NGK : Chấp nhất kỷ chi kiến

"Chấp nhất kỷ chi kiến giá họa ư tha nhân", chỉ biết ý kiến mình mà thôi, lúc nào cũng sẵn sàng buộc tội người khác. Câu viết lạc lõng của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo vô tình nói lên nhận định của ông về con người Việt nam.

Gần sáu thế kỷ đã trôi qua rồi mà sao Nguyễn Trãi vẫn còn đương thời đến thế.




Phan Lạc Phúc : KỶ NIỆM TAO ĐÀN

KỶ NIỆM TAO ĐÀN

Đầu năm 1956 tôi từ biệt nghề "chiến binh lội ruộng"về Phòng 5 bộ Tổng tham mưu làm sĩ quan thông tin báo chí. Lúc bấy giờ tôi chưa có vợ con gì, khoác cái ba lô lên lưng là có thể đi cùng trời cuối đất. Về Saì Gòn chưa biết ở đâu tôi sáp vô ở với bạn cũ Thanh Nam ở ngõ Nancy ( đường Phan Văn Trị). Tôi và Thanh Nam chơi  với nhau từ khi tôi từ ngoài khu về Hà Nội ăn dầm nằm dề trên căn gác phố hàng Bông nhà Nguyễn thiệu Giang, tập tọng làm văn nghệ văn gừng dưới sự hướng dẫn của đàn anh Đinh Hùng. Trong nhóm chúng tôi ngày ấy ngoài Thanh Nam, Nguyễn Thiệu Giang còn có Nguyễn Minh Lang, Phan Nghị, Huy Quang Vũ Đức Vinh ,những người Thanh Nam nhắc đến trong bài hành tuổi 40 vài chục năm sau:
                       …Bạn cũ hãy nương theo rét lạnh
                          Về  đây cùng nhập một cơn say
                         
Chí lớn chia nhau đầy gác
                         
Bụi hồng chưa khiến tóc xanh phai 
                         
Dăm bảy lòng sông ôm biển cả
                         
Coi đời dưới mắt nhẹ không ai
                         
Cơn mê nhập cuộc sầu chưa bén
                          Thân thế chưa đau cát bụi này…
Sau hiệp định Genève 1954 nhóm chúng tôi tan tác kẻ đi người ở. Theo anh Đinh Hùng vào Nam có Vũ Đức Vinh, Phan Nghị và tôi; Thanh Nam đã vào Saì Gòn trước , 1953. Ở lại có Nguyễn Minh Lang, Nguyễn thiệu Giang . Bây giờ (1956) tôi ở với Thanh Nam, gặp lại anh Đinh Hùng và có thêm những người bạn mới. Ở cùng nhà ngõ Nancy lúc bấy giờ có nhà thơ Thái Thủy (tác giả Lá thư gửi mẹ)kịch sĩ, kiêm "ngâm’sĩ và vũ sư (muá Trấn thủ lưu đồn)Hoàng Thư ,nhà báo Vũ Quang Ninh, quản đốc đài phát thanh Quân Đội. Một lũ "xê li bạt" ở với nhau,không có đàn bà, không có trẻ con, ăn uống tùy tiện, tối đến sải chiếu ra, chăng màn ngủ ,mỗi anh một góc, không phiền ai. Nhà này trước đây còn có văn sĩ Tạ quang Khôi (xước danh Tạ ống khói) nhưng ít lâu nay ông "Ống khói" tạm biệt nơi này vô Đại học sư phạm rồi. Nhà này phải để sàn rộng rãi là nó có lý do của nó. Ông Hoàng Thư thỉnh thoảng tập múa Trấn thủ lưu đồn nên phải có chỗ  cho "vũ sư" tập dượt. Vũ sư mặc quần đùi ,thân thể hom hem nhưng múa rất hăng vừa múa vừa hát "Trấn thủ ấy mấy lưu đồn. Ngày thì canh điếm ấy tối dồn là việc quan, chém tre mà đẵn gỗ trên ngàn…" Nhà một lũ độc thân nên anh em dễ dàng hội họp ,gặp nhau "phùng trường tác hí’. Sải chiếu ra, ăn nhậu dài dài .Hay  đến đây là đàn anh Đinh Hùng có khả năng đặc biệt vừa nằm vừa viết văn chương Tao Đàn mà chữ nghĩa vanã rồng bay phượng múa. Có ông Vũ khắc Khoan gõ muỗng vào ly mà "Hồ trường, hồ trường ta biết rót về đâu". Có ông Mai Thảo với ông Phạm đình Chương rượu uống tì tì ,càng uống mặt càng tái đi. Có ông Anh Ngọc say ngất ngư mà vẫn hát "Anh đến thăm em một chiều mưa’". Có ông Tạ Tỵ ngày Tết chạy sang ,sải chiếu ra, rút bất.
Văn nghệ sĩ đến đây nhiều như thế nên người ta bảo ngõ này là ngõ "văn nghệ";ø khu này cũng có khá đông anh em ta cư ngụ. Từ chợ Nancy quẹo vô ngõ Phan Văn Trị là nhà của nhà văn, nhà thơ kiêm "sáo sĩ" Tô kiều Ngân. Đi thêm dăm chục bước chân là nhà Thanh Nam. Trước cửa nhà Thanh Nam là nhà Tạ Tỵ họa sĩ, văn ,thi sĩ. Ngay cạnh nhà Thanh Nam là nhà  ban Hợp ca Hạc Thành của anh em nhạc sĩ Nhật Bằng,Nhật Phượng, Thể Tần, Hồng Hảo. Xế bên kia một chút là nhà của ký gỉa lão thành Thượng Sĩ, nhà phê bình, điểm sách trên tờ Tin Mới của Hà Nội năm xưa, ( nhà văn nữ Sài Gòn cô nương xuất hiện trên làng báo hải ngoại mấy năm gần đây là con gái anh Thượng Sĩ).
Năm ấy (1956) là thời kỳ cực thịnh của ban Tao Đàn phù hợp với giai đoạn khởi đầu của nền Đệ Nhất Cộng Hòa khi miền Nam VN vừa có một thể chế mới, một tương lai mới. Pháp đã rút hết về nước . Trên phương diện truyền thanh các đài của Pháp như Pháp Á, Con nhạn (Hirondelle) nhất loạt đóng cửa ; đài  quốc gia (lúc bấy giờ chưa có TV) cũng như các chương trình phat thanh có bổn phận phải "lớn lên" cho kịp với tình hình. Ban Tao Đàn ngoài trách nhiệm đã được minh thị "tiếng nói của thơ, văn miền Tự Do"còn tiềm ẩn một nghĩa vụ "đem theo văn hóa của 1 triệu  người miền Bắc vừa định cư ở miền Nam." Thơ, văn Tao Đàn phần đông là văn hóa Bắc Hà, là những làn điệu của văn minh sông Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn minh Hương Giang và Cửu Long Giang. Bao nhiêu năm đã trôi qua, bây giờ từ vĩ tuyến 17 trở vào trong, chúng ta có một lối ngâm thơ đã trở thành phổ biến : ngâm thơ Tao Đàn .Nó xuất hiện thường xuyên trong cải lương miền Nam hay bài chòi miền Trung. Nó là cái còn lại, là dấu ấn của văn nghệ sĩ đã đưa Tao Đàn vào đời sống văn hóa.
Người khai sinh và điều khiển chương trình Tao Đàn ,như cả nước đều biết là thi sĩ Đinh Hùng. Nam 1956 tôi  ở nhà Thanh Nam ,nơi anh Đinh Hùng thường tới viết bài ,các cộng sự thân thiết nhất của anh đều ở quanh đây nên có thể nói nơi đây là "đại bản doanh" của chương trình Tao Đàn. Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ đức Vinh từ Nha Trang vào cộng tác. Bộ phận thứ 2 là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người "đa năng’ nhất trong ban Tao Đàn là Tô kiều Ngân. Anh vừa là taì tử diễn ngâm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô kiều Ngân réo rắt thường được coi là "indicatif" của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm trước của Ngọc Bích, sau của Phạm đình Chương. Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài.Tô kiều Ngân tuy giọng không khoẻ nhưng anh là người ngâm "khéo" nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ được đời nhớ mãi trong Bài ca ngư phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim ,xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn bá Trác.


Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn , một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ bà Hành . Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau, có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử . Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh.
Sang đến thập niên 60 (thế kỷ trươc) sức truyền lan của Tao Đàn cóø sút giảm đi. Thi ca miền Nam Tự Do với một thẩm mỹ mới, một thẩm mỹ chênh vênh (esthétique de choc)   đã ngự trị thi đàn. Thơ có vần đang chuyển sang không vần của thơ Tự Do. Người ta ưa đọc thơ hơn là ngâm thơ. Nhưng đó lại là một vấn đề khác. Mỗi thời điểm có vấn đề riêng của nó.
Ngày xưa đàn anh Đinh Hùng có nói :"Mỗi một người bạn là một phần đời sống của mình". Thoạt đầu, tôi nghĩ là đàn anh "bốc" đàn anh phán vậy thôi. Nhưng càng già càng thấy đàn anh nói đúng. Bây giờ nói về thời gian sống ở ngõ Nancy còn lại những ai?. Đinh Hùng, Thanh Nam, Thượng Sĩ, Hoàng Thư, Phạm đình Chương, Vũ khắc Khoan, Mai Thảo,  Nhật Bằng, Tạ Tỵ ,Phan Nghị… đều bỏ chúng ta mà đi rồi. Người gần nhất "lên đường" là Huy Quang Vũ đức Vinh. Khi nghe tin Vũ đức Vinh ngắc ngoải hai ông còn lại ngày xưa nhà Thanh Nam là Vũ Quang Ninh va Thái Thủy vội bay sang Seattle thăm bạn, Tới nơi thấy bạn mình đã hôn mê nhưng khi nghe :"Vu Quang Ninh, Thaí Thuỷ sang thăm ông đây"người hấp hối bỗng chảy hai hàng nước mắt. Vu đức Vinh người bạn thường gọi tôi "bạn cũ trên 50 năm" đã từ biệt chúng ta như thế.
Bây giờ còn có người mà kể lại; mai đây không biết còn kể lại với ai?

                                                   
 
PHAN LẠC PHÚC




Xe gắn máy tại miền Nam trước 75

Nói đến xe gắn máy thì chắc là mọi người sống tại miền Nam trước đây  đều biết đến xe Mobylette. Vì Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên hãng  Motobécane của Pháp, chế tạo ra chiếc Mobylette, đương nhiên là hiện  diện trên thị trường Việt Nam. Nhưng nhiều người biết đến tên  Mobylette hơn là Motobécane. Xe Mobylette ở Việt Nam có loại Mobylette  vàng và Mobylette xanh. Cả hai đều dùng động cơ 49,99cc để được xếp  vào loại vélomoteur, không cần bằng lái, nhưng Mobylette vàng thì nhỏ  hơn, chỉ có ống nhún phía trước, còn Mobylette xanh thì lớn, nặng hơn  có ống nhún ở cả bánh trước lẫn bánh sau nên đi êm hơn và giá cao  hơn .

Mobylette Xanh

Mobylette Vàng

Xe Mobylette xem chừng ra không thay đổi nhiều lắm qua nhiều năm. Xe  Mobylette trong thập niên 1950 thân là những ống tuýp hàn lại. Qua  thập niên thì thân làm bằng tôn ép. Màu sắc cũng ít thay đổi. Có lúc  Mobylette vàng đổi thành Mobylette xám. Xe Mobylette được chế tạo để  dễ sử dụng. Xe không cần sang số mà dùng embrayage automatique, vặn ga  lớn thì xe chạy nhanh, vặn ga nhỏ lại thì xe chạy chậm và đứng lại.  Khi muốn nổ máy thì chỉ cần đạp cho nhanh là xe nổ máy. Đạp hoài không  nổ thì chỉ gần gạt môt cái chốt ở đĩa có dây couroie ăn vào động cơ để  tách rời động cơ và bánh sau thì có thể đạp bộ về nhà.

Velo Solex

Velo Solex 1951

Nếu có khi nào trong lúc bạn đạp xe đạp rồi nghĩ bụng sao không gắn  một cái động cơ nhỏ lên xe đạp để khỏi phải đạp thì ý nghĩ đó đã có  người nghĩ đến và chế tạo ra chiếc Vélosolex. Xe Vélosolex là một
chiếc xe đạp có gắn động cơ lên bánh trước. Động cơ này làm lăn một  cục đá tròn phía dưới . Khi người lái kéo cái cần trước mặt thì cục đá  dở hổng lên khỏi bánh trước và có thể đạp như xe đạp. Khi đạp đến một  tốc độ nào đó, hạ cần xuống thì tốc độ của xe làm cho động cơ nổ máy  và động cơ kéo chiếc xe đi bằng bánh trước. Khi xe đã chạy ngon trớn  thì người lái có thể rút chân lên miếng để chân nhỏ ở giữa xe mà ngồi  một cách thoải mái. Từ một ý kiến rất giản dị phát xuất giữa thế kỷ  20, xe Vélosolex vẫn còn tồn tại qua đến đầu thế kỷ 21.

Quảng cáo xe Mobilette

Hình xe Mobylette trên tem thư Cộng Hòa Pháp

Vì cách sử dụng giản dị, trọng lượng nhẹ nhàng nên các xe Mobylette,  Vélosolex thông dụng trong giới sinh viên, học sinh và phái nữ.

Xe Vespa

Xe Lambretta

Ở một hạng cao hơn là các xe scooter của Ý: Vespa, Lambretta. Các xe  scooter này vì lòng máy lớn hơn 50 cc, nhỏ nhất là 125 cc hoặc 150 cc  hoặc 200 cc tùy theo kiểu, nên không còn được xếp vào loại vélomoteur.  Người sử dụng phải trên 18 tuổi và phải có bằng lái. Vì thế, những  người đi xe Vespa, Lambretta thường là ở tuổi trung niên và có đời  sống cũng tương đối khá vì xe scooter đắt hơn. Xe Vespa hàng chục năm  nay không thay đổi mấy. Thân xe làm băng tôn ép. Có lẽ vì thế nên làm  hình tròn như quả trứng để chịu lực tốt hơn. Máy được đặt ở chỗ phình  bên phải, còn bên trái là ngăn để chứa đồ. Vì thế xe Vespa khi chạy  hơi nghiêng về phía phải vì bên này nặng hơn. Xe Lambretta tuy trông  bề ngoài giống Vespa nhưng cấu tạo lại khác. Khung xe bằng ống sắt hàn  lại, máy đặt ở giữa khung và che bên ngoài bằng lớp vỏ sắt. Xe  Lambretta hồi đâu thập niên 1960 có đường nét cong. Cuối thập niên 60,  qua đầu thập niên 70 thì kiểu dáng thẳng, theo như mốt của thời đó,  nên trông thanh nhã. Cả hai đều sang số bằng tay, bóp embrayage vào và  vặn để đổi số.

Vespa Sprint 1974

Lambretta 1974

Từ cuối thập niên 1950, miền Nam cũng nhập cảng các xe gắn máy Đức như  Goebel, Sachs, Puch. Các xe này đều có chung đặc điểm là có bình xăng  đặt trước người lái, sang số bằng tay, có ống nhún cả trước lẫn sau,  và máy đều là 50cc để được xếp vào loại vélomoteur, không cần bằng  lái. Mỗi xe lại có những đặc điểm riêng như máy xe Puch luôn luôn được  bọc trong lớp vỏ bằng nhôm, có quạt chạy để làm mát. Như thế có lợi  điểm là máy xe được làm mát ngay cả khi ngừng đèn đỏ. Vì là xe có sang  số nên tuy chỉ có 50cc, xe gắn máy Đức có sức kéo mạnh hơn các xe  Mobylette ở số 1, 2, nên cũng được dùng để kéo xe lôi, có thể kéo được  thêm được bốn năm hành khách và hàng hóa phía sau. Hãng Puch và Sachs  ngày nay vẫn còn tồn tại.

Goebel

Puch

Sachs

Puch

Goebel

Xe 3 bánh gắn máy Sachs/Goebel

Vào khoảng 1965 thì thấy nhắc đến tên Honda, với một số kiểu xe mới lạ  xuất hiện. Một số xe Honda đầu tiên do người Mỹ mua đem sang Việt Nam  để đi làm việc rồi khi họ về nước thì để lại, lọt ra ngoài thị trường  người Việt mua được. Một trong những công dụng của xe Honda là các phi  công Mỹ dùng để di chuyển giữa chỗ đậu phi cơ và doanh trại. Từ doanh  trại ra chỗ đậu thường xa, đi bộ cũng mất vài phút đến vài chục phút.  Có xe Honda phóng thì thu ngắn thời gian nhất là khi có báo động thì  phóng xe Honda ra máy bay nhanh hơn là chạy bộ. Xe Honda S90 có lẽ là  chiếc được ưa chuộng nhất trong số các xe Honda trước 1965 vì kiểu đẹp  và máy mạnh, tiếng nổ ròn. Các kiểu xe kia là C110, S65 (thường được  gọi là S50), P50, C50. Xe P50 có cấu tạo đặc biệt với máy nằm ở sát  bánh sau và truyền động thẳng vào bánh chứ không qua dây xích. Cách  đặt máy này có lợi là khỏi bị mất lực khi truyền qua dây xích và giảm  bớt số bộ phận nhưng có khuyết điểm là xe dễ bị mất thăng bằng vì đầu  nhẹ, đuôi nặng. Lại thêm khi đi xuống ổ gà vì không có ống nhún nên  sức va chạm có thể làm vỡ răng cưa ở vành bánh xe. Xe Honda dame C50  trước 1965 có chiếc đã có bộ đề bằng điện, khỏi cần đạp. Trong khi  chiếc Honda dame nhập cảnh hàng loạt sau này phải đạp máy nổ bằng  chân.

Honda Dame C50

Honda P50 1967

Honda PC50 1968

Chiếc xe Honda được chính thức nhập cảng để bán cho người tiêu thụ là  xe Honda Dame năm 1965. Hãng Honda thì gọi là kiểu C50, nhưng mọi  người thường gọi là Honda Dame. Có Honda Dame nhưng không ai gọi Honda  Homme, mà gọi là Honda đàn ông. Những chiếc xe Honda Dame đầu tiên  xuất hiện tại Sài Gòn thu hút được sự chú ý của người đi đường. Những  ngày đầu tiên xe bán ra ngoài, trên các nẻo đường phố người ta nhìn  thấy các chiếc xe Honda Dame màu đỏ hay xanh lá cây nhạt. Có người bị  tắt máy xe, hý hoáy nhìn xuống chân vì chưa quen với cách sang số bằng  chân. Sang lộn số có thể làm xe tắt máy. Khi thấy có một số người dắt  xe Honda đi bên đường, có người nói hãng Motobécane của Mobilette thuê  người dắt xe Honda Dame đi khắp các đường phố để người dân thấy xe  Nhật dở, bị chết máy hoài, sợ không dám mua. Không biết là có đúng hay  không. Một số người lúc đó nói là hàng Nhật không bền, chỉ vài năm là  hỏng và tiên đoán rằng chừng năm mười nữa thì các xe gắn máy Pháp, Đức  vẫn còn chạy, còn xe Nhật thì lúc đó vứt đi. Những người đó có lẽ căn  cứ vào phẩm chất hàng hóa của Nhật trước thập niên 1960. Nhưng qua  thập niên 1960, các hãng xe gắn máy Nhật đã trải qua những năm cạnh
tranh khốc liệt trong nước. Vào đầu thập niên 1960, nhiều hãng xe gắn  máy ào ạt ra đời tại Nhật, cuối cùng theo luật thư hùng đào thải chỉ  có những hãng có khả năng cải tiến mới sống còn. Lúc xe Nhật sang Việt  Nam cũng là lúc các hãng xe gắn máy Nhật bắt đầu tung ra thế giới với  nhiều cải tiến làm cho phẩm chất xe Nhật vượt hẳn các xe Tây phương.

Honda S50 69-72

Honda SS50 69-72

Honda SS90

Xe Honda Dame được làm để cho phái nữ đi nên dùng ambrayage tự động,  khi sang số chân không cần phải bóp embrayage tay mà chỉ cần giảm ga.  Các hiệu xe Suzuki Dame, Yamaha Dame cũng giống thế. Còn các xe gắn  máy Nhật kiểu đàn ông được vẽ kiểu giống như những chiếc mô tô phân  khối lớn ở chỗ không có pédale mà có cần đạp cho nổ máy, hai bên có  thanh ngang để chân, bên phải là thắng chân, bên trái là cần sang số,  embrayage tay trái, thắng trước tay phải, bình xăng phía trước. Các xe  này còn giống mô tô ở chỗ hai bên bình xăng có hai miếng cao su để đầu  gối áp vào cho êm. Điều đáng kể là yên xe thấp vừa với chiều cao người  Á Châu khiến cho việc leo lên xe, chống xe dễ dàng hơn khi sử dụng các  xe gắn máy Tây phương. Tay ga vặn nhẹ nhàng chứ không nặng như xe Tây  phương. Máy đạp nhẹ nhàng và dễ nổ.  Nói tóm lại, các nhà chế tạo Nhật  khiến cho các chiếc xe gắn máy sử dụng dễ dàng, tiện nghi hơn khiến  cho người dùng thấy rất thoải mái khi đi xe.

Sau chiếc xe Honda Dame là sự xuất hiện của Honda đàn ông 66 (SS50).  SS là chữ viết tắt của Super Sport. Chiếc Honda 66 xuất hiện vào năm  1966, với màu đỏ hay đen, tay lái ngắn ngủn để người lái thu hẹp khoảng cách hai tay, giảm tiết diện cản gió, xe không có đèn signal,  hộp số có năm số và có thể đạt đến tốc độ tối đa đáng nể là 90km/giờ  đối với một chiếc xe máy 50 cc. Đó là một chiếc xe được vẽ kiểu với các đặc tính của xe đua. Tuy nhiên chiếc xe này không tiện dụng trong  thành phố vì tay lái quá ngắn nên khó điều khiển. Sang năm 1967, Honda  sửa lại kiểu xe cho tay lái rộng hơn, hộp số có năm số, sơn đen hoặc  đỏ, có đèn signal, ống nhún trước có bọc cao su, tốc độ tối đa 80k/  giờ. Kiểu xe 67 (SS50E) đã đi vào lịch sử vì máy mạnh, chạy nhanh,  được nhiều người ưa chuộng và có lẽ là được sử dụng nhiều nhất tại  miền Nam cùng với xe Honda Dame. Về sau Honda có ra các kiểu khác  nhưng Honda 67 vẫn được nhiều người biết đến nhất. Vì máy mạnh nên  chiếc Honda 67 được dùng để kéo xe lôi thay cho các hiệu xe Đức trước  đây.

Honda Dame C50

Honda SS50 – 1967

Cả tứ đại gia của làng xe gắn máy Nhật, Honda, Yamaha, Suzuki,  Kawasaki đều có mặt tại miền Nam lúc đó. Hãng Suzuki tung ra kiểu xe  nam M15 và M12 và xe Suzuki Dame, M31. Hai kiểu xe nam đại khái giống  nhau, dùng cùng một động cơ nhưng kiểu thể thao có ống pô vắt cao và  vè trước ngắn để trông có vẻ thể thao hơn.

Suzuki Dame 1968

Suzuki M15 – 1965

Suzuki M12 1967

Kawasaki 1965

Hãng Yamaha có hai kiểu xe đàn ông, trong đó có kiểu YF5, và một kiểu  Yamaha Dame. Xe Yamaha đàn ông kiểu đẹp, nhiều bộ phận xi bóng loáng.  Yamaha Dame sơn màu xanh da trời, với đường cong dịu dàng, trông rất  mỹ thuật. Các xe Yamaha xem ra không được ưa chuộng bằng Honda vì máy  không mạnh bằng.

Yamaha YL1 1968

Yamaha Dame

Xe Suzuki Dame và Yamaha Dame đèn trước thấp hơn xe Honda Dame, trông  vẻ nhu mì thích hợp với các cô mặc áo dài.

Kawasaki là hãng nhỏ nhất trong các hãng xe Nhật lúc đó, chỉ đưa sang  một kiểu xe đàn ông. Xe Kawasaki chạy tuy tốt nhưng bị chê là nặng và  máy yếu. Xe Kawasaki đem sang Việt Nam là kiểu dùng sườn của xe 80 cc,  thay vào đó bằng động cơ 50 cc để được xếp vào loại vélomoteur, không  cần bằng lái.

Kawasaki 1960’s

Bridgestone 1968

Hiệu xe ít người nhớ đến có lẽ là Bridgestone. Bridgestone là hãng  chuyên chế tạo vỏ bánh xe nhưng lúc đó cũng có một phân bộ chuyên sản  xuất xe mô tô để đua. Kiểu Bridgestone đem sang Việt Nam năm 1966 có  máy 65 cc. Vì thế xe Bridgestone vọt rất mạnh. Đặc điểm của  Bridgestone là hộp số có bốn số quay vòng giống như các xe đua, nghĩa  là sang đến số bốn thì nhấn thêm sẽ trở về số một mà không phải trả số  ngược lại. Xe Bridgestone chìm vào quên lãng của người Việt khi phân  bộ xe mô tô của hãng đóng cửa năm 1967 vì lý do là nếu sản xuất xe đua  thì các hãng xe gắn máy Nhật khác không muốn mua vỏ xe của hãng kình  địch với mình trong các cuộc đua.

Honda Scrambler CL50 1969

Honda Scrambler CL50 70’s

Không như các hãng xe châu Âu giữ các kiểu xe y nguyên nhiều năm, các  hãng Nhật ào ạt tấn công thị trường Việt Nam với các kiểu xe mới ra  mỗi năm. Qua 1968, Honda tung ra xe CL50. CL là chữ viết  tắt của  Scrambler. Đó là kiểu xe được chế tạo để chạy các đường đất lồi lõm  nên chỉ có bốn số, xe kéo mạnh ở số một và số hai, nhưng tốc độ tối đa  kém xe Honda 67. Ống pô vắt cao để khỏi va chạm vào mô đất hay ngập  nước. Qua 1969, Honda tung ra kiểu SS50M. Cũng dùng cùng máy và sườn  như xe Honda 67 nhưng bình xăng dài hơn cho có vẻ thể thao. Qua năm  1970, Honda đưa sang kiểu CD50. Xe này cũng dùng cùng loại sườn và  động cơ như SS50 nhưng bình xăng và hộp đựng đồ phụ tùng vẽ kiểu khác  nên trông bề ngoài khác hẳn. Xe được chế tạo để chạy trong thành phố  nên chỉ có bốn số với các số đầu kéo mạnh, thích hợp với cách chạy xe  trong thành phố phải luôn luôn dừng lại đèn đỏ rồi lại bắt đầu vọt  lên. Cùng là kiểu SS50E, đến 1971, 1972, Honda tung ra kiểu xe với sơn  đỏ metal và vè xi bóng, ghi đông cao kiểu sừng bò trông rất hấp dẫn.  Honda thay đổi hình dáng bề ngoài thu hút thêm khách hàng mới. Năm  1969, Suzuki cũng tung ra kiểu xe mới AS50 trông rất thể thao và rất  đẹp. Ngoài các kiểu xe Honda chính thức nhập cảng, trên đường phố Sài  Gòn thỉnh thoảng xuất hiện một số kiểu xe Honda lạ như Honda Monkey,  nhỏ xíu như xe con nít, hoặc Honda CT50, CT70, với chữ T là viết tắt  của Trail, loại xe Honda dùng để đi dạo chơi ở đồng quê, trên các  đường mòn nhưng tại Việt Nam trở thành phương tiện để đi học, đi làm  tuốt luốt.

Honda SS50E 1970

Suzuki AS50 Maverick 1969

Honda SS50 1967 keo xe lôi

Trong tất cả các loại xe Nhật, chỉ có Honda là dùng loại động cơ bốn  thì, với xăng và nhớt chứa riêng còn các hãng kia dùng loại động cơ  hai thì, chạy xăng pha nhớt.

Với các đủ loại xe tung vào thị trường, đường phố miền Nam trở nên  nhộn nhịp với các loại xe đủ màu sắc. Đường phố Sài Gòn náo nhiệt với  các coureurs cúi rạp trên con ngựa sắt ra sức phóng, lạng, máy nổ ròn,  đinh tai nhức óc. Đúng ra máy xe Honda chạy rất êm. Nhưng vì nhiều  người đã tháo bỏ ốm tiêu hãm thanh gắn ở đầu ống khói nên máy nổ lớn.  Ống này nhỏ như ống tiêu, với thân có đục nhiều lỗ, dài khoảng gang  tay. Chỉ cần tháo con vít nhỏ ở đầu ống khói là kéo ông tiêu ra được.  Lý do tháo ốm hãm thanh là vì người dùng thấy xe chạy vọt hơn.

Sài Gòn nhiều xe hơn và cũng nguy hiểm hơn vì các xe Nhật đều chạy  nhanh, vọt mạnh. Vì thế, một số phụ huynh lo ngại không muốn  mua cho  con mình chiếc xe quá mạnh. Hãng Honda tung ra loại xe PC50, cũng dùng  động cơ 50 cc nhưng không cần sang số, và không vọt mạnh như các loại  xe có sang số. Tốc độ khi chạy nhanh cũng có thể đến 60 km/giờ. Xe  PC50 là kiểu P50 cải tiến lại với động cơ đặt vào giữa cho xe được  thăng bằng hơn và có nhún cả ở bánh trước lẫn bánh sau. Cách sử dụng  xe PC50 cũng giản dị như xe Mobylette chỉ cần đạp nổ máy rồi vặn ga  phóng đi.

Mini Cady 1969

Honda PC50 1968

Hãng Motobécane cũng tung ra kiểu xe Cady nhỏ nhắn thích hợp với giới  học sinh. Cái tên Cady có lẽ từ chữ Cadet, cho biết đây là kiểu em út  trong gia đình Motobécane. Tuy cũng dùng động cơ 50 cc nhưng xe chỉ  chạy được tối đa 40km/giờ. Chạy chậm có vẻ là một khuyết điểm của xe  cộ nhưng đây lại là ưu điểm vì nó là lý do để các bậc phụ huynh chọn  mua xe cho con mình để được an tâm hơn. Với khuynh hướng design nhiều  màu sắc vào đầu thập niên 1970, xe Cady lúc đầu sơn nâu, hay xám, về  sau sơn các màu xanh đỏ vàng sặc sỡ. Cùng với sự xuất hiện của mini  jupe, đường phố Sài Gòn thấy xuất hiện xe mini Cady với hai bánh xe  nhỏ trông rất xinh xắn, đồng thời mini xe đạp cũng xuất hiện và các cô  nữ sinh áo dài mini trông trẻ trung, tươi tắn tung tăng trên các loại  xe mini đủ màu sắc.

Cady

Xa lộ Biên Hòa, ngày nay gọi là xa lộ Hà Nội, thời đó còn rất ít xe  nên trở thành đường thử và đua xe gắn máy. Các loại xe gắn được đem ra  chạy hết tốc độ vào giờ ít xe. Tuy không có tạp chí phê bình, điểm các  loại xe gắn máy nhưng ưu khuyết điểm của các loại được truyền miệng  rộng rãi. Các loại xe máy hai thì tuy có thể chạy nhanh nhưng khi chạy  với tốc độ cao nhiều giờ thì máy bị yếu đi, tốc giảm đi. Chỉ trừ có xe  Honda là được khen là càng nóng máy, càng chạy mạnh. Đúng ra chỉ có xe  Honda sau 1965 mới chạy lâu không bị giảm tốc độ vì Honda cải tiến hệ  thống phun nhớt, làm cho nhớt phun rất nhiều khiến cho khi máy nóng  không bị sức ma sát làm giảm tốc độ. Còn các loại  Honda S65, C110,  tuy có thể chạy được đến tốc độ hơn 100km/giờ nhưng khi nóng máy thì  cũng bị chậm lại.

Mini Cady

Để tăng sức mạnh của xe, xi lanh được xoáy cho rộng thêm từ 50 cc  thành ra 60 cc, 70 cc. Xe xoáy xi lanh chạy nhanh hơn, có thể đến hơn  100km/giờ nếu máy được chỉnh cho đúng.

Một trò chơi đánh cá thời đó của các yêng hùng xe gắn máy, gọi chệch  từ chữ anh hùng vì đua xe là can đảm nhưng không phải là đáng khen, là  lách dưới xe be. Xe be là xe kéo các xúc gỗ dài năm, bẩy mét. Một đầu  khúc gỗ được cột vào xe vận tải phía trước, đầu phía sau gắn vào  remorque sau, còn giữa xe vận tải và remorque sau không có gì ràng  buộc. Chiều cao từ thân cây đến mặt đường chi hơn một mét. Các tay đua  đánh cá xem ai dám lạng chui dưới gầm xe be từ bên này qua bên kia. Vì  khoảng cách thấp nên không thể chạy thẳng đầu mà người lái phải lạng  cho xe nghiêng đi thì mới đủ thấp mà chui qua. Nếu tính sai thời gian,  người lạng có thể bị hai bánh sau chạy tới đụng và cán chết.

Xe gắn máy là phương tiện di chuyển, nhưng cũng là niềm say mê tốc độ  của tuổi trẻ và sự hấp dẫn của màu sắc, kiểu dáng, tiếng nổ. Niềm say  mê này đã ghi vào ký ức của nhiều người miền Nam lúc đó và tồn tại  không phai nhạt với thời gian.

ovv’s 1966-Honda-CB150

Nó trở thành kỷ niệm đẹp mỗi khi nhớ  lại giây phút dắt chiếc xe mới toanh đi về nhà và những ngày tháng  rong ruổi trên những con ngựa sắt.




Gìa nhưng tâm hồn trẻ là hạnh phúc

MỜi ĐỌC CHO VUI. HP.

GIA NHUNG TÂM HỒN TRẺ LÀ HẠNH PHÚC

Tuổi Gìa Nên Phiên phiến mọi chuyện để vui với đời, với mình.

Bạn tôi, có ông tự xưng là Hai Hô. Bởi răng ông hô. Ông rất thích thú với danh xưng nầy. Ông thường nói rằng, ngày xưa còn trẻ, hăng tiết vịt, ai nói gì, đúng hay sai, cũng tìm lời cãi lại . Bây giờ già rồi, nghe ai nói gì cũng thấy xuôi tai, đúng hết. Bởi già rồi, có nhiều kinh nghiệm, thấy được đúng, sai, có nhiều mặt khác nhau.

Bà mẹ ông đã 92 tuổi, mà thường hay nói câu: "Mai mốt tôi già rồi thì…" Mỗi lần nghe câu đó, ông vội cắt ngang lời mẹ, và hỏi lại: "Hơn chín mươi tuổi rồi mà chưa già hở mẹ? Thế thì bao nhiêu tuổi mới là già?" Bà cụ chỉ cười, không đáp lại. Vợ ông thường nháy mắt, nhìn ông che dấu nụ cười bí mật. Người em ông nói:

-"Theo tôi, thì không có ai già, và cũng chẳng có ai trẻ. Già hay trẻ, là một khái niệm rất tương đối. Hồi tôi mười bốn, mười lăm tuổi, thấy các chị hàng xóm mười bảy hay mười tám tuổi là đã già khú đế. Già như sắp mua hòm được rồi. Thế mà khi tôi sáu mươi tuổi, tôi thấy các bà năm mươi là trẻ, và các bà bốn chục tuổi là bọn con nít. Thế thì già hay trẻ, không phải tùy theo số tuổi của họ".

Ông Hai nói, có một lúc nào đó, con người trở nên già. Nầy nhé, mỗi khi đi ra đường, nếu chỉ thấy các bà già nhìn mình, mà các cô gái trẻ không dòm mình nữa, thì phải hiểu là mình đã già rồi. Lại nữa, mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, tóc rụng nhiều, đừng tưởng mình trở nên thông thái, mà phải biết đó là dấu hiệu già. Nếu mình thấy mọi người dường như trẻ lại, thì chính mình già đã đi, vì mình so sánh thiên hạ với cái bóng của mình trong gương soi mỗi ngày.

Ông nói, tuổi già báo hiệu khi sinh lý bắt đầu yếu. Nhịp độ "gần gũi" của vợ chồng thưa dần. Và đôi khi cố gắng làm vừa lòng bà vợ theo định kỳ, mà không có hứng khởi. Những khi đó, nếu bà vợ gạt ra, không cho gần gũi, thì trong lòng lại mừng húm, vì có cái cớ để không làm tròn "bổn phận" mà không áy náy. Ông nói, bực nhất là những lúc mình đang hăng, đang nóng máu, sắp xáp chiến, mà bà vợ cứ cằn nhằn về những chuyện không đâu, như cái hàng rào bị gió vật nghiêng, cây hoa hồng lá bị bạc mốc, con chó bị rận bọ chét. Thế là cả cái thân già nó xìu xuống như cọng bún thiu. Chẳng làm ăn chi được nữa cả. Đành bỏ cuộc vui nửa chừng. Khi còn trẻ, vào những lúc sắp gay cấn như thế nầy, thì dù cho sét nổ trên đầu, cũng không nghe, không biết.

Có người hỏi ông sao không dùng viên thuốc thần kỳ, làm cho vợ chồng vui như thuở ba mươi. Ông nói, đừng tin mà chết sớm, đau tim mà dùng thuốc nầy, thì lăn đùng ra mau lắm. Hồi trước, ông cũng xin ông bác sĩ cho toa thuốc nầy, bác sĩ ấy không chịu. ông cũng hơi giận, nhưng bây giờ thì cám ơn, vì biết được cái nguy hại của nó. Vui chốc lát, mà bỏ mạng, lãng nhách. Theo ông, thì vợ chồng già, ghiền cái hơi của nhau hơn là chuyện vật nhau lăn lộn trên giường. Chỉ cần luồn tay vào áo bà vợ già, mà tìm trái mướp, cũng đủ làm cho bà ấy vui rồi.

Nói về cái tai điếc, ông nói:

-"Có một lúc nào đó, mình nghe nhạc, cứ tưởng là các anh chị ca sĩ dạo nầy không còn hát hay như ngày xưa. Không phải vậy đâu. Thời nào cũng có ca sĩ giọng hay. Nghe không hay vì cái tai mình đã nặng, lãng. Rồi cứ tưởng nhạc dở. Đó là dấu hiệu già. Nhất là khi nghe truyền thanh, truyền hình, thì con cái, hàng xóm, cứ than phiền mở âm thanh quá lớn. Theo mình, âm thanh như vậy chỉ vừa đủ nghe, mà họ bảo oan cho mình là quá lớn".

Ông Hai nói với một bạn già rằng, khi già, lãng tai, điếc tai cũng có cái lợi lớn. Là khi nào vợ nói lời êm ái, dịu dàng, yêu thương, thì nghe cho sướng tai. Khi nào bà trở chứng trách móc, chê bai, than vãn, nói nặng lời, thì cứ nhè-nhẹ gỡ cái máy trợ thính ra, chỉ thấy bà nhóp nhép cái miệng, trông tức cười lắm. Không nghe, thì không bực mình, không giận hờn, mà còn cười, đôi khi nụ cười rất rạng rỡ, cười rất dễ thương nữa. Bà vợ nói như gió vào phòng trống, thấy ông chồng không giận, mà còn cười vui, thì đành im miệng cho đỡ tốn hơi. Và đôi khi còn thương thêm, vì tưởng ông chồng khéo nhịn.

Nhưng một ông bạn khác, nói rằng, khi bà vợ trách móc và thở than, thì để bà ấy nói, cho xả ra, nhẹ bớt bực tức trong lòng. Bởi vậy, mỗi khi vợ ông than vãn, trách móc, thì ông mừng và lắng nghe. Nếu bà ngưng nói, thì hỏi rằng em có gì cần nói thêm, than vãn thêm không, hãy nói cho hết đi, anh nghe đây. Thế là bà dịu xuống, và bà cảm thấy hơi quê quê, nên thôi.

Ông
Hai nói, khi già, mắt yếu, cầm cuốn sách lên, là móc túi tìm cái kiếng. Không có kiếng thì đành chịu thua. Khi đó, mình ít đọc sách hơn ngày xưa. Rất nhiều bạn ông than phiền rằng, dạo nầy, sách vở, báo chí họ in chữ nhỏ hơn, khó đọc. Không phải đâu. Mắt mình mờ, kém, chứ không phải chữ in nhỏ lại. Mấy anh trẻ hỏi ông có bực vì mắt kém không, ông Hai nói rằng, việc chi mà bực? Phải mừng chứ đừng bực. Mừng và cám ơn khoa học tiến bộ, giúp cho mình còn thấy rõ hơn, nghe rõ hơn, mà nếu mình sống mấy trăm năm trước, thì đã mù loà, và điếc đặc rồi. Dù cho nghe ít, thấy không rõ hoàn toàn, nhưng có thấy, có nghe , đã là quá quý rồi. Tuổi đã cao, mà còn thấy được người thương yêu, con cháu, bạn bè. Còn xem truyền hình, phim truyện, thì đã nhận được rất nhiều ân phước của trời ban cho. Phải biết cảm nhận và cám ơn trời

Bây giờ, đi đâu xa ông cũng ngại. Đi du lịch, điều nghĩ đến trước tiên của nhiều người già như ông, không phải cảnh đẹp, điều hay, cái lạ, mà nghĩ đến cái cầu tiểu. Không biết nơi đó có hay không. Cứ vào quán xá, hội trường, thì có thói quen, trước tiên là xem cầu tiểu nằm đâu. Quán nào mà không có cầu tiểu, thì đừng hòng có nhiều ông bà già bước vào. Ông rất sợ mai đây xui xẻo, người ta tôn ông lên làm lãnh tụ. Vì thấy mấy ông lãnh tụ đứng đọc diễn văn, họp báo, duyệt binh, diễn hành, đứng hàng giờ, phải nín tè, khó chịu, mệt và khổ lắm. Ông cũng rất ngại ngủ nhà lạ, cứ nửa đêm, nhiều lần mò mẫm trong bóng tối dậy đi tiểu. Xối nước ào ào làm người khác mất ngủ. Chưa kể lạ nhà, đêm tối, lạc đường mở lầm cửa phòng vợ, con người ta, thì cũng bẽ bàng.

Một lần, bà vợ đè đầu ông xuống mà nhuộm tóc cho ông. Mấy hôm sau, lên xe công cộng, ngồi vào ghế dành cho người cao niên. Ông thấy có một "lão trượng" đứng nhìn ông chằm chằm, như ngầm hỏi, sao không nhường ghế ngồi cho người già cả. Ông đoán chắc, chín mươi phần là "lão trượng" kia còn nhỏ tuổi hơn ông. Ông cứ ngồi lì, làm lơ. Nhưng khi thấy hành khách chung quanh nhìn, như thúc dục, như nhắn nhủ bằng ánh mắt khó chịu, thì ông nhột quá, đứng dậy nhường ghế cho lão trượng kia. Ông nghĩ, không lẽ phải thét lên là tôi còn già hơn lão, và không lẽ phải móc căn cước ra mà chứng minh?. Thôi thì đứng dậy, cho bớt nhột và ngượng ngùng. Rồi tự an ủi rằng, đứng cũng là một cách tập thể dục tốt.

Khi có ai hỏi tuổi, ông Hai Hô cũng tự cộng thêm gần chục năm. Thế là thiên hạ rối rít khen trẻ, xít xoa hỏi làm sao mà giữ được trẻ trung như thế. Ông cười, nói đùa rằng, cứ theo đúng lời dạy vàng ngọc của người xưa để lại, là "đêm bảy, ngày ba" cho khí huyết lưu thông, điều hoà, thì cơ thể trẻ trung mãi. Ông nói rằng, nếu có khai trụt đi năm ba tuổi, cũng chẳng có lợi ích gì, vì mình đâu có toan tính chinh phục, tán tỉnh ai. Khai trụt tuổi, đôi khi người ta còn chê, là trông già trước tuổi.

Lại nữa, phong tục của mình, là kính trọng người lớn tuổi. Nhưng các bà, các cô thì khi nào cũng dấu tuổi, cứ 18 tuổi thì khai là 16, khi 20 khai là 18, và lúc 23 khai là 20. Cứ khai trụt vài ba tuổi, và cảm thấy sướng khi được người khác tin. Khi phải đoán tuổi, ông thường rộng rãi hạ xuống cho các bà, các cô từ năm đến bảy tuổi, để họ sướng, mà ông không mất chi cả, cũng là làm một điều thiện nho nhỏ trong ngày, làm cho người khác vui, yêu đời hơn.

Dạo sau nầy, khi ông ăn uống, thường thức ăn bị đổ vung vãi. Nhiều lần ông tự bảo là cẩn thận. Nhưng hình như cái tay nó không hoàn toàn theo mệnh lệnh của cái đầu nữa. Đưa cơm vào miệng không gọn gàng, cứ rớt ra vài chút. Đôi khi tay run, mà ông không biết. Ông cho đó là dấu hiệu của tuổi già. Nhiều lần bà vợ ông nhăn nhó, la nạt, vì làm đổ thức ăn. Một lần ông nhớ lại câu chuyện đứa bé đẽo cái chén gỗ, cha mẹ hỏi đẽo làm gì, nó nói là để sau nầy cho cha mẹ ăn, như cha mẹ đã cho ông nội ăn chén gỗ. Ông nhỏ nhẹ nói với vợ rằng, nhờ bà đẽo cho ông một cái chén gỗ, rồi mỗi bữa dọn cho ông ăn sau viả hè, bên thềm. Nghe thế, bà vợ nhìn ông một lúc lâu, rồi rưng rưng nước mắt.

Từ đó, bà hết cằn nhằn khi ông làm đổ thức ăn. Ông hay quên. Đôi khi đi xuống nhà kho, mà ngẩn ngơ không biết định xuống để làm gì. Quên trước, quên sau. Một bạn già của ông nói, nếu "cái đó" mà ông trời không bắt dính chặt vào người, thì có khối ông già để quên trên xe buýt, trên tàu điện, ngoài công viên, và khi cần đi tiểu, thì chạy quanh, quýnh lên, mà tìm không ra.

Còn triệu chứng khác nữa, là làm biếng tắm, đôi khi hai ba ngày ông chưa tắm. Cứ nghĩ là có làm chi dơ đâu mà phải tắm. Nhưng rồi nhận ra, thì tuổi gìa sợ lạnh, nhạy
cảm với cái lạnh, nên ngại tắm. Vì thế mà có nhiều cụ già có mùi, họ đâu biết. Ông phải rán tập thói quen, nóng lạnh chi cũng rán tắm mỗi ngày một lần, ngoại trừ trường hợp đặc biệt.

Bà mẹ ông 92 tuổi, đi ăn tiệm, cắn càng cua-rang-muối nghe rau ráu. Thực khách trong tiệm tròn mắt ra mà nhìn. Còn ông, thì ngay cả bánh mì mềm của Mỹ cũng không dám cắn, dùng tay xé nhỏ ra rồi bỏ vào miệng. Bà mẹ ông, ăn uống không kiêng cữ chi cả. Thịt heo quay, vịt quay, cá chiên, gà chiên, bún bò giò heo, phở, nước béo, các thứ độc địa đều ăn tuốt. Thế mà bà không cao mỡ, không cao máu, dù thân thể tròn quay. Cái đó cũng nhờ trời cho. Nhiều bác sĩ cũng khuyên bà, cứ ăn uống thả dàn, cho sướng cái miệng, đừng kiêng cữ làm chi nữa khi ở cái tuổi nầy.

Nhiều ông bạn ông, kiêng khem kỹ lắm, kiêng đủ thứ. Họ xem ba thứ sau đây ngang hàng với thuốc độc: Ngọt, mặn và béo. Họ ăn lạt, không dám ăn đường, ăn béo. Thấy đồ chiên, là họ đã tái mặt. Họ ăn mãi quen miệng, và thấy các thứ thức ăn không mùi, không vị kia cũng ngon. Bởi khi đói, thì cơm thiu, cơm cháy cũng thành ngon. Có kẻ bảo, uổng quá, phí thức ngon của trời cho. Nhưng những người kiêng cữ nầy nói rằng, không tội chi đem chất độc vào người, rồi bệnh hoạn, hối không kịp.

Một ông bạn cho ông Tư biết rằng, theo nghiên cứu của đại học Rockefeller, thì có ba điều kiện để cho người già khỏe mạnh và ít bệnh là: 1) ăn bằng một nửa của bữa ăn bây giờ, 2) thể dục thường xuyên, và 3) làm tình đều đều. Ông không tin, và cho rằng, cái đó chỉ đúng cho người Mỹ mà thôi. Mỗi bữa, họ ăn miếng thịt to bằng bàn tay, một bữa ăn của họ, mình có thể ăn ba bốn ngày mà chưa hết. Nếu mình chỉ ăn bằng một nửa của bây giờ, thì sẽ suy dinh dưỡng, sớm đau ốm mà chết. Còn chuyện thể dục thường xuyên, thì đúng trăm phần trăm. Phần làm tình đều đều, có lẽ không ai chắc, vấn đề là còn làm được hay không, mà còn đòi đều đều. Mình cứ ăn bình thường, đừng ăn quá no, cũng đừng ăn đói. Cứ theo cái đạo trung dung của người xưa đã bày ra từ mấy trăm năm nay. Rượu chè, nếu uống được, thì uống vừa vừa, cũng tốt cho sức khoẻ. Đừng say sưa là được. Lâu lâu cũng rán vui vợ, vui chồng cho khỏi lạt lẽo. Ông Hai đã chữa bệnh biếng ăn cho nhiều bạn bè rất công hiệu. Đó là đừng ăn vặt, và chờ cho khi thật đói mới ăn, chưa đói rã thì chưa ăn. Như vậy thì ăn gì cũng thấy ngon.

Ông có quan niệm phóng khoáng hơn về sự sống và cái chết. Ông cho rằng, chết là một tiến trình của đời sống, hợp với luật thiên nhiên của tạo hóa. Sợ chết là vô lý. Không ai tránh khỏi cái chết, không sớm thì muộn. Ai cũng sẽ chết cả. Ngay cả Phật, Chúa, thần thánh cũng phải chết, huống chi mình là người trần mắt thịt. Chúa Giê-Su chết lúc mới 33 tuổi. Phật cũng chết, thọ không bằng các ông, các bà cụ bây giờ.

Cứ thử nghĩ, nếu già mà không chết, thì bây giờ trên thế giới có đến hơn chín mươi phần trăm cụ già, cụ nào cũng mấy trăm tuổi, mấy ngàn tuổi, ho hen, run rẩy, chậm chạp. Lấy ai làm lao động mà nuôi các cụ?. Nhân loại sẽ đói cho vêu mỏ ra. Già thì phải chết để cho thế giới dược trẻ trung hoá. Khi nào anh chị nghe tin một người già chết, mà lòng không buồn, không thương tiếc, thì anh chị được giác ngộ rồi đó. Có chi mà buồn?. Nếu người chết không để lại một gánh nặng gia đình, một đàn con dại cần nuôi dưỡng, dạy dỗ, một bà vợ chân yếu tay mềm, thì mừng cho người ta thoát được cái hệ lụy của trần gian. Khỏi lo công ăn việc làm, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo thương ghét, ghen tuông, giận hờn, khỏi lo khai thuế cho đúng hạn kỳ. Khoẻ ru.

Nếu người chết đã cao tuổi, trong nhiều năm nằm một chỗ, không nói năng, bại liệt, ăn bằng cách bơm qua ống nối với bao tử, nghe họ chết mà mình khóc lóc, tiếc thương, bi ai, thì hoá ra là không biết điều. Muốn người ta bị kéo dài thêm cái cực hình đó lâu hơn nữa, rồi mới được chết sao?. Nhiều khi, con cháu mừng cho thân nhân họ được chết, mà mình thì sụt sùi thương tiếc.

Ông thường nói, trong tuổi già, sức khoẻ là quý nhất. Nhưng nếu ai đó, có sức khoẻ tốt, không hề đau ốm, thì cũng là một sự nhàm chán. Họ đâu biết họ đang có cái quý báu nhất trong đời. Lâu lâu, phải đau vài trận, để nhắc nhở, và nhớ rằng, không ốm đau là sung sướng, là hạnh phúc lắm lắm. Làm sao bọn trẻ, và những người khoẻ mạnh biết được cái hạnh phúc, cái sung sướng của người già, khi buổi sáng ngủ dậy, mà thân thể không đau rêm, nhức nhối?

Cũng như nếu người ta chưa sống dưới chế độ kềm kẹp, hà khắc, thì làm sao biết được nỗi sung sướng khi được đặt chân lên miền đất tự do? Nên quan niệm rằng, với sức khoẻ nào cũng tốt cả, đừng so sánh với trường hợp tốt hơn. Cứ vui với cái sức khỏe mà mình đang có. Được khoẻ nhiều thì sướng nhiều, khoẻ ít, cũng sướng hơn, vì chưa đến nỗi tệ hại lắm. Nhớ đi khám bác sĩ đều đều, để khám phá ra bệnh, k
ịp thời chạy chữa. Một người bạn ông cho biết, không dám đi khám bệnh thường niên, vì sợ "bói ra ma, quét nhà ra rác". Thế nào bác sĩ cũng tìm ra bệnh nầy, bệnh nọ trong cơ thể và thêm lo. Cứ để thế, rồi khi bệnh nặng thì chết. Bà vợ ông nầy khổ sở lắm, nhưng không thuyết phục ông được. Ông còn nói, bác sĩ thường cho uống thuốc chữa bệnh nầy, thì sinh ra thêm bệnh khác nữa. Hoặc bác sĩ chẩn đoán sai bệnh là thường. Có người đọc báo cáo y khoa, cho biết trên nước Mỹ, mỗi năm có đến hai trăm ngàn người chết, hoặc thương tật vì bác sĩ kém hiểu biết, hoặc sơ suất gây ra.

Theo ông Hai Hô thì đừng sợ. Vì bác sĩ giỏi nhiều hơn bác sĩ dở, và bác sĩ có lương tâm nhiều hơn bác sĩ thiếu lương tâm. Đừng vì một số trường hợp xấu, mà sợ đi khám bệnh. Khám bệnh, để biết trước mà đề phòng, để chữa trị khi bệnh mới chớm, còn kịp, chữa trị dễ dàng hơn. Để ung thư ăn tràn lan ra rồi, thì chỉ có phép lạ, mới cứu được. Người ta, có thể mạnh khỏe cho đến khi chết. Đó là trường hợp hiếm hoi. Nhưng đau yếu trong tuổi già là thường, không đau yếu là bất thường. Có một người than rằng, cứ đi vào, đi ra trong nhà hoài, chán quá.

Ông Hai bảo rằng, được đi vào đi ra như thế là sướng lắm rồi, sao mà chán, vì có nhiều người khác mong được đứng dậy đi vài bước, mà không làm được, vì bệnh. Nhưng theo ông, thì cái người nằm liệt trên giường, cũng tìm được cái thú vui riêng, khi nghe nhạc, nằm mơ mộng, nghĩ đến các kỷ niệm thời còn vàng son, nhớ đến những tội lỗi nho nhỏ mà họ đã phạm một cách cố ý và thích thú.

Ông Hai Hô tập thể dục đều đặn. Ông nói không ai chối bỏ được ích lợi của thể dục, dù già dù trẻ. Không bao giờ trễ để bắt đầu tập thể dục. Không thể dục, thì tấm thân nhão nhẹt ra, rất dễ làm mồi cho bệnh hoạn. Đi bộ trong tuổi già là tốt nhất. Còn khoẻ, thì đi nhanh, yếu thì đi chậm hơn, yến hơn nữa, thì chống gậy mà đi. Có vận động là tốt. Đi bộ, xương đỡ rỗng, đỡ gãy tay chân khi vấp té. Đi bộ cũng làm cho mặt mày trẻ ra, lưng đỡ còng, thân thể đỡ đau đớn, mệt mỏi. Đi bộ cũng vui, nhất là đi với vợ, với chồng, nói đủ thứ chuyện vui buồn.

Nhưng khi bà vợ bắt đầu cằn nhằn vì những chuyện không đâu, thì phải giả vờ chạy, để bà lại phiá sau, cho bà nói với cột đèn, cằn nhằn với cây cỏ. Không có vợ đi cùng, thì đi với bà cụ hàng xóm cũng vui. Bà sẽ không bao giờ dám cằn nhằn ông vì những chuyện không đâu. Bà sẽ lịch sự hơn. Đi với bà hàng xóm, ông bảo, đừng sợ thiên hạ hiểu lầm, cũng đừng sợ chính bà ấy hiều lầm. Không hiểu lầm thì tốt. Hiểu lầm thì càng tốt hơn, vì làm cho bà ấy vui, làm bà nghĩ là còn sáng giá, còn có người ngưỡng mộ đến cái nhan sắc mùa thu của bà. Bà sẽ yêu đời hơn, sẽ ăn ngon, ngủ được, thế thì ông cũng đã làm được một điều thiện nho nhỏ. Ông nói, ông được nghe chuyện một bà cụ 88 tuổi, bà nói rằng, phải đi bộ, phải tập thể dục để chống lại bệnh hoạn. Mỗi ngày bà đi bộ hơn một giờ. Bà nói rằng:

-"Mình phải biết tự thương mình. Con cái có thương mình, chúng có thể cho tiền bạc, quà cáp, chứ không cho mình sức khỏe được. Mình phải tự lo lấy, để mà sống cho vui, sống cho có chất lượng."

Ông nói rằng, thể dục làm tăng tuổi thọ, chứ không làm giảm. Ngoại trừ ham tập, tập quá sức, thì lăn kềnh ra mà chết, mau lắm. Bơi lội là tốt nhất, vận động đủ các thứ bắp thịt. Nhưng tuổi già, thường sợ nước, sợ lạnh. Cái gì sợ thì không nên làm, hại cho sức khoẻ, hại thần kinh.

Mỗi lần nghe có người than là mất ngủ, ông thưòng nói say sưa về bệnh nầy. Theo ông thì những người nầy, đã ngủ đủ, ngủ thừa, nên không ngủ thêm được, mà tưởng là mất ngủ. Vì ban ngày, họ cứ thấy mệt, mắt ríu lại, là ngủ những giấc ngắn. Nên biết, ngủ một giấc chùng 15 phút lúc ban ngày, có thể tương đương với một giấc ngủ 1 hay 2 giờ ban đêm. Mỗi đêm, người bình thường, chỉ cần ngủ ngon chừng 3 hay 4 giờ là đủ mạnh như gấu bắc cực. Nếu không ngủ ngày, thì đêm về ngủ dễ lắm. Không phải tuổi già là mất ngủ, bằng chứng cho thấy chó mèo già ngủ li bì, ngủ ngày, ngủ đêm, ngủ liên miên. Người già dư thì giờ, ban ngày ngủ rồi, thì ban khó ngủ là chuyện thường.

Ông thường nói rằng, đừng sợ mất ngủ. Khi không ngủ được, thì dậy đọc sách, viết thư, làm thơ, xem truyền hình, gõ máy vi tính, đọc thư bạn bè, hãy tận hưởng cái thời gian quý báu đang có. Rồi chờ cho thật buồn ngủ, không thức nổi nữa, vào giường nằm, sẽ ngủ được ngay, và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng. Đừng ép giấc ngủ, ép giấc ngủ sẽ khó ngủ hơn. Cũng đừng uống thuốc ngủ. Đại kỵ. Uống thuốc ngủ nhiều, làm hư hại hệ thống thần kinh. Đừng nằm nhắm mắt mà đếm cừu, nếu phải đếm, thì đếm những người tình cũ. Mau ngủ hơn. Nếu đời chỉ có một hai người tình thôi, thì đừng đếm một hai, một hai, không có lợi. Hoặc nằm mà hát trong tr&iac
ute; những bài ca du dương, đẹp, gợi nhiều kỷ niệm êm ái, thân thương.

Bà chị ông, cứ than phiền là mất ngủ, nhưng khi đi chơi, cứ leo lên xe thì quẹo đầu ngáy khò khò, ngủ suốt buổi, suốt ngày, ngủ mà quên xem phong cảnh. Ngủ như thế thì no rồi, dư rồi, nên khi đến khách sạn, thì làm sao mà ngủ thêm được nữa. Bà chị nói, đi chơi xa sợ mất ngủ. Bà ấy thực sự ngủ nhiều hơn ai cả, mà bà tưởng là mất ngủ. Một chị khác than là mất ngủ kinh niên, ghé nhà ông chơi. Ông nói là sẽ chữa bênh mất ngủ cho chị. Ông dẫn chị kia đi chơi, suốt ngày lội bộ, chị vừa đi vừa ngủ gật, ông không cho ngủ. Ông nhờ hết việc nầy qua việc nọ, không để chị có thì giờ mà ngủ gật. Đêm không cho đi ngủ sớm. Mới mười giờ đêm, mệt quá chị năn nỉ xin đi nằm, và đánh một giấc ngon lành dài đến sáng hôm sau.

Trong mấy hôm liên tiếp đêm nào chị cũng ngủ li bì, ngủ ngon, không cần thuốc thang chi cả. Ông truyền bí quyết, là không ngủ ngày, mệt mấy cũng không ngủ, ban đêm đừng đi ngủ sớm, phải chờ cho mắt ríu lại, mở không ra, mới đi ngủ, thì ngủ ngon."

Nhiều người già tự đặt cho họ một kỷ luật để sống. Theo ông, thì có kỷ luật cũng tốt, mà không kỷ luật lại càng khỏe hơn. Nhiều người tính tình nghiêm khắc. Mọi sự đều phải răm rắp đúng như quy định mới chịu. Tội chi vậy, nếu không răm rắp, mà không chết ai, hại ai, thì răm rắp làm chi cho khổ mình, khổ người? Nên dễ dãi với mọi sự, dễ dãi với chính bản thân mình, kẻo tội nghiệp nó. Khắc kỷ cũng là điều hay. Nhưng tội gì mà tự khắt khe với chính mình, người khác không khắt khe thì thôi. Nên cứ xem mọi sự như trò chơi. Chơi vui nhiều thì tốt, vui ít cũng tốt luôn. Ông không mong cái tuyệt đối, hoàn hảo.

Trong một cuộc chơi, ông không hy vọng được tất cả mọi người tham gia, có ít vui ít, có nhiều vui nhiều. Hai ba chục người cũng vui, mà năm bảy bạn bè cũng vui luôn. Nếu hụt một cuộc chơi, một cuộc gặp gỡ, ông cũng không tiếc, chẳng sao cả, ông về nhà mở nhạc, mở TV ra mà thưởng thức. Ông nghĩ, được thêm một dịp nghỉ ngơi, yên tĩnh. Có lần đi trể máy bay? Ông bình tĩnh xin đi chuyến sau mà không được. Ông cũng cười, không bực mình, quay về nhà, pha một bình trà, đem một tập thơ ra mà ngâm vịnh, nằm ngửa mà thưởng thức cuộc tranh tài thể thao. Ông nói, đôi khi nhờ trễ một chuyến may bay mà sống sót, nếu máy bay rớt. Chiều ra ngoài quán uống cá phê xem sinh hoạt phố phường. Nói chuyện tào lao với chủ quán.

Ông không bao giờ tranh luận gay gắt với ai. Ông nói, tranh luận làm chi cho mệt, rồi giận nhau?. Trong tuổi già, khi có cuộc tranh luận, thì tránh là tốt nhất. Nếu không tránh được, thì chịu thua đi, thắng làm chi, để cho đời ngắn lại? Thắng tranh luận, làm thiên hạ ghét, làm mất lòng bạn bè, làm người bị thua tức giận, và nóng mặt, không ưa mình. Không ai ghét người thua trong cuộc tranh luận. Người thắng cuộc, dễ bị ghét hơn. Thử đánh một ván cờ xem, nhường cho đối phương thắng, làm họ vui hơn, không chừng mình đưọc đãi đằng hậu hỉ hơn.

Đến nhà người ta, mà cãi nhau, tranh thắng, làm họ mất mặt với vợ con, với bạn bè, thì đừng mong chi được tiếp đãi thắm thiết. Khi thua, mình không thiệt thòi, mất mát chi cả, mà lại được thương, tại sao không chọn tình thương, mà chọn cái bị ghét. Thắng tranh luận, cũng chưa chắc mình đã giỏi hơn người, mà giỏi hơn để làm chi? Và cũng chưa chắc ngưòi ta đã chịu cái lý của mình là đúng. Trong tình vợ chồng cũng vậy, nhiều ông nhiều bà tranh hơn thua từng ly, từng tí, cãi vả nhau tưng bừng về những điều không ích lợi chi cho ai cả. Rồi giận nhau, nói nặng nhau, làm nhau đau đớn vì lời nói thiếu tử tế, thiếu lịch sự. Có ích lợi gì đâu. Tranh nhau thắng thua, làm sứt mẻ hạnh phúc gia đình, làm mất đi thì giờ quý báu bên nhau, làm không khí gia đình nặng nề. Đừng bao giờ nói là phải làm cho ra lẽ, không thì hoá "lừng". Hãy cứ để cho chồng mình, vợ mình "lừng" đi, cho họ sướng. Tại sao đi ra ngoài, không dám "lừng" với thiên hạ, mà về nhà lại "lừng" nhau làm chi cho mất vui.

Ông thường nói, cứ chịu thua đi là khoẻ nhất. Ông đã thua, thì không việc chi mà ai đó gây hấn thêm. Đúng hay sai, ông tự biết. Không cần tranh luận nhiều. Có tranh luận, thì cũng chưa chắc đã thuyết phục được đối phương mà không gây mất mát. Mỗi lần phải tranh luận với ai, thì ông nhớ lại chuyện ông Pol Pot. Ông nầy đã giết chết hơn hai triệu dân vô tội, tức khoảng một phần ba dân số Kampuchia của ông thời đó. Thế mà cuối đời, khi sắp chết, ông Pol Pot nói với một phóng viên Tây phương rằng, những điều ông đã làm, là lợi ích cho dân tộc của ông. Nhớ chuyện đó, làm ông đỡ ngứa miệng xen vào những cuộc tranh luận.

Khi có ai chê bai ông, ông chẳng bực mình, không giận hờn, mà cứ cười, và xem như không. Ông tự nhủ, biết đâu ông cũng đáng chê, đáng trách. Nghe thiên hạ chê, để mà sửa mình, biết mình còn c&a
acute;i chưa hay, sai sót. Không phải ông là kẽ mặt dày không biết xấu hổ, nhưng thiên hạ chê, mà không phản ứng, thì như gió qua truông. Có một ông khác, bị vợ chê bai hoài, chê đủ thứ. Ông nầy chỉ cười, mà nói với bà vợ rằng, ông không ngờ bà xui xẻo đến thế, lấy phải một thằng chồng tệ hại như vậy, tội nghiệp cho bà quá. Bà vợ nghe mà chột dạ, và biết đã ăn nói quá trớn.

Khi nghe ai khoe khoang, ông cũng không bắt bẻ, không lật mặt thật của họ ra, sợ làm cho họ xấu hổ, bẽ bàng. Ông cứ giả vờ tin, để mà đãi họ vài phút vui sướng, cũng là làm được một việc thiện nho nhỏ. Ông không mất gì, và chẳng thiệt hại cho ai, mà cuộc đời nầy thêm vui, thêm tử tế. Bởi nghĩ thế mà ông làm.

Ông Hai Hô quan niệm rằng, trong tuổi già, có hoài bảo thì cũng tốt, mà không có hoài bảo chi cả, thì tốt hơn, và khôn ngoan hơn. Khi trẻ, nhiều thì giờ, nhiều năng lực, mà chưa có hoài bảo nào làm xong, thì khi già rồi, mong chi đạt được. Tội chi đeo vào thân cái hoài bảo cho khổ. Già rồi, đừng xem cái gì là quan trọng cả. Từ danh vọng, tiền tài, tình yêu. Ngay cả cái mạng sống của mình, cũng đừng xem là quá trọng. Có lần, ông đến thăm một nhà văn đang nằm thoi thóp, miệng ngậm một cái que gỗ có thấm nước cho đỡ khát, sắp chết vì ung thư. Ông nhà văn còn thao thức vì một tác phẩm để đời chưa khởi đầu được. Chết chưa an lòng. Ông nói:

-"Thôi bác ơi, chuyện gì mình chưa làm được, thì thế nào con cháu mình sau nầy cũng làm. Yên tâm mà dưỡng bệnh đi".

Ông Hai Hô cho rằng, cứ năm ba ông bà bạn già gặp nhau, uống vài ly trà, cà phê mà nói chuyện nhảm cũng là một thứ hạnh phúc trong đời. Ông nói, dù đến để nghe thằng bạn già nó chửi mình, cũng cứ vui, được người ta chửi, tức còn có người để ý đến mình, còn hơn là không ai khen, ai chửi cả. Những dịp ra mắt thơ, ra mắt sách, ông thường tham gia cho cuộc họp thêm xôm tụ. Cho tác giả sướng. Ông khoái các buổi ca nhạc cây nhà lá vườn, tài tử. Nó cũng có những cái hay của nó.

Những buổi họp mặt anh em bạn cũ, ông không bao giờ bỏ qua, ông nói là không tham dự thì uổng lắm. Ông cho rằng, tuổi già, mà còn gặp lại được bạn xưa, thì không còn gì quý báu hơn. Nằm nhà xem sách, xem truyền hình, đá banh, đâu vui bằng gặp bạn cũ. Gặp dịp vui, thì cứ vui kẻo uổng, biết mình còn sống được bao lâu nữa mà mãi phí ngày giờ chạy theo lợi lộc.

Mỗi khi có ai mời đi đám cưới, tiệc tùng, ông đến đúng giờ, mà thiên hạ tà tà đến trể, ông cũng không bực mình. Bởi người ta quen giờ cao su rồi. Họ có cả trăm ngàn lý do để biện minh. Ông có đến sớm, thì cũng có cái lợi khác, được nói chuyện, gặp gỡ, tâm sự tào lao với những bạn bè mà từ lâu ít có dịp gặp nhau. Cũng vui và quý. Dễ chi có cơ hội thuận tiện để gặp nhau. Đến khi dọn thức ăn ra, không còn cơ hội để nói chuyện nữa, vì ai nấy, lo gắp, lo nhai, không rảnh mà nói chuyện. Khi ăn xong, thì bạn bè vội vã ra về, vì đường xa, vì đêm khuya, vì mệt nhọc. Bởi vậy, ông cứ vui với cái bê bối của thiên hạ, và bằng lòng với câu "Không ăn đậu không phải Mễ, không đi trễ, không phải Việt Nam."

Ông Tư Hô thường nói, tuổi già, cứ phiên phiến với mọi sự, cho khoẻ, cho sướng cái thân già của mình.

Tràm Cà Mau.

Santa Ana, tháng 10/2007.

Gởi quí vị xem mấy bức hình nầy cho vui.
Cô người Nga cao 1.96m 36
tuổi gặp cậu người Mông Cổ cao 0.74m 20 tuổi trong dịp ra mắt sách Kỷ Lục Thế Giới 2009 tại công trường Trafalgar Luân Đôn Anh Quốc. HP.

Xin click vào đây để xem hình 

 




VALENTINE: TÌNH YÊU TRONG THI CA VN (Tuyết Mai)

VALENTINE: TÌNH YÊU TRONG THI CA VN
                                                Tuyết Mai
 
 
Nhân ngày Valentine sắp tới đây, tưởng cũng nên nhắc lại nguồn gốc của ngày này. Người Anh và Người Pháp tổ chức lễ Ngày tình yêu này từ thời Trung Cổ, nhưng đến thế kỹ XV II, tập tục tặng tihệp làm bằng tay cho người yêu mới phổ biến. Hình ảnh tiêu biểu cho tình yêu thưòng thấy là hình trái tim, hoa hồng, mũi tên và vi thần tình yêu Cupid. Theo nhiều truyền thuyết về nguồn gốc của ngày này thì Valentine chính là một linh mục dưới thời Hoàng Đế La Mã Claudius II. Theo quan điểm của Hoàng Đế Claudius I I, đàn ông độc thân chiến đấu anh dũng hơn những ai đã có vợ con, vì người có vợ con có nhiều lo âu,
 
Thế là ông ra lệnh cấm tất cả thanh niên trai tráng lấy vợ . Linh mục Valentine đã chống lại sắc lệnh của Hoàng đế, ông đã bí mật cử hành lễ cưới cho nhiều cặp vợ chồng trẻ. Khi bị phát hiện Linh mục Valentine bị tử hình.
 
Để tưởng niệm ông, mọi người lúc bấy giờ quyết định lấy ngày mất của thánh Valentine làm ngày hò hẹn và đính ước. Dần dần với thời gian người ta có nhiều thay đổi trong ngày lễ này, vi dụ hư tặng hoa, tặng chocolate tặng nữ trang có hình trái tim cho người yêu. Đây là giả thuyết được nhiều người chấp nhận. 
 
Có giả thuyết cho Valentine chính là người gữi tấm thiệp Valentine đầu tiên. Lúc bị giam cầm vào ngục, Valentine đem lòng yêu một cô gái. Oái oăm thay, cô gái đó lại chính là con gái của kẻ đã bắt giam ông. Trứơc khi ra pháp trường (vào ngày 14 tháng 2) ông viết một lá thư cho người yêu rồi ký tên “From your Valentine” (Người gữi: Valentine của em) . Đến nay mọi người vẫn có phong tục không viềt tên mình dưới tấm thiệp gữi trong ngày 14 Tháng 2 mà dùng lại cụm từ ” From your Valentine”.
 
Tất cả truyền thuyết đều nói rằng: Valentine là một người có trái tim nhân ái, anh hùng, và lãng mạn. Vì vậy , tất cả những ngừơi si tình đều lầy tên ông, ký tên trong những bức thư tỏ tình vào ngày 14/2.
 
Nói đến Valentine là nói đến tình yêu, là niềm giao cảm kỳ diệu, là những rung động bất tận của những trái tim đa cảm … cho đến nay tình yêu vẫn còn là những hiện tượng còn đầy bí ẩn mà loài người vẫn chưa định nghĩa được cho thấu đáo. Thi ca VN là một dàn đại hợp xướng , kết hợp bằng   những giai điệu tuyệt vời, những âm hưởng du dương và lãng mạn, tình yêu trong thi ca VN đã trở thành một đề tài lớn, một nghệ thuật rực rỡ và vĩnh cữu của nền văn hóa dân tộc.
 
Xuân Diệu, một nhà thơ lớn của thi ca VN, dỗi hờn với người yêu:
Được giận hờn nhau ! sung sướng biết bao nhiêu
Anh một mình nghe tất cả buổi chiều
Vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh”
(Tương Tư Chiều)
 
Với Xuân Diệu không thể ngầm hiểu nhau mà phải nói lên thật nhiều lần:
 
“Yêu tha thiết , thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu, trăm bận đến ngàn lần
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm Xuân
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái”                                                  
(Phải nói).
 
 
Vũ Hoàng Chương tha thiết mời gọi, van xin người yêu:
 
“Yêu tôi với tôi làm thơ ân ái
Để yêu người và cũng để người yêu
Để em qua trong từng bước diễm kiều
Trong cảnh nước non tình tôi xếp đặt
Ngày hôm nay cánh bướm vàng phơ phất
Các em đi tha thuớt áo tô màu hoa”
(Xin hãy yêu tôi)
 
Nguyễn Nhược Pháp diễn tả trâm trạng yêu ngất ngây của cô gái tuổi mười lăm đi Chùa Hương gặp chàng trai trẻ:
 
“Làn gió thổi hây hây
Em nghe tà áo bay
Em tìm hơi chàng thở
Chàng ơi chàng có hay
 
Đường đây kia lên trời
Ta bước tựa vai cười
Yêu nhau , yêu nhau mãi!
Đi, ta đi, chàng ơi!
 
Ngun ngút khói huơng vàng                                                          
Say trong giấc mơ màng
Em cầu xin Giời Phật
Sau cho em lấy đựơc chàng”
(Chùa Hương)
 
Đỗ Huy Nhiệm nũng nịu “Bắt Đền” người yêu:

”Hôm nay em đến bắt đền anh

Đã để cho em ngủ một mình
Trong giấc mơ màng bao sợ hãi
Quờ tay chỉ thấy bóng trăng thanh!
 
Phòng vắng sương gieo, gió lạnh vào
Tìm chăn, chăn đã biến nơi nao
Lạnh lùng em muốn anh ôm ấp
Để cõi lòng em ấm chút nào
 
Em giận con gà gáy sáng ran
Làm em trót tỉnh giấc mơ tan
Anh ơi khẽ kéo rèm the lại
Nối lại cho em giấc mộng vàng”
 
Nguyễn Bính thì dối lòng, không dám nhận mình yêu:

”Cô chẳng bao giờ biết đến tôi,

Mà tôi dan díu mấy đêmrồi
Mấy đêm dan díu người trong mộng
Mộng tỉnh canh tàn châu lệ rơi
 
Chòm hoa dâm bụt bên bờ giếng
Nở đỏ như muôn mản lụa điều
Tôi dối lòng tôi nên chẳng dám
Nhận là mình đã bắt đầu yêu”
(Nhặt Nắng)
 
Thanh Tịnh bâng khuâng … tình yêu như áng mây chiều:
 
Còn nhớ hôm xưa độ tháng này
Cánh đồng xào xạc gió đùa cây
Vô tình thiếu nữ cùng ta ngắm
Một đoạn tơ trời lững thững bay
 
Tơ trời theo gió vướng mình ta,
Mối khác bên nàng nhẹ bỏ qua
Nghiêng nón nàng cười đôi má thắm
Ta nhìn vơ vẫn áng mây xa”
(Tơ trời vời tơ lòng)
 
Hồ Dzếnh Ngập ngừng… xin em cứ hẹn nhưng đừng đến nhé:
 
“ Em tôi ơi, tình có nghĩa gì đâu
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu?
Thủa ái ân   mong manh như nắng lụa,
Hoa bướm ngập ngừng, cỏ cây lần nữa,
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi
Chỉ ng ày mia mới đẹp, ngày mai thôi!”
Nếu trót đi em hãy g ắng quay về,
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho ngh ìn sau…lở lửng…với ngàn xưa”
(Ngập Ngừng).
 
Hàn mạc Tử thích đi vào cỏi mộng:
 
“Mà anh hay em trong tim đều rạn
Đều chôn sâu hình ảnh một người thơ
Bây giờ đây quấn quít hiện bây giờ
Chỉ biết có đôi ta là đang sống
 
Đang cho nhau ngọt ngào và đang mộng
Cố làm lơ không biết đến thời gian
Đến bông hoa tàn tạ với trăng ngàn
Đến những tình duyên xung quanh thất vọng
Nhiều hành tinh tan đi vì đã lỏng
Ôi muôn năm! Giác mộng đả đời chưa?”
(Đôi ta).
 
 Nguyên Sa đắm đuối trong tình yêu:
 
“Tháng sáu trời mưa em có nghe mưa xuống
Trời không mưa em có lạy trời mưa
Anh vẫn xin mưa phong tỏa đường về
Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm
 
Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa Xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc
 
Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
    Anh sẽ nhớ suốt đời mưa Tháng Sáu.”
 
Những dòng thơ trữ tình trên đây đã nói lên khát vọng thiết tha với tình yêu của thi nhân, còn đọng lại trong bầu trời thi ca VN, tạo nên những cung
 bậc , mà người yêu thơ càng đọc, càng cảm thấy ngọt ngào, say đắm.
 
Chính những khát vọng mãnh liệt này đã mang đến cho thi ca VN một
sắc thái quyến rũ lạ lùng và tình yêu là vô tội , đẹp như hương yêu say dậy
với trăng rằm. 



Tiếng kêu cứu của núi rừng (LM Vĩnh Sang)

Tiếng kêu cứu của núi rừng
VietCatholic News (15 Mar 2009 11:16)
Báo Saigon Tiếp Thị số 22 ra ngày thứ Sáu 6/3/2009, nơi trang 36 có đăng bài “ Chuẩn bị khời công nhà máy luyện Oxid nhôm” của tác giả Bảo Ngọc. Bài báo được nhấn mạnh ( in chữ to ) bởi một đoạn như sau:

Công ty cổ phần Alumin Nhân Cơ ( thuộc tập đoàn than khoáng sản Việt Nam TKV ) đã hoàn tất việc san ủi mặt bằng chuẩn bị khởi công nhà máy luyện oxid nhôm tại xã Nhân Cơ ( huyện Dak Rlap ), Với diện tích 200 hecta, các hạng mục phụ trợ khác như đường vào nhà máy, khu nhà điều hành, … cũng đã hoàn thành.

Với thông tin này, bài báo cho thấy người ta chính thức khẳng định quyết tâm thực hiện dự án khai thác quặng boxit vùng tây nguyên, bất chấp dư luận và bất chấp phản biện xã hội, cho dù các phản biện đó có căn cứ khoa học và văn hóa. Khai thác quặng boxit tại tây nguyên, người ta cố tình thực hiện một cuộc tàn phá hủy diệt môi trường sống của muôn loài, trong đó có loài người, có một chủng tộc con người mang tên Việt Nam.

Không thể biện minh bằng lợi nhuận kinh tế, bởi các nhà kinh tế và khoa học đã chỉ ra rằng không có lợi nhuận cho quốc gia về phương diện kinh tế, ngược lại còn làm thiệt hại kinh tế do lượng điện, lượng nước tiêu thụ quá lớn nhưng giá thành của thành phẩm trên thế giới quá rẻ.

Theo dõi các phản biện được công khai phát biểu, chúng ta không hiểu nổi tại sao người ta lại quyết định như thế nếu người ta còn lương tri.

Không thể tin được qui trình được vạch ra trên giấy mà có thể áp dụng trong thực tế. Người ta biện minh bằng qui trình rằng, làm vệ sinh mặt bằng ( khai thác gỗ ), bóc lớp đất mặt để qua một bên, khai thác lớp quặng bên dưới, sau đó lấp lại lớp đất mặt, bón thêm phân để phục hồi đất và tái trồng cây phủ xanh mặt bằng. Tin được không ? Con nít cũng không tin được. Họ làm như họ đào một khoảng đất vài mét và làm hoàn chỉnh ngay trong ngày, mà ngay cả làm trong một phạm vi nhỏ bé như vậy, họ có bao giờ làm đàng hoàng đâu, cứ xem ba cái lô cốt trong thành phố này, hết ngày này qua ngày khác, rào lại để hạn chế đường giao thông, vắng tanh không một người thợ làm việc, cứ vậy năm này qua tháng khác ( báo Tuổi trẻ số ra ngày thứ hai 9/3/2009 thông tin nơi trang 3: có 194 lô cốt trên 72 tuyến đường ). Mà nếu có cái nào làm xong, thi hãy chạy một vòng để xem cách họ tái tạo mặt bằng, nham nhở như gương mặt nham nhở của những kẻ vô lương tri. Tội nghiệp ! báo ra ngày hôm nay ( báo Phụ Nữ thứ ba 10/3/2009 ) đăng tin về một người con gái, tuổi em còn rất trẻ ( 22 tuổi ), em đã trượt ngã xe vì mặt đường tái tạo không hoàn chỉnh, chiếc xe sau chồm tới cán chết em tại chỗ, đau xót làm sao ! Biết tin này, nhưng kẻ có trách nhiệm có thấy một chút gì ân hận không? Tôi nghĩ là không, vì nếu có thì đã bao nhiêu cái chết thương tâm trước đó do cách làm cẩu thả phải làm cho họ thay đổi cách làm việc đi chứ, dâu cứ mãi như vậy.

Họ rẻ rúng mạng con người quá, họ chỉ biết lợi nhuận dành cho họ, họ bất chấp hậu quả tai hại như thế nào để lại cho người khác gánh chịu. Tôi không tin và tôi chắc rằng rất nhiều người không tin vào lời cam kết theo qui tŕnh để tái tạo mặt bằng của những người chủ trương khai thác quặng oxid nhôm.

Khi khai thác, họ có tính đến việc những cơn mưa ở đầu nguồn sẽ đổ xuống không ? Họ có biết những cơn mưa lũ đầu nguồn sẽ gây ra những tai hại gì khi đống đất dở dang đang được bóc ? Hay họ sẽ “vắt đất thay trời làm mưa, nghiêng ruộng đổ nước ra biển” ? Có thể lắm, xưa nay họ vẫn chủ trương như vậy mà, nếu vậy kinh nghiêm “chống băo, chống lũ, chống lụt, chống …” chống cả trời đất bao nhiêu năm nay sẽ dạy họ thêm bài học nào nữa ? Bao nhiêu người dân vô tội, của cải ruộng vườn, cơ nghiệp,.. sẽ chịu thiệt hại để trả giá cho bài học kiêu ngạo ?

Làm sao để bóc tách được oxid nhôm ra khỏi quặng thô ? Sẽ phải dùng bao nhiêu nước, bao nhiêu điện cho công việc này ? Ngay đầu nguồn, nước bị tận dụng vào khai thác quặng, mạch nước ngầm cũng như không ngầm sẽ ra sao ? Số phận của bao nhiêu gia đình miền xuôi cuối nguồn nước sẽ ra sao ? Ngay bây giờ đă thiếu nước sạch sinh hoạt, khai thác quặng ở đầu nguồn thì thiếu cái gì ? Mấy ngày nay trời chưa khô điện đã thiếu, “mấy ông lớn” đổ lỗi cho nhau, chỉ người dân nghèo chịu … chết, các ông vẫn nằm phòng máy điều hòa không khí, vẫn ngồi xe máy lạnh và vẫn đổ bia đổ rượu để trầm ḿnh trong các cuộc truy hoan “vì công vụ” !

Để bóc tách quặng có dùng hóa chất không ? Các nhà chuyên môn bảo rằng có, mà là hóa chất cực độc, vậy thì những giòng hóa chất thải ra len lỏi đến tận đâu, có thấm vào thịt đất không ? Có tràn vào các giòng sông giòng suối không ? Ai bảo đảm rằng ngăn chặn được giòng chảy này ? Ai bảo đàm rằng không thấm vào thịt đất ? Ai bảo đảm được xin trả lời cho công luận. Công trình hầm Thủ Thiêm, hàng chục chuyên gia, bao nhiêu m&a
acute;y móc tối tân, những bài tính được xây dựng bằng những phương pháp hiện đại, chọn lựa vật liệu rất kỹ lưỡng, thử nghiệm thiết kế cấp phối trước khi thi công, xay đá cục lạnh trộn vào để chống tăng nhiệt, tính toán phụ gia, hàng trăm cán bộ giám sát, thi công thử nghiệm mô hình thu nhỏ,.. . Thế mà 4 đốt hầm vượt sông Saigon sang Thủ Thiên bị … nứt thê thảm !

Hóa chất tràn lan. Vụ án chất độc màu da cam còn có Mỹ để kiện, chất độc từ việc khai thác quặng này kiện ai ? Cứ xem vụ án Vedan thì biết người dân sẽ kiện được ai ? Nửa năm trôi qua của vấn đề, hàng chục năm đi qua trong thiệt hại, các chủ nhân ông vẫn sống nhởn nhơ, vẫn tiếp tục sản xuất, vẫn tắm bia tắm rượu. Cả một guồng máy công quyền hùng mạnh bách chiến bách thắng đứng cãi nhau, báo chí càng la to, sức ì càng lớn, rồi đây khi “cứt trâu hóa bùn”, nhặt vài anh “to miệng” ra tòa là xong mọi chuyện ! Đất nước này, người dân này oằn mình chịu khổ đau.

Một bộ phận rất lớn người anh em miền núi làm nên dân tộc Việt Nam, cuộc sống của những bộ tộc này gắn liền với núi rừng, rừng là nhà để sống, âm thanh của rừng là tiếng nhạc cồng chiêng. Ba mươi năm trước, cuộc di dân ồ ạt lên tây nguyên, biết bao nhiêu hecta rừng đă bị đốn sạch, rừng cạn kiệt, thú rừng cạn kiệt, người anh em miền núi thoi thóp sống, lẻ tẻ một vài thú rừng còn sót lại điên cuồng phá phách để chết, bài học đó vẫn còn sờ sờ trước mắt, nhưng người ta nhắm mắt lại để tận diệt rừng, hóa ra rừng như là “kẻ thù” của họ vậy ! Tội nghiệp rừng, rừng vẫn từng che chở nuôi sống họ, bây giờ họ tự sống được rồi, rừng không còn cần nữa.

Chúng ta đọc được trong học thuyết xă hội của Giáo Hội Công giáo các hướng dẫn sau đây có liên quan đến nỗi đau mà chúng ta đang gánh chịu ( sách Tóm lược học thuyết xă hội của Giáo Hội Công giáo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy Ban Bác ái Xă hội, Nhà xuất bản Tôn giáo, xuất bản quí 4 năm 2007, sách có bán tại các nhà sách công giáo ).

(470) Các chương trình phát triển kinh tế cần phải cẩn thận lưu ý tới “nhu cầu tôn trọng sự tòan vẹn và chu kỳ tuần hoàn của thiên nhiên”, vì các tài nguyên thiên nhiên thì có hạn, thậm chí có một số tài nguyên không thể tái tạo được. …

(471) Mối quan hệ của những dân bản địa với đất đai của họ và tài nguyên là một điều rất đáng chú ý, vì đó là cách biểu hiệu cốt yếu nhất bản sắc của họ. Vì những nguồn lợi lớn lao về công – nông nghiệp hay vì tiến trình đồng hóa và đô thị hóa quá cao, nên nhiều người trong số các dân tộc này đã đành để mất hay liều mất đất đai mà họ đang sống trên đó, những mảnh đất đă từng gắn chặt với ý nghĩa cuộc đời họ. Quyền lợi của các dân bản địa cần phải được bảo vệ một cách thích đáng. Các dân tộc này cho ta một điển hình về đời sống hài hòa với môi trường mà họ đã rất quen thuộc và đã bảo tồn bấy lâu nay. Kinh nghiệm đặc biệt của họ, vốn là nguồn di sản tinh thần không thể thay thế được cho toàn thể nhân loại, đang có nguy cơ bị đánh mất cùng với môi trường đã khai sinh ra họ.

Không phải Giáo Hội không có lập trường của mình về các vấn đề xã hội, đặc biệt là môi trường trong tương quan với con người. Bây giờ phải làm sao ?

Khai thác bô-xít tại Úc
Kết quả thế này
Làm ơn đừng nói rằng công nghệ khai mỏ của họ không "tân tiến" bằng ta!

Mùa Chay 2009

Lm. Vĩnh Sang, DCCT



Thiên An Môn trong lòng chúng ta (Nguyên Hùng)

Thiên An Môn trong lòng chúng ta

Xe tăng quân đội đàn áp người biểu tình năm 1989

Sự kiện Thiên An Môn đã trôi qua 20 năm (04/06/1989). Mọi việc dường như đã chìm vào quên lãng, người chết đã thành tro bụi, người bị thương đã lành lặn, lửa đã được dập tắt… nhưng ai có thể xóa tan những hình ảnh đau thương vẫn còn trong tâm tưởng của người ở lại?

Những vết thương trong lòng họ có thể lành không? Và liệu chính quyền Trung Quốc có dập tắt được ngọn lửa đấu tranh vì nền dân chủ vẫn âm ỉ cháy trong lòng người dân nước họ?

Cuộc đấu tranh đòi dân chủ của nhân dân Trung Quốc đã bị dập tắt cùng với hình tượng Nữ Thần Dân Chủ bị lực lượng quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc dùng thiết vận xa và xe tăng cán nát. Lực lượng ấy thường hô khẩu hiệu vì nhân dân phục vụ, vì nhân dân chiến đấu, nhưng thực tế đã tuân lệnh đảng bắn vào nhân dân, những người đã sinh ra và nuôi dưỡng mình!

Tuy nhiên, đó chính là dẫn chứng hùng hồn nhất cho phần còn lại của thế giới thấy rõ hơn bản chất của nhà nước cộng sản độc tài! Những nhà nước lúc nào miệng cũng tung hê nhân dân, nhưng tay thì bóp cò súng vào nhân dân thế đấy!

Bức ảnh của người biểu tình vô danh (Unknown Rebel) được truyền đi khắp thế giới, gợi lên trong lòng mỗi người có lương tri một xúc cảm vô bờ, một hình tượng đầy tính nhân văn, làm cho chúng ta nghĩ đến phận người nhỏ nhoi trước cường quyền bạo ngược: Một bên là hình ảnh những chiếc xe tăng, những binh sĩ tay lăm lăm súng, mặt đằng đằng sát khí và bên kia, phía đối diện là một con người tay không tấc sắt! Một sự đơn độc đến nghẹn lòng, một sự dũng cảm đến ngưỡng phục…!

Dân chủ sơ khai

Qua đây ta hãy thử nghĩ xem vì sao sự kiện Thiên An Môn thất bại?

Có nhiều đánh giá khác nhau, nhưng điều rõ nét nhất, như chúng ta thấy, đó là cuộc đấu tranh chỉ có ở tầng lớp trên, nhân dân Trung Quốc chưa được chuẩn bị cho một sự kiện ở tầm mức lớn lao như vậy, mặc dù nền dân chủ của Trung Quốc đã có từ sớm so với Việt Nam.

Vào ngày 10/10/1911, cuộc cách mạng Tân Hợi thành công và ngày 01/01/1912, nước Trung Hoa Dân quốc ra đời, Tôn Trung Sơn được bầu làm tổng thống. Nhưng, sau khi Tôn Trung Sơn bị buộc phải từ chức vào tháng 3/1913 và giao quyền lại cho Viên Thế Khải thì cuộc cách mạng theo chủ thuyết Tam dân (Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc) xem như chấm dứt và bị đàn áp bởi thế lực phong kiến quân phiệt.

Chính quyền dân chủ non trẻ tồn tại được 1 năm 3 tháng, người dân chưa kịp hiểu khái niệm dân chủ tròn méo ra sao. Từ đó, dưới sự cai trị của phong kiến quân phiệt, Trung Hoa Dân quốc loạn lạc liên miên.

Đó chỉ là đấu tranh cục bộ không có lãnh đạo tối cao, cùng chiến lược được đông đảo dân ủng hộ. Đây là yếu tố quan trọng dẫn đến thất bại.

Nguyên Hùng

Đến năm 1949, cộng sản nắm chính quyền, dân Trung Hoa thế hệ kế tiếp phải sống sau bức màn sắt, nào biết được dân chủ ra sao. Sự kiện Thiên An Môn diễn ra từ 15/04/1989 đến 04/06/1989 tuy được đông đảo sinh viên, trí thức, lãnh đạo công nhân hưởng ứng, nhưng tất cả những tầng lớp đó chưa đủ mạnh để buộc nhà nước cộng sản phải nhường bước.

Đó chỉ là cuộc đấu tranh cục bộ không có lãnh đạo tối cao, cùng một chiến lược lâu dài được đông đảo nhân dân ủng hộ. Có thể nói đây là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thất bại.

Điều duy nhất đạt được là nói cho cả thế giới và nhà cầm quyền Trung Quốc cộng sản biết rằng niềm khao khát Dân chủ của nhân dân Trung Quốc là có thật dù biết sẽ trả bằng máu.

Việt Nam nhìn nhận

Cùng thời điểm xảy ra sự kiện Thiên An Môn ở Trung Quốc, truyền thông quốc doanh Việt Nam không hề đả động gì đến sự kiện, hoặc có nói cũng chỉ nói thoáng qua, dù chiến tranh biên giới vào tháng 02/1979 giữa Việt Nam và Trung Quốc mới xảy ra không lâu, anh em giận dỗi vẫn chưa nguôi.

Điều mà chính quyền Việt Nam lo sợ là sự lớn mạnh của các phong trào dân chủ khắp trong và ngoài nước. Sự cảnh giác của họ được mệnh danh là "Cuộc đấu tranh chống diễn biến hòa bình". Đối với nhà nước cộng sản, đây là cuộc đấu tranh sống còn.

Nhà nước Việt Nam đã rút ra được một bài học xương máu từ Trung Quốc, không để sự việc vượt tầm kiểm soát, tiến hành cải cách, đổi mới theo định hướng của đảng cộng sản, bắt đầu vẽ ra dân chủ từ cải cách hành chính đến việc cho thành lập những hội đoàn, hiệp hội, chuyển qua kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (học từ Trung Quốc)…

Thiên An Môn ngày 19.3.2009

Chủ đề Thiên An Môn vẫn là cấm kỵ ở Trung Quốc hôm nay

Nhưng tất cả những việc nhà nước cộng sản làm để cải cách dân chủ cũng chỉ có ý nghĩa như một trái bóng quá căng phải xả hơi bớt, nếu không nó sẽ nổ tung, còn trong thực tế thì người dân thấy mọi việc vẫn như cũ. Bởi vì, với một cơ chế điều hành không chính đáng đang tồn tại thì sai lầm vẫn tiếp nối sai lầm.

Qua sự kiện Thiên An Môn ở Trung Quốc, phía Việt Nam có một vài nhân vật trong bộ máy cầm quyền ý thức được sự đòi hỏi Dân Chủ trong dân chúng là điều khó cưỡng lại, nhưng tất cả những ý định cải cách chỉ có thể tồn tại trong ý tưởng của một thiểu số sắp bị gạt ra ngoài lề chứ không thể vượt qua cái bóng của Bộ Chính Trị tại Hà Nội và một cái bóng khác lớn hơn từ phương Bắc.

Trấn áp người dân bằng bạo lực là cách mà chính quyền vẫn thường dùng để để ngăn chặn "hậu họa" (dù là manh nha) cho chế độ: người dân Việt Nam biểu tình ôn hòa phản đối Trung Quốc xâm chiếm biên giới và hải phận, hải đảo của Việt Nam bị nhà nước ngăn cấm một cách thô bạo và triệt để, các phóng viên đấu tranh chống tham nhũng bị khép tội và bỏ tù không chính đáng, dân oan khiếu kiện về đất đai bị cô lập và bắt bớ…

Những bất cập đó và sự không chính danh của chính quyền Việt Nam liệu có thể dẫn đến một sự kiện như Thiên An Môn tại Trung Quốc?

Đầu thế kỷ 20, phong trào Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh với chủ trương "Khai Dân trí, Chấn Dân khí, Hậu Dân sinh", bằng đường lối đấu tranh ôn hòa bất bạo động, đã đặt nền móng cho cuộc tìm kiếm dân chủ của nhân dân Việt Nam về sau.

Bài học hôm nay

Thế hệ tuổi trẻ hiện nay, so với thời sinh viên Trung Quốc ở sự kiện Thiên An Môn, ngoài ý chí đấu tranh còn được giúp sức bởi hệ thống thông tin toàn cầu Internet. Qua Internet, con người có thể tiếp cận với kho tàng tri thức nhân loại một cách dễ dàng hơn lúc nào hết. Cũng qua Internet, con người có thể kết nối chặt chẽ với nhau bất kể không gian.

Những thuận lợi này đã mở ra rất nhiều cơ hội cho việc học tập (khai Dân trí), vận động cho mọi công dân ý thức được quyền và trách nhiệm của mình để đấu tranh với các thế lực đã hủ bại lỗi thời, nhằm mục đích xây dựng một nhà nước dân chủ (chấn Dân khí), tiếp nhận và phát triển các thành tựu khoa học, kỹ thuật, xã hội tiên tiến trên thế giới vào công cuộc phát triển đất nước trong tất cả mọi mặt của đời sống (hậu Dân sinh).

Ý thức về quyền tự do đã hình thành trong tư tưởng của đa số các sinh viên, trí thức tại Việt Nam, nhưng chưa gắn kết lại thành khối đấu tranh rộng khắp.

Nguyên Hùng

Hiện nay, ý thức về quyền tự do và sự đòi hỏi phải có một nhà nước dân chủ đã hình thành trong tư tưởng của đa số các sinh viên, trí thức tại Việt Nam, kể cả trong một bộ phận lớn dân chúng, nhưng trong thực tế chưa được gắn kết lại thành một khối đấu tranh rộng khắp khả dĩ làm đối trọng với chính quyền.

Sau 20 năm, nhìn lại sự kiện Thiên An Môn, những con người yêu chuộng tự do trên khắp thế giới đang phải sống trong sự độc tài toàn trị sẽ không cảm thấy cô đơn nữa, dù con đường phía trước đầy khó khăn gian khổ.

Trên suốt đoạn đường sắp tới, có một điều mà những người đấu tranh cần hiểu rõ: Dân chủ không chỉ nói đến một thể chế chính trị mà còn nói đến cách sống của người dân trong cộng đồng.

Với ý thức công dân đầy đủ, người dân phải biết đòi hỏi được sống đúng với quyền tự do căn bản của mình. Có như vậy mới xây dựng được một xã hội dân chủ và từ đó mới có chính thể dân chủ pháp trị. Có một chân lý không phải ai cũng nhận ra "Những sự vĩ đại thường bắt đầu bằng những điều tầm thường nhất".

Những ai đã từng chứng kiến sự sục sôi của người dân theo tỷ lệ phiếu bầu được kiểm mới cảm nhận được giá trị từng lá phiếu.

Và đến bao giờ người dân Việt Nam chúng ta mới được sục sôi và tự hào với lá phiếu của mình?

Bạn có câu trả lời hay không?

Mời quý vị bấm vào đây để gửi phản hồi về bài viết.

 




Phila, PA: Thế hệ trẻ tổ chức Lễ kỷ niệm Ngày QLVNCH

Phila, PA: Thế hệ trẻ tổ chức  Lễ kỷ niệm Ngày QLVNCH

Lễ kỷ niệm Ngày QLVNCH ở Phila.

Tuyết Mai

Phila, PA.- Năm nay Lễ kỷ niệm Ngày QLVNCH ở Phila, PA được tổ chức vô cùng trọng thể so với nhiều năm trước. Trưởng ban tổ chức là Cựu Quân Nhân Không Quân Nguyễn Do và Anh David Võ, Chủ Nhiệm báo Việt Mỹ Magazine. Ddavid Võ là một người trẻ,  thế hệ thứ hai, có tài năng và nhiệt tình phục vụ trong những sinh hoạt cộng đồng và chính trị  ở Hoa Thịnh Đốn và Pennsylvania. Buổi lễ được tổ chức vào lúc 1 giờ trưa ngày 20 Tháng 6, năm 2009 tại Nhà hàng Maxim, Phila, PA.
Ban tổ chức đã chuẫn bị rất chu đáo từ nhiều tháng trước, với chương trình diễn hành trong khuôn viên kỳ đài Việt Mỹ và đường số 6, nhưng mưa tầm tã nên cuộc diễn hành phải bị hủy bỏ. Chương trình được cử hành trong Nhà hàng Maxim.
Hiện diện trong buổi lễ này có hầu hết đại diện các hội đoàn lớn PA và nhiều đại diện các tiểu bang lân cận. Riêng phái đoàn Virginia có Ông Đỗ Hồng Anh, Chủ Tịch Cộng Đồng vùng HTĐ, MD&VA, Ông Lý Văn Phước, Cố Vấn CĐ/HTĐ, MD&VA, Ông Lý Hiền Tài, Phó Chủ Tịch Liên Minh Dân Chủ Thế Giới và cũng là Phó Chủ Tịch CĐ/HTĐ, Ông Đào Hiếu Thảo cùng rất nhiều cựu quân nhân Quân Chủng Không Quân…
Điều đặt biệt trong buổi lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực lần thứ 44 này có sự tham gia đông đảo của thành phần dân sự, đặc biệt là của thế hệ trẻ, hậu  duệ. Điều gây ấn tượng tốt đẹp là  toán Quốc Quân Kỳ Hoa Kỳ và VNCH là do những thanh niên thế hệ trẻ mặc quân phục và cầm súng thủ cờ.  Các thanh  niên này chưa bao giờ cầm súng chiến đấu ở VN, nhưng được cha chú bác hướng dẫn lễ nghi quân cách, đã  rước  quốc kỳ vào vị trí hành lễ và lễ chào quốc kỳ đã được cử hành hết sức là trang trọng. Điều này nói lên ý nghĩa,  thế hệ cha, chú , bác  trong QLVNCH đã và đang truyền lại cho thế hệ con em tinh thần chiến đấu của QLVNCH và đây là cơ hội giúp cho con em có cơ hội tham gia, tổ chức trong tương lai.  
Một ấn tượng tốt đẹp khác về buổi lễ kỷ niệm Ngày QLVNCH ở Phila là sân khấu đã trang hoàng rất đặc biệt, rất huy hoàng với huy hiệu của hầu hết các quân binh chủng trong QLVNCH ngày xưa.
Chương trình đựơc điều hợp rất sinh động bởi Không quân Đào Hiếu Thảo. Sau nghi lễ chào quốc kỳ và mặc niệm là lời chào mừng của Ban Tổ Chức,  Ông Nguyễn Do, Chủ tịch Hội Không Quân ở Phila, PA. Kế đến là  phần phát biểu của Ông Nguyễn Đức Nhiệm,  Chủ Tịch Cộng Đồng Phila, PA. Tiếp nối,  Ông Đỗ Hồng Anh, Chủ Tịch CĐVN vùng HTĐ, MD&VA được mời lên phát biểu. 
 Ông Đỗ Hồng Anh nói,  đây là dịp để bày tỏ lòng tri ân những chiến sĩ anh  hùng của QLVNCH đã hy sinh để bảo vệ đất nước trong thời gian qua, và trong cuộc chiến đó QLVNCH chưa hề thất trận trong năm 1975, mà Quân Đội  anh hùng đó đã bị bức tử bởi sự phản bội của đồng minh mà thôi. Bây giờ tinh thần đấu tranh đó được thể hiện dưới một hình thức khác là đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền cho đồng bào trong nước. Với sự tiếp nối của thế hệ trẻ, hy vọng chúng ta sẽ sớm đạt được sự thành công để chúng ta có thể trở về tổ chức ngày QLVNCH ngay tại Thành Phố Saigon của Miền Nam thân yêu.
 Ông Anh cũng bày tỏ niềm vui  trước sự đoàn kết giữa hai Cộng đồng Hoa Thịnh Đốn và Philadelphia. Ông hy vọng sự đoàn kềt này sẽ đẩy mạnh công cuộc đấu tranh, đem lại tự do dân chủ cho quê hương VN, đồng thời cũng phục vụ cho đồng hương tại hai tiểu bang này được tốt đẹp hơn.
Tiếp theo là phần phát biểu của Anh David Võ, một thành viên trẻ trong BTC. Mặc dầu là một ngừơi của thế hệ thứ hai, nhưng David Võ đã hiểu rõ về cuộc chiến VN. Anh có nhận định “Trước năm 1975 QLVNCH đã chiến đấu tự vệ chống lại CS BắcViệt do CS Quốc Tế nuôi dưỡng.  Trong cuộc chiến đấu khốc liệt này, người lính VNCH đã quên mình, vì nước,  vì dân. QLVNCH không những chỉ chống lại cuồng vọng xâm lăng của CS BắcViệt mà còn anh dũng đánh Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đó nói lên rằng QLVNCH đã quyết tâm giữ nước, lo cho dân. Nơi nào có  bóng dáng của QLVNCH và cờ vàng ba sọc đỏ, thì nơi đó dân chúng được sống an ninh, sung túc. Chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ tuyên bố được rằng QLVNCH có  chính danh và chính nghĩa”.
Anh David Võ nói qua về hoàn cảnh lịch sử đưa tới sự hình thành của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, được long trọng tổ chức tại Saigon  ngày 19 Tháng 6, năm 1965. Quân lực VNCH đã đứng ra gánh vác hai nhiệm vụ trọng đại của đất nước.
Thứ nhất là trấn áp làn sóng đỏ của Chủ nghĩa CS BắcViệt được thế lực của CS Quốc Tế nuôi dưỡng, tràn vào miền Nam qua  biên giới Lào-Miên-Việt Thứ hai là tiếp tục duy trì  và củng cố nên dân chủ pháp trị qua cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Hiến năm 1966, để một lần nữa làm sáng tỏ Hiến Pháp VNCH với tầm cỡ quốc tế. Xong sứ mệnh,  càc vị tướng lãnh trong hai Ủy Ban lui về cương vị thuần túy quân sự. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu với tư cách công dân ra ứng cử Tổng Thống và đã đắc cử. Đến Tháng 3, 1975 v&i
grave; áp lực của HK ông đã từ chức. Điều này chứng tỏ danh dự của chế độ và quân đội vẫn còn tồn tại trong lịch sử và trong lòng của dân tộc.
Anh Đavid Võ nói  tiếp, ngày nay , QLVNCH không còn, nhưng các cựu quân nhân vẫn giữ tinh thần và nhân cách của mình, không than vãn ai oán, dù phải chịu cực khổ, bạc đãi trong chế độ CS, vì mọi quân nhân trong QLVNCH đã được đào tạo trong tinh thần “Danh dự, Tổ Quốc, Trách Niệm”. Họ luôn luôn được an ủi và vỗ về bởi tấm  gương hy sinh cao cả, vị quốc vong thân của quý vị tướng lãnh Nguyễn Khoa Nam, Lê văn Hưng, Phạm Văn Phú, TrầnVăn Hai và Lê Nguyên Vỹ cùng nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ đã âm thầm tuẫn tiết.
Tại hải ngoại, vì không chấp nhận chế độ độc tài đảng trị lạc hậu của CS và nhất là hiện nay Đảng CS VN đang bán đất, dâng biển và làm thái thú cho Tàu,  các cựu quân nhân VNCH thành lập các hội đoàn, đoàn kết gắn bó với nhau trong tinh thần huynh đệ chi binh, luôn luôn hướng về quê hương đất nước để yểm trợ, cổ vũ tinh thần đấu tranh của từng cá nhân, đoàn thể và tôn giáo .
Cuối cùng Anh David Võ nói anh mạo muội đại diện cho thành phần cựu quân nhân QLVNCH ở Phila, phối hợp với giới trẻ đứng ra tổ chức ngày lễ trọng đại này, anh cảm ơn sự hưởng ứng nồng nhiệt của đồng hương  mọi giới từ các tiểu bang Washington , D.C., Maryland, New Jersey và Philadelphia… về tham dự.
Sau buổi lễ,  Ông Đỗ Hồng Anh, Chủ Tịch CĐ/HTĐ, MD&VA  cho biết một vài cảm nghĩ, Ông cảm thấy sự đoàn kết “Quân – dân” ở Phila, PA rất đậm đà, chặt chẽ và ở đây có dấu hiệu tốt là thế hệ hậu duệ sẽ tiếp nối những gì mà chúng ta đã thực hiện trong bao nhiêu năm qua. Hy vọng với sự tiếp nối đó, công cuộc đấu tranh tự do, dân chủ, nhân quyền cho quê nhà sẽ khởi sắc hơn và những buổi tổ chức với sự tham gia của thế hệ trẻ, sẽ giúp các con, em  hiểu rõ hơn vì sao ông cha đã hy sinh xương máu để bảo vệ  Miền Nam Tự Do  trước năm 1975. 
Theo sau là chương trình văn nghệ hát về lính rất hấp dẫn.




BÁC HỌC, KHOA HỌC LỪNG DANH CỦA THẾ KỶ 15, 16 CHO ĐẾN HÔM NAY

BÁC HỌC, KHOA HỌC LỪNG DANH CỦA THẾ KỶ 15, 16 CHO ĐẾN HÔM NAY  

ĐỀU TIN CÓ THIÊN CHÚA

 

THÁI ĐỘ CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO

GIẢI NOBEL KHOA HỌC

 1.  Albert EINSTEIN                      Vật Lý          Do Thái Giáo

2.  Max PLANCK                                nt              Tin Lành

3.  Erwin SCHROEDINGER              nt              Công Giáo

4.  Werner HESENBERG                  nt              Tin ành

5.  Robert MILLIKAN                        nt              Tin Lành

6.  Charles TOWNES                        nt              Tin Lành

7.  Arthur SCHAWLOW                    nt              Tin Lành

8.  William PHILLIPS                       nt              Tin Lành

9.  William BRAGG                           nt             Tin Lành

10. Guglielmo MARCONI                 nt             Công Giáo

11. Arthur COMPTON                       nt             Tin Lành

12. Arno PENSIAS                             nt             Do Thái Giáo

13. Nevill MOTT                                nt             Anh Giáo

14. Isidor Isaac RABI                      nt             Do Thái Giáo

15. Abdus SALAM                             nt              Hồi Giáo

16. Antony HEWISH                        nt             Tin Lành

17. Joseph J. THOMSON                 nt              Anh Giáo

18. Alexis CARREL                       Y Khoa         Công Giáo

19. John ECCLES                             nt              Công Giáo

20. Joseph MURRAY                       nt              Công Giáo

21. Ernst CHAIN                              nt              Do Thái Giáo

22. George WALD                           nt              Do Thái Giáo

23. Ronald ROSS                             nt              Tin Lành

24. Derek BARTON                      Hóa Học      Tin Lành

25. Christian ANFISEN                   nt              Do Thái Giáo

26. Walter KOHN                            nt              Do Thái Giáo

27. Richard SMALLEY                     nt              Tin Lành

   II.  GIẢI NOBEL VĂN CHƯƠNG

 

29. Rudyard KIPLING                    nt               Anh Giáo

30. Alexander SOLZHENITSYN     nt              Chính Thống Giáo

31. Francois MAURIAC                   nt              Công Giáo

32. Hermann HESSE                       nt              TCG (phái ?)

33. Winston CHURCHIL                nt              Anh Giáo

34. Jean-Paul SARTRE                   nt              Nhiều phái 

35. Sigrid UNDSET                          nt           Tin Lành/Công Giáo

36. Rabindranath TAGORE           nt              Ấn Giáo Hindu

37. Rudolf EUCKEN                        nt              TCG (phái?)

38. Isaac SINGER                           nt              Do Thái Giáo

 III.  GIẢI NOBEL HÒA BÌNH

39. Albert SCHWEITZER         Hòa Bình        Tin Lành

40. Jimmy CARTER                       nt               Tin Lành

41. Theodore ROOSEVELT           nt               Tin Lành

42. Woodrow WILSON                  nt               Tin Lành

43. Frederick de KLERK               nt               Tin Lành

44. Nelson MANDELA                   nt               TCG (phái ?)

45. Kim DAE-JUNG                       nt                Công Giáo

46. Dag HAMMARSKJOELD          nt               TCG (phái ?)

47. Martin Luther KING, JR         nt               Tin Lành

48. Adolfo Perez ESQUIVEL        nt                Công Giáo

49. Desmond TUTU                      nt               Anh Giáo

50. John R. MOTT                         nt               Tin Lành

51. Mother TERESA                      nt               Công Giáo

 

       IV.  CÁC VĨ NHÂN VÀ THƯỢNG  ĐẾ

Sren KIERKEGAARD

Robert BROWNING và Perey Bysshe SHELLEY

Jean Jacques ROUSSEAU

Franz LISZT

Eugene DELACROIX

Ludwig Van BEETHOVEN

Franz SCHUBERT

William SHAKESPEARE

Johanne Wolfgang GOETHE

Ralph Waldo EMERSON

Paul CEZANNE

MICHELANGELO

Leo TOLSTOY

Johanne Sebastian BACH

Van Rijin REMBRANDT

Ngoài các vĩ nhân trên, các họa sĩ, nhạc sĩ, văn thi hào, triết gia sáng giá sau đây, đa số thuộc thế kỷ 20, cũng đều đặt niềm tin vào Đấng Tạo Hóa, Thượng Đế, Thiên Chúa.

A.  WITTGENSTEIN, BERGSON, De CHARDIN, WEIL.

B.  STRAVINSKY, ROSSINI, SIBELIUS, MASCAGNI, RENOIR.

C.  SHAW, D.H.LAWRENCE, PIRANDELLO, DELEDDA, RILKE, SOLZHENITSYN.

TÔN GIÁO TẠI HOA KỲ

Riêng tại Hoa Kỳ, theo cuộc thăm dò của Trường Trinity College năm 2008, thì khoảng 76% dân chúng theo TCG, so với 86% năm 1990.   Một cuộc thăm dò khác, cho biết 79% dân Hoa Kỳ theo TCG chia ra như sau: 

Giáo Phái Tin Lành :  51.3 %

Công Giáo Roma :       23.9 %

Giáo Phái Mormon :    1.7 %

Do Thái Giáo :             1.7 %

Hồi Giáo :                   0.6 %

Ngoài TCG, Phật Giáo có khoảng 0.7 %

Các Giáo Phái khác :                      1.6 %

Số người vô tôn giáo:                       15 %

Phần còn lại không rõ :                  3.2 %

               VÔ THẦN

Người vô thần là người không ý thức, bác bỏ, phủ nhận niềm tin vào Đấng Tạo Hóa, Ông Trời, Thượng Đế, Thiên Chúa, Jehovah, Allah…  vì  họ cho rằng không có bằng chứng hiễn nhiên, rõ ràng, hay họ dựa vào các triết thuyết, xã hội học, lịch sử, và thiên nhiên.

Thông thường, từ VÔ THẦN áp dụng cho những người, hoặc phe phái chống lại TÔN GIÁO theo sau các trào lưu TIẾN HÓA hay KHOA HỌC PHÁT TRIỄN của Thế Kỷ Ánh Sáng.  Nhưng, các triết thuyết có ảnh huởng lớn đối với xã hội loài người phát xuất từ Âu Châu, đặc biệt từ tiền bán thế kỷ 19 với các triết gia  như Auguste Comte, Hegel, Feuerbach, Engels, và Karl Marx.

Theo Auguste Comte, một triết gia người Pháp (1798-1857), văn minh nhân loại phát triển theo 3 giai đoạn (luật tam trạng=law of 3 stages):

Từ giả tưởng(gt)=thần học qua trừu tượng(tt)=siêu hình đến khoa học(kh)=thực nghiệm.  Ở giai đoạn 1 (gt), đầu óc con người còn ấu trĩ, họ gán tên "thần" cho những hiện tượng thiên nhiên như thần sấm sét, thần gió, mưa, bão, lụt, lửa…Ở giai đoạn 2 (tt), con người đã tiến bộ biết tìm hiểu nguyên nhân sự việc nhưng vẫn chưa thoát được đầu óc tưởng tượng và chưa coi trọng vai trò của lý trí.  Ở giai đoạn 3 (kh), con người chỉ dựa vào thực nghiệm mà luận bàn vạn vật vũ trụ… nói cách khác là những gì kinh nghiệm và quan sát được mới là có thật.

Dựa vào "thuyết tam trạng" nói trên, Auguste Comte cho rằng, những người có tôn giáo là những người còn sống trong giai đoạn thần học, siêu hình, giả tưởng, ấu trĩ, dốt nát… 

Ta hãy xem thử qua bản thống kê sau đây có phải người dân Âu, Mỹ, Úc Châu có ấu trĩ, dốt nát so với người dân của các Châu lục khác như A. Comte nói không:  Âu Châu, TCG chiếm 80%, Mỹ Châu khoảng 85%, Úc Châu gần 80%.  Về tín ngưỡng của các nhà bác học,  thống kê của M.A. Eymieu, trong số 432 vị thuộc Thế Kỷ 19, có 367 vị tin có Thượng Đế.  Giám Đốc Đài Thiên Văn Bourges, Moreuxi: “Hầu hêt giám đốc mọi đài thiên văn thế giới đều tin có Thượng Đế."

Hai triết gia Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) và Feuerbach (1804-1872), cả hai đều người Đức có lối lập luận gần giống nhau về Thượng Đế mà theo họ, chỉ là ước vọng của con người tạo nên:  "Thượng Đế là thần thoại hão huyền do mộng ước con người bày đặt; không có mộng ước thì cũng không có Thượng Đế."

Hegel cho rằng con người bị "vong thân," mất tinh thần khi tin vào thần linh.  Feuerbach lại nhấn mạnh thêm con người chẳng những vong thân về mặt tinh thần mà còn luôn cả thể xác.  Từ "vong thân" có nghĩa là "con người tự làm cho mình nghèo hèn đi để làm giàu cho Thượng Đế và do đó tôn giáo trở thành ác quỷ hút máu nhân loại."  Do đó con người phải được giải phóng để có ý thức nhận biết Thượng Đế của con người chính là con người (homo homini Deus).

Tại Đức cũng như Nga, quan niệm trên của Hegel và nhất là của Feuerbach rất ảnh hưởng đến các triết gia vô thần khác như Bauer, Bradley, Dewy, đặc biệt là Engels (1820-1895), vừa triết gia vừa kinh tế, chính trị gia, Marx (1818-1883),  là luật sư, triết gia, chính trị gia và đương nhiên ảnh hưởng giây chuyền  đến thế hệ trẻ thời đại, tạo nên một đổi thay rất lớn.  Và, Cộng Sản chỉ là việc thực thi nhân bản thuyết của Feuerbach.  Từ 1844, Karl Marx và Engels trở thành môn đồ của Feuerbach.  Họ xem Feuerbach là người thầy vĩ đại và ca tụng Ông là người đã phục hồi được địa vị con người (xem La Sainte Famille 1845, Marx và Engels viết chung).

Tuy nhiên có điểm khác giữa Feuerbach và Marx là Feuerbach ít để ý đến khía cạnh chính trị, xã hội, lý thuyết còn mơ hồ, thiếu thực tế; còn lý thuyết của Marx hay Marxism gồm toàn bộ vấn đề mà con người đặt ra, tinh thần cùng vật chất.  Theo Marx, "Đạo của công nhân là vô đạo vì nếu có thì nó tìm cách phục hồi thần linh tính của con người."  Với y, mọi sự chỉ lệ thuộc kinh tế; giải quyết được kinh tế thì cũng giải quyết được vấn đề tôn giáo.  Về sau, Vladimir Ilyich Lenin (1870-1924), nhà "cách mạng" Nga Sô cũng tự cho mình thuộc truyền thống Feuerbach. 

Để kết luận, khi bác bỏ niềm tin vào Thượng Đế, Đấng Chí Tôn, Tạo Hóa, Ông Trời, Thiên Chúa, Jehovah, Allah, thì với chủ trương vô thần của Cộng sản, đã dẫn đến những hiện tượng quái gở sau đây:

1.  Marxism trở thành giáo điều 

2.  Giáo đìễu Marx trở thành "kinh nhật tụng"

3.  Tôn thờ lãnh tụ vừa ngu, vừa gian, vừa ác.

4.  "Tham quan"lăng Lenin,"Bác" Hồ, băt ép dân, học sinh phải diễn kịch biểu tình hoan hô lãnh tụ, thay cho hình thức đi kiệu, đi chùa của cac tôn giáo.

5. Giai cấp lãnh tụ thì giàu sụ, dinh thự có hằng trăm, tiền đô có hằng tỷ.. tha hồ ăn chơi, đàng điếm. Ngược lại nhân dân thì chạy ăn mỗi ngày không đủ no, không đủ mặc, không đủ tiền cho con đi học, con trẻ phải đi bới rác…

6- Các lãnh tụ và cán bộ Cộng sản thì tha hồ nói dối, nói láo, nhưng băt nguòi dân phải nghe, phải làm theo và không ai  được nói lên sự thật. Ai nói sự thật thì bị thuộc hạ của lãnh tụ Cộng sản viêt báo, phát thanh, phát hình thoá mạ, chửi bới, bịa chuyện, vu khống đủ cac thứ tội; còn bị  đánh đạp,  bỏ tù, và “tai nạn” xe đụng chêt.

7.  Thiên đàng ở trần thế do Karl Marx hứa hẹn trở thành địa ngục trần gian, cho nhân dân ở những quôc gia theo tà thuyêt Cộng sản.

 Francis Dương

 

***
THEO TRỜI THÌ TỒN TẠI, NGHỊCH TRỜI THÌ BỊ DIỆT VONG




Nguyễn Trọng Hoàn : Tướng Đỗ Cao Trí & TÔI

Tướng Đỗ Cao Trí & TÔI

NGUYỄN TRỌNG HOÀN

Tướng Đổ Cao Trí

 

     1.

         Lý do tôi phải mào đầu dài dòng để kể câu chuyện này, như sau:-

     Sau khi Quân đội VNCH tan rã, cả nước Nam tan rã, chúng ta phải sống tha phương nơi đất khách quê người. Vì nơi dung thân là nước Mỹ, giầu có, nên tấm thân của mình, của gia đình mình, trông lên những người bản xứ thì chẳng bằng ai, nhưng trông xuống những đồng bào của mình đang còn ở quê nhà, thì quả một trời một vực! Tuy vậy, đối với một số người thì là một sự đổi đời, còn với nhưng người khác, niềm hoài vọng ngày trở về cố hương xa lắc cứ dần dần bị xói mòn, riêng những người lính trận chúng tôị Mời bạn đọc tiếp:

 Bản thân tôi thì không ra gì, dở chàng dở đục, nhưng bạn bè tôi, nhìn ngang nhìn ngửa đứa nào cũng nổi tiếng. Ngày trước, chúng nổi tiếng trên chiến trường, qua Mỹ chúng nổi tiếng bằng cái nghề tay trái: Làm báo viết văn! Tôi thích mang những sở trường của họ ra khoe với những người lạ, làm cứ như những ưu điểm của họ có thể lấp trống giùm cho tôi những nhược điểm của bản thân.mình.      

 Đại tướng Đỗ Cao Trí lẽ dĩ nhiên không nằm trong trường hợp trên, vì nếu như bây giờ, ai người ta cũng có thể gọi bằng thằng, càng gọi khỏe càng lộ chất “Ông” trong người mình ra. Thì ngày xưa, cái móng tay của ông ấy tôi cũng không bằng, huống chi nói là bạn với bè?         

Có điều, một vị tướng ngày xưa, thì thiếu gì thuộc hạ… Tôi có may mắn là thuộc hạ của ông Đại tướng tài ba và nhiều tai tiếng nàỵ.       

 Sau tết Mậu Thân, Việt cộng ngậm ngùi suy ngẫm học thuyết quân sự cũ rích: Tiến công và nổi dậy! Đó là sở trường mà chúng gọi là tổng công kích. Công là đánh tới, Kích là bẩy lên, hay xúi giục ai nổi lên.

      Thành phần chủ lực ở ngoài tấn công vào. Đám nằm vùng xúi dân nổi loạn. Khốn thay cho Việt cộng trong cuộc tấn công này, bộ đội chủ lực thì xâm nhập vào được nhưng chẳng có ma nào xúi được dân nổi lên cả, ngay cả những người dẫn đường cũng lặn luôn. Nên bọn cán ngố cứ như con dế bị ngắt mất cọng râu. Thế là làm mồi cho quân ta mà thôi!.         

Nhân đây, tôi cũng xin mở một dấu hỏi to tướng, về âm mưu “Thay ngựa giữa dòng” của người Mỹ. Họ đã biết trước cuộc tổng tiến công và nổi dậy của Việt cộng, nhưng họ lờ đi “Để xem mày (VNCH) có chống cự nổi không, còn sức chống, tao giúp tiếp, dở quá, bỏ luôn.”

Một bằng chứng là khoảng 26, 27 tháng Chạp là các cố vấn Mỹ ở các tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị biệt lập đã cuốn gói trở về “hậu phương” rồi!

Thế rồi, thiên bất dung gian, kẻ gian đại bạị. Ngay sau đó, trong khi ông Hồ mang cái hận ngàn thu ấy xuống âm ty địa phủ thì đám cán bộ mang tàn quân lết bên Căm Bốt để cùng nhau hát bài: “Dậy mà đi!”

Tôi tham gia cuộc hành quân Toàn-thắng của Sư đoàn 25 BB, mục đích để tiêu diệt nốt đám tàn quân ấy! Chiến đoàn tôi mang tên 333 từ hướng mật khu Ba Thu, đánh xuôi xuống vùng Mõm Chó, Chi Phụ Bravet rồi theo quốc lộ 1 thọc thẳng lên Svayrieng (Xoài Riêng). Trận này, diễn tiến như thế nào, tôi sẽ kể sau.


          2.

         Mẫu giáo:

Tôi có một thói quen: mỗi khi sắp tham dự vào một cuộc hành quân xa, tôi thường xin về Sài Gòn một thoáng để thăm mẹ. Phần nghĩ đến một thời gian dài sắp tới phải nhá cái khẩu phần C chết tiệt. Phải về với mẹ để được ăn một món gì cho khoái khẩu. Phần vì tôi luôn đeo đẳng cái cảm giác, sự sống của những người lính trận chỉ đếm bằng từng ngày một… “Mình không về gặp bả, ngộ có gì…”. Tôi lại không bao giờ dám nói với mẹ là mình sắp đi xa: "Con hành quân ở vùng ven biên ấy mà, tạt về thăm đẻ một chút thôi rồi con phải đi liền!"

“Một chút” của tôi thường bị kéo dài bởi nồi canh cua rau đay nấu với mướp hương hoặc những miếng thịt heo cháy cạnh mà chỉ tự tay mẹ làm thì mới vừa miệng tôi thôị…

Lần này, chính cậu “Tà loọc” đã làm hại tôi:

– Bà có hộp dầu ông hổ nào không, con xin cho Trung úy một hộp? Ở Miên nghe nói mùa này là mùa gió chướng, Trung úy lại chỉ hợp với loại dầu này!

Mẹ tôi ngừng têm trầu:

– Lại đi đánh nhau tận bên Miên cơ à?

Tôi thấy mẹ tôi lấy khăn lau nước mắt. Ăn cơm xong, mẹ ra đi văng ngồi nhai trầu, giọng bà như muốn khóc:

– Đánh nhau như vậy đủ rồi, hay để đẻ nói với chú Hạ (thông gia nhà tôi), nói với bác Thuần xin cho con về văn phòng?
Biết sẽ phải nghe điệp khúc ấy, tôi đứng dậy vươn vai, lấy chiếc áo trận, vừa mặc vừa nói như hát vọng cổ:

– Mẹ ơi! Mai kia mốt nọ yên giặc con cũng trở… Dzề!.

Mẹ tôi chì chiết:

– Con người ta, cha mẹ bảo sao nghe vậy, chúng nó ăn trắng mặc trơn, nhơn nhơn ăn học… Còn cái thứ con nhà nàỵ… Ngu như bò!

Mẹ tôi đưa hộp dầu ông hổ cho chú lính, mẹ nói:
 – Ở Miên họ hay dùng bùa ngải lắm đấy! Lại hay “thư” nữa đấy! Có người bụng cứ trướng lên, mổ ra một đống toàn răng với tóc không đấy nghe con! Con gái của họ, không phải như gái bên mình, đá gà đá vịt vào rồi không thích thì bỏ đâu đấy! Đừng dại nghe con..

Khác với những lần trước, mẹ tôi đưa tôi ra tận cổng, hành động này của mẹ khiến tôi vừa xúc động vừa lo lắng. Mẹ tôi chỉ vào chiếc balô căng đầy mà chú lính đang để vào băng sau xe jeep:
– Mẹ có cho mang theo cho con một cỗ bài chắn, đóng quân ở đâu, trong lúc rảnh rỗi, thày trò rủ nhau đánh cờ con cho vui, nhớ đừng đi lang thang nghe con.

Hai mẹ con đang bịn rịn thì Hương phóng xe tới. Mặt cô đỏ au. Mẹ tôi giữ ý, chỉ Hương:

– Thôi cô cậu giã từ rồi lên đường cho sớm, mẹ vào..

         Hương cầm lấy hai cánh tay tôi, chân dậm dậm xuống đất:
         – Em vừa lên hậu cứ kiếm anh, anh sắp đi Miên hả?
         Tôi cười:

– Việc binh cốt ở thần tốc và bất ngờ, anh chưa xuất phát mà ngã ba Ông Tạ đã biết, Hàng Xanh đã biết thì còn đánh đấm cái mẹ gì nữa?

         Hương đưa ngón tay dí vào môi tôi:

         – Sao lại nói tục với em? Hôm nọ hứa cái gì nào. Em có tin mừng mới phải lên báo cho anh chứ bộ!

         Tôi sướng run lên, tôi biết ngay cái tin đó là gì rồi, nhưng cũng giả vờ hỏi:

         – Tin gì vậy ?

         Nàng lại ghé sát vào má tôi, mái tóc có mùi bồ kết làm tôi ngây ngất:

 – Em “ Có” rồi. Hú vía, hú vía! Mà này, anh qua bên Miên, ăn bánh trả tiền nhé! Con gái Miên ghê lắm đấy!

      3.

         Ngày N.

Lần đầu tiên từ khi tôi ra trường, tôi được “đối đáp” với một vị Tướng, mà lại là vị tướng nổi danh mới oách chứ:
Trung tướng Đỗ Cao Trí ngoái cổ lại hàng ghế phía sau hỏi to:

– Ông nào là Đại đội trưởng Trinh sát đâu ?

Tôi đứng bật dậy như lò xo bung:

– Có mặt.

– Nãy giờ ông có nghe kỹ diễn tiến của ngày N và N+1 không?
 – Nghe rõ!

Ông Tướng đứng dậy, đưa tay ra hiệu cho Đại tá Lều Thọ Cường, Chiến đoàn trưởng chiến đoàn 333, đưa que chỉ bảng cho ông. Bây giờ tôi mới nhìn thấy rất rõ ngoại mạo một ông Tướng khét tiếng nàỵ. Vầng trán cao xám ngoét, đôi mắt sáng, đỏ au như mắt cá chầy (Người ta bảo con mắt ổng có cô hồn đấy! Nhất tướng công thành vạn cốt khô mà!). Phần từ đầu tới thắt lưng, tướng pháp không chê vào đâu được, nhưng từ thắt lưng xuống tới đôi giầy “ Máp”, giống như củ khoai lang cắt đôi, dựng ngược, từ từ teo tóp… Tôi bỗng rùng mình, chua chát nghĩ đến chiếc bóng chênh vênh của Kinh Kha bên dòng Dịch Thủy:
                        

                        Gió hiu hiu sông Dịch lạnh lùng ghệ

     Tráng sĩ một đi không trở về!

         Tướng Trí xòe nguyên bàn tay mum múp trên tấm bản đồ không ảnh, kéo một đường dài từ Gò Dầu Hạ, dọc theo quốc lộ 1 lên tận Svayrieng:

         (Ôi! Những ai từng “đi” nhận lệnh hành quân, còn nhớ chăng cái cảm giác xương sống lành lạnh, mỗi khi thấy ông đơn vị trưởng của mình xòe tay trên một tấm bản đồ 1.25.000 trong đó một ô vuông nhỏ xíu nhưng ngoài thực tế là một cánh đồng bạt ngàn, đi mù con mắt mà vẫn không tới?).

         – Ông Chuyên, cho các mục tiêu vừa thuyết trình, giạt ra xa quốc lộ 1 chừng một cây số…

         Bỗng ông ngừng lại:

  – Ông Cường, thằng Tiểu đoàn 1 của ông đến đâu rồi?
 Đại tá Cường, rập hai chân lại trong một cử chỉ vừa nghiêm trang, vừa như lấp ló có tin vui:

– Thưa Trung tướng, thằng 1 của tôi vừa làm chủ Chi-Phụ.
– Tốt, như thế này nhá: Ông Cường cho Bộ chỉ huy Chiến đoàn của ông, dời từ đây lên Chi-Phụ. Tôi nhắc các ông từ bây giờ bọn cố vấn Mỹ không theo mình vào Miên nữa đâu đấy!

Ông nhìn mấy cố vấn Mỹ, rồi bảo người thông dịch viên:
         – Dịch nguyên văn cho “chúng nó” nghe câu này: “Phải tập đánh độc lập đi, dựa mãi vào mãi thằng Mỹ mai kia mốt nọ, chúng qua cổng rút cầu thì sao?”

Ông lại xòe bàn tay ra, dùng ngón trỏ và ngón giữa căng theo quốc lộ 1, rồi ông dùng que chỉ bảng chỉ ngay vào mặt Thiếu tướng Nguyễn Xuân Thịnh, Tư lệnh sư đoàn 25, gốc pháo binh:
         – Ông Thịnh, từ đây lên Xoài Riêng còn trong tầm bắn tác xạ của Tiểu đoàn 252 Pháo binh không?

         Tôi thích thú nhìn tướng Thịnh, ông Tướng có mấy sợi lông tài trên nốt ruồi đen, trên khuôn mặt to đen lạnh lùng như ông thần đất, mà mọi khi chúng tôi rất hãi, cũng
phải đứng bật lên:

         – Thưa, tới!

         Bất ngờ tướng Trí chỉ ngay vào tôi:

         – Trung úy Hoàn, mở sổ tay ra.

         Tôi rụng rời… Trong cái nóng hầm hập của phòng hành quân tạm, mọi người đổ dồn về phía tôi, một sĩ quan có cấp bậc nhỏ nhất, lại được tướng Trí nhớ tên. Tôi đỏ mặt, tính háo danh, và sự sung sướng lấn át hết cảm giác sợ hãi. Tự tin hơn là tôi đã chuẩn bị một quyển sổ tay, mà những sĩ quan nào, hơn một lần bị “ông Tướng sổ tay” hạch hỏi vì: “Là cấp chỉ huy mà không có quyển các-nê đờ-nốt là một sĩ quan tồi….”. Tôi cầm quyển sổ tay.  A! Có một điểm đầu tiên rồi đấy!

         Tôi thấy Tướng Trí cười:

         – Quân số hành quân của ông bao nhiêu ? 

         – Trình Trung tướng: 102. Sĩ quan 9. Hạ Sĩ quan 15, binh sĩ…

         Tướng Trí hét lên:

         – Sao nhiều thế, sao sĩ quan nhiều thế, hạ sĩ quan ít thế? Bịa hả?

         Đại tá Cường đỡ cho tôi:

         – Thi hành khẩu lệnh của Trung tướng trước đây, quân số các đơn vị Trinh sát phải luôn luôn bổ sung đầy đủ. Sĩ quan nhiều vì trong Trung đội viễn thám, mỗi Toán viễn thám phải có một sĩ quan trưởng toán. .

         Tướng Trí ngắt lời:

         – Tôi biết rồi.

         Rồi ông lại dùng que thuyết trình chỉ xuống phía dưới, giọng ông chắc nịch:

         – Tất cả mở sổ tay ra.

         Như cái máy, Tướng, Tá phía dưới đồng loạt để tay lên túi áo trận.

         Tướng Trí đọc chính tả:

         – Viết đi: Sức mạnh của một đơn vị bộ binh chiến đấu (phẩy) không phải ở lớp Sĩ quan chuyên chỉ tay năm ngón (phẩy) mà nằm trong lớp Hạ sĩ quan cốt cán (chấm) Tóm lại, bộ binh là hoàng hậu của chiến trường (phẩy) mà chiến trường thắng hay bại tùy thuộc vào cấp bậc từ Hạ sĩ nhất đến Thượng sĩ nhất, viết rõ chưa? ( Chấm hết).

         Rồi ông lại chỉ vào mặt tôi:

         – Trung Úy lên đây.

         Con người nhỏ con kia sao toát ra cái uy quyền lạ kỳ. Tôi đã vào sinh ra tử nhiều lần nhưng chưa bao giờ tôi lúng túng đến như thế. Tôi ríu tíu đỡ cây que chỉ bảng:

         – Trung úy chỉ cho tôi xem đâu là Quốc lộ 1. Tốt. Đâu là cây cầu chính vào thành phố. Tốt… Trung úy có thể chiếm thành phố này chỉ với một mình đại đội của Trung úy được không?
         Cả sống lưng của tôi như bị điện giật… Một đại đội Trinh sát với một nhúm người như thế này, làm sao đây?

         Tính háo danh của tôi lại bật dậy:

         – Được, thưa Trung Tướng.


         – Tốt, thế mới là trinh sát chứ! Như thế này nhá. Ông Cường cho…

         … Máu háo thắng cùng niềm kiêu hãnh cứ dâng lên từng đợt trong con người phàm của tôi cho đến khi tôi tập họp đại đội dưới một thửa ruộng khô vừa xong mùa gặt. Tôi huênh hoang khoe:

         – Đích thân Trung tướng Tư lệnh Quân đoàn vừa chỉ thị, một mình Đại đội ta sẽ chiếm Tòa thị sảnh Svâyriêng!

         Từ sĩ quan cho tới lính mặt mày nhớn nhác. Có nhiều người nhẩy lên vì thích thú. Có người giơ cao khẩu M16 hét lên:
         – Chơi luôn!

         Có vài nét mặt đăm chiêu của sĩ quan, tôi lờ đi, nói lớn, ngất ngất hào khí:

         – Mọi người có nửa tiếng để sắp xếp lại quân trang quân
dụng, bỏ lại hết thực phẩm, quân trang nặng nề. Tóm lại chỉ mang súng đạn cá nhân. Hai Trung đội trưởng trinh sát và Trung đội trưởng viễn thám ra đây nhận lệnh.

         Lệnh có gì đâu, nhưng nghe xong, mặt ai cũng như chàm đổ… Sau đấy khoảng hơn một tiếng. Hơn 10 chiếc xe vận tải dân sự từ Gò Dầu Hạ trở về Miên, bị chúng tôi trưng dụng. Trung đội trưởng kè súng vào hông người tài xế Miên, còn lính nằm ở phía sau. Đạn lên nòng, xe cứ thế mà chạy trên quốc lộ phía bên Miên. Ngày ấy, cứ vài cây số lại có một cái bàn đặt ngay quốc lộ để đơn vị Miên nào đóng gần quốc lộ thâu tiền mãi lộ!

         Đoàn xe của Đại đội cứ thế mà chạy, qua trạm, chạy luôn, khiến những người lính Miên trên các trạm ấy xả súng vào đoàn xe, cũng may không có ai bị thương.

         Tôi ngồi ngay xe thứ 2, xe trước tôi là Toán viễn thám 1 của Chuẩn úy Cừu. Bỗng tôi thấy đoàn xe chạy chậm lại, cái dốc cầu vào thị xã cong cong làm tôi không quan sát được chiếc xe phía trước.

         Có tiếng thằng Một:

         – Hải Điểu, đây Một.

         Tôi chụp máy:

         – Tôi nghe đây!


         Tiếng của Cừu gấp gáp:

         – Trình Thẩm quyền trên đường tụi Miên giăng concertina nhiều quá, có cả mấy con ngựa gỗ nữa . .

         Một tràng súng xé không gian, tiếp theo là những tràng súng khác thi nhau vãi vào đoàn xe.

         Tôi hét to trong máy:

         – Cho xuống xe ngay, xung phong! Cả đại đội sẽ yểm trợ cho ông, chiếm ngay cái bốt canh kia kìa!

         Một chiếc trực thăng xà ngay xuống, tôi thấy rõ Tướng Trí đội nón đỏ đang quần quần ngay trên cái đồn tôi vừa ra lệnh cho Cừu chiếm. Chiếc trực thăng đảo một vòng rồi bay lơ lửng ngay trên đồn Miên. Tôi vừa hô xung phong vừa kinh ngạc nhìn lên thấy Tướng Trí đã ngồi vào vị trí của người xạ thủ đại liên. Ông xoay họng súng vào phía lô cốt, một tay khoát khoát như cổ động cho đám quân dưới đất. Có tiếng hét của Cừu:

         – Tụi nó bắn lên máy bay của ông Tướng kìa.

         Một khẩu đại liên phòng không từ một cái đồn nhỏ bên
phải cầu đang khạc hung hãn lên hông bên kia của chiếc máy bay. Chiếc trực thăng chao nghiêng.

         Tôi kéo trung sĩ Thuận trong toán Viễn thám, chỉ tay về hướng ổ đại bác phòng không:

         – Cậu dẫn toán men theo bên này cầu, diệt phứt cái lô cốt kia đi cho tôi.

         Thuận nhận lệnh, anh dẫn toán chạy lên, vừa dùng súng M79 hướng mũi trực xạ, một tiếng nổ làm bật tung khẩu súng phòng không, đồng thời biến mất những tên lính Miên, xạ thủ của khẩu phòng không ấỵ .

         Chiếc trực thăng chở Tướng Trí lại vòng tới, lần này ông lại bay thấp hơn, ông biến thành xạ thủ của chiếc “gunship”, chĩa những lằn đạn về phía đồn chính.

         Bỗng mọi người dưới đất xanh mặt khi chiếc máy bay rung lên, như con rồng chuyển mình, bốc lên cao. Một cái nón đỏ, đúng là nón của ông Tướng bay vụt ra, xoay vòng vòng như chiếc lá rồi bay vút về phía cây cầu. . .

         Những người lính trinh sát vừa hò hét vừa tiến lên, đen kịt thành cầu, những tiếng la phát ra từ những trái tim nóng hổi:
         – VN, VN!

         Tôi kéo chú hiệu thính viên lao tới, hai mắt tôi rưng rưng… Thuận hớn hở chạy về phía tôi giơ cao chiếc mũ đỏ có ba ngôi sao gắn chéo. Người ta bảo nóng giận thì mất khôn, nhưng vui mừng quá cũng mất khôn luôn, với lại tính háo danh nằm sẵn trong tôi, nó sai bàn tay tôi, ném cái mũ sắt đang đội, lấy cái nón đỏ đội vào đầu. Lại nghĩ: “Có ngày “mày” cũng được “nằm” vào đầu tao thôi!”.

         Tôi vừa đắc chí vừa chạy tới, chạy một quãng thì hiệu thính viên đưa cho tôi chiếc combiné:

         – Mặt Trời gặp Trung úy.

         Tôi nghe tiếng Tướng Trí.

         – Đừng bắn, đừng bắn nữa, chúng nó từ chân cầu đang phất cờ trắng kia kìa.

         Một hàng dài lính Miên, có cả đàn bà, con nít đang cầm những mảnh khăn trắng giơ cao trên đầu. Tôi vừa ra lệnh ngừng bắn thì hiệu thính viên lại đưa ống nghe cho tôi. Tiếng tướng Trí:
         – Tốt lắm, để một toán nhỏ lại giữ đầu cầu thôi, còn cậu tiếp tục đi.

         Như những con gà chọi đang say đấu, chúng tôi lao cả đoàn xe về phía trung tâm thành phố. Dưới đường người ta vẫn thong thả đi lại, những người lính Miên vẫn đeo súng lơ ngơ ngắm phố. Chắc không có một ai hiểu việc gì đang sắp xẩy ra với ho.. Tiếng Cừu báo qua máy:

– Trình Thẩm quyền mục tiêu kia rồi.

         “Băng ga lo” hoành tráng, nơi tôi phải chiếm, đang ẩn mình dưới những tàn cây cổ thụ, mục tiêu diễm lệ của tôi kia rồi!
         Xe của Cừu húc đổ ngay con ngưạ gỗ, tiếp theo xe của tôi và các xe sau trờ tới. . .
         Cừu đưa khẩu colt vào ngay ngực tên lính gác, qua một người lính gốc Miên thông dịch.

         – Văn phòng Tỉnh trưởng đâu ?

         Tên lính đưa tay chỉ về phía cổng lớn nơi có hai con ngựa đá rất to. Cả đại đội lại lao về phía đó. Chẳng có đội hình gì cả.   Khi Ban chỉ huy của tôi chạy vào trong đại sảnh thì một cảnh tượng vừa tức cười, vừa thống khoái hiện ra trước mặt: Trung úy đại đội phó Trần Như Xuyên đang ghìm khẩu súng M16 về hướng những người mặc toàn lễ phục đang chắp tay lậy như tế sao!

         Té ra tại đây đang diễn ra buổi đại tiệc!

         Tiếng người thông dịch:

         – Trong các ông, ai là Tỉnh trưởng?

         Một người chắp tay xá xá. Bỗng có tiếng lao xao phía sau tôi. Có người lính hét to:

         – Sao sẹt! Sao sẹt kìa!

         – Vào hàng, Phắc!

         Tướng Trí xông thẳng đến tôi, ông đến trước tôi khoảng ba bước, ông rập hai chân vào nhau rồi đứng nghiêm chào tôi. Tất cả quan quân mặt ai cũng xanh như tầu lá! Chết mẹ tôi rồi! Cái nón đỏ có hàng lon Trung tướng tôi đang đội trên đầu, chỉ đem cho tôi cái thích thú phù du, nhưng sẽ là một thảm họa khôn lường cho tôi.

         Tôi vừa sợ hãi vừa xấu hổ, đưa tay lên đầu, giật ngay cái mũ xuống rồi bằng hai tay, trịnh trọng đưa trả nón, y như kẻ bại trận dâng cây kiếm quy hàng.

         Tướng Trí, chìa cả hai tay lấy chiềc nón đỏ… Mọi người chờ cơn thịnh nộ của ông Tướng Sấm Sét…

         Ông cúi xuống gỡ ba ngôi sao ra cười hiền từ:

         – Giữ giùm cậu ba ngôi sao này, còn tặng cậu cái mũ làm kỷ niệm, làm kỷ niệm thôi nhé! Coi chừng quân cảnh bắt về tội tiếm phục quân hiệu đấy.

         Mặt tôi nóng ran lên như người lên cơn sốt.

         Tướng Trí đến ngay trước viên Tỉnh trưởng Miên, tính võ biền cố hữu của ông biến mất và y như một chánh khách chuyên nghiệp, ông giơ tay, bắt tay viên Tỉnh trưởng. Ông nói một tràng tiếng Pháp, tôi nghe lõm bõm, hình như ông ra lệnh cho viên Tỉnh trưởng phải kêu gọi các lực lượng dưới quyền quy hàng, bằng cách ra lệnh cho các đơn vị ấy, tháo hết các cơ bẩm của các loại súng rồi cho chở lên các bộ chỉ huy liên hê… Rồi y như ông chủ, chính tay ông khui whisky:

         – Vào đây, Đại đội trinh sát vào đây, các chú khá lắm, “moi” phải khao các “toi” một chầu mới được. Tôi bước ra trước, nhưng ông làm tôi quê hết sức khi ông hỏi lớn:

         – Chú lính nào ít thâm niên nhất, cấp bậc nhỏ nhất vào đây.

         Rồi cũng y như khi lúc xung phong, chẳng kể quan lính, mạnh ai nấy ùa tới vây quanh ông y như một người thân. Chính tay ông rót cho mỗi người một ly ruợu nhỏ.

         Bỗng tướng Trí lấy tay đập vào trán:

         – Chú nào bắn trái M79 trúng ổ đại liên cứu “moi” thế?

         Tôi chỉ vào viên Trung sĩ viễn thám:

         – Trình Trung tướng, Toán phó viễn thám, Trung sĩ Thuận!
         – Thấy “moi” nói có đúng không? Nhớ đấy! Hạ sĩ quan mới là lực lượng nòng cốt của quân đội!

         Ông rút trong túi ra quyển sổ tay, nhìn chăm chăm vào bảng tên của Thuận, ghi xong ông hất hàm hỏi:

         – Trung sĩ nhất bao lâu rồi?

         Thuận hớn hở trả lời:

         – Thưa Trung tướng, gần hai năm.

         Tướng Trí nghiêm nghị:

         – Cho cậu lên Thượng sĩ.

         Rồi ông quay lại phía tôi, nhắc lại điệp khúc:

         – Phải nằm lòng, Hạ sĩ quan mới là nòng cốt…

         Lần này không thấy ông bắt ai ghi vào sổ tay cả.

         4.

         Cô gái Miên.

         Sau khi chiếm xong dinh Tỉnh trưởng, Đại đội Trinh sát của tôi, được lệnh kéo trở ngược lại Bravét, một thị trấn nằm giữa Chi-Phu và Svrâyriêng, vừa đóng chốt, vừa giữ an ninh cho một toán công binh chiến đấu làm cầu. Đây là một cây cầu nhỏ nhưng rất quan trọng về mặt chiến lược đã bị quân lính của Si-Ha-Núc phá sập khi họ rút lui về Nam Vang. . .

         Buổi chiều, tôi dẫn các Trung đội trưởng đi tìm chỗ đóng quân. Đến cây cầu đang xây, tôi nói với Đại đội phó Xuyên:
         – Cái thằng Trưởng toán công binh này, giờ này không đến nhận lệnh đóng quân là làm sao? Chúng nó làm gì mà túm quanh căn nhà sàn kia thế? Thôi ta vào đấy xem sao ?

         Vừa thấy chúng tôi đến. Toán người đứng xung quanh nhà sàn bỗng bỏ chạy. Biết có việc gì không ổn, toán sĩ quan đi theo tôi chạy đến. Tôi vừa bước lên chân cầu thang đã nghe thấy tiếng quát của Xuyên:

         – Sĩ quan mà khốn nạn vậy à ?

         Trước mặt tôi là một người con gái Miên thân thể lõa lồ, nằm tênh hênh, bất động giữa sàn nhà, một toán 5, 6 người lính đang lui cui mặc đồ. Tôi hoa mắt lên vì giận, khẩu súng colt 45 run run chĩa vào một người, có lẽ là sĩ quan đang nghênh ngang đứng trước Xuyên:

         – Ông cấp bậc gì?

         – Chuẩn úy!

         – Mấy người hiếp dâm người phụ nữ này? 

         – Bẩy người.

         – Tại sao ông làm cái việc vô lại này? 

         – Xa vợ lâu ngày, kẹt quá ông ơi!

         Bỗng tôi nghe thấy người phụ nữ rên:

         – “ Miên tê! Miên tê” ( Trời ơi, trời ơi).

         Cô cong người lên, thở hắt ra, hai bàn chân rung rung, rồi xụi lơ. Hành động cuối cùng của một sinh vật trước khi lìa đời. Cơn giận như một nồi áp suất quá tải, bật tung, tôi nã luôn hai phát vào đôi chân đang giạng ra như thách thức của viên sĩ quan, mà ngay chiều hôm ấy, tôi biết anh ta là em của một ông Chuẩn tướng Chỉ huy trưởng của một Cục… ( Ng Van Chức, cục công binh ?? )


         5.

         Phúc hữu trùng lai!

         Sáu tháng sau, tôi dời Đại đội trinh sát để sang Tiểu đoàn 2, người ta bảo, đi kèm với một sự may mắn thường là một tai nạn. . . .
         Hai viên đạn súng colt hôm ấy, có một viên trúng bắp vế của viên sĩ quan nọ, và viên đạn này đã đưa tôi đến cái ngưỡng cửa của Quân lao Gò Vấp. Tôi sẽ phải về trình diện phòng dự thẩm 1 ở bến Bạch Đằng, nơi có một ông Đại tá tên X. chẳng tha một ai khi phải trình diện ông ta…

        Đại tá Lều Thọ Cường bắt tay tôi như bắt tay một thuộc cấp lần chót. Tôi leo lên trực thăng, rồi nhìn xuống bến phà Neak-Luông. Nơi đóng quân của đơn vị tôi, nước sông cuồn cuộn đục ngầu, phẫn nô.. . . Bỗng lòng tôi chùng hẳn xuống. Tại sao cuộc đời lại có thể bất công thế nhỉ??… Tôi vừa xuống máy bay tại sân bay Trảng Lớn, thì gặp máy bay của Trung tướng Đỗ Cao Trí cùng sĩ quan tham mưu của ông cũng vừa đáp xuống. Tôi đang tính né qua cái hunger để tránh mặt ông thì có một Đại tá cầm tấm bản đồ vẫy tôi:

         – Đại úy, đến trình diện Trung tướng.

Tướng Trí hỏi tôi:

         – Cậu đi phép hả ?

         Tôi chưa kịp trả lời thì ông đã móc quyển sổ tay ra. 

         Nhưng tôi vội nói:

         – Trình Trung tướng, tôi không về phép.

         Tướng Trí tròn mắt:

         – Dù hả, oai nhỉ, dù bằng máy bay cơ à?

         Giọng tôi bi ai:

         – Trình Trung tướng lần này tôi về Sài Gòn để ra Tòa án binh!

         – A! Cái vụ cậu nện cái thằng sĩ quan hiếp dâm chứ gì. Sao không bắn què cả hai chân nó luôn cho rồi? Quân đoàn đã có văn thư gửi Nha quân pháp về vụ này rồi! Khỏi, khỏi, cho cậu về thăm cha mẹ, thăm bồ bịch 48 tiếng rồi trở lại mặt trận giết giặc cho tốt.

         Không để tôi cám ơn, ông bỏ đi ngay.

         Tôi đứng như trời trồng, giữa trùng vây của bụi, khói và nóng, thế mà người tôi mát lạnh, nhẹ tênh, tôi có cảm giác như đang đi vào cổng nhà Hương.

         Có giàn hoa thiên lý ngan ngát.

         Có nếp nhăn áo lụa vàng dậy muộn.

         Có hương bồ kết thoang thoảng quyện theo bước chân chim…


         6.

         Người đi, đi mãi…

         Một tháng sau, Tiểu đoàn tôi đang hành quân tại Kăm Pông Trapeck, vùng biên giới phía Đông Nam căn cứ Thiện Ngôn, trên một ngọn đồi trọc, một người lính hiệu thính viên chỉ về phía Trảng Lớn la to:

          – Một em gẫy cánh rồi!

         Tôi ngoảnh lại, một khối đỏ như một quả cầu, đang ôm một chiếc trực thăng xoay vòng vòng rồi đâm nhào xuống đất.
Ngay tối hôm ấy, tôi được biết chiếc máy bay ấy đã chở cố Đại tướng Đỗ Cao Trí về miền đất không bao giờ có tiếng súng trận nữa.        
         Tôi bước ra ngoài lều vải, chòm sao Hiệp sĩ đêm nay có cái đầu bị mây đen che khuất, có thanh gươm mờ nhạt, nhấp nháy như muốn khóc.

NGUYỄN TRỌNG HOÀN
 



Nguyễn Thi Hàm Anh : Thăm Bà Cả Đọi

Thăm Bà Cả Đọi
Sunday, December 27, 2009 
medium_A-1-BaCa.jpg

Bà Cả trước một quán cơm mang thương hiệu “Bà Cả” do con cháu điều hành. (Hình: Hàm Anh/Người Việt)

medium_VN-BaCa-01.jpg

Bà Cả năm nay đã ở tuổi 81. (Hình: Hàm Anh/Người Việt)

medium_VN-BaCa-02.jpg

Chiếc cầu thang xi măng cũ kỹ lên căn gác Nguyễn Huệ một thời là điểm tụ tập của các nhà báo trước năm 1975. (Hình: Hàm Anh/Người Việt)

medium_VN-BaCa-03.jpg

Quán Bà Cả ở số 42 Trương Ðịnh, quận 1, Sài Gòn, với thương hiệu Ðồng Nhân. (Hình: Hàm Anh/Người Việt)

medium_VN-BaCa-04.jpg

Vài món quen thuộc ở quán Bà Cả. (Hình: Hàm Anh/Người Việt)

Nguyễn Thị Hàm Anh/Người Việt

Chúng tôi từng đến quán Bà Cả Ðọi cách đây tám năm, nay quay lại căn gác đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn thăm bà. Khung cảnh vẫn y như cũ, nhà cửa không thay đổi, không xây cất sửa sang mới, chỉ có con hẻm nhỏ coi có vẻ còn chật chội hơn trước vì xe đậu quá nhiều.

Xe gắn máy đậu mấy lớp vì ngay đầu hẻm là một hàng cơm bình dân, cuối hẻm một hàng cơm tấm và xe bún mắm đậu khoảng giữa.

Bắt đầu khởi nghiệp từ bà Cả, xem chừng cái ngõ này có duyên nghiệp với hàng cơm, vì sau khi bà Cả đóng cửa hàng của mình thì hai hàng cơm khác mọc ra ngay và thực khách không nề hà chỗ ngồi chỉ là những chiếc bàn thấp bé kê dọc theo một bên hẻm, phía bên kia dựng xe san sát cùng với xô chậu, nồi niêu xoong chảo… Hàng cơm bình dân với thịt kho, rau xào… Hàng cơm tấm với bì, chả, trứng… mùi thức ăn xào nấu thơm lừng.

Nhà bà Cả tít cuối cùng hẻm lại phải leo một cầu thang xi măng để lên nhà. Giữa trưa nắng gay gắt, bà đang ngủ, tôi không muốn phá giấc ngủ của bà cụ tám mươi mốt tuổi nên hẹn chiều quay lại.

Mặc dù tuổi tác khiến quên nhiều, lẫn nhiều nhưng khuôn mặt, hình dáng bà Cả vẫn thế.

Giờ không còn bận rộn túi bụi như xưa, việc làm ăn ngày càng phát đạt nhưng bà Cả thanh nhàn không xênh xang áo gấm, áo thêu xanh đỏ kiểu cọ. Tám năm qua, cũng như mấy chục năm trước, tôi vẫn gặp lại hình ảnh bà nền nã, giản dị trong chiếc quần đen, áo bà ba, hoàn toàn không chút thay đổi trừ mái tóc cắt ngắn bạc phơ hơn. Vẫn vóc người đậm đà, nguyên vẹn gương mặt phúc hậu thường xuyên đậu nụ cười rất dễ mến.

Sài Gòn thiếu gì hàng cơm bình dân, chắc chắn một phần lý do khiến nhiều người thích lui tới hàng bà Cả chính vì vẻ tươi tắn, đôn hậu, chính vì lối trò chuyện từ tốn, chân thật của bà chủ quán, hoàn toàn không giống như tính cách của bà chủ hàng cơm mà các tiểu thuyết ưa mô tả là lanh lẹn và đanh đá.

Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt không khỏi mỉm cười khi câu chuyện nhắc tới quán cơm bà Cả Ðọi ngày nào:

– Ðám nhà báo không hiểu sao rất thích bà Cả. Tòa soạn báo Sống nằm trên đường Lê Thánh Tôn, trưa nào Chu Tử cũng kéo anh em đến đó ăn cơm.

Nhà thơ nghĩ một lúc rồi xòe tay đếm.

– Có Anh Quân, Tú Kếu, Nguyễn Thụy Long, Trần Tuấn Kiệt…

Ông tỏ vẻ ngạc nhiên.

– Cái quán thì nhỏ xíu, có mỗi một gian phòng, tới giờ nghỉ trưa ai cũng ùa đến, ngồi chen chúc đụng cả vào nhau ồn ào.

Quả vậy, gian phòng không rộng lắm, khi đông quá, khách phải leo bậc thang gỗ ở gian trong để lên ngồi trên lầu. Hẳn là sự đông đúc náo nhiệt cũng là một yếu tố thu hút khách và giới làm báo có thói quen đến đấy tụ tập, một số chọn như là chỗ đóng đô nên chắc chắn cứ tạt qua gặp mặt đủ cả. Quán cơm bà Cả Ðọi là chỗ họp mặt văn nghệ như La Pagode, như Thanh Thế…

Bà Cả tỏ vẻ vui thích khi kể:

– Cậu Trường Kỳ lần nào về Saigon cũng ghé tôi chơi, có cả cậu Jo Marcel, cậu Tùng Giang…

Bà hay nhắc tới tên Trường Kỳ vì ngày xưa chính anh là người đã bỡn cợt gọi quán cơm của bà là quán “Bà Cả Ðọi.” Cứ khi cạn túi, hết tiền thì ghé đấy ăn bữa cơm vừa rẻ, vừa ngon vừa no. Giới văn nghệ có cảm tình đặc biệt, quán được nhắc đến đây đó trên báo luôn tới nỗi về sau thành chết tên.

“Cả” chứ không phải “Hai”

Thật ra quán cơm không sang trọng nhưng vẫn có những đặc điểm riêng biệt. Bà Cả tên thật là Túc, vốn gốc làng Ðồng Nhân, nay thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Bà vào Nam từ lâu, khoảng 1948, lấy chồng người cùng quê. Thoạt tiên hai vợ chồng mưu sinh bằng cách mở kiosque bán nước giải khát: bia chai, nước ngọt… cho nhân viên, thợ thuyền khu vực Chợ Cũ, Sài Gòn.

Khách đến uống nước thì hỏi ăn, thế là nhân thể bà nấu phở. Rồi theo nhu cầu của khách hàng, từ phở, bà mở thêm hàng cơm. Chẳng bao lâu, khách mau chóng kéo đến càng lúc càng đông đúc ngồi tràn ra làm mất trật tự vỉa hè, chính quyền bấy giờ thấy vậy đuổi không cho buôn bán nữa. Bà rút lui lên căn gác của người chú trong ngõ hẻm đường Nguyễn Huệ và chuyển hàng ăn uống từ vỉa hè về đó.

Khu vực Chợ Cũ dần dần phát triển, cửa hàng, công sở, văn phòng mở cửa… Lại thêm làn sóng di cư năm 54 khiến số lượng người Bắc ở Sài Gòn tăng lên đáng kể. Quán tưởng chừng không thuận lợi về mặt vị trí vì phải đi vào cuối ngõ, phải leo cầu thang mới tới được một căn phòng không rộng rãi lắm ở tận cùng thế giới đó. Té ra hàng ăn vẫn đông, ngày càng đông khách.

Tự nhận chỉ là hàng cơm bình dân nhưng những món ăn của bà Cả nấu sạch sẽ, ngon lành, không khô quèo “cơm hàng cháo chợ” như các hàng cơm bình dân khác, mà mang vẻ “cơm nhà” như được nấu bởi bàn tay hiền hậu của bà mẹ hay người vợ, bởi bàn tay của người nội trợ quen thuộc.

Bà Cả phân bua:

– Tôi chỉ nấu món ăn bình dân thôi ấy mà.

Ðúng là bữa cơm của quán bà Cả không cao lương mỹ vị, chế biến không cầu kỳ, trình bày không mỹ thuật, chén đũa cũng bình dân, chỉ là những món ăn gia đình như mâm cơm người ta vẫn thường dọn tại nhà. Thành công mà chính bà không ngờ lại nằm ở chỗ ấy khi người thực khách không có điều kiện ăn cơm nhà, lại có thể thưởng thức một bữa cơm nhà ngay tại quán.

Ðặc biệt, người miền Bắc tha hương trên bước đường lưu lạc tới một vùng đất mới với phong tục, khí hậu, thổ nhưỡng mới, đã tìm thấy nơi quán ăn nhỏ bé của bà Cả một chút phong vị quê hương. Không phải món Nam mà là món Bắc, nêm nếm đúng khẩu vị Bắc không lai tạp, giọng nói Bắc, tính cách Bắc. Một khoảnh quê hương xa lìa đã được bà Cả vô tình tái hiện trong quán ăn của bà làm ấm lòng người xa xứ. Ở miền Nam quanh năm nắng nóng, chỉ trong bữa cơm chốc lát, họ cảm thấy an ủi khi bắt gặp lại một mảnh sinh hoạt gần gũi thân thương tưởng chừng đã mất hẳn. Tên gọi Quán bà Cả chứ không phải bà Hai, bà Bảy, bà UÔt… càng mang đặc tính “Bắc Kỳ.”

Người của lịch sử văn hóa Sài Gòn?

Tôi nhìn quanh căn gác Nguyễn Huệ, nhà kiểu Pháp cũ, không sửa sang gì nhiều, vẫn chiếc cầu thang gỗ nâu nằm trong ký ức giới văn nghệ, và hỏi bà Cả:

– Bà có mời khách dùng cơm ở đây không?

Bà lắc đầu:

– Không, bây giờ chỗ này chỉ để ở thôi, tôi mời các cậu ấy ra ngoài quán.

Sau 75, dù không còn cánh nhà báo lui tới nữa, một thời gian dài, quán bà Cả vẫn là địa điểm ăn trưa của giới văn phòng, tư chức… từ các cao ốc chung quanh đường Nguyễn Huệ, Hải Triều, Hàm Nghi, Hồ Tùng Mậu, Ngô Ðức Kế… Khách quen đến ăn chật phòng, như trước kia, đôi khi vẫn phải dọn thêm bàn trên gác lửng.

Sau này bà Cả mua được hai căn nhà ở đường Trương Ðịnh và Tôn Thất Thiệp, hàng cơm được dời ra hai nơi đó với bảng hiệu chính thức là quán Ðồng Nhân giao cho các con trông nom, và gần đây thêm một quán nữa do con gái út đứng làm chủ ở Thị Nghè vẫn giữ cùng một thương hiệu Cơm Bà Cả. Khách hoài cổ đi xa lâu ngày về Sài Gòn vẫn quen lối ghé lại căn gác Nguyễn Huệ cũ kỹ, dọc cầu thang xi măng đặt đầy các chậu cây xanh mướt, không còn quán cơm nhưng may mắn, vẫn còn được gặp bà chủ hiền hậu sẵn sàng ngồi chơi tiếp khách.

Lần trước tôi ghé, bà Cả còn khỏe khoắn, dù quán xá đã có con cháu trông nom nhưng mỗi buổi sáng, bà vẫn đi bộ ra quán nhặt rau. Bây giờ, bà đã yếu nhiều, chân đi chậm chạp từng bước và trí nhớ đã kém, nhớ quên lẫn lộn. Chiều chiều, trời nhạt nắng, cô cháu gái chở ra quán, bà chỉ ngồi trước cửa ngắm nghía hàng cơm vỉa hè thủa nào giờ đây là căn nhà hai gian rộng rãi, cửa hàng khang trang góc ngã tư nằm ở những con đường sầm uất giữa thành phố.

Có nhiều người chưa từng biết mặt bà Cả, chưa ăn hàng cơm Nguyễn Huệ trước kia bao giờ nhưng truyền miệng nhau, người ta vẫn tìm tới quán cơm Bà Cả Ðọi. Ða số Việt kiều về Sài Gòn đều tìm tới quán của bà. Cả khách ngoại quốc cũng vào gọi đĩa cà tím nướng, tô canh cải xanh…

Quán cơm Bà Cả bây giờ sạch sẽ khang trang, không còn là căn gác lùi sùi cho dân “đọi” tìm tới qua bữa. Dù sao giữa trung tâm thành phố, đó vẫn là quán cơm bình dân với những món ăn từ xưa đến nay không thay đổi: thịt đông, thịt lợn nấu giả cầy, đậu rán, dồi trường, rau muống xào, trứng non, trứng đúc thịt… Ðếm có tới gần ba chục món ăn bày ở quầy đặt ngay cửa ra vào. Quán Bà Cả đặc biệt không có thực đơn, khách cứ đứng ngắm nghía chọn lựa món ăn ngay đó, rồi có người bưng thức ăn đến bàn.

Chúng tôi gọi cá trê rán chấm nước mắm gừng, ốc nấu giả ba ba màu nghệ và thơm mùi tía tô, canh cua rau đay mướp mát rượi trưa nắng và một món mà khi vào các quán ăn Bắc kỳ, tôi không khi nào quên gọi là dưa chua, cà pháo chấm mắm tôm.

Dưa vàng muối chua vừa tới, cà pháo quả nhỏ, trắng nõn giòn tan chấm vào chén mắm tôm tim tím vắt chanh nổi xốp… Món ăn của quán bà Cả dù kho hay xào đều có màu vàng tươi, nhìn rất bắt mắt chứ không thâm màu như đa số các quán cơm bình dân khác.

Bà Cả đi một vòng quanh quẩn trong quán xem xét mọi thứ với vẻ hài lòng, bà ngừng trước mặt ân cần hỏi tôi có ngon miệng không.

Tôi chào bà Cả Ðọi ra về chẳng cần biết bà có thích chữ “đọi” hay không bởi vì cũng như bà Ba Bủng, bà Cả Cần… chỉ là những quán ăn nhỏ bé, bình dị nhưng một mai khi viết về lịch sử văn hóa Sài Gòn, e rằng người ta không thể quên tên!




Thư Khanh : NGÀY ANH VỀ

NGÀY ANH VỀ 

(Bút ký năm 1982)
 Chuyện tôi ghi lại đây là chuyện thực 100% của tôi, xảy ra năm 1982  
 
 Vâng,
 Vào năm 1982 thì ông xã tôi được tha khỏi trại cải tạo! Từ XUÂN PHƯỚC anh trở về gày còm như một cái xác ve! Anh mặc bộ quần áo lúc đi trình diện cải tạo – Lúc đi thì mặc vừa mà nay mặc về thì bộ quần áo rộng thùng thình… Trông anh không còn hồn người… – một cái xác ve đang bước vào cổng… Ôm lấy vợ con!
 Rồi bà con xóm láng đến chia vui.
 Rồi anh đưa cho tôi coi cái giấy được cho về… Tôi tái xanh mặt vì trại phê là anh ấy phải đi kinh tế mới – khu chỉ định ở vùng TÂY NINH!
 Tôi và hai con chắc phải đi theo!
 Tôi chả còn gì trong nhà để bán để mua đồ ăn chiều hôm đó! Tôi mang đĩa khoai lang vừa luộc với điã đường lên cho anh và con ăn đỡ.
 Tôi bảo: "Chắc tụi mình sẽ chết anh ạ! Em không biết làm sao bây giờ – Mà giấy ra trại của anh lại phê rõ ràng là "Anh  phải đi kinh tế mới – khu chỉ định!".
 Anh Giang Đông bảo tôi:
 "Thôi được! Để anh mang giấy ra trình diện Công An Khu Vực đã và sang trình diện ông  Tổ Trưởng Tổ Dân Phố đã !"
Chờ Giang Đông đi rồi, tôi vào lục áo dài còn lại (may từ trước THÁNg TƯ ĐEN!).  Tôi lựa cái nào tốt đem đi bán! "1- 2- 3…"! Thôi tạm lấy ba cái tốt nhất  mới may…
 Tôi dặn con:
 "Mẹ đi chợ mua gạo và đồ ăn!  Bố về con nói vậy nghe!"
 Tôi đem ba cái áo dài qua nhà cô Nụ, một cô giáo dạy cùng trường cùng hoàn cảnh: Chồng đi cải tạo ở ngoài Bắc mới có một năm mà chồng cô đã bị chết trong trại. Cô có hai con nhỏ. Cô đi buôn chợ trời một buổi!
 Nhà cô Nụ ở ngay bên kia đường, đầu ngõ nhà tôi trông sang.
 Tôi gặp Nụ vừa đi lễ về, đầu còn chít khăn tang, tay dẫn hai con.
 Tôi nói:
 "Nụ ơi! Ông xã mình được về. Ảnh gầy còm lắm! Mình nhờ Nụ bán ba cái áo dài này nhé. Mình cần ngay tiền để đi đong gạo bây giờ!"
 Nụ bùi ngùi chậm nước mắt:
 "Chị còn được Chúa Ban cho chồng về… Còn em vĩnh viễn mất chồng! Biết bao giờ mang được mộ anh ấy về! Hai con em còn nhỏ hơn con chị!"
 Tôi cũng khóc theo Nụ. Một đứa chồng chết trong trại Cải tạo.  Nụ  đang đi dạy học. Mỗi tháng có 12 Ký lương thực, thì  2 kg gạo mốc xanh mốc đỏ,  bỏ ra cái sàng,  toàn mọt và sâu nhung nhúc bò ra lẫn  mốc bay lên! (Tôi không nói điêu!) và 10 Kg thực phẩm phụ, như bo bo, sắn, mì bột, mì sợi!
 Một đứa chồng về, không còn một manh chiếu lành! Bán từng cái giường cái tủ, từng cái… áo dài thế này mà còn chưa yên: SẼ BỊ ĐI KINH TẾ MỚI theo chồng!!!
 Rồi Nụ mở cái gói ra coi từng cái áo dài. Nụ khen:
 – Cái này mầu AIR VIỆT NAM, soa Pháp, dễ bán. Cái này mầu Vàng chanh hai lớp… như voan (?!) hơi khó bán vì tụi Khỉ chúng nó sợ hở hang! Nhưng sẽ bán được chỉ rẻ hơn soa Pháp. Cái này màu Tím Hoa Cà, hàng Thụy Sĩ! Được, cái này dễ bán!
 Nụ hỏi: "Vậy bao nhiêu để em nhắm bán dùm chị thôi! Em không ăn lời! Em bán ở đầu chợ Tân Bình! Vắt lòng thòng vào cánh tay! Hễ  Công An rượt thì chạy!
 Tôi nói: "Chị cần tiền em cứ bán. Bây giờ em đưa trước cho chị 30 đồng được không?!"
 Nụ vui vẻ móc tiền trong túi vải nhỏ có cái dây thắt miệng túi như mất cái túi của mấy bà ăn trầu…
 Nụ nói: "Chị coi. Buôn bán tiền phải bỏ như thế này. Hễ Công an đuổi thì nhét vội tụt vào trong cạp quần!
 Tôi an ủi Nụ: "Đời sống GIÁO VIÊN vậy đấy. Như cô Nhi phải bán rau muống ở đầu chợ. Cô Quỳnh bán Cà Rem, bắp rang dạo!  Thày V. đi đạp xích lô! Một buổi đi dạy, lòng dạ nào mà làm nhiệm vụ cao cả của Thày Cô là  "KỸ SƯ TÂM HỒN"  nữa!
 Tôi xách giỏ ra xe đạp, đạp  thẳng chợ, đong gạo và mua đồ ăn. Mua  có vài lạng thịt heo và hai miếng đậu hũ, mớ rau muống, củ tỏi, hành hoa,  rau răm.
 Khi về đến nhà  thấy  Giang Đông chưa về tới. Tôi bắc nồi cơm và làm đồ ăn… Tôi đang làm thì cô hàng xóm xế cửa tên là cô Bảy (trước Tháng Tư Đen  cô làm y tá, độc thân ở với bố mẹ – nay không làm mà lén chích thuốc tại gia!  Cô có người anh ruột làm Bác Sĩ Quân Y đã nhanh chân nên ngày 30 tháng Tư Đen, ông  đã đi qua Mỹ, thường gửi tiền về nuôi bố mẹ và cho cô).
 Cô Bảy tươi cười, tay cô cầm 5 trái cam và một ống thuốc màu tim tím… Và cái đèn bão,  một nắm nhang,  cái bật lửa, một chai dầu Nhị Thiên Đường. Cô ngồi xát tôi ân cần bảo:
 – "Nè chị Đông!  Em đem gấp cho chị các thứ này. Các thứ này rất cần cho anh chị đêm nay. Vì em biết có  ông Cải Tạo bị đi xa vợ lâu quá. Nhiều ông về không chịu nghỉ ngơi dưỡng sức,  lấy lại tinh thần… vội "nhào vô" với vợ là bị đứng tim, chết luôn! Có vài ba ông chết như vậy rồi đó!"
 Tôi bât cười: "T&o
circ;i lo buồn muốn chết! Giấy ra trại cho về bắt đi kinh tế mới! Đâu còn ham gì đâu!"
 Cô Bảy: "Vợ chồng nằm cạnh nhau… khó tránh lắm! Chị nghe em đi… đề phòng là tốt!".
 Cô nói tiếp: "Nghe em chỉ dẫn nè: Khi anh về tới giờ thì chị bổ cam vắt ra và cho đường vào cho anh ấy uống!  Rồi cho uống ngay một viên thuốc màu tím này là thuốc ngừa  sốt rét. Thuốc này tốt lắm uống liên tục tám ngày, mỗi ngày một viên để ngừa sốt rét! Bệnh sốt rét còn trong máu, muỗi nó đốt anh ấy rồi đốt sang cả nhà… nguy hiểm. Đây là lọ dầu gió! Lỡ chuyện anh ấy bị sỉu thì chị  "để nguyên" và cho con qua gọi em ngay. Em cấp cứu! Đừng xấu hổ đẩy anh ấy ra là Trời cứu!".
 Tôi đỏ mặt: "Tôi rõ trường hợp này rồi!".
 Cô lại tiếp tục: "Đây là chai dầu gió! Nếu đêm thấy anh ấy sốt là cạo gió ngay. Xong đắp chăn kín lại cho ấm. Rồi đốt cây đèn gió này. Tay cầm theo nắm nhang này và cái bật lửa này. Chị phải nhanh chân xách đèn vào xóm trong gọi cô Hương ra giác lể ngay. Cô này chuyên nghề Giác Lể và đang làm ở Ban Y Tế của Phường về Đông Y. Khi đi nhớ mang đèn và nhang, bật lửa. Vì chị phải đi qua Phường Đội  chúng nó canh mà chị đi không mang đèn hay nhang đốt đỏ là chúng nó bắn chết ngay".
 Tôi vừa làm cơm vừa nghe cô giảng giải!
 Vừa xong cơm thì cô Bảy ra về và ân cần dặn: "Chị nhớ lời em dặn. Nếu có gì gọi em ngay! Đừng xấu hổ! Em là Y Tá, anh Em là Bác Sĩ. Em biết rõ chuyện này!"
 – Tôi cám ơn cô!
 Tôi luôn được hàng xóm thương!
 Giang Đông về tới. Nét mặt rầu lo! Tôi hỏi: "Sao anh đi lâu thế?".
 Giang Đông nói:
 – "Vì anh ra Công An Khu Vực rồi ra Công An Phường! Tụi Công An Phường nói "từ sáng mai anh phải  ra phường  mỗi sáng phải ra trình diện và làm kiểm điểm. Rồi ăn Tết xong đi kinh tế mới!"
 Tôi rầu rĩ, pha nước cam cho anh uống và uống một viên thuốc màu tím cô Bảy cho.
 Tôi dọn cơm. Con cái còn nhỏ không hề biết chuyện bố mẹ chúng đang lo lắng thắt ruột.
 Ăn  cơm vừa xong thì con Phan Thị Hoài Hà, con gái của Phan Lạc Tuyên sang bảo: "Bố cháu mời chú sang uống nước!".
 Trong vòng mười lăm phút sau, Giang Đông về! Nét mệt mỏi, thất vọng đầy trên thân xác và khuôn mặt.
 Giang Đông hỏi:
 "Tủ sách anh đâu?"
 Tôi trả lời: "Sách thì Đoàn Cờ Đỏ tịch thu hết rồi. Còn tủ thì bán rồi!"
 Giang Đông  ngồi ôm con vào lòng hỏi han chuyện học hành. Rồi tắm rửa thay quần áo, đi ngủ.
 Tôi bảo anh ngủ với  con hai bên hai đứa. Em chấm bài cho học trò sẽ ngủ sau!

 ***

 Lòng thì buồn lo như vậy mà vẫn ham được!!!
 Tới gần mười hai giờ anh đã sang ngủ với tôi! Và chuyện Cô Bảy dặn Đề Phòng nó đã xảy ra thật!
 Tôi cạo gió cùng mình sau lưng, dọc hai bên xương sống  và trước ngực cho Giang Đông  nhưng anh vẫn sốt li bì không biết gì! Tôi qua gõ cửa cô Bảy. Cô Bảy chạy sang ngay! Cô giật tóc mai Giang Đông. Cô hốt hoảng bắt mạch! Cô bảo chị xách đèn bão vào gọi ngay cô Hương Giác Lể.
 Hay thiệt! Cô Hương giở đồ nghề ra. Có cái cục mảnh chai nhỏ như con dao nhỏ, sắc nhọn. Cô Hương đốt alcol trong một cái bát – cho hơ lữỡi dao này vào ngọn lửa alcol. Xoa dầu gió vào nửa người trên cho Giang Đông. Rồi lấy dao cắt  lể, máu rớm ra, lấy bông gòn thấm alcol lau sạch theo. Xong! Giang Đông đã tỉnh. Cô Hương cho uống một ly nước  ấm  chanh đường và gừng! Đắp chăn chùm đầu cho Giang Đông. Một lát sau cơn sốt hạ.

 Sáng sớm hôm sau cô Hương sang nhà tôi đem theo ly sữa nóng … và chữa đậu lào…!
 Giang Đông lững thững ra Ban Công An Phường trình diện và ngồi viết kiểm  điểm. Cứ ngồi đó viết cho đến khi nào các "đồng chí"  đọc mà bảo "Được"  thì cho về!.
 Đấy Bút Ký Của Tôi ghi lại một trong cả ngàn  "manh chiếu rách của Cuộc Đời"! Còn nhiều Đắng Cay…! Đắng cay nên phải Bỏ Nước Ra Đi!!!
 
THƯ KHANH

 




Tạp ghi của NNS, Sơn Nguyễn : Trang Thơ Nhạc

Phan Ni Tấn

Phi Nhung


3.Thơ:

   

   

Lý Con Sáo Bạc Liêu, có đề cập đến Cầu Quay. Hồi còn bé được Mẹ đưa về Mỹ Tho thăm Bà con, trước khi ra đi nước ngoài, NNS thật ấn tượng về (địa danh) cầu Quay. Dù bao nhiêu năm tháng qua đi, NNS vẫn nhớ hình ảnh hai bên đường, qua cầu Quay, là xã Tân Mỹ Chánh, trên đường đi Chợ Gạo. Rồi bên phải là Vàm Kỳ Hôn, với những vườn mận bát ngát. Đứng nhìn qua bên kia Sông, nước chảy cuồn cuộn, thấp thoáng những đệ tử của Ông Đạo Dừa mặc áo màu nâu đi qua đi lại trên chiếc thuyền hoa lớn. Năm 2006 về dạy học và giúp cho chương trình Liên Hiệp Quốc, trên đường xuống Cần Thơ, NNS nói với người Tài xế (của Viện Đại Học Cần Thơ phái lên rướt từ Phi cảng Tân Sơn Nhất), ghé qua đây cho NNS nhìn lại cảnh cũ thời nào. Cũng nao nao trong lòng, dù sinh quán ở tận miền Trung. Chả trách một người nặng lòng với sông nước miền Nam như Anh Phan Ni Tấn, đã từng cỡi xe đạp đi cùng khắp nẻo đường, yêu Quê nhà đến thế đó, thì viết Nhạc Quê hương không hay sao được…

(NNS)

ở phía bCầu Quây, vĩ rằng tôi không phải lợ. Hồi đó, cái hồi bắt đầu từ những năm nết cho đến năm 1954, Cầu Quây lới chia tỉnh Mỹ ối liền đôi bờ sông Bảo ịnh. Mấy chữ "bầu Quây“ đồng nghĩ với mấy chữ "vấn đề an ninh“, tuy chiều chiều nam thanh nữ tú vẫn thường thơ ẩn bầu hóng gió vền qua lại. Dạo ấy, cho tới đầu những năm người bại sang bắm, cũng như vào thời 60, 70 nói tới Cầu Vỹ lũng

Gia đình tôi tản cư lên Mỹ Tho đâu năm 1946 và tìm được một căn phố ở bên kia Cầu Quây, đường Trịnh Hoài Ðức, gần ngả tư, tức là không xa đầu Cầu Quây bao nhiêu. Chiến tranh đã tàn phá gần hết làng tôi, làm tiêu tan cả tài sản ba má tôi, cho nên dù có là con nhà khuê các ai trong hoàn cảnh đó cũng đều trở thành hạt cát. Mỗi ngày tôi phải lội bộ đi học trường Cầu Bắc. Quãng đường đó đối với người lớn chắc cũng đã không gần, huống hồ là cho một đứa bé 7 tuổi, mà đoạn ngán ngẩm vô biên là lên dốc cầu, nhứt là dốc phía bên chợ nó dài và rộng gấp hai lần dốc bên nây, và những phút đi ngang qua cầu giữa mùa nóng đốt. Ba má tôi cũng không có phương tiện di chuyển nào khác, nên phải giải quyết bằng cách cho tôi  ở lại trường buổi trưa. Năm lớp tư, má tôi sáng sớm nấu cơm bỏ vào hộp để tôi mang theo.

ạn nhỏ đắn đường đi bằng cách quăng cái cặp đệm xuống đất, từ đoạn đường d´Ariè trướ Tđá ặp đẩy đóng lá me bệ đường chạy đới trước rồi chạy theo cặp, vứ tiếp tục cho đến hết khúc đường có nhiều lá me rơi. Chúng tôi vui thú đến quên đường dài, nhưng tới nơi thộp cơm bằng giấy của má tôi đđổi ạng. Năm lớp ba, tôi được ăn cơm ở cantine trường vđới năm lớp nhđược ba má sắm cho một chiếc xe đạp. Thế là con đường không cằng dặc nữa, nhưng đạp lốc trước nhốc tây Trần văn Khánh vền ịa thẫn cừ khi có xe đạp tôi thường lấy cớ để chạy xe. Tuy sợ dốc cầu nhưng mỗi chiều tôi đều đều đạp xe qua tiệm bán nước đá cây ở con đường sau khám Mỹ Tho, mua một cục cột dây lát ề cho cả nhà có nước đá uống trong bữa cơm. ứt lảng năm 1950 có một tiệm lọt vọt có ộn nho khô. Thế lọn con nít xóm tôi cứ đúng 6 giờ chiều lạy xe đạp sang ợ để mua bánh mới ra lĐó là mode "mới“ của dân bời sống bầu Quây là đời sống nửa quửa tỉnh. Xóm tôi ở xui xẻo lỉ có toở tuổi tôi với vị lớn vột hai bé gái cỏ hơn tôi nữa, nơi sau trường học của tôi cũng độc đáo. Tức lập bọn với đám con trai đi đánh trổng, đá ầu, chọi đáo… , rồi tẫy hái rau đắng về cho dế ăn hay đi vớt lăn quăn ở các đường mương để nuôi cá lia thia đá. Lối sống của hạt cát, hỏi đó đững ệm tuyệt vời ể có được đối với ững bé gái cổi ở chợ hay ững tiểu thơ măng non trong nhà cao tường kínững kệm cới một đám "quỷ ật đổi sao dời chúng tôi cũng cếm nhau lại để ỉnh thoảng trao đổi văm hỏi.

ều khó quên là đời sống ở đó không phải lúc nũng êm như bàn thạch. Nghe súng đạn ện giữa đêm thường xuyên đến ỗi dưới sũng được lau chùi bóng lưởng vải chiếu cẩn thận. đêm má tôi dựng một tấm nệớn trước đầu nằm, tưởng như đạn vệm sẽ ở luôn đó. Mỗi khi nghe súng nổ nồ, nhứt lếng nổ to từ bót số 1 gần đầu cầu, lả nhập tức chun xuống sẻ con thật vô tư, tôi thấy vui mủ dưới sàn trong khi người lớn lo âu sợ sệớ, hồi ở quũng đừng chun xuống tranchée để trốn bom, cái hầm đống đất được trét đất sét láng trơn và mát rượi lứ thả tư là khu bán thức ăn đủ loại, là nơi nhậu nhẹt của đám lính Pháp và lính đầu đỏ Việối tuần hay ngễ. Thế nở đây cũng có tiếng lựu đạn nổ hầm. Ngọi thế để chỉ ngọ không cần biết lỉ biết ngục nhổi sáng vểm buổi chiều. Buổi ộc lễ to ở đầu cầu, cách bót số 1 vài mươi thước. Năm nũng có trỡ bđể lấy ần thưởng ở đỉnh cột, vội sông bắt vịt. Ai có thương cho cái cảnh "năm tấc trột thước tuột xuống "hay có bắt được rồ vẫn cứ vuột“ thương, chớ hTây Ta và các bà đầm cứ cười nghi
ửa. Nhưng "vui“ là"vui“ buổi sáng thôi, ới tối khi cả bọn đầu đỏ ắt xanhấy tiếng đồng hồ hcàng bên hàng đống chai rượu lắc

Gia đình tôi dọn nhà qua chợ một năm sau khi tôi đậu vào Lycée Le Myre de Vilers. Trường vẫn còn mang tên Pháp mặc dù niên học tôi bắt đầu cho chương trình Việt. Năm 1954, Pháp về nước. Vùng bất an ninh đã được an ninh. Cầu Quây thật sự là nhịp cầu nối kết hai vùng của tỉnh. Mùi hủ tiếu Phánh Ký bay sang tận bên chợ mời mọc hằng bao nam nữ học sinh của ngôi trường trung học đã được đổi tên thành Nguyễn Ðình Chiểu từ ngày 22.02.1953. Và con đường đi Chợ Gạo không còn là con đường cho hàng dọc xe nhà binh Pháp mang đầy sình đất nặng nề chạy về sau những cuộc hành quân, mà là con đường dẫn xuống nơi gặp gỡ thơ mộng của thanh thiếu niên Mỹ Tho: chùa Vĩnh Tràng!

ới tuổi đời chồng chất mấy nhịp Cầu Quây như thân già yếu ớt, nặng trĩu trền xi măng nứt rạn và sườn sắt rỉ sét. Cầu Quây chỉ dùng cho người đi bộ. Chỉ cểu tượng cho thố Mỹ Tho vấu vết đầy thân thương trong lỹ Tho!

Đỗ Thanh Vân (Vinh Lan)

ội San 14 / 2008

……………………………………………………

 

Phan Trung Nghĩa

 

 

 
   

"Vì chưng lẻ bạn mới ốm o cung đàn". Câu này có rất nhiều người hiểu sai, nghĩ là cái chân (vì cái chân, người Nam đọc là cái chưng, cái cẳng). Thật ra đây là Từ cổ xưaCụ đồ Chiểu từng dùng…

Cốt truyện xoay quanh cuộc xung đột giữa Thiện và Ác, nhằm đề cao tinh thần Nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lý tưởng của tác giả về một Xã hội tốt đẹp.
Câu thơ này nằm trong đoạn trích từ câu 473 đến câu 504 trong truyện Lục Vân Tiên ( Một quyển truyện thật đặc thù miền Nam, như Chú Tư Cầu sau này của Nhà văn Lê Xuyên hay Xuân Tóc Đỏ của miền Bắc…).
Nội dung là cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán với 4 chàng Nho sinh: Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm và Bùi Kiệm.
Những điều ông Quán ghét:
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm. – Ghét đời U, Lệ đa đoan. – Ghét đời Ngũ Bá phân vân. – Ghét đời Thúc, Quý phân băng… Đó là những triều đại Vua chúa say đắm tửu sắc,ăn chơi sa đọa, lộng hành quyền lực làm cho đất nước suy yếu, bấn loạn, nhân dân khốn cùng. Mỗi câu thơ lục bát là một tiếng dân. Nhà thơ đứng về quan điểm của người bình dân để bình phẩm lịch sử.
Những điều ông Quán thương: 
Đó điều là những con người có tài, có đức, muốn hành đạo giúp đời nhưng đều không đạt sở nguyện.
Điển hình như: Thương đức Thánh nhân (Khổng Tử) , vì long đong, lận đận – Thương thầy Nhan Tử:  hiếu học nhưng mất sớm – Thương ông Gia Cát: phí hoài tài năng công sức – Thương thầy Đổng Tử: không có điều kiện để thi thố tài năng. – Thương người Nguyên Lượng: bất đắc chí – Thương ông Hàn Dũ: bị đi đày – Thương thầy Liêm Lạc: không được trong dụng…
"Vì chưng hay ghét cũng là hay thương": Ghét và thương là hai thái cực tình cảm trái ngược nhau ở một con người vậy mà ở Nguyễn Đình Chiểu "lẽ ghét thương" lại xuất phát từ một điểm: Ông ghét cũng vì dân và thương cũng vì dân.

.

 

 

 




Phan Nghị : Phở Sài Gòn xưa và nay

 

     Ðể nhớ Saigon

Phở Sài Gòn xưa và nay 

Cũng như thịt chó, phở là một đặc sản của miền Bắc. Người ta cho rằng nó chỉ mới xuất hiện ở Saigon vào những năm 1951-1952, cùng một thời gian với hai nhà hát ả đào, một ở xóm Monceau và một ở xóm Đại Đồng.

Cả hai thứ ấy đều rất xa lạ với người Saigon thuở đó. Kiếm được một quan viên biết cầm trống chầu không phải chuyện dễ. Cho nên họ chỉ cầm cự được một hai năm rồi dẹp tiệm,mặc dù họ đã biến nó thành một hình thức như ”kem sờ” ở Bờ Hồ ( Hà nội ) vào những năm 30 hoặc như ”bia ôm” của Saigon hôm nay. Và phở cũng chịu chung một số phận với nó. Người ta chỉ thích hủ tíu, hoành thánh, bánh xếp nước…Chỉ có độc một tiệm phở được gọi là ”Phở Tuyệc”, nằm trên đường Turc (nay thuộc khu vực Đồng Khởi) là kiên trì bám trụ.

Phải đợi tới sau năm 1954, phở mới thực sự thực hiện một bước nhảy vọt từ Bắc vào Nam. Phở khởi đầu sự bành trướng của nó vào giữa thập niên 50 tới giữa thập niên 60. Có cả một dãy phố phở nằm trên hai con đường Pasteur và Hiền Vương.

THƠ PHỞ 

Những nhà hàng phở ngon của Saigon thuở ấy nhiều vô số. Nhưng được người ta chiếu cố nhất chỉ có bốn hoặc năm tiệm, trong đó có phở Trần Minh ở hẻm Casino. Trong cái ngõ cụt ấy, ê hề các hàng quà : phở, bún ốc, bún ốc sườn… Từ đầu ngõ, người ta đã chạm trán với khách ẩm thực, kẻ ra người vô tấp nập. Phở Minh ngon thiệt là ngon. Nó không giống như kẹo kéo "ăn một lại muốn ăn hai, ăn ba ăn bốn lại nài ăn năm". Người ta chỉ có thể ăn một bát để cho nó thòm thèm rồi mai lại ăn nữa ! Có một người nghiện phở của ông ta, và nghiện luôn cả truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Đó là ông X, chủ một tiệm giày ở đường Lê Thánh Tôn. Ông vừa ăn phở vừa theo dõi cuộc tình của Triệu Minh – Vô Kỵ, hoặc của Doanh Doanh – Lệnh Hồ Xung trên mặt báo. Và tình bằng hữu giữa ông chủ tiệm giày với ông chủ tiệm phở đã thắm thiết hơn lên nhờ một bài thơ phở của ông chủ tiệm giày. Gọi là thơ phở vì đọc lên nghe thấy…toàn mùi phở. Tuy nhiên nó được làm theo thể Đường thi, và chữ nghĩa đối nhau chan chát. Rất tiếc, người viết chỉ còn nhớ được có bốn câu :

Nổi tiếng gần xa khắp thị thành
Trần Minh phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề : tái, chín, gầu, gân, sách

Gia vị : hành, tiêu, ớt, mắm, chanh…

Sau đó, ”mông xừ” Trần Minh đã nhờ một người nhái những nét chữ rồng bay phượng múa của Vũ Hoàng Chương để viết bài thơ ấy và treo ở trong tiệm.

VÀ CÂU ĐỐI PHỞ 

Saigon thuở ấy chỉ có một tiệm duy nhất ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu, có món tái sách tương gừng và phở tái sách : tiệm Y. Thịt tái mềm, sách ròn nhai gau gáu, chấm với tương Cự Đà thì tuyệt cú mèo. Người ta bèn đổ xô tới để thưởng thức một món ăn lạ miệng. Và tiệm Y phất lên như diều. Từ ngôi nhà lụp xụp, ông đã sửa sang lại cho khang trang và mua thêm một nhà khác để ở cho thoải mái. Phú quí sinh … máu văn nghệ, ông bắt đầu giao du thân mật với cánh nhà văn, nhà báo.

Sau cuộc đảo chính của Dương Văn Minh, trong làng báo có hiện tượng "trăm hoa đua nở", hễ có tiền là có quyền làm chủ một tờ báo. Thế là ông chủ tiệm phở Y bèn ra báo. Từ tái, chín, nạm, gầu, sụn, nhảy sang địa hạt chữ nghĩa, ông hoàn toàn bỡ ngỡ. Cho nên báo của ông chỉ có thể đến với độc giả bằng con đường ve chai. Dĩ nhiên nó phải chết. Và ít lâu sau ông cũng chết theo nó. Người vợ góa trẻ đẹp kế tục ”sự nghiệp” của ông chồng quá cố. Tiệm Y phát đạt trở lại. Những người bạn văn nghệ của ông Y vẫn lui tới ăn phở như xưa, nhưng mục đích chính của họ là …ngấp nghé ngôi vị chủ tiệm. Sau mấy năm trời theo đuổi mà chẳng đi tới đâu, một người trong bọn họ, tức cảnh sinh tình, bèn mượn danh nghĩa bà quả phụ để ra một vế câu đối như có ý thách thứcthiên hạ rằng :"Nếu ai đối được thì em xin nguyện lấy làm chồng.”

"Nạc, mỡ nữa làm chi, em nghĩ chín rồi không tái giá ”

Câu đối sặc sụa mùi phở, nhưng hắc búa nhất là cụm từ ”tái giá”, nó vừa có nghĩa là ”đi bước nữa” lại vừa có nghĩa là ”phở tái giá”. Cũng như ”da trắng vỗ bì bạch” của bà Điểm đố Trạng Quỳnh vậy. Hơn ba mươi năm trôi qua, câu đối ấy hiện nay vẫn chỉ có một vế.

PHỞ GÀ TRỐNG THIẾN 

Ngay cả Nà Nội – quê hương của phở – từ trước đến nay cũng chưa bao giờ có phở gà trống thiến, cho dù ở phố Huyền Trân Công Chúa, vào đầu những năm 50, đã có một hàng phở gà ngon nổi tiếng khắp Hà thành, đến nổi cụ Nguyễn Tuân khi theo đoàn quân về tiếp quản Thủ đô, ăn xong đã phải khen rằng ”tuyệt phở !”. Người bán phở tên là Chí. Ông ta mới hồi cư, không có đủ tiền để mướn mặt bằng, phải làm phở gánh. Con đường mang tên vị công chúa nhà Trần bé bằng cái lỗ mũi, với cái vỉa hè rộng hơn một mét, khách ăn kẻ đứng, người ngồi, húp xì xụp.

Phở gà trống thiến  xuất hiện ở Saigon vào những năm 60, ở phía chợ Vườn Chuối – tuy chưa được liệt vào loại tuyệt phở, nhưng cũng được khách ẩm thực đặc biệt chiếu cố. Phở ngon là một lẽ : thịt gà trống thiến thơm và mềm như gà mái tơ, nước phở trong hợp với khẩu vị của những người kén ăn, nhưng cũng còn một lẽ khác : người ta vừa ăn, vừa ngắm cái vẻ thướt tha yêu kiều của con gái ông chủ tiệm, thỉnh thoảng đi ra đi vô, mỉm cười với người này, gật đầu chào người kia, giơ tay ‘bông rua’ người nọ, tự nhiên như một cô đầm non. Đó là nữ ca sĩ Y.V, một giọng ca lả lướt của các phòng trà. Ban ngày, nàng giao thiệp với phao câu, đầu cánh, thịt đùi ; ban đêm, chìm đắm trong ánh đèn màu. Thế rồi, không kèn không trống, nàng tuyệt tích giang hồ. Người ta bảo rằng nàng đi Tây. Đi Tây thật chứ không phải Tây Ninh. Tiệm phở vắng khách dần và ít lâu sau thì phải dẹp.

PHỞ KHÔNG RAU KHÔNG GIÁ 

Tiệm này nằm trên đường Công Lý- cách ngã tư Công Lý-Yên Đỗ ( nay là ngã tư Nam K Khởi Nghĩa-Lý Chính Thắng ) khoảng 100m – trong một cái hẻm rộng. Người ta gọi là phở Bà Dậu. Nó có những đặc điểm không giống bất cứ một tiệm phở nào : không rau, không giá và rất sạch, và nhất là không có cái mùi phở kinh niên. Thịt thái mỏng và bánh phở to bản thích hợp với cái gu của người Hà Nội. Vì ở sâu trong hẻm, nên thoạt đầu khách tới ăn uống rất lơ thơ tơ liễu buông mành, chỉ có dăm bảy mống. Sau đó, nhờ sự cổ động của người Hà Nội, người ta mới bắt đầu chiếu cố tới hương vị không rau không giá đó.

Trải qua hơn 30 năm, Phở Bà Dậu hiện nay vẫn tồn tại và có phần phát đạt hơn xưa. Có thêm một món mới : tái bắp, thịt mềm và nhai sần sật như sụn. Giá cả cũng tăng, từ 10đ/ bát trong những năm 60 đến 10.000đ/ bát, năm 1996. Nhưng khách ăn vẫn nườm nượp.

TỪ PHỐ PHỞ ĐẾNBẮC HUỲNH 

Hà Nội, quê hương của phở, và thời bao cấp đã sản sinh biết bao thứ phở : phở vịt, phở ngan, phở lợn ( thậm chí có cả phở chó), vậy mà chưa có một phố nào chuyên bán phở, trong khi ấy Saigon lại có cả một dãy phố phở. Đó là khu Hiền Vương ( Võ Thị Sáu – Pasteur ). Hiền Vương chuyên bán phở gà, còn Pasteur, phở bò. Nhưng dù gà hay bò, các tiệm phở ở khu này chưa có một tiệm nào – nếu nói về phở bò – có thể so với phở Tàu Bay ở Lý Thái Tổ, còn nếu nói về phở gà, thì thua xa phở Vọng Các( đường Võ Văn Tần ) và phở Bưu Điện hôm nay.

Những tiệm phở bò nổi tiếng thời ấy còn có phở Tàu Thủy ở Nguyễn Thiện Thuật, phở Quyền và phở Bắc Huỳnh ở miệt Phú Nhuận. Sau khi ông Tàu Thủy qua đời, người con trai không có đủ khả năng kế nghiệp ông bố, bèn dẹp tiệm để chuyển sang nghề khác. Còn phở Bắc Huỳnh nguyên là phở Ga Đà Lạt một thời nổi tiếng; Sau 75 ông mò về Saigon, mở tiệm phở Bắc Huỳnh trên đường Võ Tánh góc Trương tấn Bửu đối xéo góc với nhà thờ Nam. Chỉ mấy tháng sau, Bắc Huỳnh lại nổI tiếng như cồn. Hàng ngày, từ 6 giờ sáng khách mộ điệu phở đã nườm nượp nối đuối kéo vào. Và chỉ tới 10 giờ là bánh, thịt, nước phở đã láng cóong. Phải công nhận phở Bắc Huỳnh hết chỗ chê. Nuớc trong vắt thơm lừng; Miếng thịt chín mùi thơm như pa-tê, thái tay vừa đủ dầy để cắn ngập răng. Miếng gầu sữa trắng toát mịn như miếng thạch, vừa thơm vừa bùi lại ròn tan; Không một chút hoi. Dặc biệt tiệm BH không bán phở toàn tái. Thế mới là chính thống. Phở bò mà lại ăn phở tái thì đúng là nhà quéo.

Dang phát đạt như thế, chẳng biết sao khoảng năm 82 bỗng dưng ông dẹp tiệm. Dân ghiền phở cứ tiếc hùi hụi. Trong số này có ông cao thủ bóng lông Trần K., khi đó đang chủ trì sân quần vợt đuờng Lê Duẩn. Ông này ghiền phở BH không thua gì mấy anh ghiền thuốc phiện. Sáng sáng, sau khi dợt cho đệ tử mà không được bồi dưỡng hai tô phở BH là ông ngáp lên ngáp xuống. Ông bèn gạ một người bạn ông để người bạn này yêu cầu cô con gái ông BH mượn nồi niêu soong chảo bát đũa của ông già ra sân quần vợt mở một tiệm phở xe. Dân ghiền phở lại kéo tới ăn đông như chẩy hội. Hồi đó nữ ca sĩ Thái Thanh và nữ ca sĩ Tấm Vấn ở tít trong chợ lớn, sáng nào cũng ngồi xích lô ra sân quần vợt _ không phải để đánh banh lông _ mà là để đớp phở.

Cao thủ Trần K. có ông anh cũng tên Trần K. và cũng là cao thủ bóng lông, còn mê phở hơn cả ông em. Sáng nào ông K. anh cũng gò lưng đạp chiếc xe đạp ọp ẹp chở người tình 200 pao từ Chợ Lớn ra sân quần với mục đich cao quý duy nhất là đớp phở của con gái ông BH. Có nhiều lần, có lẽ tại tối trước ông K . anh chơi bóng lông hơi nhiều và hơi khuya, sáng ra chân chùn gối lỏng, ông đạp xe hơi chậm, tới hơi trễ, đã thấy cái thùng nước phở chổng mông lên trời. Phở chính thống là thế: bao nhiêu thịt là bấy nhiêu nước. Hết nước là hết thịt, hết thịt là hết nước. Và hết là hết, chứ không có cái trò đổ vài lon nước lèo hộp, hay ném mấy cục bouillon vào nước, thêm tí mắm tí bột ngọt, đun sôi lên bán với thịt tái. Sau mấy lần đạp xe phờ râu tôm tới nơi lại hụt ăn, ông K. anh đành thương lượng với cô chủ phở như thế này:

Mỗi sáng cô cứ vui lòng để riêng ra hai tô, cất đi cho tôi. Tôi tới kịp để ăn hay không tới ăn được cũng kệ cha tôi. Tôi vưỡn cứ trả tiền như thường. Ấy thế mà, chỉ được hơn năm, chả biết lý do gì, tiệm phở xe này cũng bỗng mất tích. It lâu sau thấy tiệm Bắc Huỳnh lại tái xuất giang hồ. Dược ít năm rồi lại dẹp không kèn không trống . Ngày nay nghe đâu ông Bắc Huỳnh và cô con gái đẹp như mơ đã mở hai tiệm phở bên Calgary, Canada. Chả biết còn giữ tên Bắc Huỳnh nữa không.

 

PHỞ NGẦU PÍN

Dạo ấy, cả Saigon chỉ có độc một tiệm của chú Woòng ở đường Lý Thái Tổ bán phở ngầu pín. Chú là người Quảng Đông, trước khi di chuyển vào Nam đã mở tiệm phở ở phố Huế, Hà Nội. Vào đầu thập niên 50, phở ngầu pín đối với dân thủ đô, thật hoàn toàn xa lạ. Có mà nhử thính các tiểu thư Hà Nội cũng không dám tới ăn.

Phở ngầu pín vào tới Saigon cũng chả khấm khá gì hơn. Vẫn cái tiệm xập xệ tối thui, như ở phố Huế. Khách tới ăn toàn những ông râu ria xồm xoàm hoặc lún phún râu dê hoặc nhẵn nhụi bảnh bao chẳng có một sợi râu nào. Nhưng tuyệt nhiên không hề có bóng dáng đàn bà.

 

PHỞ SAU 75 VÀ CƠN SỐT PHỞ BẮC HẢI

 

Phở leo lên tới tột đỉnh vinh quang bắt đầu từ cuối thập niên 80. Phở tràn ngập thành phố, ngoại trừ khu vực Chợ Lớn, bởi nó không thể địch lại được với hủ tíu, hoành thánh, bánh bao, xíu mại. Nhưng đặc biệt nhất là cơn sốt phở Bắc Hải. Ở thành phố có chí ít vài ba chục tiệm mang cái tên ấy. Tại sao người ta lại không chọn một bảng hiệu khác ? Cũng có nguyên nhân đấy.

Số là vào thời bao cấp, ở phố Thuốc Bắc, Hà Nội có một tiệm phở chui mà ông chủ tên là Bắc Hải. Đó là bí danh, biệt hiệu hay tên thật của ông ? Chả có ai rỗi hơi tìm hiểu. Chỉ biết cứ thế mà gọi. Tiệm của ông dĩ nhiên là đông khách, nhưng toàn khách quen. Những cái mặt lạ hoắc đừng có hòng bước vào. Trong khi phở quốc doanh "chạy qua hàng thịt", thì phở Bắc Hải cả bánh lẫn thịt đều có chất lượng. Ngoài ra lại còn cái thú uống rượu quốc lủi nhắm với món "bốc mả" ( xíu quách ). Thịt do dân”bờ lờ” ( buôn lậu ) từ Phú Xuyên, Thường Tín hoặc ngả Gia Lâm đi theo xe khách thành, đưa vào bán cho các mối. Còn quốc lủi do ngoại thành cung cấp.

Ông Bắc Hải đựng quốc lủi trong cái bong bóng trâu, giấu ở trước bụng, cái áo phủ bên ngoài. Khách nào muốn uống, giơ cái ly xây chừng ra, ông cởi khuy áo, tháo cái nút vòi bong bóng rồi xịt một phát vào ly. Rượu vừa đúng tới mép ly, không tràn ra một giọt nào. Ông bảo đó là cả một nghệ thuật, phải tập mất một tháng mới thực hiện thành công thao tác ấy. Nói cũng đáng tội, phở của ông cũng chả ngon lành gì. Chẳng qua là vì ”trong xứ mù thằng chột làm vua”. Vả lại, nó có đầy đủ chất béo, chất cay. Với một người ”thích đủ thứ”, như vậy là đúng tiêu chuẩn. Từ đó, anh hùng nhất khoảnh, phở Bắc Hải danh trấn giang hồ.

Sau 75, một số đệ tử của ông Bắc Hải vào Nam. Họ kiếm một đầu hẻm, dựng một quán phở lộ thiên. Một trong những đệ tử nổi bật nhất của ”mông xừ” Bắc Hải là Ch.Râu. Gọi như thế là vì trên mặt anh có cả một rừng râu. Trẻ con trong khu phố, mỗi khi thấy anh xuất hiện lại chạy theo trêu chọc : ”Ơ cái râu lồm xồm, ơ cái râu loàm xoàm, cái râu mọc quanh cái mồm.”

Lại vừa may mắn lại vừa có sẵn ít vốn, Ch.Râu kiếm được một mặt bằng ở đường Nam K Khởi Nghĩa. Phở Bắc Hải của anh ra đời, trội hơn các tiệm Bắc Hải khác với món áp chảo nước, áp chảo khô, và đặc biệt là rượu rắn-bìm bịp, tráng dương bổ thận.

Hiện nay, phở Bắc Hải không những bành trướng trong thành phố mà còn xuất hiện tại các vùng ngoại ô, nhất là khu Tân Sơn Nhất.

 

PHỞ ĐUÔI BÒ VÀ NGẦU PÍN

 

Khoảng giữa thập niên 80, tại Bến Sỏi, mé trái cầu Điện Biên Phủ, có một tiệm phở đuôi bò và ngầu pín do một người đàn bà đứng bán. Quán hàng thiết lập trên một vùng đất lổn nhổn sỏi đá. Khách ăn, kẻ đứng người ngồi. Đôi khi cái ghế lùn tịt được dùng thay cho bàn. Và lần đầu tiên trong lịch sử của ỀpínỂ, ngầu pín được các bà các cô chiếu cố. Họ tỉnh queo cắn từng miếng một và nhai sần sật. Đuôi bò của Bến Sỏi cũng tuyệt trần. Mỗi miếng bằng cái nắm tay của trẻ con. Thịt được ninh nhừ nên khi ăn cũng không đến nỗi vất vả.

Phở Bến Sỏi chỉ bán đến 9g30 sáng là hết. Nhưng thông thường, người ta đến sớm hơn. Để tránh cái nắng như đổ lửa xuống đầu. Trông các bà vừa ăn vừa thấm mồ hôi, phấn son nhòe nhẹt, thấy mà thương !

Vài năm sau khấm khá, bà chủ tiệm tậu được một miếng đất rộng lớn ở phía xa lộ rồi chuyển cửa hàng ra đó. Bây giờ gọi là quán phở N., vừa bán phở vừa bán lẩu ngầu pín đuôi bò. Một cái lẩu 20.000đ hai người ăn căng bụng.

PHỞTHẦY CÔ 

Bởi lương nhà giáo không đủ sống nên 5 cô và một thầy đã hùn nhau mở một tiệm phở ở vỉa hè đường X., phía sau cổng trường M.C.

Phở thầy cô ra đời khoảng gần hai năm nay. Có một dạo nhà nước dẹp lòng lề đường, có lúc họ phải di chuyển vào mé sân sau trường. Tiệm này chuyên bán phở gà và chỉ bán vào buổi sáng. Dĩ nhiên phở của họ không thể nào ngon bằng các tiệm nhà nghề như phở gà Bưu Điện hoặc Vọng Các hay các tiệm ở đường Võ Thị Sáu, nhưng nó lại có một hương vị đặc biệt – hương vị gia đình. Khách ăn có cảm tưởng như người nhà mình nấu cho mình ăn vậy. Phở ở đây rất có ”chất lượng” và rẻ – rất rẻ là khác : 4.000đ/ tô đầy tú ụ cả thịt lẫn bánh.

Giữa họ đã có sự phân công : mỗi người nấu phở rồi coi phở một ngày. Không có ai trong số họ có sẵn tay nghề. Thoạt đầu thì lúng túng như thợ vụng mất kim, ít lâu mới thành thạo. Nhưng dù sao đối với họ nghề phở cũng là một cái nghề bất đắc dĩ. Đứng trên bục giảng vẫn tốt hơn.

Ở thành phố, ngoài nhóm thầy cô kể trên, còn có một cô giáo nữa cũng đang đứng bán phở, nhưng lại giã từ hẳn cái nghề kỹ sư tâm hồn. Cô nguyên là giảng nghiệm viên của Đại học khoa học, nhà lại sẵn có mặt bằng nằm trên một trục lộ đông đảo người qua lại, bèn quyết định từ bỏ ống nghiệm và các công thức hóa học để ”giao thiệp” với phở. Vốn là một nội trợ giỏi nên từ nấu thức ăn đến làm phở cũng không đến nỗi khó khăn. Cửa tiệm nằm ở phía chân cầu Bông, khách ăn sẽ dễ dàng nhận ra khi thấy trước cửa đậu một dãy xe gắn máy.

Phở Cầu Bông ngoài các món thường lệ như tái, chín, nạm, còn có món đuôi bò. Phở rất ngon nhưng giá một tô có 5.000đ, chỉ bằng một nửa tiền nếu so với phở H. ở đường Pasteur, tục gọi là phở Việt kiều, với giá chém treo ngành 12.000đ/ tô. Sở dĩ gọi thế là vì khách ăn đa số là Việt kiều. Họ quen ăn phở với giá 8 đôla/ tô, chưa kể tiền ”bo” 10%, nên với họ, đó là một giá rẻ mạt.

Phở Cầu Bông cũng không làm theo kiểu đại trà với thịt thái sẵn chất đầy một cái khay. Khách ăn tới đâu làm tới đó. Thịt thái mỏng bốc mùi thơm phức. Mỗi miếng thịt mang hình kỷ hà, màu nâu gụ của nó dính với màu mỡ gàu đặt trên nền trắng của bánh trông giống như một bức tranh tĩnh vật.

Cô giáo của trường Khoa học đã đưa cả khoa học lẫn nghệ thuật vào phở.

PHỞ T.D Ở ĐIệN BIÊN PHỦ 

Phở có bảng hiệu mang tên số nhà, nhưng người ta cứ quen miệng gọi là phở T.D., tên ông chủ, mặc dù anh không đứng bán. Căn nhà đó, xưa kia, anh mở tiệm cơm Tây với hai món đặc sản : chateaubriand và chân giò nấu đậu trắng. Các bằng hữu của anh đa số là những người làm văn nghệ. Anh cũng được liệt vào số đó, bởi giọng ca tuyệt diệu của anh. Nhưng mỗi năm anh chỉ hát có một lần và chỉ hát có một bài vào đêm Giáng sinh : "Đêm thánh vô cùng” ( Silent Night ). Một điệu nhạc tắt đèn. Trong lúc tiếng ca thánh thiện của anh vang lên, người ta ôm nhau đi một đường slow.

Sau khi thưởng thức phở Quyền, phở Tàu Bay, phở bà Dậu, nếu muốn đổi hương vị, người ta có thể đến T.D để nếm món ”vú sữa”, tức là khoảng thịt bụng có những núm vú, ăn béo ngậy, thơm và sần sật, nhưng không giống như sụn hoặc nậm của thịt chó. Nhà hàng có mặt bằng rộng, quạt máy quay vù vù, khách ăn không phải chịu cái cảnh mồ hôi mẹ mồ hôi con cùng chảy.

PHỞ CÔNG TỬ SAIGON 

Đó là tiệm phở gà H.B. ở đường Võ Thị Sáu. Ông chủ tiệm tên là Q., một người thuộc giới giang hồ mà cả hai đạo hắc bạch đều biết… tiếng từ khi Q. ở địa vị một ông chủ. Nghề phở đến với anh một cách tình cờ. Trong một cuộc đọ tài cao thấp với một tay anh chị, anh bị hắn thưa về tội đả thương, và sau đó bị đưa đi cải tạo. Thời gian chém tre đẵn gỗ trên ngàn, anh thường hay giúp đỡ một anh bạn đồng cảnh ngộ. Thấy bạn bị bắt nạt là anh can thiệp ngay. Không phải bằng vũ lực, mà chỉ với một chiêu số thôi : bấm vào huyệt nội quan ở cổ tay và huyệt khúc trì ở khuỷu tay, là địch thủ phải thổi bài kèn ”ông rơ lui” ngay. Q. lại còn thường giúp anh ta trong các công tác lao động. Để đáp lại ân tình ấy, người bạn kia đã truyền cho anh nghề nấu phở. Anh ta dạy Q. từ cách lựa chọn gà – phải là gà được nuôi ở nông thôn – đến cách pha chế gia vị cho thùng nước lèo, và cách nấu nướng làm sao cho gà khỏi bị vỡ da.

Sau thời gian cải tạo, Q. về đường Võ Thị Sáu mở tiệm phở H.B.-tiệm phở ngon nhất trong khu phố ấy. Chỉ trong vòng ba năm, anh đã phất lên như diều. Và bây giờ, với 8 năm trong nghề phở, anh chỉ giữ vai trò chuyên viên, và để cho một số đệ tử đứng bán. Còn một chàng nữa cũng phất lên như Q., nhờ phở. Đó là anh D., chủ một tiệm phở ở trong một con hẻm đường Nguyễn Thị Minh Khai, cách nhà thương Từ Dũ khoảng 500m. Từ Hà Nội vô thành phố Hồ Chí Minh, anh chỉ có đủ tiền để làm một gánh phở ở đầu ngõ. Mới đầu, anh chả biết một tí gì về cái nghề này. Toàn đi học mót. Hỏi người này, học người kia, rồi tới ăn ở các tiệm phở danh tiếng để thử nghiệm. Phải mất gần một năm anh mới thành thạo.
Phở D. hôm nay nổi tiếng ngang với phở Quyền ở Phú Nhuận. Tiệm của anh có một món đặc biệt : tái bắp. Muốn ăn món này phải đi sớm, bởi 8 giờ sáng là hết. Có một điều ly kỳ là phở D. ăn vào buổi chiều bao giờ cũng ngon hơn buổi sáng. Cả chủ lẫn khách đều công nhận chuyện đó. Hỏi nguyên nhân tại sao ? Anh lắc đầu vì không giải thích được. ”Sáng và chiều cùng một thùng nước lèo. Nửa thùng buổi sáng còn lại, buổi chiều chỉ việc đun sôi, không pha thêm một chút gia vị nào, thế mà nó lại ngon hơn buổi sáng”, anh mỉm cười nói.

Bây giờ thì phở có bề thế lắm rồi. Anh mới tậu thêm một ngôi nhà ở đầu hẻm. Phở là một đặc sản của Việt Nam. Đó là điều ”quốc tế phải công nhận”. Nhưng ông Tây lại bảo nó là “soupe chinoise”, còn ông Tàu thì lại bảo nó là “ngầu phấn” chỉ là tiếng Quảng Đông, phiên âm ra tiếng Hán Việt là “ngưu” (bò hoặc trâu), ”phấn” (bột gạo). Một điều nữa, hỏi ông tổ của nghề phở là ai ? Các ông chủ tiệm phở đều lắc, mặc dù nhờ phở, họ đã có của ăn của để.

 

Phan Nghị




Kỵ Binh : EM VỀ HÁT NGỌN DAO ĐÂM

EM VỀ HÁT NGỌN DAO ĐÂM

                                                  ( Riêng gửi Ca sĩ Ý Lan)

KỴ BINH

Đã bao nhiêu năm qua, sau ngày “Bọn đĩ điếm ma cô bám bã đế quốc Mỹ” bổng một sớm một chiều nhờ lá bùa xanh in hình ông Oa Sinh Tơn úm ba la thành “khúc ruột ngàn dặm không thể tách lià”, mỗi lần đọc tin tức về các cậu/ cô/ anh/ chị/ ông/ bà ca sĩ “tị nạn cộng sản” từ hải ngoại về Việt Nam ca hát tôi không hề mảy may một thoáng bận tâm. Tôi không bận tâm chẳng phải vì xem đó là việc của hàng “xướng ca vô loại” như nhiều người hạ mục; tôi không bận tâm, bởi biết mình đang được hưởng đầy đủ tự do thì cũng phải  tôn trọng quyền tự do của kẻ khác.

Nhưng hôm nay đang trong tâm trạng u uẩnTháng Tư Đen nơi đất khách quê người, đọc thấy trên trang web BBC ngày 26/4/2011 bản tin Ý Lan biểu diễn ở Hà Nội trong Tháng Năm”, tôi giật mình đau nhói, như bị một cú dáo nhọn đâm thấu tim can.

Từ sau biến cố Tháng Tư 1975, ai cũng biết Tháng Năm là mùa lễ hội của phe chiến thắng. Hội thảo, tiệc tùng ,cờ phướn, khẩu hiệu, băng rôn, báo đài, phim ảnh, kịch trò, ca hát v.v… đều nhắm vào mục đích ca ngợi “đại thắng mùa xuân”, và tiếp theo là mừng “sinh nhật bác Hồ”.

Người ta vui thì người ta ca, người ta mừng; không ai có quyền cấm cản. Kẹt một nỗi là cùng một ngày đó, bên “hàng triệu người vui lại có hàng triệu người buồn”, như lời thú nhận của một “người vui” là ông cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cái vui của “người vui” lại chính là nỗi đau của “người buồn”.

Để cho “người vui” càng được vui một cách có lý do chính đáng , “người buồn” lại càng bị “người vui” tận tình chiếu cố. Những lời đường mật như “hoà hợp hoà giải, khúc ruột ngàn dặm, máu của máu Việt Nam không thể tách rời ..” tạm thời miệng khép, để nhường chỗ cho “Tội ác mỹ ngụy” được lôi ra xào đi xáo lại ,chế biến thêm thắt cho mỗi năm một mới lạ món“đặc sản” ngày càng vắng  khách giữa chốn sơn đông mãi võ.

Tội ác mỹ ngụy hay là tội ác ai thì thời gian 36 năm đã soi sáng rõ ràng đen trắng trước con mắt lương thiện, chứ không phải bằng phán quyết bởi những “phiên toà lưu manh, ô nhục, có một không hai”. Tôi chẳng còn phải phí sức phí giờ để bận tâm đến những chuyện “người vui” múa may mỗi độ tháng Năm.

Ca sĩ Ý Lan, BBC

Nhưng tháng Năm năm nay , 2011, có Em trong số “triệu người buồn “ quay về ca hát cho “triệu người vui”.Tôi vừa đọc vừa nhìn em trên trang web BBC, và bổng chốc thấy màn hình computer nhoà đi bởi những dòng nước quyện với máu. Nước mắt em đã đổ xuống bao lần khi em hát cho “người vừa nằm xuống”; em hát cho “người tình không chân dung”; em hát “kỷ vật cho em”; em hát cho “người chiến sĩ vô danh” … ?

Và nếu tôi nhớ không lầm thì, mới đây thôi , Em đứng trên sân khấu Paris By Night rưng rưng lệ nức nở “ Hỡi người chiến sĩ ..”

Em hỡi,  đây tôi là một trong những người chiến sĩ bại trận đang mang trên mình thương tích thể xác lẫn tâm hồn.  Tôi đọc tin Em“… về biểu diễn ở Hà nội Tháng Năm” để ca hát cho  “triệu người vui” bên nỗi nhục nhằn tủi hận của bao đồng đội và triệu đồng bào tôi là “hàng triệu người buồn”, mà tê tái buốt nhức tâm can.Như một lần nữa máu tôi lại đổ, nhưng lần này không phải do đạn địch, mà vì:

Tháng Năm, Em Về Hát Ngọn Dao Đâm .

Kỵ Binh

 




LỄ TẠ ƠN TẠI HOA KỲ

LỄ TẠ ƠN TẠI HOA KỲ 
Giao chỉ – San Jose -2008
 
                                                
 
       Quả thực người Mỹ đã có đầy đủ lý do để giữ gìn truyền thống với ngày lễ tạ ơn vào tháng 11 mỗi năm.
       Lịch sử ghi rằng vào năm 1620 có một nhóm gia đình người Anh theo Tin Lành đã đi tìm đất mới  để sống đời tự do tín ngưỡng.  
  
       Con tàu May Flower nổi danh vượt Đại Tây Dương chở di dân với các niềm tin giáo lý khác nhau đến vùng Playmouth Rock của tiểu bang Massachusets bây giờ.  Nhóm gia đình người Anh chỉ có hơn ba chục, số còn lại là phần đông thủy thủ đoàn. Tổng số 102 người. 
       Đây là con tàu chính thức của di dân vì gồm cả gia đình vợ con.  Trải qua một năm đầu với mùa đông khắc nghiệt, không đủ thực phẩm, không có đủ quần áo, không có nơi cư trú nên di dân đã phải chôn cất 46 người.  Qua năm sau, mùa gặt 1621 thành công, di dân cùng dân da đỏ bản xứ tổ chức tiệc mừng lễ tạ ơn trên đất Mỹ.  
  
        Đó là ngày lễ hội đầu tiên tại Mỹ Châu và truyền thống còn mãi đến ngày nay.  Không dựa theo 1 đạo giáo nào, lễ tạ ơn trải qua gần 400 năm đã thành ngày hội của cả quốc gia cảm ơn trời đất cho mọi người đủ cơm áo để sinh tồn. 
       Trong bữa tiệc lễ tạ ơn năm đầu tiên di dân đã ăn thịt gà rừng, ăn bánh làm bằng trái bí đỏ và thực đơn này đã trở nên món ăn truyền thống ngày lễ hội của Mỹ quốc cho tới ngày nay.
       Tuy nhiên để trở thành 1 ngày quốc lễ chính thức thì phải tới năm 1863, vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ là ông Lincoln mới ban hành luật.  Từ đó lễ tạ ơn được chính phủ công nhận vào ngày thứ năm của tuần lễ thứ ba tháng 11 hàng năm.         
  
       Bây giờ Hiệp Chủng Quốc đã trở thành quê hương mới của các sắc dân.  Từ 102 di dân trên tàu Hoa Tháng Năm,Hoa Kỳ đã có 300 triệu dân và trở thành quốc gia hùng cường nhất thế giới.  Nước Mỹ có tiềm lực lớn hơn tất cả quốc gia Âu Châu gộp lại.  Và điểm đặc biệt nhất, Hoa Kỳ chính là miền đất của cơ hội.
       Hãy đưa ra một thí dụ cụ thể tại quốc gia dù tiến bộ như Nhật Bản nhưng không bao giờ một di dân nước ngoài có thể trở thành triệu phú, chính khách, khoa học gia, hay tài tử tại đất nước của Thiên Hoàng.  Nhưng tại Mỹ thì bất cứ chuyện gì cũng có thể xẩy ra cho người ngoại nhập.
 
       Một tài tử điện ảnh gốc Áo là ông Arnold đã trở thành thống đốc California. Ngoại trưởng Hoa Kỳ vốn là một người da đen sinh trưởng ở Hải Đảo thuộc Mỹ.  Tướng Collin Powell trước khi làm ngoại trưởng đã từng là tham mưu trưởng liên quân.  Mới đây khi ông Powell đệ đơn từ chức, tổng thống Bush đã đưa bà Condoleezza Rice lên kế nhiệm.  Báo chí thân mật gọi bà là Condi.Cần phải biết là chức vụ ngoại trưởng ở vị trí quan trọng thứ 4 trong guồng máy hành pháp Hoa Kỳ.  Nếu xảy ra biến động thì người thay thế tổng thống là phó tổng thống kiêm chủ tịch thượng viện.  Người thứ ba là chủ tịch Hạ Viện và rồi đến ngoại trưởng Hoa Kỳ. Vị trí thứ 4 của bậc thang trong quốc gia đầy quyền lực trên thế giới nằm trong tay
một phụ nữ da đen độc thân 50 tuổi đã từng nổi danh trong giới khoa bảng tại đại học Stanford California.
       Trước khi được mời về làm cố vấn an ninh Bạch Cung, nàng Condi da đen đã làm giám hiệu đại học y khoa danh tiếng nhất thế giới với ngân sách 1 tỷ rưỡi mỹ kim, 1400 giáo sư với nhiều tước hiệu Nobel dạy 14,000 sinh viên ưu tú trên toàn thế giới. Không phải vì là bà Rice có khả năng nói tiếng Nga với tổng thống Putin mà bởi vì bà may mắn sống ở miền đất Hứa nơi đã tạo cơ hội cho tất cả mọi người. Cho đến mùa lễ tạ ơn 2008 thì một huyền thoại đã thành sự thực. Một người con của di dân da đen, thượng nghị sĩ Obama đã được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ.
       Không nước nào trên thế giới có thể dành cho người di dân nhiều cơ hội như thế.
  Là quốc gia được thành lập và xây dựng bởi các sắc dân, tiền nhân của Mỹ quốc đã viết nên các bản văn bất hủ là hiến pháp và tu chính án Dân Quyền.
 
       Đạo luật quốc tịch của Hoa Kỳ ban hành 1790, hơn 200 năm trước đã có những lời vàng ngọc như sau:
       Bất cứ ai tị nạn đến Hoa Kỳ, sau khi được xác nhận sẽ hưởng quy chế nhập cư.
       Như vậy chúng ta hiểu một cách giản dị là nếu đã đến Mỹ thì sẽ có cơ hội trở thành người Mỹ.
       Căn cứ vào điều khoản của luật 1790, một đạo luật khác đã ra đời năm 1975 có tên là Indochina Migration and Refugee Act. 
       Sau đây là
đoạn văn năm 75 mà di dân Việt Nam cần đọc lại trong mùa tạ ơn năm 2008.
       Tổng thống Hoa Kỳ sẽ làm bất cứ điều gì để mở rộng cánh cửa đón người tị nạn đến từ 3 quốc gia Đông Dương.  Các viên chức trách nhiệm tại Mỹ sẽ đưa ra tất cả mọi phương tiện để giúp cho người dân tị nạn định cư.  Phải nỗ lực làm giảm những đau khổ kinh hoàng của người tị nạn đến từ Đông Nam Á.
       Vào tháng 7-1977 sau 2 năm đầu giúp đỡ người tỵ nạn Đông Dương di tản đợt 75, Hoa Kỳ ban hành luật gia hạn việc cứu trợ về tài chánh, y tế, và dịch vụ.
       Tháng 3-1980 Mỹ ban hành thêm luật quy chế tỵ nạn vĩnh viễn và đề ra một chính sách tỵ nạn áp dụng chính thức tại Mỹ. Suốt 33 năm qua, khi nhiều khi ít, khi khó khăn, khi dễ dàng, Hoa Kỳ đã dành ra những cấp khoản lớn lao cho người Việt đến Mỹ để trở thành 1 cộng đồng di dân đông đảo nhất trong cuối thế kỷ thứ 20.
 
       Trong buổi bình minh của lịch sử Hoa Kỳ lập quốc, di dân vượt Đại Tây Dương đến Mỹ Châu đa số gốc Âu Châu.  Sau đó, Thái Bình Dương đưa đến Mỹ dân Tầu và Nhật.
       Từ bao lâu nay hoàn toàn không có người Việt đến Mỹ cho đến khi gặp cơn hồng thủy 1975.  Truyền thống của dòng giống Việt tộc thường không khích lệ con đường tha phương cầu thực.  Vì vậy ngoại trừ số nhỏ qua lập nghiệp bên Miên, Lào và Thái, phần lớn người Việt đều ở lại với quê hương ven biển Nam Hải.
       Khi miền Nam xụp đổ tháng 4-1975 đợt di tản đầu tiên của người Việt đã mở ra một đầu cầu quan trọng cho lịch sử di dân từ Châu Á.  Những chuyến đi vô cùng mạo hiểm của thuyền nhân đã làm thành thiên anh hùng ca của con đường đi tìm tự do với hàng ngàn con tàu May Flower của dân Việt đã ra đi không bao giờ đến được miền đất Hứa.   
            
       Cũng nhân dịp ghi dấu 30 năm định cư tại Hoa Kỳ 1975-2005.  Bảo tàng viện do cơ quan IRCC gây dựng đã hoàn thành hai tác phẩm.  Đóng lại con tàu Vượt biên có tên là Tân Phát đúng kích thước và chi tiết con tàu thật.  Đồng thời họa sĩ thực hiện bức hình sơn dầu vĩ đại cao 10 feet và dài 15 feet mô tả con tàu Tân Phát đang lướt sóng trên biển Đông.   
            
       Đây là con tàu thực sự đã đưa được nhóm gia đình Việt Nam vượt biển thành công hiện định cư tại Úc Châu và Bắc Mỹ.
       Những người di dân Việt Nam định cư tại Hoa Kỳ trong đợt đầu khi xây dựng cuộc đời đã ăn những con gà Tây cùng với các gia đình bảo trợ, với các họ Đạo trên 50 tiểu bang Hoa Kỳ.
       Rồi những bức hình và những lá thơ gửi về cho thân quyến tại quê nhà đã trải qua suốt 10 năm khốn khổ sau 75.  Miền Bắc là nơi giam giữ tù cải tạo.  Miền Nam là những khu kinh tế mới.
       Khi di dân Việt Nam trải qua 10 lần dự tiệc tạ ơn tại Hoa Kỳ thì những thùng quà gửi về đã làm cho cả đất nước hồi sinh.  Từ cây kim sợi chỉ, từ chai thuốc tây đến thước vải.  Những tờ giấy Mỹ Kim nằm trong hộp thuốc đánh răng với lời thư dặn dò đầy nước mắt.  Thư viết rằng thuốc đánh răng này tốt lắm.  Cố sức giữ lại mà dùng, đừng bán đi. Vỏ cũng xài được, đừng vất đi.  Người ở lại đã phải nát óc vò đầu để tìm ra được ý nghĩa mật thư là trong tuýp thuốc có tiền.  Có khi lá thư viết rằng nếu đói quá thì bán vải, bán đá lửa, bán bút bi đi mà ăn, nhưng cố giữ lấy cái thùng giấy đựng quà mà dùng.  Hiểu được ý nghĩa lá thơ, người Saigòn phải lần mò tháo hết vỏ thùng để tìm thấy giấy 100 đô
giữa hai lớp bìa cứng 
 
       Và cứ như thế dưới nhiều hình thức những con gà Tây của lễ tạ ơn Hoa Kỳ đã về đến Việt Nam.  Quà và tiền gửi về thể hiện cho hình ảnh vật chất đầy đủ ở phía chân trời và đồng thời cũng là hình ảnh cuộc sống tự do rực rỡ nở hoa với chan hòa ánh sáng.
       Và dù 5 ăn 5 thua con tàu May Flower đã ra đi từ khắp miền duyên hải Việt Nam có khi chỉ là những chiếc ghe nhỏ bé mong manh.
       Người Việt đã vì nhiều lý do để ra đi suốt bao nhiêu năm qua.  Và danh từ Boat People trong tự điển thế giới đã không còn cùng ý nghĩa xưa cũ để chỉ những người sinh sống ở trên thuyền.
       Boat People ngày nay có nghĩa là người Việt đã đi tìm tự do bằng thuyền vượt biển Nam Hải.
Lịch sử các cuộc di dân của nhân loại đã đưa đến nhận định rằng Ta không thể lựa chọn sinh quán, nhưng ta có thể chọn lựa để sống ở miền đất mà chúng ta yêu quý.
       (You cannot choose the land you birth, but you can choose the land you love)
       Thực đúng như vậy, chúng ta đã sinh ra đời trên quê hương không hề có sự lựa chọn nhưng nếu phải trả giá với sự sống chết thì chúng ta vẫn có cơ may lựa chọn nơi sinh sống.

       Vì vậy không phải là chỉ người Mỹ hậu duệ của con tàu Hoa Tháng Năm đến từ Đại Tây Dương mới có quyền ăn gà Tây tháng 11.   
                                                         
       Dân Việt tỵ nạn cũng có đủ tư cách để cúng trời đất vào mùa lễ hội tạ ơn hàng năm.  Xem chuyện Do Thái và Palestin tranh chấp đẫm máu ở miền Trung Đông để biết rằng cả hai dân tộc này đã khốn khổ biết chừng nào.  Năm ngàn năm trước người Do Thái vì lý do tôn giáo đã bỏ nước ra đi đến bốn phương trời.  Họ thành công trên khắp thế giới nhưng vẫn hướng về đất thánh Jelusalem đầy huyền thoại.  Sau khi bị Đức Quốc Xã bức hại dã man tại Âu Châu, khi đại chiến kết thúc, thế giới mở đường cho Do Thái trở về quê xưa dựng nước. 
 
       Bây giờ lại đến lượt người dân của đất Palestime phải ra di.  Và cuộc đấu tranh dành đất giữa 2 mối cựu thù vì niềm tin tôn giáo bắt đầu.  Hận thù chất ngất đến nỗi có hàng ngàn người quyết đổi mạng sống để giết hết sắc dân thù nghịch gồm cả đàn bà và trẻ con vô tội.
 
       Mối hận thù truyền kiếp đã đưa đẩy Hoa Kỳ và cả thế giới vào cơn Hồng Thủy của cuộc chiến chống khủng bố hiện nay. 
 
       Đã từ lâu miền Trung Đông không hề có những ngày lễ tạ ơn với cuộc sống bình yên.  Và cũng không có triển vọng sẽ có một tương lai bình yên ở một nơi đầy dầu hỏa được gọi là vàng đen trong lòng đất.
 
       Người Việt tại Hoa Kỳ đang sống bình yên ở miền đất cơ hội nhưng điều quan trọng hơn hết là chúng ta có dịp mở rộng viễn kiến để nhìn ra thế giới đầy thảm họa và biến động.
       Với các tin tức, với các hình ảnh ghi nhận được, mỗi công dân Hoa Kỳ dù là bổn sinh hay ngoại nhập đều dễ dàng trở thành người dân có tri thức, có sự hiểu biết, có tấm lòng rộng lượng, có đức tính tha thứ, để sống với nhau tử tế.  Đặc biệt có đủ hạnh phúc căn bản với cơm no áo ấm và tự do để cùng nhau dâng lễ tạ ơn với các niềm tin tôn giáo khác nhau.                           
  
       Nhân dịp Thanksgiving 2008, xin gửi đến quý vị lời chúc mừng một lễ tạ ơn đầy hạnh phúc.
Giao Chỉ – San Jose




HỌP KHÓA MÙA XUÂN (Khoá Cương Quyết, Giao Chỉ)

  HỌP KHÓA MÙA XUÂN
  Giao Chỉ San Jose  

Khóa Cương Quyết của anh em chúng tôi mới họp mặt tất niên vào thứ Bảy ngày 24 tháng 1 năm 2009. Còn phải dành ngày Chủ nhật cuối năm về cúng ông bà. Thứ Hai là mùng một TẾT.

Anh em cùng khóa vào trường Ðà Lạt tháng 3/1954 và ra trường tháng 10/1954. Chỉ sáu tháng phù du là ra trường đeo lon quan một . Đa số chưa có tình yêu nói gì đến chuyện vợ con. Mới ra trường ai cũng hiền lành. Sau cuộc binh đao, đi tù hay di tản, vượt biên hay HO. Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh. Người nào cũng trở thành tinh ma quỷ quái. Chẳng còn ai hiền lành như thuở di cư 54. Chỉ duy có Phùng văn Xuân một đời hiền lành tử tế. Anh ra đi khi trời vừa sáng vào ngày đầu năm tại San Jose, 76 tuổi. Mới còn bắt tay nhau chúc tết 3 ngày trước. Bây giờ đã mồ yên mả đẹp.

 Lúc họp mặt cuối năm vào buổi trưa ngay tại Viện Bảo Tàng San Jose, quân số cả khóa của miền Bắc tham dự chừng 60%. Phần còn lại khai bệnh hoặc không có phương tiện chuyển vận. GMC cũng không có mà trực thăng cũng chẳng còn chiếc nào.

        Cũng may có Ðoàn Thi từ Sacramento về được và Nguyễn Ðức Chung cũng về từ San Francisco. Anh em ngồi bàn chuyện thời sự địa phương. Recall or not recall. Obama, Obama. Việt Nam ,Việt Nam vân vân … nhưng xem ra chuyện thế sự không đáng quan tâm. Phần nhiều chia sẻ nhau về kinh nghiệm y khoa. Anh nào cũng thương tích đầy người. Trình độ kiến thức về bệnh tật thuốc men phần lớn đều đã lên cấp ngang với sinh viên trường thuốc sắp tốt nghiệp. Mấy nhà thương ở San Jose chúng tôi đều có ra vào thực tập. Nhiều anh đã lên học lớp cao cấp tại nhà thương Stanford. Có anh vào nhà thương San Francisco nằm giảng bài cho sinh viên hàng tuần. Sau cùng điểm danh quân số, anh em ai cũng chắc chắn rằng sẽ vượt qua năm Mậu Tý. Hai hôm nữa là qua năm Kỷ Sửu. Chắc là sẽ bình yên. Vậy mà lời bình luận đúng như đinh đóng cột. Ðầu năm Kỷ Sửu anh bạn hiền lành nhất là ông tiểu đoàn trưởng công binh Phùng Văn Xuân mới ra đi. Khóa chúng tôi trong thời chiến tranh có mặt khắp quân khu và khắp các binh chủng. Sống và chết ở mọi nơi. Nhưng hiện nay vẫn còn hiện diện ngay tại Việt Nam và các nơi trên thế giới.

Cả khóa toàn Bắc kỳ vào Ðà Lạt học có 300 sinh viên. Lạc loài thêm vài anh miền Trung và miền Nam . Còn toàn là dân di cư đi sớm trước cả hiệp định Geneve. Ngày nay chúng tôi cũng lần lượt ra đi từ khắp nơi trên thế giới. Tại Bắc Cali, anh Ðỗ Hữu Bài ra đi sau 12 năm được hết đầm Mỹ rồi đầm Phi săn sóc trong nhà an dưỡng. Quân cảnh Trần Văn Tước ra đi bỏ lại cả đống máy hình và cây cảnh. Rồi đến anh Nguyễn văn Ðông và bây giờ và bạn Phùng Văn Xuân.

 

Chị Phùng Văn Xuân tuy thương tiếc ông chồng hiền lành nhưng xem ra còn rất bình tĩnh đứng ra chỉ huy đơn vị toàn gia đâu ra đấy. Ðại gia đình con cháu đông đảo từ các nơi quy tụ về lo cho ông già nằm xuống yên giấc ngàn thu. Trong số anh em chúng tôi, Phùng Văn Xuân lãnh chức tiểu đoàn trưởng công binh rất sớm và hết sức thanh liêm, đôi khi bị coi là quá sạch sẽ. Ông giữ của cho quân đội từ thùng sơn đến lít dầu không cho dùng ở nhà, nên chắc chắn là không có tẩu tán bán ra ngoài. Và anh là người rất hiếu học. Trước khi mất nước Phùng Văn Xuân đã tốt nghiệp thẩm phán còn đang chờ bổ nhiệm.

Chuyện tang gia, chung sự mà tôi kể lại như thế xem ra không thích nghi với hoàn cảnh. Chưa thực sự đau thương buồn tủi. Nhưng quả thực khi mà khóa của chúng tôi tuổi trung bình trên 75 thì cuộc sống đang over time. Mỗi ngày qua là một ngày bonus. Biệt ly, sinh tử không phải là chuyện vui nhưng cũng không còn thê thảm như thời chiến tranh.

Khi tiễn đưa ông Phùng Văn Xuân vào buổi sáng thứ Bảy, sương mù bao phủ ngọn đồi Oak Hill. Trên sườn đồi dốc của khu nghĩa trang Á châu nhìn xuống, phía tay trái là chỗ của Trần Văn Tước, trung đội 24 đại đội 6 và bây giờ bên phải là Phùng Văn Xuân, trung đội 20 đại đội 5.Hop mat khoa

Ðại tá công binh Nguyễn Thiện Nghị đọc một bài ai điếu kể rõ tiểu sử của người sỹ quan công binh ra đi. Phần tôi đại diện anh em cùng khóa gọi tên các bạn hiện diện . Tưởng như 55 năm về trước, sinh viên sỹ quan Vũ Văn Lộc tại sân trường võ bị Ðà Lạt, trong trách nhiệm trực nhật gọi tên anh em, Vũ Thượng Tôn, có mặt; Ngô Sỹ Hùng, có mặt; Nguyễn Xuân Hòa, Nghiêm Kế, Lê Văn Bang, Phạm Ngọc Thụy, Ðinh Trọng Ất … Nguyễn Ðình Tạo … có mặt có mặt … Nằm trong áo quan, dưới mộ phủ đầy hoa, Phùng Văn Xuân vẫn còn nghe từng tên gọi.

Rồi những người con trai gái của một gia đình đông đảo với các cháu chít khăn tang trắng bắt đầu cất tiếng khóc, khi quan tài từ từ hạ thấp. Nhìn những người con đã trưởng thành từ 40 đến 50 tuổi đồng loạt quỳ xuống đất lạy bố, chúng tôi thấy rõ ràng sự khác biệt văn hóa với tang lễ tây phương.

Có một vẻ gì hết sức Việt Nam đã thể hiện trong một khoảng khắc đặc thù. Những người đàn ông Hoa Kỳ gốc Việt áo đen khăn trắng, quỳ xuống đồng loạt, nước mắt chảy dài, lạy bố ra đi.

Trong khi chờ lấp đất và chia tay, bạn bè hỏi nhau về lý lịch y khoa của anh Phùng Văn Xuân. Thì ra Xuân đã bị ung thư và chạy điện cả năm. Xem ra còn có thể cầm cự được thời gian nữa. Nhưng bất ngờ chính trái tim đột quỵ đã hạ anh trong một thời gian thật ngắn. 911 cũng không cứu kịp.

Chuẩn bị một đằng lại bị địch đánh chỗ khác. Nhưng gia đình cũng như chính anh đều chấp nhận để tránh khỏi những ngày tháng sau cùng đối diện với bệnh ung thư vô cùng đau đớn.

Dừng chân trên ngọn đồi Oak Hill của San Jose miền Bắc California , chúng tôi lại nhắc đến những người bạn cùng khóa đã ra đi trong chiến tranh.

Một anh chợt hỏi, khóa Cương Quyết 54 chúng ta có ai chết ở ngoài Bắc không?

Có đấy chứ, một anh bạn rất nổi tiếng và là người duy nhất của khóa chết trong tù cải tạo. Chết sớm nhất là Trung tá Vũ Văn Sâm tức là nhà thơ Thục Vũ.

Anh chết ngày 17 tháng 11 năm 1976. Anh Sâm thuộc về trung đội 19 đại đội 5. Ðể tiễn đưa Phùng Văn Xuân cũng của đại đội 5 ra đi 32 năm sau, tôi xin nhắc lại sự ra đi của nhà thơ Vũ Văn Sâm. Anh Sâm ra đi sau khi chiến tranh đã chấm dứt, mới bước chân vào tù trong niềm cay đắng của một đất nước thống nhất và hòa bình.

SVSQ Vu van Sam

Trung Uy Sam cung gia dinhDai Uy Sam cung gia dinh

Nhân điện đàm qua Úc, chúng tôi nói chuyện với bác Phan Lạc Phúc, năm nay 82 tuổi, người đã viết về chuyện sống chết của Thục Vũ. Ông bạn tù đã làm thợ vịn cho thầy Thích Thanh Long khắc tên người ra đi trên bia đá. Bác Phan Lạc Phúc khi viết về Thục Vũ có nhắc đến các bạn tù Suối Máu như Vũ Ðức Nghiêm, Phạm Xuân Ninh hiện còn ở San Jose, và các bạn cùng khóa với chúng tôi là Nguyễn Hữu Luyện, Vũ Thế Quang ở miền Ðông

Ðặc biệt bạn Vũ Văn Sâm tự Thục Vũ nổi danh với tác phẩm văn nghệ là bài thơ phổ nhạc mang tựa Kiếp Lưu Ðày. Một sáng tác từ trại tù Suối Máu trong Nam đã được đem ra các trại tù ngoài Bắc và sau cùng hiện nay được phổ biến sâu rộng tại hải ngoại. Bài thơ có những lời than thở vô cùng thương cảm trong số phận tù đày nghiệt ngã. Bài ca trữ tình não nùng gởi về cho vợ con, xin được ghi lại nguyên văn. Nhạc sĩ San Jose , người bạn tù Vũ Ðức Nghiêm đã viết thêm lời ca đoạn hai và phổ biến cho anh em.

Kèm theo bài này là những tấm hình chị Thục Vũ hiện ở Canada gởi cho chúng tôi lưu giữ trong các di vật của anh em cùng khóa.Chính cũng nhờ mộ bia có tên trên đá góp phần kiến tạo của bác Phạm Lạc Phúc mà sau này chị Thục Vũ đã tìm được nơi yên nghỉ của Vũ Văn Sâm. Gia đình đã tảo mộ và đem di hài qua hũ tro tàn đặt trong chùa tại Saigon .

Thieu Ta Sam va gia dinh

Trung Ta SamMo anh Sam

 

 

 

 

 

 

 

  Như vậy lần họp khóa cuối cùng của Vũ Văn Sâm là tại Saigon năm 1973, và lần họp khóa cuối cùng của Phùng Văn Xuân là đầu năm 2009. Vào tháng 10 năm 2009, khóa Cương Quyết chúng tôi dự tính sẽ tổ chức 55 năm họp khóa ngậm ngùi. Chúng tôi sẽ đếm đầu người và báo cáo cho toàn quân được rõ.

Có lẽ năm nay họp mặt quân số đức Ông trong hàng ngũ các trung đội sẽ phải có đoàn nữ binh mùa thu thay chồng trình diện trước hàng quân. Theo luật tạo hóa thường tình, phần lớn quý ông ra đi trước quý bà. Người đã đi rồi, nhưng tình yêu còn ở lại.

Khi chúng ta ở tuổi cao niên nhưng vẫn có thể vui đùa với chuyện tử sinh thì cuộc sống đã nhẹ nhàng đi rất nhiều. Rồi đây khắp bốn phương trời , anh em mỗi lần gặp nhau sẽ là một lần họp khóa. Sẽ chẳng bao giờ biết được ai là người sẽ họp khóa một mình.

Giao Chỉ San Jose

 
 
 
Tái bút

Sau đây là lời thơ của bài ca nổi tiếng Kiếp Lưu Ðầy. Xin gởi đến quý vị nhân dịp tiễn đưa 2 người bạn cùng khóa của đại đội 5. Từ Vũ Văn Sâm chết 1976 đến Phùng Văn Xuân mất năm 2009.

 

 

       

        Em ở Saigon anh ở đây.
        Đồi cao cát trắng kẽm gai dày

        Ngẩn ngơ dăm chuyến tàu xuôi ngược.
        Gọi nhớ nhung về che lấp mây
        Anh vẫn hằng đêm thương nhớ con.
        Thương em tình nghĩa vẫn vuông tròn

        Thương mình day dứt từng đêm trắng
        Thương bạn anh trong chuyện mất còn …

        Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây 
       
Áo rách xác xơ thân gầy.
       Cùng chung một kiếp lưu đày
 

      

       Anh ở đây .
       Sớm chiều cơm chia vài chén

       Ngày ngày ra trông đàn én.
       Kiếm mồi thấp thoáng bay qua

       Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây 
       Vẫn giếng nước sâu bên cầu. 
       Nhìn trăng trăng vướng dây gầu
 
                                                                       
       Anh ở đây,
       Sớm chiều bên trong rào sắt

       Cuộc đời ưu tư chồng chất. 
       Giữa lòng núi cũ sông xưa

  Thục Vũ, 1975, Suối Máu




Bác Cũng Lỡ Rồi (Kỵ Binh)

 
                                   

                                      (7)
1. Meo Xuân Gửi Bác 1;2.Meo Xuân Gửi Bác 2;3.Meo Xuân Của Bác;4. Meo Xuân Gửi Bác 3  5. Bác Chuồn Khỏi Lăng;6.Bác Hồ Thanh Minh
                    BÁC CŨNG LỠ RỒI
                  TP. Hồ Chí Minh, Ngày 10 tháng Ba, 2009
 Bác ơi,
Tin Bác chuồn khỏi lăng Ba Đình không làm cháu ngạc nhiên: cái gì phải đến đã đến. Lòng dân đang sôi sục trước hành động công khai bán nước của các đồng chí lãnh đạo chóp bu, học trò của Bác, trong đó có hoàng thái tử Đức Mạnh mang họ mẹ của cháu gái Nông Thị Trưng do Bác gieo giống trên “hòn đá chênh vênh viết sử đảng” giữa tiếng suối Lênin róc rách dưới chân hòn Mác trong hang Pắc Bó. Chính đồng chí trưởng nam (vì có em là Vũ Trung tức Nguyễn Tất Trung) Đức cạn Sức cũng cạn này mà khu Ba Đình đang dậy lửa…Bô xít. Khoa hoc gia, Địa chất gia, Môi trường gia, Tướng tá gia Ất Giáp gì kêu gào khuyên dạy, chỉ chỏ, can ngăn, phản đối, bất chấp ! Đồng chí Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không trả lời, chỉ cần..muối mặt, phán, “đó là kế hoạch lớn của Đảng”.
Đã là “Kế hoạch lớn” của Đảng rồi thì chính phủ của chú Dũng có ..chú phỉnh chút đỉnh cũng chẳng hề chi. “Vox populi vox Dei”, Ý dân là ý Trời , “thằng Trời” của bọn mê tín dị đoan không dính dáng gì với  đồng chí Thiên Triều láng giềng anh em núi chiếm núi (Lão Sơn) đảo liếm đảo (Trường Sa, Hoàng Sa) môi hở ra là “dạy cho bài học” 17 tháng 2 năm 1979 và “hãy đợi đấy” những bài học dài dài nếu còn hỗn… Ý Thiên Triều mới là ý Đảng; Đảng thì ngồi trên đầu dân, nên Ý Đảng là ý.. dân có nhất trí đồng ý hay không thây kệ chúng bay. Ý Đảng là thế này :
Ngày 3 tháng 12 năm 2001, Tổng bí thư đảng CSVN, tức con trai trưởng Bác đi chầu Thiên Triều phương bắc và đã ra “Tuyên Bố Chung Việt Nam—Trung Quốc”, trong đó có điểm thứ 6 như sau:
“…Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định khung giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHND Trung Hoa về việc Trung Quốc cung cấp cho VN khoản tín dụng ưu đãi và Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa, và nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô xít nhôm Đắc Nông”
Tháng 11 năm 2006, Hồ Cẩm Đào sang Việt Nam, trong cái gọi là “Tuyên bố chung”, hở môi ban lệnh :” Từng bước cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng và tăng trưởng bền vững thương mãi hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lãnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc các dự án lớn như bô xít Đắc Nông “
Thế là vì hai chữ “khẩn trương” Đào “môi hở”,đầu năm 2007, chú Dũng lo cúi đầu cắm cổ ký cái rẹc Quyết định số 167 với nội dung “phê duyệt quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến sử dụng quặng bô xít giai đoạn 2007 đến 2015, có xét đến năm 2025”, tức là hợp thức hoá chuyện đã rồi.
Trong số những người rướn cổ rống vào tai trâu, Cu Tèo thấy tội nghiệp nhất chú Giáp, “thiều quang” trăm tuổi đã ngoài chin mươi, tay chân lẩy bẩy còn rán vịn thành giường  ngồi dậy cho vợ con khoác lên mãnh thân gầy gù y phục tướng công trọn bộ mão hia, lon sao lấp lánh, huân chương lủng lẳng; thở không ra hơi mà chú Giáp cứ nghĩ tiếng nói của chú vào tai chú Dũng còn..nổ như tiếng pháo Điện Biên năm nảo năm nao.
“Thì tau đã bảo, tau biết trước lăng Ba Đình bị ủi đên nơi, nên tau chuồn rồi đó”.
Bac ơi, đến đây, Tèo mới sực nhớ hỏi thăm Bác nay ra sao? Bác vẫn quanh quẩn gầm cầu Long Biên, hay đã không cao bay được nhưng xa chạy? .Bác có tính về lại hang Pắc Bó? Ồ, mà nghe đâu cái hang luyện ác ma ấy đã bị các đồng chí Trung Quốc cho nổ sập hồi 1979 rồi. Hay Bác về lại Kim Liên Nam Đàn? Bác mò về đó,Tèo lo không biết người ta có nhận Bác hay lại đi tố cáo Bác là Bác Hồ giả, là người Hẹ như chú Chệt Đài Loan Hồ Tuấn Hùng nào đó biên khảo à …chế ra thì khốn . Mà Bác sẽ vào nhà họ Nguyễn hay họ Hồ? Cu Tèo nghe mấy ông lão Làng Sen của Bác nói chắc nhưTường Bá Linh đã bị dân Đông Bá Linh đập đổ, nịch như tượng tổ Lênin đã bị dân Nga tròng đầu, rằng ông nôị của Bác không phải là ông Nguyễn Sinh Nhâm, mà ông nội của Bác là ông Hồ Sĩ Tạo.
Cháu nghe tiếng Bác quát, “thằng Tèo này chỉ biết nói leo, tau biết quá chư răng , đổi tên đảng, tên nước ra răng cũng được ; tên đảng khi thì Cộng Sản, khi thì Lao Động; tên nước, khi thì Việt Nam đứng trước Dân Chủ Cộng Hòa, khi thì Việt Nam lẻo đẻo làm cái đuôi sau Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa; nhưng tên họ thì phải biết …”lá rụng về cội” chứ Tèo .”
Phục Bác, phục Bác. Nghiên kíu lịch sử Bác, hết trích dọc rồi lại trích ngang, trích ngữa, có khi lại trích xéo, Tèo thấy chuyện Bác làm toàn tào lao hai dân hại nước,.Nay mới thấy Bác làm được một việc đúng, là lấy lại họ ông nội ruột Hồ Sĩ Tạo .
Nêú về quê mà bị cả hai họ Nguyễn cũng như Hồ đều từ, Bác nên nhảy xe lửa Thống Nhất vào quách trong Nam nhìn cái thành phố mang tên Bác một lần cho sướng. Đời Bác đúng là lúc lên xe lúc xuống chó ha Bác. Mới ngày nào khố rách áo ôm ăn nói trọ trẹ, thất tha thất thểu, lêu bêu không kế sinh nhai giữa Saigon, lang thang tới bến Nhà Rồng may gặp được cái tàuTây, làm liều nhảy xuống, phúc đức ông bà được ông Tây nhận cho làm chân bồi bàn; thế mà cái thành phố từ đó ta xuất dương tìm đờng rửa chén, nay mang tên ta, nhưng mà bỏ mẹ rồi, thiên hạ càng ngày càng gào thét “hãy trả ta Saigon”,Bác nhớ khẩn trương lên, cho kịp trước khi người ta lấy lại tên cũ Sàigòn, như dân Nga đã bôi tên Stalingrad, Leningrad để trả cho Volgograd và Saint Petersburg …
Vô Nam mà không quen ai thì Tèo sẽ dẫn Bác đến nhà một người vừa là đồng chí, vừa đồng hương với Bác ở đường lúc trước Ngụy gọi là Gia Long ngay sau chợ Bến Thành. Đó là chú Lê Văn Th. Chú Th. người Thanh Chương ngày xưa Bác dụ khị đi theo đó. Hồi kháng chiến, chú Th. vô Nam họat động, phụ trách vùng Saigòn Chợ Lớn, bị Tây bắt và lãnh án tử hình; may đảng CS Việt Nam lạy lục đảng Cộng Sản Pháp năn nỉ xin Toàn quyền Pháp ở Đông Dương ân xá, chú Th.được tha chết, giảm xuống khổ sai chung thân, nhưng phải chịu cắt gân sau hai cổ chân, đày ra Côn Đảo. Năm 1954, theo Hiệp định Genève, chú ấy được trao trả về Hà nội. Đến mùa xuân Dễ Thắng 1975, sau khi Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, dân Saigòn bị phỏng.. bỏ của chạy lấy người, chú Th. được cấp cái- nhà- là- nhà -của -ta –ông- cố- ông- Ngụy –làm- ra cao năm lầu, cực kỳ sang trọng (Tèo đã vào nhà, đã gặp chú Th.). Chú Th. có người em gái lấy chồng Ngụy nếm mùi “Cách Mạng” từ lâu, tay bồng tay dắt ba đứa con dại theo tàu há mồm vào Nam 1954, sống ở Tây Nguyên. Một hôm bà cụ tuôi thất tuần, vốn ngồi quen xe đò trước kia bị Mỹ Ngụy đàn áp bắt chạy bằng xăng bắt chạy một lèo, leo lên xe được Cách mạng cải tiến tự do chạy bằng than, được tự do dừng trước trăm trạm kiểm soát. Bà cụ cũng nghe bao lời ca thán khiếp đảm về con đường “trần ai” gian ác trên dưới bảy trăm cây số, nhưng cứ nhắm mắt đi đại thăm ông anh đã mấy chục năm xa không gặp. Anh em lâu ngày, hàn huyên ngàn lẻ điều. Có điều Cu Tèo ghi được:
Chú Th. hỏi em:
–Cô có mang theo cà phê cho anh đó không?
Bà cụ đang vui vẻ đứng phắt dậy. giận dữ:
–Cà phê mô mang theo được cho anh. Qua thời Tây, thời Nhật, tôi chưa thấy cái chế độ nào tồi tệ như cái chế độ của anh; đi một chặng đường lại bị lôi xuống kiểm soát, sờ bóp cùng người, lục lọi tận trong cái quân lót đàn bà.Tôi kinh tởm cái chế độ khốn nạn này quá.
Chú Th. đỏ tía tai, đập bàn:
–Cái bọn này, anh đã bảo chúng nó dẹp ngay đi cái trò ngăn sông cấm chợ này lâu rôi mà chúng không nghe.
Sau này Tèo biết chú Th. nói thế ,vì chú làm rất lớn, nhưng “chúng nó không nghe”, bởi chú ấy đã về hưu chỉ làm…cố vấn.
Thực ra chú Th. đã ngán con đường Bác đi tư lâu lắm rồi.1954, khi gia đình người em trốn từ huyện Đức Thọ của chú Trần Phú, ra Hà Nội để đi Nam, ghé thăm anh Th. vừa về từ Côn Đảo.
Chú Th. nói với vợ chồng người em:
–Các em đưa gia đình con cái vào trong đó đi. Anh thì lỡ rồi.
Bác ơi, ngày nay thì lắm đồng chí thấy mình “lỡ rồi” như chú Th.
Bác cũng thấy mình “lỡ rồi” đó, ha.
Chào Bác,
Cu Tèo



Nỗi Buồn mang tên Việt Nam (Song Chi)

Lời giới thiệu : Tin từ Sài Gòn cho biết ngày 24/4/2009, nữ đạo diễn điện ảnh Song Chi, đã tới một thành phố biển Na Uy xin tỵ nạn chính trị.

Nữ đạo diên Song Chi là tác giả của phim truyện dài 18 tập mang tựa đề Nữ bác sĩ do Hãng phim truyền hình Sài Gòn (TFS) sản xuất hiên đang trình chiếu trên VTV4, kênh truyền hình đối ngoại của Đài Truyền hình Việt Nam.

Song Chi đã tham gia cuộc biểu tình ở Sài Gòn đầu năm 2008 lên án nhà cầm quyên cộng sản Trùng Quốc xâm lược lãnh hải Việt Nam. Cuộc biểu tình này đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đàn áp. Chị và nhiều người tham gia biểu tình đã bị công an cộng sản ở Sài Gồn liên tục theo dõi, thẩm vân, đe doạ. Nữ đạo diễn Song Chi đã bị Hãng phim truyền hình Sài Gòn và các Hãng phim quốc doanh khác căt hợp đồng lam việc


Nhân sự kiện nữ đạo diễn Song Chi xin tỵ nạn chính trị tại Na uy, xin giới thiệu bài viết của nữ đạo diễn Song Chi mang bựa đề: Nỗi buồn mang tên Viêt Nam. Bài này đã đăng trên blog của chị sau khi tham gia biểu tình phản đối Trung Quốc năm 2008.. 
                     

Nỗi buồn mang tên Việt Nam

Đạo diễn Song Chi

Tôi biết rằng đối với tôi và những người bạn đã tham gia cuộc biểu tình tưởng niệm 34 năm ngày Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc ngày 19.1.2008 (19.1.1974-19. 1.2008) – một cuộc biểu tình ngắn ngủi trước khi bị dập tắt nhanh chóng, nỗi buồn lớn nhất, sự chua xót lớn nhất đó là vì sao chúng ta không được phép lên tiếng? Nỗi buồn đó tôi cũng đã đọc thấy trong những đôi mắt ngơ ngác của những em sinh viên học sinh trong những ngày 9.12, 16.12 vừa qua khi những cuộc biểu tình của sinh viên học sinh và một số văn nghệ sĩ phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc xâm lược Trường Sa, Hoàng Sa đã bị cản trở, làm khó dễ và sau đó là đủ mọi biện pháp đã được áp dụng để ngăn chặn ngay từ đầu. Vì sao? Vì sao chúng ta không được phép lên tiếng ngay cả khi lẽ phải thuộc về dân tộc ta? Có những lúc tình cờ đôi mắt ngơ ngác của một em sinh viên nào đó rơi trúng vào tôi, tôi nhìn thấy nỗi buồn trong đôi mắt em như em cũng đọc thấy sự chua xót trong tôi, và càng chua xót hơn nữa là cả hai cùng có câu trả lời nhưng thể nói lên lời. Thôi em ơi hãy về nhà lo học hành, làm một đứa con ngoan của ba mẹ thậm chí không lo học hành cứ vui chơi tiêu xài tiền của ba mẹ thời gian và tuổi trẻ của chính mình, tham gia vào mấy chuyện này làm gì không có lợi. Còn tôi ơi tôi cũng nên đi về nhà làm công việc của mình lo kiếm tiền lo kiếm danh, tham gia vào mấy chuyện này làm gì không có lợi.

Chính cách xử sự của Nhà Nước VN trong suốt những ngày qua đã làm cho bất cứ người dân Việt Nam nào nếu còn quan tâm đến vận mệnh đất nước đều cảm thấy chua xót, cay đắng, nhục nhã. Đồng thời, những ai nếu còn rơi rớt chút ngây thơ do đã được giáo dục theo kiểu một chiều, bưng bít thông tin quá lâu, ắt hẳn cũng tỉnh ngộ ra ít nhiều. À thì ra ngay cả biểu tình bộc lộ lòng yêu nước và là một phản ứng tối thiểu cần phải có của một dân tộc trước họa xâm lăng rành rành trước mắt của một nước khác mà còn “không được phép”, còn bị ngăn cấm thì hy vọng gì biểu tình để phản kháng trước bất cứ chuyện gì là nguyên nhân gây nên sự phi lý, bất công trong xã hội, hoặc đụng chạm đến quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong xã hội, hoặc kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước và có hại cho vận mệnh của quốc gia, của dân tộc…?

Hình đáng ghi nhớ: Song Chi và sinh viên biểu tình chống Trung quốc

Trong những ngày này, trái tim của bao người Việt Nam đang rỉ máu. Nỗi đau bị cướp đất cướp biển ngay trước mắt, nỗi lo họa xâm lăng lâu dài, nhưng đau đớn hơn là thái độ hèn nhát đến không hiểu nổi của chính quyền và sự vô cảm, dửng dưng của rất nhiều người cùng là đồng bào với mình. Có một điều nghĩ cũng lạ lùng, bao nhiêu năm qua, máu xương của dân tộc này đã phải đổ xuống quá nhiều, và những vết thương trong lòng người còn nhiều hơn, một dân tộc như vậy lẽ ra phải ngộ ra, tỉnh ra với một lực phản tỉnh cực kỳ mạnh mẽ để không được phép sai lầm nữa. Vậy mà…chưa bao giờ trong lịch sử, những người lãnh đạo đất nước lại hèn nhát, bảo thủ đến cùng như lúc này-thà mất nước chứ nhất định không chịu từ bỏ con đường sai, không chịu mất quyền lực, và chưa bao giờ mỗi lần con số ít ỏi những người dân Việt dám cất lên tiếng nói lương tâm lại cảm thấy cô đơn, lẻ loi giữa cộng đồng và bất lực như lúc này!

Nếu nói tính cách của con người làm nên số phận thì tính cách của một dân tộc cũng tạo nên số phận của chính dân tộc đó. Dân tộc tôi, bất hạnh thay, là một dân tộc cạn nghĩ, cục bộ, hay chia rẽ, lại thêm chưa hề được hưởng một nền dân chủ thực sự bao giờ nên cũng chưa hề biết sử dụng đúng nghĩa quyền công dân và quyền làm người của mình. Dân tộc tôi, bất hạnh thay, trong mọi lĩnh vực đểu hiếm hoi người tài, chính trị cũng vậy, không có nổi ít nhất một nhân vật biết (hoặc dám) chọn một con đường đi khôn ngoan hơn rộng rãi hơn cho dân tộc, biết (hoặc dám) đặt vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc lên trên quyền lợi của một giai cấp một đảng phái.

Dân tộc tôi, bất hạnh thay, là một dân tộc cạn nghĩ, cục bộ, hay chia rẽ, lại thêm chưa hề được hưởng một nền dân chủ thực sự bao giờ nên cũng chưa hề biết sử dụng đúng nghĩa quyền công dân và quyền làm người của mình. Dân tộc tôi, bất hạnh thay, trong mọi lĩnh vực đểu hiếm hoi người tài, chính trị cũng vậy, không có nổi ít nhất một nhân vật biết (hoặc dám) chọn một con đường đi khôn ngoan hơn rộng rãi hơn cho dân tộc, biết (hoặc dám) đặt vận mệnh đất nước, vận mệnh dân tộc lên trên quyền lợi của một giai cấp một đảng phái.

Nguồn tin mới nhất cho biết vào ngày Thứ Năm, Ngày 7 tháng 5-2009, thông tín viên SB-TN từ trong nước gởi ra bản tin cho biết nữ đạo diễn Song Chi đã đào tỵ và xin tỵ nạn chính trị tại Na Uy (nguồn: http://www.sbtn.net/default.aspx?LangID=38&tabId=170&ArticleID=37142).

(Nguồn: Blog Song Chi, http://360.yahoo.com/profile-xHHl4WUidKhoJ3Ce.agDycCVSA–?cq=1)

Về con người và sự nghiệm Song Chi, xin mời xem: http://www.yxine.com/forum/forum.php?action=showmsg&box_id=3&msg_id=2795)

Vì biểu tình chống Trung quốc, nên đã bị mất hợp đồng với đài truyền hình HTV (TP.HCM) http://clbnbtd.com/modules.php?name=News&op=viewst&sid=524

 


Song Chi

 

 




Đáp Từ Của nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

Đáp Từ Của Nhà Báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh  SƠN ĐIỀN NGUYỄN VIẾT KHÁNH . Việt Báo Thứ Năm, 6/11/2009, 12:00:00 AM

Đáp Từ Của nhà báo Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh Trong buổi họp Chúc mừng 88 tuổi tối Thứ Tư June 3-09 ở San Jose

Tôi xuất thân làm báo từ năm 1948 ở Hà Nội, viết cho tuần báo Thanh Niên, chủ nhiệm là anh Trần Việt Sơn nay đã quá cố từ lâu. Lúc đầu tôi chỉ làm người phiên dịch các bản tin của Thông tấn xã Pháp AFP. Lúc đó là thời quân đội Pháp đã lâm chiến với Việt Minh. Năm 1951 tôi vào Huế làm thông tín viên chiến tranh cho AFP (Pháp tấn xã). Thời đó là thời của người Pháp. Năm 1952 người cầm đầu Văn phòng AFP ở Saigon là ông Norjeu đã giúp chính quyền lâm thời ở Nam Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp, do ông Trần Văn Hữu làm Thủ tướng, thành lập Thống tấn xã Việt Nam, gọi là Viet Nam Press (VP hay VTX). Năm 1952 tôi được gọi từ Huế vào Saigon, làm phóng viên cho VTX ở Saigon. Lúc đó Tổng Giám đốc đầu tiên của VTX là cụ Đoàn Quang Tấn vốn là Thạc sĩ Văn phạm tiếng Pháp, Quản thủ Thư viện ở Saigon, còn Norjeu là cố vấn của VTX, nên tôi vẫn phải chịu sự điền khiển của ông này. Sau, từ năm 1952 đến năm 1953, ông Nguyễn Văn Tâm làm Thủ tướng, ông Hoàng Văn Cơ, từ Pháp về làm Tổng Thư ký đầu tiên của VTX. Đến năm 1954 Hoàng Thân Bửu Lộc làm Thủ tướng (1954), Norjeu hết làm cố vấn.
Năm 1954, cụ Ngô Đình Diệm trở về nước, tôi với tư cách phóng viên đã ra tận Phi trường đón cụ, và được cụ cho tôi bài diễn văn đầu tiên của cụ để đăng trên VTX. Năm 1956, cụ Ngô lên làm Tổng Thống, tôi trở thành phóng viên đặc trách Phủ Tổng Thống và đi theo cụ trong mọi cuộc kinh lý. Năm 1963 cụ Ngô bị ám sát, tôi trở về Văn Phòng VTX ở Saigon làm Trưởng ban Pháp ngữ. Đến năm 1965 ông Nguyễn Ngọc Linh từ Mỹ trở về làm Tổng Giám đốc VTX, ông cử tôi làm Tổng thư ký Tòa soạn VTX. Đây là thời điểm đáng chú ý nhất, vì ông Linh đã chuyển đổi nghề làm báo ở Việt Nam đã cũ theo thời Pháp, sang nghề làm báo về cách viết tin cũng như về kỹ thuật sang nghề làm báo có tính quốc tế hiện đại. Ông gọi tôi lên Văn phòng của ông và bàn với tôi về sự chuyện đổi đó. Ông muốn tổ chức một lớp huấn luyện phóng viên cấp tốc ngay tại VTX. Tôi ghi ơn ông Linh ở điểm này vì tôi phụ trách lớp huấn luyện đó nên tôi được ông Linh dạy tôi và cho tôi sách để học về nghề làm báo hiện đại ở Mỹ cũng như nghề làm báo nói chung ở các nước tân tiến trên thế giới.
Vài tháng sau hai trường Đại học Việt Nam là Viện đại học Vạn Hạnh và trường Chính trị Kinh doanh Viện Đại học Dalat cũng mở Phân khóa báo chí để sinh viên theo học 4 năm, khi ra trường sẽ được cấp bằng Cử nhân Báo chí. Rất nhiều sinh viên đã theo học ngành này. Đây lần đầu tiên nước Việt Nam có trường Đại học Báo chí và tôi là Tổng Thư ký VTX, tôi được mời làm giáo sư đầu tiên dạy ở hai trường này.Các sinh viên được đào tạo đó đã  góp phần xây dựng nền tảng nghề làm báo hiện đại của Việt Nam. Từ lâu tôi đã nói cuộc đời tôi có hai sự may mắn. Thứ nhất là tôi đi vào nghề báo mặc dù thời còn trẻ khi mới vào đại học tôi đã học môn Khoa học, chú trong đến Vật lý học. Và cũng vào những năm đó, tôi không thể nào ngờ có một ngày nào đó, tôi sẽ đứng trên Giảng đường của trường Đại học để dạy về môn Báo Chí.
Vừa rồi anh Lê Phú Nhuận cựu nhân viên VTX, đã nói mấy câu thật bất ngờ, làm tôi rưng rưng nước mắt. Đó là năm 1974, vì lý do riêng tôi phải rời bỏ VTX, sau đó anh Lê Phú Nhuận được cử thay thế tôi và anh Bùi Ngọc Dung làm phụ tá. Anh Nhuận vừa rồi đã nói cả hai anh, không anh nào muốn ngồi vào trong cái lồng kính, nơi có đặt bàn giấy của tôi ở VTX, để tỏ lòng kính trọng tôi. Các cựu nhân viên nam nữ VTX năm xưa ở Việt Nam có mặt ở nơi đây tối hôm nay, những ân tình của các em đối với anh, người anh cả trong gia đình Việt Tấn Xã của chúng ta, đã làm anh vô cùng xúc động.
Sau đó anh Khổng Trọng Hinh đại diện các cựu sinh viên Đại học Vạn Hạnh năm xưa đã lên chúc mừng tôi. Hinh thân mến và tất cả các cựu sinh viên Vạn Hạnh, những người con của Thầy có mặt nơi đây để chúc mừng Thầy, những lời Hinh vừa trình Thầy thật quý giá và đặc biệt những lời sau chót của Hinh làm Thầy cảm kích và trong trái tim Thầy rộn lên một niềm vui. Sau này khi Thầy ra đi vĩnh viễn khỏi dương thế này, các con vẫn nhớ đến Thầy, nhớ đến những lời Thầy dạy như thời Thầy đứng trên bục giảng đường thời Thầy còn sống. Thật không ngờ tình nghĩa Thầy Trò của chúng ta lại sâu đậm đến thế này. Thầy rất cảm động và hãnh diện được có những người học trò, những người con xứng đáng như các con có mặt ở nơi đây tối nay.
Các em Cựu nhân viên VTX, các Cựu sinh viên Vạn Hạnh, Thầy cám ơn tất cả các con.
Tôi cũng xin thành thật cám ơn các nhà báo, những đồng nghiêp của tôi đến dự cuộc họp măt này.
Từ lâu tôi đã nói đời tôi có hai sự may mắn. Một là tình cờ tôi được bước chân vào nghề làm báo, trong khi lúc còn niên thiếu, tôi chỉ ước mơ trở thành một nhà khoa học suốt ngày cặm cụi trong phòng thí nghiệm. Hai là tôi đã trở thành một giáo sư Đại học để có những người học trò, như các con tôi, đã dành cho tôi những ân tình thật thắm thiết, làm ấm lòng tôi khi tuổi đã về già.
Giờ đây lòng tôi đã thanh thản. Tôi sẵn sàng chờ lệnh của đấng Tối Cao ở trên cao thẳm đó. Khi Người gọi: "Khánh!". Tôi sẽ đứng nghiêm thưa: "Có con đây". Khi Người phán " Về đi". Tôi cúi đầu "Dạ". Và tôi ra đi với một nụ cười. vì tôi đã mãn nguyện với cuộc sống của tôi trên Trái Đất này.

Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh




Buồn Cười Chả Được : ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP

Buồn Cười Chả Được

 

 

ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP

"Các đồng chí CHẠY ĐI ĐÂU ?"

 

L.V.

 

Nhân đọc bản văn tài liệu "Cán bộ TC họp tại Hoa Nam bàn việc chiếm VN" đăng trên VTVN-tháng bảy 2009

 

 

–Hiến Pháp 1946 không ban hành

–Hiến Pháp 1959 Tôn Đức Thắng ký, ngày 31-12-1959

— Hiến Pháp 1980, Nguyễn Hữu Thọ ký, ngày 18-12-1980 : Điều 4 : Đảng Cộng sản Việt Nam, … được vũ trang bằng học thuyết  Mác-Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội…

–Hiến Pháp 1992 : Nông Đức Mạnh ký, ngày 15-4-1992, Điều 4 : Đảng Cộng sản Việt Nam … là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.

–Hiến pháp 2001 : Nguyễn văn An ký, ngày 25-12-2001, điều 4 Đảng Cộng sản Việt Nam …là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.

 

Năm bản Hiến pháp trong nửa thế kỷ họa hại, đem tang tóc khủng khiếp lại cho dân tộc và Lịch Sử Việt Nam , ba bản hiến pháp 1980-1992-2001 do ba ông Nguyễn Hữu Thọ, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Văn An ký, sửa đổi các điều khoản, trong đó chủ yếu là lập dựng và giữ chặt điều 4, đưa đảng Cộng sản Việt nam vào thế là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, nhưng chỉ một hiến pháp do tên giặc trí thức Nguyễn Hữu Thọ phản quốc ngu xuẩn là có chữ quyết chắc "Đảng Cộng sản VN là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội ", thế thì trong giai đoạn cần thiết điều 4 yêu nghiệt này vẫn dễ dàng sửa đổi được, ba bản hiến pháp dành độc quyền cai  trị cho đảng Cộng sản vẫn để "cửa không khóa", đợi khi cần mở thì vẫn mở được, cửa không khóa chứ không phải là "hàn chặt lại không có chỗ mở", dù vậy, ở đây cũng không bàn đến chuyện mở đóng ; ở đây , chỉ nói về một chuyện vu cáo (!!!???)  nghe buồn cười mà cười chả được !                    

                  Sau một thời gian dài nước không có hiến pháp chính thức , tức hoàn toàn không có pháp luật nhưng tràn ngập mọi biến loạn chết chóc tan hoang , tự mình tiếm quyền độc tôn cho mình lãnh đạo đất nước theo chủ nghĩa ngoại lai một mình mình chọn, thứ chủ nghĩa yêu nghiệt phản nhân loại đã bị cả nhân loại  chế giễu gạt bỏ,  đảng cộng sản VN làm công việc rõ ràng là áp đặt buộc toàn thể người VN phải theo cộng sản, suốt hơn nửa thế kỷ đày đọa dân tộc, phá tan hoang đất nước, giết ngưới quá nhiều, lại phạm vào tội khủng khiếp lịch sử VN chưa có trường hợp nào như thế, là: bán, giao biển, đảo, đất cho giặc ngoài, bị toàn dân chống trả thì đàn áp thẳng tay rồi lén đưa giặc vào giữa giang sơn đất nước , ẩn danh dưới áo công nhân đào mỏ , cho giặc phục sẵn để chờ cơ hội thuận tiện là ra tay thôn tính ! Bảo rằng đấy là vu cáo cho đảng cộng sản, những người lãnh đạo cộng sản ư ? Bằng chứng rõ ràng và đầy đủ ai cũng biết ! Bảo rằng đấy là lời lẽ hục hặc của bọn xấu "phản động" đầu óc hoang tưởng chống lại đất nước ư ? Phải chi bọn phản động trong ngoài nước nói ra thì có thể bảo là bôi bẩn , vu cáo được, đằng này lại chính thầy của các ông, khách mua nước của các ông là bọn ngoại thù đại nghịch nghìn đời của dân tộc ta nói ra, nó là bọn Tầu ở phương bắc nói , thái độ đểu cáng , hành động " dã man " này của chúng chẳng khác gì thằng hãm hiếp nàng Kiều của ông Nguyễn Du đã đời rồi đi rêu rao vùi dập cô nàng có ý báo cho cả thiên hạ hay biết, cái này mới thật là buồn cười chả được !

 

Vậy, chúng nó, bọn giặc thù truyền kiếp của dân tộc ta, nó nói gì ?

 

Trước khi nghe nó nói, ta hãy nghe xem " ta " nói gì đã, đây là phép ăn ở tốt đẹp, ta xét ta trước rồi hãy xét thiên hạ sau.

 

Ta, là mấy lần lời ngài chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nói, ngài bảo :"… bỏ điều 4 hiến pháp, ấy là ta quyết định tự sát ", cái điều 4 này trong ba bản hiến pháp nó đem lại quyền uy tuyệt đối độc tôn cho đảng cộng sản của ngài, sao lại là một trong " tam ban triều điển" ghê gớm ấy là thế nào ? Điều 4 hiến pháp của các ngài, có do toàn dân VN bắt các ngài phải ghi vào đấy đâu, mà chính các ngài chọn, thích, mê quá rồi tự mình viết vào, chứ hai bản hiến pháp đầu tiên (không chính thức ban hành) có nói thế đâu, vậy có lẽ nào điều 4 hiến pháp lại là thanh gươm bén, chén thuốc độc, giải lụa ban cho kẻ trọng tội để tự kết liễu đời mình !? Nghe ba cái thứ ấy, thấy ớn quá !

 

Ngài chủ tịch khả kính thật lòng đã nhận ra điều 4 ấy là một họa hại khủng khiếp không thể tránh khỏi được dành cho đảng cộng sản và các đồng chí đảng viên của ngài, nó là ba "món tự chết" thật ! Có nhẽ nào 2 triệu con người cộng sản đồng chí của ngài, lại duy nhất chỉ một mình ngài ngộ ra như thế ! chắc là nhiều, nhiều lắm, có khi tất cả !

 

Nhưng, đại công cứu nước dựng nước , đem lại phúc trạch cho muôn dân, thì phải được ca tụng, ca tụng đời đời, lập miếu dựng đền quanh năm hương khói phụng thờ mới phải, chứ sao chỉ nhẹ nhàng nhấc bỏ một vài chữ mà lại là cái họa khủng khiếp đến như vậy cho các công thần cứu quốc hộ dân ? Đại tội tày trời mới " bị " vua  bắt phải nhận "tam ban triều điển" — tức là được ơn huệ tự chết chứ không phải ra pháp trường chịu chém ngang lưng, bốn ngựa xé xác –, thế thì điều 4 hiến pháp nhất định phải là nguồn gốc của tất cả mọi tội ác trời không dung đất không tha , ngài chủ tịch đã ngộ ra, ngộ rất kỹ nữa là khác !? Có lẽ nào lại có việc vu khoát đến như vậy, mà lại do chính ngài chủ tịch nói ra công khai cả và nhân loại đều nghe thấy !

 

Chả thế, mà ngay đến cả đứa người ngoài, bọn địch thù truyền kiếp nghìn đời của dân tộc ta nó cũng nhìn thấy, nó cũng lại biết rõ nguồn cơn, cho nên nó mới hỏi các ngài : "…trong tình thế hiện nay, Việt Nam không còn lựa chọn nào khác, không còn con đường nào khác hơn là trở về với tổ quốc Trung Hoa vĩ đại. Đi với Mỹ chăng ? Thì các đồng chí chạy đi đâu ? Trở về với tổ quốc thì các đồng chí mới tiếp tục tồn tại như những ông chủ duy nhất trước hiểm họa của bọn dòi bọ đang tích cực phản công nhằm tống cổ các đồng chí ra khỏi chỗ ngồi của mình " đấy là một câu trong cái bản văn rất đáng kinh hoàng kia !

 

Nghe khiếp quá ! Hãi thật ! Thế là thế nào ? Thế thì họa hại sinh ra từ điều 4 là có thật !!!??? Đã là họa hại, thì tìm cách dứt bỏ nó đi, trì hoãn làm gì cho thêm tai họa, mà dứt bỏ nó thế nào ? Ngài Chủ tịch quyết liệt giữ nó làm gì , ngài và "chúng ta" của ngài sợ cái " tam ban triều điển " chăng ? Có sợ, bọn phía bắc nó mới nói mới dọa như thế và ngài chủ tịch cứ đòi giữ cho chắc điều 4 ấy chứ !

 

Theo lời bọn bắc thù bảo , thì bọn nào là dòi bọ, dòi bọ nó đòi cái gì ? Sao chúng nó, bọn dòi bọ,  lại đang tích cực phản công nhằm tống cổ các đồng chí ra khỏi chỗ ngồi của mình ? Mấy tên giặc thù nghìn đời của ta nó đang vu cáo, hù dọa các ân nhân của cả dân tộc ta, các thủ lĩnh cộng sản tinh hoa của đỉnh cao trí tuệ, đang vinh quang dẫn dắt cả nước ta đi xuống thiên đường cộng sản, sao bọn dòi bọ nào lại phản động đến độ sắp tống cổ các ân nhân ra khỏi chỗ ngồi của các ngài là thế nào? Bọn thù phương bắc đang dối trá, vu cáo, bịa đặt, dọa nạt các ân nhân của ta để âm mưu gì đây !? Nhà nước ta lẽ ra phải có lệnh "bắt khẩn cấp bọn này" khẩn cấp gấp trăm lần bắt khẩn cấp những tên dòi bọ Lê Công Định, Trần Anh Kim, Nguyễn Tiến Trung mới phải !

 

 

 

                             

       

       Mà rồi nó lại nói có ý bảo trở về với tổ quốc, là thế nào ? Tổ quốc Việt nam ta ta ở, thế là trước sau ta vẫn trung thành với tổ quốc ta, sao nó lại xui dại, kêu gọi các ngài trở về với tổ quốc nào nữa , xem ra nó bảo nước Tầu là tổ quốc của các ngài chứ không phải Việt Nam là tổ quốc của các ngài cộng sản ! Nó nhắc các  ngài nên trở về với tổ quốc thực của các ngài là nước tầu ! Lạ !

 

Nó lại rêu rao vẫn trong cái bản văn ấy : nước Việt Nam là đất đai của nó, nay nó đưa đất đai ấy và các ngài trở về với tổ quốc cũ, thế là phải, và : nó chẳng cướp chẳng xâm đoạt đất đai của ai, hai bên Trung Việt thương thuyết công khai thuận mua vừa bán , ai bán ai mua cái gì trên bàn thương thuyết, có nhẽ nào mua bán ở bàn thương thuyết công khai là bán nước và mua nước ??? Nếu không phải thế, thì thuận mua vừa bán là "thuận mua vừa bán" cái gì? Hội nghị thương thuyết việc quốc gia lớn đến thế, mà lại là việc " thuận mua vừa bán " như mua mớ rau con cá ở chợ sao ? Đúng là nó vu cáo ! Đại vu cáo ! Nếu cái gì là của nó như nó quả quyết, thì nó cứ đòi mà lấy lại , sao nó lại phải " thuận lòng mua với cái giá mà bên bán đưa ra ", rõ là đại vu cáo , bọn này từ nghìn xưa vẫn nức danh về tài vu cáo, cứ vô liên sỉ mà vu cáo, mấy nghìn năm rồi mà thói tật cũ vẫn không chừa , thời buổi này mà vẫn còn sống và nghĩ theo cái cách hồi nghìn năm xưa để vu cáo các thủ lĩnh cộng sản VN là bán nước ! Láo toét !

 

Thôi thì, trước khi xét người , lần nữa ta lại xét ta trước đã xem sao ! Thiên hạ xầm xì to nhỏ , hay lớn giọng hô hoán, có khi cũng có vài phần đúng trong muôn vàn phần của việc.

 

Ta bình tâm suy nghĩ .

 

Ít ra cũng là đã hai lần, ngài chủ tịch nước khả kính công khai nói :" bỏ điều 4 Hiến pháp là ta tự sát ", điều 4 Hiến pháp nói cái gì, ai tự sát, tại sao lại tự sát, ai cũng biết ! Nước Việt nam ta anh hùng, nhờ có đảng mà đang từ súc vật được đứng lên làm người như lời đại thi sĩ thiên hạ bảo là đồ tể văn nô Tố Hữu viết, ơn tày trời như thế viết rõ vào điều 4 hiến pháp tự mình trao quyền cho mình khoe là … được vũ trang bằng học thuyết Mác-Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội… là phải quá rồi , bỏ điều 4 này đi làm gì, việc gì phải bỏ ? Cái gì hư, hỏng, thối, nát, cũ kỹ không còn dùng được việc gì nữa , để thì chỉ thêm chật chỗ làm hư thối lây sang các cái bên cạnh, thì mới đáng phải bị loại bỏ đi ; cái gì là tai hại, họa hại, gây độc, phá hại, chết chóc, đáng kinh tởm thì mới phải loại bỏ đi ; kẻ xấu xa đầy tội ác không thể nào cải tạo lại được nữa, thì phải loại bỏ nó ra khỏi cộng đồng xã hội, nghĩa là đem nó ra cho nó "tựa cột" ; lớn rộng ra và cao hơn tất cả là chế độ cai trị lạc hậu, chuyên quyền độc đoán hung tàn ác độc như bọn quân chủ láo lếu ngày xưa thì phải loại bỏ ; chế độ tham tàn lấy chém giết làm châm ngôn chỉ đạo như đám bọn Hitler, Mussolini, Togo, rồi Honecker, Saddam Hussein…, là bọn cầm đầu của nghiệt chế cai trị ngày nay phải tiêu diệt nó đi là đúng, và nhân loại đã làm, đã tiêu diệt nó rồi.

 

Còn đảng ta, một đảng ân nhân của Việt Nam, theo chủ nghĩa đầy thèm ước " làm theo khả năng, hưởng thụ theo nhu cầu" , dân chủ hơn thiên hạ dân chủ triệu lần, là chủ nghĩa ân nhân đi giải phóng cho cả nhân loại, hiến pháp nước ta dân chủ nhất thế giới đã ghi rõ ràng trong điều 4 về quyền độc tôn cai trị vĩnh viễn của đảng ta là rất phải , bọn dòi bọ dân chủ (lời của bọn Tầu) nào lại đòi bỏ điều 4 là sao ?

 

Khổ một nỗi : bọn đại thù phương bắc chính chúng nó cũng đang lâm nguy về cái nghĩa của điều 4 trong hiến pháp của các ông cộng sản VN, nó đang hết sức chạy chọt để làm theo hiểm kế của tể tướng Vương An Thạch xưa : đánh chiếm Đại Việt để hưng khởi lòng người , thoát cái nạn bị Hạ, Liêu áp bức…, nhưng nó hiểm độc gấp trăm lần tể tướng Vương An Thạch thời nhà Tống, nó hiểu rõ và không dám, không thể dùng đến trò gươm giáo mà công khai cướp Việt Nam được, cho nên nó xoay xở đủ trăm phương ngàn quỷ kế trong đó có cái kế "miếng thịt Tây Thi" để làm cho được cái việc nó nói là "thuận mua vừa bán" mà chẳng phải là thuận mua vừa bán một mớ rau trong gánh , mà tài tình ở chỗ mua một mớ rau được cả ruộng rau ba mẫu, mua con săn sắt được cả con cá ngừ đại dương 5 tạ ! Có mụ bán hàng nào lại tài giỏi về việc mua bán đến vậy, các cụ xưa có câu "buôn b… bỏ xọt " cũng không đến nỗi như thế ! Vậy mà nó nói có (và có thật) , nhâng nhâng mà nói như vậy ! Rõ buồn cười chả được !

 

Mưu hiểm của giặc nó chẳng thèm giấu kín, nhưng công khai mà tiến hành, lẽ nào các thủ lĩnh cộng sản anh hùng , đỉnh cao trí tuệ của ta lại không biết, không hiểu ra, không triệt tiêu nó đi, không cãi " Không ! Không ! No ! No ! Mẩu hẩu ! Mẩu hẩu!", mà lại " Ừ ! Iét ! Hảo lớ ! " để cứ nói mãi "Bỏ điều 4 hiến pháp là ta tự sát ", bọn đại thù của dân tộc ta nó còn vênh mặt hỏi " đểu " các ông : "… các đồng chí chạy đi đâu ? " Sao lại phải chạy , nước ta ta ở, kẻ tội phạm mới phải chạy trốn lệnh truy nã như bọn năm xưa bỏ của chạy lấy người ra biển đi trốn các ngài, các ngài có công lao đối với nước vẫn nói là nhiều hơn cả sao trên trời, công đức được thờ chung với đức Phật ở đền chùa, thế thì mấy con dòi bọ dân chủ là cái gì mà đến nỗi phải sợ mà chạy !? , để cho bọn tầu nó hỏi đểu " các đồng chí chạy đi đâu ?"

 

Nó xui các ngài chạy sang Tầu, nó bảo nước Tầu là tổ quốc của các ngài ! Không chạy sang Tầu như thầy trò ông vua Lê Chiêu Thống năm xưa, thì chạy đi đâu !?

 

Các ngài thủ lĩnh cộng sản, giả thử các ngài bỏ chạy sang tầu thật, thì 2 triệu đồng chí của các ngài phải tính sao ? Lẽ nào lại bỏ nhau trong cơn hoạn nạn vì dòi bọ dân chủ ! Bầu đoàn thê tử lôi thôi lốc nhốc đông đến vậy đường nào mà đi cho khỏi bị kẹt lối, xe nào mà kịp chở cho hết ! Bọn tầu nó bắt chước tổ tiên ta đánh " đòn tâm công " để làm cái việc "mua mớ rau được cả ruộng rau, mua con sắt để được con ngừ" , sao lại có thể để nó lừa được !

 

Chúng nó còn nói nhiều, nhiều điều nhiều việc lắm , nay chỉ nói một việc " các đồng chí chạy đi đâu ", để bênh các ngài !

 

Cũng lại nhắc để các ngài nhớ, vì trong cơn hoạn nạn vừa mua bán tấp nập vừa vì sợ hãi bấn quá thành ra các ngài u mê đi rồi quên mất, rằng : cánh cửa lớn, lớn lắm của dân tộc Việt Nam lúc nào cũng vẫn mở rộng để thương xót đón lại những đứa con hư hỏng tội lỗi, biết hối tội ăn năn quay đầu trở về với Tổ quốc Việt nam của nó, dân ta có câu "chín bỏ làm mười "  chứ thật ra năm bảy cũng sẵn sàng bỏ làm mười đấy . Đừng để cho câu hỏi đểu của giặc thù nghìn năm ám ảnh nữa " các đồng chí chạy đi đâu?",  mà hãy núp sau lưng mẹ Việt Nam , tình nghĩa bao la như trời biển của mẹ sẽ bảo vệ cho tất cả, dù là con ngoan hay con ngỗ ngược từng gây trọng tội rủa xả đào mồ cuốc mả tổ tiên, vu cáo chửi cha là đồ hiếp dâm uống máu bần nông , chửi mẹ là thứ quen lười biếng nghiện thói đĩ điếm, rồi đánh giết anh em… đối với mẹ thì những thằng nghịch tử ấy cũng đều dễ dàng được mẹ tha thứ ban phước bình an cho , việc gì cũng là chưa muộn, mà sẽ chỉ là quá muộn khi phải thực sự trả lời thuận theo câu hỏi đểu các đồng chí chạy đi đâu !? của bọn tầu đại thù phương bắc, về với mẹ chứ đừng chạy theo bọn đểu cáng ! Đừng làm trò cười nghìn năm cho người đời khiến các đời sau con cháu phải bảo : buồn cười chả được, như buồn cười chả được cảnh vợ chồng Honecker tan thây bên tường biệt  thự, như Saddam chui đầu vào dây thừng thòng lọng to tướng chứ không phải là dải lụa tam ban triều điển !

L.V.

…………………………………………………

BUỒN CƯỜI CHẢ ĐƯỢC

 

Xem Hoa Ngửi Hương

hay

Bát Cơm Cà

 

L.V.

 

 

Mưa như trút nước, đất trời mù mịt, thế mà ông già nhà quê ”Buồn Cười Chả Được"  cũng tới, tay cụp ô gãy 3 nan gọng, chân bê bết bùn đất khoắng khoắng vào vũng nước mưa, vào nhà bỏ khăn chữ "nhân" đội đầu gián nhấm , cởi khuy áo the thâm, ề à bảo Mưa quá, ngồi nhìn mãi bụi tre rũ rượi như con mẹ đi đánh ghen, xem tây-uy ngẫm nghĩ chẳng biết làm gì , mới lấy bút giấy của thằng cháu nội viết vài chữ , ý muốn đệ trình lên vua… vừa nói ông vừa luồn tay vào trong áo cánh cổ lá sen, lấy từ chỗ cạp quần ra xấp giấy mấy tờ cong cong theo vòng bụng phệ nóng hơi người, bảo Đọc đi xem sao !

 

Bảo đọc thì đọc, bèn mở giấy, hóa ra ông lão viết bằng bút chì, chữ lên chữ xuống, lại có những chỗ chắc là lấy ngón tay dấp chút nước bọt tẩy tẩy rồi viết lại, ông lại nói : Ông cha chữ nghĩa bia làng còn đề tên, rõ buồn cười đến đời mình đói ăn chữ nghĩa lại càng đói, nghĩ thẹn cả mặt ông cha !

 

Ông đói ăn đói chữ viết :

 

-một là, vững gốc nước, diệt tham bạo thì yên lòng người

-hai là, giữ đúng quy định, bỏ xách nhiễu thì kỷ cương không rối

-ba là, loại kẻ quyền thần để tránh họa cho nước

-bốn là, đuổi những kẻ tham nhũng , trừ tệ khoét đục của dân

-năm là, chấn chỉnh học hành, làm cho đạo lý sáng tỏ đất trời 

-sáu là, mở đường cho người nói thẳng, mở rộng cửa đón lời can ngăn như mở rộng cửa thành

-bảy là, kén quân chú trọng vào dũng lực không cần đẹp dáng

-tám là , phong tướng lấy người thao lược, không căn cứ vào thân phận

-chín là, khí giới  quý về bền sắc, không cần hoa mỹ lòe loẹt

-mười là, trận pháp cốt cho chỉnh tề, không cần khoa trương.

 

" Đấy là 10 điều bà cung phi Nguyễn Cơ, tự là Bích Châu, của vua Trần Duệ tông (1372-1377), bà là con quan Đại Thần, được phong Tả Cung Quý Phi, cung hiệu là Phù Dung, dâng lên vua, bà đã nhìn thấy triều chính suy vi, vận nước sắp đi vào đen tối, vua đọc rồi khen hay quá, ban khen chẳng hết lời, nói rằng: " không ngờ một người đàn bà lại thông tuệ đến thế, quả xứng đáng là một Quý phi tài ba của Trẫm !" , khen thì cứ khen , nhưng vua lại chẳng làm gì cả, mọi việc tồi tệ cứ tiếp tục !

 

Hậu thế bảo : bà là người phụ nữ đầu tiên dâng biểu can vua . Rồi vua muốn đem binh tướng đi đánh Chiêm Thành, bà hết sức can gián dẫn các truyện xưa để nói đại ý : nên lấy đức mà thu phục thiên hạ, tránh dụng bạo lực để ổn định nhân luân , vua vẫn không nghe, bà thở dài xin được theo quân "cho vẹn nghĩa vợ chồng" ; quân thủy của vua đến cửa biển Kỳ Hoa (Kỳ Anh) thì dông bão dữ dội, vua nằm mộng thấy Thủy thần xin vua ban cho một người vợ nếu không sẽ tác quái, bà Bích Châu tình nguyện hiến thân, khóc mà tâu vua : " Cái nguy sóng gió kia, chứng nghiệm đã báo trước; nếu không phải là oan khiên ngày cũ, tất cũng chướng nghiệp ngày nay; thiếp  không dám tham luyến hồng hoa, tiếc thân bồ liễu, xin được trả cho xong cái nợ trước mắt kia…" bà đã tình nguyện để vua và các binh tướng được bình yên, rồi bà nhẩy xuống nước tự trầm, dông bão tan ngay, biển yên sóng lặng, sách ghi hôm ấy là ngày 27 tháng Giêng năm Đinh Tỵ.

 

Gần một thế kỷ sau, vào năm 1470 vua Lê Thánh tông đem quân đi đánh Chiêm Thành, lại đến biển Kỳ Hoa, Bích Châu hiện lên dâng ngọc báo mộng kể việc xưa, xin được theo vua đi trận trợ giúp, truyện lạ là biển nổi sóng thi hài phu nhân gần trăm năm lại nổi lên dung nhan vẫn tươi đẹp, vua cảm động cho mai táng theo lễ hoàng hậu, lại phong thần là " Chế Thắng linh thần" , lập miếu để cho dân địa phương hàng năm có lễ tưởng kính người xưa."

                                                                                                        

Đấy là tóm lược một truyện trong Truyền Kỳ Tân Phả của bà Đoàn Thị Điểm (có tất cả 7 truyện), truyện người phụ nữ duy nhất trong quốc Sử tự cầm bút ngự sử , lại sẵn sàng hi sinh cả cuộc đời trẻ trung đầy phúc trạch để " giúp vua giúp nước ".

 

Mười điều khuyên vua — Kê Minh Thập Sách — không kể 4 điều nói về việc quân, 6 điều chính sự xưa nói cách xa sáu bảy thế kỷ nghe sao giống quá với những việc hôm nay ! Vẫn những " tai họa " ngàn đời không đổi khác ! Sáu điều tai họa triền miên cùm chân trói tay bịt miệng nhân dân , nhìn ra bốn phương hoàn vũ thấy các vua thiên hạ vâng lời dạy bảo của Tả Cung phi Bích Châu của vua Trần Duệ Tông thì quả nhiên nước yên, dân tình sung sướng , quốc gia được thiên hạ kính ngưỡng. Lại nhớ xưa , thời nửa trời cao mây đỏ rực, lê dân cũng đứng trên địa cầu mà hóa ra là sống trong địa ngục, ấy cũng bởi các bạo-đế lấy việc bịt miệng cùm chân trói tay bách tính làm quốc sách bạo tàn, để đến nông nỗi nhân loại lầm than, oán khổ ngút trời không con số nào ghi được hết !

 

Thế rồi, lưỡi rìu bén ngọn búa nặng tưởng là đốn ngã đập nát được hết ý chí của lê dân, thì lại một ngày hóa ra búa ấy đập sập tường ô nhục phá tan ngục tai ương, rìu ấy chặt đứt cùm chân xích cột tay, cạo sạch keo dán miệng, lê dân lại đứng lên bước đi giơ cao tay hát vang bài ca tự do . Bạo đế tan thây nát thịt, chết gục trong ngục tù, nghìn đời mang mãi tiếng ô uế.

 

Mây đỏ nửa trời nhạt hẳn chuyển sang xanh ngắt, nhân loại tưởng khắp nơi đã cười được cả, miệng nào cũng được nói tiếng nói của người, chân nào cũng được bước đi theo kiểu đi riêng hai chân của giống người, tay người tài hoa làm nên được cuộc sống hạnh phúc của bàn tay năm ngón tinh hoa của vũ trụ giữa muôn loài, nhưng " ráng chiều còn đỏ rực ở phương đông ", miệng mồm lại bị khóa chặt, bước đi vẫn bắt phải theo cách đi của thú vật, bàn tay phải bắt quyết kiểu yêu ma lạy phục, vì thế sáu điều khuyên vua về chính sự của đấng nữ thần hóa ra lại vẫn còn dội ầm ầm đến tận hôm nay !

 

Đời Trần bậc nữ lưu ngự sử tự nguyện nói : vững gốc nước, diệt tham bạo thì yên lòng người, đời Lê có học sĩ bảo : việc chính trị cốt ở chỗ yên dân , khuyên dạy của tiền hiền nay chẳng bằng gió thoảng, cho nên hiến pháp như sơn, quy định rành rành thế mà không giữ, tha hồ sửa đổi , kỷ cương nát bét, trên dưới một hành động tham lam nhũng nhiễu , con dân có khác gì như thỏ non nhốt chung lang sói ; cung phi tiền hiền nói vào tai vua : loại kẻ quyền thần để tránh họa cho nước, đuổi những kẻ tham nhũng , trừ tệ khoét đục của dân , danh sĩ Chu An dâng sớ hạch tội đòi chém 7 đứa gian nịnh thần để yên phép nước, vua điếc thì bỏ mũ cởi áo dài đai rộng về quê , ngày nay quan quyền tham nhũng nhiều như cỏ gặp mưa nhìn đâu cũng thấy; bậc nữ lưu cung phi còn biết dạy vua chấn chỉnh học hành, làm cho đạo lý sáng tỏ đất trời , hiền nho còn có lúc phải chấn chỉnh việc học hành để đạo lý soi tỏ trời đất, thì làm sao ngày nay xã hội nhiễu nhương khinh bạc kẻ sĩ mua chữ bán danh đến thế lại chẳng dẫn đến suy đồi đạo lý cho được, khiến cho đất trời tăm tối âm u , vua mắt không nhìn thấy việc nước việc dân, tai không nghe thấy trăm họ oán than gào thét, cứ một mực thiên hạ sai chỉ mình ta đúng mà quên Lê Ninh Tổ sư dạy bảo kẻ cầm quyền : ta bảo điều ấy của thiên hạ là sai, chính là ta đang sai…

 

Sai lầm cứ như cát ở đáy sông cuồn cuộn kéo đi với đủ thứ ô uế bồi dầy mãi lên, không làm sao xúc hết đi được nữa, tới lúc ấy thì làm sao tránh khỏi được tai họa nước tràn , sao lúc này lại vẫn còn cứ cố đi ngược lại điều ngày xưa đấng cung phi rót vào tai vua : mở đường cho người nói thẳng, mở rộng cửa đón lời can ngăn như mở rộng cửa thành , nói thẳng thì cho là nghe nhức tai buốt óc, can ngăn thì giận mà thấy chẳng khác gì như chịu dao sắc cắt vào da thịt ; tham tàn quen thói, bạo ngược thành tính, nợ nần chất cao như trăm núi, dài như trăm sông, đành là cửa ngục lại mở rộng thay vì mở cửa thành , xích lại khóa tay, cùm lại giam chân, miệng lại gắn nhựa trám thay vì quan lộ thênh thang thành không khép cửa tha hồ cho thiên hạ tự do đi lại ; mọi việc lỡ rồi, ngài Thích Ca bảo : quay đầu lại là thấy bến , nhưng biển ác đào mãi thì mênh mông mà bến ở xa quá chẳng thấy đâu, nên tiếng gọi dịu dàng của sĩ phu nghe xa xôi mơ hồ không làm sao hiểu được, mắt người vốn bị thay bằng mắt quỷ nhìn ra chỉ thấy sĩ phu lẫn đám dân đen toàn là phản động lăm le cướp ngai vàng, khu trục yêu ma, sợ mà không làm cách nào để dẹp được, thế là đành cửa thành lại đóng kỹ, gươm dao lại mài cho bén !

 

Đương đại sao chẳng nhớ việc xưa tổ tiên ta từng dụng đến tâm công để hàng phục thiên hạ, tổ tiên đời nào cũng ban ân sủng cho giặc cướp nước được sống mà về, lại cung cấp cho chúng cả thuyền ngựa tiền bạc , đối với giặc thù còn thế thì sao đối với con dân hiền hòa lại chỉ một mực cho vào ngục tù chỉ vì con dân đòi bỏ cùm chân tháo xích tay gỡ bỏ keo dán miệng !? Việc làm của người xưa vừa hiển hiện được đức lớn của người quân tử, vừa cho thấy trí sáng của nhà cầm quyền, ngày nay sao vua quan lại tàn nhẫn giam ngục tù chính những ưu tú mọc từ vùng đất hoang dã của các ngài lên thành những bông hoa quý, họ là những Nguyễn văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Tạ Phong Tần, rồi mới đây là Lê Công Định…, rõ ràng họ không phải là " bọn ngụy miền Nam phá hoại" mà là những hạt nẩy mầm mọc lên từ bùn tanh Mác-Lê mà lại tỏa hương thơm ngát! Sao lại muốn tru diệt những bông hoa quý ấy ? Cũng mới đây , bông hoa Cù Huy Hà Vũ con nhà nòi mọc từ đất Mác Lê nói gì, liệu tinh hoa này có sắp đi gặp Lê Công Định hay không ? Mai, mốt, còn những ai ?                

             

Tất cả những con người ấy chỉ có cái bút trong tay, không biết gì đến súng đạn, nhưng họ lại dũng mãnh đứng lên, vòi vọi như trẻ nhỏ làng Gióng ngày xưa, trong khi ấy thì vua quan có binh hùng tướng mạnh nức danh hoàn vũ, thì im lặng trước thế nước nghiêng ngửa vì giặc ngoài, không khéo lại sa vào trái ngược với 4 điều việc quân của Cung phi ngày xưa dạy vua : quân chú trọng vào dũng lực , tướng thao lược, khí giới bền sắc, trận pháp chỉnh tề . Quân thiện chiến, tướng thao lược, khí giới lợi hại, trận pháp huyền nhiệm thì giặc nào dám đụng đến nước ta, an bình thịnh trị vẻ vang thì phản động nào lại dám chống lại minh quân lương tướng !

 

Vua xưa có quý phi hi sinh tự trầm bảo là để  : Cái nguy sóng gió kia, chứng nghiệm đã báo trước ; nếu không phải là oan khiên ngày cũ, tất cũng chướng nghiệp ngày nay; thiếp  không dám tham luyến hồng hoa, tiếc thân bồ liễu, xin được trả cho xong cái nợ trước mắt kia… , nguy sóng gió nào, chứng nghiệm nào báo trước ? Oan khi ngày cũ là oan khiên nào, Chướng nghiệp ngày nay là những chứng nghiệp nào ? Vua quan ngày nay nhất định không hiểu chăng ??? Xưa có cung phi không tiếc thân bồ liễu thay vua để trả cho xong cái nợ trước mắt kia, nay là ai ?

 

Nhìn lại chẳng có ai làm cung phi trả nợ này thay được ! Lời phổ độ của Thích Ca xem ra còn thua cả gió thoảng đêm hè !

 

Nhái chữ người hiền xưa mà rằng : Than ôi ! Càn khôn trước đã bĩ, nay lại càng bĩ hẹp xấu thêm ; Nhật nguyệt trước đã tối, nay lại càng đen hơn mực đặc, muội đèn ; Từ đây dài thêm nguy cơ tháng ngày loạn lạc ; Từ đây nặng thêm nữa mối sỉ nhục vô cùng !  *

……

 

Đọc xong, ngơ ngác hỏi : Vậy chứ tiên sinh toan tính gì đây ? Ông già vơ khăn đội đầu gián nhấm chụp lên mái tóc hoa râm rễ tre, tay cài nút khuy sừng áo the thâm, xoa xoa bụng hơi to , bảo : Tính ăn nhờ bát cơm cà, nghe hỏi đâm đầy cả ruột, chả thiết ăn gì nữa ! Thế mà cũng đòi học trò, thế mà cũng không hiểu, rõ là học trò học troẹt .

 

Ông già đi bộ bốn năm chục cây số đội mưa lội bùn về Hà nội, hí hửng với suy tư của mình, lại nghĩ bát cơm cà pháo , thế mà chỉ một câu hỏi chẳng ra gì cũng thấy đầy cả ruột , ai nỡ để ông về, bèn cười nịnh : Học trò thì không hiểu, học troẹt thì hiểu chứ ! Chắc tiên sinh muốn đi xem mặt, ngửi hương mấy bông hoa quý chắc ! Ông lão cười " hì " một tiếng, bảo : Chả cần xem với ngửi ! Với lại ai cho xem. Muốn ăn bát cơm cà pháo thôi ! Rõ buồn cười chả được !

 

Rồi lại bỏ khăn, cởi áo.

 

* Càn khôn trước đã bĩ, nay lại mở rộng đẹp sao

   Nhật nguyệt trước bị tối, giờ đây trở lại sáng trong

   Từ đây mở ra thời cơ vạn đời thịnh trị

   Từ đây sạch hết nỗi sỉ nhục vô cùng…

     (Bình Ngô Đại Cáo – Nguyễn Trãi)

 

17-6-2009

L.V.

 

 

 




Trần Đức Trạch : Hố chôn người ám ảnh


Trần Đức Thạch

http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?t=16055

*

     Thời gian lặng lẽ trôi, tôi một chàng lính trẻ măng ngày nào bây giờ đã là một ông già với mái đầu hoa râm đốm bạc. Vậy mà tôi chưa nói được câu chuyện lẽ ra phải nói . Đôi lúc tôi âm thầm kể lại cho một số bạn bè tin cậy. Nghe xong ai cũng khuyên “Nói ra làm gì, nguy hiểm lắm đấy”. Và quả thật, sống trong xã hội chủ nghĩa quái đản này, người ta quen thói bưng bít sự thật. Sự thật không có lợi cho Đảng, cho Nhà nước chớ dại mà nói ra, bị thủ tiêu hoặc vào tù là điều chắc.
Tháng 04/1975, đơn vị chúng tôi (Sư đoàn 341 thường gọi là đoàn Sông Lam A) phối hợp với sư đoàn khác đánh vào căn cứ phòng ngự Xuân Lộc. Trận chiến quyết liệt kéo dài 12 ngày đêm. Tiểu đoàn 8 chúng tôi do hành quân bị lạc nên được giao nhiệm vụ chốt chặn. Nhằm không cho các đơn vị quân lực Việt Nam cộng hoà tiếp viện cũng như rút lui. Phải công nhận là sư đoàn 18 của phía đối phương họ đánh trả rất ngoan cường. Tôi tận mắt chứng kiến hai người lính sư đoàn 18 đã trả lời gọi đầu hàng của chúng tôi bằng những loạt súng AR15. Sau đó họ ôm nhau tự sát bằng một quả lựu đạn đặt kẹp giữa hai người. Một tiếng nổ nhoáng lửa, xác họ tung toé giữa vườn cam sau ấp Bàu Cá. Hình ảnh bi hùng ấy đã gây ấn tượng mạnh cho tôi. Tinh thần của người lính đích thực là vậy. Vị tướng nào có những người lính như thế, dù bại trận cũng có quyền tự hào về họ. Họ đã thể hiện khí phách của người trai nơi chiến trận. Giả thiết nếu phía bên kia chiến thắng chắc chắn họ sẽ được truy tôn là những người anh hùng lưu danh muôn thủa. Nhưng vận nước đã đi theo một hướng khác. Họ đành phải chấp nhận tan vào cõi hư vô như hơn 50 thuỷ binh quân lực Việt Nam Cộng Hoà bỏ mình ngoài biển để bảo vệ Hoàng Sa.
… Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân Lập thuộc huyện Cao Su tỉnh Đồng Nai bây giờ. ấp nằm giữa cánh rừng cao su cổ thụ. Đạn súng đại liên của các anh bộ đội cụ Hồ vãi ra như mưa. Là phân đội trưởng trinh sát, tôi dễ dàng nhận ra tiếng nổ từng loại vũ khí bằng kỹ năng nghiệp vụ. Chuyện gì thế này? Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu chẳng thấy, chỉ thấy những người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả rạ. Máu trào lai láng, tiếng kêu khóc như ri. Lợi dụng vật che đỡ, tôi ngược làn đạn tiến gần tới ổ súng đang khạc lửa.
– Đừng bắn nữa! Tôi đây! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây!
Nghe tiếng tôi, họng súng khạc thêm mấy viên đạn nữa mới chịu ngừng.
Tôi quát:
– Địch đâu mà các ông bắn dữ thế? Tý nữa thì thịt cả mình.
Mâý ông lính trẻ tròn mắt nhìn tôi ngơ ngác. Họ trả lời tôi:
– Anh ơi! đây là lệnh.
– Lệnh gì mà lệnh, các ông mù à? Toàn dân lành đang chết chất đống kia kìa!
– Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em “giết lầm hơn bỏ sót”. Bọn em được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm!
– Tôi mới từ đằng kia lại, không có địch đâu. Các ông không được bắn nữa để tôi kiểm tra tình hình thế nào. Có gì tôi chịu trách nhiệm!
Thấy tôi cương quyết, đám lính trẻ nghe theo. Tôi quay lại phía hàng trăm người bị giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đìa, máu chảy thành suối. Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vã kêu lên đau đớn. Tôi vực cụ vào bóng mát rồi dật cuốn băng cá nhân duy nhất bên mình băng tạm cho cụ. Lát sau tôi quay lại thì cụ đã tắt thở vì máu ra quá nhiều. Một chỗ thấy 5 người con gái và 5 người con trai bị bắn chết châu đầu vào nhau. Tôi hỏi người lính trẻ đi theo bên cạnh:
– Ai bắn đấy?
– Đại đội phó Hường đấy anh ạ!
– Lại nữa, tôi ngó vào cửa một gia đình, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó đã thả vào mâm một quả lựu đạn, cả nhà chết rã rượi trong cảnh cơm lộn máu. Tôi bị sóc thực sự. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ “Đi dân nhớ ở dân thương” mà thế này ư? Cứ bảo là Mỹ nguỵ ác ôn chứ hành động dã man này của chúng ta nên gọi là gì? Tâm trạng tôi lúc đó như có bão xoáy. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhận ra ngay những việc cân làm. Tôi tập trung những người sống sót lại. Bảo chị em Phụ nữ và trẻ con ra rừng tổ chức ăn uống nghỉ tạm. Cốt là không cho mọi người chứng kiến lâu cảnh r&ugrav
e;ng rợn này. Đàn ông từ 18 đến 45 tuổi có nhiệm vụ ra sau ấp đào cho tôi một cái hố. Trong ấp ai có xe ô tô, xe lam, máy cày phải huy động hết để chở người bị thương đi viện. Mọi người đồng thanh:
– Xe thì có nhưng dọc đường sợ bị bộ đội giải phóng bắn lắm!
– Không lo, có tôi đi cùng!
Tôi giao cho Nghê, một du kích dẫn đường vừa có bố bị bộ đội cụ Hồ sát hại:
– Việc lỡ như thế rồi, chú nén đau thương lại giúp anh. Thu hồi căn cước tư trang của những người đã chết sau này còn có việc cần đến.
Thế là suốt chiều hôm đó, tôi lấy một miếng vải đỏ cột lên cánh tay trái. Lăm lăm khẩu AK ngồi trên chiếc xe dẫn đầu đoàn lần lượt chở hết người bị thương ra bệnh viện Suối Tre. Tối hôm ấy, tôi cho chuyển hết xác người bị chết ra cái hố đã đào. Không còn cách nào khác là phải chôn chung. Trưa ngày hôm sau người ta mới dám lấp. Đây là ngôi mộ tập thể mà trong hoàn cảnh ấy tôi buộc lòng phải xử lý như vậy. Trời nắng gắt, để bà con phơi thây mãi không được. Một nấm mồ chung hàng trăm người lẫn lộn, không hương khói, không gì hết. Tôi cho dọn vệ sinh sạch sẽ những chỗ mọi người bị tàn sát. Xong, mới dám cho đám phụ nữ và trẻ con ở ngoài rừng về. Tôi vượt mặt cả cấp trên để làm việc theo tiếng gọi lương tâm của mình. Bằng mọi lỗ lực có thể để cứu giúp đồng bào. Tưởng thế là tốt, sau này nghĩ lại mới thầy hành động của mình giống như sự phi tang tội ác cho những anh bộ đội cụ Hồ. Thú thật lúc ấy tôi vẫn còn một phần ngu tín. Cũng muốn bảo vệ danh dự cho đội quân lính cụ Hồ luôn luôn được ca ngợi là tốt đẹp. Tuy vậy tôi bắt đầu nghi ngờ “Tại sao người ta giết người la liệt rồi bỏ mặc. Chẳng lẽ họ mất hết nhân tính rồi sao?”

Công việc xong tôi gặp Nghê để chia buồn. Tôi không tránh khỏi cảmgiác tội lỗi. Nghê đã đưa xác bố về chôn tạm ở nhà bếp. Tội nghiệp Nghê quá. Lặn lội đi theo cách mạng, ngày Nghê dẫn bộ đội về giải phóng ấp lại là ngày bộ đội cụ Hồ giết chết bố Nghê. Nghê “mừng chưa kịp no” đã phải chịu thảm cảnh trớ trêu đau đớn. Nghê buốn rầu nói với tôi:
Hôm qua nghe lời anh. Em thu được hai nón đồng hồ, tư trang và căn cước của những người bị giết. Sau đó có một anh bộ đội bảo đưa cho anh ấy quản lý. Em giao lại hết cho anh ấy để lo việc chôn ba.

– Em bị thằng cha nào đó lừa rồi. Thôi quên chuyện đó đi em ạ. Anh thành thật chia buồn với em. Chiến tranh thường mang đến những điều không may tột cùng đau đớn mà chúng ta không thể lường trước được. Anh cũng đang cảm thấy có lỗi trong chuyện này.

 

* *

Click the image to open in full size.
Nhà thơ yêu nước Trần Đức Thạch

Ông Trần Đức Thạch, sinh năm 1952, sinh sống tại tỉnh Nghệ An. Ông là nhà thơ, Hội viên hội nhà văn tỉnh Nghệ An. Ông bộc lộ những tư tưởng dân chủ từ những năm 1990 và nhiều sáng tác của ông đã đi thẳng vào đề tài đòi hỏi tự do sáng tác cho văn nghệ sĩ, phê phán chế độ chính trị độc đảng, đòi hỏi dân chủ, nhân quyền cho nhân dân. Một trong những tác phẩm của ông được nhiều người chú ý là hồi ký có tên ”Hố Chôn Người Ám Ảnh”, kể lại trận đánh ở ấp Tân Lập, vào cuối tháng 4 năm 75, mà ông đã tham dự với vai trò đội trưởng trinh sát Quân đội Nhân dân.
Để biết thêm lý do tại sao chính hệ thống tòa án Hà Nội lại vi phạm chính các điều khoản trong luật tố tụng hình sự của chế độ đối với nhà thơ Trần Đức Thạch, quí thính giả / độc giả có thể gọi đến Chánh Văn Phòng Tòa Án Nhân Dân Thành Phố Hà Nội, ông Nguyễn Việt Hưng, ở số +844-3825