi lập tức nhận lệnh.

Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xã Biên Hòa. Chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp gồm bộ đội và chiến xa ở cấp trung đoàn. Lực lượng này từ Ngã Ba Hố Nai-Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3. Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Địch quân rút lui.

Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30 tháng 4/1975, Tướng Lê Minh Đảo gọi tôi ở đầu máy PRC-25: “Báo cho anh hay, tôi đã bị quân địch tràn ngập, Long Bình đã bị chúng chiếm.” Tôi liền hỏi: “Anh hiện giờ ở đâu? Có cần gì ở tôi không?” Đảo đáp: “Tôi hiện ở gần Nghĩa Trang Quân Đội, đang rút về hướng Thủ Đức.” Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Đảo vô cùng. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Đảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, với Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 của tôi là lực lượng cơ dộng số một, và Sư Ðoàn 18 Bộ Binh của Đảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Đoàn. Sau này ở trong tù, bọn cán bộ Cộng Sản rất để ý đến hai chúng tôi vì đã gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống Cộng điên cuồng nhất.

Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, quân Bắc Việt lại pháo kích Biên Hòa. Lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt diểm Biên Hòa sau khi đã chiếm được Long Bình. Tôi chuẩn bị tung cả 3 chiến đoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định. Nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện với một đoàn chiến xa dẫn đầu với bộ đội theo sau, thì liền bị Chiến Đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn. Quân Bắc Việt bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ dó, thị xã Biên Hòa trở nên yên tĩnh.

Đúng 08 giờ 00 sáng ngày 30 tháng 4/1975, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các lữ đoàn trưởng, liên đoàn trưởng, chiến đoàn trưởng và các đơn vị trưởng yểm trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận tình hình ở mặt trận, tình hình trạng thành phố Biên Hòa. Áp lực địch bên ngoài không còn nữa. Chung quanh bên ngạài thị xã, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích. Bên trong thành phố vắng vẻ. Đặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Hòa. Không có tình trạng dân chúng xuống dường hô hào ủng hộ Cộng Sản. Tôi vui mừng khi thấy tinh thần của chiến sĩ trong quân đội rất tốt, không có tình trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có tình trạng hỗn loạn trong thành phố. Các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh.

Lúc 08 giờ 30 ngày 30 tháng 4/1975, tôi kết luận buổi họp: “Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực Cộng Sản Bắc Việt đang tập trung tấn công Saigon. Rõ ràng chúng bỏ Biên Hòa, dồn lực lượng đánh vào thủ đô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 về tiếp cứu Saigon.” Tất cả các đơn vị trưởng ủng hộ quyết định này của tôi.

Tôi liền ban hành lệnh hành quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 tiến về Saigon theo kế hoạch sau đây: Lấy dường xe lửa Biên Hòa-Saigon và xa lộ Đại Hàn làm hai trục tiến quân chính.

  • Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Đoàn) do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Saigon. Đến ngạại ô phía Bắc Saigon, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh.
  • Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Liên chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng về Saigon. Đến ngoại ô phía Bắc Saigon, dừng lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh.
  • Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh cùng Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân: Bố trí yểm trợ quân Biệt Cách Dù, Nhảy Dù, và Thủy Quân Lục Chiến khi họ rời vị trí phòng thủ, rút an toàn qua Câu Mới Biên Hòa trước. Sau đó, lấy xa lộ Đại Hàn làm trục chính, tiến về Saigon theo thứ tự như sau: Chiến Đoàn 315 do Trung Tá Đỗ Đức Thảo chỉ huy sẽ đi trước, đến ngoại ô Bắc Saigon, bố trí bên này cầu Bình Triệu, chờ lệnh. Chiến Đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy sẽ đi sau. Chiến Ðoàn 315, đến ngoại ô Bắc Saigạn, bố trí phía sau Chiến Ðoàn 315, chờ lệnh.
  • Chiến Đoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy sẽ đi sau cùng, đến Saigon, bố trí sau Bộ Tư Lệnh và đơn vị yểm trợ để chờ lệnh. Trước khi lên trực thăng chỉ huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Hòa trong vòng trật tự, trang phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Cam Bốt. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30 tháng 4/1975.

Tôi lên trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn dạ Thiếu Tá Cơ lái. Chiếc trực thăng chỉ huy thứ hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Hòa, quan sát thấy tình hình bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Saigon. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi dang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo vì không liên lạc được với Saigon, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Đô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó thì dột nhiên Thiếu Tá Cơ hỏi tôi: “Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi.” Tôi liền hỏi lại: “Còn anh thì sao?” Thiếu Tá Cơ đáp, “Khi dưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với Biên Hòa.” Tôi đáp, “Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đã quyết định việc này từ lâu rồi.”

Chúng tôi bay về hướng Gò Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân Cộng Sản Bắc Việt như những con rắn dài trên xa lộ Biên Hòa và trên Quốc Lộ 13 tiến vô Saigon. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phủ Đổng. Tôi vội đi vào văn phòng tìm sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn phòng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có một trung úy mang huy hiệu Quân Đoàn 3. Tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngõ Bắc Saigon để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở dầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt dạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay Tân Sơn Nhất. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima.

Trong khi tôi đang lúng túng với việc liên lạc cùng Biệt Khu Thủ Ðô và Bộ Tổng Tham Mưu, thì thình lình tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nhìn đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút.

Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của mình và xem nhiệm vụ của Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự dộng buông vũ khí theo lệnh Tổng Thống. Tôi không có gì để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến, và đã cùng tôi giữ tròn khí tiết của người chiến sĩ đối với quân đội và tổ quốc.

Trần Quang Khôi 

Ngày Cuối Cùng: Ngày Thứ Tư, 30 Tháng 4

Trần Đông Phong

Từ trên xuống: (1) Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu bị bộ đội CS áp giải từ Dinh Độc Lập sang đài Phát thanh Sài Gòn đọc lệnh đầu hàng. (2) Dương Văn Minh đang ngồi giữa đám bộ đội trước khi đọc lệnh đầu hàng tại Đài Phát thanh Sài Gòn. Người mặc thường phục đứng bên tay phải là sinh viên Nguyễn Hữu Thái. (3) Đại sứ Graham Martin nói chuyện với báo chí trên chiến hạm Blue Ridge vào buổi sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975.


http://i5.photobucket.com/albums/y195/30thang4/duongvanminh.jpgCuộc di tản vẫn tiếp tục trong đêm cho đến rạng ngày 30 tháng 4, tuy nhiên con số người Mỹ còn lại ở Sài Gòn vẫn còn nhiều. Vào lúc 1 giờ 30 sáng, Ngoại trưởng Kissinger ra lệnh cho Tòa đại sứ Mỹ phải kết thúc việc di tản vào lúc 3 giờ 45 sáng, giờ Sài Gòn, và Đại sứ Martin phải ra đi trên chuyến trực thăng trước chuyến bay cuối cùng. Tuy nhiên đến 3 giờ 45 sáng, vẫn còn có trên 400 người tại toà đại sứ Mỹ trong đó có cả Đại sứ Martin. Vào lúc 4 giờ 20 sáng, Đô Đốc Gayler đã quyết định kết thúc cuộc di tản và tất cả các phi công đều nhận được lệnh như sau: "Đây là lệnh của Tổng Thống Hoa Kỳ và lệnh này phải được chuyển lại bởi bất cứ phi công trực thăng nào liên lạc được với đại sứ Graham Martin. Chỉ có người Mỹ mới được phép di tản và đại sứ Martin phải đáp chuyến trực thăng đầu tiên. Phi cơ chở đại sứ Martin phải phát đi ám hiệu "Tiger, Tiger, Tiger" để báo cho biết rằng ông Martin đã được di tản."

Vào lúc 4 giờ 58 sáng ngày 30 tháng 4, Đại sứ Martin "bị hộ tống" lên trực thăng mang tên là Lady Ace 09, trên chiếc trực thăng này một phân đội Thuỷ Quân Lục Chiến đã được lệnh bắt giữ ông đại sứ để áp tải lên phi cơ nếu ông ta còn chống lại lệnh di tản. Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã cố tình cưỡng lại lệnh của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhưng ông lại là ân nhân của một số người Việt Nam vì nếu không có ông thì họ không có may mắn được di tản ra khỏi Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975. Theo Ngoại Trưởng Kissinger thì Đại sứ Martin đã phối hợp di tản được 6,000 người Mỹ và trên 50,000 người Việt Nam ra khỏi Sài Gòn.

Sau khi Đại sứ Martin bị hộ tống lên trực thăng, trong toà đại sứ lúc đó vẫn còn gần 200 người Mỹ mà trong số đó có 170 người là lính Thuỷ Quân Lục Chiến có nhiệm vụ bảo vệ cho chiến dịch di tản. Cuộc di tản vẫn tiếp tục cho đến đúng 7 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì chiếc trực thăng CH-46 cuối cùng mới rời khỏi sân thượng cuả Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn mang theo Trung Sĩ Juan Valdez, người lính Mỹ và cũng là người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.

Chuyến phi cơ trực thăng cất cánh khỏi sân thượng của tòa đại sứ Mỹ vào hồi 7 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 này đánh dấu sự kết thúc của chính sách "ủng hộ miền Nam Việt Nam chiến đấu chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản trong vùng Đông Nam Á" của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ qua 5 đời tổng thống: Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford trong hơn 20 năm. Đối với người Mỹ, cuộc chiến tranh đã chấm dứt nhưng đối với một số người Việt Nam thì cuộc chiến vẫn chưa tàn. Vào ngày 30 tháng 4, có một số chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tiếp tục chiến đấu dù rằng trong vô vọng.

Dương Văn Minh Ra Lệnh Đầu Hàng

Vào lúc 10 giờ 24 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, "Tổng Thống" Dương Văn Minh đã đọc nhật lệnh trên đài phát thanh Sài Gòn ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân thuộc Quân Lực VNCH phải buông súng đầu hàng. Ông Dương Văn Minh đã tuyên bố như sau:

"Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu thì ở đó.

"Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây đang chờ gặp Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào."

"Thủ Tướng" Vũ Văn Mẫu cũng đọc lời kêu gọi mọi tầng lớp dân chúng hãy chào mừng "ngày Hoà Bình cho Dân tộc Việt Nam" và ra lệnh cho mọi công chức phải trở về nhiệm sở. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tổng Tham Mưu Phó Quân Lực VNCH nhân danh Trung Tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham Mưu Trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh cuả "Tổng Thống" Dương Văn Minh về vấn đề hưu chiến.

Dương Văn Minh cũng đưa ra lời kêu gọi những "người anh em bên kia" hãy ngưng mọi hoạt động gây hấn và ông ta nói rằng chính quyền của ông đang chờ đợi được gặp gỡ Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam để cùng thảo luận về "buổi lễ bàn giao quyền hành và để tránh đổ máu cho nhân dân." Dương Văn Minh không hề đề cập đến cũng như không đưa ra lời kêu gọi nào với Cộng sản Bắc Việt, lúc đó dường như ông cố tình làm như không biết việc chính Cộng sản Bắc Việt mới là những người lãnh đạo hàng ngũ những "người anh em bên kia" của ông.

Ông Dương Văn Minh chỉ kêu gọi những "người anh em bên kia" trong cái gọi là "Ch&iacu
te;nh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam," chắc là ông ta đã nghĩ đến những người lãnh đạo trong cái chính phủ này như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình v.v, nhưng ông ta không biết rằng những người mà ông ta kêu gọi đó không hề có một quyền hành nào, còn những kẻ có quyền hành lúc đó như Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng, ba ủy viên Bộ Chính trị đại diện cho Hà Nội đang thực sự nắm toàn quyền trong chiến dịch Hồ Chí Minh thì ông ta không có đả động tới.

Thượng Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân Bắc Việt và đồng thời cũng là Tư Lệnh Chiến trường Miền Nam Việt Nam lúc đó đang nghe lời kêu gọi cuả Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài Gòn. Ngay sau đó, thay vì tiến về Sài Gòn để "bàn giao" như lời kêu gọi cuả Dương Văn Minh, Văn Tiến Dũng đã ra lệnh cho "tất cả các quân đoàn, các vùng quân sự và mọi đơn vị các cấp phải tiến càng nhanh càng tốt đến các mục tiêu đã được chỉ định ở sâu trong các đô thị cũng như các tỉnh; kêu gọi địch quân đầu hàng, giao nạp vũ khí và bắt giữ tất cả các sĩ quan từ cấp thiếu tá trở lên; đập tan ngay tức khắc mọi mưu toan kháng cự."

Ông "Tổng Thống" Dương Văn Minh không thể nào biết được rằng trưa ngày hôm đó, Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương đã gửi điện văn số 516/TV ra lệnh cho các cấp lãnh đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh phải "bắt địch đầu hàng vô điều kiện":

"Vấn đề hiện nay là bắt địch đầu hàng không điều kiện chứ không phải cử người thương lượng với địch để ngưng bắn tại chỗ như có nơi đã làm.

Những nơi địch chịu đầu hàng: ta kéo quân vào bắt địch, hạ vũ khí và tước vũ khí của chúng, giải tán quân đội và bộ máy chính quyền của địch, phát động quần chúng truy kích, tiêu diệt bọn gian ác và phản động còn ẩn nấp chống lại ta.

Những nơi địch không chịu đầu hàng: ta cần phát động quần chúng nổi dậy, kêu gọi binh sĩ khởi nghĩa kết hợp với mũi tấn công đánh vào các điểm then chốt của địch, tiêu diệt những đơn vị ngoan cố chống lại ta, buộc chúng phải đầu hàng vkhông điều kiện.

Phải đặc biệt chú ý chiếm lĩnh, khống chế các sân bay không để chúng sử dụng các máy bay để chống lại ta và tẩu thoát."

Ngoài bức điện văn nói trên, chính Võ Nguyên Giáp thay mặt cho Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương cũng đã gửi bức điện văn số 151 ngày 30 tháng 4 năm 1975 gửi cho "anh Sáu" tức là Lê Đức Thọ, "anh Bảy" tức là Phạm Hùng, "anh Tuấn" tức là Văn Tiến Dũng, "anh Tư" tức là Trần Văn Trà và "anh Tấn" tức là Lê Trọng Tấn nội dung như sau:

"Theo ý kiến của Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương,

1. Việc chỉ đạo Uy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định (kể cả những mệnh lệnh, tuyên bố) giao cho Trung Ương Cục và Quân Uy Miền phụ trách.

2. Hôm nay sẽ ra một lời kêu gọi của Bộ Chỉ Huy Quân Giải Phóng. Chúng tôi đang dự thảo và cho phát.

3. Có thể dùng Dương Văn Minh để kêu gọi các đơn vị của địch hạ vũ khí, nhưng không phải với tư cách Tổng thống mà chỉ với tư cách một người đã sang hàng ngũ nhân dân.

4. Sẽ tuyên truyền lớn về thắng lợi giải phóng Sài Gòn-Gia Định, nhưng nhấn mạnh cuộc chiến đấu đang tiếp tục nhằm hoàn toàn giải phóng miền Nam. Đã chỉ thị chuẩn bị ngày mừng chiến thắng, sau khi hoàn thành việc giải phóng miền Nam sẽ tổ chức thống nhất cả nước. Anh Tố Hữu sẽ có điện cho các Anh.

5. Mười một giờ đã nhận được tin ta cắm cờ trên Dinh Độc Lập.

Gửi các anh lời chúc đại thắng lợi.

Các anh Bộ Chính Trị rất vui, rất vui …

VĂN”

Như vậy thì trước khi xe tăng của Cộng sản Bắc Việt ủi cổng sắt- đã được mở rộng- để vào chiếm Dinh Độc Lập, nơi mà ông "Tổng Thống" Dương Văn Minh cùng với các ông "Phó Tổng Thống" Nguyễn Văn Huyền, "Thủ Tướng" Vũ Văn Mẫu cùng với một số nhân viên trong "nội các" của họ để chờ "bàn giao" cho Cộng sản thì các giới lãnh đạo ở Hà Nội đã quyết định không coi ông như là "tổng thống" mà chỉ là "một người đã sang hàng ngũ nhân dân," tức là một kẻ đầu hàng, "đầu hàng không điều kiện" như đã nói trong văn thư số 505 cùng ngày. Các sĩ quan Cộng sản cấp dưới cũng đã nhận được lệnh này cho nên đối với họ thì những người tự nhận là tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng v.v. đang ngồi trong Dinh Độc Lập chỉ là những "phó thường dân," những kẻ đầu hàng mà thôi.

Bởi vậy, vào lúc 12 giờ 15 trưa ngày 30 tháng 4, khi chiến xa mang số 879 của Lữ Đoàn Thiết Giáp 203 cuả quân đội Cộng sản Bắc Việt ủi sập hàng rào sắt tiến thẳng vào Dinh Độc Lập, "Tổng Thống" Dương Văn Minh "thấy vị sĩ quan Cộng Sản đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của Quân đội Nhân Dân miền Bắc nên ông Minh tưởng rằng đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp:

"…Thưa Quan Sáu, tôi đã chờ ông từ ban s&aacu
te;ng để trao quyền cho ông."

Viên sĩ quan Bắc Việt chỉ huy đoàn chiến xa này là Thượng Tá Bùi Tùng đã dùng danh từ "mày tao" xẳng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:

"Mày dám nói trao quyền hả? Mày chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mày làm gì có quyền nào để trao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng này đây.

Ngoài ra tao xác nhận với mày là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mày không được ngồi xuống…!"

Người thuật lại những lời đối thoại trên là cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, một người rất thân cận với ông Dương Văn Minh. Vào năm 1963 ông là Thiếu Tá ngành Thiết giáp, đã theo Tướng Dương Văn Minh đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm và đã được Dương Văn Minh tin cậy cử vào phái đoàn đi vào Chợ Lớn "đón" ông Diệm. Trên đường về Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã bị giết trên xe thiết vận xa M-113 và từ đó cho đến nay, có nhiều người vẫn còn có nghi vấn là ông Dương Hiếu Nghĩa có thể là một trong những người có trách nhiệm trong cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chắc chắn rằng ông Dương Hiếu Nghĩa không phải là kẻ thù hay có hiềm khích với ông Dương Văn Minh mà đặt điều viết lai sự đối thoại trên đây nếu chuyện đó không có thật.

Chiều hôm đó, Cộng sản không cho phép Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng tại Dinh Độc Lập tức là Phủ Tổng Thống của VNCH, họ đã áp giải ông đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời kêu gọi như sau:

"Tổng Thống chính quyền Sài Gòn kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam."

Ngay buổi chiều ngày 30 tháng 4, Đài Phát Thanh Giải Phóng loan báo kể từ nay, thành phố Sài Gòn được cải danh là "Thành Phố Hồ Chí Minh."

 

http://i5.photobucket.com/albums/y195/30thang4/032-Minh_SurrerndersA.jpg

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

Kể từ ngày hôm đó, ngày 30 tháng 4 năm 1975,

Sài Gòn đã mất tên, Sài Gòn không còn nữa.

Kể từ ngày hôm đó,

Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà không còn nữa.

Và cũng kể từ ngày hôm đó, tại Miền Nam Việt Nam Tự Do cũng không còn nữa.


Trần Đông Phong

(Trích trong: "VNCH-10 Ngày Cuối Cùng)

GHI CHÚ:

1- Đại Thắng Mùa Xuân, trang 329-331.

2- Văn kiện Đảng: trang 332-333.

3-Dương Hiếu Nghiã: "Hồi Ký Dang Dơ," kể lại theo lời của Trung Tá Nguyễn Văn Binh, cựu Quận Trưởng Gò Vấp, cựu dân biểu, có mặt tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi quân Bắc Việt chiếm Sài Gòn. Xuân Thời Luận, California 2004, trang 141.

 




Nhớ về Người Lính Năm Xưa

Buổi Ra Mắt Sách Đầy Ắp

Tình chiến Hữu

Của Thời Binh Lửa!

Kính thưa Quý Vị Thi Văn Hữu thân hữu của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.

Chúng tôi xin trân trọng kính mời quý vị vui lòng tời tham dự buổi ra mắt sách viết về người lính VNCH được tổ chức tại
Trung Tâm VIVO vào lúc 1 giờ 30 ngày Thứ Bảy 8 tháng 10 năm 2011 của nhà văn chiến hữu nhảy dù Đoàn Phương Hải.
Anh Đoàn Phương Hải xuất thân khóa 19 Trường VBQG Đà Lạt là cựu Thiếu Tá Nhảy Dù, người đã từng tham dự những trận đánh
lừng danh của binh chủng Nhảy Dù. Anh cũng là người ở tại Charlie khi Đại Tá Nguyễn Đình Bảo hy sinh. Anh hát bài Người Ở Lại Charlie rất có hồn với giọng ca thổn thức.
Xin mời quý vị tới bắt tay người lính VNCH có rất nhiều chiến tích và cũng để biết về cuốn sách về Người Lính VNCH do người lính viết.
Xin hẹn gặp Quý vị tại ViVo chiều Thứ Bảy này.
Cảm ơn và kính chúc Quý Vị Vạn Sự Bình An
ĐA
 
Ðông Anh xin chúc Quí Vi An Vui Hanh Phúc

imageĐại Úy Đoàn Phương Hải và Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù tại Kompong Cham ( Kampuchia ) 1970
  Từ trái : Trung Úy Y sĩ Trọng, Đại Úy Nguyễn  Viết Thanh ( tự Thanh Tây lai ), Thiếu Tá Phạm Kim Bằng, Thiếu  Tá Lê Minh Ngọc ( Tiểu đoàn trưởng ), Đại Úy Đoàn Phương Hải

imageTừ trái :Đại Úy Đoàn Phương Hải và Trung Tá Nguyễn Đình Bảo tại căn cứ Charlie ( Pleiku ) 1972

image Đoàn Phương Hải qua nét vẽ của Mõ Lê Văn  Hải ( San Jose ) 2011

image Trung Tá Duffy,  cố vấn liên lạc Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù

———————————————————————————————————————————————

Xem tiếp tục : NHỚ VỀ ….NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA .

 

 

Vivian Truonggia
Founder – CEO – Publisher
Viet Tribune Media, Inc.
Viet Tribune Newspaper
Viet Tribune Radio
1590 Oakland Rd., Ste. # B205
San Jose, CA 95131
Phone: (408) 437-9006
Cell:      (408) 401-9534
Fax:      (408) 437-9038
vtruonggia@viettribune.com
www.viettribune.com
www.viettribuneradio.com

 




Lê Văn Hải : Thiệp Mời Ra mắt tác phẩm Trung Tướng Đặng Văn Quang Vinh Quang và Đau Khổ

 

 

 

Thứ năm, ngày 21 tháng bảy năm 2011 by: LTSA

Những ai từng phục vụ trong các đơn vị thuộc Vùng 4 Chiến Thuật thời gian 1964 – 65 – 66… có thể công nhận rằng, Trung Tướng Đặng Văn Quang giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 & Vùng 4 Chiến Thuật kiêm Đại Biểu Chánh Phủ Miền Tây rất “mát tay”, là thời điểm kiêu hùng nhất của quân dân miền Tây, chiến thắng nối tiếp chiến thắng, an ninh lãnh thổ được vững chắc nhất. Với 3 sư đoàn bộ binh tinh nhuệ cùng các đơn vị Biệt Động Quân biệt lập, các trại Lực Lượng Đặc Biệt biên phòng ở dọc theo biên giới từ Hà Tiên qua Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường, trên 200 cây số làm rào cản sự xâm nhập vũ khí, tiếp liệu và bộ đội chính quy CSBV xâm nhập qua từ bên xứ Chùa Tháp – Kampuchia. Cũng thời Trung Tướng Đặng Văn Quang, 3 sư đoàn cơ hữu của QĐ4: Sư Đoàn 7, 9, 21 Bộ Binh – bộ binh là hoàng hậu của chiến trường như một vị tướng của quân đội Pháp đã nói. Các đơn vị này đều tạo nhiều chiến thắng vẻ vang liên tục, đặt tên riêng các cuộc hành quân cấp sư đoàn. Khu chiến Tiền Giang với SĐ7BB, tên cuộc hành quân là Tiền Giang (Tiền Giang 1,2,3…). Khu 41 Chiến Thuật với tên cuộc hành quân của SĐ9BB là Cửu Long và SĐ21BB – Khu 42 Chiến Thuật với tên gọi là Dân Chí. Riêng Sư Đoàn 21 Bộ Binh, từ lúc Đại Tá Đặng Văn Quang về làm Tư Lệnh, ông đã đặt tên Dân Chí cho các cuộc hành quân sư đoàn. Các cuộc hành quân nhỏ cấp Tiểu khu và Trung đoàn cơ hữu của Khu 42 Chiến Thuật cũng dùng tên Dân Chí và kèm theo TK là cấp tiểu khu và TRĐ ở cấp trung đoàn… Vì vậy, khi Tướng Quang về Cần Thơ, ông đã ra lệnh 3 SĐ thuộc quyền cũng đều có tên như nêu trên.

Thời điểm này, Ban Thông Tin Báo Chi của chúng tôi được cưng chìu nhất và đích thân Trung Tướng Quang cho thêm nhiều phương tiện, thiết lập được 1 nhà in để in bán nguyệt san Chiến Sĩ Miền Tây mà tôi là Tổng Thư Ký Tòa Soạn. Ban Thông Tin Báo Chí được tăng cường thêm nhiều người có khả năng như nhà văn Nguyên Vũ – Vũ Ngự Chiêu, nhà thơ Tô Thùy Yên – Đinh Thành Tiên, giáo sư triết: Lê Văn Tấn – Nguyễn Văn Oánh (họ và chữ lót có thể sai), giáo sư Pháp văn Phan Thông Hảo, kỷ sư Canh nông Nguyễn văn Hoàng, luật sư Võ Tứ Cầu, Mai Hòa – một phóng viên chiến trường nổi tiếng, cơ hữu của Ban TTBC/QĐ4… có sĩ quan vừa ra trường được xin hoặc thuyển chuyển về đây. Ban Thông Tin Báo Chí lúc này lên cao điểm và mở rộng về thông tin, viết phóng sự chiến trường cung cấp cho phát thanh và cả báo chi trung ương. Nhà in riêng của QĐ4 (in truyèn đơn, báo bán nguyệt san Chiến Sĩ Miền Tây, in 2 tập sách cái nhìn mới mẻ về xây dựng nông thôn, chính Trung Tướng Quang gọi anh Tấn và anh Oánh lên văn phòng, ông chỉ thị 2 anh viết về đề tài này do sự chỉ đạo của ông Tướng và đích thân ông sửa chửa, hiệu đính hoàn chỉnh mới xuất bản). Ngoài ra chúng tôi có chương trình phát thanh trên hệ thống Đài Phát Thanh Ba Xuyên gọi là Tiếng Nói Vùng 4 Chiến Thuật (Đài PT Ba Xuyên ở trên đường từ Thị xã Khánh Hưng – Sóc Trăng đi Bãi Xào – quận lỵ Châu Thành hay Mỹ Xuyên, nơi bán đuông chà là sống và món nhậu tại chỗ, nhiều nhất ở miền Tây).

Tóm lại, thời Trung Tướng Đặng Văn Quang “trị vì’ miền Tây là thời cực thịnh của Ban Thông Tin Báo Chí do tôi làm Trưởng Ban, bên cạnh có 1 Thiếu Tá và 2 Đại Úy Mỹ làm cố vấn cùng với nhân viên 8 người, quân số ngang bằng với Ban TTBC của QĐ4. Chúng tôi làm việc rất dễ dàng, khi nghe có tin chiến thắng hay những cuộc hành quân lớn cấp sư đoàn với tên Tiền Giang, Cửu Long, Dân Chí chúng tôi biết thuộc khu chiến thuật nào, xin trực thăng đưa ký giả VN hoặc ngoại quốc đang ở Sài Gòn đến ngay mặt trận. Nếu phía VN chưa có phương tiện thì cố vấn Mỹ xin cho chúng tôi ngay. Thí dụ cuộc hành quân Tiền Giang, chiến thắng vẻ vang, ông Tướng Vùng ra lệnh Ban Thông Tin Báo Chí mời ký giả từ Sài Gòn xuống quay phim, chụp hình, thực hiện phóng sự. Chúng tôi liên lạc với SĐ7 đưa xe về Sài Gòn đón ký giả xuống Mỹ Tho và đến BTL/SĐ7 ở Mỹ Tho để có thể giúp phương tiện trực thăng đưa đến chiến địa. Khi Sư Đoàn 21 BB có cuộc hành quân Dân Chí ở rừng U Minh – Cà Mau và chiến thắng lớn, muốn mời ký giả xuống thì chúng tôi phải vận động, xin cấp 1 hay 2 chiếc trực thăng từ Sài Gòn (sau này, thường thông qua Khối Thông Tin Giao Tế Dân Sự của Tổng Cục Chính Trị mời giúp và xin phương tiện với Tổng Cục Tiếp Vận). Nếu tôi nhớ không lầm, tên các cuộc hành quân của các Sư đoàn không thay đổi khi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh về thay thế Trung Tướng Đặng Văn Quang. Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng về thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh sau vụ Tết Mậu Thân 68, Trung Tướng Thắng có thay tên các cuộc hành quân, tên một vị tướng anh hùng đã chống quân ngoại xâm Pháp tại chiến trường miền Tây: Trương Công Định… Năm 1966, Trung Tướng Đặng Văn Quang được Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ “mời” về giữ chức vụ nghe thì lớn lắm, Tổng Ủy Viên Kế Hoạch trong Nội Các Chiến Tranh. Đây là chức vụ “ngồi chơi xơi nước”, Trung Tướng Quang là một vị tướng trẻ (35-36 tuổi đã đeo 3 sao) và đã hoàn thành chức trách tuyệt vời ở miền Tây tạo nhiều chiến thắng vẻ vang và được lòng dân chúng, nhất là lực lượng giáo phái Phật Giáo Hòa Hào tin tưởng và kính trọng. Có thế nói Tướng Quang là Tướng Vùng Chiến Thuật có nhiều uy tín nhất lúc bấy giờ.

Ông lại có công rất lớn trong việc vận động đặt nền móng thành lập Viện Đại Học Cần Thơ, chính Trung Tướng Quang là vị tướng Vùng đã xây dựng một nghĩa trang Quân Đội rộng lớn khang trang tại Cần Thơ chỉ thua tầm vóc Nghĩa Trang Quân Đội (Biên Hòa). Trung Tướng Đặng Văn Quang đã hổ trợ hết mình nhà văn nhà báo An Khê Nguyễn Bính Thinh xuất bản tờ nhựt báo Miền Tây, tòa soạn đặt gần bến Ninh Kiều mà tôi là “con thoi” (lo giúp đở tờ báo) giữa Trung Tướng Đặng Văn Quang và nhà văn An Khê (sau này thời Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh tờ báo sống ngoắc ngoải, đến Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng về thì nhựt báo Miền Tây “tắt thở”). Tờ nhựt báo Miền Tây là tờ báo đầu tiên trong lịch sự báo chí VN xuất bản tại miền Tây.
Hiện nay, Ban biên tập của nhựt báo Miền Tây do nhà văn An Khê làm chủ nhiệm (cựu Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng bị thương nặng thành phế binh và anh An Khê đã chết ở Pháp chừng hơn 10 năm) có một người hiện đang hoạt động báo chí, văn học tại thung lũng hoa vàng San Jose: nhà báo nhà văn Nguyễn Thiếu Nhẫn tức Lão Móc có thể biết sự kiện lịch sử này. Chính xác hơn, Vùng 4 Chiến Thuật kiêu hùng nhất là thời điểm 64 – 65 – 66 hơn hẳn các ông Tướng từng chỉ huy ở vùng này trước đó (và có thể nói sau này, cho đến ngày 30.4.75). Trung Tướng Đặng Văn Quang là tướng lãnh gần gũi nhất với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (cùng Khóa 1 Đập Đá ở Huế tức là Khóa Quốc Trưởng Bảo Đại, tiền thân của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam – Đà Lạt) và là cấp chỉ huy đại đơn vị tài giỏi được Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu tin cậy và đề bạt thay thế ông ở đồng bằng sông Cửu Long. Ông là người thân cận với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong những chức vụ cao cấp nhất như Phụ Tá (Cố Vấn) Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu về Quân Sự, An Ninh & Tình Báo Quốc Gia, Tổng Thơ Ký Hội Đồng An Ninh Quốc Gia… cho đến ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức trao quyền lại Phó Tổng Thống Trần Văn Hương… Trung Tướng Đặng Văn Quang đeo 3 sao từ năm 1965 và cho đến 30.4.75, 10 năm dài.

Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây, tại sao Trung Tướng Đặng Văn Quang, người hùng của miền Tây bị Tướng Kỳ “chơi” bằng nhiều cách phao tin ông Tướng vốn sinh đẻ tại Phú Lâm Châu Đốc, sống và lớn lên ở Sóc Trăng (cùng quê vớí Trung Tướng Dương Văn Đức) là kỳ thị Nam Bắc và “xào nấu”, thổi phồng lên là tướng lãnh tham nhũng gộc. Tình báo CSBV muốn Tướng Quang phải thân bại danh liệt, mất uy tín của cấp chỉ huy tài giỏi; nên chúng phao tin xấu như buôn bán bạch phiến, thuốc tây lậu, tiền gời ngân hàng Thụy Sĩ nhiều triệu dollars… cho ông Tướng Quang nhằm trả thù, cách điều quân tài tình của ông, đánh tan tành các đơn vị chính quy của CSBV xâm nhập bằng đường biển và đường biên giới Kampuchia. Tướng Quang là cánh tay đắc lực của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau này.

Kế đên, ông Tướng cùng với giới trí thức, dân miền Tây, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo xin thiết lập Viện Đại Học Cần Thơ. Không biết vì lý do gì, thời uy quyền Tướng Kỳ nắm hết trong tay (Nội Các Chiến Tranh) cương quyết không đồng ý. Tướng Quang theo phe miền Tây xin cho bằng được thành lập Viện Đại Học Cần Thơ nên làm phật ý Tướng Kỳ. Khi Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu lập liên danh ra ứng cử Tổng Thống năm 1967, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng có liên danh tranh cử. Cả 2 ông Tướng cùng ra tranh cử 2 liên danh khác nhau, chia phiếu quân nhân, có thể cả 2 liên danh đều thất cử và liên danh dân sự như liên danh Trương Đình Dzu (luật sư, thiên tả) hay liên danh dân sự nào khác sẽ đắc cử. Vì vậy Hội Đồng Tướng Lãnh mới có cuộc họp quyết định sáp nhập 2 liên danh của Trung Tướng Thiệu và Thiếu Tướng Kỳ làm một. Tôi nghe kể lại buổi họp đó rất gây cấn, các ông Tướng vốn xuất thân từ khóa 1 Nam Định (cùng khóa với Tướng Kỳ) đều nhiệt liệt ủng hộ Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Đối nghịch lại, Trung Tướng Đặng Văn Quang hết lòng ủng hộ Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và nhiều tướng lãnh khác gốc miền Trung, miền Nam cũng ủng hộ, nên có thể là cái lý do Tướng Kỳ “ghét” Tướng Quang thậm tệ nên chuyện phao tin, thêu dệt Tướng Quang tham nhũng gộc được phe Tướng Kỳ khuấy động dữ dội thời điểm đó. Chuyện này còn kéo dài đến trại tập trung người tỵ nạn CS ở Texas năm 1975, cũng có người muốn hành hung, nói ông Tướng Quang “đầu nậu’ tham nhũng nên mất nước…

Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng khác, thời Trung Tướng Đặng Văn Quang làm Tư Lệnh V4CT, cố vấn Mỹ đề nghị đưa vài đơn vị lớn của Mỹ về V4CT kể cả Đại Tướng Mỹ Westmoreland cũng có ý kiến đó nữa. Trung Tướng Đặng Văn Quang viện nhiều lý do là QLVNCH được sự tích cực ủng hộ của dân chúng và các đơn vị giáo phái tân tuyển có tinh thần chiến đấu tuyệt vời; các đơn vị chủ lực và địa phương của các tiểu khu đủ sức ngăn chặn sự xâm nhập của bộ đội CSBV và luôn chiến thắng nên không cần có các đơn vị lớn của Hoa Kỳ và xin Hoa Kỳ tăng cường giúp các Vùng Chiến Thuật khác. Nghĩa là Tướng Quang mạnh dạn từ chối Hoa Kỳ đổ quân xuống miền Tây. Có một lần Tướng Quang tâm sự với chúng tôi cùng ngồi trên trực thăng chỉ huy C & C, nếu quân Mỹ ồ ạt đổ vào miền Tây thi chúng ta mất phần nào chánh nghĩa chống quân CSBV mà chúng ta dư sức, ăn thua đủ với quân chánh quy CSBV.

Một vụ khác CIA, cố vấn Mỹ muốn Tướng Quang phải triệt hạ Đại Úy LLĐB Dan Marvin cùng với 5 nhân viên Mỹ khác luôn cả trại biệt kích hoặc bắt Đại Úy Dan Marvin giải giao về Sài Gòn. Lý do, Đại Uý Dan Marvin không thi hành lịnh ám sát Quốc Trưởng Sihanouk ở Kampuchia (nhằm bịt miệng vụ tai tiếng này). Điều cần lưu ý toán LLĐB này đang làm cố vấn cho Trại Biệt Kích biên phòng Dân Nam thuộc quận An Phú – Châu Đốc rất được sự mến mộ của dân chúng địa phương và Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo. Trại Biệt Kích biên phòng Dân Nam do các cựu chiến sĩ Hòa Hảo dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lê Văn Phồi (Trung Tá Phồi đang định cư ở Hoa Kỳ) điều hành chỉ huy. Nếu sử dụng đơn vị chính quy QLVNCH tiêu diệt trại này thì sẽ có hàng trăm chiến sĩ chống cộng nhiệt thành cũng bị chết lây. Vì vậy, Tướng Quang cũng chống và ông tự giải quyết tốt đẹp nên cũng không được lòng Hoa Kỳ, không ngoan ngoản làm theo bất cứ cái gì cố vấn Hoa Kỳ muốn.
Thời gian sau khi Tướng Quang về Trung ương thì Mỹ đã đưa cả Sư Đoàn 9 BB đặt bản doanh tại căn cứ Đồng Tâm – Mỹ Tho, đơn vị này cũng chẳng tạo được thành tích chiến thắng vẻ vang nào như QLVNCH. Vì vậy, có thể vài phóng viên của Hoa Kỳ mượn cớ bên phía VNCH, CSBV tung tin Tướng Quang tham nhũng số 1 của chế độ và các cơ quan truyền thông bị nhiễm nộc độc của Tướng Kỳ lại phóng đại lần nữa nên giới truyền thông Mỹ lại nêu đích danh Tướng Quang tham nhũng gộc… nên có nhiều người Việt tỵ nạn CS tin mới làm phiền ông Tướng đáng thương. Chuyện tình báo CSBV phao tin Tướng Quang buôn bán bạch phiến và thuốc Tây lậu khi ông làm Tư Lệnh V4CT (và sau này khi Tướng Quang làm Phụ Tá Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu). Chuyện 1 ông Tướng ở miền Tây mà buôn bán ma tuý và thuốc Tây lậu thì quả thật là chuyện của cõi trên mà cũng có người tin cho tới ngày nay mới là lạ.

Hiện nay, ông và bà Tướng cùng đang nằm trong Nursing Home ở Sacramento do 2 vợ chồng đệ tử, làm dưới quyền ông năm xưa ở QĐ4 hết lòng chăm sóc, thăm viếng vì tất cả 7 đứa con của ông bà Tướng Quang đều ở xa như Pháp, Úc, Canada và 2 người ở Maryland và Indiana. Cuộc sống của 2 ông bà hiện nay chỉ tính bằng tháng thôi vì lớn tuổi vào hàng 8, ông bị bệnh Alzheimer, bà bị bệnh tim và tiểu đường… Xin mời các chiến hữu và độc giả tìm đọc bài báo viết về cuộc đời của Tướng Quang với những thử thách bi thảm từ Sài Gòn đến Sacramento, với cái tít: The Trial of General Dang – From Saigon to Sacramento, a South Vietnamese General’s Journey Proves Old Soldiers Don’t Fade Away, They Stick Together của nhà báo R.V. Scheide (email: rvscheide@newsrewiew.com) đăng trên tờ tuần báo Sacramento News & Review (SN & R), phát hành tại Sacramento và có ấn bản ở nhiều thành phố khác ở miền Bắc Cali. Bài báo có kèm theo nhiều tấm hình hồi còn oai quyền của Trung Tướng Quang mà cựu Trung Tá LLĐB Dan Marvin có được và ông đã viết thành sách với tựa đề “Expendable Elite – One Soldier’s Journey Into Covert Warfare” xuất bản năm 2003 nói về cuộc đời của ông Dan, 1 sĩ quan LLĐB Mỹ tham chiến tại VN và có lòng câu chuyện Tướng Quang cứu mạng tác giả. Bài báo này có trong số Volume 20, Issue 27 ngày thứ năm 4.12.08. Địa chỉ tòa soạn 1015 20th Street – Sacramento, CA. 95811, tel: 916.498.1234 và Editorial Fax: 916.498.7920 hoặc lên Web site: www. newsreview.com trong mục Local Stories.

Bài báo có trích dẫn lời của ông Tom Polgar, trùm tình báo CIA ở Sài Gòn lên tiếng chánh thức, Tướng Quang không tham nhũng, không có tiền gởi ngân hàng Thụy Sĩ và những chuyện ly kỳ khác mà người ta áp đặt tham nhũng cho một ông Tướng trẻ và thực tài của QLVNCH trong hơn 40 năm qua. Nhờ có sự xác minh của trùm CIA, Thượng Nghị sĩ, Dân Biểu Liên Bang và có đơn thỉnh nguyện của Trung tá Dan Marvin gởi lên Tổng Thống Bush (Bush cha), Bộ Ngoại Giao Mỹ cho Tướng Quang nhập cảnh và định cư ở Hoa Kỳ thập niên 90. Trước đó Bộ Ngoại Giao Mỹ từ chối cấp Visa cho Tướng Quang với 2 lý do vì ông bỏ trại tỵ nạn ở Texas hơn 1 tháng như quy định và quan trọng ông bị ghép tội tham nhũng nên không được vào nước Mỹ…

Có một lần, cách nay chừng 6 năm khi cựu Trung Tướng Đặng Văn Quang còn ở Atlanta – Georgia, tôi, từ Sacramento có bay sang thăm “thầy cũ” và đem câu hỏi ông bị tố tham nhũng gộc của chế đô VNCH mà CSBV, phe ta Quốc gia và cơ quan truyền thông Mỹ cùng “bề hội đồng” mà nay ông Tướng lại nghèo xơ xác. Trung Tướng Quang nói rằng, thiên hạ kể cả người Việt quốc gia, CSBV và vài nhà báo Mỹ thêu dệt đủ điều nào tôi buôn bán bạch phiến, đầu cơ tích trữ thuốc tây nhập vào để chuyển lên Sài Gòn bán, có tiền đến nhiều triệu dollars Mỹ gởi ngân hàng Thụy Sĩ…
Tôi (đại ý lời TT Quang) như cái thùng rác họ liệng vô những gì dơ bẩn của chế độ, tôi không lên tiếng vì tôi tin có Chúa biết là đủ, ngoài ra Tổng Thống Thiệu biết và lương tâm tôi biết, còn người đời nói gì mặc kệ họ.

Vì những lời nói chân tình đó của một người thầy cũ mà vợ chồng tôi hết lòng giúp đở mời ông bà Tướng về định cư tại Sacramento, cách nay hơn 3 năm, và chúng tôi tự nguyện lo cho 2 ông bà Tướng đến ngày được Chúa bổ nhậm lần cuối về Vùng 5 Chiến Thuật.

Trần Văn Ngà

HQPD vừa nhận được phần giới thiệu 2 tác phẩm mới nhất của nhà báo Quân Đội Trần Văn Ngà, chủ nhà Xuất bản Tiếng Vang, xin trân trọng giới thiệu cùng quý đọc giả và thân hữu.



HAI TÁC PHẨM MỚI NHẤT
CỦA NHÀ BÁO QUÂN ĐỘI TRẦN VĂN NGÀ:

HỒI ỨC: TRUNG TƯỚNG ĐẶNG VĂN QUANG
VINH QUANG & ĐAU KHỔ

TẠP GHI: THEO CHÂN BINH ĐOÀN 692

***


Hồi Ức: TRUNG TƯỚNG ĐẶNG VĂN QUANG – VINH QUANG & ĐAU KHỔ

Sau hơn 6 năm tìm hiểu qua sách, báo giấy và báo điện tử cũng như hỏi "ngưòi thật việc thật" cựu Trung Tướng Đặng Văn Quang và phu nhân, các con của ông bà Tướng và nhiều thân hữu hay những chiến sĩ đã từng làm việc đồng thời với ông Tướng từ thời cấp úy, cấp tá, cấp tướng…
Tác giả tập Hồi Ức Trung Tướng Đặng Văn Quang – Vinh Quang & Đau Khổ, tập trung lại những dữ liệu trung thực đáng tin cậy nhất từ nhiều nguồn về hai thời điểm vinh quang hào hùng bách chiến bách thắng khi Trung Tướng Đặng Văn Quang trấn nhậm miền Tây – Vùng IV Chiến Thuật – từ tháng 6 năm 1964 đến tháng 11 năm 1966. Thời điểm lưu vong tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại – Canada và Hoa Kỳ, Tướng quân đau khổ bi thảm nhất, từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 9 năm 1989 và những năm tháng cuối đời trong nhà dưỡng lão cô đơn cùng cực tại Sacramento – California. 
Xin mời qúy thức giả tìm hiểu sự thật về một nhân vật đã bị dư luận, người đời và nhà văn nhà báo Mỹ đã bôi đen tên tuổi một Tướng quân kiệt xuất về quân sự, văn hóa giáo dục , kinh tế xã hội…một thời vang bóng ở đồng bằng sông Cửu Long. Người ta "bề hội đồng" Trung Tướng Đặng Văn Quang, gán ghép cho ông bao thứ xấu xa tội lỗi của chế độ như tham nhũng gộc và chỉ huy hệ thống buôn bán ma túy của nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Và miệng lưỡi người ta còn kết tội Tướng quân, một trong những nguyên nhân làm mất nước – chính thể Việt Nam Cộng Hòa vào tay cộng sản Bắc Việt ngày đen tối 30.04.1975. 
Cuộc đời lưu vong của Trung Tướng Đặng Văn Quang không những nghèo khổ cùng cực, tủi nhục như bao người Việt Nam khác cùng cảnh ngộ mà cuộc sống của Tướng quân vô cùng nghiệt ngã và danh dự một tướng lãnh hào hùng bách chiến bách thắng tại Miền Tây năm xưa bị vùi dập xuống tận bùn đen.
Sách vừa xuất bản với nhiều tài liệu giá trị. Xin mời qúy thức giả tìm đọc.

Tạp Ghi THEO CHÂN BINH ĐOÀN 692 

Click this bar to view the original image of 1104x461px.

Đây là một loại viết nhiều thứ chuyện "thiên hạ sự" – những người Việt có căn cước tỵ nạn cộng sản đang sống trên các nước dân chủ tự do – cần nói lên để chúng ta và con cháu chúng ta biết những nổi oan khiên, mất mát, đau khổ từ cái mốc lịch sử 30 tháng 4 năm 1975 tới nay. 
Hiện nay, chúng ta đang sống trên đất nước Hoa Kỳ hay các nước tự do dân chủ khác, có cuộc sống đầy đủ về mọi thứ nên luôn nhớ tiếng than hay lời nhắn nhủ thuở xưa của tiên sinh Đặng Dung:
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.
Chưa trả quốc thù đầu bạc trước, bao phen gươm báu dưới trăng mài. Các cựu chiến sĩ QLVNCH năm xưa nay tuổi hạc đã cao, sức khỏe đang lụi tàn dần mà thù nhà nợ nước chưa trả được. 
Chúng ta đang đối diện với tuổi già, con đường tất yếu trước mặt là ra vào thường xuyên bệnh viện. Theo thời gian, các nhà dưỡng lão (nursing home) sừng sững đợi chờ, tiếp theo nữa con đường chúng ta phải đi là lò thiêu hay bãi cỏ xanh đang vẫy tay chào đón.
Đó là những gì tác giả tập Tạp Ghi này muốn nhắn gởi với độc giả. 

Nhà Xuất Bản Tiếng Vang: P.O. Box 245926 Sacramento, Ca. 95824
Email: 
tiengvangusa@yahoo.com Tel: 916.519.8961 & 916.427.6638
Chi phiếu ủng hộ đề tên Trần Văn Ngà: 

Trung Trướng Đặng Văn Quang – Vinh Quang & Đau Khổ- Ấn phí $25/cuốn và tặng 1 DVD 
Theo Chân Binh Đoàn 692 $20/cuốn. Gởi qua Bưu Điện xin thêm tiền cước $3.00

NHÀ XUẤT BẢN TIẾNG VANG còn một ít cuốn Hà Nội Báo Động Đỏ của cựu tù nhân chính trị Dương Văn Lợi – Một tác phẩm bất hủ xuất bản năm 1992 tại Paris – một câu chuyện vượt biên khỏi nhà tù CSVN tại ngay thủ đô Hà Nội bằng trực thăng – cuộc vượt biên vô tiền khoáng hậu, sang Tàu và từ Tàu sang Pháp với trăm cay ngàn đắng. Qúy vị cần tìm đọc – ấn phí $25/cuốn – cước phí BĐ $3.00.




TS Đông Anh : Nữ Sĩ Trùng Quang qua đời.

 

Tiểu Bang CALIFORNIA, HOA KỲ

QUỲNH DAO thuở ấy, NAM vang dội,

Anh thư rạng rỡ gương Trung Nghĩa

TRƯỜNG GIANG

Sầu thảm văn chương, chữ nghĩa ơi!

Bắc Đẩu trời cao sao vội tắt

9/9/12

  cùng với bài họa của nhà thơ Đông Anh Thi Đàn Trường TDLV.

 

Bao chuyện trần gian bỏ mặc đời

6-2007

Nhận thơ thi sĩ dạ bồi hồi

Anh em gom lại chung nhau ở

Vui nguồn thanh bạch trọn niềm vui

6-2007

“Văn kỳ thanh, kỳ hình bất kiến”
Mừng cụ trăm tuổi sức khỏe an bình…



  Bài thơ xướng của nữ sĩ Trùng Quang năm 1964 đã có 20 bài của thi đoàn Quỳnh Dao đáp họa và 30 bài của các thi khách –

Trời Nam mưa rứt nắng phơi đồng

Thế giới mong ai hiệp đại đồng

(1-1-12)

Cụ vốn khiêm nhường, thích lặng yên
Tiệc mừng Sinh Nhật giữa tân niên     
Ước nhìn dân tộc ngăn xâm lược
Mong thấy giang sơn thoát ngụy quyền 
Hồng Lạc hết vương mầm hậu hoạn
Việt Nam thôi mắc nợ tiền khiên
Cộng đồng hải ngoại luôn đoàn kết
Phục quốc thành công, mở kỷ nguyên

 

Thiên Tâm

  (1-01-1912  đến 1-01-2012)

Mừng Cụ năm nay cõi bách niên      

Phước nhà sức khỏe được bình yên    

Mắt còn sáng suốt nhìn nhân thế        

Tâm vẫn anh minh chống bạo quyền  

Trắc ẩn toàn dân nhiều uất ức             

Quan hoài cả nước lắm oan khiên       

Chúc mừng Sinh Nhật, mừng Năm Mới 

 Thể chất, tinh thần mãi giữ nguyên.       

Từ Phong

 

Nữ Văn-Thi-Sĩ Trùng Quang vừa tạ thế, hưởng đại thọ 101 tuổi

Tác Giả: Hạnh Dương   
Chúa Nhật, 09 Tháng 9 Năm 2012 07:16

Nữ Văn-Thi-Sĩ Việt Nam được xem là “cây cổ thụ vĩ đại nhất” trong làng văn bút Việt Nam

NỮ VĂN THI SĨ “CỔ THỤ VĨ ĐẠI NHẤT” LÀNG VĂN BÚT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI:
CỤ BÀ TRÙNG QUANG TẠ THẾ TẠI SAN JOSE NGÀY 06-9-2012 HƯỞNG ĐẠI THỌ 101 TUỔI.
 
San Jose (Việt Báo – Hạnh Dương):  Nữ Văn-Thi-Sĩ Việt Nam được xem là “cây cổ thụ vĩ đại nhất” trong làng văn bút Việt Nam trên khắp Thế Giới là bà TRÙNG QUANG đã vừa tạ thế vào lúc 9:00PM tối Thứ Năm, ngày 06-9-2012 tại nhà Dưỡng Lão Mission De La Casa, số 3501 Alvin Ave., San Jose, CA 95122. Hưởng Đại Phước Thọ 101 Tuổi.
 
Nữ Văn Thi Sĩ Trùng Quang tên thật là LÊ THỊ TUYÊN, sinh ngày 01-01-1912 tại Miền Bắc Việt Nam. Tính đến ngày tạ thế, cụ Trùng Quang đã sống 100 năm, 7 tháng và 5 ngày theo Dương Lịch. Còn nếu tính năm Âm Lịch thì cụ bà Văn Thi Sĩ Trùng Quang đã hưởng đại phước thọ 102 tuổi.
 
Bà Cao Ánh Nguyệt, Chủ nhiệm của tuần báo “Phụ Nữ Cali”, khi giới thiệu cụ bà Trùng Quang trong buổi vinh danh cụ vào năm 2008 tại Trung Tâm VIVO ở San Jose, đã kể về cuộc đời của cụ bà với những nét thăng trầm tiêu biểu như sau: “Ngay từ những năm đầu của thập niên 40 cụ đã là một  phụ nữ tiền phong trong các phong trào thanh niên, sinh viên hoạt động xã hội. Năm 1951 cụ thành lập Hội Phụ Nữ Tương Tế, là hội phụ nữ Việt Nam đầu tiên giúp chị em phụ nữ học tiếng Việt, Pháp, Anh, Nhật ngữ. Năm 1952, qua vận động của cụ, Nam Phương Hoàng Hậu chọn ngày Lễ Hai Bà Trưng làm ngày Phụ Nữ Việt Nam. Từ 1944 tới 1954, cụ Trùng Quang là một trong những bậc nữ lưu tiền phong, nổi tiếng thời 1953, 1954 tham gia các công tác hoạt động văn hoá giáo dục, xã hội cứu trợ đồng bào bị nạn đói. Cố Tổng Thống Nixon, hồi còn là Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ, khi tới thăm Hà Nội đầu thập niên 1950, đã từng đến gặp cụ để thăm hỏi về việc cụ giúp đỡ đồng bào tản cư vào các thành phố.”
 
Tại Hà Nội, cụ là Hiệu Trưởng sáng lập “Trường Nữ Công Việt Nữ”. Cuộc đời của cụ bà thật vô cùng đau khổ. Nếu như ngày xưa vào khoảng năm 1930 mà có Thi Hoa Hậu thì chắc chắn nàng thiếu nữ nhan sắc tuyệt vời Lê Thị Tuyên 18 tuổi sẽ là Hoa Hậu Hà Nội 36 phố phường. Nhiều gia đình và quan chức ngõ lời cưới người đẹp, nhưng nàng thiếu nữ yêu kiều kia đã trao trọn trái tim cho một chàng sinh viên tài năng và nhiệt huyết chống thực dân Pháp. Hai người cưới nhau chỉ được vài tháng thì chồng bà đã bị Việt Minh (tức tiền thân của Cộng Sản Việt Nam) ám sát chết vì lúc đó chồng bà lãnh đạo sinh viên Hà Nội chống Pháp và chống cả Việt Minh. Kể từ đó, cụ bà vẫn ở đơn độc như thế để thờ chồng và thay chồng nuôi các em chồng ăn học, đỗ đạt thành các Bác Sĩ nổi tiếng. Cụ bà trút nỗi buồn riêng qua thơ, văn với bút hiệu Trùng Quang. Cụ bà đem tình thương lập nên “Trường Nữ Công Việt Nữ” để dạy nghề và dạy chữ quốc ngữ cho phụ nữ Việt Nam tại Hà Nội vì thời bấy giờ không mấy ai trong giới phụ nữ biết được chữ Việt hay được học nghề gì cả ngoài việc làm vợ lo nội trợ hay làm con hầu !.
 
Dù vào ngày kỷ niệm Sinh Nhật 100 tuổi, cụ bà Văn Thi Sĩ TRÙNG QUANG vẫn minh mẫn,
mắt không cần đeo kính, đã ngồi phóng bút làm thơ trong ngày kỷ niệm Sinh Nhật 1 Thế Kỷ của mình.

“Hiệp Định Paris 20-7-1954 phân chia hai miền đất nước Việt Nam, Cụ bà đã di cư vào miền Nam và lập lại “Trường Nữ Công Phương Chính” lo dạy nghề và dạy chữ Việt cho phụ nữ tại Sàig-gòn. Các chứng chỉ tốt nghiệp của Trường Nữ Công Phương Chính được nhiều quốc gia ở Âu Châu như Pháp, Đức, Anh công nhận. C Cụ bà đã đào tạo được nhiều nhân tài sau nầy tại Việt Nam và quốc tế. Sự thành công của Cụ bà đã được Chính Phủ VNCH mời làm Bộ Trưởng Lao Động Xã Hội nhưng Cụ bà từ chối. Cụ bà thối thác với lý do bệnh nên được chính phủ VNCH cho đi Nhật để chữa bệnh. Lợi dụng dịp nầy, Cụ bà đã ở lại Nhật một thời gian học tiếng Nhật và học nghề làm Búp-bê của Nhật Bản. Khi trở lại Sài-gòn, Cụ bà cho mở xưởng sản xuất Búp-bê Việt Nam và sản phẩm của Cụ bà là những búp-bê mang tà áo dài Việt Nam rất yểu điệu, tha thướt được nhiều quốc gia Âu Châu ưa chuộng đặt hàng. Ban ngày Cụ bà dạy chị em về nghể nghiệp, thủ công; nhưng ban đêm Cụ bà dạy về văn hóa gồm tiếng Việt, chữ Việt, ngoại ngữ và nghề thư ký, kế toán. Nhiều học trò của Cụ bà đã xuất ngoại và sau đó đã trở về thăm và cám ơn Cụ bà. Vào thập niên 1950-1960, bút hiệu Trùng Quang của Cụ bà rất được giới yêu thơ ái mộ khi Cụ bà gia nhập Thi Đoàn Quỳnh Giao do bà Cao Ngọc Anh sáng lập. Những bài thơ của Cụ bà được phổ biến trên nhiều Nhật Báo và Tạp Chí ở Sài-gòn.”

Cô Debora Tường Vân là người say mê Thơ và Văn của cụ bà TRÙNG QUANG 
nên đã được sở Xã Hội nhờ chăm sóc cho cụ đến phút lâm chung. Qua chăm 
sóc người già, cô Debora Tường Vân đã viết đoản văn "Nơi Ở Cuối Đời" gởi dự 
thi giải Việt Báo Viết Về Nước Mỹ năm 2012 và cô được Ban Giám Khảo chấm 
trúng "Giải Đặc Biệt"

                                     
Cho đến khi biến cố Tháng 4 Đen lúc CSBV chiếm Sài-gòn ngày 30-4-1975, Cụ bà đã bỏ lại tất cả và theo một chiếc tàu cá nhỏ để vượt biển tìm tự do. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, chiếc tàu của Cụ bà đã được một tàu buôn của Pháp có tên là “Lumière” (Ánh Sáng) vớt đưa về tỵ nạn tại Pháp. Vốn là con nhà quý phái, nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ ngày xưa khi ở Hà Nội, thế nên Cụ bà hội nhập cuộc sống mới tại Pháp không khó khăn gì. Thế nhưng Cụ bà có các em chồng và người con nuôi mà Cụ bà thương yêu dạy dỗ và nay thành những nhân vật tên tuổi là những giáo sự Đại Học, Dược Sĩ, Bác Sĩ hiện sống tại Hoa Kỳ nên Cụ bà đã được qua định cư ở Mỹ.
 
Khi vừa đến định cư tại Mỹ, Cụ bà ghi tên đi học Lớp ESL (English as Second Language) để nói và viết tiếng Anh. Cùng thời gian, Cu bà chủ trương xuất bản một tuyển tập thơ gồm 142 Tác Giả hải ngoại và Hoa Kỳ mang tên “Đồng Tâm Hội Bút”. Sau khi học xong các lớp ESL, Cụ bà theo học College tại Evergreen và năm 84 tuổi Cụ bà thi vào Đại Học Cộng Đồng San Jose và luôn đạt điểm cao trong các kỳ thi Test. Mỗi lần Cụ bà đi vào lớp học, Thầy, Cô Giáo và các Sinh Viên đều đứng dậy vỗ tay chào mừng cụ bà cao niên đi học. Cụ chưa bao giờ đi học trễ hay bỏ học. Năm 89 tuổi, lúc thi Test về tiếng Anh, nữ sinh viên già nhất trong lịch sử Đại Học Cộng Đồng San Jose đã là người đạt điểm cao nhất. Ngoài tiếng Việt, Cụ bà nói giỏi tiếng Pháp, tiếng Nhật và nay cả tiếng Anh.
 
Năm Cụ bà qua khòi ngưỡng cữa 90 tuổi, tai bị nghễnh ngãng khó nghe nên Cụ bà không đi học nữa.. Cụ bà lấy làm tiếc là không hoàn tất được bằng Thạc Sĩ về xã hội học MBA. Nhiều Giáo Sư người Mỹ đến tận nhà khuyến khích Cụ bà đi học tiếp; nhưng Cụ bà nói rằng sức khỏe không cho phép, mặc dầu trí tuệ vẫn minh mẫn.

Từ 84 đến 89 tuổi cụ bà Văn Thi Sĩ TRÙNG QUANG thi vào Đại Học Cộng Đồng San Jose sau khi đã học xong các lớp ESL
về tiếng Anh cho người lớn. Cụ nói giỏi tiếng Pháp, tiếng Nhật và ‘cô Sinh Viên già nhất trong lịch sử Đại Học Cộng Đồng
San Jose" đã đạt điểm cao nhất về Thi Test tiếng Anh năm 89 tuổi. Qa năm 90 tuổi tai cụ nghễnh ngãng và tay chân
yếu nên cụ bỏ học và cụ nói là tiếc rằng không kịp lấy bằng Thạc Sĩ MBA về khoa xã hội học mà cụ bà rất thích.
 
Năm 2002, Cụ bà là tác giả lớn tuổi nhất đoạt giải thương “Viết Về Nước Mỹ” do hệ thống Nhật báo Việt Báo tổ chức qua bài viết của Cụ bà mang tựa đề “Tôi Đi Tìm Tự Do Dân Chủ”. Năm 2004 ở tuổi 93, Cụ bà cho xuất bản cuốn “BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO” viết về các sử liệu và chiến thắng hiễn hách của danh nhân Nguyễn Trãi và hịch chống Tàu xâm lược của ông. Khi bà cho ra mắt cuốn “Bình Ngô Đại Cáo”, mọi người đều yêu thích tinh thần yêu nước của Cụ bà và hiểu rõ tường tận hơn từng câu, từng chữ trong hịch “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi do bà trích dịch và chú giải. Cụ bà nói như tiên tri rằng “Rồi đây giặc Tàu sẽ tìm cách cướp nước Việt Nam nên phải ra sách “Bình Ngô Đại Cáo để nhắc nhỡ con cháu noi gương tiền nhân Nguyễn Trãi chống Tàu giữ nước!” Cuốn sách đã bán hết sạch ngay khi ra mắt.
 
Đến năm 2006, sức khỏe của Cụ bà yếu hẵn đi, hai chân không đi xa được nên Cụ bà phải dùng cái xe guồng để tựa vào và bước đi chậm rãi quanh quẩn trong nhà. Thế nhưng Cụ bà đã viết và xuất bản cuốn tuyển tập truyện ngắn “Bóng Cờ Nương Tử” qui tụ 32 tác giả nữ Việt Nam hải ngoại, mà trong đó Cụ bà đã chiếm 3 tác phẩm. Tuyển tập truyện ngắn nêu cao những tấm gương hy sinh cao cả của những người vợ, người mẹ có chồng là các chiến binh VNCH hy sinh trong chiến cuộc bảo vệ tự do dân chủ cho Miền Nam, hoặc đã nằm xuống trong các trại cải tạo, trên đường vượt biên, vượt biển.
 
Tết Nguyên Đán Tân Mão 2011, Hạnh Dương thay mặt Ban Giám Đốc Việt Báo đến thăm cụ bà, cụ đưa ra 4 câu thơ:
 
“Ta nói cho Xuân được biết rằng
Ta đây trăm tuổi vẫn còn răng
Vẫn cười duyên dáng như Xuân nữ
Vẫn viết tình thơ thủa tròn trăng.”                  

 
Miệng của cụ bà bao giờ cũng mĩm cười duyên dáng. Vào đầu tháng 3-2011, khi người con nuôi đến căn nhà của cụ sống một mình, đã thấy cụ bà nằm té bên chiếc xe guồng và gãy 2 xương sườn! Sau khi được chữa trị và ra khỏi bệnh viện, theo lời khuyên của Bác Sĩ, cụ bà được đưa vào viện dưỡng lão (Nursing Home) Mission De La Casa.
                                   
Tết Nhâm Thìn 2012, khi Hạnh Dương thay mặt Việt Báo đến thăm cụ bà lúc cụ đã 101 tuổi, cụ vẫn còn minh mẫn và cụ khoe là đang soạn và dịch các bài Quốc Ca của các cường quốc trên Thế Giới để cụ so sánh với Quốc Ca VNCH. Cụ bà khen rằng Quốc Ca VNCH có tính nhân bản và bài Quốc Ca đó vẫn còn cả một tương lai.
 
Người chăm sóc cụ là cô Debora Tường Vân, một người say mê văn thơ của cụ, đã trở thành nhân viên xã hội chăm sóc cho cụ. Cô Debora Tường Vân đã viết một bài về “Nơi ở cuối đời” của những người già và đặc biệt nói về Cụ bà Trùng Quang và bài viết nầy đã được chấm đoạt giải đặc biệt cuộc thi Viết Về Nước Mỹ 2012.
 
Cô Debora Tường Vân cho hay rằng, cách nay 12 năm cụ bà Trùng Quang đã viết lại di chúc dặn con cháu rằng khi cụ tạ thế thì sẽ không được tổ chức tang ma linh đình, không đăng Cáo Phó làm phiền bạn bè và người thân; chỉ đơn giản hỏa táng cụ mà thôi. Hiện thi thể của Cụ bà Trùng Quang đang được quàn tại Palo Alto chờ gia đình tề tựu đông đủ để hỏa táng.

Sáng Chủ Nhật 26-8-2012, Hội Cao Niên Vùng Vịnh Cựu Kim Sơn đã mở tiệc kỷ niệm 33 năm ngày thành lập Hội, dịp nầy có 3 vị cao niên nhất được các Dân Biểu và Nghị Viên tặng Bằng Vinh Danh. Nữ Dân Biểu Zoe Lofgreen, Dân Biểu George Shirakawa, Nghị viên Kasen Chu và ông Dave Cortese, Trưởng Hôi Đồng Giám Sát quận hạt Santa Clara đã tặng Bằng Vinh Danh cho Cụ bà Nguyễn Thị Niềng 102 tuổi; cụ bà Trùng Quang 101 tuổi; cụ ông Võ Toàn 101 tuổi. Cụ bà Nguyễn Thị Niềng đã tạ thế cùng ngày ngay sau khi có buổi tiệc vinh danh cụ. Riêng cụ bà Trùng Quang chưa kịp nhận 4 bằng vinh danh thì cũng đã lìa đời!
 
Thay mặt nhóm Việt Báo và VietPress USA, chúng tôi vô cùng thương tiếc Cụ Bà Văn Thi Sĩ vĩ đại của làng văn bút Việt Nam khắp Thế Giới đã vừa giã từ chúng ta. Đạo đức của cụ bà, cuộc sống và sự hy sinh cao quý của cụ bà và những áng văn thơ tuyệt tác của cụ là di sản cho mọi người, mọi thời đại Việt Nam dù dưới chế độ nào.
 




Chúc mừng Lễ Tạ Ơn và không quên Trận Bảo Haỉ Yến tàn phá Phillipine và lũ Việt Nam

KÍNH CHÚC QUÍ VĨ MỦA TẠ ƠN ĐẦY HẠNH PHÚC NHƯ Ý.

TUY NHIÊN NGƯỜI VIẾT HẢI NGOẠI KHÔNG QUÊN TRẬN BÃO HẢI YẾN KHỦNG KHIẾP NHẤT THẾ KỶ ĐÃ TÀN PHÁ PHI LUẬT TÂN NGƯỜI CÓ ƠN VỚI NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI VÀ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM DO VIỆT CỘNG XẢ ĐẬP GÂY RA.

CHÚNG TA XIN LỜI CẦU NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI TRONG CƠN THIÊN TẠI VÀ CỘNG SẢN NHÂN TAI.

ĐẠI NHẠC HỘI CỨU TRỢ NẠN NHÂN BÃO HẢIYẾN
PHILIPPINES & VIỆT NAM.

Link bão Haiyan.
  – Tuần Báo Thằng Mõ

   Liên Đoàn Hướng Đạo Bách Việt –

    Ban Hoa Hậu Áo Dài

Sample picture:

  Nạn Nhân Bão Haiyan Philippines & Việt Nam. Đây là cơ hội để chúng ta, Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản đền ơn đất nước Phi Luật Tân.

              VÀO CỬA TỰ DO

Memo: Haiyan Typhoon Reliefs

Gởi về: 918 S. First St. San Jose Ca 95110

TM BAN TỔ CHỨC


Ghi chú:

POSTERS CỦA BAN TỔ CHỨC.

BAN CỐ VẤN

       – Nhân sĩ Đỗ Hữu Nhơn
Cựu T/T Bùi Đức Lạc            

            Nhà báo Lê Văn Hải

               Ông Nguyễn Văn Hoàng

                          GS Nguyễn Cao Can

                     TS Nguyễn Hồng Dũng

           Bà Trương Gia Vy

            Ông Lê Đình Thọ

                      Nhà thơ Chinh Nguyên

          Nhà Văn Nguyễn Thanh Xuân

 Cô Nguyễn Thị Bích Liên

           Ông Nguyễn Cao Thăng

           Ông Nguyễn Văn Mùi

               Nhà báo Lê Bình

                              Bà Trần Thị Thu – TinViệt News

                                             Nhà báo Thư Sinh

              Ông Phạm Bằng Tường & Ban Hoa Hậu Áo Dài

                                  Ông Nguyễn Văn Hà

         Ông Nguyễn Văn Chót

                                Ông Hoàng Thưởng

BAN Y TẾ         :                   BS Phạm Đức Vượng  

NGƯỜI TRẺ CÓ LÒNG : LÊ MINH KIỆT


Lê Minh Kiệt là nhà thiết kế T-Shirt trẻ, Con trai của Ca Sĩ Thu Nga và cháu của Hoa Hậu Bích Liên.
Lê Minh Kiệt đả có tấm lòng vàng thiết kế một loạt T-Shirt và sẽ mang tới  ĐẠI NHẠC HỘI CỨU TRỢ NẠN NHÂN BÃO HAIYAN bán và dùng số tiền bán hổ trợ nạn nhân Philippines và Việt Nam trong thiên tai khủng khiếp nhất thế kỷ.

    

Ngày Hội Ngộ Văn Hóa Phụ Nữ Việt Nam Toàn Cầu toả sáng trong Tháng Tư Đen 40 năm tị nạn.

Ngày Hội Ngộ Văn Hóa Phụ Nữ Việt Nam Toàn Cầu toả sáng khắp nơi trong Tháng Tư Đen 40 năm tị nạn.

Nhiều Phụ Nữ Tài Năng VN được chào đón trên thảm đỏ 40 năm tị nạn.

 

Giữa những ngày Tháng Tư Đen năm thứ 40, giới Phụ Nữ Tài Năng khắp hải ngoại đã tụ hội về Thủ đô tị nạn Little Saigon (Nam California), để tưởng niệm các chiến sĩ Việt-Mỹ đã hy sinh mạng sống vì Chánh Nghĩa Tự Do, và khích lệ nhau phục vụ nền Văn Hóa Dân Tộc Việt. Đó là "Ngày Hội Ngộ Văn Hóa Phụ Nữ Việt Nam Toàn cầu 40 năm tị nạn" diễn ra trong 2 ngày 17 & 18 tháng tư 2015 tại "trái tim tị nạn" City of Westminster.

Lần đầu tiên, hầu hết quý vị Dân Cử người Mỹ gốc Việt, cùng nhiều nhân vật tên tuổi trong cộng đồng VN ở Bắc & Nam California đã đến hội trường Rose của Tòa thị chính Westminster, để chào đón quý nữ lưu sinh hoạt văn hóa.

Như vậy, giới Phụ Nữ Tài Năng VN đã đốt lên được một phần "Ngọn Lửa Tự Do Dân Chủ" nhân mùa Quốc Hận năm thứ 40, như một thông điệp đấu tranh gởi tới đồng bào trong & ngoài nước về một tương lai tươi sáng cho dân tộc Việt.

Kính mong quý vị tiếp tay quý Phụ Nữ Tài Năng VN chuyển Bản Tin sau đây tới quý đồng hương khắp năm châu bốn biển:

Trân trọng.

* Nữ Nhạc sĩ Việt Nam của Thế Kỷ XX trình diễn lần đầu tiên tại Orange County với 3 nhạc phẩm “Hòn Vọng Phu”.
Chương Trình ngày đầu là “Dạ Hội Bóng Hồng Quê Hương” từ 6:00G tối đến 11:00G đêm Thứ Sáu ngày 17/4/2015 tại Paracel Seafood Restaurant (thành phố Westminster), với các tiết mục sinh hoạt & ca nhạc đặc sắc. Phần trình diễn bởi Giáo sư/nhạc sĩ Linh Phương (đến từ Texas) nổi bật trong tối hôm đó. Nhạc sĩ Linh Phương từng được Trung Tâm Tiểu Sử Quốc Tế của học viện Cambridge Anh Quốc đánh giá là 1 trong 2000 nhạc sĩ xuất sắc của Thế kỷ XX. Với 2 nam nữ nghệ sĩ phu diễn (Kevin Khoa & Phi Loan), nhạc sĩ Linh Phương đã trình tấu tuyệt với 3 nhạc phẩm "Hòn Vọng Phu" của Lê Thương. Đây là lần đầu tiên người nữ nhạc sĩ của thế kỷ XX này biểu diễn tài nghệ tại Orange County, đã được cử tọa hâm mộ nồng nhiệt và vỗ tay tán thưởng như không muôn dứt. Ngoài ra, phần đấu giá bức tranh "Cò Bay" của nhiếp ảnh gia Hoa Azer (Texas) từng được Huy Chương Vàng Quốc Tế cũng được cử tọa hưởng ứng nồng nhiệt. Kết qủa nữ bác sĩ/thi nhân Triệu Xuận đã nhận được bức tranh quý đó với số tiền 1 ngàn 200 Mỹ kim. Chương trình văn nghệ thực hào hứng với các nam nữ ca sĩ: Mai Ngọc Khánh, Như Mai, Kevin Khoa, Mỹ Thuý, Ngọc Thuý v.v…
Dịp này, người đứng đầu danh sách bảo trợ là Hoa Hậu hoàn vũ Loan Châu (Chủ Tịch Hiệp Hội Những Tấm Lòng Vàng) đã được Trưởng Ban Tổ Chức nữ sĩ Dương Hồng Anh trao tặng một trophy cảm tạ và ngợi khen những công tác từ thiện của nhóm cô.
39 Phụ Nữ Tài Năng được mọi giới Việt Nam chào đón trên thảm đỏ.
Chương trình trưa Thứ Bảy ngày 18/4/2015 tổ chức ngay tại hội trường Rose thuộc Tòa thị chinh Westminster. Hầu hết những vị dân cử Mỹ gốc Việt tại miền Nam California đều hiện diện. Đó là Thương nghị sĩ Janet Nguyễn, Giám Sát Viên Orange County LS Andrew Đỗ, Thị trưởng Westminster Tạ Đức Trí, Nghị viên/Phó biện lý Chris Phan (Hội Đồng Thành Phố Garden Grove) v.v… Phiá cộng đồng có sự hiện diện của nhị vị Chủ Tịch của 2 Cộng Đồng Người Việt miền Nam Mở đầu là phần chào cờ Việt-Mỹ và 1 phút mặc niệm đảm trách bởi Ông Phan Văn Chính (Phó Chủ Tịch Cộng Đồng Việt-Nam Nam California). Tiếp theo là diễn văn khai mạc của nữ sĩ Dương Hồng Anh. Bà cảm tạ quý vị đã đến hội trường Westminster hỗ trợ quý chị em trên con đường phục vụ cộng đồng và nền văn hóa dân tộc.
Thi văn sĩ Quốc Nam (Chủ Tịch Đông-Phương Foundation) đã nói qua về sự hình thành Tổ Chức Văn Chương Phụ Nữ Việt Nam Toàn Cầu đã sinh hoạt được 10 năm. Năm 2013, trong dịp Đại Hội Văn Chương Phụ Nữ VN Toàn Cầu kỳ 3 tại San Jose, Đông Phương Foundation đã bắt đầu vận động một giải thưởng kiểu Nobel cho dân tộc Việt là Giải Quốc Tế Tượng Vàng VN. Ông đã trao tay Giải Tượng Vàng Hòa Bình tượng trưng cho Nữ tác giả Jackie Bông, người phụ nữ cấm bút từng hoạt động từ thiện 60 năm qua.
Kế tiếp là nữ tài từ Kiều Chinh, cùng một số nhân vật dân cử và cộng đồng đã lên diễn đàn chào mừng quý Phụ Nữ Tài Năng. Đó là Thượng nghị sĩ Janet Nguyễn, LS Giám Sát Viên Orange County Andrew Đỗ, Thị Trưởng Westminster Tạ Đức Trí, TS Chủ Tịch Mạng Lưới Nhân Quyền.
Hai phụ nữ lên phát biểu được cử tọa tán thưởng là Nữ văn sĩ dấu tranh Trần Khải Thanh Thủy (đến từ thủ phủ Sacramento) và Hoa Hận Lam Châu. 
Nữ tác giả Trần Khải Thanh Thủy sau khi phân tích về những gian manh và ác độc của bọn CSVN đã nhấn mạnh: “Cả một nền văn học bị bức tử trở thành xanh xao, còi cọc, suy dinh dưỡng, hoặc chết yểu trong bóng tối ngột ngạt, ám khí, ác độc của Đảng Cộng Sản. Ngược lại, chỉ những tác phẩm nhảm nhí, thiếu chất lượng, làm tổn hại đến thẩm mỹ của công chúng, cũng như làm tầm thường nền văn học nước nhà, lại được phát triển ào ào như nấm độc sau mưa”.
Hoa Hậu hoàn vũ Lam Châu sau khi gởi lời chào mừng và ngưỡng mộ quý Phụ Nữ Tài Năng, đã nói về Hiệp Hội Những Tấm Lòng Vàng từng đóng góp trong thời gian 20 năm qua tại Việt Nam, Cambodia và Ấn Độ. Cô cho rằng quý Phụ Nữ sinh hoạt Văn Hoá được đón chào trên sân khấu trải thảm đỏ nhân dịp kỷ niệm 40 năm tị nạn là một sự kiện lịch sử cộng đồng.
Trong khi chương trình diễn ra, hội chợ văn học nghệ thuật bày ra quanh hội trường, đã được quý nữ văn nghệ sĩ bày bán sách báo, CDs & DVDs tràn ngập. Triển lãm tranh ảnh có 2 hoạ sĩ Cát Đơn Sa & Tô Kiều Nhi, cùng 2 nhiếp ảnh gia Hoa Azer & Lạc Kim Cương
Trong suốt chương trình sinh hoạt, Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ với ban đồng ca hơn 20 ca viên mà 2/3 là các giọng ca nữ, đã đóng góp nhiều bản đồng ca rất ý nghĩa như “Thắp Sáng Việt Nam”, “Ngày quật khởi”, “Hẹn Ngày Về” v.v…
Các tin tức về Ngày Hội Ngộ Văn Hóa Phụ Nữ đã được loan đi rất nhanh chóng trên các màn ảnh truyền hình của hàng chục Đài TV, và nhiều websites khắp địa cầu. Trong làng báo chí Quận Cam thì 3 nhật báo Việt Ngữ loan tin nhanh nhất là Người Việt, Việt Báo & Viễn Đông.
Được biết quý Phụ Nữ Tài Năng tham dự Ngày Hội Ngộ Văn Hóa Phụ Nữ VN Toàn Cầu đánh dấu 40 năm tị nạn đã ghi danh đúng 40 vị, nhưng vào phút chót nữ tác giả/nhà từ thiện Jackie Bông bị ngã bệnh bắt ngờ phải nằm bệnh viện ở Thailand, nên tổng số chính xác là 39 nữ lưu thuộc 4 thế hệ từ 40 tuổi tới 95 tuổi. Danh sách theo thứ tự ABC sau đây: Bùi Phượng Vĩ, Chúc Anh, Cát Đơn Sa (Diễm Châu), Diễm Thúy, Đỗ Thuấn, Dương Hồng Anh, Hải Yến, Hồ Duy Hạ, Hồ Hương Lộc, Hồ Thị Triều Lam, Hoa Azer, Hoàng Xuyên Anh, Kiều Mỹ Duyên, Lạc Kim Cương, Lê Ngọc Loan, Lê Thị Việt Nam, Linh Phương, Madalena Lài, Mỹ Thuý, Ngô Thy Vân, Nguyễn Ninh Thuận, Nguyễn Thanh Xuân, Nguyễn Thị Mắt Nâu, Như Hảo, Phi Loan Hoàng Thị Cỏ May, Song Phương, Thảo Hoàng, Thảo Trang, Thiên Nga Thủy, Thiên Phương, Thu Nga, Tô Kiều Nhi, Trần Khải Thanh Thủy, Trần Thị Hà Thân, Trang Ngọc Kim Lan, Triệu Xuân, Tưởng Dung, Vi Vân, Việt Nữ Hoan Châu. (TMN News Agency, since 1970)
Chú thích 5 tấm hình:
1. Phái Đoàn Phụ Nữ Tài Năng đặt vòng hoa tưởng niệm trước Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ. Photo by Nguyễn Minh.
2. Thi văn sĩ Quốc Nam giới thiệu trước cử tọa quý Phụ Nữ Tài Năng hiện diện. Photo by Nguyễn Minh.
3. Nữ nhạc sĩ của thế kỷ 20 Linh Phương trình tấu 3 nhạc bản "Hòn Vọng Phu". Hình từ trái qua phải: Phi Loan, Kevin Khoa & Linh Phương. Photo by Nguyễn Minh.
4. Bác sĩ Triệu Xuân nhận Bức tranh đấu giá. Hình từ trái qua phải: Nhạc sĩ Hoàng Bá, nhiếp ảnh gia Hoa Azer & Triệu Xuân. Photo by Nguyễn Minh.
5. Một góc hội trường Rose thuộc Toà thị chánh Westminster.Photo by Nguyễn Minh.