Tượng nhà Bác Ngữ Học Petrus Trương Vĩnh Ký

Phạm Thế Trung Sculptor

TƯỢNG nhà Bác Ngữ Học Petrus Trương Vĩnh Ký bản chánh bằng thạch cao trên giai đoạn hoàn tất cao 7f rưỡi và sẽ đưa vào hãng đúc đồng vào tuần lễ đầu tháng 11.2017

tuong Petrus Ky




Bây Giờ Là Mùa Thu – Tôi đi tìm dĩ vãng

Văn Quang

Viết từ Sài Gòn

 

MuaThu-VQ

 

Thật ra 99.9% ca khúc “bất hủ” của Trịnh Công Sơn được sáng tác vào thời trước 75 ở Sài Gòn và Huế. Cho nên ngày nay khi người ta “vinh danh” Trịnh Công Sơn chính là vinh danh nền văn hóa của Miền Nam VN vào thời trước 75.

Bây giờ là mùa thu ở Sài Gòn và cũng là mùa lá rụng ở Rừng Phong trên đất Mỹ. Buổi chiều ngồi trong căn chung cư nhỏ hẹp nghèo nàn nhìn mưa dăng nhẹ ngoài khung trời ngoài kia, tôi bỗng muốn thoát khỏi mình trở lại sống với những ngày xưa. Những ngày xưa có bạn bè, có mộng ước xa vời, có yêu thương giận hờn, có quá nhiều thứ như ở một thế giới khác.

Tôi ngồi vào computer đi tìm dĩ vãng. Gõ bàn phím vào những bài hát về Mùa Thu, bỗng hiện ra đầy đủ cả lời ca tiếng hát, những cuốn phim xưa, những danh ca tài tử đi mãi vào lòng người, đi mãi vào bất tận trong ký ức. Tôi bay bổng vào đó để gặp lại những người tôi đã từng quen, đã từng là bạn, đã từng kề vai nhau một thời xa vắng. Ở đây, tôi chỉ gặp những người đã từng có mặt trên các sân khấu ca nhạc và trong những cuốn phim đã từng chiếu ở VN trước năm 1975, gọi chung là những người trong “làng giải trí” mà tôi đã quen hay đã từng coi nhau như bạn bè.

Xem trọn bài

 




Nữ danh ca Dalida từng đến và hát tại Sài Gòn

Film Screening “Dalida”

14 giờ ngày 25.6.1962, danh ca Dalida đến phi trường Tân Sơn Nhất bằng máy bay phản lực của Hãng Air France. Không rõ từ nguồn tin nào, các fan đã có mặt đón tiếp nồng nhiệt “giữa tiếng vỗ tay đượm nhiều thân ái”.

Tuần báo Kịch ảnh số 18 phát hành ngày 30.6.1962 cho biết thêm: “Dalida cao chừng 1,65 m, mặc bộ đồ xanh giản dị, đôi bông tai lớn kiểu Y Pha Nho nổi bật trên nền tóc hung đỏ bới cao. Cặp mắt màu nước biển và đôi môi son lợt đều ngời sáng”. Đáng chú ý, chuyến đi này, ngoài 4 nhạc công, còn có cả chàng họa sĩ đẹp trai Jean Sobieski mới 25 tuổi, người gốc Ba Lan nhưng sinh tại Pháp, chưa nổi tiếng gì. Cả hai cặp kè như hình với bóng. Họ có mối quan hệ thế nào? Thiên hạ tha hồ đồn đoán bởi trước đó, ngày 25.4.1961, Dalida đã ly dị chồng là Lucien Morisse.

 

Ngay chiều tối hôm đón Dalida quay lại Sài Gòn, ông L’Épine – đại diện khách sạn Caravelle, đã mời Ban Biên tập báo Kịch ảnh, gồm nhà báo Quốc Phong, nhà văn Mai Thảo và đạo diễn Hoàng Anh Tuấn đến khách sạn nhằm mục đích “nghệ sĩ gặp nghệ sĩ” có tính cách “trong nhà với nhau”.

 

Từ sân bay, Dalida cùng Sobieski về đến khách sạn Caravelle lúc 20 giờ, niềm nở mời mọi người lên phòng riêng số 606 ở lầu 6. “Bây giờ các anh đang ở trong nhà của tôi, tôi là chủ nhà, nay, các anh có thể tự tiện vì chủ nhà Dalida rất quý khách”, cô nói. Trong lúc trò chuyện, cô cho biết dù đã chia tay Lucien Morisse, không còn là vợ chồng nhưng là “hai người bạn thân nhau nhất trên đời”. Chuyện ly dị của họ xem ra cũng “ngớ ngẩn” lắm: sau 5 năm yêu nhau, họ chính thức kết hôn tại Tòa hành chính Quận 13 Paris, nhưng chỉ sau 3 tháng, do chồng bận việc, một mình Dalida đi Côte d’Azur biểu diễn. Tại đây, cô đã gặp Sobieski trong một hộp đêm và “tiếng sét ái tình” đã nổ ra. Biết chuyện, Lucien Morisse chủ động đề nghị ly dị. Dalida “phải lòng” Sobieski cũng rất lạ đời. “Trong khi mọi người xem Dalida là nhân vật quan trọng, một minh tinh ghê gớm thì Sobieski chỉ đặt nàng vào địa vị người mà chàng yêu”, đạo diễn Hoàng Anh Tuấn nhận định.

Dalida in Saigon-1962(2)

Nhà báo Quốc Phong hỏi: “Dalida cho biết bí mật thành công của cô, để tôi nói lại cho các ca sĩ Vietnam nghe”. Dalida trả lời: “Bí quyết gồm 2 điểm: luyện giọng và gặp dịp may. Con số đem lại may mắn cho tôi là 421”. Tại sao? Cô giải thích: “Tháng 4.1956, tôi đến hát thử cho Bruno Coquatrix – Giám đốc Nhà hát tạp kỹ Olympia và ban giám khảo nghe. Lúc đó, Eddie Barclay – nhà sản xuất băng đĩa, Lucien Morisse – Giám đốc điều hành Đài Europe 1 đang nhậu nhẹt trong một quán cà phê trên đường Caumartin, gần Olympia. Bruno lôi họ đến nghe tôi hát cho vui nhưng họ không chịu. Cuối cùng, Bruno đánh cá nếu họ thua Bruno trong một ván gieo xúc xắc kiểu 421 thì phải tới nghe; bằng không, Bruno sẽ đãi thêm một chầu rượu nữa. Bruno thắng. Cả hai phải đến nghe, khi tôi ca bản L’Étranger au paradis, họ chịu liền. Thế là một “vị” chọn bài hát, còn một “vị” thâu đĩa. Nhờ những đĩa hát của Eddie Barclay mà tôi nổi tiếng”.

 

Dalida (1933 – 1987) tên thật là Yolanda Cristina Gigliotti sinh tại Ai Cập trong gia đình gốc Ý. Năm 1954, Dalida đoạt giải Hoa hậu Ai Cập và đến Paris thử “thời vận” bằng nghề ca hát trong các phòng trà Villa d’Este và Drap d’Or. Rồi sau đó, cô cực kỳ nổi tiếng cả thế giới với hàng loạt ca khúc: Besame Mucho, Bambino, Histoire d’un amour, Paroles… Paroles… đoạt vô số giải thưởng âm nhạc. Dalida có thể hát bằng rất nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng Pháp, Ý và còn cả tiếng Đức, Ả Rập, thậm chí là tiếng Nhật. Tổng cộng hơn 125 triệu đĩa hát của Dalida đã được bán ra trên toàn thế giới trong đó Bambino đã trở thành đĩa bạch kim vào năm 1964 và đĩa kim cương năm 1981. Cô cũng tham gia rất nhiều phim: Parlez-moi d’amour, Ménage à L’Italienne, Comme sur des roulettes…

 

Những ngày tại Sài Gòn, Dalida đã thực hiện 4 chương trình “dạ hội” chủ đề: “Tất cả cái đẹp trong cái mới”, diễn ra tại rạp Rex và khách sạn Caravelle. Trong buổi diễn đầu tiên tại rạp Rex, với giá vé là 250 đồng/chiếc, ký giả của báo Kịch ảnh đã đến thưởng thức, sau đó, có bài tường thuật trên báo Kịch ảnh số 19 ra ngày 7.7.1962: “Dalida mặc cái “robe” rất giản dị màu hoa cà, tóc để xõa và không có món trang sức nào cả. Với dàn nhạc 5 người, suốt 13 bài liền Dalida đã chiếm trọn lòng tôi, nắm lấy con tim tôi và dìu tôi đến những bến bờ rung cảm mới lạ… Khán giả vỗ tay tán thưởng, Dalida lại trở ra, cười rất tươi và gửi đến tất cả một nụ hôn gió thật duyên dáng. Không một phút trống, Dalida lại tiếp tục hát luôn 5 bài nữa, trong số có bài Parlez-moi d’amour quen biết. Dalida đã thấm mệt nhưng không vì thế mà kém phần linh động và không “hết mình” cho khán giả. Hát hết bài, Dalida chạy vào hậu đài rồi lại chạy ra cười, hôn gió gửi chúng tôi, rồi chắp tay xá, rồi cười, rồi lại hát nữa. Không nói mà thật ý nhị, thật thiện cảm. Dành bản nhạc Bambino quen biết để kết thúc, Dalida đã làm hài lòng tất cả mọi người. Ngay sau đó, đại diện Hội Hồng Thập tự lên nói lời cảm ơn, ca sĩ Thanh Lan cũng xuất hiện với bó hoa tươi thắm tặng Dalida. Tấm màn nhung buông xuống giữa lúc pháo tay nổ ran, nổ mãi không thôi. Bất ngờ, màn lại kéo lên, Dalida lại trở ra, hát thêm bài Les Gitans rất hay”.

Dù chỉ đến biểu diễn tại Sài Gòn một lần, nhưng Dalida đã chinh phục được tình cảm của công chúng, tất nhiên do tài năng, ngoài ra còn gì nữa? Đạo diễn Hoàng Anh Tuấn cùng nhà văn Mai Thảo dạy cô tập phát âm tiếng Việt để có thể thưa gửi với mọi người bằng tiếng Việt đã kể lại: “Nhìn Dalida chăm chú theo dõi, đoạn tròn miệng đọc lại những tiếng có, không, cám ơn, chào mạnh giỏi… người ta thấy toát ra một khía cạnh đẹp đẽ nữa của tâm hồn Dalida. Cái khía cạnh chân thực, tha thiết và nồng nàn, cộng với một niềm vui sống tràn đầy và một bản chất hồn nhiên, cởi mở của Dalida, tạo thành bí quyết thành công rực rỡ. Điều mà người ta nhận thấy – và điều này là châu báu quý giá nhất của Dalida, còn quý giá hơn cả tiếng hát của nàng – là danh vọng không hề đổi khác con người Dalida, danh vọng không đẩy nữ danh ca quốc tế này vào một cái thứ tháp ngà kiêu hãnh, là cái mặt trái đáng ghét thường thấy ở phần lớn những nghệ sĩ được đông đảo quần chúng ái mộ. Ở điểm này, Dalida xứng đáng là Dalida, xứng đáng với cái phong thái, cái tư cách, cái thái độ phải có của một danh ca quốc tế”.

 

Thêm một điều lý thú cũng ít ai ngờ là bấy giờ, người Sài Gòn đã rất nhanh nhạy nhằm đáp ứng nhu cầu ái mộ của công chúng bằng dịch vụ: “Ai muốn có lưu bút kỷ niệm của Dalida trên đĩa hát hay hình ảnh, có thể tới tiệm Alpha Radio, 157 đường Tự Do, Sài Gòn từ 16 – 18 giờ ngày 3.7.1962”.

 

Về sự kiện, nữ danh ca Dalida – người đã từng được thành phố Paris lấy tên đặt cho một quảng trường gần nhà, đã đến Sài Gòn trong thập niên 1960, khi lướt web, tôi còn tìm thấy một vài hình ảnh ghi lại khoảnh khắc đó. Với tôi, thú vị vẫn là bức cô điều khiển chiếc xe bò, ngồi cạnh một nông dân miền Nam, chụp tại Gò Vấp, Sài Gòn.

Dalida in Saigon-1962

Dalida điều khiển xe bò tại Gò Vấp, Sài Gòn

 




Doãn Quốc Sỹ, kẻ sĩ thời đại chúng ta

Nguyễn Mạnh Trinh

Với nhiều người bản xứ , hình như dư âm của cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn nên văn chương và văn hóa Việt nam được đặc biệt chú ý.

Tôi có một người bạn cùng lớp Creating & Writing học viết văn người Mỹ gốc Ý rất thích thú với văn chương Việt Nam. Một bữa anh khoe với tôi tuyển tập “Việt Nam: A traveler’ s literary companion” do John Balaban và Nguyễn Quý Đức chủ biên và rất đặc biệt chú ý tới nhà văn Doãn Quốc Sỹ với truyện ngắn “The Stranded Fish” ( Con cá mắc cạn). Anh còn khoe đã được dự một cuộc seminar với hai giáo sư Doãn Quốc Sỹ và Lê Hữu Mục tháng 6 năm 1999 tại University St Thomas ở Houston với đề tài “ Living Two Cultures: A conference for Vietnamese – Americans”. Và anh hỏi tôi một câu: Bạn nghĩ thế nào về nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Nhà văn? Nhà giáo? Một người hoạt động chính trị? Hay một người yêu nước bị chế độ đương thời đầy ải khi ở trong nước? Và một nhà văn luôn hướng về tương lai ở hải ngoại …

Doan Quoc Sy

Xem trọn bài




Lời tự thuật của Thi sĩ HỮU LOAN, tác giả “MÀU TÍM HOA SIM”

Hữu Loan

HuuLoan-DoiTimHoaSimTôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.

 

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.

 

Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..

 

Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:- Thầy có thích ăn sim không ?- Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ …

 

Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.- Thầy ăn đi.Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:-Ngọt quá.Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.

 

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …

 

Chín năm sau, tôi trở lại nhà…Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản”.

 

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.

 

Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn …

 

Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.

 

Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”

 

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!

 

Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng….Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông …

 

Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi …

 

Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

 

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.

 

Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông.

 

Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

 

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.

 

Năm 1988, tôi ” tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.

 

Màu tím hoa sim

(Nguyên văn của tác giả)

 

Nàng có ba người anh đi bộ đội

Những em nàng

Có em chưa biết nói

Khi tóc nàng xanh xanh

Tôi người Vệ quốc quân

xa gia đình

Yêu nàng như tình yêu em gái

Ngày hợp hôn

nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân

đôi giày đinh

bết bùn đất hành quân

Nàng cười xinh xinh

bên anh chồng độc đáo

Tôi ở đơn vị về

Cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến binh

Mấy người đi trở lại

Nhỡ khi mình không về

thì thương

người vợ chờ

bé bỏng chiều quê…

 

Nhưng không chết

người trai khói lửa

Mà chết

người gái nhỏ hậu phương

Tôi về

không gặp nàng

Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối

Chiếc bình hoa ngày cưới

thành bình hương

tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh

ngắn chưa đầy búi

Em ơi giây phút cuối

không được nghe nhau nói

không được trông nhau một lần

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

áo nàng màu tím hoa sim

Ngày xưa

một mình đèn khuya

bóng nhỏ

Nàng vá cho chồng tấm áo

ngày xưa…

 

Một chiều rừng mưa

Ba người anh trên chiến trường đông bắc

Được tin em gái mất

trước tin em lấy chồng

Gió sớm thu về rờn rợn nước sông

Đứa em nhỏ lớn lên

Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị

Khi gió sớm thu về

cỏ vàng chân mộ chí

Chiều hành quân

Qua những đồi hoa sim

Những đồi hoa sim

những đồi hoa sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim

tím chiều hoang biền biệt

Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu

Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau

Chiều hoang tím có chiều hoang biết

Chiều hoang tím tím thêm màu da diết

Nhìn áo rách vai

Tôi hát trong màu hoa

Áo anh sứt chỉ đường tà

Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

 

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệrớm

Tím tình ơi lệ ứa

Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành

Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn

Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím

Tôi ví vọng về đâu

Tôi với vọng về đâu

Áo anh nát chỉ dù lâu…

 

(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)

 

Hữu Loan

 

© Hữu Loan

 




Sự bế tắc của ngôn ngữ

Bùi Quang Vơm

Đọc bài viết của nhà báo Phạm Toàn được báo Vietnamnet trích đăng với tựa đề:

Không nên quá kiêu ngạo nghĩ mình mãi là thầy“, thú thật là tôi có cảm giác bế tắc như đụng đầu vào bức tường chặn lối lên phía trước, trông thấy ẩn hiện, nhưng không có cách nào qua để bắt lấy nó. Loáng thoáng hiểu điều ông muốn nói, chờ để được giải thích, hoặc sẽ có gì rõ hơn ở phía sau, nhưng đọc mãi, cho đến hết, cuối cùng không thấy có và cảm giác bế tắc tới uất ức, bất lực. Những triết lý trừu tượng, tối nghĩa, những khái niệm mông lung lơ lửng.

Có thể một nhà giáo uy tín và nổi tiếng mà  khó khăn trong cách diễn đạt ý tưởng của mình? Thế thì làm sao là làm nghề giáo được? Làm sao truyền dậy?

Câu trả lời nằm ở chỗ khác?!

Làm thế nào để có một nền giáo dục đa chiều trong một chế độ chính trị độc quyền chân lý? Làm sao khai phóng tư duy trong một thế giới thông tin bị sàng lọc một chiều? Làm sao thông với vũ trụ trong một không gian đóng kín?

Ông Phạm Toàn cố diễn đạt một cái gì đó. Người ta cố gắng hiểu rằng cái gì đó là cái vĩnh cửu vượt ra khỏi giới hạn của thời gian, nghĩa là nền giáo dục không lấy triết lý đương thời làm khung khổ. Cái đương thời rồi sẽ chết, hoặc ít nhất cũng biến hoá, trong khi nền tảng của nền giáo dục có căn bản bất biến. Cái bất biến đó là bản năng tự hoàn thiện mình bằng năng lực tự nhiên của con người. Năng lực tự nhiên và bản năng tự hoàn thiện là cái vẫn tồn tại sau tất cả những áp lực nhân tạo chỉ xuất hiện trong một không gian và thời gian nhất định có hạn.

Nói cho rõ ra thì là thế này: Hãy vượt ra ngoài sự trói buộc bởi tư duy giáo dục cộng sản để quay trở lại với bản chất con người. Có phải Nhà giáo định nói vậy không?

Đấy có thể là điều mà nhà giáo Phạm Toàn muốn «bắn» tới những đồng nghiệp có trách nhiệm của ông? Nhưng giáo dục là sự minh bạch, rành mạch, rõ ràng và chuẩn xác về phương pháp tư duy. Ông muốn mọi người phải hiểu và phải làm một điều đang bị cấm kỵ bởi những thế lực quyết định sinh mệnh của họ và của chính ông. Nhưng ngay nói thẳng những điều đó ra, ông cũng còn chưa dám. Nói những điều không giám nói, thì những điều nói ra trở thành tối nghĩa và khó hiểu. Muốn nói về màu đen, nhưng sử dụng ngôn ngữ dùng để diễn tả một mầu không đen, và lại muốn trách người xem sao không thấy nó đen. Đó là bi kịch cuả ước vọng khai phóng, cũng chính là bi kịch của nền giáo dục thờicộng sản hiện đại trong lốt nhà giáo dục.

Không biết có ai cùng cảm giác bế tắc khi đọc bài viết của nhà giáo Phạm Toàn không, xin đọc ở đây:

«Không nên quá kiêu ngạo nghĩ mình mãi là thầy.

Nhà giáo Phạm Toàn đã khẳng định như vậy trong bài viết gửi tới hội thảo giáo dục 2017 do Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội tổ chức sáng 23/9. VietNamNet xin trích đăng bài viết này.

Vấn đề

Chúng ta đang bàn bạc về sự nghiệp giáo dục của dân tộc.

Chúng ta đang bàn bạc về công việc lớn lao này trong nỗi lo lắng và tinh thần trách nhiệm.

Lo lắng và trách nhiệm đè nặng lên vai từng cá nhân có mặt ở hội thảo này và chúng ta còn gánh nặng cả những nỗi ưu tư của biết bao con người vắng mặt tại đây, trong đó có những nhà khoa học và có cả những phụ huynh có con em đi học.

Và không chỉ có thế, vắng mặt hôm nay nhưng luôn luôn có mặt, còn là tổ tiên chúng ta, những ân nhân đã giao lại đất nước này cho chúng ta và còn là cả những bé em sẽ ra đời trên mảnh đất thiêng liêng này, những thế hệ của trăm năm, của nghìn năm sau.

Không ai buộc chúng ta phải lo lắng và phải có trách nhiệm như vậy. Tự chúng ta từng người từng người mang nỗi lo và trách nhiệm đó, đơn giản vậy thôi.

Chúng ta nhất trí trong nỗi lo và tinh thần trách nhiệm.

Nhưng chúng ta lại rất khó nhất trí trong giải pháp cứu nguy, chấn hưng sự nghiệp giáo dục của dân tộc.

Và nỗi bất đồng to lớn nhất lại rơi vào một điều cốt lõi của mọi điều cốt lõi: tư duy về giáo dục.

Cái bất biến của giáo dục

Chọn lựa thứ nhất là đi tìm một cái nút bấm mà nếu tác động vào điều bất biến đó thì mọi việc sẽ hanh thông.

Chọn lựa thứ hai là sa đà vào những điều khả biến với vẻ ngoài đầy hấp dẫn, nhưng sẽ làm ta rơi vào một cái bẫy mê hồn trận.

Chọn lựa thứ nhất dẫn nhà giáo dục và các lực lượng xã hội khác đến với trẻ em – người học như một mục tiêu bất biến. Nó bất biến vì nó nằm trong tầm tay xử trí của nhà giáo dục.

Chọn lựa thứ 2 dẫn các nhà cải cách đến những vấn đề thuộc về thể chế, nằm ngoài tầm tay xử lý của nhà giáo dục.

Cả hai lựa chọn đều là hai cuộc đại phiêu lưu. Không có lựa chọn nào dẫn đến thành công “thần tốc” hết. Nhưng chọn lựa thứ nhất sẽ tạo ra một sự thâm canh – cũng hệt như thâm canh trong sản xuất nông nghiệp – trong khi chọn lựa thứ 2 cũng tương tự như đi tìm cách thay đổi chế độ tô thuế.

Có điều “thâm canh” trong sự nghiệp giáo dục sẽ tạo ra một cái nền màu mỡ, để một trăm năm nữa (có khi lâu hơn thế) sẽ có những sản phẩm mà những bậc thầy ngày hôm nay không sánh kịp. Con hơn cha, trò hơn thầy, đó là mơ ước của công cuộc thâm canh vào cái bất biến cần được tư duy đổi mới giáo dục nhận ra ngay ngày hôm nay: trẻ em.

Nghịch lý cõng người khổng lồ

Nhà cải cách giáo dục đúng sẽ thành công nếu trong tư duy giáo dục và dạy học họ luôn nghĩ rằng mình đang cõng trên vai những người khổng lồ. Không nên quá kiêu ngạo để luôn luôn nghĩ mình mãi là thầy, mãi mãi là người khổng lồ để các em đứng lên vai.

Ấy thế nhưng, ở nơi đây và vào lúc này, họ vẫn đang là thầy. Nghịch lý là ở chỗ đó. Khi tư duy để tìm cách cứu nguy nền giáo dục hiện thời, chúng ta luôn luôn đứng trước hai cách chọn lựa.

Diễn đạt theo cách khác sẽ nói như sau: nhà cải cách giáo dục như những chú lùn có sứ mệnh tạo ra những con người cao ráo hơn mình. Khi chúng ta đang nhắc lại những khái niệm như tự do hoặc khai phóng vô tình hay hữu ý, ta đang thực hiện một phương thức bất biến chi phối công việc đào tạo những người khổng lồ.

Vì thế, đừng có nghĩ nền giáo dục được ta lên kế hoạch chấn hưng sẽ đào tạo những học trò có vài ba năng lực nào đó cộng với dăm bẩy giá trị nào đó rập theo tiêu chuẩn biến động của những chốn vu vớ nào đó.

Một cách khiêm nhưng đủ tự tin như một nghịch lý, chúng ta hãy tổ chức sự trưởng thành của cái đối tượng bất biến mà chúng ta đang phục vụ bằng việc vun trồng bằng chính bàn tay tầm thường của chúng ta ở đây và ngay lúc này.

Mục tiêu tổ chức sự trưởng thành của trẻ em, đến lượt nó, cũng thành một điều bất biến trong tư duy giáo dục. Không phải là tổ chức cuộc chạy đua học giỏi mà tổ chức sự trưởng thành về tâm hồn, về trí tuệ, về lối sống của một nhân cách đúng nghĩa.

Những sản phẩm mang tầm vóc trưởng thành đó sẽ phải là những con người có một năng lực bất biến – năng lực tự học – và tự học để tự lập thành người Việt Nam chính hiệu.

Lộ diện giải pháp

Cuối cùng, “trăm dâu đổ đầu tằm”, dù chọn đi theo cách tư duy nào và theo lý thuyết trời biển gì đi nữa thì cũng phải trình ra xã hội bộ chương trình và bộ sách giáo khoa.

Đến lượt chúng, những công cụ này cũng sẽ phải thể hiện một tầm tư duy giáo dục dựa trên những điều bất biến.

Đặt câu hỏi đơn giản hơn: chương trình và sách giáo khoa có tuổi thọ dài, thậm chí rất dài hay là chúng cứ bị thay đổi luôn soành soạch theo tuổi đời từng dự án?

Xin nói luôn để đỡ mất công chờ đợi: Chương trình và sách giáo khoa cũng phải bất biến. Điều này hoàn toàn trái với những phát ngôn đương thời cho rằng sách giáo khoa trên thế giới cũng chỉ tuổi thọ dăm mười năm.

Ta hãy cùng lý giải về tính bền vững của chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa cho học sinh phổ thông. Chúng sẽ bền vững và có tuổi thọ dài vì những lý do sau:

– Chúng thể hiện cách học của người học, cách học thể hiện ở các thao tác tư duy, là điều bất biến.

– Những vật liệu dùng để tổ chức cách học của học sinh đều mang tính phổ thông và đó là điều bất biến.

– Sách giáo khoa phải giúp giáo viên dễ thực hiện nhiệm vụ tổ chức việc học của trẻ em – một định nghĩa khác về nghề “dạy học” xưa nay.

Tư duy sáng sủa

Càng dấn thân vào sự nghiệp giáo dục, càng thấy mọi chuyện không dễ dàng và càng không thể xong trong ngày một ngày hai.

Vì thế, việc tư duy về giáo dục cần phải rất sáng sủa.

Không được lẫn lộn giữa khái niệm Chương trình tổng thể với chỉ một việc biên soạn chương trình và sách giáo khoa phổ thông.

Và ngay cả khi rút gọn việc viết sách giáo khoa như là cốt lõi của cái tổng thể thì cũng cần xử lý nghiêm cẩn.

Thời Khổng Tử, sách giáo khoa nằm trong tay vài ba ông “Tử”, và thế là đủ.

Thời Pháp thuộc cũng còn đơn giản: những tên tuổi đọng lại không nhiều, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Phạm Huy Lục, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, và Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Tố cùng với Brachet, Don Lafferanderie. Hết.

Sau năm 1945, cả ngành giáo dục vẫn mới chỉ có một ban thu thư lèo tèo. Dẫu sao, các ban tu thư thời đó đều có uy tín.

Ngày nay, chẳng ai có đủ uy tín để xử lý riêng một khái niệm tích hợp.

Và ai có đủ uy tín để bảo đảm sách đang viết chưa xong, có xong cũng chưa qua thực nghiệm… liệu có đủ độ tin cậy để được thực nghiệm và đem dùng theo lối cuốn chiếu.

Hãy nghĩ lại!

Hãy để các nhóm và các cá nhân tự do đóng góp để có thêm những người lùn cùng công kênh những người khổng lồ.

Hãy minh bạch các sản phẩm – mạng internet có sẵn để mọi người lùn cùng bớt lùn.

Hãy tập sống dân chủ vì dân chủ cũng là cái bất biến trong tư duy người, còn bao trùm lên cả tư duy giáo dục nữa.» (hết dẫn).

Nếu cảm giác bế tắc không phải là của riêng tôi, thì tôi nghĩ nút mở của nó là cái đã xảy ra với Gíao sư Tương Lai và cựu Đại sứ Nguyễn Trung.

7/10/2017

Bùi Quang Vơm




Ký ức, thời gian dưới ngòi bút của Kazuo Ishiguro, Nobel Văn Học năm nay

Thu Hằng 

RFI   – Phát thứ sáu, ngày 06 tháng 10 năm 2017

Ký ức, thời gian dưới ngòi bút của Kazuo Ishiguro

Nhà văn Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro, tân khôi nguyên Nobel Văn Học 2017, trả lời phỏng vấn bên ngoài nhà riêng tại Luân Đôn, ngày 05/10/2017.REUTERS/Toby Melville

“Bằng những cảm xúc dạt dào, văn chương của ông (Kazuo Ishiguro) đánh thức góc sâu thẳm, huyền bí trong chúng ta về mối liên hệ với thế giới” “Hãy lấy một chút từ Jane Austen, một chút từ Franz Kafka, thêm một phần của Marcel Proust và bạn có được điều gì đó giống phong cách viết của Kazuo Ishiguro”. Bằng những từ ngữ trên, Viện Hàn Lâm Thụy Điển nhận xét về tân khôi nguyên Nobel Văn Học 2017, nhà văn Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro.

Theo cha mẹ đến Anh Quốc từ năm 6 tuổi, Kazuo Ishiguro (sinh ngày 08/11/1954 tại Nagasaki) chưa từng nghĩ một ngày sẽ theo nghiệp văn chương. Ông từng mơ biểu diễn ghi-ta trên sân khấu nhạc rock hơn là cầm bút, vì 5 tuổi, cậu bé Kazuo đã biết chơi piano và 14 tuổi, đã chơi thành thạo ghi-ta.

Suốt thời thanh niên trong những năm 1970, Kazuo Ishiguro không đoái hoài đến văn chương vì “có rất ít nhà văn gây phấn khích, ngoài Kerouac và Beat Generation”, như ông từng thổ lộ với tạp chí L’Express năm 1997 khi giới thiệu với độc giả Pháp cuốn The Unconsoled(tạm dịch : Kẻ không khuây khỏa).

Cuối cùng, ông chọn con đường văn chương khi bắt đầu “đối chiếu giữa cuộc sống ở Anh với nhiều sự kiện diễn ra trong nước Nhật ngày trước. Năm 23 tuổi, tôi muốn trưởng thành và muốn làm sống lại ký ức của quê hương mình mà tôi có cảm giác đang biến mất”. (L’Express, 1997).

Tốt nghiệp trường đại học Kent năm 1978 và nhận bằng thạc sĩ khóa sáng tác văn chương của trường đại học East Anglia năm 1980, ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ năm 1982 với tác phẩm đầu tay A Pale View of Hills (tạm dịch : Những ngọn đồi xa mờ), đoạt giải thưởng Winifred Holtby của Viện Văn Học Hoàng gia Anh, tiếp theo là An Artist of the Floating World(1986). Cả hai tác phẩm gợi lại một nước Nhật thời hậu chiến, chật vật đứng lên từ đống đổ nát, về số phận của các nhân vật bị coi là “phản quốc”.

Từ đó đến nay, ông viết thêm nhiều cuốn tiểu thuyết khác, với chất lượng khá ổn định : The Remains of the Day (tạm dịch : Tàn dư ngày ấy, 1989, đoạt giải Booker), The Unconsoled (tạm dịch : Kẻ không khuây khỏa, 1995), When We Were Orphans (tạm dịch : Khi chúng ta mồ côi, 2000), Never Let Me Go (Mãi đừng xa tôi, 2005) và The Buried Giant (Người khổng lồ ngủ quên, 2015) và một tập truyện ngắn Nocturnes : Five Stories of Music and Nightfall (Dạ khúc : Năm câu chuyện về âm nhạc và đêm buông, 2009).

Cuốn tiểu thuyết Never Let Me Go (Mãi đừng xa tôi) được Time Magazine xếp vào danh sách 100 cuốn sách tiếng Anh hay nhất từ năm 1923 đến năm 2005. The Remains of the Day được James Ivory chuyển thể thành phim cùng tên năm 1993 với hai diễn viên chính Anthony Hopkins vào vai quản gia Stevens tận tụy, lịch thiệp chấp nhận chối bỏ và chôn sâu cả tình yêu thầm lặng với cô Kenton (Emma Thompson) dành cho ông. Năm 2010, khát khao tình yêu, hạnh phúc trong thế giới “giả tưởng” của ba nhân vật Kathy, Ruth và Tommy có chung một số phận được định đoạt trong Mãi đừng xa tôi được Mark Romanek đưa lên màn ảnh nhỏ.

Hai tác phẩm được chuyển thể thành phim này cùng với cuốn The Unconsoled nằm trong danh sách ba tác phẩm cần đọc, theo nhật báo Le Figaro, nhân dịp công bố tân khôi nguyên Nobel Văn Học 2017.

Bìa ba tác phẩm của nhà văn Kazuo Ishiguro được Nhã Nam xuất bản tại Việt Nam.RFI / Tiếng Việt

Tác phẩm của Kazuo Ishiguro : 10 năm có mặt tại Việt Nam

Riêng tại Việt Nam, tiểu thuyết gia Kazuo Ishiguro không phải là một tên tuổi xa lạ. Ba trong số tám tác phẩm của ông đã được Nhà xuất bản Nhã Nam kết hợp với Hội Nhà Văn biên dịch và phát hành : Mãi đừng xa tôiDạ khúc : Năm câu chuyện về âm nhạc và đêm buông,Người khổng lồ ngủ quên.

Trả lời RFI tiếng Việt, anh Nguyễn Xuân Minh, phụ trách bản quyền của Nhã Nam, giải thích thêm về tân khôi nguyên Nobel Văn Học 2017.

RFI : Nhà xuất bản Nhã Nam dịch và phát hành ba tác phẩm của nhà văn Kazuo Ishiguro từ cách đây vài năm, dĩ nhiên trước khi ông được trao giải Nobel Văn Học 2017. Những điểm nổi bật nào của nhà văn Anh gốc Nhật đã thu hút Nhã Nam ?

Nguyễn Xuân Minh : Tác phẩm đầu tiên của Kazuo Ishiguro mà Nhã Nam xuất bản là tác phẩm Mãi đừng xa tôi, không phải là vài năm trước mà là 10 năm trước, từ những năm đầu tiên Nhã Nam mới thành lập. Sau đó, đến năm 2015, chúng tôi ra tiếp một tập truyện ngắn của ông tên là Dạ khúc : Năm câu chuyện về âm nhạc và đêm buông. Và gần đây nhất, chúng tôi mới ra tác phẩm, và cũng là tác phẩm mới nhất của ông, Người khổng lồ ngủ quên.

Tác giả này đã được Nhã Nam khai thác từ những năm đầu tiên. Vì khi đó chúng tôi có quan niệm muốn giới thiệu những tác giả văn chương đương đại, có phong cách đặc biệt, đến với độc giả Việt Nam, bởi vì khi đó, thị trường sách văn học Việt Nam, trong thời điểm 10 năm trước, không được phong phú như bây giờ. Chúng tôi cảm thấy cần có trách nhiệm giới thiệu những tác giả xuất sắc của văn chương thế giới, như Ishiguro, Ian McEwan, Salman Rushdie, Margaret Atwood và Mugakami đến với độc giả Việt Nam.

Khi đó, cùng với Ian McEwan, Ishiguro là một trong hai tác giả người Anh mà chúng tôi lựa chọn, vì chất văn chương rất đặc trưng của nước Anh. Dù ông là người gốc Nhật, nhưng ảnh hưởng của gốc gác đối với văn chương của ông không nhiều, mà ông viết rất đặc trưng chất Anh. Chính vì thế, chúng tôi đã muốn giới thiệu tác giả này với độc giả Việt Nam từ 10 năm trước.

RFI : Có nhiều ý kiến cho rằng văn phong của Kazuo Ishiguro mang phong cách cổ điển, đôi khi quá trau chuốt về câu chữ. Liệu điều này có phải là một trở ngại để thu hút nhiều độc giả Việt Nam hơn, khi mà hiện nay nhiều tác phẩm được viết với phong cách nhẹ nhàng đang rất “ăn khách” ?

Nguyễn Xuân Minh : Về mặt đón nhận, khi chúng tôi xuất bản Mãi đừng xa tôi lần đầu tiên, chúng tôi nhận được nhiều lời khen và nhận xét tích cực từ giới phê bình và độc giả yêu văn chương. Tuy nhiên, cũng như nhiều tác giả văn chương đương đại khác rất nổi tiếng trên thế giới, khi mà xuất bản tại Việt Nam, các tác phẩm này đều khá kén chọn độc giả và không phải có nhiều người biết đến tác phẩm Mãi đừng xa tôi. Một phần cũng do khi đó, công tác truyền thông của Nhã Nam chưa tốt lắm nên chúng tôi lấy làm tiếc là không có nhiều người biết đến tác phẩm này. Đấy cũng là một phần nguyên nhân khiến chúng tôi đã không nghĩ đến xuất bản tiếp các tác phẩm của Ishiguro.

Đến năm 2013-2014, chúng tôi nhận được một vài tác phẩm mới do người đại diện của tác giả gửi đến, vì Nhã Nam là đơn vị đầu tiên xuất bản Ishiguro tại Việt Nam, nên khi có tác phẩm mới, họ gửi đến. Chúng tôi đọc thử và cảm thấy là văn phong và câu chuyện của ông đều rất tuyệt vời và chúng tôi nghĩ là không thể không tiếp tục xuất bản, nên chúng tôi tiếp tục mua bản quyền thêm ba cuốn của Ishiguro : Dạ Khúc, Người khổng lồ ngủ quên và cuốn nổi tiếng nhất của ông là cuốn được giải Booker là The Remains of Day, tạm dịch là Tàn dư ngày ấy. Cuốn này là cuốn đạt giải cao nhất của ông và khá dầy và tương đối khó dịch nên chúng tôi hy vọng có thể xuất bản được vào năm 2018.

RFI :Độc giả Việt Nam đón nhận các tác phẩm của nhà văn Anh gốc Nhật này như thế nào ?

Nguyễn Xuân Minh : Trước khi ông được giải Nobel, cũng có một bộ phận độc giả yêu văn chương nước ngoài, yêu văn chương Anh rất thích tác phẩm này (Xin đừng xa tôi) và cũng có nhiều người đã gửi thư và gửi tin nhắn cho chúng tôi, yêu cầu chúng tôi xuất bản thêm các tác phẩm của ông. Tuy nhiên, như tôi đã nói ở trước là văn chương của ông khá kén độc giả. Con số bán hàng ở Việt Nam cho thấy chưa phải là có nhiều người thực sự đọc và yêu thích Ishiguro.

Thực ra, mỗi khi có một cuốn sách quan trọng được xuất bản, chúng tôi đều cố gắng tổ chức chương trình tọa đàm, những buổi ra mắt để giới thiệu sách đến với độc giả. Ví dụ khi cuốn Mãi đừng xa tôi được xuất bản lần đầu, chúng tôi cũng có một buổi tọa đàm, giới thiệu tác phẩm này ở Hội Đồng Anh (Hà Nội). Có khá đông đảo phóng viên và bạn đọc đến tham dự buổi ra mắt này. Buổi đó khá là lớn.

Sau khi ông được giải Nobel, tất nhiên chúng tôi hy vọng rằng cuốn sách này sẽ được nhiều độc giả biết đến hơn và được đọc rộng rãi ở Việt Nam.

***

Kazuo Ishiguro (dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng), Mãi đừng xa tôi, NXB Văn Học, Nhã Nam, 2013, 434 trang.

Kazuo Ishiguro (dịch giả An Lý), Dạ khúc : Năm câu chuyện về âm nhạc và đêm buông, NXB Nhã Nam, 2013, 294 trang.

Kazuo Ishiguro (dịch giả Lan Young), Người khổng lồ ngủ quên, NXB Văn học, Nhã Nam, 2017, 460 trang.

*********

Nguồn:

http://vi.rfi.fr/viet-nam/20171006-nobel-van-hoc-2017-ky-uc-thoi-gian-duoi-ngoi-but-cua-kazuo-ishiguro

Cuốn The Remains of the Day có thể mua trên Amazon, paperback,  với giá $9.60:

https://www.amazon.com/Remains-Day-Kazuo-Ishiguro/dp/0679731725/ref=sr_1_1?s=books&ie=UTF8&qid=1507403861&sr=1-1&keywords=Kazuo+Ishiguro%29




Không ai ngăn nổi lời ca

Sông Lô Lê Nam Sơn

Chúng tôi 4 người gồm: Thụy Uyển, Lữ Du, Đặng Lâm và tôi được “Hội văn hóa nghệ thuật” người Việt ở thành phố Chemnitz mời đến tham dự buổi sinh hoạt văn hóa giao lưu với chủ đề “Chiều Thơ Tình Thu” được tổ chức vào ngày 15.10.2017 tại thành phố này.

Chemnitz là một thành phố thuộc Đông Đức cũ đã từng bị đổi tên, như Sài Gòn của VN bị đổi tên thành Hồ Chí Minh, thành phố Chemnitz bị đổi tên thành Karl Marx kể từ 1953 khi chế độ CS đông Đức nắm chính quyền, mãi cho đến 1990 sau khi nước Đức thống nhất, nhà nước Cộng Hòa Liên Bang Đức mới lấy lại tên đích thực của nó. Đây là một thành phố có khoảng 250.000 cư dân và là thành phố lớn thứ ba của tiểu bang Sachsen thuộc Cộng hòa Liên bang Đức, sau thành phố Leipzig và thành phố Dresden. Có khoảng trên 1000 người Việt sinh sống tại đây.

Nhân đây tôi cũng xin nói thêm để những ai chưa sống ở nước Đức có thể biết về cuộc sống và sinh hoạt của người Việt tại Đức là như thế nào. Có 3 dạng người VN khác nhau sinh sống ở Đức: Dạng thứ nhất là những thuyền nhân, ra đi bằng con đường vượt biên sau năm 1975. Dạng người này cho đến nay có khoảng 40 ngàn người, hầu hết định cư ở Tây Đức cũ và Berlin , nhìn chung họ có đời sống ổn định và con cái của họ đa số học hành giỏi, tương đối thành đạt do được sinh ra và lớn lên ở Đức. Thế hệ thứ hai này được người Đức đánh giá là một điển hình tốt cho sự hội nhập với xã hội, văn hoá Đức hơn cả những cộng đồng ngoại quốc khác sống ở nước này.

Dạng thứ hai là những người từ phía Bắc và Trung Việt Nam đi lao động tại Đông Đức từ thời Đông Đức còn là một nước xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay những người thuộc dạng thứ hai này cũng đã có giấy tờ và có cuộc sống ổn định, nhìn chung, hầu hết họ là những người buôn bán nhỏ, sống loanh quanh trong cộng đồng với nhau, cần cù, chăm chỉ kiếm tiền và cũng như dạng người thứ nhất, họ dồn tất cả tiền bạc vào việc đầu tư cho tương lai của con cái.

Dạng thứ ba là những người qua Đức từ sau năm 1990, họ ra đi bằng đủ mọi con đường khác nhau nhưng đa số cho đến nay vẫn chưa có giấy tờ hợp pháp. Số người này cũng đã lên đến khoảng 40 ngàn người. Vì không có giấy tờ, không được phép đi làm chính thức nên cuộc sống nhiểu bất ổn, có một số bị trục xuất về nước.

Số người Việt sinh sống bên phía đông hầu hết còn bị lệ thuộc và chi phối bởi Sứ Quán CSVN tại Đức, họ đã thành lập những hội đoàn như hội Đồng Hương, hội Doanh nghiệp, hội Cựu chiến binh, hội phụ nữ v.v.. theo chỉ thị của Sứ Quán. Nói chung, họ là những người còn “tình nghĩa” với cái gọi là nhà nước CHXHCNVN, nên chi khi khách du lịch VN, nhất là khách du lịch VN đến từ Hoa Kỳ cũng đừng ngạc nhiên khi vào một nhà hàng VN của họ mà thấy có treo cờ đỏ sao vàng và hình ông Hồ một cách trân trọng cũng như cho thực khách nghe những nhạc đỏ.

Chúng tôi đến với “Hội văn hóa nghệ thuật” để tham dự buổi sinh hoạt văn hóa giao lưu chủ đề “Chiều Thơ Tình Thu” trong hoàn cảnh không mấy thuận cho lắm, nên chi trước khi đồng ý tham dự, chúng tôi có đề nghị ban tổ chức là không treo cờ, không có mặt sứ quán hay đại diện của sứ quán cũng như phô trương những hình ảnh tuyên truyền ca tụng chế độ tại hội trường và không ngờ những đề nghị của chúng tôi được BTC đồng ý.

Với chủ trương dùng văn hóa văn nghệ để giao lưu, không áp đặt, nhưng mang tính chính nghĩa và thuyết phục là một hình thức đấu tranh trong nhiều cách đấu tranh với những mong muốn sao cho đất nước VN thân yêu của chúng ta thoát khỏi chế độ độc tài CS, sớm có được tự do dân chủ và quyền con người được tôn trọng mà trước sau chúng tôi vẫn luôn tâm niệm như vậy. Thế là ngoài những sáng tác, những giọng ngâm cùng tiếng hát mà 4 anh em chúng tôi lần lượt trình bày cho mỗi tiết mục, đến một tiết mục kế tiếp của mình với giọng ca có sức lôi cuốn lạ thường, Thụy Uyển đã hát vang lên với niềm tin mãnh liệt vào sự thật vào chính nghĩa và cô đã chinh phục được hầu hết khán giả qua một nhạc phẩm đấu tranh mang tình tự quê hương dân tộc “Gánh Cả Quê Hương của nhạc sĩ Chiêu Khiêm, bài hát chấm dứt với tràn vỗ tay như không dứt và kể tứ lúc ấy Thụy Uyển đã trở nên nhân vật đầy thiện cảm và gần gũi với hầu hết mọi người. Cảm ơn Thụy Uyển rất nhiều, mong Thụy Uyển luôn chân cứng đá mềm trên bước đường đấu tranh phía trước.

 




Biểu tượng của Apple ?

Tại sao biểu tượng của Apple là quả táo bị cắn dở một miếng?

Logo của hãng Apple là quả táo có một vết cắn dở, những người thực sự hiểu được hàm ý bên trong nó là rất ít! Tại sao biểu tượng của Apple là quả táo bị cắn dở một miếng, đến ngày hôm nay, tình cờ đọc thấy, mới hiểu, vết cắn trên quả táo, lại ẩn chứ một sự thực đáng buồn, rất đáng buồn
http://www.vnhot.net/uploads/76/d/128/14657870147643.jpg
Logo Apple xuất phát từ một câu chuyện trong chiến tranh thế giới II. Đó là một khởi đầu vĩ đaị: Các nước đồng minh phát ra một mã ULTRA hành động tuyệt mật, hao tổn tâm sức, đã dò ra mã tối cơ mật của máy mật mã Đức, bởi một thanh niên trẻ trường Đại học Cambridge đã sáng chế ra chiếc máy tính đầu tiên của thế giới, hơn nữa còn làm vỡ mật mã bí mật mà Đức luôn cho rằng bất khả xâm phạm, hoàn toàn làm chủ được các lực lượng tàu ngầm bí mật của Đức, và cuối cùng là tiêu diệt lực lượng hải quân Đức, thất bại đầu tiên của Đức, đã góp phần tạo ra tính quyết định。
http://www.vnhot.net/uploads/76/d/128/14657870146353.jpg
Turing
Sau chiến tranh, Turing trở lại Cambridge, sống một cuộc sống đồng tính bí mật, khi đó đồng tính luyến ái được coi là một trọng tội ở Vương quốc Anh. Năm 1952, ông đã có quan hệ tình dục với một người đàn ông 19 tuổi tên Post và đã bị bắt. Chính phủ Anh đã cho ông hai lựa chọn —- hoặc là ở tù hoặc là chấp nhận liệu pháp thí nghiệm hormon y học, để tiêu diệt ‘những kết tinh đồng tính’. Ông đã chọn liệu pháp hormon, nhưng việc điều trị khiến ông đau đớn, hơn nữa vú tiếp tục sưng lên。
Ngày 08 Tháng Sáu năm 1954, Turing 42 tuổi, là giai đoạn huy hoàng của sáng tạo đỉnh cao. Vào một buổi sáng, khi nữ quản gia đi vào phòng ngủ của ông phát hiện chiếc đèn bàn vẫn sáng, có một quả táo với một vết cắn dở trên đầu giường, Turing ngủ trên giường, tất cả mọi thứ đều rất đỗi bình thường. Nhưng lần này, Turing đã mãi ngủ thiết đi và không thức dậy nữa…..
Sau khi giải phẫu học, pháp y kết luận rằng cái chết là do nhiễm độc tính quá cao từ xyanua, rằng quả táo đã được ngâm trong dung dịch xyanua. Nhưng thế giới bên ngoài đồn đải rằng, cái chết là một sự tự sát khi Turing không còn chịu đựng được nổi đau đớn và nhục nhã khi ở trong phòng thí nghiệm một mình, nên đã tự bố trí cái chết cho mình bằng cách tiêm chất độc vào quả táo rồi cắn một miếng. Nổi đau chỉ vọn vẹn một vài phút, là ông đã qua đời. Chỉ có bốn người tham dự đám tang của ông, mẹ ông là một trong số họ, một thế hệ thiên tài, và cứ như thế kết thúc một cuộc đời. Ông qua đời khoảng 4 năm sau đó, Anh quốc đã bãi bỏ pháp lệnh định tội đồng tính luyến ái。
Turing xứng đáng là cái tên luôn được lịch sử nhớ đến, không phải nhờ vào hành động giải mã ULTRA của ông mà quan trọng bởi vì ông là người tiên phòng cho công nghệ máy tính đóng góp xuất sắc để mở ra một thời đại thông tin. Khoảng 20 năm sau khi ông qua đời, Steve Jobs fan của Turing đã đặt cho công ty cái tên là Apple, và dùng biểu tượng trái táo bị cắn dở một miếng làm lô gô



Chuyên Một Linh Mục

CHUYỆN MÔT LINH MỤC

“Bọn trẻ đã tập họp lại với nhau và bắt đầu khoe những thứ mà chúng đã lượm được. Ngoài những cái bọc nylông thông thường, có đứa khoe lượm được cái chân gà, hay một món đồ ăn được gói kỹ. Bỗng dưng có con bé khoảng 10 tuổi la to:
– Hôm nay nhà tao không phải đói rồi.!” Sống ở xã hội VNCS làm sao mà đành tâm với cảnh này !!!!!!!!!!!
Mời đọc câu chuyện có thực của một linh mục hóa thân vào thế giới trẻ em nghèo khổ. DgN

luom-racluom-rac-1

Chuyện Một Linh Mục.

Đây là câu chuyện linh mục gỉa vờ đi bán vé số, ăn xin và lượm rác với các em nhỏ để biết thân phận của các em như thế nào và tìm cách cải thiện đời sống của các em

Linh mục kể:

– Tôi bừng tỉnh và như quên đi cái hôi thối, tôi lao vào trong đống rác như bao đứa trẻ khác. Khoảng hơn hai tiếng, chúng tôi đã “quần nát” cái đống rác. Tôi lượm cũng gần đầy cái bao bố. Thế là tôi đã lẽo đẽo theo các em để bán vé số và ăn xin trên các đường phố Sài Gòn được hai ngày! Không biết bao nhiêu lần giở khóc giở cười. Có lẽ giờ này nếu bạn bè hay gia đình có gặp tôi thì họ cũng không thể nào nhận ra được. Tôi đã biến thành một người nghèo nàn, đen đủi, đơ dáy và hôi hám như những mảnh đời bất hạnh lê lết hết từ quán ăn này đến quán ăn khác. Để được theo các em đi ăn xin và bán vé số không phải là dễ. Tôi đã phải lân la làm quen và giúp các em rất nhiều, tôi đã lấy được niềm tin của các em và gia đình các em. Tôi đã ăn và ở chung với họ. Tôi đã cho họ thấy được tôi thực sự muốn sống cảnh màn trời chiếu đất với họ để có thể hiểu và cảm thông nỗi khổ của họ! Tối hôm nay là tối cuối cùng tôi theo các em, như dự tính ban đầu, hôm nay tôi sẽ không ngủ trong các ngôi nhà bằng giấy, trong thế giới của kẻ chết, mà tôi đã chia sẻ ở trên (Bài “Tôi Đến Thăm Em”) nhưng tôi sẽ theo một nhóm trẻ mồ côi lang thang về ngủ ở khách sạn “ngàn sao” toạ lạc dưới chân cầu Chữ Y bên Khánh Hội. Chiều hôm đó tôi đã được phép theo nhóm trẻ mồ côi lang thang. Dẫu tôi cũng đã biết các em từ trước qua hai ngày đi bán vé số và ăn xin, tuy nhiên trước khi tôi đi cụ trưởng làng dặn tôi: – Cháu cẩn thận nhé, tụi nó không có hiền giống như tụi nhỏ bên này đâu! Khoảng 3 giờ chiều, tôi hoà nhập với các em tại công viên bên cạnh Nhà Thờ Đức Bà. Tôi nhập ngay vào với bọn nó một cách dễ dàng. Bọn trẻ đang bàn kế hoạch cho tối hôm nay, chúng quyết định sẽ không đi ăn xin nữa mà sẽ đi lượm ống lon, và ve chai tại đống rác bên quận 4. Nghe chúng nói đến đó tôi đã rùng mình run sợ, tôi thật sự sợ cái mùi hôi thối bốc lên từ rác, nhất là tim tôi thì yếu, không biết có thể sống nổi không. Tôi ngước lên nhìn tượng Mẹ trước nhà thờ đọc một kinh Kính Mừng xin mẹ cầu bầu cùng Chúa cho con.. Trong bóng đêm, cảnh đống rác thật hãi hùng, cao như dãy núi. Tiếng người cười nói, tiếng cãi nhau, tiếng chửi rủa hoà lẫn vào nhau, cả hàng trăm người cứ như là những bóng ma di động. Mùi hôi thối nồng nặc, tôi rùng mình run sợ. Lại đọc thêm một kinh Kính Mừng. Thấy tôi tỏ vẻ ngần ngại, con bé đứng cạnh tôi thét lên: – Nhảy vô đi cha nội, đứng đó là đói, lấy gì ăn.! Tôi bừng tỉnh và như quên đi cái hôi thối, tôi lao vào trong đống rác như bao đứa trẻ khác. Khoảng hơn hai tiếng, chúng tôi đã “quần nát” cái đống rác. Tôi lượm cũng gần đầy cái bao bố. Bọn trẻ đã tập họp lại với nhau và bắt đầu khoe những thứ mà chúng đã lượm được. Ngoài những cái bọc nylông thông thường, có đứa khoe lượm được cái chân gà, hay một món đồ ăn được gói kỹ. Bỗng dưng có con bé khoảng 10 tuổi la to: – Hôm nay nhà tao không phải đói rồi.! Nói xong nó lôi trong cái bao của nó ra một cái đầu chó! Tôi đứng đó mà nước mắt tuôn trào, cứ như là trong mơ. Đến phiên tôi, tôi không kể gì mà chỉ đưa cho thằng bé “trưởng nhóm” cái bao bố và nói là cho hết tụi nó. Em vẫn cười tươi bên… rác Chắc cũng khoảng nửa đêm, khi chúng tôi trở lại chân cầu chữ Y bên Khánh Hội. Các em chắc mệt mỏi, lăn ra ngủ ngay. Riêng tôi không biết vì quá mệt mỏi hay là quá xúc động không tài nào ngủ được. Tôi cứ nằm nhìn trăng chiếu xuyên qua các khe hở của thành cầu. Trăng đêm nay sáng quá, nhưng đời các em thì thật tối! Đêm nay là đêm đầu tiên trong đời tôi hiểu được ý nghĩa của “màn trời chiếu đất”. Tôi trằn trọc, nước mắt cũng không còn để mà rơi. Tôi muốn thét lên, thét lên thật to, nhưng lại dằn lòng đau xót. Sáng hôm sau, tôi thật sự mỏi mệt và kiệt sức. Tôi đứng dậy, lê từng bước nặng nhọc ra khỏi gầm cầu, đón taxi để quay về Khách Sạn, nhưng không một chiếc nào ngừng. Nỗi mệt mỏi và đau nhức trong thể xác tôi, không tài nào so sánh với nỗi đau tinh thần, nước mắt tôi cứ tuôn trào. Nếu như mọi khi, tôi ăn mặc lịch sự thì Taxi đã nối dài thành hàng để chào mời tôi rồi, nhưng hôm nay tôi tiều tụy và nghèo nàn. Cũng chẳng trách gì được những anh lái Taxi, vì họ cũng làm thuê cả mà. Cuối cùng tôi cũng đã thuyết phục được một cụ già chạy Honda ôm chở tôi về. Honda dừng trước cửa khách sạn, tôi vừa bước xuống đã bị anh bảo vệ xua đuổi, nhưng khi nhận ra tôi là khách quen, anh ta cười bẽn lẽn và xin lỗi. Cụ già đứng ngoài chờ tôi vào Khách Sạn lấy tiền. Tôi đến bàn tiếp tân, xin chìa khoá phòng 205. Cô tiếp tân mọi ngày niềm nở với tôi lắm, bỗng dưng hôm nay cáu gắt lạ thường, cô nói và liếc nhìn tôi thật khó chịu: – Ông tìm ai! Chủ nhân phòng 205 đi ra ngoài rồi!! Tôi giở chiếc mũ lụp xụp ra, mùi hôi bốc lên, và mỉm cười nói với cô bé: – Thưa cô, tôi là chủ nhân của căn phòng 205 đây!! Cô nhìn tôi, tí nữa thì té lăn ra khỏi ghế, cô đứng bật giậy và hỏi tôi: – Anh Thông, anh có sao không? Bị cướp giật à?! Tôi nói cho cô biết tôi không sao, chỉ mệt mỏi và muốn lên phòng nghỉ. Cô cầm chìa khoá phòng và còn dẫn tôi lên đến tận cửa… Tôi nhờ cô lấy 50 ngàn trả cho cụ già chạy xe ôm. Tôi lao vào phòng cởi quần áo và lăn ra ngủ! Một giấc ngủ bình yên và hạnh phúc! Lạy Chúa, không có khoảng cách nào lớn hơn giữa lòng người với người, giữa các con tim của nhân loại. Cái hố sâu ngăn cách giữa giàu sang và nghèo đói đã làm cho lòng người chai đá, làm cho con tim họ dửng dưng trước những đau khổ và bất hạnh của người khác. Xin Chúa hãy thay thế quả tim bằng đá khô cằn của chúng con bằng quả tim bằng da bằng thịt, trái tim với những vòng chảy không ngừng của những giọt máu yêu thương. Xin cho chúng con biết chia sẻ với anh em những ân huệ chúng con lãnh nhận từ Chúa, Amen. LM Martino Nguyễn Bá Thông –




Tiếng Việt Hiện Đại 1

Tiếng Việt Hiện Đại 1: Tình Yêu Phai Nhạt

Tôi nhìn đồng hồ hai cửa sổ không người lái trên tay, bây giờ đã 6 giờ sáng. Bật kênh phát sóng số 3 nghe bản thông tin, TV tiên đoán hôm nay có khả năng mưa. Tình hình Ai-Cập đã bớt căng vì công an, quân đội, kể cả lính gái và lính thủy đánh bộ kiểm soát đường phố khắp nơi.   Một tướng lãnh đọc bài nói loan báo an ninh đã được bảo quản, tình trạng đất nước tốt, báo cáo tốt, các quan chức nhà nước sẵn sàng làm việc nghiêm túc trở lại để phục hồi đất nước. Vẫn còn quá sớm để thức dậy, nhất là hôm nay Thứ Bẩy  tôi không phải động não đi quảng trường quy hoạch quy trình cho nhân viên được quán triệt phương án, thế nhưng tôi vẫn ráng động viên cơ thể đứng dậy,  bước ra khỏi giường.
          Xuống dưới nhà, tôi vào bếp bắc nồi vừa chiên con sâu mỡ, vừa pha cà phê cái nồi ngồi trên cái cốc cùng một lúc cho tranh thủ  thì giờ. Pha xong, tôi vất xác cà phê ngay vào thùng rác, không dám đổ xuống bồn rửa bát sợ gây ra sự cố, ống nước bị ùn tắc. Mang ly cà phê nóng ra sau vườn nhâm nhi trong khi đọc báo, ngắm cây xanh tốt vì đất được phân bón cải cách, hoặc viết lách vào sáng sớm cuối tuần là cái thú thư giãn của tôi. Căn hộ tôi không được hoành tráng mấy thế nhưng nó xa phi khẩuđảm bảo yên lặng cho chất xám của tôi được tăng trưởng kiệt suất khi tôi muốn viết lách. Nhà tôi ở núi non xa cách thành thị như thế này thì chắc chắn nhà nước chẳng bao giờ giải phóng mặt bằng để xây đường cao tốc.
          Ngày xưa mới lấy nhau thì không sáng nào hai vợ chồng không dậy sớm ngồi thủ thỉ với nhau. Bây giờ sau 27 năm lấy nhau thì căn hộ vắng vẻ, sáng nào tôi cũng ngồi một mình, còn nàng thì vẫn tiếp tục đánh giấc cho đến 8, 9 giờ mới dậy. Sinh hoạt hai vợ chồng vì thế cách ly hẳn.
          Tôi còn nhớ rất rõ tình cảm mật thiết nàng dành cho tôi khi lần đầu tiên chúng tôi mới gặp nhau. Ở cuộc gặp lần thứ hai, nàng đã nhờ chị của nàng ở bên  (cùng đi nhà thờ với tôi) làm rõ gia cảnh tôi, biết rằng tôi chưa có đối tượng. Vì thế, dù rằng chỉ mới là bạn sơ hữu, nàng nói là nàng muốn liên hệ tình cảm với tôi. Mừng như bắt được vàng, tôi bảo nàng cởi áo ra (lúc ấy đã là buổi đêm). Vừa nghe xong nàng tát cho tôi một bạt tai nháng lửa. Tôi ngạc nhiên quá đỗi nhưng chỉ cần  vài giây suy nghĩ  là tôi đoán ngay lý do tại sao nàng tát tôi: nàng kẹt ở lại Việt Nam tháng 4-1975, chỉ sang Paris năm 1980 nên dùng chữ liên hệ tình cảm, có nghĩa là “muốn làm quen với anh”. Tôi thì đi ngày 30-4-1975  nên đâu có bao giờ nghe chữ ấy, chỉ biết chữ “liên hệ tình dục” nên khi nàng nói liên hệ tình cảm, tôi nhanh nhẩu đoảng nghĩ ngay là nàng muốn liên hệ tình dục do đó mới bảo nàng cởi áo ra! Vì vậy mà tôi ăn tát! Đối với các cô khác thì đã  point final tình bạn, không thể nào cho nó triển khai thêm, thế nhưng nàng là người dễ dãi, và nhất là dễ gì tìm được một con trai chảnh như tôi nên sau khi nghe giải thích sự tình, nàng bỏ tất cả bức xức, tha thứ cho tôi.
          Hai chúng tôi giao lưu thư từ và trao đổi điện thoại thường xuyên. Nàng là dân trường Tây, lại ở Paris nên viết thư dùng những từ tiếng Pháp làm nhiều lúc tôi phải tìm tự điển hay tư liệu để tra cứu. Mắt tôi kém, lúc nào cũng cần phải đeo kính để hiển thị thơ nàng. Tuy rằng ởParis, nàng nỗ lực bố trí có cơ hội là sang Mỹ thăm tôi. Khi còn bé tôi ước mơ lớn lên sẽ làm nghệ nhân hay chủ nhiệm, thế nhưng lúc quen nàng thì đời sống tôi thất bại. Tôi không thuộc loại người có đỉnh cao trí tuệ  mà chỉ là một người thợ quèn. Ấy thế mà nàng không sốc khi biết nghề nghiệp thật sự của tôi, còn yêu và xem tôi như tôi là một siêu sao! Xa nhau cả đại dương, tôi năng nổ viết thư cho nàng. Nhận đượcthư tôi nàng phản hồi ngay lập tức. Vài tháng sau, trong một lá thư, tôi đề xuất chúng tôi nên lấy nhau. Câu đáp án của nàng là bằng lòng. Còn sáu tháng nữa mới học xong đại học ở Paris mà nàng bỏ ngang không học nốt làm cho tôi ngạc nhiên khôn xiết khi một tuần sau tôi nhận điện thoại đột xuất của nàng báo hiện đang ở Sân bay Los Angeles! Ra đón nàng ở Sân bay, gần Trung Tâm Quản Lý Bay Dân Dụng, tôi không khỏi trào nước mắt khi thấy nàng đứng một mình với một chiếc valise to tổ bố. Nàng ôm chầm lấy tôi và nói:
          -Em ra trễ vì phải trình giấy tờ ở Hải Quan. Em đi máy bay yên lắm vì tổ lái tốt. Em đăng ký mua vé máy bay hôm kia, bảo cô bán vé khẩn trương tìm vé cho em.  Gia tài em còn lại chỉ có cái hộ chiếu trong tay và cái valise này. Em bỏ học, bỏ việc làm bán phần với thu nhập chẳng là bao nhiêu, bỏ doanh nghiệp xuất khẩu em làm cho người quen, bỏ cả chứng minh nhân dân Tây bên Pháp, bỏ hết tất cả để sang  thi công sống với anh. Em có mang học bạ bên Pháp sang để chuyển ngữ, em sẽ đi học tiếp bên  nên anh đừng lo em bỏ học.
          Ngừng một lúc, nàng tiếp:
          -Em muốn anh quản lý đời em. Thế anh có tiếp thu em không?
          Quá cảm động với tình yêu nàng dành cho tôi, dù rằng tôi là người vạm vỡ, ngày xưa là vận động viên của Viện Ung Bứuvận động viên bóng đá, từng dùng dây thừng kéo những xe đò quá tải, tôi khóc òa và ôm chầm lấy người bạn gái thân thương, hứa rằng sẽ trọn đời yêu và nuôi nấng nàng. Nếu nghề chính của tôi không đủ nuôi hai đứa, tôi sẽ tìm nghiệp dư, tìm đủ mọi cách kiếm sống, quyết không bao giờ để nàng đói. Khi độc thân tôi có một con chó và một chiếc xe gắn máy, mua với một giá bèo. Từ ngày lấy vợ, tôi bán chiếc xe gắn máy để khỏi phải đội mũ bảo hiểm. Tôi giải phóng luôn con chó để có thì giờ tiêu khiển với nàng.
          Những năm tháng đầu và cho cả đến thời gian gần đây, đời sống vợ chồng tôi thật hạnh phúc. Hai chúng tôi lúc nào cũng có ý tưởng nhất quán, không bao giờ gây gỗ nhau.  Nàng mê tôi còn hơn Alain Delon, chiêu đãi tôi ngày này qua ngày khác. Thế nhưng từ ngày nàng bắt đầu xem phim bộ hay Paris By Night, nàng bắt đầu sao lãng, bỏ bê tôi, không thèm đi tham quan với tôi mà chỉ liên hệ với những cô khác cùng sở thích. Đã thế, nàng còn chỉ đạo tôi làm việc nhà nữa chứ!
          Một lần tôi mổ răng về nhà nằm liệt giường sự cố, cần cứu hộ. Nàng hỏi tôi có muốn ăn cháo thì để nàng nấu. Tính tôi không thích người khác mệt nhọc vì mình, không muốn vợ phải vất vả vì tôi nên tôi mới bảo nàng là không cần nấu, tôi ăn mì gói là món ăn chủ đạocũng được rồi vì mì gói cũng đủ chất lượng. Tôi ăn mì gói một ngày, hai ngày, ba ngày thì không sao, nhưng đến ngày thứ tư, thứ năm thì ngán đến tận cổ, muốn tranh thủ ăn lắm nhưng nuốt không trôi, thế mà nàng vẫn không nấu gì cho tôi ăn. Qua đến ngày thứ sáu, tôi mới hỏi nàng sao không thấy nấu cháo gà, cháo thịt cho tôi ăn thì nàng lý giải chính tôi là người nói  với nàng  không cần nấu nên nàng để dành thì giờ rảnh rỗi xem hát đôi, hát tốp của những ca sỹ trên sân khấu đại trà tiên tiến của Paris By Night! Cứ theo chế độ dinh dưỡng nàng dành cho tôi như thế này, thay vì thổi cơm tốc độ cho tôi ăn thì không nấu niếng gì hết cho tôi đói,  chẳng mấy chốc tôi sẽ là hành khách trong bài “Con đò đưa xác”.
          Hơn 27 năm sống với nhau, sau khi đã tốn bao nhiêu công sức nâng cấp một người ở chợ Bàn Cờ  như tôi (nhà tôi gần Hội Chữ Thập Đỏ), vợ tôi không còn mê tôi nữa. Tôi đã tư duy định leo lên máy bay lên thẳng rồi khi ở trên không, nhẩy ra ngoài máy bay tự tử để cho vợ tôi thấy hệ quả khi nàng không còn yêu tôi. Thế nhưng một ông bạn già Phó Tiến Sĩ của tôi 70 tuổi, đã về hưu, tuần vừa rồi cảnh báo tôi không nên phí đời giai như vậy. Ông ta muốn dẫn tôi  đến nơi này đàn ông có giá trị hơn vàng vì số đàn bà gấp ba lần đàn ông. Tôi đến thì ông ta đảm bảo bao nhiêu bà sẽ hồ hởi tranh giành chém giết nhau để dành lấy tôi. Ông ta làm việc ở ba nơi. Chỗ nào họ cũng  trả tiền ông ta đến nhẩy đầm với mấy bà vì nơi nào đàn ông cũng đều khan hiếm trầm trọng, không đủ người để nhẩy.  Khi đến nơi làm việc, lúc nào ông ta cũng không có thì giờ nghỉ ngơi vì hết bà này đến bà khác dành giật nhẩy với ông ta. Đã thế, họ còn cho ông thêm tiền bồi dưỡng! Tôi không cần nhẩy giỏi, chỉ biết cơ bản là đủ. Nếu tôi nhận lời đi theo ông ta thì tôi nhất định sẽ không còn buồn vì vợ bỏ bê tôi. Ngược lại tôi sẽ hưng phấn  vì các em gái này sẽ thống nhất tranh nhau o bế tôi, không rời tôi nửa bước, không cho tôi về nhà sớm. Ngoài ra, ở đó họ còn dùng máy điện tính, máy quét, thỉnh thoảng hư cần người sửa. Tôi sửa được mọi sự, đến đó vừa nhẩy đầm vừa sửa phần cứng, phần mềm cho họ thì họ lại càng yêu mến, đời sống tôi sẽ được hoàn toàn thoải mái vô tư.
          Tôi chưa biết xử lí ra sao vì hôm qua ông ta mới nói cho tôi biết nơi ông ta làm: Viện Dưỡng Lão Cao Cấp Thành phố với tuổi trung bình của hội viên là 73 tuổi.
Nguyễn Tài Ngọc
http://saigonocean.com/index. php/en/
March 2011
TaiNgoc



Câu Chuyện Văn Thơ 05

Câu Chuyện Văn Thơ 5

Hà Thượng Nhân

 

Góp gom di vật trăm năm lại

Ðể vạn đời sau biết tỏ tường

Chiến tích oai hùng nghe dậy sóng

Ðâu đây tiếng súng vọng sa trường

 

Chưa có ở đâu mà chiến tranh xảy ra dai dẳng như ở Việt Nam. Khởi từ mùa thu năm 1945 đến năm 1975. 30 năm. Cả một thế hệ rưỡi bị hy sinh trong lửa đạn. Tôi đã đi dự cuộc họp của sinh viên khóa 1 Thủ Ðức, trong đó có nhiều người là bạn, nhiều người là em út. Ba mươi năm chinh chiến mà những thanh niên thời 51 đến nay còn sống, còn đầy nhựa sống. Họ chưa già, hay không hề già như có người nói. Có người còn nói: “Những người lính không thể chết được, họ chỉ mờ nhạt, chỉ tàn đi mà thôi.” Giai nhân tự cổ như danh tướng. Có lẽ không nước nào có nhiều danh tướng như nước ta, hiểu theo nghĩa danh tướng là những chiến sĩ sống để bảo vệ tổ quốc, và chết là để bảo vệ thanh danh của một quân nhân. Cộng Sản độc ác thật, nhưng chính vì thế mà chúng ta mới có những anh hùng. Phải nói rằng những người đã từng nằm trong trại cải tạo Cộng Sản hàng chục năm liền, nhất là những người bị biệt giam phải được kể như là những anh hùng. Không anh hùng thì không thể sống. Phải có một niềm tin sắt đá rằng họ là những người yêu nước, chiến đấu vì tổ quốc! Nếu không thế thì làm sao mà sống được. Ăn đã không đủ no, lao động quá sức, con người contệ hơn là con vật. Người sống chung với sau bọ, với rệp, với muỗi, với ruồi. Vẫn không chết. Vẫn tin tưởng. Vẫn tin có một ngày ta về đòi lại núi sông ta!.

 

Một cuộc chiến tranh dai dẳng đến như thế, ghê gớm đến như thế mà có thể trôi qua không dấu vết. Cám ơn những người bạn đã nghĩ đến nó, đã ghi lại nó để vạn đời sau biết tỏ tường. Ðâu đây còn tưởng vọng lại tiếng súng từ sa trường. Ông bạn Giao Chỉ. Nhiều người có thể không ưa ông, có lẽ vì ông khôn ngoan hơn họ, nhưng có một điều ai cũng phải đồng ý với tôi: ông làm được nhiều việc có ích. Xã hội thiếu vắng những người như ông là thiếu vắng nhiều lắm. Có thể là tôi chủ quan nhưng nghĩ về người về việc làm sao không chủ quan. Chủ quan nhưng thành thực.

 

Lại nói về Tứ Tuyệt Ðông Anh. Những bài như “Lá Vàng” là những bài thơ hay. Tự nhiên thấy một chiếc diều giấy bay trên khoảng trời xanh biếc trong khi lá vàng bay lả tả khắp nơi;

 

Trơ lại vàng thu dưới nắng chiều

 

Lá vàng là lá đã già. Mùa thu là tiền đông, sắp hết năm. Những người lính năm xưa bây giờ đã là lá vàng rồi, là mùa thu rồi. Ở đây cũng có lá vàng. Ở Việt nam cũng lá vàng

 

Chiếc Nam, chiếc Bắc chia đôi ngả

Trơ lại vàng thu dưới nắng chiều

 

Mùa thu là mùa cách mạng. Cuộc đổi đời của Việt nam khởi đầu từ mùa thu. Mùa thu, mùa lá vàng rơi, con người của mùa thu 45 nay còn sống sót bỗng rùng mình se lạnh, Lạnh như lá vàng dưới nắng chiều, Ông Ðông Anh có nghĩ như thế không? Mà sao lời thơ se sắt đến như vậy!

 

Ngày trước, khi bác sĩ Nguyễn Tuấn Phát đem đến tặng tôi cuốn “Cảm Nghĩ Của Một Người Thầy Thuốc”, tôi cứ băn khoan về một lời tâm sự mà anh đã nói với tôi vì cảm tôi đã viết về tác phẩm của anh như sau: “Tôi cầm đọc sách của bác sĩ Phát mà không nghĩ đây là một ông già 60 tuổi. Tôi cứ nghĩ là tác giả trẻ lắm, lời văn, đôi chữ thực thà như của một học sinh tiểu học. Khi tôi hỏi anh chưa chắc đã là thày thuốc giỏi mà hết làm bác sĩ riêng cho Hồ Chí Minh lại làm bác sĩ riêng cho Ngô Ðình Diệm là vì sao? Anh trả lời rất hóm: “Tôi làm bác sĩ riêng cho Hồ Chí Minh vì tôi thích lượn gái, làm bác sĩ riêng cho ông Ngô Ðình Diệm vì dốt tiếng Pháp”. Tôi xin anh nói rõ hơn, anh mới trả lời rằng anh với Vũ Ðình Huỳnh, thân sinh của nhà văn Vũ Thư Hiên là bạn thân. Cả hai vào khoảng đầu thập niên 30 vừa đỗ tú tài và cùng học đại học, kẻ học luật, người học thuốc. Lúc bấy giờ Pháp mới bát đầu mở trường đại học ở Việt Nam. Phải nói rằng thời ấy, sinh viên rất có giá. Ðeo phù hiệu con rắn (y khoa) hay cái cân (luật khoa) nơi ve áo là tha hồ lượn ở Gô Ða, tha hồ cho các cô lác mắt. Phát và Huỳnh đều có cái thú đó. Cho nên họ thân nhau. Bấy giờ theo Cộng Sản là một cái mốt. Huỳnh là Công Giáo, con nhà giàu nhưng lại có máu “cách mạng”, Cộng Sản sẵn sàng mở cửa để ông nhào dô. Vả chăng hồi đó Cộng Sản Ðệ Tam đang bị Cộng Sản Ðệ Tứ đổ cho cái tội là tay sai của đế quốc Pháp. Số là năm 1939 khi Nhật khai chiến thì Pháp hô hào phòng thủ Ðông Dương. Ðệ Tứ bèn hô hoán lên: Ðông Dương là của Pháp. Phòng thủ Ðông Dương là làm tay sai cho Pháp. Cộng Sản bèn vận động xuất bản một tờ báo bằng tiếng Pháp để Vũ Ðình Huỳnh làm chủ nhiệm. Tốt quá. Huỳnh là tay giàu có lại là dân Công Giáo, còn gì hơn. Có sao thì để cậu công tử con nhà giàu đó đi tù thay. Thế rồi Huỳnh đi Pháp du học. Khi về lại Việt Nam thì Huỳnh đi với ông Hồ. Phát gặp lại Huỳnh. Huỳnh hỏi Phát làm nghề gì? Phát trả lời làm bác sĩ. Thế là vào làm bác sĩ cho ông Hồ. Nhưng ở với ông Hồ và bọn lãnh tụ ít lâu Phát biểu rằng bọn này không làm cách mạng. Ðó là bọn bịp. Anh bỏ chạy vào Nam. Vào Nam đúng lúc xảy ra ông Ngô Ðình Diệm về chấp chánh. Lúc ấy bác sĩ Bùi Kiện Tín làm bộ trưởng phủ thủ tướng. Phát và Tín vốn là bạn học. Tín hỏi Phát làm gì? Bác sĩ. Ðã làm gì chưa? Chưa. Thì vào làm bác sĩ cho ông cụ. Nguyên lúc đi học ở trung học Phát và Tín đều dốt văn chương. Anh Phát thường tâm sự với tôi: “Anh biết Nghiêm Xuân Việt không? bạn với tôi và Tín ở trung học đấy. Luận Pháp văn Việt được 16, 17 điểm, còn tôi và Tín chỉ được 4, 5 điểm. Tôi với Tín chỉ giỏi toán, nhờ toán mà đỗ được tú tài. Vì giỏi toán nên thân nhau. Lên đại học cũng thế. Té ra là có số. Số hay gái thì gặp Hồ Chí Minh. Số giỏi toán thì gặp Ngô Ðình Diệm.

 

Tôi nói lan man đến Nguyễn Tuấn Phát mà nhớ đến Ðông Anh lúc trong trại tù Cộng Sản ở Nghệ Tĩnh. Trông anh thật gầy gò mà thật bất cần đời. Cứ một cái giây chuối thắt ngang lưng, cứ thất tha thất thểu ra vào giường bên cạnh. Sau này mới hay là cùng một nghiệp thi ca. Anh có những ý nghĩ thật ngộ nghĩnh, cứ ngây ngô như con trẻ khiến tôi càng nghĩ đến Nguyễn Tấn Phát.

 

Tôi xin kết những bài viết về thơ Ðông Anh bằng hai bài tứ tuyệt sau đây

 

Chớm Thu

 

Gió Thu tỉnh mộng mới vừa sang

Mây vẫn còn xanh lá chửa vàng

Mới chớm vào Thu lòng đã lụy

Ðường về lối cũ vẫn mênh mang

 

Nguồn

 

Muôn dặm trùng dương trở lại nguồn

Mưa rừng thay lá đẹp giang sơn

Mai vàng tô thắm xuân vàng cội

Sóng cả, đèo cao chí chẳng sờn

 

Chúng ta chưa già tuy tuổi đời chồng chất. Chúng ta là lính và lại là những lính già. Cách đây vài hôm nhạc sĩ Vũ Ðức Nghiêm vừa gọi giây nói cho tôi nhắc lại một câu thật hay của tướng Mac Arthur: “ Những người lính không bao giờ chết cả. Họ chỉ mờ đi mà thôi”




Chia sẻ: Buồn vui Lễ Giáng Sinh (LM Lê Quang Uy, DCCT)

Chia sẻ: Buồn vui Lễ Giáng Sinh
VietCatholic News (27 Dec 2008 16:26)
Lễ Giáng Sinh vừa xong, anh em Linh Mục chúng tôi đi hỗ trợ Mục Vụ các nơi vùng sâu vùng xa đã trở về lại Nhà Dòng. Có bao nhiêu chuyện để kể cho nhau nghe. Ai cũng xúc động trước Lòng Tin mạnh mẽ và tinh thần sống Đạo nhiệt thành của người dân nghèo, đặc biệt là anh chị em các dân tộc thiểu số trên Tây Nguyên các tỉnh Lâm Đồng, Đaklak, Gia Lai, Kontum. Họ gặp bao nhiêu khó khăn về vật chất, bao nhiêu o ép của xã hội, nhưng càng vất vả, họ càng gắn bó với Chúa, với Hội Thánh và với nhau trong cộng đồng.

Có một điểm chung mà anh em Linh Mục chúng tôi cùng tỏ ra bất bình khó chịu, cần phải một lần viết ra như một lời cảnh báo, cũng là một lời kêu gọi đồng tình của mọi người. Đó là những chuyện về những vị khách thiếu văn hóa trong Ngày Lễ Giáng Sinh.

Hình như chuyện này bắt đầu có từ ngày người Công Giáo phải sống dưới chế độ XHCN, chứ trước 54 ở miền Bắc và trước 75 ở miền Nam, tôi nhớ làm gì có chuyện chính quyền được săn đón tiếp rước, đưa vào ngồi chễm chệ trong Nhà Thờ ngay ở những hàng ghế đầu tiên được dành riêng. Trước khi vào Lễ còn được mời phát biểu “mấy ý kiến chỉ đạo”, sau Lễ lại được mời sang… ăn nhậu tưng bừng khói lửa riêng mấy mâm đặc sản !

Thế đấy, bên kia thì bảo rằng có như vậy mới diễn tả được lòng ưu ái, sự quan tâm của Mặt Trận, của Chính Quyền các cấp đối với hoạt động tôn giáo, nhờ đó càng cho thấy chính sách Tự Do Tín Ngưỡng của Đảng và Nhà Nước dành cho các tín đồ thật quá ư là tuyệt vời ! Còn bên mình thì biện hộ rằng đây là một khía cạnh trong việc truyền giáo cho lương dân, cho người vô thần có dịp được vào Nhà Thờ xem hoạt cảnh Giáng Sinh, họ sẽ thấy được người mình cởi mở, đối thoại, đoàn kết và… dễ thương !

Có cái hậu ý phía sau cả hai bên đều thấy hết, hiểu hết mà không bao giờ nói ra, ấy là nhu cầu nhậu nhẹt cho vui, cho… tốt đời đẹp đạo. Cán bộ thế nào cũng vòi cha xứ để được nhậu bằng rượu Lễ cho nó sướng, dù ngay sau đó lại vừa chê vừa khen là: “Rượu thế quái gì mà ngọt như đường phèn, chỉ được tội thơm phức !” Còn Linh Mục thì nói nhỏ vào tai những người tỏ ý thắc mắc: “Cho họ nhậu một chầu là vui vẻ cả làng, là xong mọi chuyện. Có đáng gì đâu, miễn là được việc. Đấy các ông xem, Lễ Giáng Sinh ở đây hoành tráng nhá, tha hồ văn nghệ, phát quà…”

Tôi còn nhớ, Giáng Sinh năm 1997, tôi còn là ông thầy về thực tập Mục Vụ ở một Họ Đạo nhà quê tỉnh Đồng Tháp. Trước Lễ nửa đêm, có hoạt cảnh do các em Tông Đồ Thiếu Nhi đảm nhận. Mấy tay cán bộ Đảng, Công An, Mặt Trận ngồi đầy hai băng ghế trên cùng. Đa số là lơ láo nghênh ngang, chẳng ý thức mình đang ở một nơi tôn nghiêm, giữa các tín hữu trật tự và sốt sắng. Có anh ngồi vắt chân gác tay.

Lại có anh lấy thuốc lá ra phì phèo. Mọi người chung quanh ai cũng thấy nhưng giả lơ coi như không thấy. Tôi là dân ở xa về, bực quá chịu không nổi, tiến lại gần bảo thẳng: “Anh ơi, nếu anh muốn hút thuốc, xin mời ra ngoài sân !” Tôi nhận lại một ánh mắt trừng trừng, vừa ngạc nhiên rằng thì là “Ơ hay, tên này là ai mà dám ý kiến ý cò ?” lại vừa tức giận, ra cái điều “Ta là cán bộ, hét ra lửa, xì ra khói đây !” Nhưng cuối cùng có lẽ ánh mắt của tôi cũng vẫn kiên quyết, đủ mạnh để khuất phục, anh đảng viên ấy đành phải – lại thêm một hành vi thiếu văn hóa khác – bỏ mẩu thuốc xuống đất, dùng chân hậm hực giập tắt.

Xong lần đó, ngoài cái hả hê thắng lợi rất ư là… con nít ấy, tôi còn nghiệm ra một chuyện quan trọng: Đừng để cái sợ nó làm cho ta đâm hèn ! Đối với những người thiếu tôn trọng người khác, trước hết ta phải giúp cho họ biết tự trọng. Nếu ta chưa thể làm được điều ấy cho họ và nếu họ cứ dứt khoát không chịu tự trọng thì tốt hơn hết ta dẹp họ sang một bên cho khỏe, chứ sao lại cứ phải o bế, xun xoe, cầu cạnh và quỵ lụy trước cường quyền?

Nhiều Giáo Dân mách cho tôi nghe, họ được nhậu xong, về còn văng tục với nhau… Mấy hôm sau cha xứ có việc phải ra xã, ra huyện, cán bộ xàm xỡ vỗ đùi vỗ vai mà chớt nhả. Thử hỏi, trong cánh Giáo Dân, có tay bặm trợn nào dám cả gan “láo lếu” với cha xứ như thế không ?

Lần Giáng Sinh vừa rồi, một cha đi Tây Nguyên về, giận dữ kể cho tôi nghe: “Anh xem, trong khi cả một đám rất đông người dân tộc với tấm lòng thành tín tuyệt vời đang phải nhịn đói đi bộ từ xa về dự Lễ, thì cán bộ xã lại được cha xứ mời ăn nhậu hả hê linh đình. Em đã tránh đi một nơi cho đỡ chướng tai gai mắt, ông ấy còn bảo một anh dân tộc vào mời em ra nhậu chung cho vui, em bảo thẳng: Em không biết, không
quen, cũng không thích như thế nên dứt khoát không ra
!”

Kể ra, làm Linh Mục mà nhậu nhẹt đã là chuyện không hay, lại la cà lệt bệt nhậu nhẹt với Công An, với cán bộ Xã thì càng coi không được, gây cớ vấp phạm vô cùng, thậm chí là phản chứng Tin Mừng. Chẳng trách các Đại Chủng Viện và các Học Viện Dòng bây giờ nhấn rất mạnh chuyện nhậu nhẹt như một kỷ luật cần thiết trong việc đào tạo các Giáo Sĩ tương lai.

Phần riêng tôi, năm nay chương trình đi Di Linh và Đức Trọng bị bất ngờ hủy bỏ, đáng lẽ đành phải ngậm ngùi đón Lễ ở đất Sài-gòn sa hoa mà vô hồn, vào giờ chót, tôi lại được đi Mục Vụ tận Buôn Hằng, tỉnh Đaklak. Tạ ơn Chúa, khi về lại Sài-gòn đêm 25 tháng 12, tôi không có điều gì phải bực mình, ngược lại, có bao điều để khoe để kể với anh em. Tôi xin kể ra đây như là những mẩu chuyện vui bù lại những chuyện không vui vừa bàn đến ở trên, những tia sáng cao đẹp có khả năng đẩy lui bóng tối xấu xí tầm thường.

Cha Nguyễn Hùng Tiến xứ Buôn Hằng còn trẻ lắm, người thấp bé, khuôn mặt thông minh, tươi tỉnh và hiền hòa nữa! Cha gần gũi thương yêu đám đông hàng chục ngàn người dân tộc Sêđan nghèo tả tơi, cứ phải đói ăn thiếu mặc mà vẫn khao khát tình Chúa và tình người.

Đêm Vọng Giáng Sinh 24 tháng 12, khi đi kiệu Hài Nhi Giêsu quanh Nhà Thờ, trời đêm mưa bụi lất phất, gió rét căm căm, tôi được mời làm chủ tế đi ngay sau lưng cha, cứ thấy cha không ngớt quay sang hai bên bảo các bà mẹ dân tộc đang địu con sơ sinh vào tìm chỗ mà đứng dưới mái tôn hai bên hông Nhà Thờ cho đỡ ướt đỡ lạnh.

Đến cuối Thánh Lễ, thật bất ngờ, ngài dõng dạc dặn dò cộng đoàn: “Ngày mai 25 tháng 12 là Lễ lớn của đạo chúng ta, là ngày kiêng việc xác. Tôi đã dặn trước rồi, bây giờ tôi dặn lại anh chị em: ai có con em đi học, cứ làm đơn nộp ở trường, rồi cứ cho các em nghỉ học ở nhà, đi dự Thánh Lễ dành cho thiếu nhi. Ai hỏi gì, cứ nói là cha xứ bảo… Riêng các anh chị em là giáo viên, xin chịu khó đi dạy, chu toàn nhiệm vụ, vì các cháu học sinh không có đạo thì vẫn đi học như thường”.

Sáng hôm sau, khi dâng Thánh Lễ một mình trong buôn xong, trở ra hương lộ, xe chúng tôi gặp xe cha xứ Buôn Hằng đi làm Lễ ở một Giáo Điểm khác vừa về, các bạn trẻ Nhóm FIAT đi theo tôi đã vỗ tay reo hò hoan hô cha về mọi sự, trong đó có chuyện thông báo độc đáo nói trên. Tôi kể với ngài rằng trên đường xe chúng tôi ngang qua mấy ngôi trường tiểu học và trung học, đúng lúc ra chơi mà sân trường vắng hoe.

Tôi lại hỏi thăm cha là Giáo Phận Buôn Ma Thuột đã ra quyết định này từ bao giờ sau không thấy trên mạng đưa tin, cha xứ cười thật… xinh: “Thưa cha, không biết nơi khác thế nào, chứ ở đây, con tự nghĩ ra và làm luôn như thế cha ạ !” Cả xe lại được một chầu vỗ tay cực kỳ hết ý !

Vậy là tiếng chuông Đức Cha Kontum gióng lên trong Mùa Vọng vừa qua, đến Lễ Giáng Sinh đã được hưởng ứng, mạnh mẽ, can trường. Giá mà các nơi khác cũng…

Sài-gòn thứ bảy 27.12.2008

LM Lê Quang Uy, DCCT



Sống mà nhớ lấy (Nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy)

Sống mà nhớ lấy
Trần Khải Thanh Thuỷ
 (Lược ghi)
 
 Chưa bao giờ trong cuộc đời tôi gặp những sự kiện  vui mừng dồn dập đến vậy. Đầu tiên là sự xuất hiện của hai con người xa lạ, khác khí huyết giống nòi, từ chân trời xa lắc mà muôn vàn đáng quý, đáng yêu đó là ngài dân biểu Na Uy Piter Git Mark 30 tuổi và chị Võ thị Lạc Hồng, người làm công tác xã hội ở tiểu bang Victori a ở Úc
Dù trước đó đã nghe anh Nguyễn Hải (San- Jose) báo tin, sẽ có một người bạn đặc biệt đến thăm, tôi vẫn không lường trước tình huống này, một người vừa ra khỏi trại tù như tôi, còn mang nguyên vẹn dấu ấn của nhà tù xã hội chủ nghĩa , mắt mũi sưng húp, tím bầm,  một bên má còn 3 vết tay cào…Hoà nhập với cộng đồng còn vô cùng khó khăn. Cụ thể: Đêm ngủ không dám tắt đèn, ăn cơm vẫn quen dùng đồ nhựa, đi ngủ phải mắc màn, phủ kín báo cũ lên đầu màn cho dễ ngủ v.v Một kẻ ốm đau, bệnh hoạn vì bị xã hội cộng sản ruồng bỏ, bị đảng bóc lột đến tận xương tuỷ, không thể ở mãi trong ao tù, nước đọng được, phải trườn mình ra biển lớn và bị đảng chụp cho cái mũ phản động( phản lại những hoạt động làm kìm hãm sự phát triển đất nước của đảng cộng sản Việt Nam) làm "tay sai" cho lưu vong phản… đảng ở nước ngoài,  tìm đường sống cho dân tộc, biến tai ương dân tộc trong tay đảng cộng sản thành tương lai ngời sáng  của Việt Nam, khi tự do, dân chủ ùa vào mọi ngõ ngách của cuộc sống , mang lại sinh khí, luồng gió mới cho dân nước, cũng là ngày tàn của cộng sản, bạo chúa v.v
Ngay sau khi nghe chồng tôi bảo:- " Khách đến rồi đấy, em ra đi!"
Từ trong nhà nhìn ra, nhận ra chân dung của hai người khách lạ, tôi đã cuống cà kê. Niềm vui qúa độ hoặc nỗi đau qúa độ quả là không thích nghi với một người có trái tim vốn nhạy cảm, và đã bị tổn thương như tôi sau 9 tháng ở tù…Vì vậy, khi ngài dân biểu nghiêng đầu, giơ tay bắt, tôi thực sự cảm động, toàn thân nhão như bùn, tưởng chừng có thể khuỵu ngã đến nơi vì hai khớp gối đã luôn  trong tình trạng đau nhức, yếm thế
 Nhà chật, khắp bốn xung quanh là sách "ế" do bị phong toả tên tuổi tác phẩm, nên lần lượt 18 đầu sách đã xuất bản trong nước từ "Khát sống" đến "Băm mươi sáu cái nõn nường Xuân Hương", "Song hỉ lâm môn", "Vợ chồng như thớt với dao" v.v đều bị các nhà xuất bản, các đại lý lớn, nhỏ trên khắp 31 tỉnh thành cả nước gọi điện thoại đến, đòi thanh toán tiền, trả lại sách…Vì không đủ chỗ kê bàn ghế, nên tất cả đành ngồi bệt xuống chiếu rải dưới nền nhà. Thú thực tôi vô cùng ái ngại vì tiếp đón một vị dân biểu trẻ tuổi, sang trọng lại trong điều kiện qúa xoàng xĩnh, tạm bợ như thế này. Ngôi nhà còn đầy dấu ấn của sự "giáo dục" của đảng cộng sản dưới đường lối độc tài, đứng đầu là bè lũ bán nước Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Lê Hồng Anh( bộ trưởng Công an) thông qua lũ tay sai của chúng là tên Nguyễn Đức Nhanh (giám đốc sở công an Hà Nội) Nguyễn Bỉnh Khiêm (trưởng đồn công an phường Đức Giang) cùng bè lũ lâu la của chúng..Từ cửa sổ bị vá vài miếng, chiếcgiường bị sập liền mấy thang, vẫn bỏ không, chiếc  đài cát sét học tiếng pháp của con gái bị đập vỡ, cánh cửa gỗ ra vào bị xệ hẳn một bên xuống nền nhà v.v Như hiểu được sự ái ngại của tôi, ngài dân biểu bày tỏ:
– Tôi đã từng qua VêNuyria, Căm Pu Chia, Malaixia… tổng cộng 6 nước độc tài, chậm phát triển, từng bị trục xuất và phải ngồi tù, chỉ vì dám có hoạt  động qúa khích là vượt mặt cảnh sát đến thăm những người bày tỏ quan điểm chống đối như chị…
 Nghe được câu nói của vị dân biểu trẻ tuổi, nhìn ánh mắt, nụ cười, giọng nói, cử chỉ, thông qua sự gần gũi thân thiện của người phiên dịch là chị Lạc Hồng ( một cái tên rất thân thương gợi nhớ về cội nguồn , nòi giống) tôi mới thở phào ra một hơi nhẹ nhõm, và cố thở bình thường bằng …mũi (!)
 Theo như lời giới thiệu của ngài dân biểu, anh là một trong số những  đại biểu trẻ trong quốc hội Na Uy, tròn 30 tuổi, song đã có thâm niên 6 năm là đại biểu  quốc hội, còn tham gia cả trước khi lập gia đình. 25 tuổi lấy vợ, song cả hai vẫn xác định kế hoạch hoá gia đình để dồn toàn tâm toàn ý cho công việc.
 Suốt 3 tiếng đồng hồ, ngài dân biểu hồn nhiên nói, hồn nhiên kể và hết sức tự nhiên, hỏi chuyện hai vợ chồng tôi như thể chúng tôi đã có dịp quen biết ngài từ lâu lắm. Một không khí hết sức cởi mở, thông thoáng, vốn có ở những  người làm công tác xã hội, hiểu  biết nhiều, giao thiệp rộng .
 Bày tỏ về nguồn gốc xuất thân và lý do tham gia quốc hội của mình, ngài dân biểu bộc lộ:
– "Nhiều người hỏi: "Chắc mày giàu lắm nên mới dồn tiền để mua ghế ngồi?"
 Tôi đáp: "Đâu có, tao là sinh viên  nghèo mà".
– Thế thì nhà mày phải có nòi làm chính trị
– Không phải , Piter Git Mark trả lời: – Từ đời cụ tổ tao, ông bà nội ngoại , bố mẹ, anh, em, cả bên mình lẫn bên vợ, không ai theo đuổi con đường chính trị hết.
– Vậy tại sao mày chọn  con đường này?
– Vì tao muốn được bày tỏ quan điểm, thái độ lập trường với dân với nước chứ sao? Theo tao,  chính trị ở mọi nước là nơi để người dân nhìn vào yên tâm,  tin tưởng, gắn bó. Một người làm chính trị có lương tâm sẽ giúp được rất nhiều dân thường. Ở Na Uy,  chính trị đã ổn định từ hơn 100 năm nay, đất Na Uy tuy nhỏ, người Na Uy tuy ít (4,5 triệu người) nhưng tự do, dân chủ và mọi gía trị làm người đã được định hình từ bao nhiêu đời nay, như hơi thở, khí trời, cơm ăn, nước uống…Sở dĩ tao sang Việt Nam hoặc một số nước Châu Phi khác vì muốn các nước đó cũng có một nền dân chủ cởi mở, toàn diện như Na Uy.
Ngồi ngắm ngài dân biểu trẻ tuổi,  thực sự tôi thầm ghen tị khi so sánh địa vị, tuổi tác, công việc của tôi và Gitmark. Trẻ qúa, trẻ đến làm đau cả lá vàng . Trong khi, trong  độ tuổi này,  bất kỳ thanh niên nào ở Việt Nam mà dám bày tỏ quan điểm như Gitmark, hẳn đã bị nhà cầm quyền Việt Nam trần cho tơi tả, không bóc lịch 5 năm, 10 năm, hoặc lâu hơn nữa,  cũng là vài ba cuộc đấu tố, hàng chục cuộc dượt bắt  khắp đường phố thủ đô cùng các tỉnh lân cận, mỗi khi "đương sự " xuất hiện . Bao nhiêu công lao, tiền của của người dân đóng góp bị lũ công an dùng vào trò đánh đập,  rượt đuổi tàn nhẫn những con người qủa cảm, dám đứng lên đòi tự do tư tưởng cho đất nước…còn Piter đã kịp làm được nhiều điều vô cùng tốt đẹp cho dân, cho nước mình theo đúng đạo lý và văn minh Na Uy – vốn đã được  thiết lập và định hình  từ rất lâu
 Sau những phút tự bộc bạch về mình, Piter Git Mark  hỏi:
-Tại sao chị chấp nhận đi theo con đường này, chị không sợ bạo quyền cộng sản sao?
Tôi  trả lời như đã từng trả lời rất nhiều bạn bè tri âm tri kỷ trước đây:
– Tôi tuổi tý, mệnh canh, canh là canh cải, canh tân, đổi mới, tôi thích  một sự công bằng, văn minh, tự do, hội nhập, thích  tôn trọng các gía trị  cá nhân, ghét thói sùng tín trung cổ, sự lừa miếng của các nhà lãnh đạo cộng sản với dân tộc mình. Sống mãi trong giả dối, con người ta hoặc phải làm quen, hoặc phải bộc lộ thái độ, quan điểm của mình, tôi thuộcloại người thứ hai. Còn sợ ư? Tất nhiên là   sợ rồi , sợ đến mức phẫn nộ vì những kẻ dốt nát lại đòi  nắm quyền  hành,  chân lý trong tay, lại đại diện cho pháp luật của một nước. Chính vì phải chứng kiến qúa  nhiều những  cái nhún vai lắc đầu của các vị khách nước ngoài đến Việt Nam : "The country is no ruler" ( một đất nước không luật lệ") mà tôi quyết định phải vùng lên
 – Tại sao họ lại bắt một người  phụ nữ  tay không tấc sắt như chị?
– Vì chúng là độc tài, độc tài thì luôn cho mình cái quyền làm mọi thứ, kể cả việc bóp chết nền dân chủ non trẻ của nước nhà  trong tay, bóp chết sự thực, chân lý, bóp chết tương lai dân tộc. Tôi lại là người khắc tinh với chúng, tôi kinh hãi những gì trong bóng tối, tôi muốn vươn ra ngoài ánh sáng để được hưởng khí trời , ánh nắng. Tôi tự trang bị cho mình nhiều kiến thức về dân chủ, tự do đối lập với sự ù lì, trì trệ, ngu xuẩn của thể chế này, trong tôi là một sự vùng lên không ngừng của trí tuệ Việt Nam, còn bộ chính trị lại là sự lừa đảo không ngừng đối với dân tộc  Việt Nam. Kẻ dối trá luôn sợ những gì trung thực, thẳng thắn, vì thế khi thấy tôi vừa kịp có biểu hiện vùng lên( thông qua các bài viết), chúng đã tìm mọi cách để mua chuộc, phá đám, quấy dối, đe doạ và khủng bố, cuối cùng là lệnh bắt, hòng giam hãm trí tuệ tôi trong ngục tối
-Trong tù họ đối xử với chị ra sao?
-Không ra làm sao cả…Nội quy của cục V26- quy định chung cho tất cả các trại tù là :"Mỗi người được hưởng một diện tích tối thiểu 60cm, tối đa là 2m". Cho nên dù là đau ốm, tôi vẫn không thoát  khỏi quy định ngặt nghèo ấy. Hai chúng tôi bị nhốt chung trong một ngăn chuồng  chật hẹp, cả dài và rộng 4m2, bao gồm cả bệ nằm, bể phốt, bể nước và… chấm hết.
– Chị là tù chính trị, lại đau ốm họ có ưu tiên gì không?
– Tất nhiên, tôi mỉm cười cay đắng khi buộc phải nhớ lại những ngày trong nhà tù cộng sản- Tôi được "ưu tiên" ở gian ngoài cùng, sát nách với  qủan giáo, bảo vệ, phòng y tế, và  "đầu  não" trung tâm của trại tù .Họ bảo, để tôi ở  cạnh họ như vậy .. để đêm hôm, hễ tôi có mệnh hệ gì thì kịp…cấp cứu…Thực ra, ngay cả lúc nhốt tôi vào tù, họ vẫn ngăn không cho tư tưởng tôi ảnh hưởng tới các tù thường phạm khác. Gần lửa rát mặt, gần "trung ương" thì …chịu cứng, tôi không được quyền trò chuyện, hát hò, trao đổi, tâm tình gì với những người xung quanh. Ngay cả người ở cùng phòng, cũng là tai mắt của họ. Những người này dù trước, hoặc sau, già hay trẻ, luôn khuyên nhủ tôi phải từ bỏ con đường "làm giặc" quay về với chính nghĩa…nhân dân.Trong khi các ngăn chuồng bên trong .thì hễ bóng quản giáo đi qua là…vui như tết, người tù tha hồ cười, khóc,  tha hồ thủ thỉ, tâm sự ,chia sẻ với các ngăn chuồng bên cạnh…vì thế cùng là 24 tiếng , nhưng họ đếm thời gian nhanh hơn tôi. Ai ra khỏi tù cũng có cả kho chuyện tù, có thêm lô lốc các bạn tù, riêng tôi thì…cái đầu trống rỗng và đôi bàn tay không, không bị trầm cảm, uất kết là may lắm rồi
Còn chế độ ăn thì sao?  Piter Git Mark hỏi, đôi mắt xanh chăm chú nhìn xoáy vào từng mmilimet trên da mặt bì bì vì mắc bệnh phù thũng của tôi – căn bệnh mà bất cứ người tù Việt Nam nào cũng mắc phải sau vài tháng ở tù
– À – một thoáng ngần ngại lướt nhanh trong óc, tôi phân vân tự hỏi: – Có nên kể cho ngài dân biểu về tất cả những gì khủng khiếp nhất trong ngục tù mà tôi phải trải qua không nhỉ? Liệu ngài dân biểu trẻ có hình dung nổi sự dã man trong nhà tù cộng sản hay không? Cái mà họ bảo là "chu cấp" cho chúng tôi trong tù có đáng gọi là  thực phẩm , thức ăn không? Hay là một sự xúc phạm ngôn từ qúa lớn. Hình như chúa, khi sáng  tạo ra từ này, không nghĩ rằng loài người phải trải qua những cảm giác ghê sợ đến vậy- vì trong suy nghĩ của chúa, toàn là điều thiện nguyện, tốt lành. Người với người là bạn bè, bằng hữu, là yêu thương, che chở v.v đâu có cảnh người ăn thịt người, khủng bố người, đè nén, giam hãm một cách dã man, mọi rợ cả thân thể lẫn tinh thần  như thế này ?
Nhưng thôi, tôi lấy lại sự tự tin vì theo như những gì Piter Git Mark   nói, anh ta đã từng ở tù, dù chỉ là vài ngày… và là tù địa ngục, chứ không phải tù" thiên  đường" như tôi đã nhìn thấy các trại tù ở Đức, Mỹ, Pháp, Anh qua hệ thống Internet.
-Vâng, cũng theo quy định của cục v26- cục qủan lý trại giam của bộ công an trong cả nước, tiêu chuẩn tù nhân được 15 kg gạo, 15 kg rau, 15 kg củi, 3 lạng thịt , 5 lạng cá một tháng. Biết tôi là người có chữ nên quản giáo Nguyễn thị Ngọc Lan đã nói rõ cho tôi biết: Lũ tù nhân chúng tôi được hưởng tất cả …700.000 một tháng, gồm cả tiền phòng , tiền ăn, tiền phục vụ…
Khi tôi nói lại với người cùng buồng thì cả người trước lẫn người sau đều trừ đi 2/3, có nghĩa không đầy 300 nghìn đồng/ tháng. Cụ thể cơm chỉ độc rau muống , một tuần một lần được một lạng thịt bụng bèo nhèo cả mỡ lẫn lông, loại thịt mà chắc chắn ở ngoài đời, tôi không dám động đũa. Còn rau thì để tiết kiệm nhiên liệu, nhà bếp dặn tù tự giác không được đun qúa lửa… Vừa già, vừa rai nhoanh nhoách lại còn bị sống do thiếu lửa nên mỗi khi ăn là " miệng nhai, tai nghe".
 Tóm lại câu cửa miệng của tù khi nói về chế độ ăn của mình là " ăn cơm
cục, uống nước đục"…khắp các bức tường của trại giam, buồng nào cũng khắc hàng chữ:
Không ăn thì ốm, thì gầy
Ăn vào nước mắt chan đầy bát cơm
Mỗi lần đặt xong câu hỏi, tôi nhận thấy Piter lại nghiêng đầu về phía  chị Hồng, lắng tai nghe những  điều chị dịch lại đầy chăm chú.
– Trong tù điều chị sợ nhất là điều gì?
 – Đó là bữa ăn, tôi thản nhiên đáp không che giấu
Luồng ánh sáng từ đôi mắt biếc xanh, đẹp lạ lùng của Piter lập tức như  xoáy  vào mặt tôi
– Thật vậy, tôi nói rõ hơn để chị Hồng dịch, và Piter có thể cảm nhận được -: Suốt 9 tháng trong tù, không khi nào tôi ăn liền một mạch hết bữa như ở nhà. Dù đau ốm, lao phổi, tiểu đường, phải uống rất nhiều kháng sinh, nên lúc nào cũng đói, nhưng phần thì khẩu phần thức ăn qúa  đạm bạc, không nuốt nổi, phần vì cảm giác tủi nhục, cô quạnh bao bọc xung quanh. Bình thường người phương tây định nghĩa: "Bữa ăn là dấu nối kéo dài hạnh phúc tronng gia đình, giúp nối kết, tăng cường tình cảm giữa các thành viên  trong nhà. Từ ông, bà bố mẹ, con cái, vợ chồng. Vào tù tôi cố quên tất cả, gồng mình lên để chịu đựng, nhưng đến bữa ăn phải đối diện với sự thật,  tôi lại nhớ đến hình ảnh xum vầy quấn quýt của gia đình mình. Ngoài đời, tôi có hai cô con gái đang tuổi "chành troẹ" nên bữa ăn nào cũng  vừa cãi cọ , nhấm nhẳn, vừa trêu chọc nhau. Cả hai, một cháu học chuyên Anh, một cháu học chuyên Pháp, rất thích nói chuyện, nhưng không đủ vốn từ vựng nên cứ pha nửa Anh, nửa Pháp nửa Việt, nghe rất tức cười. Chồng tôi là người hìền lành, ít nói, nhưng tôi lại mắc bệnh thoáng hài, rất thích cù để cả nhà cùng cười, nên bữa ăn nào trong nhà tôi cũng  đầy ắp tiếng cười. Vì thế, khi còn lại một mình trong tù, trong cảnh đau ốm triền miên, trước khẩu phần ăn qúa đạm bạc, lại thêm rất nhiều phụ gia ( sạn, thóc, trấu, cứt gián, cứt chuột) phải nhớ về những  hình ảnh vui vầy quấn quýt đó, tôi thường giàn dụa nước mắt, thường nghẹn, ói đủ ba lần mới xong
 – Trong tù chị có bị mất ngủ không, vết tím dưới mi mắt chị là do bị đánh hay do mất ngủ?
 – Cả hai, vì cuộc sống của con người từ khi sinh ra đã được định hình rồi , ban ngày là của lao động, học hành, vui chơi, còn ban đêm là của suy tưởng…Ở nhà tôi vốn ít ngủ, thời gian tập trung chủ yếu vào việc sáng tác, đầu óc luôn cựa quậy bởi các ý tưởng. Vào tù, bị cấm dùng bút, khi ý nghĩ chạy lung tung khắp đầu ,không tìm cách nào để xổ ra, hay nhốt lại, nên tôi thường thả hồn đi hoang , nhiều khi lang thang rong ruổi hết kỷ niệm này đến kỷ niệm khác… Khi nào mệt lử, tâm hồn mắc lại ở một bụi cây, ven rừng, trang sách nào đó, mới thôi. Hơn nữa ở nhà trên  chăn, dưới  đệm quen rồi,  vào tù nằm trên  sàn xi măng giá lạnh, cứng quèo, bẩn thỉu, nhớ mẹ, nhớ các con, nhớ chồng, không sao ngủ nổi, lúc quằn quại như thân lau trong bão, lúc rên lên như con thú bị thương, nên đêm nào thiếp đi được vài tiếng là may lắm rồi .. Chính vì thế mà thường đau ê ẩm cả một mảng đầu. Tương lai không tránh khỏi của tôi sẽ là bệnh nhũn não, chảy máu chất xám, tai biến mạch máu não v.v
Thoáng nét ái ngại trong ánh mắt của Piter, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn,
tiếng nói là hơi thở của tâm hồn, vì thế cả ánh nhìn cũng như tiếng nói của Piter dường như trầm hẳn lại:
– Chị có được chăm sóc về chế độ thuốc thang không?
– Không, tôi khẳng định, giọng chắc nịch. họ không bỏ thuốc độc cho tôi chết dần chết mòn như luật sư Bùi Kim Thành là may rồi, làm sao có chuyện nhà tù cộng sản có chế độ chăm sóc  thuốc thang cho phạm nhân? Đến người bệnh ở ngoài đời còn không có tiền mua thuốc nữa là những thân phận tù đầy, cùng quẫn chúng tôi. Có đau ốm cũng  chỉ vài viên thuốc rẻ tiền của trại, cấp phát theo kiểu bố thí  
Thoáng phân vân trong ánh nhìn của Piter, khi một nét nhăn sâu bất ngờ hiện ra nơi vầng trán…Chồng tôi ân cần đặt chén rượu vào tay Piter,  rồi  ý tứ để tôi   nói tiếp cho tròn mạch nghĩ
– Nhưng dù sao tôi cũng may mắn hơn các bạn tù khác vì trước khi bị bắt tôi đã có hồ sơ bệnh án rồi, nên công an chỉ đạo trại cho phép tôi được nhận thuốc từ nhà vào, vì thế tôi đã không đổ bệnh trong tù. Tuy nhiên họ quản lý thuốc bằng cách "trấn lột" lại tất cả các loại thuốc (do tôi đem từ nhà đến hoặc nhận của gia đình) để cấp phát hàng ngày. Thường 2 hay 3 ngày  một lần, đủ các loại, từ đại tràng, hoạt huyết dưỡng não, lao phổi, tiểu đường. Nếu hôm nào rơi vào ngày nghỉ cuối tuần hoặc cán bộ y tế đi đám cưới, đám tang, đưa bệnh nhân đi trại mới v.v mà chưa kịp bàn giao cho người khác, là tôi   rơi vào tình  trạng  đói thuốc
– Tình trạng sức khoẻ của chị có vẻ kém, da xanh, tích nước, biểu hiện chậm chạp, mệt mỏi. Chị phải nói bác sĩ riêng lên kế hoạch điều trị bệnh cho chị phù hợp, sát sao hơn
 -Vâng, tôi đáp cố giấu một nét cười ý nhị, Piter là người Na uy, nơi chất lượng công dân cao, từ tư tưởng, tinh thần,  sức khoẻ đều được đề cao,  tôn trọng , việc có bác sĩ riêng là điều hoàn toàn hợp lý, còn ở Việt Nam , nơi bóng  tối độc tài phủ chụp 73 năm như thế này, chất lượng công dân vô cùng thấp kém, một bác sĩ bòn rút tiền của,  xương tuỷ của cả triệu người dân, lấy đâu ra bác sĩ riêng?
Sáp tới chị định như thế nào? Có tiếp tục tranh đấu nữa không? Pi ter đặt câu hỏi:
– Tất nhiên, tôi trả lời, lẩm nhẩm nhại cụm từ quen thuộc  trong bài hát " bác vẫn cùng chúng cháu  hành quân : "Còn sống còn chiến đấu, quét sạch nhũng tham, dù chết cũng  chẳng buông lơi, chiến đấu cho đến ngày thân xác mệt tả tơi "
Tiếng máy điện thoại cắt ngang , Pi ter nhấc điện thoại, trả lời phỏng vấn của phóng viên đài chân trời mới
– Có, trong tù chị ấy bị bạn tù  đánh, hiện một bên mắt phải vẫn còn bầm tím, má bên trái còn 3 vết móng tay cào, trước khi vào tù, chị bị ấy bị một người công an tên là Lê Phương dùng giày  đá rất mạnh vào cổ chân, hiện  vẫn còn vết  sẹo …
 Ngồi bên, chị Hồng làm nhiệm vụ phiên dịch, và dịch lại cho tôi nghe những  gì Piter nói về ý nghĩa, mục đích của chuyến đi xuyên Việt lần này…cuối cùng Piter kết luận :
– Tôi sẽ đưa toàn bộ những  gì nhìn thấy trong chuyến đi này ra đề cập trong quốc hội Na uy. Chính quyền Việt Nam qủa là có vấn đề lớn về mặt nhân quyền, liên tục bắt người vô tội, không cho họ có chế độ chăm sóc hợp lý , không bảo vệ cuộc sống của họ trong bóng  tối  ngục tù,  mà ngược lại còn tiếp tay cho những  kẻ ác,  kẻ xấu, chèn ép họ ngay cả trong tù
 Cũng  giống như Piter, ngồi bên cạnh tôi, chị Hồng liên tục nhận điện thoại từ bên kia bờ biển gọi về. Qua cách nói chuyện của chị và qua việc chị cùng Piter lặn lội cả nửa vòng trái đất để tìm đến  mảnh đất độc tài, nghèo nàn, lạnh lẽo của Việt Nam , thăm thân nhân các nhà dân chủ bị bắt để tìm hiểu tình hình họ trong tù , trong đó có tôi, một kẻ may mắn ra khỏi tù nhờ sự vận động của cộng đồng hải ngoại và tổ chức mình, tôi cảm nhận cuộc đời mình đang trong bước ngoặt quan trọng, tôi đã đến gần hơn lý tưởng mà mình lựa chọn. Bao nhiêu năm qua, cả thời kỳ còn đồng hành với các nhà dân chủ trong bóng tối cũng  như khi ra công khai, tôi đã lăn xả quyết liệt, dám chấp nhận cuộc chơi, chấp nhận đau thương để đến hôm nay ủ được nụ cười…

Trần Khải Thanh Thủy, Piter Git Mark và chị Võ Thị Hồng

   Từng trải nghiêm nỗi đau tù ngục, nên tôi biết: Dân chủ là con đường gian nan vất vả, với dân tộc Việt Nam thì con đường tự do, dân chủ còn gian nan gấp bội phần . Đã có hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn, hàng triệu linh mục, kỹ sư, luật sư , nhà văn, nhà báo, nhà giáo, viện sĩ, dân oan  bị bắt, rồi đây sẽ tiếp tục còn phải hy sinh thêm bao nhiêu nữa? Chờ đợi bao nhiêu ngày nữa để có được thắng lợi trọn vẹn cho cuộc cách mạng này? Dân tộc Việt Nam sẽ còn nhọc nhằn vất vả, nhưng những người bạn như chị Lạc Hồng, những vị dân biểu trẻ tuổi và quả cảm như Piter Git Mark ở bên cạnh  thì nhất định lớp trẻ Việt Nam sẽ vượt lên để tìm lại con đường tự do dân chủ cho nước nhà, cũng là làm lại cuộc cách mạng để giải phóng cho chính mình và  tương lai con cháu sau này…

            Hà Nội, ngày  7-2-2008
Viết lại : 15-11- 2008
Trần Khải Thanh Thuỷ  



Xin cho chúng con hằng ngày… thất nghiệp (LM Lê Quang Uy)

Xin cho chúng con hằng ngày… thất nghiệp
VietCatholic News (23 Mar 2009 21:24)
Xin thưa ngay là chúng tôi, nhiều bạn trẻ, nhiều anh chị em tông đồ trung niên, cả nhiều Linh Mục và Nữ Tu chúng tôi vẫn thầm cầu nguyện hoặc cầu nguyện chung với nhau bằng Kinh Lạy Cha đúng thật là vậy: “Xin cho chúng con hằng ngày… thất nghiệp”.

                   

Ơ, sao lại thế ? Chuyện gì lạ vậy ?

Cũng cần nhắc lại là cách nay khoảng ba chục năm ngược về trước, Kinh Lạy Cha của chúng ta được đọc trong cả thế kỷ là: “Xin Cha cho chúng con hằng ngày dùng đủ…” chứ không phải đọc như bây giờ là: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày…” ( dịch từ bản Latinh: “Panem nostrum quotidianum da nobis hodie” ). “Lương thực hằng ngày” là kiểu nói không ra Tây mà lại hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ bình thường của người Việt Nam. Ngẫm nghĩ thấy con cái trong gia đình chúng ta nó hay níu áo ba nó mà kêu: “Bố ơi, cho con xin chiếc bánh…”; “Bố ơi, cho con xin bát cơm…” chứ ai lại văn chương kềnh càng đến mức: “Cha ơi, cho con xin lương thực…”

Nhưng thôi, chúng tôi không có ý viết bài này để phân tích, phê bình và tranh luận về các bản dịch Kinh Lạy Cha, nhưng chúng tôi muốn nhắm đến chuyện khác, cũng là xin, xin với Chúa là Cha, và xin một điều cũng hết sức thiết thực như xin cơm ăn áo mặc hằng ngày. Đó là chuyện Bảo Vệ Sự Sống !

Chúng tôi muốn nói đến một nghề mới hình thành ở Việt Nam cách đây không lâu, khoảng 17 năm nếu tính Huế là nơi ra đời Nhóm Bảo Vệ Sự Sống đầu tiên. Gọi tạm là nghề vậy thôi, chứ nghề gì mà không ăn lương, nghề gì mà không cần huấn luyện và đào tạo, nghề gì mà chẳng thấy ghi trong Tự Điển Bách Khoa Nghề Nghiệp ?

Tuy nhiên vẫn có thể gọi đây là nghề, vì người làm nghề này cần phải trung thành làm một công việc đều đặn mỗi ngày, đúng giờ, đúng nơi, đúng chỗ, lại phải thinh lặng mà làm, không bô lô ba la ồn ào. Nghề này, xét ra, gặp rất nhiều rủi ro, có thể bị ngộ nhận, bị gây khó dễ, lại có thể bị nhiễm độc mà chẳng cơ quan nào chịu trả phụ cấp độc hại và bồi thường bằng bảo hiểm y tế !

Vâng, ấy là “nghề” đi góp nhặt và quy tập các… thai nhi bị giết mỗi ngày tại các điểm phá thai, y tế công cũng như phòng mạch tư.

Các địa chỉ “sát sinh” này bây giờ ngày càng tăng, nhiều lắm, ở cấp thành phố đương nhiên là nhan nhản, có khi tập trung thành cả dãy phố như ở Hà Nội, có khi được thông tin giới thiệu công khai như ở Sài-gòn, có khi treo bảng to đùng ngoài cổng như ở các tỉnh. Xuống đến cấp huyện, cấp quận, cả đến cấp xã, cấp phường cũng có, núp bóng trạm xá. Dưới đồng bằng và duyên hải cũng có, mà cũng có cả trên cao nguyên. Và đừng quên các loại phòng khám, phòng mạch các bác sĩ và cả bọn… lang băm !

Các địa chỉ “Văn Hóa Sự Chết” ấy cứ mọc lên, hoạt động một thời gian là y như rằng cũng hình thành luôn nghề đi thu gom xác thai nhi để đem về lo hậu sự, tẩm liệm rồi chôn cất hoặc đem thiêu rồi táng vào một nơi như một cái lăng, một nghĩa trang, một “Đất Thánh” hẳn hoi. Nghĩa tử – nghĩa tận !

Nhưng tại sao lại “xin cho chúng con hằng ngày… thất nghiệp” ? Ai làm nghề gì thì cũng mong có công ăn việc làm, buôn may bán đắt, nhất là cầu sao cho có việc làm đều đặn, cứ tăng trưởng dần dần để thu nhập ngày càng nhiều hơn. Chứ ai lại đi cầu nguyện sao cho… sớm được thất nghiệp bao giờ ? Vậy mà, với nghề nhặt xác các em bé bị giết thì mọi sự đảo ngược, lộn nhào.

Có hôm một bạn giáo viên sau khi từ trường về, ghé đến bệnh viện, âm thầm kín đáo xách lấy chiếc túi nylon màu đen rồi đem về Góc Xót Thương ở cuối hành lang Trung Tâm Mục Vụ DCCT Sài-gòn. Xong xuôi bạn ấy ghé vào văn phòng. Bạn ấy ngồi xụp xuống ghế, dáng vẻ mệt mỏi, rũ rượi, khuôn mặt buồn xo, xin một cốc nước lọc rồi buột miệng than thở: “Hôm nay con buồn quá bố ơi, các em bị phá nhiều quá, có lẽ cả túi phải đến 3 ký với hàng trăm em…” Hôm khác, cũng bạn ấy, đẩy cửa vào là reo to vui vẻ: “Hôm nay con mừng quá bố ơi, chỉ có vỏn vẹn 5 cháu !”

Lại có chuyện một bạn trẻ của chúng tôi tối nào lúc 20g30, mưa gió hay không, cũng đều về Nhà Dòng chúng tôi để thu tập toàn bộ các túi nylon đựng thai đã được các anh chị em khác góp nhặt từ nhiều địa chỉ phá thai nội ngoại thành Sài-gòn. Em ấy lom khom ở góc Xót Thương, bỏ tất cả vào một cái balô to, ôm trên tay xuống lầu, cặm cụi một người một xe gắn máy đem về cho một thầy DCCT chúng tôi sẽ lo hậu sự vào nửa đêm.

Công việc tận tụy suốt mấy 4, 5 năm nay rồi, bỗng một hôm vô tình trên đường về, bạn gái ấy gặp một tu huynh trẻ. Thầy ấy hỏi thăm đi đâu, làm gì, chở cái bọc chi mà to thế ? Cô bé trả lời: Dạ thưa thầy xác các bé thai nhi ạ. Ông thầy cười ồ lên vẻ chế nhạo: Ơ sao mày ngu thế ? Người ta ăn ốc, mình lại đi đổ vỏ ! Chỉ một câu thế thôi, cô bé sụp đổ, khủng hoảng hoàn toàn ! Nghe bố mẹ em thuật lại, chúng tôi giận lắm, định đi tìm cái anh tu huynh một Dòng nào đấy để “xử lý” chứ không thì tức lắm. Không ngờ cô bé đã vượt qua được cơn sốc ấy rồi, thôi không muốn to chuyện làm gì. Chúng tôi ra về, ngẫm nghĩ: Ừ, tộ
i nghiệp cô bé, tội nghiệp cả nhóm các anh chị Tông Đồ Giáo Dân nữa, cái nghề chi mà kỳ cục thật ! Mong sao có ngày nào đó thôi không còn phải làm như thế này nữa. Thất nghiệp là mừng !

Mới đây, trên đường từ Nam Định về lại Hà Nội để bay vào Nam, chúng tôi được ghé vào một xã thuôc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, thăm một nghĩa trang anh Hài mới hình thành chỉ vỏn vẹn 40 ngày thôi mà nơi đây đã chôn cất được hơn 200 thai nhi. Một nhóm các anh chị lo thu nhặt tại thành phố, chuyển dần về vùng nông thôn này, cách xa mấy chục cây số đường nhựa và thêm 4, 5 cây đường đất đá đầy ổ gà. Đến phiên các anh chị ở đây xúm lại lo tẩm liệm chôn cất thật ân cần chu đáo, cứ như đang lo hậu sự cho chính một thi hài người thân trong gia đình mình.

Khi cùng nhau đứng bên ngôi mộ tập thể các thai nhi, tự nhiên chúng tôi bật lên lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, thật lòng anh chị em chúng con làm cái nghề BVSS này ai cũng mong rồi đến lúc chúng con được… thất nghiệp. Bao giờ thưa Chúa ?”

Mà thôi, chắc cái ngày ấy còn xa. Trước mắt, cứ xin cho riêng việc nhặt xác thai nhi mỗi ngày được giảm dần số lượng chứ đừng có tăng lên. Thỉnh thoảng mà lại có ngày đi về tay không, thì coi như ngày ấy thất nghiệp, mừng mừng tủi tủi vì bớt đi được một số cháu bé nào đó không bị giết !

Chuyến đi miền Bắc giảng Đại Phúc lần này, ngoài tin tỉnh Nam Định đã có được Nghĩa Trang Anh Hài từ ngày 10 tháng 2 năm nay, chúng tôi còn biết một Nghĩa Trang khác vùng quê nghèo tỉnh Thái Nguyên cũng vừa mới hình thành vào Chúa Nhật 15 tháng 3 vừa qua. Đến khi vừa trở vào Nam hôm 20 tháng 3, các bạn trẻ Nhóm Fiat đến hẹn với chúng tôi đến Chúa Nhật 19 tháng 3 này về một tỉnh miền biển để dâng Lễ “khánh thành” một ngôi mộ tập thể của các cháu.

Trời ơi, vui buồn lẫn lộn. Mà buồn có lẽ nhiều hơn !

“Lạy Cha chúng con ở trên Trời… Xin Cha cho chúng con hằng ngày thất nghiệp… Amen !”

Lm. Lê Quang Uy, DCCT



Tác dụng Đoàn Kết Toàn Dân chung quanh vụ Bauxite Tây Nguyên

 

Tác dụng Đoàn Kết Toàn Dân chung quanh vụ Bauxite Tây Nguyên
VietCatholic News (28 May 2009 18:45)
Càng ngày người ta càng chứng kiến con đường tiến tới đốn mạt cho chế độ CSVN và những tác dụng có thể là bất ngờ đối với ít nhất ba thanh phần cơ bản trong cộng đồng Việt Nam.

1. Quân Đội Quốc Gia Chỉ Phục Vụ Đất Nước Và Nhân Dân

Lời kêu gọi ba lần yêu cầu CSVN ngưng mọi hình thức khai thác bauxite Tây Nuyên của Đại Tường Võ Nguyên Giáp: Một sứ mệnh nghiêm chỉnh duy nhất của quân đội là phục vụ đất nước

Không đợi mà gặp. Lời kêu gọi khẩn thiết đến lẩn thứ ba, yêu cầu CSVN ngưng cuộc khai thác bauxite Tây nguyên hiện tại đã biều thị cho ý chí của quân đội Việt Nam. Quân đội đó là quân đội phục vụ lợi ích quốc gia, chứ không thể trung với Đảng mà quên phận sự bảo vệ đất nước. Tuyên bố của Đại Tường Võ Nguyên Giáp đã thức tỉnh quân đội Việt Nam đi theo những gì là chính đáng cho quyền lợi dân tộc quốc gia, chứ không theo quyết định của một số người lãnh đạo thiển cận, chỉ biết nhận tiền đút lót và ban bố một số quyền lợi cá nhân mà quên nghĩa lớn của Tây Nguyên.

2. Quốc Hội Đòi Thực Thi Quyền Đại Diện Nhân Dân

Tranh luận ngày càng thẳng thắn của quốc hội: Nhân dân phải thi hành quyền làm chủ thực sự, không phải làm đầy tớ cho Đáng, Viên chức và Bộ đội mãi.

Vụ bauxit Tây Nguyên ngày càng làm cho những đại biểu quốc hội thấy rõ hơn vai trò bù nhìn của mình từ trước đến nay. Đại biểu quốc hội phân tích những cách tiến hành quyết định có sai trái, khuất tất mờ ám của Bộ Chính Trị Đảng CSVN, và nhân đó cho thấy rất nhiều chuyện đã được quyết định man trá ích kỷ, nhân danh “bí mật quốc phòng hay quốc gia. Đại biểu quốc hội can đảm vạch trần những âm mưu đen tối của Đảng CSVN và điều đó khiến cho cử tri, là những người dân thường, không có gì phải sợ Đảng CSVN, vì Đảng ấy nói dối và lừa gạt nhân dân, chứ không phải do dân, vì dân và cho dân. Từ nay Quốc Hội phải là một thứ Đại Hội Diên Hồng trước nguy cơ mất nước, trước đe dọa hiển nhiên từ Biển Đông và Tây Nguyên của Trung quốc.

Nhân dân đến nay mới thực sự đòi quyền làm chủ của mình, còn Đảng, Quân đội, Công an vẫn chỉ đòi làm cha mẹ nhân dân, và ăn trên ngồi trước nhân dân.

3. Bauxit Tây Nguyên: Mẫu Số Chung Đoàn Kết Toàn Dân

Bauxit Tây Nguyên nâng cao tình đoàn kết của nhân dân rộng lớn hơn bao giờ hết: Nguy cơ dẫn đến sụp đổ chế độ CSVN ngày càng hiển nhiên.

Chưa bao giờ, bauxit Tây Nguyên lại là một mẫu số đoàn kết toàn dân trong và ngoài nước lớn lao như hiện nay. Hiện tượng ấy chỉ báo hiệu ngày tàn của chế độ CSVN, như Công Đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan dẫn khối CSLX và ĐA đến sụp đổ.

Bauxit Tây Nguyên chứng tỏ sự ngoan cố của CSVN trước công luận từ nhiều tầng lớp dân chúng trong nước và trên thế giới. Ngoan cố ấy giống như thái độ hống hách ương ngạnh của Eric Honecker của Đông Đức ngay trước khi chế độ ĐĐ sụp đổ.

Nếu Việt Nam có một tập thể lãnh đạo có uy tín, thì lãnh đạo đó có thể nhân cơ hội này, qui tụ toàn dân vào một mặt trận, xô đẩy chế độ CSVN phải té ngã, như toàn khối Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ cách đây 20 năm.

Khi đã đến lúc sụp đổ, dù CSVN có biết và cố ngăn ngừa, nhất là sợ hãi phong trào “Diễn Biến Hòa Bình”, thì điều gì phải đến sẽ đến, mà CSVN không chống đỡ nổi.

Nếu đã có sự tan rã của VNCH vào biến cố 30/4/1975, thì nhân dân Việt Nam cũng sẽ chứng kiến một biến cố tương tự xảy đến cho nước CHXHCNVN tham ô tràn lan như hiện nay.

Oakland, CA Thu, May 28, 2009

Đỗ Hữu Nghiêm



Ngày Quân Lực VNCH ở Orlando, Florida (Tuyết Mai)

Ngày Quân Lực VNCH ở Orlando, Florida

Orlando, Fl. – Hội Cựu Quân Nhân Trung Tâm Florida đã tưng bừng tổ chức Ngày Quân Lực VNCH vào  lúc 7 giờ chiều ngày 4 Tháng 7, 2009 tại Orlando, Florida. Hội không có nhiều cựu quân nhân như ở California, Houston, Texas; Hoa Thịnh Đốn,..nhưng tinh thần của các anh em ở đây rất cao và rất đoàn kết.  Hội phải đợi  đến Lễ Độc Lập mới tổ chức Ngày Quân Lực VNCH để nhiều anh  em ở xa, vùng phụ cận có thể về tham dự.  Vào mùa Xuân vừa qua Hội cũng đã tổ chức Hội Chợ Xuân Quân Đội trưng bày các chiến xa, phi cơ, tàu bè và quân trang quân dụng được dùng trong Quân Đội VNCH trước năm 1975 và trong dịp đó , Hội cũng tổ chức chương trình “Hát Về Anh” gây quỹ giúp thuơng phế binh VNCH còn ở quê nhà, rất thành công.

Hiện diện trong Ngày Quân Lực này có khoảng bốn trăm cựu quân nhân và quân khách, trong đó có Cựu Thiếu Tướng Phan Hòa Hiệp, Ông Lưu Tươi, Chủ tịch Cộng Đồng Orlando, Florida và hầu hết đại diện các  quân binh chủng Hải Lục Không Quân, Võ Bị Đà Lạt,  Thủ Đức, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Lực Lượng Đặc Biệt … ở vùng n ày. Có rất nhiều cựu  quân nhân mặc quân phục màu sắc rạng rỡ,  không khí đông vui, nhộn nhịp,  hình ảnh oai hùng của các anh chiến binh gợi nhớ những đêm liên hoan mừng chiến thắng thật tưng bừng ở quê nhà năm nào.

Trên sân khấu có dựng Đài Tử Sĩ và hình huy hiệu QLVNCH với cờ vàng và người lính chiến thật đẹp. Lễ chào cờ của Hội Cựu Quân Nhân Trung Tâm Florida luôn được cử hành vô cùng trang trọng với toán quốc quân kỳ hùng dũng tiến về lễ đài theo quân nhạc.  Quốc ca VN đựơc Đoàn Hưng Ca  Florida đồng ca rất sống động, hùng tráng. Theo sau là lễ đặt vòng hoa hình  cờ vàng ba sọc đỏ lên đài Tử sĩ và lễ truy điệu những anh hùng liệt nữ vị quốc vong thân,  rất trang nghiêm và cảm động.

Mở đầu Ông Võ Hồng, Chủ Tịch Hội Cựu Quân Nhân Trung Tâm Florida và Phụ Cận có lời chào mừng quan khách. Ông nhắc lại Ngày Quân Lực VNCH được khởi đầu cách đây  bốn mươi bốn năm ở Miền Nam thân yêu, nơi mà chế độ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam  nối  tiếp truyền thống dựng nước và giữ nứơc của tiền nhân, đã mang lại sự tự do và an cư lạc nghiệp cho Miền Nam. Hằng năm chúng  ta cử hành lễ kỷ niệm ngày Quân Lực để cùng với đồng bào thành kính ghi ơn những anh hùng liệt nữ đã vị quồc vong thân.

Từ nhiều năm nay Ngày Quân Lực không chỉ là ngày lễ của những người lính có quân phục, có vũ trang, mà ngày Quân Lực đã trở thành một ngày lễ kỷ niệm chung, kết hợp  quân dân  khằp mọi nơi của người Việt Quốc Gia.  

Kế đến Ông Lưu Tươi, Chủ Tịch CĐVN Orlando được mời lên phát biểu. Ông Tươi nói, Quân Lực VNCH là một quân đội hùng mạnh ở Đông Nam Á, nhưng vì lý do chiến lược đồng minh đã phản bội, bức tử QLVNCH vào ngày 30 Tháng Tư , 1975. Chúng ta tạm thời ngưng cầm súng, nhưng tất cả chúng ta ở hải ngoại và  đồng bào trong  nước luôn  hy vọng ngày mai sẽ lật đỗ được chế độ CS. Chính vì lý do đó mà chúng ta,  không riêng gì ở Hoa Kỳ mà cả trên toàn thế giới, cờ vàng vẫn còn tung bay phất phới.  Bất cứ nơi nào có người Việt Quốc Gia sinh sống, nơi đó có bóng cờ vàng.  Chúng ta hãy tận dụng tài lực và nhân lực để hỗ trợ nhân dân trong nứơc, dân tộc của chúng ta sẽ có ngày vinh quang, tự do thật sự.

Cựu Thiếu Tướng Phan Hòa Hiệp dùng bài viết trong Báo Trẻ ở Florida để nói lên tâm tình  của mình  đối với Quân Lực VNCH. Cựu Thiếu tướng Phan Hòa Hiệp đọc…sau ba mươi bốn năm, những người lính đã hy sinh, thân xác đã mục nát cùng cỏ cây, những nấm mồ đã hoang phế, gạch mẻ, bia xiêu. Người  còn sống vất vưởng lưu lạc xứ người, luôn giữ những hoài niệm đẹp đẽ về cuộc chiến ấy. Ngày 19 Tháng 6 luôn là một ngày kỷ niệm đẹp. Khi Tổ Quốc đang đứng trên đầu sóng ngọn gió, chiến sĩ VNCH đã hãnh diện đứng ra nhận lãnh trọng trách , lèo lái con thuyền quốc gia,  bảo vệ an ninh và hạnh phúc cho đồng bào Miền Nam VN.

Quân  lực VNCH không còn nữa, không còn  trên lãnh thổ của Miền Nam nước Việt, không còn trên những chiến trường dầu sôi lửa  bỏng, không còn trên những núi rừng thâm u, không còn trên những xóm làng nương rẫy, và không còn trên thành đô thị trấn,  nhưng thật sự họ vẫn còn trong tim của bao triệu người dân Miền Nâm.  (Hoàng Định Nam).

Đặc biệt trong buổi lễ kỷ niệm Ngày QLVNCH ở Orlando, Florida  có cuộc phát thưởng  thi viết về  Tiền Tuyến và Hậu Phương. Theo sau là phần văn nghệ hát về lính với hoạt cảnh  Tình Thư Của Lính, Biển Mặn…đặc biệt có  những bản hợp ca của các quân binh chủng, như Hải Quân Hành Khúc do các chiến sĩ Hải Quân trong quân phục Hải Quân trình diễn. Các cựu  quân nhân Lục Quân  hát Lục Quân VN và Xuất quân. Các chiến sĩ Không Quân hát Không Quân Hành Khúc. Tuyết Mai , góp mặt chương trình với tư cách là một Nữ Quân Nhân, ngành Xã Hội, trình bày nhạc phẩm “Anh Đi Chiến Dịch”. Xuất sắc nhất là ban vũ Lovely Sirens trong vũ khúc “Tình Lính”.

Chương trình văn nghệ thật dài, được chuẫn bị rất cẩn thận, tập dợt công phu, rất hay. Với tài giới thiệu của MC  Nguyễn Quang Trúc chương trình càng thêm phần sinh động, đã thu hút khán thính giả theo giỏi, thưởng thức cho đến màn cuối. Theo sau là phần khiêu vũ cũng rất vui tươi, hấp dẫn . Chương trình được  chấm dứt lúc nửa đêm. Mọi người ra về trong niềm vui chứa chan , vô cùng phấn khởi.  Không có một quồc gia nào, một dân tộc nào, đã mất nước, đã lưu vong ở hải ngoại hơn ba mưoi bốn năm mà vẫn còn tha thiết với màu cờ, sắc áo như người dân VNCH hiện nay. Hy vọng một ngày không xa chúng ta sẽ trang trọng cử hành ngày Lể Độc Lập,  ngày Quân Lực VNCH trên quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta.

 

Hình ảnh Ngày Quân Lực VNCH ở Florida www.youtube.com/tuyetmai45

Tuyết Mai




Những Bức Tranh Thật Tại Việt Nam.


Những Bức Tranh Thật Tại Việt Nam.

                                                                             
                                                                             Ngày hôm nay – ngày Chủ Nhật, tâm trạng tôi thật sự nặng nề và bế tắc?!! Ko như những gì tôi nghe, ko giống những gì tôi nghĩ, và rất khác những gì tôi tưởng tượng… chính tôi đã đi gặp bà.

Bà ở trong một con hẻm nhỏ, ghập ghềnh và chật hẹp đến nỗi tôi chỉ có thể để xe ở ngoài mà đi bộ vào. Nơi đó ko fải là 1 căn nhà, mà trông như 1 cái chòi xiêu vẹo được chắp vá.

Một bà cụ nhỏ thó, lưng còng và ốm yếu bước ra. Tôi khóc. Ko thể nói được lời nào. Cứ thế, tôi chỉ khóc.

Các bức vách của căn nhà còn nguyên vết tích của gạch vữa, vậy mà hàng tháng nơi ấy móc túi của bà tận 500 ngàn. Bà bảo chúng tôi lên căn gác nhỏ của bà để xem nơi bà ngủ. Chiếc cầu thang gỗ ko tay vịn, với cặp mắt mờ và đôi chân yếu, bà tựa lưng vào tường và cứ thế bước lên, bước xuống. Ngay cả tôi còn ko đảm bảo cho sự an toàn của mình khi bước lên trên những mảnh gỗ ấy.

Căn gác nhỏ, ọp ẹp, hớ hênh và tạm bợ. Tôi đã bắt đầu quen với việc chế ngự cảm xúc, vậy mà đôi khi mắt vẫn cay cay vội vàng nhìn qua hướng khác.

Ko trò chuyện được lâu, vì bà phải đi bán lúc 13h. Vậy đó, ngày này qua ngày khác, bà ra khỏi nhà lúc 13h trưa và trở về khi đã 23h đêm. Sống với gió, với nắng, với mưa ngần ấy năm trời nên sức khỏe của bà bây giờ cũng mong manh lắm. Nhưng bà chỉ mong cái lưng hết nhức, cái chân hết đau, để bà còn đi bán kiếm tiền nuôi những đứa cháu.

Chia tay bà, tôi về nhà trong nỗi băn khoăn nghẹn ngào.

20h, tôi tìm đến chỗ bà bán. Bà quá nhỏ bé lặng lẽ trước sự ồn ào xô bồ của phố xá và con người nơi đây. Tôi thấy một vài bạn trai ngồi xung quanh bà. Họ chỉ lặng lẽ nhìn cho đến khi tôi xuất hiện. Tôi đã vui hơn khi được gặp bà và tưởng như đã chế ngự được cái cảm xúc trẻ con ban sáng. Nhưng… chỉ nói được câu thứ 2 tôi lại khóc. Anh thanh niên ấy lặng lẽ nhìn tôi.

Chúng tôi nhìn nhau và cùng nhìn bà. Hỏi thăm anh mới biết, cũng nhờ một vài bài viết nào đó trên blog mà anh tìm đến bà…

Từ 13h cho đến khi gặp tôi, bà chỉ bán được 10 ngàn.

Tôi ngồi bên bà suốt buổi tối. Xe cộ qua lại quá đông, đèn xe chiếu sáng làm tôi nhòe cả mắt, huống chi bà. Nhiều anh thanh niên dừng xe, dâng đôi bàn tay lễ phép biếu bà 10 ngàn. Những chị phụ nữ ghé mua mà ko cần tiền thối.

Tối nay tôi biết bà rất vui, vì bà cứ nhờ tôi đếm đi đếm lại 250 ngàn mà bà đã ko tin đó là số tiền bà kiếm được. Bà vui, tôi vui. Bà cười, tôi khóc.

Ngồi được một lúc thì có người phụ nữ tới lấy tiền bánh. Hôm nay bà bán được 38 cái và fải trả cho họ 95 ngàn. Bà ko lời 1 xu. Họ, kiếm tiền trên cái khổ của người khác.

21h30 bà ngủ gục, tôi giục bà về vì "hôm nay bà bán được nhiều rồi" nhưng tôi biết bà sẽ ko về. Bà là thế, cứ tẩn mẩn ngồi đó, cho đến khi phố xá vắng vẻ đìu hiu.

Chia tay bà, tôi bước đi mà lòng nặng nề quá!

Rất mong mọi người hãy cùng chia sẽ với tôi về hoàn cảnh của bà cụ, người mà bất cứ ai cũng muốn gọi thân thương là Ngoại. Hãy đóng góp với chúng tôi để giúp đỡ bà nhé.  

Những hình ảnh của ngoại

Mâm bánh của Ngoại đây. Bịch chuối nướng Ngoại bán dùm người ta, ko lời 1 xu, còn đồ của Ngoại là snack, bánh tuyết, chewing gum, đậu phộng, hột dưa. Hầu như những người mua bánh của Ngoại đều là những người hảo tâm, còn ko, thì chẳng ai muốn dừng xe để ăn những món này

Ngồi dưới mưa, Ngoại khoe tôi hôm qua được anh thanh niên tốt bụng nào đó cho cái máy đọc kinh Phật của Úc. Ngoại khen đồ Úc xịn nhất, nhưng cái máy đọc tiếng Úc nên Ngoại ko hiểu. Lâu lâu Ngoại lấy ra nghe cho đỡ buồn
Khoảng 18h30, mưa nặng hạt. Tôi có thêm một người bạn đồng hành, Nga đi làm về là ra chỗ bà ngay, chúng tôi cùng che cho bà, cùng ướt và cùng lạnh. Bà hài hước "mưa ko fải là trời hành đâu con, mà là tiền hành. Trời mưa vẫn ráng ngồi bán để kiếm tiền thì là tiền hành chứ gì nữa". Ngoại rất lạc quan Ngoại biết ko? 

Để chụp được tấm ảnh này, ngoại phải chịu đau để đứng dậy vì lưng ngoại đau lắm. Chỗ ngủ của ngoại



"Ngoại chụp có đẹp ko con", bà đã hơn 90 tuổi.
Ngoại chỉ có thể ngồi như thế này, và ngoại đã ngồi như thế này suốt 10 tiếng ngoài đường trên chiếc ghế nhựa nhỏ.  Mắt ngoại gần như mù, ko thấy, ko phân biệt được đồ và tiền. Ai mua gì, đưa bao nhiêu nói mấy nhiêu để ngoại biết mà thối lại

Cái bao đẹp quá, ngoại vuốt lại cho thẳng. Cháu gái nuôi gọi ngoại là cố, bé ngoan ngoãn và lễ phép, đang học lớp 1.
Hằng ngày vào chùa bán nhang kiếm tiền phụ ngoại. Hôm nay bé vui vì có nhiều quần áo đẹp. 
Dì 2, con gái nuôi của ngoại, 70 tuổi, sức khỏe yếu nên dì cũng chỉ bán nhang và ở nhà lo cơm nước, giặt giũ cho ngoại.


Ngoại nhỏ bé lắm, nếu ko zoom máy ảnh thì từ khoảng cách ấy tôi ko thể thấy đc Ngoại

Có người đang mua hàng của Ngoại. Ngoại hỏi "sao con chụp hình Ngoại hoài vậy?". Tôi trả lời "vì Ngoại rất đẹp"



Trời lại mưa, tôi chụp hình từ góc nhìn của Ngoại.
Mưa, Ngoại cầm dù và chỉ lo bánh bị ướt. Ngoại che bánh kỹ lắm, chứ Ngoại thì sao cũng được. Cái nón lá của Ngoại ướt sũng, đội vào hay bị ngứa đầu.

Con bé 7 tuổi kêu bà bằng Cố không cha không mẹ, bà thương. Thằng cháu bị tâm thần chỉ ăn ở ngoài đường, còn có gì ngon đem về đều dành cho bà hết, bà không nỡ bỏ. Bà nói "bà mong được chết ở ngoài đường để tụi nhỏ không thấy bà lúc ấy…."

Tôi nghẹn… Lấy vội cuộn khăn giấy của bà…

Bà đi bán vì gia đình nhỏ của bà, 1 gia đình không có ai là ruột thịt, chỉ vì tình thương giữa người với người mà nên 1 gia đình. Và bà vẫn muốn góp công sức dù tuổi đã già sức đã cạn.

Tôi muốn được ngồi thêm với bà để bà tâm sự, nhưng thời gian bà đi bán đã sắp đến… Tạm biệt bà & chắc chắn tôi sẽ gặp lại bà.

Trưa….

Gần 2h mưa bắt đầu trút. Tôi nghĩ đến bà. Thay vội cái áo, lấy thêm cây dù, tôi vội vã chạy ngay đến chỗ bà bán. Tôi lại nghẹn.

Bà ngồi đó, co ro trong cây dù chỉ đủ che cho hàng hoá & nửa tấm thân cong cong của bà. Tôi gửi xe & ngồi với bà, trên lề đường, xe cộ qua lại, mưa vẫn rơi…

Tôi nói với bà muốn mua hết số hàng bà bán để bà về sớm nghỉ ngơi hôm nay. Bà nói không được, bà đã dặn chú xe ôm 11h tối lại đón, bà không muốn chú ko có tiền tối nay, cuộc sống chú vất vả lắm.

Rồi bà lấy bánh cho tôi, bà nói bánh của bà ngon lắm, loại tốt, bà bán không lấy lời nhiều như người ta. Ngoài bánh ra, bà còn bán chuối nướng. Bà bán giùm chị kia, "tội nghiệp nó lắm, ba mươi mấy tuổi mà phải một mình bươn chải nuôi chồng con & gia đình chồng. Bà bán giùm chứ không lấy lời."

Bà ngồi trên chiếc ghế nhựa, có tấm lót mỏng mà theo bà là tấm nệm. Bà mỏi lưng lắm chứ vì chẳng có chỗ dựa, nhưng "bà ráng chịu".

Tôi ngồi cùng bà cả 1 buổi chiều, lúc mưa lúc tạnh lúc lại mưa.. Tôi cảm nhận rằng bà vui lắm, vì bà kể rất nhiều chuyện cho tôi nghe, tâm sự những ước muốn của bà và cả khuyên nhủ tôi cách sống. Cuối mỗi câu chuyện, bà nói "bà buồn!", nhưng bà lại cười với tôi. Nụ cười của số phận.

Tôi khuyên bà vào viện dưỡng lão, vì ở đó bà sẽ có bè bạn, có cô y tá chăm sóc cho bà. Bà lắc đầu nguầy nguậy, bà muốn đi bán để có tiền nuôi cháu và bà muốn buổi tối được nằm trên chiếc giường nhỏ trên gác trong không gian yên tịnh.

Khách đến mua hàng bà không phải vì cái bánh cái kẹo, mà chính là muốn cho bà tiền. Bà không biết bao nhiêu tiền đâu, vì bà không thấy, bà hỏi tôi & cám ơn những người ấy. Tôi giúp bà gói bánh mà nước mắt rơi chẳng hay, vì cảm động. Có chị thấy tôi vậy, cũng lau vội nước mắt và thăm hỏi hoàn cảnh của bà. Tôi biết rằng vẫn có người tốt trên đời này.

Rồi cũng đến lúc tôi phải trở về với gia đình, tôi trả bà về lại với cuộc sống mưu sinh như thường ngày của bà, thui thủi bên cái bánh cái kẹo, với đồng tiền nhân ái & với cả nắng… gió… mưa…

Đường về tấp nập, mà tôi cứ thấy mãi dáng gầy cong cong của bà trên góc nhỏ con đường. Mưa đã tạnh, mà mắt tôi vẫn thấy cay xè như ngàn giọt mưa bắn vào.

Tôi biết, còn nhiều người như bà lắm…

Ngồi 1 góc rất nhỏ trên lề đường, trước cổng chính của Trung tâm Triển lãm Hoàng Văn Thụ. Các bạn có thể chạy ngang qua để thấy hoàn cảnh đáng thương của bà & hãy giúp đỡ bà.

Ko viết nữa, xem hình thôi nhé, mọi người sẽ cảm nhận sâu sắc hơn và thấy rằng cuộc sống của chúng ta vẫn còn rất may mắn và hạnh phúc. Tối thế này ai thấy được Ngoại?

Thật sự chẳng thấy gì cả, chỉ là 1 cây dù. Vậy mà Ngoại vẫn ráng ngồi bán đến tận 11g đêm

Mưa nhòe đường phố, nhòe ánh điện và nhòe luôn cả Ngoại.

Ngoại ngồi ngay Trung tâm Hội chợ Triển lãm Quốc tế, đường Hoàng Văn Thụ, quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh. Rất mong mọi người khi có dịp đi ngang qua, hãy dừng xe mua giúp Ngoại cái bánh hoặc đơn giản chỉ là trò chuỵên, vì Ngoại ngồi 1 mình buồn lắm.

PS: cá nhân tôi, tuy là một thằng con trai nhưng cũng đã không thể ngưng được nước mắt trước những hoàn cảnh như thế này. Mong là mọi người không vì một cuộc sống quá tất bật mà lướt qua những gì đang xảy ra xung quanh mình. Rất cần lắm những tấm lòng chia sẻ không chỉ vật chất mà còn là tinh thần… Chúc một tuần mới đầy sức khỏe và niềm vui

Trần hữu Định
61-02..97083608




Giao Chỉ : “DÙ CHO SỎI ÐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU”

Bài viết nhân mùa Lễ Hi 2009.

 

“DÙ CHO SỎI ÐÁ CŨNG CẦN CÓ NHAU”.(tcs)

Giao Chỉ. San Jose.

Chan chứa ân tình :

Trong câu chuyện và bài viết quanh năm, chúng tôi thường cố tránh các lời lẽ thậm xưng, các tĩnh từ cường điệu và các hình thức văn chương của sân khấu cải lương. Nhưng lần này viết văn quảng cáo, viết thư tình cảm, có thể đã vi phạm các nguyên tắc đơn giản kể trên. Bởi vì giữa chúng tôi với quý bằng hữu xa gần, trải qua hơn 30 năm, và đặc biệt 5 năm gần đây, gặp nhiều tri kỷ mới, quả thực đã chan chứa ân tình.

Ðộc giả đọc bài viết, thính giả nghe radio, khán giả xem TV và anh em vùng San Jose gặp gỡ quanh năm, đến lúc phải giãi bày cho hết nguồn cơn vào dịp cuối năm.

Xin lấy hàng chữ, lời văn hôm nay để trả lời chung thân hữu đã điện thoại, gởi những lá thư thật dài, gửi hình, gửi bài báo, gửi email, gửi nhạc, gửi thơ văn đến chúng tôi : Giao Chỉ, San Jose, IRCC, Viện Bảo Tàng và rất nhiều vị hỏi thăm ông Phạm Phú Nam của Dân Sinh Media.

Trong số các thân hữu có nhiều vị mới quen biết qua radio, TV, và đặc biệt qua các DVD từ Ca Khúc Thời Chinh Chiến, Lịch Sử Ngàn Người Viết cho đến Chân Dung Người Lính VNCH và sắp tới là DVD đặc biệt về Trận Quảng Trị.

Ðã có nhiều người thăm hỏi rằng cơ quan IRCC là tổ chức gì. Tiền đâu mà làm Viện Bảo Tàng. Nhằm mục đích gì mà lại phát hành DVD về người lính VNCH. Rồi có làm phim về thuyền nhân hay không? Bao giờ thì phim Quảng Trị phát hành. Làm sao phát hành qua Canada, Úc và Âu Châu. Ở đây người ta in lậu bán khắp nơi các ông có biết không? Họ đưa lên Internet rồi down xuống thoải mái sao không ngăn chận. Ở VN nghe nói đếm được cả ngàn người vào coi. Xin quí vị cho biết thêm tin tức về tổ chức. Có phải là cơ sở ngoại vi của đoàn thể nào không? Sao không thấy trả lời thư. Hình ảnh gửi về có nhận được không. Gọi điện thoại sao không trả lời. Chúng tôi có gửi bản nhạc, chúng tôi có gửi bài báo. Quý vị có xử dụng cho phim kỳ tới vui lòng cho biết. Sao nói về Quảng Trị mà không đề cập tới địa phương quân, các ông có biết anh em lính nhà quê chúng tôi sống và chết ra sao không. Các ông có biết quân số địa phương quân miền Nam chiếm hơn 50% tổng số quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Hay là quý vị không cần đề cập đến lính Ðịa chúng tôi….

Thưa quý vị, hơn 2.000 lá thư dài ngắn nhận được trong năm qua chan chứa ân tình từ bốn phương trời, chúng tôi không giờ nghĩ rằng sẽ cố ý bỏ qua bất cứ một đơn vị, 1 chiến binh hay một binh chủng nào. Ai mà chẳng biết “ Dù cho sỏi đá cũng cần có nhau “ .

Vì vậy xin gửi bài này để trả lời tri kỷ bốn phương.

 

IRCC là tổ chức gì :

Ðầu đuôi như thế này. Ðầu tháng 4-1975 dân di tản Việt Miên Lào chạy qua Mỹ khá đông. Ngay trước 30-4-1975 đã có nhiều chuyến bay dân sự và quân sự chở người ra đi từ Saigon đến thẳng Oakland và San Francisco.

Những người này không phải qua các trại tỵ nạn như Pendleton lúc đó chưa mở cửa. Một số lớn được các nhà thờ đón trực tiếp và một số khác đã có gia đình ở Mỹ.

Cơ quan xả hội tại San Jose lúc đó có tên là Social Planning Council mở ra chương trình IRCC để đón tiếp giúp đỡ người mới đến định cư. Tên đầy đủ gọi là Indochinese Resetlement and Cultural Center. Tuy gọi là Trung Tâm Ðịnh Cư và Văn Hóa Ðông Dương nhưng thực ra chỉ là 1 bộ phận của tổ chức xã hội bất vụ lợi sẵn có tại quận Santa Clara. Tổ chức này tiếp tục mở rộng đến cuối năm 1975 đón thêm nhiều người Việt và Ðông Nam Á từ các trại tạm trú về San Jose. Thành phố này như vậy đã tập trung khá đông người Việt từ đầu đời di tản. Các sinh viên hay Việt kiều của miền Nam có mặt tại San Jose được đổi thành quy chế tỵ nạn và trở thành worker xã hội. Rồi qua năm 1976, trại tỵ nạn đóng cửa thì bà con ta từ các tiểu bang kéo về Cali. Lúc đó quận Cam cũng quy tụ nhiều người Việt và cộng đồng hai miền Nam Bắc Cali đều phát triển.

Cuối năm 1976 gia đình chúng tôi cũng theo tiếng gọi của Cali từ giã Springfield, Illinois mà tây tiến về San Jose, bắt đầu làm việc với IRCC, phụ trách về tổ chức cộng đồng, phát triển và bảo toàn văn hóa. Phải đến 4 năm sau, 1980 tổ chức IRCC mới tách riêng trở thành cơ quan bất vụ lợi độc lập. Giám đốc đầu tiên là ông YKlong ADrong. Cá nhân chúng tôi nhận chức Giám đốc từ 1982 và tiếp tục cho đến nay 2009 là 27 năm.

Nói riêng về danh hiệu IRCC là tên từ 1976 lúc chúng tôi bắt đầu vào cộng tác, như vậy tính ra là đã 33 năm vào năm 2009. Vì lý do qua đầu thập niên 90, cơ quan yểm trợ việc định cư chung cho cả di dân từ các nước nên chữ I của Indochinese (Ðông dương) được đổi thành chữ I của Immigrant (di dân). Gọi tắt IRCC vẫn là IRCC. Khách hàng thì gồm đủ các sắc dân.

Vì là cơ quan đầu tiên phục vụ cho cộng đồng Việt Nam tại địa phương nên IRCC đã có nhiều liên hệ với các chương trình trong mọi lãnh vực khác nhau. Truyền thông, giáo dục, văn hóa, y tế, văn nghệ, xã hội và chính trị.

Chúng tôi cũng gặp nhiều sóng gió, nhiều khó khăn, nhưng rồi cũng may mắn vượt qua và tồn tại cho đến nay.

Qua năm mới 2010, cơ quan đã trải qua 34 năm dài và cộng đồng Việt Nam sẽ có dịp ghi dấu 35 năm nhìn lại quãng đường đã đi qua (1975-2010)

Riêng về IRCC với 34 năm bể dâu thăng trầm nhận tài trợ phần lớn của chính phủ để làm công tác theo khế ước. Trong khi thi hành nhiệm vụ đã yểm trợ định cư cho trên 10 ngàn gia đình với nhân số 25.000 người chiếm 25% dân số người Việt tại San Jose.

Một trong các thành tích xã hội đáng lưu ý là tìm cách giúp cho hàng ngàn đồng bào thành công trong việc xin housing section 8 tại quận hạt Santa Clara.

Tuy nhiên phần xã hội là nhiệm vụ phải thi hành theo khế ước nên thành quả cũng như hàng ngàn cơ quan bất vụ lợi khác. Những thành tích và lời cảm ơn sau đây là thuộc lảnh vực công tác tình nguyện mà cơ quan đã làm vượt ra ngoài bổn phận chính thức.

Ðây mới chính là niềm hãnh diện của chúng tôi.

 

Những bước đầu tiên :

Ghi lại lịch sử của cộng đồng Việt riêng tại thành phố San Jose và vùng phụ cận phải bao gồm thêm 14 thành phố nhỏ làm thành quận hạt Santa Clara. Mở rộng ra thêm 8 quận hạt nữa sẽ trở thành cả vùng Vịnh Cựu Kim Sơn.

Các quán ăn Việt Nam đầu tiên, tờ báo Việt, radio Việt, chợ Việt, truyền hình Việt Nam. Các hội đoàn ái hữu đầu tiên, những cuộc biểu tình và hội Tết. Những chương trình đón người mới đến, thuyền nhân , HO, con lai, đoàn tụ. Bao nhiêu hình ảnh bằng phim video cùng với hình ảnh chưa quên vẫn còn mãi mãi trong lòng người, Cũng còn lại tất cả các cuộc tranh chấp giữờa các phe phái khác biệt trong cộng đồng. Từ Liên Hội Người Việt Quốc Gia cho đến khi chia thành nhiều Ban đại diện cộng đồng. Từ 1 Hội Tết trở thành ba, bốn Hội Tết hàng năm. Bạn thành thù nghịch. Từ thù nghịch trở lại thành thân hữu. Hợp tác rồi lại chia tay. Những kỷ niệm buồn vui, cay đắng hay ngọt ngào nơi nào cũng có và San Jose cũng không thiếu. Thế hợp tan thường xảy ra ở mọi nơi và ở đây luôn luôn dẫn đầu. Tình nghĩa cũng tràn đầy và thù nghịch cũng chẳng lúc nào vơi.

Trong cái hoàn cảnh trăm người ngàn ý đó, cộng đồng tiềm ẩn của người Việt đã từ từ chuyển động ngày một đông hơn, vững chắc và theo kịp xã hội chung của Hoa Kỳ về mọi mặt. Ðồng thời củng chia xẻ với khó khăn về kinh tế, chính trị của đất nước này. Cơ quan IRCC của chúng tôi cũng thở theo nhịp thở của cộng đồng và xã hội. Có điều đặc biệt là dù làm công tác xã hội của cơ quan bất vụ lợi, trong ý nghĩa sinh tồn, chúng tôi đã cố chuyển hướng qua Dân Sinh để phục vụ cho một cộng đồng Việt lâu dài và có ý nghĩa. Không muốn thu hẹp mãi mãi trong mục tiêu ấn định của chính phủ khi nhận tài trợ.

Vì vậy IRCC đã có nhiều khai phá mới xin hãnh diện trình bầy với quý vị trước khi bước vào năm kỷ niệm thứ 35 trên con đường định cư tỵ nạn tại Bắc California.

 

Những chương trình tình nguyện :

Dựa vào cơ quan IRCC, Inc. gần 20 mươi năm qua chúng tôi đã mở ra các chương trình tình nguyện đặc biệt hết sức ý nghĩa nhưng lại vô cùng đơn giản.

Ðó là nuôi ăn Homeless Hoa Kỳ, tảo mộ nghĩa trang Biên Hòa, thành lập Dân Sinh Media với Báo viết, Radio nói và TV hình.

Nếu chúng ta nghĩ rằng mình là dân tỵ nạn, nhận nơi này làm quê hương, muốn đóng góp với Hoa Kỳ, thì công việc đơn giản nhưng hết sức ý nghĩa là mở rộng bàn tay ân tình. Mỗi tuần, mỗi tháng và mỗi năm hãy góp phần nuôi ăn người homeless tại địa phương. Với chương trình thực đơn thân ái Việt Nam, chúng tôi đã trải qua hàng trăm lần tổ chức tiệc và hàng trăm ngàn phần ăn đã dọn ra sau 17 năm qua kể từ 1992 đến nay.

Nhân dịp 35 năm nhìn lại, lời cảm ơn chân thành xin gửi đến cá nhân, tổ chức và hội đoàn đã góp sức cho chưng trình homeless tại vùng San Jose kiên trì và đều đặn bao năm qua. Không bao giờ chúng tôi quên quý vị. Sỏi đá cũng cần có nhau.

  

                                                  

  

 

Chương trình tảo mộ nghĩa trang Biên Hòa bắt đầu từ năm 1995 đến nay cũng đã được 14 năm. Quý vị không thể ngờ rằng đã có 16 ngàn tử sĩ nằm lại nghĩa trang quân đội từ 1975 mà cho đến tháng 10 năm 2009 vừa qua vẫn còn người tình nguyện về thắp hương cho chiến binh của ta nằm dưới lòng đất quê hương.

Với những món tiền nhỏ bé quyên góp được, những tin tức phổ biến, những công tác báo cáo được bốn phương hưỡng ứng nhiệt thành, nghĩa trang vẫn còn tồn tại vì chúng ta còn nhớ đến. Hiện nay dù hoang phế vẫn còn hoang phế, điêu tàn vẫn còn điêu tàn, với sự quản trị rất lẩm cẩm của địa phương, nhưng nếu quý vị nhân danh người thân của chiến binh đã ra đi, vẫn có thể trở về thăm nghĩa trang xưa. Trong cảnh điêu tàn hoang phế đó, với tấm lòng mở rộng quý vị vẫn còn thấy được vẻ lộng lẫy huy hoàng hơn 40 năm về trước.

Một lần nữa, xin chân thành cảm tạ các thân hữu đã giúp chúng tôi tiếp tục tảo mộ thăm viếng nghĩa trang Biên Hòa. Nếu quý vị đi riêng, xin gửi thêm cho chúng tôi tin tức và hình ảnh. Không bao giờ quên quý vị – Sỏi đá cũng cần có nhau.

 

DÂN SINH :

Một chương trình mới mẻ khác là thành lập hệ thống truyền thông DÂN SINH từ 5 năm qua. Một hình thức truyền thông xây dựng qua các dề tài liên quan đến đời sống hiện tại in trên báo giấy. Phát thanh qua các chương trình chính và dược tiếp vận đi mọi nơi. Rồi sau cùng là TV. Ðồng thời chúng tôi phát hành DVD và in sách. Tất cả đều hướng về mục tiêu Dân Sinh là xây dựng cộng đồng Việt tại hải ngoại và yểm trợ công việc đấu tranh cho dân chủ nhân quyền tại quê nhà. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn khán giả của 6.000 bộ DVD đã phát hành 2009 với tựa đề Chân Dung Người Lính VNCH. Phần lớn quí vị là thân hữu của Dân Sinh Media.

Xin cám ơn khán giả đặt mua DVD Quảng trị sẽ nhận được nội trong năm 2009. Cảm ơn độc giả của các bài báo Dân Sinh và các tác phẩm Dân sinh/Giao Chỉ sẽ phát hành 2010.

Sau phim Quảng trị, đầu năm 2010 chúng tôi chuẩn bị bộ phim 35 năm nhìn lại (1975-2010) sẽ rất cần sự cộng tác của quý vị. Một lần nữa, sỏi đá cũng cần có nhau.

 

Viện Bảo Tàng Việt Nam :

Với cái tên đầy đủ là Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi đã hoàn tất giai đoạn căn bản và hiện nay đang kiện toàn và phát triển.

Ðây là một công trình chắc chắn sẽ còn tồn tại muôn đời. Số tiền dành dụm của IRCC bỏ vào cho hiện vật, tác phẩm, di sản và xây cất $300,000 mỹ kim. Số tiền cá nhân và gia đình vừa ủng hộ vừa đóng góp $300,000 mỹ kim. Các thân hữu, mạnh thường quân cho vay, đóng góp tính đến cuối năm 2009 cũng đã lên đến $300,000 mỹ kim.

Như vậy trị giá tài sản của Viện Bảo Tàng cùng với sự gia tăng theo thời gian, (không kể giá trị địa ốc bao gồm nhà và đất của thành phố) hiện nay lên đến trên 2 triệu mỹ kim.

Quý vị thân hữu đã đóng góp bằng cách nào. Tình cảm như kim cương đá quý ghi nhận các tên ân nhân góp hay cho vay dài hạn, không lời trên $10 ngàn mỹ kim. Hiện có tên tuổi 10 ân nhân danh dự. Tình cảm như vàng bạc châu báu dành cho ân nhân góp 1 viên gạch trên $1,000 mỹ kim. Tổng cộng có tên 100 vị khắc trên bức tường công đức vĩnh cữu.

Ngoài ra, mỗi năm, quý vị ủng hộ $100 trở lên quý vị có tên trong danh sách hội viên của từng năm. Riêng 2009 chúng tôi đã có danh sách trên 300 vị là hội viên thường niên và hy vọng sẽ tiếp tục đóng mổi năm $100 mỹ kim. Sau một thời gian đủ $1.000 sẽ trở thành ân nhân danh dự khắc tên trên viên gạch. Sau này ghé thăm Museum, quý vị và con cháu sẽ thấy có tên trên bức tường vĩnh cữu.Chúng tôi xin chân thành cảm tạ ân nhân của Viện Bảo Tàng.

Một lần nữa, sỏi đá cũng cần có nhau.

 

Nhu cầu hiện tại :

Hoa Kỳ thiếu nợ cần tiền. Tiểu bang Cali thiếu nợ cần tiền. Thành phố San Jose thiếu nợ cần tiền và cơ quan IRCC nhỏ bé của chúng tôi củng thiếu nợ cần tiền. Năm 2007 và 2008 chúng tôi được sự ủng hộ đáng kể nên Museum đã hình thành.

Năm 2009 tiền ủng hộ xuống thấp nhưng vẫn có nhiều kỷ niệm về các nhà hảo tâm yểm trợ cho chúng tôi. Từ Âu châu xa xôi, một khán giả của DVD gửi tiền cho mẹ ở Canada chuyển tiếp tặng $1.000 mỹ kim. Một cựu quân nhân thân hữu bao năm không gặp tại Texas xem DVD bèn gửi về $1.000 mỹ kim. Vị bác sĩ ở Sacramento do anh chị thân hữu địa phương giới thiệu đã ủng hộ $1.000 mỹ kim. Bà Jacky Bông, khách phương xa từ DC về thăm Viện Bảo Tàng, tặng $1.000 mỹ kim. Và sau cùng, một thân hữu của gia đình quốc gia nghĩa tử vừa gửi đến ủng hộ $10,000 mỹ kim.

Xin chân thành cảm tạ và ghi nhận sự đóng góp của quý vị hết sức quan trọng vì công trình của chúng tôi vẫn thường không phải là mối quan tâm chính của cộng đồng.

Nhân mùa lễ hội cuối năm, bản khai thuế Hoa kỳ vẫn thường có 1 câu hỏi. Trong năm 2009 quý vị đóng góp cho cơ quan từ thiện bao nhiêu. Nếu ghi số 0 thì cũng ngại ngùng. Nếu không mà nói có thì lại thiếu giấy tờ hợp pháp và hổ thẹn với lương tâm. Xin hãy tin cậy gửi tiền ủng hộ về cho IRCC. Với 34 năm công tác thiện nguyện, chúng tôi hoàn toàn không hề có một lần sai lầm tỳ vết. Mỗi năm đều trải qua 2 lần kiểm tra của chính phủ. Một lần của chuyên viên CPA độc lập. Dù ủng hộ bao nhiêu cũng nằm trong hồ sơ kiểm toán hàng năm. Tất cả mọi đóng góp đều có giấy chứng nhận hợp lệ miễn thuế của cơ quan bất vụ lợi chính thức tại Hoa Kỳ.

Gởi tiền ủng hộ cho IRCC là quý vị gởi bữa cơm cho người homeless Hoa Kỳ, gửi một nén hương cho chiến sĩ trận vong còn nằm lại tại Nghĩa trang Biên Hòa, góp một lời cầu nguyện cho thuyền nhân biển Ðông, tham dự vào việc xây dựng và gìn giữ Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa. Với $100 mỹ kim quí vị sẽ có tên hội viên thân hữu trong sổ vàng Museum năm 2009. Với $1,000 mỹ kim danh tính của vị ân nhân được khắc tên trên viên gạch của bức tường danh dự. Cũng trong mùa lễ hội 2009 quí vị hãy đặt một bộ DVD Chân dung người lính Việt Nam Cộng Hòa để làm quà cho chiến hữu ở góc bể chân trời. $20 mỹ kim ủợng hộ sẽ nhận được 4 đĩa, 8 giờ phát hình gồm những thước phim lịch sử vô giá, không thể bỏ qua. Ngoài ra có thể đặt ngay hôm nay bộ phim Quảng Trị, mùa hè 1972 đang được chuẩn bị phát hành trong năm nay. Một tác phẩm vinh danh trận phản công hết sức mãnh liệt của Việt Nam Cộạng Hòa tại miền hỏa tuyến. Ðây là những xuất phẩm thực hiện bởi Dân Sinh Media sẽ lưu lại trong viện bảo tàng dành cho thế hệ tương lai.

Ðó cũng chính là mục đích của chúng tôi.

Xin tường trình cùng quý vị nhân mùa lễ hội 2009 tại Hoa Kỳ.

 

Lấy tro tàn lịch sử, ta xây dựng bảo tàng

Ðem qua khứ huy hoàng, gửi tương lai vĩnh cữu.

                                                                             Giao Chỉ, San Jose

 

Tái bút: Chúng tôi cũng rất cần tất cả các tài liệu, hình ảnh và di vật dành cho Viện Bảo tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa. Ðồng thời cũng sẽ xử dụng trong bộ phim phát hành 2010 với tựa đề 35 năm nhìn lại con đường đã đi qua. Xin cho chúng tôi những giấy ra trại của quí vị, mũ áo tốt nghiêp của con em, di vật về binh nghiệp, về chuyến vượt biên, vượt biển.

 Chân thành cảm tạ.

 

Xin liên lạc về văn phòng IRCC, Inc.địa chỉ : 1445 Koll Circle, #110 San Jose, CA. 95112. Ðiện thoại : ( 408 ) 392 9923   Email:   irccsj@yahoo.com  giaochisanjose@sbcglobal.net

 




Cao Sơn : GẦN 300 NGƯỜI ĐẾN VỚI “NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM” CỦA SONG NHỊ

Trích bài đăng trên tuần báo Tin Việt News số 725 phát hành ngày Thứ Sáu 16/4/2010 tại San Jose

DÙ VÀO MỘT NGÀY CHỦ NHẬT THỜI TIẾT XẤU VỚI MƯA TO GIÓ LỚN VẪN CÓ GẦN 300 NGƯỜI ĐẾN VỚI “NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM” CỦA SONG NHỊ

 

• Sự thành công của buổi ra mắt là tiếng nói của công đạo trả lại danh dự & uy tín cho tác giả cùng Cơ Sơ Thi Văn Cội Nguồn

 

SAN JOSE (TVNs) – Thời điểm buổi ra mắt sách trời mưa tầm tả, dai dẳng và nặng hạt cùng với những cơn gió thổi vùn vụt nhưng vẫn có khoảng gần 300 quan khách đến tham dự mang lại sự thành công cả tinh thần lẫn vật chất cho tác giả Nửa Thế Kỷ Việt Nam, nhà thơ, nhà văn Song Nhị.

Buổi ra mắt sách khai mạc vào lúc 2:00PM – chậm một giờ so với thư mời chính thức của Ban Tổ Chức – Chủ Nhật ngày 11-4-2010 tại Hội Trường Học Khu Trung Học East Side, số 830 North Capitol Ave., San Jose, CA 95133.

Sau phần nghi thức khai mạc chào cờ Hoa Kỳ và VNCH cùng một phút mặc niệm bởi chiến hữu Hoàng Thưởng, Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức QLVNCH/Bắc California, nhà báo Thư Sinh đã giới thiệu thành phần quan khách.

Người ta nhận thấy những “vóc dáng” trưởng thượng, trí thức, văn nghệ sĩ tại thành phố San Jose và các thành phố từ xa như Nam Cali, Stockton, San Francisco, Richmond, San Rafael… Có những thân hữu từ Las Vegas cũng tìm về. Bậc cao niên trưởng thượng có cụ Võ Toàn đã trên 100 tuổi, cụ học giả Đặng Cao Ruyên cũng với cây gậy đi tới, bước vào hội trường. Các cụ lại là những người khách có mặt sớm nhất.

Ở mấy hàng ghế đầu, ngoài các cụ Nguyễn Hữu Hãn, cụ Trương Đình Sửu thuộc Hội Đồng Cư Dân Việt Nam thành phố San Jose; cụ bà Đặng Trần Khuê còn có ông Lân Nguyễn, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Dục Học Khu Trung Học East Side, buổi ra mắt còn có TT tướng Nguyễn Khắc Bình, HQ/ĐT Trần Thanh Điền, Đ/T Vũ Văn Lộc tức nhà văn Giao Chỉ,  ông bà Đ/T Nguyễn Trúc Long và ông Hoàng Cơ Định, BS Nguyễn Thượng Vũ, BS Đặng Phương Trạch, ông bà BS Nguyễn Kế Khoa, ông bà BS Phạm Đức Vượng, BS Võ Tá Đồng, BS Nguyễn Thanh Châu, BS Alisa Hồng Hà, BS Nguyễn Thanh Xuân tức nhà văn Đông Nghi, BS nhà văn Phạm Nguyên Lương và Bích Ty đến từ Los Angeles.

Ở một hàng ghế khác thấy có Tr/t Hàn Phong Cao, Tr/t Nguyễn Mộng Hùng, Hội Đồng Giám Sát CĐVNBC; Tr/t Phi đoàn trưởng Võ Ý đến từ Corana, Nam Cali; ông Lê Văn Phước, Trần Quả, nhà văn Phan Mộng Hoàn, Ông Nguyên Trung, bà Phạm Thu Đào, ông Lê Đình Thọ, Tổng Thơ Ký LH/CQN/QLVNCH/BC; ông Lê Thái Bường, Liên Minh Quang Phục Việt Nam, các alfa trong LLSQ/Thủ Đức: ông Ngô Tôn, ông Nguyễn Minh Đường, ông Hoàng Thưởng, Trương Kỉnh Thành, Phan Tuấn… Ông Trần Ngọc Ảnh, cựu Chủ Tịch Hội Ái Hữu Quảng Ngãi; GS Nguyễn Cao Can, ông bà Lữ Đình Trúc, ông Bùi Hữu Vị, ông Đỗ Minh Hưng, Hội Người Việt Cao niên Vùng Cựu Kim Sơn; Ô. Cao Hiền, cựu Phó chủ tịch Ban Đại diện cộng đồng Bắc Cali; ông Nguyễn Lực, cựu Chủ Tịch Hội Phú Yên Bắc Cali, chiến hữu Phan Lâm, chiến hữu Phan Nhi Tuấn thuộc Gia Đình Mũ Đỏ San Jose, ông Nguyễn Cao Thăng, Cố Vấn Hội Cà Mau, quý thành viên Nha Nhân Viên Hành Chánh Phủ Tổng Thống VNCH…

Về phía văn nghệ sĩ có: Ấu Tím, Cung Diễm, Nguyễn Trung Dũng, Thanh Thương Hoàng, Trần Nhu, Mặc Lan Đình, Mạc Phương Đình, Duy An Đông, Trần Trị Chi, Trường Giang, cô Thanh Mai, Hoa Hoàng Lan, nhà thơ nữ Triều Nghi, nhà thơ Đông Anh, nhà thơ Chinh Nguyên, nhóm Mây Ngàn Phương…

Giới họa sĩ  thì có  Đào Hải Triều, Trương Thị Thịnh, Quế Hương, Vũ Thị Ngà..

Phía truyền thông báo chí có nhà báo Sơn Điền Nguyễn viết Khánh, ông Vũ Bình Nghi, chủ nhiệm Thời Báo; ký giả Lâm Văn Sang, báoVTimes; Bà Trần Thị Thu, chủ nhiệm Tin Việt News, ký giả Cao Sơn, nhà báo Bùi duy Thuyết, báoViet Herald – Nam Cali, ký giả Lê Bình, báo Việt Tribune; nhà báo Duy Văn báo Đời Mới; ký giả Vũ Khang, báoViệt Weekly; ký giả Hạnh Dương, báo Việt Báo, Nguyên Khôi , Đài phát thánh và TV/SBTN – Quê Hương; ông bà Nguyễn Vạn Bình-Mã Phương Liễu, báo Ý Dân; ông Nguyễn Xuân Nam, báo Cali Today và Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Dũng, chương trình Việt Nam TV, ông Lê Minh Nguyên, Việt  Nam  nhật báo; ông Nguyễn Phước Đáng, nhà báo Nguyễn Châu, nhiếp ảnh gia Trương Xuân Mẫn, Huỳnh Minh Nhựt, Ngọc Thủy, báo Suối Văn .

Ngoài ra, còn có sự hiện diện của Hoa Hậu 2010 Trần Nguyễn Jessica, Á Hậu 4 Lương Thùy Dương Ana và Á Hậu Duyên Dáng Cao Mỹ Ngân được hướng dẫn của ông Vũ Ngọc Ân và Cô Huyền Trân thuộc Ban Hoa hậu Áo Dài Bắc California.

Trong lời khai mạc, anh Lê Văn Hải, Chủ nhiệm hệ thống tuần báo Thằng Mõ, Trưởng Ban Tổ Chức đã trình bày: “NTKVN theo tôi là tiếng rên siết của cả một dân tộc, dưới chế độ bão tàn tắm máu nhất trong lịch sử Việt Nam. Nửa Thế Kỷ Việt Nam vừa qua đã thiêu rụi gần 10 triệu người trong cuộc chiến Nam Bắc, cuộc chiến ý thức hệ giữa tự do và cộng sản”.

Nhắc lại thời điểm này của 35 năm trước và những hệ luy sau đó, anh Lê Văn Hải trình bày: “Không phải thời điểm 30-4 và sau đó, khi cả hàng trăm ngàn Quân Cán Chính VNCH bị lùa hết vào trại tù cải tạo, gần nửa triệu người vượt biển, vượt biên, lấy biển xanh và rừng thiêng nước độc làm mồ chôi, mới là thời diểm đau thương nhất của lịch sử. Mà niềm đau thương mất mát của cả một dân tộc, đã bắt đầu từ năm 1945, mà tác giả Song Nhị là người đã được chứng kiến khi mái đầu còn xanh.

Tuổi vừa mới lớn, tâm hồn phơi phới yêu thương như tờ giấy trắng, tác giả được chứng kiến nạn đói Ất Dậu năm 1945, với cảnh con người còn tàn tệ hơn súc vật. Kế đó, chế độ cộng sản đã tạo ra những con người mất hẳn nhân tính qua hình ảnh cuộc cải cách ruộng đất, mà chính gia đình ông, cha ông, mẹ ông là nạn nhân mà ông được chứng kiến. Sau 30-4-1975, rồi ông bị bắt đi tù cải tạo để được chứng kiến cảnh tên bộ đội CSVN bắt người tù cải tạo đã ăn lén mấy củ khoai mì đứng trước hầm phân, để đạp từ đằng sau ra trước, khiến người tù phải té úp mặt xuống hầm phân, thì hắn mới hài lòng.

Riêng tôi, nói như nhà thơ Vũ Hoàng Chương “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”. Từ khi chào đời hơn 1 tháng tuổi, tôi đã là người vượt biển di cư vào Nam, trên con tàu há mồm. Mẹ tôi chỉ biết tuyệt vọng nghĩ rằng “Nếu tôi có chết cũng chỉ biết quăng xuống biển mà thôi”. Nên biển là tên tôi. Từ nhỏ cho đến năm 1975, không ngày nào tôi không được nghe tiếng súng, tin chết chóc từ chiến trường. Sau 1975, hai đứa em tôi bỏ mình trên đường vượt biên!

Nên đau thương của Nửa Thế Kỷ Việt Nam không chỉ riêng một mình cho tác giả mà cho cả dân tộc Việt Nam”.

Anh Lê Văn Hải kết luận: “Bài học Phù Sai, Câu Tiển nằm gai nếm mật, ôn lại những thương đau để từ đó vùng lên đạp đổ, dẹp bỏ một chủ nghĩa phi lý đã đè nặng trên quê hương, đất nước ta hơn nửa thế kỷ qua.

Trước khi dứt lời, xin quý vị đáp lại lời yêu cầu nhỏ của tôi, chúng ta cùng đứng lên để gởi cho tác giả Song Nhị một tràng pháo tay thật lớn, người đã thay mặt chúng ta, vẽ lại bức tranh của cả một dân tộc đau thương suốt Nửa Thế Kỷ Việt Nam”.

Sau khi mọi người cùng đứng vỗ tay thật dài để tặng tác giả Song Nhị, MC Khổng Trọng Hinh, một cựu Thẩm phán trẻ trước 1975, cựu SV Vạn Hạnh và là một trong những nhà địa ốc tiếng tăm vùng Vịnh giới thiệu bà Cao Ánh Nguyệt, Chủ nhiệm, chủ bút Tuần báo Phụ Nữ Cali lên diễn đàn nói về tác phẩm.

Bà Cao Ánh Nguyệt, với tiếng nói từ tốn, rõ ràng lưu loát,  đã phân tích và nhận xét những chủ điểm, nêu cao ý nghĩa diễn biến của một quá khứ 50 năm mà định mệnh của một dân tộc đã không may rơi vào tai họa do chủ nghĩa Cộng sản gây nên. Bà trình bày sôi nổi, mạch lạc. Cử tọa lắng nghe, chăm chú theo dõi diễn tiến những tiết mục trong tác phẩm được trình bày qua cây bút Song Nhị, một nạn nhân và là nhân chứng của lịch sử với tiếng nói của sự thật và lương tâm. Trong suốt hơn 20 phút trình bày, Bà Cao Ánh Nguyệt đã gây được motä ấn tượng tốt đối với tác giả.

Tiếp tục là phần trình bày tiểu sử tác giả của anh Nguyễn Hồng Đức, Chủ Tịch Hội Cựu Sinh Viên Đại Học Vạn Hạnh Hải Ngoại, mà tác giả vốn là đàn anh đồng môn với người trình bày.

Phần trao tặng hoa và quà, Hội Ái Hữu Vạn Hạnh tặng hoa, anh Lê Văn Hải tặng tác giả Nửa Thế Kỷ VN bức họa chân dung Song Nhị rất sống động do HS Lê Văn Hải vẽ đến tác giả và cháu Thúy Khanh, con gái của tác giả tặng hoa đến Trưởng Ban Tổ Chức với sự phụ giúp của Hoa Hậu Trần Nguyễn Jessica vá Á Hậu Lương Thùy Dương Ana. 

Tiếp tục chương trình, tác giả SN phát biểu lời cảm ơn Ban Tổ chức, quan khách và văn nghệ sĩ hiện diện. Ông cũng trình bày cảm tưởng khi hình thành và hoàn tất nội dung tác phẩm, cùng một vài ý nghĩ thổ lộ tâm tình…

Sau cùng, nhà văn Diên Nghị trong phần “Tổng Kết 15 năm Sinh hoạt Cội Nguồn” đã trình bày:

“Xuất phát từ quan niệm và ý thức vai trò tị nạn, chúng tôi, một số công dân miền Nam từng trải đoạn đường đày đọa giữa quê hương, khi gặp nhau tại thành phố thân thương này, đã đồng lòng tham gia sinh hoạt sáng tác thơ văn, trong cùng tổ chức, dưới danh xưng “Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn”, và nhà thơ Song Nhị đảm nhiệm Trưởng Điều hành, điều hợp từ tháng Tư năm 1995.

Ngày qua tháng lại, thấm thoắt đã 15 năm. Khởi đi từ những bàn tay trắng, chỉ có thơ văn đóng góp in thành tuyển tập, cung cấp bài viết cho một vài tờ báo bạn, rồi như một cơ duyên CN dần dà nhận được những tác phẩm của nhiều tác giả gần xa gửi đến, gợi ý được xuất bản dưới danh nghĩa CN.

Từ tản mạn những bài viết cho báo chí, đặc san, CN đã được giao phụ trách trang Văn học Nghệ thuật hàng tuần trên Việt Nam Thời Báo của chủ nhiệm Vũ Bình Nghi từ năm 1998, đồng thời cũng phấn đấu hoạch định, tiến tới hình thành Tạp chí Nguồn – tạp chí Nhận định, Phê bình, Văn học Nghệ thuật phát hành ngày 15 mỗi tháng từ năm 2004 với Ban Chủ trương và biên tập khá hùng hậu. Ngoài ra, trang báo điện tử cội nguồn cũng góp mặt thường trực, song hành với những sinh hoạt khác.

CN cũng đã tổ chức hoặc bảo trợ những buổi “Ra Mắt Sách” cho nhiều tác giả tại Hoa Kỳ, tiêu biểu như cuốn Nguyễn Khoa Nam do Hội Phát Huy Văn Hóa VN ấn hành, cuốn Dòng Họ Ngô Đình – Ước mơ chưa đạt của Nguyễn Văn Minh, cuốn Ngã Tư  Hoàng Hôn của Văn Quang, cuốn Cung Oán Ngâm Khúc, bản dịch và chú thích của GS Nguyễn Ngọc Bích…

Một số tác giả đến từ các nước khác: nữ nghệ sĩ Bích Thuận, nhà thơ Bích Xuân từ Paris; GS Vũ Ký từ Bỉ, cuốn Biên giới Việt Trung của Ngô Quốc Dũng và cuốn Tự điển Pháp Luật của Lê Đình Hồ từ Úc v.v.. cùng với hàng chục buổi tổ chức RMS và bảo trợ cho các tác giả tại địa phương.

15 năm qua, 41 tác phẩm đủ thể loại đã được ấn hành, hàng ngàn trang viết chuyên đề văn học nghệ thuật trên nhật báo Thời Báo và 50 tạp chí Nguồn đã đến với bạn đọc. Hàng trăm người cầm bút và bạn hữu quan tâm đã hợp tác, tham gia các sinh hoạt của CN. Hàng trăm ngàn  độïc giả đã thường xuyên theo dõi, đọc và viết cho tờ báo mạng coinguon.us.

Những con số thống kê này ắt hẳn chưa nói lên đủ giá trị chất Văn học Nghệ Thuật dàn trải, tiềm tàng, lấp lánh trong từng trang viết, sau từng dòng chữ mà chúng tôi nghĩ, bạn đọc là thẩm quyền định tính và nhận xét trung thực nhất.

Thưa quý vị,

Thành quả này tuy khiêm tốn, nhưng rõ ràng thể hiện phần đóng góp của CN cho sự nghiệp đấu tranh mọi mặt của cộng đồng tị nạn, để sớm hoàn thành sứ mạng trở về. Đề cập đến kết quả của tổ chức, mà không nhắc tới tác nhân trách nhiệm hoàn thành, e rằng khiếm khuyết đáng tiếc. Chúng tôi xin thưa cùng quý vị ý kiến hầu như thống nhất của CN: “Nếu không có nhà thơ Song Nhị thì sẽ không có những may mắn đến ngày nay”.

Nhà văn Diên Nghị nói tiếp “Nếu một người không tôn thờ, ấp ủ một lý tưởng cao cả thì không thể biểu lộ được tinh thần dấn thân và sức cống hiến tràn đầy như vậy.

15 năm qua, vừa sinh hoạt, vừa học hỏi, CN đã lấy truyền thống đạo đức, trật tự Nho giáo làm kim chỉ nam, lấy tương thân tương kính làm phép tắc ứng xử xã hội… đề cao thiên chức người cầm bút, cố gắng rèn luyện để tránh sự quyến rũ, mê hoặc bởi cái bã lợi danh nhất thời, phù phiếm. Không sợ hãi bạo lực cường quyền, và tuyệt đối trung thành với Lẽ Phải và Sự Thật.

15 năm qua, có may, có rủi, có vui, có buồn, CN đã đón tiếp các hiền nhân quân tử, văn nghệ sĩ, bè bạn bốn phương. Một số gần gũi với CN trong những buổi đầu nâng ly rượu Đào Viên thân mật, phấn khởi; nhưng cũng có bạn đến rồi đi vì lý do riêng tư nào đó….

CN, một tổ chức Bất Vụ Lợi, không đặt ra tiêu chuẩn ràng buộc hội viên. Đến với CN kể cả yểm trợ, giúp đỡ CN hoàn toàn tự nguyện và không có một trao đổi qua lại nào.

CN cũng không chủ trương vận động hội viên gia nhập, không thu nguyệt liễm. Một bạn hữu tuy đã ra đi, không còn đồng hành với CN tiến lên phía trước, nhưng CN không bao giờ dám nghĩ “con người đi ra từ ngõ VHNT dễ dàng qua đêm đã biến bạn thành thù!” CN vẫn một lòng sau trước, vẫn truyền thống dung thông:

“Đã trót tương phùng trong một quán

Dẫu trà ôi, rượu nhạt cũng là duyên…”

Nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thủy, khoảng ba tuần lễ trước ngày xẩy ra tròï vu vạ do bạo quyền Hà Nội giàn dựng, đã tha thiết nói với CN: Xin chấp nhận cho bà trở thành hội viên thường trực của CN. Con người nữ nhi bất khuất ấy, nói ngắn gọn mà chúng tôi cảm nhận được thật dài về lòng thành của một cây bút anh hùng đã tìm ra nơi tin cậy.

Thưa quý vị,

Thi Hào Nguyễn Du dựng nhân vật Thúy Kiều, hồng nhan đa truân, hoa trôi bèo giạt, nghiệt ngã tận cùng, nhưng đã được kết thúc trong vòng 15 năm bằng mối tình thủy chung, siêu lý tưởng hiếm có.

Với CN, 15 năm, chỉ một đoạn đường. 15 năm không dài, cũng không quá ngắn, 15 năm đã soi rọi, kiểm điểm, khẳng định, hoàn thiện chính mình.

15 năm qua, mỗi thành viên tự nguyện của CN đã lượng sức mình, khai đào được những vũng nước nhỏ với khát vọng đi ra biển lớn.  

Quý vị ân nhân, mạnh thường quân, bạn đọc, bạn viết đã đưa bàn tay hào hiệp tiếp sức để CN vững bước đi đến hôm nay.

“15 năm ấy biết bao nhiêu tình”. Tình của quý vị, quý bạn dành cho Cội Nguồn không thể đo đếm nổi, tình đã thẩm thấu vào từng buồng tim, tế bào thành kích thích tố thúc đẩy chúng tôi tiến lên cùng ngọn trào tị nạn. Chúng tôi xin thành tâm nổ lực hơn để đáp tạ thịnh tình của quý vị và các bạn.

Thưa quý vị,

Hôm nay, hương sắc mùa xuân chốn tạm dung tỵ nạn còn nồng thắm, qua chặng dừng 15 năm, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Chúng tôi mang theo hành trang mới, tác phẩm “Nửa Thế Kỷ Việt Nam” – bút ký, tự truyện của Song Nhị đã được quý vị thương mến, đón nhận. Chúng tôi sẽ đi tới bằng tín hiệu của niềm tin và hy vọng đó”.

Xen kẻ giữa các bài nói chuyện là chương trình văn nghệ phụ diễn với tiết mục ngâm thơ do nữ nghệ sĩ Bích Ty, đến từ miền Nam, chị cũng là MC phụ trách phần văn nghệ, diễn ngâm bài thơ “Ký Ức Những Trang Đời” của Song Nhị trích trong tập “Tiếng Hót loài Chim di”. Ca sĩ Nguyễn Mạnh Hùng trình bày bài hát “Vùng Sau Lưng” thơ Song Nhị, Ngọc Loan phổ nhạc. Ca sĩ Thanh Vũ hát bài “Chặng Dừng” thơ Song Nhị nhạc sĩ Đào Nguyên phổ nhạc và chính cô đệm đàn cho Thanh Vũ hát. Các ca sĩ Lệ Hằng, Ái Lan, Mỹ Thể , Phạm Nguyên Lương  trình bày các khúc tiếp theo.

Buổi ra mắt sách NTKVN của Song Nhi đã để lại một ấn tượng tốt đẹp trong dư luận vườn hoa văn nghệ miền Bắc Cali. Kể từ khi xảy ra hệ lụy qua 2 cuốn sách của 2 nhà văn quốc nội, ngay đến trước buổi RMS vẫn có đôi người “bè xỉu, tiếng ong tiếng ve” không những nhắm vào cá nhân tác giả và CN mà còn cả đối với một số thành viên BTC. Tuy nhiên, qua buổi ra mắt sách, những điều mà cựu Trung Tá Không Quân Võ Ý gởi cho tác giả qua email hết sức chân thành nhưng vẫn chưa chính xác 100%. Phải nói, buổi RMS đã trả lại danh dự và uy tín cho tác giả và CN. Những điều nghiệt ngã trong cuộc sống bao giờ cũng có, và nghiệt ngã đó sẽ được xóa tan theo thời gian. Nhưng, nghiệt ngã đến tự những con người “bất tài vô tướng”, những con người “ăn xổi ở thì, vong ơn bội nghĩa”, hay một số người vị tị hiềm, gánh ghét dựng ra thì “nhãn tiền trước mắt” thì sự xóa tan không cần đợi thời gian.

Nếu những nghiệt ngã đã đổ lên nhà văn Song Nhị và CN vài năm trước là sự thật thì khoảng thời gian từ khi chuyện hàm oan xảy ra cho đến ngày 11-4-2010 vừa qua, sẽ không có cách gì để cho buổi RMS có thể thành công được, cho dù NTKVN có là tuyệt tác đến đâu và cho dù BTC có tài giỏi, hùng hậu đến đâu đi nữa.

Cái chính là dù có những chuyện xuyên tạc, dựng đứng đối với Song Nhị và CN hoàn toàn không có giá trị gì, mà giá trị được nhìn thấy chỉ là bài học cho bất cứ ai về tình người, tình văn nghệ. Không bao giờ có tình người, tình văn nghệ ở những con người không có phong cách văn nghệ.

Mưa to, gió bạo trong suốt 2 tiếng đồng hồ và vào lúc cao điểm của buổi RMS cơn mưa bắt đầu nặng hạt và những đợt gió thổi vùn vụt. Nhưng, điều lạ xuất hiện…! Mưa gió cứ mưa gió, từng chiếc xe, từng tốp người cứ nối đuôi nhau vào bãi đậu, vào sân trước hội trường dồn dập. Khách mời, người tham dự nườm nượp đi vào phòng tiếp tân, đến bàn mua sách, chuyện trò rôm rã. Con số gần 300 người tham dự là một sự bày tỏ thái độ chính xác cho sự hàm oan của Song Nhị và Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn.

Ở Song Nhị, khi chúng tôi đọc lời tựa của anh in trên tập truyện “Hương Hồng Quế” của tác giả Vũ Lưu Xuân đã viết: “Năm 1981, Vũ Lưu Xuân bỏ nghề dạy học, gom toàn bộ sách vở cân bán “ve chai”, tự nguyện làm “tên vô học”, nhưng Vũ Lưu Xuân đã không thể buông bút…”.

Song Nhị nói cho tác giả Vũ Lưu Xuân hay là tự nói cho chính mình? Vì bản chất, một Song Nhị không thể buông bút hay một Trần Kim Lý không thể từ bỏ lập trường chống Cộng của mình trong mọi hoàn cảnh.




Hoàiniệmchốnxưa:Giọt Nước Mắt Đơn Phương

Giọt Nước Mắt Đơn Phương

Giọt Nước Mắt Đơn Phương

Hỡi

Ôi Ðà Lạt sau bao năm xa cách
Sao xấu đui như cục đất chui
Hai mươi năm sao Ðà Lạt vẫn đen thui
Sao Ðà Lạt vẫn lủi nhủi như một gã lủi thủi

Lê Thị Huệ, 1995.

– Đọc 4 câu thơ của Huệ sao mà chua chát cho bộ mặt Đà Lạt 20 năm sau quá đổi…

– Nhưng còn lòng người Đà Lạt thì sao hở Huệ? Tôi cũng muốn họa lại 4 câu thơ gọi là đáp tạ, Huệ đã cho tôi và các bạn có cái nhìn rõ về Đà Lạt 20 năm sau… nhưng tôi không thể, bài viết của Huệ làm tôi buồn, một nỗi buồn của 23 năm sau, cũng tại Đà lạt khơi dậy làm tôi quặn thắt nên thôi…
Cám ơn Huệ rất nhiều, cũng nhân cơ hội này, tôi xin gói ghém tất lòng một nỗi buồn man mác cho sự trở về 23 năm sau…
Tôi xin đi thẳng vào vấn đề tôi muốn nói. Cũng không phải là nhà văn, không phải là nhà thơ, nên không thể trời trăng mây nước đầy đủ cho cuộc hành trình này.
Tôi về lúc đó là năm 1998, không phải lén về như cô Huệ, nhưng cũng không dám về một mình. Tôi tháp tùng một cuộc du lịch của học sinh gọi là đi tour các nước Đông Nam Á. Đà Lạt là một trong những điểm đến và đi, nhưng Đà Lạt để lại cho tôi dấu ấn sâu sắc về lòng người và tình người…
Đà Lạt phải nói trước mắt tôi hoàn toàn xa lạ, xa lạ từ cảnh vật đổi thay đến tan tác…Xa lạ từ gương mặt ngơ ngác…thất thểu…Xa lạ từ lòng người khi đối diện, họ vồn vã trong cách xã giao, mời mọc, tôi không nhận ra một chút nào về chất thật ở họ, chất thật một người Đà Lạt trước năm 1975. Tôi không thầm trách cho nhân tình thế thái, vì tôi phải biết họ phải vật vã, khốn đốn, họ buộc phải đổi thay có thể nói là MỘT MẶT HAI LÒNG, để sống còn, để tồn tại một thân xác, mà tâm hồn cao đẹp đã chết kể từ khi cuộc diện gọi là đổi đời, chôn kín như mất đi những gì cao quý mà họ đã từng ắp yêu cũng chỉ vì chén cơm manh áo.
             Ngỡ ngàng khi đối diện
Lang thang một mình trên mảnh đất thân yêu, tôi cảm nhận mình thực sự cô đơn và lạc lõng, lạc lõng như ngày đầu sang xứ người, chung quanh mình không biết ai là ai. Chỉ còn một hy vọng cuối cùng, tôi cần tìm ra những gì tôi muốn tìm, đó là những người bạn, những người anh, những người em chưa từng biết mặt, nhưng cùng chiến tuyến với tôi khi xưa. Cùng một tâm trạng nhưng hai hoàn cảnh, hoàn cảnh người ra đi, hoàn cảnh người ở lại, tôi tin là tâm trạng không khác gì nhau, có khác chăng là những người ở lại phải gánh chịu vì thể xác bị dập vùi…
Như đã nói phần trên, một mặt mà hai lòng, xin các bạn chứng cho điều tôi sắp kể:
– Tôi vào một quán ăn, sau khi gọi phần ăn, tôi tiếp một lượt ba vị khách không mời mà đến, đó là ba anh bán vé số, thoạt nhìn, bị thương tật, nhưng rất vồn vã qua sự mời mọc. Thú thật các bạn, tâm trạng tôi bây giờ, dù biết những thương phế binh bao gồm cả hai bên, dù tôi nhận ra họ là ai? là phế binh VNCH thật hay giả, tôi không để tâm dù tôi biết họ giả nhưng tôi vẫn mua vé số, trả tiền mà không cần thối lại. Một điều, là một mặt hai lòng của họ, tôi khó mà tìm và tiếp cận người thực sự là bạn của tôi.
Một buổi sáng, tôi thả bộ lên dốc Hòa Bình, phía đối diện từ xa, lại cũng một anh bán vé số đang khó nhọc gượng gạo trên chiếc nạng gỗ thay cho chân phải, xoáy từng bước khó nhọc, đổ con dốc ngắn loang lổ vì xoáy mòn theo năm tháng, nhưng lần này, trông dáng anh tiều tụy, không như ba anh mà tôi đã gặp qua. Anh mặc chiếc áo trắng, chiếc quần nhà binh nhạt màu, đặc biệt là chiếc nón lưởi trai quân đội khi xưa đã nhàu nát, linh cảm cho tôi biết đây là người tôi muốn tìm, anh vừa điều khiển đôi chân, vừa chìa xấp vé số cho tôi, môi mấp máy không ra lời như mời gọi một ân huệ từ tôi.
– Anh vào đây tôi mua cho anh.
– Cám ơn.
Anh trao xấp vé số cho tôi, tôi cầm trên tay như lựa con số; nhưng không, tôi đang suy nghĩ phải mở lời với anh thế nào, để phút đầu tiên không gây ngỡ ngàng cho anh và cho tôi.
– Anh bán vé số bao lâu? có phải vì cuộc chiến mà anh thương tật thế này không ?
– Sau 75, tôi
bị đuổi khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, được biết gia đình bị nạn chìm ghe khi di tản, tôi lây lất đầu đường xó chợ, chân bị nhiễm độc (tử hoại ) phải cắt bỏ thêm một khúc nữa, là tự tôi cắt bỏ vì không tiền đi viện. Cuối cùng, tháng 9 năm 1975, tôi trở lại Đà Lạt một thân một mình, vì nghĩ mà thương cho ống chân phải của tôi đã và đang nằm lại nơi đây, tôi không muốn rời xa dù biết rằng nó vĩnh viễn xa tôi. Người chết là mất đi, tôi may mắn dù sống trong âm thầm lặng lẽ, nhưng tôi không muốn mất đi những gì thuộc về ký ức, thuộc về bản thân tôi. Tôi biết ngoài tôi ra không ai thương tôi hơn tôi thương cho chính bản thân tôi, giữa một xã hội hiện hữu vẫn là người Việt Nam, nhưng tôi đã bị khai tử lâu rồi anh à!

Anh nói đến đâu, nước mắt tôi rơi một cách tự do đến đó, giọt nước mắt nhạt nhòa lẩn lộn niềm thương cảm cho đồng đội tôi và cho cả chính tôi. Anh đâu có biết những người còn lành lặn ra đi, cũng mang một khối sầu ly hương, cũng nhớ nhung đồng đội, cũng tiếc rẽ cho thân mình. Ngày hôm nay trở về đây, tôi cũng nhận rõ ra là tôi cũng bị khai tử nào có khác chi anh. Phải, hôm nay tôi phải khóc, khóc trước sự chứng kiến của một người bạn, không phải khóc thương hại cho nhau mà là khóc cho niềm thương cảm, khóc cho tình người tan tác muôn nơi…khóc cho nỗi bất hạnh cả hai…
Qua giây phút cả hai yên lặng như để nhận ra sự gần gũi về nhau, tôi ngước mặt nhìn anh sau một cái quẹt nước mắt vụng về, kỳ thật là lúc anh kể chuyện, tôi nghe rõ tiếng nất nghẹn của anh từng chập, ấy vậy mà mặt anh ráo khô, không một giọt nước mắt rơi, cũng không đỏ mắt. Thấy như hiểu ra ngạc nhiên của tôi, anh ấy sởi lởi :
– Tôi đang khóc đó chứ anh, giọt nước mắt khô cạn từ lâu lấy đâu ra cho anh thấy bây giờ, giọt nước mắt của anh cũng là của tôi đó mà…
Câu chuyện mỗi lúc có mòi thân tình hơn, tôi bắt đầu hỏi thêm về anh :
– Anh bị thương từ khi nào? Ở đâu? Đơn vị nào vậy anh?
– Thưa anh, tôi nguyên trung đội trưởng thuộc đại đội trinh sát Biệt động quân, có nhiệm vụ án ngữ và tảo thanh VC tại đồi 2 vú Lâm Đồng, tôi bị đạp phải mìn trong lúc xáp lá cà với địch vào tháng 12 năm 1974.
– Anh còn người thân không ?
– Tôi quê ở Vũng Tàu, lúc đó tôi còn trẻ chưa có vợ, cha mẹ và anh chị ra ghe xuôi theo làn sóng tị nạn, bị chìm và tất cả đều chết. Còn người thân quen ư? Còn, như không, có ai còn quan tâm cho ai đâu anh; vả lại có còn biết đâu là quê hương cưu mang và chứa chấp mình…
– Anh bán vé số có đủ sống không anh?
– Dạ, cũng tạm. có khi mưa phùn cả ngày không bán được, cũng như anh thấy đó ! Diện như tôi thì đâu có tư cách để vào nơi sang trọng để bán, những nơi đó ưu tiên cho các anh phế binh bên kia. Những lúc ế như vậy thì cũng đành chấp nhận chịu lạnh vì nhịn đói, nhưng rồi cũng qua, vì mỗi lần như vậy là tôi nghĩ đến chân phải của tôi còn lạnh gấp bao lần, có khi giờ này và mãi mãi ngâm mình nơi dòng suối nào đó là tôi tự khắc thấy ấm lại.
Thì ra, ba anh khi chiều hôm qua tôi gặp chính là thương phế binh bên kia, thảo nào có vẻ yêu đời và mập mạp…Tôi lấy chiếc áo trong túi xách choàng vào vai anh :
– Thấy anh đang lạnh, anh mặc vào cho ấm mình tiếp tục. Tặng cho anh làm kỷ niệm, vì biết bao giờ tôi mới gặp lại anh.
– Cám ơn ( cười ).
Câu chuyện sắp hồi kết thúc, vì đám học trò tề tựu, tôi đặt vấn đề với anh :
– Có lẽ mình chia tay anh à! Vé số này tôi mua hết cho anh. Tôi biết nói ra điều này có khi không phải, không có gì có thể lấp đầy mất mát trong tâm hồn cả 2 chúng ta. Đây là một món tiền nhỏ tôi kèm theo, mong anh không nghĩ ngợi và nhận cho tôi vui lòng.
– Rất cảm kích tấm lòng của anh, của một đồng đội mà ngày hôm nay anh đã cho tôi một hạnh phúc quá đầy đủ mà tôi hằng khao khát. Còn món tiền xin gửi lại anh, xin hãy cho tôi được giử trọn vẹn hình ảnh đẹp ngày hôm nay, hình ảnh gặp lại đồng đội của tôi, nếu anh có bịch gạo sấy cho tôi bây giờ tôi sẽ nhận ngay…
Nói đến đây, anh ôm hôn tôi, nước mắt ràn rụa ướt cả mặt tôi và anh vội q
uay đi, tôi chạy với theo vừa móc ra xấp vé số, lúc này anh không nói không rằng, tôi cũng nhanh tay vúi vào túi anh toàn bộ vé số, và cũng chỉ nói đứt quãng một câu: Tặng cho anh, chúc anh trở thành triệu phú…Cả hai chúng tôi như đang trốn chạy ngược chiều nhau…

                                                           
Hoàiniệmchốnxưa




Phạm Minh Tâm : Những sự thật rất “thực”

Những sự thật rất “thực”

3/08/10
Những sự thật rất “thực”

Cây Thánh giá trên Núi Thờ ở Đồng Chiêm mà cũng là biểu tượng chung của khối Ki tô giáo trên hoàn vũ đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phá đổ… và thái độ dửng dưng như khách bàng quan của đa số thành viên thuộc Hàng Giáo phẩm Việt Nam cũng là sự thực. Còn những lý do của phía chính quyền nêu ra là không thực và lời giải thích này nọ của giáo quyền cho dù là không nói dối thì cũng chỉ là nói quanh. Cho nên, khi đức Hồng y Phạm Minh Mẫn nói một số giám mục đề nghị tôi đi tìm hiểu sự thật “thực” tận gốc rễ cũng là một cách quyết định loanh quanh của một số giám mục.

Trong một bài viết mới đây với nhan đề “TÌM RA SỰ THẬT “THỰC”,  linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh có nhận định về việc đức Tổng giám mục Sài gòn đã có mặt ở Vatican trong những ngày từ 30/5/2010 đến 03/6/2010 vì một “sứ vụ” quan trọng như chính đức Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn giải thích “Trong tình hình một số ý kiến trên mạng hay qua truyền tai nhau, tạo nên dư luận gây ít nhiều hoang mang và bất ổn trong cộng đoàn Giáo hội và xã hội, ví dụ như một vài dư luận cho rằng có sự tắc trách của Bộ Truyền giáo, sự thoả hiệp của Bộ Ngoại giao, sự cấu kết của một ít nhân vật trong Giáo hội vì tư lợi, sự ngây ngô của Vatican…, một số giám mục đề nghị tôi đi tìm hiểu sự thật “thực” tận gốc rễ.

Như vậy là đã có một kinh nghiệm quá rõ ràng. Việc một chủ chăn có bề thế trong Giáo hội và cũng có thể là có uy tín đối với nhà nước cộng sản Việt Nam hiện nay nhìn nhận rằng có những sự thật không thực. Bằng vào kinh nghiệm dưạ trên lời nói này, chúng ta có thêm một hướng nhìn để nghiệm duyệt lại là có thể  từ xưa đến  nay, nhất là từ  sau 1975 , ngoài Đức Ki tô là Chân lý vĩnh cửu ra thì trong cõi nhân gian này, trong lòng dân tộc này và ngay cả trong Giáo hội Việt Nam ngày nay này vẫn có những sự thật không thực, những sự thật giả trá, bịa đặt, dàn dựng, sắp xếp và ngụy tạo v.v… Cho dù đó là sự  thật  đuợc nói ra từ miệng một  đấng bậc nào đó hay đuợc loan đi từ những thông báo, thư chung…và có thể là cả những thư mục vụ nữa.

Tuy nhiên, xét theo hiện trạng xã hội và Giáo hội Việt Nam, những sự thật thực hay không thực theo nghĩa của Đức Hồng y Phạm Minh Mẫn thường chỉ trú ẩn và lan tràn  theo ngôn từ nhiều hơn là những hành động. Nghĩa là, xuyên qua  những lời tuyên bố, các văn bản hành chánh, các diễn văn, diễn từ, tham luận, xã luận, những câu trả lời các cuộc phỏng vấn của các chức  sắc “có máu mặt”, có điều kiện ăn nói… thì sự thật “thực”  trong đó hẳn chẳng có là bao. Còn các sự việc diễn ra giữa đời gây tác dụng trên chính sinh hoạt của con người thì làm sao che dấu… Cho nên, “ngôn” thì có thể là “xảo” nhưng “hành” thì lại rất thực tiễn và lộ liễu. Và rồi,  những hậu quả phát sinh từ những thái độ sống hay hành động sẽ là mặt thật của sự thực.

Cây Thánh giá trên Núi Thờ ở Đồng Chiêm mà cũng là biểu tượng chung của khối Ki tô giáo trên hoàn vũ đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam phá đổ… và thái độ dửng dưng như khách bàng quan của đa số thành viên thuộc Hàng Giáo phẩm Việt Nam cũng là sự thực. Còn những lý do của phía chính quyền nêu ra là không thực và lời giải thích này nọ của giáo quyền cho dù là không nói dối thì cũng chỉ là  nói quanh. Cho nên, khi đức Hồng y Phạm Minh Mẫn nói một số giám mục đề nghị tôi đi tìm hiểu sự thật “thực” tận gốc rễ cũng là một cách quyết định loanh quanh của một số giám mục.

Bởi vì, sự thật là khi  các vị  được đặt làm thủ lãnh một Giáo hội điạ phuơng thì các vị phải thực hành trách nhiệm  của mình tại điạ phương đó. Việc sinh hoạt của Giáo hội Việt Nam trong phần vụ mình mà lại đi tìm hiểu sự thật “thực” tận gốc rễ bên Vatican… Có thực vậy không?

Sự thật là Đức Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt đã bị  nhà cầm quyền Hà nội đòi buộc phải từ chức, phải bị trục xuất khỏi Hà nội, rồi khỏi Việt Nam và đã bị đưa đi vào lúc nửa đêm như một tội đồ, một nạn nhân bị bắt cóc. Còn việc ngài bị bệnh đến độ mất khả năng cai quản Tổng giáo phận Hà nội hay không thì sự thật này không ai biết đuợc… ngoài những người của chế độ và chính bản thân người  phải chịu trận.

Sự thật là kể từ sau biến cố 30/4/1975, Giáo hội Công giáo Việt Nam đã mất hoàn toàn sự bình an cả mặt thiêng liêng đến phần thế tục. Thời gian đầu thì giống như bị cấm cố với việc đóng cửa các chủng viện, kiểm soát chặt chẽ  các dòng tu  và bị chiếm hữu từng phần cơ sở vật chất… Rồi các thừa tác vụ  tư tế, vương đế, ngôn sứ thiêng liêng bị giới hạn và các thẩm quyền của Đức Ki tô trao ban để quản trị, thánh hoá và giáo huấn cũng bị lấn lướt, bị kiểm soát.

Sự thật là tuy hiện nay có  bề ngoài xem ra trù phú với việc xây cất vô chừng, song chính sách tôn giáo của nhà nước lại tinh vi hơn. Việc các Đại chủng viện đuợc mở lại phải đi kèm theo những điều kiện như duyệt xét danh sách chủng sinh theo lý lịch khi nhập học hay khi phong chức đã đành, mà điều đáng nói là chủ nghĩa  Mác Lê đã phải đuợc chính thức giảng dạy tại các Đại chủng viện do cán bộ đảm nhiệm. Tại các dòng tu, nhất là dòng nữ, khi đuợc phép mở lại các lớp dạy mầm non hay mẫu giáo thì kèm theo điều buộc là phải thay thế các hình ảnh về đạo hoặc Thánh giá trong phòng học bằng hình “bác Hồ” .

Sự thật là tại Miền Bắc, sau khi nhà nước đòi phải chấp nhận cho cán bộ nhà nước vào giảng dạy chủ nghĩa Mác – Lê trong chủng viện nhưng Đức cha Trịnh Như Khuê không chịu nên từ  năm 1960 các Đại chủng viện đã bị đóng cửa. Rồi trong cảnh lêu bêu, vất vưởng của một Giáo hội thầm lặng suốt 20 năm cũng có đuợc các giám mục Nguyễn Quang Tuyến, Chu văn Minh, Nguyễn Văn Yến và một số linh mục.

Sự thật là chính vì Giáo hội đã mất hoàn toàn tính cách thiêng liêng với những sinh hoat tôn giáo bị kiểm soát như vậy cho nên các đấng bậc đã vì  bản tính con người mà đặt nặng vấn đề “lập trường”, vấn đề “quan điểm” kiểu tránh nắng cầu rợp hơn nên không gặp nhau đuợc trong cùng cách thế thi hành sứ vụ rao giảng. Vì thế đã  để thành phe, thành phái, thành nhóm này nhóm nọ và cụ thể nhất là lằn mức giữa hai  khái niệm để đánh giá  là quốc doanh và chính truyền. Vậy thì sự thật về việc thiếu hợp nhất là ở đâu? Do giáo dân gây ra hay do chính các vị tự tác.

Sự thật là càng ngày trong cơ cấu sinh hoạt của Giáo hội, chẳng hiểu vô tình hay cố ý, càng phát sinh tình trạng dị dạng cả về người lẫn việc, nếu không muốn nói là coi thường dư luận, coi thường tín hữu. Chẳng hạn như gần đây, trên mạng lưới Nữ Vuơng Công Lý và nhiều trang báo hay diễn đàn điện tử khác đã loan tin về Thánh lễ kết thúc Năm Linh mục và truyền chức cho 33 tân linh mục của Tổng giáo phận Sài gòn do  Hồng y Phạm Minh Mẫn và  Giám mục Phụ tá Nguyễn Văn Khảm chủ tế mà khi bắt đầu thì dàn kèn đồng đã cử  bản nhạc “Cùng nhau đi hồng binh” đuợc mỉa mai bằng cái tên gọi  là thánh nhạc mới của Tổng giáo phận Sài gòn. Bài hát này có xuất xứ rõ ràng. Đó là một bài hát của nhạc sĩ Đinh Nhu, được sáng tác năm 1930 khi tác giả đang bị giam trong tù, lấy cảm hứng từ cao trào đấu tranh cách mạng sôi nổi lúc đó của Việt minh, đặc biệt là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, được coi là bài hát đầu tiên của tân nhạc cách mạng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam, lời lẽ như sau:

Cùng nhau đi Hồng binh
Đồng tâm ta đều bước
Đừng cho quân thù thoát
Ta quyết chí hy sinh
Nào anh em nghèo  đâu
Liều thân cho đời sống
Mong thế giới đại đồng
Tiến lên quân Hồng
Đời ta không cần lo
Nhà ta không cần tiếc
Làm sao cho toàn thắng
Ta mới sống yên vui

Khi đuợc hỏi tại sao lại có sự gở lạ này thì ông Nguyễn Nghị, một trong số chín thành viên  chủ chốt của WHĐ (trang mạng của Hội đồng Giám mục Việt Nam) và cũng là nhân viên của tờ “Công giáo và dân tộc” thuộc UB Đoàn Kết công giáo của Mặt trận Tổ quốc TP. Hồ Chí Minh đã trả lời mỗi lúc mỗi khác rằng “đó chỉ là một sự cố nghề nghiệp, vì đám thổi kèn tây này có thói quen chơi “liên khúc”, hết bài này sang bài khác, mỗi bài chỉ có một đoạn thôi, chứ không phải do chủ ý hay do chỉ đạo từ Bề trên đâu(?).

Ông Nguyễn Nghị còn thêm là nếu nghi lễ mà còn kéo dài thì có khả năng sẽ có thêm bài  “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” nữa. Rồi cũng ông Nguyễn Nghị lại giải thích với người khác rằng đây là một bài Thánh ca có cái “air” giông giống bài “Cùng nhau đi hồng binh”. Ai cũng thấy lối giải thích này cũng có thể dễ tin cách đơn giản là vì sự cố nghề nghiệp nếu đây là một đám ma, tang gia muớn ban nhạc kèn tây và không cho họ sự chỉ đạo nào. Bởi vì cũng đã có trường hợp ban nhạc kèn tây đám ma, khi đến lò thiêu họ chơi nhạc Lambada…

Nhưng thưa ông Nguyễn Nghị, đây là Thánh lễ kết thúc Năm Linh mục và truyền chức cho 33 tân linh mục của Tổng giáo phận Sài gòn, chẳng lẽ không có một ban tổ chức với sực chỉ đạo và cố vấn của  các linh mục nên Giáo phận (?) đi mướn ban nhạc kèn tây tào lao thay vì  dàn nhạc nào đó với sự hướng dẫn của chức sắc trách nhiệm… Cứ theo như cách ông Nguyễn Nghị nói thì đã chẳng hoá ra những sinh hoạt của Giáo hội bây giờ thả nổi cho bừa bãi  như thế sao?…

Một sự thật quan trọng là thái độ làm ngơ của đa số các vị thành viên của Hội đồng Giám mục Việt Nam trước những vụ việc như Toà Khâm sứ, Thái hà, Loan Lý Đồng Chiêm đến những thay đổi nhân sự đột ngột tại Tổng giáo phận Hà nội, tại Giáo phận Vinh… thì hàng giáo phẩm đã bị mất mát nhiều uy tín, lòng kính trọng và sự tin tuởng của cộng đoàn tín hữu.

Bởi vì, những sự thật trên đã thúc đẩy người tín hữu  đến lúc cần minh định lại trong đức tin “mến Chúa, yêu người” cách cẩn trọng hơn cái thói quen chỉ biết tôn sùng chức vụ và vâng lời tối mặt  để không bị lệch lạc theo cảm tính xưa nay đã quen giản lược Đức Ki tô với các vị thế và quyền uy  trong cơ chế Giáo hội. Như một linh mục cao niên  trong  Nhóm phiên dịch Kinh Thánh và Các giờ kinh Phụng vụ, cha Đỗ Xuân Quế,  đã nhìn nhận…“Chắc hẳn nhiều người vẫn còn tin vào Hội đồng Giám mục, vì tin vào thánh ý Chúa qua các vị đó, như đã được dạy. Nhưng bên cạnh đấy, không thiếu những người biết lượng giá cũng như phê bình, phân tích các sự việc. Họ hoài nghi vì sự yên lặng triền miên của HĐGM trước những nỗi thống khổ của tín hữu ở nhiều nơi, vì dám biểu lộ đức tin để bênh vực sự thật và công lý, cũng như trước những cảnh đảo điên trong xã hội cần được sự lưu tâm và hỗ trợ của một thế giá và quyền uy tinh thần như HĐGM.

Sau hơn ba thế kỷ tiếp nhận Tin Mừng, cộng đồng Dân Chúa Việt Nam đã có nhiều, rất nhiều nếu không muốn nói là đông đảo tín hữu  không còn là đám quần chúng ngây ngô, xuẩn ngốc bị đẩy cây mà la lên đòi giết Chúa cách man rợ trước dinh Phi la tô nữa. Họ đã nhận ra Đức Ki tô không xuống thế làm chính trị nhưng Người đã bị treo lên Thập giá vì cá nhân những chức sắc trong đạo do  tham vọng xuẩn động đã ỷ vào quyền lực chính trị hoặc bị  quyền lực này áp đặt nên cố tình nguỵ biện theo sự ác mà giết Người. Họ đã sáng suốt cho mọi người nhìn ra chân giả mà giưong cao nhận thức trước nhà thờ chính toà Hà nội ”Đức Tổng Ngô Quang Kiệt mới là người chủ chăn đích thực” với một chữ “mới” nhấn mạnh đủ chứng tỏ là “thật đã không thiếu những người biết lượng giá cũng như phê bình, phân tích các sự việc”…

Vậy thì, sự thật nằm ngay trong chính  lương tâm Công giáo của các đấng bậc,  của muôn  người khi  thấy cần thiết soi chiếu lại chính tâm linh mình cho đuợc gạn đục khơi trong, cũng như cho xã hội Việt Nam đuợc sáng  sủa hơn  theo tiếng gọi về công bằng thực sự của xã hội như Hồng y  Renato R. Martino Chủ tịch Hội đồng Công lý và Hoà bình đã quả quyết như vậy vào dịp khai mạc một cuộc hội thảo quốc tế về đạo đức và chính trị với đề tài “Chính trị, hình thức đòi hỏi của đức ái” (La politique, forme exigeante de la charité) tại Vatican ngày 20.6.2008: “Hội thánh không làm chính trị, nhưng có một học thuyết về chính trị, hầu có thể chu toàn sứ mệnh của mình, để phục vụ công thiện công hảo (L’Eglise ne fait pas de politique mais elle a une doctrine sur la politique, de façon à pouvoir accomplir sa mission au service du bien commun). Đấy là sứ mạng thực sự mà Hồng y Renato R. Martino đã khẳng định “Duy trì và cổ võ nơi lương tâm mọi người ý thức về phẩm giá siêu việt của nhân vị: đó là sự đóng góp đầu tiên và cốt yếu mà Hội thánh cống hiến cho cộng đồng chính trị. Trong “sứ điệp” của Đức Ki tô do Hội thánh loan truyền, cộng đồng nhân loại có thể tìm thấy sức mạnh để yêu tha nhân như chính mình, để chiến đấu chống lại tất cả những gì phản nghịch sự sống, để chấp nhận sự bình đẳng căn bản của mọi người, (Conserver et promouvoir dans la conscience commune le sens de la dignité transcendante de la personne humaine: telle est la contribution première et essentielle que l’Eglise offre à la communauté politique. Dans le message du Christ annoncé par l’Eglise, la communauté humaine peut trouver la force pour aimer le prochain comme un autre soi même, pour combattre tout ce qui est contre la vie, pour admettre l’égalité fondamentale de tous, pour lutter contre toute forme de discrimination… )

Phạm Minh Tâm

——————————————————————————–

CÒN LÂU VIỆT CỘNG MỚI CHẾT.

Việt Kiều Gửi 3.7 Tỉ Đô Về Nước, 6 Tháng Đầu Năm 2010

VIETNAM — Có vẻ như là tình hình kinh tế thế giới và Hoa Kỳ đang khả quan hơn vì số tiền mà Việt Kiều gửi về nước từ đầu năm tới nay đã gia tăng đáng kể, theo tin của Đài RFI cho biết trong một bản tin hôm Thứ Ba, 3-8-2010.
Theo bản tin của RFI trích thuật nguồn tin từ Ngân Hàng Nhà Nước  CSVN cho biết nửa đầu năm nay Việt Kiều đã gửi về nước khoảng 3.7 tỉ đô la, tăng 20% so với cùng thời kỳ này năm trước.
Bản tin của RFI viết rằng, “Đây là một tín hiệu lạc quan, dự báo triển vọng nguồn kiều hối sẽ tăng vọt trở lại trong năm nay, sau khi bị suy sụp đáng kể vào năm ngoái, giảm đến 20% so với năm 2008 trước đó. Thông tin từ các ngân hàng thương mại lớn tại Việt Nam có dịch vụ nhận kiều hối đều xác nhận đà tăng kể trên.”
Bản tin của RFI nói rằng riêng Ngân Hàng Đông  Á  đã phúc trình số tiền Việt Kiều gửi về qua hệ thống ngân hàng này lên tới 600 triệu đô. Còn Ngân Hàng Sài Gòn Thương Tín thì cho biết là số tiền Việt Kiều gửi qua ngân hàng này trên 600 triệu đô, tăng 35% so với cùng thời kỳ này năm ngoái.
Bản tin RFI viết tiếp rằng, “Giới tài chánh Việt Nam lại còn lạc quan hơn nữa vì lượng kiều hối gởi về nước đã tăng mạnh một cách ‘’trái mùa’’ vì thông thường trong khoảng thời gian sau Tết, từ tháng 2 đến tháng 5, lượng tiền gởi về không nhiều. Trái lại, cuối năm thường là "mùa cao điểm" của kiều hối khi người Việt ở nước ngoài chuyển tiền về nước cho người nhà ăn Tết.”
Trích lời các nhà quan sát, bản tin RFI cho biết rằng lý do của sự kiện số tiền gửi của Việt Kiều về nước gia tăng là do “tình hình kinh tế thế giới đang hồi phục sau cơn khủng hoảng, đặc biệt tại những quốc gia là nơi xuất phát của nguồn kiều hối chuyển về Việt Nam.”
Tuy nhiên, ngoài số tiền mà Việt Kiều gửi về nước qua ngõ các ngân hàng nói trên còn có những lối chuyển tiền khác như qua thân nhân về nước trao tay trực tiếp cho người bà con trong nước, chẳng hạn.