Nhớ người từ chốn nghìn trùng Nhớ người tan nát tận cùng thịt da Nhớ hoang sơ, nhớ thật thà Nhớ yêu dấu rất mặn mà tháng năm Nhớ thương dáng đứng, ngồi, nằm Nhẹ như gió thoảng, thì thầm trăng sao Nhớ trong giấc ngủ, chiêm bao Nhớ trong tiếng hát gọi chào bình minh Nhớ từ thuở rất điêu linh Nhớ đời những lúc gập ghềnh, gian nan Tay trong tay vẫn dịu dàng Ta chưa một phút bẽ bàng cho nhau Nhớ người, nhớ trước, nhớ sau Nhớ trăm năm đã đi vào trăm năm
NK-TNC
Sách giáo khoa VN “cóp” sai chuyện ngụ ngôn La Fontaine
Sách lớp 1 có bài Ve và gà, nói là của Minh Hòa kể lại từ ngụ ngôn của cụ Jean de La Fontaine. Với nội dung tối nghĩa vô cùng và có thể suy diễn bậy bạ ( coi hình)
Mình bèn lên tra lại toàn bộ các bài thơ ngụ ngôn của cụ, coi cụ có viết vậy hay không. Kết quả tìm được bài Ve và kiến. Trong toàn tập thơ của cụ mà mình có thì không có bài Ve và gà nào hết. Vậy có phải khịa hay không nhờ các cao nhân chỉ rõ, theo chủ quan của mình tới nay là bài này khịa.
Và nguyên văn cụ viết bằng tiếng Pháp rất hay. Mình đọc hiểu được mà không thể dịch cho hay được, nên xin để bản dịch của cụ Nguyễn Văn Vĩnh đăng trên Đông Dương tạp chí số 40 (năm 1914). Đọc bản dịch này các bạn sẽ thấy khác xa với bài đăng trên sách lớp 1 thế nào.
“Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị Kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Dăm ba hạt qua ngày
Từ nay sang tháng hạ
Em lại xin đem trả
Trước thu, thề đất trời!
Xin đủ cả vốn lời
Tính Kiến ghét vay cậy
Thói ấy chẳng hề chi
Nắng ráo chú làm gì?
Kiến hỏi Ve như vậy
Ve rằng: Luôn đêm ngày
Tôi hát, thiệt gì bác!
Kiến rằng: Xưa chú hát
Nay thử múa coi đây”
Và mình xin trích một bản dịch từ truyện ngụ ngôn Aesop là nguyên bản xa xưa nhất của truyện Ve và kiến này cho các bạn hiểu hơn. Vì cụ La Fontaine chú rõ trong sách là viết dựa theo truyện của Aesop và Phrygian
“Vào một ngày mùa đông đẹp trời, vài con kiến đương bận với việc sấy khô ngô đã bị ướt sau một trận mưa dài. Lúc đó, một con ve từ đâu bay tới xin lũ kiến cho ít hạt ngô “vì” nó nói “tôi sắp chết đói đây”. Lũ kiến ngừng làm việc một lúc mặc dù trái với qui định của chúng. “Chúng tôi có thể hỏi” chúng nói “anh đã làm gì trong suốt cả hè qua? Tại sao anh không đi tìm thức ăn để dự trữ cho mùa đông?” “Sự thực là” ve trả lời “tôi quá bận với việc hát ca nên không còn thời gian nữa” “Nếu anh dành mùa hè để hát” lũ kiến trả lời “thì không gì tốt hơn là hãy dành mùa đông để nhảy”. Nói xong, chúng mỉm cười và lại tiếp tục công việc của mình.
(Người dịch: Thu Anh, Ngọc Bích) Ngụ ngôn Ê-Dốp/ NXB Văn hoá thông tin, 2005.
Truyện ngụ ngôn nguyên gốc hay như vậy, có tính giáo dục như vậy thì bị đổi nội dung hoàn toàn trong sgk. Còn tên của truyện là Ve và kiến thì bị đổi thành Ve và gà trong sgk. Nhân vật cũng đổi luôn.
Hơn nữa ve và kiến có thể chơi với nhau trong tự nhiên, chứ gà thấy con ve có thể mổ luôn chứ nó ngán gì.
Mong các người làm sgk ngồi yên đừng làm gì, để bà con tự vô lấy truyện của cụ La Fontaine hay cụ Aesop ra dạy con cháu, còn hơn là dạy mà xuyên tạc và phá hoại.
Một nhà văn, nhà giáo đáng kính của thế hệ chúng tôi, đã qua đời lúc 11 giờ 26 phút trưa ngày 14 Tháng Chín, 2020, (tức 27 Tháng Bảy, Canh Tý), tại thành phố Irvine, Nam California, hưởng thọ 84 tuổi, theo tin loan báo từ gia đình.
Nhà văn Nhật Tiến qua đời chỉ ít ngày “sau sự ra đi của hiền thê là nữ văn sĩ, dịch giả Đỗ Phương Khanh vào ngày 26 Tháng Tám vừa qua”, gia đình cho hay.
Trước 1975, ông là Giáo sư Cố vấn cho Thi Văn Đoàn Trầm Tích ở Sài Gòn (do tôi làm Thi Văn Đoàn trưởng), và từng ký tặng tất cả các tác phẩm của ông và tuần báo Thiếu Nhi do ông làm Chủ bút, cho thư viện của Trường Trung học Văn Đức, và tôi đã có vinh dự đến tòa soạn báo Thiếu Nhi để nhận và đưa về trường.
Cũng chính từ cuộc gặp gỡ này, ông nhận lời làm Cố Vấn.
Năm 1979, khi ông và gia đình gặp nạn Hải tặc trong vùng Vịnh Thái Lan (qua vụ án đảo Kokra), với tư cách chủ bút tuần báo Chuông Sài Gòn, chúng tôi đã vận động độc giả và chính quyền Úc cùng yểm trợ tài chánh để ông và các nhân chứng ra tòa chống lại bọn hải tặc.
Các bức thư trao đổi giữa tòa soạn và ông, chúng tôi vẫn còn cất giữ. Bởi đó là những chứng tích lịch sử về một thời oan trái đầy đau khổ, của những thuyền nhân bất hạnh trên đường vượt biển tìm tự do.
Bây giờ ông đã “đoàn tụ” với vợ trên thiên đường.
Đoạn đường Núi Sọ đầy chông gai, ông và bà đã đi qua.
Nguyện chúc Ông Bà an vui nơi miền cực lạc.
*Nguyễn Vy Túy
Dưới đây là tiểu sử nhà văn Nhật Tiến theo công bố của gia đình.
“Nhà văn Nhật Tiến tên đầy đủ là Bùi Nhật Tiến, sinh ngày 24 Tháng Tám, năm 1936, tại Hà Nội – là tên tuổi lớn trên văn đàn Việt Nam. Ông là tác giả tiếp nối của dòng văn học Tự Lực Văn Đoàn; và, bằng chính đời sống và sáng tác của mình, ông mở rộng những chủ đề và cả phong cách sáng tác theo dòng lịch sử đất nước. Có thể nói, lịch sử đặt ông vào những biến cố lớn của đất nước, để từ đó, thông qua ngòi bút của mình, ông trở thành tiếng nói của thời đại mà chính ông và gia đình là những nhân chứng sống. Năm 1954 ông di cư vào Nam, sống tại Đà Lạt, rồi Sài Gòn. Vượt biển vào Tháng Mười, 1979, và tỵ nạn tại Songkhla (Thái Lan) chín tháng. Ông và gia đình định cư tại California (Hoa Kỳ) từ năm 1980”.
“Về sự nghiệp văn chương, ông đoạt Giải Nhất Giải Văn Chương Toàn Quốc năm 1960-1961, với tác phẩm Thềm Hoang. Trước đó, năm 1952, truyện ngắn của ông lần đầu xuất hiện tại Hà Nội trên nhật báo Giang Sơn và những vở kịch trên tuần báo Cải Tạo năm 1953-1954. Tại Đà Lạt, năm 1954-1955, ông tiếp tục viết kịch truyền thanh cho đài radio tiếng nói của Ngự Lâm Quân. Từ năm 1958, tại Sài Gòn, 1958, ông tham gia Giai Phẩm Văn Hóa Ngày Nay do nhà văn Nhất Linh chủ biên”.
Trước năm 1975, tại Việt Nam, ông từng viết cho: Giang Sơn, Cải Tạo, Thời Tập, Chánh Đạo, Bách Khoa, Văn, Tân Phong, Văn Học, Đông Phương. Tại hải ngoại, từ năm 1980 đến nay, ông được mời xuất hiện trên nhiều tờ báo và trang web. Riêng tại California, ông đã từ viết cho: Người Việt, Sài Gòn, Văn Nghệ, Hợp Lưu, Văn Học, Việt Tide, Vietstream, Khai Phóng, Chấn Hưng, Việt Nam Hải Ngoại. Ngoài ra, ông còn có tác phẩm trên Đất Mới (ở Seattle), Ngày Nay (ở Kansas City), Xác Định (ở Virginia). Xa hơn, bên ngoài Hoa Kỳ, ông có bài trên Chuông Saigon, Việt Luận, Chiêu Dương phát hành tại Úc châu, Lửa Việt tại Canada, Độc Lập tại Tây Đức), và Đường Mới, Quê Mẹ tại Pháp.
Tác phẩm của ông bao gồm nhiều thể loại: Truyện dài, truyện ngắn, truyện thiếu nhi, kịch-tiểu thuyết kịch. Đặc biệt, những năm sau này ông làm công việc khảo cứu gần như là văn học sử qua các tác phẩm Ghi Chép và Tiểu Luận. Ngoài viết văn, ông còn là nhà giáo. Ông dạy học, và tham gia các hoạt động văn hóa, giáo dục và xã hội khác. Ông là người viết thỉnh nguyện thư và sau trở thành thành viên của Ủy Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển (Boat People S.O.S. Committee), từ năm1980 đến 1990.
Các tác phẩm của nhà văn Nhật Tiến đã phát hành.
Truyện dài:
-Những Người Áo Trắng (1959)
-Những Vì Sao Lạc (1960)
-Thềm Hoang (1961)
-Mây Hoàng Hôn (1962)
-Chuyện Bé Phượng (1964)
-Vách Đá Cheo Leo (1965)
-Chim Hót Trong Lồng (1966)
-Tay Ngọc (1968)
-Giấc Ngủ Chập Chờn (1969)
-Quê Nhà Yêu Dấu (1970)
-Mồ Hôi Của Đá (1988)
Truyện ngắn: Đã viết hơn 100 tác phẩm, một số được giới thiệu trong các tuyển tập…
-Những Bước Tiên Của Tôi (1951, tuyển tập truyện và thơ chép tay đã thất truyền)
-Ánh Sáng Công Viên (1963)
-Giọt Lệ Đen (1968)
-Tặng Phẩm Của Dòng Sông (1972)
-Tiếng Kèn (1982)
-Một Thời Đang Qua (1985)
-Cánh Cửa (1990)
-Quê Nhà – Quê Người (1994, in chung với nhà văn Nhật Tuấn)
-Mưa Xuân (2013)
Truyện thiếu nhi:
-Lá Chúc Thư (truyện dài, 1969)
-Theo Gió Ngàn Bay (truyện vừa, 1970)
-Quà Giáng Sinh (truyện vừa, 1970)
-Đóa Hồng Gai (truyện vừa, 1970)
-Kể chuyện Tấm Cám (truyện ngắn, 1970)
-Ngày Tháng Êm Đềm (truyện vừa, 1972)
-Đường Lê Núi Thiên Mã (truyện dài, 1972)
-Thuở Mơ Làm Văn Sĩ (hồi ký, 1973)
Kịch & tiểu thuyết kịch:
-Người Kéo Màn (tiểu thuyết kịch, 1962)
-Hạ Sơn (kịch lửa trại, 1973)
-Công Lý Xã Hội Chủ Nghĩa (kịch một màn, 1988)
-Một Buổi Diễn Kịch (truyện ngắn kịch, 1990)
-Một Khoảnh Đời Thường (kịch một màn, 2013)
-Ông Giáo Hồi Hưu (kịch một màn, 2013)
Ghi chép-Tiểu luận:
-Hải Tặc Trong Vịnh Thái Lan (1981, viết chung với Dương Phục và Vũ Thanh Thủy)
-Thuyền Nhân – Vài Trang Bi Sử (2008)
-Hành Trình Chữ Nghĩa (2012)
-Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác (2012)
-Sự Thật Không Thể Bị Chôn Vùi (2012)
-Một Thời… Như Thế (2012)
-Từ Hội Bút Việt Đến Trung Tâm Văn Bút Việt Nam (2016)
Nhà văn gốc Việt đầu tiên vào ủy ban chấm giải Pulitzer
11/09/2020
Thông báo của Hội đồng Pulitzer xác nhận không chỉ là người gốc Việt đầu tiên, giáo sư Nguyễn Thanh Việt còn là người Mỹ gốc Á duy nhất từ trước đến nay tham gia chấm giải thưởng danh giá của Mỹ.
Giáo sư Nguyễn Thanh Việt – Ảnh chụp màn hình vietnguyen.info
“Đây là một vinh dự khi được chọn vào hội đồng chấm giải Pulitzer. Là một người may mắn từng nhận giải, tôi hiểu tầm ảnh hưởng của giải thưởng tới sự nghiệp của người cầm bút và nhận thức của độc giả ra sao. Tôi rất vui được tham gia vào công việc quan trọng của hội đồng”, giáo sư Nguyễn Thanh Việt chia sẻ trên Twitter cá nhân ngày 9-9.
Nguyễn Thanh Việt hay Viet Thanh Nguyen là tác giả của tiểu thuyết được viết bằng tiếng Anh tên The Sympathizer (tạm dịch: Cảm tình viên) xuất bản năm 2015. Quyển sách đã gây tiếng vang lớn khi thắng giải Pulitzer cho các tác phẩm hư cấu năm 2016 cùng nhiều giải thưởng khác sau đó.
Năm 2017, tuyển tập truyện ngắn The Refugees của Nguyễn Thanh Việt thu hút sự chú ý rộng rãi tại nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Tập truyện ngắn với lời đề từ “tặng những người tị nạn, ở bất cứ đâu” sau đó đã được xuất bản tại Việt Nam với tên gọi Người tị nạn.
Theo trang web của Hội đồng Pulitzer, Nguyễn Thanh Việt hiện là giáo sư tại Đại học Nam California đồng thời là một cây bút bình luận của tờ New York Times.
Đánh giá về sự gia nhập của nhà văn gốc Việt, đồng chủ tịch hội đồng giám khảo Pulitzer – ông Stephen Engelberg và bà Aminda Marqués Gonzalez – nhấn mạnh: “Những trải nghiệm ấn tượng của Nguyễn Thanh Việt trong vai trò tiểu thuyết gia, nhà báo, người viết tiểu luận và một học giả giúp ông trở thành nhân tố mới tuyệt vời cho hội đồng giám khảo giữa thời đại đầy biến động”.
Sinh ra tại Buôn Mê Thuột năm 1971 và đến Mỹ sau năm 1975, Nguyễn Thanh Việt từng chia sẻ ông hi vọng sẽ sớm có được bản tiếng Việt của Người tị nạn để cha mình có thể đọc.
Tác phẩm gần đây nhất của ông là Chicken of the Sea, một quyển sách dành cho thiếu nhi viết chung với con trai 6 tuổi. Nguyễn Thanh Việt đang hoàn thiện The Committed, cuốn tiếp theo của tiểu thuyết The Sympathizer dự kiến ra mắt vào năm sau.
Joseph Pulitzer, một nhà báo người Mỹ gốc Hungary, là cha đẻ của giải thưởng Pulitzer. Trước khi qua đời, ông đã để lại tài sản tích cóp cùng di nguyện muốn mở một trường đào tạo báo chí và một giải thưởng dành cho người cầm bút.
Giải Pulitzer được trao lần đầu vào năm 1917. Hội đồng chấm giải Pulitzer gồm 19 thành viên có nhiệm kỳ 3 năm.
Dịch giả Huỳnh Phan Anh vừa qua đời lúc 16h45 ngày 30-8 tại San Jose, California, Hoa Kỳ (tức 6h45 sáng 31-8 – giờ Việt Nam) sau một thời gian nằm bệnh, hưởng thọ 81 tuổi.
Dịch giả Huỳnh Phan Anh (trái) chụp chung với nhà thơ Yves Bonnefoy tại Paris năm 1999 – Ảnh tư liệu
Dịch giả Huỳnh Phan Anh tên thật là Huỳnh Thanh Tâm, sinh năm 1940 tại Bình Dương, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Đà Lạt và là giáo sư triết học tại miền Nam. Nhưng sự nghiệp của ông gắn liền với hoạt động dịch thuật và phổ biến tác phẩm văn chương triết từ các nước đến với người đọc Việt Nam từ trước 1975.
Theo những bạn bè của ông từ hồi còn gặp nhau ở tòa soạn báo Văn tại Sài Gòn, tác phẩm phê bình văn học đầu tay của Huỳnh Phan Anh là Văn chương và kinh nghiệm hư vô (NXB Hoàng Đông Phương, 1968), sau đó ông có tập truyện Người đồng hành (Đêm Trắng xuất bản 1969), kế đó là tập tiểu luận – phê bình Đi tìm tác phẩm văn chương (Đồng Tháp, 1972); ngoài ra ông còn truyện vừa Những ngày mưa (Đêm Trắng xuất bản), và tập truyện Phía ngoài viết chung với Nguyễn Đình Toàn.
Nhưng sự nghiệp dịch thuật của Huỳnh Phan Anh mới thật đáng nể, ông đã chuyển ngữ nhiều tác phẩm quan trọng, cả những tác phẩm kinh điển của văn chương và tư tưởng thế giới được in và tái bản nhiều lần trong mấy chục năm qua:
Một mùa địa ngục (thơ Arthur Rimbaud, NXB Văn Học), Tuyển thơ tình yêu (Paul Eluard, NXB Hội Nhà Văn), Thơ Yves Bonnefoy (NXB Hội Nhà Văn), Chuông gọi hồn ai (tiểu thuyết, Ernest Hemingway, NXB Văn Học), Tình yêu bên vực thẳm (tiểu thuyết, Erich Maria Remarque, NXB Trẻ), Sa mạc (tiểu thuyết, J.M.G Le Clézio, NXB Hội Nhà Văn), Lạc lối về (tiểu thuyết, Heinrich Boll, NXB Văn hóa Văn Nghệ), Tình yêu và tuổi trẻ (tiểu thuyết, Valery Larbaud, NXB Trẻ), Những cuộc đời tỏa sáng (nghiên cứu, André Maurois, NXB Trẻ), Ảo ảnh (Thomas Mann, Văn học), Cỏ (Claude Simon, Hội nhà văn), Thế giới của Sophie (Jostein Gaarder, Văn hoá thông tin, Nhã Nam tái bản), Bãi hoang (Jean-René Huguenin, Đồng Nai, Dtbook tái bản), Rimbaud toàn tập (Arthur Rimbaud, Văn hóa Sài Gòn), Thời gian của một tiếng thở dài (Anne Philipe, NXB Văn nghệ TP.HCM).
Một số tác phẩm quan trọng đã được ông sớm dịch từ trước 1975 như Tình yêu và lý tưởng (Thomas Mann, Ngày Mới, 1974), Chuyến viễn hành trong đêm (Heinrich Böll, Vàng Son, 1973), Tình cuồng (Raymond Radiguet, dịch chung với Nguyễn Nhật Duật, Ngày Mới, 1973)…
Tất cả cuộc sống của ông là ở đây, nó quá đẹp với đủ vui buồn của một chàng trai sớm già dặn và buồn bã vì bị văn chương chiêu dụ, bị triết học mê hoặc; một ngòi bút tài hoa sớm thành danh; một tên tuổi nức tiếng, nhưng ít ai thấy mặt, nghĩa là cô đơn trong chốn đông đảo, như một cách nói của ông
Nhà văn – dịch giả MAI SƠN
Theo nhà thơ Phạm Chu Sa, một bạn văn của Huỳnh Phan Anh, ở độ tuổi 30, Huỳnh Phan Anh đã “cùng với các nhà văn – nhà phê bình Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Nhật Duật, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Hữu Trí và Đặng Phùng Quân quy tụ thành nhóm Đêm Trắng.
Đêm Trắng là nhóm văn học có khuynh hướng hiện sinh, đi tìm cái mới trong văn chương để làm mới văn chương. Hầu hết thành viên của nhóm là nhà văn kiêm nhà giáo dạy văn học và triết học. Huỳnh Phan Anh rất ngưỡng mộ và chịu ảnh hưởng của Jean Paul Sartre, nhà văn – nhà triết học người Pháp, người có công xiển dương chủ nghĩa hiện sinh”.
Cũng theo Phạm Chu Sa, “năm 2002, Huỳnh Phan Anh sang Mỹ định cư tại San Jose, một TP ở Bắc California có hơn 100.000 người Việt nhưng anh sống gần như khép kín, cách biệt, cả với giới văn nghệ sĩ – bạn bè cũ của anh. Phần do anh bị bệnh tim, phần không biết lái xe”.
Trong một lần trả lời phỏng vấn báo trong nước, dịch giả Huỳnh Phan Anh bộc bạch: “Trước hết, tôi xin khẳng định một điều là cho dù tôi có sống tại Mỹ một vài năm hay trong suốt phần còn lại của cuộc đời, tôi cũng khó hội nhập được vào nước Mỹ! Tôi không bao giờ là một nhà văn lưu vong”.
Một cuộc đời sống và làm việc hết mình cho văn chương, phê bình và dịch thuật với lượng tác phẩm đồ sộ rất có giá trị, tên tuổi Huỳnh Phan Anh chắc chắn còn sống mãi với những người trân trọng ngôn ngữ và văn chương.
Nhà văn kiêm dịch giả Huỳnh Phan Anh mất lúc 16g45 ngày Chủ nhật 30-8 tại tư gia San Jose thọ 81 tuổi. Tác giả “Văn Chương Và Kinh Nghiệm Hư Vô” chính là thầy dạy tôi môn Công Dân tại trường trung học công lập Nguyễn Trãi niên khóa 1970-1971. Tại ngôi trường Nguyễn Trãi này trong suốt thời trung học đệ nhị cấp tôi vốn là một trong vài học sinh xuất sắc nhất lớp…
Thuở đó tôi lồng lộn sải vó cố tìm ra ánh sáng cuối đường hầm trên con đường sạn đạo của mình. Tôi từng trần thuyết về đề tài Tam Dân Chủ Nghĩa trước thầy Huỳnh Thành Tâm tức nhà văn Huỳnh Phan Anh nổi tiếng dạy tôi năm lớp 10A và được thầy cho điểm tuyệt đối về sự hùng biện táo bạo.
Khác với hai thầy Đỗ Quý Toàn, Tạ Quang Khôi mà tôi không lần nào gặp lại, riêng thầy Huỳnh Phan Anh sau 1975 tôi được hân hạnh tái ngộ và trở thành một đồng nghiệp nhỏ thân thiết của thầy. Tôi còn nhớ cuối năm 1975 trên báo Văn Nghệ Giải Phóng xuất hiện hai bài tùy bút nổi tiếng một của Trịnh Công Sơn và một của Huỳnh Phan Anh. Hai bài viết thuộc dạng sắc sảo trong cách nhìn của mỗi người về những biến thiên của thời cuộc, nhưng tùy bút NHÌN LẠI của Huỳnh Phan Anh được dư luận đánh giá cao hơn tùy bút mang tên HẠNH PHÚC của Trịnh Công Sơn. Tôi không coi đó là sự giác ngộ cách mạng hoặc sám hối nghề nghiệp của Huỳnh Phan Anh như sự chụp mũ ác ý của một số người cầm bút.
Tôi hiểu tâm trạng của một nhà văn tự trọng kiêm một nhà giáo lương thiện và ủng hộ con đường đi của thầy. Đến giờ này có thể nói khả năng biên dịch, phóng tác của thầy theo thời gian ngày càng rực rỡ hơn bao giờ hết. Đơn cử bản dịch Huỳnh Phan Anh cuốn CHUÔNG GỌI HỒN AI của Ernest Hemingway sẵn sàng “chấp” hàng loạt nhà văn thế hệ sau 1975 thay phiên nhau dịch mà chẳng có ai so sánh được. Một đơn cử khác, bản dịch Huỳnh Phan Anh cuốn TÌNH YÊU BÊN VỰC THẲM của Erich Maria Remarque cũng là một thứ “hàng độc” về văn phong lịch lãm của thầy. Tôi khẳng định rằng thầy đã cùng với các dịch giả Ngọc Thứ Lang, Phạm Công Thiện, Nguyễn Nhật Duật, Nguyễn Hữu Hiệu… tạo nên trường phái dịch thuật đẳng cấp trước 1975, đủ sức lột trần được tinh hoa bản gốc của các danh tác quốc tế và làm giàu có thêm cho kho tàng ngôn ngữ Việt Nam.
Hai thầy trò chúng tôi đã nhiều lần cụng ly, nhiều lần lăn lóc, nhiều lần ngổn ngang tâm sự với nhau cho dù Huỳnh Phan Anh hầu như không nhớ gì tên học trò Nguyễn Trãi ngày xưa được ông cho điểm cao nhất môn trần thuyết. Có lần ông kể với tôi trong một đêm say khướt ngồi xe xích lô về nhà trên đường Võ Văn Tần (đường Trần Quý Cáp cũ) ông đã được tay tài xế xích lô xa lạ đọc cho nghe bài thơ XÍCH LÔ HÀNH của tôi, sau đó còn hát nghêu ngao ca khúc phổ nhạc bài thơ đó.
Ông xúc động nói với tôi rằng:”Như vậy là mày đã tồn tại. Nhà thơ cả đời chỉ cần một sáng tác được truyền khẩu, thế mà bài thơ Xích Lô của mày được phổ biến khắp nơi. Tao hãnh diện được làm thầy của một thi sĩ nhân dân kiểu đó”. Khi tôi viết những dòng này thì vị thầy giáo đáng kính đã lưu lạc giang hồ bên Mỹ quốc, trước khi đi tôi đã cố gắng cùng thầy gõ cửa đủ mọi cơ quan, báo chí để nộp từng chồng hồ sơ khiếu nại khiếu tố dày cộm về đám cường hào ác bá tỉnh Tây Ninh cướp đất hương hỏa của gia đình thầy, nhưng tất cả nỗ lực đều thất bại bởi “con cóc không thể kiện ông trời” khi không còn thượng đế. Chẳng biết thầy còn nhớ những kỷ niệm bụi đời của chúng tôi không?
Và tôi cũng mở ngoặc luôn ở đây: Có lẽ thầy Tâm không còn nhớ gì nữa, bằng chứng là những lần về lại Việt Nam thầy không một lần tìm đến nhà tôi, cho dù thuở chưa đi “xuất khẩu” nước ngoài, cứ vài ngày là thầy lại gõ cửa hào hứng mời tôi đi nhậu rượu hà thủ ô miệt Đa Kao. Cũng không sao, thưa thầy Huỳnh Thành Tâm tức Huỳnh Phan Anh, cái gạch nối cần thiết nhất của chúng ta là bài thơ XÍCH LÔ HÀNH (qua lời khẳng định của thầy) vẫn luôn luôn tồn tại cho đến bây giờ:
XÍCH LÔ HÀNH
Tưởng mình ta đạp xích lô
Nào hay phố xá ngựa thồ như nêm
Buộc cho ta miếng băng đen
Để cho cặp mắt làm quen mù loà
Xỏ giàm vào mõm nữa cha
Để cho số tuổi ta già theo răng
Giật cương đi hỡi mấy thằng
Ê, sao nước mắt chợt lăn xuống cằm
Ta đi dụ khị người phàm
Thấy huynh hiền sĩ từ quan lên rừng
Dạ dày ta nhảy lung tung
Nhảy dăm phút nữa dám khùng nghe cha
Cũng may vừa tới ngã ba
Cô em yểu điệu tà tà leo lên
Lưng ta khòm giống cái yên
Chổng mông em cưỡi mùi Thiền nhấp nhô
“Ba đồng một cuốc” mại dô!
Có con ngựa đực vừa ho vừa gào
Ta thồ ngang động hoa đào
Thấy dăm kỹ nữ trắng phau trổ nghề
Thồ ngang đống rác thúi ghê
Thấy bầy tiểu tử chửi thề giành moi
Thồ ngang khách sạn em ơi
Chó ngồi ăn nhậu còn người ăn xin
Nhưng mà chớ có rùng mình
Tại ta kéo thắng chưa linh em à
Gân chân lõm tựa ổ gà
Mặt xương bụng lép chẳng ma nào ngồi
Mới ra nghề tưởng khơi khơi
“Bác Hồ ngó thẳng” đâu chơi gà mờ
Dạ dày lại đánh lô tô
Mồm ta méo xệch bên bờ tử sinh
Như là góa phụ tắt kinh
Ruột xe có chửa thình lình, chết cha!
Té ra trong cõi người ta
Ruột lô, ruột xịn khéo là ghét nhau
Đếm tiền còn thiếu xu hào
Đếm ta thấy chớm bệnh lao mất rồi
Vá giùm chút, bạn hiền ơi
Xích lô cà chớn của thời cà chua!
BCV
(trích từ hồi ký GIAI THOẠI CỦA THI SĨ)
Trong đám cưới Bùi Chí Vinh. Hương Lan: Người đứng: Phan Bá Chức Người ngồi: Vợ chồng họa sĩ kiêm diễn viên Lê Chánh và Huỳnh Phan Anh.
Mua danh, bán tiếng trong giới khoa bảng và đại học VN
Mua danh, bán tiếng trong giới khoa bảng và đại học Việt Nam
TS Nguyễn Đức An
ĐH Bournemouth, Anh Quốc
25 tháng 8 2020
Cách đây vài năm, nhân chuyến về VN, tôi được trường đại học X mời đến thăm để bàn cơ hội hợp tác. Họ tiếp đón trọng thị, đưa tôi đi tham quan cơ sở vật chất chuyên ngành, xem sản phẩm sinh viên, gặp nhiều người có trách nhiệm từ ban giám hiệu trường đến trưởng phó khoa, các giảng viên, nhân viên phòng lab.
Nhưng trên đường về, lòng thật buồn. Nỗi buồn cứ lan man theo tôi và trỗi dậy trong mấy tuần qua, khi báo chí và mạng xã hội trong nước xôn xao chuyện “mua bán” công trình khoa học.
Hôm đó, họ đề nghị hai hình thức “hợp tác” cơ bản. Một, tôi đứng tên trong đội ngũ cơ hữu để họ làm thủ tục mở chuyên ngành. Không cần làm gì cả, chỉ cần đứng tên (vì tôi có hàm vị học thuật cần thiết theo quy định của Bộ Giáo dục), hằng tháng sẽ nhận một mức lương kha khá. Nếu thu xếp được thì giờ thì về giảng dạy, nhưng không nhất thiết.
Hai, họ đề nghị tôi hỗ trợ mảng khoa học, bằng cách ký tên tôi dưới danh nghĩa trường X trong các công trình của tôi trên thế giới. Đổi lại, họ sẽ trả mỗi bài một mức tiền khá cao, được quy định cụ thể trong một hợp đồng kinh tế (tuỳ theo đẳng cấp tạp chí đăng bài, thứ tự tên tác giả…).
Vài tuần sau đó, sau một chuỗi email bàn bạc nhưng có vẻ không dẫn đến đâu vì hai bên hiểu khái niệm “hợp tác” khác nhau, tôi phải viết thư nói rõ ra. Rằng tôi sẽ không đứng tên trong bất cứ các công trình tôi làm bên này dưới tên X. Rằng tôi sẽ chỉ đứng tên vào đội ngũ nếu tôi thực sự tham gia giảng dạy, chứ không phải để cho họ đủ ban bệ. Lý do, tôi cũng nói thẳng với họ, là nó không phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực nghề nghiệp mà tôi muốn gìn giữ cho riêng mình.
Kể lại chuyện trên không phải để phê phán một đơn vị riêng lẻ nào. X không phải là nơi đầu tiên tôi từ khước những việc này: từng có vài trường ĐH ở Trung Quốc và VN đề nghị tôi làm tương tự để nhận các khoản tiền không nhỏ.
Một loạt bài điều tra trên báo Thanh Niên vào giữa tháng Tám cho thấy đây là cả một ngành công nghiệp quy củ, phục vụ cho một thị trường béo bở giữa nhiều cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước. Loạt bài – dù có một vài sai sót kỹ thuật nhỏ, dễ gây hiểu nhầm – cho thấy chuyện mua danh bán tiếng khoa học mang rất nhiều dạng thái. Bên cạnh các trường trả tiền để được hưởng tiếng thơm công trình quốc tế (và để nâng vị trí xếp hạng) là rất nhiều cá nhân đi thuê viết luận văn để lấy bằng cấp, mua bài trên các tạp chí khoa học dỏm để đủ tiêu chuẩn lên giáo sư hay phó giáo sư…
Nhiều lần đem chuyện này ra tâm sự với đồng nghiệp trong nước, tôi đều nhận những cái lắc đầu, bức xúc nhưng cam chịu. Có lẽ vì nó phổ dụng nên khi đề xuất các “hợp tác” trên với tôi, những người bạn trường X rất tự nhiên, như không có gì để băn khoăn cả. Dường như một cái không bình thường đang được bình thường hoá.
Những ngày qua, theo dõi tranh luận quanh việc này, tôi thấy nhiều lý lẽ bênh vực cho chuyện “mua bán”. Rằng chính nhờ chịu khó chi mạnh cho những việc đó mà một vài trường đại học non trẻ (“bên mua”) vượt qua và gây sức ép khiến các đại học lâu đời đẩy mạnh nghiên cứu hơn. Rằng nhờ đó mà các nhà khoa học viết thuê (“bên bán”) có thêm thu nhập đủ sống trước khi cống hiến cho khoa học. Rằng nhờ đó mà VN còn hiển hiện đôi chút trong nền khoa văn thế giới. Rằng làm thế cũng chẳng vi phạm luật pháp.
Những lý lẽ ấy, theo tôi, đều bỏ qua hai khía cạnh căn cơ của vấn đề.
Thứ nhất, khoa học không thể phát triển trên tư duy “ăn xổi ở thì”, chạy theo cái phù du trước mắt. Khi từ chối trường X, tôi nói tôi rất muốn giúp trường nhưng nếu làm như ý họ thì tôi chẳng giúp gì để họ phát triển bền vững. Trước đó, tôi đề nghị họ lập ra một nhóm giảng viên nòng cốt, hằng năm tôi sẽ sắp xếp đi về, thậm chí có thể mời gọi các đồng nghiệp khác về cùng, để vừa dạy cho sinh viên, giúp họ soạn thảo chương trình, vừa hướng dẫn kỹ năng nghiên cứu cũng như cùng họ làm đề tài để công bố quốc tế.
Làm thế sẽ được cả đôi đường – tôi thoả mãn ước muốn đem kinh nghiệm và tri thức về chia sẻ với các đồng nghiệp và sinh viên, đóng góp cho nền học thuật nước nhà, còn nhà trường được một đội ngũ kỹ năng, về lâu dài có thể tự nghiên cứu và sản xuất bài báo khoa học quốc tế. Nhưng những việc thực chất này lại có vẻ xa xôi so với các mục tiêu mà họ muốn gặt liền tay từ sự “hợp tác” với tôi.
Không biết có bao giờ họ nghĩ rằng vẻ ngoài bóng nhoáng không thể che dấu lâu dài cho sự rỗng tuếch bên trong? Toà lâu đài trên cát có nguy nga đến mấy cũng sẽ tới lúc đổ nhào.
Thứ hai, đây là một câu chuyện đạo đức, với nhiều hệ luỵ xã hội. Không thể không “rùng mình” khi những hành vi trên diễn ra ngay trong một tầng lớp được cho là tinh hoa, có ảnh hưởng sâu sắc đến tương lai đất nước và vận mệnh dân tộc. Kẻ mua cũng tệ, người bán cũng chẳng hơn. Sự liêm chính ở đâu? Lòng tự trọng khoa học ở đâu? Tinh thần học hỏi ở đâu? Sự kiên trì khám phá thế giới ở đâu? Sự khát khao và khiêm nhường trước tri thức ở đâu?
Không có những cột trụ nền tảng đó thì sẽ chẳng bao giờ có một nền khoa học – và rộng hơn, một trình độ phát triển – đường hoàng và bền vững. Hãy tưởng tượng những ông bà giáo sư, tiến sĩ theo con đường mua bán này sẽ trở thành những chuyên gia, cố vấn, lãnh đạo khoa học tại các trường viện và bên ngoài xã hội thì đất nước sẽ về đâu? Điều gì sẽ xảy ra nếu xã hội đặt chẳng may đặt niềm tin và đổ dồn đầu tư vào các trường đại học nổi danh nhờ các công trình quốc tế không do họ làm ra?
Tôi phải nói ngay là tôi vẫn gặp ở trong nước rất nhiều nhà khoa học tài năng, thành đạt trên những trụ cột đạo đức trên. Nhưng tin xấu lan nhanh hơn tin tốt. Chỉ vài trường hợp như trên cũng đủ để nhiều người dân đóng thuế nuôi khoa học, nhiều phụ huynh đóng tiền cho con đi học và nhất là các em sinh viên suy nghĩ tiêu cực về thế giới những con người đang dẫn dắt nghiên cứu và truyền bá tri thức trên giảng đường.
Nói cách khác, nếu giới khoa bảng VN không chung tay để biến những vấn nạn trên trở thành chuyện bất bình thường, họ sẽ dễ bị xã hội nghi vấn, xa lánh và coi rẻ. Và khi khoa học không còn được xã hội coi trọng, khoa học sẽ mất tính chính danh. Khoa học sẽ không còn là khoa học.
TS Nguyễn Đức An nguyên là nhà báo ở TP HCM, hiện là phó giáo sư ngành báo chí-truyền thông tại Đại Học Bournemouth, Anh Quốc.
Ở trong nước, sau khi Ô. Bùi Hiền đưa ra phương-thức cải-tiến chữ viết tiếng Việt vào năm 2017 (ref), thì vào đầu năm nay, 2020, có hai tác-giả Kiều Trường Lâm và Trần Tư Bình cũng đưa ra đề-nghị sử-dụng một số mẫu-tự thay cho các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, để viết chữ Việt không dấu cho gọn và nhanh hơn cách-thức được viết hiện nay.
Hai tác-giả này không nhận là mình cải-tiến chữ viết Tiếng Việt, mà chỉ kết-hợp sáng-kiến “Chữ Việt Nhanh” của Ô. Kiều Trường Lâm (ở Việt-Nam) với sáng-kiến “Ký Hiệu Dấu” của Ô. Trần Tư Bình (ở Úc) để đưa ra những cải tiến ở dạng viết tắt không dấu.
Ngày 25-3-2020, hai ông đã nhận được giấy chứng-nhận bản-quyền do Cục Bản Quyền thuộc Bộ Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch cấp; và tác-phẩm của hai ông được gọi là “Chữ VN song song 4.0”
Song song là tùy-ý dùng bên cạnh chữ viết hiện có, chứ không thay-thế cách viết hiện nay.
4.0 là “trong thời-đại công-nghệ 4.0”.
Theo “Chữ VN song song 4.0”, người dùng sử-dụng tất cả 26 mẫu-tự La-Tin. Riêng về dấu thanh và dấu phụ cho chữ Quốc-Ngữ thì dùng 18 mẫu-tự [trong số 26 mẫu-tự ấy] để thay thế các dấu.
*
Nói chung, tôi không tán-đồng phương-cách đổi mới chữ viết của 2 Ô. Kiều Trường Lâm và Trần Tư Bình trong chương-trình “Chữ VN song song 4.0”
Sau đây là vài thí-dụ (lý-do):
Chữ I thay cho Y:
Các Ô. Lâm và Bình chỉ viết ngắn gọn là “chữ I thay cho Y” nên người-đọc có thể hiểu lầm là “I” thay cho “Y” ở bất-cứ vị-trí và chức-năng nào trong chữ Việt.
Về điểm này, tác-giả Lê Xuân Nhuận đã đặc-biệt nói rõ là mẫu-tự “i/I” chỉ thay mẫu-tự “y/Y” ở vị-trí đứng cuối 5 (năm) phụ-âm h/H, k/K, l/L, m/M, và t/T mà thôi (thí-dụ: “hi-vọng” thay cho “hy-vọng”, “kỉ-luật” thay cho “kỷ-luật”, “lí-do” thay cho “lý-do”, “mĩ-thuật” thay cho “mỹ-thuật”, và “tỉ-lệ” thay cho “tỷ-lệ”. (Ref)
Y thay cho UY:
Theo “Chữ VN song song 4.0”, nếu ta muốn viết “Tuy an-ninh quốc-gia là ưu-tiên…” thì ta phải viết “Ty an-ninh quốc-gia là ưu-tiên…”.
Cũng thế: Uyên-bác trở thành yên-bác uyên-ương trở thành yên-ương.
Các chữ “Tuy” và “Ty” có nghĩa khác nhau. Đổi mới như thế tức là xóa-bỏ chữ “Tuy” trong ngôn-ngữ Việt-Nam (làm nghèo tiếng Việt).
Đồng-thời, các chữ “yên bác”, “yên ương” có thể bị đọc là “iên bác/giên bác”, “iên ương/giên ương”.
C thay K:
Khi ta muốn viết “kẻng”, “kiêng”, “kênh”, “kinh”, ta sẽ viết là “cẻng”, “ciêng”, “cênh”, “cinh”.
Hơn nữa, theo luật “G thay NG” và “H thay NH” ở phụ-âm cuối chữ thì ta phải viết “kẻng” thành “cẻg”, “kiêng” thành “ciêg”, “kênh” thành “cêh”, “kinh” thành “cih”.
Nhưng lại có luật “W thay NG, NGH” [không nói là phụ-âm đầu chữ hay phụ-âm cuối chữ] nên ta lại cũng phải viết “kẻng” thành “cẻw”, “kiêng” thành “ciêw”.
Tức là “kẻng” được viết thành 3 cách: “cẻng”, “cẻg”, “cẻw”!
“kiêng” là “ciêng” hoặc “ciêg” hoặc “ciêw”!
v.v…
Viết thành 3 cách (1 chữ đổi mới thành ra 3 chữ khác nhau) thì làm sao mà “giản dị”, “nhanh chóng” và “thống nhất”?
K thay KH:
Khi ta muốn viết “khen ngợi”, “khi nào”, thì ta viết là “ken ngợi”, “ki nào”!
Vậy khi ý ta muốn nói “ken két”, “kỉ luật” mà ta viết đúng là “ken két”, “kỉ luật” thì, theo “Chữ VN song song 4.0”, ta phải đọc là “khen khét”, “khỉ luật”!
Các dấu:
Theo “Chữ VN song song 4.0” thì:
Đồng thời, có 18 ký hiệu dấu dùng để thay thế các dấu thanh và dấu phụ cho chữ quốc ngữ.
chữ O thay thế dấu trăng ᨆ hoặc dấu móc ˀ cho chữ có thanh ngang như ă, ơ, ư;
chữ Y thay thế dấu nón ^ cho chữ có thanh ngang như â, ê, ô.
chữ P là ký hiệu chữ bỏ dấu thanh & dấu phụ, chỉ đặt P sau chữ không có dấu thanh và dấu phụ nào trong chữ có vần để không bị hiểu lầm qua chữ khác;
Đã có “J=Dấu sắc, L=Dấu huyền, Z=Dấu hỏi, S=Dấu ngã, R=Dấu nặng” mà lại còn chia ra làm 3 Nhóm, thì làm sao mà nhớ cho hết cách-thức bỏ dấu.
Đây là bài thơ “Mưa Xuân” của Nguyễn Bính:
Theo luật “Chữ VN song song 4.0”, thì “L” là dấu huyền. “Em là” viết thành “Em lal” là đúng. Nhưng “bán” (Mẹ già chưa bán) mà viết là “banl” thì nó là “bàn” chứ không phải “bán”.
Đưa ra ví-dụ (đối-nội: để tỏ là mình viết đúng; đối-ngoại: để giúp người khác viết theo cho đúng) mà lại viết sai, thì làm sao mà thuyết-phục được ai?
*
Luôn tiện cũng xin ghi thêm là Ô. Kiều Trường Lâm đã lại đưa ra một sáng-kiến mới, gọi là “Chữ viết bảo mật thời 4.0”:
Ô. Lâm cho biết là loại chữ này do ông một mình tạo ra (không có Ô. Trần Tư Bình), sau cả chục năm nghiên-cứu và hoàn-thiên, và đang tiến-hành thủ-tục xin cấp bản-quyền — nhưng nghĩa của nó [“bảo mật”] là gì thì ông chưa vội tiết-lộ.
Bề mặt đã “lộ” là nó có phần dựa vào chữ viết của Đại-Hàn.
Trong đề-nghị cải-mệnh chữ viết của mình, Lê Xuân Nhuận không hề (không bao giờ) chủ-trương dùng “I” thay “Y” ở bất-cứ vị-trí và chức-năng nào trong chữ Việt, mà chỉ thay-thế trong 5 (năm) trường-hợp mà thôi – là khi đứng sau các phụ-âm H, K, L, M, T mà thôi (thí-dụ: hi-vọng thay cho hy-vọng, kỉ-luật thay cho kỷ-luật, lí-do thay cho lý-do, mĩ-thuật thay cho mỹ-thuật, và tỉ-lệ thay cho tỷ-lệ).
Không có vấn-đề “thâm-thúy” trở thành “thâm-thúi”!
Mái và sàn đá hoa của nhà thờ Bùi Chu đang được tháo dỡ. Câu chuyện ồn ào hơn một năm qua về ngôi thánh đường này có lẽ sẽ sớm khép lại với một cái kết buồn cho những người bảo vệ di sản và nhẹ nhõm cho những người nắm giữ số phận của nhà thờ.
Nhà thờ Bùi Chu được tháo dỡ phần mái và sàn nhà – Ảnh: TIẾN ĐẶNG
Sau hơn một năm trì hoãn và tìm các giải pháp khả thi để bảo vệ nhà thờ Bùi Chu (xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) bất thành, các linh mục thuộc Giáo phận Bùi Chu đã quyết định tiếp tục công việc hạ giải ngôi thánh đường hơn 100 tuổi này.
Những hình ảnh từ trang Facebook cá nhân của người phụ trách truyền thông nhà thờ Bùi Chu ngày 18-7 cho thấy nhà thờ Bùi Chu đang được gỡ mái và nền gạch đá hoa.
Dòng trạng thái kèm những hình ảnh hạ giải nhà thờ Bùi Chu của người này viết: “Nhà thờ chính tòa Giáo phận Bùi Chu chính thức hạ giải, xin mọi người cầu nguyện cho việc xây nhà thờ an toàn trong lòng Chúa thương xót…”.
Các giáo dân xung quanh nhà thờ Bùi Chu cũng xác nhận thông tin này với Tuổi Trẻ Online.
Chị Huyền cho biết mùa mưa bão sắp đến, các cha xứ và giáo dân lo ngại vấn đề an toàn trong nhà thờ xuống cấp nên cần tháo dỡ.
Phần hạ giải bàn thờ và di chuyển bàn ghế, nội thất hồi tháng 2, các linh mục chia phần việc cho các giáo xứ, giáo họ. Nhưng lần này công việc tháo dỡ phức tạp hơn nên được giao cho công ty xây dựng thi công.
Lây nay nhà thờ làm hàng rào tôn vây xung quanh nên chính các giáo dân cũng khó tiếp cận khuôn viên nhà thờ.
Hình ảnh sàn đá hoa của nhà thờ Bùi Chu được tháo dỡ ngày 18-7 – Ảnh: TIẾN ĐẶNG
Trả lời Tuổi Trẻ Online, đại diện công an xã Xuân Ngọc cho biết công việc chuẩn bị cho tháo dỡ nhà thờ Bùi Chu được tiến hành vào chiều 16-7, để ngày 17-7 chính thức thi công.
Hiện mái ngói và nền đá hoa của ngôi thánh đường này đang được tháo dỡ bởi nhân lực của công ty xây dựng chuyên về công việc tháo dỡ công trình.
Vị đại diện công an xã cho biết các linh mục đã có thông báo tới chính quyền địa phương về việc hạ giải nhà thờ từ năm 2019, nhưng do nhiều lý do khách quan, trong đó có lý do từ dịch COVID-19 nên việc hạ giải tạm hoãn đến thời điểm này.
Ông cũng cho biết người dân địa phương đều mong đợi có nhà thờ mới. Việc tháo dỡ nhà thờ do các linh mục, giáo dân quyết định làm theo đúng quy định của pháp luật.
Công nhân tháo dỡ mái của nhà thờ Bùi Chu – Ảnh: TIẾN ĐẶNG
Trước thông tin này, ông Martin Rama – người đã dấy lên một cuộc bàn luận về nhà thờ Bùi Chu trên truyền thông và có nhiều nỗ lực thảo luận với các cha xứ giáo phận Bùi Chu tìm giải pháp bảo tồn nhà thờ trong hơn một năm qua – chia sẻ ông rất buồn trước quyết định này của các vị linh mục vì trước đó ông vẫn hi vọng có thể cứu được ngôi nhà thờ tráng lệ và duy nhất của kiến trúc nhà thờ Baroque ở Việt Nam.
“Tôi có thể hiểu những gì đang xảy ra với nhà thờ Bùi Chu. Nhưng tôi vẫn cảm thấy nản lòng” – ông Martin Rama nói.
Ông chia sẻ thêm không chỉ Bùi Chu, nhiều nhà thờ cổ khác ở Việt Nam cũng đang gặp nguy hiểm bởi làn sóng phá cũ xây mới cần được chính quyền, các linh mục và người dân Việt Nam quan tâm giải cứu chúng. Và trong hành trình bảo vệ các nhà thờ cổ còn lại, Bùi Chu có lẽ sẽ luôn được nhớ đến như một vị tử đạo.
‘The Interpreter’ – nỗ lực tạo đối thoại của một nhóm trẻ gốc Việt
‘The Interpreter’ – nỗ lực tạo đối thoại của một nhóm trẻ gốc Việt
Cookie Dương (trái) và Jady Chan, đồng sáng lập viên của trang của nhóm The Interpreter
Tin về một giới trẻ thuộc thế hệ Z, trong đó có người yêu nhạc K-Pop, dùng mạng xã hội Tik-Tok ghi tên nhưng không tham dự cuộc vận động của tổng thống Donald Trump tại Tulsa là đề tài được bàn luận khá nhiều kể từ đầu tuần qua.
Ủng hộ hay chỉ trích hành động này, thì có một sự thật chúng ta cần nhìn nhận là có một giới trẻ đang bày tỏ tiếng nói của mình và dự phần vào cuộc tranh luận xã hội theo phương cách và những phương tiện đang bắt đầu được chú ý.
Giới trẻ thế hệ Z gốc Việt tại Hoa Kỳ cũng có một số người quan tâm đến chính trường. Những em này không chỉ bày tỏ thái độ mà còn có hành động cụ thể, như nhóm The Interpreter – Người Thông Dịch, của những em gốc Việt tuổi ngoài đôi mươi, hoặc sinh ra hay trưởng thành tại Mỹ.
Sinh hoạt của nhóm có thể được dùng như một điển cứu (case study) để chúng ta tìm hiểu một trong những khuynh hướng của giới trẻ gốc Việt trong bối cảnh chính trị hiện nay.
Trang tin tức của nhóm The Interpreter do Cookie Dương, tên tiếng Việt là Dương Ca Dao và Jady Chan, một sinh viên gốc Việt-Hoa đồng sáng lập, vừa được trình làng đầu tháng Sáu. Cookie Dương là một tân cử nhân 22 tuổi vừa tốt nghiệp chuyên ngành Đối Ngoại tại đại học University of Southern California (USC) trong niên học 2020 vừa qua và Jady Chan là sinh viên, đang theo học ngành Thuật Toán Thần Kinh Học cũng tại USC.
Với sự giúp đỡ và tiếp tay của một số bạn đồng ý hướng như Evelyn Leong, Ashley Dương, Nhân Nguyễn, Terry Nguyễn, Cookie Dương trong vai trò biên tập, dịch thuật và Jady Chan chịu trách nhiệm thiết kế trang mạng, đã lập ra trang The Interpreter, với mục đích mang các kiến thức, thông tin thời sự đến thế hệ gốc Việt lớn tuổi và bị trở ngại ngôn ngữ, trong việc tiếp cận thông tin dòng chính, cũng như nhằm chống lại các tin tức giả mạo, ngụy tạo đang lan tràn trong cộng đồng người Việt hiện nay.
Qua phương châm “Chuyển dịch kiến thức, tăng sức mạnh cộng đồng” (Translating Knowledge, Empowering Community), nhóm trẻ có khả năng sử dụng lưu loát song ngữ này, điều khá thú vị và hiếm ở lứa tuổi các em, để thực hiện những mẩu phim Tik-Tok ngắn, chuyển dịch tin tức, bài viết từ các hãng thông tấn uy tín thế giới sang tiếng Việt một cách khá chính xác về cách dùng chữ, để cung cấp cho cộng đồng những thông tin xác thực.
Evelyn Leong (trái) và Nhân Nguyễn, hai trong số các thành viên chủ chốt của The Interpreter
Quy tụ khoảng gần 20 em đã tốt nghiệp các đại học Mỹ hay là những chuyên gia trẻ, có cả thành viên đang làm cho tờ báo VOX, nhóm thiện nguyện trẻ gốc Việt này tìm đến nhau và khởi đầu từ những bức bối cá nhân trong gia đình. Cookie Dương bảo rằng cha mẹ, người thân lớn tuổi trong gia đình các em đã đọc những thông tin và có cái nhìn khá thiên lệch về một số vấn đề xã hội chính trị đang xảy ra hiện nay, dẫn đến tình trạng tranh cãi, xung đột trong gia đình giữa cha mẹ và con cái.
Từ những kinh nghiệm cá nhân mà nhiều em gốc Việt sinh ra hay lớn lên tại Mỹ đang gặp phải trong gia đình, The Interpreter ra đời không chỉ để nối lại khoảng cách với cha mẹ, tụ họp giới trẻ gốc Việt mà còn mang cả với ý hướng tích cực, nhằm giúp đỡ và phát triển cộng đồng bằng những tri thức và trải nghiệm mà các em đã được thụ hưởng từ một nền giáo dục khai phóng, luôn cổ súy những giá trị dân chủ và bác ái của xã hội.
Chỉ sau vài tuần hoạt động, Facebook của The Interpreter đã có hơn 800 người thích và theo dõi. Cookie Dương cho biết là hiện có khoảng 500-700 lượt người đọc tin tức mỗi ngày. Hầu hết những ủng hộ và chia sẻ khá tích cực, dù không thiếu những lời chỉ trích, bài bác.
Vào xem, bên cạnh các vấn đề thời cuộc như dịch bịnh, chủng tộc, chính trường…, trang The Interpreter còn có một số bài dịch khá thú vị về cách để đối thoại với cha mẹ và người thân gia đình trước các vấn đề gây tranh cãi. Cũng có không ít những người trẻ đồng lứa của các em đang có chung xung đột với gia đình, cũng đã vào để chia sẻ vấn đề, suy nghĩ và chuyển tin tức cho người thân.
Nhìn nhận về dự án, chủ trương và cách thức hoạt động của nhóm The Interpreter có thể khác nhau theo nhãn quan chính trị xã hội của một số người, nhưng phải ghi nhận rằng, đây là một tín hiệu tích cực và đầy hy vọng khi nhìn vào một giới trẻ gốc Việt biết dấn thân, đang nhắm đến ích lợi cộng đồng và tìm kiếm sự thông hiểu giữa hai thế hệ qua việc chia sẻ thông tin.
Khoảng cách thế hệ do những trải nghiệm, quá khứ cho đến sự giáo dục, nhận thức khác biệt luôn hiện diện trong mỗi gia đình và càng cách biệt hơn trong các gia đình di dân. Là một thế hệ trẻ đã được thụ hưởng nền giáo dục khai phóng để trở những con người trưởng thành độc lập trong suy nghĩ, ý thức trong hành động và có tri thức trong vấn đề, việc đối thoại trên tinh thần tôn trọng cùng thái độ lắng nghe, thông hiểu với các em không chỉ là một sự cần thiết mà còn là lợi ích lớn lao trong mỗi gia đình. Cho chính các em và cả những bậc cha mẹ.
Dù theo khuynh hướng nào, chắc hẳn sinh hoạt của nhóm The Interpreter cũng góp phần vào sự suy nghĩ và đánh giá của cộng đồng trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ đang đến gần, khi cảm xúc bênh chống các ứng viên ngày càng mạnh mẽ, đến độ trở nên kích động. Những chiến lược gia và ban tranh cử của các bên xem ra đang tìm cách tốt nhất để tìm sự ủng hộ từ mỗi nhóm cử tri khác nhau.
Nói về bầu cử thì không thể không nói đến tầm quan trọng của lá phiếu của cử tri trẻ tuổi, đặc biệt với những thiếu niên vừa đúng 18 tuổi để bỏ phiếu lần đầu trong năm nay, ước tính sẽ vào khoảng bốn triệu em theo như số liệu từ Đại Học Florida.
Vẫn theo nghiên cứu trên, nhóm này có xu hướng nghiêng về đảng Dân Chủ, với 61.6 % bỏ phiếu cho TT Barack Obama vào năm 2008, chỉ thua kỳ bầu cử năm 1960 cho TT Kennedy là 63.8 %.
Tuy nhiều số liệu và quan sát chung cho thấy xu hướng và thái độ chính trị của người gốc Việt tại Hoa Kỳ nghiêng về đảng Cộng Hòa, vẫn chưa có những thăm dò và con số chính thức riêng về giới trẻ gốc Việt. Ắt cũng không khác mấy nếu dựa theo thăm dò từ tổ chức Quỹ Pháp Lý và Giáo Dục người Mỹ gốc Á (AALDEF), cho thấy nhóm cử tri trẻ gốc Á 18-29 tuổi hầu như đã dồn phiếu cho các ứng viên đảng Dân Chủ với tỉ lệ 89%.
Sẽ không phải các em trao quyền cho cộng đồng qua việc tạo đối thoại như nhóm The Interpreter nói trên, mà chính cộng đồng cùng những bậc cha mẹ gốc Việt cần đặt niềm tin và trao quyền cho các em. Để các em sẽ thay mặt thế hệ đi trước, dự phần và đáp trả cho xã hội những gì mà chúng ta đã được thụ hưởng đầy đặc ân, trong tư cách là những công dân có trách nhiệm, đồng thời là những di dân xứng đáng của những quốc gia đang sinh sống.
Du Ca tưởng niệm Quốc hận
Kính thưa quý đồng hương,Năm nay, đại dịch Covid-19 khiến chúng ta không thể tụ tập đông người, nhưng qua các phương tiện truyền thông hiện đại, đoàn Du Ca Nam Cali đã kết nối được nhiều ca nhạc sĩ và các đoàn Du Ca từ khắp nơi trên thế giới để thực hiện và xin trân trọng kính mời toàn thể quý vị cùng tham dự
CHƯƠNG TRÌNH TƯỞNG NIỆM 45 NĂM QUỐC HẬN vào lúc:
8giờ -11giờ tối ngày 29 tháng Tư, 2020 (tức 10 giờ sáng- 1 giờ trưa ngày 30/4 ở Việt Nam ) qua màn ảnh củaĐài Little Saigon TV (Orange County): KDOC 56.10 và KPOM 14.2 Đài VNTV (San Diego) Channel 19 Spectrum Cable, và TV Đài SBTN (toàn nước Mỹ)
Đoàn Du Ca Nam Cali xin tha thiết kêu gọi quý đồng hương từ khắp bốn phương trời hãy sắp xếp thời giờ để cùng nhau hướng lòng về quê hương VIệt Nam, tin rằng càng nhiều người hiệp lời cằu nguyện cùng một lúc thì đất nước ta, dân ta sẽ cảng sớm có đươc tự do, dân chủ, và nhân quyền.Xin xem chi tiết ở flyer đính kềm và link dưới đây:
Trần Ngọc Phúc, cha đẻ của máy thở Hummingbird đang góp một phần trí tuệ Việt với thế giới để đẩy lùi dịch Covid-19.
Theo ông Trần Ngọc Phúc, Chủ tịch Tập đoàn Metran Japan, 80% bệnh nhân dương tính với Covid-19 có thể tự phục hồi được. 15% bệnh nhân cần đến các loại máy trợ thở nhẹ và 5% cần sử dụng phổi nhân tạo.
Theo một nghiên cứu tại Anh, nước này có khả năng phải cần đến 40.000 máy thở trong trường hợp xấu. Tại Nhật, con số này là 80.000.
Nhiều quốc gia trên thế giới đang chạy đua sản xuất máy trợ thở để điều trị Covid-19. Ảnh: Getty.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng nhiều lần kêu gọi tất cả các quốc gia chuẩn bị các thiết bị y tế hỗ trợ hô hấp như máy thở, bình oxy để điều trị cho các bệnh nhân mắc Covid-19 đang trong tình trạng nguy kịch.
Máy thở chính là cơ hội giúp các bệnh nhân nguy kịch có thể chiến đấu và giành giật lại sự sống.
Chiều 30/3, trong phiên họp của Chính Phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng nói về việc cần chuẩn bị lượng máy thở đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân Covid-19.
Trong đó, Thủ tướng nhắc đến ông Trần Ngọc Phúc, người phát minh ra máy trợ thở cho trẻ sinh non ở Nhật Bản sẽ giúp Việt Nam giải quyết vấn đề thiếu hụt trang bị này trong ngành y tế.
Máy trợ thở mang trí tuệ Việt
Ông Trần Ngọc Phúc hiện là chủ tịch của Metran, công ty chuyên phát triển thiết bị thở sử dụng trong ngành y tế. Những thiết bị của Metran nhận được sự đánh giá cao từ nhiều tổ chức uy tín trên thế giới.
Theo ông Phúc, vấn đề máy thở dùng cho bệnh nhân Covid-19 đang được Metran giải quyết bằng hai dự án chính gồm máy trợ thở Composβ-EV dùng cho bệnh nhân nguy kịch và máy JFLo cho bệnh nhân hô hấp yếu.
Trần Ngọc Phúc, người phát minh ra máy trợ thở Hummingbird.
Đầu tiên, máy trợ thở Composβ-EV được nghiên cứu từ 30 năm trước để hỗ trợ cho bác sĩ thú y điều trị cho động vật. Ưu điểm của loại máy này là việc vận hành không đòi hỏi chuyên môn quá cao. Đồng thời, tính ổn định và an toàn của máy phù hợp cho việc hỗ trợ điều trị bệnh nhân Covid-19.
Ngày 28/3 kênh truyền hình Asahi của Nhật đã phát sóng phóng sự về việc sử dụng máy trợ thở Composβ-EV cho việc điều trị Covid-19. Những thông tin từ bài phóng sự nhằm khẳng định chất lượng của máy từng được dùng cho ngành thú y vẫn sẽ là giải pháp tối ưu dành cho con người trong bối cảnh dịch đang bùng phát.
Theo nhà phát minh Trần Ngọc Phúc, trong thời gian tới, loại máy Composβ-EV sẽ được thiết kế và cải tiến lại để phù hợp và bệnh nhân, tránh được tâm lý đây từng là máy dùng cho động vật. Máy này đang được thử nghiệm tại các trường Đại học ở Nhật Bản, đang được Bộ Y tế và Bộ Công thương hỗ trợ để có giấy phép lưu hành.
Loại máy thứ hai từ Metran là loại máy trợ thở có tên JFlo. Máy trợ thở này có ưu điểm gọn nhẹ gấp 10 lần các loại máy khác, vận hành không cần chuyên gia. Bên cạnh đó, bệnh nhân khi thở bằng máy vẫn có thể ăn uống, nói chuyện bình thường.
Đây là một công trình nghiên cứu mà Metran được chính phủ Nhật tài trợ để nghiên cứu sản xuất cho Việt Nam. Dự kiến đưa ra thị trường vào tháng 10 năm nay. Hiện nay, máy này các chức năng đã sẵn sàng và đang được thử nghiệm. nếu có thêm nguồn vốn từ các nhà tài trợ, thời gian ra mắt loại máy trợ thở gọn nhẹ này có thể giảm xuống khoảng 2 tháng.
“Loại máy này sẽ hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong việc phòng chống dịch covid-19. Chúng tôi có thể lược bớt một số tính năng không thật sự cần thiết để đấy nhanh tốc độ sản xuất loại máy này”, ông Phúc chia sẻ.
Bài toán thiếu hụt linh kiện
Bên cạnh khó khăn về tài chính, việc thiếu linh kiện sản xuất máy trợ thở cũng đang là vấn đề đau đầu đối với Metran. “Nhu cầu về máy thở đã tăng gấp 100 lần. Điều này gây áp lực lớn lên chuỗi cung ứng, sản xuất”, ông Phúc chia sẻ.
Máy trợ thở cá nhân JFlo với ưu điểm gọn nhẹ và dễ sử dụng được phát minh bởi ông Trần Ngọc Phúc. “Một bộ máy thở có các cảm biến, linh kiện đến từ rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Nhật và cả Việt Nam dường như đã chậm chân so với các nước khác trong việc đặt hàng sớm các linh kiện. Việc cấp bách bây giờ là có tìm được nhà cung cấp có khả năng tạo ra ngần ấy linh kiện”, ông Phúc nói về khó khăn trong việc sản xuất máy trợ thở.
Về nhà máy sản xuất, ông Phúc cho biết có nhiều công ty gia công đồng hồ, xe hơi… ở Nhật liên hệ sản xuất máy thở. Ngoài ra nhiều đơn vị trong và ngoài nước cũng đủ đáp ứng việc sản xuất máy. Tuy vậy, vấn đề linh kiện vẫn cần được giải quyết đầu tiên.
Chỉ chuyển giao công nghệ cho người có cùng suy nghĩ
Theo nguồn tin riêng của Zing, đã có một số tập đoàn, công ty Việt Nam liên hệ Metran để chuyển giao công nghệ sản xuất máy thở hỗ trợ chống dịch Covid-19.
Tuy vậy, theo ông Phúc, do nguồn lực có hạn, Metran không thể chuyển giao cho tất cả doanh nghiệp mà chỉ chọn ra một đơn vị “có cùng suy nghĩ” với ông.
“Nhiều quốc gia đang cần công nghệ máy thở. Tôi chỉ chọn mỗi quốc gia một đơn vị có cùng suy nghĩ với mình để triển khai. Có nhiều đơn vị lợi dụng Metran và bệnh dịch để thương mại sản phẩm. Bên cạnh đó, tôi không đủ sức để chuyển giao cho tất cả”, ông Phúc cho biết.
Hiện có 16 quốc gia liên hệ chuyển giao công nghệ máy trợ thở của ông Trần Ngọc Phúc.
Hiện có 16 quốc gia liên hệ công ty ông Phúc để chuyển giao công nghệ sản xuất máy trợ thở trong đó có Mỹ, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Ấn Độ, Đài Loan… Công ty Metran đang làm việc với Mc Kinsey để chuyển giao công nghệ cho các quốc gia khác.
Về tài chính cho hai dự án sản xuất máy thở, ông Phúc cho biết đã có nhiều đơn vị đồng hành. “Tuy vậy, không công ty hay nhóm nào có thể đơn phương phân phối sản phẩm này. Các bên liên quan sẽ phải cùng ngồi lại, bàn bạc để đưa ra quyết định vì lợi ích chung của quốc gia và của người bệnh”, ông Phúc khẳng định.
Ông Phúc cho biết, thủ tướng Việt Nam nhiều lần chỉ đạo, đôn đốc việc chuẩn bị máy thở phục vụ công tác chống dịch Covid-19 trong nước. Tuy vậy, lời hứa trong một tháng đáp ứng đủ số máy ông không dám cam kết. “Tôi không hứa những gì mình không thể làm được”, ông Phúc cho biết.
Với máy thở JFlo, nếu có nguồn vốn R&D (nghiên cứu và phát triển), Metran sẽ ra mắt sản phẩm vào tháng 8. Còn không, phải đến tháng 10 sản phẩm này mới vượt qua các bài kiểm định để đi vào sản xuất
Metran được thành lập từ năm 1984. Cái tên Metran được ghép từ Medical (y khoa) và Trần (họ của ông Phúc).
Năm 1982, ông phát minh máy hô hấp nhân tạo dao động cao tần số Hummingbird cho trẻ em sinh non.
Nhật Hoàng từng ghé thăm
Năm 2012, công ty Metran vinh dự được Nhật Hoàng ghé thăm.
Trước khi có Hummingbird, 90% trẻ sinh non tại Nhật Bản tử vong. Sau khi có chiếc máy này, 99,7% trẻ sinh non được cứu sống.
Năm 2016, Bệnh viện Từ Dũ là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam sử dụng máy thở Hummingbird do công ty của ông tài trợ.
Từ một công ty được thành lập bởi người không phải gốc Nhật, năm 2012, Metran vinh dự đón tiếp Nhật Hoàng tham quan công ty. Được biết, Nhật Hoàng rất ít khi xuất hiện trước công chúng và mỗi năm chỉ thăm 1-2 công ty. Điều đó càng cho thấy sự đóng góp to lớn của Metran với y học Nhật Bản và thế giới.
Ngoài đóng góp cho y học, ông Trần Ngọc Phúc cũng hỗ trợ cho nhiều du học sinh người Việt tại Nhật.
Ngoài ra, phát minh máy trợ thở của ông Trần Ngọc Phúc còn giành giải nhất trong cuộc thi chế tạo máy thở nhân tạo tại Đại học Harvard do Viện Y tế Mỹ tổ chức.
Đồng thời, sản phẩm tâm huyết của ông còn được chọn là một trong 300 METI’s công nghiệp sản xuất của Nhật Bản – Monozukuri SMEs (2007), nhận giải The 5th Shibusawa Eiich Venture Dream Award.
Năm 2018, ông Trần Ngọc Phúc nhận Huân chương Mặt trời mọc tia sáng bạc của Nhật vì những cống hiến của mình.
Thái Thanh- giọng ca tiêu biểu, đặt nền móng cho tân nhạc Việt Nam vừa ra đi tại Mỹ ở tuổi 86. Bà đã sống một cuộc đời trọn vẹn cho âm nhạc và để lại hàng trăm bản thu mẫu mực, thể hiện một kỹ thuật thanh nhạc độc đáo, đầy tìm tòi, sáng tạo. Lối nhả chữ, luyến láy như làm xiếc của bà diễn tả được đủ mọi cung bậc cảm xúc của con người cũng như tôn vinh vẻ đẹp của phát âm tiếng Việt.
Thái Thanh và anh ruột Phạm Đình Chương – người đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp của bà lúc khởi đầu Ảnh: Tư liệu
Ðộc nhất vô nhị
Thái Thanh tên thật là Phạm Thị Băng Thanh, sinh năm
1934 ở quê nội, làng Bạch Mai, Hà Nội. Bà bắt đầu học hát từ năm 10 tuổi
với anh trai Phạm Đình Chương và bước lên sân khấu cùng nhóm nhạc gia
đình năm 12 tuổi. Giọng hát Thái Thanh và âm nhạc Phạm Duy (người lấy
chị gái bà) gắn bó hòa quyện cùng nhau. Thái Thanh hát hầu hết các sáng
tác của Phạm Duy, trừ mảng Tục ca.
“Có những lần anh Phạm Duy mới sáng tác được hai ba câu của một bài ca đã gọi tôi: “Em, em Thanh, hát thử cho anh nghe câu này”.
Thế thì có nghĩa là bài của ông Phạm Duy chưa xong, Thái Thanh đã hát
rồi… Tôi không nghĩ là anh Phạm Duy sửa đổi nhạc của anh ấy vì tiếng hát
của tôi đâu. Tôi chỉ nghĩ là có nhạc Phạm Duy thì có tiếng hát Thái
Thanh như thế này, và có tiếng hát Thái Thanh thì nhạc Phạm Duy mới…”-
bà bỏ lửng câu nói trong cuộc trò chuyện với Nguyễn Tiến Đức vào năm
2002. Chính Phạm Duy đã nói thay bà: “Nếu không có Thái Thanh thì nhạc
Phạm Duy cũng không được hay và nổi lên được như vậy.” Và cũng chẳng
phải đợi đến tận bây giờ, ai cũng phải công nhận, hơn ai hết, Thái Thanh
chuyển tải đến được tận hồn cốt âm nhạc của Phạm Duy.
Cách hát cường điệu của bà rất được ưa thích lúc mới
xuất hiện và in dấu lên một số ca sĩ lớp sau. Nhưng thế hệ khán giả sau
này lớn lên trong một môi trường cảm thụ khác không phải ai cũng có đủ
trải nghiệm để ngấm được biểu cảm khác lạ này. Nhạc sĩ Tuấn Khanh mô tả:
“Ngay cả trong giới sinh viên Nhạc viện, thậm chí là sinh viên thanh
nhạc, cũng không phải ai cũng tiếp nhận được tiếng hát Thái Thanh. Để
thưởng thức nhanh, những người học nhạc chúng tôi thường chia nhau giọng
hát của những người thuộc hàng con cháu của bà như Thái Hiền, Duy
Quang, Khánh Hà hoặc Ý Lan… chứ không thể bước ngay vào thánh đường âm
nhạc của bà. Giọng hát của Thái Thanh kiêu hãnh như vậy đó. Hoặc để
người tìm tới và chiêm ngưỡng, hoặc là cứ bước qua vô tình chứ không thể
nhận mình là tiếng hát giải trí đơn giản”.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng phải thốt lên: “Nếu ta
nghiêng mình lệch đi một tí, bình diện với thời gian thay đổi, thì cô
Thái Thanh đã ở bên kia tự bao giờ rồi, ví dụ năm ngàn năm về trước hoặc
năm ngàn năm về sau.” Thực sự chỉ trong giai đoạn lịch sử giao thời đặc
biệt đó, trong một gia đình giàu truyền thống âm nhạc như thế, mới hun
đúc nên một giọng hát là sự kết hợp tinh hoa của cả Đông và Tây như Thái
Thanh. Giờ đây nhìn lại có thể thấy Thái Thanh giống như làm một cú
ngược dòng ngoạn mục, chắt chiu những gì thuộc về tinh túy của lối hát
Việt, hòa vào trong kỹ thuật thanh nhạc của riêng mình. Càng về sau này,
ca sĩ Việt càng rõ xu hướng Tây hóa.
Danh ca Thái Thanh (1934-2020)
Thái Thanh kể: “Cả bố tôi và mẹ tôi đều chơi đàn cổ như
tranh, bầu, nhị, sáo… Cụ ông chơi những thứ đàn đó còn cụ bà thì chơi tỳ
bà. Mẹ tôi giỏi về nhạc lắm. Tôi nhớ ngày xưa tôi có được nghe cụ hát ả
đào thật tuyệt. Các bạn của bố tôi mỗi khi làm được những bài thơ hay
là tới đưa cho cụ hát, rồi mọi người ngồi thưởng thức.” Người luyện cho
Thái Thanh hát lối Tây chính là anh trai Phạm Đình Chương, như bà kể:
“Anh ấy mua sách báo âm nhạc của Pháp bầy bán ở Sài Gòn hoặc đặt mua từ
Paris, nói với tôi: Em ạ, em muốn hát hay thì em phải đọc sách này, và
anh sẽ chỉ dạy cho em. Nếu em hát có phương pháp như trong sách thì em
còn hát hay hơn thế nữa…”
Một số người mới nghe có thể cho rằng Thái Thanh hát bị
điệu quá, kịch quá. Tuấn Khanh cũng từng có nghi ngại này: “Thỉnh
thoảng, tôi cũng cũng giả định rằng liệu một nghệ sĩ xuất sắc như bà để
có thể sống thật trong từng bài hát hay không… Nhưng khi nghe được
chuyện bà vất vả thu hàng chục lần bài hát Bà mẹ Gio Linh do cứ
ngừng vì khóc giữa bài, tôi hiểu được rằng tiếng hát Thái Thanh không
hát chỉ cho hôm nay, mà hát cho hôm qua và cả mai sau”. Theo anh, Bà mẹ Gio Linh là một trong những ca khúc mà Thái Thanh trình bày xuất sắc nhất, nhưng bà cũng ít khi trình diễn nhất, vì nó quá đau thương.
Thái Thanh từng tâm sự với tác giả Đỗ Tăng Bí: “Ca sĩ
phải biết yêu tiếng nói của nước mình, phải yêu tiếng Việt của mình. Ca
sĩ còn phải yêu đất nước mình nữa. Khi trong bài hát có nói đến xứ sở,
những vùng nào đó trên đất nước mình, thì mình cũng phải cảm thấy yêu cả
những địa danh đó nữa… Đặc biệt tôi sinh ra ở Hà Nội thì khi đọc đên
hai chữ “Hà Nội” tôi cảm thấy một tình cảm yêu mến vô bờ, đọc đến chữ “em bé quê”
là mình cảm thấy dào dạt tình thương yêu các em nhỏ sống ở những vùng
quê nghèo nàn…. Nếu mình không yêu chữ của nước mình thì giống như
mình hát một bài hát ngoại quốc vậy”. Bà khẳng định bí quyết thành công
của mình còn nằm ở tình yêu với khán giả và tình yêu với những gì trời
đã phú cho mình. Được biết trong những năm không thể đi hát, bà vẫn
thường xuyên luyện thanh để giữ giọng.
Thái Thanh có gần 10 năm hôn nhân với một tài tử màn bạc
nổi tiếng thời bấy giờ là Lê Quỳnh. Bà có công nuôi 5 người con, trong
đó người con trai út bị liệt nửa người dưới nhưng vẫn học hết đại học và
có công việc ổn định tại Mỹ. Sau ly hôn, hai bên vẫn giữ mối quan hệ
thân thiết. Vợ mới của Lê Quỳnh thậm chí còn là người rất hâm mộ giọng
hát Thái Thanh. Năm 2000, bà từng bị tai biến não, mất trí nhớ, nhiều
lúc không nhận ra người thân. Nhưng tới 2004 bà lên sân khấu trình diễn
hết sức duyên dáng cùng con gái. Đó cũng là lần cuối bà xuất hiện trước
công chúng một cách chính thức.
Khánh Ly nhớ Thái Thanh
Năm 1969, Khánh Ly mở phòng trà QueenBee, mời Thái Thanh
làm nòng cốt, cùng lúc đó Thái Thanh cũng là vedette tại phòng trà Đêm
Màu Hồng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Những bài hit của Thái Thanh lúc
bấy giờ là Kỷ vật cho em, Mùa thu chết, Ngậm ngùi, Nửa hồn thương đau… “Đừng nói gì là khán giả, đến chúng tôi còn mê nữa”, Khánh Ly chia sẻ với Tiền Phong.
“Lũ chúng tôi lúc đó còn trẻ lắm, nghịch ngợm chẳng ai
bằng. Cô Thái Thanh lại rất thương chúng tôi nên chỉ mắng yêu mà thôi. Ở
phòng trà tôi, giờ của cô Thái Thanh là giờ đỉnh. Cô rất đúng giờ và
đến là hát, xong là đi. Ít khi cô ngồi lại trò chuyện. Tụi tôi chỉ đợi
có thế để được nghe những bài mình thích. Thế là không nhường khán giả,
tụi tôi mạnh đứa nào nấy hét: “Cô ơi Ngậm rồi Đau rồi Chết!” Tức là Ngậm ngùi, Nửa hồn thương đau, Mùa thu chết. Đêm
nào tụi tôi cũng trù tréo lên như thế, mà khán giả cũng rất là hoan hô.
Hát xong cô khẽ khàng đi xuống tủm tỉm điểm mặt chúng tôi: “Chúng mày
quá lắm nhé! Bộ hát cho chúng mày à…”.
Cô nói xong lại nhẹ nhàng cười hạnh phúc, cầm cái ví nhỏ
bước đi. Cho đến bây giờ, chúng tôi mỗi lần gặp nhau lại nhắc kỷ niệm
này và những ngày tháng tới sẽ còn nhắc mãi rồi cùng nhau cười và chảy
nước mắt. Ngọc Minh ơi, Hồng Vân ơi, Lan Ngọc ơi, cô Thái Thanh đâu
rồi?!”.
Không ít người cho rằng Thái Thanh là bà
hoàng độc tôn trong tân nhạc Việt. Khánh Ly nêu quan điểm: “Kể ra trên
thế giới, diva không nhiều lắm đâu. Còn nói tới Việt Nam, nếu có, tôi
nghĩ, chỉ một người xứng đáng được xưng tụng là diva, đó là cô Thái
Thanh. Chấm hết.” Lệ Thu từng phát biểu: “Chúng tôi không là những giọng
hát vượt thời gian được, nếu nói vượt thời gian chỉ duy nhất dành cho
danh ca Thái Thanh mà thôi!”
Diễn hành Tết Canh Tý trên đại lộ Bolsa, Little Saigon
Diễn hành Tết Canh Tý trên đại lộ Bolsa, Little Saigon January 25, 2020
Đoàn rước quốc kỳ Hoa Kỳ và VNCH. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
WESTMINSTER, California (NV) –
Đúng 8 giờ sáng 25 Tháng Giêng, tức Mồng Một Tết Canh Tý 2020, cuộc
diễn hành mang chủ đề “Tri Ân” do Little Saigon Westminster Tet Parade
tổ chức chính thức bắt đầu.
Thời
tiết tại Little Saigon hôm nay khá đẹp, trời khô ráo và nhiệt độ ngoài
trời khoảng 54 độ F, rất thuận lợi cho cuộc diễn hành.
Từ
6 giờ sáng, thành phố đóng đường để 7 giờ các đoàn thể và xe hoa có thể
vào vị trí. Hai lá đại kỳ do nhóm Hậu Duệ VNCH Khóa 5 vào vị trí để cử
hành lễ khai mạc.
Lộ trình cuộc diễn hành sẽ đi trên đại lộ Bolsa, bắt đầu từ ngã tư với đường Magnolia và kết thúc ở Bushard.
Trong
cuộc diễn hành này có nhiều xe hoa, đặc biệt là dàn quân xa các quân
binh chủng, đơn vị, quân trường và trung tâm huấn luyện, cùng một số
chiến cụ, như hai chiếc trực thăng HUEY UH1, đại pháo 106 ly không
giựt,… của Quân Lực VNCH.
Cuộc diễn hành diễn ra trong khoảng 4 tiếng đồng hồ và kết thúc lúc 12 giờ trưa cùng ngày.
Dưới đây là một số hình ảnh của cuộc diễn hành trên đường Bolsa sáng nay.
Một chiếc xe hoa được làm công phu tham gia diễn hành. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đoàn diễn hành của Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đoàn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Các em thiếu nhi trong Ban Nhạc của trường Sarah McGarvin Intermediate. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đoàn diễn hành của Tết Parade. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đời sống thanh bình của người dân miền Nam dưới thời VNCH.. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Tái hiện trận Ngọc Hồi của Hoàng Đế Quang Trung. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Hành trình 45 năm của người Việt tại Hoa Kỳ. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Trực thăng HUEY UH1. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đại pháo 106 ly không giựt. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đoàn quân xa của Quân Lực VNCH. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đoàn quân xa của Quân Lực VNCH. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đoàn của tổ chức VPDCA. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Xe của đoàn cảnh sát Orange County.. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Xe của Hội Ái Hữu Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đoàn diễn hành của Chương Trình Việt Ngữ. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đoàn diễn hành của Chương Trình Giáo Dục Song Ngữ Anh Việt, Học Khu Westminster. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Xe diễn hành của Disney Land. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Các Thiếu Sinh Quân. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Các Thiếu Sinh Quân. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Lá quốc kỳ VNCH sẽ dẫn đầu trong đoàn diễn hành năm nay. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đoàn rước quốc kỳ của VNCH và Hoa Kỳ. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Lân mừng pháo trong lễ khai mạc. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đốt pháo khai mạc diễn hành. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Thị
Trưởng thành phố Westminster Trí Tạ và Giám Sát Viên Orange County
Andrew Đỗ phát biểu tại lễ khai mạc. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Chuẩn bị cho lễ khai mạc diễn hành. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Ban nhạc của trường trung học Bolsa Grande chuẩn bị tham gia diễn hành. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Màn múa lân trong lễ khai mạc diễn hành. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Lần
đầu tiên được ban tổ chức thiết lập khu ghế khách danh dự, riêng biệt
bên cạnh sân khấu, có nhiều tầng, có phục vụ phần ăn sáng nhẹ và giải
khát. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Thư Chúc Tết của Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải
Thư Chúc Tết của Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải
Kính thưa đồng bào,
Nhân dịp Tết Nguyên Đán Canh Tý 2020, Tôi, Ngô Thanh Hải, Thượng Nghị Sĩ Canada, xin kính chúc toàn thể đồng bào trong và ngoài nước một năm mới an khang, hạnh phúc và may mắn.
Nhìn lại năm qua, mọi con dân Việt yêu quê hương đều bùi ngùi nhìn những sự kiện Đồng Tâm, Vườn Rau Lộc Hưng với hàng ngàn người mất nơi cư ngụ, đến nỗi đau còn vằn vặt từ cả thập niên nơi Thủ Thiêm. Cho đến nay người dân mất đất vẫn mang kiếp dân oan không biết cho đến bao giờ; bên cạnh đó là sự lên ngôi của nhóm lợi ích thân hữu. Chính người cộng sản vi phạm luật đất đai của đảng Cộng Sản chiếu theo Hiến Pháp 1992 điều 17 và điều 18.
Có hai dòng chảy ngược chiều của đất nước, một bên là giới chức lãnh đạo Đảng và Nhà Nước hưởng ưu đãi cùng/ từ nhóm lợi ích thân hữu và bên kia là đại đa số người dân, thế cô bị mất ruộng vườn, đất đai, nhà cửa và một số trở thành dân oan nơi chính mảnh đất của ông bà để lại. Một bức tranh xã hội vẽ đầy áp bức, bất công trong thiên niên kỷ 21,tệ hại hơn nhiều so với thời kỳ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam hơn 80 năm.
Nhìn sang các nước láng giềng Hồng Kông, Đài Loan, là một bức tranh hoàn toàn khác, nơi đó cũng trải qua nhiều nghiệt ngã, nhưng họ còn có hy vọng nhìn thấy đoá hoa dân chủ nở rộ trong ánh bình minh tương lai. Dù là con dân Việt sống xa quê hương, nhưng chúng tôi có cùng nỗi đau với những người cùng huyết thống, cùng Mẹ Âu Cơ. Chúng tôi, những người con dân Việt có bổn phận cất tiếng nói lương tâm vì đồng bào ruột thịt khốn khổ nơi quê nhà.
Viêt Nam, một đất nước giàu tài nguyên, nhưng tài nguyên được khai thác và đem bán với dạng thô, cũng chính tài nguyên thô đó lại được nhóm lợi ích nhập cảng về với giá gấp SÁU lần giá đem bán. Nhà nước im lìm! Việt Nam tôi, trong sách lịch sử nói rằng đó là Biển Bạc, nơi được khám phá có nhiều dầu hoả và ngàn trùng tôm cá. Giờ đây biển của tôi, nhưng ngư dân ra đánh bắt bị đánh chìm tàu, ngư dân bị bắt với món tiền chuộc không nhỏ. Những mỏ dầu với trữ lượng lớn không dám khai thác. Nhà cầm quyền Việt Nam hãy trả lời cho dân tộc những việc nầy, để chứng minh sự chính danh trong lãnh đạo.
Lạ lùng nhất là công dân đang ngủ giữa khuya trong nhà bị lực lượng hùng hậu Cảnh Sát tấn công, giết chết mà không hề có lệnh của toà án. Một hành vi vi phạm nghiêm trong luật pháp của Việt Nam và luật pháp quốc tế. Thế mà những người chà đạp luật pháp được ân thưởng huy chương quốc gia. Người chết, khi đã chết mà trên tay còn cầm quả lựu đạn. Một huyền thoại mà nhân loại từ thuở sơ khai cũng không ai tin là có.
Quê hương tôi còn hàng ngàn, hàng triệu nghịch lý diễn ra hằng ngày, trên đầu đồng bào bất hạnh của chúng tôi. Người lãnh đạo Cộng Sản biết hơn ai hết :”Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh.” Karl Marx đã nói. Và sự tranh đấu của đồng bào trong nước là một tất yếu, không thể làm khác.
Vì là qui luật tất yếu nên mọi công dân đều phải theo lòng dân nếu muốn tồn tại trong lòng dân tộc. Những ai đi ngược, chà đạp nguyện vọng người dân, hãy nhìn lại bài học mà vợ chồng nhà độc tài Ceausescu, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Romania trả giá để rút ra bài học cho chính bản thân mình. Người dân không đòi làm lãnh đạo đất nước, họ chỉ đòi dân chủ, nhân quyền, những quyền con người cơ bản nhất, những thứ mà nhân loại đang được hưởng. Tại sao đồng bào tôi không có?
Để đất nước phát triển, người dân cần được có cuộc sống tự do, dân chủ, no ấm, được người nước ngoài nể trọng khi có dịp xuất ngoại. Khi có Tự Do, Dân Chủ người dân sẽ đoàn kết lại để cùng chung sức chống lại kẻ thù truyền kiếp, sẽ bang giao với những quốc gia phát triển, tránh đi vào bẩy nợ mà kẻ thù đang giăng bủa trong mọi dự án với số tiền lại qủa cao cho những kẻ hám lợi bán rẻ quê hương.
Chỉ những người yêu quê hương nầy, những người tha thiết với hai chữ Việt Nam, những người dám chấp nhận tù tội, tra tấn, đánh đập, dám cất tiếng nói vì lương tâm, vì dân tộc mới dám hy sinh cho mục tiêu cao cả nầy. Tôi ủng hộ họ, những công dân nầy đích thực hy sinh cho dân tộc. Họ không lừa dối dân tộc, họ không bán rẻ đất nước vì quyền lợi riêng của họ. Tôi xin kêu gọi đồng bào hãy can đảm đứng lên vì tổ quốc, nếu không nguy cơ mất nước vào tay Trung Cộng ngày càng hiện rõ.
Xin kính chúc đồng bào trong nước, ở nước ngoài được an khang, thịnh vượng để đồng hành cùng những người con yêu của đất nước. Kính chúc đồng bào trong nước vững bước, vững lòng tin vào cuộc tranh đấu cho chính nghĩa của dân tộc. Chúng ta sẽ sớm thấy ngày quê hương không còn Cộng Sản.
Xin kính chào đồng bào. Thượng Nghị Sĩ Canada Ngô Thanh Hải
Hôm nay tại quận Cam, Nam California, đã trang trọng làm lễ khánh thành tượng đài kỷ niệm và ghi ơn 75 chiến sĩ VNCH đã hy sinh trong trận hải chiến với đoàn quân xâm lược Trung Cộng tại Hoàng Sa ngày 19-1-1974.
46 năm đã trôi qua… Lịch sử dân tộc phải được tôn trọng, và gìn giữ cho thế hệ mai sau Buổi lễ hôm nay đặc biệt có sự tham dự của một số hậu duệ của những anh hùng đã vị quốc vong thân đó. Năm 1974, khi cố thiếu tá hạm phó Nguyễn Thành Trí chìm sâu dưới lòng biển đông cùng với chiến hạm lịch sử Nhật Tảo HQ10, cô bé Nguyễn Thị thanh Thảo 4 tuổi đầu phải chịu mồ côi cha. 46 năm sau, cô đã có mặt tại buổi lễ khánh thành tượng đài ghi ơn những anh hùng mà cha của cô là một trong 75 điểm son sáng ngời đó của dân tộc.
Lễ Tưởng Niệm Hải chiến Hoàng Sa
Lễ Tưởng Niệm Hải chiến Hoàng Sa
Để bày tỏ Lòng Tri ân và Tưởng nhớ các chiến sĩ Hải quân Quân lực Việt Nam Công Hoà đã chiến đấu và hy sinh anh dũng trước quân xâm lược Trung quốc, để bảo vệ Hoàng Sa, hàng năm dù đã trên bốn mươi năm nơi quê hương thứ hai, các anh em đồng đội đã không quên tổ chức Lễ Tưởng Niệm, vinh danh những anh hùng đã khuất.
Trưa Chủ nhật 19/01/2020, vào hồi 11.30 ngày – đúng vào ngày nổ ra trận hải chiến Hoàng Sa trước đây bốn mươi sáu năm- tại Trung Tâm Cộng Đồng Việt Mỹ trên đường Lucretia Ave thành phố San Jose, Hội HQ Bạch Đằng bắc California đã phối hợp các hội đoàn cựu quân nhân địa phương, tổ chức Đại Lê Tưởng Niệm với sự tham dự của nhiều quan khách và đồng hương.
Sau đây là một vài hình ảnh chúng tôi ghi lại, xin được chia xẻ cùng Quí Vị cùng Các Bạn xa gần, góp lòng bày tỏ sự Tri ân các anh hùng đã hy sinh bảo vệ Tổ Quốc.
Họa sĩ Hoài Nam qua đời: Con ngựa già đã tìm về đồng cỏ
Họa sĩ thiết kế sân khấu Hoài Nam – Ảnh: Tư liệu
Nghệ sĩ Hoài Nam – người họa sĩ tiên phong của ngành thiết kế mỹ thuật sân khấu cải lương miền Nam và đã cống hiến trọn vẹn – suốt đời cho đam mê nghệ thuật này đã qua đời ở tuổi 90 ở Viện dưỡng lão nghệ sĩ TP.HCM.
Sáng nay (7.1.2020) lướt Facebook, mới hay tin họa sĩ Hoài Nam đã từ trần lúc 4 giờ sáng nay tại Khu dưỡng lão nghệ sĩ (đường Âu Dương Lân, Q.8, TP.HCM), thấy hồn xốn xang, và chắc chắn rằng nhiều “cựu cư dân” của “Tám Mốt-Trần Quốc Thảo”: Thiên Hà, Trương Đạm Thủy, Lê Hồng Thái, Bùi Công Doanh, Tăng Bình, Trần Lượng… cũng sẽ bồi hồi với cái tin ông mất…
Nhớ khoảng 20 năm về trước, khi tôi là “đại sứ thường trực” ở Quán Nghệ sĩ (81, Trần Quốc Thảo, Q.3), thỉnh thoảng vẫn thấy ông xuất hiện ở đây: Dáng người mảnh khảnh, tóc dài, cặp mắt sâu sau đôi kính lão, đôi má hóp sâu… Ông ngồi uống bia với bạn bè nhưng rất kiệm lời, chỉ thỉnh thoảng nở nụ cười thật hiền. Anh em giới thiệu với tôi: “Họa sĩ Hoài Nam – chuyên thiết kế cho các sân khấu cải lương”.
Từ đó, tôi thường được ngồi “hầu bia” với ông cùng với nhà văn Dương Hà (tác giả tiểu thuyết Bên Dòng Sông Trẹm), nhà thơ-soạn giả Kiên Giang-Hà Huy Hà và nhóm anh em đã kể ở trên. Tôi đã chụp ông khá nhiều bức ảnh vẫn còn lưu file ở đâu đó mà nhất thời chưa tìm lại được. Lúc đó, ông đã “giã từ vũ khí” và đã về nương thân ở Khu dưỡng lão nghệ sĩ bởi ông thuộc dạng “tứ cố vô thân”, chưa từng có vợ nên cũng chẳng có con cái để làm chỗ dựa lúc tuổi xế chiều…
Họa sĩ Hoài Nam và tác phẩm – Ảnh: Tư liệu
Họa sĩ Hoài Nam tên thật là Bùi Hoài Nam, ông sinh năm 1930 trong một gia đình điền chủ tại Thủ Thừa (Long An), 15 tuổi “công tử Thủ Thừa” bỏ nhà đi theo kháng chiến, một năm sau trở về thì… nhà cửa ruộng đất mất sạch. 17 tuổi, Hoài Nam lên Sài Gòn học Trường vẽ Gia Định, đồng thời ghi danh học Trường Âm nhạc Sài Gòn. Tuy nhiên, vốn tính lãng tử, cả 2 môn học này ông đều bỏ ngang khi sắp tốt nghiệp. Lúc đó, Hoài Nam chơi thân với con trai của nghệ sĩ cải lương kiêm bầu gánh Năm Châu. Vậy là lân la với nghề trang trí sân khấu.
Thoạt đầu là phụ việc cho các họa sĩ đàn anh, dần dần trở thành họa sĩ chính, nổi tiếng đến nỗi gánh hát nào cũng muốn nhờ ông trang trí. Nghe kể rằng chính ông là người đã làm một cuộc cách mạng: Đưa việc thiết kế phông màn sân khấu từ đình chợ đơn giản ra rạp hát hoành tráng. Sau này (từ năm 1958) ông còn là họa sĩ thiết kế hình ảnh cho các bộ phim: Xa lộ không đèn, Bàn thờ tổ của cô đào, Nghêu Sò Ốc Hến, Hồi chuông Thiên Mụ…
Trước 1975, ông thuê một căn nhà ở cuối đường số 2 Làng báo chí Thủ Đức. “Trong nhà không một cái ghế ,cái bếp hay những vật dụng sinh hoạt tối thiểu của một gia đình, nói chung như một cái nhà hoang vậy… Nhưng trong nhà có rất nhiều những hũ rượu thuốc mà ông đi đây đi đó mang về và sách thì chất đầy nhà với những sách tiếng Hán, hay những bộ truyện Kim Dung mới xuất bản ở Sài Gòn thời đó, cùng với báo chí hay những giá vẽ, tranh vẽ dở dang v.v… (chi tiết này của Bùi Công Doanh, người ở cùng Làng Báo chí Thủ Đức với ông). Mỗi lần có đoàn hát đặt hàng là ông đóng cửa đi vẽ suốt tháng.
Dạo ấy, thu nhập của ông phải nói là “xu hào rủng rỉnh” nên ông rất hào phóng với bạn bè thân hữu. Cũng dễ hiểu vì ông không vướng bận vợ con. Thực ra hồi ấy ông là một họa sĩ tài hoa, làm ra tiền, lại đẹp trai với dáng người dong dỏng cao nên thiếu gì cô đào hát xinh đẹp hoặc những cô gái hâm mộ sẵn sàng tình nguyện “nâng khăn sửa túi”, Trước năm 1954, ông cũng đã từng yêu một cô gái, tính chuyện cưới xin nhưng rồi cô ấy trở mặt, bỏ ông để lấy một anh lính Tây, từ đó ông “tắt lửa lòng”. Một điều nữa khiến ông không tha thiết gì chuyện vợ con là bởi ông từng chứng kiến cha mẹ chết sớm, rồi lần lượt 7 người anh em ruột của ông qua đời mà không ai qua khỏi tuổi 40. Ông tự nhủ: “chắc mình cũng không qua khỏi cái ngưỡng ấy. Thôi, vợ con làm gì, thêm khổ cho người ta !” (vậy mà ông sống ngót…90 tuổi mới lạ!).
Sau hơn 60 năm làm việc cho các đoàn sân khấu, ông về nương thân ở Khu dưỡng lão nghệ sĩ (quận 8), viết bộ sách Giải mã Hán – Việt – Nôm theo phương pháp họa tự và sáng tác thơ. Việc nghiên cứu chữ Hán cũng là một đam mê song song với hội họa. Ông kể rằng, dạo còn phiêu bạt ở tuổi thanh niên, ông được học chữ Hán với một ông chủ tiệm thuốc bắc người Hoa ở Vũng Tàu. Bộ sách Giải mã Hán – Việt – Nôm theo phương pháp họa tự đã được NXB Trẻ in tập 1 (tập 2 đang dang dở thì ông mất).
Còn về thơ, thú thực chơi với ông cũng khá lâu, cũng từng nhiều lần ngồi nghe ông nói chuyện nhưng tuyệt nhiên tôi cũng như bạn bè quanh ông chưa bao giờ nghe ông “đụng chạm” gì tới thơ văn cả. Vậy mà mới đây nhà thơ Trương Đạm Thủy tiết lộ (trích: “Mới đây gặp lại anh với nụ cười móm xọm của tuổi U.80, anh trao tôi món quà là kết quả của những đêm già khó ngủ. Đó là tác phẩm tập photo bản thảo thơ 7 cuốn gồm: 1/Ngũ Âm, 2/Thơ Đường Phố, 3/Túy thi,, 4/Tình thi, 5/Lãng Thi, 6/ Thủy mặc thi, 7/Điền dã thi..; Chưa bao giờ tôi nghĩ Hoài Nam lại có một tâm hồn thơ nồng nàn đến vậy. Anh lại còn tỏ ra có tay nghề với một dòng thơ vừa hiện đại lại vừa u hoài cổ phong như trong Đêm:
Sao đêm trùm chăn lạnh
Lã đời nhẹ ý xanh
Tơ thơ mơ bỡ ngỡ
Vương vương lệ đầu cành…
Trong tập ”Thơ Đường phố” Hoài Nam tự nhận mình như con ngựa hoang dù đã đi gần hết cả đời người mà vẫn hoài lang thang đơn độc. Anh viết :
Anh là con ngựa hoang
Nên không có đồng cỏ
Em là con yến nhỏ
Chỉ hát trong lồng son
Ngựa hoang không biết hát
Chỉ thống hí lê thê
Một dòng đời ê chề
Nên ngôn ngữ xa anh… (hết trích).
Vậy đó, con ngựa già giờ đã khuỵu vó. Xin cuộc đời là đồng cỏ thanh bình để ông tìm về an nghỉ. Cuộc sống riêng của ông dẫu có cô đơn nhưng ông vẫn hiện diện một cách thật nồng ấm trong trái tim bạn bè và người mộ điệu…
Xin vĩnh biệt ông: Người họa sĩ tiên phong của ngành thiết kế mỹ thuật sân khấu cải lương miền Nam và đã cống hiến trọn vẹn – suốt đời cho đam mê nghệ thuật này.
Hà Đình Nguyên
Một số tranh của họa sĩ Tô Hoài Nam:
Cúc trắng
Cúc và nho
Cúc và táo
Đường hoa
Cuối xuân
Mùa hè
Cuối hè
Cuối thu
Lập đông
Giữa mùa đông
Nắng chiều trên đồng vàng
Bóng núi
Núi
Sườn núi
Xa lộ qua núi
Vô biên
Xưa và nay
Nhà văn Nguyễn Thị Vinh (Tự Lực Văn Đoàn) vừa qua đời
Nhà văn Nguyễn Thị Vinh… nhân vật cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn vừa qua đời
Nhà văn Nguyễn Thị Vinh… nhân vật cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn vừa qua đời ngày 8/1/2020 tại Na Uy, hưởng thọ 97 tuổi…
Hồi nhỏ, Hà Đình Nguyên đã từng được đọc (học) văn của bà từ những bài trích đăng tác phẩm “Hai chị em”, “Thương yêu” trong sách giáo khoa… Càng ngưỡng mộ bà hơn khi biết bà (và cô con gái 15 tuổi) đã thức trắng đêm bên thi thể nhà văn Nhất Linh tại nhà xác Nhà thương Grall trong đêm 7/7/1963…
Nguyễn Thị Vinh và con gái Trương Kim Anh chụp ở Hà Nội 1950.
Tìm những tư liệu về bà, thấy ngày xưa bà là một phụ nữ hết sức xinh đẹp và tài năng, văn của bà ấm áp, thương yêu…
Xin trích đăng đôi dòng về thân thế của bà gắn liền với Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn.
Bà Nguyễn Thị Vinh, 1 trong ba thành viên cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1933 Tự Lực Văn Đoàn chính thức thành lập gồm có: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ) về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu, và còn một số nhà văn cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này là: Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ… Bà Nguyễn Thị Vinh là 1 trong ba thành viên cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn.
Bà Nguyễn Thị Vinh sinh năm 1924 tại Hà Nội. Quê nội: làng Thịnh Đức thượng Hà Đông. Quê ngoại: làng Vân Hoàng, Hà Đông. Đã xuất bản nhiều tác phẩm tiêu biểu, gồm truyện ngắn, truyện dài, thơ và tùy bút…
Trước năm 1975 bà giữ chức Chủ bút và Chủ nhiệm 2 tạp chí văn nghệ: Tân Phong và Đông Phương. Bà cũng là thành viên của Hội đồng Giám khảo Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc VNCH. Sau 1975, bà sống tại Na Uy và tiếp tục hoạt động văn học trong vai trò Chủ nhiệm tạp chí văn nghệ Hương Xa. Và là thành viên trong nhóm chủ biên nhà xuất bản Anh Em.
Sau đây là phần nói chuyện của Mặc Lâm (Đài RFA) với bà:
Mặc Lâm:Thưa bà, xin bà cho biết cơ duyên nào đưa tới việc bà gia nhập Tự Lực Văn Đoàn?
Bà Nguyễn Thị Vinh: Ba thành viên lớp sau (hay đúng hơn, phải gọi là ba thành viên dự bị) của Tự lực Văn đoàn, gồm nhà văn Duy Lam (cháu gọi Nhất Linh bằng cậu ruột), nhà văn Tường Hùng và tôi đều do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lựa chọn, tại Sài Gòn vào khoảng đầu thập niên 1950.
Văn bản với bút tích của nhà văn Nhất Linh hiện do tác giả Nguyễn Tường Thiết, con trai út của nhà văn Nhất Linh lưu giữ. Trước đó, trong một bài thơ mang tên Tự Lực, Nhất Linh viết vào lúc 2 giờ sáng Mùng Một Tết năm Quý Tỵ (nhằm ngày 14 tháng 2 năm 1953), ông đã ghi:
Tự Lực vườn văn mới trội tên Bỗng dưng thời thế đảo huyên thiên Thương dăm lá cũ vừa rơi xuống Mừng mấy mầm tươi vụt nhú lên Mạch cũ, nhựa non rồn rập chảy Vườn xưa, hoa mới điểm tô thêm Người qua, sách mọt, đời thay đổi Tự Lực, danh chung, tiếng vẫn truyền.
Mặc Lâm: Xin cho biết về tác phẩm đầu tay của bà cũng như tác phẩm mới đây nhất.
Bà Nguyễn Thị Vinh: Hai Chị Em, Truyện ngắn, NXB Phượng Giang, Việt Nam Sài Gòn 1953. Cỏ Bồng Lìa Gốc, Tùy bút /Tâm cảm, NXB Anh Em, Hoa Kỳ San José 2005.
Mặc Lâm:Tự Lực Văn Đoàn đã được lịch sử xác nhận là một tổ chức có ảnh hưởng rất lớn đối với thanh niên và trí thức trong một khoảng thời gian dài. Xin bà cho biết chi tiết hơn về vấn đề này.
Bà Nguyễn Thị Vinh: Tự lực Văn đoàn gây ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài đối với đa số thanh niên nam, nữ thị dân theo Tây học và Chữ Quốc Ngữ, từ Bắc tới Nam, về các mặt tư tưởng, văn hóa, xã hội…
a/ Trước hết phải kể tới Tinh thần Tự lực từ cá nhân, gia đình cho tới xã hội. Không có Tinh thần Tự lực thì quốc gia không thể giành được nền độc lập toàn vẹn, đúng nghĩa.
Tự lực Văn đoàn gây ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài đối với đa số thanh niên nam, nữ thị dân theo Tây học và Chữ Quốc Ngữ, từ Bắc tới Nam, về các mặt tư tưởng, văn hóa, xã hội…
b/ Giữ gìn truyền thống mỹ tục. Đả phá mọi hủ tục. c/ Nêu cao tinh thần Khoa học Thực nghiệm. Bài trừ thói mê tín dị đoan. d/ Chống nạn mù chữ. Phổ biến và nghệ thuật hóa việc dùng Chữ Quốc Ngữ. e/ Hướng đến một cuộc cách mạng, tạm gọi là “Cách mạng Tư sản”, trên nền tảng Chủ nghĩa Tam Dân: “Dân tộc Độc lập, Dân quyền Tự do, Dân sinh Hạnh Phúc.”
Cho nên từ “ngôi nhà ánh sáng”, tới chiếc “áo dài LeMur”, “thơ Mới”, “tiểu thuyết luận đề”, “đảng Hưng Việt”, đến báo chí “Phong Hóa”, “Ngày Nay” và “Văn Hóa Ngày Nay”… Tranh khôi hài “Lý Toét, Xã Xệ”… đã làm nên tính cách Tự lực Văn đoàn, một văn đoàn vì Quốc gia Dân tộc.
Mặc Lâm:Những thành viên cuối cùng hiện còn sống ngày nay gồm những ai, có ai trong số họ vẫn còn theo đuổi văn chương nghệ thuật không?
Bà Nguyễn Thị Vinh: Hai nhà văn Duy Lam và Tường Hùng vẫn sáng tác, sinh hoạt văn nghệ. Phần tôi, hoạt động văn nghệ không nhân danh Tự lực Văn đoàn. Vì tự nghĩ: Tự lực Văn đoàn đã làm xong nhiệm vụ lịch sử kể từ sau sự tuẫn tiết của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. (hết trích)
Đoạn dưới đây trích trong “Văn học miền Nam 53-75” của Nguyễn Văn Lục, phần “Nguyễn Thị Vinh”:
Trường hợp Nguyễn Thị Vinh. Bà Vinh đã từng sống bên cạnh Nhất Linh, khi ở bên Tàu — với tư cách là đồng chí, bạn văn ,người tình– hay là tất cả những thứ cộng lại?(*)
Khoảng thập niên 60, nhà văn Thế Phong – đã mượn một số chi tiết trong đời sống riêng tư của nữ văn sĩ Nguyễn Thị Vinh, viết thành “Truyện người của tình phụ“. Ban đầu in rô-nê-ô (Đại Nam Văn Hiến xuất bản cục, 1963) — sau cho đăng [dở dang] trên tập san Biệt chính/ Trung tâm huấn luyện Xây dựng nông thôn Vũng Tàu. (PAT). Năm 1964, nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến in thành sách (bìa/ảnh của Nguyễn Cao Đàm. Sau 1975, nxb Đồng Nai (miền Nam) cấp phép tái bản, in chung trong ‘Cô gái Nghĩa Lộ’. (Bt)
Riêng Nguyễn Thị Vinh, trong trường hợp nào bà quen biết, [rồi] trở thành người của nhóm TLVĐ? Tôi [Nguyễn Văn Lục] chưa liên lạc trực tiếp được với bà Nguyễn Thị Vinh để hiểu rõ vấn đề này.
Nhưng chỉ biết 2 chị em Nguyễn Thị Vinh có mở một tiệm sách ở Hà Nội. Sau này bà Nguyễn Thị Vinh lấy Trương Bảo Sơn (một đảng viên VNQDĐ, còn là một dịch giả có tiếng).
Phải chăng, vì mối liên hệ đảng phái, Nguyễn Thị Vinh có nhiều dịp gần gũi với Nhất Linh? Nhất là, khi trôi giạt sang Tàu, Trương Bảo Sơn và vợ, [họa sĩ] Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Tam-Nhất Linh sống chung một nhà.
Nhưng mãi đến 1948, bà Nguyễn Thị Vinh, (cùng con gái 3 tuổi, [Trương Thị Kim Anh [1946 – ] từ Hà Nội sang sống với chồng, Trương Bảo Sơn. Có thể từ 1948, bà Nguyễn Thị Vinh mới được quen biết Nhất Linh? Cùng trong thời gian này, Nhất Linh đã khuyến khích Nguyễn Thị Vinh viết cuốn ‘Thương yêu’ và bà Linh Bảo [Võ Thị Diệu Viên 1926 – ] viết cuốn ‘Gió bấc’.
[Và cũng] có thể, có một mối tình tay 3, tay 4 không? Tôi [Nguyễn Văn Lục] tin là có — khi nhìn lại hình ảnh Nhất Linh ôm, ẵm, cưng chiều con gái Nguyễn Thị Vinh là Trương Kim Anh. …
Sau này, đọc hồi ký Nguyễn Thị Thế (em gái Nhất Linh, mẹ Duy Lam +Thế Uyên) có đoạn kể về Trương Kim Anh,
“Khi tôi giở chăn ra để được ngó mặt anh tôi, [thì] có cái sáo rơi xuống. Tôi lấy làm lạ, hỏi cháu Thoa, [thì] nó cho biết, có cô con gái nuôi của cậu cháu (Trương Kim Anh) tối qua đem sáo vào nhà xác, thổi suốt đêm cho [cậu cháu] nghe. Thổi xong, nó tặng luôn chiếc sáo; và, nói từ nay nó sẽ không còn thổi sáo cho ai nghe nữa đâu …” (trích’ Sđd – tr. 159).
Trương Kim Anh 15 tuổi, ảnh Mạnh Đan
Trong bài ‘Tưởng nhớ về Nhất Linh”, Trương Kim Anh viết,
“Sau một lúc, mẹ tôi bảo tôi lấy sáo trúc ra thổi một bản tiễn bác. Tôi gạt nước mắt, đưa ống sáo ngang miệng, chọn bản ‘Thiên Thai’ — bản mà bác thường bảo tôi thổi, mỗi lần bác đến nhà chúng tôi. Tiếng sáo u uẩn vang trong khu nhà xác, lạnh lẽo. Nhưng chỉ được nửa bản, tiếng sáo ngưng trong tiếng nấc nghẹn ngào, âm thanh như đọng lại trong không gian, tiễn đưa hương linh bác về nơi vĩnh cửu…” (trích Sđd).
Từ bức ảnh của Mạnh Đan chụp Kim Anh thổi sáo, nhà văn Nhất Linh đã vẽ bức tranh “Ngồi thổi sáo dưới gốc thông” ký tặng Kim Anh.
Trong mục ‘Lan hàm tiếu’, dành cho các thiếu nhi trên nguyệt san Văn hóa ngày nay, Nhất Linh đã không quên, cả người đọc cũng khó bỏ qua bóng dáng Nguyễn Thị Vinh, qua Trương Kim Anh. [Khi ấy] Trương Kim Anh 12 tuổi đã tập tành viết tác phẩm đầu tay ‘Ở vậy’, dưới sự hướng dẫn của ‘bác’ Nhất Linh. Người ở lại sau cùng trong đêm cuối cùng, trước khi Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam đi vào lòng đất, là bà Nguyễn Thị Vinh và cô con gái Trương Kim Anh.
Và, trước khi tuẫn tiết… người được Nhất Linh đến gặp lần cuối cùng [vẫn] là bà Nguyễn Thị Vinh. — Trương Kim Anh kể,
“… Mãi sau này tôi mới biết chuyện quan trọng đó là, ‘bác [Nguyễn Tường] Tam nhận được trát đòi ra hầu tòa, cùng với một bạn chiến đấu của bác, trong đó có ba tôi, “ông Trương bảo Sơn…”. Tôi hơi ngạc nhiên về chú thích để trong ‘ngoặc kép’; [thì] khoảng một tiếng sau, từ trên cửa sổ nhà Thủy nhìn xuống nhà mình; tôi thấy bác Tam đang từ giã mẹ tôi …”
Đây là một ‘cử chỉ chỉ có [ở] người trong cuộc’ (chữ nghiêng: Bt), trong giờ phút giữa sống chết, bên bờ tử sinh, mới thấm thía hết được ý nghĩa cuộc gặp gỡ định mệnh này.
Cô Trương Kim Anh (con nuôi Nhất Linh) sau này lấy [thẩm phán quân sự] – nhà văn Dương Kiền. Theo các con, cháu của Nhất Linh; Duy Lam cho rằng nhiều phần Nhất Linh và Nguyễn Thị Vinh phải có cái gì với nhau. (chữ nghiêng: Bt). Nhưng nó cụ thể như thế nào thì không ai dám chắc? Nhưng, trong cách thức của bà Nguyễn Thị Vinh, khi nói về Nhất Linh; thì bà thường làm ra cái vẻ là người tình của Nhất Linh (chữ nghiêng: Bt) — hay là [bà Vinh] đóng kịch như thể,
[để] gây cho mọi người có cảm tưởng là giữa bà và Nhất Linh hẳn phải có một mối dây liên lạc mật thiết.
Nhưng hay nhất, vẫn là để Nguyễn Thị Vinh tỏ bày,
“Đời tôi từ bấy lâu nay, thời gian đi già nửa thế kỷ, đã từng ở những nơi nhà cao cửa rộng, đầy đủ tiện nghi; mà, sao tôi vẫn không thể quên được túp lều (trên núi) của chúng tôi. Chao ôi, mỗi khi tắm, tôi chưa thấy có một vòi hoa sen nước nào có thể so sánh được với dòng suối ngày ấy. Tôi biết kể sao cho hết nỗi vui thích của tôi mỗi khi ra suối tắm.” (trích Sđd- tr. 85- 86).
Khó quên là phải, làm sao quên được! Cá tính bà Nguyễn Thị Vinh, theo nhiều nhận xét của vài người quen biết bà trước đây; hoặc là, người trong gia đình Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam cho biết, [thì bà Nguyễn thị Vinh] là một người đàn bà đa tình và vô cùng lãng mạn (chữ nghiêng: Bt) — gần như không có một biên giới nào.
Chuyện Trương Bảo Sơn và Nguyễn Thị Vinh chia tay, thì cũng là chuyện đành phải như vậy. Sau khi Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam tự tử vào ngày 7-7- 1963 — bà Nguyễn thị Vinh vẫn thường [một mình] đi xe lam lên thăm mộ Nhất Linh ở Nghĩa trang Bắc việt ở Hạnh Thông Tây (quận Gò Vấp). — gần mộ nhà văn nổi tiếng miền Nam Hồ Biểu Chánh. Bà Nguyễn Thị Vinh thăm viếng mộ Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam, là đốt 4 điếu thuốc lá Bastos xanh, cắm vào 4 góc mộ, rồi mở 2 chai la-de 33, tưới lên phần mộ để tưởng nhớ Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam. …
[Rồi, họa sĩ trẻ tuổi Động Đình Hồ, tên thật là] Nguyễn hữu Nhật [1942- 201x) đã gặp bà Nguyễn Thị Vinh tại nhà nữ sĩ Tuệ Mai [Trần Thị Gia Minh, con cụ Á Nam-Trần Tuấn Khải].
[Có] một hôm, Nguyễn Hữu Nhật hẹn với bà Nguyễn Thị Vinh đi thăm mộ Nhất Linh (dù Nhật đã hứa hôn với một nữ sinh viên trường Luật, tên Bình [cháu họ thi sĩ Vũ hoàng Chương]). Vài tuần sau, 2 người đã kết thành đôi lứa, ông Nguyễn Hữu Nhật chính thức làm chồng bà Nguyễn Thị Vinh [1924- ].
Mối nhân duyên này đúng là duyên kỳ ngộ — và như có sự chứng giám của một người đã chết [Nguyễn Tường Tam-Nhất Linh].
Sự hiện diện của [nữ văn sĩ] Nguyễn Thị Vinh trong TLVĐ, hay là trong đời sống Nhất Linh-[Nguyễn tường Tam] chỉ là một. (chữ nghiêng). (hết trích)
Đọc đoạn (trích) cuối, tôi (Hà Đình Nguyên) không hiểu có chuyện bà Nguyễn Thị Vinh (sinh năm 1924) lại lấy anh họa sĩ Nguyễn Hữu Nhật (sinh 1942) làm chồng như ông Nguyễn Văn Lục đã viết không?