Now Adays – Bây Giờ



Thơ Song Linh
Thanh Thanh chuyển dịch
NGÀY THÁNG TÁM
Ngày tháng tám mùa thu về rất lạ
Em mắt buồn theo cỏ lá heo may
Đường thở dài vàng nắng áng mây bay
Tình cúi mặt để sầu rêu nhánh lá
Ngày tháng tám mùa thu xanh biển cả
Cánh chim về hong ấm nụ môi hôn
Bài thơ yêu nhung nhớ lại gần hơn
Căn gác nhỏ mở lòng vui đất lạnh
Ngày tháng tám mùa thu vàng đất trắng
Tay em mềm gối mộng ngát trùng dương
Con sóng vỗ thềm trăng mòn vách đá
Gió thu về mây trắng đẹp trời hương
Ngày tháng tám mùa thu trùng xuống thấp
Đất khóc thầm tan vỡ mối tình hoa
Em nói dối ta buồn như muốn khóc
Con thuyền nào chở hết cõi lòng ta
Ngày tháng tám mùa thu về thêm tuổi
Đất mẹ nghèo mọc cánh vỗ trời hoang
Và tình ta từ đó cũng lang thang
Khi trước mặt cuộc đởi chưa đáp số
SONG LINH
A DAY IN AUGUST
That day in August, Autumn seemed so strange;
Your eyes grew sad like in grass blades a change.
The road sighed in the yellow cloudy sun,
Love faced down, anxiety got leaves moss dun.
Also a day in August, Autumn had been sea blue;
The birds had returned to warm their kiss due;
The romantic poem of each other helping take hold;
The small attic opening its heart on the land tho cold.
On that day in August, Fall had gilded the white earth;
Your soft arms as dreamy pillows in an ocean mirth;
Crashed by the waves in the moon the cliff worn;
The fall wind bringing back a clear perfumed morn.
Then, that day in August, Autumn sank abruptly low,
The ground silently cried, broken the love glow.
You lied to me so that I felt I wanted to weep,
No vessel could transport my soul in sorrow deep.
Yes, that day in August returned adding a year in age,
My poor maternal place grew wings to a wild stage;
And my love too since then got adrift dilution
While my immediate existence had not yet a solution.
Translation by THANH-THANH



Bà A.V. — Đà-Nẵng
Hôm nay: ngày, tháng, năm nào ?
Từ ngày Chị mất: đã bao lâu rồi ?
Mà em tưởng mới đây thôi!
Niềm đau tử-biệt khôn nguôi trong lòng!
Nỗi buồn biết lấy gì đong?
Chỉ còn nước mắt hai dòng, Chị ơi!
Nhớ ngày em mới tới nơi:
Cấp cao, chức lớn, mà vơi túi tiền!
Chị cho em một phép tiên:
Nuôi em ăn, để em yên một bề.
Mỗi ngày hai bữa đi, về:
Chị săn-sóc, Chị không nề nhọc thân.
Mẹ em thì đã từ-trần;
Chị: em không có; em cần Chị thương.
Con trai Chị: cách trùng dương;
Rể và em Chị: mỗi phương một người .
Tới lui: chỉ mình em thôi:
Mối tình Mẹ+Chị: Chị bồi cho em…
“Chú cần tẩm-bổ nhiều thêm;
Việc nhiều, đi sớm, thức đêm tổn người!
“Chú cần có lúc nghỉ-ngơi,
Thong-dong thân-xác, thảnh-thơi tâm-hồn!
“Chú cần tâm-sự trào tuôn,
Một mình kín tiếng: mười muôn hiểu lầm!
“Chú: người thiện-tính, thuần-tâm
Mà đời sao cứ… dập bầm, nổi trôi!
“Người ta “lên” đến đâu rồi
Vợ+con cũng hưởng những hồi sướng-sung!
“Thà rằng dốt-nát, điên-khùng…
Mà thôi! Nói mấy cho cùng, chú ơi!…”
Từ ngày em sinh ra đời,
Thương em, chỉ Chị là người hiểu em!
Lần đầu em mới được xem
Nỗi lòng em, được Chị đem họa hình!
Được người hiểu thấu lòng mình,
Tưởng như ẩn-ức tâm-tình nhẹ vơi …
Nhưng, môi em chưa kịp cười
Thì… thân em… đã… vội rơi … vào tù!
Ân Chị, em chưa đáp bù,
Thì Chị cũng đã nghìn thu viễn-hành!
Em viết mấy chữ chân-thành,
Chưa kịp gửi Chị, đã… đành… đốt đi!
Đời em cứ chậm như rì:
Đến thì trễ-trớt, mà đi: muộn-màng!
Dịp may như chuyến đò ngang:
Em ôm mộng lớn, kềnh-càng khó qua!
Đón mình: có mấy người ta ?
Đến đó có là… giờ thứ hăm lăm?…
Bây giờ Chị đã xa-xăm,
Em ôm mộng lớn mà nằm trong lao!
Mộng hồn gửi tới trăng sao,
Vẳng nghe lời Chị hôm nao, nhủ thầm:
Em: người thiện-tính, thuần-tâm!
Ai: người ngậm ngải, tìm trầm? — Chị ơi!
THANH-THANH
(Trong “Cơn Ác-Mộng”)


BA-LAN & ĐÔNG ÂU
ỦY-HỘI QUỐC-TẾ
NGÀY 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp-Định Paris chấm dứt chiến-tranh và tái-lập hòa-bình tại Việt-Nam được ký-kết và có hiệu-lực kể từ hôm sau.
Phần đông đồng-bào Miền Nam đã nghe, đã đọc và đã phát-biểu quá nhiều những lời chỉ-trích Hiệp-Định Paris, và chính những người thân-Chính-Quyền nhất cũng phải đồng-ý phần lớn với những phát-biểu bất-mãn về các điều-khoản trong đó thua-thiệt cho Việt-Nam Cộng-Hòa.
Tám tháng sau đó, vào ngày 26 tháng 9, tôi rời Vùng II ra Vùng I đảm-trách Giám-Đốc Đặc-Cảnh (An-Ninh và Phản-Gián) Miền Trung.
VỚI tôi, về mặt nổi, những điều liên-quan thiết-thực đến cách xử-trí của nhân-viên công-lực, những khi đối-diện với các thành-viên Cộng-Sản (cộng-sản Ba Lan và Hung Gia Lợi trong Ủy Hội Quốc Tế, và cộng sản Bắc Việt Xâm-Lược trong Ban Liên Họp Quân Sự 4 và 2 Bên) ở nơi công-cộng, là điều cần đề-cập nhất, thì không nghe Cấp Trên chỉ thị gì, mả lại còn ra lệnh cấm tiếp-xúc với họ nữa, nên tôi đã tự ý hướng-dẫn cho thuộc-viên từ trong Vùng II rồi, nay ra Vùng I tôi cũng làm lại việc đó cho các cấp nhân viên ở ngoài này.
NHƯNG. quan-trọng hơn hết, về mặt chìm, tôi đã có cách cụ-thể vớt-vát thiệt-thòi cho phe Quốc-Gia đối với Hiệp-Định Paris:
Từ trong Vùng II, tôi đã quyết-định tấn-công tình-báo ngay vào chính các Phái-Đoàn Bắc-Việt Xâm-Lược và Cộng-Tặc Miền Nam (ít nhất thì cũng đã đạt được một thành công ban đầu tại Phan Thiết); và nay thì tại Vùng I, gặp được hoàn-cảnh cả đối-nội lẫn đối-ngoại thuận-lợi hơn, tôi phải đích-thân ra tay đối với cả Ba-Lan lẫn Hung-Gia-Lợi, bắt đầu từ các Phái-Đoàn liên-hệ tôi gặp hằng ngày trong thành-phố Đà Nẵng này.
Ủy-Hội Quốc-Tế tại Khu-Vực II
THEO Hiệp-Định Paris thì lĩnh-thổ Việt-Nam Cộng-Hòa được chia ra làm nhiều Khu-Vực; mỗi Khu-Vực được đặt dưới quyền kiểm+giám của một Phái-Đoàn đại-diện Ủy-Hội Quốc-Tế, tức Ủy-Hội Kiểm-Soát và Giám-Sát Quốc-Tế (ICCS=International Commisssion of Control and Supervision). Ủy-Hội Quốc-Tế gồm có 4 nước: Gia-Nã-Đại (Canada) ― về sau Ba-Tư (Iran) thay-thế ―, Nam Dương (Indonesia), Ba-Lan (Poland), và Hung-Gia-Lợi (Hungary).
Đại Diện các phe lâm-chiến được gọi là Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-Bên (Hoa-Kỳ, Việt-Nam Cộng-Hòa, Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa tức Cộng-Sản Bắc-Việt, và Cộng-Hòa Miền Nam Việt-Nam tục gọi “Việt-Cộng”) ― về sau chỉ còn 2-Bên (VNCH và CHMNVN).
Riêng (Quân-) Khu I của VNCH được chia thành 2 Khu-Vực của Ủy-Hội Quốc-Tế: Khu-Vực I đặt trụ-sở tại Huế, và Khu-Vực II đặt trụ-sở tại Đà-Nẵng.
Đà-Nẵng là thủ-phủ của Miền Trung, nơi có Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn I & Quân-Khu I, Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực & Ngành Đặc-Cảnh Vùng I, các cơ-quan Chính-Quyền cấp Vùng, các Tòa Tổng-Lĩnh-Sự ngoại-quốc cấp Vùng, v.v…
Trong lúc Cảnh-Sát Quốc-Gia toàn-quốc đều phải tuân theo chỉ-thị của thiếu-tướng Tư-Lệnh Nguyễn Khắc Bình ― không được tiếp-xúc với Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi ― thì tôi đã xin, và đã được phép, cho riêng tôi được tiếp-xúc với các thành-viên Cộng-Sản nước ngoài ấy.
(Đối với Cộng-sản Việt-Nam thì Ngành Đặc-Cảnh, từ cấp lĩnh đạo xuống đến các Điệp-Trưởng, Trưởng Lưới, Trưởng Mũi và Trưởng Mối Biệt-Tác, đã tiếp-xúc từ lâu rồi, ngay từ trước khi bọn họ bị giết, bị bắt, hoặc hưởng-ứng chính-sách Chiêu-Hồi, mục-đích là để tuyển dụng họ làm nội-tuyến cho ta).
ỦY-HỘI Quốc-Tế được một Hãng Thầu Hoa-Kỳ cung-cấp một tòa nhà riêng, để làm trụ-sở chính-thức; nơi đó hai Phái Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi làm việc chung với các Phái Đoàn Ba-Tư và Nam Dương.
Đó cũng là nơi Ủy-Hội Quốc-Tế chính-thức hội-họp với các Phái Đoàn Hoa-Kỳ và Việt-Nam Cộng-Hòa.
Hai Phái Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi được cấp một chỗ ở riêng, để phe Cộng-Sản ở chung với nhau: họ chiếm toàn-bộ khách-sạn “Hồng Kông”.
Một hãng-thầu Hoa-Kỳ cung-cấp cho họ mọi thứ cần dùng trong đời sống và sinh-hoạt hằng ngày.
TẠI khách-sạn “Hồng Kông” này, hai Phái Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi có đặt những phòng-giấy bỏ túi cho Trưởng Phái Đoàn, Sĩ-Quan Điều-Hành, Sĩ-Quan Truyền-Tin/Mật-Mã, và Thông Dịch-Viên của mình.
Dưới quyền Phái Đoàn Khu-Vực II, tại Đà-Nẵng, có 3 Tổ Ủy-Hội Quốc-Tế: tại Hội-An, Chu-Lai, và Quảng-Ngãi.
Về phương-tiện di-chuyển của UHQT thì: về đường bộ là xe-hơi sơn màu trắng, có gắn cờ ICCS (mà tài-xế lúc đầu là người Mỹ, về sau là nguời Việt-Nam); và về đường hàng-không là các loại phi-cơ của Hãng “Air America” có sơn ba đường gạch ngang màu lục phía sau đuôi (và phi-công là người Hoa-Kỳ).
Về phía Hãng Thầu thì: tại khách-sạn “Hồng Kông” có một bộ-phận chấp-hành, gồm có một thư-ký khách-sạn là đại diện chính; quản-gia; và các công-nhân như bồi, bếp, tài-xế, thợ máy; v.v… đều là người Việt-Nam.
VỀ phía Chính-Quyền Việt-Nam: Trung-Ương không hề ra lệnh; và hẳn sẽ không chấp-thuận cho tôi, cũng như cho bất-cứ ai, hướng mũi hoạt động ― gián điệp, tức là tình-báo chủ động; chứ không phải phản-tình-báo bị động ― của mình vào các mục-tiêu Cộng-Sản nước ngoài.
Việc đó nằm ngoài phần-vụ và trách-nhiệm của Ngành Đặc-Cảnh VNCH.
Nhưng tôi đã thuyết-phục và được phía Người Bạn Đồng-Minh (CIA) đồng-ý và trợ-giúp tôi.
Các thành-viên Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi, nhất là các cấp chỉ-huy và chuyên-viên, không phải chỉ là sĩ-quan bộ đội bình-thường, mà là cán-bộ gián điệp quan-trọng của 2 nước này; chính CIA cũng đã xác-nhận như thế với tôi . Bọn họ đến đây để tiếp sức cộng-sản Việt-Nam chống phá chúng ta, tại sao chúng ta không dùng gậy ông để đập lưng ông, mượn tay bọn họ để gây biến-loạn ngay trong nội-bộ guồng máy độc-đảng của chính bọn họ ngay bên trời Âu .
Trong ngành tình-báo, kẻ thù có thể thuộc nhiều dân-tộc khác nhau, hoạt-vực có thể gồm nhiều quốc-gia khác nhau; huống gì CIA cũng đang cần tung thêm lưới vào trong hàng-ngũ các nước thuộc Khối Liên-Xô …
Tôi mượn của Tòa Tổng-Lĩnh-Sự Hoa-Kỳ một số từ-điển bách-khoa cũng như tài-liệu thời-sự để tìm hiểu thêm về hai nước Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi.
NÓI chung, tuy ở trong khối Liên Bang Xô Viết, đại đa số dân-nhân cả Ba-Lan lẫn Hung-Gia-Lợi đều đang vùng-vẫy để thoát khỏi quyền thống-trị của Nga-Xô .
Tôi gợi ý Hoa-Kỳ lợi dụng tối-đa tình-hình ở hai nước ấy, đặc-biệt là Ba-Lan. Ở Ba-Lan thì công-nhân là lực-lượng tiền-phong hùng-hậu, và các tầng-lớp dân-nhân thì chịu ảnh-hưởng sâu-rộng của Vatican.
TRONG lúc chờ-đợi, tôi đứng ra móc nối các thành-viên cộng-sản trong Ủy-Hội Quốc-Tế hiện có ở đây .
Tôi lý-giải rằng: nếu tôi mà làm được việc, thì chính Người Bạn Đồng-Minh hưởng công; viên-chức liên-hệ sẽ được chuyển đến quốc-gia hữu-quan để phát-triển thêm mạng lưới của mình, thành tích gia tăng; làm việc bên đó, không có chiến-tranh, hẳn là an-toàn, an-nhàn hơn ở Việt-Nam!
Thế là tôi được Người Bạn Đồng-Minh tán-đồng và yểm-trợ mọi mặt tối đa .
MỘT hôm, một viên-chức cao-cấp thuộc Tòa Tổng-Lĩnh-S Hoa-Kỳ tại Vùng I tổ-chức một buổi dạ-tiệc tại tư-gia ― thật ra là một bữa ăn đặc-biệt.
Chủ nhà không nấu dọn gì, mà dùng sân trước và vườn sau làm một cảnh chợ vỉa hè. Họ đặt mua trọn chuyến hàng: nơi này là xe phở bò; nơi kia là gánh bánh lá & chả tôm, v.v…; hầu hết các món hàng rong quen-thuộc của Đà-Nẵng đều được quy-tụ về đây.
Thực-khách đến ăn món nào thì đều theo đúng cách-thế thông-thường đối với món đó, chỉ khác là khỏi trả tiền.
Trong khung-cảnh đó, tôi đã tiếp-xúc lần đầu với các viên-chức lãnh đạo 4 Phái Đoàn Ủy-Hội Quốc-Tế, và đặc-biệt là 2 Trưởng Phái Đoàn Cộng-Sản Ba-Lan và Hung Gia Lợi . Cấp-tốc nghiên-cứu, lượng-giá đối-tượng, tôi đã dễ dàng tìm ra phương-thức đối đầu với các mục-tiêu.
BỘ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia có chỉ-thị cho các Địa-Phương nơi nào có Ủy-Hội Quốc-Tế cấp Khu-Vực thì tổ-chức một Toán Hộ-Tống bảo-vệ an-ninh cho các Phái Đoàn. Các Phái Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi tại Khu-Vực II ở Đà-Nẵng không nhận việc hộ-tống ấy, vì họ cảm thấy là bị theo dõi; họ muốn tự-do đi lại, hành-động theo ý muốn riêng; nên các Phái Đoàn Ba-Tư và Nam Dương cũng đồng-ý theo .
Do đó, tôi nhận nhiệm-vụ theo dõi các Phái Đoàn Ủy-Hội Quốc-Tế từ phía Cảnh-Sát Sắc-Phục sở-tại chuyển qua cho Ngành Đặc-Cảnh cấp Vùng.
Tại đây có một bộ-phận đặc-trách mang bí danh “Toán Thạch-Mã”, trong đó có cả một số nhân-viên của Sở I An-Ninh Quân Đội biệt-phái đến; tất cả đều mặc dân-phục để hoạt-động chìm.
TÔI thuê cho Toán một trụ-sở riêng.
Vì không tiện bề sử-dụng xe Jeep sơn màu xanh+trắng của phía Sắc-Phục nên tôi đã xin Người Bạn Đồng-Minh một chiếc xe Jeep dân-sự để cho Toán dùng. Xe này là của Tòa Tổng-Lĩnh-Sự Hoa-Kỳ nên mang bảng số NT (nhập tạm) dành riêng cho các ngoại-kiều . Tôi không tiện xin cơ-quan Lộ-Vận cấp cho một số trước-bạ bình-thường, vì xe không thuộc sở-hữu chung của Cảnh-Lực hay riêng của cá-nhân nào .
Có nhiều chỉ dấu, mà chiếc xe ấy là rõ-ràng nhất, khiến có một số đồng-bào gọi người sử-dụng xe ấy là CIA .
Tôi chỉ nhắc-nhở anh+em trong Toán về mặt an-ninh bản-thân, chứ không giải-tán hoặc thay đổi ngụy-thức, mặc dù thật ra kết-quả giám-thị của họ chỉ thuộc lĩnh-vực thám-báo ― chưa phải điệp-báo như tôi mong muốn ― mà ở Trung-Ương thì do một Văn-Phòng khác chứ không phải Ngành chuyên-môn của tôi chủ đạo, mà Văn-Phòng ấy lại chỉ chủ-trương hoạt-động như thế mà thôi.
Có lần Ðại-Tá Lê Quang Nhơn, Chánh Sở I ANQĐ, ngỏ ý muốn rút nhân-viên của Sở mình về, vì họ thiếu người ― vả lại trong đó có cả một thiếu-tá ― nhưng tôi không thuận. Tôi muốn có sự hiện-diện của Toán ấy để đánh lạc hướng chú ý của đối-phương, nhằm bảo-mật các đường dây điệp-báo riêng của tôi.
BỘ Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, từ thời Trung-Tá Nguyễn Mâu, có thành-lập một đơn-vị nữ-tình-báo, từ cấp Trung-Ương xuống đến các Vùng, Tỉnh và Thị, mệnh danh “Biệt-Đội Thiên-Nga”. Tuy trong một số trường-hợp Biệt-Đội này đã lập được thành-tích khả-quan, nhưng nhìn chung thì kết-quả hoạt-động vẫn chưa tương-xứng với tổ-chức quy-mô nói trên. Nhiều nữ-nhân-viên được dùng vào các công-việc văn-phòng thay vì ra ngoài dò tìm và gài người xâm-nhập vào các chi-bộ cộng-sản nằm vùng hoặc từ mật-khu về móc nối tại nội-thành.
Thế nhưng Thiên-Nga dù sao thì cũng đã được đồng-bào ― và cả Việt-Cộng ― nghe tiếng, biết tên.
GẶP lúc Bộ Ch?Huy Cảnh-Lực Vùng I tuyển-mộ một đợt nữ-nhân-viên, tôi chỉ-thị cho Sở Yểm-Trợ ― mà cốt là để bắn tiếng ra ngoài ― hãy chọn cho tôi mươi cô trẻ nhất, đẹp nhất, độc-thân, để tôi huấn-luyện tình-báo cho họ, trong đó có môn tiếng Anh và môn khiêu-vũ, kể cả kỹ-thuật chinh-phục đàn-ông.
Trong lúc đó, Bộ Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương điện hỏi ý-kiến các Vùng về việc giải-tán Biệt-Đội “Thiên- Nga”.
Trong Vùng II, tôi đã nhân danh Vùng ấy mà trả lời là xin vẫn giữ y nguyên; nay tại Vùng I, có nhiều triển-vọng sử dụng mỹ-nhân-kế hơn, tôi lại có dịp góp ý mạnh hơn về việc duy-trì cái tổ-chức ấy … mà tôi không hề dùng đến trong các điệp-vụ của tôi.
THIÊN-NGA ― của tôi ― là bất-cứ người-đẹp nào hội đủ điều-kiện cho tôi chấm chọn, từ học-đường, công/tư-sở, thương-xá, trà-thất, vũ-trường, cho đến nông-thôn, v.v… vốn sẵn có mặt khắp nơi, và tự họ đã sẵn có môi-trường sinh-hoạt thích-hợp với công-tác hơn là các nữ viên-chức Ngành An-Ninh. Đối với các cô gái phòng trà, từ ca-sĩ, má-xán, vũ-nữ, đến bồi bàn ― là giới “nhảy dù” tự do tại Thành Đà-Nẵng ― tôi đã bố-trí cho một số Trưởng Lưới, Trưởng Mũi, và Trưởng Mối thuộc Sở Tác-Vụ, kín-đáo khống-chế những ai có cơ-hội tiếp-xúc với các thành-viên Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi.
Đối với phiá Cảnh-Sát Sắc-Phục, tôi đã khéo-léo sắp-xếp để không tổn-thương quyền-hạn của họ; và trung-tá Nguyễn An Vinh, Chỉ-Huy Cảnh-Lực Thị-Xã Đà-Nẵng, đã hiểu biết và hợp-tác với tôi trong việc này .
Đồng-thời, tôi đã đạt được sự hợp-tác trọn-vẹn của Hãng Thầu nước ngoài, để tôi sử dụng nhân-viên có sẵn của họ, hoặc gài thêm người của Đặc-Cảnh vào làm công-nhân cho Hãng Thầu .
*
Đối nội, tôi đã xin được Thiếu-Tá Ngô Phi Đạm, là giảng sư xuất sắc nhất về tình báo tại Trường Tình Báo Trung Ương, thuyên-chuyển ra Vùng I làm việc với tôi .
(Tôi chỉ lược kể đôi điều chung chung mà thôi, còn nhiều vấn đề và các chi tiết khác nữa thì tôi đã viết trong các Chương khác của cuốn hồi ký này).
*
Nói chung, do sáng kiến riêng của tôi nói trên, nhóm thiểu số Đặc Cảnh Vùng I chúng tôi đã tuyển dụng được khá nhiều thành viên Ba Lan và Hung Gia Lợi, về mặt nổi thì từ các đại tá Trưởng Phái Đoàn cấp Khu Vực xuống đến các sĩ quan cấp úy Trưởng Tổ cấp Liên Tỉnh và Tỉnh, nhưng về mặt chìm thì họ là cán bộ tình báo chiến lược cấp trung ương (thông dịch viên có vị thế cao hơn Trưởng Phái Đoàn) của Đảng, Nhà Nước và Quân Đội 2 nước cộng sản quan trọng nhất, sau Nga, trong Liên Bang Các Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô, tức USSR: Union of Socialist Sovietic Republics), làm nội tuyến cho ta (tức là Hoa Kỳ) ― vì sau khi tuyển dụng được thì tôi đã chuyển giao họ cho cơ quan Tình Báo Trung Ương của Mỹ (CIA) tiếp tục khai thác sử dụng ngay trong hàng ngũ Liên Xô bên châu Âu .
Những cán bộ vốn được chọn lọc và tín nhiệm đưa đi công tác tại Việt Nam, khi trở về nước đều được xem là có công tham chiến đánh Mỹ ngay trên chiến trường Việt Nam. Với những cái-gọi-là kinh nghiệm đối đầu trực tiếp với phe “tư bản chủ nghĩa phản động”, các phần tử ấy được trân quý để đem hiểu biết thực tế vận dụng vào chức năng công vụ lãnh đạo hoạt động và huấn giảng nghiệp vụ gián điệp tại các khóa bồi dưỡng chuyên môn trong hệ thống Tổ Chức Liên Minh Warsaw (Liên Minh Quân Sự Vác Xô Vi, tại thủ đô Ba Lan) của Liên Xô chống lại Khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) của Thế Giới Tự Do .
Vì tôi còn phải lo về Việt Cộng (cộng sản Việt Nam) và về nội chính (các chính đảng, các giáo hội, các tổ chức “đối lập”, v.v…), trong tình hình rất nguy ngập của thời gian 1973-75, nên tôi đã cho phép các thuộc viên liên hệ tùy tiện chiếu theo chủ trương và phương thức làm việc đã có kết quả cụ thể của tôi mà hợp tác với Người Bạn Đồng Minh (cố vấn CIA) để tiến hành thêm, do đó tôi không nắm vững hết các thành quả đã đạt được, phải là to lớn hơn. Lại nữa, trong tinh thần phối hợp đồng minh chống Cộng, tôi đã chấp thuận cho Người Bạn Đồng Minh được trực tiếp sử dụng một số viên chức Đặc Cảnh của tôi mà họ thấy là xuất sắc, biệt phái hẳn qua cho họ (hẳn là thành quả phải không thua kém thành quả của phía Việt Nam), nên tôi không biết gì nhiều về các kết quả liên quan. Ngoài ra, tôi cũng giúp cho NBĐM phương tiện cần thiết (giấy phép đi lại trong giờ giới nghiêm, giấy phép mang vũ khí, v.v…) để họ tuyển dụng nhân viên riêng cho họ, nên tôi hoàn toàn không biết gì về thành quả hoạt động của các đường dây bí mật kia.
Chỉ riêng trong phạm vi những gì mà tôi có đích thân trực tiếp làm và còn nhớ, tôi đã tuyển dụng:
Đại tá Konelsko, Trưởng Phái Đoàn Ba Lan
Đại tá Guy Nagy, Trưởng Phái Đoàn Hung Gia Lợi
Trung úy Teleski, Trưởng Phòng Truyền Tin Mật Mã của Ba Lan
Đại úy Signalia, Trưởng Phòng Truyền Tin Mật Mã của Ba Lan (kế nhiệm Teleski)
Trung úy Benjenc Grosz, thông dịch viên của Hung Gia Lợi
Trung úy Benez Kadar, Trưởng Tổ Hung Gia Lợi tại Tam Kỳ
(quá trình nghiên cứu, chấm định, tiếp xúc, móc nối, bao vây, gài bẫy, thuyết phục, thử thách, tuyển mộ… đã được kể lại trong sách).
Họ là cán bộ tình báo cấp cao, ở cả hai lãnh vực chính trị và quân sự, mà lại chuyên môn truyền tin mật mã (biết rõ bí mật nội bộ), và rành (ít nhất là) tiếng Anh, làm thông dịch viên quốc tế (có tư cách công khai tiếp xúc với cả “đế quốc Mỹ”, huống gì bí mật liên lạc với các nhân vật ái quốc & chống Liên Xô), nay được tuyên dương là đã có công đánh Mỹ, được thăng lên cấp cao hơn và cử giữ chức lớn hơn: họ mà làm tay trong cho Mỹ thì nguyện vọng của dân nhân Ba Lan và Hung Gia Lợi thoát khỏi gọng kìm Liên Xô chắc chắn là sớm đạt thành.
Hồi đó, năm 1974-75, Người Bạn Đồng Minh đã chính thức thông báo cho tôi biết về một số tiến triển và kết quả khởi đầu ngay tại Ba Lan và Hung Gia Lợi, đồng thời nhiều lần công khai đãi tiệc khen thưởng các viên chức Đặc Cảnh hữu công (trong sáng kiến của tôi, bắt đầu từ năm 1973).
Đến năm 1979 (sáu năm sau), Giáo Hoàng John Paul II mới về thăm Ba Lan lần đầu tiên, mở đầu cho những hoạt động kế tiếp của Ngài, cũng nhằm góp phần giải thể chế độ cộng sản ở quê hương mình.
Năm 1981, cán bô cấp cao Công An trung ương Việt Cộng nói thẳng với tôi: “Tôi báo trước cho anh biết, chỉ trong vài hôm nữa thôi, tất cả các thành phần phản động tại Ba Lan cũng như Hung Ga Ri đều sẽ phải đền tội trước tòa án nhân dân; vả ngay cả bọn CIA liên quan cũng sẽ bị nhà nước có chủ quyền của hai nước ấy trừng trị thẳng tay … Sẽ không bao giờ xảy ra sự cố mà bọn đế quốc và lũ tay sai như anh hằng mơ, để anh có thế “tự hào” là chính mình đã góp phần đánh đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa tại Ba Lan và Hung Ga Ri, kéo theo sự sụp đổ của cả Khối Cộng Sản Đông Âu! Có phải bọn chủ CIA của anh đã nhồi nhét cái ý tưởng hão huyền ấy vào trong đầu óc vong bản của anh hay không?”
Lúc đó, vào năm 1981, Cộng-sản Việt-Nam chỉ biết là Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi bị tôi tổ-chức xâm-nhập giùm cho CIA từ năm 1973, nên mới suy-luận là nếu cộng-sản tại hai nước ấy mà sụp đổ thì sẽ kéo theo cả sự sụp đổ tại các nước kia.
Sau này, khi sự suy-diễn của họ trở thành sự thật, thì cái trình-tự nói trên đã đảo ngược lại: Từ đầu năm 1989, cộng-sản tại các nước trong Liên-Bang Xô-Viết đã chấm dứt, và cuối năm ấy, cộng-sản tại Hung-Gia-Lợi cũng đã cáo-chung. Chính Liên-Xô, do Gorbachev lãnh-đạo, đã mở đường, từ năm 1985, cho các nước thuộc quyền lần-lượt về với Tự-Do trước tiên, rồi chính mình cũng lột xác vào đầu năm 1990. Đến cuối năm này thì cộng sản Ba Lan cáo-chung. Thế là tan rã toàn Khối cộng-sản Đông-Âu.
(còn nữa)
LÊ XUÂN NHUẬN
Cảnh-Sát-Hóa


Một hôm, vào đầu tháng 3 năm 1975, tôi được Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia/Ngành Đặc-Biệt gọi vào mà không cho tôi biết trước lý-do hay mục-đích gì.
Cũng được xe-hơi dân-sự đón từ phi-trường, nhưng đến văn-phòng của Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương thì viên thiếu-tá bí-thư mời tôi qua gặp Trung-Tá Phạm Văn Ca, Giám-Đốc E2 (Nha Phản-Tình-Báo/Nội-Chính), theo lệnh của Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.
Tôi đã từng cùng Trung-Tá Ca đi tu-nghiệp về “Chống Khuynh-Đảo” tại Úc-Đại-Lợi vào năm 1970 nên quen thân nhau.
Ca bảo tôi:
‒ Ông Tướng muốn biết trong thời-gian qua anh có làm gì sai trái hay không. Anh hãy ngồi đây, viết bản tự-thuật, kể hết những gì mà anh thấy là khuyết-điểm, xong rồi hãy qua gặp ông.
*
Tôi ngồi ôn lại mấy việc lớn/nhỏ mà tôi nghĩ là có thể đã làm Tướng Tây bất-bình về tôi…
Trong một buổi họp các cấp Trưởng E (Giám-Đốc Nha tại Trung-Ương và Nha tại các Vùng), Đại-Tá Huỳnh Thới Tây hỏi về “Biệt-Đội Thiên Nga” cùng các cơ-cấu không thấy có ghi trong Sắc-Lệnh tổ-chức của Ngành. Tôi trình-bày về “Chiến-Dịch Đại Phong” và “Ký-Giả Tự Do”.
“Chiến-Dịch Đại Phong” là tên gọi của một phương-thức hoạt-động, theo đó thì nhân-viên Đặc-Cảnh sử-dụng người chỉ-điểm, là cán-bộ/bộ-đội/cơ-sở Việt-Cộng bị bắt mà tự-nguyện hợp-tác với ta, bằng cách ngụy-trang và tạo ngụy-tích cho đương-nhân không bị công-chúng, nhất là đối-phương, nhận ra.
“Ký-Giả Tự Do” là một/vài viên-chức Đặc-Cảnh hoặc cảm-tình-viên của Ngành, có năng-khiếu viết báo, làm phóng-sự, được giao nhiệm-vụ bí-mật trà-trộn vào giới ký-giả hiện đang ào-ạt săn tin giật gân, trong đó có nhiều phần-tử phản-chiến, thân-Cộng và cả là cộng-sản trá-hình. Ngành Đặc-Biệt can-thiệp với Bộ Thông-Tin, cấp “Thẻ Ký-Giả” cho họ, để phòng có ai thắc-mắc thì đưa ra cho họ xem. “Tự Do” nghĩa là gửi bài đăng trên bất-cứ báo nào, không hẳn là cộng-tác-viên nhất-định của một báo nào.
Tôi đã thật-tình và vô-tình nói rằng đó là những sáng-kiến của Trung-Tá Nguyễn Mâu.
Đại-Tá Tây ném mạnh cây bút xuống bàn, dằn giọng:
‒ Tôi là Huỳnh Thới Tây; làm việc với tôi thì hãy chỉ biết có tôi; tôi không cần biết Nguyễn Mâu là ai.
Việc Thăng-Thưởng Nhân-Viên
Một lần khác, cũng họp tham-mưu như trên, bàn về vai trò của “Cán-Bộ Điều-Khiển” (Case Officer: Điệp-Trưởng) trong các công-tác xâm-nhập (nguời của ta, do ta xây-dựng rồi cài vào hàng-ngũ địch) và nội-tuyến (người của địch, được ta móc-nối, sử-dụng làm tay-trong cho ta).
Đại-Tá Huỳnh Thới Tây ngỏ ý muốn nâng-đỡ giới này.
Tôi lấy tư-cách là người thực-sự đi sát và hiểu-biết nội-tình tại chỗ, trình-bày:
‒ Trước đây, Người Bạn Đồng-Minh đã nghĩ đến việc cấp một ngân-khoản phụ-trội hàng tháng cho tất cả viên-chức Ngành Đặc-Biệt, nhưng bên Cảnh-Sát Sắc-Phục phản-đối, nên việc không thành. Theo tôi, đáng khuyến-khích nhất là Cán-Bộ Điều-Khiển, như đại-tá vừa nêu ra. Nhưng đa-số Cán-Bộ Điều-Khiển thì là hạ-sĩ-quan.
“Nếu dùng sĩ-quan thì không những dễ-dàng hơn trong việc tiếp-xúc và nhờ-vã sự giúp-đỡ của người khác, mà còn có nhiều uy-tín và được tin-tưởng hơn đối với chính mật-viên của mình. Nhưng sĩ-quan Cảnh-Sát Đặc-Biệt thì đa-số đều mong được giữ chức-vụ chỉ-huy, mà khi đã là cấp chỉ-huy rồi thì họ lại mong được qua Sắc-Phục, hay nói đúng hơn là họ mong được hưởng những lợi-lộc như bên Sắc-Phục. Thí-dụ, ngay cả khi đã được cấp một chiếc xe Jeep rồi, mà xe lại có màu sơn và mang bảng số của xe thường-dân, thì họ vẫn thấy thua-kém xe Jeep sơn 2 màu lục+trắng của Cảnh-Sát (Sắc-Phục), vì bên Sắc-Phục vẫn được dân-chúng nể-sợ và dành cho nhiều ưu-tiên hơn.
“Còn muốn tưởng-thưởng các hạ-sĩ-quan CBĐK hữu-công thì cách xứng-đáng nhất là thăng cấp cho họ; nhưng họ vẫn nằm ở dưới các Trưởng G (Phòng), Trưởng H (Ban), nên họ còn lâu mới được thăng lên sĩ-quan.”
Đại-Tá Tây dằn mạnh cây bút xuống bàn, thốt lên một tiếng chửi thề, bỏ ra khỏi phòng.
Mọi người lặng im, lo sợ giùm tôi. Trung-Tá Nguyễn Văn Thuận, Trưởng D3 (Phụ-Tá Chuyên-Môn của Trưởng Ngành ĐB Trung-Ương) đưa tay ra dấu cho tôi chú ý đến anh. Trước kia, anh cũng đi Úc cùng chuyến với Ca và tôi.
Thuận nói:
– Mọi sự thưởng/phạt―thăng ai, giáng ai―đều nằm trong tay của ông. Nếu anh xin ông ban ơn đặc-cách thăng cấp cho các phần-tử hữu-công, thì ông sẽ mát lòng hơn.
Hệ-Thống Liên-Lạc Cảnh-Sát Hình-Sự
Trong vụ phi-cơ “Air Vietnam” bị nổ lựu-đạn tại Phi-Trường Phú Bài, Huế, khi tôi biết được thủ-phạm là Nguyễn Cửu Viết, tôi liền gửi điện cho Bộ Chỉ-Huy CSQG Quận liên-hệ tại Sài-Gòn, là nơi cư-ngụ của một người bạn của thủ-phạm (mà theo tin-tức tôi nhớ từ hồi còn ở Vùng II thì Viết đã nhờ chính người bạn này tìm-kiếm cho y một quả lựu-đạn) yêu-cầu trong đó chấp-cung “người-bạn” ấy.
Đại-Tá Tây cho rằng tôi đã vượt quyền, không trình lên ông là cấp trên, để ông ra lệnh cho các cấp dưới hữu-trách ở địa-phương khác thi-hành.
Theo tôi thì đây là thủ-tục hình-sự; tôi, với tư-cách Hình-Cảnh-Lại (danh-xưng mới, trước kia là Tư-Pháp Cảnh-Lại), Phụ-Tá Biện-Lý (Công-Tố-Viên) của Tòa Án Sơ-Thẩm, tại Đà-Nẵng (tôi cũng là Phụ-Tá Chưởng-Lý của Tòa Án Thượng-Thẩm Vùng I, tại Huế), tôi có thể phát lệnh truy-nã, trực-tiếp nhờ sự tiếp tay của các Hình-Cảnh-Lại khác (Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Khu, Tỉnh, Thị, Quận, v.v…) trên khắp nước, trong những vụ án cần được khẩn-cấp tầm+tra.
Huống chi CSQG của Việt-Nam Cộng-Hòa đã là Hội-Viên của Cảnh-Sát Quốc-Tế (InterPol).
[Hoa-Kỳ đã giúp Việt-Nam Cộng-Hòa tuyển-dụng viên-chức có bằng đại-học luật-khoa, nghiên-cứu về luật quốc-tế, hướng-dẫn tham-gia tổ-chức Cảnh-Sát Quốc-Tế [InterPol], thành-lập chi-nhánh Việt-Nam của Cảnh-Sát Quốc-Tế, đặt trụ-sở tại Tổng-Nha (nay là Bộ Tư-Lệnh) Cảnh-Sát Quốc-Gia.]
Trong một số trường-hợp khẩn-cấp các Hình-Cảnh-Lại còn có thể liên-lạc phối-hợp hoạt-động với nhau, không những vượt quản-hạt hành-chánh trong một nước, mà còn có thể vượt cả biên-giới quốc-gia.
Cấp-Hiệu CSQG cho Thám-Sát Đặc-Biệt
Vì đã huy-động Thám-Sát Đặc-Biệt* đi hoạt-động chung với Cảnh-Sát Dã-Chiến, Cảnh-Sát Sắc-Phục, và cả Nghĩa-Quân, Địa-Phương-Quân, nên tôi đề-nghị với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, và đã được ông chấp-thuận, cho một số cấp chỉ-huy của Thám-Sát Đặc-Biệt tại Vùng I được mang cấp-hiệu CSQG, để có uy-tín đối với các đơn-vị bạn mỗi khi đi phối-hợp hành-quân.
Họ mặc sắc-phục Cảnh-Sát Dã-Chiến, đội mũ-nồi bằng nỉ màu lục của Thám-Sát Tỉnh (PRU= Provincial Reconnaissance Unit) cũ, nhưng cấp chỉ-huy không mang dấu-hiệu gì để các cơ-quan đơn-vị bạn nhận biết rõ-ràng.
Nay thì tại Vùng I họ được mang thêm cấp-hiệu CSQG: Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đội Thám-Sát Đặc-Biệt Khu I mang cấp-hiệu thiếu-tá. Chỉ-Huy-Phó của đơn-vị này mang cấp-hiệu đại-úy. Các Chỉ-Huy-Trưởng của Đội Thám-Sát Đặc-Biệt thuộc các Tỉnh/Thị trong Vùng I cũng mang cấp-hiệu đại-úy.
Đại-Tá Huỳnh Thới Tây cho rằng tôi đã lạm quyền, vì Quyết-Định của Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc là do đề-nghị của tôi.
Riêng về việc này thì tôi tự nhận là đã xúi ẩu để Đại-Tá Lộc chấp-thuận, vì nếu chờ-đợi Trung-Ương thì chắc khó có kết-quả, bởi lẽ Thám-Sát Đặc-Biệt chưa có quy-chế thực-thụ CSQG―không có cấp-bậc, chỉ có chức-vụ và còn hưởng lương theo mức cố-định từ thời còn ở dưới quyền của CIA. Vả lại, việc mang cấp-hiệu này chỉ có giá-trị đối với 2 viên-chức tại cấp Vùng, và một viên-chức tại mỗi Tỉnh/Thị, và chỉ trong khi tham-gia hành-quân phối-hợp mà thôi.
[Hồi tôi còn làm Trưởng Ngành Cảnh-Sát Đặc-Biệt Vùng II, tôi đã trình xin và được Tư-Lệnh Quân-Đoàn II/Vùng II Chiến-Thuật chấp-thuận cho một trung-sĩ Cảnh-Sát Đặc-Biệt ở Tỉnh Bình-Thuận được mang cấp-bậc đại-úy QLVNCH để vào làm việc trong Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-bên. Nay làm Giám-Đốc Đặc-Cảnh Vùng I, tôi cũng đã xin và đã được Tư-Lệnh Quân-Đoàn I/Quân-Khu I chấp-thuận cho vài trung-sĩ Cảnh-Sát Đặc-Biệt của tôi ở Đà-Nẵng được mang cấp-bậc đại-úy QLVNCH để vào làm việc tại Ban Liên-Hợp Quân-Sự 2-bên.]
Một Khẩu K-59 Tước Được của VC
Trong một cuộc hành-quân, Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam có tịch-thu được của Việt-Cộng một khẩu súng lục mới lạ, Địa-Phương chưa thấy lần nào.
Thiếu-Tá Chánh-Sở Lâm Minh Sơn báo-cáo lên tôi, tôi báo-cáo lên Bộ Tư-Lệnh/Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương.
(Lệnh trên ban xuống từ trước là trong trường-hợp tương-tự thì hãy chụp ảnh, mô-tả đặc-điểm hình dáng khẩu súng để xem nó thuộc loại nào.)
Sau đó, tôi nhận được lệnh nạp trình chiến-lợi-phẩm ấy lên Trung-Ương.
Gặp lúc có một cuộc họp tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, tôi được mời vào tham-gia.
Sau phần thuyết-trình tổng-quát của tôi, Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây hỏi tôi về khẩu súng trên.
Tôi có mang theo bản sao của tờ báo-cáo kèm theo hình-ảnh mô-tả của khẩu súng lục―gửi rồi nhưng chắc chưa đến tay ông―nên tôi lấy ra đưa cho ông xem. Tướng Tây đọc báo-cáo và nhìn hình-ảnh, xong hỏi khẩu súng đâu rồi, hãy trao cho ông.
Tôi đâu có khẩu súng ấy mà trao.
Số là Đặc-Cảnh ở Tỉnh đồng-thời cũng có báo-cáo kết-quả hành-quân lên Tỉnh, nên viên Tỉnh-Trưởng sở-tại đòi xem khẩu súng ra sao. Thấy khẩu súng quý, vì mới bắt được lần đầu, viên đại-tá Tỉnh-Trưởng bèn giữ lại, nói là mượn xem ít hôm. Liền đó, gặp dịp Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu ra thăm Quảng-Nam, viên Tỉnh-Trưởng sở-tại đưa khẩu súng ấy ra khoe; và thấy Tổng-Thống tỏ ý thích nó nên viên Tỉnh-Trưởng tặng luôn.
Thường thì chúng tôi báo-cáo tóm-tắt sự-việc ngắn gọn ra ở phần trước, còn các chi-tiết phụ-thuộc thì ghi ra ở phần sau, với các tài-liệu liên-hệ kèm theo.
Do đó, tôi đáp (như có ghi ở phần sau báo-cáo):
– Trình thiếu-tướng, Tổng-Thống đã lấy khẩu súng ấy rồi.
Nhưng Chuẩn-Tướng Tây chưa đọc phần sau của bản báo-cáo, không hỏi chi-tiết làm cách thế nào mà khẩu súng ấy lại đến thấu tay Tổng-Thống; ông nghĩ là tôi đã “qua-mặt” ông, tự ý vượt cấp tâng công trực-tiếp với vị Nguyên-Thủ Quốc-Gia.
Ông tức, gằn giọng:
– À, anh đã muốn “kiếm điểm” trực-tiếp với Tổng-Thống thì từ nay trở đi có gì anh cứ lên thẳng Tổng-Thống, đừng cần thằng này nữa nghe!
Vài Ngoại-Lệ
Tôi nghĩ cũng cần báo-cáo cả những việc-làm ra ngoài nguyên-tắc, phần thì để tỏ là mình thành-thật, phần thì để phòng Cấp Trên đã biết cả rồi (?).
1. Đời công: Tôi đã tự-ý thành-lập một “Phòng Tình-Hình” (không có trong sơ-đồ tổ-chức chính-thức của Ngành), để nhân-viên thay phiên nhau cùng làm việc 24 giờ/7 ngày với tôi, bắt cả nhân-viên trực máy tại các Tỉnh/Thị cũng cùng ở trong tình-trạng sẵn-sàng làm việc bất-cứ lúc nào liên-tục suốt ngày+đêm như tôi.
2. Đời tư: Có lần một viên Thanh-Tra Trung-Ương ngỏ ý muốn xem sinh-hoạt ban đêm tại Đà-Nẵng. Trong thời-gian đó, Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng cấm các sĩ-quan quân-nhân không được đến khiêu-vũ tại các vũ-trường, nên các Tỉnh/Thị-Trưởng cấm chung mọi người, mặc dù các chủ tiệm-nhảy đã được chính-quyền cấp cho giấy phép hành-nghề. Tôi đã đưa viên Thanh-Tra ấy vào một phòng trà+ca+vũ+nhạc; gặp lúc không có nhân-viên Cảnh-Sát Sắc-Phục, các cô vũ-nữ đã ào ra sàn, ông cũng ôm eo một cô lả-lướt như ai.
*
Tôi nhờ đả-tự-viên tại văn-phòng E2 đánh máy, xong ký tên, đưa bản Tự Thuật ấy cho Trung-Tá Phạm Văn Ca. Anh mang ngay vào trình cho Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.
Lát sau, Ca trở lại, nói rằng Ông Tướng đang bận, bảo tôi tiếp-tục tường-trình các hoạt-động tại các Tỉnh/Thị thuộc Miền Trung.
*
Công-việc của tôi không phải chỉ là gửi+nhận công-văn & công-điện và đi thanh-tra, bình-thường như một số cấp chỉ-huy trung-gian khác, nhất là cấp Vùng.
Tôi đã tích-cực thực-hiện công-tác an-ninh & phản-gián của chính cấp Vùng. Có như thế mới xứng-đáng với sự hiện-diện và hiện-hữu của một cơ-quan cấp Vùng.
Đồng-thời tôi cũng hòa-nhập hoạt-động với các địa-phương, góp phần cụ-thể cùng họ vượt khó, tiến nhanh.
Tôi chỉ ghi lại một số sự-việc thí-dụ mà thôi. Tính từ Quảng-Trị vào đến Quảng-Ngãi. [Đã viết trong cuốn hồi-ký “Cảnh-Sát-Hóa” (trang 137-240) nên không nhắc lại ở đây.]
Tôi đưa bản thảo nhờ đả-tự-viên đánh máy giùm, xong nghĩ là mình cũng nên ghi ra những gì mà các thuộc-viên có thể hiểu lầm, dẫn đến bất-mãn, xuyên-tạc gì chăng.
Đại-Úy Cao Viết Song của Tỉnh Quảng-Tín
Không hiểu vì sao mà Đại-Úy (sau này là Thiếu-Tá) Lâm Minh Sơn, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam, và Đại-Úy Cao Viết Song, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Tín, được Bộ Tư-Lệnh CSQG thuyên-chuyển vào Sài-Gòn; xong rồi Sơn được trở lại với trách-vụ cũ, còn Song thì không.
Nhân dịp vào Bộ Tư-Lệnh, tôi hẹn với Song hãy đến gặp tôi, để tôi dẫn vào trình-diện và xin với Đại-Tá Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, cho anh trở lại nhiệm-sở cũ.
Nhưng Song trễ hẹn.
Tôi chỉ có thể nhân lúc báo-cáo thành-quả công-tác mà xin cho Song.
Tôi vào gặp Đại-Tá Tây―như một diễn-viên xuất-hiện trên sân-khấu vào một lúc nào đó nhất-định trong một vở tuồng―chứ đã ra khỏi phòng-giấy của ông rồi, đã đóng xong vai tuồng của tôi rồi, thì diễn-viên-tôi không thể tự-dưng vào lại sân-khấu. Tôi không thể nào trở lại, vào gặp bất-thường mà xin cho Song, bởi lẽ Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương bận rất nhiều việc―có lần tôi thấy buổi chiều ông vẫn ở lại làm việc cho đến tối đêm―vả muốn vào gặp thì phải trình xin phép trước―mà tôi thì không phải là một người thân-cận của ông. Thế thôi.
Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên của E Khu I
Vì Đại-Úy X, Chánh Sở Nghiên+Kế tại E6 (Ngành Đặc-Biệt Khu I) của tôi, được Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, cử đi làm CHT/CSQG một Quận trong Vùng, tôi chọn một trong các đại-úy giảng-viên tại F4 (Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo Căn-Bản Khu I), là các sĩ-quan chưa giữ chức-vụ chỉ-huy, lên thay.
Tôi không quen biết ai, mà chỉ xét qua hồ-sơ cũng như nhận-xét của cấp chỉ-huy trực-tiếp là Trưởng F4, thấy họ đều tốt như nhau, nên tôi chọn Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên. Tuyên là người có nét chữ viết tay khá đẹp, viết nhanh như tốc-ký (phòng khi tôi cần đọc gấp cho anh viết một văn-bản gì), và là tín-đồ Đạo Ki-Tô (để chứng-tỏ là mình không kỳ-thị ai―Ngay chính một viên vệ-sĩ và hai viên tài-xế của tôi, tôi cũng chọn người theo Đạo Kitô).
Nhân dịp cuối năm, có đợt thăng-thưởng chung cho mọi người, tôi đề-nghị cho anh lên thiếu-tá.
Tôi đích-thân thảo một Phiếu Trình đặc-biệt, bảo Tuyên cho đánh máy ngay, ghi số, đóng dấu, rồi trao tận tay cho tôi ký, để sáng hôm sau tôi mang vào Sài-Gòn, định sẽ nhân lúc tường-trình công-việc với Đại-Tá Huỳnh Thới Tây thì trao cho ông mà xin cho Tuyên.
Rồi tôi lo làm hồ-sơ thuyết-trình đến khuya, sáng lại là lên phi-cơ, vào gặp Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương.
Khi tôi đã làm xong việc tại Bộ Tư-Lệnh/Ngành Đặc-Biệt, nhân-viên biệt-phái tiếp-phát văn-thư tại Sài-Gòn mới tìm đến nơi tôi tạm-trú ở Sài-Gòn mà trao Phiếu Trình nói trên.
Cũng như trường-hợp của Cao Viết Song, tôi không thể nào vào lại, xin riêng cho Nguyễn Văn Tuyên. Hồ-sơ (bình-thường) đề-nghị thăng cấp cho anh, nằm chung danh-sách với các ứng-viên khác, đã không qua lọt hội-đồng tuyển-lựa bình-thường tại Nha Viên-Chức/Tiếp-Trợ, vì không có kèm Phiếu Trình đặc-biệt của tôi―đáng lẽ, nếu có, thì có bút-phê chấp-thuận đặc-biệt của Trưởng Ngành rồi.
Một Đại-Úy Muốn Có Chức-Vụ Chỉ-Huy
Có một đại-úy, tôi không nhớ tên, trong số các giảng-viên tại F4, có vợ là người quen thân với vợ của Đại-Tá Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, đã nhờ bà này xin cho chồng mình được giữ chức-vụ chỉ-huy.
Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc ngỏ ý với tôi.
Tôi hứa là sẽ thu-xếp giùm.
Nhưng đối với Ngành Đặc-Cảnh thì việc đề-cử trách-vụ có phần khó-khăn hơn bên Sắc-Phục.
Ở Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, hồi đó, có sự thi-đua hoàn-tất bổ-nhiệm, ổn-định chức-vụ, giữa các Khối, Nha, Sở, Phòng; từ Trung-Ương xuống các địa-phương.
Trưởng Ngành Đặc-Biệt tại Bộ Tư-Lệnh không muốn bị chê là mình làm chậm, hoặc không chính-xác―nếu cứ thường-xuyên thay-đổi phương-vị người này, kẻ kia, nếu không có gì khẩn-thiết―tức là xáo-trộn hệ-thống quản-trị, thống-kê, kế-toán―vì mỗi chức-vụ (có hưởng phụ-cấp) đều cần được hợp-thức-hóa bằng một Nghị-Định của Bộ/Trung-Ương.
Rất tiếc là mãi rất lâu tôi vẫn chưa thể đề-cử anh được vào một vị-trí chỉ-huy nào, vì chưa có chỗ nào khuyết―điều này hẳn là không làm vừa lòng bà vợ, và ngay cả cấp chỉ-huy trực-tiếp hàng ngang của tôi tại Vùng này…
*
Vì mọi người rất sợ Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, không dám trình ông nhiều hơn những gì ông đã chỉ-thị, nên Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây cũng theo cách đó, ít ai dám hỏi nhiều hơn những gì ông đã nói ra.
Tôi nhớ có lần Đại-Tá Tây ra lệnh cho Cảnh-Sát Đặc-Biệt toàn-quốc báo-cáo về vấn-đề “giành lấn đất-đai”. Các nơi đua nhau thu-thập tài-liệu về chuyện chủ đất tranh-tụng nhau về bất-động-sản, công-thổ, tư-điền. Tôi hỏi Nha Tình-Báo (E1) là nơi phát ra lệnh ấy, thì trung-tá Giám-Đốc Nha ấy cũng chỉ nhắc lại lệnh của Cấp Trên như thế mà thôi.
Riêng tôi tự nghĩ chủ-quyền đất-đai là một hộ-sự, không thuộc Cảnh-Sát Quốc-Gia―coi về hình-sự―huống gì Ngành Đặc-Biệt là cơ-quan chính-sự. Chắc-chắn là việc Việt-Cộng nhân dịp ngưng bắn theo Hiệp-Định Paris mà lấn chiếm lãnh-thổ ở vùng xôi-đậu, nên đã bảo riêng các Tỉnh/Thị tại Vùng I tường-trình thêm về vụ này. Quả-nhiên, trong buổi họp tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương mà Đại-Tá Tây cho mời cả các Phụ-Tá Đặc-Biệt cấp Tỉnh/Thị tại Khu I vào dự, tất cả các Chánh Sở Đặc-Cảnh liên-hệ đều thuyết-trình giống như tài-liệu cấp Vùng của tôi; lúc đó mới biết là đúng nhu-cầu của ông.
Do đó, tôi không biết―vì hẳn Trung-Tá Phạm Văn Ca cũng không hỏi nên không biết―thực-sự Chuẩn-Tướng Tây muốn tôi trình-bày những gì.
*
Cuối cùng tôi được mời vào gặp Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.
Ông cười hỏi tôi:
– Anh ngạc-nhiên lắm hả?
Tôi chưa biết phải nói gì thì Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương đã nói ngay:
– Chính tôi mới là người ngạc-nhiên, về anh.
“Ở Vùng I: Chánh Sở An-Ninh Quân-Đội đề-cao anh; Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đoàn & Quân-Khu khen-ngợi anh; Trung-Tướng Tư-Lệnh Ngô Quang Trưởng ban-thưởng Anh-Dũng Bội-Tinh cho anh 3 lần, 2 với ngôi sao bạc, 1 với ngôi sao vàng. Cộng chung, tại Vùng I, cũng như tại Vùng II, ngoại-trừ các sĩ-quan quân-đội biệt-phái qua, thì anh là sĩ-quan Cảnh-Sát có nhiều huy-chương nhất, cả các loại của các quân-chủng bên quân-sự lẫn các loại của các Bộ bên dân-chính, và các loại huy-chương của Cảnh-Sát Quốc-Gia.
“Ở Trung-Ương: tôi hỏi các phụ-tá của tôi, Giám-Đốc các Nha, thì không ai chê-trách gì anh, mà họ còn tỏ ra quý-mến anh.
“Tôi đã phái Trung-Tá Phạm Trọng Tú, Thanh-Tra-Trưởng, ra tận nơi dò xét về anh, nhưng không tìm thấy điều gì sai trái, chỉ toàn ưu-điểm mà thôi…”
Ông cười, khiến tôi―từ chỗ thoạt đầu lo-ngại, tiếp đến ngạc-nhiên, rồi là vui-mừng―cũng cười theo ông.
Rồi ông đứng dậy, khiến tôi cũng đứng dậy theo.
Ông kết-luận:
– Tôi chỉ trực-tiếp trắc-nghiệm, để anh tự mình nói ra, rằng mình đã có làm gì bậy-bạ hay không. Mà không thì là tốt rồi. Thiếu-Tướng Tư-Lệnh cũng có đường dây kiểm-soát riêng, và cũng nhận thấy là anh có tài, có công, có tư-cách, đáng được tưởng-thưởng. Thiếu-Tướng đã ra lệnh thăng cấp cho anh vào “Ngày Cảnh-Lực” 1-6-1975* này. Bộ Tư-Lệnh đã dự-trù sẽ bổ-nhiệm anh vào một chức-vụ nào đó, quan-trọng và xứng-đáng hơn cương-vị hiện-thời.
“Thôi, chúc mừng anh. Tiếp-tục cố gắng.
“Và vui-vẻ ghé Nha-Trang thăm gia-đình nha!”
*Ngày ấy chưa đến thì Việt-Nam Cộng-Hòa đã tiêu-vong.
Ghi chú:
Cựu Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Biệt toàn-quốc (mà tôi gọi làTư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương), sau ngày mất nước, đau nỗi đau chung, đã lặng-lẽ ẩn mình trong bóng tối, không xuất-hiện nơi công-cộng, không tuyên-bố, phát-biểu điều gì.
Ông mất tại Westminster, CA, USA, ngày 12-9-2010, hưởng-thọ 78 tuổi.
GHI THÊM:
Lê Xuân Nhuận là người đầu tiên được Cấp Trên cho riêng tiền-mặt (trao tay mỗi tháng $20,000.00), để tùy ý thuê nhà mà ở, khi thuyên-chuyển ra Vùng I, suốt một-năm-rưỡi sau cùng của mình tại Quân-Khu I mà cũng là một-năm-rưỡi sau cùng của VNCH tại vùng địa-đầu này.
TRỤ-SỞ Ðài Phát-Thanh Huế tọa-lạc ngay trên bờ Hữu-Ngạn của Sông Hương, cạnh mé Tây của đầu Cầu Trường-Tiền, đối-diện Đại-Khách-Sạn Morin bên kia Đường Lê-Lợi sát góc Đường Duy-Tân.
Thuở ấy, chưa có các Ðài cấp Tỉnh, Ðài Huế là Tiếng Nói chung của cả Miền Trung, nên máy phát rất mạnh, không thua Ðài Quốc-Gia và Ðài Pháp-Á (Radio France-Asie) của Pháp ở Sài-Gòn, nghe được cả ở Miền Bắc lẫn Miền Nam Việt-Nam.
Cả nước chưa có hệ-thống truyền-hình; cả Miền Trung chỉ có vài ba tờ nhật-báo ở Huế mà thời-sự thì dựa theo tin-tức đọc chậm của Ðài Sài-Gòn. Trong tình-hình đó, Ðài Huế là món ăn tinh-thần hằng ngày của đồng-bào Miền Trung, và của cả những người ở phiá ngoài Tỉnh Thanh-Hoá và ở phiá trong Tỉnh Bình-Thuận mà có gốc-gác hoặc liên-hệ đời sống ở Miền Trung.
Ngoài những tiếng hát của các nam+nữ ca-sĩ mà một số về sau vào Sài-Gòn thì trở thành danh-ca của toàn-dân, giọng bình và ngâm thơ của các thi+kịch-sĩ tên-tuổi một thời, tiếng hát của các danh-ca quốc-tế trong các chương-trình nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, và giọng đọc xì-xồ của mấy người Pháp trong chương-trình vô-tuyến của Service d’Information, những ai đã từng nghe Ðài Huế cũng đều xác-nhận rằng người nữ-xướng-ngôn chính của Ðài này có một giọng đọc truyền-cảm vô-cùng. Giọng đọc của người con gái Huế ấy chẳng những dịu-dàng, ngọt-ngào, ấm-cúng, hấp-dẫn, mà còn trí-thức, vì không bao giờ vấp phạm lỗi-lầm khiến thính-giả khó chịu hoặc làm sai lạc ý-nghiã của câu văn.
Những người hiếu-kỳ đi ngang qua Ðài Huế thường để ý thấy có một thiếu-nữ be-bé xinh-xinh, cư-ngụ trong một căn phòng khiêm-tốn ở tầng trên của một buồng-kho bên hông trụ-sở Ðài. Một cầu thang nhiều bậc xi-măng từ mặt đất bắc lên cửa phòng làm cho căn phòng có vẻ cao hơn, khiến các thanh-niên ái-mộ đặt cho người-đẹp và căn phòng ấy cái mỹ-danh “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”.
Ðó chính là cô xướng-ngôn nói trên.
Sau ngày hồi-cư vào đầu năm 1947, tôi thường đến Ðài Huế để góp phần vào các chương-trình kịch vô-tuyến hằng tuần, kể cả việc trình-bày một số kịch thơ dã-sử và xã-hội của tôi, trong đó nhạc-sĩ Trịnh Văn Ngân là một trong những cây ngâm tuyệt-vời.
Do đó, tôi quen biết “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”. Tên nàng là Trần Trinh Thuận, tức nữ-sĩ Vi Khuê, một biên-tập-viên chính-ngạch có giọng nói trời cho nên kiêm luôn phần-vụ xướng-ngôn.
Tuy Vi-Khuê làm việc ở một cơ-quan thông-tin tuyên-truyền đậm màu chính-trị, nhưng những bài thơ của nàng hồi đó chỉ là tâm-tình của bạn gái ở lứa tuổi hai mươi, dễ thương như “con nai vàng ngơ-ngác, đạp trên lá vàng khô”.
*
Tôi thì lăn xả vào giữa tình-hình rối-ren cuả Quê Hương.
Dù đã từng bị giặc Pháp tù đày, tôi vẫn giao-du tuy không đồng-ý với Hồng Quang, chủ-nhiệm báo “Ý Dân”, là người chỉ chọn vũ-lực để chống chủ-nghiã thực-dân; và vẫn cộng-tác tuy không thuận-tình với Phạm Bá Nguyên, chủ-nhiệm báo “Công Lý,” là kẻ nhận Ðệ-Tứ thay cho Ðệ-Tam. Tôi lui+tới với Duy Sinh nhưng chưa yên tâm vì huyền-thoại văn-hoá điệp-báo của Nguyễn Bách Khoa. Tôi rất đau lòng vì đồng-bào đói khổ, nhưng chỉ hiệu-chính giùm thi-pháp chứ không tán-thành nội-dung khích-động giai-cấp đấu-tranh trong thi-tập “Tiếng Nói của Dân Nghèo” cuả Vân Sơn PMT (Phan Mỹ Trúc). Tôi thân+thương Trụ Vũ và Quách Thoại nhưng không hợp tính với họ vì lối sống phóng-túng của hai nghệ-sĩ thân-nhân ấy của Vi Khuê. Tôi tiếp-xúc với tác-giả nhưng không khép mình trong triết-thuyết bi-quan trong “Con Thuyền Không Bến” cuả Nguyễn Vũ Ban. Tôi thả hồn lên cõi siêu-nhiên nhưng không bước vào nương nhờ Cửa Thiền trong “Không Bến Hạn” cuả Huyền Không.
Tôi ủng-hộ cả hai đường-lối phục-hồi độc-lập quốc-gia: công-nghiệp kháng-chiến vũ-trang chân-chính của người dân, và nỗ-lực ngoại-vận ôn-hoà của các chính-trị-gia không-cộng-sản trong lòng Thế-Giới Tự-Do.
Riêng ở phiá bên này lằn ranh, tôi nhận thấy Cựu-Hoàng Bảo Ðại thì quá yếu mềm mà Đế-Quốc Pháp thì còn luyến tiếc giấc mơ đô-hộ Việt Nam, nên viết cuốn truyện dã-sử “Trai Thời Loạn” để gửi gắm ý mình, và kết-quả là tôi bị cơ-quan An-Ninh Quốc-Gia bắt giam; sau nhờ có chính-khách Cao Văn Chiểu, Giám-Đốc Thông-Tin Lê Tảo, cùng nhiều nhân-sĩ khác, can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được thả ra.
Ðể tạo một thế đứng vững-vàng hơn, tôi thành-lập Thi+Văn Ðoàn “Xây-Dựng”, xuất-bản các tác-phẩm của mình và của các bạn từ Bắc chí Nam. Mới bắt đầu thì Nhất Hiên (Phan Nhật Hiến) bỏ theo Việt Minh, và nửa chừng thì Như Trị (Bùi Chánh Thời) cũng nhảy lên chiến-khu.
Tôi hướng về nền dân-chủ và lòng hào-hiệp cuả Hoa Kỳ như tia sáng ở cuối đường hầm.
*
Tháng 4 năm 1954, tôi vào phục-vụ tại Phòng 5 Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu với tư-cách văn-nghệ-sĩ & ký-giả bị/được động-viên chuyên-môn. Lê Ðình Thạch và Huy Vân thì kỳ-cựu, Tô Kiều Ngân gốc Nha Thông-Tin cũng đã thành quân-nhân. Tchya (Ðái Ðức Tuấn) và Nhất Lang thì được đồng-hoá sĩ-quan.
Ngoài việc viết bài cho báo “Tiếng Kèn”, cho các đơn-vị Võ-Trang Tuyên-Truyền ở tuyến đầu, và cho chính tôi đi vận-động trong dân-nhân, tôi còn là phóng-viên chiến-tranh và biên-tập-viên chính cuả Ðài “Tiếng Nói Quân Ðội” tại Miền Trung.
Do chương-trình phát-thanh này, mà tôi là giám-đốc, tôi mới đặt phòng-giấy ngay tại trụ-sở của Ðài Phát-Thanh Huế, và gặp mặt Vi Khuê thường-xuyên.
Thay chỗ nhạc-sĩ Anh Chương, tôi cử Lâm Tuyền làm Trưởng Ban Tân-Nhạc; nhưng rồi tôi làm lơ cho Lâm Tuyền đào-ngũ vì anh quá chán chuyện đời.
Tôi đưa Văn Giảng lên thay.
Hà Thanh mới bắt đầu vào nghề.
Những lần xe Jeep bị hư, tôi đạp xe-đạp qua chở Kim Tước từ cư-xá Nha Thông-Tin ở bên kia cầu Trường Tiền. Cặp Châu-Kỳ−Mộc-Lan của giới ca-nhạc, cũng như cặp Hoàng-Pha−Phương-Khanh của giới văn+thơ, cũng đã từng ở đây.
*
Rồi Thoả-Ước Geneva ra đời.
Trong hội-nghị quốc-tế ấy, có ba nhân-vật Việt-Nam đã được thế-giới chú ý hàng đầu: Cô Thiên-Hương, con gái của nhà văn Hồ Hữu Tường, là nữ ký-giả duy-nhất, nói được nhiều ngoại-ngữ và trẻ đẹp nhất trong giới truyền thông; Cụ Võ-Thành-Minh, một lão-thi-sĩ, từ Huế đến, đã bí-mật vượt hàng rào Cảnh-Sát Thụy-Sĩ vào cắm trại trên Bờ Hồ Leman trước hội-đường, tuyệt-thực thổi sáo nói lên nỗi lòng của người dân Việt-Nam mong-muốn Thống-Nhất và khao-khát Tự-Do; và Ông Nguyễn-Quốc-Ðịnh, Ngoại-Trưởng cầm đầu Phái-Ðoàn Quốc-Gia Việt-Nam của chính-phủ Bảo Ðại, đã từ-chức để khỏi ký tên vào văn-bản thừa-nhận việc đất nước bị qua-phân.
Thủ-Tướng Ngô Ðình Diệm cử Ông Trần-Văn-Ðỗ đến thay. Pháp và Việt-Minh thoả-thuận ngưng bắn, lấy vĩ-tuyến 17 ngang sông Bến Hai làm ranh-giới Bắc–Nam.
*
Ðại-Tá Trương Văn Xương, Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, thuộc cánh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng là Trung-Tướng Nguyễn Văn Hinh (con của cựu Thủ-Tướng Nguyễn Văn Tâm, thân-Pháp), mở một chiến-dịch đưa quân từ Huế vào tiếp-thu các Tỉnh phiá trong. Theo chương-trình chính-thức thì Thủ-Tướng Diệm sẽ từ Sài-Gòn ra chủ-toạ lễ thiết-lập Chính-Quyền Quốc-Gia tại vùng đất mới lấy lại này. Theo kế-hoạch riêng của cặp Hinh+Xương thì Diệm, trên đường đi từ Huế vào Quảng-Ngãi, sẽ bị lính và dân dàn chào bằng tiếng hô “Đả Đảo” cùng với trứng thối và cà chua. Câu hỏi nổi bật là “Mười vé phi-cơ cho gia-đình họ Ngô, hay là mạng sống cuả cả trăm ngàn binh sĩ Quốc-Gia?” Các bức tường vẽ khẩu-hiệu đã được xây lên; và biểu-ngữ, bích-chương, cùng truyền-đơn liên-hệ đã được chuẩn-bị sẵn dọc đường rồi.
Phòng 5 Quân-Khu đương-nhiên đảm-trách công-tác tác-động tinh-thần này.
Thành-Phố Huế ngẫu-nhiên được chia thành hai trận-tuyến. Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu thì đóng trong Ðại-Nội, phiá Bắc của Sông Hương; nhà Ông Ngô-Ðình-Cẩn, trung-tâm quy-tụ cuả gia-đình họ Ngô, thì nằm trên Xóm Phú-Cam, phiá Nam của Sông Hương. Bộ-phận “Tiếng Nói Quân-Ðội” của tôi lại đặt trụ-sở tại Ðài Huế, trên bờ phiá Nam. Ðể biểu-dương lực-lượng, Quân-Khu phái đến hai chiếc xe-tăng, án-ngữ hai bên sân, trước Ðài Phát-Thanh. Các chương-trình vô-tuyến dân-chính chỉ có nội-dung lập-lờ, thông-tin hàng-hai.
Ở Quảng-Ngãi, cán-bộ Việt Minh gài lại xúi giục dân-chúng phản-kháng lực-lượng tiếp-thu, vì thấy vẫn có Cố-Vấn Pháp trong hàng-ngũ Quốc-Gia; súng nổ, người chết; Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát xen vào.
Ðảng Cần-Lao, qua nhạc-sĩ Ngọc Linh, móc nối tôi.
Tôi không theo đảng-phái nào hết, nhưng quyết-định ủng-hộ Thủ-Tướng Diệm, với chủ-trương “Ðả Thực, Bài Phong, Diệt Cộng”, để được sự giúp-đỡ cuả Hoa-Kỳ. Quốc-gia giàu mạnh nhất thế-giới này đã dìu-dắt Tây-Ðức, nâng-nhấc Nhật-Bản, và cứu-vớt Ðại-Hàn. Trung-Tá Nguyễn Văn Bông, Tư-Lệnh Mặt Trận Nam–Ngãi, đã phát-biểu với Trung-Tá Nguyễn Văn Tố, Phó Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, trong khi ổng lái xe ra đón Tố vào:
– Mình cộng-tác với thằng giàu thì hẳn sướng hơn phục-vụ cho thằng nghèo!
Tôi thảo truyền-đơn, tài-liệu, viết bài tuyên-truyền cho chí-sĩ họ Ngô.
Bộ Tham-Mưu của Xương không tin-tưởng ở tôi. Họ lập hẳn một Ðài Phát-Thanh riêng, trong Thành-Nội― dân-chúng gọi là “Đài bí-mật”―để tự mình phổ-biến lập-trường chống-Diệm và hô-hào dân-chúng nổi lên.
Không còn bị Cấp Trên ràng buộc, tôi công-khai dùng “Tiếng Nói Quân Ðội” để hậu-thuẫn cho Diệm và Hoa-Kỳ.
Hồi ấy, chỉ có một số trong giới Nho-học lớn-tuổi nghe danh Ông Ngô-Ðình-Khả, còn đa-số dân-chúng nói chung thì ít ai biết tên Ông Ngô-Ðình-Diệm, ngoại-trừ một nhóm trong giới Kitô-Giáo có đọc tờ báo “Tinh Thần” thời-gian gần đó.
Chương-trình phát-thanh của tôi có ảnh-hưởng rất lớn trong quần-chúng, vì làn sóng của Ðài Huế phát đi rất mạnh và xa, trong lúc “Ðài bí-mật” thì nhỏ và yếu, chỉ lẩn-quẩn vùng gần, lại khi-có khi-không.
Tôi đã lèo-lái để người dân xứ Huế, nghe Đài “của tôi” và trông thấy hai chiếc xe-tăng trấn đóng trước Ðài mà tưởng và tin là phe mạnh nhất trong Quân-Lực đã đứng hẳn qua phía Diệm, nên biệt-phái chiến-xa đến cho tôi để bảo-vệ Tiếng Nói của mình, chống lại phe yếu thế Hinh–Xương.
Toàn-quốc, nhất là Sài-Gòn, hướng về xứ Huế, gốc-gác của họ Ngô, lấy đó làm chỉ-dấu mà lên tinh-thần.
Từ đó, các phần-tử thân-Diệm mới dám đứng ra khỏi vòng giới-hạn của mình mà hoạt-động rộng-rãi trước mắt mọi người.
*
Trong những tháng ngày gay-cấn ấy, cứ mỗi lần từ các cuộc hành-quân hoặc từ các hoạt-vực bên ngoài trở về với phòng-giấy tại Ðài, tôi lại cảm thấy nhẹ-nhõm cả người, khi gặp mặt lại những nữ-nghệ-sĩ trẻ đẹp tươi vui, như bướm, như hoa, tô thắm cuộc đời. Trong vườn thanh+sắc ấy, Vi Khuê của giới thi+văn vẫn gần-gũi với tôi hơn các bạn bên giới cầm+ca. Nhưng “nàng bồ-câu” vẫn vô-tư-lự như mọi ngày, đâu biết đầu-óc tôi đã bỏng-rát những tính-toán mưu-mô, thân-xác tôi đã bầm-dập những gian-nan nguy-khốn, và chỉ trở về văn-phòng để thư-giãn cho những căng-thẳng thần-kinh.
*
Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm thắng phe Hinh+Xương.
Hoa-Kỳ mở Phòng Thông-Tin tại Đại-Khách-Sạn Morin. Giám-Ðốc Thompson A. Grunwald là viên-chức dân-sự Mỹ đầu tiên đặt chân đến Miền Trung. Tôi tổ-chức dạy tiếng Anh trên Ðài, có Tôn Thất Ðát phụ-lực; tham-gia thường xuyên là Thompson, và bất-thường là bất-cứ người ngoại-quốc nào nói tiếng Anh mà tôi gặp được, bắt đầu từ Đại-Tá Richardson, Trưởng Phái-Ðoàn quân-sự Hoa-Kỳ T.R.I.M.
Lớp dạy tiếng Anh của tôi là lớp đầu tiên trong lịch-sử dạy tiếng Anh qua làn sóng truyền-thanh cho thính-giả Việt-Nam.
Nguyễn Cửu Tú (Phó Giám-Đốc Đài), Thompson và Nhuận
Ðại-Tá Nguyễn Quang Hoành lên thay Trương Văn Xương, rồi vì bất-đồng chính-kiến nên lại nhường chỗ cho Thiếu-Tướng Lê Văn Nghiêm.
Ðại-Úy Ngô Văn Hùng thay thế nhạc-sĩ Ngọc Linh, làm Trưởng Phòng 5. Văn Giảng ra đi, tôi cử Lê Trọng Nguyễn lên thay. Nguyễn vừa dịch tài-liệu vừa sáng-tác nhạc; bên cạnh giai-phẩm “Nắng Chiều” là “Hoan-Hô Lê Thiếu-Tướng” theo lệnh của Hùng (bắt chước “Hoan Hô Ngô Thủ-Tướng”). Ðể giúp Tôn Thất Ðậu chọn nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, tôi liên-lạc với hàng chục Toà Ðại-Sứ ở Sài-Gòn, viết lời mở đầu về nền âm-nhạc của mỗi nước, và đặc-tính của mỗi bản nhạc, để giới-thiệu trước khi trình-bày. Giáo-Sư Lê Hữu Mục có đến chơi đàn; nữ-sĩ Như Thu đến góp bài; thi-sĩ Hồ Ðình Phương đến ngâm thơ. Trình-bày “Mục Thi-Ca” của tôi là Trần Anh Tuấn, Ðinh Lợi, Lan Hương, và Tâm Thanh (Tôn Nữ Kim Ninh).
*
Ở các Tỉnh Cao-Nguyên và miền núi Tỉnh Quảng-Ngãi, phong-trào đòi tự-trị của người Thượng nổi lên.
Chính-Quyền Diệm gom các phần-tử chủ chốt “Thượng Tự-Trị” về tập-trung ở đầu Cầu Nam-Giao. Một Nha Chiến-Tranh Tâm-Lý được lập nên, đặt trụ-sở ở đầu Cầu Phú-Cam. Đại-Úy Hùng kiêm-nhiệm Nha này. Tôi cũng kiêm thêm một số phần-vụ ở cơ-quan này, nên dời bàn-giấy đến đây.
Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu dời tổng-hành-dinh qua Hữu-Ngạn sông Hương.
Nước Việt-Nam Cộng-Hoà, với sự hậu-thuẫn của Hiệp-Chủng Quốc Hoa-Kỳ, được Thế-Giới Tự-Do nhìn-nhận.
*
Trong những năm trẻ-trung của Nền Ðệ-Nhất Cộng-Hòa ấy, Liên-Xô, Hoa-Cộng và Cộng-Sản Bắc-Việt, là những bên chủ-trương chia đôi đất nước Việt-Nam, chưa sẵn-sàng thực-hiện vũ-trang xâm-lược Miền Nam, mà Hoa-Kỳ thì viện-trợ tối-đa cả tinh-thần lẫn vật-chất cho con bài của mình và cái tiền-đồn mới lập này của họ ở Ðông Nam Á, nên tình-hình an-ninh khả-quan, chế-độ bắt đầu vững-vàng.
Thế là nhiều người liền tranh nhau mưu-quyền thủ-lợi riêng. Hầu hết chiến-công giữ nước, cũng như thành-tích dựng nước, được dùng để dâng lên Ngô Tổng-Thống, chỉ là những cử-chỉ qụy-lụy, những lời-lẽ tâng-bốc, những thái-độ tôn-thờ, dành cho toàn-thể gia-đình họ Ngô, được các tay chân thân-tín của Cụ xét thấy êm tai đẹp mắt nên tường-trình lên mà thôi.
Ông Ngô-Ðình-Khôi, bào-huynh của Diệm, từ-trần đâu cả chục năm trước kia, không ai biết đến; nay dời mộ-phần thì có cả tá cấp-cao chức-lớn gây lộn nhau để giành làm Trưởng Nam danh-dự hầu-cận bên quan-tài; nhiều năm về sau, hễ nhắc đến ông, nhiều kẻ còn khóc-lóc thảm-thương. Ông Ngô-Ðình-Luyện làm đại-sứ tận bên nước Anh, người dân không hề thấy mặt, thế mà khi nhắc đến ổng thì ai nấy đều vẽ-vời ra vô-vàn tài-cao đức-trọng, để ngợi-ca cho vừa lòng thế-gia. Huống chi các “Cố Vấn” hùng-cứ trong nước mà uy-quyền có khi lấn át cả ông anh. Dù không muốn nhập-cuộc, đa-số vẫn phải nhắc đi nhai lại, để được yên thân, những sáo-ngữ đã thành công-thức chót lưỡi đầu môi: “Nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và các bào-huynh, bào-đệ cuả Người!” Thế là lắm kẻ được đặc-cách tiến-chức thăng-quan.
Trung-Tướng Thái Quang Hoàng thay thế Lê Văn Nghiêm.
Nhà văn Bùi Tuân trở thành Dân-Biểu, không còn viết thuê xã-luận cho Ðài của tôi, mà diện lễ-phục lái xe-hơi di diễu khắp phố-phường. Nhạc-sĩ Ngô Ganh không còn lập-dị, mặc bộ com-lê may bằng dạ chăn đi dưới nắng hè, bên trong là chiếc áo ngủ cổ kiềng mà mỗi lần đi đâu thì chỉ cần gài thêm vào đó một cái cổ áo trắng có đính sẵn ca-vát là khỏi phải tốn thêm nguyên cả chiếc áo sơ-mi; bây giờ ảnh làm Quản-Ðốc Ðài, kiêm Ðại-Diện Nhân-Dân Miền Trung, ngồi chung dãy ghế danh-dự với Ðại-Biểu Chính-Phủ, Tư-Lệnh Quân-Khu, v.v… trong những buổi lễ công-cộng trên khán-đài Phu Văn Lâu.
Trong lúc đó, tôi bị cơ quan An-Ninh Quân-Ðội thẩm-vấn tới, điều-tra lui. Họ vin vào cớ tôi đã là Trưởng Ðài Quân-Ðội từ khi còn Hinh+Xương.
Một hôm, Tổng-Thống Diệm ra Huế và ở lại đêm. Sáng sau, tôi nghe hàng-xóm kháo chuyện với nhau: “May mà bắt được, chứ không thì quân khủng-bố đã ám-hại Tổng Thống đêm qua rồi!” Ðến sở, tôi hỏi Đại-Úy Ngô Văn Hùng thực/hư thế nào; ổng liền gọi điện-thoại cho An-Ninh Quân-Đội, và cơ-quan này đến bắt tôi. Truy-cứu mới biết: chính-quyền sở-tại và thân-tộc có tổ-chức nhiều vòng đai an-ninh xung quanh nhà-thờ Phú Cam, nơi Diệm đến tiếp-xúc với giáo-dân; có một nhân-viên chìm, thuộc vòng-đai trong, vì đến trễ nên bị chận soát ở vòng-đai ngoài; thấy y có vũ-khí giấu trong người, đồng-bào tưởng lầm là Việt Minh. Chỉ có thế thôi, nhưng vì Diệm đã được thần-thánh-hoá, nên câu hỏi của tôi, dù là để phối-kiểm với mục-đích dùng Đài Quân-Đội mà trấn-an dư-luận đồng-bào, cũng đã bị xem là một sự xúc-phạm tày trời.
Ngày xưa, phần lớn văn-nghệ-sĩ đều phục-vụ trong ngành truyền-thông, nên tôi đã từng mong được chuyển nghề qua làm việc trong cơ-quan Thông Tin, để được quần-chúng độc-giả khán+thính-giả trọng-vọng hơn. Bây giờ đã ở trong ngành Tác Ðộng Tinh Thần, dù của Quân Lực nhưng cũng là thông-tin tuyên-truyền, tôi mới thấy mặt trái của tấm huy-chương.
Lần đó, nhà bác-học Bửu Hội, thân-thích của Cựu-Hoàng Bảo Đại, nhân dịp từ Pháp về thăm nhà, đến nói chuyện về y-học với đồng-bào Huế tại Rạp Chiếu Bóng Morin. Một số văn+thi-sĩ tùng-sự tại Nha Thông-Tin Trung-Phần đã nêu lên nhiều câu hỏi về thời-sự, mục-đích là để gài Hội phải phát-ngôn ủng-hộ Diệm, hoặc ngược lại thì có bằng-chứng để dễ ra tay. Mặc dù Hội đã nhấn mạnh rằng ông không về Việt Nam với mục-đích chính-trị, và xin miễn đề-cập đến các vấn-đề ngoài phạm-vi y-học, đồng-thời số đông trong cử-tọa cũng đã huýt gió phản-đối những câu hỏi lạc-đề, nhưng nhà văn Ðỗ Tấn vẫn trơ-tráo đứng dậy đặt thêm cho được vài câu hỏi nữa.
Bác-Sĩ Trần Văn Thọ, Tổng Giám-Ðốc Thông-Tin, mà còn tranh tài với Bác-Sĩ Trần Kim Tuyến, Giám-Ðốc Nha Nghiên-Cứu (tức cơ-quan Tình-Báo) thuộc Phủ Tổng-Thống; thảo nào mà nhà-văn này cũng không chịu lép vế các nhà-văn khác trong thành-tích bao vây những ai bị nghi là, bị cho là có thể đối-kháng chế-độ đương-quyền.
Một số nhà-thơ giành nhau chức-vụ lãnh-đạo ngành Thông-Tin, khởi đầu bằng địa-vị Chủ-Tịch Hội Văn-Nghệ-Sĩ & Ký-Giả Miền Trung.
Nhà-thơ Đỗ Tấn Xuân nhai lại cái bã Tố Hữu tán-tụng Staline, in hẳn cả một tập thơ―nhan đề “Mùa Hoa Sim Nở”―trong đó có câu “Tiếng đầu lòng con gọi: Cụ Ngô!”
Họ sợ vướng tôi nên tìm cách loại tôi, lùng thu thi-tập “Ánh Trời Mai” của tôi, v.v…
Thế nhưng hầu hết các nam+nữ tân+cổ+nhạc thi+ca+kịch-sĩ cộng-tác với tôi thì chỉ thấy tôi là một nhà thơ trẻ trai, hiền-lành, hòa-đồng với họ trong từng bộ-môn, chứ không biết gì về những khó-khăn của tôi.
Họ cũng không quan-tâm gì đến mục-đích chính-trị của Ðài, mà lại đinh-ninh rằng trọng-tâm hoạt-động và lý-do cùng ý-nghĩa của sự hiện-diện của Ðài chỉ là phần diễn-ngâm ca-tấu giải-trí văn-nghệ mà họ cống-hiến cho số thính-giả gần xa ái-mộ họ mà thôi.
Vi Khuê thì trầm-lặng hơn họ và có một thế đứng riêng. Nàng không ca hát nhưng số khán+thính-giả địa-phương hằng ngày háo-hức đến xúm dán mũi vào cửa kính để xem tận mắt các nữ-danh-ca hát thật cũng như dượt bài, đều không bỏ lỡ cơ hội nhìn ngắm cô biên-tập-viên duyên-dáng của Ðài. Các người-đẹp trình-diễn thì chỉ xuất-hiện vào giờ có chương-trình liên-quan, còn Vi Khuê thì có mặt ở đó suốt ngày, để những lúc trở về Ðài tôi nhìn thấy nàng mà dịu-vợi ưu-tư…
*
Thế rồi tôi giã-từ quân-ngũ, rời khỏi Ðài, ra ngoài hoạt-động văn-nghệ nhiều hơn trong một môi-trường rộng-lớn và khoảng-khoát hơn.
Ngoài các nỗ-lực tích-cực trong Quân-Ðội và sau đó là trong ngành Cảnh-Sát Công-An, tôi còn hăng say dùng hoạt-động văn-nghệ riêng tư để góp phần xây-dựng và củng-cố chế-độ Ðệ-Nhất Cộng-Hoà, thí-dụ: viết báo, đi thuyết-trình trong Cảnh-Sát & Công-An và ngoài dân-chúng; sáng-tác và trình-diễn khắp nhiều Tỉnh vở kịch thơ “Gươm Chính-Nghiã” của tôi đề-cao Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, kêu gọi sĩ-phu khắp nơi, đặc-biệt từ Miền Bắc, về với Chính-Nghiã Miền Nam; sáng-tác và xuất-bản tập thơ “Tuần Trăng Mật” vinh-danh tình yêu vợ+chồng, phù-hợp với nguồn cảm-hứng từ Luật Gia-Ðình của Bà Ngô-Ðình Nhu…
Tôi giữ Mục “Vườn Thơ” trên tuần-báo “Rạng Ðông” của Lê Hữu Mục, họp làm đặc-san với Tôn Thất Dương Tiềm, xuất-bản thơ của các bạn gần xa và của chính mình, kết-thân với các nhóm như Hồ Mộng Thiệp, Thanh Phượng, Anh Ðộ, Tô Như, Quốc Dân… ở Ðà-Nẵng; đồng nhóm Xây-Dựng là Xuân Huyền, Tường Vi, Huyền Chi, Hoài Minh, Bàng Bá Lân, v.v… ở Sài-Gòn. Trong đó, tôi giữ mục “Hội Thơ” (do Hồ Đình Phương trung-gian) trên tuần-báo Văn-Nghệ Tiền-Phong của Hồ Anh, và có nhạc-sĩ Lê Mộng Bảo giúp phần ấn-loát phát-hành sách và đặc-san.
Tôi tái-tổ-chức họp bạn hằng tuần; ngày xưa thì có Nhân Hậu, Vĩnh Thao, Hạnh Lang, Trúc Lang, Võ Ngọc Trác, Xuân Dưỡng, Giang Tuyền, Kiêm Minh, Lê Mộng Hoà, Nhân Nam, v.v…; bây giờ thì có Hoàng Hương Trang, Tuyết Lộc, Kim Lan, Nguyên Xuân Tứ, Hữu Ðỗ, Khang Lang, Hoài Tâm, Hương Thu, Xuân Nghị, Thanh Thuyền, Thế Viên, v.v…; có lần có cả Trần Minh Phú từ Hàng Me đến, Diên Nghị từ đơn-vị về, Hồ Ðình Phương từ Long-An ra…
Ðại-Hội Văn-Hoá Toàn-Quốc dưới thời Ðệ-Nhất Cộng-Hoà (khai-mạc ngày 11 tháng 1 năm 1957) đã đem lại cho tôi một phần thưởng tinh-thần: “Xây-Dựng” cuả tôi được nhìn-nhận là một cành của Cây Ða Văn-Hiến Việt-Nam.
Trong thời-gian đó, Vi Khuê lên xe hoa. Và đôi uyên-ương đưa nhau lên xây tổ ấm trên đồi núi Ðà-Lạt sương mù, bỏ lại “chuồng bồ câu” trống lạnh như nỗi thiếu vắng trong lòng của những ai ai…
*
Sau khi bản-thân tôi gặp nhiều khó-khăn vì không chịu cải-đạo; sau khi người ta giết chết cả hai vợ+chồng thầu-khoán Nguyễn Văn Yến; sau khi người ta dùng ngay phòng họp là nơi tôi hướng-dẫn học-tập “Ðạo-Ðức của Ngô Tổng-Thống” cho các cấp chỉ-huy Cảnh-Sát Huế trong các buổi học-tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục hằng tuần, để làm nơi tra khảo và giết chết thầu-khoán Nguyễn Ðắc Phương rồi ném xác xuống sân tri-hô là Phương nhảy lầu tự tử; sau khi nhận được vô-số bài-vở của anh+chị+em Cảnh-Sát Công-An gửi về tôi để xin đăng lên tờ nội-san “Phục Vụ” do tôi chủ-biên, nội-dung tố-cáo nhiều, quá nhiều, hành-động tham-lam, tàn-bạo, kể cả giết người, dựa quyền cuả ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn; v.v…
Do đó, tôi đã liều-lĩnh công-khai nêu lên một số khuyết-điểm của chế-độ họ Ngô, trong một buổi học-tập tại cơ-quan vào ngày Lễ Hai Bà Trưng (3-3-1960).
Biến-cố này đã gây chấn-động cả Miền Trung.
Kết-qủa là tôi bị quản-thúc điều-tra ba tháng, gây tranh-cãi giữa hai ông Cố-Vấn Cẩn và Nhu…
Rồi tôi bị đày lên Cao Nguyên “vùng nước độc và nguy-hiểm” với bụi đỏ mù trời.
Đời sống chính-trị tạo thi-hứng cho tôi sáng-tác và đăng báo rời-rạc các bài thơ mà sau Cách-Mạng 1-11-1963 mới được gom lại ấn-hành thành tập “Với Thượng-Ðế”, tập thơ thứ bảy cuả mình.
*
Qua đến Ðệ-Nhị Cộng-Hoà, tôi cũng lại gặp rắc-rối, vì tôi công-khai phản-đối những sai trái, nhất là chiều-hướng quân-phiệt trong chế-độ Nguyễn Văn Thiệu, bằng một bức thư trần-tình gửi lên Cấp Trên**.
Sau cùng tôi được (hay bị?) đưa về lại Miền Trung để giải-quyết giùm (và tôi đã giải-quyết được) những khó-khăn nội-bộ tại vùng đất này mà trước đó Trung-Ương hầu như bó tay…
Giờ đây, tôi trở về Huế lại.
Ngồi trên ghế đá công-viên trước Ðài Phát-Thanh Huế, tôi nhắm mắt mường-tượng những gì đã xảy ra tại đây vào buổi tối 8-5-1963―phản-ứng của giới Phật-Tử bị cấm treo cờ Phật-Giáo vào ngày lễ Phật, Phật-Giáo-Đồ tập-trung, chất nổ, người chết, sức mạnh quần-chúng…
Rồi lịch-sử đã sang trang…
Lắc đầu xua đi những ảnh-hình thế-sự, tôi thả hồn sống lại quãng đời thơ trẻ đã qua.
Những khuôn mặt cuả Huế một thời, mà tôi nhớ thêm: các nhà văn Bửu Kế, Phan Khoang…; các nhà thơ Phan Văn Dật, Nguyễn Anh, Tô Kiều Ngân…; nhà khảo-cứu Bửu Cầm; hoạ-sĩ Phi Hùng; nhà dựng kịch Lê Hữu Khải; các kịch-sĩ Vũ Ðức Duy, Vĩnh Phan, Minh Mão, Hà Nguyên Chi…; các nhạc-sĩ Nguyễn Hữu Ba, Lê Quang Nhạc, Ưng Lang, Hoàng Thi Thơ, Lê Tất Vịnh, Hoàng Nguyên…; các ca-sĩ Minh Trang, Thanh Nhạn, Tôn Thất Niệm, Ngọc Cẩm–Nguyễn Hữu Thiết, Bạch Yến, Thiện Nhân, Hương Việt, Diệu Hương…
Tôi không gặp lại Phương Như, Bằng Trình của Huế, Anh-Ðộ Ðỗ Cẩm Khê của Ðà-Nẵng, và mất liên-lạc với Huyền-Chi từ sau khi nàng lấy chồng. Trước đó, bóng người áo trắng Kiều-Ngọc đã vuột khỏi tầm tay tôi.
Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ buổi hoàng-hôn ấy tôi lái xe Lambretta-2-bánh chở Trần Dạ Từ từ khách-sạn Khê-Ký lên Bến-Ngự để anh gặp Nhã Ca, và buổi sáng chủ-nhật kia Hy Văn Mộng đến nhà tôi chơi bị cháu nhỏ tè ướt cả quần khi anh bế nó lên hôn.
Có những bạn thân không còn, hoặc còn nhưng phai thân…
Nhưng Vi-Khuê thì vẫn còn là một người bạn thân. Cuả vợ+chồng chúng tôi.
Trong cuốn lưu-bút “Kỷ-Niệm Vàng” mà tôi giữ kỹ, bây giờ vẫn còn tờ giấy bạc “anh gánh dưa” một đồng mới toanh mà Vi-Khuê đã ký tặng mừng tuổi tôi vào dịp Tết năm nào.
Hình-ảnh ấy càng đậm nét khi nàng đưa Vân-Anh, cả hai phất-phơ tà áo màu qua cánh đồng An-Cựu vàng rực mùa lúa gie, đến thăm tôi vào thuở ban đầu, để rồi sau đó thì nàng làm chứng-nhân cho cuộc lễ thành-hôn của tôi với người bạn thân ấy của nàng.
*
Giờ đây Thành-Phố Huế đã bị giáng bậc xuống làm Thị-Xã, tước mất―ngoại-trừ về phần văn-hóa và lịch-sử― cái địa-vị thủ-phủ của Miền Trung; hoa-khôi Ðồng Khánh ngày càng hiếm-hoi; Ðài Huế xuống cấp làm Ðài Tỉnh nhỏ; các xướng-ngôn-viên và ca-sĩ chỉ gợi tiếc những giọng oanh vàng và hương sắc ngày xưa…
Ðệ-Nhất Cộng-Hoà thế kia, Ðệ-Nhị Cộng-Hoà thế này. Mỗi chế-độ có những vấn-đề khác nhau, nhưng đều giống nhau ở vận nước chông-chênh.
Liệu những biến-thiên của cuộc đời sẽ còn đem lại những đổi thay nào khác nữa cho Đồng-Bào, cho Quê-Hương?
Huế vẫn còn đây, Ðài Huế vẫn còn đây, và tôi trở về ngồi đây.
Nhưng tôi không còn tìm thấy lại được, sau mỗi chặng đường―cũng vẫn gian-nan một mình chống-chọi với ma-quỷ còn sót lại trong thời buổi mới―sự thanh-thản, dù trong chốc-lát, cho tâm-hồn mình, như những ngày nào xa xôi…
KONELSKO thường đến thưởng-ngoạn phong-cảnh tại Chùa Non-Nước, một kỳ-quan của Ðà-Nẵng–Quảng-Nam.
Ở đây có chùa Phật-Giáo với các nhà-sư; có động thạch-nhũ; có hang sâu; có thủ-công-nghệ biến đá non thành đồ dùng và đồ trang-trí đẹp, lạ và quý; có nhiều lối đi quanh-co vắng-vẻ thích-hợp với những cuộc hẹn-hò riêng-tư. Ban ngày thì khách du-lịch, khách hành-hương, và khách vãng-cảnh tới+lui tấp-nập. Một số cư-dân địa-phương sống nhờ bằng nghề buôn bán thức ăn, thức uống, nhang, đèn, trầm, đồ chơi, đồ kỷ-niệm; chuyên-chở và giữ xe. Ban đêm thì cả vùng im-lặng, vắng hoe; có tin là Việt-Cộng giả-dạng thầy-tu thỉnh-thoảng có đến hoạt-động trong khu-vực này.
TÔI đi thăm Chùa Non-Nước, có để ý thấy ở vùng chân núi, gần bãi đậu xe, có một tu-sĩ trẻ tuổi ― hay chỉ là một thanh-niên cạo trọc đầu ― mặc bộ đồ vàng của nhà-sư, thường lảng-vảng xung quanh. Có tin nói rằng đó là một người điên; lại có tin cho rằng đó là một phần-tử trốn quân-dịch; nhưng tôi không có lý-do gì hoặc cơ-hội nào thuận-tiện để xét hỏi giấy-tờ, lý-lịch của anh-ta; vì anh-ta mặc-nhiên là một nhà tu-hành ở chùa, hơn nữa, chưa có hành-vi gì sai+trái.
Chúng tôi tránh gây bất-bình cho các giáo-hội, đoàn-thể, quan-nhân. Ni-sư Huỳnh Liên là một tay sai của Việt-Cộng ở giữa Thủ-Ðô Saigon, hoạt-động công-khai, mà cả guồng máy đầu-não của hệ-thống An-Ninh Tình-Báo trung-ương trong đó còn chưa thể làm gì được, huống gì.
MỘT buổi chiều nọ, Konelsko đi Chùa Non-Nước.
Theo báo-cáo của Toán Ðặc-Nhiệm theo dõi Ủy-Hội Quốc-Tế thì ông-ta có lời-lẽ hay cử-chỉ khiếm-nhã thế nào đó đối với một số người địa-phương, nên nhà-sư trẻ tuổi kia mới đến dùng tiếng Anh cãi-vã với ông-ta; cuối cùng, viên đại-tá Trưởng Phái-Ðoàn Ba-Lan phải trở vào xe giục tài-xế lái chạy để khỏi bị nhà-sư tấn-công; nhưng nhà-sư ấy vẫn rượt đuổi theo, dùng tay và răng xé nát lá cờ Ủy-Hội Quốc-Tế (ICCS) cắm trước đầu xe.
Nhân-viên của tôi là nhân-viên chìm, không có quyền-hạn can-thiệp vào những việc đó.
Tìm hiểu, chúng tôi được biết tên thật của nhà-sư kia là Nguyễn Văn Ðồng. Anh-ta tuy còn trẻ tuổi nhưng có tư-tưởng cấp-tiến về nhiều vấn-đề đương-thời.
Chúng tôi tin rằng trong vụ đụng-chạm với nhà sư trẻ tuổi ở Chùa Non-Nước, phần lỗi về phía Ðại-Tá Konelsko.
Ông-ta đã từng kiếm cách gây sự với Chính-Quyền địa-phương.
Vụ từ-khước treo quốc-kỳ Việt-Nam Cộng-Hòa vào ngày quốc-khánh của ta (xem bài “Ngày Quốc Khánh 1-11-1973”) được xem là thái-độ khẳng-định lập-trường chính-trị của cả hai đảng cộng-sản Ba-Lan và Hung Gia Lợi, bất-chấp lễ-tục ngoại-giao.
Konelsko cũng trực-tiếp chọc ghẹo chúng tôi.
Có một lần ông-ta đi bộ dạo phố; trên đường Nguyễn Thị Giang, ông-ta nhét vào hộp thư Bưu-Ðiện dọc đường một bì thư, dăm phút trước giờ Bưu-Tín-Viên đến lấy thư mang về Bưu-Cục. Nhân-viên giám-thị báo-cáo là sau đó ông-ta đã đến đứng nấp sau một góc đường quan-sát xem thử mật-viên ― mà ông-ta tin là đã theo dõi, có thấy ông-ta bỏ bì thư vào ― có đến hỏi thăm về bì thư kia hay không.
MỘT lần kia, Konelsko đi dạo phố chơi. Ông-ta đã bị kẻ gian rút mất cái bóp. Sau đó, ông-ta tiết-lộ với cô Lan là sẽ nêu vụ này ra trước phiên họp chung với Phái-Ðoàn Việt-Nam Cộng-Hòa trong Ban Liên-Hợp Quân-Sự (lý-thuyết là 2-Bên, nhưng thực-tế chỉ là 1-Bên, vì Việt-Cộng không đưa đại-diện đến làm việc trong Ban này).
NGUYỄN-THỊ-LAN là một thiếu-nữ đẹp, ký-sự tại khách-sạn “Hồng Kông” do Hãng Thầu thuê riêng cho hai Phái-Ðoàn cộng-sản ở, phụ-trách tiếp-nhận để đáp-ứng các nhu-cầu của khách trọ liên-quan đến các vấn-đề chỗ ở, đồ ăn, thức uống, vệ-sinh, giặt+ủi, xe-cộ, tài-xế, thư-từ, khách-khứa, v.v… Nói tiếng Anh giỏi, kiến-thức khá, thông-minh, lanh-lợi, thùy-mị, duyên-dáng, bặt-thiệp, tháo-vát, cô Lan được mọi thành-viên của cả hai Phái-Ðoàn nói trên mến chuộng. Nhưng, lẽ thường-tình, đã có các Trưởng Phái-Ðoàn là sĩ-quan cao-cấp, lại có các thông-dịch-viên ― là thành-viên quan-trọng, vì luôn luôn gần-gũi với thượng-cấp cũng như các giới-chức cao-cấp đại-diện các quốc-gia hoặc tổ-chức khác ― nên các thành-viên khác chỉ tiếp-xúc/nhờ-vã Lan trong những việc bình-thường mà thôi; còn chuyện tâm-tình nam-nữ thì hiển-nhiên chỉ dành cho các Trưởng Phái-Ðoàn và các thông-dịch-viên ― vốn hay lợi-dụng cơ-hội để chiếm nhiều thì-giờ trò-chuyện làm thân với Lan hơn.
Thông-Dịch-Viên của Phái-Ðoàn Ba-Lan lúc đó là Interski. Anh-ta là một thanh-niên đẹp trai, tất-nhiên nói giỏi tiếng Anh, giao-tiếp rộng, hiểu biết nhiều, hào-hoa phong-nhã. Những lúc làm việc thì anh-ta mặc quân-phục với cấp-bậc trung-úy; nhưng tin-tức điệp-báo cho biết anh-ta là một cán-bộ tình-báo xuất-sắc, được KGB của Liên Xô đào-tạo. Tôi tin điều đó là đúng sự thật, nhưng rất ngạc-nhiên vì chính anh-ta… đã phạm rất nhiều sơ-hở. Trên thị-trường Ðà-Nẵng có nhiều loại hàng tơ lụa rất đẹp, rất tốt, của các nước tư-bản nhập vào; kỹ-thuật may-đo của người Việt-Nam rất cao, và tiền công tương-đối rẻ. Interski đã ra phố đặt may khá nhiều áo quần hợp thời-trang; và may cả quân-phục bằng hàng Tây-Phương, màu thổ-huỳnh, màu ô-liu, và cả màu trắng nữa. Dân-chúng địa-phương hầu như không để ý gì, vì họ xem chung mọi người ngoại-quốc đều là ngoại-nhân, ăn mặc thế nào là việc riêng của quân-đội quốc-gia liên-hệ; song cấp chỉ-huy trực-tiếp là Ðại-Tá Konelsko thì mặc-nhiên chấp-thuận ― hay là chịu đựng ― cho thông-dịch-viên của Phái-Ðoàn mình lần này thì mặc đồ Bộ-Binh, lần sau thì khoác áo Hải-Quân, và lần sau nữa thì đội lốt Không-Quân!
Trong phòng-khách khách-sạn “Hồng Kông”, tối nào các Trưởng Phái-Ðoàn và Sĩ-Quan Ðiều-Hành cùng thông-dịch-viên của cả hai Phái-Ðoàn cũng chiếm mấy cái ghế bên quầy rượu ở chỗ gần cô Lan nhất, ngoại-trừ những khi có người nào bận việc gì khác thì mới vắng mặt. Và thường thường thì về khuya chỉ còn lại một người, khi thì người này, khi thì người kia, rỉ-rả chuyện-trò với cô Lan. Ðó là lúc mà Lan có thể hỏi dò gần xa những điều mà tôi muốn biết, đồng-thời thổ-lộ những điều mà tôi muốn cho họ biết. Tôi muốn tìm hiểu và điều-khiển ý-nghĩ và tình-cảm của họ.
SAU khi được Lan báo-cáo rằng Konelsko có ý-định bêu xấu Chính-Quyền Việt-Nam Cộng-Hòa đã để xảy ra vụ móc túi giữa ban ngày trong thành-phố, tôi liền phản-công ngay. Tôi nhờ Biệt-Ðội Hình-Cảnh thuộc Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Thị-Xã Ðà-Nẵng truy-tầm ― và bộ-phận này đã thu-hồi lại được và giao cho tôi cái bóp của ông-ta. Tôi liền cho nhân-viên viết một bức thư bằng chữ Anh, bỏ vào phong bì, đề gửi cho Ông Konelsko. Cái bóp và bức thư ấy được giao cho Lan cùng với chỉ-thị thi-hành.
Khi Konelsko đi chơi về thì Lan đưa riêng cho ông-ta cái bóp và bức thư; Lan nói là của một người đem đến, dặn đưa riêng cho Ô. Konelsko. Ông-ta vội-vã nhét cái bóp vào túi quần và bức thư vào túi áo, rồi đi nhanh lên buồng ngủ; chắc-chắn là để kiểm-soát lại bên trong cái bóp và đọc bức thư.
Kính gửi Ông Konelsko,
Tôi gửi trả lại Ông cái bóp và tất cả những gì vốn có trong đó của Ông.
Ðừng hỏi tôi là ai, lấy cái bóp của Ông ở đâu, lúc nào, cách nào, và để làm gì. Vì nếu trả lời rằng tôi là kẻ móc túi, móc lấy cái bóp ở người có bóp, vào lúc người ấy thì không cảnh-giác mà tôi thì cũng run-sợ, để có chút tiền dùng tạm cho bản-thân…, thế thì: trên mặt đất này hiện có những kẻ cấu-kết với nhau thành một đảng lớn, dùng vũ-lực và bạo-lực công-khai chiếm-đoạt hết tài-sản của toàn-dân toàn-quốc, còn ngang-nhiên bóc-lộc sức lao-động và trắng-trợn tước-đoạt hết tự-do, nhân-phẩm và quyền làm người của mọi người, để xây-dựng một chủ-nghĩa không-tưởng, trong đó Ông là một thủ-phạm đồng-thời cũng là một nạn-nhân (vì Ba Lan cũng là nạn-nhân của Nga-Xô) thì, giữa tên móc túi hèn-mọn và lũ đạo-tặc ngạo-mạn, Ông kết tội ai?
Nhưng thôi, tôi không triết-lý rẻ tiền.
Ông chỉ cần tự hỏi:
Nếu cấp-trên và cơ-quan tình-báo của Ông biết được vụ này, thì Ông sẽ phải trả lời thế nào, vì đã để cho ít nhất là một số giấy-tờ cá-nhân trong cái bóp ấy lọt vào tay người ngoài, và biết đâu người-ta sẽ không nghi-ngờ là Ông giả-vờ sơ-ý để bị móc túi, một cách để gián-điệp địch đóng vai kẻ móc túi mà tiếp-nhận những gì của Ông cố ý trao cho…
TỐI ấy, Konelsko xuống phòng-khách muộn. Hẳn-nhiên ông-ta đã suy-nghĩ nhiều về nội-dung bức thư. Vấn-đề không phải là Cảnh-Sát Việt-Nam Cộng-Hòa, mà là thông-dịch-viên dưới quyền của ông-ta.
Và thế là Konelsko không còn tinh-thần nào để đòi phàn-nàn Việt-Nam Cộng-Hòa về nạn móc túi giữa đường.
TÔI mới móc nối được các nhân-viên của Hãng Thầu sau ngày tôi đến Vùng I (26-9-1973), nhưng họ đã làm việc ở khách-sạn “Hồng Kông”, nghĩa là đã tiếp-xúc với các thành-viên Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi, từ sau Hiệp-Định Paris (27-1-1973), tám tháng trước rồi. Thời-gian ấy hẳn đã đủ cho Ðại-Tá Konelsko, là Trưởng Phái-Ðoàn Ba-Lan, Ðại-Tá Guy Nagy, là Trưởng Phái-Ðoàn Hung-Gia-Lợi, và thông-dịch-viên Interski của Ba-Lan, có thể bạo-dạn để tỏ tình với cô Lan. Ðối với các vũ-nữ, chiêu-đãi-viên phòng trà, chỉ cần một chầu nhảy, một chầu uống, đôi khi chỉ cần một người trung-gian giới-thiệu, là ai cũng có thể có được một người bạn dục-tình chốc-lát hoặc qua đêm. Nhưng đối với cô Lan, một mẫu người đoan-trang thanh-khiết, các cây si ngoại-quốc ấy không thể nào mời được Lan đi chơi; dù liều-lĩnh lắm cũng không thể nào cầm được bàn tay của cô-ta. Càng gặp khó-khăn, tình-cảm của họ càng tha-thiết; họ làm đủ cách để chinh-phục trái tim của Lan, kể cả nói hết từ chuyện cá-nhân, chuyện gia-đình, đến chuyện xã-hội, chuyện chế-độ.
Tôi thì chỉ cần có thế. Những vụ Nga-Xô đem quân qua Vác-Xô-Vi, Buy-Ða-Pét, từ thập-niên 1950, tước-đoạt chủ-quyền của Ba-Lan, Hung-Gia-Lợi, được Lan nêu ra như là một thắc-mắc của người ngoài cuộc; bên ngoài là để được nghe ý-kiến của người trong cuộc xem thử có gì khác với dư-luận Tây-Phương hay không; nhưng bên trong là để khơi dậy tinh-thần dân-tộc, lòng ái-quốc ở những con người vốn luôn luôn nói đến nghĩa-vụ và quyền-lợi của người dân, và không quên tự cho mình là thành-phần tiên-tiến. Khi tìm hiểu đời sống bên trong bức màn sắt, Lan đã nhắc-nhở xa gần đến cảnh ngược lại trên phần đất tự-do của thế-giới ngày nay.
Trước người đẹp, các người đàn-ông đều muốn tỏ ra là mình nổi bật hơn người khác về mặt này hay mặt kia. Lan đã lợi-dụng nhược-điểm ấy để tạo nên một không-khí căng-thẳng giữa Konelsko và Inteski.
Viên đại-tá thì đã có lần nói thẳng với Lan: “Nó ở dưới quyền của tôi, tôi có thể tống-khứ nó đi nơi khác bất-cứ lúc nào!”
Còn viên thông-dịch thì cũng đã có lần hé lộ với Lan: “Tôi chẳng sợ gì ông- ta; ông-ta không làm gì tôi được đâu, mà trái lại là đằng khác!”
KONELSKO dặn Lan đừng nói với ai về việc ông-ta bị mất cái bóp. Ông-ta nói rằng đã được trả lại rồi thì xem như không hề bị mất. Ngần-ngại một lát, ông-ta hỏi: “Lúc cái bóp và bức thư được đưa đến, có ai thấy không?”
Cô Lan biết rõ là ông-ta rất sợ bị Interski trông thấy; nếu thấy, anh này sẽ hỏi và sẽ biết, và sẽ đặt vấn-đề y như “tên móc túi” đã viết trong bức thư.
Lan giả vờ cố nhớ lại, rồi đáp: “Không.”
Konelsko có thể nghĩ là Lan giấu mình; nhưng ông-ta cũng có thể nghĩ là cô-ta nói thật, song vẫn có thể là cô-ta sẽ kể lại cho viên thông-dịch nghe.
Như thế thì ông-ta càng cần phải mua chuộc cảm-tình của cô-ta hơn.
Nhờ đó, Lan củng-cố thêm cái lợi-thế của mình.
TÔI cho báo tin cho Lan biết về vụ lá cờ Ủy-Hội Quốc-Tế bị xé ở Chùa Non-Nước, và chỉ-đạo cách hành-động cho Lan.
Khi Ðại-Tá Konelsko trở về khách-sạn thì lá cờ rách không còn. Chắc hẳn ông-ta đã cho ngừng xe dọc đường mà lấy giấu đi rồi. Cờ thì còn nhiều trong tủ, cũng như quốc-kỳ hai nước, băng đeo tay áo: cần thì lấy dùng, không ai để ý. Cuối tuần, cũng như ngoài giờ làm việc, ai muốn đi đâu thì đi; và lần này thì viên đại-tá chỉ đi một mình nên không có thành-viên nào khác chứng-kiến việc xảy ra. Nhưng ông-ta vẫn sợ viên tài-xế kể lại rồi đến tai viên thông-ngôn. Ông-ta không tiện dặn-dò gì viên tài-xế, vì ông-ta không muốn tỏ lộ là mình lo-ngại về việc xảy ra; hơn nữa, tài-xế là của Hãng Thầu phái đến, ông-ta không có quyền gì đối với người ấy, khi mà người ấy không phạm lỗi gì.
TỐI đó, cô Lan phải khơi chuyện trước, vì Konelsko tưởng là cô-ta không biết nên không đả-động gì. Khi Lan hỏi về chuyện gì đã xảy ra, thì ông-ta hỏi lại là cô-ta đã nghe những gì. Thế là Lan tha-hồ bịa chuyện. Theo lời Lan kể thì người hàng-xóm làm nghề chở thồ xe Honda-2-bánh tình-cờ có mặt tại chỗ và đã nghe thấy đầu đuôi mọi sự:
Lúc đầu, viên đại-tá Ba-Lan hỏi những người làm nghề linh-tinh quanh bãi đậu xe: sao không lập thành Nông-Hội, đòi hỏi nhà-nước cấp đất ― vì đất bỏ hoang còn nhiều ― để trồng-trọt, chăn nuôi, sản-xuất. Có người trả lời là muốn làm nông thì phải ở vùng ngoại-ô; mà ở vùng vắng thì bị Việt-Cộng cưỡng-thu sản-phẩm, bắt đi tải đạn, đào đường chôn mìn, đời sống bất-an. Ông-ta lại hỏi những người chở thồ xe Honda sao không lập thành Công-Ðoàn, phân-định phiên chuyến đón khách, đảm-bảo quyền-lợi công-bằng. Có người trả lời rằng đây là nghề tự-do, ai cần nhiều tiền thì chở nhiều chuyến, ai muốn nghỉ-ngơi thì dù được trả nhiều tiền cũng không nhận lời; vả lại, hành-khách gặp đâu đón đó, đâu cần đến bến. Ông-ta liền chê là xã-hội này vô-tổ-chức, con người ở đây vô-kỷ-luật. Do đó, nhà-sư trẻ tuổi mới lên tiếng can-thiệp. Vị tu-sĩ nói: “Tổ-chức và kỷ-luật là để tạo nên trật-tự hài-hòa trong đó con người có tự-do và hạnh-phúc, chứ không phải để thủ-tiêu tự-do và tước-đoạt hạnh-phúc của con người như trong xã-hội cộng-sản. Người cộng-sản như các ông thì làm sao mà hiểu được cái quy-củ đa-nguyên của cuộc đời. Chính những lề-lối tưởng như vô-trật-tự đó chính nó mới là trật-tự nhân-bản và trường-cửu.”
Người cộng-sản Konelsko lâu nay chỉ học lý-thuyết Mác+Lê một chiều, hôm nay mới nghe những tư-tưởng lạ, chưa biết đối đáp ra sao, thì nhà-sư trẻ tuổi đã dồn-dập chất-vấn: “Các ông là Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Ðình-Chiến, tại sao Việt-Cộng pháo-kích vào khu dân-cư, đặt chất nổ giết hại đàn-bà và trẻ-con vô-tội, các ông đã đến tận nơi, đã thấy tận mắt, mà các ông không lên án, không cảnh-cáo, cũng không chịu ký tên vào biên-bản ghi-nhận sự-kiện, mặc dù các thành-viên Ba-Tư và Nam-Dương đã ký?” Viên đại-tá Ba-Lan đáp lại: “Chúng tôi có đường-lối chính-sách của chúng tôi, mọi người làm việc trong tinh-thần kỷ-luật, theo hướng chỉ-đạo của tổ-chức…” Người thanh-niên trong lớp áo tu-hành giận dữ thét lên: “Thế nghĩa là các ông không cần kiểm-soát, giám-sát gì cả! Ðầu óc của các ông đầy định-kiến, và việc làm của các ông đã được tiền-chế: bất-cứ việc gì xảy ra cũng là do lỗi của phía Quốc-Gia; bao giờ Việt-Cộng cũng đúng! Vậy thì sự hiện-diện của các ông ở đây là thừa: các ông hãy cút ra khỏi đất nước này đi!” Ðại-Tá Konelsko dịu giọng, đưa hai bàn tay ra trước, ra vẻ khẩn-cầu người đối-diện hãy bình-tĩnh: “Tôi rất thông-cảm nỗi lòng của ông, nhưng hiện nay tôi không thể làm gì khác được…” Nghe thế, nhà sư trẻ tuổi…
Ngang đây, viên đại-tá Ba-Lan không chịu nổi nữa, nhăn mặt, lắc đầu, cắt lời cô Lan: “Không đúng sự thật! Tôi không nói thế!” Lan cũng đưa tay chận lại: “Nhưng người-ta kể lại với nhau như thế!”
Cả hai nhìn nhau: Konelsko thì vừa tức-bực, vừa lo-lắng, Lan thì làm như thành-thật chia sớt nỗi ưu-phiền của ông-ta.
Im-lặng một lát rồi viên đại-tá đành phải nói ra điều mà ông-ta bận-tâm: “Interski đã biết gì về chuyện này chưa?” Cô Lan chưa nghe gã thông-dịch-viên ấy nói gì, nhưng chụp dịp may để thực-hiện mục-đích của mình: “Anh ấy có hỏi tôi xem đại-tá đi đâu, làm gì, có gì đặc-biệt không?”
Konelsko cố gắng đè-nén nhịp thở:
― Rồi cô nói sao?
― Tôi nói là đại-tá đi chơi như mọi lần, không có gì khác lạ cả.
Viên Trưởng Phái-Ðoàn Ba-Lan thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Ông-ta quên mất thái-độ giữ ý của cô Lan, đặt tay lên tay cô-ta biểu-lộ lòng cám ơn; nhưng Lan đã rút tay lại. Cô-ta đã nắm được cái thế chủ-động cần-thiết, nên phát-biểu thẳng thừng:
― Cấp-dưới mà dò xét cấp-trên; làm lớn mà vẫn bị nghi-ngờ!
Sau đó là lần lần một số tin-tức quan-trọng về nội-tình Ðảng, Nhà-Nước, và Quân-Ðội Ba-Lan, kể cả mối quan-hệ giữa Ba-Lan với Nga-Xô và các nước cộng-sản khác, Liên-Minh Quân-Sự Vác-Xô-Vi, đã được cô Lan thu-thập trực-tiếp từ miệng của Konelsko cũng như Interski.
NHỮNG tin-tức tình-báo ấy không có giá-trị khai-dụng đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, nhưng rất hữu-ích đối với Người Bạn Ðồng-Minh của tôi.
Ðể có thể đi sâu và tiến xa hơn, tôi gợi ý cô Lan giả-vờ chấp-nhận làm bạn tâm-tình với Ðại-Tá Konelsko.
Tôi thấy rõ cô-ta đã rán tự-chế-ngự để vẫn giữ lễ-phép từ-khước ý-kiến của tôi. Bạn tâm-tình không phải là bạn dục-tình. Nhưng theo lối sống châu Âu của viên đại-tá Ba-Lan, dù là cộng-sản, thì ông-ta cần có một bạn gái; để chia-sẻ tâm-tình thì một phần, mà để trao-đổi dục-tình thì toàn-phần. Ðiều mong ước của ông-ta là có được một bạn gái dành riêng cho mình, có nhan-sắc nổi bật, và có xuất-xứ lương-hảo, để có thể hãnh-diện với mọi người xung quanh. Ngược lại, trong bối-cảnh xã-hội Miền Nam Việt-Nam đương-thời, tuy có một số bị ảnh-hưởng của văn-hóa Âu Tây, nhưng phần lớn vẫn còn thấm-nhuần luân-lý Á-Ðông, cô Lan không thể có một cử-chỉ nào thân-thiết hơn đối với người đàn-ông con-trai nào, nhất là người nước ngoài ― ngoại-trừ trường-hợp cô-ta thật-sự yêu. Ít nhất thì cũng có vài ba nhân-viên người Việt-Nam làm việc trong khách-sạn; nhất-cử nhất-động đều bị dòm ngó, dùng làm đề-tài kháo miệng với nhau, người con-gái khó kiếm được chồng đường-hoàng trong tương-lai.
Tôi quý mến tính-tình đứng-đắn của Lan, và tôn-trọng quyết-định của cô-ta trong vấn-đề này. Tôi bằng lòng giới-hạn sự giao-tiếp của cô-ta trong chừng-mực ấy mà thôi, mặc dù như thế thì công-tác khó thể tiến xa hơn.
NHƯNG đối với Konelsko thì tôi vẫn đẩy ông-ta đi xa hơn. Ông-ta phải ly-khai và chống lại Ðảng Cộng-Sản Ba-Lan, Khối Cộng-Sản Quốc-Tế. Không phải bằng cách công-khai xin tị-nạn chính-trị, tức là hồi-chánh, mà là bí-mật tiếp tay với Thế-Giới Tự-Do từ trong lòng kẻ thù. Lòng tự-ái dân-tộc là yếu-tố tinh-thần. Phương-tiện sống là yếu-tố vật-chất. Có thêm tình-cảm cá-nhân nữa là đủ.
Ðể đánh dấu chặng đường cô Lan đã đi được, sáng hôm sau cô-ta gọi điện-thoại đến trụ-sở Ủy-Hội Quốc-Tế hỏi ý-kiến viên đại-tá Ba-Lan xem ông-ta có cần sửa-chữa gì hệ-thống điện+nước trong buồng riêng không, vì có thợ đến làm việc. Ðó là một ngụy-thức do chính Konelsko đặt ra, để cô Lan cho ông-ta biết gấp những gì liên-quan đến ông-ta. Lát sau, Konelsko trở về khách-sạn một mình. Lan nói: “Có một ký-giả Việt-Nam đến xin gặp riêng để phỏng-vấn đại-tá về vụ lá cờ chiều qua.” Konelsko sửng-sốt, không kịp nhận ra là từ trước đến nay chưa hề có một ký-giả Việt-Nam nào tìm gặp Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi cả. Ông ta vội-vàng xua tay: “Không được đâu! Cô nói giùm là tôi rất bận; tôi sắp phải bay đi nhiều nơi trong nhiều ngày.”
Cô Lan rót một ly rượu để lên mặt quầy, nói “Tôi mời ông” rồi ra dấu cho viên đại-tá Ba-Lan chồm đến gần, nói nhỏ: “Tôi có thể giúp ông, vì ở đây chỉ có một ký-giả ấy mà thôi, và tôi có quen anh-ta.”
― Vâng, cô giúp tôi.
― Nếu không thì dư-luận sẽ bàn-tán ồn-ào, đến tai cơ-quan tình-báo và cấp-trên của ông: ông sẽ bị quy chụp nhiều khuyết-điểm. Ông là một nhân-vật quan-trọng, đại-diện Cộng-Sản Quốc-Tế, mà khi đối-đáp với một phần-tử “phản-động” tầm-thường đã không vận-dụng được lý-thuyết Mác+Lê để đánh bại tư-tưởng thù-nghịch, lại còn phát-biểu là rất thông-cảm với tâm-trạng của kẻ chống mình…
Konelsko phác một cử-chỉ: “Nhưng…”
Nhưng Lan đã vội cắt lời: “Vâng, tôi biết, tôi biết là đại-tá sẽ nói là đại-tá không hề có những lời-lẽ như thế. Tuy nhiên, có ai bênh-vực đại-tá đâu? Ở đây ai cũng tin là Ðại-Tá Konelsko đã sống thành-thật với mình…”
Cô Lan đặt tay lên bàn tay của viên Trưởng Phái-Ðoàn Ba-Lan, làm ông-ta mất tự-chủ.
Cô-ta nói tiếp: “Tôi hiểu trong thâm-tâm đại-tá cũng muốn nói như thế, còn muốn nói nhiều hơn thế nữa. Cuộc đời của đại-tá đâu phải chỉ quanh-quẩn trong chừng đó khuôn khổ. Những trói buộc khắt-khe nhân-danh tập-thể thực ra đâu có hủy-diệt được ý-hướng tự-do trong tiềm-thức và cả ý-thức của mỗi một con người. Ông hãy nói, ông hãy khẳng-định với tôi đi, ông có phải là một con người yêu Tự-Do, quý Tự-Do, hay không?”
Konelsko gật đầu.
Lan chộp lấy: “Ðấy, ông gật đầu, ông xác-nhận. Có thế chứ. Tôi rất kính trọng những người biết trọng Tự-Do như ông. Ðó là lý-do tại sao tôi không thích Interski: anh-ta mù-quáng, bị lợi-dụng làm công-cụ cho một thiểu-số để kìm-kẹp đồng-bào của mình. Nhưng, nghĩ cho cùng thì ở trên Cấp Trên trung-ương của anh-ta còn có cả một hệ-thống siêu-quyền-lực quốc-tế, nghe nói là KGB gì đó, phải không Ðại-Tá Konelsko?”
Konelsko đáp:
― Vâng, KGB là cơ-quan tình-báo của Liên-Xô.
Cô Lan mời: “Ðại-tá uống thêm một ly nữa?” Viên đại-tá Ba-Lan từ-chối: “Không, tôi đang trong giờ làm việc.”
Lan tiếp:
― Ông có nghĩ rằng sẽ có một ngày tình-hình sẽ tốt-đẹp hơn không?
Konelsko đáp:
― Có chứ!
Lan nhìn thẳng vào mắt ông-ta, nói khích: “Nghĩ như thế là một việc, mà có góp phần vào việc thay đổi như thế hay không lại là một việc khác!”
Viên Trưởng Phái-Ðoàn Ba-Lan nghiêm mặt: “Cô đánh giá tôi như thế nào?”
Cô nữ-thư-ký khách-sạn vội bóp mạnh trên mu bàn tay ông-ta: “Thế là đủ!”
Chưa bao giờ ông-ta thấy được một nụ cười rạng-rỡ như hôm nay, một nụ cười đơm trên môi mà còn tỏa ra trên mắt và nở khắp trên khuôn mặt duyên-dáng của Lan.
Cô-ta đưa tay xuống dưới mặt quầy, bấm tắt cái máy thu-phát-thanh tí-hon.
Bên ngoài chúng tôi đã thu đầy-đủ các lời đối-thoại vừa rồi.
TRONG lúc đó, tôi đi với Ðại-Úy Trần Văn Phú, Phó Chỉ-Huy Liên-Ðội Thám-Sát Ðặc-Biệt thuộc quyền tôi, đến bệnh-viện Tây Ðức, giả-vờ xin khám bệnh để quan-sát và chấm trước vài cô trong số các nữ-y-tá Cộng-Hòa Liên-Bang Ðức, mà Phú ― một tay bay-bướm ― đã quen biết và giới-thiệu với tôi.
Các cô này có đặc điểm là dễ-dàng thỏa-mãn dục-tình của người bạn trai; do đó, tuy giúp giải-quyết nhu-cầu sinh-lý tạm-thời cho Konelsko, song không có đủ sức nặng trong chiều sâu tâm-tình cá-nhân.
Tuy nhiên, họ có ưu-điểm là người ở nước láng-giềng, nếu cần thì dễ thông-tin liên-lạc với nhau hơn. Họ sẽ là những viên đá lót đường trong lúc chờ-đợi tôi tìm một Lan-thứ-hai cho Konelsko.
TRONG số những con mồi mà tôi đích-thân chấm-định, tôi đã lựa chọn cô Angela.
Là một thiếu-nữ Việt-Nam lai Ấn, có quốc-tịch Pháp, nhân-viên của Hãng Hàng-Không “Air America” ở phi-trường Nha-Trang, Angela có sắc đẹp mặn-mà, có phong-thái Tây-Phương, có sức thu-hút đàn-ông ngay phút gặp mặt đầu tiên, đã từng giúp tôi ― thời-gian tôi còn điều-khiển Đặc-Cảnh tại Vùng II ― phụ phần nghe-ngóng quan-sát, để phá vỡ trọn ổ một tổ-chức bí-mật của quân-đội Phi-Luật-Tân buôn lậu súng Mỹ tồn-kho tại Nha-Trang.
Tôi tổ-chức cho Angela được thuyên-chuyển từ Nha-Trang ra, đến khách-sạn “Hồng Kông” làm thư-ký phụ cho cô Lan, và chuyển-giao hoàn-toàn điệp-vụ này cho Người Bạn Ðồng-Minh…
MỘT thời-gian sau, Konelsko ra tay trừ-khử Interski.
Viên thông-dịch bị trả về nước.
Còn viên đại-tá thì sau đó được thuyên-chuyển vào Saigon; cô Angela cũng được Hãng Thầu điều-động đi theo.
*
CUỐI năm 1974, Người Bạn Ðồng-Minh cho tôi biết là Ðại-Tá Konelsko mãn-hạn công-tác tại “chiến-trường Việt-Nam” đã về Ba-Lan và đã được thăng lên cấp tướng.
Một tháng trước ngày thất-thủ tiền-đồn Ðà-Nẵng của Việt-Nam Cộng-Hòa (29-3-1975), Người Bạn Ðồng-Minh đãi tiệc cơ-quan Ðặc-Cảnh Vùng I, để mừng một số thắng-lợi khác của chúng tôi.
Trong lúc dự tiệc, Ðại-Tá Ferguson, viên-chức liên-lạc thường-nhật với tôi, đã ghé tai tôi nói nhỏ:
― Chúng ta đã thực-hiện được đường dây liên-lạc với Konelsko tại Vác-Xô-Vi rồi.
GHI THÊM:
Lê Xuân Nhuận là người đầu tiên cài cấy điệp-viên của Thế-Giới Tự-Do vào 2 quốc-gia cộng-sản Ba Lan và Hung Gia Lợi xuất-phát từ Việt-Nam Cộng-Hòa.
| LE XUAN NHUAN |
Hồi-ký Lịch-sử
Lần này ra Huế tôi ngẫu-nhiên gặp lại Nguyễn Xuân Lại, một người bạn thân đã cách xa nhau từ hồi tôi bị phát-vãng ra khỏi Miền Trung.
Bây giờ Lại là giáo-sư, dạy Luật tại Viện Ðại-Học Sài-Gòn và một số Viện Ðại-Học khác.
Chuyến này anh ra Huế dạy tại Viện Ðại-Học Huế.
Khi đi ngang qua “Bót Cò” cũ, trước kia là trụ-sở của Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, nơi hai chúng tôi đã làm việc chung với nhau một thời-gian dài, cả Lại lẫn tôi đều hướng mắt nhìn vào.
Ở đó, chúng tôi đã có với nhau rất nhiều kỷ-niệm; nhưng cái kỷ-niệm đắng-xót nhất là cuộc tranh-luận giữa hai chúng tôi mà kết-quả là tôi lâm vòng gian-truân.
Lúc nãy, khi mới gặp lại nhau, Thêm đã nói ngay là anh rất buồn vì việc đáng tiếc xảy ra cho tôi ngày xưa. Giờ đây, có lẽ để xí-xóa chuyện cũ, anh nói qua chuyện mới:
– Mình được mời làm Thứ-Trưởng, nhưng mình chưa nhận.
Sự tiết-lộ ấy đã khiến tôi suy-nghĩ nhiều .
*
Năm 1951, chính-quyền Quốc-Gia Việt-Nam ban-hành chế độ quân-nhiệm, theo đó các viên-chức Cảnh-Sát Công-An được xem là công-chức nên cũng bị lần-lượt động-viên.
Nguyễn Xuân Lại vào thụ-huấn tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Sĩ-Quan Trừ-Bị ở Thủ Ðức; tôi vào làm việc tại Phòng Năm thuộc Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu ở Huế.
Cuối năm 1956, mãn nhiệm-kỳ quân-vụ, tôi trở về Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế và được cử giữ trách-vụ Trưởng Phòng Hành-Chánh kiêm Trưởng Phòng Huấn-Luyện. Tôi cũng kiêm-nhiệm Trưởng Ban Tổ-Chức và Thuyết-Trình-Viên các Lớp “Học-Tập Chính-Trị và Công Dân Giáo Dục” mà nội-dung và phương-thức điều-hành được ông Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu, bào đệ của Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, chỉ đạo cho toàn-quốc.
Tiếp-tục đem hết tâm-sức ra phụng-sự một lý-tưởng mả tôi hằng mơ, nhưng ở trong cơ-quan Cảnh-Sát là nơi hằng ngày tiếp-cận với mọi giới đồng-bào, tôi theo-dõi tình-hình sinh-hoạt của quần-chúng trên mọi lĩnh-vực tại địa-phương, tôi mới dần dần biết thêm, dù chưa đầy đủ, những điều chướng tai gai mắt, và cả những điều bất-nhân thất đức, do một số thân-nhân, gia-nhân, và thuộc-hạ của Diệm gây ra. Ðối với Ðảng Cần-Lao, đối với Ðạo Ky-Tô, cũng như đối với cả ba Ngành trong Chính-Quyền thời Ðệ-Nhất Cộng-Hòa, họ chỉ là thiểu-số; nhưng thiểu-số đó đã cậy thế họ Ngô mà giật dây các cơ-quan chấp-hành của chế độ, để áp-bức và hãm-hại lương dân, hầu thỏa-mãn tư-lợi hoặc tư-thù.
MỘT BUỔI LỄ CHÀO QUỐC-KỲ
Thuở đó, các công-sở và quân-cứ đều cử lễ Chào Quốc-Kỳ vào lúc bảy giờ rưỡi sáng mỗi ngày đầu tuần. Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Nguyên Trung-Phần cho nhân-viên trực-thuộc sắp hàng chỉnh-tề trước sân trụ-sở Nha năm phút sớm hơn.
Hôm ấy, toàn-thể viên-chức hiện diện đều vô cùng hoang-mang, và sau đó kể lại với mọi người sự-việc đã xảy ra.
Ô. Hồ Đắc Vang, Trưởng Ðội Biệt Ðộng thuộc Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, đem thuộc-hạ đến bao vây sân chào cờ tại Nha và gác chận trước đường, vào lúc đúng bảy giờ hai mươi lăm phút. Vang ra lệnh điểm-danh và đóng cổng trụ-sở. Lúc đó, Ô. Trần Văn Cư và Ô. Tôn Thất Dẫn, hai Chủ-Sự Phòng thuộc Nha, vừa đến nơi thì bị giữ lại bên ngoài. Viên Giám-Ðốc Nha ấy liền đứng ra hứa sẽ phạt hai viên-chức kia, và xin cho họ được vào vì còn kịp dự lễ chào cờ. Nhưng viên Trưởng Ðội thuộc Ty — là một nhân-viên dưới quyền và ở dưới nhiều cấp — đã không chấp-thuận. Vang điều-khiển lễ thượng-kỳ, hát quốc-ca và “suy-tôn Ngô Tổng-Thống”, xong chở Cư và Dẫn đến báo-cáo nội-vụ lên Văn-Phòng của “Cậu”, tức ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn, bào đệ của anh em Diệm+Nhu.
Vang là một trong số ít những phần-tử đến hầu “Cậu” thường-xuyên.
MỘT BUỔI HỌP TỐ KHỔ
Ô. Ngô Ðình Cẩn có một ngôi nhà nghỉ mát tại bãi bể Thuận-An.
Vì lý do an-ninh, chỗ nầy cách xa khu tắm bể của đồng-bào . Những ngày cuối tuần vào mùa hè, Cẩn thường về đó câu cá giải-trí. Sợ “Cậu” câu cá một mình thì buồn, một số nhân-vật tín-cẩn, hoặc muốn được thân-cận, bèn cùng đến đó câu cá, mong tạo bối-cảnh thân-mật cho ông. Trừ những người được ông sai phái hoặc giữ lại để chuyện-trò, số còn lại phải chọn chỗ nào không gần ông lắm ― vì sợ nếu ông không câu được cá mà bị kẻ khác ton-hót đổ lỗi câu giành với ông thì khốn ― đồng-thời họ cũng không đi quá xa, để vừa được ông nhận mặt là mình cũng có tham-gia giúp vui cho ông, vừa chục phòng khi ông gọi thì nghe mà đến cho nhanh kẻo bị kẻ khác nhanh hơn thì mất cơ-hội được hầu-hạ ông.
Giám Ðốc Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần, Ô. Lê Khắc Duyệt, cũng có dự phần vào những buổi câu cá như thế.
Hôm đó, Duyệt mặc một chiếc áo sơ-mi cụt tay có in hình hoa bướm gì đó. Trên đường về nhà ở thành-phố, Duyệt gặp vài nhân-viên thuộc Nha, trong số những phần-tử đã vào Ðảng.
Thuở ấy, xứ Huế còn rất nệ-cổ. Người nữ phải mặc áo dài mới được ra phòng khách; các cô giúp việc dù đang làm việc nặng, các chị bàn hàng-rong dù đang vai gánh hay tay xách, mỗi khi ra đường đều phải mặc áo dài. Người nam thì phải nhét áo trong quần. Vào thời-gian chuyện này xảy ra, tuy lối sống đã có đổi mới phần nào, xã-hội vẫn chưa chấp-nhận cho các cá-nhân “danh-giá”, nhất là các viên-chức cao-cấp trong chính-quyền, dù là vào ngày nghỉ và lúc đi chơi, bỏ áo ngoài quần, hoặc mặc áo có sọc, có ô, hoặc có in hình mà người dân địa-phương gọi là “áo chim cò”.
Duyệt bị báo-cáo lên Văn-Phòng Cố-Vấn.
Vào buổi “học-tập chính-trị và công dân giáo dục” kế đó, số nhân-viên dưới quyền Duyệt, nhưng thuộc đường dây thân-tín hơn, đã nêu vụ kể trên ra để hội đường thảo-luận. Mặc dù viên Giám Ðốc của họ đã nhận lỗi, xin lỗi mọi người, và hứa về sau sẽ không tái-phạm, sau khi đã giải-thích là mình ăn mặc như thế để dễ lội xuống nước mà bắt cá cho “Cậu”, số nhân-viên ấy vẫn nặng lời sỉ-vả Duyệt và thúc đẩy các phẩn-tử khác lên tiếng tố-cáo Duyệt là “thiếu tác-phong cách-mạng”, “phản nhân-vị”, “không chịu học-tập noi gương đạo đức của Ngô Tổng-Thống”.
Người dân xứ Huế không quên những vụ tố khổ vào những ngày đầu tiên Ô. Ngô Ðình Diệm lên cầm quyền.
Trong một cuộc mít-tinh tại chúng-trường Phu Văn Lâu, một nữ-công-chức thuộc Nha Pháp-Chánh Trung-Phần đã đứng lên trước máy vi-âm xỉ mặt viên Giám Ðốc của Nha ấy mà kể tội là trước đó đã từng lợi dụng chức-quyền để hãm-hiếp mình…
Quang-cảnh đấu tố giống hệt dưới chế-độ cộng-sản ở Miền Bắc Việt-Nam.
CÔNG-CHỨC BỊ PHẠT VÌ VỀ VỚI GIA ÐÌNH
Có một số công-chức tùng-sự tại các công-sở ở Huế nhưng có gia đình ở Tỉnh Quảng-Trị; cuối tuần họ về ngoài đó với vợ+con.
Nhưng rồi, vào một buổi trưa ngày cuối tuần nọ, số người ấy đã gặp nạn. Sau đó, họ ngao-ngán kể lại với bạn-bè:
Ô. Nguyễn Văn Đông, Tỉnh-Trưởng Tỉnh Quảng-Trị, đã ra lệnh chận đường từ hướng Huế ra, bắt giữ tất cả các công-chức vừa mãn giờ làm việc cuối tuần là để bụng đói phóng xe về với thân-nhân.
Còn nhớ dưới thời Việt-Minh, để khuyến-khích phong-trào Bình Dân Học-Vụ, có nhiều Xã Thôn đã dựng cổng kiểm-soát dọc đường; ai biết chữ thì được đi qua cổng chính, ai không biết chữ thì phải lội vòng xuống ruộng bùn mà đi.
Đông thì không cho các công-chức ấy đi, về với gia đình, mà cũng không chịu cho họ quay lui. Ông bắt họ tập-trung tại chỗ, đợi đến sáng ngày đầu tuần mới cho xe chở họ vào Huế giao nạp cho Tòa Ðại-Biểu Chính-Phủ Miền Trung.
Đông sợ dư-luận đồng-bào về những bê-bối của chính-quyền Tỉnh mà ông cầm đầu có thể bị các công-chức ở Huế là những tai mắt ấy thu-thập đem về phổ-biến, mà không bưng-bít được, vì ở ngoài vòng kiểm-soát của mình.
Ông là em của một người con rể gia đình họ Ngô.
LUẬT-PHÁP PHỤC-VỤ CHO CÁ-NHÂN
Có lần, Nha Bảo-An Trung-Phần được cơ-quan Viện-Trợ Mỹ trao cho một số xe Jeep. Viên trung-tá Giám Ðốc Nha ấy đến báo-cáo với “Cậu”, xem như đó là một thành-quả “nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và Cậu” mới có được, và chọn một chiếc tốt đẹp nhất đưa đến để xin “Cậu” lái khai-mào hầu nhờ “Cậu” mà toàn Nha được hưởng hên.
Chiếu cuối tuần ấy, có một số giáo-sư Viện Ðại-Học Huế, vốn được Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn nâng đỡ, và đều là nhân-vật tên tuổi một thời ở thủ-phủ của Miền Trung, về bãi Thuận-An tắm bể. Họ lái xe Traction, chạy vùn-vụt trở về nhà ở Thành-Phố Huế vào lúc hoàng-hôn.
Ðồng-thời, từ tư-thất ở Thành-Phố về nhà nghỉ mát ở bãi bể, Ô. Cố-Vấn đích-thân cầm tay lái, lái thử chiếc xe Jeep mới của Nha Bảo-An.
Trên con đường lưu-thông duy-nhất giữa hai địa điểm, mà vào cuối tuần giữa mùa hè nóng bức thì người dân đi tắm bể tấp-nập, khi ngang qua lãnh-thổ Quận Phú-Vang, hai xe ngược chiều kể trên gặp nhau.
Xe Traction thì thấp; xe Jeep thì cao, mà vì mới xuất-kho nên mặt kính đèn trước chưa được che bớt phần trên bằng một lớp sơn màu vàng như các xe khác, và Ô. Cẩn thì cứ để đèn pha mà chạy. Các nhà học-thức ấy bị chói mắt nên nổi giận, bèn cũng bật đèn pha, rồi thắng xe lại ngay giữa lòng đường, chận đầu chiếc xe kia, nhảy ra, xông tới, định dạy cho tài-xế xe Jeep một bài học. Cùng lúc, Ô. Cố-Vấn luýnh-quýnh thắng xe lại; các vệ-sĩ của ông tưởng gặp kẻ khủng-bố nên nhảy ngay xuống, xáo ổ đạn, chĩa mũi súng về phía đối-phương, sẵn-sàng bấm cò.
Thế là hai bên nhận ngay ra nhau; các nhà khoa-bảng liền đổi thái-độ, chắp tay vái “Cậu” liên-hồi.
Sau đó, Tòa Ðại-Biểu Chính-Phủ Trung-Phần Việt-Nam chỉ-thị cho Nha Công-Chánh Giao-Thông, Nha Cảnh-Sát Công-An, cùng Tòa Hành-Chánh, Cơ-Quan Quân-Sự, Ty Công-Chánh, Ty Thông-Tin Tỉnh Thừa-Thiên, Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, Trung Ðội Hiến-Binh địa-phương, v.v… phải họp tìm biện-pháp tạo sự thoải-mái cho “Cậu” trên đường đi . Họ bèn quy định, phổ-biến, và kiểm-soát, để từ nay trở đi mọi loại xe-cộ lưu-thông trên đường Huế―Thuận-An, và ngược lại, chỉ được phép chạy với tốc-lực tối đa 25 cây số/mỗi giờ; hễ gặp xe khác thì phải ngừng lại, rồi chạy từ từ; và nhất là buổi tối và ban đêm thì chỉ được bật đèn ló mà thôi.
Sự việc ông Cố-Vấn bị chận xe dọc đường thì đã được chính ông bỏ qua; nhưng vì nó có liên-quan đến “Cậu”, các nhà chức-trách xem là quan-trọng hàng đầu nên đã đặt thành luật-lệ cho người dân tuân theo.
MỘT BỮA TIỆC SINH-NHẬT CỦA “CẬU”
Vào dịp sinh-nhật của Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn năm ấy, một mình tôi nhận được ba tấm thiệp mời dự tiệc; một với tư-cách văn-nghệ-sĩ ký-giả, một với tư-cách thành-viên Thuyết-Trình-Ðoàn Học-Tập Chính-Trị và Công Dân Giáo Dục, và một với tư-cách cấp chỉ-huy ngành Cảnh-Sát Công-An.
Trên đầu tờ giấy có in hàng chữ “Văn-Phòng Cố-Vấn Chỉ Ðạo Các Ðoàn-Thể Cao―Trung―Hải”. Về các “Ðoàn-Thể”, có nơi ghi rõ là “Chính-Trị, Kinh-Tế, Văn-Hóa, Xã-Hội, Thanh-Niên, Phụ-Nữ, Sinh-Viên Học-Sinh, Lao-Công, v.v…” Cao là Cao-Nguyên, Trung là Trung-Phần, và Hải là Hải-Ngoại.
Ðây là một cơ-hội hiếm có để tôi có thể trực-tiếp nghe+thấy những gì liên-quan đến “Cậu”, người mà dân-chúng sợ-hãi như một hung-thần.
Con đường xe lửa xuyên-Việt nằm ở giữa, ngăn-cách tư-thất của Ô. Cố-Vấn với Văn-Phòng ở bên kia . Lách qua khỏi hai cánh cổng sắt cao to mở hé, tôi bước vào một thế-giới lạ thường.
Không có đường dây điện-thoại liên-lạc với bên ngoài. Ô. Cố-Vấn thường chỉ ở trong tư-thất, và ít có ai thấy được chữ ký của ông.
Một mái rạp cao được dựng sát trước hiên nhà, dài suốt ba gian, là nơi bày dọn nhiều dãy bàn ăn. Hầu hết món ăn đều là món Huế, những loại ngày xưa dành cho hoàng-gia, triều-thần nhà Nguyễn và giới thượng-lưu, do chính một số đầu-bếp cũ trong Ðại-Nội hoặc tại các Phủ Chúa đến nấu dọn.
Thực-khách được chia ra mời làm nhiều đợt; nhưng có một số đến sớm trước giờ; và một số ăn xong vẫn còn nấn-ná ở lại, vừa chỉ dẫn cho những kẻ đến sau để tỏ ra rằng mình đã là người nhà của chủ-nhân rồi, vừa cầu-may mong có cơ-hội được “Cậu” hỏi đến.
Mắt mang kính, miệng nhai trầu, tay cầm quạt khi thì phe-phẩy, khi thì dùng để gãi lưng, Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn vừa nói chuyện với vài ba nhân-vật ― nhất là ông Nguyễn Ðình Cẩn, Tỉnh-Trưởng Trưởng Tỉnh Bình-Thuận, suốt buổi vẫn bám sát theo ông ― vừa đi quanh chăm-sóc từ các loại cây cảnh quý trước mặt nhà đến các loại muông thú hiếm bên hông và sau vườn, trong đó có một con voi con.
Hầu-hạ quanh nhà có một số nhân-viên Cảnh-Sát hoặc Công An. Có một kẻ thường đi dọc theo đường Phan Chu Trinh và đường Vạn Vạn, trên bờ Nam của “sông An-Cựu nắng đục mưa trong”, ngang-nhiên chặt cây trên bến, và cả chuối trong vườn nhà dân, nói là để cho voi của “Cậu” ăn. Nhiều người qua lại trên cầu Phú Cam và trên đường bờ sông Phan Ðình Phùng có lần trông thấy dưới bến “Cậu” dùng thìa cà-phê múc sữa đút cho voi uống, trong lúc các thuộc-viên đang kỳ-cọ tắm cho con voi.
Tôi vừa vào đến nơi thì nghe có tiếng còi xe hộ-tống hụ từ phía cầu Phú Cam. Ô. Cố-Vấn quay đầu về phía nhà trong, im-lặng lắng nghe. Lập-tức, có hai thuộc-viên chạy nhanh ra cổng. Họ thò đầu ra ngoài nói gì đó, rồi nhân-viên gác cổng mở hé một cánh cổng cho một số quan-chức và một viên tướng bước vào. Tất cả đều mặc lễ-phục, và đều đi rón-rén vì sợ đế giày gây tiếng ồn.
Về viên tướng, tôi nhận ra là Trung-Tướng Trần Văn Ðôn. Hôm mới ra thay Trung-Tướng Thái Quang Hoàng, trong một buổi lễ tại Phu Văn Lâu, Ðôn đã bắt đầu diễn-văn bằng câu “Quân Dân Miền Trung!” Tôi nghe kể lại, chỉ một lát sau là “Cậu” được nghe báo-cáo, liền phán “Hắn muốn lãnh đạo cả Dân ngoài ni nữa răng?”
Họ cúi đầu chào Ô. Cố-Vấn nhưng ông không đáp lại. Họ bèn nhập chung với một số khác đã đến trước, đứng sắp hàng quay mặt vào bức chân dung của Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm để trên một chiếc bàn cao trong phòng khách chính, xong cất tiếng đồng-thanh hát bài “Suy-Tôn Ngô Tổng-Thống”, như lệ thường mỗi lần bắt đầu một buổi lễ hoặc buổi họp.
Có đến hai bài “suy-tôn” khác nhau, một của Miền Trung và một của Miền Nam, nên nhịp và lời của hai bài chõi nhau, nghe rất chói tai.
Bỗng có tiếng đằng-hắng trong nhà. Ô. Cố-Vấn liền nạt:
– Ồn! để cụ nghỉ!
Thế là mọi người nín bặt, lấm-lét tan hàng. Trong lúc họ chưa biết giấu mặt ở đâu thì các gia-nhân ra hiệu cho họ đứng vào hai bên các dãy bàn tiệc mà bắt đầu ăn.
Lát sau, ông Cố-Vấn đi ngang qua các bàn ăn, nhìn chung, hỏi chung:
– Ngon không?
– Dạ ngon! “Cậu” cho ăn ngon quá!
Nghe mọi người đồng-loạt khen, ông nở một nụ cười khoan-khoái, xong tiếp-tục đi ngắm-nghía, sờ-mó không biết chán các món quà đắt giá mà các cấp chức quyền từ khắp nơi trong nước và ngoài nước dâng về.
Trước mắt tôi, hình-ảnh của “Cậu” Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn vẫn quen thuộc như những lần ông chủ-tọa các cuộc thi rước xe hoa vào những dịp lễ lớn trong năm.
Mỗi cơ-quan dân-chính và quân-sự đều thực-hiện một cỗ xe hoa, với nhiều cỡ, nhiểu kiểu, nhiều cách khác nhau, nhưng tựu-trung thì đều rước ảnh của Ngô Tổng-Thống và được trang-trí đèn hoa rực-rỡ vô cùng. “Cậu” đứng trước cổng nhà, vừa nhai trầu vừa quạt, nhướng mục-kỉnh chiêm-ngưỡng từng công-trình nghệ-thuật trẩy qua, và dễ dàng đồng-ý với những lời phê-bình cũng như chấm điểm, định mức thưởng tiền, của các “cố-vấn” hầu-cận hai bên.
Tự-nhiên tôi thấy ông hiền-lành quá, vô-tư quá. Người như thế này mà có quyền sinh-sát đối với mọi người sao ?
LỆNH… LẠC
Ngoài ông Chánh Văn-Phòng, mà một số người cho là có hiểu biết, còn có một số sĩ-quan quân-lực được biệt-phái đến làm việc tại Văn-Phòng Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn. Ông Hồ Văn Huế, một đồng-nghiệp đàn anh của tôi, là một tín đồ Ky Tô có đạo đức, đã có lần than-thở với tôi:
– Té ra mạnh ai thì nấy báo-cáo lên “Cậu”; chỉ cần nói khích một câu, tỉ như “Tên này phản-loạn, dám chống lại Ngô Tổng-Thống và Cậu!” thì nếu đề-nghị giết chết “Cậu” cũng gật đầu liền. Nhưng trong đa-số trường-hợp họ có trình lên “Cậu” đâu !
Quyền-hành của Cẩn tuyệt-đối như thế nên dân-chúng gọi ông là “Lãnh-chúa Miền Trung”. Thật ra, quyền-hành của ông cũng bao trùm cả Miền Nam, là lĩnh địa của ông anh, Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu. Một thi-hữu của tôi, Hồ Ðình Phương, của Tỉnh Long-An, và một số thành-viên khác thuộc các phái đoàn từ các Tỉnh trong Nam ra Huế họp đại-hội Ðảng Cần-Lao, đã xác-nhận với tôi điều đó.
Không có học-lực và kiến-thức như các ông Diệm, Nhu, ông Cẩn chỉ là một thứ hào-mục hãnh-tiến, bỗng-nhiên thấy được người ta tôn lên thì được hưởng lợi chứ chẳng thiệt gì, nên để mặc cho thủ-hạ lèo-lái, vẽ-vời. Ông chỉ đáng khen trong có một việc là lòng hiếu-kính đối với mẫu-thân, góa-phụ của cụ Ngô Ðình Khả.
Và chính cụ-bà cũng được nhiều người ngợi-ca vì lòng “trung-quân”. Người ta kể lại rằng, khi lăng của chồng đã được xây xong, cụ-bà lên ở trên lăng. Ðức Ðoan-Huy Hoàng Thái Hậu, tức Ðức Từ-Cung, mẹ của Cựu-Hoàng Bảo Ðại, thấy cảnh miếu đường hoang-phế mà không được chính-quyền chiếu-cố, bèn lên gặp cụ-bà để xin nói giúp với anh em nhà Ngô. Cụ-bà nghe tin, đang bệnh mà cũng gắng dậy xuống đón từ dưới mấy cấp thềm, toan phủ-phục trước người mà cụ-bà tưởng vẫn còn là quốc-mẫu nên vẫn thủ-phận chồng+con mình là bề-tôi của quân-vương.
Ðiều tai-hại hơn hết là không có ai dám kiểm-chứng lệnh của Ô.Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn.
Thường thì mọi người chỉ biết tuân lệnh, do nghe kẻ khác nói lại, mà không biết là nói lại hay là nói đại. Mà do chính miệng của ông nói ra lắm khi cũng chẳng hẳn là lệnh-lạc gì hết.
Một thí dụ đầy tính tiếu-lâm được truyền miệng trong giới an-ninh:
Một trong những tay chân đắc-lực của Cẩn là Ô. Lê Hoát, Trưởng Ban Hoạt-Vụ thuộc Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần. Mọi việc bắt-bớ, đọa đày, hãm-hại, v.v… đều nằm trong tay Hoát. Thế mà…
Dạo ấy ở Tỉnh Quảng-Ngãi có sự rối-loạn. Ty Công-An liên-hệ điện xin Nha Trung-Phần tăng-cường gấp một số nhân-viên. Vì Hoát có nhiều nhân-viên nhất nên Phòng Nhân-Vụ đề-nghị rút bớt một số. Hoát chỉ cho lấy một người, là người mà Hoát tưởng là không thiết-yếu vì không thấy đến báo-cáo công-tác hằng ngày. Và người ấy nhận được sự-vụ-lệnh thuyên-chuyển từ Huế vào Tỉnh Quảng-Ngãi.
Kế đó, một hôm Ô. Cố-Vấn đi ra sau vườn thì thấy có một thuộc-viên nằm lăn-lộn trước chân ông mà khóc; ông tránh, người kia lại tái diễn, khóc to hơn. Ông hỏi vu-vơ:
– Cha mi chết hay răng mà mi khóc dữ thế?
Ðươc ông hỏi đến, người giữ vườn kêu gào thảm-thiết:
– Không phải một mình cha con chết, mà chính con, rồi cả gia đình nhà con đều sẽ chết hết, “Cậu” ơi! Người ta không muốn cho con tiếp-tục ở đây để được hầu-hạ “Cậu”, “Cậu” ơi!
– Rứa người ta đưa mi đi mô ?
– Việt-Cộng giết người tùm-lum trong Quảng-Ngãi, mà người ta đưa con vô trong đó!
– Ai đưa mi đi ?
Người ấy vốn đã có đến năn-nỉ với Phòng Nhân-Vụ đề xin ở lại, nhưng được nơi đây giải-thích là chính Hoát đã quyết định cho đương-nhân ra đi. Người ấy liền đáp:
– Dạ, Lê Hoát đưa con đi!
Ông Cố-Vấn vừa bước tiếp vừa nói khống:
– Răng hắn không đi mà đưa mi đi ?
Mọi lời nói của “Cậu” đều được truyền đi tức-thời .
Thế là Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần ký sự-vụ-lệnh khác, để nhân-viên kia lại, và đưa … Lê Hoát đi !
Một thời-gian sau, một hôm ông Cố-Vấn sực nhớ mới hỏi:
– Thằng Hoát mô rồi mà lâu ni tau không thấy hắn?
Thế là Quát lại được thuyên-chuyển từ Ty Quảng-Ngãi về lại Nha!
Dân-chúng cũng đàm-tiếu với nhau: Bà Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu, lãnh-tụ Phong-Trào Phụ-Nữ Liên Ðới và Ðoàn-Thể Thanh-Nữ Cộng-Hòa của toàn-quốc, tức là gồm cả Miền Trung, những lần ra Huế thường tránh gặp mặt “Cậu”. Trung-Tướng Thái Quang Hoàng, nguyên Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, mà tổng-hành dinh đóng ở Huế, vốn là một sĩ-quan sủng-ái được thăng cấp vùn-vụt, mà rồi cũng bị thất-sủng vì bị dèm pha. Ông Trần Chánh Thành, là người được chính Ô. Ngô Ðình Diệm chọn đưa từ Pháp cùng về với mình, cử làm Bộ-Trưởng Bộ Thông-Tin, phụ-trách Chiến Dịch Tố Cộng và Phong-Trào Cách-Mạng Quốc-Gia, mà rồi cũng va-chạm với uy-lực của “Cậu” về quyền lãnh đạo các tổ-chức và hoạt động này tại Miền Trung…
Tôi tự hỏi không biết có phải chính “Cậu” đã chủ động, đã chủ động nổi, trong các vụ này, hay là bị bọn ác-ôn côn đồ gài bẫy, mạo danh…
VỤ GIÁN ÐIÊP PHÁP TẠI MIỀN TRUNG
Sau khi Pháp, do áp-lực của Mỹ, rút quân ra khỏi Việt-Nam, một số kiều dân Pháp vẫn còn ở lại; họ điều-hành các đồn điền cao-su, cà-phê, trà, và các nhà máy điện, nước, lữ-xá, tiệm ăn, v.v… Ngoài ra, còn có các nhà ngoại-giao …
Ở Huế, có một Phòng Thông-Tin Pháp, mà Giám Ðốc là Ô. Avril, một người Pháp lai Việt, sinh sống từ nhỏ tại Thành-Phố này. Tôi đã giới-thiệu để Avril làm quen với Ô. Thompson A. Grunwald, khi ông này đến nhậm chức Giám Ðốc Thông-Tin Hoa-Kỳ ở Huế. Trong lúc chưa có Tổng Lĩnh-Sứ, Grunwald là đại diện Mỹ đầu tiên đến Miền Trung.
Ðối với dân-chúng địa-phương thì sự quen biết đã có từ trước và những giao-tiếp không thể tránh được sau này của Avril với những nửa-đồng-bào xung quanh đã gây tai-họa không ít cho nhiều con dân Việt-Nam.
Trong chương-trình “đả-thực, bài-phong, diệt-cộng”, mà “thực” ở đây là thực dân Pháp, các cơ-quan an-ninh sở-tại cho biết đã khám-phá được một tổ-chức gọi là “gián điệp Pháp tại Miền Trung”.
Trong những năm đầu sau Hiệp Ðịnh Genève, Liên-Xô và Hoa-Cộng chưa chủ-trương cho Cộng-Sản Bắc-Việt xâm-chiếm Miền Nam; nhờ đó, đa-số các cấp chính-quyền, nhất là ở nhiều Xã Thôn, đã có hoàn-cảnh thuận-lợi để loại-trừ các phần-tử có liên-hệ hoặc bị nghi có dính-líu với ba kẻ thù kể trên. Trung-Ương cho phép mỗi Xã lập nên một “Hương-Ước” riêng của mình; đó là những quy định tội-trạng và hình-phạt có giá-trị pháp-lý, nằm ngoài và bổ-sung luật-pháp và luật-lệ chung của Quốc-Gia. Chính-sách của Chính-Quyền Quốc-Gia thời Ðệ-Nhật Cộng-Hòa là phục-hồi “Lệ Làng”, một thứ quyền tự-trị của các hương-chức thời xưa; đúng với tuc-ngữ “Phép Vua thua Lệ Làng”. Giải-pháp giàn-tiện hơn hết là trục-xuất tất cả các đối-tượng “phản động” ra khòi quê-quán của họ. Nhân dịp có cái gọi là “quốc-sách” Ấp Chiến-Lược và Dinh Ðiền, nhà cầm quyền tống họ lên vùng Cao-Nguyên, cùng với các thành-phần bất-hảo khác ― cựu-can hình-sự, đồ đệ “Tứ Ðổ Tường”, cá-nhân lừng-khừng ― sống tập-trung chung trong các Ðịa Ðiểm Dinh Ðiền, là nơi Hoa Kỳ viện-trợ dồi dào để giúp các giới dân nghèo Việt Nam tái định-cư kiến-tạo đời sống ấm no, thanh-bình, và thịnh-vượng lâu dài cho tương-lai.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là bề mặt, nhất-thời. Thật ra, ngay sau khi chính-quyền Ngô Ðình Diệm ra đời, những kẻ có liên-hệ chặt-chẽ với Pháp, với Hoàng-Tộc, với Việt-Minh, hoặc bị tổn-thương quyền-lợi cá-nhân, đều đã tìm cách tự-tồn. Họ trá-hình quy-phục, hoặc ngụy-tạo lý-lịch, đổi vùng sinh-hoạt; hoặc rút lui vào bóng tối, hoạt động bí-mật; hoặc bất động chờ thời. Cao điểm là sau khi Mặt Trận Việt-Minh tập-kết cán-bộ và bộ đội ra Bắc; quân-lực Pháp giao lại Miền Nam Việt-Nam cho Mỹ; chế độ Diệm tịch-thu tài-sản của Pháp, lật đổ và tịch-thu tài-sản của cựu Quốc-Trưởng Bảo Ðại, phát động chiến dịch “Tố Cộng”, đánh dẹp các giáo-phái, đàn-áp các chính đảng, cấm Hoa-Kiều làm mười một nghề, v.v…
Có những chính-sách đúng, nhưng bị phai mờ vì những chủ-trương sai; và ngay những đường-lối tốt cũng bị hoen-ố vì những việc làm xấu. Và thiểu-số lạm quyền đã xử ức người này, trị oan kẻ kia, đào hố sâu chia-rẽ và giúp nẩy mầm phẫn-uất trong dân-nhân. Hạt nhân đối-nghịch và khuynh đảo từ đó đã được gieo ra.
Thật ra, người dân căm-hờn thực dân, oán ghét tay sai, thù hận thành-phần thân Pháp, nên ủng-hộ các nỗ-lực phát-hiện gián điệp nước ngoài. Nhưng khi chính-viện không truy-tố bị-can ra trước pháp-viện, lại sử dụng luật rừng để bạo-hành đối với tù-nhân, thì chiêu-bài “Dân-Chủ Pháp-Trị’ của chính-quyền Ngô Ðình Diệm đã trở thành bịp-bợm đối với người dân.
Vào một buổi sáng nọ, như để chứng-minh cụ-thể cho những luồng dư-luận lan tràn lâu nay, một số đồng-bào đã tìm đến tận nơi để nhìn thấy tận mắt thi-thể của một nạn-nhân: Ô. Võ Côn, cựu Phó Giám Ðốc Cảnh-Sát Công-An Trung-Việt, bị giết chết và vứt bỏ xác ở chân Núi Ngự-Bình.
THẦU-KHOÁN NGUYỄN VĂN YẾN
Nhà thầu Nguyễn Văn Yến là một nhân-vật tên tuổi được đồng-bào khắp Huế mến thương.
Sau ngày hồi-cư vào năm 1947, Yến bắt đầu thu thuế tại chợ An Cựu là một chợ nhỏ, mà thời-gian đầu dân-chúng còn thưa-thớt nên chợ chưa có nhiều kẻ bán người mua. Vợ anh cũng theo giúp chồng. Tuy là chủ thầu nhưng cả hai đều đối xử tử-tế với giới chịu thuế, nhẹ tay với ai ít vốn, chước-miễn cho ai ít lời.
Nhờ làm việc cần-cù, giao dịch khéo-léo, Yến đã tiến từ thầu nhỏ lên thầu lớn, và đỉnh cao là thầu được cơ-sở kinh doanh đồ-sộ của anh+em Pháp-kiều Morin chính giữa trung-tâm thủ-phủ của Miền Trung, đặt tên Nguyễn Văn Yến cho đại Khách-Sạn và Diễn Ðường này.
Sự thành-công của Yến là một gai nhọn trước mắt những kẻ muốn chiếm độc-quyền khai-thác hoặc chi-phối mọi nguồn lợi kinh-tài. Thế là Yến bị bắt.
Vợ Nguyễn Văn Yến bị bệnh hiểm-nghèo. Sau khi được chữa lành, trước khi xuất-viện chị đã được y-sư giải-thích và căn dặn kỹ-càng: muốn sống thì đừng gần-gũi đàn ông.
Thương chồng, chị đến gõ cửa khắp nơi; bao nhiêu tiền của chị đem ra dâng nạp hết, nhưng vẫn không có kết-quả. Cuối cùng, chị được đưa đến ra mắt Ô. Cố-Vấn để cầu xin “Cậu” thi-ân.
Nhờ ân của “Cậu”, chị chết.
Nỗi đau thương của gia đình Nguyễn Văn Yến đã trở thành niềm căm-hận của mọi người: liền sau đó, chính Yến cũng bị giết chết trong tối-tăm.
THẦU KHOÁN NGUYỄN ÐẮC PHƯƠNG
Là Trưởng-Phòng Huấn-Luyện, trong thời-gian có Khóa Tu-Nghiệp hoặc Khóa Anh-Ngữ Căn-Bản do tôi giảng dạy cho cảnh-nhân toàn Thành-Phố, tôi thường đến sớm để lo cho mọi thứ được chuẩn-bị sẵn-sàng. Có nhiều lần tôi ngạc-nhiên thấy Hội Ðường, mới chiều hôm qua còn ngăn nắp, mà sao sáng hôm sau bàn ghế đã nghiêng lệch và trên nền lầu vương vãi những lá lót, giấy bọc, cùng nhiều loại thức ăn, đồ uống thừa.
Những lần đầu, tôi nghĩ là do toán nhân-viên gác đêm bày tiệc ăn nhậu. Ðến lần nọ, tôi vào hỏi ông Đặng Phong, Phó Cành-Sát-Trưởng ; ông nhìn Ô. Hồ Đắc Vang, trả lời tôi: “Ðêm qua, Chi-Bộ họp”. Chi-Bộ là tổ-chức Ðảng; tôi không ở trong Ðảng, tôi không thể phàn-nàn gì thêm.
Một hôm, nhân vào Sài-Gòn lập thủ-tục du-học Hoa-Kỳ, tôi gặp Ô. Nguyễn Văn Trí giữa phố. Trí là nhân-viên Ðội Biệt Ðộng ở Huế; cùng đi với anh có vài ba người nữa, đang ngồi trong một chiếc xe hơi đậu bên lề đường. Anh dừng lại chào hỏi tôi. Khi anh lên xe đi rồi, có mấy người mà tôi thấy quen mặt đang ngồi trong Nhà Hàng “Thanh Thế” vẫy gọi tôi vào. Họ là công-chức, quân-nhân hoặc thường dân gốc ở Huế, nay vào tùng-sự, thụ-huấn hoặc sinh sống trong này.
Nhạc-sĩ Châu Kỳ ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Ðừng bắt mình, nghe Thanh-Thanh!” Tôi mở tròn mắt hỏi lại: “Tôi làm gì mà bắt ai ?” Nhạc-sĩ Lê Trọng Nguyễn liền vỗ vai Kỳ: “Thanh-Thanh chắc không dính vào những vụ đó đâu!”
Hồi đó, Cảnh-Sát và Công-An là hai ngành khác nhau, mà tôi thì ở bên phía tư-pháp hình-sự, không phải bên phía chính-trị.
Một người hỏi tôi: “Hôm nay các anh đã bắt được bao nhiêu mạng rồi ?” Thấy tôi ngơ-ngác, một người khác nói: “Bọn hồi nãy là mật-vụ trong Ðoàn Công-Tác Ðặc-Biệt Miền Trung, vào đây bắt người đấy!”
Tôi cũng có nghe nói đến tổ-chức ấy, nhưng không biết là họ thuộc cơ-quan nào, vì tại Nha và tai Ty Công-An Tỉnh Thừa-Thiên thì chỉ có Ban Hoạt-Vụ, Ban Lưu Ðộng, hoặc Ban Truy-Tầm gì đó thôi.
Không-khí ở Sài-Gòn tự do hơn, nên mấy người này tranh nhau kể toàn những chuyện cướp đoạt, giam-cầm, tra-tấn, và thủ-tiêu dân lành, ở cả Huế lẫn các Tỉnh gần xa.
Diệm thì huênh-hoang tuyên-bố: “Ðằng sau Hiến-Pháp còn có tôi!” để bị lũ gian-manh ngụy-tạo vườn cây sây trái cho mà đến thị-sát, khoe-khoang; Nhu thì kìm kẹp đối-lập ở P-42; vợ Nhu thì hùn-hạp làm ăn bất-chính với vợ Trần Chánh Thành; Cẩn thì thể-hiện hỏa-ngục ở Mang-Cá, hồ lửa ở Chín Hầm…
Khi nghe tôi làm việc ở Ty Cảnh-Sát Huế, một người la lên:
– Ðánh người ta vỡ đầu chết, rồi ném xác xuống sân, tri-hô là người ta nhảy lầu tự-tử, xong rồi vào đây lánh mặt hả?
Các bạn khác cũng sững-sờ như tôi. Một người ôn-tồn hỏi tôi: “Anh vào đây bao giờ?” Tôi đáp: “Sáng thứ năm” Người ấy thở phào: “Thế thì không phải là anh!”
Người kia nhìn tôi dò xét, rồi như tin tôi, kể ngắn gọn:
– Chúng bắt bừa, nhốt kín nhiều nơi, lâu lâu mới chở một số đến Ty Cành-Sát cho gặp thân-nhân một lần vào lúc nửa đêm. Tại đó, chúng cũng khảo đả nạn-nhân. Án-mạng vừa rồi xảy ra vào khuya thứ năm; tôi mới vào chiều hôm qua; thứ sáu. Tội-nghiệp thầu-khoán Nguyễn Ðắc Phương!
Tôi nghe mà lặng điếng cả người.
Thì ra Hội Ðường, nơi tôi truyền-bá lý-thuyết lý-tưởng về nghiệp-vụ, nơi tôi phổ-biến đạo đức chính-trị của Ngô Tổng-Thống, đã bị dùng làm nơi chà đạp “nhân-vị” và sinh-mạng của con người!
Trước đó, tôi có gặp Nguyễn Ðắc Phương một lần, tại nhà Giáo-Sư Nguyễn Như Minh. Minh là thầy cũ của tôi ở “Thuận-Hóa Học-Hiệu”. Ông vừa mới giao cho Phương, và Phương vừa mới khởi-công xây-cất một trụ-sở mới cho Trường Trung-Học Tư-Thục Nguyễn Du.
Ngang đây thì tôi thấy Trung-Tá Ðoàn Ðình Từ, một người bạn thân của tôi, hiện làm Trưởng Ty Công-An Tỉnh Long-An, từ ngoài bước vào. Từ bị thương trong một trận chạm súng với Việt-Cộng, chân đi còn khập-khiễng. Ðể tránh đụng chạm, tôi kéo anh lên Nhà Hàng “Bồng Lai”.
Lát sau, tôi hỏi anh về nạn độc-tài, tham-bạo; anh lắc đầu thở dài: “Hết nước nói! Minh chỉ biết diệt Cộng mà thôi!”
*
LÊ XUÂN NHUẬN CHỐNG CHẾ-ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM
VÀO dịp lễ Hai Bà Trưng (3-3) năm 1960 (mồng 6 tháng 2 âm-lịch Canh Tý), tôi thuyết-trình về tinh-thần ái-quốc của Trưng Nữ-Vương, theo tài-liệu học-tập của Trung-Ương phổ-biến.
Nguyễn Xuân Lại, lúc ấy cũng đã mãn định-kỳ quân-nhiệm, trở về Ty Cảnh-Sát Huế, cùng tham dự buổi họp.
Khi đến câu “Quân của Hai Bà là quân ô-hợp nên bị thất-trận”, tôi đã cố ý bỏ qua từ đoạn “là quân ô-hợp”. Hội Ðường thắc-mắc; nhiều người đưa ý-kiến là phải đọc trọn câu, và đòi giải-thích hai tiếng “ô hợp”. Tôi giải-thích tĩnh-từ “ô hợp”, xong thanh-minh rằng tôi không muốn trong lúc tưởng nhớ công đức của tổ-tiên anh-hùng mà lại chê-bai phẩm-chất chiến đấu của tiền-nhân:
– Có lẽ soạn-giả sơ-ý. Theo tôi thì chỉ cần nói “Hai Bà thua trận là đủ”, không cần nêu thêm cái lý do ấy, nhất là nói về khuyết nhược của mình. Vậy đề-nghị các bạn khi về đơn-vị địa-phương thuyết-trình lại cho các học-viên của mình thì bỏ bớt mấy chữ đó đi .
Ngang đây, Lại chất-vấn tôi:
– Sự thật là “ô hợp” thì cứ nói là “ô hợp”, anh muốn chống lại lịch-sử và cãi lại tài-liệu của “Ban Chỉ Ðạo Học-Tập Trung-Ương” ư ?
Cuộc thảo-luận chung biến thành cuộc tranh-luận riêng giữa hai chúng tôi.
Tôi nói: “Tuy Ban Chỉ Ðạo Trung-Ương do ông Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu chủ-trì, nhưng ông chỉ đề ra ý chính, làm sao kiểm-soát hết từng chữ?”
– Tôi đã từng thảo diễn-văn cho các Ðơn-Vị-Trưởng, họ dò rất kỹ trước khi đọc; anh cho là ông Cố-Vấn không đọc kỹ à?
– Tôi cũng đã từng thảo diễn-văn cho các tướng Tư-Lệnh, đúng như anh nói. Nhưng đó là cho chính miệng họ đọc ra, lâu lâu một lần. Ðằng nầy, tài-liệu tổng-quát do nhân-viên phụ-trách soạn chung cho mọi người, ào-ạt phổ-biến mỗi tuần mấy đợt, trải qua nhiều năm rồi, thì cũng chỉ giống như tờ báo định-kỳ thông-thường ngoài phố mà thôi, làm sao tránh khỏi sơ-xuất?
– Nhưng đây không phải là sơ-xuất, mà là nói lên sự thật!
Tôi đáp: “Ðồng-ý là sự thật. Tuy nhiên, đó là ở trường đại-học, nghiên-cứu sử-liệu chúng ta có thể tìm thấy nhiều điều khác lạ; thí dụ tài-liệu của Trung-Hoa nói về Hai Bà Trưng, có đăng trên báo của Viện Ðại-Học Huế, do linh-mục Cao Văn Luận làm Viện Trưởng, thì tàn-tệ hơn nhiều. Còn đây thì không phải là một công-trình nghiên-cứu lịch-sử ở trình độ bác-học, mà chỉ là một bài học công dân giáo dục nhắm vào đa-số bình dân, cốt để nhân ngày kỷ-niệm Trưng-Vương mà khích động đồng-bào noi gương yêu nước của Hai Bà; như thế thì chỉ cần đề-cập những gì có lợi cho mục đích trước mắt mà thôi”.
– Nói như anh tức là cấp trên khinh thường dân-chúng, chủ-trương ngu dân!
Tôi thấy Nguyễn Xuân Lại đã vô-tình tạo ra cơ-hội cho tôi lợi dụng mà nói lên những điều cần nói công-khai :
– Ở đây có ông Trần Văn Hương, Cảnh-Sát-Trưởng, vừa đi du-học ở Mỹ về, đã thấy rõ sự khác nhau giữa Mỹ với nước mình. Thế nhưng, tài-liệu, mà chúng ta học-tập ở đây thì nói rằng Hiến-Pháp của Việt-Nam Cộng-Hòa là tiến-bộ hơn Hiến-Pháp của Hiệp-Chủng-Quốc Hoa-Kỳ. Cũng thế, học-tập về chế độ hiện-tại thì chỉ toàn đề-cao những tốt lành ngay chính chứ có ai phanh-phui những xấu dữ gian tà đâu !
Thế là mọi người bỏ mất trọng-tâm. Hội Ðường chia ra làm hai phe; đa-số thì đồng-ý với tôi dẫn chứng từ những sai lầm bất-công đến những gian tham tàn-ác của nhóm đặc-lợi đặc-quyền; thiểu-số đắc-thời thì chối-cãi, biện-minh. Không-khí quá găng; chủ-tọa phải tuyên-bố giải-tán. Nhưng khi ra khỏi phòng họp rồi họ vẫn còn phát-biểu rất hăng.
Việc làm của tôi đã mở đường cho những chống đối công-khai và đồng-loạt của nhiều tập-thể lớn về sau (trước cả vụ phản-kháng của 18 nhà chính-trị tên tuổi tại Nhà Hàng Caravelle trong Sài Gòn. Nhà văn Nhất-Linh Nguyễn Tường Tam, bị kết án tử-hình, đã tự-tử, với kết-luận “đời tôi để lịch-sử xét” để phủ-nhận quyền-hành của chế độ nhà Ngô).
Riêng trường-hợp của tôi đã gây nên mối bất-đồng quan điểm giũa hai ông Cố-Vấn họ Ngô. Vây-cánh của Ô. Cẩn thì muốn dùng biện-pháp mạnh đối với tôi, nhưng Ô. Nhu thì tiến-bộ hơn nên nương tay. Do đó, họ giao tôi cho Bộ Nội-Vụ áp dụng kỷ-luật hành-chánh.
Sau ba tháng bị cất chức, giam cầm, tôi bị ghép vào thành-phần “phản-loạn” và bị đày lên Cao Nguyên là vùng “nước độc và nguy-hiểm”, cùng với bốn đồng-nghiệp khác; đó là hai viên-chức tham-mưu có uy-tín mà không chịu đứng chung vào hàng-ngũ phá đạo hại đời, và hai viên-chức hoạt-dịch cũng là tín đồ Ky-Tô-Giáo và cũng là đảng-viên Ðảng Cần-Lao nhưng không đồng-hội đồng-thuyền với họ nên họ cũng nhân dịp này mà tống cổ đi luôn.
Suốt đời tôi không bao giờ quên được hình-ảnh của những Giám Ðốc, Trưởng Ty, công-chức các cơ-quan bạn, mà nhiều người trước kia tôi chưa hề quen, và rất đông đồng-bào vô danh, đã bất-chấp mật-vụ, lên ga xe lửa Huế ngậm-ngùi tiễn chúng tôi đi …
*
Rồi Diệm bị đảo-chánh hụt, rồi Dinh Ðộc-Lập bị ném bom. Vụ các chính-khách bất-đồng chính-kiến họp tại nhà hàng Caravelle nổ bùng. Nhà văn Nhất-Linh Nguyễn Tường Tam tự-tử để phủ-nhận quyền-hành của chế-độ nhà Ngô. Phật-Giáo bị cấm treo cờ vào ngày lễ Phật-Ðản; Phật-Tử Huế biểu-tình đòi quyền tự do tín-ngưỡng, bị tàn-sát trước Ðài Phát-Thanh. Diệm+Nhu cho Cảnh-Sát Chiến Ðấu tấn-công chùa-chiền. Hòa-Thượng Thích Quảng Ðức và nhiều tu-sĩ, Phật-Giáo-Ðồ khắp nước tự-thiêu. Sinh-viên học-sinh và các giới dân-nhân xuống đường; toàn-quốc nổi dậy. Thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu, Ngoại-Trưởng VNCH, tự cạo trọc đầu từ-chức để phản-đối Diệm; ngay chính ông Trần Văn Chương, đại-sứ VNCH tại Mỹ, là cha ruột của bà cố-vấn Ngô Ðình Nhu, và bà Trần Văn Chương, quan-sát-viên VNCH tại Liên Hiệp Quốc, là mẹ đẻ của bà Nhu, cũng cùng từ-chức để chống lại bè lũ Diệm—Nhu đàn-áp Phật-Giáo. Chính-giới Hoa Kỳ phẫn-nộ, dư-luận thế-giới xôn-xao. Cuộc Cải-Mệnh 1-11-1963 xảy ra.
Sau này, tôi chỉ-huy Cảnh-Lực cấp Tỉnh trên Cao-Nguyên thì Nguyễn Xuân Lại cũng chỉ-huy Cảnh-Lực ở Tỉnh Thừa-Thiên.
Một số bạn cũ nói rằng Lại vẫn trung-thành với quan-niệm sống của mình, cứ theo lý-thuyết sách vở mà làm; theo đó, Luật-Pháp mới là nguyên-tắc của trật-tự và an-ninh, nên anh phục-vụ; còn Chính-Trị thì là phi-nguyên-tắc nên anh không tham-gia. Anh chỉ chú-tâm riêng vào phần Hình-Cảnh, và phó mặc phần Ðặc-Cảnh (có thể gọi là Cảnh-Sát Chính-Trị) cho viên Phó Chỉ-Huy chuyên-trách cầm nắm các vấn đề phe đảng, giáo-phái, hội đoàn, tình-hình nội-bộ chính-quyền, cũng như trực-tiếp giải-quyết với Ủy-Ban An-Ninh về các vụ bắt-bớ. giam cầm Việt-Cộng tại địa-phương.
Tuy không đối diện, đối-thoại, nhưng qua tin-tức như trên, tôi vẫn thấy cần tranh-luận với Lại. Nếu anh chịu nhúng tay vào, thì cơ-quan mà anh vẫn là người chịu trách-nhiệm chính, chắc-chắn sẽ tránh được nhiều lầm sai. Cùng lắm thì anh vẫn có thể công-khai nói lên tiếng nói của mình, như tôi ngày xưa ?
Việt-Cộng không bám sát anh, hoặc vì cơ-sở của chúng hoạt động dở, hoặc do may-mắn tự-nhiên, mà anh thoát chết ở Huế vào vụ Tết Mậu-Thân 1968. Anh trà-trộn với đồng-bào vào trốn trong nhà thờ Dòng Chúa Cứu-Thế; khi địch đến thanh lọc, anh đưa Thẻ Sinh-Viên trường Luật ra; chúng không nhận diện ra anh.
*
Chừng nhớ ngày xưa tôi rất ham thích Ngành Hình-Pháp, Nguyễn Xuân Lại nói:
– Mình không ngờ Nhuận mà lại qua Ngành Ðặc-Cảnh.
Tôi định đáp: “Mình cũng không ngờ Thêm mà lại tham-chánh”, nhưng tôi nín kịp.
Một người bạn thân khác của tôi, thi-sĩ Như Trị, tức Luật-sư Bùi Chánh Thời, cũng có quan-niệm như Lại. Nhưng Thời không tham-chính; anh hoạt động vì nhân đạo, cầm đầu chi-nhánh của một tổ-chức quốc-tế Bảo-Vệ Thiếu-Niên Nhi Ðồng tại Việt-Nam.
Mỗi người có quyền theo đuổi lý-tưởng riêng của mình. Tôi tôn-trọng quyền ấy. Nhưng vì Luật-Pháp tự nó không có Tổ-Quốc, nên chính-thể nào cũng dựa trên Luật-Pháp nói chung để làm ra Luật-Pháp của riêng mình. Trong một Quốc-Gia, vào một giai đoạn nào đó, phải chăng Luật-Pháp cũng chỉ là sản-phẩm của Chính-Trị? Người đã tham-gia vào Chính-Quyền, nhất là ở cương-vị lãnh đạo, làm sao không dự phần vào chính-sách chung?
Lại được mời làm Thứ-Trưởng một Bộ. Dù là của Bộ Tư-Pháp đi nữa, thì đó cũng là một phần của Ngành Hành-Pháp, và đó cũng là một trách-vụ chính-trị. Anh nói là anh chưa nhận, tức là đã nhận trên nguyên-tắc, chỉ còn cân-nhắc một số điều-kiện nữa mà thôi ?
Bị ám-ảnh vì bóng ma quá-khứ, tôi sợ là anh sẽ lại rơi vào hai trường-hợp khó-khăn: Lý-thuyết siêu-chính-trị có thoát khỏi bị guồng máy chính-quyền biến-thể? Và nhập-cuộc nửa vời có phải là giải-pháp an ổn cho lương-tâm?
Thà Lại chỉ là luật-sư, hoạt động ngoài-chính-quyền như Thời, đứng hẳn về phía đối-lập trong dân-nhân, hoặc chỉ là huấn-sư trong một trường Luật, hoặc công-khai đối-lập trong các chức-vụ lập-pháp và dân-cử… Ðằng này, trong cương-vị công-cử, nếu gặp nghịch-cảnh, thái độ của anh sẽ như thế nào …
Tuy nhiên, lịch-sử cũng đã sang nhiều trang; cả Nguyễn Xuân Lại lẫn tôi, cũng như mọi người, đều đã lớn hơn, khôn hơn. Trên đường tiến tới Dân-Chủ, dân-nhân Miền Nam Việt-Nam đã bước những bước khá dài. Ít nhất thì, ngày xưa, hễ thiếu kính-trọng đối với Ngô Ðình Diệm là cầm chắc cái chết trong tay; nhưng, ngày nay, mọi người đều tự do chỉ-trích, thậm-chí mạt-sát, Nguyễn Văn Thiệu mà không hề-hấn gì. Giới trí-thức phải hiểu rằng tài-năng, đạo đức, thiện-chí, và kết-quả phục-vụ là những yếu-tố cần-thiết để thẩm định giá-trị của một con người. Ðã giỏi Luật-Pháp, mà cũng rành về Chính-Trị và các Ngành khác, hoặc ngược lại, thì tài-năng mới không phiến diện; và đã tham-gia thì phải dấn thân, có thế đạo đức mới vẹn toàn.
Tôi bắt tay Nguyễn Xuân Lại thật chặt, để mừng anh, và để truyền đạt qua anh niềm tin của tôi rằng bạn mình bây giờ nhất định đã tiến rất xa …
Huế, 1973-75
GHI THÊM:
Vào khoảng cuối thiên-niên-kỷ trước, tôi gặp lại Nguyễn Xuân Lại tại một buổi sinh-hoạt của Cựu CSQG Miền Bắc California ở San Jose. Lại cho biết là vừa được Cựu Tống-Thống Nguyễn Văn Thiệu mời hợp-tác trong một chương-trình tranh-đấu cho Quốc-Gia. Tôi không biết nói gì, chỉ thành-tâm chúc anh thành-công mà thôi.
Lê Xuân Nhuận là người đầu tiên công-khai và chính-thức tố-cáo các hành-vi sai trái dưới chế-độ Ngô Đình Diệm.

Anh đứng đây trông về nơi em
qua một phía trời có mây và nắng
nắng trải rất mềm hàng cây đứng lặng
mây xõa lưng chừng anh ngẩn ngơ thêm
Anh đứng đây trông về nơi em
qua những lớp dày kẽm gai tường đá
có những cảnh đời rất quen mà lạ
lập lại từng ngày sáng tối chiều trưa
Anh đứng nơi đây trông về phố xưa
cách một quãng đường vài trăm cây số
kỷ niệm ngày nào rất nhiều để nhớ
như nhớ thương em nhớ mấy cho vừa
Anh đứng hôm nay trông về hôm qua
vượt mấy thời gian xô về dĩ vãng
có một rừng thơ một trời sao sáng
em đưa xuân về mấy độ hương hoa
Anh đứng hôm nay trông về hôm qua
non nước lênh đênh phận người dâu bể
thương quá từng đêm phòng khuê đơn lẻ
xin hẹn nhau ngày tàn cuộc phong ba
Anh đứng hôm nay trông về ngày mai
mộng ước mai sau mộng ước thật dài
hạnh phúc, quê hương, tình yêu, cuộc sống
còn đấy rất nhiều dự tính tương lai.
SONG NHỊ
I stand here
and look at your residing place
Through a full-of-clouds-and-sunshine space.
Quiet are lines of trees and mild the sun spread;
Half-way clouds hang down and more moved I get.
I stand here and gaze
upon the zone you abide
Over barbed wires and stony walls that divide.
Quite a lot of life sights very familiar but unusual
Occur every morning and evening repeatedly dual.
I stand here and observe
our dear former abode
Some hundreds of kilometers hence apart a road.
Memories of those days are numerous to treasure
And countless to miss and love you to my pleasure.
I stand here today to
look back on the ancient times
Reaching to bygone dates, rushing to old climes.
A universe of muse, a sky of starlight you did bring
Perfumes and flowers manifold the spirit of spring.
I stand here today to
think of the past and hate
The vicissitudes as our country and people’s fate.
What a pity lonely you are spending every night!
I promise to reunite with you when ends this plight.
I stand here today to
look forward to tomorrow
Nurturing dreams about our future free from sorrow.
There are our Happiness, Motherland, Love, Life,
And for hereafter so many plans, so much to strive.
Translation
by THANH-THANH


Thu-Vân & Xuân-Hạnh
Đêm nay là bao nhiêu đêm
Bỗng dưng chị thấy nhớ em vô cùng…
Hôm chị ra đi theo chồng:
Bánh ngon, áo đẹp, người đông, quà nhiều,
Hẳn em chưa buồn bao nhiêu
Trước khi tiệc mãn, trời chiều, đêm khuya .
Nhưng sau khi chị đã đi
Thì em mới thấy buồn chi là buồn…
Đồ-đạc của chị không còn,
Nỗi trống vắng ngập cả hồn thơ-ngây .
Hơi-hám của chị còn đây,
Thói quen ngày cũ… ngày nay đổi dời …!
Em thường bắt chị “à ơi!”
Cho em ngon giấc trong lời hát ru …
Bắt chị kể chuyện ngày xưa
Cho em dệt đẹp giấc mơ nhi-đồng;
Khỏe chị dắt, mệt chị bồng;
Chị kèm em học, chị cùng em chơi …
Bây giờ chị xa em rồi,
Khác người kể chuyện, khác lời hát ru .
Biết em đã quen hay chưa,
Hay còn nhớ chị ngẩn-ngơ sớm chiều …
“Bao-lơn gác thượng chớ trèo!
“Chớ sờ dây điện! Chớ leo thành hồ!
“Tới trường chớ quá nghịch đùa!
“Ra đường chớ có đuổi xô bạn-bè!…”
Những lời chị thường răn đe,
Biết em còn nhớ, còn nghe kỹ-càng?
Chị thương em, út muộn-màng,
Thiên-thần lạc mất thiên-đàng rồi, em!
Ngày xưa: gia-đình ấm êm,
Mẹ cha đầy-đủ, chị em sum-vầy …
Nhưng, từ cha bị tù đày,
Nỗi thiếu vắng phủ rứt-ray cả nhà …
Chị càng thương em thiết-tha
Để bù nỗi vắng xa cha giữa đời …
Bây giờ, chính chị tách rời:
Đã một người, lại một người xa em!
Thư chị: em giành em xem,
Em giữ thật kỹ con tem, cái bì …
Quà chị: me bảo ăn đi,
Em sợ hết, gậm tí ti mỗi lần…
Thương em vô đỗi, vô ngần,
Chị lại đọc lại từng vần thư em;
Ảnh em, chị lại lấy xem,
Tưởng như có chị bên em mãi hoài …
“Ngày xưa…” mới gần đây thôi,
Một người làm việc mà nuôi cả nhà :
Trẻ thì tha-hồ bánh quà,
Lớn lên đại-học, thi ra thành-tài !…
Bây giờ thì chị Tú Hai,
Thi vào đại-học: không ai cho vào!
Thị-trường hàng hiếm, giá cao,
Lương anh ít, chị khổ-lao góp phần.
Cưới xong phải trả nợ-nần,
Quà em… sợ sẽ… giảm dần, em ơi !
Bây giờ, chị xa em rồi,
Nhớ em, chị khẽ ôn lời hát ru:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Thương em, nhớ mẹ, ruột đau chín chiều!”
THANH-THANH
1975-80