Thư Mời : Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam.

Thư Mời : Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam.

 

thong-cao          logovtlv1

Thư Mời “Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam”.

vtlv-0

Ghi dấu Ngày Quốc Hận năm thứ 42 (1975-2017) của tập thể Người Việt Tự Do toàn cầu, Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, Cơ Sở Văn Hóa Đông-Phương & Nhóm Bạn Văn Nghệ sẽ tổ chức 3 ngày “Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam kỳ I” vào trung tuần tháng tư năm 2017, tại Thung Lũng Hoa Vàng (San Jose, California).

Ban Tổ Chức gồm: Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt thành lập từ năm 1992, liên tục hoạt động văn học nghệ thuật hơn 24 năm, đã duy trì giải thưởng văn thơ nhiều năm qua – Đông Phương Foundation thành lập từ năm 1976, liên tục sinh hoạt văn học nghệ thuật & cộng đồng hơn 40 năm, từng tổ chức Giải Quốc Tế Tượng Vàng Ca Sĩ VN 19 năm + Đại Hội Văn Chương Phụ Nữ VN Toàn Cầu hơn 11 năm – và Nhóm Bạn Văn Nghệ quy tụ đông đảo văn nghệ sĩ tên tuổi.
Nay, nhân dịp trọng đại nêu trên, Nhóm chúng tôi hân hạnh kính mời quý Nam & Nữ Văn Nghệ Sĩ Việt Nam toàn cầu (nhà thơ, nhà văn, bình luận gia, kịch tác gia, chủ báo, chủ đài, chủ websites, nhà truyền thông, nhạc sĩ, họa sĩ, điêu khắc gia, nhiếp ảnh gia, đạo diễn điện ảnh, soạn giả, tác giả v.v…) tham dự 3 ngày “Quốc Tế Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam kỳ I” trong 3 ngày 14, 15 & 16 tháng tư năm 2017.
vtlv-2

 

Chương Trình tổng quát như sau:

  1. Thứ Sáu ngày 14/4.

    – Từ 6:00G chiều, Ban Tổ Chức chào mừng quý Nam/Nữ Văn Nghệ Sĩ VN đến San Jose từ khắp thế giới, với tiếp tân & ca nhạc tại Câu Lạc Bộ Mây Bốn Phương.
  2. Thứ Bảy ngày 15/4.

– Từ 9:00G sáng tới 1:00G trưa: 4 nhóm hội thảo văn hóa/cộng đồng, tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng Việt VACC & CLB Mây Bốn Phương.

– Từ 2:00G trưa tới 6:00G chiều: Đại Nhạc Hội (đặc biệt Ca nhạc & thuyết trình về “Đại thi hào Nguyễn Du & Truyện Kiều) – Hội Chợ Sách/Báo, tranh/ảnh/tượng, DVDs/CDs thơ/nhạc v.v… Tại hội trường lớn Y.B. High School.

  1. Chủ Nhật ngày 16/4.

– Từ 9:00G sáng tới 3:00G chiều: Du ngoạn San Francisco (trả thêm lệ phí nhỏ)..

– Từ 6:00G chiều tới 11:00G đêm: Dạ Hội & vinh danh quý Nam/Nữ Văn Nghệ Sĩ VN đến từ khắp nơi trên thế giới, tại một nhà hàng lịch sự 800 ghế tại San Jose.

vtlv

Điều kiện tham dự: Tất cả quý tác giả (Nam & Nữ) có tác phẩm đã xuất bản; chủ báo/đài hoặc đại diện thẩm quyền; nam/nữ nghệ sĩ (nhạc sĩ, ca sĩ, cổ nhạc…) đã có tối thiểu 1 CD/DVD hoặc 1 quyển sách trên thị trường; nam/nữ nghệ nhân (hội họa, nhiếp ảnh, phim ảnh…); chủ websites đã hoạt động từ 4 năm trở lên; Trưởng một Tổ Chức Văn Hóa trên 5 năm; quý Nam/Nữ hành nghề truyền thông báo chí hoặc nghệ thuật chuyên nghiệp 5 năm trở lên.

Thư ghi danh, quý vị nhớ kèm theo 1 tấm hình chân dung và tiểu sử, để Ban Tổ Chức thực hiện tập sách giới thiệu các văn nghệ sĩ có mặt trong Quốc Tế Đại Hội 2017.

Khi nhận được sự nhận lời tham dự của quý Nam/Nữ Văn Nghệ Sĩ, Ban Tổ Chức sẽ gởi Thư Mời “3 ngày Quốc Tế Đại Hội” chính thức & chương trình chi tiết tới quý vị ngay. Hạn chót ghi danh là ngày 30 tháng 1/2017. Chia xẻ phí tổn 3 ngày Quốc Tế Đại Hội là 125 Mỹ kim (bao gồm ăn uống, và các sinh hoạt suốt 3 ngày). Check hay Money Order, xin đề: Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.
Kính mong qúy Nam/Nữ Văn Nghệ Sĩ Việt Nam thuộc giới văn học nghệ thuật & truyền thông báo chí, cùng nhau tham dự cuộc gặp gỡ giữa những văn nghệ sĩ và nhà truyền thông (báo/đài/website) lần đầu tiên được tổ chức tại Hoa Kỳ sau 42 năm Người Việt lưu vong nơi hải ngoại. Qúy Nam/Nữ Văn Nghệ Sĩ vui lòng liên lạc sớm, về 1 trong 3 địa chỉ sau đây:
vtlv-3

* Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt 640 Rettus Ct, San Jose, CA 95111; Tel: (669) 251-5366;
Email: cnchinhnguyen7@gmail.com

* Cơ Sở Văn Hóa Đông-Phương P.O.Box 18104 Seattle, WA 98118; Tel: (206) 722-
0231; Email: tuongvang@gmail.com.

* Nhóm Bạn Văn Nghệ 9155 Pacific Ave #246, Anaheim, CA 92804; Tel: (714) 360-
7356; Email: tran_hao47@yahoo.com./.

 

vtlv-1

Thành thật cám ơn quý vị.

TM Ban Tổ chức.
Chinh Nguyên
stampVTLV




Thông Báo Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016

Dầu Thư VTLV

Thông Báo Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016


Nhằm mục đích bảo tồn và phát triển văn học dân tộc nơi hải ngọai, đồng thời cũng nhằm khuyến khích tinh thần sáng tác của mọi tầng lớp người Việt yêu thích văn thơ. Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt xin trân trọng thông báo đến đến quý vị, cuộc thi Truyện ngắn, và Thơ của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt lấy tên là Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016.

 

  1. Nội dung: Giải Văn Thơ Lạc Việt 2016 không hạn chế đề tài, tuy nhiên ưu tiên những tác phẩm viết về: Tình yêu quê hương, Ca ngợi lòng ái quốc đang nổi lên trong nước bằng những cuộc biểu tình vừa qua, để lật đổ chế độ Cộng Sản đảng trị, và chống đối Trung Công xâm lăng lãnh thổ.
    Không chấp nhận các bài viết đề cao hoặc tuyên truyền cho Cộng Sản, không phỉ báng đoàn thể hay cá nhân trong cộng đồng.
  2. Điều kiện dự thi:
    2A/ Tất cả mọi người Việt không kể tuối, sống trong, và ngoài nước đều có quyền dự thi. Một người có thể dự thi cả hai bộ môn văn và thơ ,

2B/ Mỗi người được gửi hai truyện ngắn tối đa, mỗi truyện năm trang đánh máy, và thơ tối đa ba bài, mỗi bài không quá 28 câu. (Nếu bài thơ dài quá giới hạn 28 câu sẽ bị loại)
2C/ Tác phẩm dự thi chưa hề công bố trên bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng, hoặc ấn phẩm nào. Trong thời gian cuộc thi diễn ra, các tác phẩm dự thi không được công bố trên các tuyển tập và báo chí. Trừ trường hợp tác giả dự thi đề nghị được rút tác phẩm khỏi cuộc thi.

  1. Điều kiện gởi bài:

3A/ Bản thảo được đánh máy rõ ràng gởi qua e-mail,
3B/ Dùng Unicode – Font chữ Time New Roman-12, và không trình bày khác lạ. (Nếu có trình bày khác lạ sẽ bị loại)
3D/ Không nhận bài viết tay, hoặc bài đánh máy trên giấy gởi qua bưu điện.
3E/ Bài gửi qua e-mail về xin ghi kèm địa chỉ, email, số điện thoại. Lý lịch kèm theo một tấm hình (Phần này sẽ được dùng để in Tuyển Tập nếu có thể.)
Các tác phẩm dự thi sẽ được chọn đăng trên báo chí Việt ngữ vùng Vịnh, và web site VTLV.
3F/ VTLV giữ bản quyền những bài trúng giải, Ban tổ chức không trả lại bản thảo.
3G/ Trong trường hợp VTLV dự trù in Tuyển Tập Đặc Biệt giải thi Văn Thơ Lạc Việt sẽ thông báo sau tới các tác giả dự thi về vấn đề tài trợ in ấn phí.

  1. Giải thưởng: Giải nhất, nhì, và ba đối với tác gỉa trên 20 tuổi.
    Giá trị giải thưởng cho mỗi bộ môn văn và thơ như sau:
    Giải Nhất : $500.00 US
    Giải Nhì : $300.00 US
    Giải Ba : $200.00 US
  2. Thời gian: Bắt đầu nhận tác phẩm dự thi từ tháng 03 năm 2016, hạn cuối cùng là ngày 30 tháng 10 năm 2016. Công Bố kết quả tháng 10 năm 2016 phát giải thưởng vào tháng 11, năm 2016.5- Gửi Tác Phẩm:
    5A/ Tác phẩm gởi qua địa chỉ email giaivantholacviet@gmail.com Phần lý lịch, hình cá nhân : Ghi rõ tên các tác phẩm dự thi dưới phần lý lịch.
    Ban Tổ Chức dành quyền loại bỏ những tác phẩm vi phạm thuần phong mỹ tục hoặc gây chia rẽ hận thù.
    Ban Điều Hành Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, tác giả đã trúng giải VTLV không được dự thi.

Muốn biết thêm chi tiết và gởi bài xin liên lạc :
Nhà thơ : Đông Anh : donganhndt@gmail.com, (408) 896-0158.
Nhà văn : Chinh Nguyên: cnchinhnguyen7@gmail.com, (669) 279-2532.
Nhà báo: Lê Văn Hải: khongquanlevanhai@gmail.com, (408) 365-2947

Nhà văn : Thanh Xuân : sueannec@hotmail.com (408) 679-1400
Nhà văn Thai NC : thainc2013@gmail.com  (408) 891-0991

Ghi chú :
Để việc chấm thi được công bằng BDH/VTLV sẽ thực hiện như sau :
1/ Không công bố ban giám khảo trước ngày công bố kết quả trúng giải.
2/ Xóa bỏ tên tác giả trên tác phẩm và đánh dấu mật mã cho mổi tác giả trên mỗi tác phẩm.
3/ Sau khi điểm chấm từ các quí vị giám khảo gởi về, Ban Điều Hành làm tổng kết trung bình cộng để thấy tác phẩm nào cao điểm.
4/ BDH sẽ bỏ tên tác giả trở lại cho mỗi tác phẩm để biết ai trúng giải.
5/ Báo cáo với quí vị giám khảo kết quả giải thi Văn Thơ Lạc Việt năm 2016.
6/ Thông báo trên web Văn Thơ Lạc Việt và Facebook kết quả giải thi Văn Thơ Lạc Việt năm 2016,
7/ Dự trù ngày phát giải.
8/ Liên lạc với quí vị giám khảo và tác giả trúng giải để thông báo về ngày phát giải Văn Thơ Lạc Việt năm 2016.
San jose, ngày 20 tháng 05 năm 2016
Chủ tịch Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt
Chinh Nguyên

stampVTLV




Mạc Phương Đình : họp mặt của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt xuân 2010 :

Cám ơn Anh Chị Đông Anh,
Và Thi Đàn Lạc Việt đã tổ chức một buổi họp mặt đầu Xuân tại tư gia Anh Chị với sự tham dự đông vui các Thi Văn hữu cùng bạn bè, trong tình Thân Ái,

Mời Qúy vị bấm vào các link duoi đây để xem buổi họp mặt của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt xuân 2010 :

http://www.youtube.com/watch?v=iJ2gRNrfZHQ

http://www.youtube.com/watch?v=SwqgVGZZS30

http://www.youtube.com/watch?v=4bp7qplNoec

http://www.youtube.com/watch?v=zJZC4AzLrnw

http://www.youtube.com/watch?v=RuWl4eHc_gM

http://www.youtube.com/watch?v=Jy-tgrPnFno

http://www.youtube.com/watch?v=ImlqXykC8l0

http://www.youtube.com/watch?v=aDNSpSo-9zs

http://www.youtube.com/watch?v=iJ2gRNrfZHQ

http://www.youtube.com/watch?v=2RVNV7Z3bXM

http://www.youtube.com/watch?v=Txb5WXonlog

mpd.




LM Nguyễn Văn Lý : Phác thảo chân dung

Phác thảo chân dung

Người Chiến sĩ Hòa bình Việt Nam hôm nay

(có bổ sung)

TNLT Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý – 30.4.2006 – 30.5.2010

               

                                Muốn đạt được điều này, cần phải có một thế hệ chiến sĩ hòa bình đích thật. Người viết xin đề nghị một số nét phác thảo chân dung lớp người chiến sĩ hòa bình (NCSHB) thích hợp cho Đất nước Việt Nam hiên nay.

                1- Có một đời sống tâm linh và khiêm tốn vững chắc :

                Hòa bình không phải là hết chiến tranh. Hòa bình không phải chỉ là có đủ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe cộ, bệnh viện, trường học, sân vận động, nhà hát,… Hòa bình trước hết và trên hết là một trạng thái tâm hồn an vui thanh thản với bản thân, từ hòa và nhân ái với người khác cận kề xung quanh trong một môi trường xã hội đạo đức lành mạnh và thân mật tâm giao với Thượng Đế là Cha Nhân Từ vô cùng và thật sự của mình.

                Do đó, NCSHB đích thực, trước khi có khả năng đưa hòa bình đến cho Dân tộc, phải là người hòa bình thực sự từ trong tâm khảm sâu xa của mình ; phải có một đời sống thiền định – cầu nguyện ổn định bền vững : mỗi ngày ít nhất phải có 30-60 phút dành cho việc tâm sự với Đấng Tạo Hóa, hồi tâm nhận định lại bản thân và sám hối.

                Không có việc tối thiểu này, dứt khoát không thể làm chiến sĩ hòa bình được, mà chỉ là người ảo tưởng chỉ muốn dựa vào nỗ lực nhân bản để giải quyết vấn đề hòa bình, thậm chí chỉ thích la lối, thóa mạ người khác và khi có điều kiện thì đương nhiên thích đấm đá và dùng bạo lực để nói là xây dựng hòa bình chứ thực ra là chỉ tạo nên lầm lạc, xáo trộn, bất ổn, bất công và chiến tranh mà thôi (kinh nghiệm vô cùng xót xa của cách thức dùng bạo lực chiến tranh để giải quyết vấn đề hòa bình cho Việt Nam từ 80 năm qua hẵn đã quá đủ cho chúng ta rồi).

                Cần có một thứ tự ưu tiên về thời giờ và công việc hòa bình : Thượng Đế, Tha nhân và Bản thân. Đảo ngược lại chắc chắn sẽ chỉ dẫn đến ích kỷ, khủng hoảng và thất bại ngay không biện minh được.

                Chính nhờ đời sống tâm nguyện và khiêm tốn mà NCSHB kiên vững trong mọi thử thách, biết vượt qua các trở ngại, phục hồi khi vấp sai lầm, không sợ hãi bất cứ đe dọa nào, kể cả các lầm lỗi của chính bản thân.

                NCSHB có đời sống tâm nguyện không sợ bị tra tấn, đánh đập, đói khát, tù đày, khủng bố, vu khống, mạ lỵ,… chỉ sợ một điều duy nhất là chính mình làm điều sai trái. Nhưng tội lỗi cũng không đáng sợ, vì đã có đời sống sám hối giúp phục hồi đời sống tâm giao thân mật với Thượng Đế rồi. Cuối cùng, NCSHB không còn bất cứ đối tượng nào để sợ.

                Ai tự hào rằng mình tự nỗ lực để tự giải quyết các vấn đề này, người đó đã thất bại ngay từ đầu. Cần khiêm tốn nhận ra giới hạn rất mong manh của bản thân để luôn coi mình là hèn kém, phải có sự soi dẫn nâng đỡ của Thượng Đế và của tập thể cộng đồng. Càng khiêm tốn càng là chiến sĩ hòa bình.

                2- Sống công bằng, trong sạch và nhân từ :

                Một vấn đề nhạy cảm vào bậc nhất là các cộng sự viên cũng như quần chúng rất quan tâm đến tính công bằng ngay thẳng trong vật chất và các quyền lợi của người khác. Do đó, điều đầu tiên NCSHB cần lưu tâm là lo sao cho mình được uy tín trong ngân khoản và tài sản chung. Cần hiểu cho thật đúng rằng : tài sản là của nhân loại, những gì mình có trong tay là của muôn người được Tạo Hóa ký thác cho mình quản lý và phân phối sao cho công minh, chứ không phải mình được toàn quyền phung phá mặc sức.

                Khi có nhiệm vụ quản lý thì hiểu rằng mình chỉ là cái máng chuyển thông tài sản : máng thì phải dốc để tài sản lưu thông nhanh. Lưu thông xong là máng phải khô không tồn đọng. Ngoài việc phải sống công bằng về của cải vật chất là điều dễ thấy, còn cần công bằng về các tài sản khác như danh dự, tình cảm, ngôn ngữ là những giá trị còn quí giá hơn vật chất gấp ngàn lần. Công bằng trong mọi lãnh vực chính là sống trong sạch ngay từ trong tâm ý : Chính ý, chính niệm, chính ngôn, chính hành.

                Công bằng là không gây ra bất công cho ai. Nhưng như vậy chưa đủ. Sống tốt với người xung quanh còn cần phải từ hòa : nhân từ và khoan hòa. Nếu phê phán cộng sản là gian ác mà chúng ta thiếu nhân từ thì khi đã có quyền lực chúng ta cũng sẽ gian ác không kém. Nếu phê phán cộng sản là độc tài mà chúng ta thiếu khoan hòa thì khi nắm quyền chúng ta cũng sẽ độc tài như thế hoặc tệ hại hơn.

                Chỉ biết đòi công bằng mà thiếu nhân từ thì chắc chắn sẽ tạo nên bất công khác và xã hội lại mất ổn định. Nhờ lòng nhân ái như hoa trái mà công bằng trở thành công minh, tức công bằng trong sáng suốt. Cuộc sống an vui nhờ lòng nhân từ, hơn là chỉ nhờ công minh.

                3-  Có nhận thức và thái độ chuẩn xác với chủ nghĩa và chế độ CSVN :

                Đây là vấn đề phức tạp và khó khăn nhất không chỉ đối với toàn Dân, những người Dân bình thường mà ngay cả giới trí thức, sĩ phu, chức sắc các Tôn giáo (TG) và đối với cả chính cấp lãnh đạo cộng sản nữa.

                • Chủ nghĩa và chế độ CSVN tốt hoặc xấu đến mức nào ? Phải có thái độ đúng đắn nào với chủ nghĩa và chế độ ấy ? Bao nhiêu năm, bao nhiêu người mơ hồ và ảo tưởng về vấn đề này, dẫn đến nhiều lựa chọn lầm lạc, tác hại không những cho bản thân mà còn cho cả Dân tộc đến những 80 năm qua. Đây cũng chính là thảm họa của các TG tại VN. Lẽ ra các TG phải là đuốc soi đường cho toàn Dân lựa chọn, nhưng đáng tiếc là vì nhiều lý do rất phức tạp, hầu hết các TG tại VN đã chưa làm được điều này, chẳng những khiến cho TG mình bị phân hóa, biến chất và thoái hóa lắm khi rất trầm trọng, mà còn làm cho toàn Dân lầm lạc theo.

                Lẽ ra các TG phải thống nhất nhận thức và thái độ đối với chủ nghĩa và chế độ CSVN cách vững chắc và đầy đủ, rồi mới nghĩ đến việc phát triển. Thực tế, hầu hết các TG tại VN đều đã làm ngược lại, là đang khi chưa thể tìm ra con đường thống nhất nhận thức và thái độ đối với chủ nghĩa và chế độ CSVN, mà lại chỉ quá hăng say muốn phát triển. Kết quả là sự lựa chọn rất tùy tiện của từng nhà lãnh đạo đơn lẻ đã làm cho việc thỏa hiệp với Cộng sản ngày càng trở nên phổ biến.

                Thay vì cần làm ĐÚNG VIỆC, ai nấy đều chỉ thích làm ĐƯỢC VIỆC dù phải trả các giá quá đắt di lụy lâu dài và rất trầm trọng cho lịch sử muôn đời. Quá nhiều người, kể cả một số Chức sắc TG, sử dụng “bao thư”, “lót tay”, “bôi trơn” ; tham dự các buổi họp hình thức vô bổ hoặc tác hại, hiện diện các “meeting trọng thể”, phát biểu, làm văn,… ca tụng không biết ngượng… một cách quá tự nhiên, thông thạo, thành nếp, coi như là đương nhiên phải thế, không thể khác !!!

                Sử dụng các từ “giải phóng, ngụy quân, ngụy quyền” một cách quen thuộc thiếu ý thức không còn sỉ diện gì nữa, dù “cha mẹ mình, chú bác mình, bạn hữu mình,…” vốn là các Chiến sĩ – kể cả 158 Chiến sĩ đã tử trận để bảo vệ không thành công quần đảo Hoàng Sa năm 1974 (trong khi quân xâm lược phương Bắc lại được gọi là các "đồng chí cao cả Bắc triều") – anh dũng gian khổ trăm bề, đã từng đổ xương máu bảo vệ mình một thời bình yên để ăn học, tu luyện… trong mấy chục năm trời !!!

                • Ngày nay, với những bằng chứng quá rõ về sự sai lầm của CSVN, không chỉ trong một số công việc, mà sai lầm tận trong bản chất học thuyết và phạm các tội ác đặc biệt nghiêm trọng cách có hệ thống và kéo dài gần cả thế kỷ, như Nghị quyết 1481 ngày 25-01-2005 của Nghị viện Hội đồng Châu Âu gồm 46 Nước vừa khẳng định, thế mà nhiều người vẫn được coi là “trí thức, sĩ phu” vẫn chưa dứt khoát được trong nhận thức là CSVN thực sự tốt hay xấu ? Một hệ thống bạo quyền như vậy mà tiếc thay một số người vẫn còn mơ hồ cho là cần thiết sao ? Thực ra nó đã quá hãi hùng cho toàn Dân VN rồi !!!

                • NCSHB, dựa vào những kiến thức quân bình, xác thực, những thông tin rộng rãi đa phương, nhìn thẳng vào thực tế Việt Nam hôm nay (2010), bình tĩnh tìm mọi phương cách ôn hòa – văn minh, chỉ nguyên bằng lời nói và chữ viết (không la lối, thóa mạ, cường điệu, chửi rủa…), để quyết tâm nỗ lực chấm dứt CSVN, chuyển đổi Quê hương theo kinh nghiệm thành công của đại đa số các Nước văn minh toàn cầu, đặc biệt là các Nước Bắc Âu.

                4- Có tâm hồn luôn hòa bình nhân từ :

                NCSHB không có hận thù với bất cứ ai. Kiên quyết lên án tội ác, độc đoán, nhưng luôn đầy cảm thông và trắc ẩn đối với nhân viên của bạo quyền. Với các Anh hùng Dân tộc chính danh và các người lành thánh, NCSHB luôn cảm phục. Còn đối với các đối tượng khác, NCSHB nên luôn biết cảm thông. Ngoài ra NCSHB không cần có thái độ thứ 3. Chỉ nguy hại. Chính tâm hồn hòa bình làm tăng sức chiến đấu cho chúng ta, khiến chúng ta trở nên vô địch.

                5- Biết sử dụng Internet :

                Mọi chế độ độc tài và nhất là CSVN dùng sự bưng bít, xuyên tạc, dối gạt thông tin và sự sợ hãi của toàn Dân, kể cả sự sợ hãi của chính chủ tịch đảng, chủ tịch nước, để kéo dài sự thống trị và nô dịch Dân.

                Vì vậy, Thông tin Ngôn Luận là vũ khí lợi hại nhất để giúp Dân thắng nỗi sợ hãi truyền kiếp và nhận thức đúng Sự Thật của Đất nước. Từ đó, Dân sẽ biết cách tập hợp thành sức mạnh để giải thể Chế độ CS. (Tìm đọc “Làm sao thắng sợ hãi” ngày 24-8-2005 của Lm Nguyễn Văn Lý).

                Bởi vậy, nhất là trong thời đại thông tin toàn cầu hiện nay, NCSHB phải thông thạo sử dụng Internet, phải coi Internet là vũ khí lợi hại nhất để thắng gian tà một cách hợp pháp mà bạo quyền CS rất khó đối phó. Lý do là vì CSVN dù biết Internet là tử huyệt của mình, vẫn buộc lòng phải giao lưu với Quốc tế và vẫn phải rêu rao với Quốc tế rằng VN là văn minh thông thoáng.

                NCSHB phải biết dựa vào điều 5,1 ; 5,2 và 19,2 của Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc ; mục I, 2 chương II của Sách Trắng về Nhân quyền – Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam : “Chính phủ Việt Nam chủ trương khuyến khích và tạo mọi điều kiện để người Dân tiếp cận, khai thác và sử dụng rộng rãi thông tin trên mạng Internet để tận dụng Internet.

                Vì tất cả mọi hạn chế về Internet, nếu có, đều trái với nguyên tắc này của Sách Trắng do Bộ Ngoại giao Nước CHXHCNVN công bố tại Hà Nội, ngày 18.8.2005 và Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc được biểu quyết ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24-9-1982.

                6- Đi vào một kế hoạch thực tế do một tập thể nào đó chỉ đạo sát với tình hình Đất nước :

                Không mơ hồ, hoang tưởng, không cầu toàn, không sử dụng bạo lực trong ngôn từ cũng như trong hành động, không do dự chần chừ, không quá dè dặt đa nghi đâu cũng thấy “cò mồi”/ “chó săn” / “đấu tranh cuội” / “tay sai CS”.

                Mặc dù NCSHB chỉ liên kết với những ai biết dứt khoát với ông Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Cộng sản như một điều kiện duy nhất, không mơ hồ trong vấn đề rất cơ bản này, nhưng NCSHB phải mạnh dạn tin vào lương tri lành mạnh của người Dân bình thường đã biết thế nào là CS, luôn thao thức cho một tương lai của Đất nước sớm tươi sáng hơn ; biết tin tưởng vào một tập thể tương đối chưa lý tưởng, chỉ cần cùng một tâm ý và có một ban điều hành tạm biết làm việc ; có tinh thần đoàn kết, trung thực và kỷ luật.

                Dần dần tập thể ấy sẽ biết liên kết với các tập thể khác để trở thành các liên minh lớn mạnh hơn hầu từng bước giành lại 26 Nhân quyền cơ bản cho toàn Dân VN (Các tài liệu nền tảng của Khối 8406, số 4, trang 8-9). Chính phong trào sẽ tự đào tạo ra các nhà lãnh đạo có đường lối và phương cách dẫn đến thành công.

                7- Thái độ khi đối diện với bạo quyền CSVN :

                7.1- Công An / Cán bộ CS đến thăm tại nhà : bước đàn áp 1 :

                Trong chế độ CS, khi Cán bộ / Công an của tà quyền / bạo quyền (từ đây xin gọi chung là CB, Dân quen gọi là Cá) đến thăm tại nhà, sự thường ai cũng lo sợ. NCSHB cần ứng xử thật chuẩn như sau :

                • CB đến thăm tại nhà tức là mới đàn áp bước 1, là tìm cách tiếp cận chúng ta để chỉ thăm dò tìm phương án. Chưa có gì nghiêm trọng.

                • Vừa cầu nguyện, vừa bình tĩnh, lịch sự trong tâm ý chủ động chinh phục CB, chiến thắng sự quấy rối tâm trí (mind harassment) của bộ máy công quyền chuyên đàn áp, khủng bố Dân rất điêu luyện.

                • Chủ yếu lắng nghe, nói rất ít hoặc cố gắng yên lặng tối đa để xem thâm ý các CB muốn gì. Tuyệt đối tránh hấp tấp cãi lại, nổi nóng sẽ sinh nhiều sơ hở. Thường CB không đủ lý do chính đáng trong lương tâm để đàn áp Dân, nên hay vòng vo rất lòng thòng trước khi để lộ thâm ý là tìm cách để đàn áp chúng ta về một vấn đề gì đó.

                Chúng ta hãy để yên cho CB chiếm đoạt thời giờ quý giá của chúng ta để CB tự cảm thấy đã mắc nợ chúng ta, đã gây ra mind harassment chúng ta cách phi pháp. Đó là nguyên cớ để lần sau chúng ta có lý do khước từ sự “mind harassment” cách bất công ấy.

                • Hãy hết sức ôn tồn, nhỏ nhẹ để tránh trả lời các vấn đề xét thấy các CB không có quyền dò hỏi bằng cách “tỏ ra ngạc nhiên” không hiểu chuyện đó liên quan thế nào đến “an ninh cho Tổ quốc” ? / tảng lờ cho CB bị mất thêm thời gian tìm cách vòng vo để nhập đề lại.

                Nếu cần trả lời, phải biết cách trả lời khôn ngoan sao cho kín đáo lạc đề chừng nào hay chừng đó để chứng tỏ mình đã quá mõi mệt khi được “phúc” công bộc của chế độ hạ cố đến tệ xá kiểu phát xít trá hình này, và chuyển được sự đã quá chán ngán của người Dân đối với chế độ vào tâm trí các CB đó, để họ phải lây nhiễm sự chán ngán ngay chính này.

                • Tránh hết sức để khỏi nhận lãnh ân huệ “chiếu cố giúp đỡ” của Tà quyền / Bạo quyền.
               
7.2- Bị CB gửi “Giấy Mời”  đến cơ quan Bạo quyền : Bước đàn áp 2 :

                 Có thể sẽ dẫn đến Lệnh Triệu tập. NCSHB nên đối phó và chủ động tấn công như sau :

                • Phải đi Photo ngay Giấy mời này để làm bằng chứng đấu tranh. Khi đến cơ quan (CA, UBND phường / xã) nên “để quên” Giấy mời bản gốc ở nhà, hoặc đã có bản Photo lưu ở nhà rồi.

                • Vì chúng ta cũng phải làm ăn sinh sống, nên nếu Giấy mời được gửi tới quá sát (chiều cùng ngày, hôm sau…), chúng ta không cần phải đi, vì phải thu xếp công ăn việc làm, không sợ sệt vu vơ. Mời tức chúng ta có quyền đi hoặc không.

                • Khi đã đoán biết nội dung cuộc gặp, chúng ta có quyền không đi. Trường hợp xét thấy đi chỉ thêm nguy hại, chúng ta không nên đi. Sau 3 lần không đi, có thể sẽ có Giấy Triệu tập vì lý do “không chấp hành” Giấy mời.

                • Đến cơ quan, NCSHB phải coi đây là cơ hội để chinh phục bạo quyền, không nôn nóng được về, không nôn nóng mong xong việc. CB còn nôn nóng hơn chúng ta và không hứng thú gì khi đàn áp chúng ta cả, chẳng qua cũng chỉ hèn hạ làm theo lệnh trên vì miếng cơm manh áo thôi. Hãy cố gắng kiềm chế để chỉ nghe và hầu như không cần trả lời hoặc kẹt lắm thì cũng chỉ rất ít trả lời và trả lời thật vắn tắt.

                Vì chúng ta chỉ sử dụng vũ khí bất bạo động và quyền tự do thông tin ngôn luận thôi, nên chúng ta không vi phạm luật pháp công minh nào hết. Các Bộ luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư,… của một Bạo quyền mâu thuẫn với các Công ước Quốc tế đều không có giá trị, vì chúng phải ở dưới các Công ước Quốc tế.

                Chúng thường cũng mâu thuẫn với Hiến pháp năm 1992 của chính Bạo quyền này nữa. Vậy chúng ta cứ bình tĩnh ngồi nhắm mắt cầu nguyện và lắng nghe xem CB ngụy biện thế nào, nói sơ hở ra sao. Nếu cần chúng ta tấn công nhẹ nhàng vào các chỗ sơ hở đó.

                Hãy tận dụng tối đa nguyên tắc “vô chiêu thắng hữu chiêu”, “tịnh chế động”. Hãy hiên ngang, bình tĩnh, nhỏ nhẹ để dùng chính nghĩa của mình mà chinh phục CB.

                • Tuy là được mời, nhưng vẫn để bị “thẩm cung”, lấy bằng chứng để CB xử lý chúng ta và bạn hữu chúng ta. Do đó, cần khôn ngoan ứng xử để thoát khỏi các loại “bẫy cung” của tà quyền. Càng phải im lặng và rất ít nói.

                Hãy cho CB biết rằng : Nếu chúng ta đang sống trong một Nước văn minh thì yêu cầu VN tuân thủ các Công ước Quốc tế. Nếu VN có pháp luật riêng mâu thuẫn với các Công ước ấy thì Nhà cầm quyền VN là một Bạo quyền độc đoán. Đối với một Tà quyền độc tài, chúng ta vui lòng chịu bất công, không thể đối thoại được, chỉ cần im lặng chịu bất công và nếu thấy hiệu quả cần thiết thì cho CB biết các bất công ấy, không cần nói thêm gì nữa.

                • Hãy từ chối viết tường thuật, ký các biên bản mà mình biết sẽ ràng buộc về pháp lý về sau.

                7.3- Bị “Triệu tập” : Bước đàn áp 3 :

                Đối với Bạo quyền, chúng ta bị “Triệu tập” tức là bị coi có “vấn đề” nghiêm trọng gì đó, cần điều tra, “giáo dục”,… Chúng ta chỉ nên có các thái độ như khi bị “Giấy Mời” thôi, nhất là phải photo lưu Giấy Triệu tập ; mấy lần là mấy bản lưu.

                • Bị triệu tập là đương nhiên phải bị “thẩm cung”. NCSHB lại càng cẩn trọng và biết sử dụng vũ khí vàng tuyệt vời là cầu nguyện trong im lặng, lãnh đạm và có thể bị cho là “khinh mạn”, dù NCSHB không bao giờ khinh miệt ai. Kể cả đối với đối phương, NCSHB chỉ thông cảm và dùng cầu nguyện, yên lặng làm vũ khí tự vệ và chiến thắng bạo quyền.

                • Dùng nguyên tắc của chính CSVN : “Dân được làm tất cả mọi việc Pháp luật không cấm, còn CB chỉ được phép làm những gì Pháp luật cho phép” để tự vệ và tố cáo lại các CB tác oai tác quái.

                7.4- Bị cắt điện thư, điện thoại,…Bước đàn áp 4 :

                Phải làm cho bạo quyền biết biện pháp “phát xít” này vô ích trong thời đại thông tin bùng nổ này, vì chúng ta có quá nhiều bạn hữu để tiếp ứng nhau rồi.

                7.5- Bị khám người, phòng, nhà và bị tịch thu, niêm phong đồ dùng : Bước đàn áp 5 :

                • Phải đòi cho được lệnh chính thức bằng văn bản. Giữ lệnh đó và lưu để khiếu nại về sau.

                • Khám người thì chỉ có CB nữ mới được quyền khám NCSHB nữ.

                • Khám nhà và khám phòng thì phía nạn nhân phải có đủ số nhân chứng ngang bằng với số CB cùng vào phòng / nhà. Nếu CB đông, người nhà chứng nhân cũng phải đông, để một kèm một, không cho CB đánh cắp hoặc bỏ tài liệu xấu vào. (nói cho CB biết nguyên tắc đó).

                • Buộc CB viết biên bản đầy đủ, dù kéo dài bao lâu cũng phải làm.

                • Tố cáo trước công luận quốc tế về các “thủ đoạn phát-xít” này.

                7.6. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam : Bước đàn áp 6 :

                • Đến đây NCSHB bị gọi là “Bị can”. Đây là dịp để NCSHB tỏ lộ sĩ khí, anh hùng. Cần bình tĩnh, thản nhiên. Coi chuyện này là bình thường, là bước đường NCSHB đương nhiên phải trải qua. Không thách thức, la lối, mắng chửi hoặc sợ hãi. Các thái độ ấy chỉ gây hại. Không nôn nóng sớm được thả. Không tỏ ra chúng ta cần về (để làm việc). Không tỏ ra ước muốn điều gì tầm thường để khỏi bị bạo quyền dùng điều ấy làm áp lực các vấn đề quan trọng khác.

                • Nên ăn uống bình thường. Nếu cần tuyệt thực, phải tuyệt thực từ 20-30 ngày trở lên (tùy sức khỏe mỗi người). Nên uống một ít nước lạnh mỗi khi thấy đói giữa các bữa cơm thông thường (# 9 h / 15 h / 21 h). Không tuyệt thực lắc nhắc # 3-7 ngày, chỉ làm bạo quyền nhàm lờn. Chỉ ngưng tuyệt thực khi đã đạt mục tiêu đấu tranh nào đó.

                7.7. Bị đánh, tra tấn, nhục hình, mớm cung, ép cung : Bước đàn áp 7 : 

                Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự năm 2003 của CSVN ngăn cấm tất cả các điều này. Nhưng thực tế, hiện nay tại nhiều nhà tạm giữ, trại tạm giam và trại giam ở khắp VN, các CB đang dùng gần 20  kỹ xảo tra tấn cực kỳ dã man, đầy thú tính (có lẽ chỉ có ở TQ và VN), không để lại dấu vết, dù tù nhân có thể chết (sẽ được báo cáo là bị bệnh gì đó), nhất là đối với tù nhân nữ. Khi bị tra tấn và chịu nhục hình NCSHB cần can đảm thẳng thắn phản kháng, tự vệ, nhất là cho CB hành hình biết chúng ta sẽ tố cáo các điều dã man nhơ nhớp này trước công luận quốc tế. (Tìm đọc "Các kỹ xảo CB CSVN tra tấn các tù nhân VN hiện nay").

                7.8. Bị nghe đọc cáo trạng : Bước đàn áp 8 :

                Từ đây NCSHB bị gọi là “bị cáo”. Bịt tai lại không nghe. Đừng bận tâm đến mức án độc đoán với các tội danh xảo trá chỉ có trong các chế độ “phát-xít” : tuyên truyền chống chế độ, chống đối chính sách, phá hoại đoàn kết, gây rối trật tự trị an, lợi dụng dân chủ, lợi dụng tôn giáo,… Hãy tự hào về giá NCSHB phải trả cho Công lý, Tự do Dân chủ của Tổ quốc Dân tộc và tin cậy vào sự can thiệp của Quốc tế.

                7.9. Bị đưa ra Tòa án xử : Bước đàn áp 9 :

                NCSHB phải khước từ luật sư do bạo quyền chỉ định làm trò hề dân chủ trá hình. Nếu có Luật sư chân chính, thì NCSHB cần phối hợp với Luật sư ấy, tận dụng tối đa phiên tòa để trực diện công khai đấu tranh cho Công lý, Sự thật, các Nhân quyền cơ bản, nhất là quyền Tự do Ngôn luận. Nếu tiên liệu không thể biến phiên tòa thành diễn đàn đấu tranh sòng phẳng, thì không nên nhận luật sư và chỉ cần hoàn toàn im lặng trước tòa án trò hề của bạo quyền để nhận chìm xuống bùn nhơ danh dự của nền tư pháp xảo trá của độc đảng. Nếu đọc / ngâm thơ, ca hát buộc bạo quyền bịt miệng, NCSHB lại càng thắng lớn.

                7.10. Bị đưa vào trại giam (trước đây gọi là trại cải tạo) : Bước đàn áp 10 :

                Từ đây NCSHB bị gọi là “bị án” / “phạm nhân. Hiên ngang vui chịu cảnh tù đày và tự coi mình là tù nhân lương tâm, không chấp nhận bị gọi là phạm nhân, tận dụng cơ hội biến trại giam thành trường đào tạo về Công lý, Dân chủ, Nhân quyền cho các bạn tù, kể cả tù nhân hình sự, vì họ cũng là nạn nhân của một nền chính trị xảo trá – bất công. Hiện nay cơm no, có rau, nước mắm,… Thức ăn gia đình không tiếp tế được thì các bạn tù chia sớt cho nhau không đến nỗi sinh bệnh tật. Đồ ấm gia đình có thể lo được. Không cần mong đợi giảm án. Chắc chắn vì NCSHB không chủ trương và không làm gì bạo động nên không thể bị án quá nặng.

                7.11. Bị viết kiểm điểm, được giảm án, được thả : Bước đàn áp 11 :

                Hiện nay cứ 3 tháng NCSHB bị buộc viết 1 bản kiểm điểm thái độ cải tạo. Điều 2,3,4 về nội quy, đọc sách báo, lao động thì rất dễ viết. Chỉ có điều 1 là rất khó viết : mục đích của tà quyền là bắt chúng ta nhận tội. Nếu không nhận thì bị cùm chân, kiên giam, biệt giam, không cho gặp thân nhân, nhận thư / quà và không thể được thả sớm. Nếu nhận tội thì trái lương tâm và trái sự thật. Vậy tùy loại tội danh mà nên viết thế nào cho ổn thỏa lương tâm.

                Các tội danh như “gián điệp, lật đổ, bạo loạn”,…không thể nhận được. Về một số tội danh khác, dù không hề nhận tội, vẫn có thể khôn khéo viết theo kiểu chơi chữ : “Vì danh dự của Nhà cầm quyền CSVN, tôi chấp nhận thi hành án”. Trước đây, hầu hết các Nhân viên Chế độ Sài Gòn đều viết : “Tôi an tâm cải tạo” (ý nói tôi an tâm tu sửa bản thân, không trốn trại). Tốt nhất là khuớc từ viết kiểm điểm, hiên ngang chỉ nhận mình là tù nhân lương tâm, an tâm ở cho hết án và trông đợi sự can thiệp của Quốc tế. Tuyệt vời hơn, thay vì kiểm điểm bản thân, NCSHB nên tận dụng dịp có được giấy bút này mà kiểm điểm lại bạo quyền CS cho thật chuẩn xác, đanh thép, sắc bén, dù có thể vì đó mà bị gia tăng hình phạt (bị cùm chân, kiên giam, biệt giam,…).

                7.12. Bị ràng buộc sau khi ra khỏi tù : Bước đàn áp 12 :

                Thường khi nhận Giấy Ra Trại không có ràng buộc gì, nhưng khi về trình diện tại địa phương thì rất dễ bị ràng buộc. Vậy, ngay từ đầu, khi về lại đia phương, NCSHB phải biết đề kháng không sợ hãi, không chịu sự ràng buộc phi lý. Và bạo quyền phường, xã không thể đủ bản lãnh để ràng buộc chúng ta, nên lờ đi để chúng ta yên. Ví dụ, quy định phải trình diện hàng tháng, đi ra khỏi xã, phường phải xin phép,… Nếu chúng ta không chấp nhận, thì bạo quyền ấy cũng không áp đặt chúng ta được, đành chỉ biết xí xóa cho qua, để giữ thể diện cho chính họ.

                Chúng ta lại tiếp tục chiến đấu !

                Chúc quý bạn luôn an vui và thành công trong Sự nghiệp đem Công lý, Tự do Dân chủ đến cho Tổ quốc và Đồng bào thân yêu. Mến chào tất cả các CSHB của VN ! @@@

                Tù nhân lương tâm Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý – 30.4.2006 – 30.5.2010




Huy Phương : Thiệp Mời ra mắt tác Phẩm Hạnh Phúc xót xa

Ðỗ Dzũng/Người Việt

Nam. Ông là cựu học sinh Khải Ðịnh-Huế, Quốc Gia Sư Phạm-Sài Gòn.

Thông báo : Thư xin bài viết về Cách Mạng Hoa Lài.

Thư xin bài viết về Cách Mạng Hoa Lài.

San Jose ngày 10 tháng Tư năm 2011

Kính thưa Quý Vị

Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt có ý định sẽ thực hiện một cuốn sách với tựa đề “Tuyển Tập Hoa Lài”. Cuốn sách sẽ tập trung tất cả các bài viết của các trang web và các bài do thân hữu gửi đến E- Mail của chúng tôi cũng như các hí họa của anh Lê Văn Hải, Chủ Nhiệm Tuần Báo Thằng Mõ và là thành viên của cơ sở chúng tôi.

Tập sách được in ra dự trù từ 150 đến 300 trang với mục đích tìm hiểu và quảng bá những cuộc cách mạng Hoa Lài trên thế giới hiện nay cũng như hổ trợ đấu tranh trong nước để mọi người cùng đọc để tìm hiểu hoặc nghiên cứu.

Tập sách sẽ được lưu hành vào tháng Sáu năm 2011. Thời gian cũng không còn bao lâu. Chúng tôi xin quý vị có những bài viết, hoặc các bài sưu tầm trên báo trên Web xin gửi cho chúng tôi để chúng tôi tập trung làm layout và đưa ra nhà in trước ngày 20 tháng 5 năm nay 2011. Những bài gửi cho chúng tôi xin cho biết xuất xứ và xin quý vị ghi cho một dòng chữ trên tiêu đề: “cho phép cơ sở Văn Thơ Lạc Việt được in trong Tuyển Tập Hoa Lài.” Cũng xin quý vị cho biết có lấy tiền nhuận bút không, nếu có thì bao nhiêu. Khi gửi xin quý vị cho chúng tôi biết đôi điều về quý vị và một tấm ảnh 4×4, để trích dẫn theo bài viết hoặc bài sưu tầm và nhất là địa chỉ, số điện thoại (chúng tôi sẽ giữ kín) để tiện việc liên lạc và gửi sách biếu đến địa chỉ quý vị sau khi phát hành.

Địa chỉ E-Mail của chúng tôi là vantholacviet@yahoo.com hoặc chinhnguyen2005@sbcglobal.net Xin gửi cho càng sớm càng tốt.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Quý Vị đã chia xẻ những sưu tập hoặc bài viết của Quý Vị cho lợi ích chung.

Kính chúc Quý vị mạnh khỏe.

Trân trọng

Thay Mặt Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt

Đông Anh

 

————————————————————————————-

Thơ và Nhạc: Đêm Qua Ta Mơ
FEB 26th, 2011
Ban Kỹ Thuật K10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH sưu tầm & thực hiện


Bạn bấm nút "Play" để xem phim chớp bóng dưới đây

 

    Xin mời xem Trần Trường đòi chém việt cộng:

     https://picasaweb.google.com/NgoSav/20110329?authkey=Gv1sRgCNqW0eXVy8GFlwE#5589502055381778930




Triệu Hà : THIỆP MỜI (Địa Phương Quân)

THIỆP MỜI

 

HỘI ÁI HỮU ĐỊA PHƯƠNG QUÂN và NGHĨA QUÂN VNCH BẮC CALI

 

Trân trọng kính mời: Tất Cã Các Hội Đoàn Vui Long Cử Đại Diện

                                                   đến tham dự:

NGÀY GIỖ TỔ ĐỨC BÌNH ĐỊNH VƯƠNG LÊ LỢI

      THÁNH TỔ CỦA LỰC LƯỢNG ĐPQ VÀ NQ QLVNCH

Địa Điểm:

 HỘI NGƯỜI VIỆT CAO NIÊN BẮC CALI

                                      2050 CONCOURSE DR SUITE # 22 ,

                                                 SAN JOSE CA 95131

 

Thời gian từ:11:00AM to 3:00PM,

Chu Nhat, ngày 21 tháng 8  năm 2011

 

Phần ăn trưa HAHĐPQ&NQ sẽ đài thọ.

 

Sự hiện diện của qúy quan khách, chiến hữu:

 

** Là niềm vinh hạnh cho Hội Ái Hữu Địa Phương Quân và Nghĩa Quân  Bắc Cali.

    

** Cùng hướng về các chiến hữu TPB thuộc ĐPQ-NQ ở quê nhà.

 

                                              Trân trọng.

 

                         San Jose, ngày 23 tháng 08  năm 2011

                      TM. HỘI ÁI HỮU ĐPQ-NQ BĂC CALI

                                           TRIỆU-HÀ

 

Để biết thêm chi tiết, xin gọi:

 

TRIỆU-HÀ                 (408) 646-8752

NGUYỂN -KHANH   (408) 694-7543

NGÔ-XUÂN-ĐỨC    (408) 270-2985

NGUYỄN-VĂN-PHI (408) 287-1386

 

 

 

 

 

 

Bình Định Vương Lê Lợi (Người Anh Hùng giải phóng dân tộc)

     

 

 
 

Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 (6-8 năm ất Sửu) tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng một phương". Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.

Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách.

Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. ở đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham…

Sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu tới kết thúc thắng lợi (tháng 12-1427), qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó đã chứng minh Lê Lợi là người có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ thấy ở những lãnh tụ mở đường, khai sáng.

Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới. Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi nghĩa Lam Sơn.

Nhưng Lê Lợi không chỉ là người nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi nghĩa Lam Sơn mà ông còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc, mới mẻ trong đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc.

Nhìn vào lực lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính chất nhân dân rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở một địa phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Đây là một cống hiến sáng tạo to lớn về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh nghiệm lịch sử quý giá.

Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt viện" theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi, khí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa, chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của Lê Lợi – Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, sáng lập ra vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất (1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ.

Trong sự nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương triều Lê, Lê Lợi đã có những cố gắng không nhỏ về nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố, phát triển đất nước trên mọi mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương xuống địa phương; ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp có hiệu quả để khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội.

Lê Lợi cũng chú ý tới việc phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm 1428, lên ngôi vua, năm sau (niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, 1429), Lê Lợi đã cho mở khoa thi Minh Kinh. Năm 1431, thi khoa Hoành từ. Năm 1433, Lê Lợi đích thân ra thi văn sách. Đấy là chưa kể năm 1426 trong khi đang vây đánh Đông Quan, Lê Lợi đã mở một khoa thi đặc cách lấy đỗ 32 người, trong đó có Đào Công Soạn, một nhà ngoại giao xuất sắc thời Lê Lợi.

Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải quan tâm giải quyết hàng đầu sau khi đất nước được giải phóng là việc tăng cường củng cố, giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Về phương diện này, Lê Lợi đã làm được hai việc có ý nghĩa lịch sử.

Thứ nhất, ông đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thiết lập quan hệ bình thường giữa triều Lê và triều Minh. Thứ hai, Lê Lợi đã kiên quyết đập tan những âm mưu và hành động bạo loạn muốn cát cứ của một số ngụy quân trước, điển hình là vụ Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Lai Châu. Trong bài thơ làm khắc vào vách đá núi Pú Huổi Chò (bên sông Đà, thuộc Lai Châu) năm 1431 khi đánh Đèo Cát Hãn, Lê Lợi đã nói rõ ý chí bảo vệ sự thống nhất giang sơn:

Đất hiểm trở từ nay không còn,
Núi sông đã vào chung một bản đồ.
Đề thơ khắc vào núi đá
Trấn giữ miền Tây của nước Việt ta.

Sau bài thơ trên, Lê Lợi còn viết bài thơ thứ hai khắc vào vách núi Hào Tráng bên Chợ Bờ, Hòa Bình.

Lê Lợi trong 5 năm làm vua, bên cạnh những công lao to lớn, Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20 năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, lập quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trường học, có thể gọi là có mưu lớn, sáng nghiệp.

  

 

Nguồn gốc câu: "Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi"

Trong thời gian đầu của khởi nghĩa Lam Sơn do Bình Định vương Lê Lợi lãnh đạo, lực lượng nghĩa quân còn ít, thế giặc lại mạnh. Nghĩa quân nhiều lần rơi vào thế bị bao vây tưởng chừng tan vỡ. Ba lần rút lên núi Chí Linh là ba lần tuyệt nguồn lương thực, tưởng không thể chống đỡ nổi.

Năm 1419 quân khởi nghĩa rút lên núi Chí Linh (thuộc miền Tây Thanh Hóa) lần thứ hai, quân giặc bao vây chặt, nghĩa quân hết lương ăn, phải ăn thịt cả con ngựa chiến cuối cùng. Để đánh lạc hướng quân giặc, duy trì cuộc khởi nghĩa, Lê Lai đã mặc áo hoàng bào giả làm chủ tướng Lê Lợi, cùng với 500 quân cảm tử xuống núi quyết chiến với quân Minh. Giặc bắt được Lê Lai tưởng là Lê Lợi nên rút quân khỏi núi Chí Linh. Tấm gương hi sinh của Lê Lai mãi được nhà Lê ghi nhớ.

Năm 1428 ngay sau khi lên ngôi Hoàng đế, Lê Lợi đã truy tặng cho Lê Lai là Đệ nhất Khai quốc công thần, soạn hai bài văn thề mãi mãi ghi nhớ công lao của Lê Lai.

Trước khi mất Lê Lợi dặn lại vua nối ngôi Lê Thái Tông rằng: Ta có được ngày hôm nay là nhờ có Lê Lai. Do ngày mất của Lê Lai không rõ nên sau khi ta chết phải làm giỗ cho Lê Lai trước khi làm giỗ cho ta một ngày.

Ngày 22 tháng 8 năm 1433 Lê Thái Tổ băng hà. Từ đó ngày giỗ Lê Lai được tổ chức trước ngày giỗ vua Lê Thái Tổ một ngày. Dân gian Thanh Hóa nay có câu “Hai mốt Lê Lai, hai hai Lê Lợi” bắt nguồn từ việc này.

 

 

 

Lê Lợi Khởi Nghĩa Chống Giặc Minh

 

 

1. Lê Lợi Khởi Nghĩa ở Lam Sơn. Từ khi nhà Minh sang cai trị An Nam, dân ta ph?i khổ nhục trăm đường, tiếng oan không kêu ra được, lòng tức giận ngấm nghía ở trong tâm can, chỉ mong mỏi ra cho khỏi đống than lửa. May lúc ấy có một đấng anh hùng nổi lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh, trong 10 năm ấy lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho nước Nam. 

Đấng anh hùng ấy, người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, họ Lê, tên là Lợi. Đã mấy đời làm nghề canh nông, nhà vẫn giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người đều phục, và những tôi tớ ước có hàng nghìn người. Ông Lê Lợi khẳng khái, có chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng: " Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta!" Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong. 


Đến mùa xuân năm mậu tuất (1418) đời vua Thành Tổ nhà Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc thứ 16, ông Lê Lợi cùng với tướng là Lê Thạch, Lê Liễu khởi binh ở núi Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương, rồi truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rõ cái mục đính của mình khởi nghĩa đánh kẻ thù của nước. Việc đánh giặc Minh tuy là thuận lòng người và hợp lẽ công bằng, nhưng mà thế lực của Bình Định Vương lúc đầu còn kém lắm, tướng sĩ thì ít, lương thực không đủ. Dẫu có dùng kế đánh được đôi ba trận, nhưng vẫn không có đủ sức mà chống giữ với quân nghịch, cho nên phải về núi Chí Linh ba lần, và phải nguy cấp mấy phen, thật là gian truân vất vả. Sau nhờ hồng phúc nước Nam, Bình Định Vương lấy được đất Nghệ An, rồi từ đó mới có thể vẫy vùng, đánh ra mặt Bắc, lấy lại được giang sơn nước nhà.
 


2. Về Chí Linh Lần Thứ Nhất. Khi quan nhà Minh là Mã Kỳ ở Tây Đô, nghe tin Bình Định Vương nổi lên ở núi Lam Sơn, liền đem quân đến đánh. Vương sang đóng ở núi Lạc Thủy (Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa) để đợi quân Minh. Đến khi quân Mã Kỳ đến, phục binh của Vương đổ ra đánh, đuổi được quân nghịch, nhưng vì thế yếu lắm chống giữ không nổi, Vương phải bỏ vợ con để giặc bắt được, đem bại binh chạy về đóng ở núi Chí Linh.
 

3. Về Chí Linh Lần Thứ Hai. Tháng tư năm kỷ hợi (1419) Bình Định Vương lại ra đánh lấy đồn Nga Lạc (thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hóa) giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân của Vương bấy giờ hãy còn ít, đánh lâu không được, lại phải rút về Chí Linh. Quan nhà Minh biết rằng Chí Linh là chỗ Bình Định Vương lui tới, bèn đem binh đến vây đánh. Vương bị vây nguy cấp lắm, mới hỏi các tướng rằng: Có ai làm được như người Kỷ Tín ngày trước chịu chết thay cho vua Hán Cao không? Bấy giờ có ông Lê Lai liều mình vì nước, xin mặc thay áo ngự bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là Bình Định Vương thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô.  

4. Bình Định Vương Về Đóng Lư Sơn. Vương nhờ có ông Lê Lai chịu bỏ mình cứu chúa, mới trốn thoát được nạn lớn, rồi một mặt cho người sang Ai Lao cầu cứu, một mặt thu nhặt những tàn quân về đóng ở Lư Sơn (ở phía tây châu Quan Hóa). Ngay năm ấy, ở Nghệ An có quan tri phủ là Phan Liêu làm phản nhà Minh; ở Hạ Hồng có Trịnh Công Chứng, Lê Hành; ở Khoái Châu có Nguyễn Đặc; ở Hoàng Giang có Nguyễn Đa Cấu, Trần Nhuế; ở Thủy Đường có Lê Ngà, nổi lên làm loạn, quân nhà Minh phải đi đánh dẹp các nơi cho nên Bình Định Vương ở vùng Thanh Hóa cũng được nhân dịp mà dưỡng uy súc nhuệ.

5. Bình Định Vương Về Đóng Lỗi Giang. Năm canh tí (1420) Bình Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi, định xuống đánh Tây Đô, tướng nhà Minh là Lý Bân được tin ấy, đem quân đến đánh, đi đến chỗ Thi Lang, bị phục binh của Vương đánh phá một trận, quân Minh bỏ chạy. Vương lại đem quân lên đóng ở Lỗi Giang75 và ở đồn Ba Lậm. Quân Minh phải lùi về đóng ở Nga Lạc và Quan Du để phòng giữ Tây Đô. 

6. Nguyễn Trãi. Khi Bình Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, thì có ông Nguyễn Trãi vào yết kiến, dâng bài sách bình Ngô, vua xem lấy làm hay, dùng ông ấy làm tham mưu.
 

Ông Nguyễn Trãi là con ông Bảng Nhãn Nguyễn Phi Khanh. Đời nhà Hồ, ông đã thi đỗ tiến sĩ (1400). Khi ông Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bắt về Kim Lăng, ông theo khóc, lên đến cửa Nam Quan không chịu trở lại. Ông Phi Khanh bảo rằng: " Con phải trở về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì ? " Từ đó ông trở lại, ngày đêm lo việc phục thù. Nay ra giúp Bình Định Vương, bày mưu định kế để lo sự bình định.


7. Bình Định Vương Phá Quân Trần Trí. Đến tháng 11 năm tân sửu (1421) tướng nhà Minh là Trần Trí đem mấy vạn quân đến đánh Bình Định Vương ở đồn Ba Lậm, lại ước với người Lào sang cùng đánh hai mặt. Vương mới hội các tướng lại bàn rằng: Quân kia tuy nhiều nhưng ở xa
đến, còn đang nhọc mệt, ta nên đưa quân ra đón đành tất là phải được. Bàn xong, đến đêm đem quân vào cướp trại Minh, giết được hơn 1.000 người. Trần Trí thấy vậy giận lắm, sáng hôm sau truyền lệnh kéo toàn quân đến đánh. Quân An Nam đã phục sẳn trước, thấy quân Minh đến, liền đổ ra đánh hăng quá, quân Minh lại phải lui về. Đang khi hai bên còn đối địch, có ba vạn người Lào giả xưng sang làm viện binh cho Bình Đình Vương. Vương không biết là dối, quân Lào nửa đêm kéo đến đánh, tướng của Vương là Lê Thạch bị tên bắn chết. Nhưng mà quân ta giữ vững đồn trại, quân Lào phải lùi về.


8. Về Chí Linh Lần Thứ Ba. Sang năm sau là năm nhâm dần (1422) Bình Định Vương tự đồn Ba Lậm tiến lên đánh đồn Quan Gia, bị quân Minh và quân Lào hai mặt đánh lại, phải thua chạy về giữ đồn Khôi Sách. Quân Minh và quân Lào thừa thế đổ đến vây kín bốn mặt. Vương thấy thế nguy quá, mới bảo các tướng rằng: "Quân giặc vây kín rồi, nếu không liều sống chết đánh tháo lấy đường chạy ra, thì chết cả !" Quân sĩ ai nấy đều cố sức đánh phá, quân giặc phải lùi. Vương lại đem quân về núi Chí Linh. Từ khi Bình Định Vương đem binh về Chí Linh, lương thực một ngày một kém, trong hai tháng trời quân sĩ phải ăn rau ăn cỏ có bao nhiêu voi ngựa làm thịt ăn hết cả. Tướng sĩ mỏi mệt, đều muốn nghỉ ngơi, xin Vương hãy tạm hòa với giặc. Vương bất đắc dĩ sai Lê Trăn đi xin hòa. Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh không lợi, cũng thuận cho hòa.


9. Bình Định Vương Hết Lương Phải Hòa Với Giặc. Năm quý mão (1423) Bình Định Vương đem quân về Lam Sơn. Bấy giờ tướng nhà Minh là bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường hay cho Vương trâu, ngựa, cá mắm và thóc lúa; Vương cũng cho Lê Trăn đưa vàng bạn ra tạ. Nhưng sau bọn Trần Trí ngờ có bụng giả dối, bắt giữ Lê Trăn lại, không cho về, vì vậy Vương mới tuyệt giao không đi lại nữa, rồi đem quân về đóng ở núi Lư Sơn. Bình Định Vương Lấy Đất Nghệ An. Năm giáp thìn (1424) Bình Định Vương hội các tướng bàn kế tiến thủ. Quan thiếu úy là Lê Chích nói rằng: " Nghệ An là đất hiểm yếu, đất rộng người nhiều, nay ta hãy vào lấy Trà Long (phủ Tương Dương) rồi hạ thành Nghệ An, để làm chỗ trú chân đã, nhiên hậu sẽ quay trở ra đánh lấy Đông Đô, như thế thiên hạ có thể bình được." Vương cho kế ấy là phải, bèn đem quân về nam, đánh đồn Đa Căng, tướng nhà Minh là Lương Nhữ Hốt bỏ chạy.


Lấy được đồn Đa Căng rồi, Vương tiến quân vào đánh Trà Long, đi đến núi Bồ Liệp, ở phủ Quì Châu, gặp bọn Trần Trí, Phương Chính đem binh đến đánh, Vương bèn tìm chỗ hiểm phục sẳn; khi quân Minh vừa đến, quân ta đổ ra đánh, chém được tướng nhà Minh là Trần Trung, giết được sĩ tốt hơn 2.000 người, bắt được hơn 100 con ngựa. Quân Minh bỏ chạy, Vương đem binh đến vây đánh Trà Long. Quan tri phủ là Cầm Bành chờ cứu binh mãi không được, phải mở cửa thành ra hàng.


Từ khi Bình Định Vương khởi nghĩa cho đến giờ, đánh với quân nhà Minh đã nhiều phen, được thua đã trải qua mấy trận, nhưng quan nhà Minh vẫn lấy làm khinh thường, cho nên không tâu về cho Minh Triều biết. Bấy giờ Hoàng Phúc về Tàu rồi, vua nhà Minh sai Binh Bộ Thượng Thư là Trần Hiệp sang thay. Trần Hiệp thấy Bình Định Vương lấy được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy, bèn vội vàng làm sớ tâu cho vua nhà Minh biết. Minh Đế mới xuống chiếu trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chí, bắt phải dẹp ngay cho yên giặc ấy. Bọn Trần Trí sợ hãi đem cả thủy bô, cùng tiến lên đánh Bình Định Vương. Vương sai Đinh Liệt đem 1.000 quân đi đuờng tắt ra giữ Đỗ Gia, còn Vương thì đem cả tướng sĩ đến ở mạn thượng du đất Khả Lưu ở bắc ngạn sông Lam Giang (thuộc huyện Lương Sơn), rồi tìm chỗ hiểm yếu phục binh để đợi quân Minh. Khi quân Minh đã đến Khả Lưu, Vương bèn sai người ban ngày thì kéo cờ đánh trống, ban đêm thì bắt đốt lửa để làm nghi binh, rồi cho binh sang bên kia sông phục sẵn. Sáng hôm sau quân Minh tiến lên bị phục binh bốn mặt đổ ra đánh, tướng nhà Minh là Chu Kiệt phải bắt, Hoàng Thành phải chém, còn quân sĩ bỏ chạy cả. Trần Trí phải thu quân về giữ thành Nghệ An.

Tháng giêng năm ất tị (1425) Vương đem binh về đánh thành Nghệ An, đi đến làng Đa Lôi ở huyện Thổ Du (bây giờ là huyện Thanh Chương) dân sự đưa trâu đưa rượu ra đón rước, già trẻ đều nói rằng: không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ. Bấy giờ lại có quan tri phủ Ngọc ma (phủ Trấn Định) là Cầm Quý đem binh mã về giúp. Vương bèn xuống lệnh rằng: "Dân ta lâu nay đã phải khổ sổ về chính trị bạo ngược của người Tàu, quân ta đi đến đâu cấm không được xâmphạm đến chút gì của ai. Những gạo thóc trâu bò mà không phải là của người nhà Minh thì không được lấy". Đoạn rồi, phân binh đi đánh lấy các nơi, đi đến đâu các quan châu huyện ra hàng cả, đều tình nguyện đi đánh thành Nghệ An. Vương bèn đem quân về vây thành; quân Minh hết sức giữ gìn không dám ra đánh. Đương khi vây đánh ở Nghệ An, tướng nhà Minh là Lý An ở Đông Quan đem quân đi dường bể vào cứu. Quân của Trần Trí ở trong thành cũng đổ ra đánh, Vương nhử quân Minh đến cửa sông Độ Gia, rồi dùng phục binh đánh tan quân giặc. Trần Trí bỏ chạy về Đông Quan, còn Lý An vào giữ thành, Vương lại đem quân về vây thành.

10. Vây Thành Tây Đô. Đến tháng năm, Vương sai quan Tư Không là Đinh Lễ đem binh đi đánh Diễn Châu, Đinh Lễ đi vừa đến nơi, thì gặp tướng nhà Minh là Trương Hùng đem 300 chiếc thuyền lương ở Đông Quan mới vào, quân ở trong thành ra tiếp, bị phục binh của Đinh Lễ đánh đuổi. Bao nhiêu thuyền lương Đinh Lễ cướp lấy được cả, rồi đuổi Trương Hùng ra đến Tây Đô. Bình Định Vương được tin ấy liền sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú đem binh ra tiếp ứng Đinh Lễ. Đinh Lễ nhân dịp tiến lên vây thành Tây Đô.

11. Lấy Tân Bình và Thuận Hóa. Qua tháng bảy, Vương sai quan Tư Đồ Trần Nguyên Hãn78, Thượng Tướng Lê Nỗ đem hơn một nghìn quân vào lấy châu Tân Bình và châu Thuận Hóa. Đi đến Bố Chính thì gặp tướng nhà Minh là Nhâm Năng, hai bên đánh nhau, quân nhà Minh bị phục binh đánh chạy tan cả. Bấy giờ lại có đạo thủy quân của Lê Ngân đem hơn 70 chiếc thuyền đi đường bể vào, Trần Nguyên Hãn liền đem cả thủy bộ tiến 

 

Truyen Bang Tranh Ve Duc Binh Dinh Vuong Le Loi.

Giai thoại thời chống quân Minh

10) Khi còn ở Lam Sơn, lúc mới đánh nhau với quân Minh, Bình Định Vương thường bị thua luôn. Một hôm vương bị quân Minh đuổi rất gấp. Lúc chạy băng qua một cánh đồng, thấy vợ chồng ông lão già đang tát nước, vương vội vàng chạy lại, cởi bỏ áo ngoài, rồi nhảy xuống ruộng nước, giả làm người đang mò cá.

Giai thoại thời chống quân Minh

Giai thoại thời chống quân Minh

30) Thành này rộng hơn một trăm mẫu, trong có lũy cao, ngoài là hào sâu, rất kiên cố. Thành Cổ Lộng trấn giữ con đường từ thành Đông Quan vào đến Thanh Hóa. Dân chúng đi qua phải vào trình báo với quân lính nhà Minh.

 

Giai thoại thời chống quân Minh

 

 




Thiệp Mời ra mắt sách : Trần Cũng Sơn – Một thoáng 26 năm

                                            THIỆP MỜI

Xin mời quý vị thi văn hữu và thân hữu tham dự buổi Ra Mat Sách "Một Thoáng 26 Năm" của Trần Củng Sơn tức nhạc sĩ Trần Chí Phúc:

Chiều ngày Chủ Nhật này (3/18/2012) lúc 2 giờ
Tại hội trường trường trung học Yerba Buena
Trên đường Lucretia, San Jose.

Nhạc Sĩ Phúc là người hoạt động văn nghệ và cộng đồng rất hăng say trong thời gian qua và cũng cộng tác mật thiết với cơ sở Văn Thơ Lạc Việt.
Xin mời quý vị vì tình thân hữu đến dự để bắt tay người nhạc sĩ hoạt động của thung lũng hoa vàng.
Trân trọng/ĐA

TB xin chúc nhà văn Trần Củng Sơn và cũng là nhạc sĩ Trần Chí Phúc thành công tốt đẹp.
 
Ðông Anh xin chúc Quí Vi An Vui Hanh Phúc
Đông Anh.

 




Nguyễn Viết Tùng : Cáo Phó về Giáo Sư Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

 

THÀY NHƯ CHA.

Thày theo nghĩa quê tôi : Thày cũng như cha, do đó tôi may mắn có hai người thày. Một người thày sinh ra tôi cho tôi su hướng về chính trị dân tộc : “Chính kiến chính trị về quốc gia có thể thay đổi, nhưng tình tự dân tộc không hề, và không thể thay đổi để phản bội nòi giống”, và một người thày cho tôi tư tưởng phóng khoáng tự do ngôn luận: “Dư luận là quan tòa phán xét, tuy nhiên có đúng và có sai. Người làm báo phải đứng giữa dư luận để được tư do nhìn, nghe, suy nghĩ và trung thực để viết với ngòi bút không thể bẻ cong. Thày nói con nghe "Không thể bẻ cong ngòi bút của con…!"”.
Tôi muốn nhắc tới Thày Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh coi tôi như con trong nhà, do đó vài buổi họp riêng gia đình vợ chồng tôi đều được thày cho góp mặt, và Thày thường nhắc tôi với những người con của thày : Chinh Nguyên là con nuôi của bố.
 Cái duyên để tôi được học Thày khi tập tễnh vào ngành báo chí, cái tình được thày nhận là con nuôi, để rồi trong những năm dài chiến tranh tôi và thày ít khi gặp nhau, mổi lần về Sài Gòn là tôi chạy vội tới Thày để có vài phút kính thăm và nghe lời Thày dạy, rồi hấp tấp ba lô về lại miền Cao Nguyên có nắng bụi mưa rừng và nghe đạn pháo xa vọng về nhịp đêm trong ánh hỏa châu.

       Đời lính và tỵ nạn làm thày trò xa cách nhau với nỗi nhớ và kính trọng trong tôi, nên những lời Thày dạy tôi không quên :

      Nếu có dịp may con ra làm báo, con phải nhớ ba điều :

1/ Đạo đức trong cách viết dù hoàn cảnh nào.
2/ Tôn trọng độc giả.
3/  Không bao giờ, con nhớ nhé ! Không bao giờ viết theo cảm tính nên tin tức phải trung thực
      và không có phê bình. Con viết để  độc gỉa đọc và tự suy sét .

Tôi ôm lời dậy dỗ, kinh nghiệm của hai người thày trong đời sống như đi giữa hai con đường sắt tư tưởng chính trị, ngôn luận đạo đức song song hầu giữ tôi vui vẻ, hoà đồng và ngay thẳng để bước tới.

Tôi gặp lại Thày tại San Jose và từ đó tôi là tài xế của Thày trong bất cứ thời gian nào, và đi bất cứ nơi đâu thày muốn. Mỗi lần thày trò ngồi bên nhau tôi ít nghe thày nói về tin tức báo chí, nhưng tôi được nghe những lời kinh nghiệm về cuộc sống của thày, Thày thường nhắc tới khoa học big bang của vũ trụ, thường nói về tôn giáo và tư tưởng Tam Giáo Đồng Quy,  luôn nhắc tới nơi chốn cội nguồn giống nòi Việt, và cuối cùng là tình yêu thương gia đình thày ví như một quốc gia thu hẹp.

Tôi thiên về hoạt động văn chương nơi hải ngoại nên mời thày làm cố vấn cho Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, thày nhận lời và đã cùng với cố Thi Sĩ Hà Thượng Nhân giúp Văn Thơ Lạc Việt trong những hoạt động văn hoá nghệ thuật, và chính trị trong sự đoàn kết anh em.
 
Sau tháng 3, 1975 Thày bị đọa đầy trong trại tù Cộng Sản hơn mười năm, và sau ngày tỵ nặm tại hải ngoại, Thày viết thật nhiều trong mục Bình Luận Trước Thời Cuộc gởi các báo tại Hài Ngoại và Radio truyền thông, Tôi đã xin thày gom lại để làm thành sách, thày đã đưa cho tôi cả trăm truyện ngắn thày đã viết nhưng không đăng báo. Tôi đã cùng thày trọn lựa thành tuyển tập “ Những Mùa Xuân Trở Lại”, rồi tiếp theo là một tựa để rất lạ “Khí Công Tâm Pháp”, một cuốn sách tôi chưa bao giờ nghe thày nhắc tới, nhưng trong khi làm việc chung với Thày để hoàn thành cuốn “Khí Công Tâm Pháp” Thày đã nói :

– Nhờ “Khí Công Tâm Pháp” này mà Thày đã sống sót trong xà lim biệt giam của Cộng Sản. Thày đã nằm bên cạnh người chết bị cùm chân để sống còn !

Hai cuốn sách “Những Mùa Xuân Trở Lại” và “Khí Công Tâm Pháp” đều thành công khi phát hành và lưu lại trong lòng người đọc .  

 Ngày July 15, 2012 có buổi tiệc mừng 20 năm thành lập và phát giải Văn Thơ Lạc Việt tại Nhà Hàng Phú Lâm, San Jose tôi đã không thưa với thày về việc này vì thày bệnh (Ung thư xương tới trưởng hợp ba) không thể ngồi được lâu, nhưng sau khi thày đọc báo và biết chương trình của Văn Thơ Lạc Việt, thày đã nhất định đi dự, lời thày nói :

   Thày nhất định đi dự tiệc của Văn Thơ Lạc Việt, vì con là con của thày. Thày bỏ con không
     được !

Anh Nguyễn Viết Tùng con ruột thày và tôi đã bàn nhau về tình trạng của Thày để đưa Thày tới đúng giờ hầu làm thày vửa lòng. Tôi trông dáng dấp thày yếu đuối, còm cõi nương vào anh Tùng bước vào cửa nhà hàng trong khi quan khách vui vẻ như ngày hội lớn, tôi sực nhớ tới bài thơ “Hổ Nhớ Rừng” của Thế Lữ  làm lòng tôi quặn đau và ứa lệ thương kính người thày đã vì đứa học trò con nuôi mà hy sinh.

Tôi đã cắt lời phát biểu của tôi đễ nhường lời cho thày, thày đã nói rất nhiều về sự cố gắng phát triển về văn học và đứng vững trong môi trường khó khăn tại hải ngoại của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, Thày cũng không quên lời yêu thương nhắn nhủ đối với tôi.

Tôi không ngờ những lời nói đó đã là lời nói cuối cùng của thày trước thân hữu, thành viên của Văn Thơ Lạc Việt trong sự xúc động của thày và tôi tại buội tiệc mừng 20 năm thành lập Văn Thơ Lạc Việt.

Ngày Aug. 12, 2012 thày đã ra đi vào thế giới bình yên không hận thù.

Bây giờ hai người Thày cũng đã lần lượt bỏ tôi ra đi an nghỉ cùng một nơi Oak Hill Memorial Park, 300 Curtner Ave. San Jose 95125, và tôi cũng sẽ có những dịp vào thăm, thắp nhang thì thầm với hai Thày mỗi cuối tuần. Thày cũng như Cha…!

Thày đi nước khóc sầu cau mặt.
Núi lặng buồn thương trắng lệ bay…!
Con ngẩn ngơ lòng ôm kỷ niệm
Ngàn thu sắc úa vọng chiều nay…
 

Con xin kính Thày. 

Chinh Nguyên.

Aug, 12, 2012.

PHÂN ƯU

ợc tin

ận gia
SƠN ĐIỀN NGUYỄN VIẾT KHÁNH

ề cõi Phật

Tại tư gia, San Jose California. USA.

Hưởng Thọ 92 Tuổi

Ban Cố Vấn, Ban Điều Hành và thành viên Văn Thơ Lạc Việt khắp nơi
xin cầu nguyện hương linh
Giáo sư , Bình Luận Gia Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh được vui hưởng nơi Niết Bàn   

  

 

 
Nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh đã từ trần, hưởng thọ 92 tuổi.

*
(VNC) Nhà báo lão thành  Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh đã từ trần hồi 8:00 giờ sáng ngày 12/8/2012 tại nhà riêng ở San Jose, California, hưởng thọ 92 tuổi. 

Ông sinh năm 1921  tại Bắc Giang,, gia nhập làng báo  từ năm 1948 tại Hà Nội.

Nhà báo Nguyễn Viết Khánh đã cùng với Nhà báo Hồ Văn Đồng thành lập Văn phòng Việt Nam Thông tấn Xã đầu tiên tại Hà Nội năm 1950. Ông cũng là ký gỉa chiến trường Việt Nam đầu tiên đi theo các cuộc hành quân của Quân đội Pháp và Quân đội Quốc gia Việt Nam từ năm 1951 tại chiến trường miền Trung.

Từ năm 1965, ông  nhận chức vụ Tổng Thư Ký Tòa Soạn Việt Nam Thông Tấn Xã tại Sài Gòn, khi ấy do ông Nguyễn Ngọc Linh làm Tổng Giám đốc.
Là người thông thạo Anh, Pháp, Nhật ngữ, nhà báo Sơn Điền còn say mê viết về Khoa Học Không Gian và Vũ Trụ; bình luận và phân tích thời cuộc cho một số nhật báo lớn ở Saigon với bút hiệu Việt Lang Quân; ông còn là dịch gỉa của nhiều tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, Nghệ Khuông, Gia Cát Thanh Vân từ nguyên bản chữ Hán. 

Ông  đã sang Nhật tu nghiệp và thực tập về báo chí tại thông tấn Kyodo, thông tấn Jiji, nhật báo Mainichi.  

Sau tháng tư 1975 cũng như hàng trăm đồng nghiệp nhà báo, nhà văn, tại miền Nam, ông bị Cộng Sản bắt đi tù  suốt 12 năm. Trong thời gian lao động khổ sai tại trại tù cải tạo Gia Trung Pleiku, cùng với các Nhà văn Nguyễn Sỹ Tế, Mặc Thu Nguyễn Đức Sinh, Dzõan Quốc Sĩ có lúc ông bị cùm trong phòng tối, bị đánh đập và bị bỏ đói một thời gian dài. Những người bạn đồng tù với ông đều thừa nhận tư cách hiểu biết của ông. Lúc nào cũng bình tĩnh, hòa nhã. Hai ông bà sang Mỹ đòan tụ với các con năm 1992. Bà mất cách đây vài năm.
Về phương diện giáo dục, nhà báo Sơn Điền đã  có những đóng góp rất lớn cho ngành báo chí VN, dạy môn báo chí tại các trường Đại học Vạn Hạnh và Chính Trị Kinh Doanh ở Đà lạt. Ông rất quan tâm đến việc đem những tiêu chuẩn báo chí quốc tế huấn luyện cho giới trẻ VN, kể từ khi miền Nam Việt Nam có trường dạy Báo chí cấp Đại học từ sau năm 1965.    

Tại hải ngọai, những Bài bình luận thời cuộc của ông được đăng tải trên nhiều Báo Việt ngữ.

Ông còn là Tác gỉa của Tác phẩm “Những Mùa Xuân Trở lại”và “Khí Công Tâm Pháp”.

  
 
 
  
 
Tin và bài liên hệ:
Bài nói chuyện trong buổi Ra Mắt Sách: “NHỮNG MÙA XUÂN TRỞ LẠI” của Giáo Sư Sơn Điền Nguyễn viết Khánh ở tòa soạn báo Người Việt, quận Cam Cali .
Kính Thưa Qúy Thầy,
Kính Thưa Qúy Vị và các bạn.
Tôi rất vinh dự và sung sướng được đề cử thay mặt hằng nghìn môn sinh của Thầy lên đây có vài lời về Thầy Chúng Tôi .
Cuộc đời của Thầy tôi là cả một pho sách dầy 86 chương mà chương nào cũng đầy ắp những bài học qúy giá cho cá nhân tôi, bởi thế khi nói về Thầy qủa thật tôi không biết bắt đầu từ đâu và chấm dứt nơi nào!
Thật là điều nghịch lý khi các bậc trưởng thượng khả kính đã nói về tác phẩm của Thầy; trong khi tôi, kẻ hậu bối, lại trình bày về tác phẩm của chính mình .
Vâng, thưa qúy Thầy và qúy vị trong một dịp gần đây tôi có viết bài trong trang nhà của hội AHCSV VH mà hôm nay tôi xin được phép cùng chia sẽ với qúy vị .
Thầy tôi
Lẽ ra tôi phải nói Thầy chúng tôi, nhưng không hiểu sao trong tận đáy lòng vẫn còn những nhỏ nhen đời thường, vẫn thích sự chiếm hửu, tôi vẫn đang học ở Thầy tình thương là gì? nhưng bài này vẫn khó tiêu hóa !
Thầy tôi trọng tuổi, trong những lần trò chuyện cùng Thầy tôi thường đùa Thầy chẳng còn Thầy nữa, vì Thầy của Thầy đã ra người thiên cổ hết rồi.Tuy tuổi hạc đã cao nhưng Thầy còn minh mẫn và khỏe lắm. Trong các bạn chúng tôi xấp xỉ 60 tôi lóang thóang thấy có những anh trông còn “tệ” hơn Thầy nhiều , cho dù Thầy từng trải qua hơn 12 năm trong trại cải tạo ở Việt Nam, Thâỳ vẫn còn bước đi chắc chắn, mắt Thầy vẫn còn rất tinh tường, Thầy vẫn lái xe v. v…
Tôi còn nhớ vào khỏang những năm 1960, 1961 khi tôi bắt đầu làm quen với những chuyện kiếm hiệp dã sử trong các trang nhật báo tôi rất thích đọc nào là “Người đẹp thành Phiên Ngung”, “Lửa cháy Phiên Ngung Thành” rồi “Lệnh xé xác” và cũng từ đó tôi bắt đầu làm quen với tên một dịch giả, đó là Sơn Điền Nguyễn viết Khánh: dịch “Cự Linh Thần Chưởng” và một phần bộ “Cô Gái Đồ Long”, tôi biết đến Thầy tôi từ dạo ấy. Thầy chính là một trong những ký giả đầu tiên của Việt Tấn Xã khi mới thành lập vào năm 50 ở Sàigòn và sau đó 1951 ở Hà Nội, sau chuyển vào Huế năm 1952 và năm sau vào Sài gòn, và Thầy sau đấy giử chức Tổng Thư Ký . Thầy là ký giả Việt duy nhất của miền Nam đi dự Hội Nghị các Quốc Gia Phi Liên Kết tổ chức lần đầu năm 1955 tại Bandung, Indonesia, khi gửi bản tin qua “điện tín” thời ấy chưa có dấu tiếng Việt Thầy phải vừa nhìn, nghe vừa viết bằng Pháp ngữ, Thầy cũng từng là Nghiên cứu sinh về Báo Chí ở Nhật, như thế tôi biết chắc Thầy thông thạo, Hán, Nhật, Pháp và Anh Ngữ, còn ngôn ngữ nào ngòai tiếng Việt mà Thầy thông thạo, tôi hòan tòan không rõ, vì có bao giờ Thầy nói về chính mình đâu ? Những điều tôi biết được từ Thầy chẳng qua là học lóm từ những câu chuyện Thầy tâm sự cùng tôi .
Tôi còn nhớ vào những năm 93, 94 tôi bắt đầu đọc được bài của Thầy thường xuyên trên các điện báo, Thầy chuyên viết trong mục Trước Thời Cuộc, những bài của Thầy luôn chứa nội dung thật xâu sắc, luôn là một bài học cho những học trò của Thầy, riêng tôi rất thích những nhận xét về chính trị của Thầy, nhận xét của Thầy luôn vượt trên cục bộ, tôn giáo … Tôi nhớ một hôm vào khỏang cuối tháng 8, trong một dịp nói chuyện cùng Thầy, Thầy bảo tôi, con có thấy Mỹ đã thua ở Iraq và Trung Đông không ? Bây giờ muốn ngăn chặn và đánh khủng bố Mỹ nên nhìn về Phi Châu, nơi mà đạo Hồi đang bành trướng rất nhanh, vào Phi Châu Mỹ phải vào bằng tình thương, xóa đói giảm nghèo, mở mang tri thức, trị bịnh Aids cho người dân ở đây chứ không phải dùng súng đạn như những nơi khác thì mới mong chiến thắng. Ôi nhận xét của bậc Quân Sư ! Ngòai những bài bình luận chính trị, những bài viết của Thầy về khoa học rất là hay, Thầy thường bảo tôi Thầy là Science-Writer, nếu Thầy phải viết về chính trị chẳng qua vì thời cuộc mà thôi.
Tôi còn nhớ trong lần ghé thăm Thầy đầu tháng 9/2006, Thầy đã nhắc tôi câu chuyện mà Thầy đã nói với tôi dể cũng 5,6 tháng trước về ánh sáng nguyên thủy phát xuất từ đâu vào lúc nào, một lần nữa rất cặn kẽ và Thầy còn đưa tôi xem tờ báo Time số ra tháng 9 nói về hiện tượng Big Bang, trong ấy đã chứng minh thêm cho tôi về những chi tiết được ghi lại bằng hình ảnh, và những may mắn ngẩu nhiên mà những khoa học gia đã có dịp để đo và khẳng định ánh sáng đã có từ 14 tỉ năm về trước, tôi nghe Thầy trình bầy nhìn những hình ảnh báo Time đưa ra, tôi nghĩ thêm về Thầy tôi, Thầy tôi là người suy tư về những hiện tượng vật lý hằng cữu đến 14 tỉ năm trước hèn chi những sự việc đang xẩy ra và những vật chất hiện hửu xung quanh đối với Thầy chắc chỉ là những sát na hiện diện (?) điều này càng làm cho tôi hiểu thêm Thầy tôi, và tôi càng kính phục người hơn nữa . Thầy cũng chia xẻ với tôi về căn phòng Thầy đang sống tuy đơn chiếc, nho nhỏ nhưng đầy ắp tình thương cho dù Cô đã qua đời gần giáp năm, Thầy cho tôi xem những hình ảnh mà Thầy lo cho Cô, Thầy chỉ cho tôi nơi Cô nằm khi còn tại thế, chiếc giường be bé sóng đôi với chiếc giường của Thầy, vẫn đấy, vẫn ấm áp tình phu phụ của Thầy và Cô . Tôi thật sự xúc động khi được nghe những lời dịu dàng khi Thầy tôi nhắc về hiền phụ của Thầy, ánh mắt Thầy dường như long lanh hơn, giọng Thầy dường như có chiều sâu hơn và lòng tôi đã rung động từ khi nào ? Tôi nhìn Thầy tôi trìu mến thương yêu như đứa con vừa từ nơi xa xôi nào về thăm Bố để nghe câu chuyện của Mẹ vừa mất gần năm như mới vừa hôm nào gần gủi lắm … Trong bức ảnh nơi an nghỉ của Cô mà phần bên cạnh đã ghi sẳn tên Thầy như những lời hứa hẹn đầu tiên Thầy đã nói với Cô hơn 60 năm trước (?) và đó chính là những ấm cúng mà Cô của tôi đang bình an nơi cỏi niết bàn. Thầy chỉ tôi những dòng chử được khắc trên mộ bia, Thầy bảo Thầy muốn viết trên sổ ghi cho khách thăm viếng tang lể, nhưng nhà quàn Oak Hill không có bộ chử tiếng Việt trong computer của họ, nên Thầy đành dịch sang tiếng Anh
Đấy Thầy của tôi thế đấy, bảo sao chúng tôi không ngưỡng mộ Thầy, Thầy luôn là tấm gương sáng cho bản thân còn qúa nhiều dục tính của tôi ! Đến thăm Thầy để nhìn thấy Thầy sống thật đơn giản, tôi có cảm tưởng Thầy không thiếu những thứ Thầy cần cho cuộc sống hằng ngày mà Thầy vẫn tự lo, theo sự chọn lựa của Thầy (?) và không có thừa những thứ Thầy không cần đến, Thầy thường nói với tôi nhà Thầy bừa bộn lắm vì Thầy là nhà báo mà lị, nhưng tôi thấy còn gọn hơn nhà tôi chán !
Thầy còn cho tôi xem những dự tính làm việc của Thầy trong những ngày sắp đến, những bài vở Thầy chuẩn bị đã được sắp xếp thứ tự, tôi đến giật mình, Thầy tôi gần 90 mà chỉ nghĩ đến tương lai (?) nghĩ đến những việc sẽ làm năm tới, còn tôi, còn tôi chưa đến 60 mà luôn nghĩ về qúa khứ và đang mơ ước hưu non ?
Tối hôm ấy anh Khổng trọng Hinh có tổ chức show nhạc thính phòng “Mừơi Tác Giả, Mười Tiếng Hát”, Thầy bảo tôi Thầy sẽ ngồi phía dưới với chúng tôi, Thầy luôn luôn muốn gần các học trò của Thầy, và tôi hơi ngạc nhiên đêm ấy Thầy đã tham dự từ đầu đến cuối chương trình, tôi nhớ tối hôm ấy sau khi màn nhung đã khép kín anh em chúng tôi phần vui hội ngộ, phần hào hứng về sự thành công của chương trình đã tụ tập phía trước hí viện tán ngẩu thật lâu, mà chính Thầy cũng rất muốn góp vui với chúng tôi nhưng vì đã quá nửa đêm nên Thầy đành ra về vì con Thầy đang chờ . Ngày hôm sau gọi thăm Thầy mới thấy Thầy cũng rất thích chương trình nhạc và Thầy cũng hào hứng như những trung niên chúng tôi !
Rồi cuối tuần qua vì có anh bạn từ ViệtNam vừa sang, tôi đã bay xuống San Jose gặp bạn, không bỏ lở cơ hội, sáng sớm thứ bẩy tôi nhờ bạn tôi đưa đến thăm Thầy, Thầy luôn vui vẽ khi đón chúng tôi, Thầy ghé qua văn phòng nơi chung cư Thầy sống để nhắn lời về chiếc xe của chúng tôi đổ nơi khách thăm trong vòng nửa giờ, tôi nghe Thầy bảo với bà thư ký với giọng thật nhẹ nhàng và đầy ắp niềm vui “my students” ..
Vừa vào nhà tôi xin phép được mang một ít hoa qủa hái từ sau vườn nhà hôm qua làm lể cúng Cô, tôi thấy Thầy nhìn tôi với ánh mắt hài lòng dịu dàng khôn tả (đến hôm sau khi tôi điện thọai từ giả Thầy từ phi trường để trở về Seattle Thầy mới cho biết tôi là người học trò đầu tiên cúng Cô vào đúng ngày cô mất: 30 tháng 9! Ôi sự trùng hợp may mắn nào đã có sắp xếp của đấng vô hình đã đến với tôi). Rồi Thầy kể chuyện với hai anh em chúng tôi về những vặt vảnh đời thường vẫn theo sát gót chân Thầy . Rồi computer của Thầy đôi khi có vấn đề, thế là anh bạn tôi vào ngay máy để clean up “cookies” trong máy của Thầy và sau đấy chúng tôi đưa Thầy đi uống café và dùng trưa, Thầy nhất định nhắn tôi là hôm nay Thầy khao các con, thật là một buổi sáng vui và ý nghĩa nhất từ ngày tôi sống nơi xứ người!
Tôi đã trở về thành phố mưa buồn đúng một tuần, suốt tuần nay những khi thư thả với công việc mưu sinh tôi lại nghĩ đến “Thầy tôi” rồi như một hối thúc nội tâm tôi có thể làm được việc gì cho “Thầy tôi” vui, cho thỏa mản lòng trân qúy mà tôi đã và luôn mãi với Thầy, Thầy tôi có cần gì ở tôi đâu, nhưng tôi cũng cố gắng tránh những việc làm có thể làm Thầy không vui, tôi phải cố sống gần được như Thầy, nhưng có điều tôi nghĩ chắc chắn sức khỏe tôi sẽ không bao giờ bằng được Thầy, nhưng tôi luôn mong được bằng phần nào đó, những thôi thúc ấy đã khiến tôi ngồi xuống gỏ phiếm đôi dòng về vị Thầy khả kính không phải của riêng tôi mà của tất cả chúng ta, những người đã hơn một lần được đọc bài của Thầy … Có phải thế không ạ ??

Vâng, con luôn mong sức khỏe Thầy thật tốt, nếu có muôn ngàn những con người mà cuộc sống của họ chỉ mang phiền tóai đến người khác thì trên cỏi đời tạm bợ này vẫn còn một người như Thầy chỉ cần khi nghĩ đến là con cảm thấy thật ấm áp, trong sáng mặc dù ngòai trời sáng nay đang rất lạnh, mây mù u tối của mùa thu trùm phủ suốt mùa …
Con cám ơn Thầy , con mong Thầy luôn khõe .
Học trò của Thầy: Đặng trần Qúy
Thành phố Ngọc Bích, tháng 10 năm 2006.
Xin cám ơn Qúy Thầy Qúy Vị và các bạn .
 
 

 

Nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh qua đời, thọ 92 tuổi 

Ðỗ Dzũng/Người Việt
SAN JOSE (NV) – Nhà báo kỳ cựu Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh của làng báo Việt Nam Cộng Hòa vừa qua đời vào lúc 8 giờ 15 phút sáng Chủ Nhật, 12 Tháng Tám, tại nhà riêng ở San Jose, California, thọ 91 tuổi, ông Nguyễn Viết Dũng, trưởng nam của người quá cố, cho nhật báo Người Việt biết.

Nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh (trái) ký tuyển tập “Những Mùa Xuân Trở Lại” trong buổi ra mắt tại phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt năm 2008. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)
Ông Dũng nói: “Sau một thời gian bị bệnh, ông cụ qua đời lúc 8 giờ 15 phút tại nhà. Ðến 3 giờ chiều, chúng tôi đã chuyển thi hài cụ vào nhà quàn Oak Hill Funeral Home ở San Jose. Chúng tôi sẽ gởi ra cáo phó trong những ngày tới để mọi người biết chương trình tang lễ.”
Theo ông Dũng cho biết, nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh sinh ngày 2 Tháng Mười, 1921 tại Bắc Giang.
Nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh là một “cây đại thụ” trong làng báo tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cũng như sau này tại hải ngoại.
“Ông là một nhà báo lỗi lạc và yêu nghề,” nhà báo Phan Thanh Tâm, hiện cư ngụ tại Saint Paul, Minnesota, nói với nhật báo Người Việt. Nhà báo này từng làm việc trong 10 năm với nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh tại Sài Gòn và thường xuyên liên lạc với ông khi ra hải ngoại.
Nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh bắt đầu viết báo từ năm 1948.
Sau khi di cư vào Nam, đến năm 1965, ông làm tổng thư ký Việt Nam Thông Tấn Xã.
Theo nhà báo Phan Thanh Tâm, nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nhật. Ngoài công việc ở Việt Tấn Xã, ông còn chuyên viết về khoa học không gian và vũ trụ, bình luận và phân tích thời cuộc cho một số nhật báo lớn ở Sài Gòn với bút hiệu Việt Lang Quân. Ông cũng dịch thuật tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung, Nghệ Khuông, và Gia Cát Thanh Vân từ nguyên bản chữ Hán, và từng sang Nhật tu nghiệp và thực tập báo chí tại hãng thông tấn Kyodo, hãng thông tấn Jiji, và nhật báo Mainichi.
Từ năm 1968, ông dạy báo chí tại Ðại Học Vạn Hạnh ở Sài Gòn và Ðại Học Chính Trị Kinh Doanh ở Ðà Lạt.
Nhiều nhà báo hiện đang làm việc tại các cơ quan truyền thông Việt Ngữ ở hải ngoại từng là học trò hoặc từng làm việc dưới quyền ông.
Sau năm 1975, Giáo Sư Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khách bị đi tù “cải tạo” 12 năm.
Năm 1992, ông sang định cư tại San Jose, California, và viết bình luận cho nhiều cơ quan truyền thông Việt Ngữ trong vùng ở San Jose, cũng như nhật báo Việt Báo và đài phát thanh Radio Bolsa ở Westminster, Orange County, và viết một số sách, ví dụ như tuyển tập “Những Mùa Xuân Trở Lại,” xuất bản năm 2008.
 

 




Giải Văn Thơ Lạc Việt 2013

 

Giải Văn Thơ Lạc Việt 2013.

ếp theo nhà thơ

Đông  Anh, và hiện tại nhà văn/thơ Chinh Nguyên với  mục đích của Văn Thơ Lạc Việt :

    b/ Tìm tài năng mới cho nền văn hoá Việt tại Hải Ngoại.
    c/ Muốn trao lại cho giới trẻ tiếp tục nền văn hóa Việt Nam tại Hải Ngoại.

    trị tại quốc nội.  

 tịch đầu tiên, sau khi chuyển tới chủ tịch nhà thơ Đông Anh thì Thi Đàn Lạc Việt đổi tên 
 thành Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt với mục đích mở rộng tới các hệ mộn khác liên hệ tới văn hóa
 và nghệ thuật Việt như  nhạc, kịch, họa. và Giải Văn Thơ Lạc Việt được sáng lập từ năm
 2008 và liên tục được mở ra hàng năm hầu tìm tài năng mới cho nền văn chương, nghệ thuật
 hải ngoại.

 

 
Anh Thành chủ Tiệm vàng Victory  Jewelry,
Anh Bryan Giám đốc 40 hours,
BS Đặng Phương Trạch,
Anh Ngọc CarQuest United  Auto Supply.
Shangri-la lotus salon Jenny Dinh.
BS Nguyễn Xuân Ngải,
Lê Minh Hải, Robuert Mullins international.

Nguyễn Đức Nhữ/Quốc Gia Nghĩa Tử
    



Mọi sự bảo trợ cho giải Văn Thơ Lạc Việt hàng năm chúng tôi đều trân trọng, xin quí vị
mạnh thường quân liên lạc với :

 về
Văn Thơ Lạc Việt
640 Rettus Ct,
San Jose CA. 95111
USA.
 
Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt là none profit nên mọi sự bảo trợ đều được trừ thuế.
Những tác giả trúng giải :
     
          
Giải nhất : Hoàng Thy =  kịch thơ Cô Gái Hàn Trăng.
Giải nhì  :  Hiển Chi    =  Mỉa Mai 
Giải ba   :  Duy Hân   =   Ngũ Ngôn cho Mẹ.

Về Văn có những tác giả trúng giải :
Giải nhất : Thu Tâm  =   Mưa buồn tháng sáu.
Giải nhì   :  Huy Uyên  =  Chuyện kể Đại Úy Marshall. 
Giải ba    :  Hồng Thúy  =  Người Mẹ  

Nhửng tác giả trúng giải ở những nơi khác biệt nhau :
  Hai tác giả ở Mỹ : Hoàng Thy và Thu Tâm.
  Ba tác gỉa ở Canada : Hiền Chi, Duy Hân và Hồng Thúy.
  Một tác giả ở Việt Nam : Huy Uyên.

Nhà Thơ Dông Anh là Cố Vấn trực tiếp nên ông là tổng giám khảo ban trung khảo, bao gồm những vị giám khảo ở khắp năm châu đã nhận được bài từ Văn Thơ Lạc Việt sau lần chấm sơ khảo, để loại lần đầu những bài dự thi không hợp điều lệ trong thông cáo :  Tổng số gần 20 vị nhà văn, nhà thơ có danh trước năm 1975.


Việt năm 2013:

Link Video trích đoạn : Hoán chuyển nghịch cảnh – Cha con.
https://www.facebook.com/profile.php?id=100006473517043&sk=photos&collection_token=100006473517043%3A2305272732% 3A69&set=a.1455296728029430.1073741834.100006473517043&type=1

Đạo Diễn Mai Thanh Vân và Kịch đoàn Sân Khấu Việt Cali
Mai Thanh Vân là đạo diễn kiêm giám đốc của nhóm kịch Sân Khấu Việt Cali, trong vùng San Jose , tiểu bang California . Từ năm 1998 đến nay, nhằm mục đích phát triển và khích lệ thế hệ trẻ VN sinh trưởng tại hải ngoại trau dồi văn hóa VN, Đạo diễn Mai Thanh Vân dùng thể loại kịch mới: song ngữ Anh Việt để phát triển các hoạt động nghệ thuật của sân khấu việt cali như:

    người di dân VN.

Suốt 16 năm qua, đạo diễn Mai Thanh Vân đã viết kịch bản và dàn dựng cho Sân Khấu Việt Cali trình diễn thành công nhiều vở Bi Hài kịch song ngữ Anh Việt, tâm lý giáo dục, gần gũi với đời sống người Việt hải ngoại, đã từng gây ấn tượng đẹp trong mỗi khán giả VN Bắc Cali, qua nhiều vở kịch của Sân Khấu Việt Cali:

 V Trhttp://youtu.be/cfpAlSSC0ew

http://www.youtube.com/watch?v=xbMXpWAriWM

http://www.youtube.com/watch?v=nh_8kiPRUjU

http://youtu.be/kawjf12NuXQ

http://www.youtube.com/watch?v=SIBcx8EUrSE

http://www.youtube.com/watch?v=2_TYKe-yovI

http://www.youtube.com/watch?v=jS375rmS7nk

http://www.youtube.com/watch?v=UiFRqgh5u3A

http://www.youtube.com/watch?v=g4TXNyoJpHo

http://www.youtube.com/watch?v=_8UhZSKoNSU

http://www.youtube.com/watch?v=GpDQyxMdziA

http://www.youtube.com/watch?v=OjHTNPY55uU

http://www.youtube.com/watch?v=-xO2xY4uNxk

Với 25 năm hoạt động kịch nghệ trong nước và hải ngoại, Đạo Diễn Mai Thanh Vân không chỉ xuất hiện trên kịch truyền hình, film video với vai trò diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, mà còn là người điều hành, chỉ đạo nghệ thuật nhóm kịch Sân Khấu Việt Cali,nhóm kịch Việt Nam được các hội nghệ thuật Bắc Cali phát bằng khen từ 2007 đến nay.
(408) 882-6682
c/ Vũ đoàn Cánh chim Bách Việt của cô Diệu Hiền.

Link video Vũ khúc Tứ Linh :

https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1455266428032460&set=a.1455256471366789.1073741831.100006473517043&type=1&theater
    
Được thành lập từ năm 1993, Vũ Đoàn Cánh Chim Bách-Việt  (CCBV) là một tổ chức bất vụ lợi, nhằm phát huy, duy trì và phổ biến văn hóa Việt tộc qua bộ môn nghệ thuật Vũ Dân Tộc lồng trong những thể điệu Ballet, Modern, và Jazz.    (Contemporary Cultural Dance)

Hàng năm, mỗi độ hè về, Vũ Đoàn CCBV tổ chức một chương trình sinh hoạt Hè cho các thanh thiếu niên, hoàn toàn miễn phí. Các em được huấn luyện một liên vũ khúc dân tộc dựa theo truyện cổ tích, huyền sử, hay lịch sử của Việt-Nam để lưu diễn  quanh năm.

Vũ Đoàn CCBV đào tạo những phụ tá trẻ nhằm khuyến khích tinh thần lảnh đạo và tâm nguyện dấn thân cho tha nhân, hầu truyền bá văn hoá nghệ thuật Việt vào giòng chính.

Năm 2013, để đánh dấu 20 năm kỷ niệm, và cùng sự trưởng thành đó, Vũ Đoàn CCBV xin nguyện hiến tặng tất cả sự yểm trợ về tài chánh cho CCBV từ các hội đoàn, đến tổ chức thiện nguyện Doctors Without Borders, hầu góp phần nhỏ để xoa diệu nỗi khổ đau của chúng sinh.
Bao gồn những nghệ sĩ thân hữu Văn Thơ Lạc Việt từ các ca đoàn tại San Jose.
   
Tất cà những chi tiết văn nghê trình diễn trong lễ phát giải đều hướng vể cội nguồn Việt rất
hay và Chinh Nguyên xin kính mời quí vị tới tham dự để hiểu rõ hơn về Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt
và những giải mà Văn Thơ Lạc Việt đã tổ chức và sẽ tổ chức hàng năm. Tự do tham dự
không c
ần ự hiện diện của quí vị là niềm khích lệ lớn lao cho ban tổ chức và vinh hạnh cho các thi  văn
hữu trúng giải.

Chinh Nguyên


                                    


 

 

 

   




HÃY MỞ MẮT TO MÀ ĐỌC – SỰ THẬT MẤT LÒNG

HÃY MỞ MẮT TO MÀ ĐỌCSỰ THẬT MẤT LÒNG
Hải Nguyễn

Một nhân viên chánh phủ liên bang cấp cao người Mỹ da trắng, y nói rằng:
Một mặt các người Mỹ gốc Việt hợp tá
c khăng khít (closely co-operate) về kinh tế và tài chánh với chế độ “kẻ thù” của các anh qua việc các anh đổ 18 tỷ đô la về Vietnam hàng năm qua ngã du lịch, chuyển ngân, du hí, và đầu tư (Note: Wells Fargo Bank có đủ tài liệu cấp cho GAO).
Mặt khác, một số tổ chức cộng đồng (a certain number of your community organizations) các anh nộp thỉnh cầu (petition) chánh phủ Mỹ xin dùng áp lực kinh tế với Vietnam để đòi cho các anh vài điều mà các anh có thể tự làm lấy, nhưng chính hành động của các anh (hợp tác kinh tế với chế độ thù nghịch) rồi các anh phản lại thỉnh cầu của các anh. Các anh là lũ hề (you, bunch of comedians)
Ông hỏi: "Trả lời tôi, các anh là loại người gì”? (Please answer me, what kind of people are you?)
Qua 2 tuần tôi mong đợi hồi âm của các bậc cao minh, uyên bác, nhưng không thấy. Tuyệt vọng! Tôi không còn tin người Việt nào đủ thông minh uyên bác có thể đối đáp lại người chửi xéo dân Việt tỵ nạn ta.
Như thế có nghĩa là toàn thể cộng đồng người Mỹ gốc Việt không có một ai cao minh uyên bác cả. Đau buồn thay hơn 4 ngàn năm văn hiến!!!. Tôi chỉ đọc thấy một vài bài chửi thề vô học thức, hạ cấp (low life, uneducated) và tất cả đều LẠC ĐỀ, không ai trả lời đúng câu hỏi. Bài nào lạc đề, tôi xóa bỏ ngay không thèm đọc cho là rác rưởi không đáng mất thì giờ.
Tiện đây tôi kể lại toàn bộ cuộc mạn đàm tại bữa cơm chung hôm nớ:
Cũng trong dịp Monthly-Neighborhood-Get-Together-Buffet Dinner này, một bà bác sĩ Sue (OB GYN) da màu chĩa vô “Chính BS Martin Luther King là người đã đấu tranh cho chúng tôi có nhân quyền, tự do, bình đẳng.Chúng tôi phải tự dành lấy bằng mạng sống.Chúng tôi không nộp thỉnh cầu tới chánh phủ như bản chất ỷ lại của các anh vừa làm. Các anh biết việc làm nào bẩn thỉu, các anh muốn người khác làm cho mình (Your dirty job you want somebody else doing it for you)”. Nếu không có BS King, người Mỹ gốc Việt các anh ngày nay chẳng khác gì người Tàu qua đây lao động đường xe lửa hoặc giặt ủi. Ai muốn có gì, phải tự tranh đấu dành lấy.
Ở Mỹ có câu nói không ai cho ai ăn cơm thí (There is no free lunch). Những người dân ở Việt Nam ươn hèn (coward rats) không dám tự mình dành lấy bình đẳng, tự do, nhân quyền. Nước Mỹ không thể cứu giúp một dân tộc ươn hèn (a nation full of coward rats) nếu họ không tự cứu họ trước (we only help those who help themselves)
Một ông khác là sĩ quan hải quân về hưu, nói:
“Tôi muốn nói cho các người bạn Mỹ gốc Việt các anh biết rằng chánh phủ Mỹ không đóng vai trò cảnh sát quốc tế (policeman of the world). Nước Vietnam bắt bớ giam cầm những người đối kháng là việc nội bộ của riêng họ. Các anh không thể thỉnh cầu chánh phủ Mỹ làm cảnh sát hoặc quan tòa buộc một nước có chủ quyền (a sovereign nation in power) thả những người đối kháng mà, ai có thể biết được, chính phủ nước đó cho họ là tội phạm.Các anh quá lạm dụng (abusive) quyền công dân Mỹ. Nhân đây tôi cho các anh biết, các người Cuba nói riêng hoặc Latinos nói chung, lực luợng cử tri, chánh trị và kinh tế của họ to lớn hơn các anh nhiều lần. Các chánh trị gia đều tiến sát gần (approach) họ. Họ chưa hề thỉnh cầu (petition) chánh phủ điều gì. Vì họ thông minh và thực tế hơn người Mỹ gốc Việt các anh (they are smarter and more realistic than you folks)–tức là chúng ta ngu hơn bọn xì–quả vậy.
Ngồi cùng bàn, ông Tom chủ văn phòng bất động sản Century 21, phát biểu: "Cũng như mọi cộng đồng thiểu số khác. Họ (người Việt) có 3 loại người:
* – Loại 1: loại cực kỳ thông minh đóng góp rất nhiều cho xứ sở này (their adopted land). Tôi biết có tới hàng ngàn người Việt là quân đội Mỹ cấp tá, BS, Kỹ Sư, Giáo Sư, Bác Học. Điển hình (a case in point) cách nay 6-7 năm tôi đã đọc Newsweek Magazine, ký giả lão thành (renowned journalist) George Wills viết 1 bài dài về 1 bà bác học Vietnam–ý ông nói Mme. Dương Nguyệt Ánh (Click here)
Nói rằng món nợ của bà đã trả cho nước Mỹ hoàn toàn đầy đủ, kể cả tiền lời (Your debt to America has been paid in full, with interest).
* – Loại 2: là bọn ích kỷ, cơ hội chủ nghĩa (selfish opportunists) những người dễ ghét–đáng khinh bỉ– (despicable folks). Loại người này sẵn sàng bán linh hồn cho qủy dữ (they are ready to sell their souls to devils) trục lợi cá nhơn. 18 tỷ dollars Dr. George vừa nói là từ loại người này đổ vào Vietnam. Họ là những con cừu đen.
*- Loại 3: là loại ngu xuẩn nói nhiều làm ít (All-talk idiots). Họ ngu xuẩn tới nỗi không có lý trí. Họ nhu nhược ươn hèn, ỷ lại, lạm dụng quyền công dân. Họ ngu xuẩn đến nỗi không biết được rằng chánh phủ và nhơn dân Mỹ chỉ hành động việc gì có lợi chung cho đất nướcfr va nhơn dân Mỹ (common interest of America and the American people). Các thỉnh cầu của loại người này, nếu là tôi (Ông Tom) tôi ném ngay vào thùng rác.
Vợ chồng tôi nói với nhau: Ờ nhỉ. Người mình ngu thật đấy. Dinner Buffet đầu tháng 4 ni, mình không nên góp đồ ăn đến dự nữa. Làm người Việt nhục lắm. Chỉ muốn độn thổ thôi. Nghĩ thấy dại. Ghi tên vào Thỉnh Nguyện Thư làm dek gì! Thì tại mình ngu chúng biểu ăn cứt mình
cũng ăn. Rồi mới hôm rầy có tên nào trong ban tổ chức dụ con nít ăn cứt gà còn tuyên bố rằng "Nếu ông Obama không có phản ứng hay hành động nào thích đáng (no reaction or appropriate action) cho bản thỉnh cầu, chúng ta sẽ đem 135,000 chữ ký cho đảng đối lập. À ra thế, mình chỉ là công cụ búp bế (puppets) của lũ idiots. Bi chừ chúng biểu 135,000 người có tên trong bản thỉnh cầu làm theo lời chúng dạy. Bút sa gà chết mà.
Ta là người chịu ơn chánh phủ và nhơn dân Mỹ quá nhơn đạo cưu mang chúng ta qua đây, gíúp đỡ ta bước đầu, tìm nơi ăn chốn ở, làm ăn gây dựng sự nghiệp. Khi có đủ lông cánh ta đem tiền bạc về bơm cho những kẻ mà do chính chúng đã gây ra cho chúng ta phải bỏ nước ra đi. Giờ đây ta còn để cho những người (Mỹ bình thường) nhìn ta như những con vật ghẻ lở, loài sâu bọ.
Hải Nguyễn

link Phim tài liệu THẢM HOẠ ĐỎ.

https://www.youtube.com/watch?v=9XZ0cg6cvmw

https://www.youtube.com/watch?v=s0R378Z2ksA

BBC : Các cựu lãnh đạo Vinashin ra tòa

Các cựu lãnh đạo Vinashin ra tòa

Cập nhật: 12:40 GMT – thứ ba, 27 tháng 3, 2012
  •  
Các bị cáo vụ Vinashin ra tòa ở Hải Phòng

Các lãnh đạo tập đoàn Vinashin đã gây thiệt hại hơn 4 tỷ đôla

Một số quan chức liên quan vụ bê bối ở Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam, tức Vinashin, vốn làm chấn động nền kinh tế Việt Nam cuối cùng đã bị đưa ra xét xử tại Hải Phòng vào sáng thứ Ba ngày 27/3.

Bị cáo chính trong phiên tòa kéo dài bốn ngày là ông Phạm Thanh Bình – nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Vinashin.

Cùng ra tòa với ông Bình là tám bị cáo khác vốn từng là thuộc cấp của ông ở tập đoàn.

Thẩm phán Trần Văn Nhiên, chánh Tòa kinh tế của Tòa án Hải Phòng, chủ tọa phiên tòa mà hiện mới chỉ bắt đầu thu hút các bình luận trong và ngoài nước.

Tất cả chín bị cáo bị truy tố theo Điều 165 Bộ Luật Hình sự của Việt Nam về tội ‘cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’.

Đông đảo các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước đã đến dự thính phiên tòa, tức theo dõi qua màn hình ở một phòng khác.

Trước đó, yêu cầu của BBC Tiếng Việt muốn được về Hải Phòng tham gia theo dõi phiên tòa đã không được chấp thuận.

Theo truyền thông trong nước thì có tổng số 18 luật sư tham gia bào chữa cho 9 bị cáo. Ngoài ra tòa còn triệu tập 15 người làm chứng.

Trong ngày đầu tiên của phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã đọc cáo trạng. Sau đó Hội đồng xét xử đã tiến hành xét hỏi và thẩm vấn các bị cáo.

Theo cáo trạng thì ông Bình và các bị cáo khác bị truy cứu trách nhiệm trong các dự án tàu Hoa Sen, nhà máy nhiệt điện Sông Hồng, nhà máy nhiệt điện diesel Cái Lân, bán tàu Bạch Đằng Giang.

Mọi người quan tâm đến tương lai Vinashin và nợ nước ngoài của Việt Nam sẽ được giải quyết như thế nào chứ không phải là mức án bao nhiêu năm tù mà các vị này sẽ lãnh."

Một chuyên gia kinh tế giấu tên nói với AFP

Các dự án đầu tư này đều làm thất thoát từ hàng chục đến hàng trăm tỷ đồng.

Theo tường thuật của báo mạng VnExpress thì ông Bình đồng tình với cáo trạng của Viện kiểm sát. Tuy nhiên ông cho rằng ông phải làm như vậy ‘vì điều kiện khách quan’.

‘Không trấn an được’

Trong ngày khai mạc phiên tòa, hãng tin Pháp AFP đã có bài viết phỏng vấn ý kiến các chuyên gia về phiên xử được trông đợi ở cả trong lẫn ngoài nước này.

Các chuyên gia được AFP phỏng vấn đều cho rằng phiên tòa này chẳng giúp gì nhiều để trấn an các nhà đầu tư về các khó khăn kinh tế của Việt Nam.

Vinashin gần như lâm vào tình cảnh phá sản hồi năm ngoái với các món nợ hơn 4 tỷ đôla. Tình hình Vinashin đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về các công ty thuộc sở hữu nhà nước – một cấu thành quan trọng của kinh tế Việt Nam.

Đưa một số lãnh đạo tập đoàn ra tòa sẽ ‘không có tác động gì đáng kể’ đối với vấn đề cốt yếu đối với Việt Nam hiện nay là cải cách các doanh nghiệp nhà nước và do đó khó có thể làm yên lòng các nhà đầu tư nước ngoài, AFP dẫn lời một nhà kinh tế trong nước cho biết.

Ông Phạm Thanh Bình bị áp giải vào tòa

Ông Bình đã nhiều năm lãnh đạo Vinashin

“Mọi người quan tâm đến tương lai Vinashin và nợ nước ngoài của Việt Nam sẽ được giải quyết như thế nào chứ không phải là mức án bao nhiêu năm tù mà các vị này sẽ lãnh,” nhà kinh tế này nói với điều kiện giấu tên.

Các tập đoàn kinh tế nhà nước, phần nhiều trong số này được nhiều người nhìn nhận là được quản lý yếu kém, nắm giữ khoảng 2/3 số vốn và giá trị tài sản ở Việt Nam và có mối quan hệ gần gũi với các quan chức chính quyền.

“Vấn đề thật sự ở đây là liệu có một cơ chế quản lý mới cho các doanh nghiệp nhà nước hay không và liệu chính phủ (Việt Nam) có nghiêm túc giải quyết vấn đề ‘thua lỗ, tham nhũng và cố ý làm trái’ ở các công ty nhà nước hay không,” chuyên gia này nói.

Trong năm 2011, Việt Nam đã phải tái tập trung vào việc bình ổn nền kinh tế để đối phó với giá cả tăng vọt và các thách thức khác trong khi các chuyên gia nhận xét rằng đa phần các khó khăn kinh tế của nước này là do sự lệ thuộc của Hà Nội vào các doanh nghiệp nhà nước như là động cơ phát triển công nghiệp.

Sẽ có nhiều Vinashin?

Trừ phi tất cả các doanh nhiệp nhà nước được cải cách và bị tước bỏ tất cả các đặc quyền và được biến thành các ‘doanh nghiệp thật sự’, nếu không Việt Nam sẽ có thêm nhiều vụ Vinashin hơn nữa, gây tổn thương cho triển vọng kinh tế nói chung của đất nước, chuyên gia này nói thêm.

Nguyên chủ tịch Vinashin Phạm Thanh Bình

Nếu bị kết tội, ông Bình sẽ chịu mức án tối đa là 20 năm

Các chuyên gia cũng cho rằng trước khi lâm vào cảnh gần như phá sản thì Vinashin được xem là một hình mẫu mới của các doanh nghiệp nhà nước với kỳ vọng sẽ đi đầu trong nỗ lực cạnh tranh trên trường quốc tế của Việt Nam.

Năm 2008, tập đoàn này có các hợp đồng trị giá 6 tỷ đôla trong sổ sách, 60.000 nhân viên, 28 nhà máy đóng tàu với tỷ lệ tăng trưởng được dự đoán ở mức 35% một năm, theo công ty tư vấn Oxford Analytica.

Chủ tịch Vinashin Phạm Thanh Bình từng được báo chí dẫn lời rằng cho đến năm 2015 Việt Nam sẽ trở thành nước đóng tàu lớn thứ tư trên thế giới.

Tuy nhiên tập đoàn này sau đó đã sụp đổ dưới một núi nợ vào năm 2010. Chủ tịch Bình và tám lãnh đạo khác của tập đoàn đã bị truy tố vào tháng 11 về tội cố ý làm trái các quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.

Khung hình phạt dành cho tội danh này sẽ có mức án tối đa là 20 năm tù.

Theo cáo trạng của cơ quan công tố thì các bị cáo này đã có ‘những sai phạm nghiêm trọng’ trong nhiều dự án khi lãnh đạo tập đoàn Vinashin.

Họ (các bị cáo) sẽ chia sẻ hình phạt… để trấn an các nhà đầu tư nước ngoài rằng các cải cách ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và đấu tranh chống tham nhũng đang được tiến hành."

GS Carl Thayer, Học viện quốc phòng Úc

Toàn bộ chín cựu quan chức tập đoàn đã bị tạm giam kể từ khi bị bắt vào tháng 8/2010. Việt Nam cũng đã công bố lệnh truy nã quốc tế đối với hai quan chức cấp cao khác của tập đoàn.

“Họ (các bị cáo) sẽ chia sẻ hình phạt… để trấn an các nhà đầu tư nước ngoài rằng các cải cách ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và đấu tranh chống tham nhũng đang được tiến hành,” GS Carl Thayer, một học giả chuyên về Việt Nam từ Úc, nhận xét.

Áp lực lên thủ tướng

Tuy nhiên phiên tòa này sẽ chẳng làm được gì nhiều để giải quyết các vấn đề bên trong cũng như cải thiện chỉ số tín nhiệm quốc tế của Việt Nam vốn đã giảm rất nhiều do những khoản tín dụng dễ dãi dành cho các doanh nghiệp Nhà nước, GS Thayer nói với AFP.

Các tập đoàn như Điện lực Việt Nam, nhà độc quyền cung cấp điện thuộc sở hữu Nhà nước cũng đang gặp khó khăn về tài chính mà người đứng đầu đã bị cách chức hồi đầu năm, cũng đang gặp vấn đề tương tự như Vinashin.

Vụ việc Vinashin đã gia tăng áp lực lên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người chỉ định ông Phạm Thanh Bình đứng đầu tập đoàn và được cho là có quan hệ gần gũi với ông này.

Nó (Vinashin) hoạt động hoàn toàn vì mục đích chính trị mà người ta đặt ra cho nó chứ không phải hoạt động trên cơ sở làm ăn sinh lợi."

TS Nguyễn Quang A

Vào lúc vụ việc Vinashin nóng lên đến đỉnh điểm vào năm 2010, một vị đại biểu Quốc hội thậm chí còn kêu gọi bỏ phiếu bất tín nhiệm Thủ tướng Dũng – một việc chưa từng xảy ra ở Việt Nam.

Thủ tướng Dũng đã nhận trách nhiệm về vụ việc trước Quốc hội vào tháng 11/2010 và việc này đã làm xuất hiện những chỉ trích gay gắt hơn nữa nhắm vào ông.

“Vụ Vinashin gần làm chấm dứt sự nghiệp chính trị của ông ấy (Thủ tướng Dũng),” ông Benoit de Treglode, giám đốc Viện nghiên cứu Đông nam Á đương đại của Pháp có trụ sở ở Bangkok, nhận xét với AFP.

Các cuộc điều tra của công an trong vụ Vinashin tập trung vào việc thua lỗ 43 triệu đô la – phần lớn trong số này được cho là biến mất trong các dự án phát triển một tàu cao tốc chở khách và một nhà máy điện hoạt động không hiệu quả.

Vào tháng 12 năm 2010, Vinashin vỡ nợ với khoản 60 triệu đô la đầu tiên trong khoản vay trị giá tổng cộng 600 triệu đô la của ngân hàng Thụy Sỹ Credit Suisse vào năm 2007. Tuy nhiên cho đến giờ vẫn chưa có thông tin gì thêm về thỏa thuận giải quyết khoản nợ này.

Phản ứng các giới

Ông Phạm Thanh Bình thời còn làm lãnh đạo Vinashin

Vinashin được Nhà nước ưu đãi và các lãnh đạo tập đoàn có quan hệ với nhiều quan chức chính phủ

BBC đã phỏng vấn một số nhân vật trong nước về phiên tòa này ngay trong ngày 27/3.

TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam, cho biết việc đưa Vinashin ra xét xử công khai cho thấy ‘Chính phủ Việt Nam muốn có hành động thực sự mạnh mẽ để cải thiện hiệu quả của khu vực này (Nhà nước) và cả nền kinh tế’.

Ông Thiên cũng thừa nhận là ở các tập đoàn kinh tế nhà nước thì hiệu quả sử dụng vốn đồng tư chưa ‘đạt được hiệu quả cao như mong đợi’.

Trong khi đó, chuyên gia kinh tế Nguyễn Quang A nhận xét rằng hậu quả của vụ Vinashin là ‘khi các doanh nghiệp Việt Nam muốn đi vay nợ nước ngoài thì phải trả giá cao hơn’ bởi vì ‘mức tín nhiệm của đất nước bị hạ thấp’.

“Cái sai cốt lõi là ở đường lối phát triển kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam. Điều này được ghi trong nghị quyết của Đại hội Đảng đặt kinh tế Nhà nước là chủ đạo,” ông nói.

“Nó (Vinashin) hoạt động hoàn toàn vì mục đích chính trị mà người ta đặt ra cho nó chứ không phải hoạt động trên cơ sở làm ăn sinh lợi,” ông nói thêm.

Nhận xét về trình tự pháp lý của phiên tòa, Luật sư bất đồng chính kiến Lê Quốc Quân nhận xét rằng nếu xét theo các quy định hiện hành thì phiên tòa diễn ra ‘đúng luật’.

Tuy nhiên, Luật sư Quân cũng cảnh báo vụ án Vinashin đang có dấu hiệu thu hẹp dần về mức độ thiệt hại, về cấp tòa xét xử và về mức án.

Nếu tính ra 910 tỷ này chia đều cho các cá nhân vi phạm thì là không bao nhiêu."

Luật sư Lê Quốc Quân

Ông Quân chỉ ra là nếu xét xử theo điều 165 Bộ luật hình sự thì mức độ cố ý làm trái chỉ vào khoản trên 900 tỷ đồng, tức là chưa tới 1/80 khoản nợ 80.000 tỷ của tập đoàn này.

“Nếu tính ra 910 tỷ này chia đều cho các cá nhân vi phạm thì là không bao nhiêu,” ông nói.

Một dấu hiệu vụ việc bị thu hẹp là vấn đề từng được đưa ra Quốc hội chất vấn mà truy cả trách nhiệm của thủ tướng mà bây giờ ‘chỉ dồn lên ông tổng giám đốc và đưa về xét xử ở Hải Phòng’ trong khi vụ việc còn xảy ra ở nhiều tỉnh khác nữa.

Ông Quân cũng nêu quan ngại về bản án sơ thẩm tối đa chỉ 20 năm vốn có thể được giảm trong phiên phúc thẩm do xem xét các yếu tố nhân thân.

“Theo luật Việt Nam thì thi hành án được 1/3 thời gian thụ án thì có thể được đặc xá,” ông nói.

Thêm về tin này

Chủ đề liên quan




Xung đột ở Hà Tĩnh: Cay cú ăn thua với dân đều thủ bại

Xung đột ở Hà Tĩnh: Cay cú ăn thua với dân đều thủ bại

Xung đột ở Hà Tĩnh:  Cay cú ăn thua với dân đều thủ bại

Dân thắng thì tỉnh huyện cũng thắng, cái gốc thêm vững thì cành lá sum suê. Cay cú ăn thua với dân đều thủ bại. Lạt mềm buộc chặt, nhưng vẫn chưa tốt bằng buộc mà không cần lạt, kể cả lạt mềm. 
>> Không hợp lòng dân nhưng lệnh trên thì phải làm!
>> Vì sao vùng quê bình yên bỗng dậy sóng?
>> Cán bộ phải đưa người thân đi trốn để an toàn tính mạng
>> Dân bắt trói 4 công an vì mâu thuẫn về đất đai
>> Bắt giữ 4 người vụ xung đột đất nghĩa trang tại Hà Tĩnh
Vụ căng thẳng ở thôn Trung Sơn, xã Bắc Sơn (Thạch Hà, Hà Tĩnh) mấy hôm nay gây sốt, lo lắng và mức độ nào đó hoang mang cho chính quyền Hà Tĩnh lẫn nhiều người trong chúng ta. Sự việc đã bị đẩy đến mức tác nhân của sự cố (chính quyền và nhân dân) đã bị dẫn tới chỗ bí, tiến hay lùi đều khó.

Nguyên nhân trực tiếp là dân không đồng tình với lệnh bắt người “gây rối trật tự công cộng” của công an nên đánh công an, đốt xe máy của họ và phá hủy nghiêm trọng nhà cửa mấy vị cán bộ chủ chốt của Đảng và chính quyền xã. 
Còn nguyên nhân sâu xa là do dân không đồng tình với dự án xây nghĩa trang sinh thái (mô hình Bình Dương) và lệnh thu hồi hàng chục ha đất ruộng của dân thôn Trung Sơn.

Hiện trường nơi xảy ra vụ xung đột
Nếu nhìn qua hiện tượng, tìm cái sai cái đúng không khó. Dân chống lệnh chính quyền bằng bạo lực (may mà mới đả thương một số, chưa chết người) là phạm pháp. 
Phản ứng cần thiết của chính quyền là ra lệnh khởi tố vụ án. Luật pháp đã có, cứ thế mà thi hành! Nhưng lòng dân thì khó dò như đáy bể.
Thực tiễn thường không phát triển hoàn toàn theo ý chí con người. Đám cháy đã bùng lên chỉ có một nhưng lại có nhiều cách chữa lửa, tùy theo sự khôn ngoan của cả nhiều phía. 
Mục đích tối thượng là dập tắt đám cháy, khôi phục cuộc sống bình thường của người dân cũng như niềm tin vào trật tự xã hội, nói gọn là “yên dân”. 
Còn chỉ nhằm dập được đám cháy để khỏi lan ra nhiều nơi và thực thi sự trừng phạt nhằm “răn đe” những vụ tương tự trong tương lai lại là chuyện khác.

Hiến pháp vừa được thông qua ghi rõ: "Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế – xã hội. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật".

 

“Hiện nay quần chúng nhân dân đã mất lòng tin rất lớn đối với cấp ủy, chính quyền vì tính chất của dự án không hợp với lòng dân. Nếu tiếp tục tuyên truyền thì nhân dân sẽ bức xúc và phản kháng rất lớn làm tê liệt bộ máy chính quyền và dẫn đến không thể kiểm soát được sẽ đưa Bắc Sơn trở thành điểm nóng thì hậu quả sẽ rất lớn”. (Lời của bí thư xã)

 

 

Nếu làm được như thế, nghĩa là có tình huống “thật cần thiết”, lại đảm bảo được “công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật” thì liệu có xảy ra sự phẫn nộ của dân Trung Sơn như đã xảy ra?

Chính quyền tỉnh Hà Tĩnh và huyện Thạch Hà nên xem lại quá trình thực hiện cái dự án nghĩa địa to lớn quy mô hàng chục ha đất bị thu hồi, ở nơi mà dân rất nghèo, đang đói đất canh tác, đất lại là nguồn sống duy nhất của họ lại có khá nhiều tình tiết “vi lượng” nhạy cảm.

Chính ông bí thư đảng ủy xã đã báo cáo lên trên có tới 5 điểm dân không đồng tình: Một, diện tích đất canh tác bị thu hồi quá lớn (13,5 ha đất sản xuất lúa hai vụ). Hai, về mặt phong thủy và tâm linh, dân “hãi” môi trường nghĩa địa lớn, vì ở đây đã có hai công trình án ngữ lối ra “hanh thông” của thôn là khu chăn nuôi lợn siêu nạc, và một trại giam của tỉnh. Ba, công viên vĩnh hằng sẽ trùm lên nghĩa trang của xã, mai sau người dân Bắc Sơn qua đời phải đi mua đất giá chắc không rẻ của chủ dự án. Bốn, địa giới hành chính giữa hai xã Bắc Sơn và Thạch Lưu chưa được bàn giao, nay lại thu hồi 38,6 ha nên nhân dân không đồng tình. Thứ năm, làm nghĩa trang vĩnh hằng thì sẽ cạn quỹ đất xây dựng quy hoạch nông thôn mới.

Diện tích quy hoạch Công viên Vĩnh Hằng trùm lên nghĩa

trang và đất sản xuất của người dân 

Ông bí thư xã rất đáng khen khi cảnh báo chính xác cho cấp trên trong một báo cáo cách đây hơn ba tháng: “Hiện nay quần chúng nhân dân đã mất lòng tin rất lớn đối với cấp ủy, chính quyền vì tính chất của dự án không hợp với lòng dân. Nếu tiếp tục tuyên truyền thì nhân dân sẽ bức xúc và phản kháng rất lớn làm tê liệt bộ máy chính quyền và dẫn đến không thể kiểm soát được sẽ đưa Bắc Sơn trở thành điểm nóng thì hậu quả sẽ rất lớn”.
Và ông đã can đảm đề nghị dừng xây dựng công viên vĩnh hằng này. Nếu biết lắng nghe, không lãnh đạo tỉnh nào, huyện nào lại không dừng lại để cân nhắc khi một dự án có tới năm tử huyệt nhạy cảm liên quan đến phần xác lẫn phần hồn của dân như thế. 
Bởi vì, việc chôn người chết ở Hà Tĩnh đâu đã đến mức “thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế – xã hội” như hiến pháp quy định?

Nhưng tỉnh và huyện không nghe, phê bình, kiểm điểm lãnh đạo xã và ra chỉ thị quyết liệt: “Cán bộ, đảng viên toàn huyện phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn về chủ trương của tỉnh, tạo sự đồng thuận trong toàn hệ thống chính trị”! Liệu có “nhóm” nào thập thò phía sau sự tích cực, quyết liệt xây bằng được cái nghĩa địa khủng này không?

Lực lượng CSCĐ huy động đến triển khai để vãn hồi trật tự

Đúng là sự việc đã xảy ra như dự báo “sáng suốt” của người bí thư xã khá giỏi này, dù ông đã bị dân nổi giận phá nhà oan!

Sực nhớ, trong nhiều tháng, 400 tiểu thương Bỉm Sơn, Thanh Hóa đấu tranh đòi thị xã phải hủy quyết định giao chợ Bỉm Sơn cho một công ty tư nhân. Họ đã “tụ tập” trước cổng tỉnh ủy, Ủy ban tỉnh, đòi tỉnh Thanh Hóa phải hủy quyết định. Bí thư tỉnh ủy Mai Văn Ninh đã trực tiếp gặp bà con – vì trong thâm tâm ông vẫn coi họ là bà con chứ không phải kẻ thù – để dàn xếp.

Ông đã hủy một số quyết định của chính quyền, tỉnh vận động tiểu thương về lại chợ buôn bán bình thường. Công ty Đông Bắc rút lui êm thấm (có thể trong cay đắng). Báo Thanh Hóa hồ hởi đưa tin: “Tiểu thương chợ Bỉm Sơn đấu tranh đã thắng lợi!”.

Dân thắng lợi thì đã sao? Dân thắng là đáng mừng lắm chứ? Khi căng thẳng mới bắt đầu, ông Ninh có cử công an đến giữ trật tự. Có kẻ “phá rối trật tự” nhưng không một ai bị bắt. Ông thuyết phục được dân không phải bằng lời hứa lèo mà với những quyết định đưa ra kịp thời. Không ai nói ông thua dân. Cả hai bên đều thắng.

Dân thắng thì tỉnh huyện cũng thắng, cái gốc thêm vững thì cành lá sum suê. Cay cú ăn thua với dân đều thủ bại. Lạt mềm buộc chặt, nhưng vẫn chưa tốt bằng buộc mà không cần lạt, kể cả lạt mềm.

Bởi vì, dù lạt mềm có buộc chặt đến đâu cũng có khi người bị buộc tự tháo ra được. Còn buộc mà không có lạt thì đã đạt tới mức chặt tuyệt đỉnh vì có ai trói đâu mà phải cởi trói?

Không có hai sự vật, sự kiện giống nhau nên cũng không có bài học nào y chang nhau. Nhưng Thanh Hóa cũng là khu Bốn xưa, đâu có xa Hà Tĩnh?
Người Hà Tĩnh




LẠ LÙNG MÀU NƯỚC HỒ MÀU HỒNG

LẠ LÙNG MÀU NƯỚC HỒ MÀU HỒNG
Không giống như những hồ nước bình thường khác, hồ Lac Rose ở Senegal có màu hồng cực lạ. Nếu bạn đến Senegal bạn sẽ không thể bỏ qua được những cây baobab khổng lồ, nhưng một trong những điều thú vị khác khi bạn đến với Senegal đó là một hồ nước màu hồng, hồ nước kỳ lạ này có tên là Lac Rose, nằm cách thủ đô Dakar khoảng 30 phút đi xe.

Hồ nước màu hồng ở Senegal Sở dĩ hồ nước này có màu hồng kỳ lạ như vậy do nó chứa nhiều khoáng và vi sinh vật. Đây là một hồ nước mặn nên hàng ngày những người dân Senegal thường ở đây đến 14 tiếng để lấy muối. Một lít nước ở hồ này chứa đến 380 gam muối. Vì thế hồ nước này góp phần quan trọng mang đến thu nhập và công việc cho những người dân sống ở đây.

Hồ Lac Rose cung cấp một lượng muối lớn

Điều đặc biệt là nếu bạn đến hồ nước này vào lúc bình minh hoặc lúc hoàng hôn bạn có thể thấy những vi sinh vật lắng đọng xuyên qua mặt nước đấy.

Thu hoạch muối mang lại nguồn thu nhập cho những người dân ở đây
Trẻ em cũng làm việc nhé
Mọi người đều làm việc rất chăm chỉ
Chân họ dính đầy muối
Nếu bạn có cơ hội đến với Senegal thì đừng bỏ qua hồ nước màu hồng thú vị này nhé!  



Tuyết Mai : Gây quỹ giúp TPB/VNCH

Liên  Hội  Cựu Chiến sĩ VNCH/HTĐ và Phụ cận gây  quỹ giúp TPB/VNCH

Tuyết Mai

 

  anh em TPB. Đặc biệt năm nay có sự hợp tác của Tuần Báo Thương Mãi Miền Đông, Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH /HTĐ và phụ Phụ cận  đã tổ chức buổi gây quỹ giúp Thương Phế Binh VNCH với các ca sĩ nỗi tiếng đến từ Cali. Chương trình được  tổ chức vào lúc 7 giờ chiều  Ngày 13 Tháng 6, 2010 tại Nhà Hàng Thần Tài, Falls Church, VA.

 

Có trên bốn trăm người tham dự, trong đó có sự hiện diện của nhiều vị cựu tuớng lãnh trong QLVNCH, nhiều đại diện quân binh chủng và các hội đoàn dân chính. Chương trình được điều hợp bởi hai Cựu sĩ quan Tạ Cự Hải và Bùi Mạnh Hùng.

 

Nghi lễ chào quốc kỳ Mỹ Việt rất trang nghiêm với hai  hàng quân,gồm đại diện các quân binh chủng,  trước sân khấu. Sau đó Tiến sĩ Tạ Cự Hải , đại diện cho Ban Tổ Chức có lời chào mừng quan khách. TS Hải nói,  làm trai thời loạn không có gì gian nguy hơn là đời lính. Làm trai thời loạn không có gì hy sinh cao  cả hơn là đem tấm thân của chính mình để bảo vệ non sông bờ cõi và bảo vệ đồng bào hậu phương,  dân chủ, tự do và thịnh  vượng. Trong suốt cuộc hành trình trong  cuộc chiến VN,  người lính VNCH luôn luôn hãnh diện và chiến đấu can trường ở bất cứ mặt trận nào trên toàn quốc. Do đó những người  lính VNCH lúc nào cũng hãnh diện là cựu quân nhân của QLVNCH.

 

TS Tạ cự Hải nhấn mạnh, để  ghi ơn, tưởng nhớ và xoa dịu phần nào vết thương của người lính VNCH đã hy sinh bỏ mình vì Tổ Quốc và những người đã bỏ một phần thân thể để bảo vệ quê hương và dân tộc, hằng năm LHCCSVNCH/HTĐ và phụ cận có tổ chức gây quỹ giúp TPB/QLVNCH. Năm nay cũng giống như những năm trước,  đặc biệt có sự hợp tác với Tuần Báo Thương Mãi Miền Đông. TS Hải   thay mặt  BTC tri ân đồng bào đến tham dự và đóng góp  giúp TPB/QLVNCH.

 

Ông Đoàn Hữu Định, Chủ Tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH/HTĐ và phụ cận phát biểu, buổi gây quỹ này được tổ chức để chúng ta cùng nhau xoa dịu phần nào sự đau khổ, nhọc nhằn, của những chiến sĩ đã hy sinh một phần thần thể của họ cho quê hương và đời sống yên bình của chúng ta trước năm 1975. Hơn 35 năm năm qua, cuộc chiến tương tàn đã chấm dứt , nhưng ngừơi TPB của Miền Nam VN vẫn còn bị chính quyền CS bỏ quên bên lề đường,  bỏ quên bên ngoài cuộc sống. Họ sống cơ cực,  khó khăn,  khổ sở .

Hiện có hằng trăm ngàn TPB như thế, chưa kể thành phần cô nhi, quả phụ, đang sống trong hoàn cảnh nghèo khổ. Liên Hội CCSVNCH/HTĐ và Phụ  cận thay mặt anh em TPB gởi đến toàn thể quý vị,  những ngừơi có mặt hôm nay và những vị không đến dự được nhưng đã gởi tiền tặng,  những lời tri ân sâu xa nhất.

 

Ông Bùi Mạnh Hùng nhắc lại là hằng năm Liên Hội Cựu Chiến sĩ tổ chức hai lần gây quỹ giúp TPB/VNCH ở quê nhà, nhưng vì tình trạng kinh tế khó khăn hiện tại , nên LHCCSVNCH/HTĐ  chỉ tổ chức  một lần năm nay. Nhiều ngân phíếu và tiền mặt của đồng hương tham dự được gởi đến BTC để chuyển về giúp TPB ở quê nhà, coi như một món quà nhỏ để bày tỏ lòng biết ơn những chiến sĩ đã hy sinh một phần thân thể để bảo vệ  sự bình yên cho người dân và Miền Nam dân chủ, tự do.

 

Theo sau là chương trình văn nghệ giúp vui với hai ca sĩ nỗi tiếng từ Cali là Philip Huy và Y  Phương. Phần  dạ vũ rất hấp dẫn với ban nhạc  Twister. Chương trình được chấm dứt lúc 12 giờ đêm. Mọi người ra về trong niềm hân hoan đã thưởng thức một chương trình văn nghệ thật xuất sắc, vừa đóng góp để chia sẻ phần  nào nỗi cơ cực, buồn tủi của người TPB VNCH còn ở lại quê nhà, đã nghèo khổ thiếu thốn vật chất, còn bị kỳ thị  đọa đày dưới chế độ CS vô nhân.

Được biết số tiềnthu được trong đêm gay quỹ này là trên mười  ngàn mỹ kim.

 

Đồng hương muốn giúp đỡ TPB/VNCH xin gởi ngân phiếu về

Liên Hội Cựu Chiến Sĩ  VNCH/HTĐ

3912 Gallows Rd Annandale, VA 22003.

lhccsvnch@ureach.com

Video clip Gây quy giúp TPB

www.youtube.com/tuyetmai45

 




Đồng Thảo : The 1st Annual Fall Benefit Concert, September 18, 2010.

Xin đọc tiếp

 

 ————————————————————————————–

Ca sĩ Đồng Thảo với album nhạc đầu tay

THANH TÙNG/Việt Tribune

Đi hát đã nhiều năm, tham dự hầu hết các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng tại địa phương cũng như trình diễn khá thường xuyên ở các phòng trà và show ca nhạc những vùng phụ cận, vậy mà phải đợi đến đầu năm nay 2010, Đồng Thảo mới chịu thực hiện cho riêng mình một album nhạc chọn lọc chủ đề “Giòng nhạc quê hương” gồm các ca khúc: “Nương chiều” (Phạm Duy), “Hải ngoại thương ca” (Nguyễn Văn Đông), “Xin đời một nụ cười” (Nam Lộc), “Người tình không chân dung” (Hoàng Trọng), “Gởi người giời tuyến” (Nhật Lệ), “Sài Gòn ơi, vĩnh biệt” (Nam Lộc), “Đêm nhớ về Sài Gòn” (Trầm Tử Thiêng), “Chiều mưa biên giới” (Nguyễn Văn Đông), và “Chiều trên phá Tam Giang” (Trần Thiện Thanh). Cô ca sĩ không chịu nhận mình còn trẻ này đã dành cho Thanh Tùng- Việt Tribune phần tâm tình thân mật sau đây.

                                                                Ca sĩ Đồng Thảo tại San José. Hình do nghệ sĩ cung cấp

THANH TÙNG: Album vừa được Đồng Thảo thực hiện cũng như giới thiệu đến bạn bè và thân hữu là sản phẩm văn nghệ đầu tay của mình? ĐỒNG THẢO: Dạ thưa đúng.

Sau bao nhiêu năm ca hát thì Đồng Thảo mới thực hiện cuốn album đầu tay này?
ĐỒNG THẢO: (cười) Hơi cảm thấy mắc cỡ vì Thanh Tùng cũng biết ca hát đối với Thảo chỉ là niềm vui và sự đam mê, chứ không phải là con đường chuyên nghiệp. Thảo bắt đầu có mặt trên các sân khấu tại địa phương và các vùng lân cận vào khoảng năm 2001. Mặc dù bạn bè thường hỏi sao không thực hiện CD, Thảo vẫn không có thời gian vì quá bận bịu công ăn việc làm và gia đình. Đến bây giờ, nhờ một lần chợt ngẫu hứng và được ông xã và bạn bè thân thiết thúc giục nên Thảo bắt tay vào thực hiện album. Ban đầu, Thảo chỉ nghĩ là làm chơi cho vui. Nhưng sau đó, Thảo nhận ra rằng khi mình làm một điều gì đó, mà nhất là làm nghệ thuật, đem nghệ thuật đó đến với người nghe thì mình không thể xem thường được. Chính vì vậy, mà Thảo đã dồn tâm huyết để thực hiện album này.

                                                                    Ca sĩ Đồng Thảo tại San José. Hình do nghệ sĩ cung cấp

Đa số các ca sĩ trẻ khi thực hiện album đầu tay thường chọn dòng nhạc tình yêu đôi lứa lãng mạn. Riêng Đồng Thảo lại chọn chủ đề “Giòng nhạc quê hương” cho sản phẩm đầu tay của mình. Vì sao vậy?
ĐỒNG THẢO: Cũng có nhiều người đã hỏi Đồng Thảo câu hỏi đó. Khi đi hát ở các sân khấu địa phương hoặc các phòng trà thì Đồng Thảo hát nhạc tình. Nhiều khán giả rất thích nghe Thảo hát nhạc tình. Bây giờ khi Thảo ra mắt album đầu tiên không phải là nhạc tình thì cũng đã có một số người thất vọng. Tuy nhiên, như đã tâm sự lúc đầu, đi hát đối với Thảo chỉ là niềm đam mê và Thảo không chọn sân khấu như nghề nghiệp chính. Trong số những chương trình văn nghệ mà Thảo góp mặt, hầu như hơn một nửa là sinh hoạt hội đoàn, cộng đồng, và đa số những lần hát về lính hoặc hát về quê hương. Chính vì vậy, Thảo đã hát khá nhiều nhạc quê hương, hát cho quê hương và hát cho các anh chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Thảo đã có một số vốn nhạc quê hương từ đó, cộng thêm với niềm yêu thích, nên để không quá trễ, Thảo trang trãi nỗi lòng mình với quê hương và tỏ lòng biết ơn cũng như kính trọng đến những người chiến sĩ VNCH mà trước nay Thảo đã từng gặp và đã từng hát cho họ nghe.

Lần đầu tiên tự tay đứng ra thực hiện album nhạc chắc chắn Đồng Thảo đã gặp khá nhiều khó khăn?
ĐỒNG THẢO: Đối với bản thân Thảo, ban ngày đi làm, tối về lo cơm nước cho gia đình, cuối tuần có thể phải đi hát, sức lực cũng không được dồi dào cho lắm nên quả thật thực hiện album là điều gay go với Thảo trong một thời gian không dài. Thảo rất vui và lấy làm an ủi cũng như khiêm tốn khi nhận được một số feedback không đến nỗi nào.

Thảo vừa cho biết ban ngày phải đi làm. Thế công việc chính của Đồng Thảo hiện nay là gì?
ĐỒNG THẢO: (cười) Thì cũng đi làm như mọi người thôi, cũng chỉ là cạo giấy văn phòng như mọi người thôi.

Một ngày 8 tiếng làm việc, thời gian còn lại, Đồng Thảo mới dành cho ca hát?
ĐỒNG THẢO: Dạ đúng!

Đã có nhiều lần cùng góp mặt với Đồng Thảo trong một số chương trình văn nghệ tại địa phương, Thanh Tùng nhận ra được mỗi lần bước lên sân khấu, Đồng Thảo hát rất lửa, hát bằng tất cả nỗi đam mê của mình. Tại sao yêu ca nhạc như thế mà Đồng Thảo lại không quyết định đi theo hẳn con đường chuyên nghiệp?
ĐỒNG THẢO: (suy nghĩ giây lát) Cũng không biết tại sao nữa! Có lẽ tại hoàn cảnh là nguyên nhân đầu tiên. Nguyên nhân thứ nhì là vì Thảo sinh ra trong một gia đình Bắc Kỳ khuôn khổ. Bố mẹ cũng hơi khó, cộng với quan niệm ngày xưa: xướng ca vô loài, nên với Thảo, hát chỉ là hát chơi cho vui thôi. Cho đến sau này khi mình đã hơi quá date, dù có muốn bon chen cũng đã trễ rồi. Tính Thảo lại cũng không thích bon chen nên Thảo nghĩ thôi kệ, mình cứ hát vui với đời thôi.

Dẫu biết “chỉ hát cho vui với đời thôi” nhưng album này, Đồng Thảo dự định sẽ phát hành như thế nào đến tay những khán giả yêu mến tiếng hát mình?
ĐỒNG THẢO: Thảo cũng đi hát khá thường xuyên nên Thảo nghĩ có lẽ mình sẽ có dịp được gặp gỡ khán giả trong những lần ca hát đó. Nhờ bạn bè giúp đỡ, Thảo đã hoàn tất website dongthaomusic.com. Quý vị nào yêu mến Đồng Thảo, xin mời đến với website này, hoặc gặp Thảo trong những buổi văn nghệ tại địa phương hay những show xa.

Tại sao Đồng Thảo không gởi CD để bán tại các đại lý nhạc tại địa phương?
ĐỒNG THẢO: Thanh Tùng ơi, từ lúc ban đầu, Thảo đã nói là Thảo không có ý định đi theo con đường của các ca sĩ chuyên nghiệp hoặc làm thương mại.

Sau khi nghe lại 9 ca khúc đã hát trong album nhạc quê hương đầu tay của mình, ca khúc nào làm cho Đồng Thảo hài lòng nhất?
ĐỒNG THẢO: Thật ra lý do Thảo không làm album trong những năm vừa rồi cũng vì Thảo không bao giờ cảm thấy hài lòng với chính mình. Đây cũng là một thử thách để biết khán giả yêu thích mình ở chỗ nào. Thảo đã chịu khó và rất cầu tiến. Thảo muốn nghe được feedback từ tất cả mọi người, bạn bè cũng như khán giả đã nghe album này của Thảo. Điều ngộ nghĩnh là có người thích nghe Thảo hát bài này, nhưng cũng có người lại thích nghe Thảo hát bài kia. Thảo đã biết mình có những khuyết điểm gì từ trước rồi, nên khi Thảo nghe lại, Thảo cũng đã nhận ra. Rất thú vị là Thảo nghe được feedback của mọi người. Có những chỗ mình nghĩ rằng mình dở nhưng người ta lại thích. Có chỗ mình hài lòng thì cũng có những người đồng quan điểm với mình. Riêng với cá nhân mình, Thảo không thấy có bài nào mình hát đặc sắc nhất. Tất cả đều như nhau. Thảo ước gì mình có điều kiện, sức khỏe và thời gian nhiều hơn để mọi thứ trở nên hoàn hảo hơn.

Sinh hoạt ca hát hiện nay của Đồng Thảo như thế nào?
ĐỒNG THẢO: Thảo thường xuyên ca hát tại nhiều chương trình ở địa phương cũng như một vài nơi khác gần đây như Sacramento, Stocton…Hễ bất cứ nơi nào yêu mến Đồng Thảo và mời Thảo hát thì Thảo đi ngay. Vì Thảo mê hát và thích đến với những chương trình để phục vụ cộng đồng.

Có bao giờ đi trình diễn chung với các ca sĩ tên tuổi đến từ những trung tâm ca nhạc lớn tại hải ngoại, Đồng Thảo gặp những đối xử bất công?
ĐỒNG THẢO: Thật ra nói không thì cũng không đúng. Nhưng Thảo không để ý đến những chuyện đó lắm đâu. Vì những chuyện như vậy về sau này cũng không xảy ra nhiều lắm. Đa số những chương trình Thảo tham dự, khi Thảo được hát chung với các ca sĩ lớn từ trung tâm Asia, Thúy Nga thì đó là những chương trình chọn lọc, Thảo cũng được góp phần như các anh chị ca sĩ đó. Còn trong những chương trình lớn có tới mấy chục ca sĩ, thí dụ như trong những buổi gây quỹ cho thương phế binh hay Hát cho Sài Gòn, nếu như có vì vô tình mà người ta đối xử bất công với mình Thảo cũng vui lòng bỏ qua vì Thảo nghĩ điều đó khó tránh khỏi trong những chương trình lớn.

Đồng Thảo có buồn không khi đa số khán giả vẫn dành tình cảm nồng nhiệt đối với các ca sĩ nổi tiếng từ các trung tâm hơn là đối với các ca sĩ từ địa phương?
ĐỒNG THẢO: Thảo vẫn rất tự tin. Thảo vẫn cảm thấy rằng mình sẽ chinh phục khán giả bằng giọng hát của mình. Thảo vẫn rất tự tin.

Dòng nhạc chính mà Đồng Thảo sẽ theo đuổi trong thời gian tới sẽ là…?
ĐỒNG THẢO: Dự định của Thảo trong tương lai là nếu có điều kiện, Thảo sẽ làm tiếp album thứ hai. Chắc chắn, album đó sẽ chủ yếu là dòng nhạc tình yêu. Nhiều khán giả thích Đồng Thảo hát nhạc tình, Đồng Thảo sẽ thực hiện điều đó.

Chúc Đồng Thảo luôn thành công với niềm đam mê âm nhạc của mình.
ĐỒNG THẢO: Cảm ơn Thanh Tùng.




Lê Văn Hải Tóm Lược : Tháng Tư Đen !!!

 

thang tu den 2.jpg

 

 

 BA MƯƠI SÁU NĂM TRƯỚC, NGÀY 30-4-1975 , TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH ÐẦU HÀNG HAY BỊ CỌNG SẢN BẮC VIỆT BẮT TẠI DINH ÐỘC LẬP ?

                                                               MƯỜNG GIANG

 

            Ðiện Kinh Thiên ở Hà Nội, được xây dựng từ đời Nhà Hậu Lê (1428), trên nền cũ của các cung điện thời Lý,Trần.. và trở thành Hành Cung của Nhà Nguyễn từ năm 1802, vì kinh đô của nước ta, được dời vào Huế. Năm 1873, thực dân Pháp chiếm Hà Nội, chúng đã biến hoàng cung thành một pháo đài rất kiên cố. 

            Năm 1954 tới cuối tháng 4-1975, Cộng Sản làm chủ nửa nước Từ đó Ðiện Kinh Thiên, trở thành Tổng hành dinh của Bộ Tổng Tham Mưu/Bộ đội Bắc Việt. Ðây là chỗ của các đầu sỏ Bắc Bộ Phủ, từ Hồ Chí Minh tới Lê Duẩn,Phạm Văn Ðồng.. trực tiếp lãnh đạo 8 đời Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng và Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Phùng Quang Thanh.. Tổng Tham Mưu Trưởng, bày binh bố trận mọi kế hoạch, chiến lược xâm lăng Miền Nam VN,qua cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam , cánh tay nối dài của Trung Ương Ðảng Cộng Sản VN.. 

            Từ năm 1967 về sau, chiến tranh càng lúc thêm ác liệt, lan rộng tới tận miền Bắc, khiến Hà Nội phải xây thêm căn cứ D-67, vừa làm nơi trốn bom đạn oanh tạc của các chóp bu, thật vô cùng khủng khiếp do Mỹ thả. Ðây cũng là nơi họp tuyệt mật, của Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương Ðảng. Theo Võ Nguyên Giáp viết trong ‘ Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng ‘, thì từ tháng 4-1973 Bộ Thống soái tối cao, đã giao cho Bộ Tổng tham mưu, lập một tổ đặc biệt gồm Lê Trọng Tấn, Vũ Lăng, Võ Quang Hồ và Lê Hữu Ðức, nghiên cứu kế hoạch tổng tấn công cưởng chiềm VNCH. Bản dự thảo đầu tiên ra đời ngày 5-6-1973 và sau đó qua bảy lần xét duyệt, cuối cùng vào ngày 30-9-1974, mới được Bộ Chính trị nghị quyết ‘ Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức tổng tấn công Miền Nam ‘. 

            Ngày 18-12-1974 tới 8-1-1975, Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng, để quyết định lần cuối cùng kế hoạch trên. Sau khi chiếm được Thường Ðức (Quảng Nam) và Phước Long, mà không thấy phản ứng nào từ Mỹ, nên ngày 9-1-1975, Quân ủy trung ương họp với quyết định mở chiến dịch 275, tấn chiếm Ban Mê Thuột, do Văn Tiến Dũng , từ Bắc vào Nam chỉ huy trực tiếp trận địa. 

            Sau khi Cao nguyên và Quân đoàn 1 của VNCH thất thủ, tại Hà Nội vào ngày 31-3-1975, Cọng Sản Bắc Việt quyết định lập Bộ Chỉ huy và Ðảng Ủy Sài Gòn, do Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng chỉ huy. Ngày 7-4-1975, Võ Nguyên Giáp ban lệnh bằng mọi cách phải đánh chiếm cho được Miền Nam. Ngày 14-4-1975, mở chiến dịch HCM. Ngày 25-4-1975, Quân Ðoàn 1 Cọng sản từ Bắc Việt vào và đúng 17 giờ ngày 26-4-1975, mở đầu cuộc tấn công vào Sài Gòn bằng 5 cánh quân. Ngày 28-4-1975, Ðại tướng Dương văn Minh thay Trần Văn Hương làm Tổng thống, để trưa ngày 30-4-1975,ra lệnh toàn dân, toàn quân VNCH buông súng đầu hàng Cọng sản. 

            Trong lúc đó Miền Nam VN đã bị Hoa Kỳ và Thế giới tự do bỏ rơi tức tưởi, phải một mình đơn độc tiếp tục cuộc chiến chống xâm lăng trước mặt. Ðồng lúc lại phải hứng chịu những đòn thù thê thảm, của bọn con buôn chính khứa, cứ tàn nhẩn đạp bừa trên xác lính, để múa rối bỉ ổi trên sân khấu chính trị. Dữ dằn nhất vẫn là bọn trí thức khoa bảng,tư xưng là thành phần thứ ba, đã đi đêm với Bắc Việt từ lâu, gồm có Hồ Ngọc Nhuận, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung, , Hồ Văn Minh, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh.. Tháng 3-1975, tình hình VNCH trở nên nguy ngập sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, Ngô Công Ðức, nguyên Dân biểu Quốc hội VNCH phản bội đất nước, sống lưu vong tại Pháp, đã vội vã sang Mỹ đòi chấm dứt viện trợ, thay ngựa bằng lá bài Dương Văn Minh, để chuẩn bị đầu hàng. Ðó là lý do truất phế Trần Văn Hương sau 5 ngày làm Tổng thống, kế vị TT.Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21-4-1975. 

            Ngày 27-4-1975, đúng 17 giờ 5 phút, trong phòng khánh tiết của Dinh Ðộc Lập, đang diễn ra buổi lễ bàn giao chức vụ tổng thống VNCH, giữa Trần Văn Hương và Dương Văn Minh. Ðây là lần bàn giao tổng thống lần thứ hai xảy ra chưa đầy 10 ngày, trong chính quyền Nam VN, giữa lúc đất nước đã mất hơn hai phần ba lãnh thổ và nguy ngập nhất là nửa triệu quân Bắc Việt đã ập sát Sài Gòn.. Theo phóng viên Ðài Phát Thanh Sài Gòn, mô tả hôm đó, thấy có sự hiện diện của ba Phó Thủ Tướng Trần Văn Ðôn, Nguyễn Văn Hảo, Dương Kích Ngưỡng, Quốc Vụ Khanh Nguyễn Xuân Phong, thêm Chủ Tich Thượng Viện Trần Văn Lắm và nhiều Nghị Sĩ, Dân Biểu như Tôn Thất Ðính, Nguyễn Văn Ân, Trần Cao Ðể, Mã Sái, Hồ Ngọc Cứ, Ðinh Văn Ðệ, Huỳnh văn Cao, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu.. và cả Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện là Trần Văn Tiết. Ngoài ra còn có hơn 100 phóng viên và nhiếp ảnh tham dự, làm cho quang cảnh buổi lễ bàn giao thật sôi nổi. Vậy mà Tân Tổng Thống chỉ mới giữ chức chưa đủ hai ngày, thì đã vội vã đầu hàng giặc, khiến cho đất nước và đồng bào, suốt ba mươi sáu năm qua, sống kiếp nô lệ mới cay đắng ngậm ngùi, dưới ách thống trị siêu phong kiến của bọn đầu sỏ Cộng Sản Bắc Việt, bạo tàn độc ác. Vì thế có thể nói rằng , chưa có đời nào trong giòng sử Việt, cả nước phải chịu nhiều đau khổ như hiện tại. 

            Là người của một giai đoạn lịch sử cận đại, Tướng Dương Văn Minh, chỉ trong vòng 12 năm ngắn ngũi, đã là nhân vật chủ chốt, hai biến cố trọng đại của cận sử VN. Ngày 1-11-1963 làm sụp đổ nền Ðệ Nhất Cộng Hòa Miền Nam, ra lệnh hạ sát anh em Tổng thống Ngô Ðình Diệm. Ngày 30-4-1975, lợi dụng chức vụ tổng thống và quyền Tổng tư lệnh quân đội, bắt cả nước đầu hàng đế quốc đệ tam cọng sản. Nay ngồi đọc lại lời phát biểu của TT Trần văn Hương, trong buổi lễ bàn giao hôm đó, mới thấy thương xót tận cùng cho người lính chiến VNCH, suốt đời làm thân trâu ngựa để cho bọn sâu bọ đội lột người ưởn ngực ngẩn đầu bước lên đài danh vọng làm hề

‘ Một trang sử mới được mở ra, do Ðại Tướng Dương Văn Minh viết. Ông Minh nhậm chức lúc này, không những chỉ vì thiện chí, mà còn là CAN ÐẢM TỪ BỎ GIẢI PHÁP QUÂN SỰ, vì đã chọn con đường Hòa Giải, Hòa Hợp để có Hòa Bình.. ’ ’ 

            Ðúng lúc lễ bàn giao bắt đầu, thì trên bầu trời tên phản tặc Nguyễn Thành Trung, đứa con rơi của VC bỏ lại tại Bến Tre, sống nhờ sự dưỡng dục của người miền Nam VN nhưng vô ơn bạc nghĩa, đã lái và hướng dẫn 5 phản lực A37 của VNCH bỏ lại, oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, đồng thời đặc công Bắc Việt cũng lội vào bờ, chiếm kho tiếp liệu của Usaid bỏ lại, sát chân cầu Sài Gòn. Nhiều người lúc đó, cho là Ðại Tướng Văn Minh bị bệnh tâm thần, nên mới tin tưởng là cọng sản Hà Nội sẽ ngưng bắn, trong khi chúng sắp chiếm được miền Nam. Ngây thơ hơn hết, là việc Dương Văn Minh, đêm 27-1-1975, đã mời Ngô Công Ðức lúc đó đang lưu vong bên Pháp, về làm Bộ trưởng thi hành Hiệp định Ba Lê 1973, thực chất chỉ là một tờ giấy lộn không hơn không kém. Ðại bàng tối cao mà như vậy, thì trách làm sao được những trận đánh không tên trong quẩn sử đã không có đại bàng ? 

            Hởi ôi, khi người Mỹ còn chiến đấu ở VN, với tiềm năng quân sự to lớn, nên lúc nào nếu muốn, cũng có thể tiêu diệt Bắc Việt dễ dàng. Thế nhưng trong các lần hội nghị, để tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh bằng con đường hòa bình. Trăm lần như một, người Mỹ đều bị Bắc Việt lừa bịp, tới lần cuối cùng bị TT Nixon ra lệnh oanh tac và phong tỏa Miền Bắc kinh khiếp chưa từng có. Vậy mà sau khi hết bom rơi, Hà Nội vẫn xạo dù chịu ký vào bản hiệp ước ngưng bắn tại Paris tháng 1-1973, khi mấy trăm ngàn bộ đội Bắc Việt, được Mỹ cho phép ở lại tại chỗ, để tiếp tục xâm lăng Miền Nam. 

            Trong lúc đó, khi Ðại Tướng Dương Văn Minh lên nắm quyền Tổng Thống VNCH vào chiều ngày 28-4-1975, thì đất nước đang ở vào giờ thứ 25 hấp hối. Vậy chúng ta có điều kiện gì để mà bắt cọng sản chịu ngưng bắn, để hòa hợp có hòa bình ?. Nham nhở nhất, là từ sáng ngày 29-4-1975, đài VC lên tiếng phủ nhận luôn chính phủ Dương Văn Minh mới lên tối hôm qua, đồng thời ra lệnh đánh chiếm Gia Ðịnh-Sài Gòn. 

            Sau này Trần Văn Hương có tiết lộ với tác giả ‘ L’Adieu à Sài Gòn ‘ cũng là sử gia người Pháp Jean Larteguy, rằng sự thật Dương Văn Minh cũng giống như ông, chẳng có liên lạc được ai bên phía Bắc Việt, để mà hòa hợp hòa giải. Còn Ðại Tướng Minh cho biết là mình đã tin vào lời của Vũ Văn Mẫu. Rốt cục tất cả đều là những người mù rờ voi, sau đó ảo tưởng đẻ ra kế hoạch vĩ đại đề cứu nước cứu dân, trong khi mặt thật là chẳng nắm được gì hết, ngoài bên cạnh có một đám quân sư xôi thịt xúi bậy làm càn. 

            Trong lần kỷ niệm 17 năm quốc hận vào năm 1992, tờ nguyệt san Phụ Nữ Diễn Ðàn của người Việt Hải Ngoại, số đặc biệt có đăng những bài bút chiến của Bùi Tín, Bùi văn Tùng, Nguyễn Trần Thiết, Bùi Biên Thuỳ,.. quanh hai chủ đề : ‘ Ai là người đầu tiên vào Dinh Ðộc Lập ? và Ai là người có thực quyền lúc đó, nhận sự đầu hàng của TT và Nội Các Dương Văn Minh ?’ 

            Mượn lại danh từ của những người cọng sản, trong cuộc đấu võ mồm vô duyên trên, là họ đã biếm xưng lịch sử. Vì thật ra cả bọn chẳng có ai là người đầu tiên bước vào Dinh Ðộc Lập. Mà từ xa lắc xa lơ, nơi này đã có hằng tá điệp viên cao cấp Bắc Việt như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Phạm Ngọc Thảo, Trần Ngọc Hiển, Lê Ðình Ẩn,Ðinh văn Ðệ.đã.bước chân vào rồi.. 

            Riêng việc đầu hàng cọng sản của Dương Văn Minh, thì cũng chẳng có gì là lạ, vì Ðại Tướng là Thủ Lãnh của Lực Lượng Thứ Ba, có chủ trương Phản Gián qua lớp võ Hòa Giải, để đầu hàng giặc từ lúc chưa được lên ngôi Tổng Thống vào những ngày cuối tháng 4-1975. Có khác chăng, là phải đóng kịch đầu hàng như thế nào, để sau này trước Tòa Án Lương Tâm và trên trang lịch sử, Tổng Thống Dương Văn Minh , được trắng án và tiếng thơm là người yêu nước, vì đã dám hy sinh ở lại giữa chốn ba quân, trong lúc giặc xâm lăng đã ập sát biên thành. 

            Vì vậy từ lúc nhận lời đuổi Mỹ, tới khi lên đài ra lệnh cho quân đội buông súng rã ngủ, thời gian từ trưa 29-4-1975 cho tới trưa 30-4-1975, tổng thống không hề chợp mắt. Ðây là thời gian dài nhất trong đời làm chính trị của một vị nguyên thủ cuối cùng của VNCH, tuy ngắn ngủi nhưng lại bị tai tiếng nhất trong dòng Việt Sử cận đại. 

            Trong lần kỹ niệm 30 năm (4/1975 – 4/2005), cả nước VN được sống trong thiên đàng xã nghĩa. Dịp này, trên các báo Khoa Học Phổ Thông (18) và Thế Giới Mới (631-632), xuất bản tại thành Hồ,có Phùng Bá Ðạm lớn tiếng về cái gọi ‘ Bắt Tổng thống Dương Văn Minh và Nội các Chính quyền Sài Gòn’ vào trưa ngày 30-4-1975 tại Dinh Ðộc Lập. Ðặc biệt trong những bài viết trên, không hề nhắc tới nhân vật Bùi Tín, một thời qua tập sách ‘ Sài Gòn Trong Ánh Chớp Chói Lọi Của Lịch Sử ‘ , lúc nào cũng to tiếng nhận là mình cho Dương Văn Minh đầu hàng.           

            Vậy đâu là sự thật vì Tổng Thống Dương Văn Minh giờ đã mất, còn đồng bào cả nước từ ấy đến nay, sống dưới thiên đàng xã nghĩa, sau hàng rào kẽm gai, lưởi lê, họng súng, nên chỉ dám nói viết những lời đảng dạy, để mà giữ lấy cái mạng cùi rất mong manh. Vì vậy làm sao, có ai dám nói hết lời, cho dù rất muốn nói , ngoại trừ những kẽ cò mồi được đảng dựng lên làm đối lập qua mấy thúng ‘ dân chủ ‘ nghe thấy rất tình tứ và lãng mạn. 

            Nay nhìn lại cuộc tranh giành quyền lực của các chóp bu trong đảng và thảm trạng VN sắp diệt vọng trước cuộc xâm lăng trắng trợn của giặc Tàu đỏ, Vì vậy, cho dù ai trong tập đoàn lãnh đạo của đảng cướp hiện nay, thì cũng chỉ đưa dân tộc và non sông Việt, đến hố sâu của ngu dốt, nghèo đói và trên hết là mất nước vào tay ngoại bang. Tất cả cũng chỉ vì chúng ta trong quá khứ ,đã thờ ơ với vận nước,phần lớn lại quá tin vào lãnh đạo, cho dù đó là những sâu bọ hại nước hại người .

 

‘ Ba mươi sáu năm rồi, nay quá đủ
hãy đứng lên tự bẽ gảy xích xiềng
cả tội hèn làm đất nước đảo điên
giúp cho giặc thành bạo quyền ác chúa
chôn chúng đi nhưng thây ma thúi rửa
vứt vào mồ lũ quan tướng âm binh
để cả nước quên bớt nổi bất bình
vì trót lở tin theo phường đạo tặc.. ’ ’

 

1- TỔNG THỐNG DƯƠNG VĂN MINH ÐI TÌM HÒA BÌNH Ở CUỐI ÐƯỜNG HẦM : 

            Ba muoi sáu qua, kể từ ngày Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh cho QLVNCH buông súng rả ngủ, giúp cho cọng sản Bắc Việ, có cơ hội kết thúc sớm cuộc chiến xâm lăng Miền Nam. Cũng kể từ đó, đã có nhiều tài liệu của mọi phía liên hệ tới lịch sử, bật mí vén màn bí mật những uẩn khúc một thời, mà nguời Việt đọc tới, cứ tưởng như đang trong mộng hay đi trên mây, vì tất cả đều do bàn tay lông lá của ngoại bang dàn dựng. 

            Riêng về sự nghiệp của tổng thống cuối cùng của VNCH là Dương Văn Minh, cũng có rất nhiều nhưng chỉ có các bài viết của ký giả Pierre Denicron và ‘ Decent Interval ‘ của Frank Sneep.. là viết rõ ràng nhất. 

            Theo ‘ Những Ngày Cuối Cùng VNCH ‘ của Nguyễn Khắc Ngử xuất bản sau năm 1975 tại Canada, thì ngay khi Bắc Việt vừa chiếm được Cao Nguyên Trung Phần (QDII) ngày 24-3-1975. Nhận thấy thời cơ đả tới, Phạm Văn Ðồng lúc đó là Thủ tướng Bắc Việt, đã ra lệnh cho bọn phản tặc ăn cơm Quốc Gia thờ ma Hồ, với cái gọi Lực Lượng Thứ Ba (LLTB) ở Sài Gòn, công khai ra mặt chống đối Chính Phủ VNCH, qua trung gian Ðại Sứ Pháp ở Hà Nội là Phillipe Richer. Ðồng noí : ‘ thế nào ?bao giờ người Pháp mới hành động ? giờ đã đến lúc các bạn ông trong phe thứ ba ở Sài Gòn, ra khỏi sự dè dặt, công khai lật đổ Nguyễn VănThiệu, để lập chính phủ mới trung lập, mới có đủ tư cách nói chuyện thương thuyết với chúng tôi ‘.Ðó chính là lý do mà Ðại sứ Pháp tại Sài Gòn, J.M.Mérillon, tiếp xúc với LLTB, áp lực Mỹ thay ngựa hết TT. Thiệu tới TT.Hương và tìm đủ mọi cách đưa Dương Văn Minh lên ghế Tổng Thống 

+ Những Ngày Chuẩn Bị Lên Ngôi Vua :  

            Người Pháp hết bị Nhật rồi tới VN đánh đuổi ra khỏi Ðông Dương một cách nhục nhã và thảm bại vào năm 1955, nhưng De Gaule và thực dân lúc nào cũng hằng nuôi ảo vọng trở lại làm trùm miền đất này. Bởi vậy không lúc nào chúng bỏ quên mọi cơ hội, rình rập và chợp thời cơ để trục lợi. Ðó cũng lý do Hòa đàm Paris được tổ chức trên đất Pháp . Ngoài ra đây cũng là nơi dung thân của các chính khưa lưu vong, sào huyệt của phong trào trí thức sinh viên tôn giáo thân Cộng Sản. Vì vậy suốt cuộc chiến, Hà Nội đã lập ra tại đây 4 Tổ Tuyên truyền, thuộc thành phần MTGPMN, Phòng Thông tin Bắc Việt và Hội Việt kiều yêu nước XHCN.nhưng tất cả , đều đặt dưới sự chỉ đạo của Trung ương cục miền Nam, một tổ chức nối dài của Ðảng Cộng Sản . 

            Ý đồ lưu manh trên, đã được Mérillon nói một cách công khai và hãnh diện, trong tác phẩm của mình. Ðó chính là những ngày cuối tháng 4-1975, giữa lúc VNCH đang hấp hối vì Hoa Kỳ phản bội, đại bàng bỏ trốn, Việt gian đâm sau lưng, tạo dịp tốt ngàn năm một thuở, cho Pháp nhảy vào ăn ké hột hụi chót, được hay thua, cũng không bị lỗ vốn. 

            Cũng theo lời kể của vị cựu đại sứ Pháp, kể từ ngày 18-4-1975, Hoa Kỳ coi như đã dứt khoát bỏ VN, qua vai trò của đại sứ Martin. Nói chung người Mỹ nhờ Pháp thay thế, lo giùm hậu sự cho cái xác của VNCH đang hấp hối chờ chôn. Bởi vậy Mérilon đã liên hệ khắp nơi, kể cả phái đoàn của Bắc Việt trá hình là VC, do Phan Hiền cầm đầu, được Mỹ bảo vệ và cho ở làm gián điệp, nơi trại David nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất, để xúc tiến thành lập một chính phủ MA mới tại VNCH, gồm ba thành phần Quốc Gia, Cọng sản và Trung Lập, như lệnh của Phạm Văn Ðồng. 

            Ðảng đối lập tức Lực lương thứ ba lúc đó, gồm có Thủ Lãnh là Ðại Tướng Dương Văn Minh, hợp với Huỳnh tấn Mẩm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung.. được Mérilon tiếp kiến ngày 22-4-1975 nhưng tất cả lũ đều là bọn hề, không có một chút tiếng tăm gì trên trường chính trị lúc đó, ngoài vai trò làm tay sai phá hoại, nên bị đuổi về vì không đủ điều kiện để lọt vào mắt của Bắc Bộ Phủ. Riêng Dương văn Minh được giữ lại chờ nói chuyện với Hà Nội, qua đường dây chuyển tiếp của Toà đại sứ Pháp tại Sài Gòn-Tân Gia Ba-Bắc Việt, do Võ Ðông Giang làm trung gian. 

            Trong lúc chờ đợi, Ðại sứ Pháp dâng lên tổng thống tương lai, kế sách bình thiên hạ, trung lập hóa miền Nam, chung qui cũng vẫn là vai trò của Pháp, Trung Cộng và Nhật sẽ thay chân Mỹ làm chủ nhân ông VNCH. 

            Ðể Miền Nam mau chết, Hoa Kỳ đã quyết định cắt đứt hết mọi quân viện, khiến Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cắt đứt luôn sự liên hệ với Tòa Ðại Sứ. Bởi vậy, trong đêm 20-4-1975, thân hành đại sứ Martin phải vào Dinh Ðộc Lập, áp lưc TT phải từ chúc tức khắc, bằng tối hậu thư của CS Bắc Việt gửi Mỹ. Tóm lại TT Thiệu lúc đó chỉ có hai con đường lựa chọn, một là từ chức TT để giữ mạng, nếu không sẽ chết như TT Diệm vào ngày 2-11.1963. 

            Theo luật pháp quốc gia, cũng như Hiến Pháp và Quốc Hội qui định, nên Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay thế chức vụ TT. Nhưng cụ Trần Văn Hương, từ trước tới nay vốn nổi tiếng Diều Hâu, điếc không sợ sấm dù là sấm Chúa hay Phật, một nhân vật chống Cộng cực đoan, tuổi tuy già nhưng đầu óc tỉnh táo và cương quyết. Cho nên ông đâu phải là nhân vật tuyển của thực dân Pháp và giặc xâm lăng Bắc Việt. Bởi vậy Dương Văn Minh được mời ra cứu nước, đó cũng là bài bản tuồng tích đã được các soạn giả sắp xếp, đâu có gì lạ. 

            Ðể áp lực với tổng thống Hương nhường ngôi cho Dương văn Minh, tối 24-4-1975, cọng sản lại ra thông cáo : 

            1- Trần văn Hương bù nhìn của Nguyễn Văn Thiệu, phải ra đi.

            2-Mỹ phải rút khỏi VN.

            3-Không chấp nhận các cơ cấu của VNCH hiện tại. 

            Như vậy việc Dương văn Minh lên làm tổng thống, theo thông cáo trên, là do ý của cọng sản Hà Nội, chứ không phải do Hiến Pháp VNCH quyết định. Ý đồ cướp nước của giặc đã công khai rõ ràng như ban ngày, vậy mà Tướng Minh và phe nhóm vẫn mù tịt. Khôi hài nhất là việc ông đại sứ Pháp, cứ liên tục thúc hối Tổng thống Trần Văn Hương mau từ chức, để Dương Văn Minh kịp cứu dân cứu nước ? 

            Nhưng cụ Hương tuy tuổi già chứ không lẫm cẩm, hơn nữa lại là thầy của Dương Văn Minh, nên đâu có lạ gì tánh tình và nhân phẩm của người học trò mình. Theo ‘ Saigon et Moi’, chính cụ Hương đã trả lời thẳng với Mérilon như sau ‘ Nước Pháp luôn hái nho trái mùa, tưởng chọn ai, chứ Dương văn Minh không phải là hạng người dùng được, trong lúc dầu sôi lửa bỏng’. 

            Do các lý do trên, TT Hương không muốn trở thành một tội nhân thiên cổ đối với lịch sử, nên đã khôn khéo trao quyền quyết định cho Quốc Hội và Tối Cao Pháp Viện. Cuối cùng Tướng Minh được chỉ định làm Tổng Thống thứ tư của VNCH, vào lúc 20 giờ 45’ đêm 27-4-1975, với tỷ số 132/02. Rồi lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng khánh tiết, Dinh Ðộc Lập lúc 17 giờ 01 phút, chiều ngày 28-4-1975. Lần nửa Việt Sử cận đại lại được lật sang trang nhưng vô cùng ngắn ngủi, vì tổng thống Dương Văn Minh, chỉ nắm quyền chưa tới 48 giờ, thì mất nước. 

+ 30-4-1975 : Ngày Dài Nhất Của Tổng Thống Dương Văn Minh 

            Theo các tác phẩm dẫn thượng, thì suốt 40 giờ tham chính, TT Minh và Nội Các của ông, hoàn toàn làm việc tại Dinh Hoa Lan và dưới sự chỉ đạo kiểm soát của Ðại sứ Pháp gần như 24/24. Jean Larteguy, tác giả ‘ L’adieu à Saigon ‘, có viết rằng cụ Hương trước khi mất, cho tác giả biết, cả ông, Dương văn Minh lẫn Vũ Văn Mẫu, đều chẳng liên lạc được gì với cọng sản Bắc Việt. 

            Ðiều này cho thấy ông Dương văn Minh cùng phe nhóm, chẳng có một kế hoạch nào để giải quyết cuộc chiến, mà mặt thật chỉ là những người bị cọng sản Bắc Việt lừa bịp, phỉnh gạt mà thôi. Bởi vậy khi Dương Văn Minh vừa đăng quang xong lúc 17 giờ ngày 28-4-1975, lập tức VC cho Nguyễn Thành Trung oanh tạc phi trường, đồng thời trở mặt tức khắc. 

            Trong trại David vào đêm 28-4-1975, Võ Ðông Giang bảo thẳng với phái đoàn thương thuyết của Dương Văn Minh, gồm Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng ‘giờ tấn công đã sẵn sàng, nên Dương văn Minh chỉ có hai điều kiện : Ðầu hàng hay không Ðầu hàng ‘.Cả ba sứ giả bị giữ lại làm con tin. Sáng sớm ngày 29-4-1975, Hà Nội lập tức ra thông cáo, đòi tổng thống Minh cùng nội các từ chức, giao Miền Nam cho chúng, ban lệnh đuổi Mỹ, ngưng bắn và đầu hàng vô điều kiện. 

            Trong lúc ngoài vòng đai thủ đô, các đại đơn vị còn lại của QLVNCH đang tử chiến để ngăn giặc khắp năm cửa ô, thi Sài Gòn đã hỗn loạn vì sự trốn chạy của Mỹ bằng trực thăng trên mái nhà.Nhiều phi công đã bỏ chiến đấu, bỏ đồng đội đang tử chiến dưới đất, bay sang tận Thái Lan, trả máy bay cho Mỹ để đước tới định cư ở Hoa Kỳ. Theo W.W.Monyer trong ‘ Vietnammese Airforce (1955-1975), thì Mỹ đã thu hồi lại được 132 phi cơ đủ loại, qua lệnh của Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, lúc đó là R.Armitage và E.V Marbod. Các đại bàng lớn nhỏ lần lượt chắp cánh tung trời , từ TT Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Ðại Tướng Viên, Quang rồi Ðồng văn Khuyên, Vĩnh Lộc, Nguyễn văn Chức (công binh), Nguyễn văn Toàn.. đều ra đi. 

             Tóm lại giặc đang còn tận Biên Hòa, Bến Cát, Long Thành, Củ Chi và Long An.. thì Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư Lệnh KQ,HQ, BTL QDIII và Biệt Khu Thủ Ðô đã tan hàng, khiến Tổng Thống Minh như cua gãy càng, đành gọi bọn sâu bọ Nguyễn Hửu Có, Nguyễn Hữu Hạnh, Triệu Quốc Mạnh vào dinh, cho mang lon trở lại, để giúp ngài có đủ can đảm đầu hàng giặc. Tổng thống đã thức trọn đêm, cho tới sáng 30-4-1975, để bin một canh bài xì phé khi con tẩy của mình chỉ là lá bài lũng, để định một sự kiện lịch sử, mà thật ra khả năng của ông, vốn không bao giờ có thể vói tới được. 

            Từ 7 giờ sáng ngày 30-4-1975, Nguyễn Hữu Thái tới Chùa Ấn Quang, yêu cầu Thượng Tọa Trí Quang, dùng uy tín khuyên Dương văn Minh đầu hàng. Chính cuộc điện đàm ngắn ngủi giữa Trí Quang, Nguyễn Hữu Thái và bộ ba Minh, Mẫu và Lý Quý Chung , khiến Dương văn minh, quyết định đầu hàng giặc sau một đêm dài thức tron đủ năm canh. 

+ Nguyễn Đình Đẩu Làm Sứ Giả Hòa Bình : 

            Vào ngày 30-4-2005 tại Sài Gòn, VC có đưa bốn nhân vật liên quan tới những giờ phút cuối cùng của VNCH vào tháng 4-1975 lên TV phỏng vấn : Ðó là Nguyễn Hửu Có, Nguyễn Hửu Hạnh, Phạm Quốc Mạnh và Nguyễn Ðình Ðẩu. Trong 4 người, Có, Hạnh và Mạnh là sĩ quan cao cấp của QLVNCH. Riêng Ðẩu là một nhà nghiên cứu địa bạ rất nổi tiếng, qua các sách đã xuất bản, trong đó có tỉnh Bình Thuận xưa. 

            Qua hồi ký đăng trên ‘ Thế Giới Mới số 385 ‘, xuất bản tại thành Hồ vào năm 2000, Ðẩu cho biết mình là một trong 4 sứ giả hòa bình, vào những ngày cuối tháng 4-1975, được Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền mời vào phái đoàn, đến trại David là nơi đóng quân của Phái đoàn Bắc Việt trong phi trường Tân Sơn Nhất, để thương thuyết ngưng bắn. Ðẩu viết : 

            Ngày 29-4-1975 : Lúc 6 giờ 30 sáng, Ðẩu đi tìm Nguyễn Văn Huyền, mới được TT Minh phong chức ‘ Phó Tổng thống đặc trách hòa đàm ‘.Theo Ðẩu, lúc đó chính phủ Dương Văn Minh chưa có ai liên lạc hay tiếp xúc với phía bên kia. Do đó Ðẩu xung phong, cùng với Nguyễn Văn Diệp (Tổng trưởng kinh tế thương mại vừa mới phong), Nguyễn Văn Hạnh (Nhà thầu), Tô Văn Cang (kỹ sư). Lúc 11 giờ 15 cả bọn vào trại David bằng công xa của Bộ trưởng Diệp, có cận vệ, nhưng trống không vì phái đoàn VC đã rút đi hết. Lúc 13 giờ 30, theo lệnh Nguyễn Văn Huyền, Ðẩu viết lời tuyên bố của Chính phủ VNCH, chấp nhận điều kiện của VC đòi hỏi ngày 25-4-1975., sau đó được đọc trên đài phát thanh Sài Gòn vào lúc 14 giờ 30’. 

            Lúc 19 giờ cùng ngày, Ðẩu cùng Nguyễn Văn Huyền vào Dinh Hoa Lan gặp Tổng Thống Minh và cho biết ‘ Giải pháp chính trị chấm dứt chiến tranh ‘ đã không thể thực hiện được, vì Bắc Việt không chấp nhận trong lúc đang thắng thế quân sự.. Ngày 30-4-1975, lúc 7 giờ 30 sáng, Ðẩu lại theo Nguyễn Văn Huyền đi trên công xa của Tổng thống, tới họp tại Văn phòng Thủ tướng Vũ Văn Mẫu ở số 7 đường Thống Nhất. Theo Ðẩu, ngay trên xe lúc đó, Huyền nói với đương sự bằng tiếng Pháp ‘ Phải đầu hàng ‘. 

            Tại Phủ Thủ tướng lúc 8 giờ 30 sáng, bộ ba Minh, Huyền, Mẫu hợp kín. Lúc 9 giờ 15, cũng tại đây, TT Minh dùng điện thoại, đọc lệnh ngưng bắn đơn phương trên Ðài Phát thanh Sài Gòn và Quân Ðội. Lúc 9 giờ 30 cùng ngày, bộ ba Minh-Huyền-Mẫu và nhiều người trong nội các, dùng công xa kéo về Dinh Ðộc Lập, chờ Cộng Sản Bắc Việt tới giao quyền hành. Dịp này Ðẩu cũng tháp tùng nhưng lại bỏ về nhà, nên cho biết không chứng kiến những gì đã xảy ra tại Dinh Ðộc Lập, vào lúc 11 giờ 30 khi xe tăng Bắc Việt có mặt ở đây. 

2 – NGÀY 30-4-1975 TẠI DINH ÐỘC LẬP, TT DƯƠNG VĂN MINH ÐẦU HÀNG HAY BỊ QUÂN CỘNG SẢN BẮC VIỆT BẮT ? : 

            Theo Nguyễn Khắc Ngữ, thì sau khi cuộc di tản của người Mỹ trên mái nhà chấm dứt vào 7 giờ sáng. Lúc đó Tổng thống Dương Văn Minh cũng chưa biết là mình phải làm gì trước giờ thứ 25 của VNCH. Tuy nhiên xung quanh lại có nhiều thành phần trở cờ, thân hay là VC nằm vùng xúi giục, nhất là Vũ Văn Mẫu, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, Phạm Quốc Mạnh.. bởi vậy đã ra TUYÊN CÁO ÐẦU HÀNG, thâu băng ở Dinh Thủ tướng và được Ðài phát thanh Sài Gòn, phát lúc 9 giờ sáng, với nội dung : 

“ Ðường lối chủ trương của chúng tôi là  Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc  để cứu vãn sinh mệnh của đồng bào. Chúng tôi tin tưởng sâu-xa vào sự hòa giải của người VN với nhau, để phải khỏi phí phạm xương máu của người VN chúng ta . Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và đâu ở đó . Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính phủ Lâm thời miền Nam VN hãy ngưng nổ súng. Chúng tôi đang ở đây chờ gặp Ðại diện Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam VN, để cùng nhau thảo luận, về việc bàn giao chính quyền, trong vòng trật tự và tránh sự đổ máu vô ích của đồng bào .” 

            Sau đó Nguyễn Hữu Hạnh, mới được TT.Dương Văn Minh gắn lon Chuẩn tướng và phong chức Phụ tá Tổng Tham mưu mưởng QLVNCH lúc đó là Trung tướng Vĩnh Lộc. Vì tướng Lộc đã di tản hồi sáng sớm, nên Hạnh phải thay thế đọc NHẬT LỆNH , với đại ý bắt QLVNCH phải tức khắc tuân lệnh TT. Dương Văn Minh, buông súng đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt. Chính lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh, đã làm tan rã ngay QLVNCH, một Quân đội hào hùng, dũng liệt, lúc đó dù đã bị Hoa Kỳ bán đứng và bỏ rơi nhưng vẫn can trường tiếp tục chiến đấu với kẻ thù xâm lăng phương Bắc. 

             Những tướng lãnh Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Lê Minh Ðão, Lý Tòng Bá, Trần Quang Khôi, Lê Văn Thân, Ðổ Kế Giai.. người quyên sinh chết, kẽ vào tù khổ sai tại các trại giam ở tận biên giới Việt Bắc. Riêng đồng bào cả nước cũng cùng chung số phận với người linh, chịu cảnh hẳm hiu, lầm than.suốt ba mưoi sáu năm qua, dưới chế độ tham tàn bạo ngược, mà Tổng thống Dương văn Minh và phe nhóm, đã vô tình hay cố ý, lót đường, trải thảm, rước giặc vào tàn sát đồng đội, đồng bào qua danh từ hoa mỹ “ Hòa hợp, hòa giải dân tộc “. 

            Ðầu hàng lúc đó, để bom đạn khỏi tàn phá Sài Gòn và tránh bớt đổ máu cho đồng bào, vào những ngày cuối tháng tư quốc hận. Nhưng Sài Gòn và cả nước vẫn bì tàn phá hũy diệt, đồng bào cả nước vẫn đổ máu gục ngả, ngay sau khi Cộng Sản Bắc Việt chiếm được cả nước ngày 1-5-175. Chết nào cũng chết, tàn phá nào cũng là hũy diệt. Vậy tại sao không để cho QLVNCH và đồng bào chết một cách oanh liệt khi đối mặt với giặc thù, mà lại bắt họ và đất nước phải chết đau hận nhục. dưới gót giầy xâm lược của Ðế quốc Ðệ tam Cộng Sản ? 

            Có một sự kiện lịch sử cần phải viết nhớ, là lúc Dương văn Minh cùng phe nhóm vừa từ Dinh Thủ tướng về Dinh Ðộc lập, đã thấy trong sân cỏ có rất nhiều Chiến xa M48 của VNCH nhưng đã bị Tổng thống ra lệnh trở về đơn vị, để chờ đầu hàng. Cũng vì vậy mà Tăng 54 của Bắc Việt mới phách lối ủi xập được cửa sắt của Dinh Ðộc lập và những trận giặc miệng trên báo chí trong và ngoài nước của Bùi Tín, Bùi văn Tùng, Bùi Biên Thùy và mới đây thêm Nguyễn Ðình Ðẩu, Phùng Bá Ðạm, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Khang Thái.. về cái gọi là ‘ Bắt Dương Văn Minh tại Dinh Ðộc Lập ‘. 

            Ngày nay đọc ba quyển hồi ký của Võ Nguyên Giáp và  “ Bộ Chung Một Bóng Cờ “ của Tập đoàn Giải Phóng Miền Nam gồm Nguyễn Hửu Thọ, Trần Nam Trung, Trần Bạch Ðằng, NguyễnThị Bình.. viết chung, do Nhà xuất bản Chính trị của Ðảng độc quyền phát hành , qua những tiết lộ về các bí mật hậu trường chính trị miền Nam trước năm 1975. Nhờ đó ta mới biết chân tướng của Nguyễn Xuân Oánh, Phó Thủ tướng ‘ Tôi cảm thấy sống rất thoải mái và phấn chấn, vì trong mấy chục năm qua nằm vùng trong Chính quyền miền Nam, tôi cũng đã giúp Ðảng ta nhiều công lớn ‘.Còn Nguyễn Hửu Có, nguyên Tổng trưởng Quốc phòng thì nói ‘ Ðảng ta mau tuyên truyền ra hải ngoại, để Việt kiều biết tìm cơ hội cống hiến yêu nước XHCN ‘.Nhưng nhức nhối hơn cả vẫn là Nguyễn Khánh, trong lúc Miền Nam đã nguy ngập vào tháng 3-1975, chẳng những không tìm cách giúp đở, mà còn đâm sau lưng chiến sĩ , bằng cách đòi hỏi Mỹ phải chấm dứt ngay quân viện cho VNCH. Ngày 17-4-1975 khi Cộng Sản đang vây khổn Sài Gòn, thì Khánh viết ‘ The Peace must be Vietnamized- Phải VN hóa hòa bình ‘ , đăng trên tờ New York Times. Cuối cùng, khi được tin Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Khánh lại liên lạc với MTGPMN hỏi là ‘ Mình phải tiếp tục làm gì ? ‘ 

            Còn Ðại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống hai ngày cũng là tổng thống chót của VNCH, ngoài việc dùng quyền hành vua nước và tổng tư lệnh quân đội, bắt QLVNCH buông đầu hàng rã ngủ. Sau ngày 1-5-1975 còn Họp báo công bố ‘ Chính Sách Khoan Hồng Của Cách Mạng ‘ và nói ‘ Riêng cá nhân tôi rất hân hoan, vì cho tới năm 60 tuổi , tôi mới được trở thành công dân của một nước VN độc lập, tự do ‘. 

            Về chuyện gì đã xảy ra trong Dinh Ðộc Lập, vào trưa này 30-4-1975, hiện đã có rất nhiều tài liệu của cả hai phía, cũng như ngoại quốc ghi nhận. Nói chung tất cả sự kiện gần giống nhau, chỉ có khác biệt là ai cũng dành công, việc bắt TT Dương Văn Minh và Nội các VNCH, là của mình. 

+ Nguyễn Khắc Ngữ : 

            Viết trong ‘ Những ngày cuối cùng của VNCH ‘ cho biết vào lúc 12 giờ 30 ngày 30-4-1975, lúc quân Bắc Việt do Bùi văn Tùng chỉ huy, đã vào được bên trong Dinh Ðộc Lập. Về phía VNCH, tại phòng Khánh Tiết , hầu như có đủ các nhân vật thuộc phe nhóm DVM và nội các của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, tất cả đang ngồi trên ba hàng ghế chờ. Chính TT.Minh đã ra đón cán binh Bắc Việt  tận cửa Phòng Khánh Tiết và nói về việc ban giao. Nhưng chúng nhất định không chịu, đòi Dương Văn Minh phải đầu hàng VÔ ÐIỀU KIỆN và cho biết TUYÊN CÁO phía VNCH do Minh và Hạnh vừa đọc, không có giá trị. Sau cùng Lê Văn Minh nói thẳng là Dương Văn Minh đã bị bắt, thì còn gì để bàn giao. 

            Biết mình đã lở dại, nên TT Minh, Thủ tướng Mẫu đành để cho giặc áp giải tới Ðài phát thanh, ra lệnh cho QLVNCH buông súng đầu hàng vô điều kiện, đồng thời tuyên bố giải tán Chính quyền VNCH, từ trung ương trở xuống địa phương. Còn Vũ văn Mẫu thì nhân danh Thủ tướng chính phủ, kêu gọi đồng bào hoan hĩ đón giặc vào. 

+ Bùi Tín Có Bắt Được TT Dương Văn Minh ? 

            Ðây là bài viết của Bùi Văn Tùng, trả lời Thành Tín, tức Bùi Tín qua ‘ Sài Gòn trong ánh chớp chói lọi của lịch sử ‘, được VC in và phát hành năm 1978. Trong bài viết của Thành Tín, cho biết Bùi Văn Tùng, Chính Ủy Lữ Ðoàn Thiết giáp 203, đã áp giải TT Minh và Thủ tướng Mẫu, từ Dinh Ðộc Lập tới Ðài phát thanh Sài Gòn, rồi tự Tùng và Thệ viết ‘ Bản Tuyên bố đầu hàng ‘ đưa cho Tổng thống đọc nhưng Minh không muốn dùng chức vụ ‘ Tổng thống ‘, mà chi muốn xưng danh hiệu ‘ Ðại tướng ‘.Cuối cùng trước mũi súng, Tổng thống kiêm Ðại tướng Dương Văn Minh, đã phải tuân hành theo mọi mệnh lệnh. 

            Năm 1992, Bùi văn Tùng có viết một bài liên quan tới các sự kiện trưa ngày 30-4-1975 tại Dinh Ðộc Lập, Sài Gòn. Trong bài viết, Tùng cho biết sau năm 1975, Bùi Tín có làm một Bộ phim về chiến tranh VN nhưng Tùng đã tố Tín, cố tình đạo diễn, để cho mọi ngưởi tưởng lầm, chính Tín đã bắt và buộc Dương Văn Minh đầu hàng. Cuối cùng Bùi văn Tùng xác nhận Bùi Tín đã có mặt tại Dinh Ðộc Lập vào chiều ngày 30-4-1975, qua tư cách một nhà báo phóng viên. Nhưng theo Tùng, thì việc bắt Tổng Thống Minh đầu hàng vào lúc 13 giờ 15 ‘ tại Ðài phát thanh Sài Gòn, chứ không phải Dinh Ðộc Lập. Sự thật là thế nào, chỉ có TT Minh mới biết, tiếc thay ông đã không còn để trả lời. 

+Nguyễn Trần Thiết : 

            Thiết là một nhà báo Bắc Việt, cho biết vào lúc 12 giờ 12 ‘, Ðại tá CS Nam Long lúc đó đang có mặt trong Dinh Ðộc Lập, đã tiếp phái đoàn báo chí phe mình, trong đó có Bùi Tín. Thiết cho biết mình vào Dinh DL, với nhiệm vu phỏng vấn TÙ BINH VNCH có mặt tại chỗ lúc đó, gồm TT kiêm Ðại tướng Dương Văn Minh , Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu.. Theo Thiết, vì chỉ trong mấy ngày, mà VNCH đã thay đổi ba lần nội các , qua các Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Bá Cẩn, cuối cùng là Vũ Văn Mẫu, nên quá nhiều ông lớn, nên chẳng biết đâu mà mò. 

            Trong bài của Thiết, có nhắc tới việc Bùi Tín chửi Dương Văn Minh khi Tổng thống đòi bàn giao Chính quyền với MTGPMN ‘ Nhưng ông đâu có chính quyền để bàn giao ? Người ta không thể giao cái gì không có trong tay bọn Ngụy quyền cũ từ dưới lên trên đã sụp đổ hoàn toàn ‘.Nhưng Minh vẫn có cãi ‘ Các ông có thấy Sài Gòn không đổ máu ? đó là mơ ước của tôi ‘.Và đã được Bùi Tín trả lời ‘ Ðúng, Sài Gòn gần như không đổ máu, không bi tàn phá. Ðó là do sức áp đảo và khí thế thần tốc của cách mạng ‘. 

            Mai mĩa nhất là Nguyễn văn Hảo lúc đó đòi được bắt tay với bộ đội Bắc Việt và khoe chính mình đã ngăn cản không cho bất cứ kẻ nào phá hoại nguồn lợi kinh tế của nước ta. Kho bạc còn, vàng dự trữ còn. Công lao của tụi này đấy.. 

            Tóm lại, tại Dinh Ðộc Lập ngày 30-4-1975, theo Nguyễn Trần Thiết thì chính Sáu Hoàng Cao Minh Chiếm, mới là người Ðại diện chính thức của Bắc Việt, chấp nhận sự đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh và nội các. 

            Riêng Nguyễn Hửu Hạnh nhờ năm vùng, nên sau tháng 5-1975 được Cộng Sản thưởng công làm Ủy viên Ủy Ban Mặt Trận GPMN, thành phố Sài Gòn-Gia Ðịnh rồi lên Ủy viên Ủy Ban Trung Ương Mặt trận Tổ Quốc VN.

 

+ Phùng Bá Đạm :  

            Tháng 4-2005, trên báo Khoa học phổ thông số 18 xuất bản tại thành Hồ, có đăng bài ‘ Gặp lại một nhân chứng lịch sử ‘ của Nguyễn Khang Thái ‘.Bài viết ghi lại lời kể của Phùng Bá Ðạm, tự nhận thuộc Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, Quân đoan 2, là đơn vị đã vào Dinh Ðộc Lập đầu tiên ngày 30-4-1975. Theo Ðạm kể, khi xe tăng Bắc Việt còn cách Dinh Ðộc Lập khoảng 300m, thì Tô Văn Thành,thuộc Ðại đội 3, Tiểu đoàn 7, ngồi trên xe tăng trúng đạn chết. Vì vậy khi tới gần Dinh DL, xe tăng VC đã mở hết tốc lực ủi sập cổng và tiến vào sân cỏ trước dinh. 

            Nhờ các nhà báo hướng dẫn, Phạm Xuân Thệ, Phùng Bá Ðạm, Ðào Ngọc Vân.. với lá cờ của MTGPMN chạy lên lầu và gặp Nguyễn Hửu Hạnh ở tầng 2, đón đưa vào phòng khánh tiết, lúc đó đã có TT Minh và nội các đang ngồi chờ đầu hàng. Do Ðài phát thanh Sài Gòn lúc đó đã ngưng hoạt động, nên Thệ, Ðạm áp giải TT Minh và Vũ Văn Mẫu, tới nơi để lên đài, mặc dù Ðại tướng cố từ chối. 

            Trên đường tới Ðài phát thanh, ngồi trên xe Jeep do Ðào Ngọc Vân lái. Ở băng trước TT Minh ngồi với Phạm Xuân Thệ. Còn Vũ văn Mẫu, Phùng Bá Ðạm, Ðinh Thái Quang cùng 2 bộ đội, ngồi phía sau. 

            Ðài phát thanh Sài Gòn lúc đó đã bị Tiểu đoàn 8 Bắc Việt chiếm. Chính bản văn ‘ Tuyên bố đầu hàng ‘, mà TT Dương Văn Minh đọc trên đài, là do Phạm Xuân Thệ, Ðinh Thái Quang, Trịnh Ngọc Ước và Phùng Bá Ðạm đạo diễn. Lúc này Trung tá Bùi văn Tùng, Chính Ủy Lữ đoàn 203 Thiết giáp cũng vừa tới. Theo Ðạm kể, vì lúc đó trong bọn, Bùi văn Tùng có cấp bậc cao nhất, nên thay mặt quân Bắc Việt, chấp nhận lời đầu hàng của TT Dương Văn Minh, vào lúc đồng hồ chỉ 11 giờ 30 ‘, ngày 30-4-1975. 

            Kể từ giờ phút đó Sài Gòn tan hoang và thê thảm nhất là tại Tòa Ðại sứ Mỹ, nằm trên đường Thống Nhất-Mạc Ðỉnh Chi. Phủ Thủ tướng Mẫu, cả con dấu cũng lăn lóc dưới sàn gạch. Trong Bộ Quốc Phòng, Tổng Nha Cảnh Sát, Bộ Tổng Tham Mưu.. đâu đâu cũng ngổn ngang xe Jeep, súng ngắn.. mà người xưa đã đi đâu mất. 

            Từ đó người VN chịu cảnh đổi đời. Tất cả đều bị giặc Hồ gọi là “ Nguỵ, lính tráng là Ngụy quân, công chức là Ngụy quyền và đồng bào Miền Nam cũng thành Ngụy Dân “. Nhờ Tổng Thống Minh kịp thời đầu hàng, tránh cho Sài Gòn còn nguyên vẹn, kể cả 16 tấn vàng của Ngân hàng quốc gia do Nguyễn văn Hảo giữ, giúp cho Bắc bộ Phủ, thâu tóm trọn vẹn tài sản của dân chúng và công khố nhà nước một cách đầy đủ. Từ đó nhờ công cách mạng giải phóng, nên người Việt từ bắc vào nam, chịu chung cảnh người thành vượn, đói rách thảm thê, không có bút mực nào diễn tả cho trọn vẹn, phải liều mạng bỏ nước ra đi để được làm người. 

            Cũng từ đó dân chúng căm hờn, đổ hết mọi trach nhiệm cho ông Dương văn Minh, một tổng thống cuối cùng của VNCH, vì ngu muội khiến cho dân chúng lầm than dưới chế độ bạo tàn của đệ tam quốc tế, tạo cợ hội cho đảng cọng sản VN, đem đất đai biển đảo, tài nguyên quốc gia, nhượng bán cho kẻ thù không đội trời chung của Dân Tộc là Trung Cộng. Thế là cuộc bút chiến xảy ra công khai trên báo chí hải ngoại giữa hai phe thương và ghét Dương Văn Minh. 

            Người ta trách ông Minh không phải là trách ông đã ra lệnh cho QLVNCH buông súng đầu hàng giặc, nhưng trách ông, tự biết mình là người rất ấu trĩ về chính trị, từng là bại tướng của Khánh, Khiêm, Thiệu nhiều lần. Tài năng như vậy, mà dám xưng phong ra nhận lãnh trách nhiệm cứu nước trong giờ thứ 25, khiến cho nước non phải thảm nhục. 

            Người ta trách ông Minh ham sống sợ chết, không biết hành xử xứng đáng với cương vị và thân phận của mình. Ðường đường là một Ðại tướng, Lãnh tụ phe thứ ba và trên hết là Tổng thống của một nước nhưng ông Dương Văn Minh, đã cố tình làm ngơ, các gương trung liệt nghĩa khí của người xưa, gương anh hùng bất khuất của thuộc hạ trước mắt ‘ Chết để giữ tròn khí tiết, chết vinh hơn sống nhục ‘. 

            Thật vậy hoàn cảnh của tướng Minh, đâu khác gì thảm trạng của hai tướng giữ thành Bình Ðịnh, vào năm Tân Dậu 1801. Lúc đó thành bị Tây Sơn vây hãm lâm vào cảnh tuyệt lộ, trong không lương ngoài chẳng binh cứu. Trong nổi tuyệt cùng, Võ Tánh và Ngô Tùng Chu đã viết thư cho tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu ‘ Phận ta làm chủ tướng, thì đành liều chết dưới cờ. Còn tướng sĩ và dân chúng không có tội tình gì, không nên giết hại ‘.Sau đó Võ Tánh tự đốt chết, còn Ngô Tùng Châu uống thuốc độc quyên sinh. 

            Trưa 30-4-1975, khi TT Minh ra lệnh QLVNCH buông súng đầu hàng. Nhiều binh sĩ đang chiến đấu tại mặt trận đã tự tử chết, vì họ không muốn đối mặt với kẻ thù tàn ác dã man. Các tướng lãnh Phạm Văn Phú (Tư Lệnh QD2), Nguyễn Khoa Nam (Tư lệnh QD4), Lê văn Hưng (Tư Lệnh Phó QD4), Lê Nguyên Vỹ (Tư lệnh SD5BB), Trần Văn Hai (Tư Lệnh SD7BB).. kẻ trước người sau, quyên sinh để bảo toàn khí tiết cho quân đội Miền Nam nói chung và danh dự của một cấp chỉ huy, lúc sa cơ thất thế. 

            Trái lại Ðại Tướng cũng là Tổng thống Dương Văn Minh, khúm núm ra trình diện trước các tên cán binh tép riu của Bắc Việt như Bùi Quang Thận, Ðại Ðội Trưởng DD Chiến Xa, để rồi bị tên chủ nhiệm chính tri của đoàn xe tăng mang số 203 là Lê Văn Minh nạt nộ :’ các anh đã bị bắt, không có bàn giao gì cả ‘. 

            Mới đây đào hát cởi truồng một thời phản chiến Jane Fonda, vì muốn quảng cáo cho một tuỳ bút nói về chuyện tình của mình, đã lên đài CBS, nhỏ những giọt nước mắt cá sấu, để nhận tội phản quốc với Hoa Kỳ, khi ả sang Bắc Việt, vào năm 1972, ngồi trên các khẩu cao xạ chửi Mỹ. Câu chuyện khôi hài của đám con buôn chính trị thập thành cũng chẳng có gì lạ nhưng đối với người Việt tị nạn, thì lại có một ý nghĩa, vì ít ra cô đào hát còn có can đảm nhận sự sai lầm của mình. Trong lúc đó thử hỏi những kẻ từng đâm sau lưng người lính đã hy sinh cho họ, hiện nay đang sống nơi hải ngoại, có ai dám muối mặt như Fonda để nhận sai trái năm nào, dù thời gian tới 36 năm và mặt nào phản chiến, phản tặc, tới nay ai cũng đều biết. 

            Thanh niên nam nữ, miền Nam VN, thế hệ sinh từ 1900 về sau, thường mượn tư tưởng làm trai của Nguyễn Công Trứ, để làm hành trang xử thế khi vào đời : 

            ‘ Ðã mang tiếng đứng trong trời đất phải có danh gì với núi sông ‘           

            Còn ông Dương văn Minh lại là một nhân vật lớn của lịch sử, tại sao không vì lịch sử, mà lưu lại cho hậu thế cái khí tiết ‘ Nhất Tướng Công Thành, Vạn Cốt Khô ?’ 

            Thì ra con người cũng có năm bảy hạng người . 

             Ngày 29-4-1975 Dương Văn Minh làm tổng thống ra lệnh cho quân dân Miền Nam đầu hàng CS Bắc Việt, khiến cho cả nước phải sống trong cảnh cùm gông địa ngục, hận tủi trùng trùng vì giặc Hồ bán nước cầu vinh. Ngày 29-4-2008, tập đoàn lãnh đạo Bắc Việt mở cửa để đón Tàu đỏ vào VN, qua vở tuồng rước đuốc thế vận Bắc Kinh 2008. Cùng chung một ý nghĩa ‘ thể thao ‘ nhưng tại các quốc gia khác, đuốc máu của Tàu đỏ , được đón hay bị tẩy chay là do người dân quyết định. Trái lại tại VN, chính quyền gần như công khai hoan hô đuốc máu của giặc, hết lòng bảo vệ và cấm tuyệt dân chúng trong nước biểu tình phản đối. Ðau nhất là đuốc máu của giặc sẽ ra tận Hoàng Sa & Trường Sa của chúng ta, để biểu dương cho thế giới biết là VN ngày nay chỉ còn là một quận huyện của thiên triều. 

            Cũng từ cái sĩ diện trên, mà những người tuổi trẻ VN trong nước hiện này như các nhà báo Điều Cầy, Mẹ Nấm và nhiều trí thức như Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn, Luật Sư Đổ Nam Hải, Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân.. và nhất là LS Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ..đã vì nhục nước, mà từ bỏ tất cả những độc quyền của đảng ban phát đang có, để dấn thân vào con đường cứu nước, tranh đấu đòi tự do dân chủ, bất chấp tù tội và sự trả thù của ngụy quyền Hà Nội. 

            Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn CS khắp nơi trên thế giới, đã hết lòng lo lắng về sinh mạng của những anh hùng nam nữ trện, cũng như đã không quên “ Cám Ơn Họ “. Trong lúc đó tới giờ phút này, dù đã 36 năm qua, những kẻ nối giáo và bán đứng dân nước cho giặc Hồ, vẫn còn nợ “ lời xin lỗi “ về hành động của mình trong quá khứ, đối với đồng bào và những người lính VNCH. 

            Non nước điêu linh mạt rệp tới độ không còn chữ nghĩa nào để mà diễn tả cho hết niềm đau nổi nhục này nhưng biết làm sao hơn ?.  

            Đó là những lý do, nên “ cực Chẳng Đã “ phải nhớ vào những giạy phút Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận 30-4 hằng năm.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO :

– Những ngày cuối cùng của VNCH ốNguyễn Khắc Ngử

– VN. Niên Biểu Nhân vật Chí của Chánh Ðạo

– Nam Kỳ Lục Tỉnh (IV) của Hứa Hoành

-Ðôi dòng ghi nhớ của Phạm bá Hoa

-QLVNCH trong giai đoạn hình thành của Bộ TTM.

-Những bí mật cuộc cách mạng 1-11-1963 của Lê Tử Hùng

-Hồi ký của Nguyễn Chánh Thi

-Les Guerres du VietNam của Trần văn Ðôn

-sách vở bao chí KBC,PNDD,TP

 

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di

Tháng Tư Quốc Hận 2011

MƯỜNG GIANG 

 

 Lữ đoàn 3 kỵ binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn 3 trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến

 

Tác giả/Nhân vật: Trần Quang Khôi

Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh là đơn vị Thiết Giáp nồng cốt và là đơn vị khung của Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3. Lực Lượng này do Đại Tướng Đỗ Cao Trí thành lập giao cho tôi tổ chức huấn luyện và chỉ huy từ tháng 11 năm 1970 dể phục vụ chiến trường Cam Bốt.

Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 là một lực Lượng liên binh gồm nhiều binh chủng hợp đồng chiến dấu trên chiến trường. Lúc cao điểm, quân số và khả năng tác chiến của lực lượng này tương đương với một sư đoàn cơ giới. Đây là một lực lượng cơ động cao, hỏa lực mạnh, thuộc Quân Đoàn 3, khi thì can thiệp vàạ khu vực hành quân của Sư Đoàn 25 Bộ Binh, khi thì tác chiến trạng khu vực hành quân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Trong Vùng 3 Chiến Thuật, chỗ nào “nặng” là có mặt Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3. Thời Đại Tướng Đỗ Cao Trí là tư lệnh Quân Ðoàn 3 kiêm tư lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, đây là lực lượng chủ lực của Quân Đoàn, luôn luôn chủ động và thường xuyên hoạt dộng trên chiến trường ngoại biên Cam Bốt.

http://hung-viet.org/blog1/wp-content/uploads/2011/03/quandoivnch-thietgiap-300x225.jpg

Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 đã từng quần thảo nhiều với các Công Trường (tương đương với sư đoàn) 5, 7 và 9 của Cộng Sản Bắc Việt ở Peang Cheang, Chup, Chlong, Dambe, Krek, Snoul, Đức Huệ, An Điền, và Rạch Bắp. Lực lượng Xung Kích Quân Ðoàn 3đã từng cứu Chiến Đoàn 5 Biệt Động Quân của Đại Tá Đương ở Chlong và Dambe hồi tháng 2 và 3 năm 1971 khi rút ra Quốc Lộ 7. Sau đó, lại tiếp cứu Chiến Đoàn 8 ở Snoul rút về Lộc Ninh vào tháng 6 năm 1971. Và rồi giải vây cho Tiểu Đoàn 30 Biệt Ðộng Quân của Thiếu Tá Võ Mộng Thùy ở căn cứ Alpha trên mặt trận Krek tháng 11 năm 71.

Cuối năm 1971, tôi rời Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh. Trong hai năm từ 1972 đến 1973 tôi đi du học. Không bao lâu, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 giải tán lữ đoàn này, đồng thời ông cũng giải tán Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3. Khi trận An Lộc ở tỉnh Bình Long bùng nổ dữ dội vào mùa Hè 1972, lực Lượng Thiết Giáp của Quân Ðoàn 3 hoàn toàn bị tê liệt.

Khi tôi trở về nước, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Trung Tướng Nguyễn Văn Minh yêu cầu tôi trở về lại Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh. Ngày 7 tháng 11/1973 tôi tiếp nhận lữ đoàn và đề nghị với Tướng Thuần tổ chức lại Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 theo mô hình tổ chức của Tướng Đỗ Cao Trí. Tướng Thuần cho tôi toàn quyền hành dộng. Tôi gom Thiết Giáp lại. Bấy giờ mình đã có chiến xa M-48. Tôi thay đổi tổ chức, mỗi chi đội có 3 chiến xa M-48, vừa nhẹ nhàng, vừa linh hoạt và hữu hiệu hơn một chi đội 5 chiến xa.

Mỗi chi đoàn 11 chiến xa M-48 thì bây giờ được tái tổ chức với 4 chi đoàn với 44 chiếc và 3 xe chỉ huy. Một thiết đoàn chiến xa M-48 thì được tổ chức theo quân đội Mỹ sẽ gồm 54 chiếc. Vì vậy tôi có dư ra 7 chiến xa M-48 làm dự trữ. Tôi cho cơ động hóa Tiểu Ðoàn 61 Pháo Binh với các khẩu đại bác 105 ly, thuộc Quân Đoàn 3 bằng cách dùng xe xích M-548 (xe chở đạn thiết giáp) cho quân cụ biến cải để chở đại bác 105 ly. Ðồng thời huấn luyện pháo thủ cách vận chuyển và hạ súng tác xạ.

http://hung-viet.org/blog1/wp-content/uploads/2011/03/quandoivnch-thietgiap2-300x175.jpg

Được tăng phái Liên Đoàn 33 Biệt Ðộng Quân, Tiểu Đoàn 46 Pháo Binh với các đại bác 155 ly, Tiểu Đoàn 61 Pháo Binh (105 ly) và Tiểu Đoàn 302 Công Binh, tôi tái tổ chức Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 trở thành 3 chiến đoàn Thiết Giáp. Lực lượng ngày gồm có Chiến Đoàn 315, Chiến Đoàn 318 và Chiến Đoàn 322. Các Chiến Đoàn đều có tổ chức giống nhau. Sau khi kiện toàn tổ chức, huấn luyện chiến đấu hợp đồng binh chủng, học tập chính trị và giáo dục tư tưởng, tôi báo cáo lên Tư Lệnh Quân Đoàn 3 là chúng tôi đã sẵn sàng.

Ngày 2 tháng 4/1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 lại xuất quân, bất thần tiến vào vùng liên ranh Củ Chi-Trảng Bàng, đánh giải tỏa áp lực dịch chung quanh đồn Bò Cạp ở phía Bắc Củ Chi và đồn Chà Rày thuộc Chi Khu Trảng Bàng. Chiến Đoàn 315 đập tan Tiểu Ðoàn Tây Sơn của Việt Cộng (họ thuộc Trung Đoàn 101 địa phương). Cuối tháng 4/1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 đánh bại hoàn toàn Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, giải vây cứu Tiểu Ðoàn 83 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng ở Căn Cứ Đức Huệ. Ngoài ra, lực lượng xung kích còn yểm trợ cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh phản công chiếm lại An Điền, Căn Cứ 82 và Rạch Bắp tháng trong tháng 7 và 8 của năm 1974.

Tại mặt trận phía Bắc tỉnh Bình Dương, lực lượng xung kích tiêu diệt Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn Phú Lợi vào tháng 2/1975. Rồi tham gia hành quân ở các chiến trận Gò Dầu Hạ, Dầu Tiếng, Khiêm Hạnh vào tháng 3 năm 1975 để yểm trợ cho Sư Ðoàn 25 Bộ Binh tấn công lên phía Bắc Tây Ninh. Và đặc biệt từ ngày 11 tháng 4/1975 đến ngày 25 tháng 4/1975, trong 14 ngày đêm, chính lực lượng xung kích này đã chận đứng mũi tấn công của 1 quân đoàn Cộng Sản Bắc Việt ở Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây và đánh giải vây tiếp cứu Chiến Đoàn 52 Bộ Binh.

5 NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CUỘC CHIẾN

Tình hình vào hạ tuần tháng 4/1975 biến chuyển dồn dập. Áp lực Cộng Sản ở mặt trận phía Đông ngày càng nặng. Tôi được Quân Đoàn tăng cường Trung Đoàn 8 của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực Lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây. Lúc đó, Không Quân VNCH thả hai trái bom Daisy Cutter gây thiệt hại nặng cho quân Bắc Việt. Ở Saigạn có âm mưu lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. Phi trường Biên Hòa dóng cửa. Ngày 20 tháng 4/1975 Sư Ðoàn 18 Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo rút bỏ Xuân Lộc về Long Bình. Ngày 21 tháng 4/1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức.

Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung Tướng Charles Times, Phụ Tá Đại Sứ Martin ở Saigon, đại ý nói: “Thưa Trung Tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các sư đoàn Cộng Sản ở đây thì cũng là lúc Quốc Hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm cho Quân Lực VNCH không. Tình hình gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ Quốc Hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho quân đội chúng tôi đi nữa thì cũng đã quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin trung tướng giúp cho gia đình tôi được di tản dến một nơi an toàn…”

Sau khi Sư Ðoàn 18 Bộ Binh được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25 tháng 4/1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom-Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3, lúc ấy được lệnh rút về Biên Hòa dưỡng quân. Trung Đoàn 9 của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh thì được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 trở thành lực Lượng trừ bị cho Quân Đoàn.

http://hung-viet.org/blog1/wp-content/uploads/2011/03/tranquangkhoi.jpg

Trần Quang Khôi

Về tới Biên Hòa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25 tháng 4/1975, có tin lực lượng địch đang tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân Đoàn, tôi liền phái Chiến Đoàn 322 tăng cường một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngã Ba Lạng Thành-Trường Thiết Giáp. Chiến đoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, thì chạm địch nặng và giao trang dữ dội với chúng đến khuya, bắn cháy 12 chiến xa T-54 và buộc chúng phải rút vào bên trong.

Ngày 29 tháng 4/1975 có lệnh mới của Quân Đoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 được tăng phái thêm Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Yểm trợ hỏa lực trực tiếp gồm có Tiểu Đoàn 46 và Tiểu Ðoàn 61 Pháo Binh.

Mười hai giờ trưa ngày 29 tháng 4/1975, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Long Bình. Chỉ có tướng Toàn, Đảo và tôi. Tướng Toàn chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho Sư Ðoàn 18 của tướng Đảo phòng thủ khu vực Long Bình và kiểm soát xa lộ Biên Hòa. Kế đó ông ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 của tôi phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa và đặt lực Lượng Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân của Tiểu Khu Biên Hòa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này bị bắt vào trại cải tạo, tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực Sư Ðoàn 25 Bộ Binh ở Củ Chi đã bị Việt Cộng chiếm. Sư Ðoàn 25 tan rã và Tướng Lý Tòng Bá bị địch bắt. Tướng Nguyễn Văn Toàn đã giấu tôi và Lê Minh Đảo tin xấu này. Ông chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn.

Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất Ðại Tá Hiếu (Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ Binh) với giọng rung rung xúc động. Hiếu báo cáo: “Quân địch đang tấn công Trảng Bom và Trung Đoàn 43 đang rút quân về hướng Long Bình.” Mặt cau lại, Toàn nổi giận la Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ. Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Đông Biên Hòa ở Trảng Bom của Sư Ðoàn 18 khó có thể cầm cự nổi vì họ đã bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc và đã không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Đảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: “Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh.”

Trở về Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3, tôi liền họp các vị sĩ quan lữ đoàn trưởng, liên đoàn trưởng, chiến đoàn trưởng và các đơn vị yểm trợ. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Hòa kể từ 15 giờ 00 ngày 29 tháng 4/1975, chỉ thị cho các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân chung quanh thị xa Biên Hòa bố trí tại chỗ, ở đâu thì đóng ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Hòa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Để phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa. Tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 như sau:

  • Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù bố trí trong phi trường Biên Hòa, giữ mặt Bắc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3.
  • Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến: Một tiểu đoàn bảo vệ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3, một lữ đoàn bố trí phòng thủ mặt Nam của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn.
  • Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù: Tổ chức phân tán thành nhiều tiểu đội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới và Cầu Sắt Biên Hòa, đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố.
  • Chiến Đoàn 315: Bố trí án ngữ từ ngã tư Lò Than đến ngã tư Lò Than (gần trại Ngô Văn Sáng).
  • Chiến Đoàn 322: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến cổng phi trường Biên Hòa.
  • Chiến Đoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Hòa đến Cầu Mới Biên Hòa.
  • Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực.
  • Bộ Tư Lệnh Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh được đặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn 3.

Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29 tháng 4/1975, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh tư lệnh Quân Đoàn, thình lình chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống bãi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. Thiếu Tá Cơ, phi công, chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long Bình, Cơ đưa Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu. Nơi đó anh thấy có các Tướng Lam và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu dánh cá ra Hạm Đội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ý vì đơn vị trực thăng của anh giờ này không còn ở Biên Hòa nữa.

Lúc 17 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một vòng quan sát tình hình trong và chung quanh thành phố Biên Hòa. Tình hình chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt dầu xâm nhập vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố từ hướng phi trường, đụng độ với lính Biệt Cách Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh bắt dầu, một cánh quân Biệt Động Quân của Chiến Đoàn 315 cũng chạm súng với địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Địch bám sát vào tuyến phòng thủ mặt Bắc và Đông Bắc của quân ta. Hai bên bám sát trận địa nằm cách nhau từ 10 đến 15 mét. Cho dến giờ phút này, các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn chiến đấu vững vàng và tự tin. Không có tình trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy lui địch ra xa tuyến phòng thủ.

Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Đổng ở Saigon. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không liên lạc được. Tôi nóng lòng chờ lệnh của Saigon. Tôi tự hỏi Đại Tướng Dương Văn Minh, tân Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội có giải pháp gì không? Có lệnh gì mới cho chúng tôi không?

Đến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo. Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: “Tôi là Trung Tướng Có đây. Tôi đang ở bên cạnh Đại Tướng, anh cho chúng tôi biết tình hình ở Biên Hòa như thế nào?”

“Thưa Trung Tướng, tôi giữ thị xã Biên Hòa, Đảo giữ Long Bình, Toàn đã bỏ chạy, phi trường Biên Hòa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Đông Biên Hòa.”

Một, hai, rồi ba phút trôi qua, ở dầu giây, Tướng Có nói tiếp: “Đại Tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai để Đại Tướng nói chuyện với bên kia được không?” Tôi trả lời không do dự, “Được, tôi có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai.” Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Đại Tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: “Lệnh của Đại Tướng cho anh: Chỉ huy phòng thủ bảo vệ Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng ngày 30 tháng 4/1975. Chúc anh thành công.” Tôi lập tức nhận lệnh.

Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xã Biên Hòa. Chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp gồm bộ đội và chiến xa ở cấp trung đoàn. Lực lượng này từ Ngã Ba Hố Nai-Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3. Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Địch quân rút lui.

Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30 tháng 4/1975, Tướng Lê Minh Đảo gọi tôi ở đầu máy PRC-25: “Báo cho anh hay, tôi đã bị quân địch tràn ngập, Long Bình đã bị chúng chiếm.” Tôi liền hỏi: “Anh hiện giờ ở đâu? Có cần gì ở tôi không?” Đảo đáp: “Tôi hiện ở gần Nghĩa Trang Quân Đội, đang rút về hướng Thủ Đức.” Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Đảo vô cùng. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Đảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, với Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 của tôi là lực lượng cơ dộng số một, và Sư Ðoàn 18 Bộ Binh của Đảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Đoàn. Sau này ở trong tù, bọn cán bộ Cộng Sản rất để ý đến hai chúng tôi vì đã gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống Cộng điên cuồng nhất.

Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, quân Bắc Việt lại pháo kích Biên Hòa. Lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt diểm Biên Hòa sau khi đã chiếm được Long Bình. Tôi chuẩn bị tung cả 3 chiến đoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định. Nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện với một đoàn chiến xa dẫn đầu với bộ đội theo sau, thì liền bị Chiến Đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn. Quân Bắc Việt bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ dó, thị xã Biên Hòa trở nên yên tĩnh.

Đúng 08 giờ 00 sáng ngày 30 tháng 4/1975, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các lữ đoàn trưởng, liên đoàn trưởng, chiến đoàn trưởng và các đơn vị trưởng yểm trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận tình hình ở mặt trận, tình hình trạng thành phố Biên Hòa. Áp lực địch bên ngoài không còn nữa. Chung quanh bên ngạài thị xã, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích. Bên trong thành phố vắng vẻ. Đặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Hòa. Không có tình trạng dân chúng xuống dường hô hào ủng hộ Cộng Sản. Tôi vui mừng khi thấy tinh thần của chiến sĩ trong quân đội rất tốt, không có tình trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có tình trạng hỗn loạn trong thành phố. Các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh.

Lúc 08 giờ 30 ngày 30 tháng 4/1975, tôi kết luận buổi họp: “Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực Cộng Sản Bắc Việt đang tập trung tấn công Saigon. Rõ ràng chúng bỏ Biên Hòa, dồn lực lượng đánh vào thủ đô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết định kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 về tiếp cứu Saigon.” Tất cả các đơn vị trưởng ủng hộ quyết định này của tôi.

Tôi liền ban hành lệnh hành quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 tiến về Saigon theo kế hoạch sau đây: Lấy dường xe lửa Biên Hòa-Saigon và xa lộ Đại Hàn làm hai trục tiến quân chính.

  • Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Đoàn) do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Saigon. Đến ngạại ô phía Bắc Saigon, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh.
  • Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Liên chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng về Saigon. Đến ngoại ô phía Bắc Saigon, dừng lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh.
  • Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh cùng Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân: Bố trí yểm trợ quân Biệt Cách Dù, Nhảy Dù, và Thủy Quân Lục Chiến khi họ rời vị trí phòng thủ, rút an toàn qua Câu Mới Biên Hòa trước. Sau đó, lấy xa lộ Đại Hàn làm trục chính, tiến về Saigon theo thứ tự như sau: Chiến Đoàn 315 do Trung Tá Đỗ Đức Thảo chỉ huy sẽ đi trước, đến ngoại ô Bắc Saigon, bố trí bên này cầu Bình Triệu, chờ lệnh. Chiến Đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy sẽ đi sau. Chiến Ðoàn 315, đến ngoại ô Bắc Saigạn, bố trí phía sau Chiến Ðoàn 315, chờ lệnh.
  • Chiến Đoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy sẽ đi sau cùng, đến Saigon, bố trí sau Bộ Tư Lệnh và đơn vị yểm trợ để chờ lệnh. Trước khi lên trực thăng chỉ huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Hòa trong vòng trật tự, trang phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Cam Bốt. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30 tháng 4/1975.

Tôi lên trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn dạ Thiếu Tá Cơ lái. Chiếc trực thăng chỉ huy thứ hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Hòa, quan sát thấy tình hình bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Saigon. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi dang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo vì không liên lạc được với Saigon, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Đô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó thì dột nhiên Thiếu Tá Cơ hỏi tôi: “Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi.” Tôi liền hỏi lại: “Còn anh thì sao?” Thiếu Tá Cơ đáp, “Khi dưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với Biên Hòa.” Tôi đáp, “Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đã quyết định việc này từ lâu rồi.”

Chúng tôi bay về hướng Gò Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân Cộng Sản Bắc Việt như những con rắn dài trên xa lộ Biên Hòa và trên Quốc Lộ 13 tiến vô Saigon. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phủ Đổng. Tôi vội đi vào văn phòng tìm sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn phòng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có một trung úy mang huy hiệu Quân Đoàn 3. Tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngõ Bắc Saigon để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở dầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt dạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay Tân Sơn Nhất. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima.

Trong khi tôi đang lúng túng với việc liên lạc cùng Biệt Khu Thủ Ðô và Bộ Tổng Tham Mưu, thì thình lình tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nhìn đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút.

Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của mình và xem nhiệm vụ của Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự dộng buông vũ khí theo lệnh Tổng Thống. Tôi không có gì để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến, và đã cùng tôi giữ tròn khí tiết của người chiến sĩ đối với quân đội và tổ quốc.

Trần Quang Khôi 

Ngày Cuối Cùng: Ngày Thứ Tư, 30 Tháng 4

Trần Đông Phong

Từ trên xuống: (1) Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu bị bộ đội CS áp giải từ Dinh Độc Lập sang đài Phát thanh Sài Gòn đọc lệnh đầu hàng. (2) Dương Văn Minh đang ngồi giữa đám bộ đội trước khi đọc lệnh đầu hàng tại Đài Phát thanh Sài Gòn. Người mặc thường phục đứng bên tay phải là sinh viên Nguyễn Hữu Thái. (3) Đại sứ Graham Martin nói chuyện với báo chí trên chiến hạm Blue Ridge vào buổi sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975.


http://i5.photobucket.com/albums/y195/30thang4/duongvanminh.jpgCuộc di tản vẫn tiếp tục trong đêm cho đến rạng ngày 30 tháng 4, tuy nhiên con số người Mỹ còn lại ở Sài Gòn vẫn còn nhiều. Vào lúc 1 giờ 30 sáng, Ngoại trưởng Kissinger ra lệnh cho Tòa đại sứ Mỹ phải kết thúc việc di tản vào lúc 3 giờ 45 sáng, giờ Sài Gòn, và Đại sứ Martin phải ra đi trên chuyến trực thăng trước chuyến bay cuối cùng. Tuy nhiên đến 3 giờ 45 sáng, vẫn còn có trên 400 người tại toà đại sứ Mỹ trong đó có cả Đại sứ Martin. Vào lúc 4 giờ 20 sáng, Đô Đốc Gayler đã quyết định kết thúc cuộc di tản và tất cả các phi công đều nhận được lệnh như sau: "Đây là lệnh của Tổng Thống Hoa Kỳ và lệnh này phải được chuyển lại bởi bất cứ phi công trực thăng nào liên lạc được với đại sứ Graham Martin. Chỉ có người Mỹ mới được phép di tản và đại sứ Martin phải đáp chuyến trực thăng đầu tiên. Phi cơ chở đại sứ Martin phải phát đi ám hiệu "Tiger, Tiger, Tiger" để báo cho biết rằng ông Martin đã được di tản."

Vào lúc 4 giờ 58 sáng ngày 30 tháng 4, Đại sứ Martin "bị hộ tống" lên trực thăng mang tên là Lady Ace 09, trên chiếc trực thăng này một phân đội Thuỷ Quân Lục Chiến đã được lệnh bắt giữ ông đại sứ để áp tải lên phi cơ nếu ông ta còn chống lại lệnh di tản. Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã cố tình cưỡng lại lệnh của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhưng ông lại là ân nhân của một số người Việt Nam vì nếu không có ông thì họ không có may mắn được di tản ra khỏi Sài Gòn trong những ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1975. Theo Ngoại Trưởng Kissinger thì Đại sứ Martin đã phối hợp di tản được 6,000 người Mỹ và trên 50,000 người Việt Nam ra khỏi Sài Gòn.

Sau khi Đại sứ Martin bị hộ tống lên trực thăng, trong toà đại sứ lúc đó vẫn còn gần 200 người Mỹ mà trong số đó có 170 người là lính Thuỷ Quân Lục Chiến có nhiệm vụ bảo vệ cho chiến dịch di tản. Cuộc di tản vẫn tiếp tục cho đến đúng 7 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì chiếc trực thăng CH-46 cuối cùng mới rời khỏi sân thượng cuả Toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn mang theo Trung Sĩ Juan Valdez, người lính Mỹ và cũng là người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.

Chuyến phi cơ trực thăng cất cánh khỏi sân thượng của tòa đại sứ Mỹ vào hồi 7 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 này đánh dấu sự kết thúc của chính sách "ủng hộ miền Nam Việt Nam chiến đấu chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản trong vùng Đông Nam Á" của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ qua 5 đời tổng thống: Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford trong hơn 20 năm. Đối với người Mỹ, cuộc chiến tranh đã chấm dứt nhưng đối với một số người Việt Nam thì cuộc chiến vẫn chưa tàn. Vào ngày 30 tháng 4, có một số chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tiếp tục chiến đấu dù rằng trong vô vọng.

Dương Văn Minh Ra Lệnh Đầu Hàng

Vào lúc 10 giờ 24 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, "Tổng Thống" Dương Văn Minh đã đọc nhật lệnh trên đài phát thanh Sài Gòn ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân thuộc Quân Lực VNCH phải buông súng đầu hàng. Ông Dương Văn Minh đã tuyên bố như sau:

"Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu thì ở đó.

"Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây đang chờ gặp Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào."

"Thủ Tướng" Vũ Văn Mẫu cũng đọc lời kêu gọi mọi tầng lớp dân chúng hãy chào mừng "ngày Hoà Bình cho Dân tộc Việt Nam" và ra lệnh cho mọi công chức phải trở về nhiệm sở. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tổng Tham Mưu Phó Quân Lực VNCH nhân danh Trung Tướng Vĩnh Lộc, Tổng Tham Mưu Trưởng (vắng mặt), ra lệnh cho tất cả mọi quân nhân các cấp phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh cuả "Tổng Thống" Dương Văn Minh về vấn đề hưu chiến.

Dương Văn Minh cũng đưa ra lời kêu gọi những "người anh em bên kia" hãy ngưng mọi hoạt động gây hấn và ông ta nói rằng chính quyền của ông đang chờ đợi được gặp gỡ Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam để cùng thảo luận về "buổi lễ bàn giao quyền hành và để tránh đổ máu cho nhân dân." Dương Văn Minh không hề đề cập đến cũng như không đưa ra lời kêu gọi nào với Cộng sản Bắc Việt, lúc đó dường như ông cố tình làm như không biết việc chính Cộng sản Bắc Việt mới là những người lãnh đạo hàng ngũ những "người anh em bên kia" của ông.

Ông Dương Văn Minh chỉ kêu gọi những "người anh em bên kia" trong cái gọi là "Ch&iacu
te;nh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam," chắc là ông ta đã nghĩ đến những người lãnh đạo trong cái chính phủ này như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình v.v, nhưng ông ta không biết rằng những người mà ông ta kêu gọi đó không hề có một quyền hành nào, còn những kẻ có quyền hành lúc đó như Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng, ba ủy viên Bộ Chính trị đại diện cho Hà Nội đang thực sự nắm toàn quyền trong chiến dịch Hồ Chí Minh thì ông ta không có đả động tới.

Thượng Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân Bắc Việt và đồng thời cũng là Tư Lệnh Chiến trường Miền Nam Việt Nam lúc đó đang nghe lời kêu gọi cuả Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài Gòn. Ngay sau đó, thay vì tiến về Sài Gòn để "bàn giao" như lời kêu gọi cuả Dương Văn Minh, Văn Tiến Dũng đã ra lệnh cho "tất cả các quân đoàn, các vùng quân sự và mọi đơn vị các cấp phải tiến càng nhanh càng tốt đến các mục tiêu đã được chỉ định ở sâu trong các đô thị cũng như các tỉnh; kêu gọi địch quân đầu hàng, giao nạp vũ khí và bắt giữ tất cả các sĩ quan từ cấp thiếu tá trở lên; đập tan ngay tức khắc mọi mưu toan kháng cự."

Ông "Tổng Thống" Dương Văn Minh không thể nào biết được rằng trưa ngày hôm đó, Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương đã gửi điện văn số 516/TV ra lệnh cho các cấp lãnh đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh phải "bắt địch đầu hàng vô điều kiện":

"Vấn đề hiện nay là bắt địch đầu hàng không điều kiện chứ không phải cử người thương lượng với địch để ngưng bắn tại chỗ như có nơi đã làm.

Những nơi địch chịu đầu hàng: ta kéo quân vào bắt địch, hạ vũ khí và tước vũ khí của chúng, giải tán quân đội và bộ máy chính quyền của địch, phát động quần chúng truy kích, tiêu diệt bọn gian ác và phản động còn ẩn nấp chống lại ta.

Những nơi địch không chịu đầu hàng: ta cần phát động quần chúng nổi dậy, kêu gọi binh sĩ khởi nghĩa kết hợp với mũi tấn công đánh vào các điểm then chốt của địch, tiêu diệt những đơn vị ngoan cố chống lại ta, buộc chúng phải đầu hàng vkhông điều kiện.

Phải đặc biệt chú ý chiếm lĩnh, khống chế các sân bay không để chúng sử dụng các máy bay để chống lại ta và tẩu thoát."

Ngoài bức điện văn nói trên, chính Võ Nguyên Giáp thay mặt cho Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương cũng đã gửi bức điện văn số 151 ngày 30 tháng 4 năm 1975 gửi cho "anh Sáu" tức là Lê Đức Thọ, "anh Bảy" tức là Phạm Hùng, "anh Tuấn" tức là Văn Tiến Dũng, "anh Tư" tức là Trần Văn Trà và "anh Tấn" tức là Lê Trọng Tấn nội dung như sau:

"Theo ý kiến của Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương,

1. Việc chỉ đạo Uy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định (kể cả những mệnh lệnh, tuyên bố) giao cho Trung Ương Cục và Quân Uy Miền phụ trách.

2. Hôm nay sẽ ra một lời kêu gọi của Bộ Chỉ Huy Quân Giải Phóng. Chúng tôi đang dự thảo và cho phát.

3. Có thể dùng Dương Văn Minh để kêu gọi các đơn vị của địch hạ vũ khí, nhưng không phải với tư cách Tổng thống mà chỉ với tư cách một người đã sang hàng ngũ nhân dân.

4. Sẽ tuyên truyền lớn về thắng lợi giải phóng Sài Gòn-Gia Định, nhưng nhấn mạnh cuộc chiến đấu đang tiếp tục nhằm hoàn toàn giải phóng miền Nam. Đã chỉ thị chuẩn bị ngày mừng chiến thắng, sau khi hoàn thành việc giải phóng miền Nam sẽ tổ chức thống nhất cả nước. Anh Tố Hữu sẽ có điện cho các Anh.

5. Mười một giờ đã nhận được tin ta cắm cờ trên Dinh Độc Lập.

Gửi các anh lời chúc đại thắng lợi.

Các anh Bộ Chính Trị rất vui, rất vui …

VĂN”

Như vậy thì trước khi xe tăng của Cộng sản Bắc Việt ủi cổng sắt- đã được mở rộng- để vào chiếm Dinh Độc Lập, nơi mà ông "Tổng Thống" Dương Văn Minh cùng với các ông "Phó Tổng Thống" Nguyễn Văn Huyền, "Thủ Tướng" Vũ Văn Mẫu cùng với một số nhân viên trong "nội các" của họ để chờ "bàn giao" cho Cộng sản thì các giới lãnh đạo ở Hà Nội đã quyết định không coi ông như là "tổng thống" mà chỉ là "một người đã sang hàng ngũ nhân dân," tức là một kẻ đầu hàng, "đầu hàng không điều kiện" như đã nói trong văn thư số 505 cùng ngày. Các sĩ quan Cộng sản cấp dưới cũng đã nhận được lệnh này cho nên đối với họ thì những người tự nhận là tổng thống, phó tổng thống, thủ tướng v.v. đang ngồi trong Dinh Độc Lập chỉ là những "phó thường dân," những kẻ đầu hàng mà thôi.

Bởi vậy, vào lúc 12 giờ 15 trưa ngày 30 tháng 4, khi chiến xa mang số 879 của Lữ Đoàn Thiết Giáp 203 cuả quân đội Cộng sản Bắc Việt ủi sập hàng rào sắt tiến thẳng vào Dinh Độc Lập, "Tổng Thống" Dương Văn Minh "thấy vị sĩ quan Cộng Sản đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, vì không biết cấp bậc của Quân đội Nhân Dân miền Bắc nên ông Minh tưởng rằng đang đứng trước một tướng lãnh cao cấp:

"…Thưa Quan Sáu, tôi đã chờ ông từ ban s&aacu
te;ng để trao quyền cho ông."

Viên sĩ quan Bắc Việt chỉ huy đoàn chiến xa này là Thượng Tá Bùi Tùng đã dùng danh từ "mày tao" xẳng giọng hách dịch và đanh đá lên tiếng:

"Mày dám nói trao quyền hả? Mày chỉ là một kẻ cướp quyền và một bù nhìn. Mày làm gì có quyền nào để trao cho tao? Chúng tao lấy được quyền đó bằng khẩu súng này đây.

Ngoài ra tao xác nhận với mày là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị của một đơn vị chiến xa. Kể từ bây giờ tao cấm mày không được ngồi xuống…!"

Người thuật lại những lời đối thoại trên là cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa, một người rất thân cận với ông Dương Văn Minh. Vào năm 1963 ông là Thiếu Tá ngành Thiết giáp, đã theo Tướng Dương Văn Minh đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm và đã được Dương Văn Minh tin cậy cử vào phái đoàn đi vào Chợ Lớn "đón" ông Diệm. Trên đường về Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu đã bị giết trên xe thiết vận xa M-113 và từ đó cho đến nay, có nhiều người vẫn còn có nghi vấn là ông Dương Hiếu Nghĩa có thể là một trong những người có trách nhiệm trong cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chắc chắn rằng ông Dương Hiếu Nghĩa không phải là kẻ thù hay có hiềm khích với ông Dương Văn Minh mà đặt điều viết lai sự đối thoại trên đây nếu chuyện đó không có thật.

Chiều hôm đó, Cộng sản không cho phép Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng tại Dinh Độc Lập tức là Phủ Tổng Thống của VNCH, họ đã áp giải ông đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời kêu gọi như sau:

"Tổng Thống chính quyền Sài Gòn kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn, từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam."

Ngay buổi chiều ngày 30 tháng 4, Đài Phát Thanh Giải Phóng loan báo kể từ nay, thành phố Sài Gòn được cải danh là "Thành Phố Hồ Chí Minh."

 

http://i5.photobucket.com/albums/y195/30thang4/032-Minh_SurrerndersA.jpg

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

Kể từ ngày hôm đó, ngày 30 tháng 4 năm 1975,

Sài Gòn đã mất tên, Sài Gòn không còn nữa.

Kể từ ngày hôm đó,

Quốc gia Việt Nam Cộng Hoà không còn nữa.

Và cũng kể từ ngày hôm đó, tại Miền Nam Việt Nam Tự Do cũng không còn nữa.


Trần Đông Phong

(Trích trong: "VNCH-10 Ngày Cuối Cùng)

GHI CHÚ:

1- Đại Thắng Mùa Xuân, trang 329-331.

2- Văn kiện Đảng: trang 332-333.

3-Dương Hiếu Nghiã: "Hồi Ký Dang Dơ," kể lại theo lời của Trung Tá Nguyễn Văn Binh, cựu Quận Trưởng Gò Vấp, cựu dân biểu, có mặt tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi quân Bắc Việt chiếm Sài Gòn. Xuân Thời Luận, California 2004, trang 141.

 




Nhớ về Người Lính Năm Xưa

Buổi Ra Mắt Sách Đầy Ắp

Tình chiến Hữu

Của Thời Binh Lửa!

Kính thưa Quý Vị Thi Văn Hữu thân hữu của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt.

Chúng tôi xin trân trọng kính mời quý vị vui lòng tời tham dự buổi ra mắt sách viết về người lính VNCH được tổ chức tại
Trung Tâm VIVO vào lúc 1 giờ 30 ngày Thứ Bảy 8 tháng 10 năm 2011 của nhà văn chiến hữu nhảy dù Đoàn Phương Hải.
Anh Đoàn Phương Hải xuất thân khóa 19 Trường VBQG Đà Lạt là cựu Thiếu Tá Nhảy Dù, người đã từng tham dự những trận đánh
lừng danh của binh chủng Nhảy Dù. Anh cũng là người ở tại Charlie khi Đại Tá Nguyễn Đình Bảo hy sinh. Anh hát bài Người Ở Lại Charlie rất có hồn với giọng ca thổn thức.
Xin mời quý vị tới bắt tay người lính VNCH có rất nhiều chiến tích và cũng để biết về cuốn sách về Người Lính VNCH do người lính viết.
Xin hẹn gặp Quý vị tại ViVo chiều Thứ Bảy này.
Cảm ơn và kính chúc Quý Vị Vạn Sự Bình An
ĐA
 
Ðông Anh xin chúc Quí Vi An Vui Hanh Phúc

imageĐại Úy Đoàn Phương Hải và Bộ Chỉ huy Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù tại Kompong Cham ( Kampuchia ) 1970
  Từ trái : Trung Úy Y sĩ Trọng, Đại Úy Nguyễn  Viết Thanh ( tự Thanh Tây lai ), Thiếu Tá Phạm Kim Bằng, Thiếu  Tá Lê Minh Ngọc ( Tiểu đoàn trưởng ), Đại Úy Đoàn Phương Hải

imageTừ trái :Đại Úy Đoàn Phương Hải và Trung Tá Nguyễn Đình Bảo tại căn cứ Charlie ( Pleiku ) 1972

image Đoàn Phương Hải qua nét vẽ của Mõ Lê Văn  Hải ( San Jose ) 2011

image Trung Tá Duffy,  cố vấn liên lạc Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù

———————————————————————————————————————————————

Xem tiếp tục : NHỚ VỀ ….NGƯỜI LÍNH NĂM XƯA .

 

 

Vivian Truonggia
Founder – CEO – Publisher
Viet Tribune Media, Inc.
Viet Tribune Newspaper
Viet Tribune Radio
1590 Oakland Rd., Ste. # B205
San Jose, CA 95131
Phone: (408) 437-9006
Cell:      (408) 401-9534
Fax:      (408) 437-9038
vtruonggia@viettribune.com
www.viettribune.com

www.viettribuneradio.com

 




Quốc Nam :Đại Hội Văn Chương Phụ Nữ Việt Nam Toàn Cầu kỳ III vào tháng 8 năm 2013 tại California.

 

Dear quý Chị/Em,
Tôi xin gởi lời cám ơn một số quý chị em đã email khích lệ một số việc làm của Nhóm Đông Phương Foundation đã & đang đóng góp cho nền Văn Hóa VN. Đặc biệt là quý cô Trúc Giang (Pháp-Đức), Phong Thu, Nguyễn Phương Thúy, Thư Khanh, Chúc Anh.
Vấn đề cần là quý chị em gởi bài vở sớm về Ban Biên Tập Tuyển Tập Văn Chương Phụ Nữ Việt Nam, để Nhóm Bút Tre của Nguyễn Lê Mộng Tuyền từ từ "lay-out" cho quyển sách đặc biệt này. Nếu bài vở dồn lại một lúc thì khó kịp ấn hành vào mùa thu năm nay. Rất mong quý chị em đáp ứng càng sớm càng quý.
Thân chúc quý chị em luôn vui mạnh và vạn sự như ý.
QUỐC NAM

P.S. Xin chuyển đến quý chị em nhạc phẩm "Cuối Năm Thung Lũng Hoa vàng" do thi nhạc sĩ Miên Du Dalat phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của QN tôi.


Cảm ơn anh Quốc Nam, Trúc Giang sẽ cố gắng về dự, cũng là một  dịp họp mặt vui vẻ với anh chị em lâu năm chưa gặp lại. Chúc anh luôn an vui thành công.
 
Thân kính,
Võ thị Trúc Giang Lúa 9

Chúng tôi xin gởi đến Quý Chị Em Tin về Văn Chương Phụ Nữ vừa phổ biến trên 1 website khá lớn của nhật báo Việt Báo xuất bản ở Thủ đô tị nạn Little Saigon (Nam Califoenia), tại Link sau đây:

Nhiều tác gỉa : Những bải thơ, văn, Phân Ưu viết về Giáo Sư, Bình Luận Gia Sơn Điẻn Nguyễn Viết Khánh

 

TIỄN SƠN ĐIỀN NGUYỄN VIÊT KHÁNH

Thôi thế hôm nay người đã đi thật
Chuyến lưu đầy thiên tài đành chấm dứt
Án tử hình người không chết, cười ngất
Cuộc trăm năm ôi những trò bi hài
Chia tay nhau từ Đề Lao Gia Định
Nhớ cái thủa Tùng Khanh báo Thanh Niên
Bạn ta biệt xứ lên trại Gia Trung
Miệng tủm tỉm cười""mình chưa thể chết""
Mười hai năm nơi xứ Mọi mịt mùng
Bạn trở về bỏ nước đi rồi chết
Cuộc đời bọn mình còn lại gì đâu
Ngoài cái chuyện tặc lưỡi,rồi cười ngất
Làm con người cứ sống rồi sẽ biết
Cái quan tâm là tấm lòng , cái chết
Chữ nghĩa văn chương nghìn năm mù mịt
Ta cứ đi và cuối đường sẽ rõ
Tia nắng chiều và ngọn gió ban mai
Anh em bè bạn đồng bào đồng chí
Tình yêu đất nước con người mãi mãi
Như nỗi chết không rời bám riết ta
Bạn đã đi và hôm nay đã tới
Con đường vì chữ nghĩa mãi sáng ngời
Bạn đã vinh danh ngòi bút bất tử
Để văn chương đời đời mãi xanh tươi
Cái chết công bằng với cả chúng ta
Nhưng chữ nghĩa thì lại luôn sống mãi
Tùng Khanh ngàn đời người đọc không quên
Bạn đã đi và hôm nay đã tới

VƯƠNG TÂN

 =====================================================================

RADIO CÁNH ĐỒNG MÂY PHAN ĐÌNH MINH PHÁT THANH VỀ 
GIÁO SƯ BÌNH LUẬN GIA SƠN ĐIỀN NGUYỄN VIẾT KHÁNH VÀ

PHỎNG VẤN CÔ HUỲNH THỤC VY

 

 

 

Vĩnh biệt Nhà Báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

 

Vì sao sáng bỗng đêm nay chợt tắt

Khắp trần gian trời đất cũng âm u

Làng truyền thông đều bàng hoàng thổn thức

San Jose mọi nẻo kín sương mù

 

Sáng Chủ Nhật tiếng chuông reo tha thiết

Báo tin buồn Thày Khánh đã ra đi

Bảy chục năm niềm vui là chữ viết

Chín chục năm hơn, một cõi đi về…

 

Cả cuộc đời Thày miệt mài với báo

Gửi tấm lòng cho thế hệ mai sau

Gặp phải lúc giang sơn mình chao đảo

Đem tài năng nhốt kín ở trong lao

 

Ai dám luận anh hùng trong ngục tối

Mà văn chương không đủ chữ tung hô

Thân trí thức vẫn vững vàng cao ngạo

Càng hiên ngang đối mặt đối quân thù

 

 

Cả đời anh gương sáng ngời dũng khí

Như đôi vầng nhật nguyệt rạng trời mây

Triệu triệu chữ tung hoành trên báo chí

Theo hồn anh đi khắp thế gian này

 

Đông Anh

14/8/12

Vĩnh biệt Nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

Vào năm 2008 cơ sở Văn Thơ Lạc Việt mời được giáo sư Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh làm giám khảo cho giải Văn Thơ Lac Việt 2008 mà thi sĩ Hà Thượng Nhân là chánh chủ khảo. Ông nhận lời nhưng nói thêm là Tôi bận lắm, không chắc đã hoàn thành tốt đẹp. Tôi có thưa lại rằng xin Thày nhận lời cho. Biết thày bận nhiều công việc nhưng xin dành cho Lạc Việt ít thời gian là quý rồi. Sau khi đọc các bài thi, ông đưa ra những nhận xét hết sức sắc bén làm nền tảng cho ban giám khảo đi theo.

Trong lúc trà dư tửu hậu, ông thường nói chuyện về thời làm báo, về phóng viên chiến trường mà ông đảm nhiệm khi mới vào nghề. Tất cả những câu chuyện kể, ông thường đưa những lời khuyên rất quý giá. Ông kể cho chúng tôi chuyện du học ở Nhật, chuyện làm báo ở xứ Phù Tang, chuyện theo đoàn quân viễn chinh Pháp hành quân ở đồng bằng Bắc Việt.

Lúc khác ông lại nói chuyện về cái tên Sơn Điền mang nhiều tính chất Phù Tang. Ông nói ruộng ở trên núi thì làm sao mà mầu mỡ được nên mình cứ nghèo. Tuy nhiên, ông thêm, ruộng trên núi nên đón bình minh sớm nhất và tiễn ánh hoàng hôn trễ hơn. Núi cao hơn biển, cao hơn đồng bằng, hít thở không khí trong lành thoáng đãng nên mình cũng cảm thấy cao hơn.

Năm nay thi sĩ Hà Thượng Nhân qua đời, nên giải Văn Thơ Lạc Việt 2011-2012 ông làm Chánh Chủ Khảo. Năm 2011 khi đọc bài thi gửi đến, ông đã khen những bài văn rất khá. Đến ngày phát giải tháng 7 năm 2012 vừa qua, ông không tham dự được. Dù sức khỏe rất kém ông cũng cố gắng đến để nói mấy lời. Ông xuất hiện tại nhà hàng Phú Lâm cùng với người con dìu đến. Nhà thơ Chinh Nguyên mời ông lên máy vi âm, nhưng ông không lên được. Micro được mang xuống tại bàn, chỗ ông ngồi. Chinh Nguyên cầm máy vi âm để ông nói. Ông chào mừng mọi người, mừng cho những người trúng giải, mừng cho Văn Thơ Lạc Việt 20 năm. Tiếng nói đứt quãng, có vẻ rất mệt nên ông ra về ngay sau đó. Những lời nói ấy là lời cuối cùng của ông cho văn thơ Lạc Việt.

Trước đây ông thường cùng nhà thơ Chinh Nguyên làm talk show nói trên đài phát thanh, đài truyền hình. Ông nói về lịch sử báo chí Việt Nam, về Việt Nam Thông Tấn Xã mà ông là Tổng Thư Ký, về diễn biến lịch sử trong những năm làm báo, về đạo đức của người làm báo. Năm 2012 chúng tôi định tổ chức một buổi nói chuyện trước cử tọa chọn lọc dành cho ông, để mọi người biết được chuyện xưa và kinh nghiệm cho chuyện nay. Nhưng không kịp nữa. Từ đầu năm sức khỏe của ông suy giảm, khi nhớ khi quên. Dù vậy ông vẩn cố gắng viết bình luận thời cuộc hàng tuần. Ông chỉ ngừng viết vào đầu tháng 7 năm nay. Khi chúng tôi đến thăm ông tại tư gia, có người khuyên ông ngưng viết, ông nói rằng ngừng viết thì ông sẽ chết mất thôi. Ông vẩn tiếp tục viết cho đến khi không còn nhận ra bàn phím nữa mới thôi!

Ông sinh tại Bắc Giang năm 1921. Đến năm 27 tuổi bước  chân vào nghề làm báo và giữ nghề này suốt 64 năm dài ngay cả khi trong trại cải tạo ông cũng vẫn truyền đạt nghề làm báo cho mọi người. Con người rất khí phách. Ông hiên ngang cao ngạo với kẻ thù. Nhưng lại rất bình dị với mọi người, thương yêu và giúp đỡ anh em.

 Ngày Chủ Nhật 12 tháng 8 vừa qua ông từ giã cõi đời tại nhà ái nữ. Sự nghiệp cao vời vợi của ông để lại cho đời. Sách ông in, sách ông dịch, người ta đọc rất nhiều, rất trân quý nhưng lại không biết của ai. Ông thích như vậy.

Với niềm thương nhớ vô biên và lòng kính trọng, xin ghi lại đôi dòng để cầu nguyện cho ông sớm về chốn bình yên và vinh hiển trên cõi niết bàn.

Cả đời anh gương sáng ngời dũng khí

Như đôi vầng nhật nguyệt rạng trời mây

Triệu triệu chữ tung hoành trên báo chí

Theo hồn anh đi khắp thế gian này

Kính bái

 

Đông Anh

14 tháng 8 năm 2012

 

 

Điếu Văn : THÀY NHƯ CHA.


Thày theo nghĩa quê tôi : Thày cũng như cha, do đó tôi may mắn có hai người thày. Một người thày sinh ra tôi cho tôi su hướng về chính trị dân tộc : “Chính kiến chính trị về quốc gia có thể thay đổi, nhưng tình tự dân tộc không hề, và không thể thay đổi để phản bội nòi giống”, và một người thày cho tôi tư tưởng phóng khoáng tự do ngôn luận: “Dư luận là quan tòa phán xét, tuy nhiên có đúng và có sai. Người làm báo phải đứng giữa dư luận để được tư do nhìn, nghe, suy nghĩ và trung thực để viết với ngòi bút không thể bẻ cong. Thày nói con nghe "Không thể bẻ cong ngòi bút của con…!"”. 
Tôi muốn nhắc tới Thày Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh coi tôi như con trong nhà, do đó vài buổi họp riêng gia đình vợ chồng tôi đều được thày cho góp mặt, và Thày thường nhắc tôi với những người con của thày : Chinh Nguyên là con nuôi của bố. 
 Cái duyên để tôi được học Thày khi tập tễnh vào ngành báo chí, cái tình được thày nhận là con nuôi, để rồi trong những năm dài chiến tranh tôi và thày ít khi gặp nhau, mổi lần về Sài Gòn là tôi chạy vội tới Thày để có vài phút kính thăm và nghe lời Thày dạy, rồi hấp tấp ba lô về lại miền Cao Nguyên có nắng bụi mưa rừng và nghe đạn pháo xa vọng về nhịp đêm trong ánh hỏa châu. 

       Đời lính và tỵ nạn làm thày trò xa cách nhau với nỗi nhớ và kính trọng trong tôi, nên những lời Thày dạy tôi không quên :

      Nếu có dịp may con ra làm báo, con phải nhớ ba điều :

1/ Đạo đức trong cách viết dù hoàn cảnh nào.
2/ Tôn trọng độc giả.
3/  Không bao giờ, con nhớ nhé ! Không bao giờ viết theo cảm tính nên tin tức phải trung thực 
      và không có phê bình. Con viết để  độc gỉa đọc và tự suy sét .

Tôi ôm lời dậy dỗ, kinh nghiệm của hai người thày trong đời sống như đi giữa hai con đường sắt tư tưởng chính trị, ngôn luận đạo đức song song hầu giữ tôi vui vẻ, hoà đồng và ngay thẳng để bước tới.

Tôi gặp lại Thày tại San Jose và từ đó tôi là tài xế của Thày trong bất cứ thời gian nào, và đi bất cứ nơi đâu thày muốn. Mỗi lần thày trò ngồi bên nhau tôi ít nghe thày nói về tin tức báo chí, nhưng tôi được nghe những lời kinh nghiệm về cuộc sống của thày, Thày thường nhắc tới khoa học big bang của vũ trụ, thường nói về tôn giáo và tư tưởng Tam Giáo Đồng Quy,  luôn nhắc tới nơi chốn cội nguồn giống nòi Việt, và cuối cùng là tình yêu thương gia đình thày ví như một quốc gia thu hẹp.

Tôi thiên về hoạt động văn chương nơi hải ngoại nên mời thày làm cố vấn cho Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, thày nhận lời và đã cùng với cố Thi Sĩ Hà Thượng Nhân giúp Văn Thơ Lạc Việt trong những hoạt động văn hoá nghệ thuật, và chính trị trong sự đoàn kết anh em.
  
Sau tháng 3, 1975 Thày bị đọa đầy trong trại tù Cộng Sản hơn mười năm, và sau ngày tỵ nặm tại hải ngoại, Thày viết thật nhiều trong mục Bình Luận Trước Thời Cuộc gởi các báo tại Hài Ngoại và Radio truyền thông, Tôi đã xin thày gom lại để làm thành sách, thày đã đưa cho tôi cả trăm truyện ngắn thày đã viết nhưng không đăng báo. Tôi đã cùng thày trọn lựa thành tuyển tập “ Những Mùa Xuân Trở Lại”, rồi tiếp theo là một tựa để rất lạ “Khí Công Tâm Pháp”, một cuốn sách tôi chưa bao giờ nghe thày nhắc tới, nhưng trong khi làm việc chung với Thày để hoàn thành cuốn “Khí Công Tâm Pháp” Thày đã nói :

– Nhờ “Khí Công Tâm Pháp” này mà Thày đã sống sót trong xà lim biệt giam của Cộng Sản. Thày đã nằm bên cạnh người chết bị cùm chân để sống còn !

Hai cuốn sách “Những Mùa Xuân Trở Lại” và “Khí Công Tâm Pháp” đều thành công khi phát hành và lưu lại trong lòng người đọc .  

 Ngày July 15, 2012 có buổi tiệc mừng 20 năm thành lập và phát giải Văn Thơ Lạc Việt tại Nhà Hàng Phú Lâm, San Jose tôi đã không thưa với thày về việc này vì thày bệnh (Ung thư xương tới trưởng hợp ba) không thể ngồi được lâu, nhưng sau khi thày đọc báo và biết chương trình của Văn Thơ Lạc Việt, thày đã nhất định đi dự, lời thày nói :

   Thày nhất định đi dự tiệc của Văn Thơ Lạc Việt, vì con là con của thày. Thày bỏ con không
     được !

Anh Nguyễn Viết Tùng con ruột thày và tôi đã bàn nhau về tình trạng của Thày để đưa Thày tới đúng giờ hầu làm thày vửa lòng. Tôi trông dáng dấp thày yếu đuối, còm cõi nương vào anh Tùng bước vào cửa nhà hàng trong khi quan khách vui vẻ như ngày hội lớn, tôi sực nhớ tới bài thơ “Hổ Nhớ Rừng” của Thế Lữ  làm lòng tôi quặn đau và ứa lệ thương kính người thày đã vì đứa học trò con nuôi mà hy sinh.

Tôi đã cắt lời phát biểu của tôi đễ nhường lời cho thày, thày đã nói rất nhiều về sự cố gắng phát triển về văn học và đứng vững trong môi trường khó khăn tại hải ngoại của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, Thày cũng không quên lời yêu thương nhắn nhủ đối với tôi.

Tôi không ngờ những lời nói đó đã là lời nói cuối cùng của thày trước thân hữu, thành viên của Văn Thơ Lạc Việt trong sự xúc động của thày và tôi tại buội tiệc mừng 20 năm thành lập Văn Thơ Lạc Việt.

Ngày Aug. 12, 2012 thày đã ra đi vào thế giới bình yên không hận thù.

Bây giờ hai người Thày cũng đã lần lượt bỏ tôi ra đi an nghỉ cùng một nơi Oak Hill Memorial Park, 300 Curtner Ave. San Jose 95125, và tôi cũng sẽ có những dịp vào thăm, thắp nhang thì thầm với hai Thày mỗi cuối tuần. Thày cũng như Cha…!

Thày đi nước khóc sầu cau mặt.
Núi lặng buồn thương trắng lệ bay…!
Con ngẩn ngơ lòng ôm kỷ niệm
Ngàn thu sắc úa vọng chiều nay…
 

Con xin kính Thày. 

Xin vĩnh biệt thày.

Chinh Nguyên.

Aug, 12, 2012.

Tưởng nhớ và phân ưu về sự ra đi của Gs Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh.

 

Sau 5 năm ở Quân khu 2, tôi được đổi về Sài gòn và tiếp tục việc học dang dở thời sinh viên. Tôi chọn học khóa lớp chiều ở Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Hết năm thứ hai, tôi chọn phân khoa Văn Học ban Báo Chí, mà một trong những giáo sư của Ban Báo Chí là Gs Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh và Gs cựu Đại tá Nguyễn Đình Tuyến thuộc bộ Quốc Phòng.

Sau 1975, tù đày và năm 1980 thoát ra được nước ngoài, sống lưu vong hơn 30 năm nay, tôi chưa một lần gặp lại hai vị thầy cũ của mình… Và hôm nay bất ngờ hay tin Gs Nguyễn Viết Khánh qua đời, tôi bỗng nhớ lại những giờ học năm xưa và ngậm ngùi thương nhớ ông.

Tôi viết những dòng này để tưởng nhớ vị thầy cũ, Gs Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh và nguyện cầu hương hồn Thầy bình an nơi cõi vĩnh hằng.

Chân thành chia buồn cùng gia đình Thầy.

Hải Triều

Nhóm Nhà văn Quân Đội & Nguyệt San Việt Nam

Một người học trò cũ

(604 879 1179)

 

 

http://www.nsvietnam.com/

http://www.nsvietnam.com/online/online.html

From: SOV <sov332@gmail.com>
To: 
sov332@gmail.com 
Sent: Tuesday, August 14, 2012 10:58 AM
Subject: E4. Phân Ưu – Người thầy đã vĩnh viễn ra đi

Elite. 1000 members  Freedom  Democracy  Human Rights                             Hải Ngoại

Phân Ưu

Vô cùng xúc động khi hay tin

 

Giáo sư Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

đã từ trần vào ngày 12-8-2012

tại tư gia

hưởng thọ 92 tuổi 

 

Tổ Chức Quốc Tế Phát Triển Việt Nam và Mạng Lưới Elite xin chia buồn cùng Hội Ái Hữu Đại Học Vạn Hạnh và tang quyến. Nguyện cầu hương hồn người quá cố sớm tiêu diêu miền cực lạc.

 

Trong 12 năm tù cải tạo của Giáo sư, Hội Ân Xá Quốc Tế Hòa Lan đã không ngừng viết thư gởi đến chính quyền cộng sản Việt Nam để xin phóng thích. Chúng tôi cũng đã viết thư trực tiếp cho Liên Hiệp Âu Châu và các nước Âu Châu, đặc biệt là chính quyền Hòa Lan xin can thiệp cho ông. Và các đoàn thể khác từ khắp năm châu cũng đã viết thư với chính quyền sở tại để xin can thiệp cho ông. Cuối cùng Giáo sư đã được nhà cầm quyền Việt Nam phóng thích và ông đã qua Mỹ năm 1992. 

 

Trân trọng,

 

Tổ Chức Quốc Tế Phát Triển Việt Nam

Mạng Lưới Elite

Ngô Văn Tuấn

Cáo Phó Cụ Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

(08/14/2012) (Xem: 752)


 

·  Ðỗ Dzũng/Người Việt

 

 Nhà báo kỳ cựu Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh của làng báo Việt Nam Cộng Hòa vừa qua đời vào lúc 8 giờ 15 phút sáng Chủ Nhật, 12 Tháng Tám, tại nhà riêng ở San Jose, California , thọ 91 tuổi, ông Nguyễn Viết Dũng, trưởng nam của người quá cố, cho nhật báo Người Việt biết.

Ông Dũng nói: “Sau một thời gian bị bệnh, ông cụ qua đời lúc 8 giờ 15 phút tại nhà. Ðến 3 giờ chiều, chúng tôi đã chuyển thi hài cụ vào nhà quàn Oak Hill Funeral Home ở San Jose. Chúng tôi sẽ gởi ra cáo phó trong những ngày tới để mọi người biết chương trình tang lễ.”

Theo ông Dũng cho biết, nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh sinh ngày 2 Tháng Mười, 1921 tại Bắc Giang.

Nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh là một “cây đại thụ” trong làng báo tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cũng như sau này tại hải ngoại.

“Ông là một nhà báo lỗi lạc và yêu nghề,” nhà báo Phan Thanh Tâm, hiện cư ngụ tại Saint Paul, Minnesota, nói với nhật báo Người Việt. Nhà báo này từng làm việc trong 10 năm với nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh tại Sài Gòn và thường xuyên liên lạc với ông khi ra hải ngoại.

Nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh bắt đầu viết báo từ năm 1948.

Sau khi di cư vào Nam, đến năm 1965, ông làm tổng thư ký Việt Nam Thông Tấn Xã.

Theo nhà báo Phan Thanh Tâm, nhà báo Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nhật. Ngoài công việc ở Việt Tấn Xã, ông còn chuyên viết về khoa học không gian và vũ trụ, bình luận và phân tích thời cuộc cho một số nhật báo lớn ở Sài Gòn với bút hiệu Việt Lang Quân. Ông cũng dịch thuật tiểu thuyết kiếm hiệp Kim Dung, Nghệ Khuông, và Gia Cát Thanh Vân từ nguyên bản chữ Hán, và từng sang Nhật tu nghiệp và thực tập báo chí tại hãng thông tấn Kyodo, hãng thông tấn Jiji, và nhật báo Mainichi.

Từ năm 1968, ông dạy báo chí tại Ðại Học Vạn Hạnh ở Sài Gòn và Ðại Học Chính Trị Kinh Doanh ở Ðà Lạt.

Nhiều nhà báo hiện đang làm việc tại các cơ quan truyền thông Việt Ngữ ở hải ngoại từng là học trò hoặc từng làm việc dưới quyền ông.

Sau năm 1975, Giáo Sư Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khách bị đi tù “cải tạo” 12 năm.

Năm 1992, ông sang định cư tại San Jose, California, và viết bình luận cho nhiều cơ quan truyền thông Việt Ngữ trong vùng ở San Jose, cũng như nhật báo Việt Báo và đài phát thanh Radio Bolsa ở Westminster, Orange County, và viết một số sách, ví dụ như tuyển tập “Những Mùa Xuân Trở Lại,” xuất bản năm 2008.

 

 

 

Nhà báo, giáo sư Sơn Điền
Nguyễn Viết Khánh đã qua đời
.

” o:title=”PDF”>

” o:title=”Print”>

” o:title=”E-mail”>

 

 

 

Sunday, 12 August 2012 16:56

Cali Today News

Hình chụp mới nhất trong một buổi họp mặt với các cựu Sinh Viên ngày 26 tháng 4 năm 2012 
Từ phải qua trái : Giáo Sư Nguyễn Văn Canh, Giáo Sư Nguyễn Viết Khánh và một cựu sinh viên

Tháng 2 năm 1992, Giáo Sư đã định cư tại San Jose, Hoa Kỳ, và thường xuyên viết các mục bình luận cho báo chí cũng như truyền thanh. Rất đông thính/độc giả khắp nơi mến mộ và tâm đắc với những bài phân tích thời cuộc của giáo sư. Điều đặc biệt hơn nữa là tuy đã trên 90 tuổi, nhưng sức làm việc và sự sáng suốt trong phân tích và bình luận thời cuộc đã làm cho nhiều người khâm phục.

Dù đã trên đã trên 90 tuổi nhưng giáo sư vẫn sống độc lập trong 1 căn chung cư (appartment) xinh xắn, gần khu Lion Plaza, một nơi thương mại sầm uất của người Việt tại San Jose.

Sau đó về nhà tiếp tục đọc sách báo, xem TV để có các dữ kiện viết những bài bình luận nhận định thời cuộc cho các báo chí và các đài phát thanh Việt Ngữ khắp nơi.

Tuy tuổi đời, tay nghề và vị trí trong làng báo là bậc thầy của hầu hết các ký giả hiện nay, nhưng giáo sư Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh vẫn rất bình dị với mọi người, tôn trong từng người và biết lắng nghe… 

Chính tính cách này đã khiến “thầy” (như chúng tôi – dù có học với thầy hay không – hay gọi) trở thành đáng qúy trong đời…

Mất thầy là một mất mát lớn quá,….

 

PHÂN ƯU
 
Nhận được tin buồn:
 
Nhà báo Sơn Điền
NGUYỄN VIẾT KHÁNH
Cựu TTK Việt-Nam Thông-Tấn-Xã
Bào huynh của nhà văn NGUYỄN VIẾT KIM
tự Người Khăn Trắng
Đã thất lộc ngày 12 tháng 8 năm 2012
(Nhằm ngày 25 tháng 6 (thiếu) năm Nhâm Thìn)
tại San Jose, California, Hoa Kỳ
Hưởng thượng thọ 92 tuổi.
 
Xin chân thành chia buồn cùng
Văn hữu NGUYỄN VIẾT KIM và Tang quyến.
 
Cầu nguyện Chư Phật tiếp độ hương linh
Cụ Sơn Điền NGUYỄN VIẾT KHÁNH
được vãng sanh về miền Tây Phương Cực Lạc.
 
ĐỒNG THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
 
VĨNH LIÊM
NGUYỄN THỊ THÀNH
PHẠM LUẬN

 




Lời Mời Tham Dự Lễ Phát Giải Văn Thơ Lạc Việt Năm 2013.

Lời Mời Tham Dự Lễ Phát Giải Văn Thơ Lạc Việt Năm 2013.



Trân Trọng Kính Mời Quý Khán Thính Giả Đài ……………..
Tham Dự Lễ Phát Giải Văn Thơ Lạc Việt Năm 2013
Được trang trọng tổ chức vào lúc: 1 giờ 30 chiều Chủ Nhật Ngày 10 Tháng 11 Năm 2013
Tại Hội Trường Trung Học Yerba Buena
1855 Lucretia Ave, San Jose Ca 95122.

Tiệc tất niên của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt

Xin Cám ơn nhà thơ Mạc Phương Đình đã lưu giữ cho Văn Thơ Lạc Việt những hình ảnh đẹp.

Chiều hôm qua, chủ nhật 02/15/2015 hồi 5PM, tại Hội trường Câu Lạc Bộ Mây Bốn Phương trên đường số 2, thành phố San Jose, bắc California, Cơ Sở Thơ Văn Lạc Việt đã phối hợp cùng Tuần báo Thằng Mỏ tổ chức Một Tiệc Vui tất niên với sự tham dự của trên Một trăm quan khách cùng thân hữu, Văn nghệ sĩ.

Buổi tiệc rất đông vui với hàng chục món ăn, bia rượu thật dồi dào và chương trình Văn nghệ cũng thật phong phú, kéo dài đến hơn mười giờ đêm.Buổi tệc Tất Niên còn đúng vào dịp sinh nhật của Cô Tina Phạm một thành viên trong cơ sở Thơ Văn Lạc Việt nên càng thêm vui với những lời chúc mừng từ quan khách và thân hữu thật ấm áp, đậm đà thâm tình.

Sau đây là một vài hình ảnh chúng tôi ghi nhận được, kính mời Quí Vị, Các Bạn cùng chia xẻ

Preview YouTube video Hai Bé Thiên Nhi và Vân Nghi đọc thơ và hát

Preview YouTube video Tiếng hát Trung Kiên với Đêm trên vùng đất lạ

Preview YouTube video Tặng quà cho Quí Ông trên 80 tuổi

Preview YouTube video Văn Khoa với Khánh Ngân trong ca khúc Xuân

Preview YouTube video Màn vũ mùa xuân của Vũ Đoàn Hoa Tiên

Preview YouTube video Giọng ca Bé Victory với nhạc phẩm chào đón mùa Xuân

Preview YouTube video Một nhạc phẩm Xuân với giọng ca Thiên Thanh