Tống Phước Kiến : Tản Mạn VIỆT-KIỀU

                                                                  VIỆT-KIỀU

Tống-Phước-Hiến

 

    

 

 

Cuộc chiến-tranh vừa qua, nhiều người lầm tưởng đã kết thúc vào ngày 30.4.1975 và bị đánh giá là cuộc nội-chiến Nam Bắc, mà Cầu Hiền-Lương vắt qua giòng sông Bến-Hải, trên Vĩ-tuyến 17 là biểu-tượng cho một giai-đoạn xót-xa của lịch-sử. Thật ra, cuộc chiến-tranh đó vẫn được tiếp-diễn, nhưng theo thế-trận khác và ý-nghĩa cũng được nhận-định lại đúng đắn hơn !

     Sau 30.4.1975 Cộng-sản phơi bày chân-tướng là một lũ phỉ quyền tham ác lưu-manh; nên Người Quốc-Gia giành đoạt được chính-nghĩa và tiến-hành cuộc chiến-tranh giải-phóng Dân-tộc hầu có điều-kiện đưa đất-nước đến phồn thịnh, nhân-dân được tự do. Trận quyết đấu nầy, người Quốc-Gia đang thắng-thế, từng bước chứng-minh Cộng-sản Việt Nam là tội-phạm nhân-loại, là tội-đồ Dân-tộc. Nhưng bỗng nhiên hàng-ngũ chúng ta có hiện-tượng giao-động, địch biết tránh né, thoát hiểm. Thì ra, chúng ta đang bị một loại “nội thù” rất nguy-hiểm mà mọi người thường gọi bằng tên nghe khá hiền lành “Việt-kiều” !.

     Tất-cả những người Việt Nam, nếu không là bọn có quyền thế sống hoan-lạc trên nỗi thống-hận Dân-tộc, và nếu có điều-kiện đều phải đành lòng chấp-nhận gian-nan, nghiệt-ngã, nguy-hiểm, đau nhục để đào thoát ra đi. Sóng nước đại-dương, rừng sâu, hải tặc, thổ-phỉ…… không cản ngăn được ý chí. Họ đào thoát khỏi Cộng-sản dưới nhiều hình-thức như vượt biên, vượt biển, con lai, bảo-lãnh đoàn tụ, cựu tù nhân (H.O), Cựu nhân-viên Chính-phủ Hoa-Kỳ (U.11), thuyền-nhân hồi hương (ROVR); đào tỵ khi xuất ngoại như công-tác, biểu-diễn nghệ-thuật, thi đấu, công-nhân trong chương-trình"xuất-khẩu lao-động"; ngay cả những du-học-sinh hay du-lịch… v.v…phần đông trong thâm tâm họ cũng mơ ước cho toàn dân Việt Nam thoát khỏi ách nạn Cộng-sản.

     Ðối với Việt-cộng, những người hội đủ điều-kiện được tái định-cư ở nước ngoài khi trở về Việt Nam đều bị xếp vào loại người có danh xưng là “VIỆT-KIỀU”.

     Nếu lấy 30.4.1975 làm thời-điểm, thì trước đó đã có nhiều đợt người Việt Nam đến sinh sống tại nhiều nước khác với nhiều lý-do:

 

A.- Tỵ-nạn do bị bức hại:

 

     I/ Thời nhà Lý có hai đợt ra đi của hai Thân Vương nhà Lý và cùng trôi giạt vào nước Cao-Ly (hay còn gọi là Triều-Tiên hoặc Ðại-Hàn):

 

     1/ – Ðại-Ðô-Ðốc Kiến-Hải-Vương Lý Dương-Côn cùng chiến thuyền

            binh-sĩ thuộc quyền, gia-nhân và gia-thuộc ra đi vì sợ bị phía bà

            Chiêu-Hiếu Thái-Hậu và Cảm-Thánh Hoàng-Hậu giết chết trong

            âm mưu tranh đoạt ngai vàng cho Hoàng-tử Thiên-Tộ (Tức vua Lý-

            Thần-Tôn).

 

     2/ – Các Ðô-Ðốc Kiến-Bình-Vương Lý-Long-Tường, Bình-Hải-Công

            Lý-Quang-Bật cùng hạm đội dưới quyền và khoảng 6.000 người

            vì tránh họa diệt tộc của Thái-Sư Trần-Thủ-Ðộ trong mưu-đồ

            tiếm-đoạt Vương quyền nhà Lý cho nhà Trần.

 

    II/ Thời nhà Nguyễn cũng có nhiều đợt với nhiều lý-do, đa số cư ngụ

            tại Bangkok Thái-Lan:

 

     1/ – Nhóm cùng bôn tẩu theo Nguyễn-Ánh (tức vua Gia-Long), vào cuối

            Thế-kỷ thứ 18.

     2/ – Nhóm theo Thiên-chúa-giáo lánh-nạn sát đạo dưới thời Minh-Mạng,

            Thiệu-Trị(1820 –1847).

     3/ – Nhóm thuộc hạ của Cụ Phan-Ðình-Phùng trốn giặc Pháp vào khoảng

            1895.

     4/ – Nhóm theo Cụ Phan-Bội-Châu (1908 – 1909).

 

B.-Vì những lý-do khác:

 

     Bị Thực-dân Pháp lưu-đày, ép buộc trong chương-trình mộ dân, gia-nhập Quân-đội Liên-hiệp Pháp, du-học và không trở về hoặc xuất bôn chiến-đấu giành chủ-quyền cho Tổ-Quốc. Phần đông lưu-trú tại Pháp hay các Quốc gia thuộc Pháp, hoặc Trung-Hoa, Cao-Mên. Ai-Lao. Ngoài ra còn có một số ít định-cư tại những Quốc-Gia khác vì nhiều lý-do.

 

    Trước khi đất nước rơi vào tay Cộng-sản, những người có nguồn-gốc Việt Nam, đang sinh-sống ở nước ngoài được gọi là Kiều bào để phân-biệt những sắc dân khác trú ngụ trên lãnh-thổ Việt Nam như Ấn-kiều, Hoa-kiều, Pháp-kiều. Nên khi Cộng-sản gọi những người Việt Nam đang định-cư ở nước ngoài là Việt Kiều đã hàm chứa ý-nghĩa những người nầy không còn là người Việt Nam. Số phận Việt Kiều chơi-vơi giữa người Ngoại Quốc và người Việt Nam tùy theo từng trường-hợp, nhưng bao-giờ Việt Kiều cũng bất-lợi kể cả trường-hợp so-sánh giữa Việt Kiều và những người thuộc các sắc dân khác cùng vào lãnh-thổ Việt Nam trong cùng thời-gian và cùng có lý-do phạm pháp giống nhau.

 

C.- So-sánh giữa Việt-kiều và ngoại-kiều:

 

    1/-Giống nhau: Tất cả mọi ràng buộc về pháp-lý, hành-chánh, thuế khóa, kiểm-soát; những quy định gắt gao về giá trị kim ngạch hối xuất. Tóm lại không có sự khác biệt về phương-diện kiểm-soát quản lý và những gì thuộc về kinh-tế, tài chánh.

 

    2/-Khác nhau : Nếu vì bất cứ lý do gì có liên-quan đến pháp-lý thì ngoại kiều được chi-phối bởi luật-pháp và thói quen mà quốc-tế đã chuẩn-nhận. Nhưng trong trường-hợp nầy thì Việt Kiều bị xem là " Công-dân Việt Nam”. Nghĩa là chúng thông-báo, hoặc xử phạt tùy theo ý chúng.

 

     Chưa Quốc-gia nào có chính-sách kỳ-thị và ty-tiện với Kiều bào của mình như ngụy-quyền Cộng-sản Việt Nam. Dưới mắt chúng, Việt Kiều là thành-phần nguy-hại cho sự tồn tại chế-độ chúng, mặc dầu Việt Kiều cũng là con bò sữa giúp chúng hồi sức, đồng thời Việt Kiều cũng là những kẻ vong thân, nên Việt Kiều bị Việt Cộng xem như là những kẻ nô-lệ dùng để kháng-cự và tấn-công các tổ-chức yêu nước chân chính. Tóm lại, Cộng-sản Việt Nam xem khinh, xử -dụng sai khiến Việt Kiều nhưng lúc nào cũng rắp tâm hãm hại Việt Kiều .

 

     Khi nền kinh-tế kiệt quệ, Cộng-sản thử nghiệm chính-sách chiêu-dụ Việt Kiều bằng nhiều hình-thức như: Gởi tiền, gởi quà, trở về thăm thân-nhân, du-lịch, hợp-tác, đầu tư làm ăn tại Việt Nam.

 

     Có khá nhiều trường-hợp những Người Quốc-Gia chân-chính rất khổ tâm khi phải gởi tiền hay phải về Việt Nam vì tình-cảm, vì trách-nhiệm đối với thân-nhân, đồng-bào, đang lâm cảnh thiên-tai, lao đao cơ cực, hay đồng đội bị lăng nhục: xin được chia xẻ những hoàn cảnh cần có sự cảm-thông ấy. Ðồng thời cũng xin chân-thành nghiêng mình cảm tạ, ngưỡng-mộ những anh-hùng trở lại quê hương đối diện trực chiến với quân thù với quyết tâm lật đổ bạo-quyền Cộng-sản Việt Nam.

 

     Ðối-tượng câu chuyện hôm nay là những Việt Kiều trở về trên tư-thế của kẻ "hãnh-tiến", loại "áo gấm về làng"; những kẻ đi tìm hoan-lạc trên nỗi đau thương bất hạnh của đồng-bào, đồng đội; những kẻ ích-kỷ manh tâm đồng-lõa với Cộng-sản bất chấp lương-tâm, làm chậm hoãn ngày bạo quyền sập đổ. Hãy nhìn lại Việt Kiều đã lưu lại dấu vết gì với đồng-bào, đồng đội trong nước:

 

D.-Việt-kiều đã làm đồng-bào, đồng đội trong nước thêm tủi nhục, cơ cầu:

 

     Một Mỹ-kim có giá-trị tương-đương khoảng trên 20.000 đồng Việt Cộng nên Việt Kiều tiêu xài hoang-phí làm ảnh-hưởng vật giá gia tăng trong khi tiền lương không gia tăng. Tầm cách biệt giữa người có hay không có thân nhân hoặc thành-phần sống bám theo ảnh-hưởng Việt Kiều dài ra và cao thêm. Ðồng tiền ấy cũng xô đẩy những hạng người nầy với Việt Cộng gần nhau hơn và từ dó, hình thành ra giai-cấp mới gọi là liên-minh thống-trị. Ðồng tiền Việt Kiều cũng là nguyên-nhân chủ-yếu của các tệ-nạn hối-lộ tham nhũng, mãi-dâm, trộm cướp, cờ bạc dẫn đến bất công áp bức, và dĩ-nhiên nạn-nhân vẫn là lương dân nghèo khó.

 

E..-Việt-kiều giúp cho Việt Cộng chạy tội vi-phạm nhân-quyền :

 

     Dù vô tình, thiển cận hay có toan tính, Việt Kiều tung những thông-tin, những hình ảnh phiến diện, biện hộ cho Cộng-sản; làm lu mờ chính-nghĩa, làm hàng ngũ chống Cộng bị ngộ nhận, bị trở ngại. Dưới nhiều hình-thức như hợp-tác, đầu tư, cố-vấn, giao-lưu “văn-hóa, nghệ-thuật”…, và dù khoác chiếc áo “tình thương, cứu-trợ…”. Việt Kiều vẫn là lực-lượng tiếp-sức hữu-hiệu cho bọn Việt Cộng. Bởi vì chính bọn Việt Cộng mới là kẻ được thụ-hưởng còn những người cùng khổ là đại đa-số người dân Việt Nam nghèo đói, khốn cùng chỉ được làm “vật nhân-danh”, thậm chí còn tủi nghèo cơ cực hơn, và bọn Việt Cộng càng phè phỡn tàn ác hơn. Thế nhưng chưa bao giờ Việt Kiều dám nhìn nhận sự ấu-trĩ, hèn nhát, phản-bội, và bất nhân của họ.

 

     Tùy thuộc vào những gì Việt Kiều có và những gì Việt Cộng cần mà bọn chúng đổi thay sách lược. Sách lược hay chính sách là chiến-thuật. Chiến-lược là : trấn-lột là trả thù không bao giờ thay đổi ! Hãy đi ngược thời-gian để thêm lần nữa nhận-diện Việt Cộng đổi thay về cái gọi là chính-sách đối với Việt Kiều.

 

F.-Việt-Kiều là Phản-Quốc:

 

     Cộng-sản xem những người vượt biên, vượt-biển trốn chạy chúng là phản quốc, phản-động, phản bội, là cặn bã, là bọn quen ăn bám, là vong bản, đĩ điếm, lười biếng v.v… không một hình-dung-từ xấu xa nhơ bẩn nào mà VC không dùng để ám chỉ, mô tả những người nầy, và dĩ-nhiên Việt Cộng cũng có chính-sách trả thù. Nếu không thoát được thì họ có thể bị bắn chết, bị hãm hiếp (nếu là nữ giới), bị lao tù đầy ải, tài sản bị tịch-thu. Bị gây muôn trùng khó khăn trong đời sống như thân-nhân bị giam giữ, bị điều-tra, vợ con, cha mẹ, anh chị em bị kềm chế quản-lý, bị kỳ thị … Và cuối cùng chỉ có tiền và vàng mới may ra những áp-lực những khe khắt được nới lỏng nhưng cái tội Phản-Quốc vẫn còn đó, chờ cơ-hội lên án và trừng phạt.

 

G.- Việt-Kiều là khúc ruột nối dài:

 

     Khi nền kinh-tế trì-trệ, tài sản Quốc gia bị Việt Cộng đục khoét tham nhũng; lầm than, thống-hận vượt tràn qua sức chịu đựng toàn dân, hội đủ những điều-kiện làm cuộc bạo loạn. Việt Cộng liền nhớ ra và cải danh bọn “Phản-Quốc” kia thành Việt Kiều; rồi hóa thân cho Việt Kiều thành “Khúc ruột nối dài”. Sau thời gian dè dặt thử-nghiệm, Việt Cộng thấy rằng còn có thể khai-thác tận-dụng phần bên trong của cái khúc ruột nối dài nầy. Và từ đó, thượng tầng đảng Mafia đỏ hình thành bộ phận Kiều-Vụ. Nhiệm-vụ chủ-yếu của Kiều Vụ là nghiên cứu tìm ra phương cách gom góp ngoại tệ, khả-năng, trí-tuệ của Việt Kiều hầu giữ vững chiếc ghế quyền-lực, để túi tham được phồng thêm. Bộ-phận Kiều Vụ không những chiêu dụ Việt Kiều về thăm, làm cái gọi là từ thiện mà còn về mua bán đầu tư, thực hiện chương-trình giao lưu làm nền tảng cho bọn tư-bản đỏ đi ra, bọn phản-bội đi vào. Chúng kết nạp bọn vong thân, bọn bất lương rồi tổ-chức những bọn nầy thành lực-lượng khuấy phá, tạo hỏa mù làm mờ đi chính-nghĩa, làm nản lòng Người tâm huyết.

 

     Nhưng hạnh-phúc không bao giờ đến với kẻ phản-bội! Không phải đó là lời răn đe mà còn là kinh-nghiệm, không những ở tình trường mà còn ở nhân-cách. Thật vậy, người Việt Nam định-cư nước ngoài tuy vì nhiều lý-do nhưng lại cùng một nguyên-nhân là kinh-tỡm Cộng-sản, họ cũng là chứng-nhân xác nhận bọn ngụy-quyền Cộng-sản Việt Nam là quân vô lại, bất-nhân, bạc-ác không đáng để được gọi là NGƯỜI nữa. Hầu hết, trước khi ra đi Việt Kiều đều ít nhiều ấp ủ:

 

Một ước mơ : Cộng-sản phải đổ

 

     Một hoài bão: Nhân-dân Việt Nam được sống đúng với giá-trị con NGƯỜI.

 

     Thoát được xiềng ách Cộng-sản, họ sẽ thay mặt đồng bào, đồng đội còn lầm than cơ cực, còn bị kềm kẹp để tố cáo tội ác Cộng-sản Việt Nam trước lương-tâm nhân-loại. Ước-mơ và ý-chí của họ thật đáng yêu và đáng kính. Họ đã làm rúng động lương-tâm loài người, và Nhân-loại cũng đã nghiêng mình cảm phục những Người Tỵ-Nạn Cộng-Sản Việt Nam họ đã từng được:”thế giới ngưỡng-mộ như những anh-hùng”.

 

     Nhưng rồi vì một số trong những người Tỵ-nạn Cộng-sản Việt Nam năm xưa ấy đã nhẫn tâm trở giáo chém anh em cùng chung chí-hướng, họ phản-bội ngay cả ước mơ ban đầu của chính họ. Và chắc chắn rằng họ sẽ nhận lại hậu quả từ chính những người từng là đồng cảnh, cũng từng là đồng-tâm, đồng-bào, đồng đội và cũng chính ngay từ kẻ họ đang qùy gối cúi đấu. Sự phản-bội đã có hậu-quả xảy ra. Tương-quan giữa hậu-quả và nguyên-nhân là tỷ-lệ thuận.

 

H.- Loại Việt Kiều áo gấm về làng :

 

     Mang tâm địa của kẻ hãnh-tiến nên chúng lấy sự đau xót, thương hận số phận bẽ bàng kém may mắn, hay sự mơ ước của những người vất vả nghèo khổ để tự mãn, để huênh-hoang, kiêu căng và thích thú. Chúng bất chấp đạo lý tối thiểu để thỏa mãn hoan-lạc dục vọng, chúng thú tính ngay cả những trẻ vị thành niên (lắm khi là con em của thân nhân, bè bạn, đồng đội năm xưa). Thế nhưng chúng cũng rất hèn hạ với bọn cán-bộ Cộng-sản để an toàn. Chính bọn Việt Kiều nầy, phần đông đã cung-cấp tin-tức, vu khống người Việt hải-ngoại cho Việt Cộng, biện-hộ và đồng-lõa sự tham bạo của Việt Cộng với nhân-dân trong nước. Khi trở lại nơi định-cư, chúng rỉ tai tuyên-truyền, nghe ngóng để báo cáo. Bọn Việt Kiều vô lại nầy tình-nguyện làm nô bộc không công, làm con chó giữ nhà và đánh cắp tài sản của người khác, có khi Việt Kiều cống nạp hoặc hoảng sợ trước quyền lực mà cúi đầu phủ phục trước mũi giày Cộng-sản hoặc a tòng với cộng sản trong những mưu-đồ bất chính. Thời gian qua, một số trong bọn nầy đã bị Việt Cộng cướp đoạt tài sản qua dàn dựng hoạt cảnh tai nạn lưu thông, du đảng xã hội đen; có tên bị thanh-toán bởi ghen tương.

 

I.-Việt-Kiều nhân-danh tình thương:

 

     `Tình thương và lòng nhân-ái, Quê-hương và Tổ-quốc luôn trên đầu môi chót lưỡi bọn Việt Cộng, Việt Kiều. Kẻ lưu-manh tàn bạo thường che giấu chân-tướng bằng mỹ ngữ. Nên nạn nhân thiên tai, người nghèo khổ tật nguyền, những đồng đội ngày xưa oanh liệt nay gãy cánh bất hạnh lại bị bọn Việt-cộng liên minh với Việt Kiều bất lương kinh-doanh. Lấy tình thương làm bình phong. Nếu bị vạch mặt, chúng sẽ lẩn trốn với tấm thẻ bài khẩu hiệu không cấm vận tình thương (nói theo ngôn ngữ của Nhật-Tiến). Có người còn tính đến cả chuyện xây nhà, xây trường học, đào giếng, trả tiền lương cho cô giáo,thầy giáo, mở trường dạy nghề, xóa đói giảm nghèo v..v…(như của Nguyễn xuân Bảo hay của Vũ thành An – nghe đến đây Cộng-sản vừa ngạc-nhiên vừa mừng!)

 

     Ðây là trách-nhiệm của ngụy-quyền Cộng-sản, toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước có nghĩa-vụ bắt buộc chúng phải trả lại quyền sống, quyền làm Người cho Dân Việt. Tại sao kinh-tế Quốc-doanh bao giờ cũng ghi nhận thua và ngân-sách Quốc-gia phải bù lỗ nhưng chúng không cho giải tư ?

Bởi vì, toàn-bộ các công-ty Quốc-doanh phải đài thọ cho cá-nhân và toàn gia-đình của non 500 ủy-viên trung-ương đảng vừa hưởng bổng lộc suốt đời, vừa có tiền gởi ở ngoại quốc để thủ thân khi có biến động, vừa phải chi cấp cho khoảng 2.000 du học sinh là con cháu bọn cán-bộ.

 

Theo sự tiết-lộ của "Tổng công-ty Xuất khẩu hải sản Miền Nam Seaprodex" (đơn-vị trực tiếp chi trả mọi chi-phí cho Mai-chí-Thọ, và tên Ðại-tá quản-gia của y, cho Vũ-đình-Liệu và một số quan chức đỏ khác) thì cứ 4 tháng 1 du học sinh (loại được du học do lý lịch) phải đóng cho trường học (College hay University) khoảng 1.500 USD học phí, tiền chi tiêu (ăn ở, xe cộ, bảo-hiểm…) 1.500 USD nữa. Như thế, cứ mỗi 4 tháng, chỉ riêng cho con cháu bọn cán-bộ đang du học thì toàn dân Việt Nam phải móc ra khoảng 6 triệu USD. Có biết nỗi niềm nầy không hỡi phường bất lương

 

J.-Việt-Kiều văn hóa, văn-nghệ:

 

     Loại Việt Kiều nầy trở về khúm núm bợ đỡ xin áo cơm (như Hương Lan, Hoài Linh, Lệ Thu, Chí Tài, Chế Linh, Phượng Mai, Ý Lan…).Nhưng áo cơm không đủ cho nô bộc, có đâu cho lũ phản trắc. Bọn nầy bị lừa, chưa về thì háo-hức, lúc về bị khó khăn và trở ra bị chê bai là hương sắc tàn phai, là rẻ tiền, là phản giáo dục, là phi nghệ thuật (xem Thời-luận số ra ngày 12 và 19/8/2000) và đương-nhiên loại Việt Kiều nầy không tránh khỏi bị Người Việt Tỵ-nạn vốn là những khách hàng đang nuôi sống họ trách cứ hoặc tẩy chay.

 

          Chưa về, cứ tưởng mình ngon

          Về rồi cúi mặt như con chó hèn.

 

     Hay

          Ngậm đầy một miệng bẩn nhơ

          Nhổ ra e thẹn, nuốt vào thối tha

          Việt kiều về nước hát ca,

          Thân con chó ghẻ lê la gầm bàn.

 

     Ước mong các ca-sĩ, các trung-tâm băng nhạc không dẫm lên nỗi đau của đồng bào dù nhìn với chiều hướng nào.

 

k.-Việt-Kiều về hơp tác kinh-doanh:

 

     Bọn nầy là những tên thương lái vô lương-tâm, chúng biết đồng-bào, đồng đội nghèo khó, cần tiền, phải nhẫn nại, chịu đựng, nên chúng móc ngoặc với bọn cường quyền chèn ép bóc lột hà hiếp đồng-bào. Những vụ làm sỉ nhục công-nhân Việt Nam như bắt quỳ, đánh giày lên đầu, phạt trừ lương……những chủ Việt Kiều nầy có thái-độ gì không ? Thưa không, rất rõ ràng là không !

 

     Dưới mắt bọn Việt Cộng thì Việt Kiều phải là vật hy-sinh: Để bảo-vệ manh mối làm ăn, để tỏ thái-độ quyết-liệt với nhau khi nội-vụ bị phanh phui, để giữ bí mật lưu manh thương trường, lập tức Mafia Việt Cộng xử tử Việt Kiều để bịt đầu mối như vụ bà Việt-kiều Nguyễn Thị Hiệp ở Canada, hay vụ tống vào tù để trấn lột như Việt-kiều Trịnh-vĩnh-Bình ở Hòa-Lan với số vốn bị tước đoạt lên tới 20 hoặc 30 triệu Mỹ-kim; và Việt Kiều Lưu-hùng-Sơn tức Sonny Lưu 55 tuổi trú tại vùng Little Sài-Gòn Nam California, Hoa-kỳ đang bị “rắc rối” vì mang số tiền 25 triệu đô-la về làm ăn và đang quỵ lụy khẩn cầu được bỏ của cứu lấy thân !

 

     Thực tế người dân trong nước quá bi thương khốn cùng. Đồng-bào căm hận Việt-kiều đã đóng vai Việt-gian, đồng lõa với Việt-cộng, gieo bao đau thương tan tác thãm-nạn, nên trong nước có câu ca-dao mới như sau:

 

          Việt-Gian, Việt Cộng, Việt-Kiều,

          Ba thằng Việt ấy, tiêu-điều Việt Nam.

     Hay :

          Việt-gian, Việt-cộng, Việt-kiều,

          Ba thằng Việt ấy, đem bêu thằng nào ?

          Việt-kiều, Việt-cộng, Việt-gian

          Ba thằng giặc ấy, thằng nào cũng bêu.

 

 

     Việt Kiều tại Pháp cần lưu ý :

 

     Ðể chấm dứt câu chuyện trao đổi hôm nay, tôi xin lược trình bài phóng-sự của ký giả Xuân Mai báo áp phê số 4 tại Paris :

 

     Ông Nguyễn Minh Tuyền, 59 tuổi, định-cư tại Pháp năm 1980 với lá đơn có lời lẽ chân thành thống-thiết như sau :

 

"Nếu tôi ở lại, nhà cầm quyền CSVN sẽ bắt giam, đánh đập và bỏ tù tôi không có ngày ra. Vì lý-do nhân-đạo, tôi trân-trọng thỉnh-cầu nước Pháp vui lòng chấp-thuận cho tôi được tỵ-nạn chính-trị, sống tạm dung trên mảnh đất tự-do nầy, và tôi chỉ trở về xứ cũ, khi nào Quê-hương tôi không còn duy trì chế-độ Cộng-sản”.

 

Nhưng ông Tuyền đã phản-bội tư-cách tỵ-nạn của ông liên-tục từ năm 1995 đến Tết Canh-Thìn 2.000 tới 7 lần (Chôn bà nội 3 lần, 2 lần chôn bố và 2 lần chôn mẹ mà không hề xin phép OFPRA (Office Francais de Protection des Réfugiés et Aptrides – Cơ-quan bảo-vệ những người tỵ-nạn và vô Tổ-quốc tại Pháp) hoặc giấy Sauf-Conduit (hộ-chiếu đặc-biệt) của Cảnh-sát địa phương.

 

Ngày 26.7.2000 ông Tuyền và 544 người Việt khác được OFPRA gởi thư thông-báo rút lại thẻ tỵ-nạn với lý-do : "Ông tự-ý trở về xứ cũ, khi chế-độ độc-tài Cộng-sản chưa chấm dứt, nhưng không hỏi ý-kiến hoặc thông-báo cho cơ-quan chúng tôi biết, để bảo-vệ sinh mạng cho ông, tức là ông đã từ bỏ quyền tỵ-nạn chính-trị, không cần đến sự che chở của chúng tôi nữa. Chiếu theo đìều I khoản A-2 của Hiệp-định Genève ngày 28.7.1951, chúng tôi thu hồi lại thẻ tỵ-nạn. Ðồng thời cũng trình lên Cao-Ủy Tỵ-Nạn Liên-Hiệp-Quốc, kể từ hôm nay, OFPRA không còn chịu trách-nhiệm với ông, về tình-trạng cư-trú, xin việc làm, hưởng trợ -cấp xã-hội, theo diện tỵ-nạn chính-trị”.

 

Ðược biết từ năm 1988 đến tháng 7 năm 2000, tổng số người Việt lâm vào tình-trạng tương-tự là 22.417 người.

Theo lời ông M.Motu thì người tỵ-nạn có quyền trở về xứ cũ trong trường-hợp đặc-biệt như con cái, cha mẹ, anh chị em ruột bị bịnh nặng, đang hấp hối, chết… Trong các trường hợp đó người tỵ-nạn có thể đến Préfecture sở tại xin cấp Sauf-Conduit. Sẽ phạm luật nếu đến tòa Ðại-sứ Việt Cộng xin visa trước khi có hộ-chiếu đặc-biệt.

 

Tên trưởng-phòng cấp chiếu-khán Việt Cộng rất đểu cáng khi giải-thích vấn-đề nầy : "nhà nước Việt Nam rất có thiện-chí trong vấn đề hàng tháng cung cấp danh-sách ghi nhận tất-cả người Việt Nam mang Titre de Voyage (thẻ thông-hành) lên sứ-quán xin nhập cảnh cho Préfecture biết để Préfecture thông báo lại cho OFPRA. Chúng tôi hợp tác việc ấy với chính-phủ Pháp là nhằm mục-đích chứng-minh cho dư luận Quốc-tế thấy rằng, bọn Việt-kiều nầy lếu láo, chạy qua đây vì lý-do kinh-tế, kiếm việc làm, chớ không phải vì nhà nước chúng tôi đàn áp, bắt bớ, tra tấn, giam cầm, chà đạp nhân-quyền như bọn họ đã từng vu-khống”.

 

Và một giới chức cao cấp trong bộ Ngoại-giao Pháp mạnh-mẽ phản-đối :

 

     – Chính-phủ Pháp không bao giờ hại người vô tội như thế. Chính-phủ Việt Cộng từ lâu, qua các trào Võ-văn-Sung, Mai-Văn-Bộ, Trịnh-ngọc-Thái, Nguyễn-chiến-Thắng và Nguyễn-mạnh-Dũng đã xem người Việt Nam là thành-phần cực-kỳ phản-động, cần phải triệt-hạ, khéo-léo áp-dụng chính-sách gậy ông đập lưng ông” .

 

    – Dễ dãi trong việc cấp chiếu khán cho người Việt tỵ-nạn về thăm nhà, dù thừa biết rằng, họ không có quyền. Ðây là cách thức giúp người tỵ-nạn phạm pháp, để một ngày kia họ sẽ bị OFPRA rút thẻ ty-nạn.

 

    – Sau khi cấp chiếu khán bừa- bãi, tòa đại-sứ lại ra thông-cáo cho Bộ Nội-Vụ Pháp biết rõ tên tuổi từng người xin cấp visa về Việt Nam .

 

    – Một khi bị rút thẻ ty-nạn, họ bị mất luôn thẻ thường-trú (Carte de séjour). Muốn xin việc làm phải có thẻ Lao-động (Carte de travail). Nếu muốn cư-ngụ trên 3 năm phải trình Passport của CSVN. Như thế người tỵ-nạn đang được sống Tự-do, bỗng trở thành công-dân Việt Cộng, đặt mình dưới sự kiểm-soát của CSVN cho đến mãn kiếp.

 

     – Chính-phủ CSVN cũng phải hiểu rằng, tán trợ, hoặc giúp đỡ người phạm pháp, cũng phạm tội đồng-lõa. Cấp visa cho người tỵ-nạn tức là cố ý phạm luật bang giao giữa hai nước. Chúng tôi nghĩ, đã đến lúc nên đặt lại vấn-đề nầy với chính-phủ CSVN”.

 

     Ðồng-bào trong Nước đã đầy ắp thống khổ và căm-hận. Chấm dứt ngay những con người manh-tâm mang "lòng Việt gian" trong chiếc áo Việt Kiều. Những hình ảnh nêu trên chắc cũng đủ thức tỉnh lương tâm một số người,nếu có và còn muốn trở thành VIỆT KIỀU.  

Tống-Phước Hiến

    




KHÔNG MỘT LỜI THAN THỞ ….Mừng bác Đông Anh

Chiều Chúa Nhật, 3/09/2014 một Buổi tiệc Sinh Nhật và Đoàn tụ rất đặc biệt của gia đỉnh anh Đông Anh Nguyễn Đình Tạo đã được các con, cháu anh tổ chức thật trang trọng, đông vui tại nhà hàng Dynasty, trong khu Grand Century Mall, thành phố San Jose, với sự tham dự của trên 200 thân hữu và bà con.
Kính mời Quí Vị cùng chia vui với gia đình và anh Tạo, một cựu Trung Tá trong QL/VNCH, cựu Thi Đoàn Trưởng Cơ sở Thơ Văn Lạc Việt với bút hiệu Đông Anh. Sau đây là một vài hình ảnh trong Đêm Mừng Đoàn tụ và Sinh nhật :



Và một số hình ảnh trên Youtube :





Chúc Một tuần vui,

mpd

CHÚC MỪNG THƯỢNG THỌ

 

Nhìn ba thế hệ đẹp như tranh

Giáp Ngọ tân niên mã đáo thành

Trưởng lão Thi Văn Đàn Lạc Việt

Tướng quân Nguyễn Thị Tộc Đông Anh

Thay lời bằng hữu câu Trường Thọ

Mượn tiếng nhân gian chữ Phước Lành

Chị ấy đùa vui “Thơ với Thẩn”

Mấy ai đây được bảng Thi Nhân

 

Ngô Đình Chương

THI SĨ ĐÔNG ANH 80

Bác Tạo hôm nay đã tám mươi
Suy ra thấy khỏe , sức hơi lười
Lên non không dám trèo qua ải
Xuống núi chẳng thèm lội suối bơi
Ấy vậy cầm nghiên thơ xuất chảy
Thì ra mực hết viết không  lời
Mong rằng bác vẫn như thông đứng
Tình vẫn triền miên vạn cuộc chơi.

Chinh Nguyên 
San Jose March 9, 2014

Mừng bác Đông Anh

 “Thơ hát nói của Ngô Sĩ hùng”

 Mưỡu

Trăm Mười có bác Đông Anh
Quan năm quận trưởng, bỗng thành Tù nhân
Chín năm Việt Cộng nó hành
Khắc thơ vào óc, để̉ dành sau in

Nhập đề

 Đến Mỹ chân ướt chưa ráo
 Ông quận ủi đồ, bỏ báo liền tay

 Xuyên tâm

Thi đàn Lạc Việt im tiếng lâu nay
Bác lên cầm trịch danh bay hoàn vũ

 Khổ Thơ

 Thơ chín năm tù ngục, Chim di trú
 Hoa giáp Đông Anh, Ngựa vực hồn thơ

 Khổ xếp

 Hai mươi lăm năm bác chờ
 Đón con, cháu, chắt bây giờ đã xong
 Ưu tư nay đã nhẹ lòng
 Thượng thọ tám bó, bác không mấy già

Khổ rãi

 Đông Em thỏ thẻ Đông Anh
 Tình chàng ý thiếp, nay thành Đông con

Khổ kết

 Trăm Mười mừng bác vuông tròn
 Con tim khỏe lại, thơ còn chứa chan

 

 

KHÔNG MỘT LỜI THAN THỞ

                                                              Giao Chỉ, San Jose.

 

Chẳng bao giờ cạn đề tài.

      Năm mới bạn hỏi tôi sao ông tìm đâu ra chuyện mà viết mỗi tuần. Đáp rằng viết về con người và chuyện đời thường thì nghìn năm không hết chuyện. Lại hỏi rằng sao ông viết toàn về tướng lãnh, viết toàn về thượng cấp. Từ quốc trưởng, đại tướng cho đến thủ tướng. Cãi lại ngay. Mới đây viết bài về người lính không có số quân là phóng viên chiến trường Nguyển Cầu. Tuần trước viết bài tiễn đưa người lính không có đơn vị là ký giả Cao Sơn. Đó là 2 anh chàng đặc biệt của cộng đồng ta ở San Jose mà khi các anh đi rồi quả thực không có người thay thế.

       Rồi mùa nào thức ấy, tôi viết về 19 tháng 6, về 30 tháng 4, về ngày lễ độc lập của Mỹ, ngày của các tổng thống Hoa Kỳ. Tôi cũng viết về văn nghệ, về các sách xuất bản. Chẳng bao giờ cạn đề tài. Duy có một điều đáng lưu ý là tác giả vẫn luôn luôn hướng về cái tôi rất đáng ghét. Museum của chúng tôi. Cơ quan của chúng tôi. Cộng đồng của chúng tôi. San Jose của chúng tôi. Bằng hữu của chúng tôi. Khóa của chúng tôi. Vân vân.

        Những điều bất tiện đó chính là những bài tự ca nhàm chán mà đôi khi chính các ông chủ báo đăng bài cũng phải đại xá mà cho in.

       Bây giờ lần này, chúng tôi cũng lại xin viết thêm về câu chuyện  ông bạn cùng khóa của chúng tôi.

Bao nhiêu gian khổ trần gian.                                                                 

Trong số anh em cùng khóa Cương Quyết Đà Lạt 54, một số ít sống còn và chạy thoát năm 75, còn lại đa số tù đầy và dù qua được Hoa Kỳ thì cũng đã trải qua rất nhiều gian khổ. Nếu phải xếp hạng 10 anh vất vả nhất thì nhà thơ Đông Anh, Nguyễn đình Tạo nằm trong số “Top ten”.

        Trước hết phải nói qua về khóa Cương Quyết. Nếu bạn gặp ông Hùng Xùi ở Milpitas, người sẽ phát ngôn rằng bọn chúng tôi là Cương Quyết giả. Nguyễn mộng Hùng vào trường 1953 mới là khóa Cương quyết thực. Đó là khóa Tư Thủ Đức. Hùng Xùi đã nói cho bà Ngô  quang Trưởng biết. Chị biết không, tôi nằm giường trên. Trưởng nằm giường dưới. Ra trường cùng đi nhẩy dù. Cùng đội mũ đỏ. Số nó làm tướng. Còn tôi vẫn là Hùng Xùi. Đó là ý kiến của phe Cương Quyết chính gốc. Tuy nhiên nói gì thì nói. Khóa của chúng tôi là Cương Quyết số 2, tức là khóa Tư phụ. Sau khóa chính đã đành, lại thuộc về thành phần gửi qua học bên Đà lạt. Đã là Cương Quyết giả, lại thêm qua làm con nuôi trường Đà Lạt. Anh em Đà lạt chính gốc oai hùng cũng coi chúng tôi là Đà Lạt giả.

       Dù là Cương Quyết phụ hay Đà lạt giả thì khóa chúng tôi cũng nỗ lực kết đoàn và xây dựng cho nhau để trở thành 1 khóa tên tuổi. Ngay từ đầu thập niên 80 đã sớm thành lập hội. Anh chị em ta đến với nhau tại hải ngoại và gửi quà về thăm nuôi các bạn ở quê nhà. Qua thập niên 90, bạn cùng khóa ra tù cũng theo chân hải ngoại mà cả gan họp khóa ngay tại Việt Nam.Lúc đó Nghiêm Tôn làm hội trưởng chui. Anh chị em họp lần nào cũng có đại diện từ Mỹ về tham dự.

Tiếp theo anh thì vượt biên anh thì HO lần lượt qua Mỹ gần đủ mặt.    
   
  
      1
0 năm trước họp 50 năm quân số chụp hình đứng dài suốt hè phố Bolsa.
     10 năm sau họp 60 năm sao chỉ còn có bây nhiêu.  Anh ơi, anh đâu rồi…

   Đại hội vĩ đại rực rỡ tên vàng khóa chúng tôi tổ chức vào năm 2004 kỷ niệm 50 năm. Đầy đủ 8 trung đội trình diện. Các lữ đoàn trưởng nhẩy dù và TQLC đánh trận Quảng trị cùng với các bạn hiện diện trên khắp quân khu, khắp chiến trường, đủ mặt anh hùng. Chúng tôi tưởng rằng thế mạnh như vậy, càng về sau sẽ càng ngon lành hơn. Tưởng vậy mà không phải vậy. Cuối năm 2013 tôi qua Úc họp khóa với anh em, tổng cộng chỉ hiện diện còn có 2 người. Còn 2 bạn xa họp qua điện thoại. Tết năm 2014 tôi xuống Nam Cali đại hội toàn khóa Cương Quyết Đà Lạt để kỷ niệm 60 năm vào trường. Hình ảnh rầm rộ tươi vui của 10 năm trước không còn nữa. Hiện diện toàn khóa năm xưa hơn 300 sinh viên sĩ quan quê Hà Nội, bây giờ chỉ về họp mặt có 8 gia đình. Trong số này có 4 đơn vị đã là góa phụ. Chụp hình kỷ niệm xong, chúng tôi còn phải đi ra nghĩa trang chụp hình mộ bia của 5 anh bạn để có đủ danh sách 1 tiểu đội Cương Quyết Đà Lạt 1954.

     Chính vì hình ảnh họp khóa miền Nam kỷ niệm 60 năm rất thiếu quân số nên chúng tôi muốn tổ chức thêm buổi họp tại miền Bắc. Thực may mắn đầu tháng 3-2014 ông bạn Nguyễn đình Tạo tổ chức ngày xum họp gia đình, anh em chúng tôi xin họp khóa ké vào ngày riêng tư của bạn Tạo để có dịp gặp nhau cho trọn tình đồng khóa. Gia đình ông họp mặt đãi cơm Tàu chín món mà lại không chào bàn. Anh em tham dự không cần chuẩn bị bao thơ. Bà con thân hữu đáp ứng từ Hà Đông mà lên đến Lâm Đồng, Đà Lạt. Từ quận nhất Sài gòn đến quan quận của 3 chi khu miền duyên hải. Quận Nhơn ngồi với quận Hùng.Toàn là bạn Cương Quyết của một thời khói lừa.

        Bây giờ rất cần giới thiệu với bà con về khổ chủ là một nhà thơ của chúng tôi. Cũng như đa số Cương Quyết Đà Lạt, bạn Nguyễn đình Tạo  quê huyện Đông Anh, Bắc Kỳ. Một thân một mình vào Đà Lạt 1954 và từ đó theo quân đội miền Nam. Quê hương miền Bắc mịt mù xa thẳm suốt 21 năm. Cho đến thời kỳ 70, trung tá Tạo từ liên đoàn trưởng địa phương quân qua làm quận trưởng Bảo Lộc. Ngày đứt phim, ông đi cùng toàn bộ gia đình bên vợ và binh sĩ di tản về Hàm Tân, rồi qua Vũng Tàu. Đơn vị tan hàng, gia đình ông gồm có vợ con cùng với đại gia đình bên vợ cứ nấn ná, chần chừ, chờ đợi. Mất hẳn cơ hội di tản sau cùng tại Vũng Tàu.. Ông Tạo nói rằng rất xui là ông không gặp bạn cùng khóa Ngô quang Thiều. Nếu gặp thì ông đã đi cùng với tiểu đoàn 5 nhẩy dù cùng lúc với anh Thiều đang chỉ huy hậu cứ. Vì vợ con nên cơ hội bỏ qua, cộng sản bèn bỏ tù ông quận Tạo 9 năm dài. Trong tù, thi sĩ Đông Anh gặp lão thi sĩ Hà thượng Nhân, được tặng câu thơ bất hủ :"Những mái đầu rất cao, không một lời than thở." Dù rằng cụ Nguyễn Bính cũng đã viết rằng: "Bao nhiêu đau khổ ở trần gian, trời đất dành riêng để tặng chàng"

 Không một lời than thở

            21 năm quân ngũ, dù vất vả nhưng vẫn còn nhiều giây phút vinh quang. Chín năm tù ngục mới quả thực là nín thở qua sông. Nhưng qua được con sông, bạn tù khi tự do còn tìm được chút hạnh phúc gia đình. Anh Tạo không may mắn như vậy. Khi được thả về Sài Gòn người vợ năm xưa đã lỡ bước sang ngang. Chàng trai xứ Đông Anh chỉ còn một con đường đi tới. Anh chọn đứa con nhỏ thương yêu nhất đi theo. Anh chọn con đường gian khổ nhất để lên đường. Ngồi tù 9 năm, duyên phận bạc bẽo chẳng còn gì để mất. Cha con đi đường bộ qua Cam Bốt. Chuyện vượt biên đường biển, có người đi lại 10 lần. Đi đường bộ mười phần chết chín. Đi không thoát mà trở về thì không ai còn can đãm đi qua cánh đồng chết xứ Cam Bốt lần thứ hai. Chuyến đi thất bại, bố con dẫn nhau về. Lần sau đi đường biển. Cậu con bé dại cũng biết sợ nên không đi. Ai ngờ kỳ này bố đi thoát. Qua đảo rồi qua Mỹ báo tin về. Thằng con bé nhỏ bèn theo người ta xuống tàu. Suốt 5 năm dài, ông Tạo theo dõi tìm con. Sau cùng đành tin rằng cả con tàu chìm ở biển Đông. Niềm hy vọng sau cùng của ông Tạo nằm dưới đáy biển. Ôm mối đau thương mất đứa con thông minh đẹp đẽ nhất. Đứa con út của ông quận Bảo lộc. Trải qua 5 năm đầu tại Hoa Kỳ, thương con quay quắt, ông sống cô đơn tìm về sinh lộ.

     Ông Tạo ngược xuôi dọc duyên hải Cali Nam Bắc rồi lên cả Seatle, Porland. Ông tìm cách làm đủ mọi nghề. Những ngày mưa sớm rét mướt ông đi bỏ báo. Thiên hạ bỏ báo có vợ con phụ việc xếp báo, ném báo. Ông đi 1 mình. Những ngày nắng ông làm nghề giặt ủi. Cầm bàn ủi quay mặt vào tường xem ra hơi chán. Ông muốn lấy chổ quay mặt ra đường. Anh thợ Mễ giơ 2 ngón tay ra dấu phải thâm niên 2 năm công vụ mới được chọn chỗ ngó ra cửa sổ.

       Ông nhớ đàn con nheo nhóc ở Việt Nam nhưng vẫn phải chờ cho đủ 5 năm mới được lập hồ sơ đoàn tụ.

Một đời đoàn tụ

        Khi ông trời ngó lại, ông quận Tạo sống đủ 5 năm vất vả rồi cuộc đời chuyển ra giai đoạn mới. Về công việc ông trở thành cán sự xã hội, về tình duyên ông gặp lại người bạn xưa từ Đà lạt, về thời gian những lá đơn đoàn tụ đầu tiên được phép gừi đi.

        Anh em chúng tôi họp khóa tại quận Cam. Một lễ cưới hết sức đơn giản hình thành. Ông cựu trung tá quận Bảo Lộc đãi trà Lâm Đồng, giới thiệu người cũ Đà Lạt hôm nay là tân giai nhân. Thay vì tiệc cơm tàu 9 món, chúng tôi ăn cơm hộp vào buổi trưa hè. Nhà thơ Đông Anh bây giờ có nàng thơ Đông Em đứng bên cạnh.

        Bỏ lại 21 năm chinh chiến địa phương quân. Bỏ lại 9 năm ngục tù tăm tối. Bỏ lại những chuyến vượt biên vượt biển. Bây giờ ông làm huấn đạo cho dân tỵ nạn, ông làm thơ tình và ông bắt đầu công việc dài hạn là làm đơn đoàn tụ.

       Để có thể đem được toàn thể con cái qua Mỹ, ông đã lần lượt chờ đợi suốt 25 năm. Từ cuối thế kỷ 20 cho đến đầu thế kỷ 21, những đứa con lần lượt qua hết, Đứa độc thân, đứa có gia đình con cái. Tuy nhiên phước bất trùng lai, họa vô đơn chí! Người con trai lớn của ông, niềm hy vọng sau này quyền huynh thế phụ, thay cha mà trông nom các em. Anh con trai đoàn tụ sớm, nhưng mấy năm trước lại qua đời vì ung thư. Thi sĩ Đông Anh có bài thơ khóc con hết sức cảm động. Lá vàng khóc lá xanh.

Toàn gia xum họp

    

Nhưng hôm nay là câu chuyện có hậu. Toàn gia họ Nguyễn quê gốc Đông Anh đoàn tụ. Ông Tạo tâm sự là đời tôi khá lên từ ngày lấy nhà tôi hiện nay. Gia đình ông với trên 15 người đoàn tụ. Tất cả đều ở vùng San Jose. Nhà nào cũng có con. Lại có đứa có cháu, gọi là chắt của ông bà.

       Con chắt gái năm nay 3 tuổi. Cháu đại diện cho thế hệ thứ ba. Xem ra như vậy, ông Tạo ngày nay không có điều gì phàn nàn.

       Cụ Hà thượng Nhân ra đi mấy năm trước, để lại cho ông Đông Anh và các bạn thi đàn Lạc Việt 2 câu thơ tuyệt vời:

                    Những mái đầu cất cao, Không một lời than thở.

 Nhưng ông Đông Anh không than thở thì lại đến bà Đông Em thở than.

                    Nhà em không làm ăn gì cả

                    Suốt ngày chỉ thơ thẩn

                    Chết em rồi

 

                                                                    Giao chỉ , San Jose        

 




Câu Chuyện Văn Thơ 04

Câu Chuyện Văn Thơ 4

Hà Thượng Nhân

 

Các cụ ngày xưa làm thơ đôi khi kêu lên “Bần ư nhất tự”. Nghèo vì một chữ. Cả bài thơ đã thành thì viết được mà mỗi một chữ cũng không tìm ra. Ngày xưa Giả Ðảo chỉ vì sự chọn lựa giãu chữ “Thôi” và chữ “Xao” mà để lại cho hậu thế một giai thoại văn chương.

 

Bay giờ viết một bài tứ tuyệt, Ðông Anh cũng thấy bí:

 

Vì một đôi vần thao thức mãi

Nằm yên nghe chữ gọi đêm đen

Hình như hồn mộng bay đôi ngả

Còn lại quanh đây những nỗi niềm

 

Những ai từng làm thơ, thế tất phải gặp đôi lúc những hoàn cảnh này. Có khi viết thì như bay trên ngọn bút. Có khi ngồi hàng giờ mà trang giấy vẫn trắng. Làm thơ hoặc có lúc như lên đồng. Viết dễ dàng là một chuyện, nhưng không phải lúc nào cũng dễ dàng được. Tôi nhớ hồi đi tù cải tạo, có viết một bài thơ trong giấc ngủ. Ðó là bài “nghe tu hú kêu”. Ban ngày đi lao động, chợt nghe tu hú kêu, tôi giật mình nhớ lại những vườn vải mênh mông mạn Hà Trung. Rồi tôi làm thơ trong giấc ngủ. Sáng ngày thức giấc nhớ nguyên cả bài, bèn chép ra giấy. Bài thơ ấy lâu ngày không còn nữa. Tôi mong một bạn tù cải tạo nào đó từng ở trại 6 Nghệ Tĩnh có giữ được, cho tôi xin lại bài ấy. Hoặc gửi về cho tôi ở San Jose, hoặc gửi E-mail cho Ðông Anh là tôi sẽ nhận được. Tôi xin thành thật cảm ơn trước.

 

Ông Ðông Anh không bị hứng trào ra đầu ngọn bút, mà ông bí. Không gì khổ hơn bí chữ, bí vần, có khi chỉ vì một chữ mà thức trắng đêm:

 

Hình như hồn mộng bay đôi ngả

Còn lại quanh đây những nỗi niềm

 

Tìm chữ đã khó, khó đâu bằng vượt biển:

 

Một chiếc thuyền con giữa biển xanh

Sóng dồi, gió dập gỗ mong manh

Trăm người đói lả nằm chen chúc

Mơ đến tự do, ước đất lành

 

Trong thế kỷ chúng ta chưa có ai tìm tự do lại vất vả như người Việt Nam, một chết một sống. Xông vào đất chết để tìm sự sống. Ấy vậy mà bây giờ chúng ta có cả một cộng đồng hàng mấy triệu người, mỗi năm gửi về người thân ở quê nhà hàng mấy tỷ Ðô La. Oán thay Cộng Sản. Vui cũng cám ơn Cộng Sản. Không có ông Hồ Chí Minh, làm sao người Việt chúng ta có thể lạc lõng khắp năm châu, nói đủ các thứ tiếng, còn giỏi hơn cả tiếng mẹ đẻ. Âu đó cũng là cái giá phải trả cho tự do.

 

Vì tự do nên bỏ cửa, bỏ nhà, bỏ mồ mả tổ tiên, bỏ cha mẹ, xóm giềng đi tha phương. Cái đau đớn nhất của người Việt Nam là già không được chết ở chốn quê hương. Thế mà người Việt Nam chịu chấp nhận. Chấp nhận để:

 

Cứ thấy hoàng hôn chiều sắp tắt

Là lòng thao thức nhớ quê hương

Cô đơn đất khách nhìn đêm tối

Mỗi bước chân đi mỗi đoạn trường

 

Rồi lúc vượt biên thì:

 

Sóng vỗ rì rào ai khóc than

Hỏi ra mới biết tiếng hồn oan

Dân nào rải rác thây trên biển?

Khắp thế gian này, chỉ Việt Nam

 

Khắp thế gian này chỉ Việt nam thôi. Ðã thê thảm chưa? Bây giờ cũng là Việt nam, cùng cha mẹ mà ba anh em nói ba thứ tiếng. Một người ở Bắc Âu, một người ở Pháp, một người ở Mỹ. Tổ tiên nào không đau lòng. Cho nên mới có biểu tình cờ vàng đầy đường khi có ông lớn Cộng Sản sang Mỹ. Dân Mỹ đầu tiên cũng lấy làm lạ, nhưng rồi lâu ngày họ hiểu. Không phải là người Việt Nam quá khích đâu, mà vì Cộng Sản gây nên nhiều tội lỗi quá. Họ muốn hô to cho cả thế giới cùng hiểu. Những thứ tập tành độc tài như Chavez sẽ còn làm khổ dân Venezuela nhiều. Biết ra thì đã muộn. Ðâu mà có Cộng Sản là nước ấy khốn nạn. Ðó là một định luật bất di bất dịch. Trung Hoa, Bắc Hàn, Cuba, Cao Miên đâu đâu cũng vậy. Ðầu thế kỷ trước chủ nghĩa Cộng Sản coi như một thứ tiến bộ. Từ khi bức tường Bá Linh xụp đổ thì Cộng Sản tàn rồi. Chỉ còn những nước quá nghèo đói, những người dân quá nghèo khổ thì họa hoằn còn nghĩ đến họ thôi. Như Columbia, như Argentina. Họ khó còn thí nghiệm chủ nghĩa này ở đâu hơn là nơi đó.

 

Sóng biển vơi đầy cơn thác loạn

Nghìn năm còn vọng tiếng than van

 

Tiếng sóng biển sao mà đối với thuyền nhân chúng ta ghê gớm vậy. Vơi đầy cơn thác loạn! Bể không còn ví với lòng mẹ nữa. Lòng mẹ lúc nào cũng bao dung. Chứ lòng mẹ nào mà ngàn năm còn vọng tiếng kêu than?




GIẢI CHUNG KẾT TÀI NĂNG TRẺ XUÂN KỶ SỬU (Duy Văn)

GIẢI CHUNG KẾT TÀI NĂNG TRẺ XUÂN KỶ SỬU

 

 

 

 

Duy Văn   
 

Hơn 3 tháng ròng rả, cuộc thi tuyển chọn tài năng trẻ bộ môn ca nhạc tại nhà hàng Hà Nội Corner trong khu thương xá Grand Century Mall đã tiến đến giai đọan chung kết.

Giải chung kết tài năng trẻ ca nhạc được ban tổ chức thực hiện tại hội trường Hội trường South Hall (Location 10) số 435 trên đường S. Market thành phố San Jose, cùng với thời gian Xuân Kỷ Sửu ( 2009 Year of The Buffalo) của người Việt.

Nhac sĩ  Hiệp San và thân hữu

Với 13 thí sinh đã được sàng lọc qua các giai đọan: sơ kết, bán kết .

Các thí sinh ai nấy đều hăm hở và hy vọng mình sẽ chiếm được giải này. Nhiều thí sinh đã có sự chuẩn bị một cách tích cực để khi dự thi mong được đọat giải.

Tuy gọi là giải “Ca nhạc Tài Năng Trẻ”, nhưng theo lời của ban tổ chức “giải” không có giá trị tuyệt đối trên phương diện nghệ thuật, và vật chất cao, nên thí sinh cũng đừng cho là quan trọng “ tuyệt đối” mà phải hao phí sức khỏe để có thể không đến tham dự được phần chung kết, như nhiều thí sinh đã không đến dự các giai đọan trước đây.

Ban tổ chức nói rằng, cuộc thi nào cũng có kẻ thắng người thua, nhưng thắng, thua không có nghĩa là một ý thức sát phạt, mà các thí sinh cần phải nhớ là cuộc thi nó thuộc lãnh vưc văn hóa của người Việt Nam.

Ban giám khảo gồm những nhạc sĩ: Vũ Đức Nghiêm, Phạm Mạnh Đạt, Nguyễn Hồng Thịnh và Trần Quảng Nam. Các MC Đan Hùng, Đoan Trang và Sơn Văn…

Mỗi thí sinh được trình bài một bản nhạc tự chọn và thể loại nào cũng được. Giám khảo chấm thi không tuyên bố là dựa trên tiêu chuẩn nào để chấm đối với một thí sinh. Nhưng theo kinh

Ban Giám Khảo và thân hữu

nghiệm người viết bài này cũng là người đã có dịp chấm thi các giải văn học khác, cùng với sự tham khảo với một số các nhạc sĩ đã từng chấm thi thì thường dựa trên tiêu chuẩn: giọng hát, nhịp nhàng, và phong cách trình diễn…

Qua hơn 2 tiếng đồng hồ , với 13 thí sinh và với 13 bản nhạc đủ mọi thể loại. Kết quả cuối cùng thí sinh Nguyễn Đình Cát với bài “ Xuân Này Con Không Về” đã trúng giải nhất với số điểm trung bình: 17.12. Giải nhì lọt vào tay của thí sinh: Anh Thư với bài: “Yêu Hết Con Tim” với số điểm trung bình 17.00. Hai giải ba đồng hạng về với hai thí sinh Bảo Trâm và Uyên Thi với bài “ Khúc Hát Thanh Xuân” và “ Vùng Trời Bình Yên” với số điểm trung bình 16.88.

Các thí sinh không rơi vào 3 giải đặc biệt trên và được xếp theo thứ tự gồm có thí sinh: Văn Anh Thoại , Tuyết Nga, Từ Yên, Nhật Thanh, Anh Duy, Vị Tha, Ngọc Hoa, Hoàng Anh và Ái Loan.

Các thí sinh trúng giải được nhận lãnh phần thưởng của ban tổ chức. Trao giải thưởng gồm các nhạc sĩ trong ban giám khảo. Các thí sinh không trúng giải cũng được nhân món quà lưu niệm.

Kết thúc giải chung kết “ Tài Năng Trẻ Môn Ca Nhạc” các thí sinh cùng đồng ca bài “ Ly

NS Nguyễn Hồng Thịnh, Trần Quảng Nam, Phạm Mạnh Đạt & Vũ Đức Nghiêm

Rượu Mừng “ để chuẩn bị đón Xuân Kỷ Sửu đang từ từ về với cộng đồng người Vịệt San Jose.

Hầu hết các thí sinh đều có ý thức rằng :tham dự cuộc thi, tức là mình đã góp bàn tay vào cho sự bảo tồn và phát triển nền văn hóa nước nhà nơi hải ngọai, nên dường như không có một thí sinh sinh nào đặt trọng tâm quá nặng trong vấn đề đậu hay rớt.

Tuy nhiên, qua cuộc thi cũng có ít nhiều dư luận cho rằng: giải chung kết “ Tài Năng Trẻ môn ca nhạc” , ban tổ chức đã phải chạy theo thời gian và chính vì thế nên đã nảy sinh ra nhiều khuyết điểm, nói chung là có tính hấp tấp, tuy trước đó đã có chuẩn bị. Trong phần này, một thành viên BTC đã cho người viết biết: chương trình cuộc thi phải chạy gấp vì phải trả sân khấu lại cho chương trình thi Hoa Hậu Áo Dài, một tổ chức có truyền thống lâu đời tại Thung Lũng Hoa Vàng này trong những dịp Xuân về . Mặt khác cũng được biết là vì nhóm văn nghệ Trần Lãng Minh và Nga Mi đã cố muốn trình diễn hết những bài bản theo chương trình của riêng họ nên đã chiếm dụng một số thời gian của chương trình khác.

Cũng chính vì thời gian, nên ban giám khảo cũng phải chạy theo giờ giấc. Cho nên việc chấm thi và cộng điểm cho giải chung kết có tính tất bật. Và kết quả có khi có những khuyết điểm nhỏ không thể tránh khỏi, theo lời một nhạc sĩ đã nói.

Thí sinh Tuyết Nga giọng ca triển vọng

Riêng một số người tham dự qua quan sát cuộc thi cho rằng: tuy thời gian bị chiếm dụng bởi chương trình văn nghệ trước đó, nhưng hầu hết các thí sinh đều thi với tính quyết tâm, do đó các thí sinh đều hát hay và tự tin. Riêng ban giám khảo và ban tổ chức làm việc chưa có tính khoa học cao. Ban tổ chức không cung cấp được cho ban giám khảo một phiếu chấm điểm đồng bộ, (in sẳn đầy đủ các mục) như các nơi khác đã làm, mà chỉ đưa cho các nhạc sĩ là giám khảo một miếng giấy trắng để các giám khảo dùng làm nó như là một phiếu chấm điểm. Chính vì chổ không phiếu chấm thi đồng bộ, nên khi tổng kết điểm ban giám khảo đôi khi có những trục trặc đáng kể. Một điểm có thể làm cho giới quan sát là những người tham dự thấy rằng: Ban Giám Khảo và Ban Tổ Chức làm việc thiếu nhịp nhàng đó là : ban giám khảo không có một máy tính (calculator) mà phải dùng điện thọai cầm tay của một thành viên trong ban giám khảo làm máy tính để tổng kết số điểm, trong lúc cấp bách khi người quản lý sân khấu hối thúc mọi người tham dự chương trình xem giải chung kết phải rời khỏi hội trường ngay. Qua sự việc trên, nhi

Thí sinh Anh Thư Giải Nhì

Một nhạc sĩ trong vùng Bắc Cali đã nói: “ Ông đến để chờ xem các thí sinh trình diễn, nhưng chờ mãi và chờ i vẫn thấy cảnh “bóng đồng” ngự trị trên sân khấu. Đi một vòng trở lại, vẫn thấy “ đồng bóng” đang lên cơn. Thật là buồn tuyệt cho ban tổ chức cuộc thi.”

Sự chiếm dụng thời gian, không phải là không có trong giới sinh họat Mỹ. Tuy nhiên trong các tổ chức sinh họat người Việt lại xảy ra nhiều nhất và cần đáng nói. Nói để chấn chỉnh lại tính lịch thiệp của một vài tổ chức thường hay cầm sang giờ giấc của người khác. Trong một thời gian và không gian có quá nhiều chương trình buộc phải trình diễn đúng giờ, (địa điểm mướn phải trả đúng giờ, nếu không sẽ bị charge tiền thêm) thiết tưởng người điều hành các chương trình nên có những tự trọng với nhau, để không chương trình nào phải thua thiệt, hay nói khác hơn là không đủ thời gian để hoàn thành công việc.

 

Duy Văn




Tôi (Trần Anh Kim) – Dại Ngu

 

Tôi (Trần Anh Kim)-ẠI NGU" (!)

Trần Anh Kim:
 
Nghe những lời tuyên truyền đường mật của Cộng Sản, say sưa mục tiêu của một chế độ tốt đẹp, ưu việt hơn chế độ Phong Kiến, Thực Dân mà Cộng Sản thường lên án.
Tin theo lời tuyên truyền đó, ông nội và bố tôi hết lòng vì cách mạng.
Mặc dù gia đình rất nghèo, nhà tường đất, vách tre trát bùn, lợp rạ, nhưng có nghề phụ nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Hoàn cảnh gia đình vô cùng khốn khó, song ông nội tôi vẫn chắt chiu, dành dụm từng mảnh vải cho Nhà nước vay 1075 vuông để may áo mùa đông binh sỹ, bố tôi 9 áo sợi, 1.000 đồng công phiếu kháng chiến. Ông nội và bố tôi coi công việc của cách mạng hơn cả công việc gia đình.

Bởi vậy: năm 1949, bố tôi được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam , năm 1954 là phó bí thư chi bộ. Thế mà Cải cách ruộng đất bọn chúng vu cho bố tôi là phó bí thư Quốc dân đảng.

Nếu bố tôi nhận là phó bí thư Quốc dân đảng chắc chấn bị bắn (thực tế, bố tôi không biết gì về Quốc Dân Đảng). Vì bố tôi kiên quyết không nhận nên bọn chúng tra tấn rất dã man. Chúng dùng dây thừng buộc vào hai ngón chân cái nhiều lần kéo lên xà nhà bắt phải nhận. Trước sau như một, bố tôi chỉ nhận là đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam .
Đau quá không chịu nổi bố tôi kêu khóc, chúng dùng rơm nhét vào mồm. (Trước khi qua đời, bổ tôi kể lại toàn bộ tội ác của loài lang sói, tôi ghi âm đầy đủ những lời trăng trối của bố tôi).
Không quy được cho bố tôi là phó bí thư quốc dân đảng, chúng đem số ruộng đất của ông nội và bố tôi cộng lại được 1 mẫu 7 sào 15 thước để lấy cớ nhiều ruộng đất quy thành địa chủ và chúng trưng mua toàn bộ ruộng đất, cầy, bừa, trâu các nông cụ khác.
Những dụng cụ nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, ‘ông – bà’ nông dân không biết xử dụng, họ cho đó là phương tiện để bóc lột nông dân nên đốt, phá cho bằng hết. Trên thế giới này chắc không có một chế độ nào thu tư liệu sản xuất để triệt đường sinh sống của những người nông dân chất phác như chế độ Cộng Sản Việt Nam bạo tàn!.
Tóm lại: Chúng thu từ chổi cùn, dẽ rách trở lên quy ra thóc bằng 2.040 kg. Hẹn 10 năm sau trả, mỗi năm hưởng 15 phân lãi song, đảng cộng sản Việt Nam ăn quịt tất cả.
Ông nội và bố tôi bị chúng bắt cùm tại bếp nhà lão Rụng (lão Rụng người cùng xóm, là cốt cán của đảng) gần hai năm trời. Khi tha về người nào, người ấy như thân tàn ma dại!.
Chưa đầy 8 tuổi, cái tuổi lẽ ra phải được đi học, đi múa hát cùng các bạn thiếu niên. Vì là con địa chủ, bọn chúng coi thường, khinh miệt không cho tham gia.

Gần hai năm trời, ngày hai lần tôi phải lọ mọ mang khoai lang luộc cho ông nội và bố.

Tôi nhớ như in, mỗi lần mang khoai đến, hôm thì chúng dùng đồ xúc phân gà, hôm thì chúng nhặt que cạnh chuồng lợn chọc vào khoai để kiểm tra.
Nước, chúng đổ bớt đi, đái vào cho ông nội và bố uống.
Chúng còn giải thích: "uống loại nước này để sáng mắt ra cho chúng mày khỏi bóc lột".
Mỗi khi ra đường, tôi đều phải quỳ xuống chắp tay lậy, van xin mấy ông ‘cốt cán’ mới được đi.
Điều kỳ lạ này, nay được lập lại bởi: thời cải cách ruộng đất cổng nhà ông nội và bố tôi hàng ngày cũng có ‘cốt cán’ canh gác.
Nay, cách nhà tôi khoảng 40m, chúng cho xây một bốt canh, hàng ngày cử Công An canh gác nhưng khác ông nội và bố tôi ngày trước ở chỗ: tôi đi đâu, làm gì, chúng cho Công An bám theo từng bước. Chúng còn trang bị máy cắt sóng trị giá hàng tỷ VND gắn trên xe máy đi theo cắt sóng điện thoại di động, không cho tôi liên lạc với bạn bè (cả trong và ngoài nước) nhằm bưng bít thông tin. Cảnh này, bọn chúng không thể chối cãi nổi bởi toàn dân ai cũng biết !.
Cộng sản Việt Nam đầy đoạ gia đình tôi bần cùng đến như vậy, bị oan khiên, ông nội và bố tôi có làm đơn khiếu nại. Song, quá đói nghèo vì của cải đã bị đảng cướp trắng tay. Đông qua, thu lại gia đình chỉ biết cặm cụi mò cua, bắt ốc… kiếm sống cho qua ngày.
Muốn quay lại nghề truyền thống nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa cũng bó tay do phương tiện không còn. Quá trình lam lũ, làm ăn khi có bát ăn bát để, gia đình mở nghề làm bánh đa kiếm sống. Được một thời gian bị cấm, họ cho rằng làm bánh đa là huỷ hoại lương thực, gia đình phải chuyển nghề làm miến dong và sau đó xoay nghề làm chiếu cói.

Thấy gia đình làm chiếu phát đạt, Hợp tác xã đứng ra hứng lấy, tệ nạn ăn cắp, làm ẩu nẩy sinh thế là nghề làm chiếu do bố tôi dóng dựng lụi tàn.
Sống dưới chế độ Cộng Sản những người có trí tuệ, có sáng kiến, mày mò bằng sức lao động của chính mình để kiếm miếng ăn cũng khó, thậm chí bị kìm hãm không thể làm ăn nổi.
Sửa sai, anh em chúng tôi mới được bố mẹ cho đi học. Sinh ra từ một gia đình có truyền thống chỉ biết hết lòng vì cách mạng và cần cù lao động hưởng thụ bằng chính sức lao động của mình không bóc lột và cũng chẳng biết ăn cắp, ăn cướp của ai !. Tuy nghèo khó, song bố mẹ rất quan tâm đến việc học hành của chúng tôi. Được sự chăm lo của bố mẹ, chúng tôi quyết tâm học ra đầu, ra đũa để khỏi phụ lòng các cụ. So với thời nay, tuổi học của anh em chúng tôi đều quá. Cũng vì lớn tuổi mới đi học nên ở lớp nào tôi cũng học giỏi và được các bạn bầu làm lớp trưởng.
Những năm ngồi trên ghế nhà trường, tôi được trau dồi thêm nhiều lời đường mật của Cộng Sản. Tôi đặt rất nhiều niềm tin vào chế độ, ngỡ tưởng những điều Cộng Sản tuyên truyền trước sau sẽ thành hiện thực. Vào đội thiếu niên tôi làm đội trưởng. Vào đoàn, tôi làm bí thư chi đoàn. Vào đảng, tôi làm công tác đảng. Bởi vậy, ở bất kỳ cương vị nào, tôi cũng luôn luôn phải gương mẫu đi đầu.
Trong quân đội, khi thực hiện cơ chế một người chỉ huy, xoá cấp trưởng chính trị, tôi chuyển sang chuyên làm công tác đảng.

Vốn là người rất tin vào chủ trương, chính sách của đảng và đã từng được phân công đi chỉ đạo công tác đảng – công tác chính trị từ cấp quân đoàn trở xuống nên càng phải nắm thật chắc đường lối, chủ trương mới vận dụng và chỉ đạo được. Mặc dù lúc còn ở chủ lực cũng có nhiều điều chướng tai, gai mắt. Song, mỗi khi được học tập, chỉnh huấn những thói hư tật xấu đều được tiếp thu, sửa chữa. Và sau mỗi lần học tập, chỉnh huấn sức mạnh nhân lên gấp bội, vì vậy "khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"!.
Xa quê hương, tôi cũng như nhiều đồng đội của tôi mỗi khi nghe tới danh Quân Khu 3 ai cũng mến mộ!. Những lần đi tập huấn hoặc đi học bổ túc, thấy cảnh sinh hoạt của các sỹ quan Quân Khu 3 hơn hẳn sỹ quan các Quân Khu khác trên mọi lĩnh vực, nghĩ mà thèm. Họ còn kính biếu chúng tôi nhiều tài liệu tuyên truyền về những thành tựu của Quân Khu 3, trong đó có tác phẩm "kết hợp kinh tế với quốc phòng – Quốc phòng với kinh tế trên địa bàn Quân Khu 3".

Nghiên cứu tác phẩm, tôi thấy chủ đề nổi bật là: tập trung ca ngợi phong trào "làm giầu đánh thắng", làm chúng tôi càng thêm mến mộ. Suốt cuộc đời quân ngũ, tôi ở ba quân khu.
Thời chiến tranh chống Mỹ, tôi ở địa bàn Quân Khu 5 mười năm. Chống quân Bành Trướng Bắc Kinh xâm lược, tôi ở địa bàn Quân Khu 1 mười hai năm.
Thời kỳ ở Quân Khu 1, tôi khẳng định: nếu không có trận đánh lúc 08 giờ ngày 17-02-1979 tại cánh đồng Song Áng, Mỹ Cao, Văn lãng, Lạng Sơn thì quân Bành Trướng Bắc Kinh sẽ thực hiện được ý đồ chiến lược của chúng là "ăn cơm sáng ở Lạng Sơn, ăn cơm trưa ở Hà Nội", nếu để chúng tiến đến Hà Nội thì, hậu quả khôn lường!
Bị trận đòn đau, chúng căm thù đánh sập cả hang Con Khoang, hiện trường còn đó!.

Ngày 28-02-1979, trận đánh thứ 2 xẩy ra tại Kéo Càng, chặn đứng lực lượng chính của quân Bành Trướng Bắc Kinh tấn công vào Thị xã Lạng Sơn, đỡ tốn thất biết bao nhiêu cho nhân dân thị xã Lạng Sơn.
Nghĩ về vận mệnh quốc gia, mặc dù lực lượng không cân sức, tôi vẫn bình tĩnh, chủ động, mưu trí… chỉ huy bộ đội chiến đấu giành thắng lợi hai trận đánh trên, phá tan ý đồ chiến lược của nhà cầm quyền Bắc Kinh, giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc mà không được một bức điện chỉ đạo của thượng cấp. Trong khi câp trên của tôi chỉ biết hô quân tháo chạy chui hang viết báo cáo thành tích, lĩnh huân chương các loại (!). Tôi cũng như các chiến hữu dưới sự chỉ huy của tôi, thì tay trắng. Thử hỏi: nếu tôi cũng như các sỹ quan khác trong sư đoàn, chỉ biết hô quân tháo chạy ngay từ sáng 17-02-1979 thì hậu quả sẽ ra sao?!.
Cuối đời quân ngũ, tôi có diễm phúc hơn đồng đội của tôi được điều về quân khu 3. Vốn là người chuyên làm "Công tác đảng – công tác chính trị" tôi tìm hiểu sâu bản chất của sự việc. Sau một thời gian thực thi nhiệm vụ và thực tiễn cuộc sống đã chứng minh rằng: phong trào "làm giầu đánh thắng" của quân khu 3 chỉ là khẩu hiệu, là lý thuyết suông !.Bản chất của phong trào "làm giầu đánh thắng""buôn lậu trốn thuế"(!).

Còn những sỹ quan quân khu 3 khi đi học hoặc đi tập huấn đều phải góp thêm tiền ăn, tiền đút lót giáo viên từng bộ môn. Bởi vậy thành tích nuôi dưỡng cũng như học tập của các sỹ quan quân khu 3 đều vượt trội. Những cán bộ có chức, có quyền họ dùng trợ lý có chuyên môn, có trình độ biết khom lưng, quỳ gối đi theo làm bài cho lãnh đạo. Bọn họ còn dùng tiền cử trợ lý mua đáp án và đáp án chính là bài kiểm tra của họ. Nếu không biết các mẹo vặt , ai cũng tưởng các sỹ quan quân khu 3 đều là những người "tài-giỏi"(!). Mua đáp án, cử người thi hộ, thuê sinh viên bảo vệ luận án lấy hàm ‘tiến sỹ’ của những kẻ có chức, có quyền, háo danh, chắc chắn các quân khu bạn không thể có kinh nghiệm bằng(!).

Tiếp xúc với địa phương, sau một thời gian tôi phát hiện tập đoàn giặc nội xâm phá hoại thành quả cách mạng một cách ghê gớm. Tôi vào cuộc điểm mặt, vạch tên… lũ quan tham, thế là gặp hoạ(!).
Mặc dù sống ở một xã hội đầy rẫy thối tha, mục ruỗng, đầy rẫy bất công…. Song lối sống, lẽ sống của tôi như xưa, vẫn trong sáng, thanh bạch… luôn kiên định với mục tiêu: vì nhân dân, vì dân tộc, vì Tổ Quốc mà quên mình phục vụ. Nay thêm quan điểm "Gạn đục khơi trong", tôi rất quý trọng, khâm phục, noi gương những cán bộ, đảng viên chân chính, những người thực sự yêu nước, thương nòi, hết lòng vì dân (bất kể họ là ai). Tôi thường lấy những câu danh ngôn của các vị tiền bối để tự răn mình như: "quan liêu tham nhũng là giặc nội xâm, coi kẻ tham nhũng là Việt gian, Mật thám". Giặc nội xâm chính là những tên việt gian, phản động, phản bội, mật thám, ăn cắp, ăn cướp, bán nước, hại dân…. tôi kiên quyết không tha thứ loại giặc này, phải vạch mặt, chỉ tên lũ giặc nội xâm bất kể kẻ đó là ai, trừ hoạ cho dân !. Vì luôn giữ vững quan điểm đó, nhiều bạn bè trách tôi là loại người không thức thời, "đại ngu". Tôi đành ngậm đắng, nuốt cay chịu đựng và không bao giờ thoả hiệp, hoà nhập với lối sống sa đoạ, suy đồi… do chế độ CS Việt Nam hiện thời đang thao túng!. Suốt cuộc đời tôi phấn đấu chỉ mong được sống ở một xã hội tốt đẹp, ưu việt hơn hẳn các chế độ xã hội cũ. Ai dè, nay lại phải sống ở một xã hội suy đồi đến tột độ, còn thối tha, mục ruỗng, bẩn thỉu… hơn cái chế độ mà chính tôi đã bị đảng lừa phải đổi bằng máu, bằng xương chiến đấu quên mình xoá bỏ nó đi. Chính vì tôi không vào ê kíp của loại đảng ăn cướp nên bị gạt ra khỏi tổ chức của "đảng"!
Nay tự kiểm điểm lại mới thấy tôi "đại ngu". Những điều "đại ngu" được thể hiện như sau:
– Điều "đại ngu" thứ nhất là: Quá tin những lời đường mật của loại ‘Đảng’ siêu lừ
a nên tôi đã công hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của đảng. Khi đã bị đảng cộng sản Việt Nam vắt kiệt sức, tôi không thức thời, không chịu tuân theo lối sống của tập đoàn giặc nội xâm, lại còn điểm mặt, vạch tên bọn chúng. Phát hiện thấy tôi không ăn cánh, không chịu vào ê kíp… nên đảng gạt ra lề. Mọi chế độ, quyền lợi của tôi tận tụy phấn đấu suốt đời mới có, nay bị "đảng" cướp trắng tay tất cả !.
– Điều "đại ngu"thứ hai: Khi được phân công làm kinh tế, tiền vay về đáng lẽ phải học tập lũ giặc nội xâm, dành ra một phần đút miệng quan trên, còn lại bỏ túi. Tôi tin rằng không những tôi không việc gì mà còn được thăng quan, tiến chức và chắc chắn không đến nỗi bần hàn như ngày hôm nay. Quyền lợi của quần chúng được hay không, không cần biết. Như kiểu Bùi Minh Vượng – Chỉ huy trưởng (loại B quay) cứ việc ăn cắp, ăn cướp, buôn lậu… mặc cho đồng đội tố cáo, Vượng vẫn là chiến sỹ thi đua, vẫn được thăng quân hàm, quần chúng làm gì được hắn(!). Chỉ vì tôi đại ngu, vay tiền Nhà nước ít, trả tiền Nhà nước nhiều, không biết luồn cúi, đút lót nên bị những kẻ chuyên "Ngậm máu phun người" ở các cơ quan pháp luật quân khu 3 và Bộ Quốc Phòng, nay lại được Vụ 3 thuộc viện kiểm sát nhân dân tối cao phù hoạ, nên tôi mới phải hứng chịu nông nỗi này!. Vụ việc của tôi, đảng thừa thấu hiểu. Ngày 24-5-2008, tôi có ĐƠN ĐỀ NGHỊ gửi các uỷ viên Bộ chính trị , các cơ quan chức năng nói rõ quan điểm của mình: nếu tôi không chứng minh được những điều tôi nêu trong đơn thì, các ông cứ việc chặt đầu, nhưng không nhận được hồi âm. Quá thời gian luật định, tôi tung ĐƠN ĐỀ NGHỊ lên mạng cho cả thế giới biết. Vậy mà đảng vẫn cứ câm như hến!. Rõ ràng đảng cũng chẳng khác gì lũ đầu trâu, mặt ngựa ở các cơ quan pháp luật quân khu 3 và Bộ Quốc Phòng, cũng là loại "ngậm máu phun người" không hơn, không kém(!?)
Nay, xin nêu ra để cho mọi người nhất là các bạn trẻ lấy đó làm bài học chớ có dại đem hết sức lực và tuổi thanh xuân quý báu của mình cống hiến cho loại "đảng" siêu lừa này để rồi lại trở thành người "đại ngu" như tôi(!).

Tự do – Dân chủ – Đoàn kết muôn năm !
Dân tộc Việt Nam bất diệt !
Tổ Quốc Việt Nam muôn năm !

Trần Anh Kim
 




200 YEARS US CENSUS, 30 NĂM ÐI ÐẾM ÐẦU NGƯỜI. (Giao Chỉ)

200 YEARS US CENSUS
30 NĂM ÐI ÐẾM ÐẦU NGƯỜI.
GIAO CHỈ, SAN JOSE
                                                                                                      (VietTribune)
Dò sông, dò biển, ai dò được lòng người
Ðó là thành ngữ của ông cha ta chỉ dẫn từ ngàn xưa. Nhưng Hoa Kỳ ngày nay đo cả sông, cả biển và đo được cả lòng người. Mười năm kiểm kê dân số. Hỏi đi hỏi lại có vài câu mà biết được lòng người. Suốt 200 năm dân số Nữu Ước tăng dần từ 33 ngàn vào năm 1790 lên đến 8 triệu vào năm 2008. Ai cũng biết là người Mỹ yêu New York. Bèn in áo thung “I love New York”, bán chạy như tôm tươi.
Từ khi lập quốc, mới chỉ có 13 tiểu bang, chưa có California. Hơn 200 năm sau, Hoa Kỳ có 50 tiểu bang, với dân số Cali dẫn đầu toàn quốc, chính phủ biết ngay lòng dân thích về sống ở miền Tây. Vì vậy cứ 10 năm 1 lần, Hoa Kỳ đứng lên đếm đầu người để biết lòng dân mà cai trị. Dân số chỗ nào tăng thì làm thêm nhà cửa, nhiều trẻ con thì mở trường học, nhiều cụ già thì mở trung tâm cao niên. Rồi nhà thương, xa lộ, đô thị, thương mại, chính trị, tất cả đều căn cứ vào con số thống kê, so sánh quá khứ, điều chỉnh hiện tại và dự phóng tương lai.
Vốn liếng chữ nho của tôi chẳng được bao nhiêu nhưng vẫn nhớ câu: “ Bất thức nhân tâm hướng, hà năng cử đại công.” Không biết lòng người, làm sao lo việc lớn. Quả thực việc kiểm kê dân số của nước Mỹ là một công tác thăm dân cho biết sự tình, hết sức vĩ đại và khoa học. US Census là một nỗ lực tiến bộ của ngành địa lý nhân văn và khoa nhân chủng học.
 
 
Ðếm từ bao giờ:
Ðọc lịch sử kiểm kê tại Mỹ, chính tôi cũng không ngờ là Hoa Kỳ đã Census ngay từ khi mới tuyên bố độc lập, thời tổng thống Hoa Thịnh Ðốn. Ðó là năm 1790 nước Mỹ mới chỉ có 3,929,214 người và 13 tiểu bang. Vào cái kỳ Census số 1 đó, vị giám đốc là chính trị gia danh tiếng Thomas Jefferson, sau này ông là tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ. Cũng trong thập niên đầu tiên, tổng thống Washington đã ra đọc diễn văn trước lưỡng viện ngày 08 tháng 01 năm 1790. Sau đó thủ đô Hoa Thịnh Ðốn khánh thành năm 1791 và tổng thống Hoa Thịnh Ðốn qua đời năm 1799 trước kỳ kiểm kê thứ 2 vào năm 1800.
Và từ đó cứ 10 năm 1 lần, toàn thể nước Mỹ đứng lên để cho chính phủ Mỹ đếm lại. Lần thứ 21 vào tháng 4 năm 2000 và lần thứ 22 sẽ vào tháng 4 năm 2010.
Tuy nhiên, “ủy ban đếm kỹ” cho năm 2010 đã bắt đầu chuẩn bị từ hơn một năm trước. Tức là vào tháng 4 năm 2009.
 
So sánh 2 thế kỷ kiểm kê:
Trong khi chờ đợi kết quả năm 2010, chúng ta hãy so sánh những con số khác biệt của hơn 200 năm Census. Dân số từ 4 triệu lên 300 triệu. Con số tiểu bang từ 13 lên 50. Ngày xưa đất rộng người thưa. Một dặm vuông chỉ có lối 4 hay 5 người dân, bây giờ một dặm đất là 80 người. Ngày xưa mẫu in ra là 6 câu hỏi, bây giờ mẫu ngắn là 7 câu, mẫu hỏi chi tiết là 52 câu. Ngày xưa kiểm kê tốn 44 ngàn US. Qua năm 2000 tốn kém gần 7 tỷ Mỹ kim.
Sau cùng, thành phố vĩ đại nhất là Nữu Ước từ 30 ngàn dân lên đến 8 triệu.
 
Cali và Hoa Kỳ:
Tính đến năm 2007 tức là gần kỳ kiểm kê 2010 thì dân số Cali là 36 triệu 500 ngàn so với dân số cả nước Mỹ là 301 triệu. Xem như thế thì khi đi du lịch ngoại quốc, hỏi thăm sẽ thấy cứ 10 người Mỹ là đã có hơn 1 người ở Cali. Dù được coi là đất cạnh tranh và đắt đỏ nhưng dân số Cali trong kỳ kiểm kê vừa qua đã tăng gần 8%. Cali đi dễ khó về. Trai đi có vợ, gái về có con. Người Việt qua Âu châu nếu được hỏi thăm chắc chắn 50% là dân Cali. Nhưng nghiên cứu thêm một chút nữa về người Cali cũng là chuyện lý thú. Trẻ em CA dưới 5 tuổi 7%, dưới 18 tuổi 25%. Trên 65 tuổi 11% và nam nữ thì rất quân bình 50/50. So về sắc dân thì Mỹ trắng ở Cali 76%, ít hơn toàn quốc 80%. Da đen Cali chỉ có 7% so với Hoa Kỳ 13%. Á châu Cali 12% so với nước Mỹ 4%. Một điểm đặc biệt là dân ngoại nhập tại Cali chiếm 26% so với 11% toàn quốc. Con số hết sức đáng lưu ý là Cali có 40% dân số nói tiếng quê hương tại nhà so với toàn quốc chỉ có 18%. Sau cùng dân Cali ở nhà trung bình giá 211 ngàn trong khi nước Mỹ là 120 ngàn.
 
 
Những sự kiện lịch sử:
Kiểm kê dân số 10 năm một lần sẽ đem ra những con số thống kê để các chuyên viên nghiên cứu phân tích, giải đoán và lập kế hoạch. Tuy nhiên, đây cũng là dịp các nhà sử học ghi lại các sự kiện lịch sử đáng kể đã xảy ra trong 10 năm. Quý vị nghĩ rằng chuyện gì quan trọng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Ðệ nhất, đệ nhị thế chiến. Chiến tranh Việt Nam, Triều Tiên, Vùng Vịnh. Trận Trân Châu Cảng, vụ 911. Tất cả đều được chọn lọc và ghi lại. Mỗi 10 năm người ta chọn ra chừng sáu, bảy hay tám sự kiện nổi bật. Census 1790 ghi dấu về tổng thống Hoa Thịnh Ðốn, người lãnh đạo chiến tranh cách mạng dành độc lập.
Sensus 1800 Thư viện quốc hội Mỹ ra đời.
Sensus 1810 là thập niên Hoa Kỳ chọn quốc ca (1814) và quốc kỳ (1818).
1820 Thiết lập công ty Hỏa xa. Cuộc cách mạng về kinh tế Hoa Kỳ phát triển mạnh mẽ dựa trên phương tiện chuyển vận.
1830 Trận Alamo bên TX (1836).
1840 Chuyến xe lửa đầu tiên từ miền Ðông đến Cali (1841).
1850 Ðảng Cộng Hòa thành lập (1854).
1860 Thư tốc hành Pony Express từ Sacramento đi miền Ðông (1860).
1870 Thành phố Chicago bốc cháy (1871).
1880 Nước uống Coca Cola ra đời (1886).
1890 Trung tâm nhập cư di dân thành lập tại đảo Ellis (1892).
1900 Phim câm ra đời (1903) và Ford sản xuất xe hơi hàng loạt(1908).
1910 Con tàu Titanic đắm (1912)
1920 Radio phát thanh lần đầu (1920)
1930 tuyển thủ da đen Jesse Owens thắng 4 huy chương thế vận hội (1936)
1940 Ðệ nhị thế chiến chấm dứt (1945)
1950 Alaska và Hawai gia nhập Hoa Kỳ
1960 Lữ đoàn 9 thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đến Việt Nam (03/08/65)
1970 Lính Mỹ cuối cùng rời Việt Nam (30/04/1975)
1980 Apple giới thiệu Macintorch (1984)
1990 Down Jones lên đến 10,000 điểm lần đầu (1999)
2000 Vụ 911 (2001) dẫn đầu các biến cố lịch sử
 
Những chuyện 10 năm qua:
Mặc dù đến tháng 4-2010 Hoa Kỳ mới thực sự kiểm kê dân số, nhưng các  biến cố lịch sử của 10 năm đã được tính từ năm 2000 trở đi.
Toàn bộ các tin nổi bật của 10 năm qua gồm có 7 chuyện sau đây.
1/ Bà Clinton, đệ nhất phu nhân lên làm thượng nghị sĩ.
2/ Tiger Woods da đen thắng các giải quán quân đánh golf.
3/ Khủng bố dùng 4 máy bay thương mại đánh bom năm 2001.
4/ Con tàu không gian phát nổ làm 9 phi hành gia tử nạn.
5/ W. Mark Felt xác nhận vai trò thông tin mật trong vụ Watergate làm tổng thống Nixon phải từ chức.
6/ Tay đua xe đạp Lance Armstrong 7 lần vô địch vòng đua Pháp quốc.
7/ Sau cùng nghị sĩ da đen Obama được bầu làm tổng thống (2008).
Có thể biến cố thứ 8 sẽ dành cho chuyện gì xảy ra trong năm 2009.
 
Việt Nam và kiểm kê Hoa Kỳ
Như đã ghi ở phần trên, Việt Nam cũng có nhiều liên hệ với Hoa Kỳ trong lịch sử kiểm kê dân số. Những biến cố của thập niên 60 đã từng ghi lữ đoàn 9 thủy quân lục chiến Mỹ đến Việt Nam tham chiến chính thức ngày 3 tháng 8 năm 1965. Sau đó qua thập niên 70, những anh lính thủy quân lục chiến Hoa Kỳ cuối cùng lên máy bay trực thăng rời tòa đại sứ vào sáng ngày 30 tháng 04 năm 1975.
Tìm hiểu về số lượng di dân vào Hoa Kỳ, suốt 200 năm lịch sử kiểm kê, cứ 10 năm một lần người ta thống kê coi sắc dân vào Mỹ đông nhất. Thập niên 90 là thời điểm các sắc dân Ðông Nam Á đến Hoa Kỳ nhiều nhất, đa số là Việt Nam.
Từ cuối thập niên 80 qua đến thập niên 90 các thuyền nhân tràn ngập trại tỵ nạn Ðông Nam Á và lần lượt được Hoa Kỳ bốc đi. Phần lớn họ đến Mỹ vào thời kỳ 90 và Việt Nam đã đứng đầu lịch sử kiểm kê về số người di dân đến Hiệp Chủng Quốc từ phía Thái Bình Dương.
Ngày 24 tháng 6 năm 1979 trên đảo Bidong, Mã Lai có 23 ngàn thuyền nhân Việt Nam. Sau này con số còn tăng lên trên 30 ngàn. Nhưng chính vào ngày 24 tháng 6 năm 1979 phóng viên Ed Bradley’s của chương trình 60 phút TV đã quay được cảnh một con tàu trên 200 người bị đắm ngoài biển khơi và được vớt vô bờ. Anh thuyền trưởng tỵ nạn vào được đất Mã, vái lạy 4 phương. Hình ảnh của đoạn phim 60 minutes bây giờ được người Việt sưu tầm và gởi trên internet trở thành một thông điệp tự do đầy nước mắt. Ðược hỏi về hoàn cảnh chờ đợi sau những gian truân sống còn trên biển cả, các thuyền nhân đều chỉ có một câu trả lời. HOPE: Hy vọng.
Ngày nay câu chuyện HY VỌNG đã trở thành kỷ niệm.
 
Việt Nam tham dự kiểm kê:
Do sự tình cờ của hoàn cảnh, chúng tôi tham dự vào ban kiểm kê thuộc sắc dân Á châu Thái Bình Dương từ năm 1980. Lúc đó nguời Việt chưa đông đảo và đa số di tản đợt đầu. Dân số chưa đáng kể. Vừa công tác vừa học hỏi, hẹn gặp nhau 10 năm sau.
Thấm thoát đến kỳ kiểm kê 90 lại có mặt. Công việc quen thuộc hơn và việc thông tin trong phạm vi Việt Nam có phần hào hứng hơn. Xong việc lại hy vọng gặp lại 10 năm sau. Qua đến kỳ kiểm kê 2000 thì số người Việt đã khá đông đảo. Hơn 1 triệu có mặt tại Hoa Kỳ và một nửa tại California. Suốt 3 lần tình nguyện cho kiểm kê dân số, tưởng là quá đủ. Vậy mà thấm thoát sắp đến kỳ 2010. Lại chuẩn bị lên đường. Năm nay 2009 tại San Jose có một ban kiểm kê người Việt thành lập và khởi sự chuẩn bị cùng với hàng ngàn ủy ban trên tòan quốc.
Chắc hẵn không cần nói, ai cũng biết rằng cần phải đứng lên để được đếm. Con số người Việt hiện diện phải được đếm đầy đủ và chính xác. Ðây là phương cách hữu hiệu nhất để góp phần hiện diện cụ thể trong xã hội Hoa Kỳ. Vì quyền lợi, vì tinh thần và vì cả lý tưởng. Tất cả chỉ là công việc đơn giản điền các câu trả lời cho phiếu kiểm kê. Ðóng góp vào lịch sử hơn 200 năm của Hoa Kỳ và cho ngàn năm lịch sử tương lai.
Bài viết khô khan với những con số thống kê rườm rà này, mới chỉ là bài viết đầu tiên cho cuộc kiểm kê vĩ đại 2010 tại Hoa Kỳ. Năm tới cũng sẽ là năm hết sức ý nghĩa vì ghi dấu 35 năm người Việt bỏ nước ra đi kể từ tháng 4-1975.
Chúng ta đã làm gì trong 35 năm qua
Xin cùng nhau kiểm kê lại một lần.
Giao Chỉ, San Jose.
 
 



Trách Nhiệm Hướng Dẫn và Giúp Thế Hệ Trẻ (Tuyết Mai)

TRÁCH NHIỆM HƯỚNG DẪN VÀ GIÚP ĐỠ THẾ HỆ TRẺ

TUYẾT MAI . Việt Báo Thứ Năm, 6/18/2009, 12:00:00 AM

                                                                                Hình ảnh từ MAUVSA.

Tuyết Mai

     Thật là may mắn cho Cộng đồng người Việt Hải ngoại, ở Cali có Tổng Hội sinh viên VN, hoạt động rất hăng say, hằng năm tổ chức rất thành công Hội Chợ Tết, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc và đem lại một nguồn lợi tức lớn lao để chia cho các hội đoàn. Bên cạnh đó có  các Hội Thanh Niên Cờ Vàng, Hội Phan Bội Châu…
Ở Miền Đông Hoa Kỳ có Hội Kết Đoàn, Hội AAA Success và Liên Hội MAUVSA (Middle Atlantic Union Vietnamese Associations) gồm tám hội sinh viên VN của tám đại học ở Washington, D.C., Maryland và Virginia.
MAUVSA là một hội bất vụ lợi, được thành lập vào  mùa hè năm 2007, đã  kết họp được sinh viên của tám đại học, nhằm mục đích tạo sự đoàn kết trong cộng đồng người Việt, tạo phương tiện cho sinh viên các đại học trong vùng giao tiếp và hợp tác, tạo  điều kiện phát triển tài năng lãnh đạo trong giới trẻ và giúp thế hệ trẻ ý thức văn hóa, giáo dục và đẩy mạnh công bằng xã hội.

     Trong năm 2007 các sinh viên thuộc MAUVSA đã gây quỹ được 7,700 mỹ kim giúp xây một Trung Tâm ở Cambodia để giúp các nạn nhân phụ nữ, trẻ em bị mua bán nô lệ tình dục. Năm 2009 Liên Hội đã và đang hoạt động mạnh trong cộng đồng HTĐ, giúp Voice of Viêtnamese American (Cô Ngọc Giao)  tổ chức “Hành Trình Tìm Tự Do” ở Thư Viện Quốc Hội HK; giúp Nghị Hội Toàn Quốc (Gs Nguyễn Ngọc Bích) đưa 30 sinh viên VN vào Văn Phòng  Phủ Tổng Thống Obama, trong khuôn viên Tòa Bạch Ốc và vào Tòa nhà chính Quốc Hội HK ( để tiếp xúc với những nhân vật quan trọng trong ngành Hành Pháp và các dân biểu trong ngành Lập Pháp HK), nhằm mục đích giúp  sinh viên VN quen dần sinh hoạt chính trị, dòng chính ở HK.
Nguyễn Thanh Long, Chủ Tịch MAUVSA  cũng tích cực trong các sinh hoạt  của Ủy ban Cứu Người Vượt Biển, tổ chức Hội Chợ Y Tế, tổ chức  triển lãm  “Exit Saigon, Enter Little Saigon” (trưng bày những hình ảnh của ngừơi Việt tỵ nạn đã thích ứng và thành công ở HK)…

     Hầu hết các sinh viên trong MAUVSA là những thanh niên trên hai mươi, được sinh trưởng ở đây hay đã rời VN từ thuở ấu thơ. Cái ý niệm về “ Tổ quốc, quê hương VN” rất mù mờ trong trí óc các cháu. Các cháu lớn lên ở đây được học hỏi về VN từ một giáo sư người Mỹ, dùng sách tiếng Mỹ in ở Hà Nội để giảng dạy. Muốn  tìm hiểu về VN dưới cái nhìn của người Quốc Gia các cháu không biết tìm ở đâu. Vì những lý do đó mà có không biết bao nhiêu sinh viên VN đã  đỗ đạt thành danh, có nhà cao,  cửa rộng và một chỗ đứng tốt đẹp trong xã hội HK như bác sĩ, nha sĩ, kỹ sư…quảng cáo tràn ngập báo chí VN…nhưng tìm một người trẻ  có ý thức, thiết tha với  văn hóa dân tộc, dấn thân phục vụ cộng đồng và Tổ Quốc quê hương VN là điều hiếm quý vô cùng.

     Có người có ý kiến…các hội đoàn trẻ cần cộng đồng giúp đỡ thì phải xông xáo ra hoạt động với cộng đồng… Theo tôi, chúng ta cần những thanh niên đầy tâm huyết này để nối tiếp trên con đường gìn giữ văn hóa dân tộc, cũng như tranh đấu cho đất nước may sau. Nếu không có sự giúp đỡ của chúng ta, hội tan rã, các cháu tụ năm tụ bảy kéo nhau đi nhảy nhót ở những hộp đêm của Mỹ cũng vui chán?  Vậy chúng ta cần các cháu  hay các cháu cần chúng ta?

     Có ngừơi dè dặt…bây giờ có nhiều loại sinh viên, tôi không biết hội này theo phe nào QG hay CS nên không tham gia…Thiết nghĩ, nếu chúng ta không biết hội này thuộc phe nào thì chúng ta nên tham gia để tìm hiểu, để hướng dẫn các cháu đi theo con đường đúng…nếu chúng ta tránh xa thì VC với nhiều thủ đoạn sẽ chiêu dụ các cháu dễ dàng hơn. HiệnVC đang có nhiều chương trình về thăm quê hương miễn phí rất hấp dẫn, chương trình về quê nhà làm việc từ thiện đầy ý nghĩa…

     Một sự thật mà chúng ta phải nhìn nhận là sau ba mươi bốn năm tranh đấu cho đất nước chúng ta chưa đạt được mục tiêu mong muốn, các cháu với tài năng, với kiến thức học hỏi được ở đây biết đâu sẽ sáng tạo những nét văn hóa phong phú hơn và tranh đấu hữu hiệu, thành công hơn chúng ta? Đây là một trong những lý do để chúng ta nên mở vòng tay đón mời các cháu thế hệ trẻ đến với chúng ta, chứ chúng ta không nên đặt điều kiện các cháu muốn giúp đỡ thì phải xông xáo chạy đến với chúng ta.  

     Tuổi trẻ là mầm non của Tổ Quốc, là rường cột của nứơc nhà mai sau. Các sinh viên trong Liên Hội MAUVSA, đại diện của tám đại học ở Washignton, D.C., MD và VA là những thanh niên đầy tài năng và thiện chí phục vụ,  rất cần sự  hỗ trợ mạnh mẽ về tinh thần cũng như vật chất của quý Cô, Chú, Bác.

     Các cháu sẽ có dạ tiệc gây quỹ vào lúc 7 giờ chiêù ngày 20 Tháng 6, tại Nhà hàng Harvest Moon, Falls Church, VA. Giá vé $40/vé.

   &nbsp
; Nếu quý đồng hương không thể tham dự được  thì có thể hỗ trợ các cháu bằng cách gởi tiền cho, để hội có phương tiện tài chính tiếp tục hoạt động hay gởi một điện thư chúc mừng. Sự quan tâm của quý cô, chú, bác sẽ là nguồn khích lệ lớn lao đối với thế hệ trẻ hôm nay. Quan tâm, khích lệ, tận tình hướng dẫn các cháu trong lúc này là một cách “đầu tư” vào thế hệ trẻ cho tương lai.

     Những thanh niên, sinh viên đầy nhiệt huyết và tài năng trong Liên Hội MAUVSA  là những viên ngọc hiếm quý, là những mầm  non đang vươn mình trong nắng ấm, sẽ thay thế chúng ta giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc, và tranh đấu cho đất nước quê hương VN mai sau.

     Để tiện việc sắp xếp chỗ ngồi, xin quý vị liên lạc với

 Anh Nguyễn (703) 470-2789; 
Nam Nguyễn (703) 489-8835

MAUVSA
Po Box 4375
Falls Church, VA 22044




MẤY GHI NHẬN TRONG TUẦN

MẤY GHI NHẬN TRONG TUẦN

 

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

 

     Hôm Thứ Bẩy tuần trước 25-7-2009, trong một ngày có tới ba bản tin quan trong liên quan đến Việt Nam trên internet. Cả ba bản tin này được nhân lên từng giờ, từng giờ, người này repost, nhóm kia repost. Ít ngày sau, chỉ còn lại một tin sôi nổi nhất trong ba và hiện còn đang được update từng giờ, từng ngày cho tới hôm nay.

 

     Trước hết xin nói đến tin buổi lễ hiến dâng đất cho Tầu cộng.

 

     Buổi lễ diễn ra theo như tường thuật trên các websites là hoành tráng (chữ này thú thực tôi học mót được từ nền “Văn Hóa Đéo” xã hội chủ nghĩa). Quang cảnh lễ tiết diễn ra ngay tại điểm cột mốc Km0 giữa hai nước Tầu-Việt mới được cắm lại. Tại nơi thâm sơn cùng cốc này mà khu đất nơi đặt lễ đài vẫn được trải thảm đỏ nói lên sự quan trọng đặc biệt của biến cố. Các triền đồi chung quanh lễ đài được trải đều một thảm cỏ xanh mướt. Xa hơn nữa là lớp lớp rừng cây xanh hùng vĩ. Người tham dự từ lớn tới nhỏ, từ quan tới lính ai cũng y phục đại lễ rất chỉnh tề. Trống chiêng, cờ quạt, y phục đầy mầu sắc phô trương như một ngày hội lớn.

 

     Đọc bản tin này có lẽ không một ai trong chúng ta không nêu trong đầu cái thắc mắc là tại sao bọn VGCS lại phô trương ầm ĩ hành động bán nước ô nhục này của chúng? Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy điệm kia mà. Thông thường thì thế đấy, nhưng cái này thì bọn bán nước tại Hànội có muốn độn thổ, muốn che, muốn giấu cũng chẳng được. Chúng phải làm thôi vì thằng chủ của chúng ở Trung Nam Hải bắt buộc chúng phải làm, trốn đâu được. Tôi không biết tin này các trang Web tiếng Việt lấy từ đâu ra. Cũng như mọi khi, đọc xong tôi ghi nhận, save để đó rồi tính sau, thời giờ còn phải dành cho nhiều việc khác. Ít ngày sau, tôi rà lại trên các trang web tiếng Việt mà tôi thường vào, và đồng thời cũng vô luôn các tờ báo online ở trong nước như tờ Nhân Dân, Quân Đội ND, Tuổi Trẻ v.v. Điều làm tôi ngạc nhiên là không còn tìm ra bản tin này ở đâu nữa. Đây là một biến cố quan trọng có sự hiện diện của bọn chóp bu hai nước như Giang Trạch Dân, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Minh Triết. Không có lý nào bọn báo nô trong nước lại coi thường đến thế được. Sự thể chỉ còn cách giải thích thế này:

 

     Một là bọn Tầu cộng mới là kẻ chủ chốt tổ chức buổi lễ này, còn bọn Việt gian bán nước bị lôi đầu đến để làm nhục mà thôi. Cũng là phải, vì lũ bán nước còn mặt mũi nào mà dám phô trương việc bán nước của mình cho người ta ỉa vào mặt à. Lũ Tầu cộng xâm lược huênh hoang tổ chức lễ lạt cho bọn VGCS giao đất cũng như muốn chính thức bố cáo với thế giới rằng đây là việc làm đường đường chính chính giữa hai nhà nước, các anh đừng có hòng mà chõ mồm vào việc nhà của người ta. Nhưng ngụ ý Chính của bọn Tầu cộng vẫn là chúng muốn nắm trong tay một bằng chứng lịch sử chắc chắn để con cháu chúng ta sau này không còn viện dẫn lý do hay bằng chứng gì được để đòi lại đất nữa. Cái thâm độc của bọn Chệt xâm lược là ở chỗ đó. Cha Lễ hay những ai đó còn ngây thơ muốn che giấu tội bán nước của Hồ Chí Minh và đảng VGCS xin hãy ý thức rõ điều này.        

 

     Hai là những tờ báo trong nước không dám muối mặt phô trương việc bán nước của chủ nhân của chúng đã đành, nhưng còn báo chí ngoài này thì sao? Có những trang web không thèm đăng những thứ tin tức và hình ảnh rác rưởi này nên đã không thèm post lên ngay từ đầu. Nhưng còn các trang web và báo online đã đưa lên rồi thì tại sao họ lại lấy xuống vội vã thế, mà lại đồng loạt nữa. Không lẽ đã có một cơ quan chỉ đạo báo chí người Việt tỵ nạn rồi sao? Sự kiện này thực sự làm tôi kinh ngạc.

 

   Thứ hai là tin Buổi Tọa Đàm Khoa Học Biển Đông và Hải Đảo VN tại Saigon

 

     Buổi tọa đàm này do linh mục Nguyễn Thái Hợp nhân danh tòa Tổng Giám Mục Saigon trưởng ban tổ chức và gởi giấy mời. Tin này do Radio Chân Trời Mới của Việt Tân phổ biến cùng với hình ảnh. Bản tin và hình ảnh cũng được Blog X-Café loan đi cùng ngày, nhưng có lẽ cũng lấy từ radio Chân Trời Mới.

 

     Phải ghi nhận một điểm tích cực là đã hơn ba chục năm nay kể từ ngày miền Nam bị thôn tính, giới elite (trí) ở đây ngủ miết bây giờ xem ra đã thức dậy rồi. Đất nước ta may ra còn phần nào hy vọng. Trong căn phòng hội đàm nhỏ bé người ta nhận thấy lẫn lộn cả thằng Cuội lẫn chị Hằng. Một thằng cuội già là lão Trần Khuê. Người đứng tổ chức và phụ tá là hai ông cha Chúa chọn để làm tôi tớ cho CS. Người ta quen gọi bọn này là quốc doanh. Một là Nguyễn Thái Hợp và một nữa là Thiện Cẩm, cả hai tu dòng truyền giáo nhưng không truyền đạo Chúa mà truyền đạo Hồ. Theo như thư mời thì cuộc tọa đàm sẽ có sự hiện diện của hồng y Phạm Minh Mẫn, nhưng có lẽ vì cái vết thương Cờ Vàng tại Úc Châu ngày trước hãy còn làm nhức nhối nên ông đã tự ý vắng mặt. Hai nữa là từ đầu, đám quốc doanh tính tổ chức tại tòa giám mục Saigon , nhưng không hiểu sao, hay vì sợ lộ cái đuôi chồn và chuế quá nên bọn này đã phải dời địa điểm. Mục đích của tọa đàm, theo Nguyễn Thái Hợp, là mong cung cấp thông tin cho thính giả để hiểu rõ hơn về tình trạng Biển Đông và hải đảo VN, đặc biệt là Trường Sa và Hoàng Sa. Nguyễn Thái Hợp nổ xạo thôi vì hắn giấu đầu nhưng lại hở đuôi. Bản tin cho biết cũng có một số phóng viên báo chí nhà nước tham dự tọa đàm nhưng chỉ với tư cách cá nhân. Họ được chỉ thị là không được phép đưa tin về sự kiện này. Báo chí trong nước không được đưa tin mà chỉ có radio Chân Trời Mới của Việt Tân từ Mỹ về được độc quyền thông tin và làm phóng sự. Cái này còn ẹ nữa, thế mới lòi cái đuôi Việt Tân tay sai CS ra. Câu hỏi thứ nhất là tại sao nhà báo VT lại được tự do thong thả hành nghề như thế tại chính lãnh địa của VGCS? Câu hỏi thứ hai, tại sao chỉ có phóng viên của VT được phép quay phim, chụp hình, và làm phóng sự trong khi các phóng viên báo chí trong nước có mặt tại chỗ thì lại bị cấm làm phận sự? Quí bạn đọc tự mình tìm câu trả lời xem sao? Rõ ràng là người ta chỉ có mục đích nhờ báo, đài của VT tay sai CS thổi tin tọa đàm ra để ru ngủ đám trí thức khù khờ hải ngoại thôi chứ không phải cung cấp thông tin cho thính giả trong nước như Nguyễn Thái Hợp nói láo. Bản tin cho biết nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc đọc tham luận nêu bằng chứng lịch sử Hoàng Sa và Trường Sa là của VN, nhưng sau đó trong giờ giải lao ông lại xác nhận chính ông đã được cảnh cáo trước đó rằng không được nói gì thêm ngoài nội dung tham luận đã đọc. Tham luận của nhà học gỉa nhưng nói thiệt Đinh Kim Phúc phàn nàn rằng thật là vô lý Trung Quốc , Philippines , Malaysia lại có thể tuyên bố chủ quyền trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa được? Thật tội nghiệp cho một nhà trí thức ngây thơ cụ. Ông không biết người nhà quê ta thường nói sao: giậu đổ bìm bìm leo. Vẫn theo bản tin, nguời gây ấn tượng nhất trong phần “giao lưu” (bố khỉ chữ nghĩa thời đại Văn Hóa Đéo) với thính giả là tiến sĩ Nguyễn Nhã. TS Nhã đặt vấn đề là nếu chúng ta không đồng thuận thì Tân Cương sẽ không phải là hình ảnh xa vời đối với dân tộc VN. Rất tiếc TS Nhã không nói chúng ta đây là những ai, và đồng thuận là đồng thuận với ai. Ngay bây giờ, TS Nhã thử kêu gọi dân Saigon xuống đường như dân chúng Tân Cương xem chuyện gì xẩy ra, ngay tức thì chứ không xa xôi đâu.

 

     Tọa đàm hay ngọa đàm chi chi đó giữa các nhà khoa bảng và dân trí thức đã tỉnh giấc thì xưa nay xẩy ra nhiều vô số kể, trong nước có, ngoài nước càng nhiều hơn. Tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy, tọa hay ngọa cũng vậy, đàm xong rồi thì ai về nhà nấy ăn uống no say, ngủ nghỉ rồi lại tiếp tục một ngày như mọi ngày. Thế thôi. Chuyện nước đã có đảng “no”. Thực tế các ông cũng chẳng “no” được gì. Có điều lạ là kỳ này, chuyện lo việc nước lại là mấy ông cha quốc doanh của Tổng Giáo Phận Saigon. Các vấn đề đại loại như Trường Sa, Hoàng Sa, Bauxite v.v. xưa nay vốn được các đấng các bậc nhà đạo ở Sàigòn giảng cho con chiên là việc chính trị, Giáo Hội không mần chính trị nên không xen vào. Con em ta ở hải ngoại cầm cờ Vàng trong Đại Hội Giới Trẻ ở Úc Châu cũng còn bị hồng y Phạm Minh Mẫn cho là làm chính trị đấy thôi không thấy sao. Hiện tượng có vẻ đổi chiều của bọn quốc doanh này chỉ có thể giải thích là làm theo chỉ thị. Quân đội Tầu cộng tràn vào cao nguyên qua dự án Bauxite người ta tọa mà không đàm. Hàng hóa lậu của Tầu tràn ngập giết chết kinh tế VN cũng chỉ thấy tọa mà không đàm. Người ta cũng chỉ tọa mà không đàm được lấy nửa lời về diễn biến sôi sục đang xẩy ra tại Tam Tòa? Buổi tọa đàm rõ ràng chỉ được nói những gì mà VGCS cho phép nói. Đều này thì tôi khỏi phải chứng minh. Học giả Đinh Kim Phúc đã chứnh minh ở trên, và bọn báo nô trong nước cũng đã chứng minh rồi. Câu hỏi đặt ra là bọn quốc doanh xuất hiện múa may chuyện Hoàng Sa, Trường Sa trong lúc này có mục đích gì? Xin mạn phép trả lời, chỉ là để xả súp bắp (soupape de sureté = safety valve) cho giới trí thức đang sôi sục vì tình trạng mất nước gần kề. Thứ hai là VGCS lần này có lẽ muốn nhờ đến bàn tay của bọn công giáo quốc doanh giăng bẫy hòa hợp hòa giải, bước đầu là trong giới trí thức khoa bảng. Người viết mời quí bạn đọc thưởng thức bản giao hưởng Symphony No 5 của Beethoven do ban đại hòa tấu HHHG này trình tấu cho vui. Xin giới thiệu, giàn nhạc gồm toàn những tay chơi lão luyện: một, quốc doanh trong nước, hai, con chiên chuyên nghề chống cộng cuội ở hải ngoại (bọn bợ đít lũ phản tỉnh bịp Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Trần Ngọc Thành, điệp viên Nguyễn Chí Thiện), ba, đặc biệt có mặt Lm Nguyễn Hữu Lễ, một tay saxophonist có hạng, bốn, Lm Phan Văn Lợi xưa nay vốn là một drump-major nổi tiếng. Giàn đại hòa tấu HHHG dưới sự điều khiển tài ba của conductor Lý Thái Hùng đang gặt hái thành công ngoài tưởng tượng của mọi người.  

 

     Phải nhìn nhận là nếu không có việc độc quyền phổ biến tin tức và hình ảnh buổi tọa đàm của radio Chân Trời Mới của VT thì có lẽ không ai khám phá ra cái âm mưu HHHG này. Bước khởi đầu cũng coi như một thí điểm cho những chiến dịch khác trong tương lai dưới muôn hình vạn trạng. Một công đôi ba việc, có thể VGCS cũng cố ý đưa chuyện tọa đàm lên để làm lu mờ đi hình ảnh bán nước nhục nhã cùng lúc đang diễn ra tại cửa ải Nam Quan. Đáng tội cho những nhà trí thức yêu nước thật lòng như linh mục trẻ Nguyễn Thế Hiển dòng CCT và có lẽ nhiều vị khác nữa mà người viết không nhận ra. Các vị đã quên phong trào “Trăm Hoa Đua Nở” trên đất Bắc ngày nào, hay xa hơn nữa, quên cả chuyện “Bách Hoa Tề Khai, Bách Gia Tề Phóng” ở bên Tầu xưa kia. Đó là những cái lưới cộng sản giăng để bắt cá rất hữu hiệu.

 

     Cuối cùng là tin giáo dân Tam Tòa đấu tranh đòi Nhà Thờ

 

     Tin tức và hình ảnh giáo dân tại giáo xứ Tam Tòa giáo phận Vinh (Xã Đoài) bị công an VGCS hành hung, đánh đập và bắt giam đều do các phóng viên freelancers trong nước (không phải của bọn báo nô, cũng không phải của VT) loan tải trên mạng nên rất trung thực. Tin này cho đến bây giờ vẫn là tin tức “hot” nhất đối với mọi người VN quan tâm đến các vấn đề của đất nước. Người công giáo VN đang hướng về Tam Tòa. Nhân dân VN đang hướng về Tam Tòa. Thế giới cũng đang đổ con mắt vào Tam Tòa. Ở đấy có những trái tim cháy lửa yêu thương Tổ Quốc và Giáo Hội, có những thanh niên nam nữ không tên tuổi mang tâm hồn người chiến sĩ coi cái chết nhẹ tựa lông lồng, có những bà mẹ già yếu kiên cường không sợ đối mặt với kẻ thù võ trang đến tận răng, có những em bé thơ ngây dám bỏ cả chơi đùa, sẵn sàng hy sinh tuổi xuân cho một tương lai mới chỉ là tưởng tượng trong đầu các em, có những vị chủ chăn dám cho đi cả mạng sống vì đàn chiên mà mình có bổn phận chăn dắt. Tất cả họ đều là anh hùng đáng cho tôi ngưỡng phục. Tam Tòa là cái gương kiên cường, bất khuất, đoàn kết cho mọi người VN. Tôi mơ ước giá giáo xứ nào cũng là giáo xứ Tam Tòa, giáo phận nào cũng là giáo phận Vinh, toàn Giáo Hội VN đều được chăn dắt bởi những chủ chăn như thế. Được như thế thì đất nước tôi không mấy hồi mà bọn giặc hồ bán nước bị quyét sạch.

 

     Nhà thờ Tam Tòa, nhất là cái tên tòa giám mục Xã Đoài là những địa danh có vẻ như xa lạ đối với nhiều người, nhất là giới trẻ ở hải ngoại. Thế mà bỗng dưng trở nên quen thuộc, rất gần gũi và rất thân thương đối với mọi người Việt Nam gắn bó với Tổ Quốc, quê hương của mình. Người viết lục lọi trong đầu xem Tam Tòa nằm ở chỗ nào trên bản đồ thì mới thấy nó là cái vết thương cũ của đất nước bị phân đôi trong thời Trịnh Nguyễn. Tam Tòa thuộc tỉnh Quảng Bình, mà Quảng Bình thì có dấu tích lịch sử nổi tiếng là Lũy Thầy.

     Gọi là Lũy Thầy vì chữ Thầy ở đây là một danh từ biến thành đại danh từ mà chúa Nguyễn Phúc Nguyên dùng để xưng hô với một bậc thầy của nhà Chúa là danh nhân Đào Duy Từ. Lũy Thầy hay còn gọi là lũy Đồng Hới hay lũy Nhật Lệ vì nó nằm dọc theo con sông Nhật Lệ, là một tường lũy quân sự tại khu vực ngày nay là Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Lũy này được Đào Duy Từ theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Nguyên xây dựng nhằm bảo vệ Chúa Nguyễn ở Đàng Trong khỏi các cuộc tấn công của chúa Trịnh Đàng Ngoài. Đào Duy Từ quê ở Thanh Hóa. Biết ông là một người văn võ song toàn, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gọi Đào Duy Từ là thầy để tỏ lòng kính trọng. Năm Canh Ngọ 1630, ông chủ xướng việc thiết kế và chỉ đạo xây dựng hai công trình phòng thủ quan trọng là Lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình (1630) và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình). Lũy Thầy đã đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chúa Nguyễn giữ vững cơ đồ của mình ở Đàng Trong trong suốt gần 50 năm chiến tranh với chúa Trịnh Đàng Ngoài (1627-1672). Sau này, vua Thiệu Trị khi đi qua hệ thống Lũy Thầy, ngưỡng mộ vẻ hùng vĩ của công trình này, và để tỏ lòng nhớ ơn công đức của tiền nhân, đã đặt tên lại cho Lũy Thầy là Định Bắc Trường Thành.

     Tam Tòa là một giáo xứ cổ xưa thuộc giáo phận Vinh nằm trong tỉnh Quảng Bình. Nhà thờ Tam Tòa qua lối kiến trúc Bồ Đào Nha với một quả chuông lớn cổ điển xây vào năm 1886 và khánh thành một năm sau, được kể là một trong những ngôi thánh đường đẹp nhất tại Việt Nam. Ngày 11-2-1965 bọn du kích địa phương VGCS đặt súng trên tháp chuông bắn lên máy bay mỹ để khiêu khích, không lực Mỹ tưởng nhà thờ có quân đội CS đóng nên thả bom đánh sập nhà thờ, chỉ còn lại tháp chuông và bức tường cuối. Sau chiến tranh chấm dứt năm 1975, giáo dân không đủ khả năng để trùng tu lại thánh đường nên các thánh lễ của giáo dân phải cử hành ngay trên cái nền đã đổ nát. Cho tới năm 1996 tỉnh Quảng Bình qui định khu thánh đường là nơi gọi là di tích tội ác chiến tranh Mỹ và cấm không được cử hành thánh lễ ở đó nữa. Tại sao các nấm mồ tập thể tết Mậu Thân tại Huế chúng không cho lưu lại làm di tích lịch sử? Tại sao chúng không giữ lại trường học Ba Càng, Vĩnh Long làm di tích lịch sử? Tại sao chúng phải sang tận Malaysia áp lực chính phủ nước này phá bỏ bia di tích thuyền nhân? Bọn Việt gian bán nước lưu manh.

     Ngày 02-2-2009, bất chấp lệnh cấm, Đức cha Cao Đình Thuyên, giám mục giáo phận cùng 14 linh mục Vinh đến dâng thánh lễ tại nhà thờ Tam Tòa. Hàng ngàn giáo dân đã tới tham dự thánh lễ và hỗ trợ quyết định của Đức Cha Thuyên đòi lại thánh đường.

     Vào khoảng 9 giờ sáng ngày 20-7-2009, hàng trăm giáo dân Vinh tới dựng Thánh Giá, lập bàn thờ, và căng bạt để dâng thánh lễ thì bị công an ập tới tấn công và đàn áp dữ dội. Chúng giật sập cái lều vừa được dựng lên, đạp đổ bàn thờ, cướp đi Thánh giá, hành hung giáo dân kể cả đàn bà con nít. Giáo dân của các giáo xứ lân cận và các linh mục phản ứng lại bằng cách kéo đến thật đông để cầu nguyện một cách hòa bình. Nhưng công an cũng kéo đến rất đông cùng với bon du côn xã hội đen để đàn áp giáo dân. Chúng xịt hơi cay, đâm bàng lưỡi lê, đắnh bằng gậy bất kể lớn bé già trẻ, giáo dân hay linh mục. Hai linh mục bị thương. Cha Ngô thế Bính bị trong thương. Tình hình vẫn còn diễn biến từng ngày, từng giờ. Xin mời quí bạn đọc theo dõi Thông Cáo số 4 của Tòa Giám Mục Vinh dưới đây để biết chi tiết tình hình.

THÔNG CÁO SỐ 4

V/v Tam Tòa tại Đồng Hới, Quảng Bình

1. Tin 2 linh mục và một số giáo dân Vinh bị nhóm "côn đồ" đánh đập tại Tam Tòa trước sự chứng kiến của những người mang sắc phục công an, làm cho dư luận khắp nơi thêm phẫn nộ, bàng hoàng, lo lắng. Nhiều nơi điện thoại về Tòa Giám mục thăm hỏi tình hình và phỏng vấn. Cha Fx. Võ Thanh Tâm – Tổng đại diện Giáo phận Vinh đã xác định chắc chắn có sự việc trên.

2. Chiều 27/7/2009, linh mục Phaolô Nguyễn Đình Phú và mấy giáo dân bị đánh trọng thương về tới Kỳ Anh (Hà Tĩnh). 21 giờ cùng ngày, linh mục Phêrô Ngô Thế Bính được đưa về Phòng khám Đa Khoa của Tòa Giám mục Xã Đoài. Giáo dân kéo đến, thấy cảnh linh mục bị đánh bầm dập mặt mũi và thân thể mang nhiều vết thương đã không thể kìm nén được sự phẫn uất của mình. Không khí sục sôi.

3. Chiều 27/7/2009, Tòa Giám mục nhận được tin chị Yên bị công an Quảng Bình tới nhà mang đi hôm 26/9/2009 được thả về. Lúc 01 giờ sáng 28/7/2009, Tòa Giám mục nhận được tin anh Thống bị mang đi hôm 26/7/2009, lúc đó đang bị công an tống ra đường.

4. Sáng 28/8/2008, phái đoàn Tòa Giám mục vào thăm Cha Phú tại giáo xứ của ngài coi sóc. Được Cha Phú kể lại, phái đoàn hiểu thêm âm mưu ác độc của nhóm côn đồ và những kẻ tiếp tay trong sắc phục công an đứng chứng kiến cảnh tượng kinh khủng đó. Ngài nói, chỉ trước đó mấy phút, khi xe của ngài vừa đậu tại phần đất gần nền nhà thờ Tam Tòa thì nhóm côn đồ ập tới đánh ngài và các giáo dân cùng đi.

5. Tại phòng khám Tòa Giám mục, từng đoàn người đến thăm Cha Bính và hỏi thăm sự thể. Dù bị đau đớn, ngài vẫn cố kể lại những hành động của nhóm côn đồ đánh hội đồng trước sự chứng kiến của công an Quảng Bình, làm cho không khí căng thẳng lan nhanh khắp Giáo phận Vinh. Cha Tổng đại diện và các linh mục tại Tòa Giám mục cố trấn an mọi người bình tĩnh, cầu nguyện, với ý thức rằng hành động của ma quỷ rất dễ lún sâu trong vũng lầy nhơ nhớp của nó. Còn con cái Chúa phải chiến đấu với quỷ ma bằng cách thế khôn ngoan như Lời Chúa dạy.

6. Tối 28/7/2009, một số gia đình có nạn nhân đang bị công an Quảng Bình bắt giữ báo cho Tòa Giám mục biết là chính quyền địa phương đề nghị tới "làm thủ tục" đón người nhà về. Rồi cả ngày 29/7 vấn đề đó cũng chưa xong!
 
7. Chiều 29/7/2009 phái đoàn Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, Hà Nội tới Tòa Giám mục thăm Giáo phận Vinh và gửi quà thăm anh chị em giáo dân Tam Tòa.

8. Ngày 30/7/2009, vào lúc 10 giờ, ông Nguyễn Đức Thịnh – Vụ phó vụ Công giáo và bà Đào Thị Đượm – Chuyên viên Công giáo thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam đã tới Tòa Giám mục gặp và trao đổi với linh mục Võ Thanh Tâm – Tổng Đại diện Giáo phận Vinh cùng với linh mục Phạm Đình Phùng – Chánh văn phòng Tòa Giám mục Xã Đoài. Tại cuộc gặp này, Đại diện Ban Tôn giáo Chính phủ muốn nghe những ý kiến từ Giáo phận Vinh. Linh mục Tổng đại diện lần lượt nêu lên các ý sau đây :

– Sự việc Tam Tòa lúc đầu chỉ là việc nhỏ. Giáo dân chỉ đến dựng cái lán che trên nền nhà thờ Tam Tòa, nền đất thánh thiêng của giáo dân Tam Tòa suốt mấy trăm năm qua. Thế mà công an Quảng Bình đã đánh đập tàn nhẫn, bắt giữ trái phép giáo dân, chiếm đoạt Thánh Giá – biểu tượng cao quý của người Công giáo, chiếm đoạt tài sản của Giáo hội và của giáo dân, rồi lại tiếp tục sa vào sai lầm khi 2 linh mục và một số giáo dân bị đánh trọng thương, càng làm cho dư luận ngày thêm bất bình phẫn uất. Cha Tổng nói: "Chính tôi là người đã vào Tam Tòa thăm các nạn nhân. Họ kể và tôi thấy những viết thương bầm tím trên người họ mà xót xa, đau đớn".

– Về phía Giáo hội, chúng tôi cố gắng trấn an dân chúng. Họ sục sôi vì những hành động tàn nhẫn của công an Quảng Bình.

– Chúng tôi tự hỏi : Nếu UBND tỉnh Quảng Bình nói chỉ có giáo dân và lương dân xô xát với nhau, vậy tại sao công an chỉ bắt giữ giáo dân, đánh đập, giam cả 10 ngày nay rồi, mà lại không bắt một ai là lương dân ?

– Nếu công an nói rằng họ đến để dẹp việc gây rối trật tự công cộng thì tại sao lại lấy hết tất cả các máy quay phim, chụp hình của giáo dân, tới nay cũng chưa trả lại. Nếu họ làm việc chính nghĩa thì phải để cho dân thấy chứ?

– Và nếu công an đến để dẹp việc gây rối thì tại sao lấy hết tất cả, từ Thánh Giá, khung sắt, tôn lợp, xe cộ, máy phát điện, thức ăn, cả đến tiền bạc của giáo dân mà không lập biên bản gì cả?

– Cụ thể hơn cả là tại sao trong mấy ngày qua, công an không bắt nhóm "côn đồ" đông tới hàng trăm đánh đập 2 linh mục và các giáo dân trong ngày 27/7/2009 ?

9. Sau khi nghe những lời trình bày của linh mục Tổng đại diện và linh mục Chánh văn phòng, đại diện Ban tôn giáo chính phủ hiểu rõ hơn vấn đề và muốn được Tòa Giám mục đưa ra những đề xuất. Tòa Giám mục lặp lại những yêu cầu từ ban đầu:

– Thả ngay, thả hết những giáo dân bị công an Quảng Bình đánh đập và đang bị bắt giữ.
– Săn sóc, chữa lành những giáo dân bị công an đánh đập.
– Bồi thường tại chỗ lán che của giáo xứ Tam Tòa.
– Trả lại Thánh giá, trả lại tài sản của Giáo hội và tài sản của giáo dân.
– Dừng ngay việc xuyên tạc sự thật, bôi nhọ tôn giáo, kích động hận thù, gây chia rẽ khối đoàn kết lương giáo.    
– Còn việc 2 linh mục và các giáo dân bị đánh đập, UBND tỉnh Quảng Bình phải chịu trách nhiệm việc chữa trị, lo thuốc men và phải xét xử những kẻ "côn đồ" theo pháp luật. 

11. Lúc 18 giờ ngày 30/7/2009, Tòa Giám mục nhận được tin từ người nhà của các nạn nhân cho biết : công an Quảng Bình đã thả thêm 4 giáo dân bị bắt giữ từ ngày 20/7/2009. Hiện còn 3 giáo dân bị giữ. Còn ông Nguyễn Công Lý bị mang đi ngày 26/7/2009 đã được thả ngày sau đó. 

Xin mọi người tiếp tục hiệp ý cầu nguyện và thể hiện tình yêu thương liên đới với Tam Tòa.

Văn phòng Thư ký Tòa Giám mục
Chánh Văn phòng
(Đã ký và đóng dấu)
Linh mục Antôn Phạm Đình Phùng

     Trong mấy ngày qua tôi cứ luôn băn khoăn thắc mắc về một vấn nạn là tại sao bọn VGCS mấy năm gần đây lại cứ nhè vào đầu người công giáo mà đập như thế. Chuyện này xẩy ra ở khắp nơi trong nước. Hai vụ nổi tiếng nhất là Tòa Khâm Sứ tại Hànội và giáo xứ Thái Hà Ấp cũng tại Hànội. Bây giờ đến giáo sứ Tam Tòa. Có lẽ bọn đầu lãnh VGCS đã không ngờ đụng phải ổ kiến lửa. Có thể suy đoán rằng trước tình thế nguy ngập của đất nước, bọn Việt gian CS cảm thấy đã đến lúc cần thiết phải mở bang giao với Tòa Thánh La Mã. Nhưng để lập bang giao, chúng cũng cần phải dẹp hết và dẹp cho xong tất cả mọi sức chống đối của giáo dân trước đã. Vì thế mới có những chuyện như chuyện Tam Tòa xẩy ra. Đức cha Cao Đình Thuyên đã căng lều làm lễ từ đầu Tháng 2-2009 đến giờ chứ đâu phải mới đây đâu. Sao bọn chó má không ra đấy ngăn cản từ trước mà phải đợi cho đến bây giờ mới gây chuyện? Vả lại nhà thờ là tài sản của GH chứ có phải của đảng VGCS đâu. Đang lúc xẩy ra biến cố Tam Hòa thì bọn VGCS lại tung ra cái tin tên chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sắp sang viếng thăm Tòa Thánh để bàn về vấn đề bang giao. Xem ra chúng có dụng ý mượn tay Tòa Thánh để calm down vấn đề như đã xẩy ra trước đây trong biến cố Tòa Khân Sứ với lá thư của Hồng Y Bertone. Lập bang giao với Tòa Thánh, VGCS còn hy vọng lôi kéo được GHVN đi theo để ủng hộ việc bán nước của chúng. Mong rằng Tòa Thánh đừng làm thế nữa, và giáo dân VN cũng đừng vâng lời vô lý như thế nữa. Việc tranh đấu của giáo dân trong phạm vi quyền công dân Tòa Thánh không nên xen vào, và giáo dân cũng chẳng nên vâng lời một cách vô lý như thế. Giáo Phận Vinh đã để lại một kinh nghiệm sống rất quí báu của giáo xứ Đông Yên. Trong suốt giai đoạn bọn VGCS gọi là thời kỳ chống Pháp chống Mỹ, giáo dân Đông Yên nhất định cương quyết không đi dân công cho VGCS, không đi lính cho VGCS, không để cho VGCS bắt cha xứ của mình đi, không hợp tác với VGCS trong bất cứ vấn đề gì. Cuộc đấu tranh ôn hòa và thụ động này VGCS không làm gì được và giáo dân đã thành công. Nếu giáo phận Vinh và toàn thể Giáo Hội VN đũng kiên cường đấu tranh bất hợp tác như thế thì chế độ VGCS bán nước nhất định phải sụp đổ.

Duyên Lãng Hà Tiến Nhất




Dòng Ðời Bất Hạnh

Dòng Ðời Bất Hạnh

Kính thưa mẹ!

Những dòng này con viết để kính dâng mẹ. Không phải để khơi lại một sự bất hạnh mà Thượng Đế đã đổ xuống cho gia đình chúng ta, mà là con muốn ghi nhớ lại những nỗi đau thương, tận cùng mà gia đình chúng ta đã chịu đựng trong những tháng năm dài cơ cực.
Kính lạy mẹ!
Bây giờ, mẹ đã vĩnh viễn ra đi, từ nay chúng con sẽ không còn gặp lại bóng hình thân yêu của mẹ. Chúng con đã thật sự mất mẹ rồi. Lần về thăm mẹ để rồi ra đi, con cứ nghĩ đó chỉ là buổi sinh ly, chứ nào ngờ đâu chính là ngày vĩnh biệt.
Dù biết rằng – có sinh ắt có tử, đó là định luật mà đấng tạo hóa đã sắp bày, nhưng sao lòng con vẫn cảm thấy thương xót ngậm ngùi.
Thôi , mẹ hãy yên lòng yên nghĩ nghe mẹ. Đêm nay, từ một góc trời xứ lạ – Thành phố Chicago lạnh rét run người, trong một aparment rét giá, nhớ đến mẹ nên con viết những dòng này kính dâng lên mẹ đây. – PTN
* * *
Khi tôi vừa lên bảy tuổi thì cha tôi cũng vừa lìa khỏi cõi đời sau một cơn bạo bệnh. Ba tôi chết đi là một sự mất mát to lớn đối với gia đình chúng tôi, vì cha tôi là người lao động chính trong gia đình. Từ miếng cơm, tấm áo đều do ông mà có.
Năm đó, mẹ tôi vừa tròn hai mươi tám tuổi, chị tôi lên mười, tôi lên bảy và em gái tôi lên năm. Tội nghiệp cho mẹ tôi, một người đàn bà chưa đầy ba mươi tuổi đã phải gánh lấy trách nhiệm nuôi nấng ba đứa con thơ trong một quê hương ngập đầy khói lửa.

Ba tôi chết đi trong khi đất nước vẫn còn ầm vang tiếng súng –
Chiến tranh đã cướp đi biết bao hạnh phúc của mọi gia đình, trong đó có gia đình chúng tôi. Đêm đêm tiếng đại bác từ quận, huyện bắn về, chúng tôi chỉ còn biết chun xuống gầm giường niệm Phật.

Ba tôi mất đi đã để lại cho mẹ con chúng tôi một con số không – một con số không thật sự, bởi vì trước khi ba tôi mất vài tháng, ngôi nhà tranh chúng tôi cư ngụ
đã bị một trận hỏa hoạn thiêu hủy tất cả, ba tôi chỉ dựng tạm lại căn chòi mà chúng tôi đang ở để có chổ che nắng, che mưa rồi dành dụm sẽ cất lại căn nhà khác, nhưng căn nhà chưa cất được thì ba tôi đã ra đi. Nỗi bất hạnh tột cùng đã đến với gia đình chúng tôi.

Thế rồi hằng ngày mẹ con chúng tôi sẽ sống ra sao?
Tôi và mẹ tôi ra đồng mót từng cọng lúa còn xót lại, đem về nhà giã ra nấu cháo cho cả nhà cùng ăn, hoặc vô các nương rẩy làm công để chiều về được người ta trả cho một ít khoai lang, khoai mì sinh sống qua ngày, còn chị tôi ở nhà trông em gái tôi.

Cuộc sống của gia đình chúng tôi, hay nói đúng hơn của đa số dân làng Bình Thành đều vậy. Dù mới bảy tuổi nhưng tôi đã biết thế nào là chiến tranh – đói nghèo cùng cực, chết chóc tang thương. Và tôi cũng đã biết tự hỏi – người ta tạo ra chiến tranh để được gì? Tại sao người ta không thể gạt bỏ những sự thù hằn chém giết mà tạo một cuộc sống an lành cho người dân? Khi đó, tôi chỉ biết hỏi nhưng chưa nhận được câu trả lời. Đêm đêm tôi thường nghe tiếng thở dài của mẹ và thấy được những dòng nước mắt của bà chảy dài xuống má. Mỗi lần thấy mẹ tôi khóc, tôi thương mẹ tôi lắm, tôi muốn ôm hôn bà thật nhiều và tôi nghĩ – tôi có thể chết theo bà nếu bà không còn sống nữa

Dù mới bảy tuổi đầu, nhưng có lẽ vì cuộc sống quá khổ cực nên tôi đã có trí khôn, tôi luôn thầm nghĩ – Nếu mai này đất nước được hòa bình, có điều kiện tôi sẽ xin mẹ tôi cho tôi đi học. Tôi sẽ cố gắng học thật giỏi, đỗ đạt thành tài để thay đổi cuộc sống mà lo cho mẹ tôi được sung sướng như người, nhưng đó là ý nghĩ trẻ thơ của tôi, còn thực tế như thế nào cũng do định số.

Một ngày, trong nhà chúng tôi không còn gì để ăn, tôi và chị tôi rũ nhau vô vườn của một người trong làng bẻ chuối trộm, chẳng may chúng tôi bị chủ vườn phát hiện, ông chủ vườn bắt chị em chúng tôi trói lại dưới gốc cây soài, ông hỏi chúng tôi – “ Tại sao chúng mày vô vườn bẻ trộm chuối của tao”. Chị tôi run rẫy khóc sướt mướt, còn tôi vẫn bình tĩnh trả lời với ông ta – “ Thưa ông Ba ( ông ta thứ ba), sở dĩ chúng con bẻ trộm chuối của ông là vì nhà chúng con không còn gì để ăn, chúng con đói quá”. Ông Ba nhìn trừng vào mặt chúng tôi rồi lớn tiếng – “ được, chúng mày trả lời ngon lành lắm, tao cho chúng mày đói rục xương”. Ngày đó, chúng tôi bị ông ba trói cả buổi mới được thả ra. Khi đó, tôi đã biết suy nghĩ – Tại sao, người lớn không biết thương trẻ thơ? Tại sao người ta không có lòng nhân ái bố thí cho trẻ nhỏ một vài trái chuối trong lúc chúng đang đói khát? Tại sao cùng là đồng loại mà người ta không thương yêu, giúp đở cho nhau – T&igra
ve;nh người đi đâu rồi, có lẽ chiến tranh đã cướp mất rồi chăng?

Một hôm, mẹ tôi ôm chúng tôi vào lòng căn dặn: – “ Hôm nay, mẹ xuống phố kiếm việc làm để mua gạo về cho các con ăn, các con ở nhà đừng đi đâu xa, chiều mẹ sẽ về” . Trước khi đi, mẹ tôi còn bảo chị tôi: “ con nhớ lời mẹ dặn, nhớ trông các em, đừng cho chúng ra nắng .”Tôi còn nhớ, buổi sáng hôm đó là buổi sáng đầy mưa rơi và gió lạnh. Mẹ tôi, đầu đội chiếc nón lá cũ kỹ, người mặc bộ bà ba đen có nhiều chổ vá, chân mang đôi guốc đã mòn, vừa đi vừa ngoáy đầu nhìn lại. Chúng tôi đứng nhìn theo bóng hình mẹ mà thương nhớ ngập đầy. Và rồi chị tôi đã khóc, em tôi đã khóc và tôi cũng đã khóc. Buổi sáng đó đã khắc ghi vào ký ức tôi cho đến suốt cả cuộc đời này.

Ngày hôm đó, mẹ tôi chẳng trở về. Một ngày, rồi một ngày chẳng thấy bóng hình mẹ đâu. Trong nhà chẳng có gạo, đói quá chúng tôi chỉ còn biết ôm nhau mà khóc. Đứa em gái tôi, lúc nào cũng luôn miệng hỏi:
– “ mẹ đi đâu rồi chị?”
-“mẹ đi làm em à”.
– “làm ở đâu hả chị?”
– “chị không biết”
– “ bao giờ mẹ về hả chị?”
– “chắc mai mẹ về”
– “chị ơi! em nhớ mẹ quá.”
– “chị cũng vậy”.


Buổi chiều ngày thứ ba, từ ngày mẹ tôi ra đi, mẹ tôi lại trở về với một thân hình tiều tụy, mặt đầy thương tích. Chúng tôi hỏi mẹ “vì sao!” thì mẹ tôi cho biết là bị tai nạn xe, vô nằm ở nhà thương nên không về được. Lúc đó với tuổi dại khờ, nghe mẹ nói sao hay vậy chứ chúng tôi nào biết gì hơn, nhưng sau này mỗi ngày mỗi lớn, trở về lại Ninh Hòa, hỏi ra tôi mới hiểu sự thật là ngày đó mẹ tôi đã ăn cắp gạo của người ta, nên bị người ta đánh và lính Tây bắt nhốt ở quận. Biết được điều này, không những tôi không oán trách mẹ tôi mà trái lại tôi thấy thương mẹ nhiều hơn. Mẹ tôi đã vì chúng tôi mà làm bất cứ chuyện gì, miễn là có chén cơm cho chúng tôi sống. Từ ngày biết chuyện mẹ tôi bị đánh đòn, bị ở tù cũng vì chúng tôi, tôi cảm thấy phải có trách nhiệm với mẹ tôi trong quảng đời còn lại của mẹ. Tôi đã nguyện với lòng là phải tiến thân để đền đáp công ơn của mẹ.

Chiến tranh chấm dứt, dân làng Bình Thành thở phào nhẹ nhỏm và mẹ tôi nghĩ đến việc trở về quê ngoại – Quy Nhơn.

Theo lời mẹ tôi kể lại, gia đình ngoại tôi không phải giàu sang gì lắm nhưng cũng thuộc hạng trung lưu, nghĩa là không đến nỗi phải lo từng miếng ăn chạy bửa. Mẹ tôi, đã sắp xếp mọi việc theo sự suy nghĩ của bà khi chúng tôi trở về quê ngoại – tôi sẽ được đi học; chị tôi ở nhà trông em; mẹ tôi lo mua bán.

Từng đêm, từng đêm tôi đã nằm mơ tưởng đến một ngày mai ấm no và hạnh phúc – Tôi sẽ sung sướng biết chừng nào khi tôi sẽ trở thành là một cậu học trò – đến trường có thầy, có bạn. Đời tôi không còn khổ cực, lầm than – cơm không có ăn, áo không có mặc.Nhưng khi chúng tôi vừa đặt chân đến Quy Nhơn, tìm được căn nhà của ngoại tôi thì niềm mơ ước của tôi cũng tan thành mây khói. Căn nhà ngoại tôi đang ở là một căn chòi che bằng lá dừa, được dựng bên hông ngôi chùa Tàu Quảng Đông, diện tích chưa được mười mét vuông. Hỏi ra mới biết, những gì ngày xưa ngoại tôi có, chiến tranh đã cướp mất hết, nghĩa là bom đạn đã làm sập nát hết. Chiến tranh! – tất cả không còn gì. Tôi thầm nghĩ.

Rồi một ngày, mẹ tôi dẫn một mình tôi trở lại Ninh Hòa và bà nói với tôi – " Mẹ xa con, mẹ chẳng đành lòng nhưng vì tương lai của con. Mẹ muốn con được ăn học, nhưng ở Quy Nhơn mẹ không có khả năng và bà con cũng không ai giúp được gì nên mẹ dẫn con về Ninh Hòa gởi cho anh Ba – con bác của con, con hiểu cho mẹ.” Nghe mẹ tôi nói vậy, tôi chỉ còn biết khóc chứ biết làm sao hơn, trong khi tôi chỉ là một thằng bé mới lên bảy, dù rằng tôi rất muốn ở gần mẹ, gần chị, gần em.

Về lại Ninh Hòa, hàng ngày tôi đi học ở trường làng Ninh Hiệp, trưa ghé ăn cơm nhờ ở nhà một người bà con – cô Hai – em bà con với ba tôi, tối về thui thủi một mình với một bà già gần tám mươi tuổi – bà con xa bên nội tôi mà anh con bác tôi nhờ ở trông nhà giùm ( anh, chị con bác tôi cha , mẹ mất sớm. Chị đi ở cho người ta và ông anh đi học nghề nên không về nhà). Cơm buổi tối là phần cơm buổi sáng mà bà già bà con nấu để dành – cơm chỉ ăn với nước mắm, hoặc nước muối.

Năm tôi lên chín tuổi thì mẹ tôi dẫn tôi trở lại Quy nhơn. Về lại Quy Nhơn tôi nghĩ – sẽ được gặp lại chị em tôi, tôi mừng lắm nhưng khi bước vô nhà, tôi chẳng thấy chị tôi đâu, hỏi ra tôi mới biết là mẹ tôi đã cho chị tôi lên ở với người dì – chị của mẹ tôi trên xứ thượng – Kon Tum. Vậy là vì sự sống, chị em chúng tôi đã không được sum hợp.

Và rồi một ngày, mẹ tôi lên Kon Tum thăm chị tôi, mẹ tôi đã khóc hết nước mắt, khi tận mắt nhìn thấy sự khổ cực của chị tôi làm việc như một người tôi tớ. Một đứa trẻ mới mười ba, mười bốn tuổi phải làm đủ mọi việc trong nhà, từ cơm nước, giặt giũ mà còn bị la mắng đủ điều. Thương con, mẹ tôi đã dẫn chị tôi trốn đi, (vì mẹ tôi rất kiên sợ dì tôi), nhưng cuối cùng dì tôi đã tìm được mẹ và chị tôi ngoài bến xe đò, bà giận dữ đánh mẹ tôi tại bến xe và lột lại chiếc áo ấm mà bà đã mua cho chị tôi sau mấy năm làm lụng cực khổ. Tình đời là thế, tình người là vậy.

Khi mẹ tôi dẫn chị tôi trở lại Quy Nhơn, bà kể cho chúng tôi nghe những nỗi thống khổ của chị tôi, chúng tôi đã ôm lấy chị tôi khóc thật lâu. Nghĩ thương chị tôi quá.- Bây giờ ngồi viết những dòng chữ này, hình ảnh của ngày xưa cũ lại hiện về, nước mắt tôi lại chảy. Nhớ lại ngày xưa, tôi thấy nhớ mẹ, thương chị và em tôi nhiều, dù bây giờ mẹ tôi đã không còn và chị và em tôi trên đầu ai cũng đã có sợi bạc.

Rồi việc gì đến cũng đến, một hôm có người bà con với mẹ tôi ghé nhà thăm, bà là cô giáo của một trường tư thục nhỏ, do bà tự cai quản, sau
khi chuyện trò, bà đồng ý cho tôi vào học trường của bà với điều kiện – bà ta không lấy tiền học, còn tôi mỗi ngày giúp bà quét dọn, làm vệ sinh cho trường. Được đi học là tôi mừng quá rồi, điều kiện gì tôi cũng chịu hết, vậy là tôi được đi học trở lại.

Ngôi trường “ tiểu học Nhơn Phước” của cô giáo Tý – người bà con với mẹ tôi, nói là ngôi trường cho đúng chữ nghĩa, chứ nó chỉ là một ngôi nhà đã mục nát, ngồi trong trường nhìn lên trần thấy ánh mặt trời. Bàn học chỉ có sáu cái, học sinh khoảng hơn bốn chục người nhưng đủ mọi lớp – từ lớp mẫu giáo đến lớp ba, học sinh ngồi chen chúc chật chội, vì vậy nên tôi là người học sinh “đặc biệt” được ngồi trên đống gổ (mà ai đó đã để nhờ) làm bàn học. Nhưng dù sao đi nữa, được đi học là tôi thấy vui sướng lắm rồi.

Hằng ngày, mẹ tôi đúc bánh xèo bán bên ngoài hiên nhà của ngoại tôi, chị tôi phụ giúp mẹ tôi, còn tôi thì mỗi tối bưng quả hột dưa, được gói sẵn đem vô rạp hát “ Cộng Hòa” bán. cuộc sống của gia đình chúng tôi tạm thời là vậy, nhưng sự đời cũng không thể im xuôi. Một hôm, cô giáo Tý nói với tôi:
“ Con à! Dì ( bà thường xưng với tôi như vậy, vì bà có bà con với mẹ tôi) rất thương con vì con hiếu học nhưng dì không biết sao hơn, vì trường Dì chỉ dạy đến lớp ba là hết, mà con đã học đã hai năm lớp ba rồi. Đáng lẽ nếu có điều kiện thì con không phải chịu thiệt thòi vậy, mỗi năm con đủ khả năng lên một lớp. Suy nghĩ kỷ, không vì quyền lợi của Dì mà không nghĩ đến con, do đó Dì muốn con nên về nói lại với mẹ con cố gắng cho con đi học trường khác để lên lớp trên học, chứ học với Dì uổng phí thời gian lắm. Nghe cô giáo Tý nói, tôi biết là bà nói đúng nhưng sao lòng tôi vẫn cảm thấy buồn.

Vậy là sau mấy năm học với cô giáo Tý, tôi lại phải chịu cảnh thất học. Tôi buồn lắm nhưng biết sao hơn.

Một ngày, tôi đến nhà Trương Phi Hùng – người bạn cùng học lớp ba với tôi nơi trường cô giáo Tý. Mẹ Hùng là một người đàn bà rất nhân ái – Mỗi sáng, tôi thường ghé nhà Hùng rũ Hùng cùng đi học, mỗi lần như vậy, bà thường cho tôi một gói xôi và thường nói với Hùng về hoàn cảnh của tôi và bà cũng thường bảo Hùng nên đối xữ tốt với tôi. Nghe tin tôi đã nghỉ học, bà thương cảm tôi lắm nên nói với tôi về nhà lấy
giấy khai sinh đem đến cho bà, để bà xin cho tôi vào trường công lập Nguyễn Huệ cùng với Trương Phi Hùng. Nghe mẹ Hùng nói, tôi mừng lắm, trên đường về tôi cứ liên tưởng đến ngày tôi được vào trường Nguyễn Huệ – với bộ đồ trắng nam sinh của ngày thứ hai, áo trắng quần xanh của ngày thường. Có thầy cô, bạn bè đông đủ – vui! chắc vui lắm.

Nhưng sự hy vọng của tôi đã tan biến mất, sau khi nghe mẹ tôi phân trần – “ Mẹ cũng muốn cho con đi học lắm, nhưng con thấy đó, nhà mình không có miếng ăn thì làm sao có tiền cho con ăn học đây, chưa nói đến, bây giờ phải đi làm giấy khai sinh cho con tốn kém không ít ( Tôi chưa có giấy khai sinh), hơn nữa, rồi tiền sách vỡ , quần áo, bút mực và bao nhiêu chuyện khác. Con hãy tạm ở nhà mua bán giúp mẹ rồi mẹ sẽ tính”. Nghe mẹ tôi nói như vậy, tôi chỉ còn biết im lặng.

Cuộc đời cơ cực nó cũng trở về cơ cực. Không còn đi học nữa, thời gian không thể để cho tôi rảnh rỗi, do đó ngoài buổi tối bưng quả hột dưa, cam, quít vô rạp “ Cọng Hòa” bán hát bội ( Rạp này, các đoàn hát bội thường mướn hát), buổi sáng, tôi và chị tôi thức dậy từ năm giờ sáng xuống lò bánh mì “Toàn Phước” gần chợ Qui Nhơn lãnh bánh mì bán cho đến mười giờ trưa, có khi ế ẫm đến cả mười hai giờ không chừng. Chị tôi khi đó đã lớn, đã biết mắc cở, làm dáng cho nên mang bao bánh mì trên vai vừa đi vừa rao:-“ Ai mua bánh mì nóng giòn không?” thì chị tôi thấy xấu hỗ. Biết tính chị tôi như vậy, tôi thương lắm. Tôi nghĩ – Nếu nhà tôi khá giả thì giờ này chị tôi cũng đã là một cô nữ sinh như người ta rồi, đâu có e thẹn mang bao bánh mì rao bán. Do đó, tôi thường bảo chị tôi, cứ đứng đợi tôi một chỗ nào đó, khi nào bán xong phần tôi là tôi bán tiếp phần chị, khi hết bánh thì hai chị em cùng về.

Ngày tháng cứ vậy trôi qua, một hôm tôi đang đi bán bánh mì nơi đường Cường Để, tôi thấy trước một ngôi nhà có dán giấy quảng cáo “ Luyện thi Tiểu học và đệ Thất”, bỗng dưng hai chữ “ Đi học!’ hiện lên trong ý nghĩ của tôi, vừa lúc đó một người đàn ông từ trong nhà bước ra gọi tôi mua bánh mì, nhân dịp, tôi hỏi thăm người đàn ông, và biết được ông ta là thầy dạy học ở đó, tôi bèn kể rõ hoàn cảnh của tôi và xin ông cho tôi được học miễn phí. Nghe tôi kể, biết được hoàn cảnh của t&ocir
c;i, ông cũng thương cảm, nhưng ông ta bảo:- “ cái khó khăn là em mới học lớp ba, còn phải học hai lớp – nghĩa là hai năm nữa em mới có thể đi thi được, hơn nữa thầy dạy luyện thi chỉ có ba tháng hè thôi, chỉ dạy toán và văn làm sao em học đủ bài vở để đi thi”. Nhưng sau, vì thấy tôi năn nỉ và muốn học quá nên ông đồng ý cho tôi học. Vậy là từ đó, mỗi tối tôi không còn đi bán hột dưa nơi rạp hát “ Cọng Hòa” nữa, mà đi học lớp “luyện thi Tiểu học và đệ thất” với thầy Tâm nơi đường Cường Để”, Và với sự cố gắng tột cùng, năm đó – 1960, tôi đã đậu được bằng Tiểu Học – một niềm vui lớn nhất trong đời tôi.

Nhưng rồi, sự học của tôi cũng chỉ giới hạn ở cái bằng Tiểu học, vì khả năng của mẹ tôi chỉ làm nổi cái giấy khai sinh cho tôi đi thi Tiểu học, chứ bà không đủ khả năng sắm áo, quần, sách vở và biết bao nhiêu chuyện khác của một người học sinh. Vì vậy, sau khi đậu xong bằng Tiểu học, tôi lại phải trở lại công việc của những ngày cũ – Buổi sáng bán bánh mì; Buổi tối bán hột dưa, cam, quít nơi rạp hát “Cọng Hòa”. Và hai năm sau gia đình tôi lại có sự biến đổi mới – Mẹ tôi tái giá.

Từ ngày mẹ tôi tái giá, cuộc sống của gia đình tôi cũng chẳng lấy gì khả quan lắm, vì người dượng ghẻ của tôi là một người đàn ông vợ chết còn mẹ già và hai đứa con gái nhỏ. Cuộc sống của gia đình ông cũng chẳng khác gì gia đình tôi. Ông là một công nhân của một hãng kem nhưng vừa bị cho thôi việc – Đang thất nghiệp. Vì vậy, gia đình chúng tôi có sự thay đổi, nhưng chị em chúng tôi chẳng có sự thay đổi gì.

Năm ấy, tôi đã mười bốn tuổi, tôi đã hiểu được một phần lý lẽ của cuộc sống –“ Muốn thay đổi cuộc đời là phải có bằng cấp. Mà muốn có bằng cấp là phải đi học”, vì hiểu rõ như vậy, nên một hôm, tôi mới nói chuyện với mẹ tôi:

“ Thưa mẹ! con nghĩ – mẹ tái giá là để cho gia đình chúng ta bớt khổ sở, con và chị hai không còn mang bao bánh mì chạy rong khắp buổi sáng; buổi tối không còn mang quả hột dưa, cam quít vô rạp “Cọng Hòa”, chứ mẹ tái giá để rồi cuộc sống của chúng con không khác gì ngày xưa thì mẹ tái giá làm gì? Thưa mẹ! bây giờ, con muốn đi học. Có đi học mới thay đổi được cuộc sống của chúng ta thôi mẹ ạ!”Và trong niên học năm đó – 1963, tôi đã nhờ cậu tôi – làm trưởng ấp Phan Bội Châu, làm đơn và ký nhận “ con nhà nghèo” để tôi vô trường Bồ Đề – cơ sở giáo dục của Giáo Hội Phật giáo xin học bổng. Được sự chấp thuận của ban giám đốc và cơ sở giáo dục Phật Giáo tỉnh, từ năm đó tôi đã thật sự là một học sinh của trường Bồ Đề với một điều kiện mà nhà trường đã đòi hỏi ở tôi một sự cố gắng và chăm chỉ tột cùng –“ Hàng tháng phải xếp hạng cao mới cho học bổng”. Và trong sáu năm học ở trường Bồ Đề, vì cái nghèo, vì muốn thay đổi cuộc sống ở tương lai, tôi đã phải tranh đấu với chính con người tôi – Không ham chơi, không đua đòi, sống ẩn mình như một cụ non. Và cũng vì cái nghèo, sự học của tôi đã phải chấm dứt khi tôi vừa thi xong mảnh bằng Tú Tài phần hai – Đối với hoàn cảnh của tôi lúc đó đã là quá đủ, tôi không còn dám ước mơ gì hơn. Và cũng từ đây, tôi bắt đầu bước chân vào ngưỡng cửa cuộc đời.

Hành trang vào đời của tôi chỉ là một bộ đồ cũ mặc trong người và hai bộ đồ cũ đựng trong xách tay. Buổi sáng, chào mẹ, chào chị, chào em một mình bước lên xe đò về miền xa lạ – Đà Lạt để vào trường Võ Bị Quốc Gia, nhưng rồi vận đen vẫn hoài đeo đuổi, nên khi tôi đến là trường đã khai giảng. Dù thế nào tôi cũng không thể trở về lại Quy Nhơn, vì vậy, tôi đành chấp nhận đi vào quân trường Bộ Binh Thủ Đức.
Những ngày tháng ở quân trường, chính là những tháng ngày thử thách sự chịu đựng tột cùng của người lính – vui, buồn lẫn lộn…..

Phan Tưởng Niệm
Sat Aug 16, 2008 11:40 am




Vũ Cao Đàm: Hành vi nhỏ… dã tâm lớn

Trích Bài viết của Vũ Cao Đàm:  Hành vi nhỏ… dã tâm lớn

Lướt nhanh trên mạng những ngày này, chúng ta luôn tìm được nhiều thông tin đắt giá:

Thương lái Trung Quốc (dân thường nói ngắn gọn, là bọn Tàu) về các chợ nông thôn Việt Nam thu mua móng trâu với giá rất cao, thậm chí những cái móng từ 4 chân của một con trâu được bọn Tàu mua với giá hơn hẳn một con trâu. Thế là nông dân Việt Nam và bọn “trâu tặc” ra sức chặt móng trâu đem bán,… vẫn còn lãi một con trâu thịt mang bán ở chợ. Chỉ một thời gian rất ngắn, bọn chúng đã triệt phá tan hoang sức kéo của nông dân nghèo Việt Nam. Tiếp đó, dân loan tin cho nhau, hàng lũ lái trâu từ bên Tàu tràn qua biên giới để “tiếp thị” bán trâu. Trong cái lũ thương lái mới này còn có cả kẻ tiếp thị bán trâu sắt (máy kéo). Dân tình vỡ lẽ: Thì ra chúng thu mua móng trâu là vì như thế!

Ở một nơi khác, thương lái Tàu đi các chợ thu mua rễ hồi, thế là những bọn “hồi tặc” mở chiến dịch triệt phá rừng hồi, một dược liệu quý hiếm của Việt Nam; chúng mua râu ngô non, xúi giục nông dân triệt phá nương ngô mang bán, đánh vào trúng cái dạ dày của những người mà bọn Tàu gọi là “đồng chí tốt” Việt Nam; chúng thu mua mèo nhằm triệt phá một nguồn trừ chuột cắn lúa; rồi chúng mua ốc bươu vàng, xúi giục nông dân nuôi ốc bươu vàng tràn ngập đồng ruộng phá hoại mùa màng, tấn công vào chiến lược an ninh lương thực của quốc gia “láng giềng tốt” Việt Nam.

Hàng tốp thương lái Tàu xuất hiện từ Hà Giang cho đến Lâm Đồng để thu mua chè vàng, là thứ chè chặt thô phơi tái, không cần chế biến. Thương lái Tàu mua chè vàng với giá rất cao, kích thích nông dân chặt trụi đồi chè mang bán. Thế là thương lái Tàu đã triệt hạ vùng nguyên liệu cho các nhà máy chè Việt Nam. Không còn con đường nào khác, các doanh nghiệp chè Việt Nam phải sang mua chè nguyên liệu từ Trung Quốc. Đến khi nông dân Việt Nam cần trồng lại đồi chè, thì các “đồng chí tốt” từ bên kia biên giới, vì tình quốc tế vô sản lại lọ mọ xuất hiện, “giúp” mua giống chè từ Trung Quốc chở qua cho nông dân Việt Nam.

Thâm độc hơn, chúng mở chiến dịch thu mua dây đồng vụn với giá cao “trên trời”, đẩy từng đoàn “đồng tặc” lùng sục chặt trộm dây đồng từ các đường điện cao thế, băm nát mạng lưới điện quốc gia của nước “láng giềng tốt” để nước này đốt đèn dầu đi theo họ “hướng tới tương lai”. Có nơi, bọn “đồng tặc” lẻn vào kho ăn cắp từng cuộn dây đồng mới “coong” mang bán, thì “các đồng chí tốt” lên mặt đạo đức: “Ấy chết, cái ngộ không mua cái cuộn dây tôồng ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa của các tôồng chí tâu lố!” (Chúng tôi không mua cái cuộn dây đồng ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa của các đồng chí đâu nhé).

Cho đến khi bọn thương lái Tàu đi thu mua cáp quang phế liệu, thì các nhà đương cục của chúng ta mới được phen ngớ ra, không hiểu bọn chúng mua cái “của nợ” này để làm gì. Vì mua dây đồng thì còn có thể hiểu là chúng lấy nguyên liệu, nhưng cáp quang thì thật không thể hiểu được chúng mua để làm gì? Đến khi dân nghèo lặn xuống biển chặt phá mạng cáp quang viễn thông, thì mới “ngã ngửa” ra, là chúng đang phá hoại con đường huyết mạch thông tin của Việt Nam… Chắc là các “đồng chí Việt Nam” nghĩ mãi không biết xử thế nào với những người “đồng chí tốt” bên nước vô sản Trung Hoa, đành phải đưa ra tòa vài thằng dân nghèo “trót dại” lặn xuống biển chặt trộm cáp quang.

“Láng giềng tốt” giúp… xây dựng các công trình thủy lợi

Sau 1954, Việt Nam được Trung Quốc giúp xây dựng nhiều công trình thủy lợi. Tôi đã tiến hành một cuộc phỏng vấn với Giáo sư TTA, Viện trưởng một viện nghiên cứu thủy lợi ở Hà Nội về sự giúp đỡ thủy lợi của người “đồng chí tốt”, vị Giáo sư kéo tôi vào phòng làm việc và cho xem một video clip quay suốt dọc dòng sông biên giới Việt – Trung.

Trời ơi, chúng ta không thể tưởng tượng được, người “đồng chí tốt” đã làm những trò gì đâu! Các “đồng chí” xây 120 cái kè chắn chéo dòng nước trên các dòng sông biên giới, tạo những luồng nước xoáy để làm sạt lở bờ phía Việt Nam, ăn cắp đất mang về phía đất nước “láng giềng tốt” bên kia biên giới. Đất bồi sang phía bắc đến đâu, các đồng chí xây nhà cao tầng và kéo giai cấp vô sản quốc tế Trung Hoa đến đó.

Xem xong clip của Giáo sư TTA, tôi bàng hoàng… Tất cả các triều đại Đường, Nguyên, Tống, Minh, Thanh, chưa có bất kỳ một triều đại nào trước Triều đại cộng sản Trung Hoa sử dụng những biện pháp tồi tệ như vậy với Việt Nam.

Việt Nam đã đối đầu với những đế quốc lớn, đã đối mặt với đủ loại thủ đoạn tàn bạo của nhiều loại đế quốc, nhưng có lẽ đây là ngón đòn xâm lược thâm hiểm và bẩn thỉu nhất của một loại đế quốc mới nổi: Đế quốc Trung Cộng.

Tôi hỏi Giáo sư TTA: “Ông có thể cho biết, có công trình thủy lợi nào mà Cộng sản Trung Hoa giúp Việt Nam không chứa đựng những “yếu tố đểu” tương tự như vậy không?”. Ông chau mày trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu…

“Tôi khó trả lời anh quá”, Giáo sư nói với tôi như vậy.

Đến hành vi gây ô nhiễm môi trường “gien” Việt Nam
>

> Trên đường phố và sân bay Việt Nam hôm nay tràn ngập người Trung Quốc. Tôi vừa ngồi ở sân bay Đà Nẵng. Tôi đến hơi trễ, hỏi anh bạn ngồi bên phải tôi: “Máy bay Hà Nội gọi vào chưa?”, thì nghe câu hỏi lại bằng tiếng Tàu “Shen ma?” (Cái gì?). Tôi quay bên trái hỏi, thì lại nghe “Shen ma?”. Tôi quay phía sau hỏi, lại thấy “Ni shuo shen ma?” (Ông nói cái gì?)… Tôi ngỡ ngàng, tưởng mình lạc vào sân bay Bắc Kinh.

Làng sinh viên HACINKO (Phố Ngụy Như Kontum) không còn chỗ cho thuê vì hơn 500 người Trung Quốc đã “trấn” ở đó. Họ chen lấn trong thang máy và trong nhà ăn, thậm chí chiếm đứt thang máy để chơi đùa leo lên leo xuống, không cho bất kỳ ai sử dụng thang máy. Người Tàu đến đó mở hàng ăn, hàng bán quần áo, mua bán tấp nập như một chợ Tàu. Tối tối sinh viên Tàu trượt patin và la ó huyên náo một góc phố… Họ làm cho tôi liên tưởng tới hai mươi vạn quân Tàu Tưởng tràn vào Việt Nam năm 1945,… ghẻ lở, bẩn thỉu, ngông nghênh và láo xược.

Sao mà người Trung Quốc thắng thầu lắm thế? Chuyện bauxite Tây Nguyên đã có quá nhiều người nói rồi. Tôi đơn cử vài chuyện vặt vãnh khác: Chỉ ở một tỉnh ở rất gần Hà Nội thôi, Trung Quốc chưa làm xong Nhà máy điện HB, hàng ngàn công nhân Tàu chưa kịp rút, thì Tàu đã thắng thầu làm Nhà máy điện MK, và hàng ngàn công nhân Tàu lại xuất hiện. Những người Tàu từ các cơ sở sản xuất này lan tỏa khắp nơi để gieo rắc “hạt giống đỏ” cho cách mạng vô sản Trung Hoa, đỡ cho các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam và các công ty môi giới hôn nhân khỏi phải xuất con gái qua Tàu… Tôi có dịp trao đổi với các chị phụ trách hội phụ nữ ở mấy tỉnh Tây Nguyên, thì được biết, các chị đang rất lo ngại, chưa biết xử lý thế nào với nạn con gái Tây Nguyên có bầu với công nhân Tàu (!).

Chúng ta nhìn thấy một cảnh tượng đang đến gần: Đội quân thứ 5 của Trung Cộng đang ngày càng được mở rộng. Cần cảnh báo: Khi Trung Cộng mới sáp nhập Tân Cương vào Trung Quốc, dân Hán ở đây chỉ chiếm chừng 4-5%. Sau nửa thế kỷ, dân Hán đã lên tới 45%. Tôi nhớ đã đọc ở đâu đó, chúng ta có thể rất cần đặt câu hỏi: “Bao giờ dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc thiểu số trên chính đất nước mình?”.

Và rồi xoa dịu bằng mấy công trình văn hóa?

Gần đây chắc là Trung Nam Hải đã nhận ra sự phẫn nộ của dân chúng Việt Nam trước những hành vi xâm lược của họ, họ đã “kỷ niệm” cho dân Việt Nam mấy pha ngoạn mục: Trước hết là 30 triệu USD xây dựng ký túc xá cho Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh để đào tạo cán bộ cho Đảng. Tiếp đó là Cung Văn hóa hữu nghị Việt – Trung, chắc rồi đến Viện Khổng Tử,… và rồi không biết còn những thứ gì nữa.

*

Viết đến đây, tôi chợt nhớ cái thời lớp thanh niên chúng tôi say mê theo các nghệ sỹ ca ngợi,… những cánh hoa mộc miên bay tới đâu, tình hữu nghị của dân tộc Trung Hoa lan tỏa đến đó… Sao mà lãng mạn.

Ngẫu nhiên, tôi ngồi để hồi tưởng tâm tình lãng mạn theo những “Cánh hoa mộc miên” với Giáo sư Phạm Huy Tiến, một nhà địa chất, cũng có thời đi tu nghiệp “tiến tu Giáo sư” ở Học viện Địa chất Bắc Kinh (đối diện Học viện Khoáng nghiệp của tôi). Giáo sư Tiến cười rũ ngắt lời tôi: “Các bố nhầm hết rồi. Các nghệ sỹ cũng nhầm rồi. Cánh rừng mộc miên khi xưa nằm trên đất Việt Nam. Bọn địa chất chúng tôi lăn lộn ở đó quá nhiều. Cả đỉnh thác Bản Giốc nữa, cánh địa chất chúng tôi từng lên đó nấu cơm ăn… Nhưng rồi Trung Quốc lấn chiếm, nuốt toàn bộ cánh rừng mộc miên vào lòng Tổ quốc Trung Hoa”… Và thế là những cánh hoa mộc miên lại hồn nhiên bay “từ đất Trung Hoa”, lan tỏa tình hữu nghị “vạn cổ trường sinh” giữa hai dân tộc.

Ấy thế mà, trong khi tôi được nghe các bạn nghệ sỹ của chúng ta ca ngợi “Hoa mộc miên mọc đến đâu, lan tỏa tình thữu nghị của dân tộc Trung Hoa đến đó”, thì, trong một trang mạng nào đó, tôi lại nghe những người cộng sản Bắc Kinh lập luận: “Hoa mộc miên bay đến đâu gieo hạt đến đó; Cây mộc miên mọc ở đâu, đất trung Hoa ở đó. Việt Nam chỉ có cây tre, làm gì có cây hoa mộc miên!”.

*

Trung Hoa là một đất nước có một đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối. Như vậy có thể suy luận, mà không sợ sai lầm: Tất cả những sự kiện nêu trong bài viết này đều do các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đưa đường chỉ lối.

Chính những người cộng sản Trung Hoa đã làm tan vỡ hoàn toàn tình cảm nồng ấm của những người thuộc thế hệ chúng tôi với một đất nước đã sinh ra Đức Tổ Vũ Hồn của dòng tộc của tôi, một đất nước, mà có thời tôi đã coi là Tổ quốc thứ hai của mình.

VCĐ




Thiều Vũ : Con tầu TRƯỜNG XUÂN

 
 
 
 
Tàu Tr°Ýng Xuân
 
 
Nhân ngày 30 tháng Tư đen
Xin mời quý Bạn đọc lại bài….
 
Con tầu TRƯỜNG XUÂN 
 
hay Một chứng tích Lich Sử 
Thiều Vũ



Nhan " THANG 4 DEN ", moi quy vi doc lai bai ve " con tau TRUONG XUAN " .

Tàu Tr°Ýng Xuân

 

                                                                                                            

Tháng 4 năm 1975-Saigon / “ Một con tàu ngơ ngác ra khơi ” (Nam Lộc) / Một thuyền trưởng tuyệt vọng / Gần 4 ngàn hành khách của định mệnh / Cuộc hành trình không bờ bến / Vỏn vẹn 3 ngày hải hành trôi nổi / Hai người tự tử thủy táng / Hai đứa trẻ ra đời / Con tàu kéo Song An, cứu tinh số 1 / Thương thuyền nhân đạo Ðan Mạch, cứu tinh số 2 / Sau cùng, tàu Trường Xuân không chìm được kéo về Hồng Kông với thi hài của người khách cuối cùng: Ðại tá Wong A Sáng, sư đoàn 5 bộ binh / Câu chuyện 34 năm trước được kể lại vào dịp ghi dấu 35 năm sau (1975-2010 ). / Và giới thiệu người con gái của biển Ðông: Chiêu Anh. (Shining Light).
* * *
Có con tầu nằm trên bến đỗ…
Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hãng thương thuyền hàng hải lớn nhất là Vishipcoline của chủ Tàu Tr°Ýng Xuânnhân Trần đình Trường. Hiện ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel tại Nữu Ước.

Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy.

Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30 năm kinh nghiệm hàng hải.

Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt. Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với cộng sản. Ông tìm đường ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong dùng được Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn. Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào cái tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới 29 tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh. Tàu Trường Xuân khởi hành 12 giờ trưa 30/4/75.

Lúc đó thủy thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ có vỏn vẹn 5 người. Có lẽ ông cần chừng 300 hay 400 Tàu Tr°Ýng Xuânhành khách, nhưng chưa có người nào.

Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975.

Saigon hấp hối
Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cã 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự.

Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ đang bay di tản những phi vụ cuối cùng. Nội các mới của Việt Nam Cộng Hòa họp bàn về việc bỏ súng và bàn giao. Ðài phát thanh Saigon chuẩn bị đọc những lời tuyên bố đau thương của tổng thống Dương văn Minh gửi người anh em phía bên kia , xin mời vào nói chuyện. Thủ tướng Vũ văn Mẫu kêu gọi người anh em đồng minh Hoa Kỳ phía bên này, xin vui lòng ra đi.

Giữa mùa hè chói chang, radio của quân đội Hoa Kỳ chơi bài Tuyết Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc trái gió trở trời. Ðài quân đội Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc quân hành trong tuyệt vọng.

Ðó là Saigon của đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân bụng đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu bốc cháy bên kho đạn Thành Tuy Hạ.

Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ
Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai.

Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân.

MC Clara Maersk (Denmark) Mother and children.

Gia đình bà dược sĩ Saigon, mới ra trường năm 1972 đã thành những người khách không mời của chuyến hải hành vô định trên tàu Trường Xuân, ra đi xế chiều 30 tháng 4-1975.
Ðứa bé gái
hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 34 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 35 năm sau vào tháng năm 2010.

Trở lại với Trường Xuân
Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề.

Hành khách không vé của Trường Xuân gồm đủ tất cả hai ba thế hệ Việt Nam Cộng Hòa, mọi thành phần, mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh. Ðủ cả ba ngành lập, hành và tư pháp. Có mặt sĩ nông công thương binh. Không hề thiếu nam phụ lão ấu. Các nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn. Chuyến hải hành vào chân trời vô định với một ông thuyền trưởng nhân đạo và hết sức kiên định. Những tay phụ tá tình nguyện rất xuất sắc và sau cùng định mệnh đã đưa 3,628 con người đi tìm tự do đến được bến tự do.

Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã nói rằng Trường Xuân sẽ không thoát được nếu không có Song An. Song An là ai ? Ðây chỉ là tên con tàu kéo nhỏ bé đang trên đường từ Vũng Tàu về cảng Saigon. Anh già Trường Xuân đang mắc cạn bèn túm lấy đứa bé Song An đòi nó kéo. Vậy mà nó kéo được. Ra đến hải phận, cho đến lúc anh già Trường Xuân tự chạy được bác cháu mới chia tay. Lẽ dĩ nhiên câu chuyện hải hành của đêm dài 30 tháng 4-75 không giản dị như thế ! Với lửa cháy ngập trời Thành Tuy Hạ và tiếng súng đuổi theo trên sông Lòng Tào, đêm hôm đó là đêm dài nhất của cuộc đời Trường Xuân.

Khi anh già Trường Xuân từ giã cậu bé Song An trên đại dương, khách Trường Xuân góp tiền cho Song An trở về Saigon. Hai, ba bị tiền hàng chục triệu đồng Việt Nam đưa qua. Lái tàu Song An nói 1 câu kỳ diệu “ Thôi ! tiền nhiều quá, đủ rồi. Ðừng đưa nữa “.Trong đời chúng ta hiếm khi nào nghe được những lời nói đó.

Với tâm tình như vậy, tàu kéo Song An từ giã Trường Xuân. Tiếng còi tạm biệt trên trùng khơi nghe những nghẹn ngào.

Có vài hành khách bỏ Trường Xuân nhẩy theo Song An trở về Saigon. Trên 3,600 khách Trường Xuân ngó theo Song An nhỏ dần trên đường trở lại quê hương. Khóe miệng chợt thấy vị mặn. Ðây là nước biển sóng đánh bên thành tàu hay là nước mắt biệt ly.

Rồi con tàu Trường Xuân chạy 1 mình. Gần 4,000 hành khách. Không đủ nước, không có thức ăn. Máy móc trục trặc. Nước tràn vào khoang tàu. Sắt vụn vô tri dưới hầm tầu. Con người tuyệt vọng ở trên boong.

Hai người tự tử được thủy táng. Việt cộng phá hoại chỗ này. Máy tàu hư hỏng chỗ kia.

Con tàu vô định có thể sẽ là quan tài nổi. Một hỏa diệm sơn chưa nổ. Các tin tức bi quan được lệnh của thuyền trưởng phải dấu kín. Trường Xuân nín thở, ỳ ạch tiếp tục chạy. Chợt có tiếng kêu : “Có người rớt xuống biển.”

Ông thuyền trưởng Nam Ðịnh đứng im trên đài chỉ huy lặng người bất động. Nửa giờ trôi qua như 1 thế kỷ. Captain Phạm ngọc Lũy sau cùng ra lệnh quay tàu lại vớt người. Một quyết định vô vọng. Hành khách nói. Một quyết định sai lầm. Hành khách nói. Hy sinh 4,000 người để cứu 1 người là nhầm lẫn. Hành khách nói. Captain điên rồi.

Tại sao ? Thuyền trưởng sau này trả lời. Tìm vớt 1 người để cứu 4,000 người.

Như vậy có thể hiểu rằng con tàu Trường Xuân đang là một hỏa diệm sơn sẵn sàng phun lửa nổi loạn. Hành động bình tĩnh quay tầu lại tìm 1 người là bài học nhân đạo cho mọi người và giữ cho được sự bình an của toàn thể con tàu.

Có thể Thượng Ðế trên cao đã nhìn thấy chuyện vớt người giửa biển của Trường Xuân nên đã đem lại vị cứu tinh số hai. Ðó là con tàu Ðan Mạch. Tiếng Trường Xuân kêu cứu vọng trên đại dương. Tàu Ðan Mạch trên đường viễn du hỏi rằng thế đã kêu hạm đội Mỹ chưa? Trả lời : “Có số đâu mà kêu.” Ðan Mạch thở dài. “Thôi chờ đó, chúng tôi sẽ đến tiếp tế và rước chừng 1,500 đàn bà trẻ con.”

Ra đời giữa trời biển mênh mông
Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo.

Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi.

Khai sanh của ch&aacut
e;u đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.

Trường Xuân: Ôi, Trường Xuân !
Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám người đến bến tự do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời và nối tiếp.

Thoạt tiên tất cả được đưa về tạm trú ở Hồng Kông. Nhà chức trách Hương Cảng hứa hẹn sẽ không trả về Việt Nam.

Trước khi rời con tàu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đi thanh sát một vòng. Hình ảnh cảm động sau cùng là một người đàn ông mệt mỏi cúi xuống cõng bà mẹ già tê liệt. Trên khoang tàu mênh mông hiện chỉ còn là bãi rác. Một người đàn ông ạch đụi cõng mẹ qua tàu Ðan Mạch, quả thực là hình ảnh hết sức ngậm ngùi. Ðó là ông thiếu tá nhẩy dù Phan Huy Hoàng, sau này đưa mẹ về định cư tại Texas.

Khi vị thuyền trưởng rời tàu Trường Xuân thì nước đã tràn vào khoang máy. Vẫn còn dưới hầm, thân xác 1 ông già sẽ thủy táng theo con tàu.

Nhưng sau này được biết, khi người lên hết tàu Ðan Mạch, Trường Xuân ngập nước nhưng không chìm. Hai tháng sau được kéo về Hồng Kông, đi theo hành khách của nó.

Con rể của ông già nằm trên Trường Xuân đã nhận xác cha. Di hài vị dân biểu gốc Nùng của Việt Nam Cộng Hòa: Ðại tá Wong A Sáng của sư đoàn 5 bộ binh, một thời đồn trú tại Sông Mao. Con người và con tàu, cả hai đều làm xong nhiệm vụ cuối cùng cho hai chữ tự do.

Một thế hệ tương lai
Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó.

Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học ParkTàu Tr°Ýng Xuânson school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ. Trong một bản văn tự thuật bằng Anh ngữ, Chiêu Anh kể chuyện mình như sau.

“Con là Trường Xuân Baby. Từ biển cả, con là một thuyền nhân sống sót. Khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chạy xuống tầu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy. Trong cái đêm dài sâu thẳm, vào lúc 2 giờ sáng 2 tháng 5-75 con sanh ra đời. Ðó là giây phút của hãi hùng và hy vọng. Ðời con khởi sự vất vả. Mắt hài nhi không mở. Xương quai bị gẫy, vai bị cụp. Mẹ đói không có sữa cho con. Vị cam thảo ngọt bôi vào miệng sơ sinh vẫn còn ghi nhận cho đến ngày nay. Tầu Danish của thuyền trưởng Ðan Mạch Anton Martin Olsen đã cứu gia đình con và đưa vào nhà thương Anh Quốc tại Hồng Kông. Khai sanh của con với chứng chỉ công dân Denmark trên tầu MS Clara Maersk. Vì những giấy tờ này, tòa đại sứ Ðan Mạch lo cho cả gia đình định cư tại Canada trong 21 ngày. Con đã tiếp tục sống trong những ngày thơ ấu khó khăn vất vả như những gia đình tỵ nạn khác. Cùng với người anh hơn con 2 tuổi, chúng con cố sức học hành để xây dựng tương lai. Con xin được học bổng để theo ngành sáng tạo thời trang và tốt nghiệp 1998 với bằng danh dự tại đại học hàng đầu New York. Con bắt đầu làm việc cho các hãng thời trang nổi tiếng tại Paris, New York và San Francisco. Con đã có dịp đi đến tất cả các đô thị lớn nhỏ từ Âu châu, Á châu, Mỹ châu trong thế giới của ngành sáng tạo thời trang. Nhưng con luôn luôn nhớ rằng mãi mãi vẫn là một thuyền nhân sống sót, một Trường Xuân Baby.”

35 năm nhìn lại
Kể từ tháng 4-75 cho đến tháng 4-2010 chúng ta có 35 năm nhìn lại. Mỗi năm chúng tôi sẽ chọn 1 nhân vật hay 1 sự kiện để giới thiệu.

Trên sân khấu CPA của San Jose tháng 5-2010, người đầu tiên được giới thiệu sẽ là cô Chiêu Anh, Shining Light.

Cô sẽ hiện diện với thân mẫu từ Canada, với bác thuyền trưởng Phạm ngọc Lũy 91 tuổi, với hình ảnh của Trường Xuân, của Song An, và của con tàu Ðan Mạch.
Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù.

Chuyến đi của Trường Xuân
Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Saigon tháng 4 đen
Bốn ngàn người vượt biển, Bỏ đất nước điêu linh. Trên con tàu vô định

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. 35 năm nhìn lại
Xem ai còn ai mất, Lệ tuôn khắp dặm trường. Bốn phương trời thế giới

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Gần bốn ngàn người sống.
Với ba mạng tử vong. 2 đứa bé lọt lòng. Giữa mênh mông trời biển

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Một thế kỷ vừa qua…
Tương lai rồi sáng chói. Chuyện này cần kể lại…

Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Ngàn năm còn nhớ mãi…

Tàu Tr°Ýng Xuân

 




Trương Minh Hòa : VIỆT KIỀU VẪN LÀ VIỆT GIAN.

VIỆT KIỀU VẪN LÀ VIỆT GIAN.

– TRƯƠNG MINH HÒA ( tinparis.net)

" Việt gian, Việt Cộng, Việt kiều.
Ba thứ cộng lại, tiêu điều nước Nam".

ới nhản quan của đảng Cộng khỉ, từ khi có mặt trên hành tinh nầy, tại bất cư nơi nào, những kẻ tự nhận là" con cháu loài vượn cổ" đều có cùng những đặc tính sau đây:

-Cùng nhau tôn thờ tên khoa bảng bất lương, gian manh học thức Karl Marx làm sư tổ: Karl Marx là kẻ thất thời, bị chính quê hương hắn trục xuất nên phải sống tha hương. Nhờ người bạn thân là Federick Engels, thuộc gia đình giàu có, mà Marx gọi là tư bản, nuôi dưỡng, đùm bọc trong thời gian sống ở Anh, nhưng lại" ăn cháo đát bát" lên án những nhà giàu là:" bọn tư bản phản động"; cho đến khi giả từ gác trọ, chôn tại nghĩa địa Hyde Park ở London (đám ma của hắn chỉ có 8 người, gồm gia đình và bạn thân Engels), điều nầy chứng tỏ là lúc đương thời, tư tưởng Cộng Sản của hắn không được ủng hộ từ quần chúng, nhất là cái gọi là:" giai cấp vô sản chuyên chính" gồm thành phần mà hắn coi là" đỉnh cao trí tuệ loài người, giai cấp tiên tiến", được hắn ban cho cái sứ mệnh" cướp chính quyền" và thành lập nên cái gọi là" chính quyền vô sản chuyên chính" với một cơ cấu điều hành quốc gia, toàn là" dốt, ít học mà làm lớn". Karl Marx nhìn thấy người giàu mà căm thù, thay vì làm ăn, để cho cuộc sống khá hơn, lại" trút căm thù thành sách vở" để dạy những kẻ bất lương vừa cướp của, giết người và vừa lên lớp dạy đời qua cái gọi là" cách mạng vô sản chuyên chính".

-Tất cả cùng lấy màu máu tươi làm cờ và sao vàng, búa liềm làm biểu tượng: cũng giống như cướp biển, ở bất cứ vùng biển nào, cũng hay lấy lá cờ màu đen với sọ cà xương tréo màu trắng làm biểu tượng. Tại các nước bị Cộng khỉ cai trị, dân chúng đói khổ, nhưng lại là nơi giàu có cờ đỏ, bích chương, tuyên truyển khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn.

-Tôn thờ những khỉ đầu đàn của từng đảng Cộng khỉ: Nga có Lenin, Stalin, Trung Cộng có Mao Trạch Đông, Cu Ba có Fildel Castro, Bắc Hàn có Kim Nhật Thành….

-Không bao giờ công nhận lịch sử của các sắc dân nằm trong vòng" khỉ trị", nên lịch sử của" loài người thật sự" đã bị đảng Cộng khỉ tìm cách xuyên tạc, bóp méo và tiêu hủy dần theo thời gian, sau đó thay bằng thứ" khỉ sử" với những" anh hùng khỉ", nhất là lãnh tụ khỉ, là" chủ nghĩa anh hùng khủng bố" của loài khỉ" tiếm danh" thành con người. Cho nên sau thời gian cai trị, những danh nhân, anh hùng dân tộc bị thay thế bằng tên xa lạ của những con khỉ, có thành tích" cướp, vét, giết sạch"; như tại Việt Nam có đường Lê Duẫn, Trường Chinh, Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong…. đương nhiên là con khỉ đức đầu đàn Hồ Chí Minh được thay tên cho thủ đô Saigon ở miền nam sau ngày:" đảng Cộng khỉ chiến thắng nhờ thời cơ, ngày 30 tháng 4 năm 1975".

– Toàn thể dân chúng, từ nông dân, công nhân, trí thức… đều bị Khỉ dùng bạo lực cai trị đều bị biến thành nô lệ: vì nguồn gốc là khỉ, nên không bao giờ thương con người, nên đảng Cộng khỉ" bắt người làm lao nô, bắt phụ nữ bán cho các động mãi dâm", khi nhìn về nước Việt Nam, thật đau lòng:

Do đó hai chữ VIỆT GIAN có" quá trình lâu dài" kể từ khi có đảng Cộng khỉ xuất hiện tại nước Việt Nam. Đối với đảng Cộng khỉ Việt Nam, thì tất cả những ai, không chấp nhận tà thuyết dạy cướp của giết người, bắt dân làm nô lệ…. đều là Việt gian. Cái mũ Việt gian qui chụp vào các đảng phái quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng, Hòa Hảo, Cao Đài, Thiên Chúa, Tin Lành….từ cái mũ Việt gian, đảng viên Cộng khỉ tha hồ mà ra tay ám sát, thủ tiêu trong thời kỳ tranh tối tranh sáng 1945 đến 1954, nên khắp nơi, cảnh người bị giết với những hành vi dã man như: chặt đầu, mổ bụng, moi gan, xỏ xâu từng chùm, trôi sông, trên đồng...mà nhà thơ Quang Dũng than thở trong bài" Đôi Mắt Người Sơn Tây", cái cảnh giết người nầy đâu phải do thực dân Pháp hay các đảng phái quốc gia, mà do những thành viên đảng Cộng khỉ, hầu hết là" đầu trộm đuôi cướp, dốt nát, hung bạo" vâng lịnh tên lãnh đạo đảng khỉ là Hồ Chí Minh, thi hành để được phong chức, quân hàm:

Thời kỳ gọi là" kháng chiến đánh Tây giành độc lập" che đậy mưu đồ" dùng máu xương của người Việt Nam để phục vụ quyền lợi của khối Cộng khỉ quốc tế", từ bắc chí nam, đâu đâu cũng có cảnh giết người, thù tiêu.... đảng Cộng khỉ lợi dụng chiêu bài yêu nước để giết những người quốc gia, dân thường, chúng thành lập ra cả những đơn vị ám sát mà tại miền Trung; thời đó có gã Bùi Tín từng làm đại đội trưởng, y phục luôn" nhuộm máu tươi" của nạn nhân, trong đó có gia đình ông Võ Tự Đản, ở Hoa Kỳ, tố cáo gã họ Bùi đã sát hại nhiều thành viên trong gia đình ông; thế mà sau khi gã đại tá quân hại nhân dân đóng vai" ông Tám Khỏe hải ngoại", miệng thì" tuyên bố ly khai với Việt Cộng", nhưng vẫn" Khỉ chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm" và chạy tội cho đảng cướp Cộng khỉ vụ thảm sát hơn 4 ngàn người dân trong trận tổng công kích tết Mậu Thân 1968..
    
Tại miền Nam, thời Việt Minh, có cái gọi là Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ, do những tên" Cộng khỉ" như Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Bửu Vinh….tàn sát hàng chục ngàn trí thức, dân thường….trong cái tư tưởng của đảng Cộng khỉ, trước sau như một:" thà giết lầm hơn tha lầm". Nạn nhân bị giết bằng những thủ đoạn man rợ, bị dán bản án là Việt Gian, thế là dân chúng không hiểu, nên tin tưởng lầm là như thế, nên nạn nhân bị giết mà bị mang tiếng Việt gian, không ai giải độc cho oan hồn; thời gian đi qua, khỏa lấp bao tội ác tày trời của đảng Cộng khỉ. Trong quyển sách có tựa là" Nhất Phá Sơn Lâm, Nhì Đâm Hà Bá" của tác giả Võ Phước Hiếu, có kể câu chuyện của một thanh thiếu niên tên Ba La, mẹ Việt, cha Ấn Độ, có người bạn thân là thằng Tám, ở miệt Chợ Lớn….trong thời kỳ Việt Minh ( bên trong là Cộng Sản), chúng đã bắt lầm thằng Ba La, do cơ sở địa phương báo cáo, nên cậu Ba La bị bắt, đưa ra tòa án nhân dân và bị kết án cái tội" làm Việt gian" cho Tây, bị hành quyết tại sân đá banh, bên hông cầu Rờ Nô Bình Tiên…Việt Cộng trá hình tổ chức Việt Minh phát động phong trào khủng bố, nên nhiều vụ giết người oan ức, lại bị gán cho hai chữ Việt Gian, nhan nhản thời" mùa thu rồi, ngày hai mươi ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến"; theo sách của Võ Phước Hiếu ghi:" Phong trào bắt Việt gian làm nhiều người oan ức….." như vụ bắt cụ Bùi Quang Chiêu ở chùa Giác Hải, Phú Lâm, ông là lãnh tụ đảng Lập Hiến, thuộc giới điền chủ và tư sản tại Nam bộ…
   
Sau hiệp định Genève, cũng do đảng Cộng khỉ Việt Nam cấu kết với hai quan thầy khỉ là Liên Sô, Trung Cộng, cùng với thực dân Pháp chia đôi nước Việt Nam. Những tên khủng khủng bố được cài lại và sau nầy có đám" quân hại nhân dân" xâm nhập qua đường mòn mang tên khỉ chúa Hồ Chí Minh, tiếp tục tàn sát loài người ở miền Nam. Nên tại các vùng nông thôn, nhiều người bị giết, cũng dã man như thời 1945-1954, nạn nhân gồm: những viên chức Việt Nam  Cộng Hòa, không đóng thuế nông nghiệp ( thứ tiền vô lý do đảng Cộng khỉ tự bày ra đề bắt nạn nhân đóng), những người không theo và chấp nhận đảng Cộng khỉ, bị thù oán cá nhân bởi những tên nông dân dốt, bò cày theo đảng cướp Cộng khỉ….nạn nhân bị chặt đầu bằng mã tấu và trên ngực có tấm giấy các-tông, với những dòng chữ" như cua bò trên bãi sình" là: phản động, Việt gian….

    Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hàng triệu người bỏ nước ra đi tìm tự do, cũng bị chụp mũ là Việt gian, phản động, nên tên" tưởng thú" tức là" thủ tướng khỉ" Phạm Văn Đồng chửi bới:" bọn đĩ điếm du côn". Nhưng sau nầy, khi nhìn thấy túi tiền " Việt gian" quá lớn, gởi về hàng năm từ vài trăm triệu nay tăng lên nhiều tỷ Mỹ Kim, tìm năng chất xám hơn 300 ngàn…nên đảng Cộng khỉ Việt Nam" uống lưỡi nhiều lần" đổi giọng:" khúc ruột nghìn dậm nối liền" nhưng thật ra, nếu người Việt hải ngoại nghèo mạt, thì vẫn là bọn đĩ điếm du côn, phản động, Việt gian…

Sau khi Liên Sô và toàn khối Cộng đảng Đông Âu sụp đổ, đảng Cộng khỉ Việt Nam phải đổi màu nhưng không đổi ruột, để tạm tồn tại, kéo dài chế độ khỉ trị, qua công thức kinh tế:" người không ra người, ngợm không ra ngợm" là:" lấy kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Dùng tiền, kỷ thuật, uy tín, thị trường của các nước mà đảng Cộng khỉ luôn cho là" bọn đế quốc tư bản phản động" để làm giàu cho đảng viên Cộng khỉ, cứu nguy kinh tế….nhưng bên trong vẫn một lòng:" nhất định đi theo đường lối xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Marx Lenin" thỉnh thoảng hâm nóng bằng những đợt" học tập lại tư tưởng của con khỉ chúa Hồ Ch&iacu
te; Minh". Tức là đảng Cộng khỉ Việt Nam, dù ăn" bơ thừa sữa cặn", túi tiền phình ra, giàu sang nứt:" nón cối" nhưng luôn thù" bọn tư bản phản động" và tìm cách đâm sau lưng, như lúc cuộc chiến A phú Hãn, Iraq, thì đảng Cộng khỉ lên giọng đạo đức là sợ dân chúng bị chết mà chống Mỹ và các nước đồng minh. Đảng Cộng khỉ Việt Nam lại rất là" hồ hởi phấn khởi" sau khi nhìn thấy cảnh Trung tâm thương mại ở New York, Ngũ Giác Đài bị Al Qaeda tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, nhiều tên ăn mừng cùng với Osama Bin Laden và sau nầy ở hải ngoại, có một số tay sai viết bài cho mà Mỹ bị đánh là đáng kiếp….hùa theo cũng có thiền sư Thích Nhất Hạnh sang Mỹ vào tháng 10 năm 2001, phét pháp và bỏ 45 ngàn Mỹ Kim để đăng trên tờ New York Times, giọng đạo đức giả, luôn tiện phét là: My dội bom ở A phú Hãn, giống như Mỹ từng dội bom xuống 300,000 căn nhà dân ở Bến Tre, mà bên dưới chỉ có vài du kích…
   
Người Việt sinh sống ở hải ngoại, chắc chắn không chấp nhận chế độ Cộng khỉ, đa số là công dân của các nước dân chủ. Do đó, để thu gom túi tiền, nhân tài, đảng Cộng khỉ chiêu dụ bằng những biện pháp: miễn visa, song tịch…và gọi là Việt kiều, tức là ý đồ của đảng Cộng khỉ là: coi tất cả những người Việt đang sinh sống hơn 100 quốc gia trên thế giới, đều là" công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam" ( TÀN ÁC-GIAN THAM-LỪA BỊP). Tuy nhiên, chỉ có những người nào trở về, có ghi " sơ yếu lý lịch" trong hồ sơ, là có thể bị lùa vào thành phần dân do đảng Cộng khỉ cai trị, đây là sách lược" giành dân, lấn hải ngoại" mà đảng Cộng khỉ luôn đặt trọng tâm để thu thêm tiền. Những ai gọi là  Việt kiều, tức là theo quan điểm của Cộng khỉ: dân của đảng Cộng khỉ, sống ở nước ngoài. Nhưng, ai không về, tức là đảng không kiểm soát, nắm vững sơ yếu lý lịch đều là" bọn phản động nước ngoài".
   
Những kẻ được" nâng cấp" Việt kiều một cách" không người lái" và " tự biên tự diễn" do đảng Cộng khỉ cũng đừng vội mừng, ngoài miệng là Việt kiều" thân thương", nếu có tiền và mạt rệp thì là" Việt kiều phản động, Việt gian". Trong khi đó, đảng Cộng khỉ vẫn coi những người từng bỏ nước ra đi là " phản động" nên đảng âm thầm tuyên truyền trong dân chúng, nên ngày nay, nhiều người tại Việt Nam gọi Việt kiều là Việt Gian. Đó là sự thật mà những ai trở về nên lưu ý, vì đảng Cộng khỉ vẫn trước sau như một:

Việt kiều tam du:" du lịch, du hý, du dâm", gián điệp, đón gió, nghệ sĩ thành văn công, nhà văn nhà thơ thành " văn nô, thi nô" khi trở về xin in sách….chính là những kẻ phản bội đê hèn, đáng được gọi là Việt gian. Nhưng cái thứ " sớm đầu tối đánh" tức là:" trước là tỵ nạn, sau bầu bạn Cộng khỉ" dù ở nước Âu Mỹ, cũng được Cộng khỉ lưu ý kỷ…nên cả hai phía Quốc-Cộng đều không ai ưa, đó là Việt gian chánh hiệu" hai hàng" và đương nhiên là họ không được cả hai phía tin cậy, chỉ là loại" giẻ rách đỡ đầu móng tay" đối với đảng Cộng khỉ, đến khi hết tiền, bị vắt chanh bỏ.

 Như thế, trong thời gian qua, đã có một số Việt kiều về ở luôn, một thời gian sau, bị đảng Cộng khỉ tới đòi tiền dài dài và cuối cùng đành phải áp dụng câu:" khi Việt kiều tháo chạy", tiền hao quá nhiều mà" hưởng chùm khế ngọt chẳng bao nhiêu". 

Đó là bài học về đảng Cộng khỉ mà trong hàng ngũ tỵ nạn, nạn nhân Cộng Sản, vẫn có một số người chưa hiểu hay không muốn hiểu, nên trở thành nạn nhân lần nữa; nhưng lần nầy thì tiền mất mà danh cũng bay" hùm chết để da, người ta chết để tiếng", nên cái danh hiệu VIỆT GIAN vẫn được cả Việt Cộng lẫn người Việt Nam gọi để chỉ hạng người" sáng lánh nạn, chiều bắt mánh với đảng cướp Cộng khỉ"./.

Trương Minh Hòa
20.06.2010




Tony Nguyên :Duy Quang và sóng gió cuộc đời

Duy Quang và sóng gió cuộc đời

 

Ít ai biết đằng sau giọng ca “bạch diện thư sinh” thống lĩnh sân khấu âm nhạc trong nước và hải ngoại mấy chục năm qua lại là một người đàn ông long đong trong tình cảm, từ những cuộc tình đến hôn nhân chính thức.

Người đàn ông ngoài lục thập ấy từng trải qua vài mối tình, chung sống như vợ chồng với ca sĩ Julie Quang nhưng không hôn thú. Rồi anh chính thức kết hôn với người đẹp Mỹ Hà, hoa khôi người Việt tại Washington  DC (Mỹ). Cuộc sống hạnh phúc với vợ đẹp, con khôn không kéo dài khi vợ anh sa đà bài bạc, gia đình cũng vì đó mà tan đàn xẻ nghé.

Giọng hát thời trẻ của tôi nướng hết vào cuộc chơi của vợ

 

http://tin180.com/wp-content/blogs.dir/7/files/2010/07/Duy-Quang-va-song-gio-cuoc-doi_Tin180.com_001.jpg

– Anh nổi tiếng với một giọng ca được mệnh danh là “thư sinh hát, hát rất thư sinh”. Bao nhiêu năm qua, anh có còn tự tin để nói mình vẫn thư sinh dù tuổi đã…xế chiều?

Tôi nghĩ, trời ban cho người nào một chất giọng nào đó sẽ tồn tại với thời gian, trừ khi họ trác táng quá. Giọng nói trầm hơn nhưng với tôi, may mắn là vẫn giữ được những nốt cao như ngày xưa để có thể rung cảm một cách trẻ trung, trong sáng với âm nhạc.Những cảm xúc âm nhạc cũng như tình yêu, mình giữ được như lửa vì nó vẫn cháy. Nếu anh cảm thấy chán chường, thất vọng, thì đừng nói giọng hát mà cả cảm xúc của mình cũng thay đổi.

– Khi nghe anh hát cùng một ca khúc ở hai thời điểm cách xa nhau, tôi thấy hình ảnh người đàn ông trong anh cứ mỏi mệt dần. Vì sao vậy?

Có thể những thời điểm đó tôi phải làm việc nhiều, bận nhiều thứ và có nhiều xung đột tâm l‎ý không tốt. Nhưng tôi sống rất lạc quan, lúc khó khăn nhất tôi cũng tự tìm ra niềm vui cho mình, chẳng có gì khổ tâm.

– Nhiều người thắc mắc tại sao một nam ca sĩ đang rất thịnh ở hải ngoại như anh bỗng dưng quyết định hồi hương một mình, không vợ, không con?

Q uyết định về Việt Nam với tôi cũng không khó khăn vì thực ra từ lúc ra đi, lòng tôi đã nghĩ đến một ngày về. Với người có tâm hồn nghệ sĩ, lại thường xuyên hát những giai điệu buồn bằng tiếng mẹ đẻ, cuộc sống tha hương luôn có khoảng trống về mặt tinh thần khó bù lấp. Mãi đến năm 2004, tôi mới được thực hiện ước nguyện. May mắn là khi tôi về, con tôi cũng lớn, đứa 18, đứa 11 tuổi. Tôi nhờ cô em út là Thái Hạnh chăm sóc các con giúp.

– Thế chị Mỹ Hà, mẹ của các con đâu, mà anh phải gửi con cho em gái?

Mẹ các cháu hư lắm, tôi không muốn nhắc tới. Vợ tôi mê đánh bài, tôi tiếc cho cô ấy. Cô ấy có những điều tốt đẹp nhất mà không biết giữ. Danh tiếng của chồng, những đứa con ngoan, hạnh phúc gia đình…cuối cùng cũng không lớn bằng niềm đam mê cờ bạc.

Nếu cô ấy không vướng vào con đường đấy, giờ tôi là triệu phú Mỹ rồi đó. Bao nhiêu tiền đều nướng hết. Nó giống như cái túi không đáy, bỏ vào bao nhiêu tiền lại rớt xuống bấy nhiêu. Mười năm trời, tôi đã bán 3 căn nhà, cắn giá thấp nhấp 400 ngàn USD và cao nhất gần 1 triệu USD.

 

http://tin180.com/wp-content/blogs.dir/7/files/2010/07/Duy-Quang-va-song-gio-cuoc-doi_Tin180.com_002.jpg

– Anh không có cách nào khuyên giải được vợ cũ sao?

Cô ấy giỏi lắm, ai gặp cũng đều bị cô ấy thuyết phục. Tất cả bạn bè tôi cũng như các công ty làm ăn với tôi đều bị cô ấy mượn tiền. Nặng nề lắm! Lấy tiền tôi đi cũng không trầm trọng bằng việc cô ấy làm ảnh hưởng đến danh tiếng của tôi. Tôi từng bị mất rất nhiều bạn bè, họ trách tôi, cứ nghĩ là tôi đồng lõa nhưng giờ họ hiểu tôi hơn.

Trong 10 năm, nhiều lần cô ấy hứa hẹn làm lại nhưng vẫn chứng nào tật ấy. Có lúc vài tháng hoặc nửa năm cô ấy chịu “làm lại”, tôi ngủ ngon hơn một chút. Nhưng đến lúc tôi phát hiện ra, mọi việc trầm trọng lắm rồi. Nghe thì cay đắng nhưng tôi nói thật, niềm tin xin đừng đặt quá nhiều vào một số mối quan hệ thân. Người dưng khó hại mình nhưng người thân thiết, họ biết quá nhiều điểm yếu của mình nên dễ đẩy mình vào con đường cơ cực. Khi về đây, tôi lại tiếp tục “dính chưởng”. Có thể do cái dở của tôi là tin người quá.

Trải qua bao mệt mỏi như vậy, tình yêu cũng tổn thương và rồi mất dần, mất dần…Ma lực của cờ bạc thật kinh khủng, nó lấy đi của con người tất cả: thời gian, tình yêu và cả hạnh phúc nữa. Giọng hát thời tuổi trẻ sung sức của tôi gần như nướng hết vào cuộc chơi của vợ.

– Các con anh phản ứng thế nào với một người mẹ như vậy?

Khi đó mấy đứa còn nhỏ, có nói chúng cũng chẳng hiểu. Sau này lớn lên, các con biết chuyện đều giận lắm, nên chẳng thiết tha đến mẹ nữa. Sống trong cảnh nay bán nhà, mai bán nhà, quả là địa ngục với các con, dù tôi cũng không muốn để con bị ảnh hưởng chuyện đó.

– Anh có biết vợ cũ của mình hiện giờ ra sao không?

Cô ấy ra đi không giữ liên lạc. Mỗi khi muốn biết tin tức về cô ấy, tôi phải hỏi thăm người quen, được biết là cuộc sống của cô ấy cũng khá tội nghiệp. Cũng dễ hiểu là một người phụ nữ không tiền, không công ăn việc làm, không còn tuổi trẻ, thì không thể tránh khỏi vất vả.

– Nếu một ngày nào đó gặp lại cô ấy, anh sẽ phản ứng thế nào, oán trách hay thương cảm?

Oán trách ư? Không đâu, bởi cô ấy đã cho tôi 2 đứa con ngoan, xinh đẹp. Dù vợ cờ bạc và tôi sống mất thăng bằng suốt gần 10 năm, nhà cửa mất sạch, để rồi chịu không nổi đành chia tay nhau nhưng dẫu sao bây giờ, mọi chuyện cũng đã thành quá khứ, oán trách nhau làm gì nữa.

Nếu nhìn cô ấy khổ sở, chắc tôi đau lòng lắm. Dù gì cũng là người từng 17 năm đầu ấp tay gối và là mẹ của các con tôi. Tôi nguyện cầu cho cô ấy những gì tốt đẹp nhất và nguyện cầu cho tôi đừng phải nhìn thấy cô ấy với một số phận không may mắn.

– Có phải chuyện buồn về cuộc sống riêng đã khiến anh quyết định trở về Việt Nam ?

Sự tan vỡ gia đình chỉ là một động cơ nhỏ thôi. Tôi bắt đầu lại ở quê hương bằng những bài hát, những kỷ niệm đẹp. Áp lực kiếm tiền cũng không nhiều vì thực ra tôi cũng dành dụm được một ít, phần gửi nhà băng bên đó để lo cho các con ăn học, phần mang về Việt Nam đầu tư. Số tiền hàng tháng cũng đủ cho một cuộc sống dễ chịu.

Tôi và Yến Xuân ngộ nhận về nhau để rồi làm thất vọng lẫn nhau.

 

http://tin180.com/wp-content/blogs.dir/7/files/2010/07/Duy-Quang-va-song-gio-cuoc-doi_Tin180.com_003.jpg

Duy Quang và Yến Xuân

– Sau bao sóng gió với người vợ cũ Mỹ Hà, anh gặp Yến Xuân. Cô ấy đã làm anh say ngợp trở lại với tình yêu?

Đúng vậy. Tôi gặp Yến Xuân khi đã ly dị người vợ cũ 7 năm. Tôi đã hy vọng Xuân là một người bạn, một người yêu và là một người vợ tốt bởi người bạn thì hiểu nhau hơn, người yêu sẽ thương nhau hơn và người vợ thì lo lắng cho gia đình hơn. Nhưng những gì tôi chờ đợi đều không được. Yến Xuân không đủ sức lo cho mọi thứ chu toàn. Đúng hơn là hai người ngộ nhận về nhau để rồi làm thất vọng lẫn nhau.

– Yến Xuân thất vọng về anh điều gì, có phải như lời đồn đại rằng, một người nổi tiếng như Duy Quang lại không có nhiều tiền?

Cũng đừng nói thế tội nghiệp cô ấy. Dĩ nhiên có những chuyện chỉ người trong cuộc mới hiểu, nói ra chẳng hay ho gì. Ăn thua là cảm xúc đã mất đi thì không thể nào ở với nhau được. Cả hai chúng tôi đã cùng giết chết cảm xúc đó. Những khó khăn của đời sống đã làm tôi chai lì mặc dù tôi chưa bao giờ lớn tiếng hay gay gắt với cô ấy.

Suy nghĩ khác nhau từ từ tạo ra khoảng cách, dẫn đến tình trạng hai người đồng sàng dị mộng, không còn thiết tha gì với nhau nên nếu tiếp tục ở với nhau thì khổ thôi. Tuyệt đối trong trường hợp này không hề có một người đàn bà hay một người đàn ông nào chen vào. Có thể lỗi cũng thuộc về tôi nữa, tôi không đủ sức làm cho mọi thứ tốt hơn.

– Vậy nếu đủ sức, sẽ là như thế nào?

Nếu tôi có nhiều tiền hơn và quan tâm đến vợ nhiều hơn, đại khái thế. Nếu tôi đừng có những gánh nặng gia đình, mọi thứ sẽ đỡ hơn. Chuyện xảy đến tôi đâu có muốn và có lẽ cô ấy cũng không muốn. Cô ấy cũng thấy chia tay là điều hay, tốt cho cả hai.Chia tay rồi, chúng tôi vẫn nói chuyện bình thường. Những gì làm được cho cô ấy cả trong công việc lần trong cuộc sống, tôi đã làm. Tôi biết khi chưa có tôi, Yến Xuân rất khác và tôi từng mong có tôi thì cô ấy sẽ hát khá hơn.

Gần 2 năm chung sống với nhau, cô ấy tiến bộ hẳn về kỹ thuật và cách thể hiện. Đến lúc tôi đưa Yến Xuân qua Mỹ hát, nhiều người còn hỏi cô này là ai sao mà hát hay thế. Cô ấy hát hay ở những bài hát êm đềm, đừng xưa quá, nhạc của những năm 80 hoặc nhạc jazz.

– Anh có tiếp tục dõi theo từng bước nghề nghiệp của cô ấy không? Anh có nghĩ một ngày nào đó hai người sẽ quay lại với nhau?

Tôi để ‎ý nhưng không góp ý vì bây giờ mà xen vào nữa rất khó nói. Tình cờ, có lần tôi đến một phòng trà mới. Nghe Yến Xuân hát, tôi thấy cô ấy tiến bộ hẳn, thậm chí hơn cả thời có tôi. Cô ấy không biết tôi ngồi bên dưới đâu. Tôi và Yến Xuân không chờ đợi nhau quay trở lại.

Kiếp đam mê và đường tình không hoa hồng

http://tin180.com/wp-content/blogs.dir/7/files/2010/07/Duy-Quang-va-song-gio-cuoc-doi_Tin180.com_004.jpg

– Dường như ca khúc "Kiếp đam mê" do anh viết như đóng đinh vào số phận của anh sau bao sóng gió tình cảm. Bài hát này anh viết cho cô gái nào vậy?

Tôi viết cho một người tình ở Mỹ, một cô gái rất đẹp. Lúc đó tôi chưa gặp Mỹ Hà (người vợ đầu). Sau khi gặp Mỹ Hà, tôi chia tay với cô gái này. Cùng với bài này, tôi viết một bài nữa như tặng cho người vợ nhưng thực ra là tặng cho mối tình thầm lặng này. Bài đó có tên là Vì yêu em.

– Chứ không phải là ca sĩ Julie? Được biết cô ấy cũng là vợ anh và hai người có với nhau một người con. Sao không nghe anh nhắc đến cô ấy?

Julie là mối tình đầu của tôi và là người khiến tôi lựa chọn âm nhạc. Chúng tôi sống với nhau không có hôn thú một thời gian thì chia tay. Nguyên nhân tan vỡ thì thôi, để tôi giữ riêng cho mình. Giờ cuộc sống của cô ấy cũng thầm lặng lắm. Đi thêm vài bước, và giờ cũng cô đơn như tôi lúc này.

– Anh đa tình quá!

Đúng là tôi đa tình nhưng lại rất chung tình. Khi yêu người nào, tôi chỉ biết đến người đó thôi. Hai năm sau khi chia tay Julie, tôi mới đến với cuộc tình mới.

– Sau những đổ vỡ, anh có muốn tiếp tục đến với hôn nhân?

Một người nghệ sĩ mà không yêu chắc sẽ chết, nhưng nếu kết hôn thì tôi không nghĩ tới nữa. Ở vậy còn hơn lấy phải những người đồng sàng dị mộng. Cuộc chia tay của tôi và Yến Xuân cũng còn quá mới nên tôi chưa sẵn sàng cho một tình yêu.

Có những lúc tôi tự hỏi sao định mệnh luôn đẩy tôi vào những cảnh ngộ không bình thường như vậy. Tôi thấy nhiều người không nổi tiếng, ít tiền, nhưng lại có cuộc đời rất bình dị. Hay là trời cho tôi nhiều thứ mà cũng lấy lại của tôi nhiều thứ đến thế.

Tôi đã cố gắng nhiều để thay đổi số phận, cố gắng mở lòng ra hơn, dễ dãi hơn với mình và với người nhưng không được. Nhiều người khó khăn, nỗi buồn không xâm chiếm được, còn tôi muốn mở lòng để yêu thương người hơn nhưng rồi cuối cùng tôi lại là kẻ mất nhiều thời gian.

Tony Nguyen

 





Lê Bá Định : Bay trên đất Bắc

Chiến đấu cơ F-35 DAS

 Northrop Grumman giới thiệu khả năng của chiến đấu cơ chiếc F35 (thế hệ thứ 5),  mà không quân Hoa Kỳ đang xử dụng . (Nhật và Đài Loan muốn mua.)

 Hảy double-click lên link dưới đây để xem:

                     http://www.es.northropgrumman.com/solutions/f35targeting/assets/eodasvideo.html

———————————————————————————————-

Bay trên đất Bắc

Source: "Newvietart.com"

Tôi đã nhiều lần vượt vùng trời Bến Hải với những chuyến bay ném bom trên đất Bắc. Lần này tôi được chỉ định dẫn dắt mười hai phi cơ tiến đánh một mục tiêu xa hơn những lần trước. Đó là hai trại quân quan trọng nằm trong vùng rừng nơi phía Tây Bắc thành phố Vinh.

Tôi ghi nhớ nhiều về chuyến bay này vì là lần đầu tiên tôi điều khiển hoàn toàn một phi vụ Bắc phạt.

Những lần trước tôi chỉ hướng dẫn một phi tuần bốn phi cơ theo sự điều khiển của phi đội trưởng.

Đối với phi công khu trục, cấp trung uý dù rằng với chức vụ trưởng phòng hành quân phi đoàn, đây là một danh dự và là một hãnh diện nữa khi được lệnh đảm trách một công tác quan trọng như vậy.

Suốt từ lúc được lệnh bay, xuyên qua buổi thuyết trình về phi vụ, tôi đã hỏi rất nhiều, rất kỹ lưỡng vị sĩ quan Quân Báo về các vị trí phòng không địch, cho đến khi đứng lên nhắc lại các phương thức phi hành cùng các đoản lệnh hành quân cho các chiến hữu cùng bay với tôi, tôi cảm thấy nôn nao vô cùng.

Có thể hơn thế nữa, gần như là một mối lo âu. Không thể là sự lo sợ được đối với một người trẻ tuổi như tôi, đã được rèn luyện trong cái khí thế hiệp sĩ của một phi công khu trục bao lần vùng vẫy trên vùng trời lửa đạn.

Tôi run run đếm những số giây cuối cùng cho các bạn tôi điều chỉnh giờ đúng. Nỗi lo âu ngập tràn. Khẳng định không phải là sự thiếu tự tin. Những người trẻ tuổi thường không sợ sệt trong lý tưởng mà luôn muốn chứng minh khả năng của mình trong khi bay. Khả năng của tôi đang được khảo thí. Một cuộc khảo thí quan trọng vô cùng, vì từ giờ trở đi, những quyết định của tôi, một phi công hai mươi ba tuổi, nếu sai lầm sẻ phải trả bằng giá của sinh mạng tôi và của cả mười một phi công khác mà số tuổi chỉ trên dưới hai mươi.

Tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong nghề, lần này tôi sắp sửa thêm một kinh nghiệm nữa mà mãi sau này tôi vẫn thấy thú vị vô cùng. Danh nhân nào đã nói kinh nghiệm là một ông thầy khó tính, bắt ta phải khảo thí trước khi dạy ta.

Tôi đang là thí sinh của cuộc khảo thí kỳ cục đầy hào khí này. Hình ảnh cuốn phim Le Pont de Toko Ri chợt đến bao trùm trong tôi thật rõ ràng linh hoạt như ngày nào tôi mười hai tuổi xin tiền mẹ bốn lần để xem đi xem lại phim này.

Vùng trời Đà Nẵng hôm đó thật thấp và âm u với nhiều mây xám. Đã có lác đác vài hạt mưa rơi.

Các bạn tôi lộ vẻ chán nản và nói “Chán quá! Lại phải hủy bỏ phi vụ”. Chúng tôi có những giới hạn thời tiết tối thiểu để hoạt động. Dù với lòng quả cảm chấp nhận hiểm nguy nhưng chúng tôi đều phải tôn trọng những luật lệ về an phi. Tuy nhiên tôi thản nhiên ra lệnh: “Vẫn cất cánh như đã dự trù”.

Các bạn tôi đều ngạc nhiên và cho là một quyết định khá liều lĩnh. Thật ra tôi đã quyết định ngay từ lúc rời phòng thuyết trình và thầm mong một biến chuyển thời tiết khả quan hơn. Tôi nhớ thật rõ các dữ kiện mà sĩ quan khí tượng đã cho biết. Trong trí tôi, cuốn phim Le Pont de Toko Ri đang quay chậm. Tôi ôn lại các lối lượn bay toát mồ hôi lạnh trong phim.

Có ai ngờ mười mấy năm sau tôi lại đóng vai chính của một cuốn phim oai hùng.

Thời gian trôi qua thật nhanh chóng.

Tôi tưởng chừng như mới hôm qua còn ngồi trên ghế nệm thoải mái trong rạp hát, hồi hộp theo dõi một kiệt tác của nghệ thuật thứ bảy. Để rồi hôm nay ngồi trong phòng lái chật hẹp tù túng, trước mắt là cánh quạt động cơ ào ào rung chuyển quay tròn như cơn gió lốc, như trộn lẫn định mệnh với cuộc đời…

Thế rồi phơn phớt dưới chân mây, là đà trên ngọn núi, chúng tôi đem tuyệt kỹ phi hành để khắc phục trắc trở thiên nhiên. Tôi đem hết hiểu biết kinh nghiệm để dẫn dắt mười hai cánh chim lao về Bắc.

Nhìn các bạn tôi chao đi trong mưa gió âm u, lòng tôi se lạnh. Trong gió mưa cuồng loạn các bạn hãy cố gắng lên. Chúng ta còn đến trung tâm một cơn bão khác quay cuồng hơn, đang đe doạ không riêng chúng ta mà cả hàng triệu chiến hữu đang gian khổ dập tắt cơn bão loạn này. Tôi biết trời âm u lắm, đôi cánh nặng vô cùng, các bạn hãy theo tôi đi dẹp tan cái âm u khác đã triền miên từ lâu. Theo tôi cho vững để trút cái nặng nề dưới đôi cánh, xoá tan những áp lực núi đá khác đang đè nén quê hương.

Nhìn xem kìa, bên trái hướng chín giờ, Huế cố đô thân yêu. Chân mây cao hơn đôi chút rồi. Đừng dùng máy nhiều nhé, nhớ tiết kiệm từng giọt xăng.

Chúng ta còn đi xa lắm, dù mang thêm bình xăng phụ nhưng lúc giao chiến, đôi khi chúng ta phải thả đi cho nhẹ bớt để còn mặc sức vẫy vùng. Máu của cánh chim, máu của ch&i
acute;nh mình đó các bạn.

Tôi đang cố gắng giữ hướng Bắc dù cho đôi cánh đang chao mạnh run rẩy từng cơn.

Hãy tin ở tôi, ở tuổi trẻ Việt Nam.

Quảng Trị, Đông Hà, Cửa Việt…

Các bạn thấy Cửa Việt chưa? Cố lên, hãy tra chìa khoá vào cánh cửa Việt Nam đang bị rỉ sét để mở ra cho lịch sử thôi tù túng, đóng khung.

Đừng bay quá xa về phía biển, chúng ta sắp vượt Bến Hải, vĩ tuyến đau thương. Ha ha, chiếc cầu với hai cột cờ. Chẳng có ý nghĩa gì với chúng ta.

Các bạn còn nhớ bài Địa Dư vỡ lòng ngày nào?

Nước Việt Nam trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Đâu có ai ngờ là đứt khúc nơi Bến Hải.

Bên cánh trái là giang sơn gấm vóc của giống Tiên Rồng. Dưới cánh phải là Thái Bình Dương đang dâng sóng vỗ về đất nước. Chúng ta cố bay nhanh để sớm quay về, chắp đôi cánh lại cho thanh bình mau ấp ủ quê hương…

Vĩnh Linh, Quảng Khê, Đồng Hới…

Tôi đã bay trên miền trời các địa danh đó, đã đem tử thần đến và cũng đã chạm mặt tử thần ở những nơi này. Quê hương tang tóc rối bời. Những trại quân bị tàn phá, những chiếc cầu gẫy gục, những quang cảnh tiêu điều, vết tích lưu lại những lần oanh tạc trước vẫn còn lở lói bên dưới kia.

Những ai đó còn mê ngủ hay đã kinh hoàng tỉnh giấc trong những tràng bom nổ inh tai, dưới những làn phi tiễn nhức óc? Đừng để cho ảo tưởng bao trùm, hãy lên đây cùng chúng tôi, suốt con đường từ Nam ra Bắc để nhìn rõ bức dư đồ rách nát vì đâu?

Hãy ngồi bên chúng tôi để nhìn rõ quê hương, để biết cái cảm giác của một người bay trên quê hương mà phải nghĩ đây là đất địch.

Đã bao lần tôi muốn xua đuổi ý tưởng đau lòng đó, nhưng bên những sườn núi kia, trong thung lũng nọ, trên bờ biển này, tử thần đang chực chờ lôi kéo chúng tôi bằng lưới đạn giăng trời, để rồi sau cái tan vỡ kinh hoàng của một cánh chim, Thân xác cũng tan tành đưa chúng tôi đến nơi nào không biết, nhưng chắc chắn rằng cho đến lúc đó, chúng tôi chưa tận hưởng được cái khang cường thân thể với những mạch máu căng đầy sinh lực mà cha mẹ tạo thành, chưa mãn nhãn nhìn hết cái đẹp hùng vĩ đất nưóc của tổ tiên để lại, cũng như chưa tiêu xài hết một phần tuổi trẻ của cuộc đời.

Tôi đưa cả phi đội bay thật thấp để cố tránh tầm rada địch. Trong mũ nghe chỉ còn tiếng rè rè của vô tuyến. Chúng tôi âm thầm bay, không một ai lên tiếng trong lúc này, kể cả đài kiểm báo Sơn Trà. Ngoại trừ khi tôi cần. Tôi biết rằng chúng tôi không cô đơn, vì ở nhà bao con tim đang hồi hộp đợi chờ. Chúng tôi rời phương Nam đã lâu, nơi đó bạn tôi cũng chờ đợi.

Địch? Bạn?

Tại sao lại bắt chúng tôi dùng những từ ngữ ấy?

Tại sao không xoá bỏ những chữ ấy trong tự điển, trong lòng người? Tại sao lại xem chúng ta là kẻ thù để chúng tôi trở nên những người đối địch họ vì chúng ta sắp nhận là kẻ ác của những người thiện để tiêu diệt bất cứ kẻ ác nào muốn giết người thiện.

Từng phần đất quê hương sẽ thêm một lần vỡ tung dưới làn bom nổ. Thân thể mẹ Việt Nam đang bị vi trùng đục khoét, chúng tôi xót xa phải cắt bỏ những ung nhọt đang hoành hành.

Nguyện ước bây giờ là làm sao cho Mẹ bớt đau đớn, hết rên xiết, con cháu Mẹ sớm quây quần bồi dưỡng Mẹ. Mẹ, xin Mẹ cho chúng con thêm một lần chạm vào da thịt thiêng liêng để Mẹ sớm yên lành…

Hà Tĩnh nghèo nàn âm u kia rồi.

Vinh u buồn thảm não.

Chúng tôi cho vòng máy quay nhanh hơn bắt đầu vượt cao theo hướng Tây Bắc tràn vào.

Mây mù giăng đặc. Tôi cố lượn giữa các tầng mây, dò theo từng chi tiết trên bản đồ mà hầu như đã thuộc kỹ. Tôi không được phạm một sơ xuất nào, một lầm lỗi nào dù nhỏ đến đâu.

Tôi ra thủ lệnh cho các bạn tôi.

Loang loáng trong mây, mười hai hiệp sĩ như những cánh thiên thần đi tìm tử thần trong cái âm u của trời đất. Tôi phải tận dụng yếu tố thời tiết và bất ngờ, nếu không… nếu không thì…

Le Pont de Toko Ri ơi, sao có sự trùng hợp lạ kỳ?

Chỉ khác chăng không phải chiếc cầu mà là trại quân. Vẫn một thung lũng rợn người với ba mặt núi cao đầy lửa đạn. Vẫn một lối vào duy nhất như lùa vào tử lộ. Vẫn một lối ra hiểm trở, vách đá sừng sững chi chít cao xạ. Tôi có cảm tưởng như địch đã biết, đang mỉm cười chờ những cánh thiên thần.

Trời âm u quái đãn, bay đến đâu mới nhìn được đến đó. Tầm nhìn xa bị giới hạn tột cùng. Thoáng qua vài lỗ hổng chân mây, xa xa là Thanh Hoá.

Tám phút trước mục tiêu, tôi chợt đổi đường bay về hướng Bắc. Các bạn tôi vẫn đeo sát.

Nhạc gió quay cuồng, tiếng máy thét gào rú mạnh.

Đài kiểm báo Sơn Trà như lo lắng gọi chúng tôi cho biết đang bay lệch mục tiêu ba mươi độ và báo động phi cơ địch được nhìn
thấy trong vùng hoạt động. Tôi đáp hiểu, không giải thích lối đánh của tôi.

Tôi lượn quanh trong mây đổ chập chùng, vòng sang hướng Tây mục tiêu rồi chọc thẳng về hướng Nam, tin tưởng hoàn toàn vào tấm bản đồ không ảnh.

Các bạn tôi đã sẵn sàng ở đội hình chiến đấu.

Tôi từ đầu rặng núi vượt ra từ trong mây.

Số một lao vào mục tiêu. Tốc độ tăng nhanh như vũ bão. Áp lực ép mạnh vào người. Làm sao… Làm sao ngay từ giây phút đầu… Le Pont de Toko Ri… Phải, tôi phải cố gắng làm sao cho hai trái bom đầu tiên rơi đúng ngay trên mục tiêu nằm cách nhau non một ngàn thước để đánh dấu cho các bạn tôi nhìn thấy qua đám mây mù. Tôi phải lam sao cho các phi tiễn cùng lúc ấy phá vỡ các ổ cao xạ ở vách núi trước mặt ngăn chặn lối ra duy nhất.

Hơn nữa nếu tôi xuống quá thấp để tìm sự chính xác cho làn bom và phi tiễn thì lúc vượt lên sẽ quá muộn chỉ trong vòng một giây đồng hồ tôi sẽ cùng cánh chim dán vào vách đá.

Tôi còn phải lượn lại ít lắm hai lần, trong lúc các bạn tôi đang oanh tạc, để trút số bom còn lại lên các ổ phòng không hai bên vách núi đang kẹp mục tiêu như chiếc kéo của tử thần đang chực chờ họ. Tôi còn phải nhắc nhở và theo dõi họ lúc vượt qua vách núi chắn ngang. Tất cả đều tùy thuộc vào ở lúc này.

Tôi lao xuống mục tiêu đang tỏ dần trước mặt…

Bom nổ kinh hoàng, phi tiễn xé rách vùng trời thung lũng. đạn bay loè sáng… Tôi như chết đi trong con người, đắm chìm trong chiến trận. Tôi trở thành máy móc, một công cụ khoa học, một nô lệ kỹ thuật. Phòng không địch giật mình hoạt động. Nhưng trễ quá rồi.

Thời tiết xấu đã giúp chúng tôi tận dụng yếu tố bất ngờ. Các chú không ngờ chúng tôi tiến đánh lúc trời xấu phải không? Nếu trời trong thì với lối phòng thủ chắc ăn như vậy, các chú có thể xơi tác một con ruồi bay qua. Chúng tôi cần vài giây đầu tiên thôi. Đạn phòng không đỏ rực nổ tung dày đặc khung trời.

Lúc trở vào mục tiêu lần thứ ba, có nhiều va chạm mạnh ở toàn thân phi cơ. Cánh chim lao chao… Tôi trút hết số bom vào mục tiêu đang cháy bùng vỡ toang… Tôi chợt thấy rợn người… Tôi đã xuống quá thấp và hiện ra ở cách độ 1500 bộ… Vách đá trước mắt tôi với nhiều vết đạn dài bay lên như sắp đổ ập lên tôi… Chậm quá rồi…

Tôi phải kéo thật mạnh để tung bổng lên cao. Nhưng nếu cần lái lại bị kẹt vì lý do nào đó… Nếu các định luật gia tốc và thăng tốc không còn đúng nữa ở trong trường hợp này?

Bao sức mạnh trong tôi dồn cả vào đôi tay níu kéo cần lái như chỉ một lần cuối níu kéo định mệnh, níu kéo những giây phút sau cùng của cuộc đời. Tôi cố nhấc bổng khối sắt nặng nhiều tấn đang rung mạnh lên cao… Hôm nay không có trời xanh cao đẹp, nhưng những đám mây xám ngoẹt kia giờ đây sao lại đẹp dị thường. Các bạn tôi đang tìm tôi trên vùng mây kia.

Những giây phút này chắc tôi không còn có thể đưa họ trở về phương Nam như một “đàn chim Việt”. Lòng tôi thanh thản vô cùng. Tôi nhớ rõ trước khi đi, tôi đã ra lệnh tỉ mỉ cho người phi đội phó thay tôi nếu tôi rơi rụng… Họ sẽ trở về an toàn dù có thiếu vắng tôi. Không có gì là quá đắt nếu chỉ một mình tôi phải trả giá cho phi vụ này… Trong phim Le Pont de Toko Ri có ai trở về đâu… Thế mà các bạn tôi sẽ trở về. Chắc chắn họ sẽ trở về… Chấp nhận kiếp sống mây trời là để sống hào hùng và chết oanh liệt…

Chợt một khe núi thoáng hiện bên phải hướng hai giờ. Tôi không cần thấy rõ những gì trong ấy. Bấy nhiêu đó quá đủ giúp tôi vượt khỏi bàn tay tử thần một lần nữa… Thôi tử thần, ta chào mi. Hẹn lần khác nhà.

Tôi vượt lên cao…

Các bạn tôi đang lượn vòng chờ đợi.

Chúng tôi im lặng hướng về Nam, luôn luôn ở đội hình chiến đấu để chờ đợi một cuộc săn đuổi của phi cơ địch. Nhưng rồi lại thoáng hiện chiếc cầu với hai cột cờ.

Lần này thì lại nằm bên cánh tay phải.

Phải, trái? Ai phải, ai trái? Tôi không cần.

Chỉ biết rằng chúng tôi đang trở về toàn vẹn và bây giờ hiện bay trên Huế…
Hầu hết phi cơ bị trúng đạn, nhưng nhạc gió vẫn quay đều. Tôi báo cáo sơ lược cho đài kiểm báo và cho biết đang trên đường về.

Hoàng hôn đẹp.

Sóng biển lấp lánh ánh bạc.

Tôi gỡ nhẹ đôi găng tay để đốt một điếu thuốc nhăn nheo được vuốt thẳng.
Trời tối dần. Khi đưa điếu thuốc lên môi, tôi chợt thấy bàn tay run run… Vì sung sướng thành công hay vì những phút gi&
acirc;y căng thẳng rợn người vừa qua còn vương vấn? Có lẽ hai thứ hoà chung.

Thuốc ngon quá.

Buổi tối, lúc đang sửa soạn cho phi vụ hôm sau, thành tích của tôi được loan truyền trên đài phát thanh Sài Gòn. Tò mò bắt sang đài Hà Nội, họ đang khoe đã hạ được năm máy bay trong số ba mươi máy bay tiến đánh lúc ban trưa ở cùng một nơi chốn và thời gian mười hai chúng tôi đã đến và trở về.

Tôi mỉm cười…

Lê Bá Định

Chú thích:
Lê Bá Định sinh trưởng tại miền Bắc nhưng theo gia đình di cư vào Nam từ 1954.
Lê Bá Định trở thành một phi công phản lực nổi danh trong binh chủng về khả năng điều khiển khu trục lẫn khả năng viết.
Lê Bá Định cũng được biết đến như một cấp chỉ huy trẻ cương trực và quả quyết khi là Trung Tá Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật.
Sau 1975, Lê Bá Định trở thành tù nhân cải tạo nhiều năm, nhưng quyết định ở lại Sài Gòn mưu sinh bằng cách kèm dạy Anh Văn.




LỜI TÂM TÌNH VỀ THI ĐÀN LẠC VIỆT.

LỜI TÂM TÌNH VỀ THI ĐÀN LẠC VIỆT.

Gửi Chinh Nguyên,

Đây là đôi điều về Thi Đàn Lạc Việt:
Thành lập năm 1991 chứ không phải năm 1992 như Chinh Nguyên nhớ. Ngày đó, bác Dương Huệ Anh có lẽ là người thứ hai in thơ của mình và ra mắt thơ tại San Jose. Người thứ nhất là cụ Trình Xuyên. Theo tài liệu còn giữ được là Nguyệt San Thơ Về Nguồn xuất bản từ tháng tư năm 1991 của Hoài Việt (Lê Trọng Hiền, chủ nhiệm) và tôi Thượng Quân (chủ bút) có ghi lại thời gian xuất bản nguyệt san và ra mắt thơ của hai cụ: Trong số 4 (xuất bản ngày 31-7-1991) chúng tôi đã chọn đăng 3 bài giới thiệu về 3 nhà thơ là Băng Tâm (chuyên khoa Chiropractic), cụ Trình Xuyên và Dương Huệ Anh. Bài viết về Băng Tâm do nhà báo Sao Biển viết, hai bài giới thiệu Hoa Bút Trình Xuyên của cụ Trình Xuyên và Huyền Ca Diễm Ảnh của Dương Huệ Anh thì do Đỗ Quyên viết (tháng 6 và tháng 7, 1991). Sau khi tôi và Hoài Việt đi dự buổi ra mắt thơ Huyền Ca Diễm Ảnh của cụ Dương Huệ Anh thì tôi tham gia giúp cụ trong việc điều hành Thi Đàn Lạc Việt và từ đó bắt đầu có phong trào sinh hoạt thơ văn ngâm thơ trong các buổi sinh hoạt của Thi Đàn Lạc Việt và tôi là người đưa ra sáng kiến cho ngâm thơ của các tham dự viên. Để tránh tình trạng "vận động ngầm" với các người ngâm (mà tôi thường "dí dỏm" gọi là ngâm sĩ) để ngâm nhiều bài của một người "láu cá", "lo lót", tôi bèn đề nghị biện pháp là "ai đưa thơ trước thì ngâm trước (bài thơ nộp lên để úp trên bàn, sau khi hết người góp thơ thì tôi lật lên và lấy bài thơ đầu tiên dể nhờ một "ngâm sĩ" ngâm dùm. Các giọng ngâm ngày đó có Hữu Huân, Khánh Hà, Kiều Loan (con nhà thơ Hoàng Cầm), Hồng Anh, Thi Cầm (biết thỏi sáo ngâm thơ hơi rất mạnh và rất hay)… Còn hai người nữa, một giọng nam có họ Trần (tôi quên mất tên) và một giọng nữ tên Quyên (tôi lại quên họ). Vì để giữ được sự công bằng, tôi không nộp thơ và cũng không giới thiệu nhà tôi Hồng Anh lên ngâm thơ. Ông Dương Huệ Anh cũng vậy. Ngày đó có các nhà thơ lão thành và đứng đắn như cụ Trình Xuyên và cụ Trùng Quang và nhà thơ trào phúrng trước 1975 của nhật báo Tự Do, nhà thơ Hà Thượng Nhân (người trên sông). Giới thơ trẻ thì có Khương Hạ (Hoàng Tuấn, con của Cung Diễm tức Tú Lắc) và nhiều người khác. Trước đó, thì Chu Tấn thành lập Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam Tự Do và xuất bản tuyển tập Thắp sáng Quê Hương do Trần Mạnh Hòa layout. Vì Hòa bận về Việt Nam nên Chu Tấn nhờ tôi tiếp tục công việc, và nhân đó, tôi có góp bài thơ Thư Gửi Bạn Không Quân. Còn Hoài Việt cũng một mình đứng ra sựu tập và xuất bản cuốn Dòng Thơ Hải Ngoại (gồm nhiều tác giả)
Sau đó thì xẩy ra xáo trộn trong Văn Bút nên mọi chuyện văn nghệ thường thường mất tính chất nghệ thuật…
Chú thích: Trong bài thơ Mừng Thượng Thọ 90 tặng nhà thơ Dương Huệ Anh, tôi có "cố ý" sửa đề tập thơ Huyền Ca Diểm Ảnh thành Huyền Thơ Diễm Ảnh, mục đích "chọc" cụ Dương Huệ Anh chơi "vì… và" trong bài cũng có một câu "mừng cụ" có ý trung nhân mới’ mà Chinh Nguyên đã lên đọc bài thơ này… Tiện thể cũng gửi 2 bài thơ: Ánh sáng Hiển Linh và Quê Ta Chuyển Nhịp

ÁNH SÁNG HIỂN LINH                                                                                   

Giữa ánh sáng Chúa uy linh hiển hiện,
Đem tình yêu thiên phúc xuống trần gian,
Đem cho đời ánh sáng của Thiên Nhan,
Và nẻo sống như ánh sao dẫn đạo.
*
Con xin bước theo Ba Vua thuở trước,
Nhìn ánh sao sáng rực giữa đêm đông,
Tìm đến cùng chân lý: Lửa muôn dòng,
Về cùng mối của vô cùng vũ trụ.
*
Chúa Tất Cả, là khởi nguyên hoàn vũ,
Là vô cùng, là vĩ đại, vô song,
Là muôn trùng, là trắng khiết, tinh trong,
Là ưu ái, là tình yêu vô tận.                                                                          
*
Chúa hẳn thấy khắp vô cùng vũ trụ,
Cả muôn loài, muôn vật đẹp thiên ân,
Cả muôn loài đang trỗi dậy canh tân,
Hướng về Chúa như hướng dương thần tử.
*
Con, cô lữ của cuộc đời trần lụy,
Hướng về Trời vói bàn thánh Thiên Tòa,
Hướng về trời với bản tính trăm hoa,
Dâng về Chúa bao tin yêu ngưỡng cọng.

Thượng Quân

QUÊ TA CHUYỂN NHỊP                                                                                

Tặng những chiến sĩ Phục Quốc

Ta nghe rõ tiếng triều dâng trong óc,
Nhạc rộn cao trên bể cả mênh mông,
Tim hòa bình bỗng loạn nhạc chiều đông,
Ngoài ngàn dậm nghe lời reo sông núi.
*
Đêm xuống nước, trăng sao mờ hận tủi,
Ngày đang lên, ngơ ngác đất rung mình,
Khăn sô trắng hồn nước vẫn trung trinh,
Muôn tiếng thét vọng vang trời quật khởi.
*
Bước im đi cây rừng khuya không nói,
Cả dế giun ghìm tiếng lặng gục đầu,
Nghe náo nức rung chuyển tận rừng sâu,
Đón sắt thép ta về cùng quê cũ.
*
Hoang vắng cũ, xưa thờ ơ say ngủ,
Mặc bạo quyền hò hét nỉ non,
Đêm sa mạc đời lãnh đạm âm thầm,
Bỗng tỉnh thức nhạc rộn ràng xung sát.
*
Ta về đây, mắt mờ, vai áo ướt,
Mẹ đón ta về cảm động ngạc nhiên,
Em đón ta về tiếng sáo huyên thuyên,
Đời sống lại chuyển nhạc hùng xây dựng.

Thượng Quân

——————————————————–

Thi Đàn Lạc Việt 1991 – 2007;

Hai hình trên : Nữ sĩ Trùng Quang và Nhà báo Bình Luận Gia Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh.
Hình những vị sáng lập ra Thi Đàn Lạc Việt năm 1991 từ trên xuống: 
Trưởng môn Hà Thượng Nhân, Thi sĩ Dương Huệ Anh,Chủ Tịch Thi Đàn Lạc Việt (1991 – 2007), Thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, Thi sĩ Thượng Quân, Thi Sĩ Chu Toàn Chung. 

Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt từ 2008 tới hiện tại.
Thi sĩ Đông Anh chủ tịch Thi Đàn Lạc Việt (2008 – 2011) và đổi danh hiệu Thi Đàn Lạc Việt thành Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt (hình thứ 6 bê phải) hầu mở rộng sự sinh hoạt và thành lập Giải Văn Thơ Lạc Việt năm 2008. 
Hiện nhà thơ Chinh Nguyên (Hình số 7 bên phải) là chủ tịch (2012 – hiện tại) Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt từ năm 2012 và tiếp tục mở rộng giải VTLV hàng năm tới năm châu, song song với những sinh hoạt văn hoá khác của VTLV như tổ chức ra mắt những tác phẩm giúp các tác gỉa bạn gần xa, tổ chức thuyết trình về ngôn ngữ Việt, Truyện Kiều, hướng dẫn cách làm thơ, truyện ngắn v..v… 
Hai vị Cố Văn VTLV đã quá vãng : Nữ Sĩ Trùng Quang và Nhà Báo bình luân gia Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh.
Con đường Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt đi tới : Bảo tồn và phát huy văn hoá Việt tại hải ngoại, và chống đối bất bạo động loại văn hóa phá sản tại quốc nội do Công Sản Việt Nam muốn thuần phục Trung Cộng tạo nên.

Mong rằng quý vị đồng một quan điểm với VTLV, và hổ trợ VTLV hầu giúp VTLV đạt được ý nguyện : "Tiếng Việt còn, nước Việt còn" và không bị Trung Cộng đô hộ trong mưu đồ bán nước của Cộng Sản Việt Nam…!




Khóc Mai Tiến Thành

VÀI DÒNG TIỄN BẠN RA ĐI.
 
Buổi sáng sớm có nắng thu luồn qua song cửa sổ, cành rung nhẹ theo gío, và vài chiếc lá vàng lơ lửng trên không. Tôi chợt gõ trên keyboard bài thơ  ngẫu cảm thu hoài:
 
Thu về sao để tình rơi rụng
Sắc úa vàng bay đổ xuống đồi
Nắng sớm còn hong duyên cỏ biếc
Lòng thu.. tuổi hạc nhớ xa xôi.

Thu mấy độ đau sầu viễn xứ…?
Sợi tóc bay trơ trụi nỗi buồn
Trời xanh thẳm vắng mây xao động
Ai nhớ đây…! Sao có lệ tuôn….?
 
Tôi đang định viết tiếp, bỗng có tiếng báo động của PC nhắc nhở có điện thư,  lòng tôi tự nhiên bồi hồi, và quyết định bỏ ngang bài thơ dang dở viết để mở e-mail đọc:

Thân chào các bạn.
Chiều nay CHS Mai Thu Tùng em gái bạn Mai Tiến Thành phone cho vợ chồng chúng tôi, báo tin MAI TIẾN THÀNH ĐÃ VĨNH VIỄN RA ĐI sau thời gian lâm trọng bệnh.
Xin thông báo đến toàn thể
gia đình TH BMT tin thật buồn này.
Mai Thu Tùng cho biết các bạn có thể đến viếng Thành tại nhà quàn #3 Peek Family Home Funeral Bolsa st. Wesminster, CA vào ngày Chúa nhật 12/10/08 (cuối tuần này).

THIỆP-MAI
 
Lòng tôi tự nhiên chùng lại và nhớ lại những kỷ niệm mấy chục năm qua từ thời đệ thất Trung Học Nguyễn Trường Tộ, ngôi trường trung học đầu tiên của tỉnh Ban Mê Thuột lấy dẫy nhà Micola hai lầu, được ngăn ra làm lớp học bên cạnh công viên trước cửa biệt dinh Bảo Đại. Chính vì thế mỗi lần giờ ra chơi là chúng tôi quây quần bên gốc phượng già trên thảm cỏ xanh, để nhường cho nữ sinh ngồi chật ghế công viên. Cũng vì những cây phượng già trổ bông khi hè về đã làm tôi thốt ra hai câu thơ khi còn đệ ngũ trên con đường tôi gọi là đường Phượng Mơ có hai dẫy phượng trồng hai bên đường cạnh Công Viên và ở giữa hai vườn cà phê của Ông Huấn, lối đi xuống suối Buri (Mourier) :
 
Ô kìa hoa phượng tan thành máu
Nhỏ xuống hồn tôi chết một đời…!

Đời có những đổi thay, nên chúng tôi đã phải chuyển trường sau khi trường mới đã xây dựng xong trên đường Hùng Vương và đổi tên thành Trung Học Ban Mê Thuột, bên suối nhà đèn và cách con suối có đồi bắp xanh mỗi mùa mưa lũ.

Ven suối phía bên trường có con đường mòn vào buôn (làng) Ale B của người thiểu số Radê, dọc theo đường mòn có những  cây dây leo của hoa trinh nữ .
Những lúc hai đứa tôi thơ thẩn trên đường mòn, dong chơi trước giờ học cạnh những bờ lau sậy bên suối, Thành thường nói với tôi :

         Loài hoa này nhìn thật đẹp với màu tím buồn, tròn tròn dễ thương như viên bi. Nhưng nếu thò tay hái, gai sẽ đâm vào bàn tay, lá tự nhiên cụp lại như cô gái trong lớp mình hay mắc cỡ thẹn thùng. Khi mày cẩn thật nhẹ nhàng luồn tay qua những dây gai của nó để hái được bông, và cũng cẩn thận rút tay ra thì nó đã nát trong long tay mày rồi, vì hoa quá mềm và yếu ớt. chỉ ngắm mà không hái được….!
         Mày cũng có tâm hồn thơ thẩn..!
         Thơ cái quái gì, tao thấy sao nói vậy, mà chính tao đã bị gai của nó cắn rồi !
 
Mai Tiến Thành bạo dạn, ngổ ngáo hơn tôi trong những lần bên những bạn gái cùng lớp, hơn nữa Thành có dáng đẹp trai, trắng trẻo ăn nói có duyên, nên được nhiều bạn gái cùng lớp thích chuyện trò, cho nên bên cạnh Thành lúc nào cũng vang tiếng cười con gái, họ cười quên cả dáng dấp e lệ thẹn thùng bản tánh nữ sinh. Xong lớp đệ Tứ, có lần tôi hỏi Thành :
         Mày có yêu cô bé nào trong nhóm bạn bè không vậy ?
         Yêu cái con khỉ gì…! Nhiều quá, tụi nó vây quanh tao là vì vui thôi, tao chẳng để ý ai cả. Tụi mình lớn lên là sẽ vào quân đội… chiến tranh mày hiểu không …! 
Thành nhìn tôi :
         Còn mày ?   Mày phải nói… Nếu không tao cướp mất đào của mày ráng chịu đó nghe…
Tôi yên lặng mở cuốn sách việt văn, trong đó đầy thơ tôi viết trong các phần bỏ trống , và có ép một cành nhỏ hoa bằng lăng Diễm Diễm đã hái bên bờ suối Buri (Mourier), nhưng không nói cho Thành Biết chủ của cành hoa bằng lăng ép là ai. Vi` tôi cũng chẳng biết ý nghĩa của sự cho tặng , và tình nàng Diễm Diễm ra sao, tôi chỉ nhận với tuổi mơ mộng học trò thế thôi. Dưới cành hoa bằng lăng ép khô có bài thơ mà tôi chỉ còn nhớ hai câu :
 
Bằng lăng tím em tặng anh bên suối
Phải tình em hay là nỗi khổ dau…!
 
Sau mùa hè đệ tam, tôi bỏ trường vào dòng tu, Thành ở lại Ban Mê và chúng tôi không gặp nhau cho tới khi gặp lại nhau, là khi tôi và Thành đã trở thành hai chàng lính chiến tuổi đời hơn 25 với bộ đồ đầy bụi đường. Tôi được biết Thành là phóng viên chiến trường của quân đoàn hai, còn tôi đời lính thành phố của Sư Đoàn Hai Không Quân tại Nha Trang.

Ngày đó tôi hỏi Thành :
         Tao gặp chi. Điệp của mày, và thấy con mày mang về cho chị Điệp nuôi.
Bộ mày và cô giáo nhà văn của mày yêu nhau thật sao?  Mày là học trò còn bà ta là cô giáo của mày!
Thành ôm chiếc máy quay phim, chúng tôi đi bên nhau vào cổng Phi Long Nha Trang. Thành dừng lại nhìn tôi :
         Sao mày biết chuyện này?
         Mẹ khỉ, Chị Điệp nói, và chị đưa cho tao cuốn sách mày viết giải oan cho người yêu của mày.
Thành dừng lại nhìn tôi thêm lần nữa, hỏi :
         Bà Điệp đưa cuốn gì cho mày, tao viết hai cuốn lận. Mà mày cũng tò mò chuyện của tao!
         Chị Điệp đưa cho tao cuốn Tiếng Nói Học Trò.
         Hồi mày học đệ nhất trên Đà Lạt, cũng yêu thương kinh khủng quá xá,
Tình yêu đã viết thành sách nổi tiếng là tuyệt rồi. Đến nỗi nàng viết ra cuốn Vòng Tay Học Trò, mày ghê ghớm thật…!
         Ồ… Chúng tao yêu nhau … Đâu có tội gì phải không  mày! Tình mà!
Tụi đạo đức rởm, bàn tán xôn xao, nên tao phải viết thôi…!
 
Sau lần gặp đó tôi không còn gặp lại Thành. Năm 1975, tôi cứ tưởng mất người bạn này, tuy nhiên chúng tôi lại có dịp may gặp nhau tại miền Nam Cali. Trong dịp Hội đồng hương Ban Mê Thuột, anh Nguyễn Văn Như chủ tịch tổ chức năm 2003. Vừa gặp mặt Thành đã ôm lấy tôi hỏi dồn dập:
          Tao nghe tụi bạn nói mày còn sống ở Bắc Cali. Không có số điện thoại nên chịu thua. Tao cứ tưởng mày đi đoong rồi ? Nghe đâu mày về Kiểm Báo Ban Mê Thuột tại phi trường L19? Phi trường L19 bị nặng lắm, tụi nó pháo liên miên cả nửa tháng, mà mày còn nguyên vẹn lại qua Mỹ là phép lạ !
Tôi dẫn nó tới bàn ngồi :
        –    Đúng , đó là phép lạ… Nhưng tao đâu có đụng CS trong năm 1975 …! 
Ông Hoàng Bá Mỹ gởi tao về Bộ Tư Lệnh KQ Sài Gòn học tháng 2/1975 thì đầu tháng 3/1975  Việt Cộng tấn công Ban Mê Thuọt, Kiểm báo nặng nhất, tao có mấy thằng bạn chết tại đó. Tao ở Sài Gòn và chạy qua đây có một cái quần sà  lỏn…!
        –   Ông Mỹ chồng của Bích ở tiệm may Thông Đạt?
        –   Đúng.
        –   Ấy, mày cũng lại nhờ vía đàn bà. Bích học cùng lớp với tụi mình ngày xưa. 
        –   Tao cũng chẳng biết Bích có nói gì với chồng hay không…! Tuy nhiên tao đi học là bắt buộc, vì tao không muốn đi học lúc đó..! Số phận…!
 
Năm 2006. Tôi đến nhà quàn tại Nam Cali. tiễn đưa cha của Thành lần cuối . Tôi gặp lại chị Điệp vẫn mang dáng dấp của nét đẹp ngày xưa,. Trong khi tôi và chị Điệp đang nói chuyện về việc gia đình và các con chị. Thành tới kéo tôi ra chỗ ít người . Hai đứa tôi nói chuyện đời người ngắn ngủi, nói về tình trạng bệnh của cha Thành và cuộc sống của ông trước và sau 1975.
Thành bỗng nói :
       –    Hêy… Mày hồi này viết lại rồi sao? Tao bỏ luôn rồi… mệt lắm…!
Mày để cái hình trong cuốn truyện ngắn Mẹ Tôi của mày coi “bụi” lắm…!
Tôi tâm sự :
        –   Tao nghỉ việc rồi,..! Thời giờ dư không biết làm gì, sẵn có tí máu văn nghệ  nên viết lại cho vui. Bạn bè chúng mình đâu còn mấy đứa.  Mẹ kiếp tụi
mình sẽ rụng dần…!
Tháng 04/2008, tôi gọi phone cho Thành, hai đứa tôi ôm phone cả tiếng với đủ mọi chuyện trên trời dưới đất. Thành than mệt và có bệnh, có thể đi sớm hơn tôi. Tôi hỏi Thành bệnh gì… nhưng Thành không nói, tôi chỉ nghe đầu giây bên kia tiếng thở dài…!
Tôi không ngờ cuộc điện đàm hôm đó đã là lần cuối hai đứa gặp nhau trên đường giây điện thoại. Tôi súc động nhận tin buồn từ người bạn thân báo một người bạn thân ra đi vĩnh viễn bất ngờ, tôi viết cho Ngọc Thiệp :
Cám ơn Thiệp và chi. Bảo Trân đã cho tin buồn này.
 
Thiệp ơi : Mày cho tao chung với các bạn bè về mọi sự chi phí tiễn thằng bạn vàng Mai Tiến Thành vào cõi hư vô.
Mày làm ơn chuyển lời tao chia buồn cùng gia đình Thành, Mai Thu Tùng  và chi. Điệp, chị của Thành.
 
Đời nó thế là yên thân mày nhỉ
Còn chúng mình toan tính nữa mà chi…!
Vung tay ném viên cuội vào hồ nước
Mặt nước loang sóng nhẹ tiếc xuân thì..
 
KHÓC BẠN MAI TIẾN THÀNH
 
 Mày đã ra đi không trở lại
 Tao buồn dứng ngó là thu rơi
 Lá nào nương gió bay lên mãi
 Còn lá nào đây giữa cuộc đời
 
Thấm thoát tuổi xuân+ giữa lọan trời
Bút nghiên bỏ lại để dong chơi
Mang vào tay súng, đùa bom dạn
Nửa kiếp tàn phai như lá rơi…
 
 Chợt thoáng không ngờ đã biệt ly
 Quê hương bỏ lại mày ra đi
 Tháng Tư phone gọi, hôm nay mất…!
 Bạn đếm đốt tay khóc phân kỳ.
 
 Xứ lạ quê hương mày ngủ yên
 Còn tao mang nặng nỗi buồn phiền
 Lặng thinh nhìn lá bay trong nắng
 Nắng tím chiều phai, tủi mộng điên
 
 Thôi nhé tình yêu và tất cả
 Hồn thiêng nợ sạch , nhớ quay về
 Việt Nam một cõi trong mê loạn
 Tao, mày sẽ gặp chốn chân quê…!
 
Viết khóc bạn Mai Tiến Thành,
Để nhớ lại Ban Mê thời Trung học Nguyễn Trường Tộ
 
San Jose, Oct. 12/2008.



Lần gặp Bác Hồ Tôi bị mất trinh (Huỳnh Thị Thanh Xuân).

Lần gặp Bác Hồ Tôi bị mất trinh .

Năm 1964, tôi được cơ quan và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam cho ra miền Bắc học văn hóa, đi bộ trên 3 tháng vượt Trường Sơn ra Hà Nội. Trường hành chính gần cầu Giấy, Hà Nội là nơi đón tiếp chúng tôi đầu tiên. Năm đó tôi mới 15 tuổi. Bởi vì sống trong vùng tạm chiếm của Mỹ – Diệm nên hiểu biết của tôi về Bác Hồ rất chi là ít ỏi.
Tôi đã sớm giác ngộ cách mạng, đã tham gia làm giao liên hợp pháp cho Thành ủy, Biệt động thành Đà Nẵng và Huyện ủy Điện Bàn, Đại Lộc. Cho đến khi lên chiến khu, tôi được ba tôi và các chú trong cơ quan dạy bảo thêm về tiểu sử của "Bác Hồ" – nhà ái quốc vĩ đại của dân tộc ta.Phải lúc bấy giờ " Bác " như là thần thánh trong đầu tôi .Trước khi tôi ra miền Bắc, ba mẹ tôi ôm tôi ngồi trên chõng tre căn dặn: "Con ơi, ra đến miền Bắc nếu được gặp Bác Hồ, con nói ba mẹ và gia đình mình cũng như các cô chú trong cơ quan gởi lời thăm sức khỏe của Bác. Con phải cố gắng học thật tốt để sau này về phụng sự quê hương nghe con". Lúc đó tôi chỉ biết im lặng.
[/

Thật là vinh dự biết bao cho bản thân, gia đình và quê hương chúng tôi, tôi có tên trong danh sách gặp Bác Hồ. Đó là lúc 17 giờ ngày 30-8-1964. Sau khi ăn cơm chiều về có lệnh tập trung, bác Tố- Hữu – người phụ trách chung – nói: "Các cháu có danh sách sau đây ở lại cùng với anh Hanh phụ trách đội thiếu niên tiền phong". Bác Hữu đọc: "… Lập, Lộc, Dung (con bác Nguyễn Hữu Thọ), Đệ, Hòa (Khánh Hòa), Độ, Đâu và Thanh, Kiến (QNĐN)". Bác Hữu nói: "Các cháu chuẩn bị tư trang, sau 20 phút tập trung lên xe và được đi gặp Bác Hồ". Nghe vậy, tất cả chúng tôi có tên trong danh sách reo ầm cả lên làm vang dội cả phòng. Trong lòng ai nấy đều phấn khởi chạy về phòng thay áo quần, quàng khăn đỏ, chải đầu tóc gọn gàng rồi chạy xuống cầu thang (lúc đó chúng tôi ở tầng 3 nhà A1 của Trường hành chính Hà Nội). Xuống khỏi cầu thang chúng tôi thấy có 4 xe đậu trước cửa, 2 xe Vônga – 1 xe màu đen, 1 xe màu cà phê sữa – và 2 xe com măng ca màu rêu. Tôi nhanh chân nhảy lên chiếc xe Vônga ở gần cùng với Ba Đen và anh Hanh phụ trách. Đoàn chúng tôi gồm 16 người lên xe đầy đủ. Chiếc xe từ từ lăn bánh rẽ tay trái đến cầu Giấy đi thẳng đường đê Bưởi rồi rẽ phải vào đường Hoàng Hoa Thám, đến đường Hùng Vương chạy từ từ và dừng lại. Một chú công an mở cổng và đoàn chúng tôi đi bộ vào dọc theo con đường rải đá sỏi nhỏ, hai bên trồng nhiều cây cảnh đều và gọn đẹp.
Gần đến nhà khách, chúng tôi thấy xuất hiện ông già mặc bộ đồ kaki màu xám với đôi dép cao su đen đang từ từ đi ra nở nụ cười phúc hậu. Bỗng anh Hanh và tất cả chúng tôi reo lên: "Bác Hồ!" rồi thi nhau chạy đến ôm chầm lấy Bác. Chúng tôi tranh nhau ôm chặt lấy Bác, còn Bác thì xoa đầu và vỗ lưng chúng tôi rồi Bác dẫn chúng tôi cùng đi vào nhà và bước lên cầu thang tầng 2. Chúng tôi ríu rít như đàn chim được tụ về tổ ấm. Lên khỏi cầu thang rẽ tay phải đi vào phòng họp mặt, lúc đó chúng tôi và các chú, các bác đi cùng với Bác ngồi vào từng ghế quây quần xung quanh chiếc bàn lớn. Câu đầu tiên Bác nói: "Dân chố gộ có mặt đây không?" (ý nói vui người dân QNĐN). Bạn Dung ngồi gần chọc nách và nói "có ạ". Bác nói tiếp: "Dân dưa cải mắm cái có không?" (ý nói chỉ người địa phương Quảng Ngãi), tất cả chỉ qua phía Ba Đen (người dân tộc Tây nguyên) Ba-Đen nói "có ạ". Bác lại nói: "Dân đầu gấu (đầu gối chân) có không?" (ý nói người quê ở Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận). Tất cả chúng tôi rất khó chiụ với sự giả tiếng và hỏi một cách kỳ cục của Bác ,Sau đó Bác chỉ qua phía bạn Hòa., rồi Bác nói tiếp: "Các cháu ăn mích chính ích ích thôi nghen" (ý nói quê ở Nam bộ). Tất cả lại chúng tôi lại không biết Bác nói gì nữa, sao bác diễu dỡ qúa vậy, những gì tôi học được về Bác khi còn ở miền nam hoàn toàn ngược lại khi tôi gặp con ngươì bác thật sự
Bác nói: "Hôm nay là ngày vui mà Bác cháu chúng ta gặp nhau như vậy chúng ta lại hát bài Kết đoàn". Bác vẫy tay bắt nhịp cùng chúng tôi, hội trường lúc này ngày càng tươi vui náo nhiệt. "Kết đoàn chúng ta là sức mạnh, kết đoàn chúng ta là sắt gang…". Khi mà chúng tôi say sưa hát thì bác đi bóp vai những đứa con gaí, tới chổ tôi thì bác không những xoa lưng tôi mà bac còn để cho bà
n tay đi xuống hai bờ mông của tôi xoa xoa bóp bóp làm cho tôi thâý rất là khó chịu, nhưng tôi không dám lên tiếng đành đứng yên chiụ thôi. Trước mắt chúng tôi là bánh cứt chó và kẹo bột cám ngào đường và nước chè xanh mà Bác cho dọn sẵn, Bác nói: "Mời các cháu cùng ăn với các bác cho vui". Nói xong, Bác giới thiệu với chúng tôi: "Bác là Hồ Chí Minh, còn đây là bác Phạm Văn Đồng, người dưa cải đấy! Và đây là bác Trường Chinh, bác Võ Nguyên Giáp, bác Lê Thanh Nghị, các bác ở Bộ Chính trị hôm nay cũng có mặt với các cháu". Bác đang nói thì thấy một ông già từ từ đi vào, miệng cười, vừa đi vừa vỗ tay, Bác Hồ giới thiệu luôn: "Đây là bác Tôn của các cháu", cả phòng lại vỗ tay một lần nữa. Bác đi đến từng người trong chúng tôi và ôm hôn mỗi người một cái.


Đến lượt tôi được Bác hôn vào môi tôi một cách say đắm lưỡi của bác còn thò vào miệng tôi ngoáy ngoáy , ngay lập tức tôi nhổm dậy và né khuôn mặt tôi qua một bên . Lúc này tôi muốn nói về tình cảm gia đình tôi, quê hương tôi với Bác nhưng bàn tay của bác không chiụ dừng lại sau bờ mông của tôi , còn tôi thì nghẹn ngào và mắc cỡ rôì Bác lướt qua bạn bên cạnh. Tự dưng tôi chảy nước mắt, tôi thấy Bác Hồ này có gì kỳ cục qúa không giống như bác hồ mà chúng tôi học được trong miền nam .. Bác nói: "Bây giờ có cháu nào đứng lên hát cho các chú và các bác ở đây nghe một bài nào?". Lúc này các bạn nhìn lẫn nhau vì đột ngột quá và thấy mắc cỡ không ai chuẩn bị kịp. Sau đó, anh Hanh chỉ Dung hát một bài. Bạn Dung hát: "Ngày con mới ra miền Bắc con còn bé xíu như là cái hạt tiêu…", hát xong Dung nhận được một tràng vỗ tay khích lệ. Đến bạn Hòa mạnh dạn đứng lên hát bài: "Vui họp mặt. Từ ngàn phương về đây cùng nhau đoàn kết cùng đi tới tương lai…", lại một tràng vỗ tay khích lệ nữa vang lên. Sau đó Bác nói: "Bác đại diện các chú ở đây căn dặn các cháu mấy điều. Bác biết các cháu ngồi đây là ở khắp các địa phương của miền Nam, Bác muốn gặp tất cả các cháu cũng như gia đình của các cháu và toàn thể đồng bào miền Nam song điều kiện chưa cho phép, đất nước đang bị chia cắt nhưng các cháu tin tưởng một ngày không xa Tổ quốc ta được thống nhất, gia đình chúng ta được sum họp, Bác sẽ có điều kiện đi thăm hỏi. Các cháu viết thư hoặc nhắn tin cho gia đình là Bác và các chú ở đây gửi lời thăm gia đình và bạn bè các cháu ở miền Nam". Một tràng vỗ tay nữa lại vang lên trong không khí trang nghiêm và ấm cúng. Bác Hồ nói tiếp: "Các cháu đã ra đến miền Bắc xã hội chủ nghĩa rồi đấy. Bác mong các cháu ngoan, học giỏi để xứng đáng là cháu ngoan của Bác. Các cháu là những " hạt giống đỏ " của đồng bào miền Nam gửi ra đây học tập cho nên phải làm sao cho xứng đáng với lòng mong mỏi đó. Bác chúc các cháu ngoan, khỏe, vui và học tập thật giỏi" Nói xong, Bác Hồ quay qua bên cạnh hỏi: "Các chú có ý kiến chi không?" (ý hỏi ý kiến các bác trong Bộ Chính trị có mặt lúc đó). Các bác đều không nói thêm và tán thành ý kiến với Bác. Bác nói tiếp: "Bây giờ các cháu xuống dưới xem phim". Chúng tôi đứng lên và
đi xuống với Bác, bạn thì đi cạnh bác Tôn, bạn thì đi cạnh bác Đồng, bác Duẩn, bác Chinh, bác Giáp, bác Nghị…
Vào phòng chiếu phim ở tầng 1, Bác chiêu đãi bộ phim thiếu nhi miền Nam đánh Mỹ (phim hoạt hình). Lúc đó tự nhiên tôi thấy vinh dự đến lạ kỳ, một niềm vui khó tả, Bác Hồ ngồi cạnh tôi bác ôm chặc tôi , một tay choàng qua vai tôi và xoa xoa lên ngực tôi bộ ngực mơí lớn của một cô gái miền Nam.

Khi đèn phòng bật sáng Bác hỏi về gia đình tôi và cuộc hành trình của tôi đi bộ vượt Trường Sơn hơn 3 tháng như thế nào kể cho Bác nghe. Bác xoa đầu và hôn lên trán tôi hai cái rất lâu, tôi nhớ rất kỹ, tôi kể sơ về hoạt động giao liên của tôi cho Bác nghe và nhớ đến lời căn dặn của ba mẹ tôi cùng các chú trong cơ quan, ba tôi ở chiến khu Đại Lộc QNĐN thế nào. Ngồi một lúc, Bác đi qua bên con Hoa, con Lan và tôi thâý bàn tay của bác cũng không bao giờ chịu làm biếng .

Đêm hôm đó tôi được một chị thư ký của bác noí nhỏ cho tôi biết là tôi hân hạnh được bác muốn cho gặp riêng bác, có những chuyện bác muốn hỏi tôi nhưng vì sáng nay đông qúa bác không tiện.Khi tôi cùng Chị Nhàng đi tơí chổ Bác ở thì tôi được Chị Nhàng dẫn đi tắm rữa sạch sẽ và chị nhàng nhìn tôi trong đôi mắt u buồn và tôị nghiệp .Tôi được chị nhàng dẫn đi qua môt. hành lang, và tơí phòng ngủ của bác, chị Nhàng gõ cữa ba tiếng cánh cửa mở ra, Chị Nhàng bảo tôi đi vào và chị xoay lưng bỏ đi. Khi tôi vào phòng Bác ôm chầm lấy tôi, hôn môi tôi, hai tay bác xoa nắn khắp người tôi, Bác Bóp hai bờ ngực nhỏ của tôi, bác bóp mông tôi bác bồng tôi lên thều thào vào trong tai tôi :
– Để bác cấy hạt giống đỏ cho cháu, cháu mang về miền nam cho bác nhẹ.
Bác bồng tôi lên gườing hai tay bác đè tôi ra và lột áo quần tôi, Bác như một con cop đói mồi, sau một hôì kháng cự tôi biết mình không thể nào làm gì hơn nên đành nằm xuôi tay ..Hai hàng lệ một cô gái miền Nam vừa tròn 15 tuổi đã bị bác cướp đi mất cái trong trắng.

Những đêm sau mấy đứa con gái khác cũng được dẫn đi như tôi, tôi biết là chuyện gì sẽ xảy ra với chúng, nhưng chúng tôi không ai dám noí vớí ai lời nào. Và qua cái chết của con Lành và con Hoa thì những ngày sau đó chúng tôi sống trong hoang mang và sợ sệt không biết là khi nào tới phiên của mình .
Cho đến khi thống nhất nước nhà, ba mẹ tôi không còn nữa, đã hy sinh cho độc lập dân tộc song họ hàng tôi vẫn vui lòng bởi vì tôi đã thay mặt gia đình và các cô chú trong cơ quan cũng như bạn bè tôi được vinh dự gặp Bác Hồ.Nhưng có ai biết được rằng sau cái gọi là vinh danh gặp bác hồ là chuyện gì xảy ra đâu. Kể cã chồng tôi khi hỏi tớí trinh tiêt’ của tôi, tôi cũng không dám nói vì anh ấy là một đảng viên cao cấp là một người lảnh đạo của tỉnh QNDN. Tôi chỉ nói là khi đi công tác tôi bị bọn ngụy quân bắt tôi và hãm hiếp tôi, chứ làm sao tôi dám noí tôi bị hãm hiếp lúc mơí 15 tuôỉ và bị hãm hiếp ngay tại phủ chủ tịch và chính là " Bác hồ " hãm hiếp tôi cho chồng tôi nghe .
Bây giờ ngồi đây tự điểm mặt lại trong số chúng tôi được vinh dự gặp Bác Hồ hơn 40 năm trước đây, chúng tôi đều trưởng thành, ngôì ngậm nguì nhớ laị những đứa bỏ xác laị trong phủ chủ tịch và không bao giờ về lại được miền nam. Tự nghĩ lại, chúng tôi thấy rất thấm thía lời Bác Hồ đã dạy: "Bác sẽ cấy những hạt giống đỏ của bác cho đồng bào miền Nam".

Quảng Nam-Đà nẵng
Ngày mùng 2 thánh 9 năm 2005
Huỳnh Thị Thanh Xuân .




Thiếu tướng nguyên đại sứ VN tại Bắc Kinh phản đối việc để cho Trung Quốc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên

Nguyễn Trọng VĩnhThư của thiếu tướng đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh

Nguyễn Trọng Vĩnh Cập nhật : 02/03/2009 13:03

Thiếu tướng nguyên đại sứ VN tại Bắc Kinh phản đối việc để cho Trung Quốc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên

Thư của Thiếu tướng NguyễnTrọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh
1974-1989

 

Kính gửi : Các đồng chí uỷ viên Bộ Chính Trị,

   đồng kính gửi : Thủ Tướng và các Phó Thủ Tướng Chính Phủ.

 

Kính thưa các đồng chí,

vinhTT. Nguyễn Trọng Vĩnh
ảnh : Bảo tàng LSQĐNDVN

Lâu nay tôi không có thông tin, mãi đến gần đây được đọc thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và hàng trăm ý kiến không đồng tình của các nhà khoa học, cán bộ và người dân ở khắp Bắc – Trung – Nam, tôi mới biết ta đồng ý cho Trung Quốc khai thác bauxit ở Tây Nguyên. Nguy hiểm quá ! Tôi cũng thấy những nguy hại như mọi người đã phát biểu : tàn phá môi trường sinh thái, xâm hại rừng nguyên sinh, nguy hại cho đời sống của đồng bào dân tộc người Thượng, lưu độc cho các dòng sông phát nguyên hoặc chảy qua Tây Nguyên, ảnh hưởng rất xấu cho đời sống của người dân Nam Bộ sống dọc hai bờ sông Đồng Nai, có thể ảnh hưởng đến các công trình thuỷ điện phía Nam. Điều đáng lo hơn cả là an ninh quốc gia. Chúng ta đều biết Trung Quốc xây dựng căn cứ hải quân hùng mạnh ở Tam Á đảo Hải Nam, nói thẳng ra là không phải để chống kẻ thù xâm lược nào, mà là đe doạ Việt Nam và sẵn sàng chờ thời cơ thôn tính nốt Trường Sa của chúng ta, sau khi đã nhanh tay chiếm Hoàng Sa từ tay Chính quyền Sài Gòn. Nay lại để Trung Quốc khai thác bauxit ở Tây Nguyên thì sẽ có năm, bảy nghìn hoặc một vạn công nhân hay quân nhân Trung Quốc đến cư trú và hoạt động tại đây, sẽ hình thành một “thị trấn Trung Hoa”, một “căn cứ quân sự” trên địa bàn chiến lược vô cùng xung yếu của chúng ta (vũ khí đưa vào thì không khó gì). Phía Bắc nước ta, trên biển có căn cứ hải quân hùng mạnh, phía Tây Nam nước ta có căn cứ lục quân trang bị đầy đủ thì độc lập, chủ quyền mà chúng ta đã phải đổi bằng hàng triệu sinh mạng cùng xương máu sẽ như thế nào ?!

Về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ta có đầy đủ căn cứ lịch sử và pháp lý, còn Trung Quốc thì không. Vậy mà báo chí Trung Quốc dựng ra chứng cứ, luôn công khai xí hai quần đảo đó là của họ. Quốc vụ viện Trung Quốc (chính phủ) công khai công bố quyết định lập huyện Tam Sa. Trung Quốc có nhiều hành động rất công khai mà lại dỗ chúng ta im lặng không đưa vấn đề ra công khai, thật là vô lý. Chúng ta muốn sống hoà bình hữu nghị với Trung Quốc, tôi cũng muốn thế. Nhưng hữu nghị cũng phải đấu tranh thích hợp để bảo vệ lợi ích chính đáng của Tổ Quốc ta. Nếu lãnh đạo chưa tiện lên tiếng công khai thì cứ để báo chí, các nhà khoa học lịch sử đưa ra chứng lý, cứ để cho quần chúng biểu tình hoà bình, phản đối khi lãnh thổ Quốc gia bị xâm phạm, không nên dập đi tinh thần yêu nước của họ.

Đành rằng các đồng chí có quyền, muốn làm gì cũng được, quyết định thế nào cũng được, nhưng cũng nên quan tâm dư luận, lắng nghe những lời phân tích lợi, hại, phải, trái mà suy nghĩ cân nhắc. Từ xưa đến nay, ở triều đại nào cũng vậy, chủ trương, chính sách ích quốc, lợi dân thì được dân ủng hộ, chủ trương chính sách sai trái tổn quốc, hại dân thì dân oán. Dân oán, mất lòng tin thì khó yên ổn và thịnh vượng được. “Quan nhất thời, dân vạn đại”, “vua cũng nhất thời, dân vạn đại”.

Thưa các đồng chí,

Trên đây là những lời nói thẳng, tâm huyết của một đảng viên già 70 tuổi Đảng, đã gần đất xa trời, mong được các đồng chí xem xét.

Kính chào,

Nguyễn Trọng Vĩnh

Số nhà 23, Ngõ 5, Phố Hoàng Tích Trí,
Phường Kim Liên, Quận Đống Đa,
Hà Nội

Nguyễn Trọng Vĩnh sinh năm 1916. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến năm 1989. Trước đó ở trong quân đội : chính uỷ Khu 1 (1947), cục trường cục tổ chức Tổng cục chính trị (1950), chính uỷ Quân khu 1 (1958), thiếu tướng (1959). Sau một thời gian làm bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hoá (1961-1964), ông trở lại quân đội : đoàn uỷ Đoàn 959 kiêm phó ban Công tác miền Tây (CP-38). Uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng (1960-1976). Tham gia cách mạng từ năm 1937. Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến công hạng nhất. Từ khi về hưu, làm phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.




CHUYẾN XE TANG VỀ QUÊ CHỒNG (Giao Chỉ)

Giao Chỉ – San Jose

      (Viết theo lời kể lại của Lệ Hà)

 

                           

                                              

 

                           Cố Trung Úy Dù QUÁCH VĂN SỞ

                                 Khóa 24 Trường VBQGVN

 

                                                                 

 

                San Jose ngày 29 tháng 04 năm 2009.

 

Em là Trần Thị Lệ Hà, quê Cần Thơ, hiện cư ngụ tại San Jose, xin kể lại cho bác Lộc và các bác niên trưởng trong quân đội câu chuyện 34 năm về trước. Nếu miền Nam và Saigon gọi ngày 30 tháng Tư 75 là ngày tang của đất nước thì ngày tang của Trần Thị Lệ Hà đến sớm hơn một ngày. Ðó là ngày 29 tháng 4 năm 1975. Ðêm 28 tháng 4 cách đây 34 năm trung úy Quách Văn Sở, võ bị Ðà Lạt khóa 24, từ giã vợ con vào trại Hoàng Hoa Thám sinh hoạt với tân binh nhảy dù. Trung úy mũ đỏ Quách Văn Sở rất có tinh thần trách nhiệm, đã có giấy lên đại úy nhưng còn chờ lễ đeo lon. Quá nửa đêm 28 qua sáng 29 thì Việt cộng pháo kích vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám. Sáng sớm 29 tháng 4 lính dù chạy về báo tin anh Sở, chồng của Lệ Hà đã chết. Cùng một lúc khu trại gia binh nhảy dù phải di tản. Em lúc đó 25 tuổi, con trai đầu lòng được 7 tháng. Chẳng có ai thân thuộc. Mẹ con ôm nhau chạy qua nhà ông cậu bên thành Lê Văn Duyệt. Chồng chết ra sao cũng không biết. Ðường xá kẹt hết. Chuyện chiến tranh, trận mạc nhà binh từ khi lấy nhau tất cả đều do anh Sở quyết định. Nay bỗng nhiên trời xập, ôm đứa con dại, em ngồi khóc một mình. Không biết xác chồng nằm ở nơi đâu. Chung quanh Sài Gòn náo loạn, ai mà lưu tâm đến người vợ trẻ mất chồng vào cuối tháng 4. Phải mà anh Sở chết sớm hơn một tháng thì truyền thống lính dù đã đưa xác về tận nhà. Tang lễ uy nghi, có đơn vị trưởng chứng kiến lễ gấp cờ, như em đã thấy tại sân Hoàng Hoa Thám. Nhưng sao anh Sở lại chết vào cuối tháng tư, giờ thứ 25 của cuộc chiến.

Trải qua một đêm dài thảm kịch. Thằng bé Quách Vĩnh Hưng ôm mẹ nằm trên đất lạ. Cả mẹ con đều không thấy tương lai

 

 

 

 

 

 

  

 

 

 

 

 




CHỐN BỤI HỒNG PHÙ HƯ AM (Cao Mỵ Nhân)

CHỐN BỤI HỒNG
                            PHÙ HƯ AM

CAO MỴ NHÂN

 

Trong “thế giới người” của dân tộc ta thời cận đại và hiện đại, đã từng có những kỳ hoa dị thảo, những nhân vật lúc ma ma, khi Phật Phật, hay những thiên tài nửa tỉnh, nửa say. Thí dụ điển hình như nhà thơ BÙI GIÁNG, gần gủi bạn bè hơn như SAO TRÊN RỪNG, SA GIANG (1).

 

Hiện nay ở Thung Lũng Hoa Vàng, cũng có một danh sĩ, nửa ẩn, nửa hiện, nửa bí, nửa khỏa… lại cũng thân, cũng thích bạn văn. Nhân vật nầy sinh trưởng ở miền NÚI ẤN SÔNG TRÀ. Chưa viết hết lời ca tụng, quý vị cũng biết ngay đó là người họ , tên VĂN, lót chữ THẠNH.

Cứ theo triết tự Bà La Môn, thì danh tính VÕ THẠNH VĂN được thầy bùa của Bà  La giải thích như sau: Khởi từ nghề VÕ, đã rất thịnh phát ngữ ngôn, dẫn đến nghiệp VĂN —và rồi sẽ tới đâu, để kết thúc cuộc nhân sinh sau nầy, phải hậu tính. Ta chỉ chiêm ngẫm hiện tại, để cùng suy diễn mười thành công lực của bạn ta cho vui.

À, chẳng lẽ hôm nay CAO MỴ NHÂN tôi lướt qua… chiêu bói toán của…Lốc Cốc Tử. Mặc dầu cũng có thời ôm trắp tới cửa đại học Nhân Văn học lỏm thiên văn, địa lý của BỘI PHẢN HỒI, vị giáo sư chuyên khoa khuếch tán Vật Lý Học ĐÔNG ĐÔ, tức HÀ NỘI PHỐ ngày nay, đầu thập niên 80 của thế kỷ trước.

Thế thì, mới trên 60 ngày qua thôi, qua hai dịp liên tiếp đầu hai tháng 4 và 5 (năm 2008) mới đây, MỴ tôi lên SAN JOSE dự hai buổi sinh hoạt theo thứ tự của “Văn Bút Tây Bắc HK,”“Lễ Vinh Danh Các Bậc Thi Sĩ Lão Thành,” được hân hạnh tiếp hiền đệ.

Số là tuổi đời, ngã nầy hơn họ VÕ, nhưng tuổi đạo (?) thì họ lại hơn Lão Bà Bà. Hóa cho nên, theo thuyết tương đối, luật bù trừ… thì chúng tôi là bạn.

Tôi cũng rất đồng ý kiến với VÕ THẠNH VĂN, qua một số nhận xét chung của cuộc thế và sự thể… văn vẻ ở miền thung lũng có rất nhiều hoa vàng xưa nay, rằng, HOA VÀNG nở mãi thì cũng đơn điệu, nên phải thêm chút HOA XANH, HOA TÍM, HOA MUÔN MÀU tùy thung thổ, đất đai, vườn tược… cho riêng mỗi chúng ta.

NGUYỄN ĐỨC SƠN tức SAO TRÊN RỪNG, thuở mới làm thơ đầu thập niên 60, thế kỷ trước, đã cảm thấy thoải mái ở một phần đời nào đó trên bãi biển. Anh ta tự do phóng uế những cặn bã sau khi tiêu hóa, bài tiết ngay trên ghềnh biển, gió mát, sau đó còn làm thơ. Tất nhiên tuyệt đại đa số nhân dân ta không thích kiểu thơ ca như vậy rồi. Sau ngày 30.4.75, NGUYỄN ĐỨC SƠN mang vợ con lên rừng, kiếm sống qua ngày, vì không thích chế độ ràng buộc quản lý.

VÕ THẠNH VĂN khác xa NGUYỄN ĐỨC SƠN, không phải vì VÕ THẠNH VĂN đang sống ở Mỹ, một đất nước đầy đủ tiện nghi, mà, VÕ THẠNH VĂN trong “suốt cuộc hành trình đơn độc đi vào tiểu ngã để truy tầm đại ngã, con người vừa hân hoan vừa bắt gặp, vừa ngậm ngùi chua chát cho thân phận làm người” để viết ra 10.000 (mười ngàn) câu lục bát, với 70.000 (bảy chục ngàn) chữ, lập thành KINH VÔ THƯỜNG, đóng thành  2 quyển Thượng và Hạ, lại có thể nói là 10 tập thơ CÁT BỤI, mỗi tập 1.000 (một nghìn) câu.

Bạn đọc theo dõi lối kể lể ở CHỐN BỤI HỒNG nầy, sẽ hỏi CAO MỴ NHÂN rằng, tác giả đóng bộ 10 tập thơ CÁT BỤI đó, thành 2 quyển Thượng và Hạ, đặt là KINH VÔ THƯỜNG … để làm gì?

Chao ôi, đã gọi là THƯỜNG thì còn hỏi để làm gì nữa à! Huống chi, tiểu đề đã khẳng định chỉ là 10 tập thơ CÁT BỤI. Mà đã CÁT, đã BỤI… thì còn gì thêm để giải thích!? Hoặc độc giả muốn hỏi KINH VÔ THƯỜNG của VÕ THẠNH VĂN mang ý định khuyến đạo gì đây? ĐẠO TRỜI hay ĐẠO PHẬT, hay còn ĐẠO chi khác nữa?

Xin thưa, đã là ĐẠO, thì quý hóa lắm rồi, kể cả ĐẠO ĐỜI cũng mang chân lý sống –một cách sống ý nghĩa:

“Bụi từ thập giá phục sinh

”Về qua biển đỏ xây linh hiển đài

”Cát từ sa mạc phôi khai

”Về qua biển chết đầu thai kiếp người

(Bốn câu kết tập CÁT BỤI 1, VÕ THẠNH VĂN)

Nhà thơ HÀ THƯỢNG NHÂN đã đề tựa KINH VÔ THƯỜNG của VÕ THẠNH VĂN: “Suy cho đến cùng thì đời người chẳng có gì cả. Sống lâu hay chết yểu thì cũng có lúc bắt đầu và chấm dứt. Cho nên cổ nhân nói: Không có thọ yểu, không có sang hèn. Dù biết đời chẳng có gì cả mà tác giả VÕ THẠNH VĂN lại viết KINH VÔ THƯỜNG dài đến 10.000 (mười nghìn) câu lục bát…” [HÀ THƯỢNG NHÂN].

Đặc biệt hơn SAO TRÊN RỪNGVÕ THẠNH VĂN không quá đề cao mình (tiểu ngã), vì đã từ bao giờ VÕ THẠNH VĂN thấy tiểu ngã lẫn vào trong vô cùng đại ngã, khiến xót xa cho thân phận con người như cát, như bụi thôi.

Cho nên, đã một lúc nào đó, VÕ THẠNH VĂN thu xếp sinh hoạt đời mình, để đi ở ẩn, giả dụ tạm ở ẩn giữa cuộc sống xa hoa thực dụng của xử sở Hoa Kỳ, VÕ THẠNH VĂN tự đặt đạo hiệu cho mình là PHÙ HƯ DẬT SĨ, thỉnh thoảng diện bích nơi PHÙ HƯ AM, Vùng Bắc Vịnh, miền Bắc Cali.

Đôi lúc, người bình thường chúng ta tự hỏi là: Tại sao đang hiện diện ở thế kỷ 21 nầy, con người càng lúc càng văn minh tiên tiến hơn, có thể tới thời điểm nào đó, thân xác con người sẽ máy móc hóa toàn bộ đến từng phần tử tế bào, mà lại có những PHÙ HƯ DẬT SĨ, những ẢO HUYỀN ẨN SĨ v.v… để mơ mộng, hoang tưởng kiếm tìm một thế giới không thực, không giống cái xã hội chung quanh, thực tế 100%… là tại sao nhỉ?

Song le, nếu ai cũng như ai, thực tế, thực dụng, máy móc… thì còn đâu, và còn ai biết đến cái lẽ huyền vi, sự vô cùng, cái bất tuyệt của TRỜI ĐẤT, VŨ TRỤ, hay ĐẠI NGÃ… để khép mắt van xin Đấng HÓA CÔNG, Ngài TẠO HÓA (nếu không dám nhắc tới THƯỢNG ĐẾ siêu việt) cho loài người chúng ta thể hiện LÒNG TIN (khó, rất khó diễn giải)… thì bấy giờ, chỉ còn cầu nguyện là thượng sách.

Thành ra, những nhân vật nửa cụ thể, nửa mơ hồ, trừu tượng, ma ma, PHẬT PHẬT… đôi hồi, e cũng rất cần thiết đấy.

 

Hawthorne 22.5.2008

 

CAO MỴ NHÂN

(1) SA-GIANG đây là bút hiệu của TRẦN TUẤN KIỆT, sinh năm 1939 tại Sa- Đéc, theo học trường Quốc Gia Âm Nhạc (Sài Gòn), từng cộng tác với các báo Văn Hóa, Ngày Nay, Phổ Thông, Nghệ Thuật, Văn, Tiếng Nói, Sống Chủ Nhật… đoạt giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm1969 . Đã viết: Thơ Trần Tuấn Kiệt, Bài Ca Thế Giới, Cõng Gió, Triền Miên Ngâm Khúc, Cỏ Nội, Sa Mạc Lan Dần, Tiếng Đồng Nội, Thi Ca Việt Nam Hiện Đại… Khác với SA GIANG, bút hiệu của NGUYỄN VĂN PHẬN cầm bút mới mấy năm gần đây  tại Hoa Kỳ. (NT).

 




Phan Tưởng Niệm : CÒN LẠI GÌ CHO NHAU

 

 

CÒN LẠI GÌ CHO NHAU


 


Dòng thời gian thắm thoát rơi quá nhanh – mới đó mà đã hơn ba mươi năm qua rồi – mới ngày nào, tôi chỉ là chàng thanh niên ngớ ngẩn – mỗi sáng,mỗi chiều đứng bên gốc thông già len lén nhìn em vào lớp – vậy mà bây giờ, tôi đã là người  tuổi đã về  già  – mái tóc đã điểm nhiều sợi bạc – còn em – da mặt cũng đã có nhiều vết hằn theo năm tháng ? – thời gian sao qua quá vội !

Nuối tiếc chỉ là nuối tiếc – chúng ta còn lại gì cho nhau trong những tháng ngày còn lại ? – tình yêu ! – đã hết rồi – còn gì để nói đến tình yêu – thời gian đã bắt đầu gậm nhấm thể xác chúng ta – những vết loang lổ hằn sâu trên khuôn mặt đã bắt đầu xuất hiện – em không còn nhìn tôi mĩm cười – tôi không còn nhìn em ngây dại – chúng ta chỉ còn lại một ánh mắt nhìn thương hại cho nhau . – Hai mái đầu đều đã bạc !

Buổi chiều này – sau hơn ba mươi năm – tôi lại gặp em – trong ánh mắt xa lạ – em ngỡ ngàng – tôi bất chợt. Cơn mưa cuối mùa đổ xuống nơi tôi và em đang đứng – em thì thầm nhỏ nhẹ như lời thì thầm nhỏ nhẹ xa xưa – mỗi lần tôi và em đi phố dưới mưa – " coi chừng mưa ướt" – lời dặn dò năm xưa đã gợi lại trong tôi biết bao kỷ niệm .

Ngày ấy, khi tôi gặp em- tôi chỉ là một thằng con trai lang bạc – đêm nằm rừng, ngày vượt suối – đi tìm một lý tưởng vô hình hay tìm một tương lai mờ ảo mà tôi là một thằng con trai trong số những thằng con trai ngu ngốc chưa hiểu thế nào là dối trá cuộc đời – để rồi một ngày cuối tháng tư – tôi âm thầm lặng lẽ đi vào nơi tăm tối – còn em ngoãnh mặt quay lưng – ra đi không một lời từ biệt. Hơn ba mươi năm trôi qua – dòng thời gian đã cuốn trôi biết bao dấu tích – nhưng cái dấu tích hằn khắc sâu trong tâm khảm tôi vẫn là em – bao năm đợi chờ tôi chấp nhận làm người cô độc – mong một ngày gặp lại em – dù là trong đắng cay oan nghiệt – và cái oan nghiệt đau đớn nhất đối với tôi là khi biết được người chồng hiện nay của em lại là người bạn thân nhất của tôi lúc còn ngồi ở ghế nhà trường – một người bạn thân nhất của chúng ta – khi em và tôi còn yêu nhau.

Còn lại gì cho nhau không em ? – có chăng chỉ còn là đắng cay , chua chát – cái mặn nồng xa xưa của chúng mình giờ như đã nguội lạnh – vậy là cuối cùng rồi chúng ta cũng đã gặp lại nhau – dù rằng quá muộn – nhưng có lẽ đây là cuộc gặp gở cuối cùng của tôi và em trong cuộc đời nàỵ

Buổi chiều trên con phố Argyle của miền Chicago lạnh giá – người đàn ông cô độc lần lủi bước đi dù cơn mưa cuối mùa cứ đổ xuống – người đàn bà đứng lẵng lặng nhìn theo – dòng nước mắt rơi …rơi dài …rơi dài .. .

Phan Tưởng Niệm





Ðâu Là Sự Thật ?

Ðâu Là Sự Thật ?

Ðặng Xuân Khánh (Sinh viên trẻ đang sống trong lòng quê hương VNXHCN)

Giới trẻ chúng tôi, thành phần lớn lên sau chiến tranh không hiểu biết lý do tại sao đã có cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 (1954-1975), mà báo chí ngoại quốc thường gọi là chiến tranh Việt Nam (Vietnam War).

Ðặng Xuân Khánh

Chúng tôi đã được học tập dưới hệ thống nhà trường xã hội chủ nghĩa (XHCN) về lý do tại sao có cuộc chiến tranh Việt Nam qua những cụm từ như “chế độ khát máu Mỹ-Dim”, ”miền Nam bị Mỹ, nguỵ kìm kẹp”, “đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào”, “ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ”, “giải phóng miền Nam” v.v…

Nhưng ngày nay, với sự phổ biến của công nghệ thông tin, chúng tôi đã biết nhiều hơn trước. Về lý do tại sao đã có và do ai gây ra cuộc chiến Việt Nam 1954-1975, hoàn toàn không phải như chúng tôi đã được tuyên truyền trong nhà trường.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng còn vài thắc mắc rất đơn giản. Kính mong các bác, các chú, là những người đã và đang phục vụ cho đảng và nhà nước Việt Nam và những người vẫn khư khư cho rằng chiến tranh Việt Nam là cần thiết để “giải phóng miền Nam” thoát khỏi sự “kìm kẹp của Mỹ, Ngụy” v.v giải thích giùm:

1. Sau năm 1954, sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ, Hiệp định Geneve đã được ký kết ngày 27/10/1954 chấm dứt chiến tranh Ðông Dương lần thứ nhất. Trong thời gian chủ tịch Hồ Chí Minh (HCM) lãnh đạo chính quyền miền Bắc, tại sao 1 triệu người miền Bắc đã phải lên tàu đua nhau bỏ chạy vào miền Nam để cho “Mỹ – Diệm kìm kẹp” mà không ở lại cùng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và chủ tịch HCM? Số 1 triệu người này có thể còn nhiều lần hơn nếu nhà nước không dùng bạo lực ngăn chặn, không cho họ ra đi! Tại sao ngoại trừ một số các cán bộ đảng viên cộng sản (CS) tập kết ra Bắc, người dân miền Nam lại không đua nhau chạy ra Bắc theo chế độ CS của chủ tịch HCM, mà tuyệt đại đa số cứ nhất quyết ở lại cho “Mỹ – Diệm kìm kẹp”? Theo hiệp định Geneve thì lúc đó mọi người được hoàn toàn tự do lựa chọn đi ra miền Bắc hay ở lại miền Nam cơ mà??

2. Tại sao hồi còn chiến tranh Việt Nam (trước 30/4/1975), mỗi khi có giao tranh giữa quân đội miền Nam (VNCH) và bộ đội “giải phóng” thì dân chúng đều chạy về phía có lính miền Nam trú đóng, chứ không chạy về phía bộ đội “giải phóng”? Nếu dân miền Nam bị “Mỹ, Ngụy kìm kẹp”, cần phải được “giải phóng”, thì lẽ ra họ phải hồ hởi mà chạy về phía các “đồng chí bộ đội”, tay bắt mặt mừng và cám ơn “được giải phóng”, chứ sao lại bồng bế nhau mà chạy trối chết để xa lánh các “đồng chí” ấy? Ðua nhau chạy vế phía có lính miền Nam để tiếp tục bị “kìm kẹp”, không lẽ họ ngu đần đến nỗi chỉ thích bị “Mỹ, Ngụy kìm kẹp” chứ không muốn được “giải phóng” à?

3. Năm 1975, sau khi chiến tranh chấm dứt, “bộ đội giải phóng” chiếm toàn bộ miền Nam, đất nước thống nhất, Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào. Tại sao dân miền Nam lại lũ lượt trốn chạy ra đi, bất chấp nguy hiểm, bão tố, cá mập, hải tặc mà vượt Biển Ðông; bất chấp các bãi mìn, hay bị Khơ-me Ðỏ chặt đầu; để bằng đường bộ băng qua Campuchia sang Thái Lan?

Theo ước tính của các cơ quan truyền thông, thông tin quốc tế thì hơn 1 triệu người đã đi bằng hình thức này (h**p://archives. cbc.ca/id- 1-69-324/ l…ty/boat_ people).

Chúng tôi đã được học tập là “Mỹ- Diệm đã ban hành đạo luật 10/59 tố Cộng, diệt Cộng, lê máy chém đi khắp miền Nam”, nào là “bè lũ tay sai quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu”, nào là “ghi khắc tội ác dã man của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”… v.v…. Khi học xong, đọc hay nghe những dòng chữ như thế, thì chúng tôi nghĩ, chắc hẳn chế độ ở miền Nam dù với Diệm hay Thiệu thì cũng tàn ác kinh khủng lắm, thế nhưng tại sao lại suốt từ 1954 cho thời điểm ngày “Giải phóng” 30/4/1975 – 20 năm trời, không hề có hiện tượng người dân miền nam từ bỏ, trốn khỏi miền Nam để xuống tầu đi vượt biên? Thay vì đến khi bộ đội ta từ miền Bắc vào Nam “giải phóng”, lẽ ra phải ở lại mừng vui, thì họ lại kéo nhau ra đi là thế nào? Thế thì có tréo cẳng ngỗng không? Tại sao hàng ngàn dân miền Bắc, nhất là từ Hải Phòng, đã có kinh nghiệm sống dưới sự lãnh đạo của Bác và Ðảng hơn 20 năm, cũng bỏ miền Bắc XHCN, vượt vịnh Bắc Bộ sang Hong Kong mong có cơ hội được sống với thế giới tư bản, chứ nhất định không ở lại miền Bắc XHCN “tươi đẹp”?

4.
m 2005, sau khi hoà bình đã về trên quê hương được 30 năm, đảng CS đã lãnh đạo đất nước được 30 năm, (chính quyền Sài Gòn chỉ lãnh đạo miền nam có 20 năm thôi, 1954-1975), thì tại sao dân chúng vẫn còn lũ lượt tìm cách rủ nhau ra đi.
Trai thì đi lao động cho nước ngoài, rồi tìm cách trốn ở lại, gái thì cắn răng chịu đựng tủi nhục lấy toàn đàn ông (già cả, tàn tật, hết thời, …) của Ðài Loan, Singapore, Ðại Hàn, để có cơ hội thoát khỏi Việt Nam??? Tại sao du học sinh, thành phần gọi là tương lai của đất nước vẫn luôn tìm mọi cách (ngay cả khi chưa học xong) để ở lại nước ngoài, như lập hôn thú (giả có mà thật cũng có) với người Việt hải ngoại, chứ nhất định không chịu trở về Việt nam???

5. Những năm gần nay, những người Việt trước nay đã trốn đi vượt biên, chạy theo để “bám gót đế quốc”, là “rác rưởi trôi dạt về bên kia bờ đại dương”, là “thành phần phản động”, là “những kẻ ăn bơ thừa, sữa cặn” như nhà nước Việt Nam vẫn từng đã nói. Nay được chào đón hoan nghênh trở về Việt Nam làm ăn sinh sống và được gọi là “Việt kiều yêu nước”, “khúc ruột ngàn dặm”? Có đúng họ “yêu nước” không? Tai sao họ không dám từ bỏ hoàn toàn quốc tịch Mỹ, Pháp, Canada, Úc, xé bỏ hộ chiếu nước ngoài và xin nhập lại quốc tịch Việt Nam và vĩnh viễn làm công dân nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam???

6. Trong bộ môn lịch sử chương trình lớp 12, chúng tôi được giảng dạy rằng, “Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Theo như chúng tôi tìm hiểu, năm 1961 khi Ngô Ðình Diệm ký Hiệp ước quân sự với Mỹ, thì miền Nam lúc ấy chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường xá… Mỹ chỉ bắt đầu đưa lính vào miền Nam từ năm 1965, sau khi lật đổ và giết Ngô Ðình Diệm do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp quân sự. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Vậy thì vào thời điểm 20/12/1960, làm gì có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm gì đã có ai xâm lược mà chống?? Các bác, các chú chống ai, chống cái gì vào năm 1960???