Cuộc bút chiến giữa Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị

ThaiNC

Cuộc bút chiến giữa hai nhà Nho: Tôn Thọ Tường (1825- 1877) người ra cộng tác với Pháp, và Phan Văn Trị (1830-1910), một nhà Nho khác nhưng lại tranh đấu chống Pháp, là một giai thoại văn chương lý thú. Cuộc tranh luận bằng thơ văn giữa hai ông tuy gay go nhưng rất có tính cách văn hóa ở trên văn đàn. Ông Phan Văn Trị (PVT) làm thơ cực lực lên án Ô. Tôn Thọ Tường ( TTT) hợp tác với Pháp là sai trái, là phản bội đất nước, và dĩ nhiên ông TTT cũng đối đáp lại bằng thơ văn lỗi lạc của mình để đưa ra lý lẽ biện hộ cho việc hợp tác với thực dân.

Rất nhiều bài thơ của hai người đã để lại cho đời sau, nhưng được biết đến nhiều nhất là hai bài: “Tôn Phu Nhân Quy Thục”, và “Từ Thứ Quy Tào”.

Có bạn hỏi Tôn Phu Nhân là ai?

Thời Tam Quốc Chí có 3 nước đánh nhau giành thiên hạ

Nhà Ngụy : Tào Tháo

Nhà Thục : Lưu Bị

Nhà Ngô: Tôn Quyền

Một lần kia Lưu Bị vua nước Thục qua nước Ngô. Vua Ngô Tôn Quyền và các tướng lập mưu muốn nhân dịp giết chết Lưu Bị, nhưng nhờ Khổng Minh là quân sư biết trước nên bày mưu để Lưu Bị cưới được em gái Tôn Quyền, tức là “Tôn Phu Nhân”, nhờ sự giúp đỡ của vợ và nhạc mẫu là mẹ Tôn Quyền mà an toàn về nước Thục. Tôn Phu Nhân đã theo chồng, phản anh, phản Đông Ngô thả cọp Lưu Bị về rừng.

Ông Tôn Thọ Tường đã ví mình như Tôn Phu Nhân ấy qua bài thơ:

Tôn Phu Nhân Quy Thục

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,

Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông!

Lìa Ngô, bịn rịn chòm mây bạc,

Về Hán, trau tria mảnh má hồng

Son phấn thà cam dày gió bụi,

Đá vàng chi để thẹn núi sông .

Ai về nhắn với Chu Công Cẩn :

Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng

(Tôn Thọ Tường)

Ông TTT đem diển tích Tam Quốc Chí để biện hộ và ví von hành động theo Pháp của mình cũng như Tôn Phu Nhân quy Thục, đã theo chồng thì không thể theo anh. Không thể vẹn cả đôi bề.

Và ông PVT đã đối lại rằng:

“Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,

Mặt ngã trời chiều biệt cõi Đông.

Ngút tỏa đồi Ngô ùn sắc trắng

Duyên về đất Thục đượm màu hồng.

Hai vai tơ tóc bền trời đất,

Một gánh cang thường nâng núi sông

Anh hởi ! Tôn Quyền anh có biết

Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.

(Phan Văn Trị)

Tất cả ý tứ của bài thơ kết lại ở câu cuối : Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.

Ông Phan Văn Trị nhắn với ông Tôn Thọ Tường rằngTôn Phu Nhân là phận nữ nhi mới thờ chồng cho trọn đạo tam tòng chớ ông là thân nam nhi, bậc thức giả, phải biết chọn chúa mà theo tức là chọn lẽ phải của quốc gia dân tộc, hà cớ chi như phận má hồng, nhắm mắt hùa theo thực dân?

Bài “Tôn Phu Nhân Quy Thục” được giảng dạy trong chương trình trung học, một phần lớn do tính cách văn chương bóng bẩy của cả hai bài thơ. Nhưng nỗi lòng Tôn Phu Nhân thật ra không hoàn toàn phản ảnh con người và hoàn cảnh của ông Tôn Thọ Tuờng.

Bài thơ TỪ THỨ QUY TÀO sau đây của ông mới thực sự bài thơ bày tỏ hết nỗi lòng.

Từ Thứ là ai?

Xin thưa đó là quân sư giỏi của Lưu Bị thời Tam Quốc nói trên. Tào Tháo sợ tài Từ Thứ nên bày kế cho người giả mạo thư của người mẹ ở quê nhà nhắn ông trở về nhà. Ông vì chữ hiếu phải từ giã Lưu Bị về Tào, hứa sẽ không hiến bất cứ mưu kế nào cho Tào Tháo. Và nhất là trước khi đi đã tiến cử Gia Cát Lượng tức Khổng Minh là người tài giỏi hơn mình thập bội cho Lưu Bị.

Ông Tôn Thọ Tường gởi gắm tâm sự mình về với Pháp cũng như Từ Thứ về với Tào Tháo.

Từ Thứ Quy Tào

Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi,

Muối xát lòng ai, nấy mặn mòi.

Ở Hán hãy còn nhiều cột cả,

Về Tào chi sá một cây còi !

Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén,

Bịn rịn trông vua biếng giở roi.

Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Ngụy,

Thân này xin gác ngoại vòng thoi!

(Tôn Thọ Tường)

Và Phan Văn Trị đã đối lại rằng:

“Quá bị trên đầu nhát búa voi,

Kinh luân đâu nữa để khoe mòi.

Xăn văn ruổi Ngụy mây ùn đám,

Dáo dác xa Lưu, gió thổi còi.

Đất Hứa nhớ thân sa giọt tủi,

Thành Tương mến chúa nhẹ tay roi!

Về Tào miệng ngậm như bình kín,

Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi ?”

(Phan Văn Trị)

Lịch sử cận đại đã chứng minh rằng ông Tôn Thọ Tường không phải là người hoàn toàn đánh mất hết lương tri. Ông ra làm việc với Pháp là con đường giúp nước theo cách riêng của ông. Trong thời gian làm quan cho Pháp, ông không có hành động nào làm hại đến dân tộc và đồng bào. Ông làm quan với quyền hành trong tay có thể bắt bớ Phan Văn Trị và những sĩ phu khác chống đối ông, nếu muốn, nhưng ông đã không làm điều đó. Ngược lại khi nhà cách mạng kháng Pháp Bùi Hữu Nghĩa bị Pháp bắt, ông là người đã đứng ra xin ân xá cho Bùi Hữu Nghĩa.

Trải qua tất cả những bài thơ qua lại giữa hai ông, tuy chính nghĩa vẫn thuộc về ông Phan Văn Trị, nhưng người ta vẫn nhận ra được nỗi khổ tâm thành thực của ông Tôn Thọ Tường qua thơ văn của ông. Trong khi Ô.Phan Văn Trị luôn luôn đanh thép và tấn công trực diện vào con người của ông Tôn Thọ Tường, thì ông Tôn Thọ Tường luôn điềm đạm, muốn chia sẻ, trang trải nỗi lòng mình đối với các vấn đề quốc gia mà thôi.

Tuy hai nhà Nho trên hoàn toàn đối ngược về tư tưởng, nhưng tất cả bài thơ của họ trong cuộc bút chiến đó đều để lại cho hậu thế những áng văn tuyệt tác. Mỗi bài thơ dù của ông Tôn Thọ Tường hay Phan Văn Trị đứng riêng rẽ đều mang một sắc thái riêng biệt đặc sắc, ý thơ sắc bén, đanh thép, nhưng lời thơ lại rất mượt mà, đầy điển cố.

Và đó là cái trí thức đáng kính của người xưa!

ThaiNC




Ở ĐÂU CŨNG CHỈ MỘT VẦNG TRĂNG

ThaiNC

Nói đến trăng, chúng ta sẽ nghĩ đến ông Lý Bạch, nhà thơ nổi tiếng như cồn bên Tàu cách nay cả ngàn năm có dư, và được tôn sùng là nhà thơ số một từ trước tới nay của Trung Hoa. Thơ ông hay làm sao, thật tình tôi chưa hân hạnh được đọc, nhưng ông chết thế nào thì tương truyền rằng một hôm đang đi thuyền uống rượu trên sông bỗng thấy bóng trăng phản chiếu xuống dòng nước đẹp quá, sẵn hơi men, ông nhảy ùm xuống nước để ôm trăng và…ngủm.

Mỗi lần nghe câu chuyện trên, tôi vẫn cười tự hỏi không biết ông Lý Bạch đã để lại cho hậu thế được bao nhiêu bài thơ và ngày nay biết còn được mấy người có thể nhớ trọn một bài nào đó của ông, nhưng chính cái chết của ông lại được thi vị hoá thành một huyền thoại và lưu truyền rộng rãi mãi cho đến bây giờ. Tôi thì tôi cho rằng bữa đó ông xỉn quá ngồi trên thuyền không vững nên bị tai nạn té xuống nước, và xui một điểm là nhà thơ không … biết bơi, nên đành lặng lẽ trôi theo khóm lục bình. Trăng thì cứ nhìn lên trời thấy nó sáng chói, rõ ràng mới đẹp chứ đợi nó in hình dưới nước thì đâu có gì đẹp? Tôi lấy thí dụ bạn muốn ngắm một người đẹp thực sự bằng xương bằng thịt trước mặt mình, hay nhìn cô ta trong gương vậy?

Vậy đó mà những cơn mưa bão thổi qua Cali mấy ngày qua đã làm tôi suy nghĩ lại. Không chừng ông Lý Bạch quả đúng như tương truyền, ông ấy nhảy xuống sông để ôm trăng mà chết thiệt!

Hôm kia, không hiểu vì lý do gì tôi ra vườn sau nhà vào buổi tối. Mưa đã tạnh, nhưng hậu quả của mấy ngày mưa dầm dề đã làm nước ngập một cái vũng trong vườn nhà tôi, khá lớn, độ gần một mét đường kính. Nếu không nhờ mấy cơn mưa lớn vừa rồi tôi cũng không biết vườn nhà mình có một chỗ hủm để nước có thể tụ lại thành vũng trông như một cái ao tý hon vậy. Nhưng điều làm tôi thích thú nhứt là ở ngay giữa ao là nguyên một vầng trăng. Đúng vậy. Mưa tạnh, mây tan và trăng lại hiện ra trên cao. Trăng rằm vành vạnh, chói sáng cả bầu trời sau cơn mưa và in trọn vẹn xuống …cái ao vườn nhà tôi.

Trăng đẹp. Chúng ta có ai không một lần trong đời nhìn trăng trên cao và tấm tắc khen là nó đẹp. Đã biết bao nhiêu giấy bút, thi văn, thần thoại xuất xứ từ trăng lưu truyền từ ngàn xưa và sẽ mãi đến ngàn sau. Tôi cũng vậy. Thỉnh thoảng, thường là những ngày rằm, tôi có khi tình cờ nhìn vầng trăng chiếu sáng trên bầu trời và cũng tấm tắc khen nó… đẹp. Chỉ vậy thôi. Nửa phút là nhiều lắm. Nếu lúc đó có ai hỏi trăng đẹp ở chỗ nào thì đành cười trừ.

Hôm nay cũng vậy. Tôi cũng nói là vầng trăng trên trời thật đẹp. Đẹp ở đâu ? Không biết. Nhưng vầng trăng ở trong vũng nước ngay trước mặt tôi thì khác. Tôi sẽ không ngần ngại gì mà trả lời rằng trăng đẹp vì hình như là nó có hồn. Hồn Trăng. Có một sự khác biệt rõ ràng giữa hai vầng trăng. Trăng ở trên trời thì xa xôi diệu vợi, còn vầng trăng dưói đất trước mặt tôi thì nó gần gũi làm sao. Thậm chí tôi có thể lấy tay đụng nó được. Trăng trên cao thì bất động vô tri, còn trăng ở đây thì đang chuyển mình theo từng gợn sóng lăn tăn mỗi khi có cơn gió thổi qua làm cho tôi có cảm tưởng như trăng đang múa.

Một cảm giác man mác, thanh thản chạy khắp cơ thể làm tôi rùng mình với ý nghĩ này. Trăng trên trời là của chung nhân loại, còn vầng trăng này là của riêng tôi, của tôi mà thôi. Trong một khoảnh khắc mấy giây thôi, tôi có cảm giác như thế giới chung quanh mình bỗng nhiên ngừng đọng; chỉ còn vầng trăng trước mặt đang lả lướt uốn mình trong một vũ điệu nghê thường nào đó, và tôi là khán giả duy nhứt được chọn để thưởng ngoạn.

Tôi ráng đứng thật yên tận hưởng những giây phút kỳ diệu này, vì một đám mây đang dần kéo đến xâm chiếm và che dần vầng trăng của tôi. Tôi tiếc lắm nhưng không làm gì được. Tôi linh cảm là những cảm giác vừa qua có thể là cơ hội duy nhứt trong đời. Trăng thì bao giờ cũng còn, và nước thì ở đâu cũng có, nhưng phải đợi đến bao giờ cảnh và tình mới có thể kết hợp một cách hài hòa và sống động trong tôi như vậy nữa?

Và tôi bỗng nhớ tới ông Lý Bạch. Họ nói ông thấy trăng dưới nước đẹp quá bèn nhảy theo xuống. Cũng có thể lắm. Tôi chỉ là một hậu sinh tầm thường mà bỗng nhiên cũng có vài giây xuất thần như vậy thì với công lực cao siêu của ông Lý Bạch, có lẽ ông không những thấy trăng đang muá vũ khúc Nghê Thường, mà chắc là ông còn thấy cả Hằng Nga Tiên nữ trong đó nữa nên ông nhào xuống ôm là phải rồi.

Trở lại cái vũng nước sau vườn.

Tôi vẫn còn tiếc nuối vầng trăng của tôi nên nấn ná chờ cụm mây đi qua. Quả nhiên chỉ vài phút sau sự nhẫn nại của tôi đã được bồi đáp. Trăng lại xuất hiện một lần nữa, trong veo vẻo giữa cái ao. Nó cũng uốn mình lăn tăn theo từng gợn sóng. Tôi mừng lắm, nhưng rồi lại thất vọng vì quả nhiên là không còn tìm lại được cảm giác như lúc nãy. Trăng vẫn đẹp, nhưng tôi không còn cảm được cái hồn của nó nữa. Tiếc quá đi thôi.

Có một đoạn thơ xưa như vầy:

“Quân tại Tương giang đầu

Thiếp tại Tương giang vĩ

Tương tư bất tương kiến

Đồng ẩm Tương giang thủy”

Chàng ở đầu sông, thiếp ở cuối sông. Nhớ nhung nhưng không thể gặp mặt; hãy cùng nhau uống nước sông Tương.

Nếu tôi nhớ không lầm thì đây là bốn câu trong bài thơ Trường Tương Tư. Bài thơ khá dài nhưng đây là bốn câu độc đáo và được trích đọc nhiều nhứt. Chuyện xưa kể rằng có nàng Lương Ý Nương nhà ở bên bờ sông Tiêu Tương vừa đẹp lại vừa hay chữ. Ở trọ nhà nàng có thư sinh tên là Lý Sinh. Một đêm Trung Thu trăng tròn, hai người cùng thưởng trăng, tâm đầu ý hợp và thương yêu nhau. Cha của nàng không đồng ý cuộc tình nên đã đuổi Lý Sinh ra đi thật xa. Nàng Ý Nương ở lại nhà bên bờ sông Tương, thương nhớ người tình mà cảm tác ra bài Trường Tương Tư này.

Phải chi ngày đó có ai nói cho họ biết rằng không phải chỉ có nước sông Tương mới là cái chung của họ. Còn vầng trăng trên trời nữa chi? Dù có cách xa nhau ngàn dặm sơn khê thì vầng trăng kia cũng chỉ một. Hai người chỉ cùng nhìn lên trăng mà tâm sự thì cũng vơi đi nỗi niềm.

Nhưng rồi họ lại nói rằng trăng kia có cả…ngàn cặp tình nhân khác cùng nhìn và cùng tâm sự như họ thì đâu còn gì là riêng tư. Được thôi. Muốn riêng tư thì có riêng tư.

Dù chàng có ở đầu sông nàng ở cuối sông , thì nơi nào cũng phải có những vũng nước như vũng nước sau vườn nhà tôi, phải không? Vậy thì chàng và nàng cứ ra sau vườn, mỗi người một vũng, đợi trăng lên cao in bóng xuống nước, thế là mỗi người đã có một vầng trăng riêng mặc sức mà tâm sự. Và điều tuyệt vời nhứt là bây giờ trăng đang ở gần ngay trước mặt. Hai người có thể đặt tay lên và nhờ ánh trăng làm cầu đưa lên gặp nhau trên Cung Quảng.

….Thi sĩ Tản Đà của chúng ta trước đây cũng có một câu lục bát bất hủ:

“Ai làm cho khói lên trời

Cho mưa xuống đất, cho người biệt ly.”

Làm người thì phải biệt ly, nhưng hội ngộ thì lại tùy duyên. Nếu có duyên, thỉnh thoảng chúng ta sẽ gặp lại nhau ở những khúc rẽ cuộc đời.

Còn nếu lỡ vô duyên?

Xin hãy gởi tình qua ánh trăng.

Bởi vì, dù ở phương trời xa xôi cách biệt nào, chúng ta bao giờ cũng chung một vầng trăng.

Đêm nay, dưới ánh trăng thanh bình của xứ người, xin gởi tình tôi về bên kia bờ đại dương, qua những xóm làng, đến những dòng sông của quê hương yêu dấu.

Trăng rơi rơi sáng ngập bờ đê.

Có người quảy gánh cuối đường quê

Nghiêng vai bóng đổ chân đều bước

Sương khuya trắng phủ mái tóc thề

Tôi về từ nghìn dặm sơn khê

Theo trăng dừng bước cạnh bờ đê

Đôi dòng viết vội treo đầu gánh

Gánh trăng cô gánh cả thơ về

./.

ThaiNC