CHIỀU ĐÔNG

CHIỀU ĐÔNG

(Kính tiễn Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ)
Trần Trung Đạo

Một ngày tháng 8 năm 1992, tôi nhận được một bài thơ của một người bạn tin cẩn gởi từ trong nước. Anh chép tám câu thơ của Hòa Thượng Thích Quảng Độ nhưng không có tựa.  

Tôi đọc và rất cảm động. Qua từng câu thơ tôi hình dung cảnh cô đơn, trống vắng, quạnh hiu mà Thầy đang sống trong thời gian lưu đày ở Thái Bình trong một buổi chiều đông. 

Sau 1975, giữa lúc gần hết mọi người đều đi theo chiều gió, Thầy cố bước ngược chiều để mong cứu vớt những gì còn sót lại sau những điêu tàn, đổ nát. Tinh thần vô úy của đạo Phật đã giúp Thầy vượt qua bao thử thách, cực hình, đày đọa.

Trong đêm tối giữa nhà lao Phan Đăng Lưu hay trong buổi chiều mưa tầm tã tay dắt bà mẹ già 90 tuổi trên đường lưu đày từ Sài Gòn ra huyện Vũ Đoài, Thái Bình, Thầy vẫn một tấm lòng son sắt với quê hương và đạo pháp. 
Chúng ta sống trên đất tự do, dễ dàng nói với nhau về yêu nước, yêu đạo, dễ dàng nói với nhau về hy sinh, đại nguyện. Nhưng nếu chúng ta sống một đêm, một đêm thôi, trong đau thương trăn trở giữa ngục tối Hàm Tân như HT Thiện Minh, một đêm mang nặng ưu tư đau nhức tại nhà tù Phan Đăng Lưu như HT Quảng Độ, một đêm trầm mặc suy tư trên mỗi bước thiền hành ở Quảng Ngãi như HT Huyền Quang, chắc chắn chúng ta sẽ hiểu ra rằng Bồ Tát giống tất cả chúng ta nhưng chúng ta không phải dễ dàng là Bồ Tát. 

Ngày đó không có mạng xã hội  Facebook như bây giờ. Chúng tôi là một nhóm vài trăm người sinh hoạt với nhau trong giai đoạn Internet còn rất phôi thai. 

Tôi gởi bài thơ cho cả nhóm đọc. Nhưng bài thơ thì phải có tựa. Tôi không nói với ai, chỉ im lặng và mạo muội đặt tựa là Chiều Đông, phía dưới viết tên tác giả HT Thích Quảng Độ. Luôn dịp tôi họa lại bài thơ của Thầy đặt tựa Tấc Lòng Son, và sau đó in trong tập Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười xuất bản lần đầu tại San Jose cuối năm 1992.

Trước ngày Thầy bị bắt và tôi chưa rời Việt Nam, mỗi tuần tôi thường gặp Hòa Thượng đi bộ từ chùa Giác Minh trên đường Lý Thái Tổ xuống ngã sáu Trần Quốc Toản, để từ đó đón xe Lam qua Thanh Minh Thiền Viện giảng thiền học. Dáng Thầy thanh cao, vầng tráng rộng, miệng Thầy luôn mỉm cười như chúng tôi thường bắt gặp trong những ngày trước 30-4-1975 ở Đại Học Vạn Hạnh. Phải chăng ngay cả trong lúc mang nặng ưu tư về tiền đồ dân tộc và đạo pháp, tâm Hòa Thượng Quảng Độ vẫn an nhiên, tự tại. 

Thầy dạy Triết Đông và tư tưởng Phật Giáo cho sinh viên các khoa Khoa Học Nhân Văn và Phật Khoa. Tôi không trực tiếp được học Thầy. Nhưng những buổi giảng chuyên đề của các thầy thường mở rộng cho sinh viên các ban khác.  Ngày đó tôi còn nhỏ nhưng may mắn được nhiều lần ngồi nghe các thầy dạy bảo. Hòa thượng Quảng Độ, Hòa thượng Minh Châu, Hòa thượng Mãn Giác, Hòa thượng Thuyền Ấn v.v.. Mỗi thầy một nét. Cao siêu nhưng gần gũi. Giản dị nhưng thâm trầm.  Những hạt giống nhân duyên các thầy gieo xuống tâm hồn tôi nay đã lớn lên. Kỷ niệm không bao giờ chết. Kỷ niệm lớn như cây. Nếu biết chăm sóc, kỷ niệm cũng nở hoa như những loài hoa tươi đẹp khác.

Ba mươi tháng Tư, 1975, chúng tôi như bầy chim bay tán loạn bốn phương trời. Dù phải sải cánh bao xa, chúng tôi đều mang theo trong tâm hồn mình những bóng mát của một thời tuổi trẻ. Thời của tuổi mười tám với buồng phổi căng đầy sức sống. Bóng mát đó là các thầy. Bóng mát đó là thiền viện, thư viện, giảng đường, và bóng mát đó là lý tưởng Duy Tuệ Thị Nghiệp.

Hành trình đầy bi tráng của Thầy trong suốt 10 năm bị bắt giam, tra tấn và lưu đày cùng với bà mẹ già 90 tuổi ở Thái Bình đã để lại một niềm thương yêu và kính phục sâu xa, không những trong lòng nhiều triệu Phật Giáo đồ Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà cả trong cộng đồng nhân loại. 

Bài thơ của Thầy:

CHIỀU ĐÔNG

Nghe lòng xa vắng những chiều đông

Nhìn nước mênh mông khắp mặt đồng

Bát ngát núi xa mờ bóng cọp

Thăm thẳm trời cao bặt cánh hồng

Bao độ cà tan cà nở nụ

Mấy mùa lúa rụng lúa đơm bông

Năm tháng mỏi mòn đầu đã bạc

Còn chút lòng son gởi núi sông 

(HT Thích Quảng Độ, Thơ Tù HT Thích Quảng Độ, trang 265)

TẤC LÒNG SON

Lời thầy vang vọng giữa chiều đông

Hương ngát vô ưu rót tận lòng

Mây nước muôn trùng tan với hợp

Quê hương ngàn dặm có mà không

Tóc xưa dẫu bạc lòng không đổi

Áo cũ dù phai giữ đạo đồng

Mười năm trải một lòng son sắt

Tiếng vọng ngàn thu với núi sông.

(Trần Trung Đạo, Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, trang 126)

Cách đây vài năm, khi nhận được thi tuyển Thơ Tù của HT Thích Quảng Độ lần đầu, tôi hồi hộp đọc phần mục lục trước để xem Thầy đặt tựa bài thơ là gì. 

Tôi rất vui và cảm động khi biết Thầy cũng đặt tựa bài thơ là Chiều Đông. Tôi thầm cám ơn Thầy đã cho phép tôi được sống trong cùng một tâm cảm với Thầy. 

Thầy là rừng, tôi chỉ là chiếc lá nhưng nhờ có nhân duyên lá và rừng được sống với nhau trong một chiều đông.

Sáng hôm qua, trong lúc đang đi bộ trên đường nhỏ trong xóm tôi nhận một tin nhắn của một Phật tử tin cẩn từ trong nước “Hòa thượng Quảng Độ vừa viên tịch”. Tôi lặng người. Không phải vì Thầy ra đi sớm nhưng vì Thầy ra đi. 

Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ viên tịch chấm dứt một chương dày 45 năm trong lịch sử đầy thăng trầm của Phật Giáo Việt Nam. Những chương mới sẽ mở ra nhưng sẽ khác hơn nhiều. 

Trong tất cả tôn đức chịu đựng tù đày, Thầy là vị đã sống trong tù lâu nhất. Từ tháng 6, 1977 cho đến khi viên tịch, Thầy vẫn là một tù nhân của chế độ CS tại Việt Nam. 

Chín mươi năm từ khi tiếng gậy trúc của chư tổ vang lên ở các tổ đình khởi đầu cho công cuộc phục hưng Phật Giáo. Trong thời gian đó, bao nhiêu đổi thay đã xảy ra cho đất nước Việt Nam và cho Đạo Phật tại Việt Nam. Hôm nay, một trong những vị còn lại của thế hệ phục hưng Phật Giáo vừa viên tịch. Con thuyền đạo pháp như Thầy nhấn mạnh sau 1975 vẫn còn chênh vênh và niềm trăn trở cho quê hương của Thầy vẫn còn trăn trở. 

Nhưng áng mây bay đi sẽ mang về những giọt nước cho cánh đồng khô. Không có gì còn hay mất. Chỉ là những dạng khác nhau trong một cuộc vận hành. Cành mai Quảng Độ vừa rơi xuống nhưng như Thiền Sư Mãn Giác đời Lý viết, sáng mai đây, những cành mai khác lại sẽ nở ra.

Bước chân của Thầy không còn nghe nhưng tình yêu của Thầy dành cho quê hương vẫn sáng như ánh trăng rằm, đậm đà như mùi hương của đất và dạt dào như lời thơ Thầy viêt trong một Chiều Đông năm đó.
Từ nước Mỹ xa xôi, con cúi đầu đảnh lễ giác linh Thầy.

Trần Trung Đạo




Cô Vi và Tết Canh Tý

Cô Vi và Tết Canh Tý

Bùi Văn Phú

Người Việt mua sắm đón Tết Canh Tý ở San Jose (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Châu Á năm nay đón tết chẳng vui gì vì
Trung Quốc đang trải qua một mùa xuân kinh hoàng, nhất là cho dân thành
phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc. Nỗi kinh hoàng lan toả ra cả nước trong ngày
tết linh thiêng của một dân tộc thì mới chỉ có người dân Việt Nam Cộng
hoà kinh qua cách đây 52 năm, Tết Mậu Thân.

Tết Canh Tý có “Cô Vi” xông đất, chẳng
mang lại hương hoa tốt lành mà gây bao sợ hãi. Cô tới từ đâu thì chưa rõ
lắm, từ chợ hải sản thú vật nhếch nhác bẩn thỉu hay từ phòng thí
nghiệm, hay dửng dưng từ trời cô xuống cõi trần hù thiên hạ một phen?

Thành phố Vũ Hán với hơn chục triệu dân
được cô xông đất đầu tiên khiến nơi đây phải bế quan toả cảng. Ngày đầu
năm âm lịch đường phố như bãi tha ma, im lìm vắng lặng.

Từ cái rốn của thế giới, Cô Vi lan toả,
gieo rắc lo lắng khắp nơi: Việt, Hàn, Úc, Phi, Đài, Anh, Nhật, Mỹ, Thái
và hai chục quốc gia khác. Ghé nơi nào cô làm giao động dân tình nơi đó.
Nhưng làm sao không cho cô ghé bây giờ? Đóng biên giới hay đeo khẩu
trang, đóng cửa trường hay đi di tản?

Bên châu Á, chỗ nào có bóng dáng cô là
thiên hạ lo bịt miệng, bịt mũi. Ở Hong Kong, Trung Quốc ra đường như lạc
vào hành tinh khác vì chỉ thấy những khuôn mặt bịt kín chừa đôi mắt. Mà
không biết khẩu trang, dù có hiện đại đến mấy, có ngăn chặn được cô hay
không. Dù chẳng ngăn cô được nhưng người châu Á cũng ùn ùn tìm mua khẩu
trang đến độ không còn mảnh nào. Ngay cả nhiều nơi ở California cũng
không còn hàng để bán. Con buôn đã thu mua hết để gửi về Trung Quốc hay
sao? Hơn một tỉ người mà dùng hàng nào thì hàng đó có giá ngay.

Buôn bán làm ăn với Trung Quốc là có lời
ngay trước mắt nên đã từng nghe nói: “Chỉ cần mỗi ngày một người Trung
Quốc uống một lon Coca Cola thôi là đủ giúp cho nền kinh tế Mỹ rồi”.

Ngược lại từ hơn hai chục năm qua người
Hoa đã bị tư bản bóc lột, làm gia công cho thiên hạ tiêu dùng hàng giá
rẻ. Toàn cầu hoá là thế. Xã hội chủ nghĩa cũng phải đầu hàng, không còn
giương cao ngọn cờ kêu gọi công nhân vùng lên chống tư bản bóc lột.

Nhưng bây giờ hơn một tỉ người đang lo sợ
Cô Vi và nếu không thể tiếp tục làm gia công thì kinh tế Trung Quốc sụp
trước, kéo theo Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Úc sụp theo.

Sinh hoạt đón Tết Canh Tý của người Việt ở miền bắc California (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Một gia đình người Việt xem Super Bowl và đón Tết Canh Tý hôm Chủ Nhật 2/2/2020 (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Cô Vi mà hôn mắt, hôn môi ai là người đó
ho, sốt rồi khó thở và có thể tắt thở luôn. Ở Trung Quốc đã có ba vạn
người được hôn nhẹ và hơn 600 người đã chết vì cô. Đó là con số nhà nước
đưa ra, còn theo giới chức y tế quốc tế thì có thể cao hơn nhiều.

Cô Vi lang thang khắp Trung Quốc, rồi bay
ra nước ngoài nên Tết Ta hải ngoại năm nay không đông vui như những năm
trước. China town ở San Francisco, ở Oakland vắng vẻ. Diễn hành đón tết
của người Hoa ở San Francisco vào tối thứ Bảy 8/2 này chắc sẽ rất thưa.
Nhìn chung vì thói quen ăn uống các thứ động vật và khạc nhổ bừa bãi
trong nếp sống của người Hoa lục địa làm nhiều người e ngại, nhất là vào
những lúc có các bệnh truyền nhiễm.

Cô Vi đã thăm xứ Cờ Hoa, đi theo những
người mới ghé qua quê hương của Bác Tập. Nước Mỹ có thành phố Seattle,
tiểu bang Washington là trạm dừng đầu tiên của cô sau khi vượt Thái Bình
Dương. Rồi cô qua Arizona, California, Illinois, Massachusetts và
Wisconsin. Mỗi nơi cô thăm một bạn, Arizona cô thăm hai.

Cô có nhiều bạn ở California và đã thăm
sáu người. Cô thăm ai người đó bị cách ly khỏi gia đình và bạn bè, chỉ
còn được làm quen, tâm sự với bác sĩ, y tá trông như những phi hành gia
đến từ hành tinh khác. Sáu bạn ở California có bốn người từ thung lũng
hoa vàng miền Bắc California, hai bạn khác từ vùng Los Angeles và Little
Saigon Quận Cam.

Tổng thống Donald Trump, “bạn” của Chủ
tịch Tập Cận Bình, nhưng cũng sợ Cô Vi nên cấm người nước ngoài vào Mỹ
nếu đã du lịch Trung Quốc trong những ngày qua. Công dân Mỹ hay thường
trú nhân mà thăm Trung Quốc gần đây, trở lại Mỹ sẽ bị kiểm dịch và được
yêu cầu tự cách li hai tuần lễ. Nhiều cơ quan, công ti, trường học cũng
đã thi hành chính sách này.

Hình như Cô Vi không có bạn Việt tại Mỹ
nên dân tình Mít trong ngày đầu năm không xôn xao, lo lắng. Diễn hành,
hội chợ ở Little Saigon Quận Cam vẫn đông vui. Trên Thung lũng Hoa vàng
cũng thế, vẫn thi hoa hậu, vẫn rong chơi hội chợ. Đêm giao thừa và ba
ngày tết pháo vẫn nổ rền vang trừ tà. Chùa chiền, nhà thờ đông thiện nam
tín nữ đền cầu nguyện, xin xâm, hái lộc.

Mồng Chín Tết San Jose vẫn còn hội xuân
ngoài bãi đậu xe trong khu thương mại Eastridge, tuy ít khách du xuân,
không phải vì không muốn gặp Cô Vi mà là vì trùng ngày với Super Bowl
của Mỹ, có đội 49ERS của San Francisco vào chung kết với đội Chiefs của
Kansas City từ tiểu bang miền quê Missouri.

Xa lộ cũng vắng xe không phải muốn tránh
Cô Vi. Giờ đó nhiều người ở nhà, hay vào quán rượu xem trận vô địch bóng
cà-na lần thứ 54 của nước Mỹ. Nhiều người Việt đã hoà mình vào nếp sống
Mỹ nên dăm ba gia đình, bạn bè tụ họp nhau vừa ăn tết vừa xem đấu bóng
và hồi hộp theo dõi từng đường banh.

Mới ra sân được vài phút, Chiefs đã gác
49ERS ba điểm đầu tiên, 3-0, làm nhiều ủng hộ viên thất vọng, trong đó
có tôi, từng yêu đội nhà suốt 40 năm qua. Rồi 49ERS lấy lại phong độ,
đến cuối hiệp hai gác Chiefs 20-10.

Giờ giải lao, mọi người hào hứng chờ đợi
màn biểu diễn của J. Lo, cô ca sĩ gốc Mỹ Latinh Jennifer Lopez. Âm nhạc,
giọng hát và cách biểu diễn của cô cùng với kỹ thuật âm thanh, ánh sáng
đã cho khán giả mười lăm phút giải trí thật tuyệt vời.

Một thăm dò trên toàn nước Mỹ hỏi ý kiến
khán giả sẽ theo dõi Super Bowl 54th họ mong đợi gì. Dân California mong
49ERS thắng. Missouri mong Chiefs thắng. Còn lại 50 tiểu bang khác chỉ
lo J. Lo… rớt áo ngực.

Hai hiệp sau đội nhà chơi quá tệ. Kết quả
thảm bại với Chiefs thắng 31-20, làm tiêu tan hy vọng có diễn hành chiến
thắng trên đường phố San Francisco vào ngày thứ Tư 5/2.

Thế là hết một tuần vui với tết Việt, với thể thao Mỹ. Ngày mai trở lại đi cày tiếp.

Sinh hoạt gây quỹ cho trường học ở vùng Vịnh San Francisco tối 1/2/2020 (Ảnh: Bùi Văn Phú)

Sau mỗi trận đấu vô địch lại có ý kiến đề
nghị công bố ngày thứ Hai sau Super Bowl là ngày nghỉ toàn quốc, vì mỗi
năm có vài triệu người không vào làm việc trong ngày thứ Hai vì cần nghỉ
ngơi cho lại sức. Trận chung kết cả nước có hàng trăm triệu người xem,
ăn nhậu vui chơi mà ngày mai phải đi làm thì oải quá. Cũng có đề nghị
chuyển trận đấu sang ngày thứ Bảy, nhưng đến nay vẫn không có thay đổi
sau hơn nửa thế kỷ với truyền thống này.

Giống Việt Nam mấy năm gần đây có bàn việc
chuyển ngày đón tết ta sang cùng ngày tết tây. Nguyên do vì không còn
phù hợp với nền kinh tế hiện tại, vì muốn tách khỏi ảnh hưởng của văn
hoá Trung Hoa, vì ăn tết ta nghỉ quá nhiều làm lãng phí thời gian làm
việc cũng như tiền bạc.

Là một người Mỹ gốc Việt tôi thấy không
nên đổi ngày mừng đón tết ta vì mỗi năm gia đình, bạn bè xum họp đón tết
cùng xem thể thao Mỹ là nét giao thoa đẹp giữa hai nền văn hoá.

Tết đã hết. Super Bowl cũng đã sang mùa.
Đời sống bình thường trở lại. Nhưng nhiều gia đình Việt đang lo vì thân
nhân về quê ăn tết sắp qua lại, không biết có mang theo Cô Vi hay gặp
trở ngại gì khi đến sân bay Mỹ.

Đã gần một tháng từ khi bệnh dịch được
công bố, thành phố Vũ Hán vẫn bị bỏ hoang. Một bác sĩ trẻ tuổi lên tiếng
cảnh báo từ sớm về nguy cơ của loại siêu vi mới, bị công an khiển trách
vì cho là đưa tin thất thiệt, vừa qua đời ở Vũ Hán. Hàng trăm công dân
Mỹ đã được di tản về hai căn cứ không quân ở California, bị cách ly gia
đình hai tuần.

Cô Vi mới phất phơ vài nơi trên đất Mỹ.
Mọi sinh hoạt vẫn bình thường như mỗi năm có dịch cúm. Giới chức y tế
nói không có gì phải lo, chẳng phải đeo khẩu trang, chỉ nhớ nguyên tắc
giữ vệ sinh cá nhân là đừng đưa tay dụi mắt, mũi và cần rửa tay thường
xuyên là tránh được lây nhiễm Cô Vi hay cúm đang có vào mùa đông lạnh
giá.

Tết Canh Tý với Cô Vi (nCoV – corona
virus) thật là một cái tết khó quên cho nhiều người, nhiều gia đình ở
nhiều nơi trên thế giới.

The Internet

Cô Vi và Tết Canh Tý *
Vi mới phất phơ vài nơi trên đất Mỹ. Mọi sinh hoạt vẫn bình thường như
mỗi năm có dịch cúm. Giới chức y tế nói không có gì phải lo, chẳng phải
đeo khẩu trang, chỉ nhớ nguyên tắc giữ vệ sinh cá nhân là đừng đưa tay
dụi mắt, mũi và cần rửa tay thường xuyên là tránh được lây nhiễm Cô Vi
hay cúm đang có vào mùa đông lạnh giá.




CHUYỆN TÌNH THỜI CHIẾN

CHUYỆN TÌNH THỜI CHIẾN……
Vĩnh Chánh

Một chuyện tình đẫm lệ thời chinh chiến. Thật đáng thương cho những người đã sinh ra và lớn lên trong cuộc chiến quốc cộng
tương tàn thảm khốc.

Image may contain: one or more people, sunglasses and outdoor

Chị biết anh vì hai gia đình ở chung xóm gần chợ Gia Định. Chị cũng là bạn cùng lứa với em anh từ trường tiểu học cho đến lúc vào trường Trưng Vương. Anh học Khoa Học Sài Gòn. Thỉnh thoảng anh dừng chân ở quán nhà chị ở đầu ngõ, chào hỏi vu vơ, nói đôi ba câu chuyện. Kêu chị là bé dù anh chỉ hơn chị chừng 5 tuổi. Vậy mà chị lại thích, chị có cảm giác mình thật bé bỏng khi đứng bên cạnh anh thật cao lớn, cần sự che chở của anh.

Năm lên lớp 11, chị thấy anh vắng mặt một thời gian ngắn, qua nhỏ bạn biết anh động viên vào Thủ Đức. Rồi anh lại hiên ngang xuất hiện sau đó với bộ đồ hoa dù và nón Beret đỏ. Cuộc tình bắt đầu, với người yêu là một Thiên Thần Mũ Đỏ.

Ở tuổi 17, chị lớn dần trong tình yêu trầm lặng của anh, trở thành một thiếu nữ chín chắn, trong khi đó đời sống nội tâm cùng sự lo sợ triền miên đôi khi khiến chị cảm thấy lạc lõng giữa chúng bạn ở lứa tuổi ô mai.

Niên học 1974-1975, chị bước vào năm thứ nhất Văn Khoa. Anh vẫn miệt mài với đơn vị ở những chiến trường xa. Những lá thư yêu thương anh gửi chị chỉ ghi cái địa chỉ KBC 4794 lạ hoắc.
Cuối tháng Hai 1975, anh bất ngờ có mấy ngày về phép. Đêm trước ngày trở lại đơn vị, anh đưa chị đi ăn chè góc Bạch Đằng/ Nguyễn Huệ. Ngồi quán chè, cùng nhìn ra sông Saigon, chị bỗng nghe anh nói bằng một giọng nhẹ nhàng, “Ngày mai anh trở ra lại mặt trận. Em ở nhà bình an. Chuyến đi này không biết bao giờ anh về thăm em được. Tình hình rất căng. Đôi khi anh nghĩ may ra anh bị thương thì chúng mình mới có cơ hội để thành vợ chồng!”

Lẫn trong tiếng nói, chị tưởng như bên tai mình có hơi thở của anh. Vị ngọt của muỗng chè bỗng trở thành vô vị nơi cuối lưỡi. Chị quay lại nhìn anh. Hai bàn tay tìm nhau. Không, không thể chờ đến khi anh bị thương… Nhận ra bàn tay mình run rẩy trong tay anh, chị nói “Thôi mình về đi anh”.

Khi lặng lẽ rời quán chè bờ sông, anh không cầm tay chị. Chắc anh không hiểu sao buổi hẹn hò bỗng bị chị cắt ngắn, đòi về. Nhìn vẻ thất vọng một cách tội nghiệp trên khuôn mặt sạm đen của anh, chị thấy thương anh chi lạ. Phải cố gắng lắm chị mới có thể nói với anh bằng giọng bình tĩnh: “Mình về nhà trọ của anh đi, em có chuyện muốn nói.”

Ngay khi cánh cửa phòng riêng của anh trong nhà trọ vừa khép lại, chị đứng trước anh, nhìn anh, rồi nói như sợ không còn cơ hội nào khác “Đêm nay em sẽ ở lại đây. Em muốn chúng mình thuộc về nhau đêm nay. Em không muốn chờ đợi thêm nữa.”
Không chờ cho anh kịp phản ứng, chị rơi mình vào vòng tay anh, mặt đầm đìa nước mắt. Cả hai xớ rớ ngồi cạnh giường, luống cuống đến tội nghiệp. Bên cho với tê tái khắc ghi. Bên nhận trong nghiệt ngã đắn đo. Sau đó, cả hai dựa sát vào nhau; anh trầm tư ôm vai chị, che chở trìu mến, chị ngã đầu trên tay anh, nhìn lên trần nhà, mủi lòng, mặc cho nước mắt tự nhiên tuôn trào.
Thương anh, thương mình, lo sợ cho số kiếp con người mong manh. Chị biết chị vừa đi ngược sự giáo dục gia đình, nhưng chị không cảm thấy nuối tiếc, vì chị nhận rõ một khi tình yêu và hy sinh để trở thành một thì không có gì tuyệt đẹp hơn là giờ phút bên nhau trong hiện tại. Y như câu truyện “Một Thời Để Yêu Một Thời Để Chết.”
*
“Này em khăn áo vẫn còn nếp nhầu
Lược gương đâu có nỡ nào quên bóng hình
Này em, chăn gối vẫn còn ấm nồng
Chỉ người năm cũ như bóng trăng gầy liệm cuối sông…”
Đêm đầu tiên và cuối cùng có nhau, chị biết đơn vị dù của anh đang hành quân vùng cao nguyên.

Ngày 10 tháng Ba năm 1975, Ban Mê Thuột thất thủ. Sau đó có tin Pleiku, Kontum bị rút bỏ.
Từ vùng hành quân, anh nhờ lính hậu cứ nhắn tin cho chị biết. Và đó là lần cuối cùng chị được tin anh.

Cuối tháng 3, chị được biết TĐ của anh cùng chung số phận với Lữ Đoàn 3 ND, đánh cho đến người cuối cùng ở Khánh Dương, rồi phân tán mỏng. Trên đường rút quân, đơn vị đã không tìm thấy anh. Mất tích? Tử thương? Bị bắt làm tù binh? Quả là tội nghiệp cho một thiếu nữ như chị, với chỉ danh nghĩa người yêu của lính, xuôi ngược chạy tìm tin tức của anh, từ hậu cứ TĐ đến Bộ Tư Lệnh SĐ, hoặc ủ rũ chờ đợi, nghe ngóng tin tức ở nhà anh.

Ngày 29 tháng 4, người anh cả của chị, một sĩ quan HQ, chạy nhanh về nhà, hối thúc cha mẹ, thằng em trai và chị ra bến Bạch Đằng, lên thuyền rời nước. Như một người máy trôi theo dòng đời, chị ra đi mà lòng quặn đau, bất định, biết rằng từ đây mọi người vĩnh viễn mất nước. Và chị, vĩnh viễn xa rời và mất luôn cả anh.

Ngày đến trại Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas, chị mới biết mình có thai được trên 2 tháng. Trong khi cả gia đình chị bấn loạn, cá nhân chị vừa lo lắng vừa hân hoan với mầm sống của anh trong người. Qua bao nhiêu gian nan, cam go chịu khổ chịu cực, chịu cảnh gái chưa chồng nhưng có con, chị can đảm vượt thoát mọi thử thách, mọi e dè để cuối cùng định cư ở Fort Polk, tiểu bang Louisiana với một người chồng Mỹ vào năm 1984. Chị cố tạo cho mình một vườn hoa trái nơi chị nhận làm quê hương thứ hai, nhưng đa số là trái ngang trái trắc trở, trái sầu trái đắng, trái chua trái cay, là tiềm ẩn từ bao thôi thúc vương vấn, bao bùi ngùi luyến thương của mất nhau, hoài nhau không thể chối từ mà cũng chẳng thể vứt bỏ vì đó là những bám víu giúp chị can đảm sinh tồn.

*
Gần cuối thập niên 80, tôi tình cờ gặp chị trong một phiên trực tại phòng cấp cứu của Bệnh Viện Baynes Jones Army Community tại Fort Polk, tiểu bang Louisiana, nơi vốn là bản doanh của sư đoàn 5 cơ giới Hoa Kỳ đã có mặt tại chiến trường VN. Con gái chị, với khuôn mặt Việt Nam, khoảng 13-14 tuổi, té xe đạp, không bị thương tích nặng ngoại trừ vài vết thương trầy trụa ngoài da. Nhìn thấy tôi là một bác sĩ người Việt, chị mừng rỡ bắt chuyện. Kể từ đó, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau đôi lần, cũng tại bệnh viện quân đội Mỹ, có luôn cả người chồng Mỹ của chị là một thiếu tá hồi hưu từng tham chiến 2 lần tại Việt Nam.

Vài năm sau chồng chị qua đời vì bệnh tim, chị trở thành bệnh nhân của tôi tại phòng mạch tư. Đó cũng là thời gian tôi khám phá chị bị ung thư vú và chuyển chị qua bác sĩ chuyên khoa. Trong một lần nói chuyện dài hơn, chị mở lời tâm sự về chuyện tình của chị trong chiến tranh VN, về người cha của con gái chị. Chị cho biết chị cầu nguyện hàng ngày hầu mong biết tin tức về anh, sống chết như thế nào sau trận đánh ở Khánh Dương, nhưng không mấy hy vọng cũng như đã từng cố gắng tìm kiếm qua các cộng đồng người Việt tỵ nạn trong bao năm qua. Không lâu sau đó, chị rời vùng Fort Polk trở về sinh sống với cha mẹ chị ở Springdale, tiểu bang Arkansas.

*
Chào bác sĩ. BS. còn nhớ tôi không?? Tôi là Kim Tiên đây… Vâng, đúng rồi đó. Vâng. Cám ơn BS. Bố mẹ tôi bình yên… Con gái tôi vừa vào năm thứ nhất Đại học cộng đồng tại đây. Dạ cám ơn BS. Chắc cháu sẽ vui khi biết BS vẫn còn nhớ đến cháu và gởi lời thăm… Thưa BS. hiện tại ung thư của tôi ở giai đoạn cuối, các bác sĩ bên này cho biết tôi còn sống được khoảng 6 tháng nữa… Dạ. Cám ơn BS… Dạ không sao! Tôi muốn báo một tin rất vui cho BS. biết là tôi vừa tìm được tin tức của cha con gái của tôi rồi… Cám ơn BS chung vui với chúng tôi. Vâng, anh ấy vẫn còn sống tại Việt Nam… Dạ, tôi may mắn tìm ra được em gái của anh, cũng qua Mỹ với chồng theo chương trình H.O cuối năm 1991. Nhờ trời thôi BS ạ… Dạ, qua chương trình Nhịp Cầu Thân Yêu của đài Little Sài Gòn loan báo… Thưa BS., chính tôi cũng không biết được tình trạng của anh ra sao! Em gái của anh nhất định không chịu nói nhiều. Chỉ cho địa chỉ một người trung gian… Nên tôi quyết định về VN một chuyến, trước là để thăm mộ bên nội ngoại của tôi, sau sẽ tìm đến thăm anh… Dạ, tôi cùng đi với một người bạn thân quen trong nhà thờ, tôi không thể chờ con gái tôi cùng đi chung vì cháu rất bận học, mà tôi thì không còn bao nhiêu thì giờ nữa… Dạ có gì tôi sẽ cho BS biết sau… Cám ơn BS. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn sức khỏe trong chuyến đi.

Gần một tháng sau, chị gọi điện thoại cho tôi, nói nhanh giữa những cơn thở nặng và xúc động. Câu chuyện nhiều lúc bị ngắt khoảng bởi những im lặng và tiếng sụt sùi.
*

“Sài Gòn là đây sao em? Đường không còn lối người chen chân.
Sài Gòn là đây sao em? Lạ sao giọng nói người không quen!
Biết mấy tâm sự đành lãng quên. Xôn xao kỷ niệm lạc lối tìm…”
Sau nhiều ngày bận rộn đi thăm bà con gần xa và viếng mộ đại gia đình ở Thủ Đức, chị mệt mỏi trở về Sài Gòn, ngỡ ngàng bước cô đơn giữa lòng phố đầy người.

Ngày rời Sài Gòn với mảnh giấy ghi địa chỉ của anh do một người bà con với em của anh cho, chị đi xe khách đến Ninh Hòa. Từ bến xe, chiếc honda thồ chở chị đi tiếp trên con đường đất đến một làng khá xa thị xã. Đường về lối mới sao chật hẹp thu nhỏ, hoàn toàn xa lạ trong tâm trí, không một hương thơm vương vấn. Không một tiếng gọi quen thuộc. Không một câu hò ạ ơ. Và trời cũng chẳng mưa để làm ướt lòng người trở về. Ngược lại trời đổ nắng đến hoa cả mắt, nóng cháy cả người kèm theo bụi đường đỏ làm chị ngột ngạt giữa bao nhung nhớ chất chứa màu kỷ niệm của thuở tình tự.

Sau vài lần ngưng dọc đường hỏi thêm chi tiết, xe ngừng trước một căn nhà nhỏ xơ xác, tội nghiệp với mái tôn đổi màu theo thời gian, có vài bụi chuối xung quanh cùng hàng cây dâm bụt phía trước. Không chần chờ, chị bước vội vào nhà. Đập ngay vào mắt là một thân hình cao, gầy gò ngồi trên một sạp tre, lưng xoay ngược hướng chị đi vào, bên cạnh là một cặp nạng. Chị ngập ngừng lên tiếng, kêu nhẹ tên anh.

Thân hình ấy quay nhanh về hướng chị, cùng lúc quờ quạng chụp tìm đôi nạng gỗ. Trước mắt chị là một hình hài với chân phải cụt lên tận đầu gối, áo quần xốc xếch, tóc tai bung xung. Chị bật khóc chạy đến gần, trong một thoáng kịp nhìn thấy 2 vũng mắt lõm sâu không có tròng mắt. Chị đột nhiên khuỵ người xuống trên sàn đất, như thể toàn sức lực dành cho chuyến đi bỗng cạn kiệt. Cùng lúc ấy, bóng một người đàn bà đi nhanh từ bếp nâng chị dậy.

Anh bị thương nặng ở chân trên đường rút quân, cố gắng lết xa khỏi trận chiến và ẩn núp trong bụi rậm. Ngày hôm sau, địch tìm thấy anh và bắt anh làm tù binh. Anh nghĩ vết thương ở chân phải có thể lành nếu được chữa trị với trụ sinh và đăng bột, nhưng tên y sĩ trại tù chọn cách dễ là tháo khớp gối. Sau đó anh còn bị đạn nổ trong khi nhóm lửa rừng sưởi ấm ở trại tận bên Cao Miên, khiến cả 2 con mắt của anh bị hư nặng tuy vẫn nhìn thấy rất mờ. Vì vậy anh được thả cho rời trại sớm. Trên đường khổ sở, một mình thất thểu về lại làng phố, anh bỗng gặp một người đàn bà chưa một lần quen biết, hiện tại là vợ của anh, đem anh về nhà săn sóc. Chồng trước của bà là một người lính Địa Phương Quân tử trận 2 năm trước ngày mất nước.

Trong vài năm sau đó, đôi mắt anh làm độc kinh niên nên bác sĩ đành phải múc bỏ cả hai bên.
Biết tính của anh chỉ muốn nhắc đến những giai đoạn quan trọng của trận cuối và trong thời gian khi còn là tù binh, chị không thắc mắc hỏi thêm, cũng chẳng cắt ngang cuộc độc thoại của anh bằng một giọng nói trầm tĩnh của chấp nhận số phận đã an bài, của một cam chịu không lối thoát. Chị có cảm tưởng anh chỉ thổ lộ lần duy nhất này rồi sẽ không bao giờ nhắc lại, như chôn sâu vĩnh viễn nỗi oan khiên vào bóng tối đời anh. Đời anh là một nỗi buồn khôn nguôi kết trái sầu tủi từ thuở anh trở thành kẻ chiến bại và phế nhân. Anh cố tình làm ra vẻ thản nhiên như không hề muốn chị phải đau đớn, dày vò tự trách số phận quá nghiệt ngã, cùng khốn, lỡ làng!

“Trách chi người ai lỗi ai
Trách chi người mi ướt cay
Trách chi người thôi đã xa nhau kiếp này…
Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi”

Chị yên lặng ngồi nghe, tiếng được tiếng không, tê tái cõi lòng, nhớ lại năm xưa có lần anh thì thầm bên chị, “may ra anh bị thương thì chúng mình mới có thể trở thành vợ chồng.”

Thế nhưng tuyệt đối chưa một lần chị nghĩ đến anh có thể bị thương trong cuối cuộc chiến, và cũng chưa hề nghĩ anh đã phải trải qua những giai đoạn khổ sở cùng cực như vậy. Từ một nam nhân oai hùng ngày xưa, nay anh là một phế nhân với những vết thương tàn phá nặng nề trên cơ thể. Đôi mắt ngày xưa, nơi chị thường hay nhìn vào để tìm hình ảnh của tình yêu và sức sống của tuổi trẻ mình, nay chỉ là 2 mí mắt nhíp gần nhau nằm sâu trong một khoảng màu trắng ở giữa. Giờ đây chị mới hiểu vì sao em gái của anh tránh không cho chị biết nhiều về anh. Chị bỗng cảm thấy gần gũi với vợ của anh, thầm cám ơn rằng ơn Trên sắp đặt cho anh tìm được ánh sáng dịu hiền giữa đường qua sự săn sóc, cứu vớt, nuôi nấng, bao bọc, che chở, yêu thương của người vợ này. Như một bà tiên hiện ra nguyên vẹn để dẫn dắt, cưu mang, nâng đỡ chàng Thiên Thần Mũ Đỏ của chị trong sa cơ thất thế, khi cánh dù bị chà đạp, tan tác trong cuộc đổi đời.

Chiều hôm ấy, chị không từ chối khi vợ anh mời chị ở qua đêm tại đây, cả hai cùng nhau tâm sự dưới một ngọn đèn vàng úa duy nhất của nhà, nhất là sau khi nghe chị cho biết anh từng là người yêu đầu đời của chị. Càng về khuya, chuyện trò càng cởi mở hơn, bấy giờ chị mới từ tốn cho vợ chồng anh biết là chị có thai với anh ngay trong đêm trước khi anh rời Sài Gòn về lại đơn vị cuối tháng 2, 1975. Con gái của anh sinh vào cuối tháng 11, 1975; chị đặt tên cho con là Kim Ngân, ghép từ nửa tên của chị và nửa tên của anh, nay con gái được 19 tuổi và đang học đại học gần nhà. Vợ anh liên tục nắm chặt tay chị và kéo chị ngồi sát vào mình, một cử chỉ che chở, chia xẻ, thông cảm và đầy thân thiện trong suốt câu chuyện. Anh hoàn toàn im lặng, hai tay ôm đầu mình. Thỉnh thoảng 2 vai có rung nhẹ. Mãi sau khi chị dứt, anh mới nhẹ nhàng hỏi là con gái có biết câu chuyện giữa anh và chị, và biết anh là cha không. Con gái anh, chị trả lời, chỉ biết cha nó là một sĩ quan Nhảy Dù, tử trận và mất xác khi cuộc chiến VN gần đến hồi kết thúc. Ngay cả mục đích đi tìm anh trong chuyến về VN của chị, chị cũng hoàn toàn dấu con gái.
Chỉ một điều duy nhất chị không tiết lộ cho anh và vợ anh biết là chị đang bị ung thư vào giai đoạn cuối.

Tối hôm đó, sau khi đọc kinh cầu nguyện cám ơn, chị có một giấc ngủ thật an lành dù lạ nhà, một phần có lẽ vì đi đường quá mệt, phần kia vì chị đã đạt được mục tiêu chính của chuyến đi.

Sau bao nhiêu cầu xin, bao nhiêu thấp thỏm đợi chờ mong mỏi tin tức, nguyện vọng ấp ủ từ bao năm qua nay được đáp ứng và trở thành sự thật. Trước đây, bao thương nhớ, bao hình ảnh về anh và sự mất anh trong đời, những suy sụp tinh thần của một người đàn bà di tản mang thai, những oan trái mòn mỏi trong xót xa; những gian khó thử thách trong đời sống mới, những gượng cười trong lệ sầu; những năm nuôi dạy con một mình; những cô đơn tinh thần khi sống bên cạnh người chồng Mỹ với bao dị biệt văn hóa, ngôn từ; những mệt mỏi thể xác qua bao lần xạ trị, hóa trị, thuốc cũ thuốc mới, những sợi tóc xanh phai màu rơi rụng; những đau đớn chán nản khi căn bệnh trở nặng; những lo âu suy tính về tương lai con gái rồi đây sẽ mồ côi mẹ… tất cả đã tạo cho chị một tình trạng trầm cảm nặng nề. Nhưng giờ đây, chị vô cùng mãn nguyện tìm thấy anh, nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt, biết anh đã sống sót qua chiến tranh, dù bị tàn phế trầm trọng nhưng bù lại anh có một người bạn đường luôn bên cạnh, săn sóc yêu thương anh. Hơn nữa anh còn có đứa con gái và đứa con trai.

Sáng hôm sau, đứa con trai của anh, nhỏ hơn con của chị gần 3 tuổi, ở nhà ông bà ngoại cạnh trường trung học huyện, về kịp chào chị trước khi chị lên đường. Chị cũng đã kín đáo trao tặng tất cả số tiền lớn còn lại cho vợ anh đêm qua. Chị có hứa với vợ chồng anh là chị sẽ kể cho con gái của anh tất cả câu chuyện giữa anh và chị, không một dấu diếm, luôn cả thương tật của anh và hoàn cảnh hiện tại của vợ chồng anh. Để trả lời câu hỏi của vợ anh, bằng một giọng mong manh sâu tận đáy lòng, chị run run xúc động cho biết sẽ trở về lại thăm vợ chồng anh nếu sức khỏe cho phép. Sau khi chào tạm biệt vợ chồng anh và chúc nhau an lành, hai người đàn bà ôm xiết chặt nhau, mắt chớm lệ, gần gũi trong cảm thông trân quý. Anh vẫn đứng yên bên khung cửa trước nhà, chan hòa trong ánh sáng ấm ban mai. Chị vội bước nhanh đến chiếc xe thồ đang đợi. Xe rồ máy chở chị đi. Không nhìn lui, bình an trong lòng, chị ngước nhìn trời. Một màu xanh tuyệt đẹp. Không mây.

*
“Sài Gòn ngày xưa đâu em? Mộng mơ ngày tháng tuổi hoa niên.
Sài Gòn ngày xưa đâu em? Từng con đường phố mình thân quen
Dĩ vãng đâu về, buồn ngẩn ngơ. Bao nhiêu mong đợi lạc bến chờ”
Chị Kim Tiên đã không về lại VN lần thứ hai. Chị chết trong bình an vào giữa tháng 5, 1994. Cháu Kim Ngân điện thoại cho tôi biết, theo lời yêu cầu của Mẹ, cháu đang sửa soạn về thăm cha trong mùa hè này, mang theo chiếc xe lăn cũ của Mẹ cùng một số tiền lớn từ bảo hiểm nhân thọ của mẹ để lại cho cha.

Ước mong cháu Kim Ngân sẽ nuôi nấng và gìn giữ chuyện cổ tích của cha và mẹ mình.

Mission Viejo, CA
Vĩnh Chánh




Cần vinh danh những ai trong việc phát triển chữ quốc ngữ?

Cần vinh danh những ai trong việc phát triển chữ quốc ngữ?

Dương Quốc Chính

24-11-2019

LM Alexandre de rhodes. Ảnh: internet

Mấy hôm nay dân tình tranh cãi về phát biểu mang đầy tính GATO của thầy Thích Nhật Từ về việc không đặt tên phố bằng tên 2 ông giáo sỹ có công khai sinh ra chữ quốc ngữ. Nhưng đấy mới là phần nổi nhỏ của cả tảng băng.

Việc đặt tên phố cho mấy ông cha nghĩ ra chữ quốc ngữ chính ra rất nhạy cảm chính trị. Giờ đặt tên phố cho mấy ổng tức là vinh danh người đẻ ra chữ quốc ngữ, vậy sao không vinh danh những người khuếch trương để sử dụng nó? Thế mới công bằng. Nhưng mà công bằng thế thì thành phản động rồi.

Cứ thử suy xét mà xem, đẻ ra một loại chữ viết thì công to rồi, nhưng đấy mới là công sinh thành, thế còn công dưỡng dục, nuôi nấng nữa thì sao? Công đó to nhất lại là của… thực dân Pháp mới bỏ mẹ.

Bắt đầu từ khi ký hiệp ước Giáp Tuất 1874, Pháp lấy được 6 tỉnh Nam Kỳ, thì thống đốc Dupre đã bắt đầu cho học chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ. Trước đó, năm 1869, chữ quốc ngữ đã được dùng làm ngôn ngữ hành chính, song song với chữ Pháp, thay cho chữ Hán, ở Nam Kỳ.

Ban đầu, người Việt, đặc biệt là các nho sỹ, tẩy chay chữ quốc ngữ, vì coi nó là sản phẩm của giặc, học là để làm tay sai. Vì thế, người Pháp phải cưỡng bức phổ cập giáo dục chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ.

Sau khi thành lập LB Đông Dương, toàn quyền Albert Sarraut là người cho phổ cập chữ quốc ngữ trên toàn cõi Đông Dương. Vào năm 1915, bãi bỏ khoa cử bằng chữ Hán ở Bắc Kỳ, năm 1919 bãi bỏ nốt ở Trung Kỳ. Chữ Hán coi như mất đi vai trò là ngôn ngữ hành chính, thay bằng chữ quốc ngữ.

Người có công đầu tiên để phổ cập chữ quốc ngữ ra xã hội là Trương Vĩnh Ký, vì ông này là chủ bút tờ Gia Định báo, tờ báo đầu tiên sử dụng chữ quốc ngữ.

Hội nhóm có công lớn nhất để phổ biến chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ là phong trào Đông kinh nghĩa thục và Hội Khai trí tiến đức mà thành viên đều là thành phần tinh hoa đương thời như Phạm Quỳnh, Hoàng Trọng Phu, Thân Trọng Huề, Nguyễn Văn Vĩnh… toàn là phản động không!

Phạm Quỳnh có câu kinh điển liên quan đến chữ quốc ngữ nhân ngày giỗ của Nguyễn Du năm 1924:

Thề rằng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu-sinh xin rầu lòng giốc chí cố gia-công trau-chuốt lấy tiếng quốc-âm nhà, cho quốc-hoa ngày một rực-rỡ, quốc-hồn ngày một tỉnh-tao, quốc-bộ ngày một tấn-tới, quốc-vận ngày một vẻ-vang, ngõ-hầu khỏi phụ cái chi hoài-bão của tiên-sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây!”

Sau khi Việt Minh đoạt chính quyền Hội bị giải tán theo sắc lệnh ngày 24 tháng 9 năm 1945 vì bị cho là “công cụ thống trị tinh thần và nô dịch văn hoá của thực dân”.

Sau này bần nông chỉ biết đến mỗi công lao phổ cập chữ quốc ngữ của đảng ta là phong trào Bình dân học vụ! Sao đảng không lật đổ nốt cả chữ quốc ngữ, quay lại sử dụng chữ Hán?

Tóm lại, nếu không có sự áp đặt của thực dân Pháp thì chữ quốc ngữ cũng chỉ là thứ ngôn ngữ chết, cũng gần như chữ Latin, không thể phổ cập, thậm chí có thể chết yểu.

Những người, tổ chức có công lao trong việc hình thành và phát triển chữ quốc ngữ có thể kể đến là 2 ông giáo sỹ nói trên, Trương Vĩnh Ký ở Nam Kỳ, Phạm Quỳnh ở Bắc Kỳ, trường Đông Kinh nghĩa thục, Hội Khai trí tiến đức, Toàn quyền Albert Sarraut (tên ông được đặt cho trường trung học danh giá nhất Đông Dương, tọa lạc ở vị trí nay là Văn phòng Trung ương đảng).

Tất cả những cá nhân, tổ chức trên đều xứng đáng được đặt tên phố cả. Thế mà trên thực tế chỉ có cha Alexandre de Rhodes được đặt tên một phố nhỏ ở SG, HN có quảng trường Đông Kinh nghĩa thục, có phố Lê Văn Can (đồng sáng lập ĐKNT).

Còn Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Hội Khai trí tiến đức đều trở thành phản động. Albert Sarraut thì là thực dân đầu sỏ cần căm thù sâu sắc!

Được biết, tên phố cũ ở Singapore đa số vẫn là từ thời thực dân Anh. Di sản thời thực dân vẫn được tôn trọng ở nước này.




Anna Bùi Thị Nhung

Tại Berlin, Nhung đã viết:
“ TÔI NGHĨ CHÂU ÂU LÀ MÀU HỒNG.
TUY NHIÊN, HOÁ RA LÀ MÀU ĐEN’”

Ở Berlin, cô tạo dáng bên ngoài một khu vườn bia, nở nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt. Tại Brussels, cô nhấm nháp cốc trà sữa có đường và tạo dáng trên các bước của sàn giao dịch chứng khoán cũ.

Một người họ hàng cho thấy một bức ảnh được chụp tại Berlin của Anna Bùi Thị Nhung, một người Việt Nam bị nghi là một trong những nạn nhân đã chết được tìm thấy trong một chiếc xe tải ở Anh, tại nhà cô ở tỉnh Nghệ An, cô là một khách du lịch khác.

Nhưng Bùi Thị Nhung, 19 tuổi, người Việt Nam, có gia đình tin rằng cô là một trong số 39 người được tìm thấy đã chết trong một chiếc xe tải đông lạnh gần London vào thứ Tư, đó là chuyến đi kiếm tiền trọn đời.

“Càng lớn lên có nghĩa là phải che giấu nỗi buồn trong bóng tối và giữ nụ cười trên khuôn mặt” Nhung đã viết trong một bài đăng trên Facebook ngày 21 tháng 10, vài ngày trước khi gia đình cô ấy mất liên lạc với cô ấy và tin tức về container vận chuyển bị hủy diệt xuất hiện .
Nhung là từ Nghệ An, một tỉnh nghèo cách 300km về phía nam Hà Nội, vốn đang phát triển nhanh chóng của Việt Nam.
Vào tối thứ bảy, linh mục Công giáo Anthony Đặng Hữu Nam đã dẫn đầu khoảng 500 tín đồ cầu nguyện cho người chết khi họ thắp nến trong nhà thờ có tường trắng khiêm tốn ở Yên Thành, quê hương của Nhung.

Nhiều người đã thực hiện hành trình định mệnh tương tự. Đại sứ Anh tại Việt Nam đã viết trong một ý kiến được công bố vào tháng trước bởi các tờ báo địa phương rằng các mối nguy hiểm đã rõ ràng.
Trong những năm gần đây, hàng trăm nạn nhân Việt Nam tiềm năng của nạn buôn người đã được xác định ở Anh, Đại sứ Gareth Ward đã viết trong cột ngày 29 tháng 9.
Có những trường hợp người nhập cư bất hợp pháp bị thương khi bị truy đuổi. Có những trường hợp tử vong do cực lạnh, thiếu oxy bên trong xe tải. Nhiều người thậm chí chưa bao giờ đặt chân đến ‘miền đất hứa’, phường Ward viết, đề cập đến những bảo đảm của những người buôn lậu người Việt Nam để tái định cư người di cư ở Anh.
Gia đình của Nhung cho biết cô lần đầu tiên rời Nghệ An trong hành trình ra nước ngoài vào tháng 8. Cô đã đến Trung Quốc trước, trước khi tìm đường đến Đức, rồi Bỉ, nơi họ tin rằng cô đã lên chiếc xe tải định mệnh.
Các quan chức ở Anh vẫn chưa xác định được người chết.
“Tôi chỉ muốn một cuộc sống bình yên” Nhung đã viết trong một chú thích bên dưới bức ảnh cô ấy đang cười trên cánh đồng xanh vài tuần sau khi rời Việt Nam.
“Điều hạnh phúc nhất trong cuộc đời là tìm được người không bỏ rơi bạn trong thời gian khó khăn nhất của bạn” Nhung nói vào ngày 27 tháng 8.

Tối muộn thứ bảy, gia đình của Nhung, không còn hy vọng, đã lập một bàn thờ trong ký ức của cô, với bức ảnh của cô bên cạnh cha cô.

Cha cô mất vì ung thư vài năm trước. Mẹ cô không thể làm việc vì các biến chứng về sức khỏe và vì vậy những người thân yêu của cô đã cùng nhau tài trợ cho cô một cuộc sống mới ở nước ngoài.

Theo một báo cáo của chính phủ Anh năm ngoái, khoảng 70% các trường hợp buôn người Việt Nam ở Anh trong giai đoạn 2009-2016 là để khai thác lao động, bao gồm sản xuất cần sa và làm việc trong các quán bar làm móng.

Phụ nữ và trẻ em gái ở vùng nông thôn cũng được coi là dễ bị buôn bán hơn, báo cáo cho biết.
Đến đầu tháng 9, cô không rõ mình đang ở đâu, nhưng Nhung đã sẵn sàng cho chuyến đi của mình và suy nghĩ về những bước tiếp theo của cô.

Bên cạnh một hình ảnh của hai đứa trẻ thả diều vào lúc hoàng hôn, cô đăng:
“Khi tôi lớn lên, tôi thấy rằng cuộc sống không yên bình như tôi từng nghĩ. Khi tôi lớn lên, tôi muốn trở về thời thơ ấu của mình, khi tôi sống tự do”

MÀU ĐEN
Trong một trong những bức ảnh đầu tiên của cô được chụp rõ ràng hơn từ khi bắt đầu cuộc phiêu lưu ở châu Âu, Nhung tạo dáng trước một khu vườn bia Đức. Vài ngày sau, vào cuối tháng 9, cô đăng ảnh những món mì Việt mà cô nói rằng cô đã nấu cho bạn bè ở Berlin.

Nếu có ai muốn mua, tôi sẽ gửi nó cho bạn, cô ấy đã nói đùa trong bài đăng trên Facebook.

Tôn Quang Tuấn, một trong những người bạn của Nhung sống ở Berlin, nói rằng, Chúng tôi đã đi ra ngoài một vài lần khi Nhung đang ở Berlin và nói thêm rằng cô ấy đang có tâm trạng tốt, rất vui, nhưng họ đã mất liên lạc sau khi cô ấy nói phải rời đi để tới Anh.

Không rõ Nhung đã đi từ vùng nông thôn Việt Nam đến Trung Quốc và sau đó là Berlin như thế nào, nhưng thủ đô của Đức đã nổi lên trong những năm gần đây như một sân khấu cho người Việt Nam và những người di cư khác muốn bắt đầu cuộc sống mới ở Anh.

“Tôi cảm thấy cô đơn ở nơi tôi từng mơ ước hàng ngày” Nhung viết vào ngày 25 tháng 9.

Không rõ cô ấy ở đâu – Những kẻ buôn lậu người Việt được cho là khuyên các đối tượng của họ sống kín đáo và không cho đi quá nhiều manh mối để trốn tránh sự phát hiện từ chính quyền.

“Tôi không biết khi nào tôi có thể quen với cuộc sống hiện tại, nhưng tôi biết một điều chắc chắn. Lúc này, con nhớ bố. Mình nhớ bạn phát điên.”

Vài ngày sau, Nhung được chụp hình bên ngoài Nhà thờ Berlin với một tách trà sữa trên tay. Trà sữa có vị ngọt, chứa đầy những viên thạch nhai rất được giới trẻ Việt Nam ưa chuộng.

Cuối tháng 10, Nhung đã ở Bỉ. Cô ấy đã đăng những bức ảnh của mình, một lần nữa với một tách trà sữa trong tay, hào hứng khám phá các điểm tham quan của Brussels, bao gồm cả sàn giao dịch chứng khoán cũ và con đường nhộn nhịp của đường phố August Auguste Orts.

Đó là từ cảng Zeebrugge của Bỉ mà container cuối cùng đã rời đi. Gia đình cô tin rằng cô đã ở trên tàu.




Lịch sử và ý nghĩa của ngày lễ Tạ ơn

Lễ Tạ ơn (Thanksgiving) là một ngày lễ hằng năm tại Hoa Kỳ và Canada. Có ý nghĩa lúc đầu là tạ ơn Thiên Chúa đã cho sống no đủ và an lành.

thanksgiving
Lễ Tạ Ơn như đem những người sống trên đất nước Hoa Kỳ trở về với những ngày đầu của tổ tiên họ… Lễ hội này đầu tiên tại Bắc Mỹ được tổ chức tại Newfoundland bởi Martin Frobisher và nhóm Thám hiểm Frobisher năm 1578, để mừng tạ Chúa đã cho sống sót, qua cuộc hành trình dài và nhiều bão tố từ Anh.

Chuyện kể rằng, mùa đông đầu tiên quá lạnh, thật vô cùng khắc nghiệt, đến với họ. Thực phẩm lại thiếu thốn trầm trọng. Tháng 12 năm ấy có sáu người qua đời, qua tháng Giêng có tám người, tháng Hai tăng lên 17 người, và 13 người qua đời trong tháng Ba. Những người này đã âm thầm chôn cất những thi hài trong đêm tối vì sợ Thổ Dân (Native Indians) biết được có thể tấn công họ chăng! May mắn thay, không có một xung đột nào đáng kể giữa Người Da Đỏ và Người Hành Hương như họ dự đoán. Trái lại Thổ Dân rất thân thiện và tận tình giúp đỡ những Người Hành Hương trong cuộc sống mới về việc dạy cách trồng tỉa, săn bắn, nấu nướng các thứ hoa quả lạ…

Tháng Tư họ cùng nhau trồng bắp dưới sự chỉ dẫn của một Người Da Đỏ tên là Squanto. Những luống bắp nầy quyết định sự sống còn của họ trong mùa Đông sắp tới. Họ vui mừng vì mùa Xuân và mùa Hè năm 1621 thật quá tuyệt đẹp! Bắp lên tươi tốt hứa hẹn một vụ mùa no nê như lòng họ mơ ước. Mùa Đông lại về, nhưng bây giờ không còn là một đe dọa nữa. Mùa màng đã gặt hái xong, họ có dư thực phẩm để sống qua những ngày đông giá rét. Cũng không còn sợ lạnh vì đã làm được 11 cái nhà vững chắc đủ chỗ để quây quần sum họp. Họ quyết định tổ chức một Hội Ngày Mùa (Harvest Festival) để tạ ơn Thượng Đế cho họ sống sót qua mùa đông đầu tiên. Đó là lễ Tạ Ơn đầu tiên trên đất Mỹ. Ngày tháng chính thức của “First Thanksgiving” nầy không được chép lại, chỉ biết đầu tháng 11 năm 1621.

Thực phẩm chính trong Lễ Tạ Ơn nầy gồm: Bắp, bí đỏ, chim, vịt, ngỗng và gà tây. Họ cũng mời khách là các Thổ Dân. Tù trưởng Massasoit dẫn 90 dũng sĩ đến dự “party” và cũng đem biếu Thống Đốc của nhóm Người Hành Hương lúc bấy giờ là Bradford năm con nai nhân ngày Lễ Tạ Ơn đó. Họ ăn uống vui chơi suốt một tuần lễ.

Lịch sử ngày Lễ Tạ Ơn của người Mỹ cũng thăng trầm, trôi nổi theo vận nước của họ. Các tiểu bang thuộc địa đầu tiên không thống nhất được ý kiến chung về một ngày Lễ Tạ Ơn. Họ giữ ngày lễ tùy ý mà họ cho là thích hợp. Khi cuộc cách mạng giành độc lập từ tay Người Anh thành công họ mới nghĩ đến một Lễ Tạ Ơn chung cho 13 tiểu bang. Tổng Thống đầu tiên của nước Mỹ, George Washington, kêu gọi dân chúng giữ ngày thứ năm 26 tháng 11 năm 1789 làm ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên cho toàn quốc (First National Thanksgiving). Nhưng sau đó lễ tạ ơn cũng không được mọi người công nhận theo một ngày tháng nhất định. Dầu vậy, càng ngày càng có nhiều người đưa ra ý kiến nên có một ngày nhất định, đưa lễ Tạ Ơn thành quốc lễ (National Holiday) và đưa quyền quyết định cho chính phủ Liên-Bang.

Một trong những người có công trong việc thúc đẩy việc thành hình ngày Lễ Tạ Ơn là bà Sarah Josepha Hale. Vào năm 1837 bà Sarah trở thành chủ bút của một tạp chí phụ nữ nổi tiếng có tên “Godey’s Lady’s Book”. Bà đã viết hàng trăm lá thư gởi đến các nghị sĩ Quốc Hội và những người có thế lực lúc bấy giờ hầu vận động đưa ngày Thanksgiving vào quốc lễ. Trong thời kỳ nội chiến (Civil War) năm 1861, bà viết một tâm thư kêu gọi hai phe buông súng một ngày để giữ Lễ Tạ Ơn, nhưng không phe nào chịu nghe cả. Bà thất vọng!

Mãi đến năm 1863, Tổng thống Abraham Lincoln nhận thấy chiến tranh đã đến hồi kết thúc nên chỉ định ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 làm ngày Lễ Tạ Ơn cho toàn quốc. Chẳng may ông bị ám sát, Andrew Johnson lên làm Tổng Thống, tiếp tục truyền thống cũ, nhưng đổi lại ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm Lễ Tạ Ơn. Rồi trong khoảng thời gian từ năm 1939 đến 1941, Tổng Thống Franklin Roosevelt chỉ định ngày thứ năm của tuần lễ thứ ba trong tháng 11 làm lễ Tạ Ơn thay vì thứ năm trong của tuần lễ thứ 4. Nhưng lần nầy Roosevelt bị các thương gia và các đảng viên Đảng Cộng Hòa chống đối dữ dội, cho rằng Tổng Thống đã đi ngược lại truyền thống cũ. Hai năm sau Tổng Thống Roosevelt rút lại quyết định và đặt ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm ngày Lễ Tạ Ơn cho toàn quốc mãi cho đến ngày hôm nay.

Lễ Tạ Ơn là dịp để chúng ta đếm các ơn lành Trời ban. Nhìn lại những ngày tháng tại quê nhà, cuộc hành trình tị nạn đầy gian nan vừa qua và những thành quả mà Người Mỹ Gốc Việt đạt được ngày hôm nay để chúng ta dâng lên Thượng Đế lời Tạ Ơn sâu xa nhất. Tạ ơn Trời vì Ngài đã ban cho ta sự sống, hơi thở, sức khoẻ và bao nhiêu là ân huệ. Chúng ta cũng nên cảm ơn nhau. Cảm ơn thân quyến, bạn bè, những người thân quen và ngay cả những người chưa từng biết về sự chan hòa của họ trong cuộc sống của mỗi chúng ta trong cộng đồng nhân loại.




Trường vẽ Gia Định

Năm 1917 trường vẽ Gia Định là trường Mỹ Thuật duy nhất được xếp vào loại “trường Trung học đệ nhất cấp” và được nhận là hội viên của “Hiệp hội Trung ương trang trí Mỹ thuật Paris”.

Năm 1940, trường vẽ Gia Định được đổi tên thành “Trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định” (Ecole des Arts appliqués de Gia Định). Năm 1945 nhiều học sinh của “Trường vẽ Gia Định” xếp bút nghiên để đi kháng chiến như: Huỳnh Công Nhãn, Hoàng Trầm… Thời gian này, trường cũng tạm ngưng hoạt động.

Năm 1954, chính quyền VNCH cho thành lập trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn. Cái mốc lịch sử quan trọng về đào tạo mỹ thuật ở Sài Gòn thời kỳ này là chủ trương nâng cấp về đào tạo của 2 trường: Quốc gia Cao Đẳng Mỹ thuật Sài Gòn và Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là trường vẽ, trường Mỹ nghệ Gia Định).

 

Năm 1975, hai trường nói trên được nhập làm một. Ngày 29-9-1981, trường được đổi tên thành “Trường Đại học Mỹ Thuật TP.HCM”.

 

Được biết ngôi trường cũ kiến trúc trăm tuổi đã không còn tồn tại từ trước năm 1975. Phần đập bỏ hiện nay là phần xây dựng sau này. Dù biết công trình đã cũ thì phải bỏ để xây cái mới an toàn, hiện đại và phục vụ hoạt động tốt hơn, nhưng lịch sử của ngôi trường là nơi đã và đang đào tạo biết bao thế hệ nghệ sĩ, họa sĩ tài danh ở miền Nam trong cả trăm năm vẫn khiến nhiều người lưu luyến.

 

Xem trọn bài




Cẩm nang cho những du khách muốn thăm viếng Việt Nam

 

Từ Thức

Một người bạn nói: ông là người Việt, sống ở ngoại quốc, hiểu cả người Việt lẫn người nước ngoài, nên làm một cẩm nang cho những du khách muốn thăm viếng Việt Nam.
Mới đầu, thấy đó là một ý hay. Làm thử vài trang dưới đây, không biết có nên làm tiếp không, không biết có giúp gì cho du khách để hiểu VN hơn hay không.

– Nếu ăn tiệm, thấy ngon, đừng khen. Người ta sẽ tăng giá gấp hai.
– Mua hàng, phải trả giá. Trả giá bao nhiêu cũng hớ. Nhưng nên an ủi: có người còn hớ hơn mình.
– Để quên iPhone hay ví tiền, đừng quay trở lại, hỏi có ai lượm được không. Bạn đang ở VN, không ở Nhật.
– Đi đường, chỉ nên đeo nhẫn hay đồ trang sức giả. Có thể bị mất ngón tay, nhưng không mất nhẫn… thật.
– Đừng lễ phép, chào hỏi, cám ơn, xin lỗi. Đó là dấu hiệu của người yếu. Không có chỗ sống cho người yếu trong một xã hội toàn những người hùng.
– Nếu mất giấy tờ, khi khai báo, phải biết điều. Người công chức ngồi trước mặt bạn đã tốn nhiều tiền mới được ngồi đó. Hãy giúp họ thu lại số tiền đã bỏ ra đầu tư. Đơn của bạn cũng chẳng có ai xét, nhưng nếu biết điều, đỡ mất công chờ đợi.
– Khi có người hỏi: có biết bác Hồ không, đừng kể lể những điều bạn biết về ông Hồ qua Wikipedia. Khổ lắm, biết rồi, nói mãi. Người ta chỉ nhắc khéo bạn đã quên chi tiền.
– Gặp một người lần đầu, cứ nói: chào tiến sĩ. Rất hiếm người không phải là tiến sĩ. Hay ít nhất phó tiến sĩ, nhưng người Việt không thích làm phó cho ai cả.
– Nếu gặp một ông tiến sĩ có trình độ thấp hơn học sinh tiểu học, đừng ngạc nhiên. Có thể ông ta chưa học xong tiểu học.
– Nếu người ta đưa một tờ giấy khổ lớn, chằng chịt những chữ, đừng nghĩ đó là một thực đơn. Đó là một danh thiếp, liệt kê bằng cấp, chức vụ…
– Đừng hỏi chức vụ này nghĩa là gì, bằng cấp kia của trường nào. Chính đương sự cũng không biết.
– Nếu muốn tơ lụa hay đặc sản Việt Nam làm kỷ niệm, đừng mua tại chỗ, vác nặng mệt xác. Chờ khi về, mua trong một tiệm Tàu cạnh nhà.
– Đừng làm gì, nói gì, nếu không muốn bị phiền phức. Nên nhớ ở nước bạn, người dân có quyền làm bất cứ điều gì luật pháp không cấm; ở Việt Nam chỉ có quyền làm những gì luật pháp cho phép.
– Đừng làm gì, ngay cả khi luật pháp cho phép. Nhiều người ở tù mọt gông vì tưởng luật pháp làm ra để áp dụng.
– Muốn biết ai thuộc giai cấp nào trong xã hội, nên nhìn móng tay họ. Câu nói nổi tiếng: tôi làm thối móng tay mới xây được nhà cửa. Nếu thấy ai có móng tay thối, nên bày tỏ sự kính trọng. Đó ít ra là một chủ tịch xã, chủ một dinh cơ, lớn gần như dinh Tổng thống Mỹ.
– Nếu bạn thấy một người diện complet, cà vạt trong khi trời nóng như lửa, nói những câu ngớ ngẩn khiến thiên hạ ôm bụng cười, đừng nghĩ đó là những anh hề. Đó là những đỉnh cao trí tuệ loài người, đang mô tả một thiên đường XHCN trong tương lai.
– Đừng ngạc nhiên khi thấy một người làm 100 dollars mỗi tháng, xài iPhone trên một ngàn đô, xe hơi trên trăm ngàn. Tại sao không? Why not?
– Thấy hàng trăm người tụ tập ồn ào, đừng nghĩ họ biểu tình đòi nhân quyền hay tranh đấu cho môi sinh. Họ đang tranh nhau chỗ trong một tiệm McDonal’s, Starbucks.
– Thấy hàng ngàn người ngoan ngoãn xếp hàng cả buổi, đừng nghĩ họ chờ vào thư viện, coi triển lãm… Họ chờ giờ mở cửa H&M hay GAP.
– McDonald’s, H&M… đối với bạn là những tiệm bình dân, ăn cho mau, mặc cho tiện trong khi lao động tốt. Với người Việt, đó là những nơi sang trọng, dấu hiệu của thành đạt. Cái gì dính dáng tới ngoại quốc cũng sang trọng. Chụp được cái hình nằm chờ trước cửa H&M là bằng chứng bạn thuộc thành phần ưu tú trong xã hội.
– Nếu thấy một người quỳ gối, hôn chân một người khác, người quỳ gối là người Việt. Vì không thể có chuyện ngược lại. Đó là một hành động vinh quang, nếu người ngoại quốc là tỷ phú. Là một niềm hãnh diện, nếu người ngoại quốc là…. người ngoại quốc.
– Thử nêu tên Mandela, Gandhi: nhiều người trẻ nghĩ đó là một hiệu quần áo Tây, và hy vọng có ngày mở tiệm ở VN để được xếp hàng chầu chực. Nhưng họ sẵn sàng kể cho bạn tất cả những giai thoại về thần tượng Jack Ma, một thương gia Tàu trở thành tỷ phú nhờ cấu kết với nhà nước, bán hàng giả.
– Đi Air VN, nếu chờ quá một giờ trước W.C, đừng nghĩ có người táo bón bên trong. Nhân viên hàng không đã khóa cửa để lấy chỗ chở đồ lậu.
– Tại sao nhiều người Việt, kể cả người có chức sắc, bị bắt vì ăn trộm ở các cửa hàng nước ngoài? Bởi vì họ biết xài, biết hàng hóa ngoại quốc có phẩm chất.
– Tại sao ở Nhật có những bảng lớn, viết bằng tiếng Việt, nơi công cộng: “Ăn cắp là xấu”? Bởi vì ngày nay tiếng Việt được dùng tại khắp nơi trên thế giới.
– Bạn thắc mắc: tại sao phải để 10 dollars vào sổ thông hành khi qua hải quan. Sự thực, không bắt buộc phải để 10 dollars. Người ta bịa đặt ra để nói xấu chế độ. Hai mươi đô cũng được. Nhưng chuyện đó là chuyện giữa người Việt. Bạn không cần làm. Người Việt giỏi bắt nạt nhau, nhưng rất nể người ngoại quốc.
– Bạn nghe thường xuyên chữ “đéo”. Đừng tra từ điển. Chỉ nên biết đó là một chữ rất thơ mộng, rất lịch sự, trang nhã. Nếu không, tại sao họ xài trong bất cứ cơ hội nào?
– Muốn băng qua đường, đừng chờ xe cộ ngưng lại. Cứ nhắm mắt lao đầu đi. Nếu gặp tai nạn, biết ngay. Đây cũng nằm trong chiến dịch bôi xấu chế đô. Chuyện có người băng qua đường mà KHÔNG bị thương tích hay mất mạng xảy ra mỗi ngày, tại sao không báo nào loan tin? Vả lại, theo triết lý Đông phương, chết sống là số mệnh.
– Tại sao ở VN có nhiều nơi dành cho Tàu, cấm người Việt? Bởi vì nếu cho người Việt vào, đâu còn là khu Tàu?
– Tại sao thí mạng hàng triệu người, nói là để tranh đấu cho độc lập, ngày nay nước Việt thành nước Tàu? Bởi vì, khi tranh đấu, không ai nói rõ là dành độc lập cho ai, cho người Việt hay người Tàu.
– Người ta nói nước Việt đang trở thành Tàu? Đó là tuyên truyền để chống phá chế độ. Trên thực tế, người Việt vẫn đông hơn người Tàu. Trên TV, thỉnh thoảng vẫn có những chương trình văn hóa Việt Nam. Lố lăng thực, lai căng thực, nhưng Việt Nam.
– Tại sao người Việt chặt hết cây, phá hết rừng để gây lũ lụt, nhà trôi, người chết ngập đồng? Bởi vì gỗ bán được giá.
– Tại sao khi đốn rừng, người ta không trồng cây để thay, như ở các nước khác? Bởi vì người Việt không ngu như thiên hạ. Trồng cây, mấy chục năm mới lớn. Đổ mồ hôi trồng cho thằng cán bộ phe khác nó chặt à? Nếu lúc đó, hết CS, trồng cây cho phản động nó chặt à?
– Tại sao rừng núi VN có nhiều sinh vật quý, hiếm, ngày nay gần như tuyệt chủng? Bởi vì nhậu thịt bò, thịt chuột, thịt chó, thịt mèo mãi cũng chán.
– Tại sao người ta chặt cây, đốn rừng mà ít người phản đối? Bởi vì theo túi khôn của người Việt “ăn cây nào, rào cây đó”. Anh đã hái trái cây ở ngoài đường bao giờ chưa? Nếu có trái, thằng khác nó cũng hái trước rồi.
– Tại sao xúc cát… Thôi, đừng hỏi vớ vẩn nữa. Anh là bạn tôi hay bạn của cây, của rừng, của cát?
– Người bị tai nạn hay bị đả thương nằm chờ chết trên đường, tại sao không ai dừng lại? Bởi vì coi người bị xe cán chết hoài cũng chán. Nhân viên công lực? Bạn đã thấy có ai sắp chết rút tiền tặng công an, cảnh sát?
– Đừng thắc mắc tại sao người Việt hung bạo, tìm mọi cớ để đánh nhau vỡ đầu, bể trán. Suốt đời, họ bị những người có quyền đè nén, đánh giết nhau là một cách để xả hơi.
– “Những người con gái buồn không nói. Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?” (Xuân Diệu). Họ tự hỏi sẽ được xuất cảng đi đâu: Trung quốc, Đài Loan, Đại Hàn..
– Tại sao tàn nhẫn với trẻ con? Bởi vì khùng hay sao mà đi kiếm chuyện với thằng tàn nhẫn, khỏe, hung bạo, quyền thế hơn mình.
– Tại sao tàn nhẫn với đàn bà? Tại sao không? Bớp tai một cô bán hàng, không ai làm phiền, hôm sau nổi tiếng. Van Gogh bỏ cả đời vẽ tranh, chết mới nổi danh.
– Tại sao khi người Việt quét sân, hay xả rác ra đường hay đùn sang hàng xóm? Bởi vì nếu giữ rác trong nhà thì quét dọn làm gì?
– Tại sao có quán lấy nước rửa chân pha trà cho khách? Bởi vì mỗi người một sở thích. Có người thích trà hoa lài, trà sen, có người thích trà rửa chân.
– Tỷ số thất nghiệp chính thức ở VN là 2,3%, trong khi ở các nước tân tiến 5 hay 10%, có tin được không? Cố nhiên là phải tin, nếu không làm thống kê làm gì? Số thất nghiệp thấp, vì VN là một nước bình đẳng, nghề nào cũng được coi trọng, cũng được nhìn nhận. Đánh giầy là một nghề, ăn xin là một nghề, rước mối là một nghề. Đánh ghen mướn, đòi nợ thuê, đánh bả chó…
– VN đứng thứ 175 trên 180 nước về tự do báo chí? Luận điệu của phản động. Ở VN, trên lý thuyết cũng như trên thực tế, báo chí được hoàn toàn tự do ca tụng chế độ. Bạn đã thấy dư luận viên nào gặp khó dễ hay đi tù khi hành nghề chưa?
– VN bị xếp hạng trong những nước đội sổ về nhân quyền, tự do tôn giáo, về lương bổng… So what? Nếu ai cũng ngang nhau thì xếp hạng làm gì? VN cũng đứng đầu nhiều địa hạt. Thí dụ: tỷ số người bị ung thư, thành phố ô nhiễm. Sài Gòn là một trong những thành phố nguy hiểm nhất thế giới. VN là một trong ba nước có tiềm năng xuất cảng nô lệ, đàn bà mại dâm lớn nhất thế giới.
– Cùng với Trung Quốc, VN là một trong hai nước sản xuất và tiêu thụ nhiều phong bì nhất tính trên đầu người.
– Tại sao Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Đài, Anh Ba Sàm… nằm tù hàng chục năm? Bởi vì họ làm chính trị, chống nhà nước. Tại sao VN nói không có tù nhân chính trị? Bởi vì khi vào tù, họ trở thành thường phạm.
– Tự do tôn giáo? VN là nước tự do nhất thế giới. Cán bộ muốn thành sư, hôm sau cạo đầu thành sư. Ai không tin tôn giáo, cứ tự do vác súng đi hỏi tội linh mục.
– Tại sao ai cũng muốn dân chủ, nhưng VN vẫn là một nước độc tài? Bởi vì người nọ chờ người kia. Nếu anh làm, anh đi tù, người khác hưởng. Tiện nhất là chờ Tây, Mỹ nó làm giùm. Tây, Mỹ không hiểu sao nó thích buôn bán hơn là làm dân chủ. Khi nào Mỹ nó thay đổi, hết ham dollars, VN sẽ có dân chủ. Đó là vấn đề của Mỹ, không phải của người Việt.

Paris, tháng 11/2017




Kỷ niệm về BS Tôn Thất Niệm (vừa mất)

Trần Thị Vĩnh Tường

Năm 1956-62, gia đình tôi nửa ở Saigon nửa ở Đà Lạt. Ba tháng hè bố cho mấy chị em lên Đà Lạt, 35C đường Thống Nhất, xế nha Địa Dư. Hai nhóc có một trò chơi thần tiên là lao từ dốc xuống chân đồi, đoạn cuối hồ Than Thở vắng người tha hồ hò hét. Một thần tiên khác, buổi tối bố cho lên xe traction đi mua bánh mì nóng. Ngoài trời lạnh run cầm cập nhưng trong ánh điện vàng và hơi ấm từ lò nướng, ủ bánh mì vàng ròn thơm và rất nóng trong áo, thiên thần trên trời nhìn xuống suýt soa lác cả mắt rụt rè xin nửa cái, em trai bẻ cho ngay.

 

Một tối, mang bánh mì về mợ cho hay anh Niệm vừa mới ghé cho trẻ con chocolat ăn với bánh mì. Chocolat lúc đó đắt lắm, không bao giờ ăn thỏa thuê đâu nhé. Lần đầu tiên ăn bánh mì nóng kẹp chocolat chảy tan.

Một hôm, “anh Niệm” cùng người bạn đến bố tôi để hát. Lúc đó tôi chưa hát sõi nhưng gia đình ai cũng hát. Nếu trời sinh ra bố tôi giỏi cơ khí đến nỗi chỉ nghe tiếng máy xe biết hư cái gì, thì cũng phú cho ông một giọng hát ma chê quỉ hờn. Ông bảo “Ma cũng phải sợ ba” thì tôi tin răm rắp.

 

Bố tôi thích hát “Gạo Trắng Trăng Thanh” của Hoàng Thi Thơ cặp Ngọc Cẩm- Nguyễn Hữu Thiết nổi tiếng hát với giọng Quảng mà người Đà Lạt ưa lắm. Ông cũng phát âm giọng Quảng “gạo tắng tong mà nên duyên mặng mà…” mà mợ tôi tấm tắc cho là “duyên dáng khó tả”.

Còn hai chị véo von Ngày Về của Hoàng Giác

“Năm tháng phai mờ lời hẹn ước – trong gió sương hình người tình mến

Oán trách ai quên lời thề lúc ra đi thôi ước mơ chi ngày mai”

 

Nên khi chú Niệm hát thì chị lấp ló nhẩm theo.

“Trông bốn phương mờ hàng lệ thắm – mơ đến em một ngày đầm ấm

Nhớ phút chia phôi cùng ai dứt đau thương tìm đến em nay còn đâu”

 

 

Giọng ông bồi hồi chậm rãi, trìu mến tha thiết như tia nhìn cũng không vào ai mà gửi khoảng không. Về sau, nghe Anh Ngoc, Duy Trác và mới đây Trọng Tấn hát Ngày Về, thì tôi càng tin chắc rằng bài hát này chỉ hợp với giọng đàn ông, chất giọng của người có sự ân cần và từ tâm trong sâu thẳm… mà… đàn bà (chúng tôi) đôi khi… thiếu (Amen)

 

Ba tôi là công chức nên hai năm sau đổi đi tỉnh khác. Từ đó, không bao giờ gặp lại chú Niệm và cũng không biết ông là bác sĩ Tôn Thất Niệm. Ở California trong một buổi tiệc, khi ông cất tiếng thì đúng giọng nói ngày xưa. Người ta có thể thay đổi, kể cả giải phẫu thẩm mỹ, trừ giọng nói. Chắc ông không nhớ bé con áo len đỏ “tròn như một cuộn len”.

 

Ba tôi khuất đã 20 năm, chị Tư tôi mất 11/2015. Nhạc sĩ Hoàng Giác vừa qua đời tháng 9/2017. Và hôm nay, Tôn Thất Niệm.

Là bác sĩ, ông dư biết cả sự chết cũng có ích cho đời sống, thay thế già nua kiệt quệ bằng trẻ trung tươi mát.

Là nghệ sĩ, ông cũng biết cái chết là phát mình vĩ đại nhất mà thượng đế trên cao ban cho loài người

Trẻ con như tôi còn điên cuồng tin là những tài hoa không chết, sẽ còn sống nhiều trăm năm nữa vĩnh cửu ở đâu đó trong ký ức của những người muốn nhớ.

 

Sẽ đến chào ông lần cuối. Chào người tình nhân của trí tuệ.

Cũng chào Tuổi Thơ chào Đà Lạt, chào Bố của con, Chị của em… cùng

“Nhấp chén men say còn vương bóng quê hương dừng bước tha hương lòng đau …”

ÔI NHỮNG NGƯỜI TÌNH NHÂN TRÍ TUỆ …

NĂM THÁNG CÓ PHAI MỜ LỜI HẸN ƯỚC…?

 

Rồi ra sẽ gặp nhau cả đấy mà…

“Lưng trời âu yếm bay tìm đàn

Lòng nguyện giờ đây quên quên hết”

 

15/11/2017

https://www.facebook.com/FuschiaArt/posts/1491643367582779

https://www.nguoi-viet.com/cao-pho/bac-si-y-khoa-ton-niem/

 

 




Hãy chụp ảnh giùm tôi

 
Trần Văn Lương
Đừng khoe tôi,
hỡi người bạn tài hoa,
Những tấm ảnh mang ra từ địa ngục,
Nơi bạn mới về rong chơi hạnh phúc,
Dù bao người vẫn tủi nhục xót xa.
 
Đừng khoe tôi hình ảnh một quê nhà,
Mà bạn nghĩ đang trên đà “đổi mới”,
Những thành thị xưa hiền như bông bưởi,
Nay bỗng dưng rã rượi nét giang hồ..
 
Đừng khoe tôi 
những cảnh tượng xô bồ,
Những trụy lạc giờ vô phương cứu chữa.
Đất nước đã từ lâu không khói lửa,
Sao rạc rài hơn cả thuở chiến chinh.
 
Đừng khoe tôi 
những yến tiệc linh đình,
Những phố xá ngập phồn vinh giả tạo,
Nơi thiểu số tung tiền như xác pháo,
Khi dân nghèo không muỗng cháo cầm hơi.
 
Đừng khoe tôi cảnh tụ họp ăn chơi,
Của những kẻ đã một thời chui nhủi,
Bỏ tất cả, trong đêm dài thui thủi,
Ngược xuôi tìm đường xăm xúi vượt biên.
 
Đừng khoe tôi những con phố “bưng biền”,
Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.
 
Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,
Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang uốn mình theo gió đón hương bay.
 
Đừng khoe tôi ảnh Hà Nội hôm nay,
Thành phố đã chết từ ngày tháng đó,
Khi bị ép khoác lên màu cờ đỏ,
Khi triệu người phải trốn bỏ vô Nam.
 
Đừng khoe tôi những cảnh tượng giàu sang,
Đã được bạn tóm càn vô ống kính,
Những hình ảnh mà kẻ thù toan tính,
Muốn tung ra để cố phỉnh gạt người.
 
Bạn thân ơi,sao không chụp giùm tôi,
Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan.
 
Chụp giùm tôi đàn thiếu nữ Việt nam,
Thân trần trụi xếp hàng chờ được lựa,
Hay bầy trẻ mặt chưa phai mùi sữa,
Bị bán làm nô lệ ở phương xa.
 
Chụp giùm tôi đôi mắt mẹ, mắt cha,
Mà suối lệ chỉ còn là máu đỏ,
Khóc con cháu ra đi từ năm đó,
Biển dập vùi, đà tách ngõ u minh.
 
Chụp giùm tôi số phận những thương binh,
Đã vì nước quên mình trên chiến trận,
Mà giờ đây ôm hận,
Tấm thân tàn lận đận giữa phong ba.
Chụp giùm tôi hình ảnh những cụ già,
Bọn đầu nậu gom ra đường hành khất,
Để đêm đến, nộp hết tiền góp nhặt,
Đổi chén cơm dầm nước mắt nuôi thân.
 
Chụp giùm tôi xác chết những ngư dân,
Bị Tàu giết bao lần trên biển rộng,
Hay những chiếc quan tài chưa kịp đóng,
Chở cha, anh lao động Mã Lai về.
 
Chụp giùm tôi thảm cảnh những dân quê,
Chịu đánh đập chán chê dù vô tội,
Hay cảnh những 
anh hùng không uốn gối,
Gánh đọa đày trong ngục tối bao la.
 
Chụp giùm tôi mốc biên giới Việt Hoa,
Lấn vào đất của ông cha để lại,
Hay lãnh thổ cao nguyên còn hoang dại,
Lũ sài lang hèn nhát lạy dâng Tàu.
 
Chụp giùm tôi những nghĩa địa buồn đau,
Chúng tàn phá, chẳng còn đâu bia mộ.
Kẻ sống sót đã đành cam chịu khổ,
Người chết sao 
cũng khốn khó trăm đường.
 
Hãy chụp giùm tôi hết những tang thương,
Hình ảnh thật một quê hương bất hạnh,
Nơi mà bạn, xưa đêm trường gió lạnh,
Đã căm hờn quyết mạnh dạn ra khơi.
Chiếc thuyền con, ca nước lã cầm hơi,
Mạng sống nhỏ đem phơi đầu sóng dữ.
Rồi tha phương lữ thứ,
Tháng năm dài, quá khứ cũng dần phai.
 
Lòng người chóng nguôi ngoai,
có mấy ai còn nhớ!
Biệt phủ ở Yên Bái
Biệt phủ ở khu Đèo Hải Vân
Biệt phủ ở Bình Chánh, Saigon.



Thu Cảm

Sông Lô Lê Nam Sơn

Có lẽ mùa thu là mùa mà những ai sống nhiều với tâm hồn đều yêu thích, cái tiết khí thoải mái, dịu dàng dễ đắm say lòng người. Không gian man mát, thời gian đôi lúc thẫn thờ nhưng cũng lắm khi vội vã…, nó như một thiếu nữ xuân thì, đa tình và lãng mạn.

Em có một tình yêu
Mỏng manh như cánh lá
Em có một tình yêu
Như sóng ngầm biển cả

           (Nguyễn Thị Kim)

Mùa thu thay đổi qua từng cánh lá, cảm nhận thi nhân đối với mùa thu như cảm nhận một cái gì mơ hồ như gió thoảng, nó mỏng manh, nó nhẹ nhàng, nó tha thiết một nỗi niềm chẳng thể gọi tên.
Phong phú về mặt tâm hồn thì phải nói rằng mùa thu là mùa rất đẹp, thật đẹp nhưng không ai có thể níu giữ nó trong tay dù chỉ là một khoảnh khắc.

Thi sĩ Đinh Hùng đã cảm nhận về thu như sau,

“Hôm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này, nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ, những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng Cung nữ thời xưa, và trong vườn nhà ai thấp thoáng bóng hoa phù dung buổi sáng nở sớm như một linh hồn son trẻ? Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và linh hồn tôi vẫn là linh hồn tôi năm trước. Đường về hiu hắt, tôi đem lòng gặp mùa thu thương nhớ cũ, và nay lại thấy thấy thu về cho nước hồ xanh. Chân ai đi xa vắng đường xa, hay đó chỉ là gió thoảng mong manh và gió nào vương vấn hồn tôi, hay đó chỉ là dư âm ngày xưa cũ”
Cùng xúc cảm với thu, mới đây, nhà thơ Sa Huỳnh đã mơ mộng sáng tác  bài thơ “EM VỀ MÙA THU” xin chép ra đây để các bạn yêu thơ cùng thưởng thức.

Em về đây, hồn say tình Thu muộn
Đường Cổ Ngư, sương rụng tím Hồ Tây
Tan theo nước sóng đời chao, khói cuộn
Tiếng chuông ngân lay nhẹ dáng Thu gầy

Áo em xinh như màu hoa thuở đó
Thả ven hồ tao khách gởi câu thơ
Chở trên sóng tình Thu trôi dạt gió
Xuôi về đâu mưa nắng đợi quanh bờ

Bên hàng cây tháng ngày xanh kỷ niệm
Ghế đá còn thương nhớ vị môi thơm
Bước em đi xạc xào Thu lá tím
Từng chiếc rơi trên sóng nước dỗi hờn

Em về đây, mùa Thu quên mong nắng
Cây bên hồ quên đợi tiếng chim ca
Mơ gặp nhau, em vén màn sương trắng
Tìm tay nhau, em với ánh trăng ngà…


“Tức cảnh sinh tình” trước tuyệt tác của thi hữu Sa Huỳnh tôi xin đáp lại bài thơ “EM VỀ MÙA THU” của tác giả.

Em về đó, hồn say thu tình muộn
Riêng ở đây khắp nẻo lạnh giăng đầy
Đường Cổ Ngư, sương rụng tím Hồ Tây
Anh chỉ có nơi này buồn sương tuyết

Áo em xinh như màu hoa thuở trước
Khách tình si để lại mấy vầng thơ
Mùa ở đây thu chín đến mịt mờ
Bước lữ khách biết về đâu thu hỡi

Em về đó, bên hồ cây quên đợi
Mùa thu quên mong nắng, tiếng chim ca
Anh ở đây lạnh cả ánh trăng ngà
Hồn đơn lẻ cuối trời thu tê tái

Em về đó cùng mùa thu vung vãi
Lá đỏ bàng, mái ngói cổ thâm nâu
Để lại đây với cả khối u sầu
Với tiếc nuối… mùa thu đà thoi thóp




Trính tã

Thời còn làm báo nhiều năm trước, tôi đã từ chối một bài viết mà không đọc, vì tác giả bài đó kết thúc mấy dòng thư gửi đến tòa soạn bằng lời chào trân thành. Chính tả nhìn chung là phép cư xử với ngôn ngữ, không hơn không kém, và dĩ nhiên có thể thay đổi như mọi tập quán. Mấy chục năm trước người Việt ngồi chỗ nào cũng bắt chấy, ngoáy ráy tai, cậy gỉ mũi tưng bừng, ai không làm thế là thiếu hòa mình với tập thể, hẳn là còn rơi rớt ý thức hệ gì đó phản động lắm. Bây giờ, những hành vi chẳng chết ai đó chỉ còn sót lại ở những người mà ta không biết nên e ngại hay ái ngại cho sự nguyên thủy của họ. Chân thành hiện vẫn là đồng thuận của đa số người dùng tiếng Việt, song không có gì đảm bảo rằng trân thành sẽ không thắng thế. Trúng ta sẽ phải trâm trước tro những kẻ trung thủy với trữ nghĩa thuở nào.

Thực ra tôi rất biết ơn các lỗi chính tả. Của người khác, tất nhiên. Chúng là những chỉ dẫn đáng tin cậy. Hãy cho tôi biết bạn mắc những lỗi chính tả nào, tôi sẽ biết bạn là ai. Nếu thỉnh thoảng bạn đi bước nửa thay vì bước nữa, bạn ngã đầu thay vì ngả đầu, đã thương ai đó thay vì đả thương chính người ấy, ngã ngủ thay vì ngã ngũ, bạn viết thư ngõ thay vì thư ngỏ… và nếu vì những mưu mô trước quỷ nào đó thay vì mưu mô chước quỷ mà bạn biệt vô âm tính thay vì biệt vô âm tín, tôi thậm chí thấy thích thú. Một ngôn ngữ cho người ta quyền lựa chọn giữa trăn trối, trăng trối, chăn chối, chăng chối, trăn chối, chăn trối, chăng trốitrăng chối, chưa kể giăng giối, là một ngôn ngữ chịu chơi. Một ngôn ngữ cho người ta cơ hội nhầm giữa xe đổxe đỗ, giữa vợ lẻvợ lẽ, giữa ăn phải và ăn phải bả, giữa ăn vãiăn vải, giữa chong đèn, trong đèntrông đèn, giữa vỡ kịchvở kịch, giữa một con sâu làm giầu nồi canhmột con sâu làm rầu nồi canh… là một ngôn ngữ hào phóng. Nhưng ngày nào cũng gặp những covfefe của Việt Nam, những nổi lòng, những đau khỗ không sức nào chịu nỗi trong xả hội, những nổ lực viển tượng, những lể hội, những khung cửa mỡ, những nhờ vã đổi chát, những thắt mắt bàn cải, những tham nhủng, lổi lầm, những bát phỡnước Mỷ, chưa kể những nóng nòng chờ hỗ trợ cây lêu ngày Tết, thì khó mà không phát điên.

Sai chính tả cũng như vi phạm luật giao thông, không ai có thể bảo mình không bao giờ mắc. Có những vi phạm khó tránh. Có những vi phạm khó thương. Và những vi phạm gây tai nạn. Có những người tham gia giao thông khiến ta mừng là không phải ra đường cùng một lúc với họ.

trinh-ta-03

trinh-ta-04

Tai nạn "Hiếp pháp“
Tai nạn “Hiếp pháp“

Lúc đọc “Đơn xin tự thú” của ông Trịnh Xuân Thanh, cuộc sống chốn chánh của ông ấy khiến tôi ngơ ngẩn mất một lúc. Nếu nghiêm khắc xét nét, có thể tính ra cả hai chục lỗi chính tả, từ chữ chốn chánh nay đã thành nổi tiếng đến những chữ viết hoa hay viết thường tùy tiện và cách chấm câu tự tung tự tác trong chưa đầy hai chục dòng viết tay ấy. Nhưng càng có tuổi, hình như tôi càng rộng rãi. Bây giờ tôi đồng ý với ông Wieland, tác gia Khai sáng Đức, rằng tôn giáo và cách chấm câu là chuyện riêng tư, người ngoài chớ bàn. Tôi cũng muốn thêm cách viết hoa hay viết thường cũng như cách viết i (ngắn) hay y (dài) vào gói riêng tư đó, vì trong khi chờ các nhà ngôn ngữ học quyết đấu thì mỗi chúng ta vẫn phải tự quyết định chân lý hay Chân lí trong chính tả cho riêng mình. Song cái tai nạn chốn chánh kia xảy ra bằng cách nào thì trước sau tôi vẫn thấy bí ẩn. Tôi có thể đem thêm một nhân vật đầy uy tín khác – một đại văn hào, cũng thuộc trường phái cổ điển Weimar, sử dụng một ngôn ngữ nổi tiếng trong thi ca và triết học, đầy những niêm luật kể cả về chính tả mà tiếng Việt nhìn thấy có lẽ chỉ biết thương cảm lắc đầu, ông Goethe – để bào chữa cho ông cán bộ cộng sản cao cấp Việt Nam hai lần trượt tị nạn tại Đức. Goethe rất vui vẻ thừa nhận rằng mình ít khi tự cầm bút mà phần lớn đọc cho thư ký chép, nên chính tả thế nào ông không quan tâm, viết thế nào không quan trọng, miễn độc giả hiểu là được. Tự tay viết thư thì thư nào của ông cũng có lỗi chính tả và không hề có dấu phẩy, cùng một chữ có khi ông viết ba kiểu khác nhau. Nhưng thời Goethe, hai trăm năm trước, cũng chưa ai phải nảy ra cái ý tưởng kỳ cục về luật giao thông. Ai có chân dùng chân, ai có ngựa dùng ngựa hoặc dùng lưng kẻ khác, miễn xê dịch được là xong. Ngày nay, một người Việt thuộc môi trường thượng lưu, tốt nghiệp đại học chuyên ngành và cao học lý luận chính trị, từ hơn hai mươi năm liên tục giữ cương vị lãnh đạo ở những tổng công ty và cơ quan nhà nước cấp bộ, thậm chí là đại biểu Quốc hội, làm thế nào để có thể rơi vào một tai nạn như chốn chánh?

 

trinh-ta-01

Trường phái chốn chánh
Trường phái chốn chánh

Song sai chính tả không phải là độc quyền của riêng giới quan chức không thạo gì hết ngoài phép chia. Công ty Luật Đại Việt ở Hà Nội cung cấp dịch vụ đòi tiền trong trường hợp chốn nợ. Tạp chí Điện ảnh giới thiệu màn chốn chạy và pha lẫn chốn trong một bộ phim. Giáo xứ Thái Hà phản đối chủ chương tiêu diệt phong trào hướng đạo của cộng sản Việt Nam. Cô người mẫu Trang Trần viết bản kiểm điểm vì đã trống lại lực lượng làm nhiệm vụ. Hãng Taxi Bình Dương quảng cáo dịch vụ xe nhanh tróng thuận tiện. Bệnh viện An Việt ở Hà Nội phân tích hội trứng não gan. Báo điện tử Soha kể chuyện Sao Việt bị gạ đổi trác. Trường THPT Ngô Gia Tự ở Bắc Giang dạy kỹ năng nói lời từ trối khéo léo. Báo Vietinfo ở Tiệp thông tin về các vùng tranh trấp ở Biển Đông, trong khi cửa hàng Gentleman ở Sài Gòn hướng dẫn quy trình giải quyết chanh chấp. Đài Truyền hình Việt Nam đưa tin về trunglợn lái. Báo Dân quyền yêu cầu đừng trà đạp lên tình yêu nước thiêng liêng. Tỉnh Đoàn Kontum kêu gọi đoàn viên chui rèn trong biển lửa. Báo Vietnamnet thông tin tăng phí chước bạ. Báo Người Việt Atlanta có hẳn một mục Chia xẻ kinh nghiệm. Công ti iMate ở Sài Gòn cho biết bí quyết trăm sóc lốp xe, trong khi Công ti Âu Việt ở Hà Đông bán máy đo lồng độ ô xy bão hòa và báo Dân trí đưa tin về một bệnh nhân bị lôn mửa, và Nhà sách Đại học Quốc gia Hà Nội giới thiệu cuốn “Thi cử học vị học hàm dưới các chiều đại phong kiến Việt Nam“.

Ông Thanh rõ ràng đã hòa mình với tập thể dân tộc cả trong và ngoài nước. Thử hình dung, giới lãnh đạo Việt Nam bỗng nhiên là những người đẹp đẽ lịch duyệt, ăn ở sành điệu, thông thạo dăm ba ngoại ngữ, phát âm chuẩn chứ không cờ-lờ-mờ-vờ, chính tả chuẩn chứ không chốn chánh, diễn thuyết hùng biện, học vấn uyên bác, đã thế lại giàu năng lực lãnh đạo và trong sạch. Chúng ta sẽ nhìn họ như những thực dân từ hành tinh khác. Và chúng ta có truyền thống chống thực dân. Hay chuyền thống trống thực dân.

20/8/2017

P.T.H.




Những người có duyên nợ với tập thơ “Về Kinh Bắc”

 

Hoàng Cầm kể (HH ghi)

 

Xem Tập Thơ Về Kinh Bắc

1/ Cô Cần Thơ là ai? Tôi quan hệ thế nào với cô?

Nguyên tôi có người bạn ở trong Sài Gòn là anh Nguyễn Bùi Chấn, anh ruột cô Nguyễn Thị Bắc là hoa khôi tỉnh Bắc Giang – tôi định nhờ cô Bắc diễn vở kịch Kiều Loan rút cuộc là không thành mà thành một người tình của tôi. Nguyễn Bùi Chấn là bạn học cũ của tôi suốt từ năm đồng ấu cho đến năm lớp nhất ở tỉnh Bắc Giang. Năm 1979, anh có viết thư cho tôi đại ý là: Ở bên Pháp có một nữ bác sĩ còn ít tuổi hâm mộ thơ của anh, tên cô ấy là Bùi Thị Cần Thơ, vậy thì nhận được thư này anh làm ơn cho tôi biết ngay là anh có vui lòng quan hệ với một người như thế không? Cô ấy cũng nói anh thích có cái quà gì hoặc anh thích bất cứ cái gì, cô ấy sẽ gửi tặng anh. Vốn tính tôi khi thấy có một độc giả yêu thích thơ mình như thế, nhất lại là nữ, thì tôi sốt sắng ngay.

 

Thế là tôi viết thư cho ông Nguyễn Bùi Chấn là tôi sẵn sàng quan hệ với độc giả ở xa; còn về quà, thì hiện nay ở Hà Nội việc mua kháng sinh và những cái thuốc tốt của nước ngoài thật là khó khăn, vậy nếu cô ấy là bác sĩ thì tôi muốn cô ấy tặng tôi một ít thuốc nhưng thuốc chính là kháng sinh, tóm lại là tất cả các loại kháng sinh về bệnh đường ruột, đường hô hấp, đường tiết niệu v.v. để cho gia đình dùng. Độ hai tháng thì tôi nhận được giấy báo của bưu điện Hà Nội ra nhận gói hàng ở phố Lê Thạch. Họ đưa cho tôi một tờ giấy để khai, khai cả tên người gửi, tôi để trống chỗ ấy. Khi đưa tờ giấy khai thì cô ở bưu điện có vẻ hống hách lắm, bảo “Bác không đề tên người gửi vào đây thì chúng tôi biết thế nào mà phát”. Tôi cũng đâm cáu, tôi nói hơi to: “Xin nói với chị rằng tôi là Hoàng Cầm, một người làm thơ rất nhiều độc giả ở khắp nơi trên thế giới này, người ta có thể biết tôi, thế thì người nào đó gửi quà cho tôi, tôi chịu, không biết tên được, chị chỉ việc tìm người gửi cho tôi thôi chứ bây giờ chị hạch tôi như thế thì thôi tôi chả cần phải lĩnh đâu tôi đi về đây”. Lúc bấy giờ có lẽ cô bưu điện thấy như thế là quá đáng, cô bảo “Không, không cháu nói thế thôi, bác đứng lại để cháu tìm”. Xong rồi cô tìm ra gói hàng đó thì cô đọc tên người gửi và hướng dẫn tôi ghi vào bản khai: người gửi là Bùi Thị Cần Thơ ở thành phố Troie bên Pháp. Tôi lĩnh được một cái gói hàng vuông vắn bằng cáctông đúng 1kg, mở ra toàn là thuốc, đúng như lời tôi yêu cầu trong thư gửi anh Nguyễn Bùi Chấn, các thứ thuốc kháng sinh, trong nam gọi là trụ sinh, toàn thứ thuốc tốt cả, bên cạnh đó là một lô thuốc bổ cực kỳ đắt tiền ví dụ H500,… Thuốc bổ thì tôi không muốn dùng mặc dù tiêm vào thì cũng tốt thôi, nhưng mà trong hoàn cảnh gia đình tôi không có đủ tiền sinh hoạt hằng ngày, mà khi lĩnh thuốc ngay ở bưu điện đã có những anh đi buôn thuốc theo về tận nhà xin mua. Gói hàng đó có 1kg thôi và không có cái thư nào gài vào đấy cả, nhưng cô Cần Thơ viết ở phía trong cái bìa. Cô viết khéo lắm, cứ thỉnh thoảng viết về thuốc thì cô gài cái ý ngoài, đại ý là: bên này em là bác sĩ một ngày chỉ làm việc ở bệnh viện nửa ngày thôi, còn nửa ngày nghỉ, em đọc thơ anh rất nhiều, nhưng mà em rất mong có những bài thơ mới của anh về quê hương đất nước, thơ chưa in cũng được, anh gởi cho em ít bài vì bên này cần những cái đó lắm.

 

Tôi có ông bạn hay nói đùa làm ở bệnh viện Việt Đức, ông bảo: tên bà là Cần Thơ tức là bà đang cần cái thơ của anh. Lại còn họ Bùi? Bùi Thị Cần Thơ! Tôi nghĩ ngay chưa chắc đó là tên thật nhưng cô ấy lấy họ Bùi chắc cũng là một cách đối phó với chính quyền hay gây những khó khăn trong quan hệ xã hội, lấy họ Bùi để người ta có thể nghĩ là em gái hay họ hàng gì với ông Bùi Hoàng Cầm. Sau đó độ 1, 2 ngày thôi thì tôi viết được ngay một bài thơ, lâu rồi tôi quên mất đầu đề, những câu đầu như thế này “Một áng hương em gói lỏng xuân, Từ đâu bỡ ngỡ cánh thiên thần”. Bài thơ cũng dài tất cả 8, 9 đoạn mỗi đoạn 4 câu. Tôi gửi thư ngay theo địa chỉ đề ở trong hộp quà, ở cách Paris về phía Đông Nam khoảng 100 km. Thế là từ đấy trở đi quan hệ với cô Cần Thơ này càng ngày càng xiết chặt và tôi luôn luôn gửi thư, cứ độ một tháng có một cái thư, gửi cái nào thì tôi đều nhận được một bưu thiếp thôi chứ không phải là thư, cô ấy trả lời bằng bưu thiếp để cho tôi dễ nhận – cô ấy biết nếu gửi thư thì có thể là thư đề địa chỉ Hoàng Cầm sẽ bị kiểm duyệt. Cách đến 3 năm sau thì có lần cô gửi một cái thư tay qua một người bạn đem đến tận nơi, cùng với 100 đô biếu tôi. Thư ấy rất dài, cô kể tỉ mỉ việc cô ấy làm, cô ấy mới nói ra là cô có khuynh hướng theo Phật. Có một lần cô ấy đi xuống phía Nam nước Pháp để nghiên cứu về bệnh trẻ em, cô đến đấy và gặp trên lưng chừng một quả đồi có một ngôi chùa người ta tụng kinh, làm lễ Phật, người ta ngồi thiền, và cô ấy thấy rất cảm động và say mê, cho nên cô ấy có khuynh hướng không làm bác sĩ nữa mà đi hẳn vào con đường tu hành.

 

Trong đời tôi chưa hề có độc giả nào giúp đỡ tôi đều đặn đến như thế, suốt từ năm 1979 đến nay, lúc tôi bị bắt thì bên ấy cô cũng biết tin ngay và cô gửi cho bà Yến 100 đô, đó là người đầu tiên gửi tặng tiền tôi khi tôi ở trong tù, và từ năm tôi ở tù và sau khi ra tù thì cứ mỗi một năm thế nào cô cũng gửi cho tôi đến hai lần quà và tiền, càng về sau thì tiền gửi dễ dàng hơn; trước kia gởi bằng quà, bằng thuốc, lúc đầu chỉ 1kg sau dần dần cô gửi tới 5kg.

 

Qua những cái thư cô viết cho tôi, đầy nhân hậu, và cũng đầy triết lý, dần dần tôi mới hiểu Bùi Thị Cần Thơ là tên giả trong nhiều tên giả lắm, tên thực của cô là Cao Ngọc Thu. Làm việc thiện từ khi 16, 17 tuổi, hoạt động ở Sài Gòn, cô Ngọc Thu học ở đại học Vạn Hạnh, sau làm đệ tử của một vị tu sĩ nổi tiếng thế giới là Thích Nhất Hạnh. Thầy Thích Nhất Hạnh chỉ vì những hoạt động xã hội và từ thiện đã bị chính phủ Diệm trục xuất. Cô Ngọc Thu sang Pháp theo sư phụ và từ đấy không về nước nữa. Từ năm 1985 cô đã cắt tóc đi tu và bỏ làm bệnh viện nhà nước Pháp nhưng vẫn đem cái hiểu biết y học đi chữa bệnh cho người Việt Nam ở miền Nam nước Pháp. Thầy Thích Nhất Hạnh lập ra một làng Việt Nam, đầu tiên gọi là Village des Roses nhưng gần đây thì gọi là Village des Pruniers vì trồng nhiều cây mận, tức là làng Mai, tập trung các đệ tử tu thiền theo pháp môn của mình. Từ ngày thống nhất đất nước đến bây giờ, cô Cao Ngọc Thu (đến nay thì tôi biết pháp danh của cô là Chân Không) có viết cho tôi một cái thư hơi cay đắng: “Hiện nay em đang ở Mã Lai, đi theo thầy để giảng đạo ở đấy, em biết rằng bây giờ em chỉ còn cách tổ quốc 200km mà vẫn xa xôi, tưởng như không bao giờ quay lại tổ quốc được”. Có lần trong thư cô ấy kể cho tôi câu chuyện cô đi quyên tiền khắp thế giới để cứu các em nhỏ là nạn nhân của chiến tranh hoặc là tàn tật, mồ côi, bố mẹ chết trong chiến tranh, hoặc là gia đình tan tác. Có một nghịch lý là chính phủ Nguyễn Văn Thiệu cho rằng thầy Nhất Hạnh và cô ấy đi theo cộng sản, còn ở ngoài Bắc thì lại cho họ là tay sai của C.I.A, thế thì buồn cười lắm. Trong thực tế tôi thấy là thầy Thích Nhất Hạnh viết nhiều sách, toàn sách về đạo, triết học, dân tộc, các cách tu luyện, làm thế nào để con người yêu thương lẫn nhau, làm thế nào để tâm hồn con người luôn luôn trong sáng v.v… toàn là những việc tốt cả. Còn cô Ngọc Thu-Chân Không thì tôi thấy là một người độc giả yêu tác giả đến mức như thế suốt từ 1979 đến nay gần 20 năm trời luôn luôn ủng hộ tiền nong, với những bức thư đầy tình nghĩa và luôn luôn nói đến tâm hồn con người làm thế nào cho cao quí, chính đó là nguồn cảm hứng của tôi, thì đó là người tôi phải biết ơn suốt đời.

 

2/ Nam Dao Nguyễn Mạnh Hùng:

Lần đầu tiên tôi gặp Nguyễn Mạnh Hùng là năm 1979, do anh Dương Tường đưa đến nhà. Anh là tiến sĩ kinh tế dạy đại học Montreal, Canada, anh lấy vợ người Canada con ông thứ trưởng một bộ gì đó (tôi quên rồi). Anh là con người rất yêu nước, trong suốt cuộc chiến tranh anh theo dõi tin tức của Việt Nam, nhất là anh em văn nghệ sĩ mà anh yêu mến. Khi giải phóng miền Nam thì anh có đặt vấn đề về hẳn Việt Nam để phục vụ nhân dân Việt Nam. Việc không thành vì người vợ không chịu, đó cũng là một trong những lý do dẫn đến hai người ly hôn. Năm 1978 anh về nước lần đầu, trong thời gian đó anh quan sát, nghiên cứu tình hình kinh tế và viết ra mấy đề án cải tiến đưa cho ông Phạm Văn Đồng xem, ông Phạm văn Đồng quí đến mức ra lệnh cho cấp dưới từ nay trở đi anh Nguyễn Mạnh Hùng từ Canada về không cần phải xin giấy nhập cảnh nữa. Thế là anh thường xuyên đi đi về về.

 

Ngay lần gặp đầu tiên, anh khoe đã thuộc một số bài thơ cũ của tôi như là bài ‘Bên kia sông Đuống’, vài bài trong tập “Tiếng hát quan họ” đã in từ trước. Từ đấy anh hay đến tôi. Lúc anh sắp đi thì anh có đưa nhà thơ Nguyễn Duy đến thăm tôi, anh đem đến tặng tôi chai rượu Johnnie Walker và một áo sơ mi còn ở trong túi nilon rất đẹp. Ba anh em cùng uống rượu và nói chuyện thơ. Nguyễn Duy bảo “Ôi giời ơi! Kinh Bắc của anh thì chữ nghĩa nó ma quái lắm”. Nguyễn Mạnh Hùng thì bảo “Em thích nhất là bài gì có câu ‘Lớn lên em đừng tìm mẹ phía cơn mưa’, câu thơ nó vang động trong em, vang động cả một tình cảm quê hương”.

 

Gặp nhau nhiều lần, tôi thấy anh Nguyễn Mạnh Hùng quả là một người bạn đồng cảm đáng tin cậy. Nên tôi nhờ anh mang hộ một băng cassette sang Pháp cho cô Cần Thơ. Tôi có ngâm vào đấy độ 9, 10 bài thơ, trong đó có bài ‘Bên kia sông Đuống’ mà chính cô Cần Thơ đã có văn bản rồi, nhưng đặc biệt có những bài mà cô chưa có, một số bài trong tập “Về Kinh Bắc” ví dụ ‘Lá Diêu Bông’, ‘Quả vườn ổi’, ‘Về với ta’… Cái băng cả hai mặt 90 phút, tôi thu cái băng đó ở nhà hoạ sĩ Hoàng Lập Ngôn, hôm đó có mấy người bạn đến nghe và xem tôi thu, có cậu Ngô Đăng Tuất làm ở nghe nhìn trung ương, cậu ấy đánh guitar rất giỏi rất hay, cậu đệm cho tôi 90 phút, tôi đã sang lại một băng để ở nhà còn một băng gửi Nguyễn Mạnh Hùng mang đi. Nguyễn Mạnh Hùng nhận lời, lần ấy là năm 1981. Đến đầu năm 1982 Hùng lại về, lần này ở lâu trong nước độ 3, 4 tháng. Trong thời gian ấy anh yêu một cô làm việc ở điện ảnh, có tổ chức cưới ngay ở nhà hàng Phú Gia, nhưng anh xin lỗi không mời tôi vì trong đám cưới đó có nhiều quan khách lắm. Sau đó thì Nguyễn Mạnh Hùng có mời tôi với vợ tôi đến một cửa hàng ăn bình thường ở phố Chả cá.

 

Lần này Nguyễn Mạnh Hùng xin tôi tuyển chọn cho anh một số tác phẩm của tôi, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Đặng Đình Hưng. Đến khi tôi cho anh xem tập “Về Kinh Bắc” thì anh mê quá, nhất định xin tôi toàn bộ tập thơ đó. Lúc bấy giờ chưa có photocopy, chỉ có đánh máy mà đánh máy vừa lâu vừa tốn tiền, thế nên tôi ngồi tôi chép ra cho anh. Anh mang vào Sài Gòn để chuẩn bị trở về Canada thì tôi bị bắt. Dương Tường nghe tin Hoàng Cầm bị bắt một cái là lập tức bảo Nguyễn Mạnh Hùng “Tất cả cái gì của Hoàng Cầm thì giao lại cho Dương Tường”, thế là Dương Tường gửi anh Cao Xuân Hạo tập “Về Kinh Bắc”, anh giữ kín và thỏa thuận với anh Cao Xuân Hạo cũng giữ kín không nói cho ai biết là anh Nguyễn Mạnh Hùng có gửi tập “Về Kinh Bắc” ở đây. Quả nhiên anh Nguyễn Mạnh Hùng ra sân bay Tân Sơn Nhất về Canada thì bị khám kỹ lắm, sau này anh có kể chuyện là họ bắt cởi hết quần áo ra, chỉ mặc cái quần đùi để cho họ khám xem có tài liệu gì của Hoàng Cầm trong người không. Từ đấy anh hầu như không được phép về Việt Nam nữa, mãi đến năm 1987 tức là 5 năm sau anh mới được về, lúc ấy thì tôi đã được phục hồi.

 

3/ Hoàng Hưng:

Cũng năm 1982, Hoàng Hưng, một nhà thơ trẻ từ Sài Gòn ra, đến thăm tôi và bảo: “Em ra Hà Nội chỉ độ một tuần nữa thì em về Sài Gòn, vậy anh làm thế nào anh chép cho em toàn bộ tập “Về Kinh Bắc”. Ở trong ấy em có sinh hoạt với nhóm anh em trẻ làm thơ, họ muốn có tập “Về Kinh Bắc” của anh để nghiên cứu bởi vì cứ nghe đồn hoặc là thuộc vài câu vài bài thích lắm mà tam sao thất bản cả, anh chịu khó chép giúp em”. (Trước kia tôi đã chép cho Hoàng Hưng ba bài: ‘Tam cúc’, ‘Diêu bông’, ‘Vườn ổi’). Tôi còn chần chừ thì ông Minh Đức Trần Thiếu Bảo đến bảo là “Hoàng Hưng bảo nó xin anh tập Về Kinh Bắc thì anh cho nó đi! Tôi có bảo cậu ấy bồi dưỡng cho anh, giờ anh nghỉ bán rượu để chép thì anh làm gì có tiền mà chi tiêu”. Ông Minh Đức mua giúp Hoàng Hưng 200 tờ giấy trắng đẹp lắm, mỗi một hôm bán rượu đến độ rỗi rãi vắng khách thì tôi mới ngồi chép, thường thường về đêm, khoảng 10h30 tôi lại chép độ 1 tiếng đồng hồ trước khi đi ngủ. Thành ra độ 10 ngày tôi mới chép xong. Khi tôi giao cho Hoàng Hưng tập “Về Kinh Bắc” tại nhà ông Trần Thiếu Bảo – lúc ấy nhà ông cũng mới mở quán ăn uống – thì Hoàng Hưng lại sẵn có một bìa do anh Văn Cao trình bày và bốn tranh phụ bản của Bùi Xuân Phái, có ba cái tôi thích lắm bởi vì anh Bùi Xuân Phái đã đọc “Về Kinh Bắc” rồi và anh đã từng vẽ phụ bản cho tôi chép một tập mà tôi cho cà phê Lâm. Chính cái bản cho cà phê Lâm có một hôm tôi đã mượn về, vì có mấy anh bạn uống rượu cứ đòi xem, họ uống suốt từ 9h sáng cho đến chiều, ngồi uống rồi đọc tập “Về Kinh Bắc”. Đến chiều hôm ấy tôi không tìm thấy lại tập thơ nữa. Tập ấy là tập tôi chép rất đẹp, cũng có bốn phụ bản của Bùi Xuân Phái cũng rất đẹp, anh vẽ những cảnh hội Kinh Bắc, hai cô con gái quan họ, một chân dung của tôi, thành ra anh Lâm giữ như là của gia bảo…

 

Mấy ngày sau khi giao bản chép tay “Về Kinh Bắc” cho Hoàng Hưng thì tôi bị bắt (ngày 20/8/1982). Đêm đầu tiên vào Hoả Lò, tôi mới được mấy người tù cũ cho biết ngày 18/8 Hoàng Hưng cũng bị bắt vào đây, ở đúng buồng này. Hôm sau có lúc tôi thoáng thấy anh đi cung ngang qua sân nhà giam… Sau tôi được biết Hoàng Hưng bị giam tù 39 tháng vì tập “Về Kinh Bắc” và những bài thơ anh ta làm từ trước, chép trong sổ tay để ở nhà. Mãi sau Đổi mới, tôi mới gặp lại anh ở Sài Gòn.

 

4/ Những người toan tính xuất bản Về Kinh Bắc:

Sau ngày “Đổi mới”, tôi và anh em Nhân Văn-Giai Phẩm đã được phục hồi, nhà thơ Xuân Quỳnh là người đầu tiên sốt sắng xuất bản “Về Kinh Bắc”. Xuân Quỳnh làm thơ rất hay, tôi coi cô như con gái, cô rất thân với con gái tôi là Hoàng Yến. Xuân Quỳnh đã đọc tập thơ này từ lâu rồi khoảng năm 1974, 1975 gì đó, tôi cho cô mượn đến một tháng trời, cả hai vợ chồng Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh đều rất thích. Xuân Quỳnh đến tận nhà tôi bảo là “Chú à, cháu là biên tập ở nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, chú để cháu in tập Về Kinh Bắc”. Lúc bấy giờ tôi giữ ý, tôi bảo đừng lấy tên “Về Kinh Bắc”, người ta vẫn còn săn nó ghê lắm, người ta còn thành kiến ghê lắm, tên tập thơ “Về Kinh Bắc” quá nổi nên công an người ta không thích, nếu cô có in thì in thêm bài “Bên kia sông Đuống”, lấy tên tập thơ là “Bên kia sông Đuống” thì được. Cô Xuân Quỳnh bảo “Thôi được rồi chú cứ để mặc cháu, miễn chú đồng ý là được rồi, cháu đấu tranh thế nào để tập thơ nó phải ra đời không thể giữ kín mãi được, phải để cho độc giả người ta đọc”. Thế rồi cô ấy biên tập xong, cô làm bản nhận định đưa cho giám đốc là anh Vũ Tú Nam, anh Vũ Tú Nam cũng đã ký vào rồi và chuẩn bị in rồi thì đùng một cái có bốn ông công an đến nhà xuất bản Tác Phẩm Mới yêu cầu không được in tập thơ này. Đã xảy ra một cuộc cãi lộn rất lớn giữa Xuân Quỳnh và anh Vũ Tú Nam, sau này Xuân Quỳnh có thuật lại cho tôi biết. Vũ Tú Nam nói với Xuân Quỳnh rằng “Ở trên (ý nói lãnh đạo, nói chung bao giờ cũng dùng chữ “ở trên”) người ta không đồng ý tôi in cái tập này đâu thì thôi Xuân Quỳnh xoá nó đi không in nữa”, thì Xuân Quỳnh bảo “Các anh buồn cười nhỉ, chính anh đã ký vào bản nhận định của tôi rồi, ký vào rồi là đồng ý đi in rồi, tại sao bây giờ anh lại rút ra, sao anh hèn đến như thế, anh cũng làm thơ anh cũng viết văn, anh xem cái tập thơ này nó xấu ở chỗ nào? nó làm hại dân tộc làm hại tổ quốc ở chỗ nào, anh đã đồng ý rồi bây giờ anh thấy công an đến anh sợ anh lại đòi hủy đi, thế là thế nào tôi không hiểu, tôi không hiểu được thái độ của anh… Thôi được rồi, anh không in tôi in, bởi vì anh đã ký vào đây rồi, tôi vẫn còn giữ cái bản ấy đây, tôi đem in, nếu nhà xuất bản không bỏ vốn tôi sẽ tìm cách bỏ vốn tôi in”. Vũ Tú Nam sợ quá nói gần như van như lạy: “Thôi, Xuân Quỳnh nghĩ đến anh một tí, anh là phụ trách, giám đốc thì tất nhiên về mặt chính trị, về mặt pháp luật thì phải chịu trách nhiệm”, thế thì Xuân Quỳnh bảo “Tôi chỉ có thể nhân nhượng cho anh là vẫn in mà đổi tên, không lấy “Về Kinh Bắc” nữa mà có thể lấy “Bên kia sông Đuống” bởi vì “Bên kia sông Đuống” là bài thơ tốt trong kháng chiến chống Pháp ai cũng biết rồi, nhưng ở bên trong thì vẫn in đầy đủ các bài của tập “Về Kinh Bắc”. Tôi chỉ nhân nhượng anh về điều đó thôi còn nếu không thì tôi vẫn cứ đem in đây này”. Tôi nghe câu chuyện đó thì tôi bảo “Thôi Xuân Quỳnh à, Xuân Quỳnh cũng nên thôi và nếu có in thì nên chọn một nửa thôi, một nửa số bài trong “Về Kinh Bắc” là những bài nổi tiếng, đổi tên đi và thêm vào đấy một số bài mới hoặc thêm những bài trong kháng chiến chống Pháp ví dụ bài ‘Giữ lấy tuổi trẻ’, bài ‘Đêm liên hoan’ hay là bài ‘Tâm sự đêm giao thừa’ hay bài ‘Bên kia sông Đuống’, đấy là những bài đã được khẳng định trong kháng chiến chống Pháp, lẫn lộn vào đấy như thế cho nó nhẹ bớt Về Kinh Bắc đi”. Xuân Quỳnh cự lại tôi “Khổ quá chú bị ở tù rồi bây giờ chú đâm ra nhát quá, cháu cứ in thì đã làm gì, chả làm sao cả, bây giờ ai đem ra tranh luận tập thơ này xem nó xấu ở chỗ nào thì cháu có thể đảm bảo với chú cháu sẽ đánh bại mọi ý kiến nào đả phá nó”.

 

Còn dằng dai như thế thì ở trong Huế, anh Nguyễn Trọng Tạo cùng với anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, lúc bấy giờ anh Hoàng Phủ Ngọc Tường là chủ tịch Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế còn anh Trọng Tạo là biên tập của Nhà xuất bản Thuận Hóa của Huế, hai anh có ý định in tập “Về Kinh Bắc” nhưng cũng vui lòng lấy tên là “Bên kia sông Đuống” hoặc “Thơ Hoàng Cầm” thế thôi. Các anh chuẩn bị đến mức là xong ở nhà in rồi, chuẩn bị giấy má, tiền công in và anh Trọng Tạo định in một vạn rưỡi cuốn vào năm 1988. Nhưng một hôm tôi đang ngồi giặt ở máy nước trước cửa trông thông thống ra ngoài đường thì thấy ca sĩ Ngọc Bảo vẫy vẫy tôi một cách rất vội vã, anh vẫy tôi ra chứ anh không vào. Tôi chạy ra xem anh bảo cái gì, thì anh ghé vào tai tôi nói thầm “Này cậu in tập thơ gì ở Huế phải không? Cậu đánh điện cho nó bảo thôi đi chớ nếu không tay Nhạ (phòng an ninh chính trị Sở Công an Hà Nội) nó bắt cậu lại ngay lập tức, bởi cậu có cái lệnh tạm tha thôi lúc nào nó bắt lại cậu cũng được, ở tù thì khổ lắm, tôi thương cậu tôi biết chuyện đó tôi mách cậu đấy, nên bảo nó hoãn đi, đừng in vội thì cậu thoát nếu không thì nó ra cái lệnh bắt nữa thì khổ cậu lắm”. Thế là tôi đâm sợ, đâm hoảng thật vì ở tù thì chả có ai thích cả, muốn quyết tâm gì, muốn khí phách gì chăng nữa chứ ở tù thì cũng khổ lắm, tôi thì vốn nhát cái chuyện đó, lúc nào người ta bắt tôi chả được, tôi là con giun con dế họ dẫm mãi cũng chết, tôi chưa muốn chết, chả tội gì mà đâm đầu vào đấy làm gì, nó có giá trị thì để 50 năm nữa in vẫn cứ được. Tôi nghĩ như thế nên tôi đánh điện vào cho anh Hoàng Phủ Ngọc Tường yêu cầu hoãn không thời hạn việc ấn hành tập thơ của tôi, dưới bức điện ký tên Hoàng Cầm. Sau này anh Trọng Tạo mới kể lại chuyện với tôi là “Nhận được cái điện ấy thì anh Hoàng Phủ Ngọc Tường đang phân vân, Trọng Tạo bảo ‘Tôi đã chuẩn bị đầy đủ rồi cả tranh bìa rồi, việc in, giấy má, hợp đồng là xong hết cả rồi, chỉ có việc đánh máy và đưa đi in thôi, còn có cái gì nữa đâu, cứ in bừa đi, cái ông Hoàng Cầm hay nhát lắm, chắc có ai dọa ông ấy sợ”. Anh Hoàng Phủ Ngọc Tường thì chín chắn hơn, anh bảo “Không, giá ai đánh điện thì tôi cứ làm nhưng đây chính anh Hoàng Cầm đánh điện, anh ký tên hẳn hoi ở dưới, nếu tôi làm nhỡ ra anh ấy có bị làm sao thì có phải tôi đẩy anh ấy vào chỗ chết không”.

 

Rồi đến Nhà Xuất bản Văn học cũng lại thế. Lúc bấy giờ còn anh Lý Hải Châu làm giám đốc, anh Lý Hải Châu cũng định in ít bài “Về Kinh Bắc” độ 5, 3 bài thôi còn thì in những bài thơ cũ của tôi hoặc những bài thơ mới làm, cuối cùng anh Lý Hải Châu cũng bị công an đến yêu cầu, anh Lý Hải Châu cũng tranh luận với họ một lúc, nhưng sau đó anh Lý Hải Châu bảo với tôi rằng “Trong lúc an ninh người ta đang làm căng thẳng thì tôi không nên đẩy thêm căng thẳng làm gì, mà đẩy thêm thì chỉ khổ cho anh thôi. Thế thì thôi anh cứ hoãn cũng được, lúc nào tình hình khá lên, dân chủ mở ra một chút nữa, đổi mới này nó khá lên một chút nữa ta in thì chả làm sao cả, tác phẩm hay thì lúc nào in cũng được”.

 

Người thứ tư muốn in “Về Kinh Bắc” là anh Sinh trưởng ban biên tập Nhà xuất bản Phụ nữ, anh muốn in những bài nổi tiếng như bài ‘Diêu Bông’, ‘Tam Cúc’ trong một tập thơ của tôi nhưng chỉ đề là ‘Thơ Hoàng Cầm’ thôi, thế là lập tức công an đến, rồi ông Quang Phòng Tổng cục phó Anh ninh viết cái thư cho anh Sinh “Anh Hoàng Cầm có thể in tất cả những bài thơ mới của anh nhất là những bài thơ tình anh mới viết, riêng tập “Về Kinh Bắc” thì còn phải chờ một thời gian nữa, yêu cầu nhà xuất bản Phụ nữ không in bất cứ một bài nào trong tập Về Kinh Bắc cả”.

 

Đang trong tình cảnh chán nản như thế, thì một hôm tôi mang một tập thơ toàn những bài thơ tình, cả thơ cũ lẫn thơ mới làm, đến anh Quang Huy tức là Nhà xuất bản Văn hóa, tôi đề ở ngoài là “Mưa Thuận Thành”, tôi cũng không yêu cầu gì với anh Quang Huy là in hay không in, tôi chỉ nói “Tôi có một tập thơ toàn những thơ tình mới cả đây tôi đưa anh đọc”. Quang Huy mới bảo “Ôi giời ơi! Thơ tình của anh để tôi xuất bản, tôi sẵn sàng xuất bản ngay anh không cần bỏ vốn ra, thơ của anh tôi bán được”. Thế là anh Quang Huy tự nhận lấy việc in tập thơ “Mưa Thuận Thành” không có một bài nào trong tập “Về Kinh Bắc” cả. Nhưng rồi anh Quang Huy lại bảo “Nếu in “Mưa Thuận Thành” thì anh phải cho mấy bài đã nổi tiếng đã đăng báo rồi như ‘Diêu Bông’, ‘Tam Cúc’, ‘Về với ta’, ‘Tắm đêm’… có độ 7, 8 bài anh đã in báo, có bài đã đăng hai lần rồi, chẳng có dư luận xấu nào đối với anh cả, anh nên cho thêm vào để tập thơ có giá trị, nếu chỉ có “Mưa Thuận Thành” không thì chưa chắc người ta đã thích mua đâu”. Tôi bảo “Ôi giời tập “Về Kinh Bắc” thì công an người ta đã ra chỉ thị tuyệt đối không có nhà xuất bản nào được in dù là một bài ở trong tập ‘Về Kinh Bắc’”. Quang Huy bảo “Thôi được rồi anh cứ mặc tôi, nếu cần đấu tranh thì tôi đấu tranh, anh đừng phải quan tâm gì cả anh cứ thay cho tôi 8 bài, 8 bài nào mà anh thấy kém nhất trong tập “Mưa Thuận Thành” anh thay bằng những bài “Về Kinh Bắc” đã đăng báo rồi, tôi dựa vào chuyện đã đăng báo rồi tôi sẽ đấu tranh được”. Quả nhiên là khi bản thảo tập “Mưa Thuận Thành” đã đến tay anh Quang Huy thì lại có 4, 5 cán bộ công an trên tổng cục xuống yêu cầu nhà xuất bản cho mượn cái bản thảo rồi cho xem những bản đã đánh máy vi tính, thế thì anh Quang Huy nói lại rất mềm dẻo nhưng cũng rất cứng, anh bảo “Thưa các đồng chí cái này nó đã vào kế hoạch xuất bản của tôi rồi, đã vào kế hoạch thì tôi không thể thay quyển khác vào đây, nếu các đồng chí mượn thì tôi cũng vui lòng đưa các đồng chí xem, chỉ có một điều là những bài chúng tôi chọn của anh Hoàng Cầm ở đây có một số bài hình như có trong tập “Về Kinh Bắc” đấy, nhưng toàn là những bài đã đăng báo từ ngày đổi mới đến giờ, có bài đã đăng 2, 3 lần, chúng tôi thấy cũng không có vấn đề, độc giả vẫn hoan nghênh, cũng không có ý kiến nào phản đối những bài thơ đó cả, vậy thì các đồng chí nên xem xét để chúng tôi in cho nó nhanh cho nó kịp, các đồng chí mượn thì xin các đồng chí trả đúng thời hạn”.

 

Không biết bên công an nghĩ thế nào, nhưng rồi cuối cùng tập “Mưa Thuận Thành” cũng ra trót lọt, ra được 8 bài trong “Về Kinh Bắc” toàn là bài hay. Tập “Mưa Thuận Thành” tôi không biết bên trong anh Quang Huy in bao nhiêu nhưng đề bên ngoài 1000 bản, có 15 ngày thì bán hết.

 

Vậy là từ sau ngày tôi bị kỷ luật, nói cách khác, tính từ quyển cuối cùng in ở Nhà xuất bản Văn Học năm 1956 cho đến năm 1989 tức là sau 33 năm tôi mới trở lại việc ấn hành một tập thơ. Dư luận quanh tập “Mưa Thuận Thành” đang sôi nổi thì lại có việc nhạc sĩ Trần Tiến dựa theo ý thơ ‘Lá Diêu Bông’ sáng tác ra bài ‘Sao em nỡ vội lấy chồng’. Bài hát của Trần Tiến rất là nổi, đó là bài hát dung dị dễ thuộc, dễ nhớ, mang nhiều tính chất dân giã, thành ra cả năm 1990, 1991, rồi cả năm 1992, 1993 nữa, thậm chí tôi nghe cả xẩm ngoài đường, xẩm chợ Hôm, chợ Hàng Bè hát bài ấy.

 

Đến năm 1994 thì Nhà xuất bản Văn Học của anh Lữ Huy Nguyên được một anh cán bộ an ninh trên Trung ương xuống nói rằng “thôi bắt đầu từ bây giờ tập thơ “Về Kinh Bắc” được mở ra rồi, tức là cái chỉ thị cấm in đã hủy bỏ”. Thế là khoảng tháng 7 tháng 8 năm 1994, “Về Kinh Bắc” chính thức ra mắt tại NXB Văn Học.

5/ Nguyễn Doãn Nhạ:

Sau này về tôi mới biết chuyện tôi bị bắt chắc chắn là do Tố Hữu, Tố Hữu có công an riêng của ông, chính là công an Hà Nội, để mà săn sóc những người Nhân Văn Giai Phẩm. Người bắt tôi là là trưởng phòng an ninh chính trị của Sở Công an Hà Nội, tên là Nguyễn Doãn Nhạ.

 

Tôi mới gặp ông Nhạ có một lần vào năm 1974, chưa giải phóng. Lúc ấy tôi đang uống bia ở Hồ Tây thì có một anh trẻ tuổi, độ 18, đến bảo “Chú ơi, chú về nhà đi, chú về đi rồi cháu sẽ đến gặp chú”, cậu ta nói rất nhỏ… Tôi đoán là có chuyện gì rồi, nhưng chả việc gì phải trốn tránh. Buổi chiều cậu ta đến, nhưng không dám vào nhà mà kêu tôi ra cửa. Cậu ta có vẻ rất e dè, nói thì thào: “9h sáng mai chú đến sở công an ở đường Trần Hưng Đạo, chú đến đấy sẽ có người đón chú vào”.

 

9h sáng hôm sau tôi đến cổng Sở Công an thì có người đón, đưa tôi vào cái buồng nho nhỏ có bàn có ghế. Ngồi mấy phút thì một anh cán bộ chừng 40 tuổi mặt xam xám, mắt hầu như không có lòng đen, người gầy quắt, mặt thì choắt, cười thì miệng cười rất rộng răng thì rất trắng nhe ra làm cho tôi thấy hơi rùng mình. Tôi có cảm giác gặp một bộ mặt của tử thần, mà cái cảm giác đó rất rõ. Anh ta nói với tôi thế này: “Ít lâu nay anh có truyền bá những bài thơ anh làm, ảnh hưởng rất nặng đến tư tưởng của thanh niên thủ đô. Cấp trên của chúng tôi rất lấy làm không hài lòng về việc đó, tôi cho gọi anh đến đây để yêu cầu anh từ sau Nhân Văn anh có làm những bài thơ gì, chép cho ai, đọc cho ai nghe, tặng biếu những ai thì anh phải thu hồi về hết và từ nay trở đi tuyệt đối anh không chép bất cứ một câu nào, bài nào cho bất cứ ai, nếu anh không chấp hành thì anh phạm vào kỷ luật nặng đấy, để đến lần thứ hai tôi phải nhắc anh như thế này thì chúng tôi nhắc ở trong tù trong nhà giam chứ không phải nhắc ở đây. Bây giờ anh viết kiểm điểm, từ sau Nhân Văn cho đến bây giờ anh sáng tác những cái gì? và những sáng tác ấy mang tư tưởng gì? Cái đó chúng tôi đã biết cả, những bài thơ của anh nó lan truyền trong giới thanh niên, sinh viên, học sinh, khá nhiều đấy, truyền miệng truyền tay nhau toàn những bài thơ mang một nội dung không lành mạnh, nội dung mang tính chất chống phá chủ nghĩa xã hội”. Tôi nói: “Tôi có sáng tác một số bài thơ nhưng đấy là những bài thơ về quê hương cũ, đó là tình cảm riêng của tôi không có gì là chống phá cách mạng cả, thơ thì có thể hiểu theo nghĩa này cũng được, hiểu sang nghĩa khác cũng được, chứ tôi không có ý gì sau Nhân Văn, tôi không có ý gì chống lại đường lối hoặc chính sách của Đảng”. Anh ta bảo: “Đó là anh nói thế thôi, chứ rõ ràng nếu những bài thơ tốt cho chế độ thì có thể đăng báo được chứ làm sao mà không đăng được? Dù kỷ luật của anh thế nào đi chăng nữa, nhưng anh thử gửi những bài thơ tốt đối với chế độ này thì tôi tin là các báo đăng ngay, đây không có báo nào đăng gì cả, vậy thì tại sao anh làm cái chuyện lưu truyền trong thanh niên… Cơ quan tôi nhận rất nhiều báo cáo về những bài thơ ấy ở trong thanh niên, sinh viên, học sinh, trí thức, cán bộ văn nghệ văn hóa, thế thì tại sao? Có phải là anh truyền bá đi không, mà truyền bá như thế là truyền bá những tư tưởng chống đối, anh có nhận như thế là sai không?”. Tôi trả lời: “Tôi có chép cho một số người, một số bạn, chép một số bài chứ không nhiều, cái đó có, những bài thơ không có chống đối gì hết, còn ai nghĩ là chống đối tôi không thể nào biết được. Bây giờ bảo tôi thu hồi thì tôi thu hồi thế nào đây, nếu như người ta đã thuộc rồi thì tôi làm thế nào mà thu hồi lại được, vì thơ là một cái gì nếu hợp với người ta thì nó có cánh nó bay đi nó đậu lại trong bụng dạ người ta thì tôi làm thế nào mà thu hồi?” – “Có bài nào anh chép cho người ta, cho anh X, anh Y nào đó thì anh biết để đòi lại chứ, cái đó có thể thu hồi được, còn bài nào người ta thuộc rồi thì tất nhiên không thể lấy lại được, đấy có phải là cái tội của anh không? Tại sao những bài thơ người ta thuộc một cách bí mật, người ta lan truyền nhau một cách lén lút? Đó phải là những bài thơ chống đối cách mạng, hợp với bọn thanh niên bất mãn, bọn sẵn sàng chống đối chế độ, hợp với bọn ấy cho nên chúng nó thuộc”. Thế là anh cán bộ bắt tôi viết kiểm điểm. Tôi viết hai trang, tôi viết sự thật, cũng có chép tay cho một số người 5, 3 bài thơ trong tập “Về Kinh Bắc” của tôi, tôi hứa từ nay không chép cho ai nữa, không truyền bá đi nữa. Sau đó thì tôi về.

 

Về sau tôi có hỏi một anh ở công an nhưng có tình thân gia đình tức là anh Bảo Hùng, em chồng bà Tuyết Khanh, anh Bảo Hùng nói đó là anh Nhạ, trưởng phòng an ninh chính trị. Bấy giờ tôi mới biết tên anh là anh Nhạ, chứ chưa biết họ, cho đến năm 1982 khi nghe đọc lệnh bắt và khám nhà ký tên là Nguyễn Doãn Nhạ trưởng phòng an ninh chính trị Sở công an Hà Nội…

 

Sau khi giao tập thơ cho Hoàng Hưng thì tôi về, tôi chả nghĩ ngợi gì cả. Mấy ngày sau, tức ngày 20 tháng 8, buổi sáng lúc ấy gần 9h vợ tôi đi chợ rồi, cũng chưa có khách đến uống rượu, tôi vẫn nằm trên gác bắt đầu giở bàn đèn ra; mới hút độ hai điếu tôi thoáng thấy bóng một anh áo vàng tức là công an đi qua cửa sổ thì tôi vội vàng đi xuống, thì hóa ra anh cán bộ ở đồn, quen biết, anh ta có vẻ thân mật nói là chỉ vào thăm bác thế thôi, tôi cũng mời nước, mời thuốc lá, xong thì anh ta lại đi. Tôi tưởng xong rồi chẳng có chuyện gì lại lên gác, lại định châm đèn lên để hút thì lập tức thấy bóng áo vàng thêm mấy người nữa mặc civil. Tôi bắt đầu biết là có chuyện rồi, tôi lại tắt đèn đi xuống. Vừa xuống thì gặp 3 người công an đến, một anh tên là Phú còn hai anh kia đi theo có súng ống đầy đủ, có cả mặt công an hộ tịch ở đấy, có mặt cả đại biểu khu phố. Anh tên là Phú đọc lệnh, đại ý là căn cứ vào cái này, căn cứ vào cái khác, điều nọ điều kia của bộ luật gì đấy thì: điều thứ nhất, bắt tên Bùi Đăng Việt (tôi định cải chính ngay là không phải Bùi Đăng Việt mà tôi là Bùi Tằng Việt, nhưng mà thôi kệ muốn là cái gì thì nó cũng đến bắt tôi rồi, có cải chính cũng thế) vì tội sáng tác, tàng trữ, lưu hành những tài liệu có tính chất đồi trụy và phản động; điều thứ hai là khám xét nhà cửa cẩn thận để thu lại những bằng chứng của những tài liệu mang tính chất phản động và đồi trụy đó – nghĩa là vừa khám nhà, tịch thu tài liệu và bắt. Cái lệnh nội dung là thế, đến khi vào trong tù thì tôi thực sự hoang mang không biết bắt vì lý do gì là chính chứ còn lý do kia là áp đặt thế thôi, làm gì có tài liệu gì gọi là phản động, đồi trụy. Họ không dám nói là thơ, họ nói là tài liệu thôi, trong lệnh bắt không nói là sáng tác thơ. Lúc bấy giờ tôi chẳng cãi, hơi đâu mà cãi, đằng nào cũng thế rồi, tôi cứ im lặng đi theo họ khám suốt từ 9h cho đến 2h chiều. Rồi tôi sực nhớ bốn hôm trước anh Trần Dần đến chơi, có thuật lại ông Tố Hữu mới họp tuyên huấn nói rằng cái bọn Nhân Văn là chúng tôi tuồn tài liệu ra nước ngoài, để xuất bản hoặc là bán, vậy thì tôi bị bắt chắc là vì đã gởi thơ cho Nguyễn Mạnh Hùng, cho cô Cần Thơ.

 

Giữa chừng vợ tôi về, bà ấy cứ tưởng rằng bắt về đồn, tức là đồn 14 Lý Quốc Sư như mấy lần trước bắt tôi ra để cảnh cáo về việc bán rượu lậu, vợ tôi lại ngây thơ như thế cơ! Khi thấy họ đem hết giấy tờ của tôi đi, vợ tôi có xin lại những bức thư hồi mới quen nhau tôi có gửi cho bà ấy, khoảng 10 bức, có cả thơ nữa, không có liên quan đến “tài liệu” gì hết, nhưng họ bảo không được, những cái gì đã là chữ viết của anh Hoàng Cầm thì chúng tôi có lệnh đều phải tịch thu hết. Họ tịch thu cả những thư của con Loan gửi cho tôi từ Sài Gòn, cả những thư của bà Cần Thơ ở bên Pháp gửi về, họ tịch thu hết những gì gọi là chữ dù chỉ một chữ mà tôi viết lằng nhằng gì đấy ở trên một miếng bìa hoặc một tờ giấy gói thuốc lá thì đều thu bằng hết.

 

Cũng nói rõ thêm về việc bán rượu lậu của tôi. Dạo ấy cũng nhờ bán rượu gia đình tôi có thêm miếng cá miếng thịt còn trước kia thì khổ lắm. Nguyên do một hôm con gái tôi Bùi Hoàng Yến với chồng nó là Quang Thái, hai vợ chồng về chơi thấy mâm cơm chỉ vẻn vẹn một bát nước mắm và một bát dưa chua thế thôi, nó ngồi nó phát khóc vì thương tôi quá. Nó bảo làm thế nào để bố kiếm sống thêm chớ bố già rồi mà sống thế này thì khổ quá, để con nghĩ xem, hay là bố bán cafe đi hay bán cái gì ở trong nhà chớ ra ngoài đường chả có chỗ ngồi, bán cái gì để bạn bè bố đến ủng hộ. Chính vì lẽ đó mà tôi mở quán rượu, chính con gái tôi cho tôi được 50 đồng, tôi để ra 10 đồng mua chén, đóng thêm mấy cái ghế, còn 40 đồng thì mua đúng 5 lít rượu quê, mua được 5 lít rượu quê là con rể tôi phải đèo xe máy tôi về Lạc Đạo mua. Lúc 2, 3 tháng đầu bán lác đác phát chán, ôi giời ơi! Bán như thế một ngày không lãi nổi một đồng bạc thì chán lắm, nhưng tôi không biết làm cái gì thì cứ để đấy, dần dần cũng đông khách, từ năm 1980 trở đi thì đông khách lắm, nhất là vào những dịp như Noel hay là chiều thứ 7, chủ nhật hoặc là những ngày nghỉ lễ thì có thể nói là đông đến mức không có chỗ ngồi, khách ngồi cả lên giường nằm, ra cả ngoài sân đem rượu ra đấy uống. Thành ra vì chuyện bán rượu mà hơi rầy rà đối với chính quyền. Chính quyền không cho bán rượu, cái chính vì tôi là Hoàng Cầm, người đã có lỗi trong thời kỳ “Nhân Văn Giai Phẩm”, mà bây giờ bán rượu tức là để tụ tập vào rồi sinh ra cái chuyện tuyên truyền lăng nhăng chăng. Người ta ngại chuyện đó cho nên luôn luôn độ tuần lễ hay mươi hôm là phải gọi tôi lên đồn một lần để yêu cầu đình chỉ ngay việc bán rượu. Cứ lên đấy thì tôi viết kiểm điểm rồi giấy cam đoan như thế, nhưng về rồi thì vẫn cứ bán, vì nếu ngừng một ngày bán rượu là không có tiền.

 

Khám xong, làm biên bản xong thì độ hơn 2h chiều, sau khi làm biên bản thì đọc lại, trong khi tịch thu tài liệu thì không có đụng chạm gì tài sản của gia đình ví dụ như quần áo, tiền hay bất cứ tài sản gì vật chất nào đấy. Bà Yến phải chứng thực điều đó, sau đó thì ra xe, đến lúc bấy giờ ôtô mới đến, ôtô bịt kín của công an đi bắt người, tôi và hai cái hòm tài liệu có niêm phong đưa về Hỏa Lò. Trong hai cái hòm ấy có nhiều bản thảo thơ, kịch thơ của tôi chưa xuất bản. Đó là tài sản duy nhất của tôi. Sau khi Đổi mới, nhiều lần tôi đề nghị công an Hà Nội trả lại, họ cũng đồng ý nhưng cứ lần lữa mãi không trả. Đó là một điều tiếc hận nhất trong đời làm thơ của tôi. Cho đến gần đây, Sở Công an Hà Nội đối với tôi rất tốt, ngay cả những người phụ trách cũng muốn tìm và trả lại tôi, nhưng rốt cuộc họ không tìm ra! Tôi cho rằng theo lệnh của ai đó họ đã đốt đi từ lâu rồi, vì đó là những sáng tác hay của tôi không được phép lưu lại ở đời này, chắc là họ ra lệnh đốt rồi, nếu thực sự là tài liệu cần thiết cho luật với án thì họ phải giữ lại chứ?

 

Buổi chiều ngày 20 tôi vào Hỏa Lò, tôi chỉ mong được giam vào đâu để có thể ngã xuống nằm, có thể là sàn gạch hay sàn xi măng cũng được. Nhưng họ bắt tôi ngồi vào cái bàn và có một anh công an đưa từng cái thư từng bài thơ một, bắt tôi ký vào, kể từ cái phong bì, nếu cả quyển thì phải ký vào bìa và ký vào ruột, liên miên như thế suốt từ khoảng 2h30 cho đến 5h chiều. Trong hai tiếng rưỡi cứ ký liên miên đến nỗi mắt tôi nhíp lại vừa mệt vừa buồn ngủ, đưa cái gì là tôi ký vào thôi chẳng biết có phải của tôi hay không nữa, lúc đầu còn biết bài thơ này của tôi hay cái thư này của con Loan nhưng về sau hoa mắt cả lên, mệt lắm rồi, đã không có được một điếu nào từ sáng rồi, lại đi ỉa chảy vài lần rồi mà chưa được ăn uống gì. Trước khi lên ôtô về Hỏa Lò thì bà vợ tôi vội vàng ra phố mua nắm xôi với mấy miếng chả gì đó, tôi đâu kịp ăn chỉ gói vào giấy báo, đến 5h chiều thì nó khô cứng cả rồi và tôi cũng chẳng nhớ ở đâu mà ăn. Đến 6h thì anh Phú đưa tôi đến cái hành lang, ở đó có một cái bàn mà không có ghế, anh bảo “Ông có mệt thì nằm trên cái bàn này nghỉ tạm một tí rồi thu xếp buồng đưa ông vào”. Anh Phú còn trêu tôi “Ôi giời ông nghe có vẻ thơ hay lắm nhỉ, thì đọc một bài đi nhỉ, cái bài gì mà tôi thấy nhiều người truyền lắm, Diêu bông diêu biếc gì đấy”. Chẳng nhẽ anh công an bắt tôi anh bảo đọc mà tôi không đọc, thế là tôi cũng cố gượng đọc bài “Lá Diêu Bông”. Anh cười cười bảo “Ôi giời thơ thế này nó hay thế nào tôi chả biết nhưng chả hiểu gì”…

 

Sáng hôm sau thì ông Nhạ xuống, xuống cái phòng của ông trung tá trưởng phòng an ninh điều tra xét hỏi, ông này cũng tham gia vào việc hỏi cung, nhưng là phụ, còn ông Nhạ là chính. Mở đầu ông Nhạ bảo “Hoàng Cầm đấy à, tôi là Nguyễn Doãn Nhạ, đây là anh Nguyễn Trọng Cường trưởng phòng điều tra xét hỏi”. Ông ta ngồi hai tay chắp vào để trên đầu gối, chân ghếch lên ghế, có vẻ thoải mái. Ông nói “Anh Cầm, thiệt bất đắc dĩ, thật khó cho tôi, vạn bất đắc dĩ – ông nhấn mạnh – vạn bất đắc dĩ mới gọi anh đến đây, bởi vì chắc anh nhớ gần 10 năm rồi tôi đã nhắc anh không được truyền bá thơ thẩn của anh vì nó mang nhiều tư tưởng xấu lắm, thế mà anh vẫn cứ làm, anh gởi rất nhiều nơi trên thế giới, gởi sang Canada, Mỹ, Pháp, tư tưởng anh sau Nhân Văn quá nặng nề như thế”.

 

Tôi vẫn giữ bình tĩnh “Tất nhiên tôi có tội hay lỗi gì đó mà anh bắt, chứ không có lỗi gì thì làm gì mà bận tâm”.

Ông Nhạ nói tiếp “Tôi hôm nay không phải hỏi cung anh đâu, tôi không có trách nhiệm hỏi cung nhưng mà nói cho anh biết, anh quá tệ, nhà nước với Đảng đối với anh như thế là rất tốt rồi, đáng lẽ cho anh đi cải tạo từ lâu rồi, nhưng đã khoan hồng vì các anh là văn nghệ sĩ trong kháng chiến chống Pháp cũng có những đóng góp như là bài thơ “Đêm liên hoan” hay “Bên kia sông Đuống” tôi cũng có thuộc cơ mà. Về sau hòa bình thì các anh dần dần quá tệ, làm thơ văn làm báo làm chí chống phá, cho nên tôi nói là bất đắc dĩ tôi phải giam giữ anh, giam giữ anh thì cốt là để thế này, cốt để anh thực sự nhìn thấy tội lỗi của anh, thực sự nhìn thấy sai lầm của anh đi, và từ nay trở đi già rồi còn sống ngày nào thì phải sống cho nó tử tế. Đảng đã khoan hồng như thế không bắt đi cải tạo, các anh tương đối là tự do, đến bây giờ là bao nhiêu năm rồi, từ năm 1955 cho đến nay là hơn 20 năm trời rồi mà anh chứng nào vẫn tật ấy thì thực sự lạ thật, anh không biết nghĩ à?” Ông nói một tràng rất dài như thế, tôi cứ ngồi nghe thôi. “Hôm nay tôi chưa phải hỏi cung, tôi cũng là người yêu văn thơ, đấy, nhưng người ta làm thơ dễ hiểu, nói cái gì là ra cái ấy ngay “Xe không kính không phải vì không có kính, vì đạn vì bom nó phá đi rồi” thì cái đó nó rõ ràng như thế, anh thì mập mà mập mờ, với tư tưởng chống Đảng nó cứ ẩn náu vào đây mãi, thì báo cho anh biết lần này là lần cuối cùng đấy, anh cố mà thay đổi hẳn đi cái tư tưởng của anh chớ không thì không có cách gì cứu vãn được nữa, bây giờ anh phải tự cứu lấy anh thôi”. Ông thuyết một hồi thì lại tôi một điếu thuốc, cái dạo ấy còn thuốc Trường Sơn, thứ thuốc hạng bét, rồi ông lại mỉa “Hút đi! Đây là Trường Sơn anh nhé chớ không có 3 số 3 siếc gì đâu, tôi không quen 3 số thuốc ngoại sang trọng”…

 

[Cũng chính ông Nhạ này đã vui mừng vì “thành công” trong việc ép Hoàng Cầm nhận tội chống Đảng chống chế độ qua mấy bài thơ “Về Kinh Bắc”, bố trí để nhà thơ đọc bản kiểm điểm thu băng cassette và hứa sẽ thả cho về trước Tết như HC đã kể trong lời tâm sự với bạn đọc Talawas mà Văn Việt đã đăng – VV]




Về người con gái út của ông bà Ngô Đình Nhu

Cách đây 5 năm, ngày 16/4/2012, nhiều tờ báo ở Rome (Italia) và các trang mạng xã hội đã đăng tin, bình luận về cái chết thương tâm của một người phụ nữ trong một vụ tai nạn giao thông, Người đó là Ngô Đình Lệ Quyên, con gái út của ông Ngô Đình Nhu.

Bà Ngô Đình Lệ Quyên (ảnh: internet)
Bà Ngô Đình Lệ Quyên (ảnh: internet)

Ngô Đình Lệ Quyên sinh năm 1959 tại Sài Gòn, là con gái út của ông Ngô Đình Nhu và bà Trần Lệ Xuân, người từng được mệnh danh là Đệ nhất phu nhân của Chính quyền Sài gòn cũ. Gia đình ông bà Nhu có 4 người con, 2 gái, 2 trai là: Ngô Đình Lệ Thủy, Ngô Đình Trác, Ngô Đình Quỳnh và Ngô Đình Lệ Quyên.

Ngô Đình Lệ Quyên là một người phụ nữ sống kín đáo và khép mình với báo chí, nên những thông tin về bà đến với độc giả rất ít ỏi. Không giống như các anh, chị của mình, khi thể chế của ông Ngô Đình Diệm bị sụp đổ, Ngô Đình Lệ Quyên mới 4 tuổi, nên bà hầu như không có ký ức gì nhiều về quãng thời gian khi gia đình, dòng họ ở trên đỉnh cao quyền lực. Ký ức tuổi thơ của bà là những ngày tháng sống lưu vong ở châu Âu, hết Paris đến Rome.

Năm 1963, khi anh em ông Diệm – Nhu bị lực lượng của các tướng lĩnh làm đảo chính sát hại, bà Trần Lệ Xuân và con gái đầu Ngô Đình Lệ Thủy đang ở Mỹ. Bà đã nhanh chóng đưa con rời khỏi nơi đây vì cho rằng: “không thể chấp nhận lưu trú tại một đất nước mà chính phủ của nó đã đứng sau lưng âm mưu đảo chính”. Sau cuộc đảo chính, các con của ông Nhu cũng được phép rời Sài Gòn đến gặp mẹ tại Paris, nơi bắt đầu cuộc sống lưu vong của mấy mẹ con.

Thời gian này người anh của ông Diệm và ông Nhu là Ngô Đình Thục đang làm giám mục ở Tòa thánh Vatican. Trong hoàn cảnh không còn chỗ nương tựa, bà Trần Lệ Xuân đã đưa 4 người con đến xin tị nạn tại Rome, cậy nhờ giám mục Ngô Đình Thục giúp đỡ.

Nhiều người cho biết: lúc còn ở Việt Nam hay khi sống lưu vong ở nước ngoài, giám mục Ngô Đình Thục luôn rất yêu thương các cháu, con của chú Nhu nên ở nơi đất khách quê người này ông là thân nhân, cũng là chỗ dựa duy nhất của mẹ con bà Trần Lệ Xuân. Người ta nói, nhà cửa, tiện nghi của mẹ con bà Lệ Xuân ở La Mã đều do giám mục Ngô Đình Thục  mua sắm, ông còn cung cấp tiền bạc cho các cháu ăn học.

Ngô Đình Lệ Quyên theo học trường Đại học Rome và lấy bằng Tiến sĩ Luật tại đây rồi trở thành một luật sư ngành công pháp quốc tế rất nổi tiếng. Tuy nhiên,  bà chỉ được mời thỉnh giảng tại Đại học Rome chứ  không thể làm giáo sư chính thức, bởi một trong những điều kiện bắt buộc ở Đại học Rome là giáo sư giảng dạy trong trường phải có quốc tịch Italia, trong khi Ngô Đình Lệ Quyên lại kiên quyết không xin gia nhập quốc tịch nước này.

Ngô Đình Lệ Quyên đã về sống và làm việc ở Rome từ những năm 1990. Đây cũng là nơi người anh trai Ngô Đình Trác sinh sống, còn anh trai Ngô Đình Quỳnh thì làm việc cho một công ty Mỹ có trụ sở ở Vương quốc Bỉ.

Đối với bà Trần Lệ Xuân , những năm gần cuối đời khi sức khỏe suy yếu, bà cũng chuyển từ Paris sang Italia sống gần các con trong một ngôi nhà ở Rome, nên năm 2011 khi bà qua đời, con trai, con gái cùng các cháu nội ngoại đều có mặt.

Ngô Đình Lệ Quyên từng làm Giám đốc phụ trách vấn đề di dân của tổ chức Caritas, một tổ chức thiện nguyện thuộc Tòa thánh Vatican. Theo những người quen biết với Lệ Quyên thì người phụ nữ này có một gương mặt đặc biệt giống cha là ông Ngô Đình Nhu. Năm 20 tuổi người ta bảo Lệ Quyên trông giống cha như đúc. Bà không chỉ có nét mặt giống cha mà còn giống cả về tính cách. Bà có cá tính rất đặc biệt, rất cương quyết  và nổi tiếng là người cứng đầu. Có lẽ bởi vậy, nên hai mẹ con bà Trần Lệ Xuân và Ngô Đình Lệ Quyên thường  xảy ra xung khắc, không hòa hợp với nhau trong quan điểm sống.

Ngô Đình Lệ Quyên lấy chồng người Ý nhưng vẫn giữ họ mình chứ không mang họ chồng. Bà cũng cho con lấy họ bên ngoại, đặt tên cho con trai duy nhất là Ngô Đình Sơn. Ông chồng người Ý của Lệ Quyên cũng phải chấp nhận.

Ở tổ chức Caritas, nơi Ngô Đình Lệ Quyên làm Giám đốc phụ trách vấn đề di dân, bà được biết đến như một người lãnh đạo cương quyết, nhưng ăn nói nhỏ nhẹ, khiêm nhường và có lối sống rất chuẩn mực. Nữ Giám đốc này đóng góp vai trò to lớn trong chính sách của Caritas nên được nhiều nhân viên của tổ chức này kính trọng.

Ngô Đình Lệ Quyên dấn thân vào những công việc giúp đỡ người nghèo và người khốn khó, làm việc với lòng hăng say và tin tưởng. Bà luôn bênh vực những người di dân nghèo khó. Từ năm 2002 đến 2007, Lệ Quyên từng là thành viên Ủy ban Di dân thuộc Caritas châu Âu và sau đó là Chủ tịch ủy ban này.

Ngô Đình Lệ Quyên nổi tiếng ở Rome và ở Caritas vì rất cứng đầu trong việc không xin nhập quốc tịch Italia, mặc dù nếu có quốc tịch Italia, con đường sự nghiệp của bà sẽ tươi sáng hơn rất nhiều. Lệ Quyên đã chối bỏ con đường đó để làm công tác thiện nguyện, sống một cuộc đời khá ẩn dật.
Dẫu vậy, vì những đóng góp nổi bật của bà cho đất nước Italia nên năm 2008 theo đề nghị của Bộ Nội vụ, Tổng thống nước này  đã ký sắc lệnh cấp quốc tịch Italia cho bà. Đây là một vinh dự mà chi một số ít người ngoại quốc có được ở đất nước Italia.

Ngô Đình Lệ Quyên sống rất giản dị và thân thiện với người xung quanh. Ở Italia, Lệ Quyên thường đi làm bằng xe mô tô. Chính vì vậy mà ngày 16/4/2012 bà đã tử nạn trong một tai nạn giao thông. Theo tin từ các phương tiện truyền thông thì vụ tai nạn xảy ra lúc 8h30 ở ngoại ô Rome, khi Lệ Quyên trên đường vào trung tâm thành phố làm việc. Sau cú va chạm giữa chiếc xe máy của bà với một xe bus chở học sinh đi ngược chiều, hậu quả là xe máy của bà chui vào gầm xe bus, còn bản thân bà thì bị hất văng ra khoảng 7m. (Cũng có một số nguồn tin nói rằng, chiếc xe máy do Lệ Quyên điều khiển đã bị ngã ở vùng ven nội thành Rome, bà bị một chiếc xe buýt chở học sinh cán phải và tử vong tại chỗ).

Ngày 16/4/2012 và mấy ngày sau đó, nhiều tờ báo ở Rome và các trang mạng xã hội đã đưa tin, bình luận về cái chết thương tâm của Ngô Đình Lệ Quyên. Lãnh đạo thành phố Rome đã có lời chia buồn sâu sắc đến gia đình bà. Một số trang tin cho biết, Phó Thị trưởng thành Rome, Sveva Belviso phát biểu: “Tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất đối với cái chết bất ngờ của bà Ngô Đình Lệ Quyên, một người phụ nữ đã hết sức chuyên nghiệp trong công việc trên cương vị trưởng bộ phận giúp di dân tại Caritas, hỗ trợ những người khó khăn trong xã hội”. Trang web của tổ chức Caritas cũng dành những dòng chữ thương tiếc trang trọng để nói về Ngô Đình Lệ Quyên. Cùng với đó, gia quyến bà cũng nhận được nhiều lời chia buồn từ các chức sắc tôn giáo, quan chức địa phương và những người đã nhận được sự giúp đỡ của bà.

Nhiều người nói gia đình bà Trần Lệ Xuân có một “lời nguyền tháng Tư” vì nhiều người trong gia đình đều chết vào tháng Tư, theo đó người con gái đầu Ngô Đình Lệ Thủy mất tháng 4/1967, bà Trần Lệ Xuân tháng 4/2011,  và nay là Ngô Đình Lệ Quyên. Có người còn nói rằng, tháng Tư là thời điểm trước thềm Phật đản, và rằng điều này liên quan đến Luật Nhân – Quả …

Đó có thể chỉ là những lời đồn đoán. Dẫu sao, bằng sự dấn thân, với những gì đã đóng góp cho xã hội, sự giúp đỡ tận tâm cho những người nghèo khổ, cái chết của Ngô Đình Lệ Quyên cũng để lại cho nhiều người sự xót thương, nhớ tiếc.

 

Ngô Xuân tổng hợp

https://ngotoc.vn/Nghien-cuu-Trao-doi/Ve-nguoi-con-gai-ut-cua-ong-ba-Ngo-Dinh-Nhu-274.html




Trở về, đi tới

NS Tuấn Khanh

Trong một chuyến đi quốc nội, vô tình đoàn người đang xếp hàng lấy vé ra máy bay bỗng xuất hiện vài người khách Trung Quốc. Đó là những người khách hết sức ung dung. Họ ăn nói lớn tiếng, cười to và tự nhiên, không khác gì dân bản xứ. Hàng dài người Việt đang xếp hàng im lặng nhìn. Mỗi người một suy nghĩ.

Bất chợt 2 người khách Việt nói với nhau:

-“Không biết mình qua Trung Quốc có tự nhiên được vậy không?”.

Lời tán gẫu nhỏ, nhưng lại đủ cho vài người chung quanh nghe.

 

Đột nhiên ai nấy đều cười.

Những nụ cười khôn cùng ý nghĩa. “Thì tụi nó qua đây, tự nhiên như nước nó rồi còn gì”, một người khác nói bâng quơ, nhưng như muốn tất cả những người Việt còn lại cùng nghe.

Trên mỗi gương mặt Việt lại có một nụ cười. Cũng thật khó tả.

Một người đàn ông lớn tuổi, đầu bạc trắng, cắt ngắn, đi dọc với tôi, kể rằng vừa rồi ông gặp một người khách Trung Quốc. Câu chuyện về ranh giới quốc gia, khác biệt dân tộc, chiến tranh… lại nổ ra.

Người Trung Quốc rất tự tin, nói rằng từ nhỏ, ông ta đã được học về lịch sử, nói rằng Việt Nam thuộc về Trung Quốc từ ngàn năm, nhưng sau đó làm phản và tách ra. Vì vậy chuyện phải quay trở về mẫu quốc là điều tất nhiên.

-“Tụi tao có một tỷ người học thuộc điều đó, tụi mày chỉ có một trăm triệu, cãi không lại tụi tao đâu”,

người khách Trung Quốc này cười lớn. Dù không ác ý, nhưng sự diễn đạt rất thật của ông làm tôi lẫn người đàn ông Việt tóc bạc khi kể cho nhau nghe, đều nao lòng.

Nếu như quả có một cuộc trở về định mệnh như vậy, thật xót xa cho lịch sử hàng ngàn năm của cha ông Việt đã chống chọi, bứt xiềng gông cho con cháu hôm nay.

Một cuộc trở về như vậy, có lẽ chỉ có một ít người muốn, còn tất cả còn lại đều đau đớn, căm gan. Nhưng hôm nay, dường như mọi thứ đang “đi tới” chứ không phải “trở về”.

Cuối tháng 10, ba chiếc tàu chiến Trung Quốc ghé cảnh Cam Ranh. Chính quyền tỉnh Khánh Hòa huy động người dân và đoàn thể ra phất cờ tiếp đón binh lính Trung Quốc.

 

Chiếc tàu dẫn đầu là Tương Đàm 531, tên gọi của chiếc chiến hạm đã tấn công Gạc Ma năm 1988, thảm sát 64 binh sĩ quân đội nhân dân Việt Nam khi không có khả năng kháng cự. Nhiều năm sau cuộc chiến Gạc Ma, chiến hạm này đã được bán cho Bangladesh, nhưng vì cái tên Xiangtan/Tương Đàm gợi nhớ về chiến công hiển hách năm 1988, nên khi đóng tàu mới, chiến hạm Tương Đàm lại ra đời như niềm kiêu hãnh của ngành hải quân Trung Quốc. Điều khác nhau duy nhất là chiếc Tương Đàm cũ, có số hiệu 556, còn chiếc mới có số hiệu 531.

Khi ca sĩ Khánh Ly hát ở Sài Gòn, mọi sự ngăn cấm của các quan chức đều dựa trên ý rằng:

“không muốn gợi nhớ về một quá khứ không tốt”.

Sau năm 1975, hơn 15.000 đầu sách của hai nền Cộng hòa miền Nam Việt Nam bị đốt, bị cấm và bị truy lùng vì cho là:

“gợi lại hình ảnh và văn hóa đồi trụy”.

Hàng chục ngàn bài hát cùng các văn nghệ sĩ miền Nam bị cấm, cô lập như kẻ thù. Thậm chí có người đã phải vào tù vì có “tội lỗi với nhân dân”…

 

Ấy nhưng Tương Đàm, cái tên đẫm máu người Việt ngang nhiên mang quá khứ đi vào hiện tại, từ Gạc Ma vào nơi quan yếu của Việt Nam, Cam Ranh, lại được chính quyền mở champagne chào đón.

Chắc những người được lệnh chào đón ba chiếc tàu chiến Trung Quốc cũng không biết rằng, vào lúc này, Bắc Kinh đã hoàn thành xong vành đai chiến lược để bao vây đảo Trường Sa của Việt Nam.

 

Phi đạn và chiến đấu cơ của Trung Quốc tạo nên một vòng hỏa tuyến đảo đá Chữ Thập, Su Bi, Châu Viên, Vành Khăn, Gaven, Tư Nghĩa, Gạc Ma.

Từ đây, Trung Quốc có khả năng uy hiếp trực tiếp Sài Gòn, Cam Ranh và Trường Sa. Tờ Focus Taiwan đưa tin này, mới đây, vào ngày 18/10/2016.

Người Trung Quốc chắc không còn nói chuyện Việt Nam trở về, mà hình như họ chọn cách đi tới, vì mọi thứ đều đã thuận lợi.

 

Hôm nay thì chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã chính thức có chính sách mỗi ngày cho 100 xe Trung Quốc lái thẳng vào Việt Nam. Một sự ưu ái khá lạ lùng và sẽ sớm là chuyện của các cửa khẩu ở những vùng khác noi theo, mà chắc con số 100 xe mỗi ngày sẽ dần chỉ là thông báo ước lệ.

Không lâu nữa, năm 2018, bởi những ràng buộc bởi Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN – Trung Quốc (ACFTA), một loại thỏa ước thương mại mà Bắc Kinh lập ra để đối đầu với TPP của Mỹ, từ Trung Quốc, các loại động vật sống dùng để nhân giống; nhiều loại thịt, nhiều loại thuỷ hải sản đông lạnh và hoa quả sẽ được miễn thuế 0% khi vào Việt Nam. Thật đúng lúc, giữa lúc bốn tỉnh miền Trung chịu nạn biển nhiễm độc, lũ lụt tàn phá hoa màu, nhà cửa, giới chăn nuôi khánh kiệt… thì ngay lúc họ chuẩn bị hồi phục, đã bị nhấn chìm trong cơn đại hồng thủy nhập khẩu 0% từ Trung Quốc.

 

Tôi có kể với bạn về chuyện người Trung Quốc học lịch sử rằng Việt Nam phải trở về mẫu quốc?

Có một sự thay đổi nhỏ, có màu máu và nước mắt, là chính quyền Cộng sản Trung Quốc đang sốt ruột đi tới thật nhanh, chứ không đợi ai đó trở về.

Cuộc đi tới này lộng lẫy và man rợ không kém gì các đạo quân của Thành Cát Tư Hãn tràn tới:

Cỏ không thể mọc, con người chỉ còn biết quỳ xuống và ngửa mặt khóc than vì sao đất nước chúng ta lại đến nông nỗi như vầy.

 

Trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tháng 9 năm nay, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã hứa là sẽ sớm quyết việc thanh toán thương mại Việt Nam – Trung Quốc bằng đồng Nhân dân tệ.

Còn bà phó Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Nguyễn Thị Hồng, người tháp tùng thủ tướng, thì hân hoan nói rằng chuyện này không khó, vì lâu nay các tỉnh phía Bắc đã “thử” làm như vậy rồi.

Không biết Quốc hội Việt Nam có biết về việc này không?

Liệu Quốc hội mới có ít hơn những kẻ ngủ gục, chơi game và xin nghỉ sớm để lên tiếng về những hiểm họa như vậy?

 

Bất kỳ ai có một học vấn tối thiểu cấp trung học, cũng đều hiểu việc Nhân dân tệ hóa nền kinh tế Việt Nam mang đến nguy cơ lệ thuộc như thế nào.

Đặc biệt, Trung Quốc đang “đi tới” rất ào ạt trong sự hân hoan của những kẻ như bà Nguyễn Thị Hồng, và trong với bối cảnh vô cùng thuận lợi khi hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đồng bộ hô to chương trình chống đô-la hóa bằng quyết định 2589/QĐ-NHNN, hạ lãi suất tiền gừi bằng đô-la.

 

Trung Quốc đang biến nhiều quốc gia Châu phi trở thành những chư hầu kinh tế, cũng bằng cách dùng nhân dân tệ hóa như vậy.

Hiện tại Zimbabwe, Angola và Nam Phi đã trở thành những quốc gia lệ thuộc kinh tế nặng nề vào Trung Quốc khi áp dụng thanh khoản bằng đồng Nhân dân tệ.

 

Bạn nghĩ rằng chỉ là vấn đề thương mại?

Áp lực kinh tế này, cũng đã trở thành áp lực chính trị khiến Nam Phi 3 lần từ chối cấp visa cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, chỉ vì muốn ve vuốt Bắc Kinh.

Đại hội những người đoạt giải Nobel Hòa Bình tại Cape Town ở Nam Phi vào năm 2014, kể cả thị trưởng của thành phố cũng đã tuyên bố hủy hội nghị, nhằm tố cáo vì Pretoria đã cúi đầu trước Trung Quốc.

 

Campuchia cũng vậy, trong vòng xoáy trở thành chư hầu của Bắc Kinh để chống lại Việt Nam, chính quyền này cũng đã ướm việc chính thức thanh toán bằng đồng Nhân dân tệ, khởi đầu bằng du lịch.

Trong câu chuyện mà người đàn ông nói giọng Bắc, tóc bạc, kể với tôi về cuộc trò chuyện với người Trung Quốc. Giọng cười của ông rất sảng khoái. Một người biết ông, nói nhỏ với tôi rằng ông đã cùng gia đình tìm đường định cư ở nước ngoài rồi. Có lẽ, vì vậy mà giọng cười của ông rất nhẹ nhàng, tiếng cười của một người đứng ngoài một nồi nước sôi sùng sục, hé nắp nhìn vào.

 

Nhưng tôi và hàng triệu con người khác – những người ở trong nồi – chắc không thể an nhiên được như ông. Vì bởi chúng ta là những người ở lại, là những người không có khả năng ra đi hay đã quyết chọn sống còn trên mảnh đất này. Tôi chắc rằng sẽ không có nhiều những kẻ muốn “trở về” trong chiếc nồi đóng kín nắp ấy.

Nhưng chúng ta lại chứng kiến một cuộc đi tới, chà xát mọi thứ, không có sự xót thương di sản cha ông để lại.

Cuộc đi tới của những chiến hạm Trung Quốc, của những đoàn xe tự do đi lại trên đất nước này, những đợt cuồng phong áp thuế 0% dẫm nát nông dân Việt Nam, và có thể có cả những đồng Nhân dân tệ mà chúng ta sẽ cầm trên tay để làm quen, không còn xa nữa.

 

Tôi vừa leo ra khỏi nắp nồi ấy, bằng hy vọng và sự thật về quê hương của mình. Và tôi nhận thấy mình có một niềm tin mới, rằng sẽ không có một sự “trở về” hay “đi tới” nào cả.

Dân tộc này, đất nước này không thể đi vào khốn khó, nếu người người cùng nuôi hy vọng và nhìn bằng sự thật về đất nước mình, dân tộc mình, và cùng nhau leo ra khỏi nắp nồi đóng kín đó, trước khi quá muộn.




NGÔ ĐÌNH DIỆM (1901-1963)

 

Ông là con thứ tư trong một gia đình chín anh chị em mà bốn người đã bị giết vì lý do chính trị. Thân phụ là Ngô Đình Khả làm Thượng thư bộ Lễ trong triều đình Thành Thái, nhà vua Việt Nam đã bị Pháp lưu đày sang đảo Réunion năm 1916 cùng với hoàng tử kế vị là vua Duy Tân vì cả hai đều mưu đồ chống Pháp. Ngô Đình Khả có hai thành tích đáng kể: thứ nhất là sáng lập trường Quốc Học là trường trung học đệ nhất cấp đầu tiên (thời Pháp gọi là École Primaire Supérieure tức Cao đẳng Tiểu học) vừa dạy bằng tiếng Việt vừa dạy bằng tiếng Pháp ở Huế; thứ hai là không chịu cùng với các đại thần trong triều đình tuân lệnh Khâm sứ Ferdinand Lévecque ký tên chung trong tờ biểu yêu cầu vua Thành Thái thoái vị năm 1907. Vì việc này, ông bị giáng chức và phải về hưu không được lãnh tiền hưu dưỡng. Cũng do việc này, ông đã được dân gian truyền tụng trong câu: “Đày vua không Khả, đào mả không Bài”.

Ngô Đình Diệm học rất giỏi, làm luận văn tiếng Pháp ở trường Quốc Học được chấm hạng nhì. Sau khi đậu bằng Thành Chung Trung học đệ nhất cấp), ông trở về nhà học thêm La-tinh và chữ Nho, hai năm sau 18 tuổi được mời vào dạy trường Quốc Tử Giám. Năm 20 tuổi thi và được nhận vào trường Hậu Bổ tức là trường đào tạo quan chức. Ba năm sau ông đậu thủ khoa trong số hai mươi người tốt nghiệp, đi tập sự trong hai năm thì được cử làm tri huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị. Năm 1929, mới 28 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Tuần phủ tỉnh Phan Thiết. Ông Diệm làm quan nổi tiếng thanh liêm và cương trực, được nhiều người kính phục.

Năm 1932, khi Bảo Đại về nước chính thức cầm quyền dưới chế độ bảo hộ của Pháp, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm làm Thượng thư bộ Nội Vụ với sứ mạng thực hiện cải cách bộ máy hành chánh để thiết lập nền quân chủ lập hiến.
Chỉ ba tháng sau, ông xin từ chức vì đề nghị của ông thành lập Viện Dân Biểu với quyền lập pháp không được chính quyền bảo hộ chấp thuận. Hành động này cho thấy thái độ không nhân nhượng về chính trị của ông Diệm khiến giới ngoại giao Mỹ thường gọi ông là con người – all-or-nothing (được tất cả hay không có gì, nói theo kiểu Việt Nam là ‘được ăn cả ngã về không’).

Năm 1945 Mặt trận Việt Minh giành chính quyền, Ngô Đình Diệm cùng với một số người thân trong gia đình bị Việt Minh bắt ở Tuy Hoà, Phú Yên, bị giam giữ tại tỉnh miền núi Tuyên Quang, theo tài liệu của Mỹ, tại Hà Nội, Ngô Đình Diệm gặp Hồ Chí Minh. Ngô Đình Diệm hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh lý do giết anh trai của ông thì được Hồ Chí Minh giải thích rằng đó một sai lầm do đất nước đang rơi vào tình trạng hỗn loạn. Sau đó, Hồ Chí Minh mời Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng vì biết rằng ông là một người có tài lãnh đạo. Ngô Đình Diệm trả lời rằng ông chỉ đồng ý lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh với điều kiện ông được Việt Minh thông báo về tất cả mọi hành động và biết riêng mọi quyết định của họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này do đó Ngô Đình Diệm không chấp nhận hợp tác với Hồ Chí Minh, ông được trả tự do theo lệnh ân xá vào năm 1946.

Sau đó Ông trở thành Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam và là Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa.
Từ năm 1957 đến năm 1962 Tổng thống Ngô Đình Diệm bị ám sát hai lần nhưng ông may mắn thoát chết. Lần đầu tiên do một người cộng sản dưới lốt thành viên Cao Đài thực hiện ngày 22/2/1957 tại hội chợ Tây Nguyên, lần thứ hai do hai phi công là đảng viên Đại Việt Quốc dân đảng ném bom vào dinh Tổng thống ngày 27/2/1962.
Ngô Đình Diệm bị lật đổ và giết chết bởi các tướng lĩnh dưới quyền ngày 1 tháng 11 năm 1963, Hiện tại, mộ ông Diệm và ông Nhu đặt tại nghĩa trang Lái Thiêu, Thuận An, Bình dương, Mộ hai ông nằm hai bên mộ mẹ – bà Phạm Thị Thân.

Ảnh: Tổng thống Ngô Đình Diệm ngủ trưa khi đi thăm Tây Nguyên, tháng 2/1957.
Người chụp: Phóng viên JOHN DOMINIS của tạp chí LIFE.

Theo FB https://www.facebook.com/lsvnqa/photos/a.140966742615506.29228.133331390045708/1055173721194799/?type=3&theater

Thánh lễ cầu nguyện cho cụ cố TT Ngô Đình Diệm và thân nhân tại nghĩa trang Lái Thiêu.

 




Hành trình 150 ngày xuyên quốc gia và chiếc xe máy

Thật khó tin nhưng chàng trai này đã ‘phượt’ xe máy từ Sài Gòn đến Paris, vượt 20.000km trong 150 ngày

Làng du lịch bụi Việt Nam vừa viết lên câu chuyện kỷ lục mới: hành trình 150 ngày xuyên quốc gia và chiếc xe máy biển số Việt Nam đã lăn bánh tại thủ đô Paris (Pháp).

Trần Đặng Đăng Khoa (1987, ngụ Gò Công, Tiền Giang) vừa hoàn thành chặng đường đi xe máy từ Sài Gòn tới Paris, thủ đô nước Pháp. Trên trang Facebook cá nhân của anh, nội dung thông báo về thành tích này nhận được sự tán dương và ngưỡng mộ của cộng đồng người Việt Nam khắp năm châu.

Chuyến đi được bắt đầu từ ngày 01.06.2017, và sau 150 ngày rời Sài Gòn, Khoa đã đặt chân tới Paris. Đây là cuộc hành trình được Khoa ấp ủ trong nhiều năm và chuẩn bị mọi thứ kỹ lưỡng trong “nhiều năm liền”.

Xem trọn bài




Kỷ niệm 70 năm hội họa của họa sĩ Trương Thị Thịnh

Họa sỹ Trương Thị Thịnh sinh năm 1928 tại Huế, là một họa sỹ tài hoa, Tranh Trương Thị Thịnh có phong cách ấn tượng và trữ tình, kết hợp nhuần nhuyễn kỹ thuật Đông – Tây. Bà còn được biết đến như một họa sĩ có biệt tài về vẽ chân dung.

Cha mẹ của Họa sỹ Trương Thị Thịnh gốc miền Nam, tên cha Trương Văn Phước (Bình Dương) và mẹ Ca Thị Hương (Châu Đốc). Ba của Họa sỹ Trương Thị Thịnh làm công chức (1920-1930) vào thời Pháp thuộc, nhưng vì ba thích phiêu lưu nên đưa gia đình đi ra miền Trung hướng về điểm dừng chân là Huế. Họa sỹ Trương Thị Thịnh còn có 2 người chị gái là Trương Mỹ Chánh và Trương Mỹ Thiện và 2 em gái Trương Mỹ Ngọc, Trương Thị Hồng Liên, hai em trai là Trương Hồng Sơn và Trương Hồng Quang.

Xem Tiểu sử

http://hotruong.net/Nguoi-ho-Truong-duong-dai/hoa-sy-truong-thi-thinh-1097.html

 




Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ

Khi nói đến khía cạnh thẩm mỹ, văn hóa và trang phục truyền thống của người Việt Nam, người ta thường nghĩ ngay đến tà áo dài và chiếc nón lá, thật vậy, trải qua từng thời kỳ, từng giai đoạn cùng với những diễn biến của quá trình phát triển lịch sử, tà áo dài Việt Nam tồn tại cùng với thời gian, được xem là trang phục truyền thống mang tính lịch sử lâu đời của người Việt.

Áo dài Việt Nam – những chặng đường lịch sử.

Ngược dòng thời gian tìm về cội nguồn, hình ảnh chiếc áo dài Việt với hai tà áo thướt tha trong gió đã được tìm thấy qua các hình khắc trên mặt trống đồng và hiện vật Đông Sơn cách ngày nay hằng nghìn năm (2879.BC-258.BC):

Trang phục Việt cổ thể hiện trên kiếm đồng Đông Sơn.

.

Truyền thuyết kể lại rằng khi cưỡi voi xông trận, Hai Bà Trưng (40-43.AD) đã mặc áo dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng. Do tôn kính hai bà, phụ nữ Việt xưa tránh mặc áo hai tà mà thay bằng áo tứ thân.

Theo thời gian, trong khoảng từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, để có dáng dấp trang trọng và mang vẻ quyền quý hơn, phụ nữ nơi thành thị đã biến tấu kiểu áo ngũ thân từ chiếc áo dài tứ thân nhằm thể hiện sự giàu sang cũng như địa vị xã hội của người phụ nữ. Giống như một quy luật, trang phục cũng đi liền với diễn biến của lịch sử, chiếc áo dài ngũ thân vẫn không thể là điểm dừng của trang phục truyền thống Việt Nam.

 

Xem toàn bài




Thi sỹ Phạm Tăng

Vũ Thư Hiên

Ai cũng biết Phạm Tăng hoạ sỹ và thi sỹ, nhưng ít người biết một Phạm Tăng đầy tính khôi hài. Xin đăng lên đây bài thơ “Paris muôn thuở” của họa sỹ Phạm Tăng, trong đó tác giả chơi chữ Tây và Việt một cách rất “tếu”.

PARIS MUÔN THUỞ

 

Có gì lạ ở Pa-ri?

Mà dân du khách hết đi lại về

Ép-Phen (1) giống mụ đầm xoè

Dạng chân vén váy đứng tè sông Sen (2) .

Mấy tầng sắt thép đan chen,

Trèo lên tận đỉnh mà xem Bú-Lồn(3)

Giữa Ê-Toan(4) , bãi Đờ-Gôn(5) ,

Cao sừng sững Khải Hoàn Môn tượng đài.

Săng-Li-Dê(6) lộ hàng hai

Bùng binh Con-coọc(7) , tháp Ai(8) thẳng đờ

Trắng phau Mông-Mạc(9) nhà thờ

Leo lên, lụt xuống mệt phờ cả râu.

Xúm nhau Bãi Tẹc(10) phía sau

Nghệ nhân dựng cọc, phết màu cu-lơ(11)

Bảo tàng danh tiếng Lu-Vơ (12)

Chành chảnh ba góc Tháp phô giữa vườn.

Người xem rúc rúc luồn luồn

Mò mò mẫm mẫm tới buồng Li-Da(13)

Trầm trồ khen gái Mô-Na

Nụ cười bí hiểm” quả là đáng mê!

Vén-xì(14) , nghệ thuật cao ghê

Trẻ lên cơn hứng, già dê cũng uỳ(15) !

Điện thờ Thánh mẫu Pa-ri(16)

Tháp chuông nhắc nhở tình si chàng gù(17)

Con chiên, cha cố, bà sờ.

Trai, ôm, gái ấp, kẻ rờ, người xem.

Cô-lông(18) trắng, cô-lông đen,

Từng dàn ríu rít bờ Sen(19) đón mời

Khách chơi đứng, khách chơi ngồi.

Chụp dăm tấm ảnh, mỉm cười thật…duyên!

Pi-Gan(20) là chốn động tiên

Tiên đen, tiên trắng có tiền là mua

Vạch đùi, tốc váy diễn sô,

Chổng mông, dạng háng, tiên cô hốt tiền!

Dạo sông Sen, có du thuyền,

Cưỡi Ba-tô Mút(21) , sướng rên đùng đùng.

Phố phường người chật, xe đông.

Mê-trô vác cặc(22) chạy rông dưới hầm.

Chen vai, sát..nách tây đầm.

Hít hà cho đã một lần Pa-ri…

Hoan hô E ép-phờ-i (23)

“Pa-ri muôn thuở cực kỳ giàu, sang

Ngày xưa ông Mít(24) họ hàng

Giờ nay Xí-rắc(25) lại càng dễ thương:

Vàng thoi, bạc cục rắc đường.

Biếu không du khách bốn phương ăn, sài!

Pa-ri chính hiệu bồng lai.

Ăn ngon, chơi đã, biếu ngoài buộc-boa (26)

Tha hồ lượm dưới trốt-toa(27)

Kinh Thành Ánh Sáng Gô-loa(28) dát vàng(29) !!

Nhắn riêng du khách Việt Nam:

Trăm năm kết nghĩa đá vàng với Tây

Chân đi đạp xuống mặt giầy

Tránh sao cho khỏi trát đầy chất thơm !!

Về nhà vợ gắt: “Mắm tôm???

Mùi chi nặng? Hẳn mùi chồn Pa-ri?

Giữ làm hương vị chuyến đi?”

 

T.T.

Tên gì ký tắt trên đây?

Thưa rằng: Chính mỏa(30) – thằng Tây trọc đầu!

 

Trong ảnh: (từ trái sang) Quản Phúc Cảnh, Phạm Tăng, Vũ Thư Hiên

Pham Tang- Vu Thu Hien

Chú thích là do chúng tôi thêm vào để cho những bạn không rành Paris.

1- Tháp Eiffel.

2- Sông Seine

3- Rừng nhỏ Boulogne

4- Quảng trường Étoile

5-Tổng thống De Gaulles

6- Đại lộ Champs Élysées

7- Quảng trường Concorde

8-Tháp Ai Cập, Obélisque deLuxor

9-Nhà thờ Thánh Tâm, khu Montmartre

10-Place des Ternes

11-Couleur, màu

12-Bảo tàng Le Louvre

13-Phòng có tranh Mona Lisa

14-Danh họa Leonardo di Venci

15-Oui, ừ

16-Nhà thờ Đức Bà ở Paris, Notre Dame de Paris

17-Nhân vật Quasimodo trong Những Người Khốn Khổ của Victor Hugo

18-Colombe, chim bồ câu

19-Sông Seine

20-Phố gái điếm Pigalle

21-Bateau mouche, thuyền ruồi

22-Carte, vé

23-RFI, đài phát thanh

24-Tổng thống Mitterrand

25-Tổng thống Chirac

26-Pourboire, tiền típ

27-Trottoir, vỉa hè

28-Gaulois, tổ tiên dân Pháp

29- Vàng, cứt chó

30- mỏa,tôi

 

 

 




Phương pháp giáo dục của Hướng Đạo

HƯƠU HIỀN LÀNH – TÔN THẤT LÔI

https://www.facebook.com/thaithuan259/posts/601288406926161

Huong dao - Ton That Loi

Uỷ viên Huấn Luyện của HĐ Thừa Thiên, một trong tứ trụ (4 Thiếu đoàn lớn): Lê Mộng Ngọ (DCC), Phan Mạnh Lương (DCC), Lê Cương và Tôn Thất Lôi (ALT).

 

Phong trào Hướng Đạo do Huân tước Baden Powell người Anh khởi xướng, bắt đầu từ một cuộc cắm trại thí nghiệm trên đảo Brownsea Island năm 1907 với 20 thiếu niên, sau đó lan rộng khắp nước Anh, rồi phát triển ra khắp các nước trên thế giới và đã tỏ ra có một khả năng phi thường trong việc giáo dục thanh thiếu niên.

Phong trào đã quy tụ dưới lý tưởng, nguyên tắc và phương pháp chung hàng triệu Hướng đạo sinh.

Đến nay trên thế giới Phong trào giáo dục Hướng đạo đã có mặt trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ với số Hướng đạo sinh trên 30 triệu người và trên thế giới cũng đã có khoảng 500 triệu (*) người thuộc nhiều thế hệ đã là Hướng đạo sinh.

 

Tại sao Hướng đạo thu được kết quả, trong khi nhiều tổ chức khác thất bại, hoặc không có ảnh hưởng sâu rộng như thế ?

Tại sao Hướng đạo đã trở thành một hiện tượng của thế kỷ 20 ?

Tại sao y phục Hướng đạo, vài hoạt động Hướng đạo, lối tổ chức Hướng đạo đã được nhiều đoàn thể bắt chước vay mượn ?

 

Kết quả ấy là nhờ giá trị vững chắc của phương pháp hợp với thực trạng tâm lý của thiếu thời, nhờ ở tính chất bất vị lợi của tổ chức. Hướng đạo không chỉ là một phương pháp giáo dục mà trở thành một phong trào thanh thiếu niên, một hệ thống tổ chức sống động, một tình huynh đệ quốc tế, một lý tưởng sống.

Hướng đạo không phải là một học thuyết, một triết lý, Hướng đạo nhất định không phải là một đảng phái chính trị, một đoàn thể tôn giáo, Hướng đạo có những đặc điểm phải theo đúng tất cả, giá trị không chỉ ở một vài hình thức dễ trông thấy, mà ở nơi tất cả chương trình hoạt động, nơi sự tiến triển nhiều mặt của cá nhân, nơi đời sống lý thú của đoàn thể.

Hãy tìm hiểu đặc điểm của Phong trào này:

 

I- ĐẶC ĐIỂM CỦA PHONG TRÀO GIÁO DỤC HƯỚNG ĐẠO

1- Hướng đạo là một phong trào giáo dục:

Đây là đặc điểm cơ bản nhất của Hướng đạo. Hướng đạo không phải là một hội đoàn thể thao hay giải trí như có thể có người lầm tưởng, dù rằng trong Hướng đạo có nhiều sinh hoạt vui chơi, thể thao, giải trí, nhưng những trò chơi, những sinh hoạt đó được dùng để đạt tới mục tiêu giáo dục, tự nó không phải là một cứu cánh, hay nói cách khác việc học hỏi kiến thức hay kỹ thuật đặc biệt trong sinh hoạt Hướng đạo chỉ là một phương tiện để đạt tới một cứu cánh và cứu cánh đó chính là giáo dục.

Giáo dục theo nghĩa rộng có thể xem như là một quá trình nhằm phát huy toàn vẹn các khả năng của con người.

 

Cụ thể là chúng ta khêu gợi một cách rộng rãi ở trẻ tinh thần danh dự và ý thức trách nhiệm bằng cách giúp trẻ phát triển:

– Tính khí và trí tuệ

– Tài thủ công và tài tháo vát

– Tráng kiện và sức khỏe

– Ý chí phục vụ tha nhân

 

Huynh trưởng phải quyết tâm giúp các em rèn luyện đặc biệt là rèn luyện tính khí.

Tính khí là sự kết hợp của nhiều đức tính thuộc trí tuệ và đạo đức như hiếu kỳ, dũng cảm, trung thực, liêm chính. Hướng đạo chúng ta còn thêm vào 5 cái “Tự” nữa là: Tự lực, Tự giác, Tự tin, Tự trọng và nhất là Tự chủ có nghĩa là làm chủ bản thân.

Như vậy, mục đích tối hậu của phong trào Hướng đạo là giáo dục. Hướng đạo kết nạp trẻ để giáo dục họ trở nên những công dân tốt chứ không dùng họ làm công cụ phục vụ cho mục đích khác như xã hội, chính trị hay tôn giáo…

 

Công tác giáo dục của Hướng đạo nhằm vào đối tượng thanh thiếu nhi được phân chia thành 4 ngành như sau:

– Ngành Ấu : Từ 8 đến 11 tuổi

– Ngành Thiếu : Từ 11 đến 16 tuổi

– Ngành Kha : Từ 16 đến 18 tuổi

– Ngành Tráng : Từ 18 trở lên

 

2- Hướng đạo đào tạo người công dân tốt cho đất nước:

Mục đích của giáo dục Hướng đạo là đào tạo những thanh thiếu niên có tính khí lành mạnh, tháo vát, tự chủ, có sức khỏe, có ý chí để phục vụ tha nhân để trở thành người công dân toàn vẹn, có tinh thần trách nhiệm cho xã hội, đặc biệt là cho đất nước dân tộc, chuẩn bị cho đoàn sinh giữ một vai trò xứng đáng trong cộng đồng xã hội.

 

Tóm lại phong trào Hướng đạo góp phần vào việc giáo dục thanh thiếu niên bằng cách giúp họ phát huy toàn vẹn các khả năng về thể chất, trí tuệ, xã hội và tinh thần để trở thành người công dân tốt.

Như vậy hội Hướng đạo của mỗi quốc gia có bổn phận đào tạo công dân tốt cho quốc gia mình.

 

3- Hướng đạo đặt căn bản trên sự tự nguyện:

Nguyên tắc căn bản trong việc kết nạp đoàn sinh của giáo dục Hướng đạo là tự ý gia nhập.

Trẻ tự nguyện trở thành Hướng đạo vì tự mình cảm thấy thích chớ cha mẹ hay các trưởng Hướng đạo đều không thể bắt buộc trẻ nếu tự nó không muốn.

 

Đây là đặc điểm làm cho Hướng đạo khác hẳn với nhiều đoàn thể và cũng làm thấy rõ quan niệm của Hướng đạo đối với nhân vị. Nói đến nhân vị là nói đến tự do quyết định của con người. Nhân vị tỏ rõ giá trị mình nơi sự nhận định tự do quyết định và sự đảm đương trách nhiệm mình cho xứng đáng với tự do ấy.

Hướng đạo đặt sự tín nhiệm nơi trẻ, không những trông cậy và hy vọng nơi phần trong sạch cao đẹp của trẻ, mà còn đề cao danh dự của trẻ. Thái độ ấy ngược hẳn với bao nhiêu lối giáo dục và huấn luyện khinh thường trẻ và bắt buộc trẻ vào những khuôn mẫu có khi không hợp với thực trạng tâm sinh lý của trẻ, quá khả năng hay không kêu gọi được sự hợp tác chân thành của trẻ. Trẻ Hướng đạo tự tình nguyện sống theo luật, không chịu sự miễn cưỡng ràng buộc nào, do một uy lực tinh thần hay vật chất nào.

 

Trẻ tìm được hứng thú, trẻ lấy làm kiêu hãnh khi gia nhập phong trào, khi lấy danh dự mình mà hứa… “Tôi lấy danh dự tôi hứa sẽ cố gắng hết sức…”.

Chìa khóa của giáo dục Hướng đạo là phát huy tinh thần danh dự và ý thức trách nhiệm của trẻ để trẻ tự nguyện gia nhập.

Tóm lại Phong trào Hướng đạo mang tính cách tự nguyện, việc gia nhập phong trào đối với trưởng cũng như đoàn sinh là một hành động tự nguyện.

 

4- Hướng đạo không phân biệt đối xử khi gia nhập:

Phong trào Hướng đạo mở ra cho mọi người không phân biệt giai cấp, chủng tộc, quốc tịch và tín ngưỡng. Đây cũng là một đặc điểm cơ bản, vì trong Hướng đạo không có kỳ thị đối xử về bất cứ phương diện nào, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Mọi người tự nguyện gia nhập đều được bình đẳng.

 

5- Hướng đạo không tham gia chính trị đảng phái:

Quy trình Hướng đạo nêu rõ: Hướng đạo không hoạt động và cổ động về mặt chính trị. Tính cách không chính trị của phong trào Hướng đạo theo chính sự giải thích của Hướng đạo thế giới có nghĩa là Hướng đạo không bao giờ tham dự vào việc tranh đấu giành quyền hành, giành chính quyền là mục tiêu cuối cùng của chính trị và là đường lối hành động của các đảng phái chính trị.

 

Nói cụ thể là Hướng đạo không tham gia chính trị đảng phái, không ủng hộ bất cứ một phe nhóm, một cá nhân nào trong mục đích giành lấy chính quyền. Nhưng Hướng đạo không đứng ngoài, tách ra khỏi các thực tế chính trị của Quốc gia.

 

Trong lễ Tuyên hứa, trong các cuộc cắm trại, Hướng đạo sinh phải nghiêm chỉnh chào Quốc kỳ, hát quốc ca, vì như đã nói trên Hướng đạo, nhằm mục đích giáo dục công dân của ngày mai, tập cho đoàn sinh nếp sống trong một xã hội dân chủ, giúp thanh thiếu niên trở thành những công dân xứng đáng có trách nhiệm trong xã hội mai sau. Việc giáo dục công dân này không thể tiến hành mà không có một nhận thức sắc sảo về thực tế chính trị của đất nước.

 

6- Hướng đạo là một đoàn thể giáo dục mang tính chất độc lập:

Phong trào Hướng đạo có Luật và Lời hứa, có những mục tiêu và phương pháp giáo dục riêng của mình mà không ai có thể thay đổi hay thêm bớt gì cả.

Đừng hiểu sai lầm rằng độc lập là không tuân theo pháp quyền của nhà nước. Trên thế giới mọi quốc gia đều có pháp quyền riêng của mình, và tất cả các hội đoàn hoạt động trong nước đều phải tuân theo pháp luật của quốc gia đó.

 

Phương pháp giáo dục Hướng đạo đào tạo công dân tốt cho đất nước tất yếu phải giáo dục cho trẻ ý thức biết tôn trọng pháp luật của quốc gia, quyết tâm rèn luyện chí khí để sau này phục vụ tốt cho xã hội, quốc gia mình.

 

II- ĐẶC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC HƯỚNG ĐẠO

Để tiến tới mục tiêu và đạt được mục đích giáo dục, phong trào Hướng đạo sử dụng một Phương pháp giáo dục đặc biệt.

 

Phương pháp giáo dục Hướng đạo là một hệ thống tự giáo dục tuần tự kết hợp bởi nhiều yếu tố bao hàm một tổng hợp gồm nhiều phần tử quan hệ chặt chẽ với nhau, liên kết thành một tổng thể mạch lac. Do đó trong giáo dục Hướng đạo chỉ có một Phương pháp Hướng đạo, không thể nói có nhiều phương pháp riêng rẽ, vì chỉ có thể nói đến Phương pháp Hướng đạo khi nào các yếu tố đó được kết hợp thành một hệ thống giáo dục mạch lạc.

Hãy lần lượt phân tích đặc điểm của từng yếu tố:

 

1- Hướng đạo dùng Luật và Lời hứa Hướng đạo để giáo dục trẻ:

Luật và Lời hứa Hướng đạo là khí cụ để diễn đạt các nguyên tắc chỉ đạo của phong trào, một trong những đặc điểm cơ bản của Hướng đạo là mỗi thành viên tự nguyện cam kết vào Lời hứa và Luật Hướng đạo.

Ở đây không bàn đến khía cạnh nguyên tắc đạo đức bao hàm trong Lời hứa và Luật Hướng đạo, mà chỉ nói tới công cụ sư phạm của Luật và Lời hứa. Nói một cách khác Luật và Lời hứa dưới góc độ này được dùng như một phương tiện tự giáo dục. Luật và Lời hứa Hướng đạo không có tính cách tiêu cực như các luật lệ khác, mà có tính cách tích cực: không cấm điều dở nên tránh mà trái lại khuyên bảo điều hay nên làm. Luật chỉ mô tả một Hướng đạo sinh lý tưởng. Mười điều luật là mười mẫu người Hướng đạo sinh tiêu biểu. Ai theo đúng mới là Hướng đạo sinh.

 

Phong trào Hướng đạo khác với những đoàn thể thanh thiếu niên khác ở chỗ là các thành viên của phong trào từ em Thiếu sinh nhỏ bé nhất đến Trưởng Ủy viên lão thành nhất đều chung Lời hứa và 10 điều Luật. Có điều rất sáng tạo là mỗi lứa tuổi hiểu và thi hành Luật theo trình độ của mình.

 

Cũng là trung thành với Tổ quốc, các em Thiếu sinh phải nghiêm chỉnh lúc chào Quốc kỳ, hát quốc ca, cố gắng học hành để mai sau xây dựng đất nước, các Tráng sinh có trách nhiệm cao hơn: phải chiến đấu dưới cờ để bảo vệ đất nước, giữ vững bờ cõi, không bao giờ làm tay sai cho ngoại bang, không là kẻ bán nước.

Cũng là điều luật thứ 10, Thiếu sinh hiểu rằng phải sạch sẽ, vệ sinh, không trộm cắp, không chửi thề… Tráng sinh thì phải hiểu thêm: không ham mê tửu sắc, không có tà tâm, không tham nhũng, phải ăn nói lịch sự…

Huynh trưởng Hướng đạo là người tự nguyện phục vụ việc giáo dục đoàn sinh theo phương pháp Hướng đạo lại càng phải thực hiện đúng Luật và Lời hứa Hướng đạo qua tác phong, thái độ, cử chỉ, nếp sống, cách thức làm việc, tinh thần trách nhiệm và tinh thần cộng tác để làm gương mẫu cho các em noi theo. Nói chung là tùy theo lứa tuổi mà hiểu và thực hành Luật theo đúng trình độ của mình.

Trong quá trình tự rèn luyện, Lời hứa và Luật là một quy tắc danh dự mà mỗi người cố gắng noi theo trong cách hành động và suy nghĩ của mình.

 

Huynh trưởng Hướng đạo phải luôn luôn nhắc nhủ đoàn sinh hiểu rằng: HĐS phải thuộc nằm lòng Luật, Lời hứa và Châm ngôn Hướng đạo, hiểu rõ ý nghĩa và đem thi hành những điều ấy trong đời sống hằng ngày vì Luật, Lời hứa và Châm ngôn Hướng đạo là Kim chỉ nam hướng dẫn các em vững tiến trên đường đời, là thước đo tinh thần Hướng đạo của đoàn sinh để theo dõi sự tiến bộ của từng người.

 

2- Hướng đạo dùng trẻ để dạy trẻ:

Một đặc điểm nữa của phương pháp giáo dục Hướng đạo là dùng trẻ để dạy trẻ. Đặc điểm này là do tài nhận xét và biết khai thác của BP. Chúng ta biết trẻ thường kết nhau lại thành bè lũ hay phe nhóm, làm thành những xã hội cỏn con riêng biệt, có luật lệ, có tập tục, có tiếng lóng ngôn ngữ riêng, những xã hội mà người lớn không xâm nhập được. Những trẻ sống trong đám như thế có bí danh như đoàn viên một hội kín, triệt để tuân theo mệnh lệnh của kẻ cầm đầu. Chúng có tinh thần đoàn kết và kỷ luật. Chỉ tiếc mục tiêu và những hoạt động của những đám ấy có thể đưa chúng đến chỗ hư hỏng.

 

BP đã lợi dụng lối kết hợp ấy, lập ra phép hàng đội tự trị để trẻ em huấn luyện trẻ em, thỏa mãn xu hướng tự nhiên của trẻ. Mục đích đã được thay đổi: trò chơi, các hoạt động đều hướng đến ích lợi cho trẻ. Đây là chìa khóa vàng đã đem đến thành công rực rỡ cho phương pháp giáo dục HĐ.

Tế bào quan trọng nhất trong tổ chức HĐ là:

– Đàn trong ngành Ấu

– Đội trong ngành Thiếu

– Tuần trong ngành Kha

– Toán trong ngành Tráng

 

Ở Thiếu đoàn, Thiếu trưởng chọn một em có đủ năng lực trong số đoàn sinh có kinh nghiệm sinh hoạt HĐ nhiều nhất để làm Đội trưởng. Đội trưởng tự chọn lấy Đội phó của mình.

Đội có tên riêng có đời sống riêng, có những đặc thù cá tánh riêng biệt. Đội là một cộng đồng nhỏ trong đó mỗi đoàn sinh giữ một vai trò rõ rệt trong sinh hoạt thường xuyên của Đội, như giữ chức vụ thủ quỹ, thư ký, phụ trách bảo trì lều trại, phụ trách cất giữ vật dụng khác…

 

Đội có đời sống tự trị như: Họp Đội, Xuất du, lập Dự án Đội … để các em tự quản trị sinh hoạt của mình, cùng nhau soạn thảo, phát họa những dự án để cùng thực hiện.

Đội dự phần trong sinh hoạt dân chủ của Đoàn. Các Đội góp ý kiến để quyết định sinh hoạt của Đoàn qua cơ chế như Hội đồng Đội, Hội đồng Đội trưởng, Hội đồng Đoàn.

 

Trong Đoàn, Đoàn trưởng không nên giữ vai trò chỉ huy và lãnh đạo mà chỉ nên làm cố vấn thúc đẩy.

Một Đoàn HĐ như vậy có một lề lối sinh hoạt dân chủ như một quốc gia nhỏ bé, trong đó Hội đồng Đoàn là Quốc hội hay cơ quan lập pháp, Hội đồng Đội trưởng là cơ quan hành pháp thi hành các quyết định của Hội đồng Đoàn. Qua cách sinh hoạt trong Đội và Đoàn mỗi đoàn sinh nhận thức trách nhiệm và bổn phận của mình trong cộng đồng. Đội và Đoàn là những cộng đồng nhỏ đầu tiên có một tổ chức, một sự phân công, một hình thức sinh hoạt dân chủ, giúp đoàn sinh làm quen với nếp sống trong một cộng đồng dân chủ, luyện tập khả năng hợp tác với kẻ khác, khả năng lãnh đạo, khả năng tổ chức, quyết định cũng như rèn luyện chí khí.

Phương pháp hàng đội như vậy là một yếu tố chủ yếu của phương pháp Hướng đạo và được áp dụng cho tất cả các ngành từ Ấu đến Tráng với những thích nghi cần thiết cho hợp với lứa tuổi của mỗi ngành.

 

3- Hướng đạo dùng chương trình hấp dẫn để huấn luyện:

Để lôi cuốn trẻ ham thích học hỏi BP lập nên hệ thống đẳng cấp và chuyên hiệu làm cho trẻ em ham thích mãi, tiến bộ mà không biết.

 

Tiến trình đẳng thứ HĐ là cái thang về kỹ năng thủ thuật mà trẻ phải tiến lên dần dần, từng nấc một. Cứ dần dần học tập kỹ năng HĐS sẽ leo lên các nấc đẳng thứ thể hiện bằng các huy hiệu HĐ Hạng nhì, HĐ Hạng nhất, HĐ Hiệp sĩ hoặc được quyền gắn lên đồng phục những huy hiệu chuyên môn, nhờ đó mà việc huấn luyện cứ tiếp diễn mãi, thúc giục trẻ có dịp thử thách tài năng và chí khí của mình.

 

Hệ thống huy hiệu của HĐ có ích lợi không phải nhỏ: dạy cho trẻ tháo vát, sửa soạn cho trẻ tìm nghề nghiệp thích hợp với năng khiếu của mình. Chương trình sinh hoạt phải thật sự hấp dẫn và được sắp xếp từ dễ đến khó.

Đây là cách thức huấn luyện trẻ về nhiều phương diện, đào tạo những con người quân bình và hòa diệu, biết nhận định giá trị của mọi điều.

 

4- Hướng đạo dùng Trò chơi làm đòn bẩy chính yếu trong giáo dục:

Đối với trẻ chơi là một nhu cầu thiết yếu để nẩy nở, là bản tính thiên nhiên của trẻ, chơi là sống, sống thật sự đời sống của trẻ thơ. Chơi là một cách tranh đấu, một cách dự bị tranh đấu do bản năng tạo ra để lần lần đưa chúng vào cuộc tranh đấu thật sự, lớn lao và khó khăn là cuộc đời.

Giáo dục Hướng đạo không cho trò chơi là một hoạt động giải trí, một trò vui chốc lát cho trẻ em. Hướng đạo coi trò chơi là một phương tiện quan yếu để giáo hóa, một phương pháp giáo dục tốt và hay nhất.

Trẻ em ham thích gì ? Chúng thích hoạt động, thích tiếp xúc với sự vật xung quanh, chạy nhảy sờ mó, nếm ngửi, cân nhắc mọi vật. Tuổi trẻ là tuổi thám hiểu tạo vật.

 

Nếu khéo chọn trò chơi, các em sẽ đạt được nhiều kết quả không ngờ cho tính tình và thể chất. Dùng trò chơi chúng ta đã khiến trẻ để ý đến sức khỏe mà chưa bao giờ các em nghĩ tới. Nhờ chơi mà những em lôi thôi, thiếu trật tự nhất, lại thành ra thích trật tự vì thiếu trật tự thì không trò chơi nào thắng được. Khi chơi các em không xem cái nóng cái lạnh, mệt nhọc và khát nước ra gì, coi thường tất cả những chỗ sướt da khi chơi lớn, không để ý đến lòng tự ái bị tổn thương khi chơi toàn đội. Chơi trò chơi luyện giác quan buộc các em phải cố gắng chú ý. Cho các em có dịp đóng vai vị anh hùng, thúc giục các em noi gương vị anh hùng ấy, cố gắng thực hành đức tính của vị anh hùng. Nếu khéo biết giữ lấy tinh thần cuộc chơi, khéo xen vào các lúc nghỉ ngơi các trò chơi nhẹ nhàng, xen các trò chơi im lặng vào các trò chơi ồn ào thì tác dụng giáo dục không phải là nhỏ.

 

Hướng đạo lại cần cho trẻ chơi để hiểu trẻ. Việc hiểu trẻ rất cần thiết cho công cuộc giáo huấn. Huynh trưởng cần biết rõ tánh tốt tật xấu của mỗi đoàn sinh để tìm phương bổ cứu, nhưng thường ngày khó hiểu rõ bộ mặt thật của các em. Đứng trước người lớn, thường trẻ con tự kiềm chế, hay làm bộ hiền lành, chỉ trong lúc chơi, vì say sưa với trò chơi, mãi lo thắng cuộc trẻ em không còn nghĩ đến việc “đóng tuồng” mới lộ chân tướng ra, nhờ thế Trưởng mới rõ ưu khuyết điểm của các em để giáo dục từng em một.

Tóm lại mọi hoạt động Hướng đạo đều mang hình thức trò chơi, kể cả khi học kỹ năng, làm việc thiện hằng ngày, kể cả phần tinh thần như Luật, Lời hứa, Châm ngôn.

 

5- Hướng đạo giáo dục bằng thực hành:

Hướng đạo giáo dục bằng thực hành. Đối với trẻ, Hướng đạo không nói lý thuyết, không có lý luận, trong buổi họp hay đi cắm trại Đoàn trưởng chỉ có một phút đồng hồ để đề cập bằng lối bóng gió đến vấn đề tinh thần. Hướng đạo dạy mà không giảng, nghĩa là dạy làm chớ không dạy nói. Hướng đạo đặt nặng việc thực hành về cả các mặt: đạo đức, trí tuệ và sức khỏe.

 

Thực tiễn kinh nghiệm với khoảng 500 triệu trẻ em kinh qua giáo dục Hướng đạo trong gần một thế kỷ đã chứng minh rằng giáo dục kiểu này mang lại hiệu quả cao nhất.

Trong sinh hoạt Hướng đạo đoàn sinh học hỏi những công việc mà mình ưa thích bằng những trò chơi, bằng cách quan sát thí nghiệm, tiếp xúc với thực tế. Đó là điểm khác biệt lớn so với phương pháp cổ điển của nhà trường. Thay vì một bài học lịch sử, đơn vị HĐ tổ chức một trò chơi lớn dùng bối cảnh lịch sử, sử dụng những diễn biến, những trận chiến liên quan đến chủ đề, hay dựng lên một vở kịch, một câu chuyện bằng tranh … Những sưu tập bằng cây cỏ, dấu vết thú rừng v.v… thay thế những bài học vạn vật. Có những trò chơi luyện giác quan, luyện tập óc quan sát, suy luận, khuyến khích tinh thần đồng đội…

Mỗi sinh hoạt trong Hướng đạo đều nhằm đạt tới một mục tiêu giáo dục rõ rệt.

 

6- Hướng đạo dùng đời sống ngoài trời để giáo dục trẻ:

Sinh hoạt ngoài trời cũng là một đặc điểm quan trọng trong giáo dục HĐ.

Không phải tất cả sinh hoạt Hướng đạo đều xảy ra ngoài trời, nhưng đời sống Hướng đạo cho đoàn sinh nhiều cơ hội tiếp xúc với thiên nhiên.

 

Ngoài việc giúp rèn luyện một cơ thể lành mạnh, dẻo dai, những sinh hoạt ngoài trời giúp rất nhiều trong việc rèn luyện chí khí và phát triển trí tuệ. Những thử thách mà thanh thiếu niên phải đương đầu khi sống ngoài thiên nhiên kích thích những khả năng sáng tạo và thích ứng để vượt qua trở ngại. Đó là cơ hội mà đời sống tiện nghi thị thành ít có khả năng đem lại. Về mặt phát triển tinh thần xã hội và cộng đồng, các buổi thám du, cắm trại giữa thiên nhiên đòi hỏi phải tổ chức đời sống sát cánh bên nhau trong những thử thách, những giây phút gian lao, đó là những cơ hội tốt để thắt chặt tình đoàn kết, tinh thần đồng đội giúp HĐS thấy rõ thế nào là ý nghĩa và tầm quan trọng của đời sống cộng đồng. Hơn nữa, những dịp tiếp xúc với thiên nhiên giúp đoàn sinh mở rộng tâm hồn và tầm nhìn của mình để hướng đến những giá trị tinh thần.

 

BP cho rằng: “Mặt trời, nước lạnh, không khí và sự vận động là thức ăn cần thiết cho thể chất. Cảnh trời cao đất rộng, núi non hùng vĩ, một cuộc sống mạo hiểm giữa thiên nhiên là chất bổ cho tinh thần.”

Như vậy chúng ta có thể thấy thiên nhiên là một môi trường hết sức thuận tiện cho công cuộc phát triển hài hòa và toàn diện của đoàn sinh.

 

7- Hướng đạo giáo dục bằng thói quen tốt, thói quen làm việc thiện:

BP cho rằng: “Con người dù xấu đến đâu cũng còn có 5% phần tốt. Nếu biết bồi dưỡng cho các phần tốt đó ngày càng nẩy nở thì các phần xấu dần dần sẽ biến đi, và con người đó sẽ trở nên tốt”. Do đó Hướng đạo coi trọng việc duy trì và phát triển thói quen tốt: thói quen tìm tòi, xem xét, suy nghiệm phát triển trí thức, giúp ích lớn lao cho khối óc và tri tuệ, thói quen lao động chân tay giúp giữ gìn sức khỏe và là trợ lực đáng kể cho đạo đức lẫn trí thức, thói quen tằn tiện của mình, của người, của xã hội và đặc biệt thói quen làm việc thiện hằng ngày. Thói quen làm việc thiện dần dà gây nên tâm lý nghĩ thiện. Thói quen này đi vào tâm thức trẻ nhỏ làm phát huy mạnh mẽ tâm địa vị tha, hướng trẻ luôn nghĩ đến người khác, nhờ vậy phát triển tinh thần xã hội nơi trẻ. Thói quen làm việc thiện hằng ngày hướng trẻ đến tinh thần giúp ích.

 

Nói đến giúp ích, Hướng đạo có quan niệm riêng. Theo BP sự giúp ích không chỉ là những bài học thuộc lòng, không chỉ là những lời nói suông, mà được tỏ rõ trong những hoạt động hằng ngày, quan trọng tùy theo tuổi, tùy theo trường hợp. Làm một điều vui cho kẻ khác, làm một việc thiện hằng ngày, tham gia công việc kiến thiết ở địa phương, bảo vệ xứ sở… Hướng đạo quan niệm sự giúp ích phải được sửa soạn chu đáo. HĐS phải biết giúp ích, đủ sức để giúp ích. Những hoạt động Hướng đạo mà đôi người xem thường hay lầm tưởng đó là mục tiêu như thắt gút, truyền tin, cứu thương, quan sát là những cách sửa soạn.

 

Thiện chí đâu có đủ ! Thiện chí mà thiếu tài năng còn đưa đến kết quả tai hại.

Thêm nữa sự giúp ích chỉ có giá trị khi thực hiện ngoài bổn phận, không phải vì lợi vì danh hay vì áp lực nào mà có, mà chỉ vì tình thương yêu.

Như vậy nhờ phát triển những thói quen tốt và làm việc thiện hằng ngày huynh trưởng Hướng đạo đã chuẩn bị cho đoàn sinh sẵn sàng để phục vụ tốt cho cộng đồng xã hội, cho đất nước quê hương.

 

8- Hướng đạo giáo dục từng trẻ một:

Giáo dục Hướng đạo có tính cách toàn diện nhưng lại là lối giáo dục từng trẻ một. Hướng đạo không un đúc trẻ theo một khuôn mẫu nhất định, mà giáo dục phải bắt đầu từ thực tế phức tạp của từng người một.

Mục đích quan trọng của Hướng đạo là giúp trẻ có chí khí, cho trẻ có đời sống riêng biệt, với tự do quyết định và can đảm lãnh trách nhiệm làm người của mình. Hướng đạo muốn mỗi trẻ thành một nhân vị đầy đủ. Đặc điểm này làm Hướng đạo khác hẳn với các đoàn thể thanh niên khác.

 

ướng đạo không chú trọng đến số đông. HĐ không có tham vọng quy tụ rất nhiều trẻ, vì lẽ không đủ huynh trưởng, và huynh trưởng cũng không có đủ thì giờ và tài sức để trông nom một lần nhiều trẻ được. Vì vậy một đơn vị HĐ phải có số đoàn sinh giới hạn không thể vượt qua. Ấu đoàn không thể quá 24 sói, Thiếu đoàn không thể quá 32 em, Kha đoàn không thể quá 30. Nhờ vậy đoàn trưởng mới theo dõi cá tính từng đoàn sinh cùng với tiến bộ của mỗi người.

Như vậy giáo dục HĐ là một quá trình giáo dục theo dõi sự tiến triển, sự tăng trưởng cá nhân để giáo dục từng đoàn sinh một.

 

9- Hướng đạo giáo dục bằng gương sáng của Trưởng:

Huynh trưởng Hướng đạo là những người tự nguyện phục vụ việc giáo dục trẻ em theo phương pháp Hướng đạo càng phải thực hiện đúng Luật, Lời hứa và Châm ngôn HĐ qua tác phong, thái độ, cử chỉ, nếp sống, cách thức làm việc, tinh thần trách nhiệm và tinh thần cộng tác để làm gương mẫu cho các đoàn sinh noi theo, vì “gương sáng” là phương tiện giáo dục hữu hiệu nhất.

 

10- Giáo dục Hướng đạo phát triển khả năng lãnh đạo của đoàn sinh:

BP chủ trương rằng càng tìm kiếm nhiều cách vun trồng những cơ hội lãnh đạo cho các em, thì hạt giống lãnh đạo ở các em càng dễ dàng tăng trưởng bấy nhiêu.

 

Những yếu tố đã nêu trên chứng tỏ rất có ảnh hưởng vào sự phát triển khả năng lãnh đạo của trẻ em.

Đối với huynh trưởng, việc cần nhất là làm sao cho các em có được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo. Thật sự cơ hội lãnh đạo đã có ngay trong cả Đoàn lẫn Đội: cần giao phó công tác làm sao giúp các em phát triển tài năng lãnh đạo, và dần dần tập các em đảm nhiệm ở mức độ ngày càng cao hơn.

 

Đối với các em còn ít dịp lãnh đạo, cơ hội lãnh đạo có thể là ngắn ngủi như điều hành một buổi trình diễn cho phụ huynh, hoặc thưc thi một chương trình của đoàn giao phó.

Nên nhớ rằng, không chỉ những em có chức vụ mới được phát triển tài năng lãnh đạo, mà cả với những em HĐS mới, kỹ năng lãnh đạo cũng phải được phát triển.

 

11- Đồng phục HĐ, một công cụ đa dụng trong giáo dục HĐ:

Đồng phục HĐ là một công cụ đa dụng. Khi đã khoác đồng phục vào trẻ nhớ rằng mình là một HĐS, và nhớ rằng mọi người đều biết mình sẽ hành động xử sự theo cách HĐ. Đồng phục, biểu lộ cho thấy em HĐS ấy đang tin tưởng và quyết tâm theo đuổi lý tưởng HĐ. Do đó HĐS hãnh diện khi mặc đồng phục, nhất là khi trên áo còn mang những huy hiệu chứng tỏ em đã thành đạt đến mức nào về kỹ năng, thủ thuật và tài lãnh đạo.

Đồng phục HĐ còn có tác dụng xóa sự phân biệt giữa các trẻ em thuộc các từng lớp xã hội khác nhau.

Đồng phục luôn nhắc nhở rằng em thuộc vào một cộng đồng huynh đệ thế giới trong đó có hằng triệu trẻ như em có cùng chung một lý tưởng và cùng chung một chương trình sinh hoạt.

 

Mặc đồng phục nghiêm túc gây được tinh thần Đội, tinh thần Đoàn mà còn gây được cảm tình đối với huynh trưởng, phụ huynh và với bà con trong cộng đồng xã hội mà em tiếp xúc.

 

Đồng phục HĐ đẹp, rất hấp dẫn đối với trẻ mới vào đoàn.

Đồng phục HĐ gọn gàng đứng đắn, rất đa dạng, không những để sinh hoạt ngoài trời như vui đùa, trèo non vượt suối mà còn dùng được trong lễ nghi, tiếp tân.

Giá trị công hiệu của đồng phục càng tăng khi các trưởng, các Ủy viên HĐ cũng mặc đồng phục nghiêm túc như các em.

Do đó, thói quen cho đoàn sinh mặc đồng phục đứng đắn, nghiêm túc làm nẩy nở tinh thần tự trọng và ảnh hưởng lớn đến thanh danh của phong trào.

 

III- PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC HƯỚNG ĐẠO MANG TÍNH CHẤT KHOA HỌC

Những yếu tố cấu tạo nên Phương pháp giáo dục Hướng đạo đã trình bày trên hoàn toàn dựa vào tâm sinh lý của trẻ:

Tin vào danh dự của trẻ, tôn trọng trẻ, BP tin vào Lời hứa “Tự nguyện tuân theo Luật HĐ” của trẻ. BP dùng 10 điều luật với nội dung tich cực để giáo dục trẻ.

Trẻ thích tập họp thành phe nhóm để sinh hoạt với nhau, BP lập ra phép Hàng đội tự trị với mục đích hữu ích để trẻ em huấn luyện trẻ em.

 

Trẻ thích làm chỉ huy, thích mang huy chương, huy hiệu, BP bày ra chương trình đẳng thứ hấp dẫn để huấn luyện làm cho trẻ ham thích, tiến bộ mãi mà không biết.

Trẻ thích chơi, BP dùng trò chơi làm đòn bẩy chính yếu trong giáo dục HĐ, dùng trò chơi làm phương tiện để giáo hóa trẻ.

 

Trẻ thích sinh động HĐ giáo dục bằng thực hành làm trẻ thích học, mau biết và nhớ lâu.

Trẻ thích phiêu lưu mạo hiểm, BP dùng khung cảnh thiên nhiên để huấn luyện: cắm trại, thám du…

BP tin rằng: mầm tốt càng phát triển sẽ dần dần lấn át các mầm xấu, HĐ giáo dục bằng thói quen tốt, thói quen làm việc thiện.

 

Mỗi trẻ có những đặc điểm riêng biệt, BP chủ trương giáo dục từng trẻ một, giúp trẻ có chí khí để trở nên “Nó”.

Muốn các em tốt, trước hết mình phải tốt. BP khuyên Trưởng phải là gương sáng của đoàn sinh.

BP cho rằng: “Càng tìm kiếm nhiều cách vun trồng những cơ hội lãnh đạo cho các em thì hạt giống lãnh đạo ở các em càng dễ tăng trưởng”.

 

Đồng phục HĐ, một công cụ đa dụng trong giáo dục HĐ.

Như vậy, Phương pháp giáo dục Hướng đạo mang tính chất khoa học vì giáo dục Hướng đạo hoàn toàn phục tùng những quy luật tự nhiên của bản chất trẻ nhỏ, để đạt đến mục tiêu tối hậu là giáo dục trẻ thành những công dân tốt, những phần tử xứng đáng đang cần cho xã hội, cho quê hương đất nước.

 

HƯƠU HIỀN LÀNH – TÔN THẤT LÔI




Chuyện ít biết về thi sĩ Bùi Giáng

Vũ Đức Sao Biển

thi si Bui Giang

Bùi Giáng và nhà thơ Lê Minh Quốc năm 1995

 

Đọc thơ Bùi Giáng, dễ thấy ông gồm thâu được ba tố chất: thi tiên, thi thánh, thi Phật và trên hết ông sống một đời chẳng vướng bận hay bị ràng buộc vào những tập quán, lề thói của xã hội.

Nằm ngủ trên nền đất ướt

Thi sĩ Bùi Giáng sống thật thoát tục, nghĩa là ở đâu, ông cũng sống được. Ông Bùi Luân ở nước ngoài về, tìm thăm anh ruột Bùi Giáng vào một đêm mưa tháng 7.1991. Ông Luân nhớ lại: “Sài Gòn đang mùa mưa; mấy con hẻm lầy lội; tôi khó nhọc lắm mới tìm ra nơi anh cư ngụ. Đang băng qua vườn cây tối om để vào nhà, thì tôi vấp suýt té nhào: Ôi, chính là anh. Anh đang ngủ. Anh ngủ mê man trên đất ướt nhèm. Tôi gọi tên anh thật lớn, thật nhiều lần. Tôi cũng xưng tên tôi ra; thật lớn, thật nhiều lần.

– Luân về đó hả? Luân về đó hả? Luân về đó hả?

Anh lặp đi, lặp lại ba lần cũng thật lớn; rồi lại thiếp đi… Tôi có cảm tưởng như anh hỏi tên tôi rồi gọi lên trong mơ, trong mê. Tôi tìm cách dìu anh vào nhà… Tôi ngỡ anh say; song không có mùi rượu. Anh tiếp tục ngủ. Tôi trở về quán trọ”.

Con người Bùi Giáng thật sướng, chẳng vướng hệ lụy nào, chẳng bị ràng buộc nào, kể cả những tập quán, lề thói của xã hội. Ông muốn làm gì thì làm, muốn nói câu gì thì nói, muốn ghẹo ai thì ghẹo. Ông mua một cây thuốc rê, loại do bà con ở Quảng Nam làm giống như chiếc gối ôm của trẻ con, nhét vào một cái bao vải làm gối. Khi cần hút thuốc, ông xé một miếng giấy từ quyển tập để làm thơ vò cho mềm đi rồi cho tay xuống “gối” bứt thuốc rê quấn vào làm ra điếu thuốc. Ông ăn mặc tuềnh toàng như đại khất cái, đôi mắt kiếng gãy gọng cũng không thèm thay. Ưng vào bất cứ nơi nào, ông cũng vào được.

Ta đã hái nhành hoa kia của đá.

Và đã trao cho nham thạch phiêu bồng.

Dù vậy, thơ Bùi Giáng vẫn hiện ra những câu bay bổng tuyệt vời, như có như không giữa một đời trần tục.

Còn đất trắng mờ sương gieo giọt nhỏ/Trút cho đời vũ trụ mọc hoang liêu.

Hay: Em về mấy thế kỷ sau

Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?

Ta đi, gởi lại đôi dòng

Lá rơi có dội vào trong sương mù?

Làm thơ khi có rượu

Cũng giống như Lý Bạch, ông chỉ làm thơ khi có chút rượu vào. Người ta bảo ông điên; ông cũng tự nhận mình là điên. Ông điên một cách vi vu; lúc nào cũng có thể uống rượu được. Cuộc rượu của ông cũng giản dị, chỉ là rượu đế; có mồi càng tốt, không mồi cũng chẳng sao. Chữ dùng của ông thường nói là “uống rượu qua loa”. Ấy là vì ông hiểu sẽ có một ngày ông phủi tay trước cuộc đời:

Gió lay lắt bốn phương về dồn tụ

Bụi thu mờ ai phủi với hai tay.

Ai đã gặp, đã sống và đã chơi với nhà thơ Bùi Giáng đều biết ông là con người nghịch ngợm một cách rất dễ thương. Đường ĐT 610 – con đường đi từ quốc lộ 1 lên khu đền tháp Mỹ Sơn (H.Duy Xuyên, Quảng Nam), nối vùng đông và vùng tây Duy Xuyên đi qua làng ông ở ngày xưa vốn là đường đất đỏ, đổ đá lởm chởm. Nhà Bùi Giáng cách đường ĐT 610 chừng một trăm mét. Buổi sáng, ông ra cái giếng nước trước nhà tắm rửa tử tế, mặc bộ quần áo đẹp rồi ra đường… đứng đón mấy chị gánh mít chín đi bán.

Bùi Giáng thường hỏi: “Mít ở mô gánh bán rứa hỉ?”. Chị bán mít nào trả lời: “Mít ở Phú Đa” hay “Mít ở Kiểm Lâm xuống đây anh” là Bùi Giáng có thể đón lại mua mở hàng cho. Còn ai trả lời: “Mít ni bên Đại Lộc qua đây, ngon lắm!” thì dù là mít ngon thiệt tình nhưng Bùi Giáng vẫn không thèm mua. Có người thắc mắc hỏi ông tại sao vậy. Bùi Giáng giải thích: Mít Phú Đa hay mít Kiểm Lâm gánh xuống là mít đi theo đường bộ. Còn mít bên Đại Lộc qua là “mít qua đò”. Ngày ấy, giữa hai huyện Duy Xuyên và Đại Lộc không có cây cầu, người ta phải đi đò buôn bán. Mít qua đò nói lái theo kiểu Quảng Nam là… mò qua đít. Và hễ đã mò qua đít thì Bùi Giáng dứt khoát không mua!

Thơ ông minh triết một cách kỳ lạ. Chê ai, ông chê tràn; khen ai, ông khen nức nở. Tính cách Quảng Nam mà, không khoan nhượng ngay với suy nghĩ của mình. Con người có đôi mắt ấy nhiều khi viết ra những câu thơ thần bút khiến người ta kinh ngạc.

Trong linh hồn một bông hoa

Hình như có cõi người ta đàng hoàng

Ở trong một phút lang thang

Có hồn dâu biển đa đoan cơ trời.

Ngay trong những bài thơ nói về sự đau đớn, Bùi Giáng cũng nói với một giọng điệu minh triết, chừng mực.

Đi về gót hẹn điêu linh

Suốt bờ cõi lạnh sương thình lình gieo

Đi về hồng lệ tuôn theo

Mắt màu thu nhạt gió leo chân trời.

Nhiều người cho rằng muốn thể hiện chất Phật thì thơ (hoặc ca từ nhạc) phải có các thuật ngữ niết bàn, luân hồi, vô ngã, vô thường, vô tướng, sám hối, giải thoát, cát bụi, hương sen… Bùi Giáng không vậy. Ông không sử dụng một thuật ngữ nào trong kinh điển đạo Phật nhưng thơ của ông vẫn hàm chứa Phật tính cao cường, Phật lực mênh mông.

Ngày sẽ hết, tôi sẽ không ở lại

Tôi sẽ đi và chẳng biết đi đâu

Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi

Vì nơi đây, tôi sống đủ vui sầu.

Trong thơ Bùi Giáng, có nụ cười khoan dung, cởi mở tràn đầy Phật tính của ngài Di Lặc. Bọn trẻ thấy ông ăn mặc lạ lùng, tóc tai lãng mạn, ban đầu thường sợ hãi. Hễ ông đến thì bọn trẻ lại thụt lùi, muốn chạy. Nhưng không, ông chỉ mong được chơi với chúng:

Các con đi bước thụt lùi

Xa xa nhìn thấy ông Bùi chịu chơi.

Đạo Phật coi tấm thân của con người là cái túi để đựng xương thịt, vốn chỉ là tạm bợ, hữu hạn. “Sinh ký, tử quy” –Sống gửi, thác về. Ngày con người chết đi mới là ngày đại hoan hỉ. Bùi Giáng cũng có quan điểm gần với tư duy ấy. Ông viết:

Thân là máu, thịt và xương chia biệt

Quả tim mềm sao quá dễ tổn thương

Tình cao quý vẫn là dây oan nghiệt

Ngắn vô cùng lần phùng ngộ với vô biên.