Sài Gòn Buồn – So Sad Saigon City

Đỗ Vẫn Trọn – Thanh Thanh

Sài Gòn Buồn


Sài Gòn buồn, giờ giới nghiêm

Tiếng hàng rao tắt lịm trong đêm

Những em bé đánh giày không còn thấy

Người bán vé số, kẻ ăn xin, giờ co cụm nơi đâu?

Những con đường, ngõ hẻm lặng thinh!

Chiều nay được tin em mất!

Sài Gòn buồn nhỏ lệ thương đau

Xác em giờ ở mãi nơi đâu?

Bình Hưng Hòa hay lò thiêu nào đó?

Không tang lễ, không người đưa tiễn!

Không họ hàng bái biệt hương linh

Em cô đơn về nơi vô định

Sài Gòn buồn, đánh mất phồn hoa

Sài Gòn giờ giới nghiêm

Sài Gòn u tịch phảng phất trầm hương

Sài Gòn buồn, giờ giới nghiêm

Vườn Tao Đàn vắng hẳn bước chân vui

Công viên buồn nhớ bóng ai qua

Dáng em ngồi hờ hững giữa mùa thi

Phố đi bộ chào quên người viễn khách

Nguyễn Trãi về trống vắng hơi đêm

Phố xá đìu hiu, trống trải

Tiếng còi xe như ngừng thở đêm qua

Sài Gòn buồn, giờ giới nghiêm

Buổi chiều hẹn không còn nắng rực

Bến Bạch Đằng gió lộng theo sau

Hoài mong chờ người qua bến đỗ

Em đâu rồi!

Biền biệt nơi đâu?

Nhớ Sài Gòn, lòng giăng nhiều cảm xúc

Những bạn bè, hàng quán thân quen

Những trưa về đón đợi ở Gia Long

Bao nhan sắc làm cho người khốn đốn

Sài Gòn buồn, giờ giới nghiêm

Chuông giáo đường không còn ngân thánh

Đức Bà buồn quy tích trăm năm

Tan Lễ về không cùng em xuống phố

Chủ nhật hồng đâu nữa trong mắt nhung

Bụi đường, xe cộ, đèn xanh/đỏ

Lê Thánh Tôn yên ắng lạ thường thay

Bàn Cờ, Tân Định hiu hắt đêm về

Phạm Ngũ Lão buồn xo người khách lạ

Duy Tân đổ bóng chiều hoang phế

Sài Gòn buồn, giờ giới nghiêm

Sài Gòn những cơn mưa buổi chiều

Không còn dòng người vội vã

Đâu xe cộ chen nhau hối hả

Không dù che, màu sắc áo mưa thưa

Cả mặt đường chỉ mỗi tiếng mưa rơi

Anh nhớ mãi ngày ta cùng sánh bước

Nắm tay em trong nắng sớm ban mai

Sài Gòn thả bộ trên đường phố

Bóng em về òa vỡ hân hoan

Sân trường cũ tóc dài bên áo trắng

Anh đứng nhìn quên cả tiếng chuông vang

Hàng phượng vĩ ngập đầy trong ánh mắt

Con đường về dẫn lối lá me bay

Nhớ Sài Gòn như lòng đang chảy máu

Nước mắt rơi theo từng người lâm bệnh

Sài Gòn của tôi, Sài Gòn của em

Giờ như chiếc lá vàng ủ rũ

Người quét đường ngơ ngẩn nhìn theo

Sài Gòn ơi! Sài Gòn đầy kỷ niệm

Góc thiên đường còn mãi đâu đây

Sài Gòn buồn, giờ giới nghiêm

Sài Gòn đầy thương nhớ!

Sài Gòn bật khóc

Sài Gòn im lặng đáng sợ!

Sài Gòn của tôi đâu?

Bóng kiêu hãnh giai nhân huyền thoại

Ủ rũ lòng một thoáng nhớ hương xưa

Sài Gòn, nhịp sống như ngừng thở

Kẻ tật nguyền mất hẳn trong đêm

Sài Gòn buồn, giờ giới nghiêm

Những chiếc xe nối đuôi về quê cũ

Tìm an bình nơi những cánh đồng xanh

Mơ Sài Gòn lặng lẽ hồi sinh

Thầm ao ước một ngày trở lại

Sài Gòn buồn như chưa từng có

Khắc khoải lòng thương nhớ, Sài Gòn ơi!

Đỗ Vẫn Trọn

San Jose, ngày 28 tháng Bảy năm 2021

So Sad Saigon City


Saigon under permanent curfew is so sad.

The cries are no longer heard at night – it’s bad!

The shoeshine boys are no longer seen.

Where the lottery sellers, beggars, have been?

How silent is each street, alley, wayside!

This evening I learned that that child already died!

Saigon is grievous to drop bitter tears somehow.

But what’s happened to his corpse now?

Bình Hưng Hòa or a certain crematory?

Without funeral, mourners – such sob story!

No relatives kowtowing to take leave of his soul

That errs to the unknown beyond all alone in dole.

Saigon is sorry to have lost its bonanza prime.

Saigon fell under this permanent curfew, triste time.

Spleenful agarwood and incense waft through the air.

Saigon under the current curfew is so bare.

In Tao Dan are absent the footsteps recently snappy:

The garden is missing the then people so happy,

The schoolgirl sitting absorbed in her coming tests,

The walking lane welcoming the strange guests.

Currently is deserted Nguyen Trai Boulevard,

The roads, shops forlorn, emptied, barred.

The car horn has stopped sounding since last night.

Saigon under permanent curfew – What a bite!

No more sunlight on the late evening date.

Along Bach Dang marina the draught did not bate.

Looking forward to seeing my sweetheart,

Alas! From me she kept herself apart,

Where are you now, my dear?

Reminiscing about Saigon, my emotion is still clear.

The old friends, the familiar shops as a rule,

The afternoons waiting at Gia Long girls’ school:

How many beauties to make lads lovelorn.

Saigon under this curfew: in our flesh a thorn.

The church bells have ceased their holy toll,

Our Lady with fold converges on the eternal goal.

After the Mass I can’t walk you around the city,

The rose Sunday disappears in your eyes the pretty.

No more vehicles, smoke, dust, traffic lights.

Le Thanh Ton Road quiet: uncommon sights.

Ban Co, Tan Dinh areas at night become moody,

On Pham Ngu Lao Avenue the traveler feels broody.

Duy Tan at dusk exposes a haggard hue.

Saigon under extended curfew is so blue.

There is no more a Saigon under afternoon rain

With flows of vehicles squeezing into each lane,

People making way through the jostling crowd,

Multicolor umbrellas, raincoats under thundercloud,

On the walk only the raindrops are heard.

I always remember that day, each being a lovebird,

I held your hand, in the morning sun,

We paced around, roaming Saigon – What fun!

Your image reappears in my mind: delight to access.

The old schoolyard, your long hair, white dress:

I stood watching, not paying attention to the bell.

The rows of flamboyant seemed in my eyes to dwell.                              

My way back was guided by the tamarind leaves.

As if my heart bleeds, how I miss Saigon! It grieves.

My tears fall as long as each compatriot falls ill.

Saigon of my soul, and Saigon of my beloved, still,

Presently looks like a glumly leaf marcescent to sore,

The street sweeper bewilderedly watches for.

Oh, Saigon! Saigon full of souvenirs,

A bit of paradise remains here though disaster clears.

Saigon under permanent curfew is so gray.

Saigon is overflowing with love, to miss the heyday.

Saigon bursts into wails, loud.

Saigon keeps quiet, storm-cloud!

Where is my Saigon? Laden with booty,

From the proud legendary beauty

Who reminds me of her once outstanding civic duty.

Saigon’s life now seems to stop breathing in blight,

The wounded handicapped disappear into the night.

Saigon under the current curfew tempts fate.

Bumper-to-bumper transports take people to evacuate

To their old countryside to find peace in mirth.

But they do dream of a near Saigon’s rebirth

And wish to return to that city someday soon.

Saigon like never before is with misfortune to swoon.

I deeply feel compassion for you, Saigon my dear!

Translation by THANH-THANH

Thanh-Thanh.com

LeXuanNhuan.com




THƠ Song ngữ Việt Anh: CÚC CỐ NHÂN – Cao Mỵ Nhân & Thanh Thanh

Nguồn hình: Internet

CÚC CỐ NHÂN           

Anh về, yêu lại màu hoa cúc 

Rực rỡ bình minh lộng lẫy xuân

Cúc đỏ, cúc vàng chen chúc nở     

Phương trời như thiếu cúc tri âm

Anh giữ trên tay hoa cúc trắng      

Một cành đơn độc giữa phù vân    

Mây, hoa cùng thấy lòng hoang vắng

Từ thưở người đi đã cách ngăn      

Cố nhân cột tóc bằng nơ tím  

Áo tím làm xuân chợt thoáng buồn

Chiếc nón bài thơ quai lụa tím              

Hiên chùa cúc tím nhuộm hoàng hôn    

Ảo giác say hoa xưa bát ngát         

Chao ôi, ngày tháng cứ xa dần              

Hương gây mùi nhớ, thơm ngào ngạt    

Thanh sắc nào thay cúc cố nhân         

   

                       CAO MỴ NHÂN   

***

      OLD CHRYSANTHEMUM

Back home, I resume my love of chrysanthemums.

Red tansies, yellow tansies, do bloom as a whole

With their colors so radiant as when spring comes;

But this place seems to lack the flower of my soul.

I hold a white nice chrysanthemum in my hand,

The poor solitary blossom in this ephemeral state:

Clouds and flowers appear fallen in a forlorn land

Since my sweetheart and me are already separate.

The old lover used a purple tie to bind her hair rap;

Her violet dress suddenly caused spring to frown;

The poem-woven conical hat with purple silk strap

And the pagoda purple tansies imbrued the sundown.

So vast was my fancy addiction to this flower kind!

Alas, time has passed further and further, it by rolled.

The fragrance excites the recollections in my mind.

Which hue could replace my chrysanthemum of old?

Translation by THANH-THANH




(thơ song ngữ) NHỚ ƠI của CAO NGUYÊN & THANH-THANH




THƠ SONG NGỮ Anh & Việt – Cao Mỵ Nhân & Thanh Thanh

CÚC CỐ NHÂN           

Anh về, yêu lại màu hoa cúc 

Rực rỡ bình minh lộng lẫy xuân

Cúc đỏ, cúc vàng chen chúc nở     

Phương trời như thiếu cúc tri âm

Anh giữ trên tay hoa cúc trắng      

Một cành đơn độc giữa phù vân    

Mây, hoa cùng thấy lòng hoang vắng

Từ thưở người đi đã cách ngăn      

Cố nhân cột tóc bằng nơ tím  

Áo tím làm xuân chợt thoáng buồn

Chiếc nón bài thơ quai lụa tím              

Hiên chùa cúc tím nhuộm hoàng hôn    

Ảo giác say hoa xưa bát ngát         

Chao ôi, ngày tháng cứ xa dần              

Hương gây mùi nhớ, thơm ngào ngạt    

Thanh sắc nào thay cúc cố nhân            

                       CAO MỴ NHÂN   

      OLD CHRYSANTHEMUM

Back home, I resume my love of chrysanthemums.

Red tansies, yellow tansies, do bloom as a whole

With their colors so radiant as when spring comes;

But this place seems to lack the flower of my soul.

I hold a white nice chrysanthemum in my hand,

The poor solitary blossom in this ephemeral state:

Clouds and flowers appear fallen in a forlorn land

Since my sweetheart and me are already separate.

The old lover used a purple tie to bind her hair rap;

Her violet dress suddenly caused spring to frown;

The poem-woven conical hat with purple silk strap

And the pagoda purple tansies imbrued the sundown.

So vast was my fancy addiction to this flower kind!

Alas, time has passed further and further, it by rolled.

The fragrance excites the recollections in my mind.

Which hue could replace my chrysanthemum of old?

Translation by THANH-THANH




THƠ Song Ngữ Việt + Anh “CÂY MÙA THU VỚI NGƯỜI” Hùynh Mai Hoa &Thanh Thanh

CÂY MÙA THU VỚI NGƯỜI

Cây đã sống qua mùa đông rét mướt

Hứng tuyết sương nuôi cành mới đâm chồi

Trong âm thầm nắn nót nụ hoa tươi

chờ dâng hiến cho đời bao sắc thắm

Cây đã sống qua muà xuân êm ấm

Ðón nắng hồng tô màu lá thêm xanh

Ðón gió đưa nhè nhẹ lá ru cành

Cành với lá nâng niu chùm hoa nở

Cây đã sống qua muà hè nắng đổ

Chở hạ vàng trên thân nám da khô

Vẫn hoài mong cho trái chín ai chờ

Trái ngọt mát dù thân cây cằn cỗi

Cây đã sống qua mấy muà thay đổi

Xuân có vui và Ðông có lạnh lùng

Giữa hạ nồng cây có khát hay không?

Khi đã vắt cho đời bao giọt nước

Cây có mỏi, nên khi hè vừa bước

Thu vội về để nhận lá vàng rơi

Thu ru cây ngủ giấc chết bên đời

Tìm nhựa sống mong ngày hồi sinh mới

Người nhìn cây có bao giờ tự hỏi

Cây với người ai gian khổ hơn ai?

Lá trên cây còn có những lần thay

Người trọn kiếp được mấy lần ngơi nghỉ

Nếu người được muà thu ru giấc ngủ

Rũ nhọc nhằn năm tháng bám trên vai

Người sẽ đi không ngại quãng đường dài

Ðể làm lại những gì còn đổ vỡ.

                    HUỲNH MAI HOA

AUTUMN TREES AND HUMANS

Trees have passed through the cold winter,

To nourish budding branches, receiving mist and snow.

In silence they create fresh flowers

To offer life so many beautiful colors to glow.

Trees have experienced the warm spring,

Welcoming rosy sunlight greener leaves to render,

Hosting the wind to softly lull the boughs

As twigs and blades cosset the blooms’ splendor.

Trees have subsisted through the sand season,

Bearing summer on trunks tanned and barks dry,

Still waiting for ripe fruits so long longed for,

The fresh sweet produce, being stunted to defy.

Trees have survived so many changing periods,

Feeling merry in spring and numbed in cold.

Do trees suffer thirst in sultry summer

After dripping for life so many drops of water gold?

Do trees sense fatigue so when summer just left

Autumn hurries back to accept falling yellow leaves?

Autumn lulls trees to a deadly sleep on the sidelines,

Awaited resuscitation, to seek for sap that achieves.

Have humans, looking at trees, ever wondered:

Trees or humans are to endure more displeasure?

Leaves on trees can be changed many times;

How many times may humans all life rest at leisure?

If humans were lulled by autumn to sleep

To cast off their shoulders what has been downbeat,

They would advance up in spite of long distances

To perfect everything that is still incomplete.

Translation by THANH-THANH

PoemsBySelectedVietnamese

Vietnamese Choice Poems

Dragon & Fairy in Poetry




RIU ĐƠ (REALTOR)

 RIU ĐƠ (REALTOR)

Người ta mua+bán cho người ta,

Mình chỉ trung-gian giới-thiệu nhà;

Tốt xấu, miễn mình rao bán được,

Hoa-hồng là đủ, nghĩ gì xa?

Trẻ-trung mơ một túp lều tranh,

Hai trái tim non, giấc mộng lành.

(Ảo-tưởng ngây-ngô mà chiếm ngự

Hồn mình cả một quãng ngày xanh!).

Lớn lên ước có ngôi nhà đẹp

Với đủ tiện-nghi khỏe mọi đường.

(Tổ ấm gia-đình mà ổn-định

Thì đời như đã khá lên hương!).

(Mặc cho khuyết-điểm nhà thiên-hạ

Mình thấy mà lơ hoặc cãi thông,

Thuyết-phục khách hàng — đâu dối gạt?

Cốt sao bán được mới thành-công!)

Thế nhưng, chủ mới thì khoan-khoái,

Thỏa-mãn sau khi tậu được nhà;

Mình lại khôn nguôi cơn bứt-rứt:

Ngày đêm so-sánh với người ta!

Này ngôi biệt-thự trên đồi trúc,

Gió mát, trăng thanh, cảnh tịnh nhàn.

(Khác hẳn nhà mình, khu thị-tứ:

Bốn bề náo-nhiệt, trí khôn an!)

Này tòa nhà mới bên xa-lộ,

Tiện việc giao-thông, phát-triển nghề.

(Khác hẳn nhà mình, vùng phụ-cận:

Tàu, xe, trường, chợ, khó tư bề!)

Kiểu xưa, kiểu mới, kiểu trung-dung,

Nào mốt Âu Tây, nếp Á Đông,

Thêm những tân-trang đầy sáng-tạo

Mỗi nơi đôi nét, tuyệt vô cùng.

Mỗi ngày mỗi thấy thêm nhà mới

Ưng ý làm sao, hấp-dẫn sao!

Ngó lại nhà mình: xưa lý-tưởng,

Nay lòng bỗng gợn chút nao nao.

Ôi nhà, ôi cửa, ôi vườn tược,

Chắt bóp bao lâu mới có mày;

Song bởi sống rành ngành địa-ốc

Nên mày xuống giá, phụ-phàng thay!

THANH-THANH




THƠ SONG NGỮ: Món Quà Vu Lan – Mạc Phương Đình & Thanh Thanh




Thơ YÊU EM và XIN ĐỔI KIẾP NÀY




Cảm Tạ Hoa Kỳ

Thơ Thanh Thanh

CẢM-TẠ HOA-KỲ

Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ đã cứu chúng tôi
Thoát quỷ dữ cướp Quyền Người, Quyền Sống.
Trên quê cũ, chúng trù nòi, dập giống,
Dù trí-thức, bình-dân, cách-mạng, tu-hành.

Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ về bài học phân-ranh
Giữa quân-lực với quyền-hành chính-trị.
Nước cũ chúng tôi, nằm trong tay vũ-bị,
Dị-ứng độc-tài nên cơ-cấu khuynh-vong.

Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ về gương sáng nêu chung,
Phân-lập rõ giữa giáo-quyền, chính-sự.
Dân cũ chúng tôi bị khuôn rào trí-lự,
Giáo-sĩ độc-tôn nên sự-nghiệp suy-đồi.

Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ đã hiến sẵn sinh-môi
Cho thể-xác lẫn tinh-thần phát-triển.
Dân nước chúng tôi mất tự-do thể-hiện
Quyền làm ăn, suy nghĩ, phát-biểu, an-sinh.

Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ đã nuôi dưỡng Niềm Tin
Về một Tương-Lai phục-hồi chân-giá-trị
Cho Quê Mẹ chúng tôi rỡ-ràng địa-vị
Trên mặt địa-cầu ai nấy góp công xây…

                                          THANH-THANH

THANK YOU, AMERICA!

Thank you, America! for rescuing us from hell,
Humble humans deprived of all rights to life.
In our old country our enemies cruelly quell
Laborers, intellects, revolutionaries, monks alike.

Thank you, America! for teaching us systematism
By which military is only a part of attribution.
In our late republic existed militarism
Causing dictatorship to erode the constitution.

Thank you, America! for the example to settle
The difference between politics and religion.
In our poor nation the priests did meddle
In worldly powers, and it was mutual demolition.

Thank you, America! for granting us medium
To develop our bodies and expand our minds.
In our left-behind state there is no freedom
To work and enjoy, think and express any kinds.

Thank you, America! for nursing us deep hope
For a near future we can True Virtue attain
So that our Motherland emerge on the globe,
Our People, with your help, Man’s Value regain.

                                        THANH-THANH

                           (Poems by Selected Vietnamese)

ThiNhanVietNam

PoetFromVietNam

Vietnamese Choice Poems




Bài Thơ Cuối Cùng

Huyền Chi – Thanh Thanh




KHI TÔI CHẾT – THANH THANH Dịch Thơ Tràm Cà Mau: WHEN I HAVE DIED

TRÀM CÀ MAU & THANH-THANH




Khóc Cha

Thơ Vũ Uyên Giang

Thanh Thanh chuyển dịch

KHÓC CHA                              

Trời mùa đông tâm hồn con giá lạnh             

Con về đây nhưng cha đã đi rồi!                   

Không bao giờ còn thấy mặt cha tôi              

Bao giọt lệ trào dâng trong khóe mắt            

Lòng nghẹn ngào nhói đau như dao cắt         

Chỉ vài ngày con đã mất cha yêu.                  

ngày xưa, cha nghiêm khắc rất nhiều            

Vì mong muốn con nên người hữu dụng       

Công ơn cha như trời cao bể rộng         

Như suối nguồn tuôn chảy mãi không ngừng          

Nhớ nụ cười và khuôn mặt bao dung            

Ôi tiếng nói ôn tồn khi giáo dục                    

Nhớ cả những ngọn roi vì lười học       

Bởi ham vui với bè bạn gần nhà…        

Biết làm sao kể lại hết tình cha?                    

Giọt nước mắt lăn dài trên gò má                  

Ngày hôm nay con không còn cha nữa         

Tìm đâu ra hình bóng của cha tôi???             

                             VŨ UYÊN GIANG    

HOT TEARS FOR DAD

The world is in winter but colder is my inner heart;

Here I do return but from this life Dad did depart.

From now on I cannot see any longer my father’s shine;

How to stop from my eyes the stream of fervid brine!

My inside shoots as if cut by knives, the stings gather;

Only in a few days I have lost my beloved father!

I reminisce the old days you were so formidable

Just because you wanted me to become serviceable.

Your immense merit was like high sky, vast ocean,

Your watercourse of love never ceased its motion.  

How I recall your merciful smile and generous face,

Temperate voice when educating me in each case.

I even remember the rod to your good will to bend

For being work-shy festal with a neighboring friend…

Of your bosom I can’t find any word that fully speaks;

Drops of choler are rolling down on my hollow cheeks.

From now on I do not have any more my dear Dad;

Where on earth can I find my father’s image  So sad!

                                Translation by THANH-THANH

Thanh-Thanh

Cơn Ác-Mộng

Với Thượng-Đế

Bảy Mươi Năm Làm Thơ

Vietnamese Choice Poems




KHÔNG-TẶC TIÊU KHÁNH NHA

Ngày 15-7-1981, tù “Ngụy” Lê Xuân Nhuận (người làm thơ, với bút-danh Thanh-Thanh) được đưa từ Đà-Nẵng ra Hà-Nội, bằng phi-cơ. Thấy các biện-pháp an-ninh nên liên-tưởng đến các vụ “không-tặc” trước và sau 1975, Thanh-Thanh đã làm bài thơ “Hà-Nội” trong đó có đề-cập đến một phi-công Việt-Cộng tên Tiêu Khánh Nha, mà tin-tức nghe lén trong các trại “cải tạo” cho là đã cướp phi-cơ bay thoát khỏi Việt-Nam.

Nay được đọc bài “Cướp máy bay quân sự C130 để vượt biên”của Hòa Ái, thuộc Đài RFA (dưới đây) mới biết thêm nhiều chi-tiết liên-quan.

Đây là bài thơ “Hà-Nội” của Thanh-Thanh, in trong tập “Cơn Ác-Mộng” do nhà “Xây-Dựng” xuất-bản năm 1998:

                HÀ-NỘI

Tôi vốn mơ đi khắp nẻo đường

Thăm từng thắng-tích của quê-hương;

Nhưng, từ giới-tuyến1 qua rào trại2,

Tôi khó mong ngày tới Bắc-phương.

1 Vĩ-tuyến 17 (1954-75) phân chia hai Miền Bắc/Nam.

2 Các trại tập-trung “cải-tạo”.

Ấy thế mà tôi bỗng được đi

Ra ngay Hà-Nội – đất “Kinh-Kỳ”

Thoả niềm ao-ước từ thơ-bé,

Tận mắt trông nhìn những biến-di.

Này, chiếc phi-cơ hai quạt quay:

Nhanh năm trăm, và cao năm cây;

Ghế ngồi gọn hẹp kê liền sát;

Người Việt, người Âu, khách đủ đầy.

Chiêu-đãi hai cô nữ-tiếp-viên:

Tóc trần, ống nhựa quấn hai bên,

Vét-can màu trắng, cầu-vai ngược;

Kiến-thức nông+non, sượng dáng-duyên.

Một lát dưa leo, hai miếng ram;

Chả heo nửa lát, lát mì lam;

Chuối chưa chín tới; đường chê bánh;

Trà nhạt… mà ai cũng thoả đàm!

Những vụ An, Trung, Nha, Sơn, Bình3

Bận lòng “chiêu-đãi” lẫn “an-ninh”.

Tôi cười trong bụng:  ngày xưa ấy,

Những Viết và Tân4 đã quấy mình!

 3 Sau Tháng Tư Đen 1975:

      *Vũ Hoàng An, nguyên đại-uý QLVNCH, cướp phi-cơ Việt-Cộng tại Đà-Nẵng, bất-thành, bị xử tử.

      *Có tin đồn Nguyễn Thành Trung (cựu trung-uý phi-công VNCH, đem phi-cơ theo VC trước 30-04-75) đã cướp phi-cơ thoát khỏi Việt-Nam.

      *Tiêu Khánh Nha, thiếu-tá phi-công VC, gốc Hoa, cướp phi-cơ bay thoát VC nên khỏi bị chúng thanh-trừng sau vụ Hoa-Cộng tấn-công 1979.

      *Sơn và Bình là hai trung-uý phi-công VC, thuộc một tổ-chức “bạo-loạn”, cướp trực-thăng bay qua Hoa-Cộng.

 4 Trước 1975:

      *Nguyễn Cửu Viết toan cướp phi-cơ Air Vietnam, đã nổ một chiếc Dakota tại phi-trường Phú-Bài, Huế.

      *Lê Đức Tân toan cướp phi-cơ Air Vietnam, đã nổ một chiếc Boeing gần phi-trường Bửu-Sơn, Ninh-Thuận.

      Cả hai chỉ là phần-tử bất-mãn, không phải VC (cf hồi-ký “Về Vùng Chiến-Tuyến” của Lê Xuân Nhuận).

Hà-Nội đây rồi: dưới nắng trưa,

Sông Hồng đỏ đục nước nguồn mưa;

Quanh nhà đất thấp, vườn ngâm nước;

Tường+mái rêu phong nét cổ xưa.

Mấy chiếc hai hay ba quạt quay

Cong đuôi nằm nghỉ cuối sân bay,

Làm như nhớ thuở chồm lưng địch

Bắt bê-năm-hai hạ xuống đây!5

VC tuyên-truyền:  chúng bay cao hơn B-52, nhảy xuống trên lưng B-52, dùng dao-găm nạy cửa-sổ chui vào, chĩa súng-lục bắt phi-công Mỹ đáp xuống sân bay Gia-Lâm; thế là chúng đã nhiều lần “bắt sống” được cả “giặc lái” lẫn B-52 (!) 

Đáp xuống Gia-Lâm, thấy bán-khai:

Tiếng Anh hai bảng cả hai sai6;

Nhà-ga cũ-kỹ từ Tây-thuộc;

Vắng xưởng, im kho, lặng-lẽ đài.

6 Xem Chương “Sân Bay Gia-Lâm” trong cuốn hồi-ký “Cảnh-Sát-Hoá, Quốc-Sách Yểu-Tử của Việt-Nam Cộng-Hoà” của Lê Xuân Nhuận.

Chẳng tiễn-đưa đi, chẳng đón về;

Phi-công, hành-khách: dép mòn lê.
Đầu đường dăm chiếc mô-tô Nhật,

“U-Oát”, “Com-Măng”, vài ba xe.

Xế trước, bên kia, khách xúm đông:

Cộng-đồng ăn-uống cửa-hàng công.

Mấy tay Tây-Cộng dùng bia lạnh:

Trộn đá trong thau, múc uống chung.

Vào phố, này đây cầu Long-Biên;

Giữa: đường xe-lửa; xe: hai bên.

Qua cầu: xe chạy đường bên trái;

Mỗi nhịp cầu rung: răng lão-niên!

Xe đẹp Miền Nam: của “ngoại-giao”!

“Công-trường”, “vận-tải”: của cần-lao!

Xích-lô, xe đạp; xe bò; ngựa;

Gánh, vác, khiêng, mang, kéo, đẩy nhau.

Không “vét”; không giày; không áo hoa,

Dây chuyền, vòng, nhẫn, nơ, trâm, thoa!

Mọi người tất-tả lo làm-lụng;

Sự sống… gian-nan… hiển-hiện ra.

Chẳng khải-hoàn-môn, kỷ-niêm-đài,

Cờ, hoa, tranh, ảnh, tượng, toà, ngai,

Bích-chương, biểu-ngữ, loa, chiêng, trống

(Tội-nghiệp “Đàng Trong” tưởng “Miệt Ngoài”…)!

Vách, mái lâu năm… nứt, dột rồi!

Tróc sơn bảng hiệu, ố màu vôi!

Có nhà xiêu, vẹo: người còn ở

(Nhiều mái: tranh, rơm, mo, lá thôi)!

Hoa chẳng bồn chăm; nhãn chẳng lồng;

Nước vòi đỏ đục tự nguồn sông;

Cá: nguyên vi, vảy, kho không mỡ;

Rau muống quê chàng, có phải không?

Nóng bức, môi khô, mắt đổ quàng;

Inh tai, nhức óc tiếng đài vang;

Bỗng như điện chạm, da-gà nổi:

Có tiếng buồng bên hát “nhạc vàng”!

Có cái gì như ứ nghẹn hơi;

Mây vây, khí uất tự lưng trời…

Người ta chờ đợi cơn giông tới…

Hà-Nội trân mình – Hà-Nội ơi!

Tôi ngó trừng-trừng miếng bánh khô:

Kiến Nam lơ lảng, Bắc chui vô!

– Hôm nay có một tên tù “Ngụy”

Tới “thủ-đô” mà… tiếc “thủ-đô”!

        Trại Thanh-Liệt (Hà-Nội) 15-7-1981

                           THANH-THANH

================================

Cướp máy bay quân sự C130 để vượt biên – Hòa Ái, RFA

Vào ngày 24/11/1979, một cuộc không tặc máy bay quân sự C130 vô tiền khoán hậu tại sân bay Tân Sơn Nhất của một nhóm 13 người trốn chạy khỏi VN gây chấn động thế giới. Họ là ai? Cuộc vượt biên bằng máy bay này ra sao? Ông Trương Văn Ẩm, người lên kế hoạch cuộc không tặc kể lại câu chuyện sau 36 năm:

“Không có động cơ nào hết bởi vì năm 1975 tôi đã sắp xếp đầy đủ, sẵn sàng chỗ máy bay cho ông già bà già, cho vợ con đi mà cuối cùng bà già với anh em cương quyết không đi. Tôi không đi được thì tôi nghĩ không bao giờ đi nữa”.

Ông Trương Văn Ẩm, một nhân viên trong ngành kỹ thuật hàng không làm việc tại sân bay Tân Sơn Nhất, được giữ lại trong Cục Kỹ thuật Không quân sau năm 1975 bắt đầu câu chuyện kể của mình qua câu hỏi của Hòa Ái rằng động cơ nào khiến ông đi đến quyết định trở thành một tên không tặc đối với chính phủ VN lúc bấy giờ.

Tuy cuộc sống của ông và gia đình không còn được sung túc như thời VNCH nhưng vẫn tốt sau khi Sài Gòn đổi tên thành TP. HCM. Ông Ẩm không hề manh nha nghĩ đến một cuộc ra đi nào sau khi cả gia đình quyết định ở lại VN. Thế nhưng, một chuyến công tác ra Hà Nội đầu tiên và cũng là cuối cùng đã tác động ít nhiều đến cuộc không tặc định mệnh trong cuộc đời ông:

“Đùng một cái vào ngày mùng 2 tháng 9, lễ Quốc khánh năm 1979, tối đang ở nhà coi ti vi với bà con lối xóm thì ông thủ trưởng lái xe jeep ra, đi với mấy người lính, nói với tôi rằng anh có lệnh phải đi công tác Hà Nội. Từ hồi mất nước khi tôi ở lại dù có yêu cầu đi Hà Nội mấy lần nhưng tôi không muốn đi. Không biết tại sao động lực nào xui khiến lần này tôi đi liền. Nhiệm vụ của tôi, thứ nhất là tôi phải coi một chiếc máy bay C30 bị hư lâu rồi mà không sửa được. Nhiệm vụ thứ hai là tôi phải vào Cục Kỹ thuật Không quân, thuộc Bộ Tư lệnh Không quân để thuyết trình những hoạt động máy bay của Mỹ trong này cho mấy ông lớn ngoài đó nghe. Tôi ra Hà Nội, tôi coi thì chiếc máy bay không bị hư hỏng nặng, chỉ bị hư nhẹ thôi nhưng vì mấy người không có kinh nghiệm. Tôi lên coi máy, tôi hỏi rồi tôi chỉ anh em làm có nửa tiếng đồng hồ xong”.

Nhiệm vụ thứ nhất đã hoàn thành nhanh chóng và đến giờ vào Cục Kỹ thuật để thuyết trình. Thế nhưng bức tranh về xã hội miền Bắc dưới chế độ Cộng sản lần lần được hiện ra rõ nét trong tâm tưởng ông Trương Văn Ẩm. Bắt đầu từ giây phút ông bị anh lính gác cổng không cho vào thuyết trình vì cách ăn mặc miền Nam không đúng theo tiêu chuẩn quy định cho đến Thượng úy trực ban cũng không thể can thiệp cho vào để ông làm tròn nhiệm vụ thứ 2 được giao. Vì nguyên nhân này mà ông Ẩm có thời gian tham quan Hà Nội, được tận mắt thấy cảnh đời sống thường nhật của người dân Hà thành, kể cả những trí thức trở về từ các nước Đông Âu.

Do thời tiết bị bão, không có máy bay về lại miền Nam, ông Trương Văn Ẩm quyết định về thăm cố hương Thái Bình, nơi ông di cư từ hồi 8, 9 tuổi. Họ hàng gần xa đều đến đông đủ tay bắt mặt mừng. Trong thời gian 3 ngày thăm viếng, lời khuyên ngắn gọn của người cậu ruột ám ảnh ông Trương Văn Ẩm:

“Cậu tôi nói là tôi phải đi, không được ở lại. ‘Bởi vì mày ở lại mai mốt cũng về cuốc đất. Nó chỉ sử dụng mày một thời gian thôi đến khi nào nó biết hết’”.

Rồi buổi gặp mặt tình cờ với phi công Tiêu Khánh Nha đã khiến ông Trương Văn Ẩm đi đến quyết định cho một chuyến vượt biên bằng máy bay quân sự sau khi nghe chia sẻ của Thượng úy “chế độ mới” này:

“Ông nói cái vụ chiến tranh biên giới năm 1978, tôi mang họ Tiêu, nó nói tôi gốc Tàu mà tôi có biết ông cố nội tôi có phải Tàu không. Nhưng bây giờ nó muốn hất tôi ra khỏi sân bay, không cho tôi được phép đi tới gần máy bay, chờ nó cho về vườn thôi”.

Kế hoạch cho một cuộc vượt thoát bằng cách cướp chiếc máy bay quân sự C130 đang được ông Ẩm phụ trách sửa chữa ở sân bay Tân Sơn Nhất được lập ra chớp nhoáng. Mọi dự trù về xăng nhớt, an ninh, phòng không đều được bàn tính chi ly chỉ vỏn vẹn trong 3 ngày.

“Nếu đi đúng giờ giấc thì mình cất cánh rồi thì F5 Biên Hòa chưa cất cánh. Lý do khi nghe báo động dưới này thì phải gọi lên phòng tác chiến trên đó. Phòng tác chiến phải kiểm tra tới, kiểm tra lui. Đúng thì mới ra lệnh xuống Phòng hành quân và Phòng hành quân mới ra lệnh cho phi công ra máy bay thì mất khoảng 10 đến 15 phút. Thời gian nói chuyện với nhau cũng mất 5,10 phút rồi. Khoảng 25 đến 30 phút máy bay mới cất cánh được mà mình cất cánh 15 phút thì đã mất tiêu rồi”.

Kế hoạch bị trì hoãn, thay vì xuất phát vào giờ G ngày thứ Tư thì mãi đến giờ cơm trưa ngày thứ Bảy, nhóm người trong tổ nhân viên kỹ thuật hàng không của ông Ẩm và 1 bộ đội canh gác máy bay trên mặt đất bị khống chế bắt đầu giây phút trở thành không tặc:

“Khoảng 11 giờ bắt đầu tôi cho anh em quay máy. Khi vừa quay máy được chút xíu, khoảng 5 phút thì có 2 anh bộ đội kéo một chiếc máy bay loại C119 đi ngang ‘taxi way’(đường di chuyển nội bộ trong khu vực sân bay), dừng lại ngay giữa đường, đứng đó là mình không bay ra vô được nữa. Chiếc máy bay đó lớn lắm”.

Theo kế hoạch, vợ chồng và 2 đứa con nhỏ của phi công Tiêu Khánh Nha sẽ xé hàng rào chạy vào sau khi nghe tiếng 4 động cơ chiếc C130 được khởi động. Nếu trục trặc xảy ra thì các động cơ sẽ bị tắt. Đây là tín hiệu cho gia đình phi công này không được di chuyển tiếp cận máy bay. Do bị chiếc C119 chắn ngang, 4 động cơ bị tắt trong khi ông Ẩm đang cố gắng tìm cách giải quyết thì phi công Tiêu Khánh Nha không làm theo kế hoạch:

“Ông Nha nóng ruột, chung hàng rào chạy vô. Ông cứ hỏi, tôi nói anh cứ đi ra đi, ăn cơm xong rồi liên lạc sau. Anh đi ra khỏi đây đi. An ninh, Bảo vệ mà thấy anh với tôi nói chuyện là phiền phức”.

Sau đó không lâu, mọi việc suôn sẻ:

“Tôi sắp xếp xong đàng hoàng thì quay máy khoảng 5 phút sau, nhìn ra phía hàng rào vẫn không thấy gia đình ông Nha đâu hết”.

Trong giây phút căng thẳng không thấy gia đình phi công Tiêu Khánh Nha xuất hiện thì 1 bộ đội chạy đến khiến mọi người chết đứng. Hóa ra là người trong gia đình phi công Nha “ăn theo”, mặc đồ lính, xé rào chạy về hướng máy bay. Cuối cùng 13 người có mặt trong phi hành đoàn bất đắc dĩ và chiếc C130 bắt đầu lăn bánh sau 2 giờ chiều ngày 24/11/1979.

“Vừa lái thẳng chiếc máy bay tới ngang Ga Hàng không Việt Nam, chỗ Đài kiểm soát là tống ga cất cánh lên liền quẹo về hướng Cát Lái. Lúc đầu định đi qua Biên Hòa rồi đi thẳng ra Vũng Tàu nhưng phút chót lại đổi ý. Khi cất cánh lên được rồi thì bay về hướng Thủ Thiêm. Bay khoảng 10 phút là chúng tôi thấy biển đến Vũng Tàu là bắt đầu lên cao. Anh em mừng ôm nhau khóc. Chúng tôi khóc trong máy bay vậy đó”.

Dường như kế hoạch được trót lọt, không gặp trở ngại nào từ lực lượng phòng không VN. Thế nhưng, thời tiết buổi chiều ngày thứ Bảy định mệnh là một thách thức cho nhóm không tặc bao gồm 2 trẻ em:

“La bàn thì không có, bị hư. Bản đồ không có. Chúng tôi theo cách hồi xưa được học địa lý, ra bờ biển Vũng Tàu thì theo bờ biển đi thôi. Trời xấu quá, tối và mưa nên phải bay lên cao. Bay lên cao khoảng 5,7, 10 phút lại xuống. Xuống lần thứ 4 thì chúng tôi thấy cái mỏm của Malaysia. Qua Malaysia thì sẽ đến Singapore. Chúng tôi học địa lý, chúng tôi biết. Bay khoảng 10 phút thì lên lại. Xuống trở lại thì thấy cảng của Singapore đèn đuốc sáng. Chúng tôi nói đúng Singapore phía trước rồi”.

Cất cánh được êm xuôi. Thế hạ cánh thì thế nào:

“Chúng tôi bật liên lạc. Chúng tôi không có tần số nên liên lạc không được. Không có ai trả lời hết thành ra chúng tôi phải đáp bằng tín hiệu gọi là MCC quốc tế. Chúng tôi lắc cánh 3 lần. Bật đèn xanh chớp rồi lắc cánh 3 lần. Khi lắc cánh 3 lần thì chúng tôi nhìn thấy Đài Kiểm soát của sân bay Singapore chớp đèn đỏ. Như vậy đã nhận được tín hiệu của mình nhưng đèn đỏ là không được đáp”.

Và chiếc C130 đáp xuống sân bay Singapore một cách an toàn. Mọi người được yêu cầu chờ trên máy bay, được cung cấp thức ăn và được chở đi vệ sinh. Sau vài giờ đồng hồ, cảnh sát Singapore nói rằng sẽ cho máy bay dẫn đường bay qua Philippines. Đoàn người nhất quyết không đồng ý và khẩn thiết xin được gặp nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Singapore.

Nhóm 13 người được giữ lại Singapore. Ngày Chủ Nhật hôm sau được làm việc với cảnh sát của đảo quốc Sư Tử. 2 ngày kế tiếp được gặp nhân viên Hoa Kỳ:

“Trong ngày khai báo thứ Hai và thứ Ba, có một ông Mỹ là Đại úy. Ông nói thẳng ông là CIA. Ông nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt Nam như người Việt Nam vậy. Ông nói chào mừng chúng tôi. Ông nói rằng ‘mấy anh đi làm náo loạn không những Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, mà náo loạn cả nước Mỹ và thế giới. Chúng tôi nhận các anh nhưng chúng tôi không tin tưởng bởi chúng tôi còn đặt nghi vấn có chuyện sắp xếp của Việt Cộng cho các anh đi. Thành ra tôi đang ở Đức nhưng được lệnh về gấp gặp các anh”.

Kết quả là cả 13 người được quy chế tị nạn chính trị và sẽ được định cư ở Hoa Kỳ. Trả lời câu hỏi “mọi người mong muốn điều gì sau khi nhận được kết quả này”, ông Trương Văn Ẩm ước ao được đặt chân đến Mỹ trước ngày Noel sắp đến. Điều mong ước tưởng chừng không tưởng ấy được đáp ứng. Trong khi mọi người hài lòng với món quà một bộ đồ và đôi giày ba-ta mới chuẩn bị lên đường qua Mỹ đón Noel chỉ trong vòng 1 tuần thì người bộ đội “con tin” lại xin được quay về VN. Dù mọi người khuyên can thế nào thì anh lính cụ Hồ vẫn không thay đổi quyết định:

“Nó khóc lóc nói ba em già 70 tuổi, nếu cho em về nhìn ba em một cái rồi chết cũng được”.

Như hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do, 12 người này đã trở thành không tặc để đi tìm sự sống trong cái chết. Nhà nước CHXHCNVN mở phiên tòa xét xử khiếm diện, tuyên án tử hình đối với Thượng úy phi công Tiêu Khánh Nha, ông Trương Văn Ẩm và những người còn lại bị tuyên từ 20 đến 35 năm tù giam.

Cuộc đời mới ở Hoa Kỳ của 12 người thoắt đó đã 36 năm với nhiều đổi thay. Sau khi đến Mỹ không lâu, 1 người trong nhóm bị bạo bệnh. Tro cốt của người này được gửi về cho gia đình qua đường bưu điện. Thế nhưng tên họ của người đã khuất mang “tội phản quốc” nên bị gửi trả ngược lại Hoa Kỳ. Trong mấy năm qua, 1 thành viên khác trong nhóm trở về VN lại được chào đón như một Việt kiều yêu nước.

Riêng người chủ mưu cuộc không tặc vô tiền khoán hậu, ông Trương Văn Ẩm vẫn kiên định tư tưởng “Tôi chỉ về khi nào không Cộng sản. Còn Cộng sản thì không bao giờ tôi về”, đồng thời vẫn luôn thăm hỏi tông tích của người bộ đội tên Tạo dù đến nay vẫn chưa có manh mối nào. Trong những phút giây bất chợt nhớ về lần vượt thoát, lẫn trong âm thanh văng vẳng tiếng động cơ và cánh quạt của chiếc C130, còn có tiếng khóc nghẹn ngào đòi trở về VN của anh Tạo. Và ông Ẩm tự hỏi “liệu rằng sau bao vật đổi sao dời, người lính trẻ có còn giữ vững lập trường của mình hay chăng?”.

Hòa Ái, phóng viên RFA

Xin đừng send, reply, forward đến địa-chỉ email này. Cám ơn.

Thanh-Thanh@Thanh-Thanh.com




CON LÀ CON MÈO TRẠNG QUỲNH CỦA MẠ

Con Là Con Mèo Trạng Quỳnh Của Mạ            

Mạ sinh con đang lúc nhà nghèo khó
Một phần cơm, khoai sắn độn hai phần
Thuở ấu thời, mắm cà cùng muối đậu
Con đã quen ngon miệng món nhà bần.

Lúc mớ rạm ngoài đồng đem ram muối
Muà nước lên con bống thệ kho khô
Những chột nưa mạ nấu cùng tí ruốc
Rau tập tàng vị ngọt những ngày thơ.

 
Đọi rau khoai ngọt ngào con tôm đất
Hũ tép chua có những lát măng vòi
Bánh tráng nướng còn thơm mùi mít trộn
Những món quen con vẫn nhớ trọn đời.

Ngày mưa bão, trên mâm thường trứng luộc
Trưa mùa hè, nước rau muống thay canh
Chút dưa, muối cũng vội vàng xong bữa
Sao mạ hay – ngồi ăn cuối một mình.

Con là con mèo Trạng Quỳnh cuả mạ
Đã phận quen ăn những món ăn nghèo
Trước những mâm đầy sơn hào hải vị
Con dửng dưng như đứa trẻ quen chiều.

Giờ con đã xa nửa vòng trái đất
Biết khi mô mới trở gót quay về
Trên bếp lưả chụm rơm chiều khói tỏa
Con cá cơm mạ nấu bữa canh me.
 
Cho ấm áp thêm cuộc đời trống lạnh
Hạnh phúc này xoa diụ tấm lòng con
Khi hơi toả thơm ngát mùi gạo mới
Trên tay con, miếng cơm cháy thơm dòn.
 
Con, đứa trẻ lạc loài trên xứ lạ
Đang quay cuồng theo cơm áo, ngựa xe
Mà thương mạ vẫn thường hay tựa cửa
Bên mâm cơm, vắng bóng đứa con về.  
 
                              Huy Phương

Mama, I Am Your Self-Contented Cat

                 

You gave birth to me while being destitute:

Potato or cassava doubling rice each meal to suit.

Salted egg-plants and peanuts since childhood,

I had got accustomed to the poor people’s food.

The crabs from the paddy-fields that you fried,

The goby from inundation that you cooked dried,

The chunks of taro you prepared with rousong,

The sundry veg…, that with my youth got along.                                         

The sweet potato buds, with prawns as spices,

The soured shrimps, with bamboo shoot slices,

The grilled pancakes smelling jackfruit, thyme,

The familiar dishes… I remember all my lifetime.

On stormy days, on the salver were boiled eggs;

In summer, water spinach for broth without dregs;

A bit of pickle was enough for a quick repast…

But you Mama always remained alone the last.

Regals are rich, their cats have delicacies to try;

I was Mama’s cat, only meagre dishes did satisfy.

So content with my lot that feasts I did not enjoy,

Indifferent, seeming kittle as a too coshered boy.

Well, now that I have been a hemisphere away,

I do not know when I will come back and stay

There, on the straw fire under smoke you stoop

To cook with anchovies the eve tamarind soup.

So that warmth is added to my empty existence:

Such bliss will appease my heart in this distance,

With the cooking smelling the new harvest rice,

And for me a crisp piece of burned rice as a price.

As a lost young child lonely in a strange land,

Being whirled along means of living’s demand,

I feel so anxious for Mama against the door-case

Or by the food tray always longing to see my face.

Translation by Thanh-Thanh




TẠ ƠN MẸ

TẠ ƠN MẸ

(Viết thay lời những người con gốc Việt

gửi đến các bà mẹ Hoa Kỳ đã dày công dưỡng dục)

Tạ ơn Mẹ, người không cùng huyết thống

Tóc mẹ vàng, da mẹ trắng như mây

Mẹ vớt con từ vực thẳm lưu đày

Nuôi con lớn bằng tình thương máu mủ

Tạ ơn Mẹ vì con mà lam lũ

Ngày qua ngày trong xưởng máy, nhà kho

Làm thêm giờ cho con được ấm no

Đêm lại thức dạy con từng tiếng Mỹ

Khác ngôn ngữ như ngăn thành, cách lũy

Mẹ dỗ con bằng ánh mắt, vòng tay

Mẹ gốc Âu, con gốc Á, khổ thay

Con là nợ, vì đâu mà mẹ gánh!

Mẹ biết con từ quê hương bất hạnh

Có lũ người hung ác tựa sài lang

Nuốt miền Nam bằng nanh vuốt bạo tàn

Đưa cả nước trở lại thời trung cổ

Cũng từ đó con như chim mất tổ

Tuổi còn thơ đã bỏ mẹ, lìa cha

Xuống thuyền đi trong nước mắt nhạt nhòa

Đem tính mạng gửi trên đầu ngọn sóng

Nhờ ơn Mẹ như trời cao biển rộng

Con mới còn sống sót đến ngày nay

Được nên người trên đất nước thứ hai

Niềm hãnh diện cho cả hai dân tộc

Trong hồn con mẹ rạng ngời ánh đuốc

Sáng bập bùng soi mỗi bước con đi

Lời Mẹ hiền con sẽ mãi còn ghi:

“Là dân Mỹ, nhưng đừng quên gốc Việt!”

Dâng lên Mẹ đóa hồng tươi thắm thiết

Chứa tình con từng cánh đỏ yêu thương

Mai con về quì hôn đất quê hương

Càng nhớ đến ngàn công ơn của Mẹ.

VŨ ĐÌNH TRƯỜNG

THANK YOU, MOTHER!

(To American adoptive mothers who heartily fostered children of Vietnamese origin) 

Thank you, my white-skinned golden-haired mother

Who are not of the same bloodline as me or the other

But you fished me out of the abyss a refugee errant,

Adopted and fostered me with the love of a parent.

Thank you for having taken such painstaking jobs

Days after days in warehouses and workshops,

Toiled and moiled extra hours to make me undeterred,

And stayed up late to teach me each English word.

Pushing language difference as a bad barrier aside,

You soothed me with your look warm and arms wide.

You are an Westerner and I an Easterner, how rare,

I was such a heavy debt, you volunteered to bear!

You knew well that I came from that unhappy land

Where there were many a ferocious and fiendish band

Who invaded the South and confined people to cages,

Brought the whole nation back to the Middle Ages.

Since then I had become a nestless nestling in qualm

In childhood to leave Dad and separate from Mom,

I got into the fleeing boat with hot tears dripping wet

Risking my life entrusted to wave crests full of threat.

Thanks to your high-sky and vast-ocean love, my fay,

That I could survive until I can achieve success today

And become a dignified human in this second home,

A pride for both our peoples under the azure dome.

You are so shining in my soul the glittering torchlight

To enlighten each of my steps scintillating in the night.

Your virtuous advice I will always remember of course:

“Be American but don’t forget your Vietnamese source!”

I respectfully offer you this fresh gorgeous bright rose

Suffused with my affection in each red petal to enclose.

On my repatriation kneeling to kiss my native soil soon

I will bear in mind thousandfold your precious boon.

Translation by THANH-THANH




BỐ THƯƠNG YÊU của LINH & THANH-THANH

Inline image



Tưởng Nhớ LÝ TỐNG




(thơ song ngữ) CHÚA PHỤC SINH của NGUYỄN NGUYÊN THANH & THANH-THANH

Inline image



Thung Lũng Hoa Vàng/THE YELLOW FLOWERS VALLEY

THUNG LŨNG HOA VÀNG

Đã tám mùa xuân trên lũng thấp,

Âm thầm theo những bước chân qua.

Hồn tôi chừng mỏi trăm vùi lấp,

Có thấy bao giờ một dáng xưa (?)

Tôi đi giữa phố phường lưu lạc,

Thung lũng Hoa Vàng xanh bóng mây.

Bỗng gặp mùa xuân trong khóe mắt

Cô em ngơ ngác đến nơi này.

Đã mấy năm qua tôi bỏ quên

Trái tim bên dốc đá ưu phiền.

Nắng lên cho đẹp lời âu yếm,

Mỏi mắt ươm tình, say đắm thêm.

Em mang dáng dấp xưa thần thoại,

Chìm đắm trong hương sắc tuyệt vời.

Sóng tóc, tôi mơ miền luyến ái,

Xuân sang len lén giấc yêu người.

Giao thừa tôi có em yêu dấu,

Trong phút linh thiêng của đất trời.

Kỷ niệm đầu năm thành bất tử,

Mong em khỏa lấp một trùng khơi.

Xin tạ ơn em, xõa tóc huyền,

Cho tôi sống lại tuổi xuân êm.

Chợt lòng hoa nở vàng như nắng,

Thung lũng cũng hồng nhân dáng em.

                                QUỐC NAM

THE YELLOW FLOWERS VALLEY

Multiple years had elapsed in this valley.             

I silently pursued the past steps in each alley,

But tired of countless buffetings in my soul

I had never seen any figure in the old role.

While I was drifting in the Yellow Flowers Town

Under the blue sky with clouds at its crown,

Suddenly I met a whole spring in the eyes

Of a beauty wandering herein at her own guise.

For such a sad long time I had forgot and left

My heart somewhere about the steep crag’s cleft.

Now that the sun did rise beautifying the caress,

Lips & peepers sowed love, more passion to bless.

You manifest the manner of a legendary star

To drown me in the wonderful glamour by far.

On your wavy hair I dream of a loving place

In the springtime to ignite the flame of grace.

I have got you, my beloved, this new year’s eve

In the sacred hour that sky and earth conceive.

The souvenir of this prime has become immortal;

Please fill up an entire empty ocean with a chortle.

I wish to thank you, darling, for your black hair

That helps me relive my peaceful youth so fair.

My inner flowers then blossom in the amber sun,

And the valley blushes too as you do – What fun!

Translation by THANH-THANH

Ainsi Disait /Thus Said

Thanh-Thanh.com

LeXuanNhuan.com




Ta Trở Lại Vời Huế – I HAVE RETURNED TO HUE

Inline image



DRAGON & FAIRY IN POETRY

About the Book

This is a new accomplishment by Thanh-Thanh:

One hundred and two English poems and verse translations of pieces by seventy authors living in America, Australia, Belgium, Finland, France, Germany, Norway, and Vietnam.

The author and translator have continued his task already carried out through his former books (“Poems by Selected Vietnamese” and “Vietnamese Choice Poems”) with unfailing enthusiasm and increasing ability.

Xin quý vị click vao hình để đọc.




(thơ song ngữ) THUNG LŨNG HOA VÀNG của QUỐC NAM & THANH-THANH

https://lexuannhuan.tripod.com/ThanhThanh.html

https://lexuannhuan.tripod.com/index.html