THƠ SONG NGỮ: Món Quà Vu Lan – Mạc Phương Đình & Thanh Thanh
Thơ YÊU EM và XIN ĐỔI KIẾP NÀY
Cảm Tạ Hoa Kỳ
Thơ Thanh Thanh
CẢM-TẠ HOA-KỲ
Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ đã cứu chúng tôi Thoát quỷ dữ cướp Quyền Người, Quyền Sống. Trên quê cũ, chúng trù nòi, dập giống, Dù trí-thức, bình-dân, cách-mạng, tu-hành.
Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ về bài học phân-ranh Giữa quân-lực với quyền-hành chính-trị. Nước cũ chúng tôi, nằm trong tay vũ-bị, Dị-ứng độc-tài nên cơ-cấu khuynh-vong.
Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ về gương sáng nêu chung, Phân-lập rõ giữa giáo-quyền, chính-sự. Dân cũ chúng tôi bị khuôn rào trí-lự, Giáo-sĩ độc-tôn nên sự-nghiệp suy-đồi.
Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ đã hiến sẵn sinh-môi Cho thể-xác lẫn tinh-thần phát-triển. Dân nước chúng tôi mất tự-do thể-hiện Quyền làm ăn, suy nghĩ, phát-biểu, an-sinh.
Xin cảm-tạ Hoa-Kỳ đã nuôi dưỡng Niềm Tin Về một Tương-Lai phục-hồi chân-giá-trị Cho Quê Mẹ chúng tôi rỡ-ràng địa-vị Trên mặt địa-cầu ai nấy góp công xây…
Thank you, America! for rescuing us from hell, Humble humans deprived of all rights to life. In our old country our enemies cruelly quell Laborers, intellects, revolutionaries, monks alike.
Thank you, America! for teaching us systematism By which military is only a part of attribution. In our late republic existed militarism Causing dictatorship to erode the constitution.
Thank you, America! for the example to settle The difference between politics and religion. In our poor nation the priests did meddle In worldly powers, and it was mutual demolition.
Thank you, America! for granting us medium To develop our bodies and expand our minds. In our left-behind state there is no freedom To work and enjoy, think and express any kinds.
Thank you, America! for nursing us deep hope For a near future we can True Virtue attain So that our Motherland emerge on the globe, Our People, with your help, Man’s Value regain.
Ngày 15-7-1981, tù “Ngụy” Lê Xuân Nhuận (người làm thơ, với bút-danh Thanh-Thanh) được đưa từ Đà-Nẵng ra Hà-Nội, bằng phi-cơ. Thấy các biện-pháp an-ninh nên liên-tưởng đến các vụ “không-tặc” trước và sau 1975, Thanh-Thanh đã làm bài thơ “Hà-Nội” trong đó có đề-cập đến một phi-công Việt-Cộng tên Tiêu Khánh Nha, mà tin-tức nghe lén trong các trại “cải tạo” cho là đã cướp phi-cơ bay thoát khỏi Việt-Nam.
Nay được đọc bài “Cướp máy bay quân sự C130 để vượt biên”của Hòa Ái, thuộc Đài RFA (dưới đây) mới biết thêm nhiều chi-tiết liên-quan.
Đây là bài thơ “Hà-Nội” của Thanh-Thanh, in trong tập “Cơn Ác-Mộng” do nhà “Xây-Dựng” xuất-bản năm 1998:
HÀ-NỘI
Tôi vốn mơ đi khắp nẻo đường
Thăm từng thắng-tích của quê-hương;
Nhưng, từ giới-tuyến1 qua rào trại2,
Tôi khó mong ngày tới Bắc-phương.
1Vĩ-tuyến 17 (1954-75) phân chia hai Miền Bắc/Nam.
2 Các trại tập-trung “cải-tạo”.
Ấy thế mà tôi bỗng được đi
Ra ngay Hà-Nội – đất “Kinh-Kỳ”
Thoả niềm ao-ước từ thơ-bé,
Tận mắt trông nhìn những biến-di.
Này, chiếc phi-cơ hai quạt quay:
Nhanh năm trăm, và cao năm cây;
Ghế ngồi gọn hẹp kê liền sát;
Người Việt, người Âu, khách đủ đầy.
Chiêu-đãi hai cô nữ-tiếp-viên:
Tóc trần, ống nhựa quấn hai bên,
Vét-can màu trắng, cầu-vai ngược;
Kiến-thức nông+non, sượng dáng-duyên.
Một lát dưa leo, hai miếng ram;
Chả heo nửa lát, lát mì lam;
Chuối chưa chín tới; đường chê bánh;
Trà nhạt… mà ai cũng thoả đàm!
Những vụ An, Trung, Nha, Sơn, Bình3
Bận lòng “chiêu-đãi” lẫn “an-ninh”.
Tôi cười trong bụng: ngày xưa ấy,
Những Viết và Tân4 đã quấy mình!
3Sau Tháng Tư Đen 1975:
*Vũ Hoàng An, nguyên đại-uý QLVNCH, cướp phi-cơ Việt-Cộng tại Đà-Nẵng, bất-thành, bị xử tử.
*Có tin đồn Nguyễn Thành Trung (cựu trung-uý phi-công VNCH, đem phi-cơ theo VC trước 30-04-75) đã cướp phi-cơ thoát khỏi Việt-Nam.
*Tiêu Khánh Nha, thiếu-tá phi-công VC, gốc Hoa, cướp phi-cơ bay thoát VC nên khỏi bị chúng thanh-trừng sau vụ Hoa-Cộng tấn-công 1979.
*Sơn và Bình là hai trung-uý phi-công VC, thuộc một tổ-chức “bạo-loạn”, cướp trực-thăng bay qua Hoa-Cộng.
4 Trước 1975:
*Nguyễn Cửu Viết toan cướp phi-cơ Air Vietnam, đã nổ một chiếc Dakota tại phi-trường Phú-Bài, Huế.
*Lê Đức Tân toan cướp phi-cơ Air Vietnam, đã nổ một chiếc Boeing gần phi-trường Bửu-Sơn, Ninh-Thuận.
Cả hai chỉ là phần-tử bất-mãn, không phải VC (cf hồi-ký “Về Vùng Chiến-Tuyến” của Lê Xuân Nhuận).
Hà-Nội đây rồi: dưới nắng trưa,
Sông Hồng đỏ đục nước nguồn mưa;
Quanh nhà đất thấp, vườn ngâm nước;
Tường+mái rêu phong nét cổ xưa.
Mấy chiếc hai hay ba quạt quay
Cong đuôi nằm nghỉ cuối sân bay,
Làm như nhớ thuở chồm lưng địch
Bắt bê-năm-hai hạ xuống đây!5
5 VC tuyên-truyền: chúng bay cao hơn B-52, nhảy xuống trên lưng B-52, dùng dao-găm nạy cửa-sổ chui vào, chĩa súng-lục bắt phi-công Mỹ đáp xuống sân bay Gia-Lâm; thế là chúng đã nhiều lần “bắt sống” được cả “giặc lái” lẫn B-52 (!)
Đáp xuống Gia-Lâm, thấy bán-khai:
Tiếng Anh hai bảng cả hai sai6;
Nhà-ga cũ-kỹ từ Tây-thuộc;
Vắng xưởng, im kho, lặng-lẽ đài.
6 Xem Chương “Sân Bay Gia-Lâm” trong cuốn hồi-ký “Cảnh-Sát-Hoá, Quốc-Sách Yểu-Tử của Việt-Nam Cộng-Hoà” của Lê Xuân Nhuận.
Chẳng tiễn-đưa đi, chẳng đón về;
Phi-công, hành-khách: dép mòn lê. Đầu đường dăm chiếc mô-tô Nhật,
Cướp máy bay quân sự C130 để vượt biên – Hòa Ái, RFA
Vào ngày 24/11/1979, một cuộc không tặc máy bay quân sự C130 vô tiền khoán hậu tại sân bay Tân Sơn Nhất của một nhóm 13 người trốn chạy khỏi VN gây chấn động thế giới. Họ là ai? Cuộc vượt biên bằng máy bay này ra sao? Ông Trương Văn Ẩm, người lên kế hoạch cuộc không tặc kể lại câu chuyện sau 36 năm:
“Không có động cơ nào hết bởi vì năm 1975 tôi đã sắp xếp đầy đủ, sẵn sàng chỗ máy bay cho ông già bà già, cho vợ con đi mà cuối cùng bà già với anh em cương quyết không đi. Tôi không đi được thì tôi nghĩ không bao giờ đi nữa”.
Ông Trương Văn Ẩm, một nhân viên trong ngành kỹ thuật hàng không làm việc tại sân bay Tân Sơn Nhất, được giữ lại trong Cục Kỹ thuật Không quân sau năm 1975 bắt đầu câu chuyện kể của mình qua câu hỏi của Hòa Ái rằng động cơ nào khiến ông đi đến quyết định trở thành một tên không tặc đối với chính phủ VN lúc bấy giờ.
Tuy cuộc sống của ông và gia đình không còn được sung túc như thời VNCH nhưng vẫn tốt sau khi Sài Gòn đổi tên thành TP. HCM. Ông Ẩm không hề manh nha nghĩ đến một cuộc ra đi nào sau khi cả gia đình quyết định ở lại VN. Thế nhưng, một chuyến công tác ra Hà Nội đầu tiên và cũng là cuối cùng đã tác động ít nhiều đến cuộc không tặc định mệnh trong cuộc đời ông:
“Đùng một cái vào ngày mùng 2 tháng 9, lễ Quốc khánh năm 1979, tối đang ở nhà coi ti vi với bà con lối xóm thì ông thủ trưởng lái xe jeep ra, đi với mấy người lính, nói với tôi rằng anh có lệnh phải đi công tác Hà Nội. Từ hồi mất nước khi tôi ở lại dù có yêu cầu đi Hà Nội mấy lần nhưng tôi không muốn đi. Không biết tại sao động lực nào xui khiến lần này tôi đi liền. Nhiệm vụ của tôi, thứ nhất là tôi phải coi một chiếc máy bay C30 bị hư lâu rồi mà không sửa được. Nhiệm vụ thứ hai là tôi phải vào Cục Kỹ thuật Không quân, thuộc Bộ Tư lệnh Không quân để thuyết trình những hoạt động máy bay của Mỹ trong này cho mấy ông lớn ngoài đó nghe. Tôi ra Hà Nội, tôi coi thì chiếc máy bay không bị hư hỏng nặng, chỉ bị hư nhẹ thôi nhưng vì mấy người không có kinh nghiệm. Tôi lên coi máy, tôi hỏi rồi tôi chỉ anh em làm có nửa tiếng đồng hồ xong”.
Nhiệm vụ thứ nhất đã hoàn thành nhanh chóng và đến giờ vào Cục Kỹ thuật để thuyết trình. Thế nhưng bức tranh về xã hội miền Bắc dưới chế độ Cộng sản lần lần được hiện ra rõ nét trong tâm tưởng ông Trương Văn Ẩm. Bắt đầu từ giây phút ông bị anh lính gác cổng không cho vào thuyết trình vì cách ăn mặc miền Nam không đúng theo tiêu chuẩn quy định cho đến Thượng úy trực ban cũng không thể can thiệp cho vào để ông làm tròn nhiệm vụ thứ 2 được giao. Vì nguyên nhân này mà ông Ẩm có thời gian tham quan Hà Nội, được tận mắt thấy cảnh đời sống thường nhật của người dân Hà thành, kể cả những trí thức trở về từ các nước Đông Âu.
Do thời tiết bị bão, không có máy bay về lại miền Nam, ông Trương Văn Ẩm quyết định về thăm cố hương Thái Bình, nơi ông di cư từ hồi 8, 9 tuổi. Họ hàng gần xa đều đến đông đủ tay bắt mặt mừng. Trong thời gian 3 ngày thăm viếng, lời khuyên ngắn gọn của người cậu ruột ám ảnh ông Trương Văn Ẩm:
“Cậu tôi nói là tôi phải đi, không được ở lại. ‘Bởi vì mày ở lại mai mốt cũng về cuốc đất. Nó chỉ sử dụng mày một thời gian thôi đến khi nào nó biết hết’”.
Rồi buổi gặp mặt tình cờ với phi công Tiêu Khánh Nha đã khiến ông Trương Văn Ẩm đi đến quyết định cho một chuyến vượt biên bằng máy bay quân sự sau khi nghe chia sẻ của Thượng úy “chế độ mới” này:
“Ông nói cái vụ chiến tranh biên giới năm 1978, tôi mang họ Tiêu, nó nói tôi gốc Tàu mà tôi có biết ông cố nội tôi có phải Tàu không. Nhưng bây giờ nó muốn hất tôi ra khỏi sân bay, không cho tôi được phép đi tới gần máy bay, chờ nó cho về vườn thôi”.
Kế hoạch cho một cuộc vượt thoát bằng cách cướp chiếc máy bay quân sự C130 đang được ông Ẩm phụ trách sửa chữa ở sân bay Tân Sơn Nhất được lập ra chớp nhoáng. Mọi dự trù về xăng nhớt, an ninh, phòng không đều được bàn tính chi ly chỉ vỏn vẹn trong 3 ngày.
“Nếu đi đúng giờ giấc thì mình cất cánh rồi thì F5 Biên Hòa chưa cất cánh. Lý do khi nghe báo động dưới này thì phải gọi lên phòng tác chiến trên đó. Phòng tác chiến phải kiểm tra tới, kiểm tra lui. Đúng thì mới ra lệnh xuống Phòng hành quân và Phòng hành quân mới ra lệnh cho phi công ra máy bay thì mất khoảng 10 đến 15 phút. Thời gian nói chuyện với nhau cũng mất 5,10 phút rồi. Khoảng 25 đến 30 phút máy bay mới cất cánh được mà mình cất cánh 15 phút thì đã mất tiêu rồi”.
Kế hoạch bị trì hoãn, thay vì xuất phát vào giờ G ngày thứ Tư thì mãi đến giờ cơm trưa ngày thứ Bảy, nhóm người trong tổ nhân viên kỹ thuật hàng không của ông Ẩm và 1 bộ đội canh gác máy bay trên mặt đất bị khống chế bắt đầu giây phút trở thành không tặc:
“Khoảng 11 giờ bắt đầu tôi cho anh em quay máy. Khi vừa quay máy được chút xíu, khoảng 5 phút thì có 2 anh bộ đội kéo một chiếc máy bay loại C119 đi ngang ‘taxi way’(đường di chuyển nội bộ trong khu vực sân bay), dừng lại ngay giữa đường, đứng đó là mình không bay ra vô được nữa. Chiếc máy bay đó lớn lắm”.
Theo kế hoạch, vợ chồng và 2 đứa con nhỏ của phi công Tiêu Khánh Nha sẽ xé hàng rào chạy vào sau khi nghe tiếng 4 động cơ chiếc C130 được khởi động. Nếu trục trặc xảy ra thì các động cơ sẽ bị tắt. Đây là tín hiệu cho gia đình phi công này không được di chuyển tiếp cận máy bay. Do bị chiếc C119 chắn ngang, 4 động cơ bị tắt trong khi ông Ẩm đang cố gắng tìm cách giải quyết thì phi công Tiêu Khánh Nha không làm theo kế hoạch:
“Ông Nha nóng ruột, chung hàng rào chạy vô. Ông cứ hỏi, tôi nói anh cứ đi ra đi, ăn cơm xong rồi liên lạc sau. Anh đi ra khỏi đây đi. An ninh, Bảo vệ mà thấy anh với tôi nói chuyện là phiền phức”.
Sau đó không lâu, mọi việc suôn sẻ:
“Tôi sắp xếp xong đàng hoàng thì quay máy khoảng 5 phút sau, nhìn ra phía hàng rào vẫn không thấy gia đình ông Nha đâu hết”.
Trong giây phút căng thẳng không thấy gia đình phi công Tiêu Khánh Nha xuất hiện thì 1 bộ đội chạy đến khiến mọi người chết đứng. Hóa ra là người trong gia đình phi công Nha “ăn theo”, mặc đồ lính, xé rào chạy về hướng máy bay. Cuối cùng 13 người có mặt trong phi hành đoàn bất đắc dĩ và chiếc C130 bắt đầu lăn bánh sau 2 giờ chiều ngày 24/11/1979.
“Vừa lái thẳng chiếc máy bay tới ngang Ga Hàng không Việt Nam, chỗ Đài kiểm soát là tống ga cất cánh lên liền quẹo về hướng Cát Lái. Lúc đầu định đi qua Biên Hòa rồi đi thẳng ra Vũng Tàu nhưng phút chót lại đổi ý. Khi cất cánh lên được rồi thì bay về hướng Thủ Thiêm. Bay khoảng 10 phút là chúng tôi thấy biển đến Vũng Tàu là bắt đầu lên cao. Anh em mừng ôm nhau khóc. Chúng tôi khóc trong máy bay vậy đó”.
Dường như kế hoạch được trót lọt, không gặp trở ngại nào từ lực lượng phòng không VN. Thế nhưng, thời tiết buổi chiều ngày thứ Bảy định mệnh là một thách thức cho nhóm không tặc bao gồm 2 trẻ em:
“La bàn thì không có, bị hư. Bản đồ không có. Chúng tôi theo cách hồi xưa được học địa lý, ra bờ biển Vũng Tàu thì theo bờ biển đi thôi. Trời xấu quá, tối và mưa nên phải bay lên cao. Bay lên cao khoảng 5,7, 10 phút lại xuống. Xuống lần thứ 4 thì chúng tôi thấy cái mỏm của Malaysia. Qua Malaysia thì sẽ đến Singapore. Chúng tôi học địa lý, chúng tôi biết. Bay khoảng 10 phút thì lên lại. Xuống trở lại thì thấy cảng của Singapore đèn đuốc sáng. Chúng tôi nói đúng Singapore phía trước rồi”.
Cất cánh được êm xuôi. Thế hạ cánh thì thế nào:
“Chúng tôi bật liên lạc. Chúng tôi không có tần số nên liên lạc không được. Không có ai trả lời hết thành ra chúng tôi phải đáp bằng tín hiệu gọi là MCC quốc tế. Chúng tôi lắc cánh 3 lần. Bật đèn xanh chớp rồi lắc cánh 3 lần. Khi lắc cánh 3 lần thì chúng tôi nhìn thấy Đài Kiểm soát của sân bay Singapore chớp đèn đỏ. Như vậy đã nhận được tín hiệu của mình nhưng đèn đỏ là không được đáp”.
Và chiếc C130 đáp xuống sân bay Singapore một cách an toàn. Mọi người được yêu cầu chờ trên máy bay, được cung cấp thức ăn và được chở đi vệ sinh. Sau vài giờ đồng hồ, cảnh sát Singapore nói rằng sẽ cho máy bay dẫn đường bay qua Philippines. Đoàn người nhất quyết không đồng ý và khẩn thiết xin được gặp nhân viên Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Singapore.
Nhóm 13 người được giữ lại Singapore. Ngày Chủ Nhật hôm sau được làm việc với cảnh sát của đảo quốc Sư Tử. 2 ngày kế tiếp được gặp nhân viên Hoa Kỳ:
“Trong ngày khai báo thứ Hai và thứ Ba, có một ông Mỹ là Đại úy. Ông nói thẳng ông là CIA. Ông nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt Nam như người Việt Nam vậy. Ông nói chào mừng chúng tôi. Ông nói rằng ‘mấy anh đi làm náo loạn không những Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, mà náo loạn cả nước Mỹ và thế giới. Chúng tôi nhận các anh nhưng chúng tôi không tin tưởng bởi chúng tôi còn đặt nghi vấn có chuyện sắp xếp của Việt Cộng cho các anh đi. Thành ra tôi đang ở Đức nhưng được lệnh về gấp gặp các anh”.
Kết quả là cả 13 người được quy chế tị nạn chính trị và sẽ được định cư ở Hoa Kỳ. Trả lời câu hỏi “mọi người mong muốn điều gì sau khi nhận được kết quả này”, ông Trương Văn Ẩm ước ao được đặt chân đến Mỹ trước ngày Noel sắp đến. Điều mong ước tưởng chừng không tưởng ấy được đáp ứng. Trong khi mọi người hài lòng với món quà một bộ đồ và đôi giày ba-ta mới chuẩn bị lên đường qua Mỹ đón Noel chỉ trong vòng 1 tuần thì người bộ đội “con tin” lại xin được quay về VN. Dù mọi người khuyên can thế nào thì anh lính cụ Hồ vẫn không thay đổi quyết định:
“Nó khóc lóc nói ba em già 70 tuổi, nếu cho em về nhìn ba em một cái rồi chết cũng được”.
Như hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do, 12 người này đã trở thành không tặc để đi tìm sự sống trong cái chết. Nhà nước CHXHCNVN mở phiên tòa xét xử khiếm diện, tuyên án tử hình đối với Thượng úy phi công Tiêu Khánh Nha, ông Trương Văn Ẩm và những người còn lại bị tuyên từ 20 đến 35 năm tù giam.
Cuộc đời mới ở Hoa Kỳ của 12 người thoắt đó đã 36 năm với nhiều đổi thay. Sau khi đến Mỹ không lâu, 1 người trong nhóm bị bạo bệnh. Tro cốt của người này được gửi về cho gia đình qua đường bưu điện. Thế nhưng tên họ của người đã khuất mang “tội phản quốc” nên bị gửi trả ngược lại Hoa Kỳ. Trong mấy năm qua, 1 thành viên khác trong nhóm trở về VN lại được chào đón như một Việt kiều yêu nước.
Riêng người chủ mưu cuộc không tặc vô tiền khoán hậu, ông Trương Văn Ẩm vẫn kiên định tư tưởng “Tôi chỉ về khi nào không Cộng sản. Còn Cộng sản thì không bao giờ tôi về”, đồng thời vẫn luôn thăm hỏi tông tích của người bộ đội tên Tạo dù đến nay vẫn chưa có manh mối nào. Trong những phút giây bất chợt nhớ về lần vượt thoát, lẫn trong âm thanh văng vẳng tiếng động cơ và cánh quạt của chiếc C130, còn có tiếng khóc nghẹn ngào đòi trở về VN của anh Tạo. Và ông Ẩm tự hỏi “liệu rằng sau bao vật đổi sao dời, người lính trẻ có còn giữ vững lập trường của mình hay chăng?”.
Mạ sinh con đang lúc nhà nghèo khó Một phần cơm, khoai sắn độn hai phần Thuở ấu thời, mắm cà cùng muối đậu Con đã quen ngon miệng món nhà bần.
Lúc mớ rạm ngoài đồng đem ram muối Muà nước lên con bống thệ kho khô Những chột nưa mạ nấu cùng tí ruốc Rau tập tàng vị ngọt những ngày thơ.
Đọi rau khoai ngọt ngào con tôm đất Hũ tép chua có những lát măng vòi Bánh tráng nướng còn thơm mùi mít trộn Những món quen con vẫn nhớ trọn đời.
Ngày mưa bão, trên mâm thường trứng luộc Trưa mùa hè, nước rau muống thay canh Chút dưa, muối cũng vội vàng xong bữa Sao mạ hay – ngồi ăn cuối một mình.
Con là con mèo Trạng Quỳnh cuả mạ Đã phận quen ăn những món ăn nghèo Trước những mâm đầy sơn hào hải vị Con dửng dưng như đứa trẻ quen chiều.
Giờ con đã xa nửa vòng trái đất Biết khi mô mới trở gót quay về Trên bếp lưả chụm rơm chiều khói tỏa Con cá cơm mạ nấu bữa canh me.
Cho ấm áp thêm cuộc đời trống lạnh Hạnh phúc này xoa diụ tấm lòng con Khi hơi toả thơm ngát mùi gạo mới Trên tay con, miếng cơm cháy thơm dòn.
Con, đứa trẻ lạc loài trên xứ lạ Đang quay cuồng theo cơm áo, ngựa xe Mà thương mạ vẫn thường hay tựa cửa Bên mâm cơm, vắng bóng đứa con về.
Huy Phương
Mama, I Am YourSelf-Contented Cat
You gave birth to me while being destitute:
Potato or cassava doubling rice each meal to suit.
Salted egg-plants and peanuts since childhood,
I had got accustomed to the poor people’s food.
The crabs from the paddy-fields that you fried,
The goby from inundation that you cooked dried,
The chunks of taro you prepared with rousong,
The sundry veg…, that with my youth got along.
The sweet potato buds, with prawns as spices,
The soured shrimps, with bamboo shoot slices,
The grilled pancakes smelling jackfruit, thyme,
The familiar dishes… I remember all my lifetime.
On stormy days, on the salver were boiled eggs;
In summer, water spinach for broth without dregs;
A bit of pickle was enough for a quick repast…
But you Mama always remained alone the last.
Regals are rich, their cats have delicacies to try;
I was Mama’s cat, only meagre dishes did satisfy.
So content with my lot that feasts I did not enjoy,
Indifferent, seeming kittle as a too coshered boy.
Well, now that I have been a hemisphere away,
I do not know when I will come back and stay
There, on the straw fire under smoke you stoop
To cook with anchovies the eve tamarind soup.
So that warmth is added to my empty existence:
Such bliss will appease my heart in this distance,
With the cooking smelling the new harvest rice,
And for me a crisp piece of burned rice as a price.
As a lost young child lonely in a strange land,
Being whirled along means of living’s demand,
I feel so anxious for Mama against the door-case
Or by the food tray always longing to see my face.
Translation byThanh-Thanh
TẠ ƠN MẸ
TẠ ƠN MẸ
(Viết thay lời những người con gốc Việt
gửi đến các bà mẹ Hoa Kỳ đã dày công dưỡng dục)
Tạ ơn Mẹ, người không cùng huyết thống
Tóc mẹ vàng, da mẹ trắng như mây
Mẹ vớt con từ vực thẳm lưu đày
Nuôi con lớn bằng tình thương máu mủ
Tạ ơn Mẹ vì con mà lam lũ
Ngày qua ngày trong xưởng máy, nhà kho
Làm thêm giờ cho con được ấm no
Đêm lại thức dạy con từng tiếng Mỹ
Khác ngôn ngữ như ngăn thành, cách lũy
Mẹ dỗ con bằng ánh mắt, vòng tay
Mẹ gốc Âu, con gốc Á, khổ thay
Con là nợ, vì đâu mà mẹ gánh!
Mẹ biết con từ quê hương bất hạnh
Có lũ người hung ác tựa sài lang
Nuốt miền Nam bằng nanh vuốt bạo tàn
Đưa cả nước trở lại thời trung cổ
Cũng từ đó con như chim mất tổ
Tuổi còn thơ đã bỏ mẹ, lìa cha
Xuống thuyền đi trong nước mắt nhạt nhòa
Đem tính mạng gửi trên đầu ngọn sóng
Nhờ ơn Mẹ như trời cao biển rộng
Con mới còn sống sót đến ngày nay
Được nên người trên đất nước thứ hai
Niềm hãnh diện cho cả hai dân tộc
Trong hồn con mẹ rạng ngời ánh đuốc
Sáng bập bùng soi mỗi bước con đi
Lời Mẹ hiền con sẽ mãi còn ghi:
“Là dân Mỹ, nhưng đừng quên gốc Việt!”
Dâng lên Mẹ đóa hồng tươi thắm thiết
Chứa tình con từng cánh đỏ yêu thương
Mai con về quì hôn đất quê hương
Càng nhớ đến ngàn công ơn của Mẹ.
VŨ ĐÌNH TRƯỜNG
THANK YOU, MOTHER!
(To American adoptive mothers who heartily fostered children of Vietnamese origin)
Thank you, my white-skinned golden-haired mother
Who are not of the same bloodline as me or the other
But you fished me out of the abyss a refugee errant,
Adopted and fostered me with the love of a parent.
Thank you for having taken such painstaking jobs
Days after days in warehouses and workshops,
Toiled and moiled extra hours to make me undeterred,
And stayed up late to teach me each English word.
Pushing language difference as a bad barrier aside,
You soothed me with your look warm and arms wide.
You are an Westerner and I an Easterner, how rare,
I was such a heavy debt, you volunteered to bear!
You knew well that I came from that unhappy land
Where there were many a ferocious and fiendish band
Who invaded the South and confined people to cages,
Brought the whole nation back to the Middle Ages.
Since then I had become a nestless nestling in qualm
In childhood to leave Dad and separate from Mom,
I got into the fleeing boat with hot tears dripping wet
Risking my life entrusted to wave crests full of threat.
Thanks to your high-sky and vast-ocean love, my fay,
That I could survive until I can achieve success today
And become a dignified human in this second home,
A pride for both our peoples under the azure dome.
You are so shining in my soul the glittering torchlight
To enlighten each of my steps scintillating in the night.
Your virtuous advice I will always remember of course:
“Be American but don’t forget your Vietnamese source!”
I respectfully offer you this fresh gorgeous bright rose
Suffused with my affection in each red petal to enclose.
On my repatriation kneeling to kiss my native soil soon
I will bear in mind thousandfold your precious boon.
Translation byTHANH-THANH
BỐ THƯƠNG YÊU của LINH & THANH-THANH
Tưởng Nhớ LÝ TỐNG
(thơ song ngữ) CHÚA PHỤC SINH của NGUYỄN NGUYÊN THANH & THANH-THANH
Thung Lũng Hoa Vàng/THE YELLOW FLOWERS VALLEY
THUNG LŨNG HOA VÀNG
Đã tám mùa xuân trên lũng thấp,
Âm thầm theo những bước chân qua.
Hồn tôi chừng mỏi trăm vùi lấp,
Có thấy bao giờ một dáng xưa (?)
Tôi đi giữa phố phường lưu lạc,
Thung lũng Hoa Vàng xanh bóng mây.
Bỗng gặp mùa xuân trong khóe mắt
Cô em ngơ ngác đến nơi này.
Đã mấy năm qua tôi bỏ quên
Trái tim bên dốc đá ưu phiền.
Nắng lên cho đẹp lời âu yếm,
Mỏi mắt ươm tình, say đắm thêm.
Em mang dáng dấp xưa thần thoại,
Chìm đắm trong hương sắc tuyệt vời.
Sóng tóc, tôi mơ miền luyến ái,
Xuân sang len lén giấc yêu người.
Giao thừa tôi có em yêu dấu,
Trong phút linh thiêng của đất trời.
Kỷ niệm đầu năm thành bất tử,
Mong em khỏa lấp một trùng khơi.
Xin tạ ơn em, xõa tóc huyền,
Cho tôi sống lại tuổi xuân êm.
Chợt lòng hoa nở vàng như nắng,
Thung lũng cũng hồng nhân dáng em.
QUỐC NAM
THE YELLOW FLOWERS VALLEY
Multiple years had elapsed in this valley.
I silently pursued the past steps in each alley,
But tired of countless buffetings in my soul
I had never seen any figure in the old role.
While I was drifting in the Yellow Flowers Town
Under the blue sky with clouds at its crown,
Suddenly I met a whole spring in the eyes
Of a beauty wandering herein at her own guise.
For such a sad long time I had forgot and left
My heart somewhere about the steep crag’s cleft.
Now that the sun did rise beautifying the caress,
Lips & peepers sowed love, more passion to bless.
You manifest the manner of a legendary star
To drown me in the wonderful glamour by far.
On your wavy hair I dream of a loving place
In the springtime to ignite the flame of grace.
I have got you, my beloved, this new year’s eve
In the sacred hour that sky and earth conceive.
The souvenir of this prime has become immortal;
Please fill up an entire empty ocean with a chortle.
One hundred and two English poems and verse translations of pieces by seventy authors living in America, Australia, Belgium, Finland, France, Germany, Norway, and Vietnam.
The author and translator have continued his task already carried out through his former books (“Poems by Selected Vietnamese” and “Vietnamese Choice Poems”) with unfailing enthusiasm and increasing ability.
Xin quý vị click vao hình để đọc.
(thơ song ngữ) THUNG LŨNG HOA VÀNG của QUỐC NAM & THANH-THANH