Phỏng vấn GS Tạ Văn Tài về đề tài “Bầu cử Tổng thống Mỹ 2020” và “Phân hóa trong xã hội Mỹ”
Người phỏng vấn: Ký giả Hoàng Bách (Việt Radio, Huston, Texas, Hoa Kỳ), 10-6-2020
1/ Ngày 5/6/2020, ông Joe Biden chính thức được Đảng Dân Chủ đề cử là ứng viên chạy đua vào tòa Bạch Ốc với ông Trump. Xin GS nhận định về ưu và khuyết điểm của ông ta.
Ông Joe Biden nói không hùng hồn, mạnh mẽ, có lửa và không có vẻ sẵn sàng thay đổi kiểu cách mạng, như ông ứng cử viên Dân Chủ kia, có lúc gần như thắng Biden, là Nghị sĩ Bernie Sanders (vì thế bị ô Trump nhạo báng đặt cho biệt danh là Sleepy Joe – anh chàng Joe buồn ngủ). Nhưng sau khi ông Biden thắng tại South Carolina nơi có nhiều ủng hộ của người da đen, và nhất là sau thắng lớn trong ngày bầu tuyển ứng viên trong nhiều tiểu bang, tức ngày Super Tuesday, March 3, thì các quan sát viên, kể cả nhà báo có tiếng thuộc Đảng Cộng Hoà như Nicholas Kristof, đã kết luận là khuynh hướng thực tiễn trong chương trình của Biden được cử tri tin tưởng là ông có thể trúng cử chức Tổng thống và kéo theo việc trúng cử của thêm nhiều ứng cử viên Dân chủ vào Quốc hội để có đa số dân chủ không những trong Hạ viện (đã có đa số đó rồi) mà còn ở Thượng viện nữa.
Trong cuộc bầu cử thực thụ (general elections) chức Tổng thống vào tháng 11, 2020, ứng cử viên muốn hơn phiếu đối phương thì phải đươc lòng đại da số không những trong Đảng của mình, mà còn cả trong các tầng lớp cử tri độc lập không là Dân chủ hay Cộng hoà, họ khá đòng đảo và là khối cử tri lay chuyển được kết quả bầu cử (swing votes). Quá thiên tả phái như ứng cử viên dân chủ McGovern năm 1972 hay quá thiên bảo thủ Cộng Hoà như Barry Goldwater năm 1964 thì dễ thất bại. Năm 2018, Đảng Dân Chủ đã tạo được đa số trong Hạ Viện là nhờ sự trúng cử của một số ứng viên ôn hoà có lập trường tranh cử thực tiễn. Ông Trump ngán ông Biden, mặc dù nói là Sleepy Joe, vì đòi điều tra gia đình Biden mà không đòi điều tra ông “socialist/ xã hội chủ nghĩa” Sanders xem có dính dáng gì tới chuyện Đại học Burlington không.
Trong những tháng vừa qua và sắp tới khi phong trào bênh vực cử tri da đen nổ bùng lên, có tham dự của nhiều cử tri da trắng và sắc dân khác như người gốc Mễ, có công tâm, ông Trump dọa đem quân đội, chỉ có vai trò quốc phòng ở ngoài lãnh thổ Mỹ, để đàn áp dân biểu tình, như một nhà độc tài lợi dụng chỗ đứng trên cao quyền lực mà chống lại giai tầng trung lưu và nghèo, họ đang hành xử quyền tự do ngôn luận do Hiến Pháp bảo vệ trong First Amendment. Rồi ông phải bẽ bàng rút lui, bỏ chủ trương “khống chế” đó (ổng dùng chữ “dominate”) sau khi các đám biểu tình trở nên ôn hòa, không còn có cảnh đập phá cửa tiệm mà hôi cuả, và nhiều nhân vật Cộng Hoà và tướng lãnh phản đối, chê là vi phạm Hiến Pháp.
Diễn tiến đó là môt sự thắng lợi của Biden, vốn xuất thân từ một gia đình thuộc giai cấp lao động. Trong hơn ba năm, các báo đài đã dùng phương pháp đếm (fact-checking) hơn 20.000 lần ông Trump nói sai sự thật, rồi họ trách ông phản ứng chậm truớc sự lây lan của vi khuẩn COVID-19 (mãi đến ngày 16 March 2020 mói hành động) dù đã được chuyên viên báo động sớm, và đến khi họp báo hàng ngày tại White House với ban chỉ huy, Task Force, thì lại phát ngôn bừa về thuốc ký ninh có khả năng khử virus, dù không có cơ quan y tế nào xác nhận, lại còn giấu diếm mình chậm trễ trong mấy tháng việc ban hành các biện pháp phòng bệnh, bằng cách giấu đi không công bố tờ trình 17 trang của các chuyên gia trong cơ quan Center of Disease Control. Cho nên đến khi ông Trump phát ngôn về muốn dùng quyền Tổng tư lệnh quân đội để trị các đám biểu tình, vốn thuộc quyền giữ an ninh trật tự của các Thống đốc tiểu bang, theo thể chế Liên bang quy định trong Hiến Pháp, thì đủ các thành phần dân Mỹ, kể cả dân thất nghiệp vùng Trung Tây Mỹ truớc đây ủng hộ Trump, càng chán ngán, và hơn nữa ta thấy lại còn nhao nhao nổi lên bao lời phản đối của một số nhân vật quan trọng, kể cả thuộc Đảng Cộng Hoà, khiến chỉ số dân chúng ủng hộ ông Trump, so với ông Biden, giảm đi nhiều. Các tướng trong Uỷ ban Liên quân (Joint Chief) tách khỏi quan điểm ông Trump, nói không thể dùng quân đội, vốn là lực lượng hòa nhập rất tốt mọi sắc dân trong xã hội nước Mỹ, vào việc chống bất cứ công dân Mỹ nào, thuộc sắc dân nào. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mattis dám quở trách Tổng tư lệnh Trump là không nói những lời đoàn kết quốc gia mà trong hơn ba năm cầm quyền thiếu khả năng lãnh đạo, và là mối nguy và miả mai cho Hiến Pháp, ông có thể dùng quân đội đàn áp dân, cho nên ông Mattis noí là “Dân chúng tôi có thể đoàn kết mà không cần ông Trump”. Cựu tướng Colin Powell, cựu Bộ trưởng Ngoại giao của Tổng thống Cộng Hòa Bush, nói là ông sẽ bầu cho ông Biden. Nghị sĩ Cộng Hòa Mit Romney cũng biểu tình nói không ủng hộ Trump.
Sử gia David Brinkley, chuyên khảo các đời Tổng thống, nói là Trump nói những lời chưa ai nói. Theo nhà bình luận các vấn đề quốc tế Kimberley Dozier, các lãnh đạo các quốc gia trên thế giới bị sốc khi nghe Trump nói như trên. Hệ quả về dư luận cử tri, theo thăm dò trong tháng 6, 2020, tỷ lệ ủng hộ Trump chỉ là 40%, thua gần 10% so với tỷ lệ 49% ủng hộ Biden. Hỏi riêng về Trump, tỷ lệ cử tri khen ngợi Trump là 38%, còn 57% phỉ nhổ Trump; hỏi riêng về Biden, tỷ lệ cử tri khen ngợi là 69%. Báo Politico nói phía Trump đang tìm cách phá tan trào lưu đang lên của Biden bằng cách “dí” ông ta vào một vị trí lập trường ngõ cụt nào đó, nhưng chắc không làm nổi, vì ông Biden là cáo già, khéo mềm dẻo, lại có các chính khách gạo cội trong Đảng Dân Chủ, như ông bà Clinton, ông bà Obama, giúp cố vấn.
2/ Do những biến cố bất ngờ như Covid-19, biểu tình chống kỳ thị đã làm lu mờ mua bầu cử của Mỹ năm nay. Theo GS, chủ đề tranh luận trong mùa bầu cử là gì: Kinh tế hay Trung Cộng?
Chủ đề tranh luận trong bầu cử thì sẽ khó tiên liệu, vì sẽ còn tuỳ các biến cố thay đổi và sự thay đổi hay lèo lái bất chợt để lẩn tránh của ông Trump, trơn tuột từ quan điểm này sang quan điểm khác, như con lươn, con chạch.
Thí dụ: Trước đây vài năm hay vài tháng, Trump khuyến cáo nên nói chuyện với bọn White Supremacists, để có thỏa hiệp (“make a deal”) y như là sẵn sàng “đi với quỷ”, nhưng nay ổng lại muốn tự xưng mình giống Nixon khi xưa, 1968, là “candidate of law and order” (ứng cử viên của luật pháp và ổn định). Nhưng vì không có các ứng cử viên cùng đứng trên cùng sân khấu mà tranh luận, vưà ném banh vừa đỡ banh (tung luận chứng vào địch thủ và chống đỡ luận chứng địch ném tới mình), như trong bầu cử sơ bộ trước đây, cho nên tranh luận giữa Trump và Biden có thể qua hình thức online của Internet, do đó có thể ỉu xìu hơn, ít các chuyện bất ngờ có kịch tính, nhất là tôi nghĩ Biden sẽ ít có cơ hội làm rối trí, hạ nhục Trump về sự thiếu kiến thức đào sâu, vì trong cái buồng chỉ có mình ô Trump có camera chiếu vào mặt ông, thì phía đằng sau camera, có thể có các chuyên viên cầm các tờ giấy hay chiếu lên tường các câu trả lời để “nhắc tuồng” ông Trump (tuy phải nhận là ông ta khá thông minh, biến báo nhanh) – thế là giảm cơ hội cho Biden làm lộ rõ kiến thức nông cạn của Trump, vì không chịu đọc các tờ trình cuả các chuyên viên mà chỉ phát ra mấy cái tweets mà bàn sơ sài.
Trước COVID-19, ta có thể nghĩ các đề tranh luận có thể là health care/ repeal ObamaCare, sửa luật thuế cho bớt ưu đãi giới giàu, thi hành gắt hơn hay sửa lại chính sách đi dân nhập cư và xây tường thành biên giới, nhưng nay, chắc kinh tế hậu COVID-19 quá khó khăn cho các tầng lớp trung lưu và nghèo, vả lại đã có các chi phiếu trợ giúp với sự bội chi ngân sách cực lớn cho các tầng lớp do cả hai Đảng cùng chủ trương, cho nên không có các tranh luận về giảm thuế, deficit financing (bội chi). Mà có lẽ chỉ bàn xem có nên có đợt trợ giúp 3 hay không, mà chắc cả hai phiá đồng ý, dù Trump có cố ra lệnh cho Ngân khố US Treasury ghi chữ ký của ông vào chi phiếu trợ cấp, thủ lợi cho tiếng tăm mình (tuy chi phiếu chi tiền cho dân lấy từ Ngân khố Mỹ thì chỉ cần chữ ký Giám đốc Ngân khố). Có lẽ Trump cũng không dám động đến việc hủy bỏ ObamaCare là điểm tựa cùa người dân Mỹ trung bình, trong lúc dân đang khổ vì mất việc, không lương, không tiền mua bảo hiểm. Ông Biden có thể tố cáo ông Trump là kiện hủy bỏ ObamaCare không phải là theo đuổi một chính sách mà là một đòn phá hủy Obama với ác ý, nhưng hại cho dân Mỹ. Trong những tháng COVID-19, làn sóng đi cư vào Mỹ không còn, do đó chính sách hạn chế di dân, kể cả bằng bức tường biên giới tốn kém, chắc cũng không còn là đề tài tranh luận sôi nổi giữa Trump và Biden nữa.
Nhưng vì việc dân da màu đã lâu bị ngược đãi với bạo động và kỳ thị bất bình đẳng, kể cả các biện pháp làm khó việc họ đi bầu (đặt rất ít phòng bầu phiếu gần nơi họ cư ngụ), thì vấn đề tranh luận tới là có nên cho bầu bằng thư cho tất cả những ai không muốn hay không thể đến phòng phiếu, mà xin cấp phiếu bầu qua bưu điện, trong hoàn cảnh COVID-19 phải cách ly, mà người da màu thường chỉ có phương tiện chuyên chở công cộng để đến phòng phiếu.
Về mặt ngăn chặn hay trừng phạt Tàu về việc giấu kín sự lây lan ban đầu của COVID-19 và sự ăn cắp tài sản trí tuệ (intellectual property), bằng các chế tài, hay sự mặc cả ép Tàu mua thêm hàng hoá Mỹ để giảm khiếm hụt cán cân thương mại và chi phó (balance of trade and payments), thì thiết nghĩ lập trường Đảng Cộng hoà và Dân chủ giống nhau. Có lẽ sẽ không có tranh luận nhiều về điểm này trừ khi phe Dân chủ muốn ông Biden bêu xấu ông Trump về sự lầm lẫn quá khứ là cứ khen ōng Tập Cập Bình là “best friend” và cách ông Tập đối phó với đại nạn COVID-19 là có tài lãnh đạo “mạnh mẽ, sắc sảo” và tập trung đua đến “một chiến dịch rất thành công”, rồi sau đó ông Trump mới thấy Tàu giấu diếm, và trừng phạt các bác sĩ Tàu có lương tâm, dấy lên tiếng báo động, và Trump đổi giọng gọi là China Virus hay Wuhan Virus. Đấy là chưa kể Tàu làm hại quyền lợi của Mỹ trong thương mại quốc tế và tự do lưu thông và an ninh hàng hải tại Tây Thái Bình Dương.
3/ Gần đây vì COVID-19, một số tiểu bang đề nghị bầu cử năm nay bằng thư. Ông Trump chống đối vấn đề này, lấy lý do bầu băng thư thì gian lận. Vậy ai có quyền quyết định, Thống đốc hay liên bang?
Xin coi lại những câu tòi đã phát biểu trên về lý do chính cho bầu bằng thư là tạo cho dân thiểu số da màu nhiều cơ hội bầu, chứ bắt họ vượt nhiều khó khăn tới thùng phiếu thì có khi họ không đi, tức là bầu bằng thư là bảo đảm cho sự bình đẳng chính trị, theo nguyên tắc mỗi người một phiếu (one man, one vote). Trong quá khứ, đã có rất nhiều trường hợp bầu bằng thư, như cho quân đội hay công dân cư ngụ ở hải ngoại, v.v. bầu bằng thư mà có xảy ra chuyện gian lận đâu? Việc ông Trump nói ngoa là bầu bằng văn thư sẽ có gian lận thì cũng như việc ông nói bừa không trưng bằng chứng là năm 2016, bà Clinton hơn ông hơn hai triệu phiếu popular votes là có nhiều phiếu gian lận, mà không có ai đồng ý đó với ông.
Tổ chức bầu cử Tổng thống, về mặt vật chất, như xếp đặt các phòng phiếu ở đâu, in phiếu bầu ra sao, kiểm phiếu thế nào, là việc thuộc thẩm quyền của mỗi tiểu bang, do sự quản lý của Secretary of the State. Chắc mọi người còn nhớ là năm 2000, bà Secretary of State cuả bang Florida đã cho nhân viên kiểm và đếm lại các lá phiếu đã có computer đục lỗ rồi, nhưng bà, thuộc Đảng Cộng Hoà, cũng là người cho ngưng việc các nhân viên soi các lá phiếu lên cao xem phiếu bầu cho ai, khi bà thấy số phiếu bầu cho ông Bush tại Florida đủ cho ông thu lượm toàn thể số electoral votes tại Florida, và do đó làm ông có số phiếu cử tri đoàn (elector votes) đủ quá bán trên toàn quốc mà thắng cử vào Toà Bạch Ốc. Theo điều II Hiến Pháp, mỗi tiểu bang sẽ tự quy định việc cử ra cử tri đoàn, các đoàn này cuả các tiểu bang sẽ họp và dựa vào số phiếu quần chúng (popupar votes) mỗi tiểu bang đã bầu cho Trump, hay Biden, ai nhiều phiếu quần chúng hơn thì cử tri đoàn (electors)mỗi tiểu bang buộc phải dồn toàn thể số phiếu cho người đó, Trump hay Biden.
4/ Nhiều nhà xã hội học cho rằng nước Mỹ đang bị chia rẽ và phân hóa trầm trọng. Thực tế có đúng như vậy không? Hay thổi phồng quá đáng?
Quả thực, so với các thời kỳ của các Tổng thống tiền nhiệm gần đây, nhiều ông biết tỏ lòng nhân, rung động, rơi nước mắt, khi muốn nhân dân đoàn kết thương nhau trong các vụ tội phạm do kỳ thị nhau, thí dụ như Clinton đọc điếu văn trong vụ tên lính Timothy MacVeigh thuộc phe da trắng bảo thủ muốn thống trị, cho nổ bom phá toà nhà công sở Liên bang ở Oklahoma, làm chết mấy trăm trẻ em lớp mẫu giáo; hay Obama hát an ủi các tang gia trong tang lễ cho các người da đen bị sát hại khi họ bị khủng bố trong khi ngồi trong nhà thờ, thì chưa bao giờ như bây giờ, ta thấy xã hội Mỹ bị bọn khiêu khích chia rẽ các tầng lớp dân trong sự hằn học với nhau, như trong thời ông Trump, một tổng thống mà cá tính thiếu tính bao dung, lòng thương người, sự mong ước đoàn kết dân tộc, mà chỉ thấy vẻ mặt nhăn nhó, không cừoi, ưa gây sợ hãi, chia rẽ, không những trong quần chúng mà trong cả các hàng ngũ lãnh đạo trong Quốc hội và trong các thành viên nội các hay các nhân viên của bộ máy hành chính. Xa hơn trong quá khứ, Tổng thống Cộng Hoà George H. W. Bush đưa ra khẩu hiệu “Toward a kinder, gentler nation”; Tổng thống Dân Chủ Johnson, dù kẹt với chiến tranh Việt Nam tốn kém mà vẫn đưa ra các chương trình xoá nghèo đói “The Great Society” vào thời gian mà Martin Luther King cũng kêu gọi giúp dân nghèo, ngoài chuyên bình đẳng dân quyền.
Trái lại, ông Trump, thâm tâm kỳ thị da đen (gia đình ông cộng tác với tư bản người Do Thái, kể cả ông thông gia Kushner, và rể Kushner), không thương người nghèo (làm giàu trong sự bóc lột, trả lương rẻ, có khi không trả, cho các nhân công trong các dự án xây cất tại New York), cho nên ông Trump không có cảm tình với dân da màu trong khi biểu tình yêu cầu bỏ các tượng các tướng lãnh phe Miền Nam của Nội Chiến Mỹ tại tỉnh Charlottesville, Virginia, và khi phe “da trắng thống trị” (White Supremacists) ập tới xô xát và lái chiếc xe đâm tàn bạo vào đám biểu tình (sau này người lái xe bị án hình) thì ông Trump lại nói nước đôi: “Cả hai bên đều có lẽ phải”. Sau bao nhiêu vụ những năm gần đây có cảnh sát đùng bạo lực giết dân da màu, kể cả hai vụ kẹp cổ đến chết hai nghi can da đen chưa rõ tội trạng có bị Tòa kết án hay không, tại New York City và Minneapolis, thì có nhiều cuộc biểu tình của Phong Trào Bảo Vệ sinh Mạng Người Da Đen “Black Lives Matter” (Sinh Mạng Người Da Đen Phải Được Coi Trọng) trong hơn 600 thành phố, đòi các thành phố, là định chế hành chính cai quản nhân viên công lực, phải trừng phạt cảnh sát bạo hành ngừời da đen trái luật và cải tổ sâu rộng các sở cảnh sát; thế mà ôngTrump vẫn nói “99% cảnh sát làm đúng luật” (ông nói bừa ra con số này, như vẫn phát ngôn bừa trong hầu hết mọi vấn đề).
5/ Trong Cộng đồng Việt Nam nhiều người tin rằng chỉ có Trump mới chống Trung Cộng và đây là cơ hội giúp Việt Nam thoát Trung. GS lý giải như thế nào về quan điểm này?
Nói thế là không thuộc lịch sử về chính sách Mỹ. Từ mấy đời Tổng thống trước đã muốn giúp Việt Nam thoát Trung từ lâu, chứ không phải đợi đến Trump mới có một Tổng thống chống Tàu giúp Việt Nam thoát Trung. Trump đã sẵn sàng nịnh Tàu (sang thăm Tàu mà có cử cháu gái ngoại, con của con gái Ivanka Trump, đứng lên trong bữa tiệc hát bài hát Tàu; còn khen Tập nhiều lần như nói trên, và khi muốn nhờ Tập ảnh hưởng đến Chủ tịch Bắc Triều Tiên Kim Jong Un về yêu cầu giải giới võ khí hạt nhân Mỹ đề xuất) chứ không trực tiếp chống Tàu về mặt quân sự hay ngoại giao giùm Việt Nam đâu, hay giúp Việt Nam thoát Trung về kinh tế, ngoại thương đâu.
Việc thoát Trung về các phương diện đó tuỳ thuộc vào ý chí kiên cường CUẢ VIỆT NAM (MÀ NẾU KHÔNG CÓ THÌ CHẲNG CÓ CHÍNH PHỦ CUẢ TỔNG THỐNG MỸ NÀO GIÚP ĐƯỢC) trong sự nghiệp bảo vệ độc lập tự chủ về mặt ngoại giao giữa nhà nước với nhà nước và giữa đảng và đảng (chứ không phải hàng năm cử cán bộ sang Tàu họp để phối trí cho thống nhất chính sách Việt Nam cho đúng Tuyên Bố Chung, và các lời nhắn rỉ tai vừa mua chuộc vừa đe dọa các cán bộ đi sang Tàu nhận lời chỉ dạy như thế), độc lập tự chủ về mặt luật pháp quốc tế (dám kiện Tàu trước Toà án Luật Biến về quyền lợi Việt Nam xét thấy có ghi trong Công Ước Liên Hiệp Quốc Luật Biển, chắc như đinh đóng cột), và độc lập tự chủ về mặt thoát Trung trong sinh hoạt kinh tế, kỹ nghệ, đầu tư và ngoại thương (nguồn cung ứng, v.v.).
CÁC TỔNG THỐNG MỸ TRƯỚC đã khéo léo gợi ý muốn giúp Việt Nam củng cố độc lập tự chủ. Ngay từ thời chính phủ Bush, trong chuyến du hành của Thủ Tướng Việt Nam qua Mỹ, Tổng thống Bush đã cam kết bảo đảm cho sự toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Thông cáo chung Mỹ Việt “nhắc lại sự ủng hộ của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam về chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ” và nói đến nhu cầu “củng cố đối thoại cấp cao”và ủng hộ“thành lập các cuộc họp hoạch định chính sách về chính trị, quốc phòng để có các trao đổi thường xuyên và sâu hơn về các vấn đề chiến lược và an ninh”. Thế mà Việt Nam vẫn chậm chạp trong việc xích gần Tây Phương. Tại sao Việt Nam không đẩy mạnh đa phương hóa ngọại giao để có đối lực với Trung Quốc, thí dụ thực hiện sự cộng tác tập trận hải quân với Mỹ theo đề nghị của chính phủ Bush? Hỏi một nhà ngoai giao thì đuợc biết là Việt Nam vào lúc đó mới chỉ dè dặt chấp nhận tập việc cùng Mỹ cấp cứu ngộ nạn và tìm xác người trên biển.
Phải tới tháng 7 năm 2010 mới có một sự đột biến quan trọng.
6/ Một số người cho rằng dưới thời Trump, các đồng minh của Mỹ bị chia rẽ, các định chế không được tôn trọng? GS nhận đinh như thế nào?
Thiết nghĩ các đồng minh của Mỹ tại Âu Mỹ như Canada, Anh, Pháp, Đức, hay tại Á như Nhật, Đại Hàn, Thái Lan, tại Đại Dương Châu như Úc, Tân Tây Lan, thì giữa họ với nhau, không có gì chia rẽ đáng kể, mà trái lại họ muổn bảo toàn sự đoàn kết giữa họ với nhau và nhất là bảo toàn các định chế quốc tế đã lập ra suốt từ sau Thế Chiến II, mà có lợi chung cho mọi nước, như các cơ quan Liên Hiệp Quốc, cần cho việc bảo vệ trật tự và hoà bình/ an ninh trên thế giới, hay có lợi về việc đưa ra tiếng nói cuả các quốc gia về vấn đề kinh tế, thương mại, lao dộng, hay sức khỏe các dân tộc như World Health Organization. Chỉ có riêng ông Trump là gây ra sự rạn nứt, thiếu đoàn kết trong các tổ chức. Ông viện cớ Mỹ đóng góp, nhiều cho ngân sách các tổ chức đa phương đó, mà vây vo, dọa rút tài trợ, hay ép các nước đóng thêm ngân khoản, điều này có thể đúng, nhưng cách mặc cả làm mếch lòng nhiều nước. Hơn nữa tác phong ông Trump khi đi thương lượng, có sự lỗ mãng như chèn vào giữa hai người trong hàng ngang các lãnh đạo đồng minh đã đứng vào vị trí rồi, để đứng ra trước mặt mọi người mà xác nhận vai trò vượt trội của ông.
Về nội dung thương lượng, ông Trump cũng chỉ hiểu thô sơ trong khi cần phải nắm bắt các kiến thức mà chuyên viên và các lãnh đạo các quốc gia đã hun đúc lại thành hiệp ước, thí dụ hiệp ước khí hậu Paris, hiệp ước Thương Mại Tây Thái Bình Dương, thế rồi ông tuyên bố huỷ bỏ chúng, một cách khinh thường các quốc gia đối tác họ đã dày công thương nghị với Tổng thống Mỹ tiền nhịệm của Trump, là Obama. Các chính khách và chuyên gia về các vấn đề quốc tế đã kết luận là ông làm nguy hiểm đến hệ thống các cơ cấu quốc tế mà các nước hàng đầu đã xây dưng từ 1945 đến nay. Tóm lại các nước đồng minh của Mỹ không chia rẽ, dằn vặt với nhau, mà muốn bảo vệ hệ thống quốc tế chung. Thí dụ họ thương lượng môt cách văn minh việc dân Anh muốn ra khỏi European Common Market; họ muốn bảo vệ Hiệp Ước Khí Hậu mà Phó Tổng thống Al Gore đã góp phần; họ muốn đại quân Mỹ đóng ở Đức, như là xương sống của Liên Minh NATO, không thể bị ông Trump thình lình đơn phương tuyên bố sẽ rút, mà không tham khảo đồng minh Âu châu, có lẽ vì thế mà, bà Thủ tướng Đức Merkel tuyên bố sẽ không đi dự hội nghị sắp tới mà Trump mời.
CHUẨN-TƯỚNG HUỲNH THỚI TÂY
Một hôm, vào đầu tháng 3 năm 1975, tôi được Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia/Ngành Đặc-Biệt gọi vào mà không cho tôi biết trước lý-do hay mục-đích gì.
Cũng được xe-hơi dân-sự đón từ phi-trường, nhưng đến văn-phòng của Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương thì viên thiếu-tá bí-thư mời tôi qua gặp Trung-Tá Phạm Văn Ca, Giám-Đốc E2 (Nha Phản-Tình-Báo/Nội-Chính), theo lệnh của Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.
Tôi đã từng cùng Trung-Tá Ca đi tu-nghiệp về “Chống Khuynh-Đảo” tại Úc-Đại-Lợi vào năm 1970 nên quen thân nhau.
Ca bảo tôi:
‒ Ông Tướng muốn biết trong thời-gian qua anh có làm gì sai trái hay không. Anh hãy ngồi đây, viết bản tự-thuật, kể hết những gì mà anh thấy là khuyết-điểm, xong rồi hãy qua gặp ông.
*
Tôi ngồi ôn lại mấy việc lớn/nhỏ mà tôi nghĩ là có thể đã làm Tướng Tây bất-bình về tôi…
Trong một buổi họp các cấp Trưởng E (Giám-Đốc Nha tại Trung-Ương và Nha tại các Vùng), Đại-Tá Huỳnh Thới Tây hỏi về “Biệt-Đội Thiên Nga” cùng các cơ-cấu không thấy có ghi trong Sắc-Lệnh tổ-chức của Ngành. Tôi trình-bày về “Chiến-Dịch Đại Phong” và “Ký-Giả Tự Do”.
“Chiến-Dịch Đại Phong” là tên gọi của một phương-thức hoạt-động, theo đó thì nhân-viên Đặc-Cảnh sử-dụng người chỉ-điểm, là cán-bộ/bộ-đội/cơ-sở Việt-Cộng bị bắt mà tự-nguyện hợp-tác với ta, bằng cách ngụy-trang và tạo ngụy-tích cho đương-nhân không bị công-chúng, nhất là đối-phương, nhận ra.
“Ký-Giả Tự Do” là một/vài viên-chức Đặc-Cảnh hoặc cảm-tình-viên của Ngành, có năng-khiếu viết báo, làm phóng-sự, được giao nhiệm-vụ bí-mật trà-trộn vào giới ký-giả hiện đang ào-ạt săn tin giật gân, trong đó có nhiều phần-tử phản-chiến, thân-Cộng và cả là cộng-sản trá-hình. Ngành Đặc-Biệt can-thiệp với Bộ Thông-Tin, cấp “Thẻ Ký-Giả” cho họ, để phòng có ai thắc-mắc thì đưa ra cho họ xem. “Tự Do” nghĩa là gửi bài đăng trên bất-cứ báo nào, không hẳn là cộng-tác-viên nhất-định của một báo nào.
Tôi đã thật-tình và vô-tình nói rằng đó là những sáng-kiến của Trung-Tá Nguyễn Mâu.
Đại-Tá Tây ném mạnh cây bút xuống bàn, dằn giọng:
‒ Tôi là Huỳnh Thới Tây; làm việc với tôi thì hãy chỉ biết có tôi; tôi không cần biết Nguyễn Mâu là ai.
Việc Thăng-Thưởng Nhân-Viên
Một lần khác, cũng họp tham-mưu như trên, bàn về vai trò của “Cán-Bộ Điều-Khiển” (Case Officer: Điệp-Trưởng) trong các công-tác xâm-nhập (nguời của ta, do ta xây-dựng rồi cài vào hàng-ngũ địch) và nội-tuyến (người của địch, được ta móc-nối, sử-dụng làm tay-trong cho ta).
Đại-Tá Huỳnh Thới Tây ngỏ ý muốn nâng-đỡ giới này.
Tôi lấy tư-cách là người thực-sự đi sát và hiểu-biết nội-tình tại chỗ, trình-bày:
‒ Trước đây, Người Bạn Đồng-Minhđã nghĩ đến việc cấp một ngân-khoản phụ-trội hàng tháng cho tất cả viên-chức Ngành Đặc-Biệt, nhưng bên Cảnh-Sát Sắc-Phục phản-đối, nên việc không thành. Theo tôi, đáng khuyến-khích nhất là Cán-Bộ Điều-Khiển, như đại-tá vừa nêu ra. Nhưng đa-số Cán-Bộ Điều-Khiển thì là hạ-sĩ-quan.
“Nếu dùng sĩ-quan thì không những dễ-dàng hơn trong việc tiếp-xúc và nhờ-vã sự giúp-đỡ của người khác, mà còn có nhiều uy-tín và được tin-tưởng hơn đối với chính mật-viên của mình. Nhưng sĩ-quan Cảnh-Sát Đặc-Biệt thì đa-số đều mong được giữ chức-vụ chỉ-huy, mà khi đã là cấp chỉ-huy rồi thì họ lại mong được qua Sắc-Phục, hay nói đúng hơn là họ mong được hưởng những lợi-lộc như bên Sắc-Phục. Thí-dụ, ngay cả khi đã được cấp một chiếc xe Jeep rồi, mà xe lại có màu sơn và mang bảng số của xe thường-dân, thì họ vẫn thấy thua-kém xe Jeep sơn 2 màu lục+trắng của Cảnh-Sát (Sắc-Phục), vì bên Sắc-Phục vẫn được dân-chúng nể-sợ và dành cho nhiều ưu-tiên hơn.
“Còn muốn tưởng-thưởng các hạ-sĩ-quan CBĐK hữu-công thì cách xứng-đáng nhất là thăng cấp cho họ; nhưng họ vẫn nằm ở dưới các Trưởng G (Phòng), Trưởng H (Ban), nên họ còn lâu mới được thăng lên sĩ-quan.”
Đại-Tá Tây dằn mạnh cây bút xuống bàn, thốt lên một tiếng chửi thề, bỏ ra khỏi phòng.
Mọi người lặng im, lo sợ giùm tôi. Trung-Tá Nguyễn Văn Thuận, Trưởng D3 (Phụ-Tá Chuyên-Môn của Trưởng Ngành ĐB Trung-Ương) đưa tay ra dấu cho tôi chú ý đến anh. Trước kia, anh cũng đi Úc cùng chuyến với Ca và tôi.
Thuận nói:
– Mọi sự thưởng/phạt―thăng ai, giáng ai―đều nằm trong tay của ông. Nếu anh xin ông ban ơn đặc-cách thăng cấp cho các phần-tử hữu-công, thì ông sẽ mát lòng hơn.
Hệ-Thống Liên-Lạc Cảnh-Sát Hình-Sự
Trong vụ phi-cơ “Air Vietnam” bị nổ lựu-đạn tại Phi-Trường Phú Bài, Huế, khi tôi biết được thủ-phạm là Nguyễn Cửu Viết, tôi liền gửi điện cho Bộ Chỉ-Huy CSQG Quận liên-hệ tại Sài-Gòn, là nơi cư-ngụ của một người bạn của thủ-phạm (mà theo tin-tức tôi nhớ từ hồi còn ở Vùng IIthì Viết đã nhờ chính người bạn này tìm-kiếm cho y một quả lựu-đạn) yêu-cầu trong đó chấp-cung “người-bạn” ấy.
Đại-Tá Tây cho rằng tôi đã vượt quyền, không trình lên ông là cấp trên, để ông ra lệnh cho các cấp dưới hữu-trách ở địa-phương khác thi-hành.
Theo tôi thì đây là thủ-tục hình-sự; tôi, với tư-cách Hình-Cảnh-Lại(danh-xưng mới, trước kia là Tư-Pháp Cảnh-Lại), Phụ-Tá Biện-Lý (Công-Tố-Viên) của Tòa Án Sơ-Thẩm, tại Đà-Nẵng (tôi cũng là Phụ-Tá Chưởng-Lý của Tòa Án Thượng-Thẩm Vùng I, tại Huế), tôi có thể phát lệnh truy-nã, trực-tiếp nhờ sự tiếp tay của các Hình-Cảnh-Lại khác (Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Khu, Tỉnh, Thị, Quận, v.v…) trên khắp nước, trong những vụ án cần được khẩn-cấp tầm+tra.
Huống chi CSQG của Việt-Nam Cộng-Hòađã là Hội-Viên của Cảnh-Sát Quốc-Tế(InterPol).
[Hoa-Kỳ đã giúp Việt-Nam Cộng-Hòa tuyển-dụng viên-chức có bằng đại-học luật-khoa, nghiên-cứu về luật quốc-tế, hướng-dẫn tham-gia tổ-chức Cảnh-Sát Quốc-Tế [InterPol], thành-lập chi-nhánh Việt-Nam của Cảnh-Sát Quốc-Tế, đặt trụ-sở tại Tổng-Nha (nay là Bộ Tư-Lệnh) Cảnh-Sát Quốc-Gia.]
Trong một số trường-hợp khẩn-cấp các Hình-Cảnh-Lại còn có thể liên-lạc phối-hợp hoạt-động với nhau, không những vượt quản-hạt hành-chánh trong một nước, mà còn có thể vượt cả biên-giới quốc-gia.
Cấp-Hiệu CSQG cho Thám-Sát Đặc-Biệt
Vì đã huy-động Thám-Sát Đặc-Biệt* đi hoạt-động chung với Cảnh-Sát Dã-Chiến, Cảnh-Sát Sắc-Phục, và cả Nghĩa-Quân, Địa-Phương-Quân, nên tôi đề-nghị với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, và đã được ông chấp-thuận, cho một số cấp chỉ-huy của Thám-Sát Đặc-Biệt tại Vùng I được mang cấp-hiệu CSQG, để có uy-tín đối với các đơn-vị bạn mỗi khi đi phối-hợp hành-quân.
Họ mặc sắc-phục Cảnh-Sát Dã-Chiến, đội mũ-nồi bằng nỉ màu lục của Thám-Sát Tỉnh(PRU= Provincial Reconnaissance Unit) cũ, nhưng cấp chỉ-huy không mang dấu-hiệu gì để các cơ-quan đơn-vị bạn nhận biết rõ-ràng.
Nay thì tại Vùng I họ được mang thêm cấp-hiệu CSQG: Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đội Thám-Sát Đặc-Biệt Khu I mang cấp-hiệu thiếu-tá. Chỉ-Huy-Phó của đơn-vị này mang cấp-hiệu đại-úy. Các Chỉ-Huy-Trưởng của Đội Thám-Sát Đặc-Biệt thuộc các Tỉnh/Thị trong Vùng I cũng mang cấp-hiệu đại-úy.
Đại-Tá Huỳnh Thới Tây cho rằng tôi đã lạm quyền, vì Quyết-Định của Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc là do đề-nghị của tôi.
Riêng về việc này thì tôi tự nhận là đã xúi ẩu để Đại-Tá Lộc chấp-thuận, vì nếu chờ-đợi Trung-Ương thì chắc khó có kết-quả, bởi lẽ Thám-Sát Đặc-Biệt chưa có quy-chế thực-thụ CSQG―không có cấp-bậc, chỉ có chức-vụ và còn hưởng lương theo mức cố-định từ thời còn ở dưới quyền của CIA. Vả lại, việc mang cấp-hiệu này chỉ có giá-trị đối với 2 viên-chức tại cấp Vùng, và một viên-chức tại mỗi Tỉnh/Thị, và chỉ trong khi tham-gia hành-quân phối-hợp mà thôi.
[Hồi tôi còn làm Trưởng Ngành Cảnh-Sát Đặc-Biệt Vùng II, tôi đã trình xin và được Tư-Lệnh Quân-Đoàn II/Vùng II Chiến-Thuật chấp-thuận cho một trung-sĩ Cảnh-Sát Đặc-Biệt ở Tỉnh Bình-Thuận được mang cấp-bậc đại-úy QLVNCH để vào làm việc trong Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-bên. Nay làm Giám-Đốc Đặc-Cảnh Vùng I, tôi cũng đã xin và đã được Tư-Lệnh Quân-Đoàn I/Quân-Khu I chấp-thuận cho vài trung-sĩ Cảnh-Sát Đặc-Biệt của tôi ở Đà-Nẵng được mang cấp-bậc đại-úy QLVNCH để vào làm việc tại Ban Liên-Hợp Quân-Sự 2-bên.]
Một Khẩu K-59 Tước Được của VC
Trong một cuộc hành-quân, Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam có tịch-thu được của Việt-Cộng một khẩu súng lục mới lạ, Địa-Phương chưa thấy lần nào.
Thiếu-Tá Chánh-Sở Lâm Minh Sơn báo-cáo lên tôi, tôi báo-cáo lên Bộ Tư-Lệnh/Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương.
(Lệnh trên ban xuống từ trước là trong trường-hợp tương-tự thì hãy chụp ảnh, mô-tả đặc-điểm hình dáng khẩu súng để xem nó thuộc loại nào.)
Sau đó, tôi nhận được lệnh nạp trình chiến-lợi-phẩm ấy lên Trung-Ương.
Gặp lúc có một cuộc họp tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, tôi được mời vào tham-gia.
Sau phần thuyết-trình tổng-quát của tôi, Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây hỏi tôi về khẩu súng trên.
Tôi có mang theo bản sao của tờ báo-cáo kèm theo hình-ảnh mô-tả của khẩu súng lục―gửi rồi nhưng chắc chưa đến tay ông―nên tôi lấy ra đưa cho ông xem. Tướng Tây đọc báo-cáo và nhìn hình-ảnh, xong hỏi khẩu súng đâu rồi, hãy trao cho ông.
Tôi đâu có khẩu súng ấy mà trao.
Số là Đặc-Cảnh ở Tỉnh đồng-thời cũng có báo-cáo kết-quả hành-quân lên Tỉnh, nên viên Tỉnh-Trưởng sở-tại đòi xem khẩu súng ra sao. Thấy khẩu súng quý, vì mới bắt được lần đầu, viên đại-tá Tỉnh-Trưởng bèn giữ lại, nói là mượn xem ít hôm. Liền đó, gặp dịp Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu ra thăm Quảng-Nam, viên Tỉnh-Trưởng sở-tại đưa khẩu súng ấy ra khoe; và thấy Tổng-Thống tỏ ý thích nó nên viên Tỉnh-Trưởng tặng luôn.
Thường thì chúng tôi báo-cáo tóm-tắt sự-việc ngắn gọn ra ở phần trước, còn các chi-tiết phụ-thuộc thì ghi ra ở phần sau, với các tài-liệu liên-hệ kèm theo.
Do đó, tôi đáp (như có ghi ở phần sau báo-cáo):
– Trình thiếu-tướng, Tổng-Thống đã lấy khẩu súng ấy rồi.
Nhưng Chuẩn-Tướng Tây chưa đọc phần sau của bản báo-cáo, không hỏi chi-tiết làm cách thế nào mà khẩu súng ấy lại đến thấu tay Tổng-Thống; ông nghĩ là tôi đã “qua-mặt” ông, tự ý vượt cấp tâng công trực-tiếp với vị Nguyên-Thủ Quốc-Gia.
Ông tức, gằn giọng:
– À, anh đã muốn “kiếm điểm” trực-tiếp với Tổng-Thống thì từ nay trở đi có gì anh cứ lên thẳng Tổng-Thống, đừng cần thằng này nữa nghe!
Vài Ngoại-Lệ
Tôi nghĩ cũng cần báo-cáo cả những việc-làm ra ngoài nguyên-tắc, phần thì để tỏ là mình thành-thật, phần thì để phòng Cấp Trên đã biết cả rồi (?).
1. Đời công: Tôi đã tự-ý thành-lập một “Phòng Tình-Hình” (không có trong sơ-đồ tổ-chức chính-thức của Ngành), để nhân-viên thay phiên nhau cùng làm việc 24 giờ/7 ngày với tôi, bắt cả nhân-viên trực máy tại các Tỉnh/Thị cũng cùng ở trong tình-trạng sẵn-sàng làm việc bất-cứ lúc nào liên-tục suốt ngày+đêm như tôi.
2. Đời tư: Có lần một viên Thanh-Tra Trung-Ương ngỏ ý muốn xem sinh-hoạt ban đêm tại Đà-Nẵng. Trong thời-gian đó, Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng cấm các sĩ-quan quân-nhân không được đến khiêu-vũ tại các vũ-trường, nên các Tỉnh/Thị-Trưởng cấm chung mọi người, mặc dù các chủ tiệm-nhảy đã được chính-quyền cấp cho giấy phép hành-nghề. Tôi đã đưa viên Thanh-Tra ấy vào một phòng trà+ca+vũ+nhạc; gặp lúc không có nhân-viên Cảnh-Sát Sắc-Phục, các cô vũ-nữ đã ào ra sàn, ông cũng ôm eo một cô lả-lướt như ai.
*
Tôi nhờ đả-tự-viên tại văn-phòng E2 đánh máy, xong ký tên, đưa bản Tự Thuật ấy cho Trung-Tá Phạm Văn Ca. Anh mang ngay vào trình cho Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.
Lát sau, Ca trở lại, nói rằng Ông Tướng đang bận, bảo tôi tiếp-tục tường-trình các hoạt-động tại các Tỉnh/Thị thuộc Miền Trung.
*
Công-việc của tôi không phải chỉ là gửi+nhận công-văn & công-điện và đi thanh-tra, bình-thường như một số cấp chỉ-huy trung-gian khác, nhất là cấp Vùng.
Tôi đã tích-cực thực-hiện công-tác an-ninh & phản-gián của chính cấp Vùng. Có như thế mới xứng-đáng với sự hiện-diện và hiện-hữu của một cơ-quan cấp Vùng.
Đồng-thời tôi cũng hòa-nhập hoạt-động với các địa-phương, góp phần cụ-thể cùng họ vượt khó, tiến nhanh.
Tôi chỉ ghi lại một số sự-việc thí-dụ mà thôi. Tính từ Quảng-Trị vào đến Quảng-Ngãi. [Đã viết trong cuốn hồi-ký “Cảnh-Sát-Hóa” (trang 137-240) nên không nhắc lại ở đây.]
Tôi đưa bản thảo nhờ đả-tự-viên đánh máy giùm, xong nghĩ là mình cũng nên ghi ra những gì mà các thuộc-viên có thể hiểu lầm, dẫn đến bất-mãn, xuyên-tạc gì chăng.
Đại-Úy Cao Viết Song của Tỉnh Quảng-Tín
Không hiểu vì sao mà Đại-Úy (sau này là Thiếu-Tá) Lâm Minh Sơn, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Nam, và Đại-Úy Cao Viết Song, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Quảng-Tín, được Bộ Tư-Lệnh CSQG thuyên-chuyển vào Sài-Gòn; xong rồi Sơn được trở lại với trách-vụ cũ, còn Song thì không.
Nhân dịp vào Bộ Tư-Lệnh, tôi hẹn với Song hãy đến gặp tôi, để tôi dẫn vào trình-diện và xin với Đại-Tá Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, cho anh trở lại nhiệm-sở cũ.
Nhưng Song trễ hẹn.
Tôi chỉ có thể nhân lúc báo-cáo thành-quả công-tác mà xin cho Song.
Tôi vào gặp Đại-Tá Tây―như một diễn-viên xuất-hiện trên sân-khấu vào một lúc nào đó nhất-định trong một vở tuồng―chứ đã ra khỏi phòng-giấy của ông rồi, đã đóng xong vai tuồng của tôi rồi, thì diễn-viên-tôi không thể tự-dưng vào lại sân-khấu. Tôi không thể nào trở lại, vào gặp bất-thường mà xin cho Song, bởi lẽ Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương bận rất nhiều việc―có lần tôi thấy buổi chiều ông vẫn ở lại làm việc cho đến tối đêm―vả muốn vào gặp thì phải trình xin phép trước―mà tôi thì không phải là một người thân-cận của ông. Thế thôi.
Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên của E Khu I
Vì Đại-Úy X, Chánh Sở Nghiên+Kế tại E6 (Ngành Đặc-Biệt Khu I) của tôi, được Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, cử đi làm CHT/CSQG một Quận trong Vùng, tôi chọn một trong các đại-úy giảng-viên tại F4 (Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo Căn-Bản Khu I), là các sĩ-quan chưa giữ chức-vụ chỉ-huy, lên thay.
Tôi không quen biết ai, mà chỉ xét qua hồ-sơ cũng như nhận-xét của cấp chỉ-huy trực-tiếp là Trưởng F4, thấy họ đều tốt như nhau, nên tôi chọn Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên. Tuyên là người có nét chữ viết tay khá đẹp, viết nhanh như tốc-ký (phòng khi tôi cần đọc gấp cho anh viết một văn-bản gì), và là tín-đồ Đạo Ki-Tô (để chứng-tỏ là mình không kỳ-thị ai―Ngay chính một viên vệ-sĩ và hai viên tài-xế của tôi, tôi cũng chọn người theo Đạo Kitô).
Nhân dịp cuối năm, có đợt thăng-thưởng chung cho mọi người, tôi đề-nghị cho anh lên thiếu-tá.
Tôi đích-thân thảo một Phiếu Trìnhđặc-biệt, bảo Tuyên cho đánh máy ngay, ghi số, đóng dấu, rồi trao tận tay cho tôi ký, để sáng hôm sau tôi mang vào Sài-Gòn, định sẽ nhân lúc tường-trình công-việc với Đại-Tá Huỳnh Thới Tây thì trao cho ông mà xin cho Tuyên.
Rồi tôi lo làm hồ-sơ thuyết-trình đến khuya, sáng lại là lên phi-cơ, vào gặp Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương.
Khi tôi đã làm xong việc tại Bộ Tư-Lệnh/Ngành Đặc-Biệt, nhân-viên biệt-phái tiếp-phát văn-thư tại Sài-Gòn mới tìm đến nơi tôi tạm-trú ở Sài-Gòn mà trao Phiếu Trình nói trên.
Cũng như trường-hợp của Cao Viết Song, tôi không thể nào vào lại, xin riêng cho Nguyễn Văn Tuyên. Hồ-sơ (bình-thường) đề-nghị thăng cấp cho anh, nằm chung danh-sách với các ứng-viên khác, đã không qua lọt hội-đồng tuyển-lựa bình-thường tại Nha Viên-Chức/Tiếp-Trợ, vì không có kèm Phiếu Trình đặc-biệt của tôi―đáng lẽ, nếu có, thì có bút-phê chấp-thuận đặc-biệt của Trưởng Ngành rồi.
Một Đại-Úy Muốn Có Chức-Vụ Chỉ-Huy
Có một đại-úy, tôi không nhớ tên, trong số các giảng-viên tại F4, có vợ là người quen thân với vợ của Đại-Tá Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Khu I, đã nhờ bà này xin cho chồng mình được giữ chức-vụ chỉ-huy.
Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc ngỏ ý với tôi.
Tôi hứa là sẽ thu-xếp giùm.
Nhưng đối với Ngành Đặc-Cảnh thì việc đề-cử trách-vụ có phần khó-khăn hơn bên Sắc-Phục.
Ở Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, hồi đó, có sự thi-đua hoàn-tất bổ-nhiệm, ổn-định chức-vụ, giữa các Khối, Nha, Sở, Phòng; từ Trung-Ương xuống các địa-phương.
Trưởng Ngành Đặc-Biệt tại Bộ Tư-Lệnh không muốn bị chê là mình làm chậm, hoặc không chính-xác―nếu cứ thường-xuyên thay-đổi phương-vị người này, kẻ kia, nếu không có gì khẩn-thiết―tức là xáo-trộn hệ-thống quản-trị, thống-kê, kế-toán―vì mỗi chức-vụ (có hưởng phụ-cấp) đều cần được hợp-thức-hóa bằng một Nghị-Định của Bộ/Trung-Ương.
Rất tiếc là mãi rất lâu tôi vẫn chưa thể đề-cử anh được vào một vị-trí chỉ-huy nào, vì chưa có chỗ nào khuyết―điều này hẳn là không làm vừa lòng bà vợ, và ngay cả cấp chỉ-huy trực-tiếp hàng ngang của tôi tại Vùng này…
*
Vì mọi người rất sợ Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, không dám trình ông nhiều hơn những gì ông đã chỉ-thị, nên Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây cũng theo cách đó, ít ai dám hỏi nhiều hơn những gì ông đã nói ra.
Tôi nhớ có lần Đại-Tá Tây ra lệnh cho Cảnh-Sát Đặc-Biệt toàn-quốc báo-cáo về vấn-đề “giành lấn đất-đai”. Các nơi đua nhau thu-thập tài-liệu về chuyện chủ đất tranh-tụng nhau về bất-động-sản, công-thổ, tư-điền. Tôi hỏi Nha Tình-Báo (E1) là nơi phát ra lệnh ấy, thì trung-tá Giám-Đốc Nha ấy cũng chỉ nhắc lại lệnh của Cấp Trên như thế mà thôi.
Riêng tôi tự nghĩ chủ-quyền đất-đai là một hộ-sự, không thuộc Cảnh-Sát Quốc-Gia―coi về hình-sự―huống gì Ngành Đặc-Biệt là cơ-quan chính-sự. Chắc-chắn là việc Việt-Cộng nhân dịp ngưng bắn theo Hiệp-Định Parismà lấn chiếm lãnh-thổ ở vùng xôi-đậu, nên đã bảo riêng các Tỉnh/Thị tại Vùng I tường-trình thêm về vụ này. Quả-nhiên, trong buổi họp tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương mà Đại-Tá Tây cho mời cả các Phụ-Tá Đặc-Biệt cấp Tỉnh/Thị tại Khu I vào dự, tất cả các Chánh Sở Đặc-Cảnh liên-hệ đều thuyết-trình giống như tài-liệu cấp Vùng của tôi; lúc đó mới biết là đúng nhu-cầu của ông.
Do đó, tôi không biết―vì hẳn Trung-Tá Phạm Văn Ca cũng không hỏi nên không biết―thực-sự Chuẩn-Tướng Tây muốn tôi trình-bày những gì.
*
Cuối cùng tôi được mời vào gặp Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây.
Ông cười hỏi tôi:
– Anh ngạc-nhiên lắm hả?
Tôi chưa biết phải nói gì thì Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương đã nói ngay:
– Chính tôi mới là người ngạc-nhiên, về anh.
“Ở Vùng I: Chánh Sở An-Ninh Quân-Đội đề-cao anh; Tham-Mưu-Trưởng Quân-Đoàn & Quân-Khu khen-ngợi anh; Trung-Tướng Tư-Lệnh Ngô Quang Trưởng ban-thưởng Anh-Dũng Bội-Tinh cho anh 3 lần, 2 với ngôi sao bạc, 1 với ngôi sao vàng. Cộng chung, tại Vùng I, cũng như tại Vùng II, ngoại-trừ các sĩ-quan quân-đội biệt-phái qua, thì anh là sĩ-quan Cảnh-Sát có nhiều huy-chương nhất, cả các loại của các quân-chủng bên quân-sự lẫn các loại của các Bộ bên dân-chính, và các loại huy-chương của Cảnh-Sát Quốc-Gia.
“Ở Trung-Ương: tôi hỏi các phụ-tá của tôi, Giám-Đốc các Nha, thì không ai chê-trách gì anh, mà họ còn tỏ ra quý-mến anh.
“Tôi đã phái Trung-Tá Phạm Trọng Tú, Thanh-Tra-Trưởng, ra tận nơi dò xét về anh, nhưng không tìm thấy điều gì sai trái, chỉ toàn ưu-điểm mà thôi…”
Ông cười, khiến tôi―từ chỗ thoạt đầu lo-ngại, tiếp đến ngạc-nhiên, rồi là vui-mừng―cũng cười theo ông.
Rồi ông đứng dậy, khiến tôi cũng đứng dậy theo.
Ông kết-luận:
– Tôi chỉ trực-tiếp trắc-nghiệm, để anh tự mình nói ra, rằng mình đã có làm gì bậy-bạ hay không. Mà không thì là tốt rồi. Thiếu-Tướng Tư-Lệnh cũng có đường dây kiểm-soát riêng, và cũng nhận thấy là anh có tài, có công, có tư-cách, đáng được tưởng-thưởng. Thiếu-Tướng đã ra lệnh thăng cấp cho anh vào “Ngày Cảnh-Lực” 1-6-1975* này. Bộ Tư-Lệnh đã dự-trù sẽ bổ-nhiệm anh vào một chức-vụ nào đó, quan-trọng và xứng-đáng hơn cương-vị hiện-thời.
“Thôi, chúc mừng anh. Tiếp-tục cố gắng.
“Và vui-vẻ ghé Nha-Trang thăm gia-đình nha!”
*Ngày ấy chưa đến thì Việt-Nam Cộng-Hòa đã tiêu-vong.
Cựu Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Biệt toàn-quốc (mà tôi gọi làTư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương), sau ngày mất nước, đau nỗi đau chung, đã lặng-lẽ ẩn mình trong bóng tối, không xuất-hiện nơi công-cộng, không tuyên-bố, phát-biểu điều gì.
Ông mất tại Westminster, CA, USA, ngày 12-9-2010, hưởng-thọ 78 tuổi.
GHI THÊM:
Lê Xuân Nhuận là người đầu tiên được Cấp Trên cho riêng tiền-mặt (trao tay mỗi tháng $20,000.00), để tùy ý thuê nhà mà ở, khi thuyên-chuyển ra Vùng I, suốt một-năm-rưỡi sau cùng của mình tại Quân-Khu I mà cũng là một-năm-rưỡi sau cùng của VNCH tại vùng địa-đầu này.
9th century sandstone Shiva Linga discovered in Vietnam
A team from the Archaeological Survey of India have announced the discovery of a monolithic sandstone Shiva Linga dating from around the 9th century AD in the Quảng Nam province, Vietnam.
The Archaeological Survey of India is an Indian government agency attached to the Ministry of Culture that is responsible for archaeological research and the conservation and preservation of cultural monuments.
The discovery was made during a conservation project at Mỹ Sơn, an archaeological site consisting of Hindu temples constructed between the 4th and the 14th century AD by the Kings of Champa, an Indianised kingdom of the Cham people.
The Mỹ Sơn temple complex is regarded as one of the foremost Hindu temple complexes in Southeast Asia and is recognised as a UNESCO world heritage site.
The linga, also called a lingam is an abstract or aniconic personification of Shiva in Shaivism and is generally the primary murti image in a Hindu temple dedicated to Shiva. Lingam iconography is often found at archaeological sites of the Indian subcontinent and southeast Asia that includes simple cylinders set inside a yoni.
The External Affairs Minister for India, S. Jaishankar said: “A great cultural example of India’s development partnership.”
KONELSKO thường đến thưởng-ngoạn phong-cảnh tại Chùa Non-Nước, một kỳ-quan của Ðà-Nẵng–Quảng-Nam.
Ở đây có chùa Phật-Giáo với các nhà-sư; có động thạch-nhũ; có hang sâu; có thủ-công-nghệ biến đá non thành đồ dùng và đồ trang-trí đẹp, lạ và quý; có nhiều lối đi quanh-co vắng-vẻ thích-hợp với những cuộc hẹn-hò riêng-tư. Ban ngày thì khách du-lịch, khách hành-hương, và khách vãng-cảnh tới+lui tấp-nập. Một số cư-dân địa-phương sống nhờ bằng nghề buôn bán thức ăn, thức uống, nhang, đèn, trầm, đồ chơi, đồ kỷ-niệm; chuyên-chở và giữ xe. Ban đêm thì cả vùng im-lặng, vắng hoe; có tin là Việt-Cộng giả-dạng thầy-tu thỉnh-thoảng có đến hoạt-động trong khu-vực này.
TÔI đi thăm Chùa Non-Nước, có để ý thấy ở vùng chân núi, gần bãi đậu xe, có một tu-sĩ trẻ tuổi ― hay chỉ là một thanh-niên cạo trọc đầu ― mặc bộ đồ vàng của nhà-sư, thường lảng-vảng xung quanh. Có tin nói rằng đó là một người điên; lại có tin cho rằng đó là một phần-tử trốn quân-dịch; nhưng tôi không có lý-do gì hoặc cơ-hội nào thuận-tiện để xét hỏi giấy-tờ, lý-lịch của anh-ta; vì anh-ta mặc-nhiên là một nhà tu-hành ở chùa, hơn nữa, chưa có hành-vi gì sai+trái.
Chúng tôi tránh gây bất-bình cho các giáo-hội, đoàn-thể, quan-nhân. Ni-sư Huỳnh Liên là một tay sai của Việt-Cộng ở giữa Thủ-Ðô Saigon, hoạt-động công-khai, mà cả guồng máy đầu-não của hệ-thống An-Ninh Tình-Báo trung-ương trong đó còn chưa thể làm gì được, huống gì.
MỘT buổi chiều nọ, Konelsko đi Chùa Non-Nước.
Theo báo-cáo của Toán Ðặc-Nhiệm theo dõi Ủy-Hội Quốc-Tế thì ông-ta có lời-lẽ hay cử-chỉ khiếm-nhã thế nào đó đối với một số người địa-phương, nên nhà-sư trẻ tuổi kia mới đến dùng tiếng Anh cãi-vã với ông-ta; cuối cùng, viên đại-tá Trưởng Phái-Ðoàn Ba-Lan phải trở vào xe giục tài-xế lái chạy để khỏi bị nhà-sư tấn-công; nhưng nhà-sư ấy vẫn rượt đuổi theo, dùng tay và răng xé nát lá cờ Ủy-Hội Quốc-Tế (ICCS) cắm trước đầu xe.
Nhân-viên của tôi là nhân-viên chìm, không có quyền-hạn can-thiệp vào những việc đó.
Tìm hiểu, chúng tôi được biết tên thật của nhà-sư kia là Nguyễn Văn Ðồng. Anh-ta tuy còn trẻ tuổi nhưng có tư-tưởng cấp-tiến về nhiều vấn-đề đương-thời.
Chúng tôi tin rằng trong vụ đụng-chạm với nhà sư trẻ tuổi ở Chùa Non-Nước, phần lỗi về phía Ðại-Tá Konelsko.
Ông-ta đã từng kiếm cách gây sự với Chính-Quyền địa-phương.
Vụ từ-khước treo quốc-kỳ Việt-Nam Cộng-Hòa vào ngày quốc-khánh của ta (xem bài “Ngày Quốc Khánh 1-11-1973”) được xem là thái-độ khẳng-định lập-trường chính-trị của cả hai đảng cộng-sản Ba-Lan và Hung Gia Lợi, bất-chấp lễ-tục ngoại-giao.
Konelsko cũng trực-tiếp chọc ghẹo chúng tôi.
Có một lần ông-ta đi bộ dạo phố; trên đường Nguyễn Thị Giang, ông-ta nhét vào hộp thư Bưu-Ðiện dọc đường một bì thư, dăm phút trước giờ Bưu-Tín-Viên đến lấy thư mang về Bưu-Cục. Nhân-viên giám-thị báo-cáo là sau đó ông-ta đã đến đứng nấp sau một góc đường quan-sát xem thử mật-viên ― mà ông-ta tin là đã theo dõi, có thấy ông-ta bỏ bì thư vào ― có đến hỏi thăm về bì thư kia hay không.
MỘT lần kia, Konelsko đi dạo phố chơi. Ông-ta đã bị kẻ gian rút mất cái bóp. Sau đó, ông-ta tiết-lộ với cô Lan là sẽ nêu vụ này ra trước phiên họp chung với Phái-Ðoàn Việt-Nam Cộng-Hòa trong Ban Liên-Hợp Quân-Sự (lý-thuyết là 2-Bên, nhưng thực-tế chỉ là 1-Bên, vì Việt-Cộng không đưa đại-diện đến làm việc trong Ban này).
NGUYỄN-THỊ-LAN là một thiếu-nữ đẹp, ký-sự tại khách-sạn “Hồng Kông” do Hãng Thầu thuê riêng cho hai Phái-Ðoàn cộng-sản ở, phụ-trách tiếp-nhận để đáp-ứng các nhu-cầu của khách trọ liên-quan đến các vấn-đề chỗ ở, đồ ăn, thức uống, vệ-sinh, giặt+ủi, xe-cộ, tài-xế, thư-từ, khách-khứa, v.v… Nói tiếng Anh giỏi, kiến-thức khá, thông-minh, lanh-lợi, thùy-mị, duyên-dáng, bặt-thiệp, tháo-vát, cô Lan được mọi thành-viên của cả hai Phái-Ðoàn nói trên mến chuộng. Nhưng, lẽ thường-tình, đã có các Trưởng Phái-Ðoàn là sĩ-quan cao-cấp, lại có các thông-dịch-viên ― là thành-viên quan-trọng, vì luôn luôn gần-gũi với thượng-cấp cũng như các giới-chức cao-cấp đại-diện các quốc-gia hoặc tổ-chức khác ― nên các thành-viên khác chỉ tiếp-xúc/nhờ-vã Lan trong những việc bình-thường mà thôi; còn chuyện tâm-tình nam-nữ thì hiển-nhiên chỉ dành cho các Trưởng Phái-Ðoàn và các thông-dịch-viên ― vốn hay lợi-dụng cơ-hội để chiếm nhiều thì-giờ trò-chuyện làm thân với Lan hơn.
Thông-Dịch-Viên của Phái-Ðoàn Ba-Lan lúc đó là Interski. Anh-ta là một thanh-niên đẹp trai, tất-nhiên nói giỏi tiếng Anh, giao-tiếp rộng, hiểu biết nhiều, hào-hoa phong-nhã. Những lúc làm việc thì anh-ta mặc quân-phục với cấp-bậc trung-úy; nhưng tin-tức điệp-báo cho biết anh-ta là một cán-bộ tình-báo xuất-sắc, được KGB của Liên Xô đào-tạo. Tôi tin điều đó là đúng sự thật, nhưng rất ngạc-nhiên vì chính anh-ta… đã phạm rất nhiều sơ-hở. Trên thị-trường Ðà-Nẵng có nhiều loại hàng tơ lụa rất đẹp, rất tốt, của các nước tư-bản nhập vào; kỹ-thuật may-đo của người Việt-Nam rất cao, và tiền công tương-đối rẻ. Interski đã ra phố đặt may khá nhiều áo quần hợp thời-trang; và may cả quân-phục bằng hàng Tây-Phương, màu thổ-huỳnh, màu ô-liu, và cả màu trắng nữa. Dân-chúng địa-phương hầu như không để ý gì, vì họ xem chung mọi người ngoại-quốc đều là ngoại-nhân, ăn mặc thế nào là việc riêng của quân-đội quốc-gia liên-hệ; song cấp chỉ-huy trực-tiếp là Ðại-Tá Konelsko thì mặc-nhiên chấp-thuận ― hay là chịu đựng ― cho thông-dịch-viên của Phái-Ðoàn mình lần này thì mặc đồ Bộ-Binh, lần sau thì khoác áo Hải-Quân, và lần sau nữa thì đội lốt Không-Quân!
Trong phòng-khách khách-sạn “Hồng Kông”, tối nào các Trưởng Phái-Ðoàn và Sĩ-Quan Ðiều-Hành cùng thông-dịch-viên của cả hai Phái-Ðoàn cũng chiếm mấy cái ghế bên quầy rượu ở chỗ gần cô Lan nhất, ngoại-trừ những khi có người nào bận việc gì khác thì mới vắng mặt. Và thường thường thì về khuya chỉ còn lại một người, khi thì người này, khi thì người kia, rỉ-rả chuyện-trò với cô Lan. Ðó là lúc mà Lan có thể hỏi dò gần xa những điều mà tôi muốn biết, đồng-thời thổ-lộ những điều mà tôi muốn cho họ biết. Tôi muốn tìm hiểu và điều-khiển ý-nghĩ và tình-cảm của họ.
SAU khi được Lan báo-cáo rằng Konelsko có ý-định bêu xấu Chính-Quyền Việt-Nam Cộng-Hòa đã để xảy ra vụ móc túi giữa ban ngày trong thành-phố, tôi liền phản-công ngay. Tôi nhờ Biệt-Ðội Hình-Cảnh thuộc Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Thị-Xã Ðà-Nẵng truy-tầm ― và bộ-phận này đã thu-hồi lại được và giao cho tôi cái bóp của ông-ta. Tôi liền cho nhân-viên viết một bức thư bằng chữ Anh, bỏ vào phong bì, đề gửi cho Ông Konelsko. Cái bóp và bức thư ấy được giao cho Lan cùng với chỉ-thị thi-hành.
Khi Konelsko đi chơi về thì Lan đưa riêng cho ông-ta cái bóp và bức thư; Lan nói là của một người đem đến, dặn đưa riêng cho Ô. Konelsko. Ông-ta vội-vã nhét cái bóp vào túi quần và bức thư vào túi áo, rồi đi nhanh lên buồng ngủ; chắc-chắn là để kiểm-soát lại bên trong cái bóp và đọc bức thư.
Kính gửi Ông Konelsko,
Tôi gửi trả lại Ông cái bóp và tất cả những gì vốn có trong đó của Ông.
Ðừng hỏi tôi là ai, lấy cái bóp của Ông ở đâu, lúc nào, cách nào, và để làm gì. Vì nếu trả lời rằng tôi là kẻ móc túi, móc lấy cái bóp ở người có bóp, vào lúc người ấy thì không cảnh-giác mà tôi thì cũng run-sợ, để có chút tiền dùng tạm cho bản-thân…, thế thì: trên mặt đất này hiện có những kẻ cấu-kết với nhau thành một đảng lớn, dùng vũ-lực và bạo-lực công-khai chiếm-đoạt hết tài-sản của toàn-dân toàn-quốc, còn ngang-nhiên bóc-lộc sức lao-động và trắng-trợn tước-đoạt hết tự-do, nhân-phẩm và quyền làm người của mọi người, để xây-dựng một chủ-nghĩa không-tưởng, trong đó Ông là một thủ-phạm đồng-thời cũng là một nạn-nhân (vì Ba Lan cũng là nạn-nhân của Nga-Xô) thì, giữa tên móc túi hèn-mọn và lũ đạo-tặc ngạo-mạn, Ông kết tội ai?
Nhưng thôi, tôi không triết-lý rẻ tiền.
Ông chỉ cần tự hỏi:
Nếu cấp-trên và cơ-quan tình-báo của Ông biết được vụ này, thì Ông sẽ phải trả lời thế nào, vì đã để cho ít nhất là một số giấy-tờ cá-nhân trong cái bóp ấy lọt vào tay người ngoài, và biết đâu người-ta sẽ không nghi-ngờ là Ông giả-vờ sơ-ý để bị móc túi, một cách để gián-điệp địch đóng vai kẻ móc túi mà tiếp-nhận những gì của Ông cố ý trao cho…
TỐI ấy, Konelsko xuống phòng-khách muộn. Hẳn-nhiên ông-ta đã suy-nghĩ nhiều về nội-dung bức thư. Vấn-đề không phải là Cảnh-Sát Việt-Nam Cộng-Hòa, mà là thông-dịch-viên dưới quyền của ông-ta.
Và thế là Konelsko không còn tinh-thần nào để đòi phàn-nàn Việt-Nam Cộng-Hòa về nạn móc túi giữa đường.
TÔI mới móc nối được các nhân-viên của Hãng Thầu sau ngày tôi đến Vùng I (26-9-1973), nhưng họ đã làm việc ở khách-sạn “Hồng Kông”, nghĩa là đã tiếp-xúc với các thành-viên Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi, từ sau Hiệp-Định Paris (27-1-1973), tám tháng trước rồi. Thời-gian ấy hẳn đã đủ cho Ðại-Tá Konelsko, là Trưởng Phái-Ðoàn Ba-Lan, Ðại-Tá Guy Nagy, là Trưởng Phái-Ðoàn Hung-Gia-Lợi, và thông-dịch-viên Interski của Ba-Lan, có thể bạo-dạn để tỏ tình với cô Lan. Ðối với các vũ-nữ, chiêu-đãi-viên phòng trà, chỉ cần một chầu nhảy, một chầu uống, đôi khi chỉ cần một người trung-gian giới-thiệu, là ai cũng có thể có được một người bạn dục-tình chốc-lát hoặc qua đêm. Nhưng đối với cô Lan, một mẫu người đoan-trang thanh-khiết, các cây si ngoại-quốc ấy không thể nào mời được Lan đi chơi; dù liều-lĩnh lắm cũng không thể nào cầm được bàn tay của cô-ta. Càng gặp khó-khăn, tình-cảm của họ càng tha-thiết; họ làm đủ cách để chinh-phục trái tim của Lan, kể cả nói hết từ chuyện cá-nhân, chuyện gia-đình, đến chuyện xã-hội, chuyện chế-độ.
Tôi thì chỉ cần có thế. Những vụ Nga-Xô đem quân qua Vác-Xô-Vi, Buy-Ða-Pét, từ thập-niên 1950, tước-đoạt chủ-quyền của Ba-Lan, Hung-Gia-Lợi, được Lan nêu ra như là một thắc-mắc của người ngoài cuộc; bên ngoài là để được nghe ý-kiến của người trong cuộc xem thử có gì khác với dư-luận Tây-Phương hay không; nhưng bên trong là để khơi dậy tinh-thần dân-tộc, lòng ái-quốc ở những con người vốn luôn luôn nói đến nghĩa-vụ và quyền-lợi của người dân, và không quên tự cho mình là thành-phần tiên-tiến. Khi tìm hiểu đời sống bên trong bức màn sắt, Lan đã nhắc-nhở xa gần đến cảnh ngược lại trên phần đất tự-do của thế-giới ngày nay.
Trước người đẹp, các người đàn-ông đều muốn tỏ ra là mình nổi bật hơn người khác về mặt này hay mặt kia. Lan đã lợi-dụng nhược-điểm ấy để tạo nên một không-khí căng-thẳng giữa Konelsko và Inteski.
Viên đại-tá thì đã có lần nói thẳng với Lan: “Nó ở dưới quyền của tôi, tôi có thể tống-khứ nó đi nơi khác bất-cứ lúc nào!”
Còn viên thông-dịch thì cũng đã có lần hé lộ với Lan: “Tôi chẳng sợ gì ông- ta; ông-ta không làm gì tôi được đâu, mà trái lại là đằng khác!”
KONELSKO dặn Lan đừng nói với ai về việc ông-ta bị mất cái bóp. Ông-ta nói rằng đã được trả lại rồi thì xem như không hề bị mất. Ngần-ngại một lát, ông-ta hỏi: “Lúc cái bóp và bức thư được đưa đến, có ai thấy không?”
Cô Lan biết rõ là ông-ta rất sợ bị Interski trông thấy; nếu thấy, anh này sẽ hỏi và sẽ biết, và sẽ đặt vấn-đề y như “tên móc túi” đã viết trong bức thư.
Lan giả vờ cố nhớ lại, rồi đáp: “Không.”
Konelsko có thể nghĩ là Lan giấu mình; nhưng ông-ta cũng có thể nghĩ là cô-ta nói thật, song vẫn có thể là cô-ta sẽ kể lại cho viên thông-dịch nghe.
Như thế thì ông-ta càng cần phải mua chuộc cảm-tình của cô-ta hơn.
Nhờ đó, Lan củng-cố thêm cái lợi-thế của mình.
TÔI cho báo tin cho Lan biết về vụ lá cờ Ủy-Hội Quốc-Tế bị xé ở Chùa Non-Nước, và chỉ-đạo cách hành-động cho Lan.
Khi Ðại-Tá Konelsko trở về khách-sạn thì lá cờ rách không còn. Chắc hẳn ông-ta đã cho ngừng xe dọc đường mà lấy giấu đi rồi. Cờ thì còn nhiều trong tủ, cũng như quốc-kỳ hai nước, băng đeo tay áo: cần thì lấy dùng, không ai để ý. Cuối tuần, cũng như ngoài giờ làm việc, ai muốn đi đâu thì đi; và lần này thì viên đại-tá chỉ đi một mình nên không có thành-viên nào khác chứng-kiến việc xảy ra. Nhưng ông-ta vẫn sợ viên tài-xế kể lại rồi đến tai viên thông-ngôn. Ông-ta không tiện dặn-dò gì viên tài-xế, vì ông-ta không muốn tỏ lộ là mình lo-ngại về việc xảy ra; hơn nữa, tài-xế là của Hãng Thầu phái đến, ông-ta không có quyền gì đối với người ấy, khi mà người ấy không phạm lỗi gì.
TỐI đó, cô Lan phải khơi chuyện trước, vì Konelsko tưởng là cô-ta không biết nên không đả-động gì. Khi Lan hỏi về chuyện gì đã xảy ra, thì ông-ta hỏi lại là cô-ta đã nghe những gì. Thế là Lan tha-hồ bịa chuyện. Theo lời Lan kể thì người hàng-xóm làm nghề chở thồ xe Honda-2-bánh tình-cờ có mặt tại chỗ và đã nghe thấy đầu đuôi mọi sự:
Lúc đầu, viên đại-tá Ba-Lan hỏi những người làm nghề linh-tinh quanh bãi đậu xe: sao không lập thành Nông-Hội, đòi hỏi nhà-nước cấp đất ― vì đất bỏ hoang còn nhiều ― để trồng-trọt, chăn nuôi, sản-xuất. Có người trả lời là muốn làm nông thì phải ở vùng ngoại-ô; mà ở vùng vắng thì bị Việt-Cộng cưỡng-thu sản-phẩm, bắt đi tải đạn, đào đường chôn mìn, đời sống bất-an. Ông-ta lại hỏi những người chở thồ xe Honda sao không lập thành Công-Ðoàn, phân-định phiên chuyến đón khách, đảm-bảo quyền-lợi công-bằng. Có người trả lời rằng đây là nghề tự-do, ai cần nhiều tiền thì chở nhiều chuyến, ai muốn nghỉ-ngơi thì dù được trả nhiều tiền cũng không nhận lời; vả lại, hành-khách gặp đâu đón đó, đâu cần đến bến. Ông-ta liền chê là xã-hội này vô-tổ-chức, con người ở đây vô-kỷ-luật. Do đó, nhà-sư trẻ tuổi mới lên tiếng can-thiệp. Vị tu-sĩ nói: “Tổ-chức và kỷ-luật là để tạo nên trật-tự hài-hòa trong đó con người có tự-do và hạnh-phúc, chứ không phải để thủ-tiêu tự-do và tước-đoạt hạnh-phúc của con người như trong xã-hội cộng-sản. Người cộng-sản như các ông thì làm sao mà hiểu được cái quy-củ đa-nguyên của cuộc đời. Chính những lề-lối tưởng như vô-trật-tự đó chính nó mới là trật-tự nhân-bản và trường-cửu.”
Người cộng-sản Konelsko lâu nay chỉ học lý-thuyết Mác+Lê một chiều, hôm nay mới nghe những tư-tưởng lạ, chưa biết đối đáp ra sao, thì nhà-sư trẻ tuổi đã dồn-dập chất-vấn: “Các ông là Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Ðình-Chiến, tại sao Việt-Cộng pháo-kích vào khu dân-cư, đặt chất nổ giết hại đàn-bà và trẻ-con vô-tội, các ông đã đến tận nơi, đã thấy tận mắt, mà các ông không lên án, không cảnh-cáo, cũng không chịu ký tên vào biên-bản ghi-nhận sự-kiện, mặc dù các thành-viên Ba-Tư và Nam-Dương đã ký?” Viên đại-tá Ba-Lan đáp lại: “Chúng tôi có đường-lối chính-sách của chúng tôi, mọi người làm việc trong tinh-thần kỷ-luật, theo hướng chỉ-đạo của tổ-chức…” Người thanh-niên trong lớp áo tu-hành giận dữ thét lên: “Thế nghĩa là các ông không cần kiểm-soát, giám-sát gì cả! Ðầu óc của các ông đầy định-kiến, và việc làm của các ông đã được tiền-chế: bất-cứ việc gì xảy ra cũng là do lỗi của phía Quốc-Gia; bao giờ Việt-Cộng cũng đúng! Vậy thì sự hiện-diện của các ông ở đây là thừa: các ông hãy cút ra khỏi đất nước này đi!” Ðại-Tá Konelsko dịu giọng, đưa hai bàn tay ra trước, ra vẻ khẩn-cầu người đối-diện hãy bình-tĩnh: “Tôi rất thông-cảm nỗi lòng của ông, nhưng hiện nay tôi không thể làm gì khác được…” Nghe thế, nhà sư trẻ tuổi…
Ngang đây, viên đại-tá Ba-Lan không chịu nổi nữa, nhăn mặt, lắc đầu, cắt lời cô Lan: “Không đúng sự thật! Tôi không nói thế!” Lan cũng đưa tay chận lại: “Nhưng người-ta kể lại với nhau như thế!”
Cả hai nhìn nhau: Konelsko thì vừa tức-bực, vừa lo-lắng, Lan thì làm như thành-thật chia sớt nỗi ưu-phiền của ông-ta.
Im-lặng một lát rồi viên đại-tá đành phải nói ra điều mà ông-ta bận-tâm: “Interski đã biết gì về chuyện này chưa?” Cô Lan chưa nghe gã thông-dịch-viên ấy nói gì, nhưng chụp dịp may để thực-hiện mục-đích của mình: “Anh ấy có hỏi tôi xem đại-tá đi đâu, làm gì, có gì đặc-biệt không?”
Konelsko cố gắng đè-nén nhịp thở:
― Rồi cô nói sao?
― Tôi nói là đại-tá đi chơi như mọi lần, không có gì khác lạ cả.
Viên Trưởng Phái-Ðoàn Ba-Lan thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Ông-ta quên mất thái-độ giữ ý của cô Lan, đặt tay lên tay cô-ta biểu-lộ lòng cám ơn; nhưng Lan đã rút tay lại. Cô-ta đã nắm được cái thế chủ-động cần-thiết, nên phát-biểu thẳng thừng:
― Cấp-dưới mà dò xét cấp-trên; làm lớn mà vẫn bị nghi-ngờ!
Sau đó là lần lần một số tin-tức quan-trọng về nội-tình Ðảng, Nhà-Nước, và Quân-Ðội Ba-Lan, kể cả mối quan-hệ giữa Ba-Lan với Nga-Xô và các nước cộng-sản khác, Liên-Minh Quân-Sự Vác-Xô-Vi, đã được cô Lan thu-thập trực-tiếp từ miệng của Konelsko cũng như Interski.
NHỮNG tin-tức tình-báo ấy không có giá-trị khai-dụng đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, nhưng rất hữu-ích đối với Người Bạn Ðồng-Minh của tôi.
Ðể có thể đi sâu và tiến xa hơn, tôi gợi ý cô Lan giả-vờ chấp-nhận làm bạn tâm-tình với Ðại-Tá Konelsko.
Tôi thấy rõ cô-ta đã rán tự-chế-ngự để vẫn giữ lễ-phép từ-khước ý-kiến của tôi. Bạn tâm-tình không phải là bạn dục-tình. Nhưng theo lối sống châu Âu của viên đại-tá Ba-Lan, dù là cộng-sản, thì ông-ta cần có một bạn gái; để chia-sẻ tâm-tình thì một phần, mà để trao-đổi dục-tình thì toàn-phần. Ðiều mong ước của ông-ta là có được một bạn gái dành riêng cho mình, có nhan-sắc nổi bật, và có xuất-xứ lương-hảo, để có thể hãnh-diện với mọi người xung quanh. Ngược lại, trong bối-cảnh xã-hội Miền Nam Việt-Nam đương-thời, tuy có một số bị ảnh-hưởng của văn-hóa Âu Tây, nhưng phần lớn vẫn còn thấm-nhuần luân-lý Á-Ðông, cô Lan không thể có một cử-chỉ nào thân-thiết hơn đối với người đàn-ông con-trai nào, nhất là người nước ngoài ― ngoại-trừ trường-hợp cô-ta thật-sự yêu. Ít nhất thì cũng có vài ba nhân-viên người Việt-Nam làm việc trong khách-sạn; nhất-cử nhất-động đều bị dòm ngó, dùng làm đề-tài kháo miệng với nhau, người con-gái khó kiếm được chồng đường-hoàng trong tương-lai.
Tôi quý mến tính-tình đứng-đắn của Lan, và tôn-trọng quyết-định của cô-ta trong vấn-đề này. Tôi bằng lòng giới-hạn sự giao-tiếp của cô-ta trong chừng-mực ấy mà thôi, mặc dù như thế thì công-tác khó thể tiến xa hơn.
NHƯNG đối với Konelsko thì tôi vẫn đẩy ông-ta đi xa hơn. Ông-ta phải ly-khai và chống lại Ðảng Cộng-Sản Ba-Lan, Khối Cộng-Sản Quốc-Tế. Không phải bằng cách công-khai xin tị-nạn chính-trị, tức là hồi-chánh, mà là bí-mật tiếp tay với Thế-Giới Tự-Do từ trong lòng kẻ thù. Lòng tự-ái dân-tộc là yếu-tố tinh-thần. Phương-tiện sống là yếu-tố vật-chất. Có thêm tình-cảm cá-nhân nữa là đủ.
Ðể đánh dấu chặng đường cô Lan đã đi được, sáng hôm sau cô-ta gọi điện-thoại đến trụ-sở Ủy-Hội Quốc-Tế hỏi ý-kiến viên đại-tá Ba-Lan xem ông-ta có cần sửa-chữa gì hệ-thống điện+nước trong buồng riêng không, vì có thợ đến làm việc. Ðó là một ngụy-thức do chính Konelsko đặt ra, để cô Lan cho ông-ta biết gấp những gì liên-quan đến ông-ta. Lát sau, Konelsko trở về khách-sạn một mình. Lan nói: “Có một ký-giả Việt-Nam đến xin gặp riêng để phỏng-vấn đại-tá về vụ lá cờ chiều qua.” Konelsko sửng-sốt, không kịp nhận ra là từ trước đến nay chưa hề có một ký-giả Việt-Nam nào tìm gặp Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi cả. Ông ta vội-vàng xua tay: “Không được đâu! Cô nói giùm là tôi rất bận; tôi sắp phải bay đi nhiều nơi trong nhiều ngày.”
Cô Lan rót một ly rượu để lên mặt quầy, nói “Tôi mời ông” rồi ra dấu cho viên đại-tá Ba-Lan chồm đến gần, nói nhỏ: “Tôi có thể giúp ông, vì ở đây chỉ có một ký-giả ấy mà thôi, và tôi có quen anh-ta.”
― Vâng, cô giúp tôi.
― Nếu không thì dư-luận sẽ bàn-tán ồn-ào, đến tai cơ-quan tình-báo và cấp-trên của ông: ông sẽ bị quy chụp nhiều khuyết-điểm. Ông là một nhân-vật quan-trọng, đại-diện Cộng-Sản Quốc-Tế, mà khi đối-đáp với một phần-tử “phản-động” tầm-thường đã không vận-dụng được lý-thuyết Mác+Lê để đánh bại tư-tưởng thù-nghịch, lại còn phát-biểu là rất thông-cảm với tâm-trạng của kẻ chống mình…
Konelsko phác một cử-chỉ: “Nhưng…”
Nhưng Lan đã vội cắt lời: “Vâng, tôi biết, tôi biết là đại-tá sẽ nói là đại-tá không hề có những lời-lẽ như thế. Tuy nhiên, có ai bênh-vực đại-tá đâu? Ở đây ai cũng tin là Ðại-Tá Konelsko đã sống thành-thật với mình…”
Cô Lan đặt tay lên bàn tay của viên Trưởng Phái-Ðoàn Ba-Lan, làm ông-ta mất tự-chủ.
Cô-ta nói tiếp: “Tôi hiểu trong thâm-tâm đại-tá cũng muốn nói như thế, còn muốn nói nhiều hơn thế nữa. Cuộc đời của đại-tá đâu phải chỉ quanh-quẩn trong chừng đó khuôn khổ. Những trói buộc khắt-khe nhân-danh tập-thể thực ra đâu có hủy-diệt được ý-hướng tự-do trong tiềm-thức và cả ý-thức của mỗi một con người. Ông hãy nói, ông hãy khẳng-định với tôi đi, ông có phải là một con người yêu Tự-Do, quý Tự-Do, hay không?”
Konelsko gật đầu.
Lan chộp lấy: “Ðấy, ông gật đầu, ông xác-nhận. Có thế chứ. Tôi rất kính trọng những người biết trọng Tự-Do như ông. Ðó là lý-do tại sao tôi không thích Interski: anh-ta mù-quáng, bị lợi-dụng làm công-cụ cho một thiểu-số để kìm-kẹp đồng-bào của mình. Nhưng, nghĩ cho cùng thì ở trên Cấp Trên trung-ương của anh-ta còn có cả một hệ-thống siêu-quyền-lực quốc-tế, nghe nói là KGB gì đó, phải không Ðại-Tá Konelsko?”
Konelsko đáp:
― Vâng, KGB là cơ-quan tình-báo của Liên-Xô.
Cô Lan mời: “Ðại-tá uống thêm một ly nữa?” Viên đại-tá Ba-Lan từ-chối: “Không, tôi đang trong giờ làm việc.”
Lan tiếp:
― Ông có nghĩ rằng sẽ có một ngày tình-hình sẽ tốt-đẹp hơn không?
Konelsko đáp:
―Có chứ!
Lan nhìn thẳng vào mắt ông-ta, nói khích: “Nghĩ như thế là một việc, mà có góp phần vào việc thay đổi như thế hay không lại là một việc khác!”
Viên Trưởng Phái-Ðoàn Ba-Lan nghiêm mặt: “Cô đánh giá tôi như thế nào?”
Cô nữ-thư-ký khách-sạn vội bóp mạnh trên mu bàn tay ông-ta: “Thế là đủ!”
Chưa bao giờ ông-ta thấy được một nụ cười rạng-rỡ như hôm nay, một nụ cười đơm trên môi mà còn tỏa ra trên mắt và nở khắp trên khuôn mặt duyên-dáng của Lan.
Cô-ta đưa tay xuống dưới mặt quầy, bấm tắt cái máy thu-phát-thanh tí-hon.
Bên ngoài chúng tôi đã thu đầy-đủ các lời đối-thoại vừa rồi.
TRONG lúc đó, tôi đi với Ðại-Úy Trần Văn Phú, Phó Chỉ-Huy Liên-Ðội Thám-Sát Ðặc-Biệt thuộc quyền tôi, đến bệnh-viện Tây Ðức, giả-vờ xin khám bệnh để quan-sát và chấm trước vài cô trong số các nữ-y-tá Cộng-Hòa Liên-Bang Ðức, mà Phú ― một tay bay-bướm ― đã quen biết và giới-thiệu với tôi.
Các cô này có đặc điểm là dễ-dàng thỏa-mãn dục-tình của người bạn trai; do đó, tuy giúp giải-quyết nhu-cầu sinh-lý tạm-thời cho Konelsko, song không có đủ sức nặng trong chiều sâu tâm-tình cá-nhân.
Tuy nhiên, họ có ưu-điểm là người ở nước láng-giềng, nếu cần thì dễ thông-tin liên-lạc với nhau hơn. Họ sẽ là những viên đá lót đường trong lúc chờ-đợi tôi tìm một Lan-thứ-hai cho Konelsko.
TRONG số những con mồi mà tôi đích-thân chấm-định, tôi đã lựa chọn cô Angela.
Là một thiếu-nữ Việt-Nam lai Ấn, có quốc-tịch Pháp, nhân-viên của Hãng Hàng-Không “Air America” ở phi-trường Nha-Trang, Angela có sắc đẹp mặn-mà, có phong-thái Tây-Phương, có sức thu-hút đàn-ông ngay phút gặp mặt đầu tiên, đã từng giúp tôi ― thời-gian tôi còn điều-khiển Đặc-Cảnh tại Vùng II ― phụ phần nghe-ngóng quan-sát, để phá vỡ trọn ổ một tổ-chức bí-mật của quân-đội Phi-Luật-Tân buôn lậu súng Mỹ tồn-kho tại Nha-Trang.
Tôi tổ-chức cho Angela được thuyên-chuyển từ Nha-Trang ra, đến khách-sạn “Hồng Kông” làm thư-ký phụ cho cô Lan, và chuyển-giao hoàn-toàn điệp-vụ này cho Người Bạn Ðồng-Minh…
MỘT thời-gian sau, Konelsko ra tay trừ-khử Interski.
Viên thông-dịch bị trả về nước.
Còn viên đại-tá thì sau đó được thuyên-chuyển vào Saigon; cô Angela cũng được Hãng Thầu điều-động đi theo.
*
CUỐI năm 1974, Người Bạn Ðồng-Minh cho tôi biết là Ðại-Tá Konelsko mãn-hạn công-tác tại “chiến-trường Việt-Nam” đã về Ba-Lan và đã được thăng lên cấp tướng.
Một tháng trước ngày thất-thủ tiền-đồn Ðà-Nẵng của Việt-Nam Cộng-Hòa (29-3-1975), Người Bạn Ðồng-Minh đãi tiệc cơ-quan Ðặc-Cảnh Vùng I, để mừng một số thắng-lợi khác của chúng tôi.
Trong lúc dự tiệc, Ðại-Tá Ferguson, viên-chức liên-lạc thường-nhật với tôi, đã ghé tai tôi nói nhỏ:
― Chúng ta đã thực-hiện được đường dây liên-lạc với Konelsko tại Vác-Xô-Vi rồi.
Lần này ra Huế tôi ngẫu-nhiên gặp lại Nguyễn Xuân Lại, một người bạn thân đã cách xa nhau từ hồi tôi bị phát-vãng ra khỏi Miền Trung.
Bây giờ Lại là giáo-sư, dạy Luật tại Viện Ðại-Học Sài-Gòn và một số Viện Ðại-Học khác.
Chuyến này anh ra Huế dạy tại Viện Ðại-Học Huế.
Khi đi ngang qua “Bót Cò” cũ, trước kia là trụ-sở của Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, nơi hai chúng tôi đã làm việc chung với nhau một thời-gian dài, cả Lại lẫn tôi đều hướng mắt nhìn vào.
Ở đó, chúng tôi đã có với nhau rất nhiều kỷ-niệm; nhưng cái kỷ-niệm đắng-xót nhất là cuộc tranh-luận giữa hai chúng tôi mà kết-quả là tôi lâm vòng gian-truân.
Lúc nãy, khi mới gặp lại nhau, Thêm đã nói ngay là anh rất buồn vì việc đáng tiếc xảy ra cho tôi ngày xưa. Giờ đây, có lẽ để xí-xóa chuyện cũ, anh nói qua chuyện mới:
– Mình được mời làm Thứ-Trưởng, nhưng mình chưa nhận.
Sự tiết-lộ ấy đã khiến tôi suy-nghĩ nhiều .
*
Năm 1951, chính-quyền Quốc-Gia Việt-Nam ban-hành chế độ quân-nhiệm, theo đó các viên-chức Cảnh-Sát Công-An được xem là công-chức nên cũng bị lần-lượt động-viên.
Nguyễn Xuân Lại vào thụ-huấn tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Sĩ-Quan Trừ-Bị ở Thủ Ðức; tôi vào làm việc tại Phòng Năm thuộc Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu ở Huế.
Cuối năm 1956, mãn nhiệm-kỳ quân-vụ, tôi trở về Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế và được cử giữ trách-vụ Trưởng Phòng Hành-Chánh kiêm Trưởng Phòng Huấn-Luyện. Tôi cũng kiêm-nhiệm Trưởng Ban Tổ-Chức và Thuyết-Trình-Viên các Lớp “Học-Tập Chính-Trị và Công Dân Giáo Dục” mà nội-dung và phương-thức điều-hành được ông Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu, bào đệ của Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, chỉ đạo cho toàn-quốc.
Tiếp-tục đem hết tâm-sức ra phụng-sự một lý-tưởng mả tôi hằng mơ, nhưng ở trong cơ-quan Cảnh-Sát là nơi hằng ngày tiếp-cận với mọi giới đồng-bào, tôi theo-dõi tình-hình sinh-hoạt của quần-chúng trên mọi lĩnh-vực tại địa-phương, tôi mới dần dần biết thêm, dù chưa đầy đủ, những điều chướng tai gai mắt, và cả những điều bất-nhân thất đức, do một số thân-nhân, gia-nhân, và thuộc-hạ của Diệm gây ra. Ðối với Ðảng Cần-Lao, đối với Ðạo Ky-Tô, cũng như đối với cả ba Ngành trong Chính-Quyền thời Ðệ-Nhất Cộng-Hòa, họ chỉ là thiểu-số; nhưng thiểu-số đó đã cậy thế họ Ngô mà giật dây các cơ-quan chấp-hành của chế độ, để áp-bức và hãm-hại lương dân, hầu thỏa-mãn tư-lợi hoặc tư-thù.
MỘT BUỔI LỄ CHÀO QUỐC-KỲ
Thuở đó, các công-sở và quân-cứ đều cử lễ Chào Quốc-Kỳ vào lúc bảy giờ rưỡi sáng mỗi ngày đầu tuần. Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Nguyên Trung-Phần cho nhân-viên trực-thuộc sắp hàng chỉnh-tề trước sân trụ-sở Nha năm phút sớm hơn.
Hôm ấy, toàn-thể viên-chức hiện diện đều vô cùng hoang-mang, và sau đó kể lại với mọi người sự-việc đã xảy ra.
Ô. Hồ Đắc Vang, Trưởng Ðội Biệt Ðộng thuộc Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, đem thuộc-hạ đến bao vây sân chào cờ tại Nha và gác chận trước đường, vào lúc đúng bảy giờ hai mươi lăm phút. Vang ra lệnh điểm-danh và đóng cổng trụ-sở. Lúc đó, Ô. Trần Văn Cư và Ô. Tôn Thất Dẫn, hai Chủ-Sự Phòng thuộc Nha, vừa đến nơi thì bị giữ lại bên ngoài. Viên Giám-Ðốc Nha ấy liền đứng ra hứa sẽ phạt hai viên-chức kia, và xin cho họ được vào vì còn kịp dự lễ chào cờ. Nhưng viên Trưởng Ðội thuộc Ty — là một nhân-viên dưới quyền và ở dưới nhiều cấp — đã không chấp-thuận. Vang điều-khiển lễ thượng-kỳ, hát quốc-ca và “suy-tôn Ngô Tổng-Thống”, xong chở Cư và Dẫn đến báo-cáo nội-vụ lên Văn-Phòng của “Cậu”, tức ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn, bào đệ của anh em Diệm+Nhu.
Vang là một trong số ít những phần-tử đến hầu “Cậu” thường-xuyên.
MỘT BUỔI HỌP TỐ KHỔ
Ô. Ngô Ðình Cẩn có một ngôi nhà nghỉ mát tại bãi bể Thuận-An.
Vì lý do an-ninh, chỗ nầy cách xa khu tắm bể của đồng-bào . Những ngày cuối tuần vào mùa hè, Cẩn thường về đó câu cá giải-trí. Sợ “Cậu” câu cá một mình thì buồn, một số nhân-vật tín-cẩn, hoặc muốn được thân-cận, bèn cùng đến đó câu cá, mong tạo bối-cảnh thân-mật cho ông. Trừ những người được ông sai phái hoặc giữ lại để chuyện-trò, số còn lại phải chọn chỗ nào không gần ông lắm ― vì sợ nếu ông không câu được cá mà bị kẻ khác ton-hót đổ lỗi câu giành với ông thì khốn ― đồng-thời họ cũng không đi quá xa, để vừa được ông nhận mặt là mình cũng có tham-gia giúp vui cho ông, vừa chục phòng khi ông gọi thì nghe mà đến cho nhanh kẻo bị kẻ khác nhanh hơn thì mất cơ-hội được hầu-hạ ông.
Giám Ðốc Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần, Ô. Lê Khắc Duyệt, cũng có dự phần vào những buổi câu cá như thế.
Hôm đó, Duyệt mặc một chiếc áo sơ-mi cụt tay có in hình hoa bướm gì đó. Trên đường về nhà ở thành-phố, Duyệt gặp vài nhân-viên thuộc Nha, trong số những phần-tử đã vào Ðảng.
Thuở ấy, xứ Huế còn rất nệ-cổ. Người nữ phải mặc áo dài mới được ra phòng khách; các cô giúp việc dù đang làm việc nặng, các chị bàn hàng-rong dù đang vai gánh hay tay xách, mỗi khi ra đường đều phải mặc áo dài. Người nam thì phải nhét áo trong quần. Vào thời-gian chuyện này xảy ra, tuy lối sống đã có đổi mới phần nào, xã-hội vẫn chưa chấp-nhận cho các cá-nhân “danh-giá”, nhất là các viên-chức cao-cấp trong chính-quyền, dù là vào ngày nghỉ và lúc đi chơi, bỏ áo ngoài quần, hoặc mặc áo có sọc, có ô, hoặc có in hình mà người dân địa-phương gọi là “áo chim cò”.
Duyệt bị báo-cáo lên Văn-Phòng Cố-Vấn.
Vào buổi “học-tập chính-trị và công dân giáo dục” kế đó, số nhân-viên dưới quyền Duyệt, nhưng thuộc đường dây thân-tín hơn, đã nêu vụ kể trên ra để hội đường thảo-luận. Mặc dù viên Giám Ðốc của họ đã nhận lỗi, xin lỗi mọi người, và hứa về sau sẽ không tái-phạm, sau khi đã giải-thích là mình ăn mặc như thế để dễ lội xuống nước mà bắt cá cho “Cậu”, số nhân-viên ấy vẫn nặng lời sỉ-vả Duyệt và thúc đẩy các phẩn-tử khác lên tiếng tố-cáo Duyệt là “thiếu tác-phong cách-mạng”, “phản nhân-vị”, “không chịu học-tập noi gương đạo đức của Ngô Tổng-Thống”.
Người dân xứ Huế không quên những vụ tố khổ vào những ngày đầu tiên Ô. Ngô Ðình Diệm lên cầm quyền.
Trong một cuộc mít-tinh tại chúng-trường Phu Văn Lâu, một nữ-công-chức thuộc Nha Pháp-Chánh Trung-Phần đã đứng lên trước máy vi-âm xỉ mặt viên Giám Ðốc của Nha ấy mà kể tội là trước đó đã từng lợi dụng chức-quyền để hãm-hiếp mình…
Quang-cảnh đấu tố giống hệt dưới chế-độ cộng-sản ở Miền Bắc Việt-Nam.
CÔNG-CHỨC BỊ PHẠT VÌ VỀ VỚI GIA ÐÌNH
Có một số công-chức tùng-sự tại các công-sở ở Huế nhưng có gia đình ở Tỉnh Quảng-Trị; cuối tuần họ về ngoài đó với vợ+con.
Nhưng rồi, vào một buổi trưa ngày cuối tuần nọ, số người ấy đã gặp nạn. Sau đó, họ ngao-ngán kể lại với bạn-bè:
Ô. Nguyễn Văn Đông, Tỉnh-Trưởng Tỉnh Quảng-Trị, đã ra lệnh chận đường từ hướng Huế ra, bắt giữ tất cả các công-chức vừa mãn giờ làm việc cuối tuần là để bụng đói phóng xe về với thân-nhân.
Còn nhớ dưới thời Việt-Minh, để khuyến-khích phong-trào Bình Dân Học-Vụ, có nhiều Xã Thôn đã dựng cổng kiểm-soát dọc đường; ai biết chữ thì được đi qua cổng chính, ai không biết chữ thì phải lội vòng xuống ruộng bùn mà đi.
Đông thì không cho các công-chức ấy đi, về với gia đình, mà cũng không chịu cho họ quay lui. Ông bắt họ tập-trung tại chỗ, đợi đến sáng ngày đầu tuần mới cho xe chở họ vào Huế giao nạp cho Tòa Ðại-Biểu Chính-Phủ Miền Trung.
Đông sợ dư-luận đồng-bào về những bê-bối của chính-quyền Tỉnh mà ông cầm đầu có thể bị các công-chức ở Huế là những tai mắt ấy thu-thập đem về phổ-biến, mà không bưng-bít được, vì ở ngoài vòng kiểm-soát của mình.
Ông là em của một người con rể gia đình họ Ngô.
LUẬT-PHÁP PHỤC-VỤ CHO CÁ-NHÂN
Có lần, Nha Bảo-An Trung-Phần được cơ-quan Viện-Trợ Mỹ trao cho một số xe Jeep. Viên trung-tá Giám Ðốc Nha ấy đến báo-cáo với “Cậu”, xem như đó là một thành-quả “nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và Cậu” mới có được, và chọn một chiếc tốt đẹp nhất đưa đến để xin “Cậu” lái khai-mào hầu nhờ “Cậu” mà toàn Nha được hưởng hên.
Chiếu cuối tuần ấy, có một số giáo-sư Viện Ðại-Học Huế, vốn được Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn nâng đỡ, và đều là nhân-vật tên tuổi một thời ở thủ-phủ của Miền Trung, về bãi Thuận-An tắm bể. Họ lái xe Traction, chạy vùn-vụt trở về nhà ở Thành-Phố Huế vào lúc hoàng-hôn.
Ðồng-thời, từ tư-thất ở Thành-Phố về nhà nghỉ mát ở bãi bể, Ô. Cố-Vấn đích-thân cầm tay lái, lái thử chiếc xe Jeep mới của Nha Bảo-An.
Trên con đường lưu-thông duy-nhất giữa hai địa điểm, mà vào cuối tuần giữa mùa hè nóng bức thì người dân đi tắm bể tấp-nập, khi ngang qua lãnh-thổ Quận Phú-Vang, hai xe ngược chiều kể trên gặp nhau.
Xe Traction thì thấp; xe Jeep thì cao, mà vì mới xuất-kho nên mặt kính đèn trước chưa được che bớt phần trên bằng một lớp sơn màu vàng như các xe khác, và Ô. Cẩn thì cứ để đèn pha mà chạy. Các nhà học-thức ấy bị chói mắt nên nổi giận, bèn cũng bật đèn pha, rồi thắng xe lại ngay giữa lòng đường, chận đầu chiếc xe kia, nhảy ra, xông tới, định dạy cho tài-xế xe Jeep một bài học. Cùng lúc, Ô. Cố-Vấn luýnh-quýnh thắng xe lại; các vệ-sĩ của ông tưởng gặp kẻ khủng-bố nên nhảy ngay xuống, xáo ổ đạn, chĩa mũi súng về phía đối-phương, sẵn-sàng bấm cò.
Thế là hai bên nhận ngay ra nhau; các nhà khoa-bảng liền đổi thái-độ, chắp tay vái “Cậu” liên-hồi.
Sau đó, Tòa Ðại-Biểu Chính-Phủ Trung-Phần Việt-Nam chỉ-thị cho Nha Công-Chánh Giao-Thông, Nha Cảnh-Sát Công-An, cùng Tòa Hành-Chánh, Cơ-Quan Quân-Sự, Ty Công-Chánh, Ty Thông-Tin Tỉnh Thừa-Thiên, Ty Cảnh-Sát Thành-Phố Huế, Trung Ðội Hiến-Binh địa-phương, v.v… phải họp tìm biện-pháp tạo sự thoải-mái cho “Cậu” trên đường đi . Họ bèn quy định, phổ-biến, và kiểm-soát, để từ nay trở đi mọi loại xe-cộ lưu-thông trên đường Huế―Thuận-An, và ngược lại, chỉ được phép chạy với tốc-lực tối đa 25 cây số/mỗi giờ; hễ gặp xe khác thì phải ngừng lại, rồi chạy từ từ; và nhất là buổi tối và ban đêm thì chỉ được bật đèn ló mà thôi.
Sự việc ông Cố-Vấn bị chận xe dọc đường thì đã được chính ông bỏ qua; nhưng vì nó có liên-quan đến “Cậu”, các nhà chức-trách xem là quan-trọng hàng đầu nên đã đặt thành luật-lệ cho người dân tuân theo.
MỘT BỮA TIỆC SINH-NHẬT CỦA “CẬU”
Vào dịp sinh-nhật của Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn năm ấy, một mình tôi nhận được ba tấm thiệp mời dự tiệc; một với tư-cách văn-nghệ-sĩ ký-giả, một với tư-cách thành-viên Thuyết-Trình-Ðoàn Học-Tập Chính-Trị và Công Dân Giáo Dục, và một với tư-cách cấp chỉ-huy ngành Cảnh-Sát Công-An.
Trên đầu tờ giấy có in hàng chữ “Văn-Phòng Cố-Vấn Chỉ Ðạo Các Ðoàn-Thể Cao―Trung―Hải”. Về các “Ðoàn-Thể”, có nơi ghi rõ là “Chính-Trị, Kinh-Tế, Văn-Hóa, Xã-Hội, Thanh-Niên, Phụ-Nữ, Sinh-Viên Học-Sinh, Lao-Công, v.v…” Cao là Cao-Nguyên, Trung là Trung-Phần, và Hải là Hải-Ngoại.
Ðây là một cơ-hội hiếm có để tôi có thể trực-tiếp nghe+thấy những gì liên-quan đến “Cậu”, người mà dân-chúng sợ-hãi như một hung-thần.
Con đường xe lửa xuyên-Việt nằm ở giữa, ngăn-cách tư-thất của Ô. Cố-Vấn với Văn-Phòng ở bên kia . Lách qua khỏi hai cánh cổng sắt cao to mở hé, tôi bước vào một thế-giới lạ thường.
Không có đường dây điện-thoại liên-lạc với bên ngoài. Ô. Cố-Vấn thường chỉ ở trong tư-thất, và ít có ai thấy được chữ ký của ông.
Một mái rạp cao được dựng sát trước hiên nhà, dài suốt ba gian, là nơi bày dọn nhiều dãy bàn ăn. Hầu hết món ăn đều là món Huế, những loại ngày xưa dành cho hoàng-gia, triều-thần nhà Nguyễn và giới thượng-lưu, do chính một số đầu-bếp cũ trong Ðại-Nội hoặc tại các Phủ Chúa đến nấu dọn.
Thực-khách được chia ra mời làm nhiều đợt; nhưng có một số đến sớm trước giờ; và một số ăn xong vẫn còn nấn-ná ở lại, vừa chỉ dẫn cho những kẻ đến sau để tỏ ra rằng mình đã là người nhà của chủ-nhân rồi, vừa cầu-may mong có cơ-hội được “Cậu” hỏi đến.
Mắt mang kính, miệng nhai trầu, tay cầm quạt khi thì phe-phẩy, khi thì dùng để gãi lưng, Ô. Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn vừa nói chuyện với vài ba nhân-vật ― nhất là ông Nguyễn Ðình Cẩn, Tỉnh-Trưởng Trưởng Tỉnh Bình-Thuận, suốt buổi vẫn bám sát theo ông ― vừa đi quanh chăm-sóc từ các loại cây cảnh quý trước mặt nhà đến các loại muông thú hiếm bên hông và sau vườn, trong đó có một con voi con.
Hầu-hạ quanh nhà có một số nhân-viên Cảnh-Sát hoặc Công An. Có một kẻ thường đi dọc theo đường Phan Chu Trinh và đường Vạn Vạn, trên bờ Nam của “sông An-Cựu nắng đục mưa trong”, ngang-nhiên chặt cây trên bến, và cả chuối trong vườn nhà dân, nói là để cho voi của “Cậu” ăn. Nhiều người qua lại trên cầu Phú Cam và trên đường bờ sông Phan Ðình Phùng có lần trông thấy dưới bến “Cậu” dùng thìa cà-phê múc sữa đút cho voi uống, trong lúc các thuộc-viên đang kỳ-cọ tắm cho con voi.
Tôi vừa vào đến nơi thì nghe có tiếng còi xe hộ-tống hụ từ phía cầu Phú Cam. Ô. Cố-Vấn quay đầu về phía nhà trong, im-lặng lắng nghe. Lập-tức, có hai thuộc-viên chạy nhanh ra cổng. Họ thò đầu ra ngoài nói gì đó, rồi nhân-viên gác cổng mở hé một cánh cổng cho một số quan-chức và một viên tướng bước vào. Tất cả đều mặc lễ-phục, và đều đi rón-rén vì sợ đế giày gây tiếng ồn.
Về viên tướng, tôi nhận ra là Trung-Tướng Trần Văn Ðôn. Hôm mới ra thay Trung-Tướng Thái Quang Hoàng, trong một buổi lễ tại Phu Văn Lâu, Ðôn đã bắt đầu diễn-văn bằng câu “Quân Dân Miền Trung!” Tôi nghe kể lại, chỉ một lát sau là “Cậu” được nghe báo-cáo, liền phán “Hắn muốn lãnh đạo cả Dân ngoài ni nữa răng?”
Họ cúi đầu chào Ô. Cố-Vấn nhưng ông không đáp lại. Họ bèn nhập chung với một số khác đã đến trước, đứng sắp hàng quay mặt vào bức chân dung của Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm để trên một chiếc bàn cao trong phòng khách chính, xong cất tiếng đồng-thanh hát bài “Suy-Tôn Ngô Tổng-Thống”, như lệ thường mỗi lần bắt đầu một buổi lễ hoặc buổi họp.
Có đến hai bài “suy-tôn” khác nhau, một của Miền Trung và một của Miền Nam, nên nhịp và lời của hai bài chõi nhau, nghe rất chói tai.
Bỗng có tiếng đằng-hắng trong nhà. Ô. Cố-Vấn liền nạt:
– Ồn! để cụ nghỉ!
Thế là mọi người nín bặt, lấm-lét tan hàng. Trong lúc họ chưa biết giấu mặt ở đâu thì các gia-nhân ra hiệu cho họ đứng vào hai bên các dãy bàn tiệc mà bắt đầu ăn.
Lát sau, ông Cố-Vấn đi ngang qua các bàn ăn, nhìn chung, hỏi chung:
– Ngon không?
– Dạ ngon! “Cậu” cho ăn ngon quá!
Nghe mọi người đồng-loạt khen, ông nở một nụ cười khoan-khoái, xong tiếp-tục đi ngắm-nghía, sờ-mó không biết chán các món quà đắt giá mà các cấp chức quyền từ khắp nơi trong nước và ngoài nước dâng về.
Trước mắt tôi, hình-ảnh của “Cậu” Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn vẫn quen thuộc như những lần ông chủ-tọa các cuộc thi rước xe hoa vào những dịp lễ lớn trong năm.
Mỗi cơ-quan dân-chính và quân-sự đều thực-hiện một cỗ xe hoa, với nhiều cỡ, nhiểu kiểu, nhiều cách khác nhau, nhưng tựu-trung thì đều rước ảnh của Ngô Tổng-Thống và được trang-trí đèn hoa rực-rỡ vô cùng. “Cậu” đứng trước cổng nhà, vừa nhai trầu vừa quạt, nhướng mục-kỉnh chiêm-ngưỡng từng công-trình nghệ-thuật trẩy qua, và dễ dàng đồng-ý với những lời phê-bình cũng như chấm điểm, định mức thưởng tiền, của các “cố-vấn” hầu-cận hai bên.
Tự-nhiên tôi thấy ông hiền-lành quá, vô-tư quá. Người như thế này mà có quyền sinh-sát đối với mọi người sao ?
LỆNH… LẠC
Ngoài ông Chánh Văn-Phòng, mà một số người cho là có hiểu biết, còn có một số sĩ-quan quân-lực được biệt-phái đến làm việc tại Văn-Phòng Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn. Ông Hồ Văn Huế, một đồng-nghiệp đàn anh của tôi, là một tín đồ Ky Tô có đạo đức, đã có lần than-thở với tôi:
– Té ra mạnh ai thì nấy báo-cáo lên “Cậu”; chỉ cần nói khích một câu, tỉ như “Tên này phản-loạn, dám chống lại Ngô Tổng-Thống và Cậu!” thì nếu đề-nghị giết chết “Cậu” cũng gật đầu liền. Nhưng trong đa-số trường-hợp họ có trình lên “Cậu” đâu !
Quyền-hành của Cẩn tuyệt-đối như thế nên dân-chúng gọi ông là “Lãnh-chúa Miền Trung”. Thật ra, quyền-hành của ông cũng bao trùm cả Miền Nam, là lĩnh địa của ông anh, Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu. Một thi-hữu của tôi, Hồ Ðình Phương, của Tỉnh Long-An, và một số thành-viên khác thuộc các phái đoàn từ các Tỉnh trong Nam ra Huế họp đại-hội Ðảng Cần-Lao, đã xác-nhận với tôi điều đó.
Không có học-lực và kiến-thức như các ông Diệm, Nhu, ông Cẩn chỉ là một thứ hào-mục hãnh-tiến, bỗng-nhiên thấy được người ta tôn lên thì được hưởng lợi chứ chẳng thiệt gì, nên để mặc cho thủ-hạ lèo-lái, vẽ-vời. Ông chỉ đáng khen trong có một việc là lòng hiếu-kính đối với mẫu-thân, góa-phụ của cụ Ngô Ðình Khả.
Và chính cụ-bà cũng được nhiều người ngợi-ca vì lòng “trung-quân”. Người ta kể lại rằng, khi lăng của chồng đã được xây xong, cụ-bà lên ở trên lăng. Ðức Ðoan-Huy Hoàng Thái Hậu, tức Ðức Từ-Cung, mẹ của Cựu-Hoàng Bảo Ðại, thấy cảnh miếu đường hoang-phế mà không được chính-quyền chiếu-cố, bèn lên gặp cụ-bà để xin nói giúp với anh em nhà Ngô. Cụ-bà nghe tin, đang bệnh mà cũng gắng dậy xuống đón từ dưới mấy cấp thềm, toan phủ-phục trước người mà cụ-bà tưởng vẫn còn là quốc-mẫu nên vẫn thủ-phận chồng+con mình là bề-tôi của quân-vương.
Ðiều tai-hại hơn hết là không có ai dám kiểm-chứng lệnh của Ô.Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn.
Thường thì mọi người chỉ biết tuân lệnh, do nghe kẻ khác nói lại, mà không biết là nói lại hay là nói đại. Mà do chính miệng của ông nói ra lắm khi cũng chẳng hẳn là lệnh-lạc gì hết.
Một thí dụ đầy tính tiếu-lâm được truyền miệng trong giới an-ninh:
Một trong những tay chân đắc-lực của Cẩn là Ô. Lê Hoát, Trưởng Ban Hoạt-Vụ thuộc Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần. Mọi việc bắt-bớ, đọa đày, hãm-hại, v.v… đều nằm trong tay Hoát. Thế mà…
Dạo ấy ở Tỉnh Quảng-Ngãi có sự rối-loạn. Ty Công-An liên-hệ điện xin Nha Trung-Phần tăng-cường gấp một số nhân-viên. Vì Hoát có nhiều nhân-viên nhất nên Phòng Nhân-Vụ đề-nghị rút bớt một số. Hoát chỉ cho lấy một người, là người mà Hoát tưởng là không thiết-yếu vì không thấy đến báo-cáo công-tác hằng ngày. Và người ấy nhận được sự-vụ-lệnh thuyên-chuyển từ Huế vào Tỉnh Quảng-Ngãi.
Kế đó, một hôm Ô. Cố-Vấn đi ra sau vườn thì thấy có một thuộc-viên nằm lăn-lộn trước chân ông mà khóc; ông tránh, người kia lại tái diễn, khóc to hơn. Ông hỏi vu-vơ:
– Cha mi chết hay răng mà mi khóc dữ thế?
Ðươc ông hỏi đến, người giữ vườn kêu gào thảm-thiết:
– Không phải một mình cha con chết, mà chính con, rồi cả gia đình nhà con đều sẽ chết hết, “Cậu” ơi! Người ta không muốn cho con tiếp-tục ở đây để được hầu-hạ “Cậu”, “Cậu” ơi!
– Rứa người ta đưa mi đi mô ?
– Việt-Cộng giết người tùm-lum trong Quảng-Ngãi, mà người ta đưa con vô trong đó!
– Ai đưa mi đi ?
Người ấy vốn đã có đến năn-nỉ với Phòng Nhân-Vụ đề xin ở lại, nhưng được nơi đây giải-thích là chính Hoát đã quyết định cho đương-nhân ra đi. Người ấy liền đáp:
– Dạ, Lê Hoát đưa con đi!
Ông Cố-Vấn vừa bước tiếp vừa nói khống:
– Răng hắn không đi mà đưa mi đi ?
Mọi lời nói của “Cậu” đều được truyền đi tức-thời .
Thế là Nha Cảnh-Sát Công-An Trung-Phần ký sự-vụ-lệnh khác, để nhân-viên kia lại, và đưa … Lê Hoát đi !
Một thời-gian sau, một hôm ông Cố-Vấn sực nhớ mới hỏi:
– Thằng Hoát mô rồi mà lâu ni tau không thấy hắn?
Thế là Quát lại được thuyên-chuyển từ Ty Quảng-Ngãi về lại Nha!
Dân-chúng cũng đàm-tiếu với nhau: Bà Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu, lãnh-tụ Phong-Trào Phụ-Nữ Liên Ðới và Ðoàn-Thể Thanh-Nữ Cộng-Hòa của toàn-quốc, tức là gồm cả Miền Trung, những lần ra Huế thường tránh gặp mặt “Cậu”. Trung-Tướng Thái Quang Hoàng, nguyên Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, mà tổng-hành dinh đóng ở Huế, vốn là một sĩ-quan sủng-ái được thăng cấp vùn-vụt, mà rồi cũng bị thất-sủng vì bị dèm pha. Ông Trần Chánh Thành, là người được chính Ô. Ngô Ðình Diệm chọn đưa từ Pháp cùng về với mình, cử làm Bộ-Trưởng Bộ Thông-Tin, phụ-trách Chiến Dịch Tố Cộng và Phong-Trào Cách-Mạng Quốc-Gia, mà rồi cũng va-chạm với uy-lực của “Cậu” về quyền lãnh đạo các tổ-chức và hoạt động này tại Miền Trung…
Tôi tự hỏi không biết có phải chính “Cậu” đã chủ động, đã chủ động nổi, trong các vụ này, hay là bị bọn ác-ôn côn đồ gài bẫy, mạo danh…
VỤ GIÁN ÐIÊP PHÁP TẠI MIỀN TRUNG
Sau khi Pháp, do áp-lực của Mỹ, rút quân ra khỏi Việt-Nam, một số kiều dân Pháp vẫn còn ở lại; họ điều-hành các đồn điền cao-su, cà-phê, trà, và các nhà máy điện, nước, lữ-xá, tiệm ăn, v.v… Ngoài ra, còn có các nhà ngoại-giao …
Ở Huế, có một Phòng Thông-Tin Pháp, mà Giám Ðốc là Ô. Avril, một người Pháp lai Việt, sinh sống từ nhỏ tại Thành-Phố này. Tôi đã giới-thiệu để Avril làm quen với Ô. Thompson A. Grunwald, khi ông này đến nhậm chức Giám Ðốc Thông-Tin Hoa-Kỳ ở Huế. Trong lúc chưa có Tổng Lĩnh-Sứ, Grunwald là đại diện Mỹ đầu tiên đến Miền Trung.
Ðối với dân-chúng địa-phương thì sự quen biết đã có từ trước và những giao-tiếp không thể tránh được sau này của Avril với những nửa-đồng-bào xung quanh đã gây tai-họa không ít cho nhiều con dân Việt-Nam.
Trong chương-trình “đả-thực, bài-phong, diệt-cộng”, mà “thực” ở đây là thực dân Pháp, các cơ-quan an-ninh sở-tại cho biết đã khám-phá được một tổ-chức gọi là “gián điệp Pháp tại Miền Trung”.
Trong những năm đầu sau Hiệp Ðịnh Genève, Liên-Xô và Hoa-Cộng chưa chủ-trương cho Cộng-Sản Bắc-Việt xâm-chiếm Miền Nam; nhờ đó, đa-số các cấp chính-quyền, nhất là ở nhiều Xã Thôn, đã có hoàn-cảnh thuận-lợi để loại-trừ các phần-tử có liên-hệ hoặc bị nghi có dính-líu với ba kẻ thù kể trên. Trung-Ương cho phép mỗi Xã lập nên một “Hương-Ước” riêng của mình; đó là những quy định tội-trạng và hình-phạt có giá-trị pháp-lý, nằm ngoài và bổ-sung luật-pháp và luật-lệ chung của Quốc-Gia. Chính-sách của Chính-Quyền Quốc-Gia thời Ðệ-Nhật Cộng-Hòa là phục-hồi “Lệ Làng”, một thứ quyền tự-trị của các hương-chức thời xưa; đúng với tuc-ngữ “Phép Vua thua Lệ Làng”. Giải-pháp giàn-tiện hơn hết là trục-xuất tất cả các đối-tượng “phản động” ra khòi quê-quán của họ. Nhân dịp có cái gọi là “quốc-sách” Ấp Chiến-Lược và Dinh Ðiền, nhà cầm quyền tống họ lên vùng Cao-Nguyên, cùng với các thành-phần bất-hảo khác ― cựu-can hình-sự, đồ đệ “Tứ Ðổ Tường”, cá-nhân lừng-khừng ― sống tập-trung chung trong các Ðịa Ðiểm Dinh Ðiền, là nơi Hoa Kỳ viện-trợ dồi dào để giúp các giới dân nghèo Việt Nam tái định-cư kiến-tạo đời sống ấm no, thanh-bình, và thịnh-vượng lâu dài cho tương-lai.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là bề mặt, nhất-thời. Thật ra, ngay sau khi chính-quyền Ngô Ðình Diệm ra đời, những kẻ có liên-hệ chặt-chẽ với Pháp, với Hoàng-Tộc, với Việt-Minh, hoặc bị tổn-thương quyền-lợi cá-nhân, đều đã tìm cách tự-tồn. Họ trá-hình quy-phục, hoặc ngụy-tạo lý-lịch, đổi vùng sinh-hoạt; hoặc rút lui vào bóng tối, hoạt động bí-mật; hoặc bất động chờ thời. Cao điểm là sau khi Mặt Trận Việt-Minh tập-kết cán-bộ và bộ đội ra Bắc; quân-lực Pháp giao lại Miền Nam Việt-Nam cho Mỹ; chế độ Diệm tịch-thu tài-sản của Pháp, lật đổ và tịch-thu tài-sản của cựu Quốc-Trưởng Bảo Ðại, phát động chiến dịch “Tố Cộng”, đánh dẹp các giáo-phái, đàn-áp các chính đảng, cấm Hoa-Kiều làm mười một nghề, v.v…
Có những chính-sách đúng, nhưng bị phai mờ vì những chủ-trương sai; và ngay những đường-lối tốt cũng bị hoen-ố vì những việc làm xấu. Và thiểu-số lạm quyền đã xử ức người này, trị oan kẻ kia, đào hố sâu chia-rẽ và giúp nẩy mầm phẫn-uất trong dân-nhân. Hạt nhân đối-nghịch và khuynh đảo từ đó đã được gieo ra.
Thật ra, người dân căm-hờn thực dân, oán ghét tay sai, thù hận thành-phần thân Pháp, nên ủng-hộ các nỗ-lực phát-hiện gián điệp nước ngoài. Nhưng khi chính-viện không truy-tố bị-can ra trước pháp-viện, lại sử dụng luật rừng để bạo-hành đối với tù-nhân, thì chiêu-bài “Dân-Chủ Pháp-Trị’ của chính-quyền Ngô Ðình Diệm đã trở thành bịp-bợm đối với người dân.
Vào một buổi sáng nọ, như để chứng-minh cụ-thể cho những luồng dư-luận lan tràn lâu nay, một số đồng-bào đã tìm đến tận nơi để nhìn thấy tận mắt thi-thể của một nạn-nhân: Ô. Võ Côn, cựu Phó Giám Ðốc Cảnh-Sát Công-An Trung-Việt, bị giết chết và vứt bỏ xác ở chân Núi Ngự-Bình.
THẦU-KHOÁN NGUYỄN VĂN YẾN
Nhà thầu Nguyễn Văn Yến là một nhân-vật tên tuổi được đồng-bào khắp Huế mến thương.
Sau ngày hồi-cư vào năm 1947, Yến bắt đầu thu thuế tại chợ An Cựu là một chợ nhỏ, mà thời-gian đầu dân-chúng còn thưa-thớt nên chợ chưa có nhiều kẻ bán người mua. Vợ anh cũng theo giúp chồng. Tuy là chủ thầu nhưng cả hai đều đối xử tử-tế với giới chịu thuế, nhẹ tay với ai ít vốn, chước-miễn cho ai ít lời.
Nhờ làm việc cần-cù, giao dịch khéo-léo, Yến đã tiến từ thầu nhỏ lên thầu lớn, và đỉnh cao là thầu được cơ-sở kinh doanh đồ-sộ của anh+em Pháp-kiều Morin chính giữa trung-tâm thủ-phủ của Miền Trung, đặt tên Nguyễn Văn Yến cho đại Khách-Sạn và Diễn Ðường này.
Sự thành-công của Yến là một gai nhọn trước mắt những kẻ muốn chiếm độc-quyền khai-thác hoặc chi-phối mọi nguồn lợi kinh-tài. Thế là Yến bị bắt.
Vợ Nguyễn Văn Yến bị bệnh hiểm-nghèo. Sau khi được chữa lành, trước khi xuất-viện chị đã được y-sư giải-thích và căn dặn kỹ-càng: muốn sống thì đừng gần-gũi đàn ông.
Thương chồng, chị đến gõ cửa khắp nơi; bao nhiêu tiền của chị đem ra dâng nạp hết, nhưng vẫn không có kết-quả. Cuối cùng, chị được đưa đến ra mắt Ô. Cố-Vấn để cầu xin “Cậu” thi-ân.
Nhờ ân của “Cậu”, chị chết.
Nỗi đau thương của gia đình Nguyễn Văn Yến đã trở thành niềm căm-hận của mọi người: liền sau đó, chính Yến cũng bị giết chết trong tối-tăm.
THẦU KHOÁN NGUYỄN ÐẮC PHƯƠNG
Là Trưởng-Phòng Huấn-Luyện, trong thời-gian có Khóa Tu-Nghiệp hoặc Khóa Anh-Ngữ Căn-Bản do tôi giảng dạy cho cảnh-nhân toàn Thành-Phố, tôi thường đến sớm để lo cho mọi thứ được chuẩn-bị sẵn-sàng. Có nhiều lần tôi ngạc-nhiên thấy Hội Ðường, mới chiều hôm qua còn ngăn nắp, mà sao sáng hôm sau bàn ghế đã nghiêng lệch và trên nền lầu vương vãi những lá lót, giấy bọc, cùng nhiều loại thức ăn, đồ uống thừa.
Những lần đầu, tôi nghĩ là do toán nhân-viên gác đêm bày tiệc ăn nhậu. Ðến lần nọ, tôi vào hỏi ông Đặng Phong, Phó Cành-Sát-Trưởng ; ông nhìn Ô. Hồ Đắc Vang, trả lời tôi: “Ðêm qua, Chi-Bộ họp”. Chi-Bộ là tổ-chức Ðảng; tôi không ở trong Ðảng, tôi không thể phàn-nàn gì thêm.
Một hôm, nhân vào Sài-Gòn lập thủ-tục du-học Hoa-Kỳ, tôi gặp Ô. Nguyễn Văn Trí giữa phố. Trí là nhân-viên Ðội Biệt Ðộng ở Huế; cùng đi với anh có vài ba người nữa, đang ngồi trong một chiếc xe hơi đậu bên lề đường. Anh dừng lại chào hỏi tôi. Khi anh lên xe đi rồi, có mấy người mà tôi thấy quen mặt đang ngồi trong Nhà Hàng “Thanh Thế” vẫy gọi tôi vào. Họ là công-chức, quân-nhân hoặc thường dân gốc ở Huế, nay vào tùng-sự, thụ-huấn hoặc sinh sống trong này.
Nhạc-sĩ Châu Kỳ ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Ðừng bắt mình, nghe Thanh-Thanh!” Tôi mở tròn mắt hỏi lại: “Tôi làm gì mà bắt ai ?” Nhạc-sĩ Lê Trọng Nguyễn liền vỗ vai Kỳ: “Thanh-Thanh chắc không dính vào những vụ đó đâu!”
Hồi đó, Cảnh-Sát và Công-An là hai ngành khác nhau, mà tôi thì ở bên phía tư-pháp hình-sự, không phải bên phía chính-trị.
Một người hỏi tôi: “Hôm nay các anh đã bắt được bao nhiêu mạng rồi ?” Thấy tôi ngơ-ngác, một người khác nói: “Bọn hồi nãy là mật-vụ trong Ðoàn Công-Tác Ðặc-Biệt Miền Trung, vào đây bắt người đấy!”
Tôi cũng có nghe nói đến tổ-chức ấy, nhưng không biết là họ thuộc cơ-quan nào, vì tại Nha và tai Ty Công-An Tỉnh Thừa-Thiên thì chỉ có Ban Hoạt-Vụ, Ban Lưu Ðộng, hoặc Ban Truy-Tầm gì đó thôi.
Không-khí ở Sài-Gòn tự do hơn, nên mấy người này tranh nhau kể toàn những chuyện cướp đoạt, giam-cầm, tra-tấn, và thủ-tiêu dân lành, ở cả Huế lẫn các Tỉnh gần xa.
Diệm thì huênh-hoang tuyên-bố: “Ðằng sau Hiến-Pháp còn có tôi!” để bị lũ gian-manh ngụy-tạo vườn cây sây trái cho mà đến thị-sát, khoe-khoang; Nhu thì kìm kẹp đối-lập ở P-42; vợ Nhu thì hùn-hạp làm ăn bất-chính với vợ Trần Chánh Thành; Cẩn thì thể-hiện hỏa-ngục ở Mang-Cá, hồ lửa ở Chín Hầm…
Khi nghe tôi làm việc ở Ty Cảnh-Sát Huế, một người la lên:
– Ðánh người ta vỡ đầu chết, rồi ném xác xuống sân, tri-hô là người ta nhảy lầu tự-tử, xong rồi vào đây lánh mặt hả?
Các bạn khác cũng sững-sờ như tôi. Một người ôn-tồn hỏi tôi: “Anh vào đây bao giờ?” Tôi đáp: “Sáng thứ năm” Người ấy thở phào: “Thế thì không phải là anh!”
Người kia nhìn tôi dò xét, rồi như tin tôi, kể ngắn gọn:
– Chúng bắt bừa, nhốt kín nhiều nơi, lâu lâu mới chở một số đến Ty Cành-Sát cho gặp thân-nhân một lần vào lúc nửa đêm. Tại đó, chúng cũng khảo đả nạn-nhân. Án-mạng vừa rồi xảy ra vào khuya thứ năm; tôi mới vào chiều hôm qua; thứ sáu. Tội-nghiệp thầu-khoán Nguyễn Ðắc Phương!
Tôi nghe mà lặng điếng cả người.
Thì ra Hội Ðường, nơi tôi truyền-bá lý-thuyết lý-tưởng về nghiệp-vụ, nơi tôi phổ-biến đạo đức chính-trị của Ngô Tổng-Thống, đã bị dùng làm nơi chà đạp “nhân-vị” và sinh-mạng của con người!
Trước đó, tôi có gặp Nguyễn Ðắc Phương một lần, tại nhà Giáo-Sư Nguyễn Như Minh. Minh là thầy cũ của tôi ở “Thuận-Hóa Học-Hiệu”. Ông vừa mới giao cho Phương, và Phương vừa mới khởi-công xây-cất một trụ-sở mới cho Trường Trung-Học Tư-Thục Nguyễn Du.
Ngang đây thì tôi thấy Trung-Tá Ðoàn Ðình Từ, một người bạn thân của tôi, hiện làm Trưởng Ty Công-An Tỉnh Long-An, từ ngoài bước vào. Từ bị thương trong một trận chạm súng với Việt-Cộng, chân đi còn khập-khiễng. Ðể tránh đụng chạm, tôi kéo anh lên Nhà Hàng “Bồng Lai”.
Lát sau, tôi hỏi anh về nạn độc-tài, tham-bạo; anh lắc đầu thở dài: “Hết nước nói! Minh chỉ biết diệt Cộng mà thôi!”
*
LÊ XUÂN NHUẬN CHỐNG CHẾ-ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM
VÀO dịp lễ Hai Bà Trưng (3-3) năm 1960 (mồng 6 tháng 2 âm-lịch Canh Tý), tôi thuyết-trình về tinh-thần ái-quốc của Trưng Nữ-Vương, theo tài-liệu học-tập của Trung-Ương phổ-biến.
Nguyễn Xuân Lại, lúc ấy cũng đã mãn định-kỳ quân-nhiệm, trở về Ty Cảnh-Sát Huế, cùng tham dự buổi họp.
Khi đến câu “Quân của Hai Bà là quân ô-hợp nên bị thất-trận”, tôi đã cố ý bỏ qua từ đoạn “là quân ô-hợp”. Hội Ðường thắc-mắc; nhiều người đưa ý-kiến là phải đọc trọn câu, và đòi giải-thích hai tiếng “ô hợp”. Tôi giải-thích tĩnh-từ “ô hợp”, xong thanh-minh rằng tôi không muốn trong lúc tưởng nhớ công đức của tổ-tiên anh-hùng mà lại chê-bai phẩm-chất chiến đấu của tiền-nhân:
– Có lẽ soạn-giả sơ-ý. Theo tôi thì chỉ cần nói “Hai Bà thua trận là đủ”, không cần nêu thêm cái lý do ấy, nhất là nói về khuyết nhược của mình. Vậy đề-nghị các bạn khi về đơn-vị địa-phương thuyết-trình lại cho các học-viên của mình thì bỏ bớt mấy chữ đó đi .
Ngang đây, Lại chất-vấn tôi:
– Sự thật là “ô hợp” thì cứ nói là “ô hợp”, anh muốn chống lại lịch-sử và cãi lại tài-liệu của “Ban Chỉ Ðạo Học-Tập Trung-Ương” ư ?
Cuộc thảo-luận chung biến thành cuộc tranh-luận riêng giữa hai chúng tôi.
Tôi nói: “Tuy Ban Chỉ Ðạo Trung-Ương do ông Cố-Vấn Ngô Ðình Nhu chủ-trì, nhưng ông chỉ đề ra ý chính, làm sao kiểm-soát hết từng chữ?”
– Tôi đã từng thảo diễn-văn cho các Ðơn-Vị-Trưởng, họ dò rất kỹ trước khi đọc; anh cho là ông Cố-Vấn không đọc kỹ à?
– Tôi cũng đã từng thảo diễn-văn cho các tướng Tư-Lệnh, đúng như anh nói. Nhưng đó là cho chính miệng họ đọc ra, lâu lâu một lần. Ðằng nầy, tài-liệu tổng-quát do nhân-viên phụ-trách soạn chung cho mọi người, ào-ạt phổ-biến mỗi tuần mấy đợt, trải qua nhiều năm rồi, thì cũng chỉ giống như tờ báo định-kỳ thông-thường ngoài phố mà thôi, làm sao tránh khỏi sơ-xuất?
– Nhưng đây không phải là sơ-xuất, mà là nói lên sự thật!
Tôi đáp: “Ðồng-ý là sự thật. Tuy nhiên, đó là ở trường đại-học, nghiên-cứu sử-liệu chúng ta có thể tìm thấy nhiều điều khác lạ; thí dụ tài-liệu của Trung-Hoa nói về Hai Bà Trưng, có đăng trên báo của Viện Ðại-Học Huế, do linh-mục Cao Văn Luận làm Viện Trưởng, thì tàn-tệ hơn nhiều. Còn đây thì không phải là một công-trình nghiên-cứu lịch-sử ở trình độ bác-học, mà chỉ là một bài học công dân giáo dục nhắm vào đa-số bình dân, cốt để nhân ngày kỷ-niệm Trưng-Vương mà khích động đồng-bào noi gương yêu nước của Hai Bà; như thế thì chỉ cần đề-cập những gì có lợi cho mục đích trước mắt mà thôi”.
– Nói như anh tức là cấp trên khinh thường dân-chúng, chủ-trương ngu dân!
Tôi thấy Nguyễn Xuân Lại đã vô-tình tạo ra cơ-hội cho tôi lợi dụng mà nói lên những điều cần nói công-khai :
– Ở đây có ông Trần Văn Hương, Cảnh-Sát-Trưởng, vừa đi du-học ở Mỹ về, đã thấy rõ sự khác nhau giữa Mỹ với nước mình. Thế nhưng, tài-liệu, mà chúng ta học-tập ở đây thì nói rằng Hiến-Pháp của Việt-Nam Cộng-Hòa là tiến-bộ hơn Hiến-Pháp của Hiệp-Chủng-Quốc Hoa-Kỳ. Cũng thế, học-tập về chế độ hiện-tại thì chỉ toàn đề-cao những tốt lành ngay chính chứ có ai phanh-phui những xấu dữ gian tà đâu !
Thế là mọi người bỏ mất trọng-tâm. Hội Ðường chia ra làm hai phe; đa-số thì đồng-ý với tôi dẫn chứng từ những sai lầm bất-công đến những gian tham tàn-ác của nhóm đặc-lợi đặc-quyền; thiểu-số đắc-thời thì chối-cãi, biện-minh. Không-khí quá găng; chủ-tọa phải tuyên-bố giải-tán. Nhưng khi ra khỏi phòng họp rồi họ vẫn còn phát-biểu rất hăng.
Việc làm của tôi đã mở đường cho những chống đối công-khai và đồng-loạt của nhiều tập-thể lớn về sau (trước cả vụ phản-kháng của 18 nhà chính-trị tên tuổi tại Nhà Hàng Caravelle trong Sài Gòn. Nhà văn Nhất-Linh Nguyễn Tường Tam, bị kết án tử-hình, đã tự-tử, với kết-luận “đời tôi để lịch-sử xét” để phủ-nhận quyền-hành của chế độ nhà Ngô).
Riêng trường-hợp của tôi đã gây nên mối bất-đồng quan điểm giũa hai ông Cố-Vấn họ Ngô. Vây-cánh của Ô. Cẩn thì muốn dùng biện-pháp mạnh đối với tôi, nhưng Ô. Nhu thì tiến-bộ hơn nên nương tay. Do đó, họ giao tôi cho Bộ Nội-Vụ áp dụng kỷ-luật hành-chánh.
Sau ba tháng bị cất chức, giam cầm, tôi bị ghép vào thành-phần “phản-loạn” và bị đày lên Cao Nguyên là vùng “nước độc và nguy-hiểm”, cùng với bốn đồng-nghiệp khác; đó là hai viên-chức tham-mưu có uy-tín mà không chịu đứng chung vào hàng-ngũ phá đạo hại đời, và hai viên-chức hoạt-dịch cũng là tín đồ Ky-Tô-Giáo và cũng là đảng-viên Ðảng Cần-Lao nhưng không đồng-hội đồng-thuyền với họ nên họ cũng nhân dịp này mà tống cổ đi luôn.
Suốt đời tôi không bao giờ quên được hình-ảnh của những Giám Ðốc, Trưởng Ty, công-chức các cơ-quan bạn, mà nhiều người trước kia tôi chưa hề quen, và rất đông đồng-bào vô danh, đã bất-chấp mật-vụ, lên ga xe lửa Huế ngậm-ngùi tiễn chúng tôi đi …
*
Rồi Diệm bị đảo-chánh hụt, rồi Dinh Ðộc-Lập bị ném bom. Vụ các chính-khách bất-đồng chính-kiến họp tại nhà hàng Caravelle nổ bùng. Nhà văn Nhất-Linh Nguyễn Tường Tam tự-tử để phủ-nhận quyền-hành của chế-độ nhà Ngô. Phật-Giáo bị cấm treo cờ vào ngày lễ Phật-Ðản; Phật-Tử Huế biểu-tình đòi quyền tự do tín-ngưỡng, bị tàn-sát trước Ðài Phát-Thanh. Diệm+Nhu cho Cảnh-Sát Chiến Ðấu tấn-công chùa-chiền. Hòa-Thượng Thích Quảng Ðức và nhiều tu-sĩ, Phật-Giáo-Ðồ khắp nước tự-thiêu. Sinh-viên học-sinh và các giới dân-nhân xuống đường; toàn-quốc nổi dậy. Thạc-sĩ Vũ Văn Mẫu, Ngoại-Trưởng VNCH, tự cạo trọc đầu từ-chức để phản-đối Diệm; ngay chính ông Trần Văn Chương, đại-sứ VNCH tại Mỹ, là cha ruột của bà cố-vấn Ngô Ðình Nhu, và bà Trần Văn Chương, quan-sát-viên VNCH tại Liên Hiệp Quốc, là mẹ đẻ của bà Nhu, cũng cùng từ-chức để chống lại bè lũ Diệm—Nhu đàn-áp Phật-Giáo. Chính-giới Hoa Kỳ phẫn-nộ, dư-luận thế-giới xôn-xao. Cuộc Cải-Mệnh 1-11-1963 xảy ra.
Sau này, tôi chỉ-huy Cảnh-Lực cấp Tỉnh trên Cao-Nguyên thì Nguyễn Xuân Lại cũng chỉ-huy Cảnh-Lực ở Tỉnh Thừa-Thiên.
Một số bạn cũ nói rằng Lại vẫn trung-thành với quan-niệm sống của mình, cứ theo lý-thuyết sách vở mà làm; theo đó, Luật-Pháp mới là nguyên-tắc của trật-tự và an-ninh, nên anh phục-vụ; còn Chính-Trị thì là phi-nguyên-tắc nên anh không tham-gia. Anh chỉ chú-tâm riêng vào phần Hình-Cảnh, và phó mặc phần Ðặc-Cảnh (có thể gọi là Cảnh-Sát Chính-Trị) cho viên Phó Chỉ-Huy chuyên-trách cầm nắm các vấn đề phe đảng, giáo-phái, hội đoàn, tình-hình nội-bộ chính-quyền, cũng như trực-tiếp giải-quyết với Ủy-Ban An-Ninh về các vụ bắt-bớ. giam cầm Việt-Cộng tại địa-phương.
Tuy không đối diện, đối-thoại, nhưng qua tin-tức như trên, tôi vẫn thấy cần tranh-luận với Lại. Nếu anh chịu nhúng tay vào, thì cơ-quan mà anh vẫn là người chịu trách-nhiệm chính, chắc-chắn sẽ tránh được nhiều lầm sai. Cùng lắm thì anh vẫn có thể công-khai nói lên tiếng nói của mình, như tôi ngày xưa ?
Việt-Cộng không bám sát anh, hoặc vì cơ-sở của chúng hoạt động dở, hoặc do may-mắn tự-nhiên, mà anh thoát chết ở Huế vào vụ Tết Mậu-Thân 1968. Anh trà-trộn với đồng-bào vào trốn trong nhà thờ Dòng Chúa Cứu-Thế; khi địch đến thanh lọc, anh đưa Thẻ Sinh-Viên trường Luật ra; chúng không nhận diện ra anh.
*
Chừng nhớ ngày xưa tôi rất ham thích Ngành Hình-Pháp, Nguyễn Xuân Lại nói:
– Mình không ngờ Nhuận mà lại qua Ngành Ðặc-Cảnh.
Tôi định đáp: “Mình cũng không ngờ Thêm mà lại tham-chánh”, nhưng tôi nín kịp.
Một người bạn thân khác của tôi, thi-sĩ Như Trị, tức Luật-sư Bùi Chánh Thời, cũng có quan-niệm như Lại. Nhưng Thời không tham-chính; anh hoạt động vì nhân đạo, cầm đầu chi-nhánh của một tổ-chức quốc-tế Bảo-Vệ Thiếu-Niên Nhi Ðồng tại Việt-Nam.
Mỗi người có quyền theo đuổi lý-tưởng riêng của mình. Tôi tôn-trọng quyền ấy. Nhưng vì Luật-Pháp tự nó không có Tổ-Quốc, nên chính-thể nào cũng dựa trên Luật-Pháp nói chung để làm ra Luật-Pháp của riêng mình. Trong một Quốc-Gia, vào một giai đoạn nào đó, phải chăng Luật-Pháp cũng chỉ là sản-phẩm của Chính-Trị? Người đã tham-gia vào Chính-Quyền, nhất là ở cương-vị lãnh đạo, làm sao không dự phần vào chính-sách chung?
Lại được mời làm Thứ-Trưởng một Bộ. Dù là của Bộ Tư-Pháp đi nữa, thì đó cũng là một phần của Ngành Hành-Pháp, và đó cũng là một trách-vụ chính-trị. Anh nói là anh chưa nhận, tức là đã nhận trên nguyên-tắc, chỉ còn cân-nhắc một số điều-kiện nữa mà thôi ?
Bị ám-ảnh vì bóng ma quá-khứ, tôi sợ là anh sẽ lại rơi vào hai trường-hợp khó-khăn: Lý-thuyết siêu-chính-trị có thoát khỏi bị guồng máy chính-quyền biến-thể? Và nhập-cuộc nửa vời có phải là giải-pháp an ổn cho lương-tâm?
Thà Lại chỉ là luật-sư, hoạt động ngoài-chính-quyền như Thời, đứng hẳn về phía đối-lập trong dân-nhân, hoặc chỉ là huấn-sư trong một trường Luật, hoặc công-khai đối-lập trong các chức-vụ lập-pháp và dân-cử… Ðằng này, trong cương-vị công-cử, nếu gặp nghịch-cảnh, thái độ của anh sẽ như thế nào …
Tuy nhiên, lịch-sử cũng đã sang nhiều trang; cả Nguyễn Xuân Lại lẫn tôi, cũng như mọi người, đều đã lớn hơn, khôn hơn. Trên đường tiến tới Dân-Chủ, dân-nhân Miền Nam Việt-Nam đã bước những bước khá dài. Ít nhất thì, ngày xưa, hễ thiếu kính-trọng đối với Ngô Ðình Diệm là cầm chắc cái chết trong tay; nhưng, ngày nay, mọi người đều tự do chỉ-trích, thậm-chí mạt-sát, Nguyễn Văn Thiệu mà không hề-hấn gì. Giới trí-thức phải hiểu rằng tài-năng, đạo đức, thiện-chí, và kết-quả phục-vụ là những yếu-tố cần-thiết để thẩm định giá-trị của một con người. Ðã giỏi Luật-Pháp, mà cũng rành về Chính-Trị và các Ngành khác, hoặc ngược lại, thì tài-năng mới không phiến diện; và đã tham-gia thì phải dấn thân, có thế đạo đức mới vẹn toàn.
Tôi bắt tay Nguyễn Xuân Lại thật chặt, để mừng anh, và để truyền đạt qua anh niềm tin của tôi rằng bạn mình bây giờ nhất định đã tiến rất xa …
Vào khoảng cuối thiên-niên-kỷ trước, tôi gặp lại Nguyễn Xuân Lại tại một buổi sinh-hoạt của Cựu CSQG Miền Bắc California ở San Jose. Lại cho biết là vừa được Cựu Tống-Thống Nguyễn Văn Thiệu mời hợp-tác trong một chương-trình tranh-đấu cho Quốc-Gia. Tôi không biết nói gì, chỉ thành-tâm chúc anh thành-công mà thôi.
Lê Xuân Nhuận là người đầu tiên công-khai và chính-thức tố-cáo các hành-vi sai trái dưới chế-độ Ngô Đình Diệm.
Sinh hoạt văn học miền Nam trước 1975
Sinh hoạt văn học miền Nam trước 1975
Nhân thời điểm 30 tháng Tư, nhà báo Đinh Quang Anh Thái ghi lại các buổi trò chuyện ông đã thực hiện với một số nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ hiện đang sống tại Việt Nam hay đã ra hải ngoại, để biết ký ức và cảm nhận của họ về cái ngày “làm cho triệu người vui và triệu người buồn” này.
VÕ ĐẮC DANH là người cầm bút đã thành danh ở Việt Nam sau 1975. Anh viết nhiều, các tác phẩm tiêu biểu cho ngòi bút sắc bén của Danh là Nỗi Niềm U Minh Hạ, Đồng Cỏ Chát, Thế Giới Người Điên, Canh Bạc, Đồi Chợ Chợ Đời…
Võ Đắc Danh tại căn nhà ở Nam California Tháng Giêng 2020. (Hình: Đinh Quang Anh Thái)
Danh sinh ra trong một gia đình “rặt cộng sản.” Nói theo cách của nhà văn Lê Phú Khải trong cuốn Lời Ai Điếu “những lần họp mặt gia đình ngày giỗ tết, trừ cái cột nhà, ai cũng là đảng viên cộng sản.”
Vậy mà tối 30 Tháng Tư 2019, ngồi với nhau tại nhà tôi, Danh nâng chén rượu, giọng dưng dưng nói “anh em mình cùng mất nước; anh Thái mất miền Nam, còn tui, Việt Nam bây giờ không còn là Việt Nam của tui nữa.”
Tôi bảo Danh, thực ra đất nước mình nào có mất, mà chỉ bị một tập đoàn cưỡng chiếm, cướp đoạt khát vọng của người dân muốn được sống đúng nhân phẩm.
Lần đầu gặp Danh năm 2011, Danh dẫn theo con gái đang học bên Mỹ, anh bảo con “tía muốn con nghe câu chuyện của những người như bác Thái để hiểu tại sao đất nước mình thống nhất mà nhiều người phải bỏ nước ra đi như vậy.”
Danh chào đời vào thời điểm chiến tranh ác liệt nhất; và lớn lên ở Cà Mau, trong vùng “giải phóng”, những phần đất mà Việt Nam Cộng Hòa gọi là vùng mất an ninh hoặc vùng Việt Cộng. Danh nói, phía Việt Cộng gọi vùng Quốc Gia là vùng Ngụy quân Ngụy quyền hoặc là vùng “tạm chiếm.”
Tháng Giêng 2020, từ Xẻo Lá gần Sài Gòn, vợ chồng Danh chạy ngược chạy xuôi lo mua vé máy bay để sang Mỹ ‘trốn dịch Covid 19” đang có nguy cơ bùng phát ở Việt Nam và để đoàn tụ với 2 con gái đã định cư tại Nam California từ nhiều năm qua.
Đến thăm Danh, vợ Danh nấu cho ăn mấy món thuần quê Nam Bộ: Cá kèo kho tiêu, canh bầu, thịt luộc chấm mắm ớt. Câu chuyện miên man dẫn đến đề tài sinh hoạt văn hóa của miền Nam trước 1975, Danh nói, ba Danh và cả dòng họ đều đi theo kháng chiến. Ba của Danh hồi ấy là xã ủy viên, trưởng ban binh vận xã nên nhà Danh thường là điểm hội họp của cơ quan ba Danh và có khi cũng là điểm họp của xã ủy. “Vì thế mà những câu nói mang tính ‘thời sự’ của mấy chú, mấy bác sớm gieo vào trí nhớ tôi đến mức thuộc lòng. Những buổi tối, tôi hay bày ra một trò chơi, lấy gối chất thành một vòng tròn trên giường giả làm các ‘nhân sự’ trong cuộc họp, và tôi đóng vai người lãnh đạo, phát biểu với các ‘đồng chí’ trong chi bộ.”
Giọng “rặt” Nam Bộ, Danh hồi tưởng nguyên văn lời đã từng phát biểu trong trò chơi thời thơ ấu: “Thưa các đồng chí, vùng nông thôn giải phóng của chúng ta tuy còn nhiều khó khăn, tuy còn phải chịu mất mát đau thương bởi bom đạn của quân thù, nhưng chúng ta không khổ bằng hàng triệu đồng bào ta ở các đô thị miền nam đang chịu đựng sự kềm kẹp của đế quốc Mỹ, từng ngày, từng giờ họ đang chờ chúng ta về giải phóng . . .”
Tuổi thơ của Danh gắn liền với hình ảnh các “chú Việt Cộng” đêm đêm đem súng về làng. Sau đó, vì chiến tranh ngày càng leo thang, mẹ Danh gởi Danh về quê ngoại để đi học trường tiểu học cộng đồng ở một vùng “tạm chiếm”. Danh nói, gọi là vùng tạm chiếm nhưng chỉ cách tỉnh lỵ An Xuyên chưa đến mười cây số. Một vùng ven trù phú và rất bình yên. Thỉnh thoảng có mấy anh mặc đồ đen từ ngoài chợ chạy xe đạp vô dạy đám trẻ cùng tuổi với Danh múa hát, và gọi là đoàn thiếu nhi nông thôn. Sau mỗi buổi sinh hoạt, ông xã trưởng mặc quân phục tới phát cho đám mỗi đứa một ổ bánh mì, ông luôn dặn dò các em phải cố gắng học giỏi, phải biết vâng lời ông bà cha mẹ, phải biết lễ phép với người lớn tuổi, phải biết ôn hòa với bè bạn và em út trong gia đình. Có khi ông đến sớm và cùng vỗ tay và hát với đám Danh:
Em là đoàn thiếu nhi nông thôn Cùng vui sống bên bờ tre ruộng đồng Em là đoàn thiếu nhi nông thôn Biết mến yêu quê mình Em áo rách nhưng lòng không rách Em biết yêu cha mẹ khó nhọc Đổ mồ hôi cho nhà em no ấm Đổ mồ hôi cho đồng thêm lúa xanh
Danh nói, hàng năm, khi bãi trường thì Danh lại khăn gói về quê, tạm biệt ngôi trường, tạm biệt “vùng tạm chiếm” để về với gia đình ở “vùng giải phóng”.
Danh kể “Những chiều êm tiếng súng giao tranh, các anh bộ đội thường ra xóm vui chơi với bà con, tối tối, các anh thường gọi mấy đưa trẻ chúng tôi lại quây quần dạy múa hát:
Qua miền Tân Đức cây là dừa xanh mát Bóng tre vườn cau đã chứa bao hờn căm Bộ đội ta về đây giải phóng quê nhà Quân với dân một lòng Cùng đồng tâm tiêu diệt hết quân thù
Sau ba tháng hè, ngày tựu trường lại đến, tôi lại trở về ‘vùng tạm chiếm’, lại hát:
Em là đoàn thiếu nhi nông thôn Em biết yêu cha mẹ khó nhọc . . .
Và cứ thế, tuổi thơ tôi cứ trôi theo dòng chảy của cuộc đời như đám lục bình trôi theo dòng nước, không thể lựa chọn bến bờ.
Thế rồi cái dòng chảy ấy dừng lại thành cái mốc lịch sử 30 Tháng Tư như cái định mệnh cho ” triệu người vui và triệu người buồn.”
Danh uống nhiều, và trong vài ba lần gặp nhau, lúc ngà ngà hơi men, có khi Danh còn hát vọng cổ cho tôi nghe. Chất giọng mạnh, sang sảng, Danh hát bài “Ghe Chiếu Cà Mau” hay tuyệt.
Hỏi Danh về kỷ niệm nào đáng nhớ nhất trong ngày 30 tháng Tư năm 75, Danh nói, lúc hơn 10 giờ trưa, “tôi ôm chiếc radio, mở hết volume chạy trong mưa, chạy dài theo xóm, vừa chạy vừa la: Dương Văn Minh đầu hàng rồi bà con ơi ! Giải phóng rồi bà con ơi! Nhưng rồi sau đó không lâu, bỗng một ngày, mấy đứa bạn học cùng trường cùng lớp với tôi mặt mày biến sắc, có đứa khóc ròng vì một sự cố xảy ra: Đánh tư sản! Đang giàu có bỗng trở thành kẻ trắng tay, đang nhà cao cửa rộng bỗng trở thành kẻ vô gia cư. Đứa thì theo cha mẹ vô sân chùa căng lều che mưa che nắng, đứa về quê tá túc với họ hàng, đứa vượt biên, đứa bỏ thây ngoài biển.
Tôi rùng mình nhớ lại trò chơi tuổi thơ, giả làm lãnh đạo phát biểu hùng hồn với mấy chiếc gối quanh giường: . . . Thưa các đồng chí, vùng nông thôn giải phóng của chúng ta tuy còn nhiều khó khăn, tuy còn phải chịu mất mát đau thương bởi bom đạn của quân thù, nhưng chúng ta không khổ bằng hàng triệu đồng bào ta ở các đô thị miền nam đang chịu đựng sự kềm kẹp của đế quốc Mỹ, từng ngày, từng giờ họ đang chờ chúng ta về giải phóng . . .”
***
TUẤN KHANH từng tốt nghiệp Nhạc Viện ở Sài Gòn bộ môn flute và sáng tác nhạc từ năm 17 tuổi. Nhiều năm gần đây, anh là Facebooker nổi tiếng với rất nhiều bài viết nêu lên những thảm trạng của đất nước và con người Việt Nam, và vạch trần những dối trá của chế độ. Có lần, nhà báo Huy Đức, tác giả cuốn Bên Thắng Cuộc, nói với tôi, Khanh viết hay đến độ, nhiều người trong giới cầm bút ở Sài Gòn nói với nhau, sáng sáng thức dậy mong đọc bài của Khanh.
Tuấn Khanh (hình Uyên Nguyên)
Mỗi lần Khanh từ Việt Nam sang Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thường tìm đến nhau để hỏi han tin tức “quê nhà quê người.” Những đêm trò chuyện, nghe Khanh nói, tôi có cảm tưởng lửa đang hừng hực cháy trong lòng Khanh khi Khanh bày tỏ nỗi phẫn uất về những chuyện xảy ra cho người dân trong nước.
Năm nay, dịch Covid 19 đang tàn phá nhiều quốc gia, không thấy Khanh sang chơi. Tôi email về Sài Gòn hỏi Khanh, rằng trong mắt Khanh, sinh hoạt văn học miền Nam ra sao, Khanh email trả lời:
Mùa hè năm 2000, trong một lần trò chuyện với một biên tập viên văn học có tên tuổi từ miền Bắc vào, tôi có nhắc đến việc sắp kỷ niệm 3 năm mất của Bùi Giáng, một thi sĩ lừng danh của miền Nam.
Đó là lần trò chuyện tổn thương đến mức, tôi không sao quên được. Người biên tập viên đầy ắp các tác phẩm văn học cổ điển của Pháp, Đức và Nga đã cười nhẹ, như chừng thương hại tôi ‘Nói thật, Bùi Giáng có gì đâu mà xuất sắc. Chỉ là người miền Nam mấy anh cứ nống lên.’ Tôi sững người, vì chưa bao giờ trong đời đối mặt với một sự phủ nhận tàn khốc đến vậy. Sự phủ nhận cứ như xô tôi – một người miền Nam hoàn toàn trung dung – vào bờ biển như một người bị đắm tàu, trôi dạt và kiệt sức. Để thuyết phục tôi về sự vĩ đại của nền văn học miền Bắc, người biên tập viên ấy kể không ngớt về Nguyễn Khải, Nguyễn Tuân, Xuân Quỳnh, Viễn Phương… tôi im lặng nghe, nhưng trong đầu cứ quay cuồng với suy nghĩ về cái hố sâu thẳm chia rẽ nhận thức của người Việt với người Việt đến vậy. Nhưng tôi quyết định không thuyết phục người đối diện. Bởi, văn hóa hay tri thức, là điều phải tự đến, không phải bằng thắng ở một cuộc tranh cãi.
Gần 10 năm sau, tôi gặp lại người biên tập viên ấy, ở đường sách Sài Gòn đối diện Vương Cung Thánh Đường, nơi các nhà sách đương thời xếp hàng nhau trưng bày các ấn phẩm mới. Nhưng nơi đó, đặc biệt có những quầy sách cũ của miền Nam Việt Nam trước 1975, lúc nào cũng có người cắm cúi tìm, lật, đọc. Người biên tập viên ấy cười, chào và nói anh đang tìm mua một số sách cũ. ‘Ở đây thì đắt nhưng còn chịu được, chứ bọn con buôn vác ra Hà Nội thì đắt gấp mấy lần.’ Trong những chồng sách cũ ấy, có đủ các tác giả được nhà nước cho phép lẫn không vui khi thấy tên. Tôi kéo ra cuốn Hoàng Tử Bé của nhà văn Pháp Antoine De Saint-Exupéry do Bùi Giáng dịch, và nói rằng bao nhiêu năm đọc lại vẫn thú vị. ‘Vâng, Bùi Giáng thì siêu rồi,’ người biên tập viên ấy nói, hào hứng.
Tôi không nhắc lại câu chuyện mà tôi như bị rạch trong tim từ 10 năm trước. Như vậy chắc là đủ. Nhận thức là thời gian, và sự khác biệt của văn học miền Nam là thấm sâu và chiếm trọn trái tim, không cần một sự thuyết phục nào. Văn hóa miền Nam bị giằng xé rách rưới, đứng giữ đống bùn lầy, vẫn mỉm cười kiêu hãnh, bất chấp đạo quân chiến thắng năm 1975 đã trút mọi căm thù lên bằng cách đốt, cấm, bắt cả những người viết sách đi tù.
Tôi được nghe rằng sau năm 1990, có một chỉ đạo từ Hà Nội, rằng những gì mà miền Nam đã có, nguồn lực của chế độ mới có thể thay thế, thì phải ra sức thay, để nhấn chìm văn hóa miền Nam vào quên lãng. Chẳng hạn như sách dịch: cuốn Hoàng Tử Bé, bản gốc Le Petit Prince của nhà văn Pháp Antoine De Saint-Exupéry do Bùi Giáng dịch được thay bằng bản mới là Hoàng Tử Nhỏ. Bố Già, nguyên tác The Godfather của Mario Puzo, bản dịch của Ngọc Thứ Lang, thì được thay bằng bản mới là Ông Trùm. Đỉnh Gió Hú, nguyên bản của Emily Bronté do Nhất Linh chuyển sang Việt ngữ thì thay bằng Đồi Gió Hú…
Rõ ràng, có một chủ trương muốn thay thế và cào bằng đối với văn học miền Nam, nhưng có vẻ như sức sống của một giai đoạn văn chương và tri thức của hai nền Cộng Hòa vẫn đứng vững. Những ấn bản được nhặt lên từ bùn lầy, bị xô giật rách rưới, vẫn tỏa sáng kỳ lạ đến tận hôm nay.
Chuyện kể, để thay sự diễn giải khô cằn. Và thú vị thay, tôi còn nhìn thấy những người bạn trẻ quanh mình, từ phía Bắc, lớn lên và được tắm mát từ những gì đã bị phế bỏ ấy.
***
THÚY HÀ, từng có thời làm thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ của đảng. Sau đó Thúy Hà lấy chồng là con một ông sĩ quan “ngụy” cao cấp, cùng chồng sang Mỹ định cư. Hà viết nhiều, và đã viết một số bài về văn học Miền Nam, đặc biệt là về thơ Cao Tần (Lê Tất Điều). Có lần nói chuyện với Hà về thơ Cao Tần, cả hai chúng tôi đều rất tâm đắc bốn câu trong bài “Mai Mốt Anh Trở Về”:
Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa Ông anh hùng ông cứu được quê hương Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo Lùa cả nước vào học tập yêu thương
Thúy Hà (hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)
Tháng Tư 2020, cả thế giới chao đảo vì con virus Covid-19, không ai ra khỏi nhà, nên chỉ nói chuyện với nhau bằng phone, bằng email. Gọi cho Hà hỏi thăm sinh hoạt gia đình cô ra sao, rồi câu chuyện đẩy đưa đến đề tài văn học Miền Nam trước 1975 đối với lớp trẻ sinh ra và lớn lên sau thời điểm đó.
Hai ngày sau, Thúy Hà gửi cho tôi những giòng sau đây:
Covid chợt bùng lên, Chiều Trên Phá Tam Giang còn dai dẳng…
Trong những tuần qua trên Facebook, tôi thấy một số bạn bè mình ở Sài Gòn, ở Hà Nội… đăng tải những tấm ảnh thành phố vắng người kèm theo lời hát “Chiều Trên Phá Tam Giang” như một sự liên tưởng thú vị và thi vị. “Giờ này thương xá sắp đóng cửa… Giờ này thành phố chợt bùng lên…”
Thật lạ, khi một bài tình ca thời chiến lại in dấu trong tiềm thức những người Việt ở lứa tuổi thậm chí còn chưa hề trải qua chiến tranh, ở cả những người sinh ra và lớn lên bên kia chiến tuyến nơi bài hát xuất xứ- một bài hát từng bị cấm đoán tại Việt Nam sau 1975.
“Thật lạ”- đó là cảm giác của tôi năm 18 tuổi lần đầu nghe bài hát này ở một quán cà phê Thủ Đức khi đang là sinh viên Văn khoa năm thứ hai (cuối thập niên 90). Lời tự sự yêu đương, khắc khoải, xao xuyến ấy tự nhiên đi vào lòng người nghe- một cô gái trẻ, là tôi. Lúc đó tôi không hề biết bài hát phổ thơ Tô Thuỳ Yên- trong giáo trình đại học khoa Ngữ văn không hề có tên ông và bóng dáng nền văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975. Khoảng trắng về học thuật đó cũng không hề gợi nên thắc mắc nào trong thế hệ sinh viên-cừu non chúng tôi thời bấy giờ.
“Thật lạ” ở cấp độ cao hơn- “sửng sốt”- là cảm giác hơn 20 năm sau đó, khi tôi lần đầu đọc được nguyên bản bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang trên một trang mạng. Bài thơ nằm ngoài sự tưởng tượng của tôi về Chiều Trên Phá Tam Giang mà tôi chỉ biết lâu nay qua ca khúc.
Bài thơ dài 155 câu, đầy đặn, truyền cảm và sống động như một cuộn phim màn ảnh rộng. Thơ của một người từng là trưởng phòng tâm lý chiến quân đội Việt Nam Cộng Hòa mà lại tự vấn hoang mang thế này ư? Giữa thời điểm 1972 khốc liệt mà người lính ấy lại độc thoại, trăn trở, suy tư về thân phận, về chiến tranh, về sống chết, về tuổi trẻ, về tình yêu và về sự thương xót đến như vậy ư? Nhất là cái tình con người thương xót con người- với kẻ thù bên kia chiến tuyến, khi cả hai đều không thoát khỏi bánh xe lịch sử và cùng phải đối mặt với tử thần.
Điều gây ấn tượng mạnh với tôi về bài thơ ngoài nghệ thuật ngôn từ chính là cái chất Người lộng lẫy ấy. Con Người được bày tỏ tận cùng tâm trạng của mình trước thời cuộc mà không bị trói buộc bởi ý thức hệ, mưu toan chính trị hay chế độ kiểm duyệt nào. Tôi tìm đọc thơ Tô Thùy Yên cũng từ đó, và yêu thích thơ ông cũng từ đó, tuy trễ tràng nhưng vẫn kịp. Sau này tôi biết thêm: Chiều Trên Phá Tam Giang được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của nền thi ca miền Nam giữa cuộc chiến.
Những tuần qua, việc lock down, cách ly xã hội diễn ra gần như trên toàn cầu và nhu cầu bày tỏ tâm trạng của con người trước biến loạn thời cuộc bằng văn chương nghệ thuật lại trỗi dậy. Và không phải ngẫu nhiên những người bạn của tôi những ngày này bỗng nhắc lại bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang của Tô Thùy Yên, và Trần Thiện Thanh phổ thành ca khúc, xem lại những bức tranh về sự khủng hoảng cô đơn của Edward Hopper…
Nghệ thuật đích thực về con người sẽ trường tồn dai dẳng, mà Covid-19 chỉ là cơn dịch có nhiệm vụ nhắc nhớ chúng ta…
***
TỐNG VĂN CÔNG từng có 56 năm là đảng viên Cộng Sản và từng là tổng biên tập báo Lao Động, một trong những cơ quan tuyên truyền “mũi nhọn” của chế độ. Ông bỏ đảng năm 2014 và xuất bản tại Mỹ cuốn hồi ký ‘Đến già mới chợt tỉnh – Từ theo cộng đến chống cộng’.
Tống Văn Công (hình Uyên Nguyên)
Đến thăm ông vào một chiều cuối Tháng Năm 2016 khi vợ chồng ông vừa từ Việt Nam sang định cư tại căn nhà người con gái ông ở thành phố Stanton-California. Tuổi đã ngoài 80, ông nhìn vẫn khỏe, đôi mắt tinh anh, nước da “như còn bám chút phèn” của vùng quê Bến Tre của ông.
Gặp lần đầu tiên nhưng bản tính xởi lởi Nam Bộ của ông làm tôi không còn rụt rè. “Chú ở lại ăn cơm với anh chị nhé,” ông Công nói “thẳng như ruột ngựa” và coi như đương nhiên tôi nhận lời. Bữa cơm có Thúy Hà, từng một thời là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ của đảng. Chính nhờ Hà và một nhà báo còn ở trong nước nên tôi mới có dịp gặp ông Công.
Ba năm liền, tôi đến thăm ông Công nhiều lần và thường là ở lại ăn cơm với hai ông bà để có nhiều giờ nghe ông nói chuyện. Có lần, cả buổi ăn, ông nói về nhận xét của ông đối với sinh hoạt văn học của miền Nam thời 1954-1975.
Nhấp chút rượu vang đỏ, ông Công từ tốn nói, “trước khi cầm bút, tôi được dạy rằng ‘báo chí là tiếng nói của Đảng’. Do làm đúng như thế, tôi trở thành Tổng biên tập ba tờ báo của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Tháng Chín năm 1969, khi ông Hồ qua đời, báo chí miền Bắc đăng lại bài viết của giáo sư Lý Chánh Trung đã đăng trên báo ở Sài Gòn, ca ngợi ông Hồ là một nhà ái quốc. Tôi hết sức kinh ngạc: ‘Ồ lạ nhỉ, báo chí của họ là tiếng nói của ai ? Tại sao họ có thể đăng bài ca ngợi kẻ thù của chế độ?’
Sau này tôi mới được biết ông Hoàng Đức Nhã, Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi của Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố : “Ở Việt Nam Cộng Hòa không có báo chí viết tốt cho chính quyền. Báo chí chỉ viết tốt cho các cương lĩnh của cá nhân, của các nhóm chính trị, của các tôn giáo và thuần túy vì mục đích thương mại. Tức là báo chí được tự do nói lên quan điểm của mình đối với mọi sự kiện mà không bị chính quyền ràng buộc.
Hỏi ông, thế lúc bấy giờ, ngoài Bắc thì sao, ông cho biết, ông và những người cầm bút khác được dạy là văn học phải sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa , tác phẩm có giá trị trước hết phải “có tính Đảng sâu sắc”. Nhưng theo ông thì các tác phẩm “được đảng đánh giá là xuất sắc sao mà quá tẻ nhạt!”
Ông nghĩ sao về giai đoạn sau Tháng Tư năm 1975, các loại sách của miền Nam bị tiêu hủy khiến nhiều người buộc phải đem sách ra bán trên vỉa hè như bán giấy lộn với giá rẻ như cho, ông nói, “Tôi cũng như nhiều người yêu sách được dịp mua nhiều quyển sách quý : Âm Thanh Và Cuồng Nộ của William Faulkner, Dr. Zhivago của Pasternak, Mùa Hè Sa Mạc của Albert Camus… Đặc biệt là sách của các nhà văn Miền Nam như Thềm Hoang, Người Kéo Màn, Chuyện Bé Phượng của Nhật Tiến, Tiếng Chim Vườn Cũ của Nguyễn Mộng Giác, Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng … Thơ của Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Du Tử Lê…
Sau này tôi được biết, trong lễ phát giải văn chương toàn quốc năm 1961-1962 , ông Trương Công Cừu, Bộ trưởng Đặc nhiệm Văn hóa và Xã hội của Việt Nam Cộng Hòa đã chúc các nhà văn miền Nam xây đắp xã hội mới ‘một thế giới gấm vóc mỹ lệ, dệt bằng tình bác ái không vụ lợi, bằng đức liêm khiết không xảo trá, và bằng tài trí không tự tôn tự đại.’ Trong một bài viết của Tiến sĩ Lubomir Svoboda, nhà phê bình văn học của Tiệp Khắc thời cộng sản nhận xét tác phẩm Người Kéo Màn của nhà văn Nhật Tiến: ‘Với bút pháp đầy trí lực, và cao hơn, tính nhân văn hay nói một cách chính xác là ông đã viết tác phẩm này bằng một trái tim nhân hậu, biết yêu thương và biết cả căm giận…’
Tôi nghĩ, có thể dùng hai nhận định nói trên để đánh giá chung cho nền văn học của Việt Nam Cộng Hòa.”
***
NGUYỄN THANH BÌNH chào đời tại tỉnh Thái Nguyên, Việt Bắc, nơi là căn cứ địa của Việt Minh. Gốc gác gia đình Bình là dân Nam Bộ và “tập kết” ra Bắc năm 48. Lúc Hội Nghị Genève đang diễn ra ở Thụy Sĩ, thân sinh của Bình, ông Nguyễn Thanh Hà (tên thật là Nguyễn Thành A), đang ở Genève với cương vị tổng thư ký đoàn đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Thân mẫu Bình, bà Huỳnh Thị Phi, người Vĩnh Long, sau đó mới ra Bắc, và sau năm 1954, làm nhân viên hành chánh của bộ Ngoại giao.
Hai đứa tôi sinh cùng năm. Chỉ hơn kém nhau 8 tháng.
Hai đứa tôi quen rồi thân nhau đúng là do “duyên nghiệp”, như cách Bình thường nói.
Nhà báo Huy Đức là người giới thiệu hai đứa tôi với nhau.
Nguyễn Thanh Bình tại Buôn Mê Thuột năm 1973. (Hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)
Năm 2015, tác giả “Bên Thắng Cuộc” đến thăm tôi. Thấy trên bàn tôi có cái tẩu hút thuốc màu trắng, Huy Đức nói, anh cho em đem về biếu một người bạn ở Việt Nam.
Khoảng một tháng sau đó, trên trang Facebook của Họa Sĩ Nguyễn Thanh Bình ở Sài Gòn có đăng hình cái tẩu với giòng chữ: Cám ơn Thái Đinh.
Vỏn vẹn 4 chữ, thế thôi. Sau đó, thản hoặc chúng tôi có liên lạc với nhau thì cũng chỉ là những câu ngắn gọn, nhưng tôi đọc nhiều bài viết của Bình và nghe bằng hữu ở quê nhà nói về chàng họa sĩ nổi danh này, tôi hình dung được Bình, một người đôn hậu, cởi mở, có lòng nhân.
Một buổi tối đầu Tháng Tám 2019, lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau khi tôi đón Bình từ Việt Nam sang Mỹ chơi.
Ba tuần ở với nhau, chúng tôi nói đủ thứ chuyện, chuyện đời, chuyện đất nước, chuyện người, chuyện mình… và nói về sinh hoạt văn học miền Nam. Bình nhận xét: “1954, người ta lấy một dòng sông chia đôi đất nước, một nửa phía Bắc, đứt lìa khỏi dòng chảy của Nam Phong, Tự Lực Văn Đoàn, nửa phía Nam vẫn tiếp nối và song hành cùng văn học thế giới. Những ai quan tâm đến văn học Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng (giai đoạn 1954 – 1975) không thể không biết những tên tuổi như Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến, Trần Hữu Tá, Võ Hồng, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên … duy trì một nền văn chương chuyên nghiệp. Đó là một nền văn học đúng nghĩa, đúng chức năng đối với xã hội, chỉ nhằm vào đối tượng duy nhất là con người.
Diện mạo văn học miền Nam (1954 – 1975) có nhiều gương mặt nổi bật, tuy nhiên, cũng giống như hội hội họa hay âm nhạc ở miền nam trước 75, nó không tạo ra được sức mạnh có tầm ảnh hưởng sâu đậm như Tự Lực Văn Đoàn và văn nghệ tiền chiến. Những cây bút xuất sắc nhất, tự mình tỏa sáng, tài năng của mỗi người được bảo toàn, hợp thành mảng văn học Việt Nam phong phú, đầy màu sắc, nhưng chưa đủ để soi rọi những ngóc ngách sâu xa của dân tộc đau khổ, oằn mình vì thời cuộc, bởi cuộc nội chiến tương tàn, thảm khốc ấy, có vai trò rất quan trọng trong tiến trình lịch sử của đất nước. Tự Lực Văn Đoàn là sự xuất hiện một văn đàn mang hồn cốt của dân tộc, trong bối cảnh nô lệ, điều ấy, nói ngắn gọn là ‘hồn dân tộc’ không bao giờ mất, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, mà điều kiện của nó là sự tự do ngôn luận. Miền Nam trước 1975, quyền tự do ngôn luận được thể chế dân chủ bảo đảm, các nhà văn đã làm hết trách nhiệm của mình, đã đặt những dấu ấn không phai mờ, nhưng uy lực đã không còn rực rỡ như các bậc tiền bối.
Tuy nhiên, lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, sẽ tạc tên những người như Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu và cả Bùi Giáng … lên tượng đài của mình, như là một phần tất yếu của hồn dân tộc những năm tháng khói lửa, đau thương …
Và Bình đọc bốn câu thơ của Bùi Giáng để kết cho buổi nói chuyện kéo dài quá nửa đêm giữa hai đứa:
“Em từ vô tận dư vang Kết chùm cỏ mọc đá vàng thiên thâu Em đi từ tình mộng đầu Trùng lai chất vấn biết đâu điệu chào … “
(Bùi Giáng)
***
TRẦN ĐĨNH là tác giả cuốn “Đèn Cù, số phận Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, tự truyện của người từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh” xuất bản tại Mỹ năm 2014.
Tết Trung Thu 2014, nhà văn Nhật Tuấn, tác giả cuốn Đi Về Nơi Hoang Dã lúc bấy giờ sống ở Bình Dương viết cho tôi một email ngắn: “Trung Thu năm nay tại Việt Nam trẻ con rước đèn lồng, còn người lớn bận rước Đèn Cù của Trần Đĩnh”.
Nhà văn Trần Đĩnh tại Mỹ năm 2015. (Hình tư liệu Đinh Quang Anh Thái)
Cuốn sách gây tiếng vang lớn cả trong lẫn ngoài nước vì tác giả tham gia Việt Minh vào lúc mới 16 tuổi và thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Và cũng vì ông còn là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập.
Do làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng, ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười… và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản.
Trong vụ án mà chế độ quy chụp là “Xét lại chống đảng”, ông cũng là một nạn nhân, tuy lao tù nhẹ hơn những người khác như Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính, Lê Trọng Nghĩa, Vũ Thư Hiên…nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn giữa hai chủ trương trong nội bộ đảng là theo Tầu hay theo Liên Xô cùng với Nghị quyết 9 dẫn tới cuộc chiến xâm lăng miền Nam bằng võ lực và đẩy Đảng Cộng sản Việt Nam lún sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Cộng.
Là người chấp bút tiểu sử Hồ Chí Minh, Trần Đĩnh có nhiều cơ hội gần gũi và tiếp xúc với nhân vật này, đủ để cho ông nêu một nhận định ngắn gọn nhưng rõ nét về ông Hồ: “Lòng trung của Hồ Chí Minh đối với Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông là vô bờ. Cho nên lòng trung với nước Việt, dân Việt vơi đi.”
Suốt thời gian Đèn Cù còn trong dạng bản thảo, tác giả thường xuyên trao đổi với tôi về những đoạn cần thêm vào, hoặc cần cắt ngắn, nhờ vậy, tôi thấy được điểm đáng quý nhất của ông là tuyệt đối không bảo thủ ý kiến của mình mà rất tôn trọng ý người khác. Trong một email viết cho tôi, ông nói, bản thân ông đã sống hầu hết cuộc đời trong một xã hội mà Đảng và lãnh tụ chiếm “đặc quyền viết, đặc quyền nói,” chỉ dùng các nhà văn làm đầy tớ, mà “ôi đã làm đầy tớ thì có đời thuở nào còn dám sáng tạo?” Vì vậy, ông chủ trương, tác giả có công đẻ ra tác phẩm, nhưng chăm bón cho nó thành hoàn hảo để ra mắt độc giả là có bàn tay nhà xuất bản, nên nhà xuất bản có quyền tỉa bớt “những cành lá làm mất đẹp cái cây.”
Đầu năm 2015, tác giả Đèn Cù từ Việt Nam sang thăm Mỹ. Gần một tháng ông ngao du thăm bà con, bạn bè và văn hữu chỉ mới nghe tiếng nhau mà chưa bao giờ gặp mặt. Những ngày được hầu chuyện với ông, ông cho tôi nghe những nhận xét hết sức sâu sắc về người và việc.
Đối với sinh hoạt văn học miền Nam thời trước 1975, ông nói “Tôi là người được hoàn cảnh ưu ái có lẽ đặc biệt. Từ bé tôi đã sống trong môi trường sách hàng nghìn quyển của gia đình-cũng như có thể mỗi tuần xem điện ảnh đều đặn vài ba buổi không mất tiền. Được đọc, được xem với tôi gần như đã thành sự thường tình. Ở căn cứ địa Tân Trào, dưới trướng tổng bí thư Trường Chinh, tôi xem các báo Pháp, Mỹ cùng hàng giá tiểu thuyết Pháp, Mỹ trong tay Đức Sáu Ngón, bạn tôi, cai quản thư viện của Trung ương. Nói thế để nhấn rằng với việc đọc, tôi như đã quen không chấp nhận rào cản cho cái đọc. Do đó ở Bắc Kinh học xong về nước, trong hai năm 1961, 62, tôi đã nhót lấy hầu hết các báo chí, tập san văn nghệ, văn học của Sài Gòn để đọc. Và xin nói thật, thấy ngụp ngay vào cái dòng chảy văn học dân tộc đậm đà chất hiện sinh chủ nghĩa Sartre và Camus nầy hơn cái dòng chảy cuồn cuộn nhưng giả tạo của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tôi đã thích những Võ Phiến, Doãn Quốc Sĩ, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Thế Uyên, Nguyễn Thị Hoàng, Bình Nguyên Lộc, Uyên Thao, Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Túy Hồng, Phan Nhật Nam, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Thụy Ý, … Các anh chị em trong Nam lôi cuốn tôi vì họ thổ lộ chân thực đầy đủ lòng dạ. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài là ở đây. Còn anh chị em nhà văn ngoài bắc thì khác, cứ phải dựa vào cái lý tưởng chưa có, để thêu dệt ra những điều viển vông để ca ngợi…Và cuối cùng rồi sao? Xôi hỏng, bỏng không.
Đêm đưa ông Trần Đĩnh ra phi trường bay về Sài Gòn, có một thoáng tôi buột miệng hát mấy câu trong một ca khúc mà chính tôi không nhớ tên: “Dù rằng sau mưa bão gió hiền hòa lại về vẫn thấy lòng hoang vu, cuộc đời là hư vô bôn ba chi xứ người khi mình còn đôi tay.”
Nghe tôi ư ử trong cổ họng, ông nói, này, nghe cháu hát Xin Thời Gian Qua Mau của Lam Phương, bác có cảm tưởng cháu đang lao theo một nỗi buồn đau nào đó đang chạy phía trước.
***
KIM CHI là khuôn mặt lớn của sinh hoạt điện ảnh miền Bắc trong cuộc chiến. Tên thật và đầy đủ là Nguyễn Thị Kim Chi. Nghệ danh của cô văn công Kim Chi trong 10 năm ở chiến trường miền Nam từ 1964 đến 1974 là Hồng Anh. Sau đó bà trở lại miền Bắc. Những năm tháng bom đạn đó, Kim Chi vừa là MC giới thiệu chương trình, vừa là diễn viên kịch, khi thiếu người, bà cũng múa hát. Bà được bộ đội đặt cho cái biệt danh là “người đẹp rừng xanh.”
Kim Chi nổi tiếng với những bộ phim như Nước Về Bắc Hưng Hải, Mùa Gió Chướng, Cánh Đồng Hoang. Tháng Giêng năm 2013, bà Kim Chi đã từ chối làm hồ sơ khen thưởng nghệ sỹ của Thủ tướng CS Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng vì cho rằng ông Dũng đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân.
Nguyên văn lời tuyên bố của bà là: “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm.”
Ngày 4 Tháng11 năm 2018, nghệ sĩ Kim Chi chính thức tuyên bố ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong lá thư gửi đảng, bà viết, “Lẽ ra tôi đã làm việc này cách đây gần 3 năm trước, khi ông Nguyễn Phú Trọng tái đắc cử Tổng Bí thư Đảng CSVN. Bởi tôi biết ông Trọng một mực theo đuổi CNXH – con đường tăm tối không có tương lai cho đất nước, đi ngược xu thế tiến bộ của nhân loại.
Nhưng ngày đó, lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh – cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Giáo sư Chu Hảo, và chồng tôi (ô. Vũ Linh), cùng nhiều bằng hữu tâm huyết khuyên tôi kiên nhẫn ở lại để giúp những người tốt trong Đảng CSVN nhận biết lẽ phải.
Tôi đã kiên nhẫn tỏ bày chính kiến ôn hoà trong mọi việc: – Xuống đường biểu tình vì nhân quyền, chủ quyền đất nước, môi trường sống… – Viết Facebook lên án những sai trái của an ninh, giới chức nhà nước. – An ủi, sẻ chia cùng tù nhân lương tâm, bà con dân oan…
Tham gia các hoạt động xã hội dân sự, với thiện ý xây dựng, tôi thành tâm mong góp tiếng nói phản biện, nhằm thức tỉnh lương tri những người đang chèo lái vận mệnh đất nước. Tôi chưa bao giờ có ý tưởng lật đổ, cổ xúy bạo lực, mà luôn thật lòng mong mỏi những người giữ trọng trách trong guồng máy nhà nước thay đổi tốt đẹp, biết yêu nước, thương dân.
Nhưng đáp lại thiện chí của chúng tôi là sự đàn áp ngày càng khốc liệt người bất đồng chính kiến; là ý đồ muốn biến nhân dân thành bầy cừu; thù ghét, khủng bố những người dấn thân tranh đấu vì những quyền cơ bản, chính đáng của con người, những giá trị phổ quát của nhân loại; hãm hại những trí thức ưu tú muốn khai trí nhân dân.
Trải qua tuổi trẻ ở chiến trường, tôi khát khao giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng than ôi! Khi nhận ra mình đã góp tuổi xanh vào một cuộc chiến huynh đệ tương tàn do mâu thuẫn ý thức hệ quốc tế, tôi vô cùng đau đớn. Nhiều đêm trắng tôi thao thức, khi những người ưu tú lần lượt vào tù. Hàng triệu dân oan không nhà làm nhói tim tôi. Im lặng là đồng loã cái ác, là có tội…”
Một đoạn khác trong lá thư, bà viết: “Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, mà Đảng CSVN lấy làm nền tảng tư tưởng, chỉ là một học thuyết phản khoa học, phi thực tế, cổ xúy bạo lực ‘đấu tranh giai cấp’, hiếu chiến, tạo bất công, gieo rắc đói nghèo lạc hậu, độc đoán thủ tiêu mọi quyền tự do chính đáng của nhân dân…
…Phần lớn lãnh đạo Đảng CSVN tự hoang tưởng, tha hóa biến chất ngày một tồi tệ, làm đất nước ngày càng tụt hậu, nhân dân lầm than. Đã đến lúc tôi phải rời khỏi cái đội ngũ mà thế lực hắc ám ngự trị trong Đảng CSVN đang lạm dụng làm bình phong che chắn cho động cơ vị kỷ, tệ hại của họ.
Tôi thành tâm mong mỏi ngày càng có nhiều đảng viên có lương tri, còn tâm huyết với dân, với nước, nhất là thế hệ trẻ, tiếp tục rời bỏ Đảng CSVN, rời bỏ Đoàn TN CSVN.
Vận nước, tương lai dân tộc tùy thuộc mỗi người Việt Nam chúng ta.”
Kim Chi thăm vấn an Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Bà Kim Chi sang Mỹ nhiều lần, thăm con, thăm các học trò cũ và gặp gỡ những người có thời từng bà từng khác chiến tuyến. Gặp bà, nghe những câu chuyện của bà, quan sát bà, tôi thấy bà là một nhân cách đôn hậu, chân thật, tiêu biểu cho những mẫu người trong thơ Phùng Quán “yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét, dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu, dù ai ngon ngọt nuông chiều, cũng không nói yêu thành ghét.”
Một lần, bà tâm sự: “Trước 75, tôi ở rừng miền Đông Nam bộ. Thỉnh thoảng mới đọc lén được một tờ báo của miền Nam, do một ai đó vừa đi thăm gia đình móc về. Ấn tượng của tôi là những tờ báo ấy được trình bày đẹp mắt và phong phú hơn rất nhiều báo chí ở miền Bắc lúc bấy giờ. Nhưng tôi không có nhiều cơ hội để tiếp xúc với báo chí miền Nam trong giai đoạn đó.
Cho mãi tới năm 1978, sau khi học xong khóa đạo diễn Sân Khấu ở Bungaria trở về, tôi có dịp sống và làm việc ở Sài Gòn. Khi ấy tôi dạy ở trường nghệ thuật sân khấu 2 ở 125 Cống Quỳnh. Đây là cơ hội vàng để tôi tìm hiểu về đời sống văn hóa của người miền Nam trước 75. Thỉnh thoảng tôi lang thang tới những cửa hiệu bán sách cũ. Tôi ngớ ra vì thấy mình có quá nhiều điều không biết. Thì ra báo chí miền Nam khi đó khá tự do. Nó được viết ra theo suy nghĩ của những người cầm bút. Nó được tỏ bày theo chính kiến của nhà báo. Báo chí của nhà nước cộng sản thì phải viết theo định hướng của đường lối cách mạng và sự chỉ dẫn của lãnh đạo. Các nhà báo ăn lương của nhà nước và thường viết theo lệnh của các tổng biên tập. Mà các tổng biên tập thì lại nhận lệnh từ cấp trên (Ban văn hoá tư tưởng) về những chủ đề trên trang báo ấy phải phản ánh. Họ chỉ được phép viết ca ngợi chế độ. Thỉnh thoảng đưa ra vài câu chuyện tiêu cực, nhưng phải tránh những nhân vật có tên tuổi. Luận điệu của họ là ‘phải bảo vệ uy tín cán bộ để cho họ lãnh đạo.’ Miền Bắc ngày ấy có nhiều tòa soạn: Thanh Niên, Phụ Nữ, Thiếu Nhi, Tiền Phong… nhưng toà soạn báo Nhân Dân là quyền uy nhất. Nhiệm vụ của tờ báo này là đưa ra chủ trương chính sách của đảng. Đội ngũ phóng viên của tờ báo này 100% là ăn lương nhà nước. Có nhiều nội dung quan trọng như phổ biến chính sách thì bài viết là của phóng viên, nhưng nó lại được ký tên bởi một ông to nào đó. Báo chí miền Bắc khi đó nhiều khi phải làm nhiệm vụ lái dư luận xã hội qua những chuyện ‘cướp, hiếp’ để tránh một vụ bê bối của một quan chức nào đó. Với luận điệu của họ rằng ‘để xử lý nội bộ’…
Không phải báo chí miền Nam trước 75 là tuyệt đối tự do. Nhưng nếu so sánh với báo chí miền Bắc ngày ấy và ngay cả bây giờ thì báo chí miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa hơn hẳn báo chí cộng sản Việt Nam.
Đó là sự khác biệt cơ bản của hai nền báo chí: VNCH và CHXHCNVN.
Năm tháng qua đi, tôi càng thấm thía rằng những người cầm bút mà không được viết theo mệnh lệnh của trái tim mình, lại phải viết theo sự sai khiến của ai đó thì chẳng có gì đáng buồn hơn. Tự do tư tưởng là niềm khát vọng cho những người sống có lý tưởng. Người cầm bút phải có TỰ DO TƯ TƯỞNG. Không để cho người ta biến mình thành những con Robo.
Hỏi bà, bà có lo sợ cho an ninh bản thân khi lớn tiếng kết án chế độ bằng những lời lẽ như thế, nữ nghệ sĩ có khuôn mặt khả ái này nói, bà “từng đi chiến trường 10 năm, không sợ chết vì bom đạn thì bây giờ coi mọi việc nhẹ như lông hồng.”
***
NGUYỄN THỊ HẬU là tiến sĩ khảo cổ học, được nhiều người biết tới với tên “Hậu khảo cổ”. Bà có nhiều công trình nghiên cứu về các nền Văn hóa Óc Eo, Đồng Nai, Sa Huỳnh, khảo cổ học đô thị… Bà cũng xuất bản nhiều cuốn sách ở các thể loại như ký, truyện ngắn, tản văn…Một số tác phẩm tiêu biểu của bà: Thế Giới Mạng Và Tôi, Ngắn & Rất Ngắn, Sài Gòn Bao Giờ Cũng Thế…
Từ trái : Nguyễn Thanh Bình, Trần Đĩnh, Nguyễn Thị Hậu và Hồng Ánh.
Nguyễn Thị Hậu sang Mỹ lần gần đây nhất trước khi thế giới bị cuốn vào trận đại dịch Covid-19 là năm 2019.
Gia đình tập kết từ Nam ra Bắc năm 1954, bốn năm sau, Hậu “khảo cổ” chào đời tại Hà Nội. Lớn lên ngoài Bắc và chỉ nhìn thấy miền Nam sau 1975, nên Nguyễn Thị Hậu có giọng nói “thuần Bắc.”
Nhiều lần gặp, ăn uống, trò chuyện, thậm chí còn đi với nhau cả một đoạn đường xa từ Nam lên Bắc Cali, có cả nữ nghệ sĩ trung hồ cầm Hồng Ánh, họa sĩ Nguyễn Thanh Bình và nhà báo Mặc Lâm, nhiều câu chuyện Hậu “khảo cổ” kể đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng về sinh hoạt xã hội miền Bắc. Nhất là những cảm nghĩ của Hậu về văn học miền Nam trước 1975.
“Sau năm 1975, nhiều người lần đầu vào Sài Gòn choáng váng khi nhìn thấy cuộc sống của thành phố này: nhà cửa, xe cộ, quần áo và hàng ngàn loại vật dụng sinh hoạt… mà hầu như gia đình nào ở Sài Gòn cũng có, trong khi đó ở miền Bắc chỉ có thể nhìn thấy vài thứ trên phim ảnh “Liên xô”, thậm chí có thứ chưa từng biết đến như TV, tủ lạnh, đồ dùng trong toilet… Có thể đọc những cảm nhận này qua hồi ký của một số người nổi tiếng mới xuất bản gần đây.
Giữa năm 1975 gia đình tôi – một gia đình miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 – đoàn tụ ở Sài Gòn. Những tháng đầu cả nhà ở tạm trong một căn phòng tại cơ quan của ba tôi (là một biệt thự trên đường Trần Quý Cáp). Trong căn phòng chừng hơn 30m vuông có một tủ sách lớn dựng suốt một bức tường. So với tủ sách đơn sơ của nhà tôi ở Hà Nội được đóng bằng những mảnh gỗ tạp, cũng chứa đầy sách, thì cái tủ sách “vĩ đại” này đã thỏa mãn ước mơ lớn nhất của tôi khi ấy! Tôi bỡ ngỡ và sung sướng làm sao khi trên đó đầy ắp các loại sách truyện, tạp chí… còn phía dưới giá sách là một dàn máy AKAI với một cuốn băng đang nghe dở “Sơn ca 7”. Đây là cơ duyên đầu tiên của tôi với văn học miền Nam và với nhạc Trịnh Công Sơn.
Từ cái tủ sách đó giờ rảnh rỗi tôi chỉ ôm sách đọc ngấu nghiến, đầu tiên là sách văn học. Lâu rồi tôi không nhớ hết tác giả và tác phẩm, nhưng tôi còn nhớ các tác giả Duyên Anh, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thụy Long, Hồ Trường An, Bình Nguyên Lộc, Chu Tử, Hoàng Hải Thủy, Bà Tùng Long, Nguyễn Thị Thụy Vũ… Vài tác giả chuyên sáng tác chuyện miền Tây như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, An Khê, Lê Xuyên… Những tác giả của Tự Lực Văn Đoàn mà ngoài Bắc chỉ giới thiệu rất ít… Ngoài ra còn nhiều truyện dịch mà ba tôi rất thích; chị tôi mê mải với Quỳnh Dao còn anh tôi thì nghiền Kim Dung…
Từ năm 1976 vào học đại học Văn Khoa tôi còn được bạn bè giới thiệu và cho mượn sách của các tác giả Mai Thảo, Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ… lúc này đã bị cấm lưu hành. Rồi khi nhiều thư viện “thanh lý” sách xuất bản tại Sài Gòn trước 1975 ba tôi đã xin được mấy thùng sách về lịch sử của Kim Định, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, các bộ sử thời Nguyễn… Thế giới văn học của tôi trở nên rộng mở và cũng mang đến cho tôi bao điều mới mẻ, cả những nỗi hoài nghi mà tôi phải mất nhiều năm mới giải đáp được.
Lúc đầu tôi không thích lắm vì phần lớn các đầu sách là loại “tiểu thuyết gia đình” với tựa sách gợi cảm và hình bìa nhiều màu sắc, cốt truyện thường đơn giản, xoay quanh những cuộc tình éo le không lối thoát do thân phận, do cuộc chiến, nhiều tình tiết “lâm ly bi đát” giống tuồng tích cải lương khi ấy. Đọc xong không để lại ấn tượng gì ngoài một kết thúc buồn, hiếm khi nào “có hậu”. Phải chăng sự thật về chiến tranh luôn hiện diện trên báo chí truyền thông làm cho xã hội bất an, cuộc chiến ngấp nghé bên ngoài đô thành đã làm cho con người mất niềm tin vào tương lai?
Nhưng rồi, dần dần một thế giới mới đến với tôi, rất khác với các tác phẩm văn học tôi từng đọc ở miền Bắc. Từ cao sang đến nghèo hèn, từ quan chức tướng lĩnh đến công chức, buôn gánh bán bưng, thế giới của các tay anh chị, tướng cướp hay gái điếm… tất cả đều hiện diện trong văn chương, không loại trừ “kiêng cữ” một ai. Trong nhiều tác phẩm không có ai thật tốt hoặc thật xấu, nhưng ở vào thời điểm khó khăn thì họ đều bộc lộ phần nhân văn ẩn sâu bên trong… Vì vậy, dù kết thúc buồn nhưng vẫn mang lại cho người đọc cảm xúc đẹp về tình người.
Các tác phẩm về cuộc chiến thực sự khốc liệt, trần trụi, ác liệt… hầu như không có bóng dáng của những lời tuyên truyền “lý tưởng cao đẹp” như ngoài Bắc mà chỉ thấy trong mỗi người lính đầy ắp nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương, tình đồng đội… Cũng không thiếu vắng cái chết đau đớn của những người lính, nỗi đau giằng xé của vợ góa con côi, nhưng ước mơ một ngày giản dị bên gia đình, bên “người yêu bé nhỏ” khi đã “tàn cơn binh đao”… là hy vọng sống sót cho những người lính trận. Bởi vì, khi cuộc chiến kết thúc thì người lính lại trở về làm dân, nếu may mắn không “xanh cỏ” thì cũng có mấy ai được “đỏ ngực”.
Để lại nhiều ấn tượng với tôi là các tác phẩm của Duyên Anh như : Dzũng Đakao, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Điệu ru nước mắt; của Nhã Ca: Truyện cho những cặp tình nhân, Thành phố buồn, Đêm nghe tiếng đại bác, Giải khăn sô cho Huế. Truyện của Nguyễn Thị Hoàng rất lạ với tôi như: Vòng tay học trò, Tuổi Sài Gòn. Còn Nguyễn Thụy Long hay nhất là Loan mắt nhung. Đặc biệt là Mùa hè đỏ lửa của tác giả Phan Nhật Nam hay bộ ba tập “Đường đi không đến” của nhà văn “chiêu hồi” Xuân Vũ… Tôi đặc biệt thích Bình Nguyên Lộc với các công trình biên khảo công phu của ông và những trang tản văn, tùy bút đẹp đến nao lòng…
Tuy nhiên, cái hấp dẫn tôi nhất chính là mỗi tác giả có phong cách riêng, dễ nhận biết qua chủ đề, cốt truyện và ngôn ngữ. Nhà văn Nam bộ hóm hỉnh, giản dị câu chữ, nhà văn miền Bắc sắc sảo, bóng bẩy, nhà văn và cũng là nhà báo thì sinh động, trực diện… Ngôn ngữ vùng miền, phương ngữ được sử dụng phổ biến. Cả một xã hội phân hóa sâu sắc, phong phú, đa dạng và cũng khắc nghiệt, tàn nhẫn như cuộc sống hiện ra, thôi thúc tôi tò mò tìm đọc và luôn ngạc nhiên mỗi khi bước vào “khu rừng” văn học miền Nam khi ấy.
Đặc biệt sách văn học cho tuổi thanh thiếu niên rất nhiều, có lẽ nổi bật nhất là Tủ sách Tuổi Hoa. Sách Tuổi Hoa chia làm ba loại: Hoa Đỏ, Hoa Xanh và Hoa Tím. Tôi còn nhớ sách Hoa Đỏ là loại trinh thám, phiêu lưu, mạo hiểm. Hoa Xanh thuộc loại tình cảm nhẹ nhàng. Hoa Tím đã xuất hiện tình yêu giữa nam nữ một cách trong sáng. Dấu hiệu thân thuộc của tủ sách là bông hoa tám cánh giản dị và xinh xắn.
Cũng phải nói đến những tiệm cho thuê sách và cửa hàng sách cũ luôn là nơi hấp dẫn với tôi chứ không phải là cửa hàng thời trang hay mỹ phẩm. Tôi còn nhớ hoài có bạn học người Sài Gòn khá kỳ thị tôi bởi cái giọng Hà Nội 75 và trang phục giản dị có phần “hổng giống ai”. Một lần không biết có việc gì bạn đến nhà tôi, nhìn thấy tủ sách bạn rất ngạc nhiên vì bên cạnh những cuốn sách tôi mang vào từ Hà Nội là rất nhiều sách xuất bản tại Sài Gòn. “Nhà Việt Cộng mà cũng có sách như nhà ‘Ngụy’ à?!” nhưng từ đó thái độ của bạn với tôi khác hẳn. Đặc biệt bạn bắt đầu đọc và rồi cũng thích nhiều tác phẩm văn học của miền Bắc.
Văn học miền Nam trước 1975 đa dạng và phong phú về tác giả, thể loại, khuynh hướng, trường phái… Đó là nhờ sự khai phóng của môi trường xã hội nói chung và môi trường sáng tác nói riêng, sự cởi mở của giới cầm bút chấp nhận những thử nghiệm, sáng tạo, tinh thần tự do dân chủ của giáo dục – nhất là giáo dục đại học. Những tác phẩm văn học tôi đọc tuy còn ít ỏi nhưng đủ để nhận biết giá trị nhân văn của một nền văn học, qua đó hiểu biết về xã hội và con người miền Nam trong cuộc chiến vừa qua. Điều đó góp phần giúp tôi thoát khỏi định kiến mặc cảm về “bên này – bên kia, thắng – thua, ta – địch” mà nhiều người cùng thời với tôi còn đang mang nặng trong lòng.”
***
DƯƠNG THU HƯƠNG tự nhận mình là “người rừng”, “mụ nhà quê răng đen, mắt toét”.
Báo chí Pháp thì gọi Dương Thư Hương là “Con Sói Đơn Độc”.
Còn lãnh đạo cộng sản Việt Nam thì chửi bà là “con đĩ chống đảng”.
Dương Thu Hương và Đinh Quang Anh Thái tại một quán ăn ở Paris năm 2005. (Hình: Đinh Quang Anh Thái)
Gọi bằng gì thì gọi, Dương Thu Hương vẫn là chính mình: bản chất chân quê không hội nhập vào thế giới mạng Internet, bỗ bã, đốp chát, đơn độc, và trên hết, ngay thẳng, hết mực với mục tiêu nhắm tới là tranh đấu cho một nước Việt Nam dân chủ, tự do, thoát khỏi cái chế độ hiện nay mà bà gọi là “chỉ sống bằng xác chết, không có bất cứ giá trị gì cả.”
Sinh năm 1948, lớn lên tại miền Bắc vào đúng giai đoạn Cộng sản Hà Nội tung toàn lực lượng nhất quyết bằng mọi giá phải đạt được tham vọng “giải phóng miền Nam thoát khỏi sự kềm kẹp của Mỹ-Ngụy.” (sic)
Như lời bà kể, cùng với hơn 100 bạn ngang lứa tuổi, bà đã cắt máu xin vào Nam “đánh Mỹ cứu nước”.
Những trải nghiệm trong chiến tranh, cùng những chua chát của Tháng Tư 1975 đã là chất liệu cho các tác phẩm sau này của bà, như “Những Thiên Đường Mù”, “Bên Kia Bờ Ảo Vọng”, “Khải Hoàn Môn”, “Đỉnh Cao Chói Lọi”, “No Mans Land” (ấn bản Anh ngữ) được dịch sang Pháp ngữ là “Terre Des Oublis”…
Dương Thu Hương là một trong những người cầm bút đã can đảm “bước qua lời nguyền”, giành lại quyền suy nghĩ bằng cái đầu của chính mình với những bài phát biểu, bài viết; và nhất là với tác phẩm “Những Thiên Đường Mù.”
Tôi chỉ biết Dương Thu Hương qua tác phẩm, mãi tới khoảng giữa tháng Tư 1997, lần đầu tiên tôi mới có dịp – qua điện thoại – nói chuyện với “Con Sói Đơn Độc.”
Sau rất nhiều lần trò chuyện thăm hỏi, Dương Thu Hương mới trải lòng nói về dấu mốc quan trọng làm thay đổi hẳn cuộc đời bà là thời điểm đoàn quân của “bên thắng cuộc” vào Sài Gòn trưa ngày 30 Tháng Tư 1975.
Trả lời cuộc phỏng vấn bằng điện thoại, Dương Thu Hương kể: “Ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã là một ngả rẽ trong đời tôi. Khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn, trong khi tất cả mọi người trong toán quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi ngồi bên lề đường khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người dân có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn.
Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ.”
Nhiều năm sau cuộc phỏng vấn lần đầu tiên đó, tôi thường xuyên điện thoại về Hà Nội nói chuyện với bà Dương Thu Hương; và thậm chí còn sang tận Paris thăm bà vào trung tuần Tháng Hai năm 2005, khi bà nhận lời mời của nhà xuất bản Sabine Wespieser Editeur để ra mắt tác phẩm đã được in bằng Anh ngữ, cuốn “No man’s land”, được dịch sang Pháp ngữ là “Terre Des Oublis”.
Trong suốt 8 năm được trò chuyện qua điện thoại và những lần gặp mặt trực tiếp, tác giả Thiên Đường Mù đã dành cho tôi nhiều cuộc phỏng vấn dài.
Tháng Tư 2020, nước Pháp và riêng thủ đô Paris đang bị dịch Covid-19 hoành hành khiến người dân ai cũng ru rú trong nhà để tránh dịch, tôi gọi điện thăm Dương Thu Hương, bà nói “Con sói đơn độc” vốn đã đơn độc nay càng đơn độc hơn và đang dành trọn thì giờ góp phần cho cuộc đấu tranh dân chủ của đồng bào tại quê nhà. Tôi nhắc lại câu bà nói với tôi Tháng Tư năm 2007:
“Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do, người dân có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ…nếu người ta muốn.
Ðó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ.”
Chú thích :
* “Bên Thắng Cuộc” là tựa cuốn sách của Nhà báo Huy Đức.
RUPERT NEUDECK – ĐẠI ÂN NHÂN CỦA THUYỀN NHÂN VIỆT NAM
RUPERT NEUDECK – ĐẠI ÂN NHÂN CỦA THUYỀN NHÂN VIỆT NAM.
Le Sa Long
Ngày 31-5-2016, tại Bệnh viện Koln ở nước Đức, đã có một trái tim nhỏ ngừng đập ở tuổi 77. Đây là một tin gây rúng động cho nhiều cộng đồng, đặc biệt là người Việt Nam di tản hiện đang sống tại Đức, vì người đó là Tiến sĩ Rupert Neudeck – một nhà Thần học Công giáo, một nhà báo, nhà hoạt động xã hội.
Những năm 70-80 của thế kỷ XX, do phương tiện truyền thông bị hạn chế, cũng như tin tức về người vượt biên rất nhạy cảm theo quan điểm của nhà cầm quyền, nói chung chưa có Facebook, Twitter… như thời bây giờ nên những vụ đắm tàu, cướp biển tấn công, hãm hiếp người di tản, một số nước châu Á cho tàu quân đội ra xua đuổi tàu chở thuyền nhân khi vào lãnh hải của họ… ít người biết đến. Nhưng lúc đó, ở các nước phương Tây, tin tức này là thời sự, nó cũng như cảnh ta đang xem trên tivi mới đây về những người dân Somalia, Lybia vượt biên chết hàng loạt trên biển.
Tình cảnh thê lương cùng đường bị xua đuổi như tội đồ của họ đã đánh động trái tim của TS Rupert Neudeck. Nó thúc đẩy ông dấn thân hành động bằng cách kêu gọi chính quyền Đức, cộng đồng xã hội, tôn giáo, các bằng hữu hãy cứu giúp những thuyền nhân Việt Nam đang bị nạn như thuyền hết xăng dầu, lương thực, chết máy, bị cướp bóc… đang lênh đênh trên biển. Khi bị nhà cầm quyền từ chối, ông không nản lòng mà đã cầm cố ngôi nhà của mình, kêu gọi bạn bè thân nhân góp tiền của để đóng thuyền ra khơi cứu người Việt Nam.
Câu chuyện về người có trái tim nhân ái này được ông Franz Alt, sau này là giám đốc Đài truyền hình Baden, kể lại vô cùng ấn tượng: “Ông ấy gõ cửa xin tôi phát lời kêu gọi cộng đồng, tôi bảo không thể làm thế được vì một ý kiến cá nhân. Ông ấy kêu gào: “Chẳng lẽ chúng ta cứ nhìn thảm cảnh như vậy mỗi ngày sao?”. Tôi trả lời: “Tôi có thể làm được gì?”. Ông ấy trả lời: “Tôi có thể cầm cố ngôi nhà đang ở để khởi sự cho chuyến đi biển”. Tôi đành nhượng bộ trước quyết tâm của con người này và cho ông ấy hai phút để phát sóng”.
Đúng vậy, sau lời kêu gọi trên đài, chỉ ba ngày sau, cả nước Đức đã hưởng ứng với số tiền đóng góp lên đến 1,3 triệu mác (tiền Đức thời bấy giờ) để thuê chiếc tàu Cap Anamur đầu tiên ra khơi vào ngày 9-8-1979 với sứ mệnh cao cả là cứu vớt người Việt Nam gặp nguy khốn trên biển Đông. Tiếp theo đó là thêm hai chiếc Cap Anamur được hạ thủy nhờ vào sự ủng hộ của những người có từ tâm. Trong thời gian 7 năm hoạt động (1979-1986), tổ chức Cap Anamur đã cứu vớt được 11.300 người vượt biển trên 223 chiếc ghe/thuyền và hầu hết được định cư tại nước Đức. Để làm được việc này, chính ông cùng với nhà văn Heinrich Boll – người đoạt giải Nobel Văn chương năm 1972 – và thân hữu đã thuyết phục thành công chính quyền Đức cho thuyền nhân Việt Nam được nhập cư vào nước này.
Được biết, ngoài việc cứu giúp cho người Việt, tổ chức do ông sáng lập đã có hoạt động giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc tại Somalia, châu Phi, Afghanistan, Pakistan. Để tỏ lòng trân trọng công lao to lớn của ông, nhà cầm quyền Đức đã tặng ông Huân chương Chevalier cao quý, nhưng hai lần ông từ chối. Chính ông đã đánh động lương tâm của nhiều người, trong đó có người Mỹ và người Việt Nam tại Mỹ. Năm 1979, chính Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã ra lệnh cho 5 tuần dương hạm đi cứu vớt những thuyền nhân và cho họ được nhập cư vào Mỹ.
Hãy tưởng tượng 11.300 người, từ năm 1979 đến nay, hơn 40 năm, số lượng này tăng lên bao nhiêu, nếu tính luôn việc họ bảo lãnh cho người thân từ Việt Nam sang thì có hàng chục ngàn số phận đã đổi thay từ nhân duyên này.
Ông kể về thời niên thiếu của ông: Lúc còn bé, thời Đệ nhị Thế chiến, ông và gia đình đã nhỡ một chuyến tàu tỵ nạn và chuyến tàu xấu số đó trúng thủy lôi của Hồng quân Liên Xô, chìm ngoài biển, mang theo trên 9.000 người. Có lẽ biến cố này đã gây ấn tượng quá lớn với một cậu bé để, khi trưởng thành, nó thôi thúc ông làm một nghĩa cử gì đó cho những nạn nhân trên biển cả chăng?
Ông ra đi về nơi thanh thản sau khi làm được việc lẽ ra của Thượng Đế, là đem sự sống lần thứ hai cho hàng chục ngàn người, và nhờ đó ông trở thành bất tử.
(*) Theo fb Pham Phu Yen.
ILE DE LUMIÈRE , CHIẾC TÀU ĐÃ CỨU HÀNG CHỤC NGÀN THUYỀN NHÂN VN
ILE DE LUMIÈRE ,CHIẾC TÀU ĐÃ CỨU HÀNG CHỤC NGÀNTHUYỀN NHÂN VN
Từ Thức
Hai biến cố lịch sử trong thế kỷ 20 đã làm thế giới thức tỉnh, vỡ mộng về thiên đường Cộng Sản : bức tường Bá Linh và boat people.
Hàng triệu người VN đã bất chấp hiểm nguy vượt biển tìm đất sống, khi Cộng Sản Bắc Việt chiếm miền Nam tháng Tư 1975. Một phần ba đã bỏ mình trên biển cả, những người khác phải đối phó với cái chết, hải tặc, đói khát..Thảm kịch boat people đã tạo một phong trào tương trợ lớn lao chưa từng thấy tại các nước Tây Phương đối với thuyền nhân VN
CÁI BẮT TAY LỊCH SỬ
Ile de Lumière ( Đảo Ánh Sáng ) cũng tạo ra cái bắt tay lịch sử của hai trí thức, triết gia hàng đầu của Pháp : một của phe tả, Jean Paul Sartre, một của phe hữu, Raymond Aron. Và làm lung lay, nếu không tan vỡ, giấc mộng thiên đường XHCN, thế giới đại đồng của cả một lớp trí thức không tưởng
Ile de Lumière ra đời do sáng kiến của Bernard Kouchner, được gọi là French Doctor, vì đã sáng lập Médecins Sans Frontières, tổ chức Bác sĩ Không Biên Giới, đưa các y sĩ Pháp đi giúp đỡ nạn nhân chiến tranh hay thiên tai trên khắp thế giới.
Trí thức Pháp thời đó có một ranh giới không ai muốn, hay có can đảm, vượt qua : tả và hữu
Sartre và Aron chống nhau kịch liệt. Sartre thiên Cộng, đã từng nói ‘’những người chống Cộng là những con chó ‘’ ( Tout anticommuniste est un chien ) . Và không lỡ một cơ hội đả kích, miệt thị Aron.
Aron là triết gia, bình luận gia chính trị hiếm hoi đã viết sách, báo không ngừng nghỉ, để vạch trần bộ mặt thực của Cộng Sản, thực chất của chiến tranh VN, và hiểm họa độc tài toàn trị đe dọa thế giới.
Hai địch thủ chính trị tạm quên hiềm khích, bắt tay nhau vì một mục tiêu chung : cứu boat people. Bên trái : Sartre, bên phải, Aron. Đứng giữa là André Glucksmann, triết gia Maoiste sau đó trở thành cây bút chống Cộng tích cực
Đó là một thái độ can đảm hiếm có ở một nước, một thời điểm, thiên tả đồng nghĩa với trí thức.Những người chống Cộng không dám bày tỏ ý kiến của mình, sợ bị coi là phản động ( réactionnaire ), chưa nói tới chống Cộng kiên trì , với những lập luận sắc bén như Raymond Aron hay Jean François Revel. Câu nói quen thuộc của trí thức thời đó : ‘’Thà lầm lẫn với Sartre còn hơn có lý với Aron ‘’ ( Il vaut mieux avoir tort avec Sartre que raison avec Aron ). Đó là cái phi lý của tinh thần mù quáng vì ý thức hệ. Sartre được ngưỡng mộ , Aron bị đả kích, chế nhạo, mặc dù với thời gian, người ta thấy , về chính trị, Sartre lầm từ đầu tới cuối, trong khi Aron có lý trên mọi phương diện. Sartre đã mua chuộc những lầm lẫn của mình bằng một thái độ đáng phục : khi tuổi đã cao, gác bỏ tự ái, đã cùng với Aron gõ cửa chính quyền, kêu gọi cứu giúp khẩn cấp các thuyền nhân VN
TỪ HẢI HỒNG TỚI ILE DE LUMIÈRE
Một ngày gần cuối năm 1979, chuyện khó tin nhưng có thực đã xẩy ra : hai ông lãnh tụ trí thức không đội trời chung, Satre và Aron, ngồi lại với nhau, lên tiếng ủng hô dự án Île de Lumière, kêu gọi dân Pháp mở rộng bàn tay tiếp đón thuyền nhân, nạn nhân của cái mà trước đó những trí thức như Sartre nghĩ là một cuộc giải phóng. Khi quân Khmer Đỏ tiến vào Pnom Penh, tờ báo trí thức thiên tả Le Monde viết : dân chúng chen lấn hai bên đường đón rước.
Bác sĩ Bernard KOUCHNER
Thảm trạng của boat people trên chiếc thuyền Hải Hồng trên màn ảnh truyền hình đã làm họ tỉnh ngủ.
Hình ảnh lạ hơn nữa là Sartre cùng với Aron vào điện Elysée, yêu cầu tổng thống Giscard d’Estaing đón nhận những thuyền nhân trên lãnh thổ Pháp.
Sartre là một trí thức anarchiste, không nhìn nhận nhà cầm quyền, hay những cơ cấu của xã hội trưởng giả, đã từng từ chối giải Nobel Văn chương.
Nước Pháp còn là nơi tiếng nói của những trí thức lớn có ảnh hưởng đáng kể. Việc Sartre cùng với Aron vào dinh Tổng thống kêu gọi giúp boat people gây mộ tiếng vang lớn trong dư luận.
Tổng thống Giscard d’Estaing chấp thuận, dân chúng vui lòng đón tiếp và tận tình giúp đỡ trên 128.000 thuyền nhân, chỉ trong những năm đầu, trong đó nhiều người đã được tàu Ile de Lumière cứu vớt ngoài khơi.
Nên nhớ lúc đó kinh tế Pháp đang kiệt quệ. Chính phủ Pháp đã quyết định ngưng nhận di dân. Việc đón tiếp, giúp đỡ, cấp giấy cư trú và giấy phép hành nghề dễ dàng cho hàng trăm ngàn boat people đi ngược lại chích sách nhà nước đã được dân Pháp ủng hộ. Hầu như không có một phản ứng tiêu cực nào, tại một xứ chia làm hai ; cái gì phe tả cho là tốt, phe hữu cho là xấu. Hay ngược lại.
Thuyền trưởng HERBELIN
Là sáng kiến của Bernard Kouchner, dự án Một con tàu cho Việt Nam được sự ủng hộ tích cực của các trí thức tả phái nổi danh như triết gia Michel Foucault, ca sĩ Yves Montand, tài tử Simone Signoret, trước đó chống Mỹ, chống chiến tranh VN.
Hình Sarte ngồi họp báo với Aron sau khi gặp Tổng thống Pháp chạy trên trang nhất tất cả các tờ báo lớn nhỏ. Ngồi giữa là André Glucksmann, triết gia thiên tả, maoiste ( người tôn thờ Mao ), sau vụ này trở thành chống Cộng. Ngày nay, tất cả đều đã qua đời, Sartre, Foucault, Aron, Gluckmann , Signoret, Montand. Bernard Kouchner về hưu. Sau khi tàu Ile de Lumière ngưng hoạt động, Kouchner rời Médecins Sans Frontières, sáng lập và điều hành tổ chức Médecins Du Monde ( Y Sĩ Thế Giới ), trước khi trở thành Tổng trưởng Ngoại Giao dưới thời Sarkozy.
NHÀ THƯƠNG NỔI
Ile de Lumière là một chiếc tàu cũ, 1500 tonnes, 90m chiều dài, được sửa cấp tốc, chạy tới đảo Poulo Bidong, ngoài khơi Mã lai , khởi đầu dùng làm nhà thương nổi, với 100 giường, chữa trị cho 20.000 thuyền nhân trên đảo.
Thuyền trưởng François Herbelin, 29 tuổi, nói đó là những kỷ niệm sâu đậm nhất trên đời ông. ‘’ Tôi rất cảm phục những người Việt rất bình tĩnh, có tổ chức, có tư cách ( dignes ), quyết tâm ra khỏi đại nạn. Khi mới tới, họ kiệt lực, nhưng hồi phục rất nhanh, nghĩ tới tương lai ‘’.
Chín tháng sau, Ile de Lumière bắt đầu sứ mạng mới : ra khơi cứu vớt những thuyền nhân phấn đấu trên biển cả, giữa cái sống và cái chết, giữa mưa bão và hải tặc.
Hàng triệu người đã liều mạng vượt biển tìm tự do, với những phương tiện thô sơ gây kinh ngạc cho người Tây phương. Hàng trăm ngàn người bỏ mạng trên biển cả.
Ile de Lumière đã cứu hàng chục ngàn người, chở về Poulo Bidong chờ ngày được nhận đi định cư ở Hoa Kỳ, Canada hay Âu Châu.
Sau 14 tháng ngược xuôi, Ile de Lumière được thay thế bởi một chiếc tầu mới, Ile de Lumière II . Herbelin thành hôn với một phụ nữ thuyền nhân Việt Nam, trở thành thuyền trưởng một tàu thương mại. Làn sóng vượt biển bớt đi từ 1986, khi VN bắt đầu cởi trói, ít nhất về kinh tế, nhưng chưa bao giờ chấm dứt, mặc dầu ngày nay boat people VN nhường chỗ trên các médias cho thuyền nhân từ các vùng khác.
DEVOIR D’INGÉRENCE
Ile de Lumière đánh dấu một phong trào tương trợ đáng cảm phục ở Pháp, và sau đó ở các nước Tây Phương. Bernard Kouchner nhân đó đưa ra chủ thuyết ‘’ Devoir d’ingérence ‘’ ( Bổn phận phải can thiệp ), theo đó các nước dân chủ Tây phương có bổn phận phải can thiệp , để cứu các nạn nhân, tại những nơi nhân quyền bị chà đạp. Sau đó, các nước Tây phương đã nhân danh nguyên tắc này để đổ bộ can thiệp ở Kosovo.
Ile de Lumière cũng đánh dấu sự thức tỉnh của trí thức thiên tả Pháp. Trước đó, từ 1975 tới 1979, Khmer Đỏ thảnh thơi tàn sát ở Cambodge, không ai phản ứng gì. Silence, on tue ( xin yên lặng, người ta đang giết người ). Người ta bịt tai, bịt mắt, bịt miệng để khỏi nghe, khỏi thấy, khỏi nói tới những sự thực phũ phàng.
Người ta không quên câu nói nổi tiếng của Sartre, khi giải thích tại sao ông ta không đề cập đến Goulag và những chà đạp nhân quyền ở Nga Xô Viết : Il ne faut pas désespérer Billancourt.Không nên làm Billancourt tuyệt vọng. Boulogne Billancourt là một ngoại ô của Paris, nơi có trụ sở của hãng xe hơi Renault, tượng trưng cho thợ thuyền Pháp. Không đả động gì tới những tệ hại ở Nga để khỏi làm tuyệt vọng giới thợ thuyền, đang mơ thiên đường XHCN như ông già trong thơ Tố Hữu, ngồi đan rổ mơ nước Nga.
Raymond Aron, tác giả cuốn L’Opium Des Intélectuels ( Thuốc phiên của trí thức ) viết : những trí thức thiên tả là những nhà cách mạng phòng khách, căm ghét xã hội đang sống, một xã hội cho họ một đời sống sung túc và đủ mọi quyền tự do, trong đó có quyền tự do ngôn luận.
Sau làn sóng boat people, sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, phong trào thiên tả đi xuống, đảng Cộng Sản Pháp trước đó là một trong hai chính đảng lớn nhất, làm mưa làm gió ở Pháp, ngày nay trở thành một đảng bỏ túi, với trên 1% phiếu bầu.
Từ Thức (Paris, Septembre 2017 )
Tây Phương đã tận tình giúp đỡ boat people VN. Đổi lại, thuyền nhân VN, bằng máu và nước mắt, đã giúp Tây phương mở mắt trước thực tế của ”xã hội chủ nghĩa” theo mô hình Cộng Sản.
Một số đoàn thể VN tại Đức đã xây một tượng đồng để vinh danh và tri ân ông Rupert Neudeck, ân nhân lớn của thuyền nhân VNtrong lâu đài Wissem, thành phố Troisdorf.
Rupert Neudeck, là một trong những người Đức được kính trọng nhất , đã được trao tặng nhiều giải về nhân quyền. Ông cùng bà, Rachel Neudeck, đã lập ‘’ Một con tầu cho VN ‘’ và đã cứu ít nhất 10.000 thuyền nhân VN những năm 80 .
Chiếc thuyền nhỏ, chở 52 thuyền nhân kiệt sức, được tầu Cap Anamur hiện còn trưng bày ở Troisdorf, một thị trấn gần Bonn
Là ký giả, triết gia, ôngNeudeck đã bỏ trọn cuộc đời để cứu giúp những người thiếu may mắn.
Ông đã sáng lập tổ chức Cap Anamur, giúp nạn nhân chiến tranh ở Phi Châu, tổ chức Mũ Xanh( Greenhelms ) giúp dân chúng ở Trung Đông.
Đôi khi được coi như một ông thánh, Rupert Neudeck mất năm 2016 , hưởng thụ 77 tuổi. Hiện nay có 4 trường học ở Đức mang tên Rupert Neudeck.
Rupert Neudeck cũng là thuyền nhân, khi chữ boat people chưa được dùng để chỉ những ngườivượt biển tìm tự do. Ông đã theo gia đình trốn khỏi Ba Lan khi còn 6 tuổi để tránh Hồng Quân N
Tượng đồngdo Joost Mayer, nghệ sĩ điêu khắc và giảng viên tại đại học nghệ thuật Aachen thực hiện. Dưới tượng ghi câu châm ngôn của thành phố Danzig, ngày nay là Gdansk, Ba Lan , nơi ông sinh ra: ‘’ Không táo bạo, cũng chẳng sợ hãi ‘’ và một hàng chữ đơn giản : ‘’ Robert Neudeck1939-2016 . Do thuyền nhân VN tại Đức xây dựng ‘’.
Không liều lĩnh, nhẹ dạ, cũng không sợ hãi, không cúi đầu trước bất cứ bạo lực nào, suốt đời làm hết sức mình để giúp người khác, đó cũng là nhân sinh quan của Rupert Neudeck
Việc vinh danh để bày tỏ lòng tri ơn đối với những nhân vật địa phương đã hết lòng giúp chúng ta trong những bước đầu cực kỳ khó khăn là một thái độ đẹp, một việc rất nên làm. Biết nhớ ơn những ân nhân của mình là dấu hiệu của một dân tộc có văn hóa, của những người tử tế.
Việc làm càng có ý nghĩa hơn khi tập đoàn cầm quyền VN dùng mọi áp lực và hành vi côn đồ để xoá bỏ mọi dấu vết của thảm kịch thuyền nhân tại các nước láng giềng
GS Nguyễn Ngọc Huy – GS Nguyễn Văn Bông – Bộ trưởng Cao Văn Thân
GS Nguyễn Văn Bông
GS Nguyễn Ngọc Huy
Bộ trưởng Cao Văn Thân
Nhà Báo Từ Chung (Báo Chính Luận)
18/04/2020
Võ Văn Quản biên soạn
Khi nhắc đến các nhân vật chính trị hàng đầu của Việt Nam Cộng hòa, bạn có thể đang nghĩ đến một vị tướng lãnh nào đó.
Thật vậy, ngay sau cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm năm 1963, hầu hết những cái tên đáng kể trên chính trường miền Nam Việt Nam đều có xuất thân nhà binh. Từ Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh cho đến Trần Thiện Khiêm, Lê Minh Đảo hay Nguyễn Khánh.
Việc tập trung vào những nhân vật này làm cho bức tranh về chính trị Việt Nam Cộng hòa có phần không hoàn chỉnh. Nhấn mạnh quá nhiều vào các nhóm quân sự kiểm soát chính quyền khiến góc nhìn về chính thể và môi trường chính trị của nền cộng hòa miền Nam Việt Nam có phần không lành mạnh, dễ bị bóp méo. Từ đó, bài viết, tư liệu dành cho các lãnh đạo dân sự thật sự của Việt Nam Cộng hòa cũng không còn bao nhiêu.
Dưới đây là bốn cái tên bạn có thể cân nhắc cho các đối thoại chính trị mới mẻ hơn về Việt Nam Cộng hòa.
Giáo sư Nguyễn Văn Bông
Nguyễn Văn Bông từng là một cái tên đầy triển vọng của chính trường miền Nam. Ông không được mấy ai ngày nay ở Việt Nam biết đến. Nếu không có một bài báo chính thống trên tờ Dân Việt phát hành hồi năm 2011 kể về chuyện biệt động thành đã ám sát ông vào năm 1971 thì có lẽ càng ít người biết đến ông hơn nữa.
Sinh năm 1929 tại Gò Công, Tiền Giang trong một gia đình thị dân nghèo, Nguyễn Văn Bông khác biệt với hầu hết các chính trị gia có tiếng của Việt Nam Cộng hòa, vốn đều xuất thân từ các gia đình danh thế, không tư bản thì cũng đại điền chủ. Thông tin về đời tư và tuổi trẻ của Nguyễn Văn Bông hiện nay rất hiếm, và đa phần chỉ còn có thể tìm thấy trong quyển hồi ký “Autumn Cloud: Vietnam War Widow to American Activist”. Quyển này do chính bà Lê Thị Thu Vân, vợ của ông Bông viết, nên có thể xem là một văn bản đáng tham khảo.
Ông bà Giáo sư Nguyễn Văn Bông và các con – Sài Gòn 1964. Ảnh: VOA/Chưa rõ nguồn.
Nguyễn Văn Bông tốt nghiệp loại ưu cấp cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ tại trường đại học danh tiếng của Pháp Sorbonne Université, chuyên ngành công pháp và sau đó là luật học. Ông trở về Việt Nam vào đầu năm 1963 và trước tiên tham gia vào hoạt động giảng dạy tại Học viện Quốc gia Hành chánh, trung tâm đào tạo nhân viên công quyền cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Trong quá trình giảng dạy, tầm nhìn của ông thu hút được đông đảo sự ủng hộ của sinh viên, và trở thành nền tảng cho các hoạt động chính trị của ông sau này.
Cuối năm 1963, chính quyền hậu Ngô Đình Diệm quyết định bổ nhiệm ông làm Viện trưởng Học viện này.
Đến năm 1968, khi cả miền Nam Việt Nam chuẩn bị cho đợt tổng tuyển cử đầu tiên của nền Đệ nhị Cộng hòa, Nguyễn Văn Bông thành lập Phong trào Quốc gia Cấp tiến (Progressive National Movement), với sự hậu thuẫn chính trị đông đảo từ sinh viên, công chức và giới trí thức miền Nam Việt Nam.
Quan điểm chính trị của phong trào thì còn nhiều tranh cãi, song cũng thể hiện được tính độc lập của phong trào này.
Một số ghi nhận ngắn như của New York Times thì cho rằng phong trào ủng hộ chính phủ đương quyền của Nguyễn Văn Thiệu, nhìn chung có thể vì Nguyễn Văn Bông có thái độ chính trị chống Cộng khá rõ ràng. Một số tài liệu khác, như trong “Di cảo cố Giáo sư Nguyễn Văn Bông” ghi nhận lại, thì đường lối mà ông Bông đặt ra là gầy dựng một chính quyền nhân dân phổ quát và dân chủ, hạn chế và từ từ đi đến triệt tiêu chính quyền quân quản đang tồn tại ở miền Nam Việt Nam. Vậy nên cũng có thể xếp phong trào vào nhóm đối lập.
GS Nguyễn Văn Bông (phía trước) GS Nguyễn Văn Tương,(bên phải) và GS Tạ Văn Tài đến trao bằng Tiến sĩ cho một sinh viên Trường Luật. Ảnh: VOA/Chưa rõ nguồn.
Dù không trực tiếp tham gia tranh cử năm 1968 – 1969, Phong trào Quốc gia Cấp tiến phát triển mạnh mẽ và trở thành một thế lực chính trị đáng nể. Đây là lần đầu tiên một phe nhóm chính trị có ảnh hưởng tại miền Nam Việt Nam không lệ thuộc quá nhiều vào tôn giáo, vùng miền hay là di sản kế thừa từ các chính đảng già cỗi từ thời kháng Pháp.
Thành công của phong trào khiến sau đó Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mời Nguyễn Văn Bông làm thủ tướng cho nội các mới. Tại thời điểm này, sau khi thực hiện thành công chính sách “Người cày có ruộng”, Nguyễn Văn Thiệu đang mong muốn mở rộng nền tảng hậu thuẫn và tính chính danh cho chính quyền mới, dần dần dân sự hóa và ổn định môi trường chính trị Việt Nam Cộng hòa.
Đây cũng là lý do Việt Cộng ám sát ông vào cuối năm 1971, lúc ông chỉ mới 42 tuổi.
Một số tác phẩm mà giáo sư Nguyễn Văn Bông để lại có thể kể đến tham luận “Đảng phái và Đối lập chính trị”, và đặc biệt nhất là quyển “Luật Hiến pháp và Chính trị học” – sách gối đầu giường một thời của sinh viên Học viện Quốc gia Hành chánh VNCH, hiện đã được trang Pro&Contra của nhà văn Phạm Thị Hoài số hóa.
Bộ trưởng Cao Văn Thân
Sinh năm 1934, Cao Văn Thân là Bộ trưởng Bộ Cải cách Đất đai và Phát triển Nông nghiệp dưới thời Nguyễn Văn Thiệu. Ông gần như “tàng hình” trong sử sách chiến tranh Việt Nam, một phần vì bị lấn át bởi thông tin của giới tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa, một phần vì giới cầm quyền đương đại của Đảng Cộng sản Việt Nam tránh nói về các lãnh đạo dân sự của “Ngụy quyền”. Vì lẽ này, rất khó để thu thập đầy đủ thông tin về thân thế và lịch sử hoạt động chính trị của ông.
May mắn là trong các tài liệu rải rác tìm được, chúng ta có thể thấy dấu ấn của Cao Văn Thân trong các thành công bước đầu của chính quyền dân sự miền Nam Việt Nam. Cụ thể, Cao Văn Thân thi thoảng được báo chí phương Tây nhắc đến như là kiến trúc sư trưởng của chính sách “Người cày có ruộng” (Lands to the Tillers), cùng những nỗ lực không mệt mỏi của ông trong việc thi hành thành công chính sách quan trọng này.
Ông Cao Văn Thân. Ảnh: Amazon.
Trong nghiên cứu có tên “Âm vang Đệ nhị Cộng hòa miền Nam Việt Nam” (Voices from the Second Republic of South Vietnam) của Giáo sư K. W. Taylor thuộc Đại học Cornell – sử gia hàng đầu về Việt Nam của Hoa Kỳ, Cao Văn Thân được ghi nhận là một trong những lứa lãnh đạo đời đầu được đào tạo luật lẫn kinh tế tại Hoa Kỳ, thay thế cho nhóm “cây đa cây đề” gốc Pháp trước đó.
Ông cũng được khen ngợi là bộ óc sáng giá nhất trong nội các của Nguyễn Văn Thiệu thời kỳ bấy giờ. Hệ thống nhân sự, chương trình đào tạo và tiến trình thực hiện “Người cày có ruộng” là do ông chuẩn bị và soạn thảo trong gần nửa năm. Các chương trình phát triển như tăng cường xuất khẩu nông sản, bảo vệ an ninh lương thực, thử nghiệm giống lúa mới cũng như mô hình sản xuất 5 năm… đều do ông đề xướng và chịu trách nhiệm.
Không phải là một nhà nghiên cứu, nhưng ông Thân có để lại quyển Agrarian reform in Vietnam, được xuất bản dưới sự bảo trợ của Hội đồng Đối ngoại Việt Nam Cộng hòa. Hiện quyển này còn có thể được tìm thấy trong Thư viện Quốc gia Australia.
Theo thông tin hồi năm 2016 từ đài VOA, Bộ trưởng Cao Văn Thân sinh sống cùng gia đình tại Canada. Tuy vậy, gần đây báo Người Việt ở Mỹ có đăng một số cáo phó nói rằng ông qua đời ngày 14/4/2020 ở Montreal, Canada.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy
Nguyễn Ngọc Huy là một nhân vật chính trị gốc gác dân sự khác bị bỏ quên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Ông là bạn đồng chí với giáo sư Nguyễn Văn Bông từ lúc là sinh viên học tập tại Pháp, và cũng là tác giả của quyển “Di cảo cố Giáo sư Nguyễn Văn Bông”.
Có thể gọi ông Nguyễn Ngọc Huy là một nhà nghiên cứu đi làm chính trị, do khối lượng bài viết và các công trình nghiên cứu đồ sộ của ông. Đáng tiếc là hầu hết chúng đều rơi vào lãng quên.
Luật Sư Vương Văn Bắc, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy (giữa) và ông Nguyễn Cao Kỳ (phải). Ảnh: virtual-saigon.net.
Giáo sư Huy sinh năm 1924, tại Sài Gòn – Chợ Lớn, gốc ở Biên Hòa. Ông gia nhập Đảng Đại Việt Quốc dân Đảng thuộc xứ bộ Nam kỳ từ khi còn khá trẻ và tiếp tục trung thành với chính đảng này cho đến tận cuối thập niên 60, dù trải qua nhiều lần bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp và phải đi tị nạn chính trị.
Sau khi lấy bằng Tiến sĩ Chính trị học ở Pháp vào năm 1963, ông trở về Việt Nam và cùng giảng dạy với GS Nguyễn Văn Bông tại Học viện Quốc gia Hành chánh, và trở thành một nhân vật lãnh đạo chủ chốt của Phong trào Quốc gia Cấp tiến. Cũng trong năm 1969, ông tự mình lập Đảng Tân Đại Việt và trở thành nhân vật chính trị đối lập với chính quyền quân quản.
Ngoài các thành tựu chính trị mà ông gắn chung tên tuổi với GS Bông, GS Huy cũng cho thấy sức viết và khả năng đóng góp vượt trội về mặt tri thức – học thuật của mình cho phong trào dân chủ tại Việt Nam.
GS Huy có một lượng kiến thức đáng nể về văn hóa và chính trị Trung Hoa, giúp ông có một cái nhìn đặc biệt hơn về địa chính trị, vai trò của văn hóa, chủ nghĩa dân tộc và tương lai của Việt Nam giữa hai làn đạn Chiến tranh lạnh. Một số tác phẩm của ông về Trung Quốc và văn hóa Đông phương có thể kể đến “Đề tài người ưu tú trong tư tưởng chánh trị Trung quốc cổ thời”, hay “Lễ trong tư tưởng chánh trị Trung Quốc cổ thời”.
Trong quyển “New Perceptions of the Vietnam War”, do Tiến sĩ Nathalie Huynh Chau Nguyen làm chủ bút [Giáo sư của Trung tâm Úc học Quốc gia (National Centre for Australian Studies) của Đại học Monash, và là một trong những sử gia tiếng tăm nhất thế giới về chiến tranh Việt Nam], người ta nhận định Nguyễn Ngọc Huy là một trong những chiến lược gia lớn trong lịch sử Việt Nam đương đại, dù ông không có cơ hội biến chúng thành sự thật.
Nguyễn Ngọc Huy là chủ bút của tờ nguyệt san Cấp tiến với hàng loạt các bài viết sắc sảo về tình hình chính trị miền Nam Việt Nam. Ông cũng là tác giả của tác phẩm “Sự tồn vong của một quốc gia” (Survival of a Nation). Tác phẩm này được ca ngợi là có thể hóa giải nhiều vấn đề của chính quyền miền Nam Việt Nam, và những cuộc đảo chính chống Ngô Đình Diệm dẫn đến sự thống trị của giới tướng lĩnh trong chính trường cũng sẽ không xảy ra nếu các nguyên tắc quản trị Việt Nam đặc trưng của ông được thừa nhận. Đáng tiếc là hiện nay chưa thể tìm ra bản thảo gốc đầy đủ của tác phẩm này.
Sau 1975, GS Huy tị nạn ở Hoa Kỳ, và tiếp tục hoạt động đấu tranh dân chủ của mình với kỳ vọng có thể trở về Việt Nam và thúc đẩy các phong trào dân chủ bên trong Việt Nam. Tuy nhiên, ông mất sớm vào năm 1990. Quyển “The tradition of human rights in China and Vietnam”, do ông cùng GS Stephen B. Young chấp bút, hiện vẫn còn được lưu hành.
Nhà báo Từ Chung
Từ Chung là biên tập viên, là cây bút của tạp chí Chính Luận, một trong những tờ báo độc lập được đón đọc và nể trọng nhất miền Nam Việt Nam thời điểm bấy giờ.
Cũng như Bộ trưởng Cao Văn Thân, thông tin về thân thế và lịch sử hoạt động của Từ Chung gần như là không tồn tại. Tản mạn trong một vài bài viết trên mạng, như của Hoàng Hải Thủy nói về hai tờ Ngôn luận và Chính luận, Từ Chung có được nhắc đến như là thư ký của tờ báo, từng du học tại Thụy Sĩ. Nhưng còn thông tin về thân thế của ông thì gần như không có.
Riêng tạp chí Chính Luận thì được bàn khá chi tiết trong nghiên cứu của tác giả Tran Nu Anh có tên “South Vietnamese Identity, American Intervention, and the Newspaper Chính Luận”, đăng tải trên tạp chí khoa học Journal of Vietnamese Studies của Đại học California. Được thành lập vào năm 1963, và vận hành cho đến tận khi Sài Gòn thất thủ, Chính Luận là tờ tạp chí tồn tại lâu đời nhất và là tờ báo được đọc nhiều nhất. Trong năm 1974, tạp chí phát hành được hơn 13.000 bản mỗi ngày, cao nhất trong các báo miền Nam Việt Nam.
Một trang báo Chính luận. Ảnh: sachhiem.net.
Như nghiên cứu chỉ ra, tờ Chính Luận là diễn đàn lớn nhất bàn luận về danh tính Việt Nam giữa “cơn bão” văn hóa Mỹ và tiền Mỹ. Các bài viết đặt ra những câu hỏi về danh tính người Việt, vai trò của người Mỹ, rồi cả hình ảnh và vai trò của người phụ nữ trong sự giao thoa giữa phương Đông và phương Tây.
Song đồng thời, đây cũng là tờ báo hiếm hoi dành thời gian chỉ trích những sai lầm của chính phủ Việt Nam Cộng hòa lẫn hành vi khủng bố thường trực của phe Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam (hay Việt Cộng).
Sự trỗi dậy của tờ báo phần lớn nhờ vào tầm nhìn và chủ trương của ông Đặng Văn Sung, một dân biểu có tiếng, và hoạt động quản trị của thư ký – biên tập viên Từ Chung.
Cuối năm 1965, sau nhiều loạt bài chỉ trích hành vi tấn công dân thường và các hoạt động quân sự không phù hợp của phe Việt Cộng, Đặng Văn Sung và Từ Chung nhận tối hậu thư của phe này: một là im lặng – hai là chết.
Vài ngày sau khi nhận được tối hậu thư, Từ Chung thay mặt tòa soạn viết thư trả lời phe Việt Cộng đăng trên Chính Luận. Theo ghi nhận của “Vietnam Information Notes” do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lưu trữ, Từ Chung khẳng định rằng Chính Luận là một tờ báo trung lập và từng vạch trần tất cả sai phạm của mọi bên trong chính trường miền Nam, song duy chỉ có Việt Cộng là đưa ra kiểu đe dọa vô pháp như vậy. Ông khẳng định: Các anh có thể giết chúng tôi, nhưng tinh thần của chúng tôi sẽ còn sống mãi.
Ngày 30 tháng 12 năm 1965, sau hai năm quản lý tờ báo, Từ Chung bị Việt Cộng (nhiều khả năng là biệt động Sài Gòn) bắn chết ngay trước cửa nhà ông bằng bốn phát đạn.
Nguồn : https://www.luatkhoa.org/2020/04/
CÔ NHÍP: CÓ AI CÒN NHỚ?
CÔ NHÍP: CÓ AI CÒN NHỚ?
Hình ảnh của cô Nhíp trước và Nhíp của hiện nay…
Ngày 29/4/1975, xe tăng của quân Bắc Việt đã vào đến cửa ngõ Sài Gòn theo hướng Tây Bắc. Trên xe có một cô gái trẻ, xinh đẹp, đầu đội mũ tai bèo, dẫn đường. Sau này, đạo diễn Nguyễn Trí Việt của Hãng phim Giải Phóng đã dựa vào hình tượng đó để dựng thành phim: Cô Nhíp!
Cô Nhíp (Cao Thị Nhíp – VC thì gọi cô là Nguyễn Trung Kiên), tên thật, người thật, việc thật (có nhiệm vụ dẫn xe tăng vào Sài Gòn), giờ cô ở đâu? Sau khi hoàn thành nhiệm vụ cao cả đó, cô được gì? Cô làm gì? Cô ra sao?
Trả lời: cô Nhíp đã qua Mỹ sống từ lâu. Cô đã mang quốc tịch Mỹ với tên họ khác. Một khoảng đời với cái tên Nhíp trước đây, cô đã tự chôn vùi.
Mùa hè cách đây vài năm, ở thành phố Garden Grove, Nam California, tôi gặp lại Nhíp. Vẫn xinh đẹp như xưa nhưng khi được hỏi về ngày 29/4/1975, Nhíp trả lời: “Tôi đã quên rồi. Quên lâu lắm rồi”.
Một buổi sáng thượng tuần tháng 10 năm ngoái, “Cô Nhíp” đến nhà thăm tôi khi vừa từ Cali về lại VN.
Tôi và nó là đôi bạn thân trước khi nó rời bỏ Sài Gòn để đến nước Mỹ xa xôi và trở thành cư dân ở đó.
Hai mươi năm có lẽ. “Cô Nhíp” năm xưa đã mất dấu thật rồi. Chỉ còn đây, một người Mỹ gốc Việt.
Chuyện gì đã xảy ra trên quê hương VN tôi vậy? Sử sách sẽ ghi chép thế nào đây? Cả tôi lẫn nó đều không ai nhắc về “Cô Nhíp” với chiếc xe tăng từ Củ Chi tiến về Sài Gòn, cái chuyện nó rời bỏ VN và quên đi quá khứ “hào hùng” của nó.
Có nỗi xót xa không thể nói thành lời.
(Sài Gòn báo)
Bức ảnh 1: Nữ biệt động Nguyễn Trung Kiên (tức Cao Thị Nhíp, quê Tiền Giang) dẫn đường cho dẫn đường cho xe tăng của Sư đoàn 10 quân đoàn 3 vào đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất ngày 30 – 4 – 1975 (Ảnh: Đậu Ngọc Đản, phóng viên thuộc Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam)
Bức ảnh 2: Cô Nhíp sau khi sang Mỹ (hình chụp tại Sacramento, California) với chiếc áo dài màu cơ của dân tộc
Bức ảnh 3: Ảnh cô Nhíp (Năm 2015)
SÀI GÒN ĐÃ GIẢI PHÓNG TÔI
SÀI GÒN ĐÃ GIẢI PHÓNG TÔI
Nguyễn Quang Lập
‘…Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng..’
Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.
Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời diệu kì.
Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia. Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có. Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassete là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có.
Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassete của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thất vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casete, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca số 7. Kết thúc Sơn ca số 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon.. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác, tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Capstan, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính.. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
Giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.
Công minh lịch sử
Những ngày này có lẽ là khó chịu đựng nhất ở miền Nam Việt Nam. Không hẳn là vì nắng nóng kéo dài, vì nắng qua đến năm giờ chiều cũng dịu lại. Thứ nhất định không dịu lại, là những giai điệu tự hào vang lên khắp các ngõ ngách; những lời ca tụng chiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước xuất hiện không khoan nhượng trên mọi chương trình thời sự, bất kể khung giờ. Mà không chỉ có thời sự. Tôi vừa xem một chương trình thể thao trên VTV1, trong đó có một cựu cầu thủ kể về trận đấu giao hữu đầu tiên giữa hai miền sau khi thống nhất đất nước. Trận đấu giữa đội Tổng cục Đường sắt (miền Bắc) và đội Cảng Sài Gòn (miền Nam) diễn ra vào tháng 11 năm 1976 tại sân vận động Cộng Hoà ở Chợ Lớn, lúc đó vừa được đổi tên thành sân Thống Nhất.
Vị cựu cầu thủ đội Tổng cục Đường sắt kể, đại ý là ông và đồng đội rất xúc động vì được người dân miền Nam yêu mến. “Nói xin lỗi, người dân còn ra sờ tay sờ chân” và khen là “cầu thủ miền Bắc sao mà cao to, rắn rỏi thế”. Ông kết lại phần chia sẻ một cách bài bản, rằng được vậy là nhờ Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện cho anh em cầu thủ tập luyện ngay cả trong tình hình khó khăn. Những chương trình như vậy được phát đi từ miền Bắc, bởi những người gọi chung là trung thành với lý tưởng cộng sản. Kỉ niệm 45 năm ngày “giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước” là một dịp không thể bỏ lỡ để họ, bên thắng cuộc, tiếp tục ca ngợi chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh năm xưa.
Nhưng không phải nơi nào trên đất nước Việt Nam cũng coi đó là một chiến công. Ở nơi tôi sống, một vùng ngoại ô của thành phố Biên Hoà, ngày 30/4/1975 chưa bao giờ là một ngày vui. Chưa bao giờ người dân ở đây cho rằng miền Nam được “giải phóng” từ sự kiện ấy. Bác hàng xóm những ngày này không mở VTV, mà sẽ mở đài Á Châu Tự Do (RFA) bằng âm lượng đủ lớn để cả xóm cùng nghe được. Rất thường xuyên, đài này sẽ phát những bản tin chỉ trích chính quyền cộng sản từ góc nhìn của những người từ phía bên kia, bên thua cuộc, những người không bao giờ được phép xuất hiện trên đài truyền hình chính thống quốc gia.Ngày 30/4 trong kí ức của người dân ở đây là ngày “Việt Cộng tràn về”.
Kí ức vẫn còn mồn một trong trí nhớ của cậu tôi, một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi, về cảnh tượng những người bị kết tội theo “ngụy quân” phải đứng xếp hàng trước sân nhà thờ để bị bắn thẳng vào đầu. Đối với nhân chứng của những sự kiện khốc liệt như vậy, bốn mươi lăm năm là không đủ để họ quên. Một người bạn thời cấp hai của tôi từng bị một trận đòn oan chỉ vì đọc lịch sử hào hùng của ngày giải phóng trong sách giáo khoa thành tiếng để học thuộc, và chẳng may bà nội nghe thấy. Bạn ấy đã không biết là gia đình nội bị cướp hết tài sản sau biến cố “hào hùng” kia.
Nói như Giáo sư Chu Hảo trong cuốn Bên thắng cuộc của Huy Đức thì không thể có hoà giải dân tộc thực sự nếu như không có “công minh lịch sử”. “Công minh” không phải là tìm ra một lịch sử duy nhất đúng (tôi e là thứ ấy không tồn tại), mà có nghĩa là tiếp cận lịch sử bằng con mắt công bình và sáng suốt. Tức là để cho con người từ cả hai chiến tuyến cùng được hiện diện. Là kể lại lịch sử qua lăng kính trung dung nhất, không bị bôi đen, mà cũng chẳng được tô hồng. Là không dùng bộ máy tuyên truyền áp đặt cảm thức dân tộc bằng cách ra rả rằng mọi người dân đều rất đỗi vui mừng và tự hào trước chiến công. Sự áp đặt bất chấp ấy sẽ chỉ gây hại thôi, vì lờ đi những cảm xúc khác nhau trong nhân dân sẽ chỉ càng làm sự bất mãn tiếp tục lớn lên theo năm tháng.Tôi vẫn không thấy lịch sử công minh ở đâu trong những ngày này. Mà thiếu đi thứ ấy, hoà giải dân tộc sau bốn mươi lăm năm vẫn chỉ là ảo vọng xa xôi./.
ÔN LẠI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TRONG LỊCH SỬ TỊ NẠN VN TỪ 1975
ÔN LẠI MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TRONG LỊCH SỬ TỊ NẠN VIỆT NAM TỪ 1975
Lê Xuân Khoa
Tháng Tư 1975, sau khi chiến thắng Việt Nam Cộng hòa và kết thúc cuộc nội chiến 20 năm, cộng sản miền Bắc đã mau chóng giải tán Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, đổi tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và áp đặt chế độ độc tài toàn trị trên cả hai miền đất nước. Chính sách bóc lột và trả thù tàn ác của cộng sản đối với nhân dân miền Nam là nguyên nhân chính đã khiến trên hai triệu dân phải bỏ hết tài sản và sự nghiệp để chạy ra nước ngoài cũng trong 20 năm liên tiếp với khoảng 300,000 người thiệt mạng trên đường mạo hiểm tim kiếm tự do.
Theo các con số của Liên Hiệp Quốc, cho tới khi quốc tế chính thức chấm dứt chương trình tị nạn Việt Nam năm 1995, tổng số người ra đi lên tới 2,164,000 người, liệt kê theo từng loại như dưới đây:
Đợt 1 (cuối tháng Tư 1975) : 140,000
Đợt 2 (1975-1979) : 327,000
Đợt 3 (1980-1989) : 450,000
Đợt 4 (1990-1995) : 63,000
Số người gốc Hoa bị đẩy về Trung Quốc : 260,000
Chương trình ODP (1979-1995) : 624,000
Số người chết hay mất tích trên đường tị nạn : 300,000
Trong tổng số 2,164,000 kể trên, ngoài 140,000 người được chính phủ Mỹ di tản trong đợt đầu và 624,000 đi theo diện ODP, có khoảng 840,000 người đã vượt thoát bằng đường biển hay đường bộ trong ba đợt sau tới các trại tạm trú ở Hong Kong và một số quốc gia Đông Nam Á. Trong số này, 750,000 được nhận định cư tại Mỹ và các nước khác. Như vậy, số người không được công nhận là tị nạn và bị kẹt lại ở các nước tạm dung (first asylum countries) là 90,000, nhưng trên thực tế năm 1995 chỉ còn lại khoảng 40,000. Điều đó cho thấy là trong sáu năm từ Hội nghị quốc tế Geneva lần thứ 2 về tị nạn Đông Dương (1989) đến năm Liên Hiệp Quốc chính thức chấm dứt các chương trình tị nạn (1995), đã có khoảng 50,000 người hồi hương do tình nguyện hay bị cưỡng bách. Số 40,000 còn lại phải tiếp tục trở về nước, hầu hết bị cưỡng bách hay không chống đối (non-objectors), trước khi trại tị nạn cuối cùng được đóng cửa năm 1997.
So với các nhóm tị nạn và di dân tới Mỹ và các nước khác trong thế kỷ 20, lịch sử người Việt gốc tị nạn[1] có it nhất năm đặc điểm:
1. Việt Nam có số dân tị nạn bỏ nước ra đi đông nhất và phải trải qua những tình trạng bi thảm nhất thế giới trong thế kỷ 20 với số người bỏ mình trên đường tìm tự do lên tới khoảng 300,000 người.
2. Các chính sách và chương trình định cư tị nạn Việt Nam ở Mỹ phức tạp nhất gồm nhiều tên gọi khác nhau: Bốc Trẻ Mồ côi (baby lift), Trẻ em lai (Amerasians), Trẻ em Không Người đi kèm (unaccompanied minors), Ra đi Trật tự (ODP) gồm các diện: đoàn tụ gia đình, tù cải tạo (H.O và ROVR), nhân viên chính phủ Mỹ (U11), và nhân viên các hãng tư cùa Mỹ (V11).
3. Chính nghĩa của người tị nạn, chỉ ít năm sau khi định cư ở nước ngoài, đã được chính các lãnh đạo Đảng và Nhà nước CSVN nhìn nhận và kêu gọi “khúc ruột xa ngàn dặm” trở về hợp tác thay vì lên án và nguyền rủa như trong những năm đầu.
4. Người tị nạn có tiếng nói và vai trò ảnh hưởng tới các chính sách chấp nhận và định cư tị nạn, tham gia các hoạt động cứu vớt và bảo vệ thuyền nhân, và cuối cùng đã thật sự giúp cho Hoa Kỳ và quốc tế giải quyết vấn đề tị nạn được công bằng và nhân đạo.
5. Khi trở thành công dân của quốc gia định cư, người cựu tị nạn lại có vai trò quan trọng trong các quan hệ giữa quê hương mới và quê hương gốc, trên cả hai bình diện chính quyền và dân sự.
Qua hàng trăm cuốn sách về tị nạn Việt Nam, hầu hết các tác giả Việt Nam và ngoại quốc đã trình bày rất đầy đủ về những sai lầm và tội ác của cộng sản và những cuộc vượt thoát gian nan bi thảm của người tị nạn. Mặt khác, lịch sử tị nạn cũng cho thấy khả năng hội nhập mau chóng của người Việt Nam vào xã hội dòng chính và họ đã tạo được nhiều thành tích đáng kể trên các lãnh vực kinh tế, khoa học, nghệ thuật và ngay cả chính trị. Tuy nhiên, dường như chưa có tác giả nào làm nổi bật chính nghĩa tị nạn như được nêu ra trong điểm số 3 trên đây, là đặc điểm then chốt giúp cho người tị nạn chuyển bại thành thắng, khôi phục những giá trị của tự do, dân chủ trước sự suy đồi của chủ nghĩa cộng sản. Cho đến nay, chính nghĩa ấy mới chỉ được hàm ngụ gián tiếp trong những lời tố cáo những hành động chiếm đoạt và trả thù tàn nhẫn của cộng sản đối với nhân dân miền Nam để giải thích nguyên nhân tị nạn. Điểm số 4 cho thấy ảnh hưởng tích cực của công dân Mỹ gốc tị nạn đối với các nhà làm chính sách trong những cuộc vận động cứu trợ và định cư tị nạn. Đáng tiếc là giữa những tổ chức cộng đồng có những vụ công kích nhau chỉ vì nghi ngờ hay ngộ nhận về cách làm việc khác nhau nhưng cùng chung mục đích, tệ hại nhất là những trường hợp tung tin thất thiệt hay trình bày sự kiện sai lạc chỉ cốt đạt được lợi ích cá nhân. Điểm số 5 liên quan đến tình hình chính trị phức tạp ở Việt Nam về cả hai mặt đối nội và đối ngoại từ sau 1995 đến nay, có ảnh hưởng tới quan hệ giữa người Việt Nam ở nước ngoài với chính quyền và nhân dân trong nước. Lý do vì từ sau 1995, cộng đồng người Việt hải ngoại không chỉ có thêm người tị nạn chính trị, do tự ý hay bị trục xuất, mà còn có số đông là di dân trong đó có không ít thân nhân xa gần của đảng viên cộng sản cao cấp hòa nhập vào cộng đồng cựu tị nạn nhưng cũng đang làm biến đổi các quan hệ giữa trong và ngoài nước.
Trong phạm vi của một bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 45 ngày 30/4/1975, tôi không thể viết về tất cả 5 đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam. Do đó, tôi sẽ chỉ ôn lại đặc điểm số 3 (chính nghĩa của tị nạn) và số 4 (tiếng nói và vai trò của người tị nạn) vì đây là hai điểm quan trọng chưa được chú ý đúng mức hay còn thiếu những thông tin cần được ghi nhận như những sự kiện lịch sử. Chính nghĩa tị nạn đã tạo cơ hội cho người tị nạn đóng góp đáng kể cho các chương trình cứu giúp, bảo vệ và định cư tị nạn, vận động thành công cho sự ra đời các đạo luật ủng hộ tị nạn, và đặc biệt là tham gia đắc lực vào các nỗ lực quốc tế giải quyết những cuộc khủng hoảng về thuyền nhân tị nạn kéo dài 20 năm ở Hong Kong và các nước ĐNÁ. Ngày nay, những công dân nước ngoài gốc Việt lại có vai trò đáng kể trong sự phát triển quan hệ hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, đặc biệt trước mối hiểm họa chung là Trung Cộng. Đây cũng là những quan tâm lớn đối với tất cả những di dân và công dân ngoại quốc gốc tị nạn Việt Nam.
CHÍNH NGHĨA CỦA TỊ NẠN VIỆT NAM
Như trên đã nói, hàng trăm ngàn trang sách, bài vở và vô số hình ảnh đã trình bày lịch sử tị nạn Việt Nam như một tấn thảm kịch về chính sách cướp đoạt và trả thù độc ác của cộng sản đối với nhân dân miền Nam, những cuộc vượt thoát vô cùng bi thảm của người tị nạn, đời sống khổ cực của họ trong các trại tạm trú, nhất là phản ứng tuyệt vọng của những người bị bác bỏ quyền tị nạn và bắt buộc phải hồi hương. Tấn thảm kịch 20 năm đó cần phải được ghi chép trung thực và đầy đủ để muôn đời sau còn lưu lại tên tuổi của những kẻ chịu trách nhiệm gây nên thảm họa không từng thấy trong lịch sử dân tộc.
Tuy nhiên, tị nạn Việt Nam không chỉ là một chuỗi dài bi kịch trong những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa và những câu chuyện thương tâm trong những cuộc hành trình gian khổ của người tị nạn. Đây cũng là lịch sử một cuộc ra đi có chính nghĩa của hàng triệu người Việt Nam phải rời bỏ quê hương, tài sản và sự nghiệp chỉ vì muốn thoát khỏi chế độ hà khắc của độc tài cộng sản. Chính nghĩa của cuộc ra đi không tiền khoáng hậu này đã được chứng tỏ bằng những khoản ngoại tệ (hay kiều hối) được chuyển về nước giúp cho thân nhân, bằng hữu hay đầu tư kinh doanh, những chương trình giúp đỡ nhân đạo và cải thiện xã hội đang thực hiện khắp nước của các tổ chức phi chính phủ, không kể số lượng nhân tài chưa thể trở về giúp cho Việt Nam mau chóng trở thành một quốc gia phát triển hàng đầu trong khu vực.
Đáng ghi nhớ là chính nghĩa này đã được chính các nhà lãnh đạo cộng sản công khai thừa nhận từ giữa thập kỷ 1980 khi họ bừng tỉnh trước tình hình suy sụp mau chóng của các nước cộng sản Đông Âu, do đó đã quyết định “đổi mới hay là chết”. Nhân dân miền Nam không còn bị lên án là “ngụy” hay “phản động” và người tị nạn cũng hết bị nguyền rủa là “ma cô, đĩ điếm”. Một chính sách mới về “Việt kiều” được thiết lập, xoay 180 độ sang ca ngợi cộng đồng người Việt hải ngoại bằng những cụm từ hoa mỹ như “khúc ruột ngàn dặm”, “nguồn nội lực quan trọng” hay “bộ phận không thể tách rời” của dân tộc. Về điểm này, tác giả bài này đã nhấn mạnh trong lời kết bài thuyết trình tại Đại học Columbia, New York, nhân dịp kỷ niệm 20 năm tị nạn Việt Nam: “Hai mươi năm trước, chúng ta là những kẻ thất trận trong thời chiến. Ngày nay, năm 1995, chúng ta đã vươn lên thành những người thắng cuộc trong thời bình.”[2] Đặc biệt hơn nữa là gần 20 năm sau, nhà báo Huy Đức nổi tiếng ở trong nước cũng thẳng thắn phát biểu trong lời mở đầu cuốn sách Bên Thắng Cuộc: “Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc.”[3]
Chính nghĩa tị nạn 1975 càng sáng tỏ hơn sau khi hai quốc gia Việt, Mỹ thiết lập quan hệ bình thường năm 1995. Do sự tan rã của các nước cộng sản Đông Âu và Liên bang Xô-viết, cộng sản Việt Nam phải quay về núp bóng cộng sản Trung Quốc để duy trì chế độ nhưng không khỏi lo sợ nguy cơ đất nước bị Trung Quốc chiếm đoạt. Bởi vậy, Việt Nam cũng quyết định trông cậy vào sức mạnh kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ để có thể tồn tại độc lập và trở thành một quốc gia giàu mạnh và phát triển. Sự chuyển hướng chiến lược này đương nhiên nhìn nhận vai trò quan trọng của cộng đồng công dân Mỹ gốc Việt trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Điều này đã được những lãnh đạo cao cấp nhất ở Việt Nam long trọng xác nhận trong cả hai cuộc họp thượng đỉnh tại thủ đô Washington, DC, giữa Tổng thống Obama với Chủ tịch Trương Tấn Sang năm 2013 và với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng năm 2015.
Ngày 25.7.2013, trong cuộc họp báo công bố bản Tuyên bố Chung, khi TT Obama khẳng định “nguồn sức mạnh giữa hai quốc gia là những công dân Mỹ gốc Việt sống ở Mỹ nhưng có nhiều ràng buộc chặt chẽ với Việt Nam, và những quan hệ giữa người dân trong và ngoài nước chính là chất keo sơn gắn bó sự hợp tác mạnh mẽ giữa hai nước.” CT Trương Tấn Sang “cám ơn Hoa Kỳ đã giang tay đón nhận người Việt Nam tới định cư và nay họ đã trở thành công dân Mỹ đang đóng góp vào công cuộc phát triển chung của nước Mỹ.”
Ngày 7.7.2015, sau cuộc họp với TBT Nguyễn Phú Trọng, TT Obama lại cho giới truyền thông hay là khi đề cập đến những hoạt động hợp tác giữa người dân hai bên với nhau, TBT Trọng đã nhận định rằng “nước Mỹ có nhiều công dân gốc Việt và Việt kiều hơn bất cứ nước nào khác trên thế giới và họ đã đóng góp lớn lao cho xứ sở này. Chúng tôi muốn mở rộng những trao đổi như vậy gồm cả những chương trình thông qua Đại học Fulbright đã được chấp thuận và sắp sửa khai mạc.” Tiếp theo, ông Trọng ngỏ lời chào mừng và thăm hỏi thân tình cộng đồng người Việt ở Mỹ, hi vọng rằng mối quan hệ giữa hai nước sẽ gia tăng hơn nữa.
Trong chuyến đi Mỹ lần này, TBT Nguyễn Phú Trọng đã đề cao vai trò quan trọng của người Mỹ gốc Việt nhiều hơn CT Trương Tấn Sang hai năm trước. Ngoài phát biểu trong bản Tuyên bố chung, lần đầu tiên “nhìn nhận sự thành công của người Việt Nam tại Hoa Kỳ và nhiều đóng góp của họ đối với sự phát triển của Việt Nam và Hoa Kỳ”, TBT Trọng còn có bài diễn văn tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), trong đó ông đã dùng những từ “đặc biệt” và “hết sức quan trọng” để nói về “cộng đồng đông đảo người Việt Nam tại Hoa Kỳ” mà ông định nghĩa chính xác và thân thiện là “công dân Hoa Kỳ và cũng là đồng bào của chúng tôi”. Dù lãnh đạo cộng sản nổi tiếng về nói dối và lợi dụng cơ hội, những lời phát biểu chính thức này cho thấy họ không phủ nhận được chính nghĩa yêu nước của người tị nạn.
Cũng cần nói thêm rằng chính nghĩa của người tị nạn không chỉ được chứng tỏ bằng tinh thần yêu chuộng dân chủ và nhân quyền mà các lãnh đạo cộng sản đã phải nhìn nhận, dù miễn cưỡng, như một sự khác biệt cần được tôn trọng. Chính nghĩa đó còn được thể hiện như một thông điệp của người tị nạn nhắc nhở Hoa Kỳ về trách nhiệm đối với Việt Nam Cộng Hòa, một cựu đồng minh đã phải hy sinh quá lớn về tài sản và nhân mạng trong vai trò “tiền đồn của thế giới tự do” trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Thông điệp này được gửi đi trong bản điều trần của IRAC trước Thượng Viện Mỹ ngày 22.9.1981. Khi đó, tác giả bài này đang là Phó Giám đốc Trung tâm Tác vụ về Tị nạn Đông Dương (Indochina Refugee Action Center, IRAC)[4] lần đầu tiên ra điều trần trước Ủy ban Tư pháp Thượng viện Hoa Kỳ. Đó cũng là lúc đang có một luồng dư luận trong giới chính trị gia bảo thủ cho rằng tị nạn Việt Nam chỉ là di dân kinh tế và nước Mỹ đã mệt mỏi tình thương (compassion fatigue). Bản điều trần của IRAC kịch liệt phản bác luận điệu sai lầm này, nhấn mạnh rằng trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đất nước Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ đói kém hay loạn lạc, nhưng chưa bao giờ nhân dân Việt Nam rời bỏ quê hương ra sinh sống tại nước ngoài cho đến khi bị cai trị bởi chế độ độc tài cộng sản. Sau khi chứng minh chính nghĩa của tị nạn Việt Nam và triển vọng đóng góp cho xã hội Hoa Kỳ, tác giả kết luận bài điều trần bằng một sự kiện đau thương nhằm thức tỉnh lương tâm các nhà lãnh đạo Mỹ: “Xin đừng để các dân tộc trên thế giới phải đồng tình với cố thủ tướng Cam-bốt Sirik Matak khi ổng viết những dòng chữ cuối cùng cho Đại sứ Mỹ, từ chối sang Mỹ tị nạn và chấp nhận bị Khmer Đỏ sát hại. Ông viết: ‘Lỗi lầm duy nhất của chúng tôi làđãđặt niềm tin vào nước Mỹ’. Xin hãy tiếp tục duy trì truyền thống bày tỏ tình đoàn kết và lòng quảng đại của nước Mỹ đối với những nạn nhân của chế độ bạo tàn. Là một quốc gia và một nền kinh tế thịnh vượng, Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ không bao giờ phải hối tiếc về sự mở vòng tay đón nhận “những người đang khao khát được hít thở không khí tự do.” [5]
Chủ tọa buổi điều trần là Thượng nghị sĩ Alan K. Simpson (R-Wyoming) lập tức nhận định rằng đây là “một bài thuyết trình đầy sức mạnh” (a very powerful presentation).[6] Từ đó, ông có thái độ cởi mở hơn đối với người tị nạn từ ba nước Đông Dương.
TIẾNG NÓI VÀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI TỊ NẠN
Ngoài việc thể hiện chính nghĩa yêu nước theo lý tưởng quốc gia, chống lại chủ nghĩa và chế độ độc tài cộng sản, những người tị nạn may mắn định cư ở những nước dân chủ đã sớm góp phần đáng kể vào các nỗ lực quốc tế cứu vớt người vượt biển, chống nạn hải tặc, giúp đỡ tị nạn còn kẹt trong các trại tạm trú. Khi thuyền tị nạn bị đẩy ra khơi, họ đã lên tiếng vận động các nước giải quyết những cuộc khủng hoảng về tình trạng tị nạn tạm trú và được chấp thuận định cư. Vì không đủ thông tin và dữ kiện về tình hình tị nạn ở các nước, tác giả sẽ chỉ viết về lịch sử người Việt tị nạn ở Hoa Kỳ với giả định là vấn đề tị nạn Việt Nam trên thế giới về cơ bản có nhiều điểm giống nhau mà Hoa Kỳ là điển hình về mọi mặt. Ngoài ra, do những điều kiện thuận lợi của cá nhân và tổ chức do mình chịu trách nhiệm, đã đến lúc người viết phải nhắc đến những kinh nghiệm bản thân trong các nỗ lực chung của nhiều cá nhân và tổ chức trong cộng đồng người Việt ở Mỹ. Nhờ được đào tạo về sư phạm và nghiên cứu, người viết luôn cố gắng giữ thái độ khách quan, khoa học, tường thuật và nhận định trong tinh thần tôn trọng sự kiện có thật hay có nguồn dẫn chứng cụ thể. Lịch sử tị nạn là một phần của lịch sử Việt Nam, của Hoa Kỳ và các nước định cư, do đó cần phải được ghi chép chính xác và đầy đủ hầu tránh được những thiếu sót hay ngộ nhận, nhất là những sự kiện quan trọng đã bị vô tình hay cố ý trình bày sai sự thật về các hoạt động bảo vệ người tị nạn đã diễn ra mấy chục năm về trước.
Cuộc tị nạn bi thảm nhất thế kỷ 20 của thuyền nhân Việt Nam đã gây chấn động thế giới và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã hai lần phải triệu tập hội nghị quốc tế tại Geneva, lần đầu để giải quyết cuộc khủng hoảng về tị nạn tạm trú khi thuyền nhân Việt Nam bị các nước ĐNÁ xua đuổi (1979), và lần thứ hai để tìm kiếm giải pháp tốt nhất có thể chấm dứt những cuộc ra đi cực kỳ nguy hiểm (1989). Như trên đã nói, người tị nạn và công dân Mỹ gốc Việt đã có tiếng nói và vai trò đáng kể trong cuộc vận động Hoa Kỳ và quốc tế ngay từ sau hội nghị Geneva lần đầu, sôi nổi nhất là những hoạt động trong thập kỷ 1980 dẫn tới hội nghị Geneva lần thứ hai, và cuối cùng đã giúp quốc tế khai thông được tình trạng bế tắc của Kế hoạch Hành động Toàn diện (CPA). Điều này cũng cho thấy giải pháp thật sự cho vấn đề tị nạn Việt Nam là giải pháp chính trị, tức là thỏa hiệp bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam năm 1995. Sau đó, cộng đồng Mỹ gốc Việt vẫn không ngừng vận động định cư cho những người tị nạn còn sót lại ở Hong Kong và Phi-líp-pin, và những người đối kháng chế độ bỏ chạy sang Thái Lan.
Những hoạt động của người Mỹ gốc Việt tị nạn, từ công tác cứu giúp và bảo vệ thuyền nhân, cung cấp các dịch vụ định cư đến những cuộc vận động chính phủ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Quốc và các quốc gia tạm dung trong mấy chục năm qua rất đa dạng và đem lại nhiều kinh nghiệm thực tế cho những nhà làm chính sách trước những đợt di dân và tị nạn càng ngày càng gia tăng trên thế giới. Rất nhiều đóng góp của người gốc tị nạn trước và sau 1995, như Ủy ban Báo nguy Giúp Người Vượt Biển (BPSOS) của GS Nguyễn Hữu Xương ở San Diego[7] hợp tác với các con tàu nhân đạo quốc tế cứu vớt và giúp định cư được trên 3,000 thuyền nhân, cuộc vận động định cư tù cải tạo rất thành công của Hội Gia đình Tù nhân Chính trị và các Hội Cựu Tù nhân Chính trị, Hội nghị 14 quốc gia về Khủng hoảng Tị nạn Tạm trú do IRAC tổ chức tại Washington DC năm 1988 dọn đường cho Hội nghị quốc tế Geneva lần thứ hai, cuộc vận động của VOICE giúp cho 2,000 người tị nạn còn sót lại ở Phi-líp-pin trong tình trạng không hoàn toàn hợp pháp được định cư Mỹ, 300 tại Canada (phối hợp với Liên hội người Việt Canada), và 200 người tại Na Uy. Tất cả những đóng góp này cùng nhiều hoạt động đáng kể khác là những dấu mốc lịch sử trên chặng đường dài cứu trợ, bảo vệ và tìm kiếm giải pháp nhân đạo cho thảm kịch tị nạn Việt Nam (1979-1995). Trong khung cảnh giới hạn của một bài báo, tác giả chỉ có thể chú trọng vào một số trường hợp điển hình trong đó có những thông tin ít được biết đến hoặc đương thời không thể đưa ra công khai, do đó có sự kiện đã gây dư luận nghi ngờ hay chống đối vì ngộ nhận. Trong giới hạn đó, tác giả rút ra một phần nội dung của bản thảo cuốn sách chưa hoàn tất, thu gọn thành một bài viết có chủ đề riêng để làm sáng tỏ những sự kiện lịch sử mà đáng lẽ phải viết ra từ lâu. Dưới đây là bốn dấu mốc điển hình cho sự tham gia đắc lực của người tị nạn vào việc giải quyết các vấn đề tị nạn:
1. Phái đoàn tị nạn đi thăm các trại tạm trú
Tại hội nghị Geneva lần đầu năm 1979, nhờ Hoa Kỳ và các nước định cư quyết định gia tăng số tị nạn Việt Nam được chấp thuận định cư, các nước tạm dung ở Đông Nam Á đồng ý ngưng các biện pháp xua đuổi thuyền nhân và tiếp tục cho phép họ cập bến và nhập trại tạm trú. Tuy nhiên, sang thập kỷ 1980, số người tị nạn đường biển và đường bộ tới các trại tị nạn tăng lên gấp bội so với số người được đưa đi các nước định cư, do đó cuộc khủng hoảng tạm trú (first asylum crisis) lại bùng phát trầm trọng hơn lần trước, nhất là tại Hong Kong là nơi có nhiều người tị nạn từ Bắc Việt. Các nước cho tị nạn tạm trú ra tuyên bố chung chống thuyền nhân tị nạn. Nhiều con thuyền mong manh chở đầy người tị nạn bị đẩy ra khơi làm nhiều người chết chìm trong khi những người ở các trại tạm trú bị đối xử cực kỳ vô nhân đạo để làm nản lòng những người muốn ra đi.
Trước tình hình nguy hiểm ấy, Trung tâm IRAC lập một phái đoàn cựu tị nạn đi thăm tận nơi các trại tị nạn tạm trú ở Hong Kong và Đông Nam Á để tìm cách giúp giải quyết cuộc khủng hoảng. Chuyến đi này là bước đầu cần thiết để các đại diện tị nạn có cơ hội trực tiếp vận động những nhà làm chính sách ở các nước tạm dung, gây được sự nể trọng và tin cậy của họ. Được sự can thiệp của Bộ Ngoại giao và Quốc hội Mỹ, lần đầu tiên một phái đoàn tị nạn được đại diện các quốc gia tạm dung chính thức tiếp đón, cho phép đi thăm các trại và phỏng vấn người tị nạn, sau hết là trao đổi ý kiến về những điều mà các bên liên quan, kể cả cộng đồng người Việt hải ngoại, có thể thực hiện để cải thiện đời sống trong các trại tạm trú, giảm bớt gánh nặng cho các nước tạm dung và góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng tị nạn. Khi trở về Washington DC, phái đoàn IRAC đã mở một cuộc họp báo tại Thượng viện Hoa Kỳ do hai Thượng nghị sĩ Mark Hatfield (CH, Oregon) và Claiborne Pell (DC, Rhode Island) đồng bảo trợ. Ngoài việc báo cáo tình hình khổ cực và thiếu an ninh của người tị nạn, và đề nghị các biện pháp cải thiện cuộc sống trong các trại, phái đoàn kêu gọi LHQ triệu tập khẩn cấp hội nghị quốc tế lần thứ hai để giải quyết toàn diện các vấn đề trước mắt và lâu dài. Đại diện báo giới quốc tế, nhất là các nước cho tị nạn tạm trú, đều có mặt vả gừi bài về trong nước của họ. Có lẽ bài tường thuật rành mạch và đầy đủ nhất là bài của nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Chỉ vài tháng sau, TNS Hatfield (CH, Oregon) trình dự luật S.814 tại Thượng viện mang tên “Luật 1987 về Giúp đỡ và Bảo vệ Tị nạn Đông Dương” và DB Chet Atkins (DC, Massachussets) đưa dự luật tương tự H.R. 1940 ra Hạ viện. Một chiến dịch đại vận động các nghị sĩ và dân biểu Quốc Hội do IRAC cùng với các hội đoàn tị nạn thực hiện đồng loạt trên khắp các tiểu bang. Kết quả là Dự luật Hatfield-Atkins được lưỡng viện Quốc hội thông qua và Tổng thống Reagan hoàn toàn đồng ý và ký lệnh ban hành ngày 22.11.1987. Trong một lá thư gửi Giám đốc IRAC, TNS Hatfield cám ơn cuộc vận động thành công của người Mỹ gốc Việt và xác nhận chuyến đi thăm các trại tị nạn của phái đoàn IRAC hồi đầu năm đã gây ấn tượng tốt và tạo được đồng thuận giữa Chính phủ và Quốc hội.
2. Tham dự Hội nghị Quốc tế Geneva 1989
Đáp lời kêu gọi của phái đoàn tị nạn sau chuyến đi thăm các trại tạm trú năm 1987 và được dọn đường bởi hội nghị 14 quốc gia do IRAC tổ chức tại Washington DC năm 1988, Tổng Thư Ký LHQ chỉ thị cho UNHCR xúc tiến chuẩn bị Hội nghị Quốc tế về Tị nạn Đông Dương lần II tại Geneva vào tháng Sáu 1989. Một Nhóm Công tác Liên Chính phủ (Intergovernmental Working Group) được thành lập để soạn thảo Kế hoạch Hành động Toàn diện (Comprehensive Plan of Action, CPA) nhằm giải quyết trọn vẹn vấn đề tị nạn Việt Nam trong vòng ba năm. Dù không phải là thành viên của Nhóm Công tác, IRAC được UNHCR chia sẻ các tài liệu làm việc của Nhóm để tham khảo ý kiến trong suốt thời gian chuẩn bị hội nghị. Những nhận định và đề nghị của IRAC được Sergio Vieira de Mello, Giám đốc Phối trí Nhóm Công tác Liên Chính phủ đánh giá rất cao trong thư gửi cho Chủ tịch IRAC ngày 11 tháng 4, 1988, vì đã “chú trọng vào nhiều lãnh vực then chốt được UNHCR đặc biệt quan tâm và nỗ lực làm cho Kế hoạch Hành động Toàn diện thể hiện mọi quyền của người xin tạm trú và tị nạn.”
Tháng Chín 1988, IRAC cử Luật sư cố vấn Janelle Diller sang Hong Kong tìm hiểu tình hình các trại tị nạn và hoàn tất bản báo cáo 150 trang về tình trạng thanh lọc, điều kiện sinh sống của người tị nạn và đưa ra những đề nghị cải thiện thích hợp.[8] IRAC đúc kết các ý kiến thành một bản nhận định và đề nghị toàn diện về chế độ thanh lọc, ra đi trật tự, hồi hương tình nguyện và định cư tị nạn. Bản nhận định 25 trang này, sau khi hoàn chỉnh với sự góp ý của nhiều hội đoàn, được in thành tài liệu chính thức mang tên “Tiến đến những Giải pháp Nhân đạo và Lâu bền cho vấn đề Tị nạn Đông Dương” (Towards Humane and Durable Solutions to the Indochinese Refugee Problem) gửi cho Ủy ban Phối hợp Hội nghị Quốc tế tại Geneva xem xét trong những phiên họp chuẩn bị cuối cùng 22-26 tháng Năm, 1988. Tài liệu này có chữ ký của trên 200 hội đoàn tị nạn Đông Dương từ Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Úc.
Hội nghị Geneva diễn ra trong hai ngày 13-14 tháng Sáu 1988 với sự tham dự của đại diện 76 quốc gia. Chủ tịch IRAC được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mời tham gia phái đoàn Chính phủ Mỹ nhưng quyết định dự hội nghị với tư cách một NGO để có thể tự do nói lên quan điểm của người tị nạn. Tuy nhiên, Hội đồng quản trị của IRAC vẫn có một đại diện người Hmong trong phái đoàn Hoa Kỳ.
Ngay trong ngày đầu hội nghị, phái viên đài truyền hình BBC đã phỏng vấn chủ tịch IRAC trong khuôn viên trụ sở LHQ. IRAC cũng phối hợp với một số đại diện hội đoàn người Việt ở Thụy Sĩ và Pháp để phân phát cho các tham dự viên quốc tế bàn Tuyên bố 1 trang của IRAC nhan đề “Tiếng nói của Tị nạn tại Hội nghị Quốc tế” kèm theo bản nhận định 25 trang đã gửi tới Geneva từ tháng trước. Bản Tuyên bố bày tỏ sự quan tâm đặc biệt về hai vấn đề thanh lọc và hồi hương và nhấn mạnh vào nhu cầu giải quyết tận gốc vấn đề bỏ nước ra đi của người tị nạn.
Trước khi chấp thuận và công bố “Kế hoạch Hành động Toàn diện” (CPA), Đại hội đã nghe bài phát biểu của 37 trưởng phái đoàn trong số 76 quốc gia tham dự. Hầu hết đều xác nhận Việt Nam là nguyên nhân gây khủng hoảng tị nạn. Lớn tiếng nhất là đại diện Trung Quốc, tố cáo “Việt Nam không chỉ gây ra thảm họa tị nạn của nhân dân Việt Nam mà luôn cả nhân dân Cam-bốt và Lào.” Ngoại trưởng Anh yêu cầu Việt Nam ngưng “xuất cảng dân chúng sang các nước khác” và phải “đồng ý – mau chóng đồng ý – nhận hồi hương tất cả những người không được nhìn nhận là tị nạn qua chương trình thanh lọc của các nước cho tị nạn tạm trú.” Trưởng đoàn Hoa Kỳ Jonathan Moore cùng chung với quan điểm của IRAC là “chừng nào Việt Nam còn duy trì những điều kiện khiến nhân dân phải bỏ nước ra đi, và cho đến khi nào trong nước có những cải thiện căn bản về kinh tế, xã hội và chính trị, Hoa Kỳ vẫn cương quyết chống lại việc cưỡng bách người tị nạn tam trú phải hồi hương.” Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch thì tuyên bố dứt khoát “Chúng tôi kiên quyết bác bỏ mọi hình thức áp đặt vì áp đặt là vi phạm bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường.”
Như đã dự liệu, Kế hoạch CPA gặp nhiều trở ngại trong việc thực hiện do vấn đề thanh lọc bất công và biện pháp cưỡng bách hồi hương của các nước tạm dung, nhất là tại Hong Kong. Ngày 16/10/1989, IRAC gửi cho Ủy ban Điều hành CPA bản “Xét lại Kế hoạch CPA và Đề nghị Thi hành có Hiệu quả”. Ngày 17/11/1989, IRAC gửi thư cho Thủ tướng Anh Margaret Thatcher trước cuộc họp của Bà với Tổng thống George W.H. Bush tại Camp David ngày 24, thỉnh cầu trì hoãn quyết định hồi hương cưỡng bách tị nạn để cho UNHCR, các NGO quốc tế và cộng đồng người Việt hải ngoại cùng hoạch định chương trình hồi hương tình nguyện. Bà Thatcher không chấp thuận và ngày 11/12/1989, Hong Kong dùng bạo lực tống xuất 51 người về Việt Nam. Lập tức, cộng đồng Mỹ gốc Việt phản ứng bằng một chuỗi hoạt động tập trung vào việc chống cưỡng bách hồi hương:
· 13/12/1989, IRAC phối hợp với Nghị hội Người Việt ở Hoa Kỳ, Ủy ban Liên Tôn Bảo vệ Tị nạn và BPSOS huy động một cuộc biểu tình khổng lồ trước Đại sứ quán Anh phản đối chính sách phi nhân đạo của Chính phủ Hoàng gia Anh quốc. Trong buổi sáng cùng ngày, phóng viên James Naughtie của đài BBC đã phỏng vấn Chủ tịch IRAC về vấn đề tị nạn ở Hong Kong.
· 14/12/1989, chương trình Nightline của đài truyền hình ABC tổ chức một buổi tranh luận trưc tuyến qua vệ tinh giữa Chủ tịch IRAC Lê Xuân Khoa và Thống đốc Hong Kong Sir David Wilson về chính sách cưỡng bách hồi hương. Trước đó, GS Khoa đã có dịp gặp Thống đốc Wilson do sự giới thiệu của Bà Tuyết Nguyệt Markbreiter, công dân Anh và chủ nhiệm tạp chí Arts of Asia. Cuộc tranh luận do nhà điều khiển chương trình Forrest Sawyer làm điều hợp viên. Thống đốc Wilson gọi tị nạn Việt Nam là di dân kinh tế giống như dân nghèo Nam Mỹ tìm cách vượt qua biên giới để kiếm cơ hội sinh sống tốt hơn, bị GS Khoa bác bỏ khi ông chứng minh lập luận đó sai lầm vì thiếu hiểu biết. Thống đốc Wilson đồng ý với giải thích của GS Khoa và quay sang chỉ trích Chính phủ Mỹ hành động thiếu trách nhiệm trong việc thu nhận người tị nạn Việt Nam.
· 16/12/1989, nhật báo The Washington Post đăng bài “Forcible Repatriation: No Remedy” (Cưỡng bách hồi hương không phải là giải pháp) của Chủ tịch IRAC, với câu mở đầu mạnh mẽ: “Shame on British Prime Minister Margaret Thatcher!”.
Trước những phản ứng quyết liệt của cộng đồng người Việt và dư luận chỉ trích của thế giới, Bà Thatcher phải hoãn cưỡng bách hồi hương một tháng cho tới phiên họp sau của Ủy ban Điều hành CPA vào tháng Giêng 1990. Trong khi đó, Hà Nội đồng ý với quyết định của Hong Kong và Anh quốc trả US$620 chi phí hồi hương trên mỗi đầu người cộng với US$360 của UNHCR trợ cấp cho mỗi người hồi hương trong một chương trình mới được đặt tên là “Hồi Hương Trật Tự” (Orderly Return Program, ORP). Hoa Kỳ không phản dối chương trình này vì nó tương tự như sáng kiến “hồi hương không chống đối” (non-objection) của Ngoại trưởng Mỹ James Baker. Việc hồi hương, cưỡng bách hay không chống đối, chỉ còn là vấn đề thời gian trước mắt, và việc thi hành kế hoạch CPA vẫn còn là một thử thách lớn cho tất cả các bên liên quan.
3. Chương trình định cư tù cải tạo(H.O)
Năm 1977, một cựu nhân viên Sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Phi-líp-pin là Khúc Minh Thơ có chồng đi trại cải tạo và hai con còn kẹt ở Việt Nam sang Mỹ định cư. Bà Thơ cùng với một số bạn đồng cảnh ngộ thành lập Hội Gia đình Tù nhân Chính trị Việt Nam (HGĐTNCT) để vận động Chính phủ Mỹ can thiệp cho chồng con được thả và cho phép sang Mỹ đoàn tụ gia đình. Những nỗ lực vận động ấy được sự giúp đỡ của ông bà Shep và Hiệp Lowman, một cựu viên chức ngoại giao Mỹ tại Việt Nam, sau có thêm sự ủng hộ của hai Thượng nghị sĩ John McCain và Edward Kennedy, nhưng những cuộc thăm dò từ phía Mỹ không được Việt Nam quan tâm. Năm 1978, chồng bà Thơ được thả nhưng bệnh tật, hai năm sau thi mất. Bà Thơ vẫn tiếp tục vận động cho việc định cư cựu tù nhân chính trị.
Năm 1982, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố Việt Nam sẵn sàng thả hết tù nhân cải tạo nếu Hoa Kỳ chấp thuận cho họ sang Mỹ định cư. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ chỉ định ông Robert L. Funseth, Phụ tá Thứ trưởng, khởi sự các cuộc thương thuyết ở hậu trường. Đây là lúc bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCT liên lạc với ông Funseth và chuẩn bi lập danh sách và hồ sơ tù cải tạo. Sau hai năm không có tiến bộ, Ngoại trưởng Mỹ George Schultz thông báo công khai vào tháng Chín 1984 là Hoa Kỳ sẵn sàng đáp ứng đề nghị của Việt Nam bắt đầu bằng việc chấp thuận 10,000 tù nhân cải tạo và gia đình của họ. Dù mong muốn xây dựng quan hệ kinh tế và ngoại giao với Mỹ, Hà Nội vẫn gây nhiều khó dễ cho vấn đề định cư tù cải tạo. Năm 1985, một phái đoàn do cựu Thống đốc tiểu bang Iowa cầm đầu sang Việt Nam dể thăm dò khả năng quan hệ song phương, khi nhắc đến đề nghị của Ngoại trưởng Schultz thì Ngoại trưởng Thạch dứt khoát từ chối. Ông Thạch cho phía Mỹ biết rằng Việt Nam chỉ muốn tiếp tục thảo luận về vấn đề tìm kiếm tù nhân chiến tranh và người Mỹ mất tích (POW-MIA) vì đây mới là quan tâm chính của Chính phủ Mỹ cần ưu tiên giải quyết để đôi bên có thể đạt được mục tiêu toàn diện là chấm dứt vĩnh viễn cuộc khủng hoảng tị nạn Đông Dương, bãi bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Một năm sau, Việt Nam công bố chủ trương “đổi mới” và hai bên gặp nhau nhiều hơn và có triển vọng tiến hành khả quan hơn.
Năm 1987, để hậu thuẫn cho những cuộc thương thuyết toàn diện với Việt Nam sớm có hiệu quả, Tổng thống Reagan chỉ định Đại tướng hồi hưu John W. Vessey, nguyên Chủ tịch các Chỉ huy trưởng Liên quân, làm Đặc sứ (special emissary) của Tổng thống phụ trách đối thoại với Việt Nam. Bà Khúc Minh Thơ và Hội GĐTNCT cũng liên lạc với Đại tướng Vessey để vận động thêm cho tù nhân cải tạo. Vào thời điểm này, một số cựu tù cải tạo sau khi được thả đã vượt biển tới các trại tị nạn và được Mỹ chấp thuận cho vào Mỹ định cư, một số khác đi theo diện đoàn tụ gia đình. Họ tìm đến nhau và thành lập các hội cựu tù nhân cải tạo để giúp đỡ và vận động định cư cho những người bạn tù còn ở lại Việt Nam hay còn kẹt trong các trại tị nạn tạm trú.
IRAC bắt đầu quan tâm đến vấn đề vận động định cư tù cải tạo năm 1982 khi Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố sẵn sàng thả hết tù cải tạo nếu Mỹ chấp nhận cho tất cả được sang Mỹ định cư. IRAC ủng hộ cuộc vận động của Hội GĐTNCT và các hội khác. Mỗi khi nhận được danh sách và hồ sơ từ các hội cựu tù cải tạo hay từ các trại tị nạn, IRAC đều chuyển đến Hội GĐTNCT ở Virginia là nơi gần Bộ Ngoại giao và có nhiều hội viên tới giúp lập hồ sơ vận động. Chủ tịch IRAC chỉ chính thức quan hệ với ông Funseth từ 1984 để theo dõi tin tức sau khi Ngoại trưởng Schultz công bố chấp thuận đề nghị của Ngoại trưởng Thạch. Đồng thời, IRAC cũng liên lạc chặt chẽ với văn phòng TNS John McCain, lập hồ sơ của một số nhà văn, nhà báo tên tuổi bị cầm tù để nhờ ông can thiệp với Chính phủ Việt Nam. Năm 1986, sau khi tham dự Hội nghị Toàn quốc Lãnh đạo Cộng đồng Đông Dương do IRAC triệu tập tại Đại học Georgetown, Washington DC, ông Funseth mới thật sự có những cuộc tham khảo với chủ tịch IRAC về vấn đề tù cải tạo và triển vọng thương thuyết với Việt Nam. Trước mỗi lần gặp, IRAC đều có soạn talking points và tài liệu liên quan để ông Funseth tùy nghi sử dụng. Khi ông Funseth chuẩn bị vòng đàm phán chung kết vào tháng Bảy 1989, chủ tịch IRAC đã thu xếp một cuộc gặp gỡ tại Bộ Ngoại giao giữa ông Funseth và phái đoàn đại diện Trung tâm Văn Bút Việt Nam Hải ngoại khi đó do nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn làm Chủ tịch và nhà thơ Viên Linh, Tổng thư ký. Ngoài ông Ngạn đến từ Canada và Viên Linh từ California còn có hai hội viên là nhà văn Trà Lũ (Canada) và nhà báo Chử Bá Anh (Virginia). Trước đó, IRAC đã yêu cầu hội Văn Bút tổng hợp một danh sách đầy đủ các nhà văn, nhà báo đã và chưa được thả để ông Funseth trao cho nhà cầm quyền Việt Nam trong ngày ký kết bản thỏa thuận định cư tù cải tạo. Sau 30 phút trao đổi tin tức và ý kiến, cuộc đàm đạo được tiếp tục trong bữa ăn trưa được ông Funseth khoản đãi tại phòng ăn riêng của Bộ Ngoại giao.
Khi được tin Tổng thống Reagan chỉ định Đại tướng John Vessey làm Đặc sứ đối thoại với Việt Nam, Chủ tịch IRAC đã viết thư cho Đại tướng trước ngày ông lên đường qua Việt Nam, thông báo về cuộc vận động của IRAC về các vấn đề tị nạn liên quan tới việc giải quyết vấn đề POW-MIA và thả tù nhân chính trị như những điều kiện tiến đến quan hệ bình thường giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Chủ tịch IRAC thỉnh cầu Đại tướng đưa những vấn đề này vào nghị trình thảo luận với các lãnh đạo Việt Nam.
Khi trở về Mỹ, trong thư gửi chủ tịch IRAC ngày 12/8/1987, Tướng Vessey cám ơn ông đã cung cấp những thông tin và tài liệu cơ bản giúp cho phái đoàn Mỹ có thể nêu lên các vấn đề tù nhân chính trị, trẻ em lai Mỹ và chương trình ODP với Việt Nam. Ông cho hay “chúng tôi đã nêu lên những vấn đề này, một cách riêng tư, trong cuộc thảo luận.” Kết quả là “Việt Nam tái xác nhận ý định của họ là xúc tiến chương trình Ra đi Trật tự (ODP) và tin tưởng sẽ có tiến bộ về vấn đề trẻ em lai, nhưng họ không tỏ ra tích cực về những vấn đề tù nhân chính trị. Các nhà thương thuyết của họ duy trì quan điểm là vấn đề này không phải là một vấn đề nhân đạo.” Vị Đặc sứ của Tổng thống Mỹ thông báo cho phía đối thoại biết rằng Chính phủ và Quốc hội Mỹ đều quan tâm đến vấn đề định cư tù chính trị và vấn đề này vẫn sẽ được nêu ra trong những lần gặp gỡ sau.
Chủ tịch IRAC tiếp tục góp ý với Tướng Vessey, trực tiếp hay qua văn thư, và được vị Phụ tá của Đại tướng Vessey là Thiếu tướng Stephen B. Crocker cập nhật tin tức đối thoại với Việt Nam. Như ta đã thấy, cuộc thương thuyết chính thức về vấn đề định cư tù nhân cải tạo do ông Robert Funseth đảm trách, được sự hỗ trợ của Tổng thống Reagan qua những cuộc đối thoại của Đặc sứ John Vessey, rốt cuộc đã thay đổi được thái độ cứng rắn của Cộng sản Việt Nam, dẫn đến việc ký kết thỏa hiệp định cư tù cải tạo Funseth-Vũ Khoan ngảy 30/7/1989. Đại tướng Vessey tiếp tục thúc đẩy Việt Nam hợp tác nhiều hơn về vấn đề POW-MIA và Chính phủ Mỹ đã tỏ ra hài lòng về những tiến bộ đạt được trong chuyến thăm Washington DC vào tháng 10, 1990 của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch sau phiên họp Đại Hội đồng LHQ tại New York. Mặc dù do áp lực của Trung Quốc, Ngoại trưởng Thạch phải từ chức năm 1991 và các cuộc hội đàm Mỹ-Việt bị chậm lại, vấn đề POW-MIA vẫn tiến hành khả quan. Mỹ quyết định bãi bỏ cấm vận năm 1994 và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995.
Cũng trong dịp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tham dự Đại Hội đồng LHQ, Thượng Nghị sĩ Mark Hatfield đã thu xếp một buổi gặp không chính thức giữa ngoại trưởng Thạch và chủ tịch IRAC “để thảo luận về những chương trình nhân đạo.”[9] Thật ra, các vấn đề được đề cập trong cuộc gặp là tiếng nói của công dân Mỹ gốc Việt đối với các nhà làm chính sách của Mỹ về những vấn đề liên quan đến Việt Nam, vấn đề POW-MIA và bang giao Mỹ-Việt, và triển vọng đóng góp chất xám của nhân tài hải ngoại có thể giúp Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển ở Á châu. Ông Thạch bắt đầu hâm nóng không khí buổi họp bằng việc bày tỏ sự vui mừng có cơ hội đàm đạo với anh em trí thức người Việt Nam ở nước ngoài về những vấn đề quan tâm chung của đất nước. Ông nói ngay đến sự sai lầm của chính sách “học tập cải tạo” khiến bộ máy chính quyền thiếu nhân sự chuyên môn đủ mọi ngành. Nhiều người tài giỏi bị giam giữ, nhiều nhà khoa học và chuyên gia bỏ nước ra đi gây hậu quả là nhân dân bị nghèo đói và đất nước trở thành tụt hậu. Đáng chú ý là lời ông tự phê bình: “Chúng tôi đánh nhau thì giỏi nhưng quản trị thì quá tồi, không có khả năng phát triển đất nước.” Ông kêu gọi trí thức, chuyên gia ở nước ngoài hãy bỏ qua hận thù quá khứ, “let bygones be bygones” (sic) và trở về giúp nước vì “chúng tôi đã quyết định đổi mới, không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị”. Ông nhấn mạnh rằng đây là nguyên văn câu tuyên bố của ông trước Đại hội đồng LHQ vài tuần trước.
Chủ tịch IRAC trả lời rằng đa số trí thức hải ngoại sẵn sàng đóng góp khả năng vào những dự án phát triển đất nước nhưng chỉ làm được việc này khi thấy trong nước thật sự thực hiện một lộ trình dân chủ hóa cụ thể, bắt đầu bằng việc trả tự do cho những người yêu nước bất bạo động còn bị giam giữ. Nhưng mục đích của IRAC gặp Ngoại trưởng Thạch không chỉ để nói lên quan điểm về hòa giải dân tộc mà còn để góp ý về triển vọng bình thường hóa quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Vấn đề POW-MIA không phải là vấn đề riêng của Chính phủ Mỹ mà là mối quan tâm chính của nhân dân Mỹ có thân nhân xa gần, bằng hữu hay đồng bào đã hi sinh hay mất tích trong cuộc chiến. Vì vậy, nhân dân Mỹ, qua các đại diện của họ trong lưỡng viện Quốc hội, sẽ chấp thuận hay ngăn chặn việc Chính phủ thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam tùy theo thái độ cư xử của Việt Nam. IRAC khuyến cáo Việt Nam không nên dùng POW-MIA như một lá bài chính trị để mặc cả trong những cuộc thương thuyết mà nên chứng tỏ cho nhân dân Mỹ thấy rằng Việt Nam coi POW-MIA là một vấn đề nhân đạo và thật lòng hợp tác.
Cuộc trao đổi IRAC-Nguyễn Cơ Thạch bao gồm một số chuyện bên lề với những chi tiết riêng tư như khi ông Thạch, người có trình độ học vấn cao nhất trong Bộ Chính trị, kể chuyện trước khi sang Ấn độ nhận chức Tổng lãnh sự, ông đã phải học các nghi thức văn minh như chào hỏi xã giao hay cả đến cách sử dụng dao, nĩa trên bàn ăn. Luật sư Trần Danh San, trong đoàn IRAC, kể chuyện bị bắt đi cải tạo sau khi đứng trước Nhà thờ Đức Bà ở Saigon đọc bản tuyên ngôn nhân quyền giống như Hiến chương 77 của Vaclav Havel bên Tiệp Khắc. Có một lúc ông San kéo ống quần lên để ông Thạch thấy vết sẹo lớn ở cổ chân kỷ niệm những ngày bị cùm biệt giam. Khi được thả, ông vượt biển, được tàu buôn Nhật cứu, sau được ông Funseth giúp cho sang Mỹ định cư qua sự vận động của IRAC.
Trở lại chương trình định cư tù chính trị được Việt Nam gọi là chương trình nhân đạo (humanitarian operation), do đó tên tắt H.O trở thành thông dụng. Ngày 31/01/1990, cơ quan định cư tị nạn liên bang ORR tổ chức một buổi hội thảo về chương trình định cư cựu tù nhân chính trị. Trong bài phát biểu của chủ tịch IRAC, ông nói đến tính chất đặc biệt của chương trình này đối với Chính phủ, các tổ chức định cư tị nạn và cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ, phân tích những trở ngại tinh thần và thể chất của những người đã bị hành hạ nhiều năm trong các trại tập trung của cộng sản, do đó họ có những nhu cầu đặc biệt cần được đáp ứng thích hợp. Tất cả cựu tù nhân chính trị phải được coi là tị nạn chứ không phải di dân. Chủ tịch IRAC cũng nhấn mạnh rằng các cựu tù cải tạo từng vượt qua được mọi cực hình và thử thách lớn nhất trong nhà tù cộng sản, nhất là những người trong lớp tuổi từ ngoài 30 đến ngoài 50, chắc chắn sẽ trở thành những phần tử đóng góp cho xã hội Mỹ. Họ chính là “tích sản” (assets) chứ không phải là “tiêu sản” (liabilities) của xứ sở định cư. Ông yêu cầu Chính phủ Hoa Kỳ phải cò ngân sách dành riêng cho chương trình định cư tù chính trị vì đây là thành phần thuộc trách nhiệm lớn nhất của Chính phủ và là đối tượng quan trọng đươc thêm vào chương trình ODP hiện hữu.
4. Từ Sáng kiến”Khu vực Xám”đến Chương trình ROVR
Vì chính sách thanh lọc (screening) tại các nước tạm dung, nhất là ở Hong Kong, bị nhân viên di trú thi hành khắc nghiệt và có nhiều sai phạm trầm trọng gây hậu quả là những cuộc bạo động và xung đột đổ máu giữa những người tị nạn và lực lượng an ninh của chính phủ. Tiếp theo là một chương trình hồi hương mới có tên là “Hồi hương Trật tự” (Orderly Repatriation Program, ORP) được ký kết giữa Việt Nam-Anh quốc/Hong Kong và Việt Nam-Nam Dương. Chương trình này được Hoa Kỳ đồng ý và UNHCR lặng lẽ thực hiện. Điều đó có nghĩa là một phần quan trọng của Kế hoạch Hành động Toàn diện quốc tế (CPA) thất bại vì tất cả các nước tạm dung đều cương quyết không chịu kéo dài thời gian cho tị nạn tạm trú và tất cả những người bị rớt thanh lọc (screened-out) phải hồi hương bằng cách này hay cách khác nếu không muốn bị trục xuất bằng vũ lực. Việt Nam không còn chống đối cưỡng bách hồi hương vì họ thừa biết rằng những người trở về không phải là lực lượng đe dọa sự tồn tại của chế độ, và họ thấy đã đến lúc cần phải hợp tác với Hoa Kỳ và quốc tế để đón nhận các dự án viện trợ, đẩu tư kinh doanh và phát triển công nghệ. Hoa Kỳ cũng muốn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vì không thể để cho Việt Nam bị lọt vào quỹ đạo Trung Quốc (khi đó mật ước Thành Đô vừa được ký kết). Trong tình thế chờ đợi ấy, Kế hoạch CPA chỉ có thể tránh khỏi sụp đổ nếu tìm được giải pháp thỏa đáng cho vấn đề hồi hương tất cả người tị nạn từ các trại tạm trú.
Để có thể góp phần tích cực vào giải pháp cho vấn đề tị nạn như đã tuyên bố sau chuyến đi thăm các trại tạm trú năm 1987, IRAC nhận rõ vấn đề then chốt phải giải quyết là sự chống đối quyết liệt của những người đủ diều kiện tị nạn nhưng bị loại bỏ trong cuộc thanh lọc. Họ phẫn uất đến độ sẵn sàng đổ máu chống lại những biện pháp cưỡng bách hồi hương của lực lượng an ninh như đã từng xảy ra ở một số trại tại Hong Kong. Như vậy, giải pháp hợp lý, công bằng và khả thi nhất là tập trung việc cứu xét định cư cho thành phần tị nạn bị thanh lọc bất công này. IRAC mệnh danh thành phần này là “khu vực xám” (grey area) và bắt đầu chuyển hướng vận động cho đối tượng này được định cư. Mặt khác, cần có chương trình theo dõi và giúp đỡ những người đã hồi hương có thể trở lại cuộc sống bình thường ở Việt Nam. Chương trình này sẽ giúp cho những người tự biết mình không đủ điều kiện tị nạn có thể được yên tâm và sẵn sàng tham gia chương trình hồi hương tình nguyện hay không chống đối.
Cuộc vận động cho Khu vực Xám bắt đầu từ 1990 qua một chuỗi hoạt động kéo dài tới cuối năm 1995 sau khi được khai triển thành một dự án quy mô có tên là Lộ trình II vào giữa năm 1993 và cuối cùng được cả hai Chính phủ Mỹ và Việt Nam chấp thuận thành một chương trình đặc biệt với danh xưng chính thức là “Cơ hội Định cư cho người Việt hồi hương” (Resettlement Opportunity for Vietnamese Returnees, ROVR). Quá trình vận động diễn ra như sau:
1. Ngày 14/9/1990, Chủ tịch IRAC được sinh viên Việt Nam Đại học Stanford mời thuyết trình về tình trạng thi hành Kế hoạch quốc tế CPA và giải pháp lâu dài cho vấn đề tị nạn Việt Nam. Đề tài thuyết trình là “Giải pháp Chính trị cho Vấn đề Tị nạn và Triển vọng Bình thường hóa Quan hệ Mỹ-Việt”. Trong dịp này, sáng kiến Khu vực Xám mới chỉ được đề cập sơ lược như một phương cách hữu hiệu để tránh khỏi nạn cưỡng bách hồi hương đang thực hiện ở Hong Kong và các nước ĐNÁ.
2. Sáng kiến Khu vực Xám được khai triển và trình bày tại Hội nghị khu vực về thuyền nhân Việt Nam do Đại học Ateneo de Manila, Quezon City, Phi-líp-pin, tổ chức tháng 11 năm 1992. Chủ tịch IRAC báo động nguy cơ bạo loạn do chính sách cưỡng hách hồi hương gây ra và nhấn mạnh sự cần thiết tái cứu xét trường hợp những người tị nạn chân chính đã bị loại bỏ trong cuộc thanh lọc.
3. Cơ hội vận động tốt hơn cả là “Hội nghị Bàn tròn về Vấn đề Tị Nạn” do Phái bộ Quan sát Thường trực của Tòa Thánh Vatican triệu tập tại trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc, thành phố New York, ngày 9-10 tháng Ba 1993. Chủ tịch IRAC trình bày trước các đại diện quốc tế dự án 4 điểm về Định cư Khu vực Xám,[10] đúng vào thời điểm Hoa Kỳ và Việt Nam đang tiến gần đến bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Cần phải khai thông Kế hoạch CPA bằng cách giải quyết hòa bình vấn đề tạm trú và hồi hương của mấy chục ngàn người đang bị kẹt trong các trại tị nạn.
4. Đề nghị của IRAC lập tức được tổ chức InerAction, một liên minh của gần 200 NGOs Mỹ hoạt động toàn cầu, nhiệt tình ủng hộ. Một Ban Đặc nhiệm về CPA (CPA Task Force) của InterAction được thành lập với nhiệm vụ vận động Bộ Ngoại giao định cư thành phần Khu vực Xám. Hai hội viên InterAction được bầu làm đồng chủ tịch Ban Đặc nhiệm là Lê Xuân Khoa (IRAC) và Lionel Rosenblatt (Refugees International). Ngoài một số hội viên khác của InterAction, hai đại diện tổ chức bên ngoài cũng được mời tham gia CPA Task Force là Nguyễn Đình Thắng (BPSOS) và Lê Thị Mỹ Nga (LAVAS).
5. Trong giai đoạn đầu, Văn phòng Đặc trách Chương trình Tị nạn (Bureau for Refugee Programs, BRP) tại Bộ Ngoại giao chỉ đồng ý xem xét những trường hợp quá hiển nhiên (egregious cases) căn cứ vào những thông tin và bằng chứng do các nhân viên NGO quốc tế làm việc trong các trại tị nạn cung cấp. Những trường hợp được Bộ Ngoại giao chấp thuận sẽ được chuyển tới UNHCR làm thủ tục xuất trại sang Mỹ định cư. Chỉ sau vài tháng, BPSOS rút ra khỏi CPA Task Force vì TS Nguyễn Đình Thắng không đồng ý với chủ trương định cư Khu Vực Xám.
6. Đồng thời với việc lập hồ sơ “egregious cases”, ban Đặc nhiệm CPA yêu cầu ba thành viên nổi tiếng bảo vệ tị nạn là Shep Lowman, Lionel Rosenblatt và Dan Wolf khai triển sáng kiến định cư Khu Vực Xám thành một dự án quy mô đặt tên là Lộ trình II (Track II, hàm ý Lộ trình I là thanh lọc) để chuyển sang cho Bộ Ngoại giao xem xét chấp thuận.
7. Dự án Track II được Bộ Ngoại giao và Hội đồng An ninh Quốc gia quan tâm xem xét và sau nhiều phiên họp với CPA Task Force để hoàn chỉnh nội dung, dự án được Hoa Kỳ chuyển sang cho Việt Nam đề nghị chấp thuận. Sau những phản ứng chống đối ban đầu, nhất là việc cho phép các nhân viên di trú (INS) của Mỹ phỏng vấn các ứng viên ROVR tại Việt Nam sau khi hồi hương, Việt Nam hoàn toàn chấp thuận chương trình ROVR vào đầu năm 1996. Khi đó hai bên đã có Đại sứ quán, có nhiều chuyện quan trọng hơn cần được giải quyết.
8. Chương trình ROVR thành công ngoài dự liệu. Tỉ lệ chấp thuận trung bình lên tới 85 phần trăm vì các nhân viên Sở di trú Mỹ đều đồng ý đây là chuyến tàu vét cần có thái độ rộng rãi trong việc phỏng vấn các ứng viên xin tị nạn. Theo các con số do Văn phòng đặc trách Tị nạn (BRP) của Bộ Ngoại giao cung cấp, từ giữa năm 1996 đến 19/01/1999, có 14,448 ứng viên ROVR được chấp thuận định cư tại Mỹ. Tổng số chấp thuận vào cuối năm 2000 sẽ tăng thêm mấy ngàn nữa.
Tóm lại, chương trình ROVR, bắt đầu từ sáng kiến “Khu vực Xám”, đã khai thông được tình trạng bế tắc của Kế hoạch CPA và giúp quốc tế giải quyết vấn đề tị nạn được thật sự công bằng và nhân đạo. Nếu không bị chống đối ngay từ đầu bởi một số người tranh đấu thiếu hiểu biết và tinh thần trách nhiệm trong cộng đồng người Việt hải ngoại, số ứng viên nộp đơn vào chương trình ROVR và được chấp thuận cho định cư chắc chắn sẽ đông hơn. Những thông tin gửi vào các trại tị nạn gây ảo tưởng được định cư cho tất cả những người bị rớt thanh lọc đã là nguyên nhân của những vụ bạo loạn trong các trại tạm trú giữa người tị nạn với lực lượng an ninh, gây thương vong cho nhiều người ở cả đôi bên, Chỉ đến khi Chính phủ Mỹ thông báo về chương trình ROVR và điều kiện nộp đơn thì những người tự biết mình không đủ điều kiện mới tham gia chương trình hồi hương tình nguyện hay không chống đối. Nhiều thiệt hại vô ích đã xảy ra cho các Chính phủ và người tị nạn. UNHCR giảm bớt tiền trợ cấp hồi hương từ $360 xuống $240 cho mỗi người làm cho nhiều gia đình hồi hương trễ bị thiệt thòi.
***
Chọn dịp kỷ niệm 30 tháng Tư năm nay để ôn lại vài đặc điểm trong lịch sử tị nạn Việt Nam là việc làm thích hợp vì vừa làm sáng tỏ chính nghĩa của phe bại trận vừa cho thấy người tị nạn đã thực hiện được quyết tâm góp phần đáng kể vào giải pháp công bằng và bền vững cho vấn đề tị nạn, đúng như lời tuyên bố của chủ tịch IRAC trong buổi họp báo tại Thượng viện ngày 1 tháng Ba 1987. Giải pháp công bằng và lâu dài đó cũng chính là giải pháp chính trị, tức là thỏa hiệp bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Giải pháp chính trị này cũng đã được Chủ tịch IRAC nêu lên làm chủ đề của bài nói chuyện ở Đại học Stanford ngày14/9/1990 trong đó manh nha sáng kiến “khu vực xám” như một bước đầu hình thành chương trình ROVR. Hai mươi lăm năm sau, cuộc khủng hoảng tị nạn đã lui vào quá khứ, nhưng quan hệ bình thường giũa hai nước vẫn tồn tại như một thử thách lớn cho Việt Nam khi Hà Nội càng ngày càng lún sâu vào vòng lệ thuộc Bắc Kinh vì đặt lợi ích của Đảng trên lợi ích quốc gia.
Trong thời gian gần đây, khi có những dấu hiệu cho thấy Việt Nam dường như muốn cưỡng lại những hành động lấn chiếm ngang ngược của Trung Cộng tại Biển Đông, thử thách lớn ấy lại hiện ra như một cơ hội không chỉ riêng cho lãnh đạo Đảng CSVN mà cũng cho tất cả mọi người Việt Nam yêu nước ở trong và ngoài nước. Đây cũng là cơ hội thuận lợi nhất cho Việt Nam thoát Trung, gìn giữ được độc lập và toàn vẹn giang sơn của tổ tiên, đồng thời bảo vệ được dòng giống Việt trước nguy cơ Hán hóa. Đại dịch Virus Vũ Hán đã thức tỉnh toàn thể thế giới về mưu đồ hiểm độc của Trung Cộng giành ngôi bá chủ toàn cầu và sẽ hợp lực đánh tan “Giấc Mơ Trung Quốc” của Tâp Cận Bình. Lãnh đạo Việt Nam sẽ phạm trọng tội nếu bỏ lỡ cơ hội lịch sử này. Những người viết sử cầu mong sẽ được chứng kiến những hành động có phối hợp, hoặc riêng biệt nhưng đồng quy, từ cả ba phía: chính quyền, trí thức và nhân dân trong nước, và cộng đồng gốc Việt ở nước ngoài. Không ai muốn sẽ phải đánh giá thái độ tiêu cực hay hành động sai lầm của những người có trách nhiệm.
28/4/2020
L.X.K.
Kỷ niệm đúng ngày này 45 năm trước, tác giả và vợ con lên một trong những chuyến bay cá hộp cuối cùng của quân đội Mỹ cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất sang Guam, Philippines.
[1] Con số 2,164,000 trừ đi 300,000 mất tích, còn lại 1,864,000 gồm những người tị nạn tới Mỹ và các nước khác tính đến 1995. Theo Wikipedia: Người Mỹ gốc Việt, tổng số người Việt ở Mỹ được ước tính hơn 2,200,000 trong năm 2017. Tổng số này gồm tị nạn, di dân và người sinh tại Mỹ.
[2] Lê Xuân Khoa, “Cộng đồng người Việt hải ngoại và Việt Nam ngày nay” tại cuộc hội thảo ngày 2 tháng Ba 1995 kỷ niệm 20 năm chấm dứt chiến tranh do Đại học Columbia và US-Vietnam Forum đồng bảo trợ. Bản gốc tiếng Anh: “The Overseas Vietnamese and Vietnam Today”, in The Bridge, a quarterly publication by IRAC, vol. 11, No. 4 , Winter 1994-1995, pp. 1, 11, 28.
[3] Huy Đức, Bên Thắng Cuộc, tập I: “Giải Phóng”, OSINBook, California 2012, trang xiii.
[4] IRAC do một nhóm trí thức thiện chí người Mỹ thành lập tại Washington, D.C. năm 1979 nhằm giúp chính phủ hoàn thiện chính sách, chương trình định cư tị nạn và hệ thống điều hành sau khi Mỹ quyết định gia tăng số tị nạn được thâu nhận từ các trại tạm trú ĐNÁ tại Hội nghị quốc tế Geneva tháng Sáu 1979. Năm 1993, tổ chức IRAC đổi tên là Southeast Asia Resource Action Center (SEARAC) để tránh mang dấu vết thời thuộc địa trong danh xưng French Indochina (tiếng Pháp là Indochine Francaise) tức Đông Dương thuộc Pháp. Tên SEARAC đến nay vẫn được giữ nguyên dù các lãnh đạo mới có sửa đổi mục tiêu của tổ chức, hướng về xây dựng sức mạnh của những cộng đồng người Mỹ gốc Việt, Cam-bốt và Lào tại Hoa Kỳ.
[5] Trích từ bài thơ của Emma Lazarus ghi trên bệ bức tượng Nữ Thần Tự Do ở cửa biển thành phố New York: “Give me your tired, your poor, Your huddled masses yearning to breathe free…” (Hãy đem đến cho ta những con người mệt mỏi, nghèo khổ, những đám người co ro đang khao khát được hít thở không khí tự do…)
[6]Hearing before the Committee on the Judiciary, U.S. Senate, 97th Congress, September 22, 1981, chaired by Senator Alan K. Simpson, Chairman, Subcommittee on Immigration and Refugee Policy. U.S. Government Printing Office, 90-542 O, Washington 1982. Testimony by Le Xuan Khoa, pp. 249-276.
[7] Cần phân biệt hai tổ chức BPSOS khác nhau: BPSOS (Ủy ban Báo nguy Giúp Người Vượt Biển) thành lập năm 1980 do GS Nguyễn Hữu Xương làm Chủ tịch và nhà văn Phan Lạc Tiếp là Giám đốc điều hành, kêu gọi các nước cứu giúp thuyền nhân tị nạn, và từ 1985 hợp tác với các con tàu nhân đạo quốc tế cứu người vượt biển. Năm 1990, BPSOS San Diego ngưng hoạt động vì không còn nước nào cho phép tàu cứu người tị nạn được cặp bến. BPSOS được chuyển sang chi nhánh ở Virginia do nhà văn Trương Anh Thụy làm Chủ tịch và TS Nguyễn Đình Thắng làm Giám đốc. BPSOS Virginia tiếp tục vận động định cư tị nạn tới 1995 thì chủ yếu tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam, bắt đầu có những hoạt động gây tranh cãi về ảnh hưởng và quản trị, thậm chí bị kiện cáo trong cộng đồng.
[8] Janelle M. Diller: In Search of Asylum: Vietnamese Boat People in Hong Kong, published by IRAC, Washington DC, November 1988.
[9] Trên đường đi Geneva dự hội nghị tị nạn 1989, chủ tịch IRAC ghé Paris gặp GS Vũ Quốc Thúc, được ông đưa tới gặp cựu Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam tại Hội nghị Geneva 1954. Ngoại trưởng Đỗ khuyên GS Khoa nên gặp trưởng đoàn CSVN để nói chuyện về giải pháp Việt Nam cho vấn đề tị nạn. Tại Geneva, GS Khoa nhờ phái đoàn Mỹ thu xếp cuộc gặp nhưng ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch từ chối với lý do là ông không muốn gặp đại diện tị nạn “vì họ là những kẻ phản động”. Khi trở về Mỹ, GS Khoa kể lại chuyện này cho TNS Hatfield và cho hay IRAC sẽ mở chiến dịch vận động chống lại việc bang giao Mỹ-Việt. TNS Hatfield viết thư cho ngoại trưởng Thạch, do đó có buổi gặp gỡ giữa ông Thạch và các đai diện IRAC ở New York ngày 16/10/1990. Chuyện này đã được tác giả Lê Xuân Khoa tường thuật trong mấy bài viết trước đây.
[10] Statement by Le Xuan Khoa, in Refugees: A Challenge to Solidarity, Proceedings of the International Round Table on the Question of Refugees sponsored by the Permanent Observer Mission of the Holy See to the United Nations, published by Center for Migration Studies, New York 1994, pp. 265-267.
TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC?
TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC?
TRẦN THANH VÂN
KTS Trần Thanh Vân…lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?…Lâu nay moị người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thuỷ Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thuỷ của kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nôị mở rộng ngày nay thì họ hay hoỉ tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhậy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hôị, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!
Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hoá 1000 năm Thăng Long. Một nhóm nghiên cưú của Ban khoa giáo Đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long. Giưã chừng câu chuyện, họ hoỉ tôi “Chị nghiên cưú đề tài này lâu chưa?” Tôi lưỡng lự giây lát, rôì trả lời họ: “Khoảng chừng đã 55 năm”.- “Cái gì? 55 năm?”. – “Vâng! từ ngày còn là con bé con”. Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ. Vào đại học , tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thuỷ cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.
KTS Trần Thanh Vân
Sự thật và trải nghiệm
Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Quốc mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của môí quan hệ hưũ nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cưú chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng vơí trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít có ai có cơ hôị để “hiểu” Trung Quốc hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải noí ra hôm nay để moị người cùng biết.Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời moị người hay hát “Việt Nam- Trung Hoa nuí liền nuí, sông liền sông/ Chung một Biển Đông, thắm tình hưũ nghị…” trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung quốc.
Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953
Cải cách ruộng đấtNgày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chiụ cảnh máy bay bắn phá. Nhưng , cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cưú sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng goị bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông tôi ngoại không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tạ ơn cưú mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp , mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi…
Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nôị nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nôị. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cuị làm việc đó, mẹ tôi vưà nuôi sống cho gia đình và bản thân, vưà đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo mùa đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may /xào xạc rung cây lá lá bay/một mùa đông bao người đan áo…” chính là noí về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cưú quốc.Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sơị bông, nhuộm sơị thành các mầu xanh, mầu nâu, mầu cỏ úa rôì đan thành áo gưỉ ra chiến trường, đã được ca ngơị như một chiến công lớn.
Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tôị, có một người bạn thân hôì nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông bí thư đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vôị vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vưà đặt chân đến Chợ Chu – Định Hoá – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối vơí một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay moị người vẫn còn nhớ.Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, moị người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.
Kỷ niệm thứ 2: Trời phạt
Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hưũ nghị Việt -Trung -Xô.Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Quốc thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường là dù chưa quen biết người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hoà Bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Quốc. Còn nhỏ xiú nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gôí, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Toà dinh thự hoành tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Quốc. Mỗi buôỉ sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột cờ.
Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Quốc tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buôỉ chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ do chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị- Phủ Tây Hồ.Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn qủàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thôỉ sáo Phùng Tử Tồn và hai người nưã. Mộ của họ mai táng ở nghiã trang Bất Bạt huyện Ba Vì.Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít và vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới con lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Quốc và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nôỉ thứ tình hưũ nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tôị nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?Mấy chục năm sau, để giải toả tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh ở làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu/ Dấu nhà Trời ai thấu được đâu/ Một dải khăn đào kết một cái cầu/ Để hồ thẳm nước sâu/ Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”.
Du học ở Trung Quốc
Tuôỉ trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hôì nhỏ.Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Quốc theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dậy giỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình.Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông hoạ sĩ già thì hai bàn tay bôi mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà vơí cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.
Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hoỉ “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ reo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hoỉ như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Quốc ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Quốc phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chôị của ký túc xá, bưã cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nưã ở cùng trong một ngôi nhà giành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một Toà nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một giành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hoá ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi?.
Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan thận gì đó rất cần ăn đường nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xiủ, thấy vậy tôi hay đi mua đường mang đến biếu thầy. Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngôì hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hôị, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.
Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hoá nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các giáo sư trong trường đã từng giảng dậy chúng tôi, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tiũ.Là một đưá con gái xuất thân trong một gia đình có giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và xỉ nhục thầy như vậy.
Nhận thức về một nước Trung hoa có truyền thống văn hoá lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Tôi không sao chấp nhận nôỉ, những người bị hành hạ là những giáo sư đáng kính của chúng tôi, những người hành hạ các giáo sư lại là những bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy. Nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.Chúng tôi rất sợ bị liên luỵ nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “ Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?”
Đó là giưã năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký, chúng tôi khăn goí vôị vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh trường Đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Quốc, do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nôỉ tiếng Lý Đức Hoá, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu?. Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bưã cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.
Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Quốc rất tốt, giới trí thức Trung Quốc cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nôỉ các nhà cầm quyền và thứ “tình hưũ nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi.Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vôị vàng như ma đuổi.
Thời kỳ đã trưởng thành
Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chiụ của những ngày cuôí cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi vơí khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến.Sau đó, môĩ người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên.Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngôì tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể noí ra vơí ai. Tôi ở cùng nhà vơí một chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Quốc giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Míc bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.
Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự qúa đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo roĩ và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nôị bộ của Sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Quốc thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời trung cổ của họ mà thôi.
Trung quốc hôm nay?
Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Quốc đã thay đôỉ rất nhiều và rất đáng kính nể.Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung quốc đại nhâỷ vọt mà họ đang ra sức qủang bá, vẫn còn có một Trung Quốc khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung hoa đã từng bị chà đạp, bị xỉ nhục và chiụ nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào.Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đôỉ rất nhiều.
Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vưà gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hôị ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp chướng ” noí về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi.“Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rôì đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi noí vơí tôi: “Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã giành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đôỉ của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Quốc hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa noí, còn lớp người Trung Quốc thứ ba đang vưà là chỗ dựa vưà là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung quốc: Bọn này đông lắm.
Đó là lũ lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thoí quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa”để đối phó vơí các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nưã hoặc không sử dụng được nưã thì họ tiêu diệt “chỗ dựa” đó đi.Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ tứ trụ” điều khiển hơn một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó.
Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp vơí công an và chính quyền hình thành hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vưà qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2000 tên, trong số đó có cả giám đốc sở tư pháp và nhiều sĩ quan công an.Cuôí cùng, có thể quan sát “Trung Quốc hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Quốc đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều vơí vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tôị phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lưà đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nôị ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu.
Ông Vũ Duy Phú và KTS Trần Thanh Vân. Ảnh: N.X.D
Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nôi bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta. Tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cưú các lý thuyết về phong thuỷ địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến.
Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc xử dụng chữ gốc La Tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ 16-17 như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes ( 1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ thứ 19 để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ 20 là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine. Cám ơn các vị giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khoỉ ảnh hưởng của văn hoá nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ thứ 20 đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong Thuỷ, Địa Mạch và Kinh Dịch.
Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lưá tuôỉ của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thuỷ địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Quốc rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền Trung Quốc thèm muốn chư không phải nhân dân Trung quốc, bơỉ vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Quốc không hề được hưởng lợi gì, có khi còn bị thiệt thòi hơn.Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich. Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, nuí, sông…chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich.
Hình quẻ Chấn
Theo phần tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của Kts Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giưã Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gẫy có nghiã là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có môí quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.
Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết qủa của một quá trình chiến tranh và đồng hoá lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nôị chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao … đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giầu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở ngay giưã Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cưú kỹ phong thuỷ địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được yếu điểm cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi haị đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya trên qua Cao Tây Tạng, qua nguyên Vân Nam, qua Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống Vinh Hạ Long rôì đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở Vịnh Mindanao Philíppin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nôí từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sendwich đó không cho nó trôi trượt đi, mà họ có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức “Củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.*
Sau hàng ngàn năm vơí nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán ( người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hoá thì nhiều).* Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và huỷ diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghiã là Nhà nước Trung Quốc sẽ không thể đạt được cái họ muốn.
Cung điện Potala – Tây TạngCòn ở Việt Nam chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bơỉ vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền…Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?
Địa mạch Việt Nam : Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu
Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dẫy nuí cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì Đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này.( đọc Đại địa mạch quốc gia ) Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn vơí đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, toả ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NUÍ CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền Tấu Thư kiểu tự là một trong những kết qủa tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài gioỉ gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hôị rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đương Y Tôn yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tôị. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phiá Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.
Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh khu vực Đông Nam Á.Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên Vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có Vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có Vinh Bái Tử Long và ngoài khơi xa của Hải phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xoè ra ở Đồng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc Vịnh Mindanao thuộc Philippin.
Địa mạch Việt Nam: Bắc Việt và Biển Đông.Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thưà của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước họ không thay đôỉ. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bơỉ vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu A và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không?Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu/Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.Cốt lõi Trục Phong thủy nước ta là:
Âm Dương tương đồng
Biển Đông Thái Âm
Đảo Hải Nam Thiếu Dương
Bán đảo Đông Dương Thái Dương
Biển Hồ Thiếu Âm
Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi Đồng Bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ 16 trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần muĩ thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bơỉ vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác đinh thái độ và hành động của mình.
Lời cuối bài
Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong môí quan hệ vơí Trung Quốc hiện nay. Bởỉ vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏỉ cõi u mê của sự hoang tưởng trong môí quan hệ với Trung Quốc.
Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dậy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dậy bảo của cha ông.Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở sức mạnh Trung Quốc và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?..Đông dân là một sức mạnh.Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Quốc mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.Trong thế vận hội 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động tổ chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để doạ nạt chúng ta và các nước trong vùng.
Có điều, một thảm hoạ đông dân mà Nhà nước không vì dân, thì Nhà nước sẽ khốn đốn vì sự phản ứng của dân. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thâm Quyến, Thượng Hải, Qủang Châu… đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không ? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?
KTS Trần Thanh Vân
Trao đổi rất thân tình, gửi mọi người quan tâm:
Chị Trần Thanh Vân là một người rất tử tế, đa tài, lại HIỂU RẤT SÂU VỀ TRUNG QUỐC ĐẠI ĐẾ, đầy đủ tri thức và dầy dạn kinh nghiệm cuộc sống của VN và của TQ. Vậy Quý Vị nên THAM KHẢO CHO KỸ để cùng toàn dân VN đứng vững trên mảnh đất Tổ tiên ta CÒN LẠI là Việt nam hiện nay. Tôi cũng đã nhận được một bản đồ Trung quốc, trong đó có vẽ rõ từng thành phần của nước TQ hiện nay: Ngoài Hoa hạ (nằm ở trung tâm, gốc của TQ hiện nay) còn có Tân cương, Tây tạng, Nội mông, Mãn châu Lý và 10 nước thuộc Bách Việt ở phía NAM sông Dương tử. nay chỉ còn có Lạc Việt (tức VN hiện nay) là ĐỘC LẬP mà thôi. Có lẽ VN không chỉ anh hùng vì ĐỘC LẬP TỰ DO của DÂN TỘC . . mà còn được THIÊN THẦN, TRỜI ĐẤT , CHÚA PHẬT yểm trợ để chống lại cái CON QUỶ PHƯƠNG BẮC mà nó đang chống lại TRỜI ĐẤT. Chị Vân, là một trong những người am hiểu rất rõ TQ, đã giúp tôi có thêm hiểu biết để tham gia với CỘNG ĐỒNG TOÀN CẦU viết ra tài liệu THẾ GIỚI ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI HOÀN TOÀN THAY ĐỔI như đã thấy (trong các đính kèm sau đây), đã chuyển cho Liên hiệp quốc, Lãnh đạo VN và lãnh đạo nhiều nước trên Thế giới.Quý Vị cũng nên coi chị Thanh Vân là một bằng chứng SỐNG đáng tin cậy lắm đấy, hãy chuyển ý kiến của Chị Vân cho mọi người.
Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày
Trên FB tôi thấy đại đa số thường chọn hình mình hoặc hình con mình để làm avatar, ít hơn một chút thì lấy hình của người yêu, vợ hoặc chồng, hoặc một hình gì đó mà mình yêu thích. Riêng tôi thì tôi lại chọn một đối tượng khác mà hình như tôi thấy chưa một ai chọn giống như tôi : một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi
Tôi sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh đầy phong ba bão táp. Cả nhà 6 người mà chỉ có một chiếc xe đạp thay phiên nhau đi, gạo thì chạy ăn từng bữa, anh trai tôi ngày ngày cứ 5h sáng phải chạy lên Gò vấp để lấy bánh đậu xanh về đi bỏ cho các tiệm bánh rồi mới về đi học trong suốt 7 năm trời, từ năm học lớp 11 đến hết năm thứ 6 Y khoa. Khó khăn là vậy nhưng tôi vẫn trưởng thành một cách đầy kiêu hãnh. Đôi khi nhìn lại tôi tự hỏi là điều gì đã giúp tôi mạnh mẽ mỗi khi đương đầu với những khó khăn? Và câu trả lời là do trong huyết quản tôi vẫn đang mang một dòng máu nóng trong mình và tôi đã đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ người đã cho tôi dòng máu ấy : một người mà đã không giữ lời hứa với mẹ tôi.
Tôi cũng không biết tại sao tôi và người đó chỉ gặp gỡ và tiếp xúc trong có vài chục ngày, chính xác là từ ngày 06/01/1972 đến ngày 25/03/1972, mà tôi lại luôn luôn thương mến, cảm phục, tự hào và luôn lấy người làm tấm gương soi để tôi có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn. Có lẽ là do cuộc sống của người quá vĩ đại và tôi đã được thừa hưởng một phần của nó. Mặc dù khi ra đi người đã không thực hiện được một lời hứa với mẹ tôi mà cho tới bây giờ tôi vẫn hỏi : “Tại sao?”
Charlie, tên nghe quá lạ!
“Toàn thể những địa danh nơi hốc núi, đầu rừng, cuối khe suối, tận con đường, tất cả đều bốc cháy, cháy hừng hực, cháy cực độ…Mùa Hè 1972, trên thôn xóm và thị trấn của ba miền đồng bốc cháy một thứ lửa nhân tạo, nóng hơn, mạnh hơn, tàn khốc gấp ngàn lần, vạn lần khối lửa mặt trời sát mặt… Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy. Mùa Hè năm 1972- Mùa Hè máu. Mùa Hè của sự chết và tan vỡ toàn diện.
Nếu không có trận chiến mùa Hè năm 1972, thì cũng chẳng ai biết đến Charlie, vì đây chỉ là tên quân sự dùng để gọi một cao độ nằm trong chuỗi cao độ chập chùng vùng Tân Cảnh, Kontum. Charlie, “Cải Cách,” hay “C,” đỉnh núi cao không quá 900 thước trông xuống thung lũng sông Pô-Kơ và Đường 14, đông-bắc là Tân Cảnh với mười hai cây số đường chim bay, đông-nam là Kontum, thị trấn cực bắc vùng Tây Nguyên.” (Trích trong “Mùa hè đỏ lửa” của Phan Nhật Nam)
chụp với Đ/U Dù Đoàn Phương Hải ̣̣(trái)
Charlie bỗng trở thành một địa danh được nhắc nhớ từ sau 4000 quả đạn pháo tới trong một ngày, từ sau người mũ đỏ Nguyễn Đình Bảo nằm lại với Charlie. (Trích lời giới thiệu trong CD Chiến tranh và hòa bình của Nhật Trường Trần Thiện Thanh)
Cho đến bây giờ cũng ít người biết rằng tôi chính là “đứa bé thơ” với “tấm khăn sô bơ vơ ” trong bài hát “Người ở lại Charlie” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh. Và tôi lớn lên cùng với ký ức về một người Cha hào hùng như vậy.
Tôi không thần tượng Cha tôi từ một bài hát viết về người, cũng không thần tượng từ một hai trận đánh trong cuộc đời binh nghiệp của người, mà tôi thần tượng Cha mình từ chính cuộc đời của Người. Trải qua biết bao thăng trầm đời binh nghiệp và cuối cùng người đã được giao làm tiểu đoàn trưởng của tiểu đoàn “Song kiếm trấn ải” (biệt danh của tiểu đoàn 11 nhảy dù), một trong những tiểu đoàn được xem là thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Cha tôi là một người khát máu hung tàn, mà ngược lại hoàn toàn, mọi người đều nhớ về hình ảnh Cha tôi như là một võ sĩ đạo đúng nghĩa : giỏi võ, dũng cảm và cao thượng. Thời bấy giờ có mấy ai dám đánh một sĩ quan của Mỹ, vậy mà Cha tôi đã làm điều đó khi người sĩ quan đó dám làm nhục một người lính Việt Nam (chuyện này tôi được nghe bác ruột tôi kể lại). Có tiểu đoàn nào trong quân đội mà luôn gọi Tiểu đoàn trưởng bằng tên thân mật “Anh Năm”?, nhất là trong binh chủng Nhảy dù, việc phân chia cấp bậc luôn được tôn trọng và đặt lên hàng đầu. Vậy mà trong tiểu đoàn 11 Nhảy dù, tất cả mọi người từ lính đến sĩ quan chẳng ai gọi Cha tôi là Trung tá cả, mà luôn gọi là Anh Năm, và “Anh Năm” thường hay nói với mọi người trong tiểu đoàn rằng : “Tụi mày thì chẳng biết mẹ gì, nhưng tất cả tụi mày tao đều coi là em tao hết”
“Anh Năm,
Ngoài đời Anh sống hào sảng, phóng khoáng và thật “giang hồ” với bằng hữu anh em, còn trong quân ngũ, Anh như một cây tùng ngạo nghễ giữa bão táp phong ba, Anh không nịnh cấp trên đè cấp dưới, Anh chia xẻ vinh quang buồn thảm với sĩ quan và binh sĩ thuộc cấp. Anh sống hùng và đẹp như thế mà sao lúc ra đi lại quá phũ phàng!? Tôi về lại vườn Tao Ðàn, vẫn những hoa nắng tròn tròn xuyên qua khe lá, lấp loáng trên bộ đồ hoa ngụy trang theo mỗi bước chân. Cây vẫn xanh, chim vẫn hót, ông lão làm vườn vẫn lom khom cầm kéo tỉa những chùm hoa loa kèn, những cụm hoa móng rồng và những bụi hồng đầy mầu sắc. Bên gốc cây cạnh căn lều chỉ huy của Anh hồi tháng trước khi còn đóng quân ở đây, tôi thấy có bó hồng nhung đỏ điểm vài cánh hoa loa kèn trắng.
Chống đôi nạng gỗ xuống xe, tiếng gõ khô cứng của đôi nạng trên mặt đường khiến ông lão ngẩng đầu và nhận ra tôi. Xiết chặt tay ông cụ, trong ánh mắt già nua chùng xuống nỗi tiếc thương, chòm râu bạc lưa thưa phất phơ trước gió. Ông cụ đọc báo, nghe đài phát thanh nên biết Anh đã ra đi, nên sáng nào cũng để một bó hoa tưởng nhớ và tiễn đưa Anh. Cụ mời tôi điếu thuốc Quân Tiếp Vụ, rồi ngồi xuống cạnh gốc cây, tay vuốt nhẹ trên những cánh hồng, sợi khói mỏng manh của điếu thuốc nhà binh quện trong tiếng nói:
“- Thuốc lá Ông Quan Năm cho, tôi vẫn còn đủ dùng cho đến cuối năm. Mấy chục năm nay tôi mới gặp một ông quan nói chuyện thân mật và tốt bụng với những người dân như tôi. Người tốt mà sao Ông Trời bắt đi sớm như vậy!? ” (Trích trong “Máu lửa Charlie” của Đoàn Phương Hải)
Cha tôi đã sống như thế nào mà những người ít ỏi còn sống sót trở về sau trận chiến tại đồi Charlie đều nói là họ thật hối tiếc khi không được nằm xuống cùng Cha tôi ở đó.
“Tô Phạm Liệu cảm thấy lẻ loi ở cái đại hội y sĩ có nhiều những người “mặc quần mới áo đẹp” và “ăn to nói lớn”, thích “nhảy đầm” và “xếp hàng để lên hát”… Trong cơn say, anh nói là phải chi trước kia, mười mấy năm trước kia, anh được “ở lại Charlie” với Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, với các bạn nhảy dù thì “sướng hơn nhiều.” (Trích trong “Tô Phạm Liệu : người trở lại Charlie” của Phạm Anh Dũng)
Viên sĩ quan cố vấn Mỹ Duffy cho tới tận bây giờ vẫn còn luôn mang trong người những hoài niệm về Cha tôi và trận chiến tại Charlie. Mỗi lần tham gia các cuộc gặp gỡ của hội cựu chiến binh Việt Nam (trong đó có một số hiện đang là tướng lãnh cao cấp trong quân đội Mỹ) ông ta đều hỏi mọi người “Tụi mày có từng tham gia trận Charlie không, tụi mày có ai từng chiến đấu cạnh Colonel Bao (Trung tá Bảo) chưa? Thế thì tụi mày còn xoàng lắm. Và hàng năm cứ mỗi lần sinh nhật của mình, ông ta đều đặt một ổ bánh kem làm hình một ngọn đồi và ghi chữ Charlie lên đó. (Chuyện này do Chú Đoàn Phương Hải khi về Việt Nam năm 2011 thuật lại cho tôi nghe)
Cha tôi đã sống như thế nào để một người Mỹ phải luôn khắc trong tâm khảm những hoài niệm như vậy?
Tôi chỉ có thể kết luận một câu : “Cuộc đời của Cha thật vĩ đại”
Ngày hôm nay khi viết về Cha, tôi không biết viết gì hơn, chỉ xin dâng về hương hồn Cha một vài câu thơ nói về khí phách của Người và nơi mà Cha đã gửi lại thân xác của Người vĩnh viễn cho núi rừng Charlie. Ở đây tôi xin dùng từ “Cởi áo trần gian” vì tôi tin rằng Cha vẫn đang khoác một chiếc áo khác và vẫn đang nhìn tôi từ một nơi rất xa…
Lặng lẽ ngàn năm chẳng danh xưng
Bỗng chốc một hôm hóa lẫy lừng
Charlie gầm thét trong lửa đạn
Gọi mãi tên người nước mắt rưng
Trai thời nỗi chết tựa trên lưng
Khí phách hiên ngang bước chẳng dừng
Charlie vẫy gọi người ở lại
Cởi áo trần gian tặng núi rừng
(Kính dâng tặng hương hồn Cha)
Sinh nhật mẹ tôi ngày 11/04. Trước khi hành quân vào Charlie ngày 25/03 Cha tôi đã đặt một chiếc bánh sinh nhật cho mẹ với lời hứa là sẽ về dự sinh nhật của mẹ. Đến ngày sinh nhật mẹ đã không tổ chức mà vẫn chờ Cha về, và cho đến tận bây giờ mẹ vẫn chờ… Tuy nhiên Cha đã thất hứa với mẹ vì ngày 12/04 Cha đã cởi áo trần gian và nằm lại vĩnh viễn với Charlie. Còn tôi, tôi chỉ biết hỏi là tại sao Cha lại không giữ lời hứa với mẹ tôi? Tại sao và tại sao…?…
Nguyễn Bảo Tuấn
Thái Thanh – giọng ca muôn đời
Thái Thanh – giọng ca muôn đời
Thái Thanh- giọng ca tiêu biểu, đặt nền móng cho tân nhạc Việt Nam vừa ra đi tại Mỹ ở tuổi 86. Bà đã sống một cuộc đời trọn vẹn cho âm nhạc và để lại hàng trăm bản thu mẫu mực, thể hiện một kỹ thuật thanh nhạc độc đáo, đầy tìm tòi, sáng tạo. Lối nhả chữ, luyến láy như làm xiếc của bà diễn tả được đủ mọi cung bậc cảm xúc của con người cũng như tôn vinh vẻ đẹp của phát âm tiếng Việt.
Thái Thanh và anh ruột Phạm Đình Chương – người đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp của bà lúc khởi đầu Ảnh: Tư liệu
Ðộc nhất vô nhị
Thái Thanh tên thật là Phạm Thị Băng Thanh, sinh năm
1934 ở quê nội, làng Bạch Mai, Hà Nội. Bà bắt đầu học hát từ năm 10 tuổi
với anh trai Phạm Đình Chương và bước lên sân khấu cùng nhóm nhạc gia
đình năm 12 tuổi. Giọng hát Thái Thanh và âm nhạc Phạm Duy (người lấy
chị gái bà) gắn bó hòa quyện cùng nhau. Thái Thanh hát hầu hết các sáng
tác của Phạm Duy, trừ mảng Tục ca.
“Có những lần anh Phạm Duy mới sáng tác được hai ba câu của một bài ca đã gọi tôi: “Em, em Thanh, hát thử cho anh nghe câu này”.
Thế thì có nghĩa là bài của ông Phạm Duy chưa xong, Thái Thanh đã hát
rồi… Tôi không nghĩ là anh Phạm Duy sửa đổi nhạc của anh ấy vì tiếng hát
của tôi đâu. Tôi chỉ nghĩ là có nhạc Phạm Duy thì có tiếng hát Thái
Thanh như thế này, và có tiếng hát Thái Thanh thì nhạc Phạm Duy mới…”-
bà bỏ lửng câu nói trong cuộc trò chuyện với Nguyễn Tiến Đức vào năm
2002. Chính Phạm Duy đã nói thay bà: “Nếu không có Thái Thanh thì nhạc
Phạm Duy cũng không được hay và nổi lên được như vậy.” Và cũng chẳng
phải đợi đến tận bây giờ, ai cũng phải công nhận, hơn ai hết, Thái Thanh
chuyển tải đến được tận hồn cốt âm nhạc của Phạm Duy.
Cách hát cường điệu của bà rất được ưa thích lúc mới
xuất hiện và in dấu lên một số ca sĩ lớp sau. Nhưng thế hệ khán giả sau
này lớn lên trong một môi trường cảm thụ khác không phải ai cũng có đủ
trải nghiệm để ngấm được biểu cảm khác lạ này. Nhạc sĩ Tuấn Khanh mô tả:
“Ngay cả trong giới sinh viên Nhạc viện, thậm chí là sinh viên thanh
nhạc, cũng không phải ai cũng tiếp nhận được tiếng hát Thái Thanh. Để
thưởng thức nhanh, những người học nhạc chúng tôi thường chia nhau giọng
hát của những người thuộc hàng con cháu của bà như Thái Hiền, Duy
Quang, Khánh Hà hoặc Ý Lan… chứ không thể bước ngay vào thánh đường âm
nhạc của bà. Giọng hát của Thái Thanh kiêu hãnh như vậy đó. Hoặc để
người tìm tới và chiêm ngưỡng, hoặc là cứ bước qua vô tình chứ không thể
nhận mình là tiếng hát giải trí đơn giản”.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng phải thốt lên: “Nếu ta
nghiêng mình lệch đi một tí, bình diện với thời gian thay đổi, thì cô
Thái Thanh đã ở bên kia tự bao giờ rồi, ví dụ năm ngàn năm về trước hoặc
năm ngàn năm về sau.” Thực sự chỉ trong giai đoạn lịch sử giao thời đặc
biệt đó, trong một gia đình giàu truyền thống âm nhạc như thế, mới hun
đúc nên một giọng hát là sự kết hợp tinh hoa của cả Đông và Tây như Thái
Thanh. Giờ đây nhìn lại có thể thấy Thái Thanh giống như làm một cú
ngược dòng ngoạn mục, chắt chiu những gì thuộc về tinh túy của lối hát
Việt, hòa vào trong kỹ thuật thanh nhạc của riêng mình. Càng về sau này,
ca sĩ Việt càng rõ xu hướng Tây hóa.
Danh ca Thái Thanh (1934-2020)
Thái Thanh kể: “Cả bố tôi và mẹ tôi đều chơi đàn cổ như
tranh, bầu, nhị, sáo… Cụ ông chơi những thứ đàn đó còn cụ bà thì chơi tỳ
bà. Mẹ tôi giỏi về nhạc lắm. Tôi nhớ ngày xưa tôi có được nghe cụ hát ả
đào thật tuyệt. Các bạn của bố tôi mỗi khi làm được những bài thơ hay
là tới đưa cho cụ hát, rồi mọi người ngồi thưởng thức.” Người luyện cho
Thái Thanh hát lối Tây chính là anh trai Phạm Đình Chương, như bà kể:
“Anh ấy mua sách báo âm nhạc của Pháp bầy bán ở Sài Gòn hoặc đặt mua từ
Paris, nói với tôi: Em ạ, em muốn hát hay thì em phải đọc sách này, và
anh sẽ chỉ dạy cho em. Nếu em hát có phương pháp như trong sách thì em
còn hát hay hơn thế nữa…”
Một số người mới nghe có thể cho rằng Thái Thanh hát bị
điệu quá, kịch quá. Tuấn Khanh cũng từng có nghi ngại này: “Thỉnh
thoảng, tôi cũng cũng giả định rằng liệu một nghệ sĩ xuất sắc như bà để
có thể sống thật trong từng bài hát hay không… Nhưng khi nghe được
chuyện bà vất vả thu hàng chục lần bài hát Bà mẹ Gio Linh do cứ
ngừng vì khóc giữa bài, tôi hiểu được rằng tiếng hát Thái Thanh không
hát chỉ cho hôm nay, mà hát cho hôm qua và cả mai sau”. Theo anh, Bà mẹ Gio Linh là một trong những ca khúc mà Thái Thanh trình bày xuất sắc nhất, nhưng bà cũng ít khi trình diễn nhất, vì nó quá đau thương.
Thái Thanh từng tâm sự với tác giả Đỗ Tăng Bí: “Ca sĩ
phải biết yêu tiếng nói của nước mình, phải yêu tiếng Việt của mình. Ca
sĩ còn phải yêu đất nước mình nữa. Khi trong bài hát có nói đến xứ sở,
những vùng nào đó trên đất nước mình, thì mình cũng phải cảm thấy yêu cả
những địa danh đó nữa… Đặc biệt tôi sinh ra ở Hà Nội thì khi đọc đên
hai chữ “Hà Nội” tôi cảm thấy một tình cảm yêu mến vô bờ, đọc đến chữ “em bé quê”
là mình cảm thấy dào dạt tình thương yêu các em nhỏ sống ở những vùng
quê nghèo nàn…. Nếu mình không yêu chữ của nước mình thì giống như
mình hát một bài hát ngoại quốc vậy”. Bà khẳng định bí quyết thành công
của mình còn nằm ở tình yêu với khán giả và tình yêu với những gì trời
đã phú cho mình. Được biết trong những năm không thể đi hát, bà vẫn
thường xuyên luyện thanh để giữ giọng.
Thái Thanh có gần 10 năm hôn nhân với một tài tử màn bạc
nổi tiếng thời bấy giờ là Lê Quỳnh. Bà có công nuôi 5 người con, trong
đó người con trai út bị liệt nửa người dưới nhưng vẫn học hết đại học và
có công việc ổn định tại Mỹ. Sau ly hôn, hai bên vẫn giữ mối quan hệ
thân thiết. Vợ mới của Lê Quỳnh thậm chí còn là người rất hâm mộ giọng
hát Thái Thanh. Năm 2000, bà từng bị tai biến não, mất trí nhớ, nhiều
lúc không nhận ra người thân. Nhưng tới 2004 bà lên sân khấu trình diễn
hết sức duyên dáng cùng con gái. Đó cũng là lần cuối bà xuất hiện trước
công chúng một cách chính thức.
Khánh Ly nhớ Thái Thanh
Năm 1969, Khánh Ly mở phòng trà QueenBee, mời Thái Thanh
làm nòng cốt, cùng lúc đó Thái Thanh cũng là vedette tại phòng trà Đêm
Màu Hồng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Những bài hit của Thái Thanh lúc
bấy giờ là Kỷ vật cho em, Mùa thu chết, Ngậm ngùi, Nửa hồn thương đau… “Đừng nói gì là khán giả, đến chúng tôi còn mê nữa”, Khánh Ly chia sẻ với Tiền Phong.
“Lũ chúng tôi lúc đó còn trẻ lắm, nghịch ngợm chẳng ai
bằng. Cô Thái Thanh lại rất thương chúng tôi nên chỉ mắng yêu mà thôi. Ở
phòng trà tôi, giờ của cô Thái Thanh là giờ đỉnh. Cô rất đúng giờ và
đến là hát, xong là đi. Ít khi cô ngồi lại trò chuyện. Tụi tôi chỉ đợi
có thế để được nghe những bài mình thích. Thế là không nhường khán giả,
tụi tôi mạnh đứa nào nấy hét: “Cô ơi Ngậm rồi Đau rồi Chết!” Tức là Ngậm ngùi, Nửa hồn thương đau, Mùa thu chết. Đêm
nào tụi tôi cũng trù tréo lên như thế, mà khán giả cũng rất là hoan hô.
Hát xong cô khẽ khàng đi xuống tủm tỉm điểm mặt chúng tôi: “Chúng mày
quá lắm nhé! Bộ hát cho chúng mày à…”.
Cô nói xong lại nhẹ nhàng cười hạnh phúc, cầm cái ví nhỏ
bước đi. Cho đến bây giờ, chúng tôi mỗi lần gặp nhau lại nhắc kỷ niệm
này và những ngày tháng tới sẽ còn nhắc mãi rồi cùng nhau cười và chảy
nước mắt. Ngọc Minh ơi, Hồng Vân ơi, Lan Ngọc ơi, cô Thái Thanh đâu
rồi?!”.
Không ít người cho rằng Thái Thanh là bà
hoàng độc tôn trong tân nhạc Việt. Khánh Ly nêu quan điểm: “Kể ra trên
thế giới, diva không nhiều lắm đâu. Còn nói tới Việt Nam, nếu có, tôi
nghĩ, chỉ một người xứng đáng được xưng tụng là diva, đó là cô Thái
Thanh. Chấm hết.” Lệ Thu từng phát biểu: “Chúng tôi không là những giọng
hát vượt thời gian được, nếu nói vượt thời gian chỉ duy nhất dành cho
danh ca Thái Thanh mà thôi!”
Triều vua nào cũng vậy, nhiều giai nhân tuyệt sắc trong nước được tuyển vào cung để làm cung nữ. Họ là những giai nhân bạc mệnh, đi chẳng có về, suốt đời chịu cảnh lạnh lùng, buồn tủi, sầu đau trong chốn thâm cung.
Nhà vua có cả tam cung, lục viện, hàng ngàn cung nữ phi tần toàn bực diễm kiều, tài sắc cả. Mỗi đêm ngủ ở cung nào, nhà vua phải nhờ xe dê đưa đến. Xe dừng trước cung nào thì nhà vua vào cung ấy. Có những nàng hằng năm không được đoái hoài, đành chịu cảnh cô phòng giá lạnh.
Đời Đường (618-907), đời vua Hy Tông có nàng cung nữ tuyệt sắc tên Hàn Thúy Tần sống cảnh lẻ loi buồn bực trong thâm cung, nên thường nhặt những chiếc lá đỏ (hồng diệp) rồi đề thơ lên trên lá, thả xuống ngòi nước:
Nước chảy sao mà vội?
Cung sâu suốt buổi nhàn.
Ân cần nhờ lá thắm
Trôi tuốt đến nhân gian.
Nguyên văn:
Lưu thủy hà thái cấp
Cung trung tận nhật nhàn.
Ân cần tạ hồng diệp.
Hảo khứ đáo nhân gian.
Chiếc lá chở bài thơ theo dòng nước chảy xuôi ra ngoài vòng cấm lũy.
Lúc bấy giờ có người môn khách của quan Tể Tướng Hàn Vinh tên Vưu Hựu vốn kẻ phong lưu tài tử, thơ hay, chữ tốt, chỉ hiềm một nỗi vận chưa đạt nên đành chịu sống nhờ nơi quan Tể Tướng họ Hàn. Đương thơ thẩn ngắm dòng nước chảy, Hàn bỗng nhìn thấy chiếc lá có bài thơ, lấy làm lạ mới vớt lên xem. Cảm tình chan chứa với người gởi thơ lạ mặt, chàng cũng bẻ một chiếc lá, viết một bài thơ vào đấy, lên đầu nguồn dòng nước thả lá xuống cho trôi trở xuống.
Nghe oanh thấy liễu chạnh lòng thương,
Thương kẻ trong cung lúc đoạn trường.
Chiếc lá đề thơ trôi mặt nước,
Gởi cho ai đó nói không tường.
(Bản dịch của Phan Như Xuyên)
Người cung nữ họ Hàn thường ngồi nhìn dòng nước chảy, bỗng bắt được chiếc lá trở vào của người không quen biết, mới đem cất vào rương son phấn.
Ba năm sau, nhà vua sa thải một số cung nữ ( khoảng 3,000), trong đó có Thúy Tần. Nàng đến ở tạm dinh quan Tể Tướng họ Hàn để chờ thuyền trở về quê cũ, bỗng gặp Vưu Hựu. Hai người trò chuyện, ý hợp tâm đầu. Tể Tướng họ Hàn thấy cả hai đều xứng đôi vừa lứa nên làm mối thành duyên giai ngẫu.
Đêm tân hôn, Hựu chợt mở rương của vợ thấy chiếc lá của mình ngày xưa. Lấy làm lạ lùng, chàng cũng đem chiếc lá của mình vớt được cho vợ xem. Thì ra cả hai lại giữ hai chiếc lá của nhau. Cho là thật duyên trời định.
Cổ thi có bài: (*)
Một đôi thi cú theo dòng nước
Mười mấy năm qua nhớ dẫy đầy.
Mừng bấy ngày nay loan sánh phụng
Cũng nhờ lá thắm khéo làm mai.
Nguyên văn:
Nhất liên giai cú tùy lưu thủy,
Thập tải ưu tư mãn tố hoài.
Kim nhật khước thành loan phượng lữ,
Phương tri hồng diệp thị lương môi.
Trong “Đoạn trường tân thanh” của cụ Nguyễn Du, có câu:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.
hay:
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
và:
Nàng rằng hồng diệp xích thằng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
“Lá thắm”, “Hồng diệp” đều do điển tích trên.
./.
(Bài sưu tầm từ trang FB Những Câu Chuyện Thú Vị )
Một số dấu tích ngôn ngữ Nam Việt cổ trong từ thư Trung Quốc
Một số dấu tích ngôn ngữ Nam Việt cổ trong từ thư Trung Quốc
Phan Anh Dũng
06 Tháng 1 2020
1. Đặt vấn đề về sự tồn tại của nhà nước Nam Việt cổ
Sách Thông Điển của Đỗ Hựu 杜佑[1] thời Đường (801)通典卷第一百八十四– 州郡十四,có ghi chép như sau:
“Tự Lĩnh nhi nam đương Đường Ngu Tam Đại vi man di chi quốc, thị Bách Việt chi địa, diệc vị chi Nam Việt. Hoặc vân Nam Việt chi quân diệc Hạ Vũ chi hậu … ” Tạm dịch: “Từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam, ngang với đời Đường Ngu và Tam Đại là (một) nước man di, nằm trong đất Bách Việt, cũng gọi là Nam Việt.[2] Có kẻ nói quân trưởng của Nam Việt là dòng dõi vua Hạ Vũ…”
Để tránh nghi vấn “tam sao thất bản” nên người viết chụp nguyên bản trang sách đó ở dưới:
Như vậy truyền thuyết về thời đại Hồng Bàng – Hùng Vương của người Việt đâu phải là tự người Việt bịa đặt ra, như có người từng quy kết rằng: ban đầu do Trần Thế Pháp “sáng tác” trong Lĩnh Nam Trích Quái, rồi sử quan đô tổng tài thời Lê là tiến sĩ Vũ Quỳnh “ghi bừa” vào Đại Việt Sử Ký Toàn Thư? Để ý Thông Điển (801) có trước Việt Sử Lược và Lĩnh Nam Trích Quái đến khoảng nửa thiên niên kỷ, mà Đỗ Hựu từng làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam nên có thể đã từng nắm trong tay những tư liệu sách vở về nước Nam Việt cổ chứ không phải viết dựa theo truyền thuyết của người Việt.
Dẫu sách của Đỗ Hựu đã viết theo kiểu miệt thị gọi nước của người Việt là “man di” đi nữa thì vẫn là một “quốc” chứ không viết là một “xứ” hay một bộ lạc, hơn nữa ngay câu sau lại nhắc tới “quân” tức là “vua” của “man di chi quốc” này nên hiển nhiên “quốc” phải hiểu theo nghĩa “quốc gia” … Thông tin này cũng phù hợp với thông tin của Tiến sĩ Nguyễn Việt cho biết đã tìm thấy nha chương bằng ngọc, biểu hiện của quyền lực, trên đất nước ta với niên đại khoảng 3500-3800 năm trước trong một ngôi mộ cổ ở Xóm Rền (Phù Ninh, Phú Thọ), khoảng 3500-3800 năm trước là khoảng nửa cuối nhà Hạ (thế kỷ 21 TCN – 16 TCN). Nha chương này có cùng chất liệu với các vòng ngọc tìm thấy trong ngôi mộ cổ đó nên có khả năng lớn là được chế tác tại chỗ, chứ không phải là từ Trung Quốc truyền sang qua con đường giao lưu buôn bán.
Niên đại hơn 4.000 năm của nước Nam Việt nói trong Thông Điển cũng khá phù hợp với niên đại của nước Việt Thường trong sách Thông Chí đời Tống:《通志》(宋•鄭樵[1104年-1162年]撰)又按陶唐之世,越裳國獻神龜,蓋千歲,方三尺餘,背有科斗文記開闢以來,堯命錄之,謂之龜歴。《Thông Chí 》(Tống. Trịnh Tiều [110-1162] soạn): Hựu án Đào Đường chi thế, Việt Thường quốc hiến thần quy, cái thiên tuế, phương tam xích dư, bối hữu khoa đẩu văn kí khai tịch dĩ lai, Nghiêu mạng lục chi, vị chi Quy Lịch.
“Lại xét đời Đào Đường, nước Việt Thường dâng con rùa thần, phải đến hơn nghìn năm tuổi, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là Quy Lịch tức Lịch rùa.”
Tóm lại: Nam Việt là một địa danh và là tên nước cổ, có thể đã có trước thời Triệu Đà đến hàng nghìn năm chứ không phải đến thời Triệu Đà mới đặt ra tên Nam Việt.
Theo quan điểm của người viết thì “nhà nước” Nam Việt hoặc Việt Thường hoặc Văn Lang… ở vùng Lĩnh Nam trước thời Chu có lẽ cũng chỉ ở mứcmột hình thức liên minh bộ lạc như các liên minh bộ lạc Hạ-Thương ở Trung Quốc đương thời mà thôi, nhưng vẫn có tính ĐỘC LẬP, KHU BIỆT nhất định, và đặc biệt là có truyền thống kế thừa hàng ngàn năm về ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử .v.v…
2. Các dấu tích ngôn ngữ Nam Việt trong từ thư Trung Quốc.
Từ cách đặt vấn đề ở trên, chúng ta thử tìm hiểu về các dấu tích ngôn ngữ Nam Việt có thể còn lưu lại rải rác trong từ thư Trung Quốc. Để đảm bảo khách quan cần phải tìm đúng các đoạn văn có nội dung nói về người Nam Việt hay tiếng Nam Việt trong các từ thư Trung Quốc, công việc thật không dễ dàng, nhưng người viết cũng tìm được một số từ (chữ) sau:
– Chữ Sưu 獀.Khang Hy Tự điển có đoạn chú như sau: 獿獀,南越人名犬- Nạo sưu, Nam Việt nhân danh khuyển. (Người Nam Việt gọi chó là nạo sưu) .
Phục nguyên âm thượng cổ của chữ sưu:
Karlgren: /ʂi ̯ʊg/
Lí Phương Quế: /srjəgw/
Vương Lực: /ʃiu/
Baxter: /srju/
Trịnh Trương Thượng Phương: /sru/
Phan Ngộ Vân: /sru/.
Đây có thể là một từ gốc Môn-Khmer, vì chó trong tiếng Việt cổ là /*cuəʔ/ (phục nguyên theo G.Diffoth, xem Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt, trang 48), một số ngôn ngữ phương Nam khác gọi chó là a-so hay a-sưu, ví dụ tiếng Katu thì chó là achoo, còn chó sói là axô hay axớu .v.v… Tiền âm tiết a– ứng với nạo, vì chữ nạo còn được viết là 獶, mà phục nguyên âm thượng cổ chữ này theo Vương Lực là /iu/ theo Baxter là /ʔju/, phản ánh một tiền âm tiết với phụ âm đầu zero hay tắc thanh hầu.
Học giả Axel Schuessler trong phần mở đầu cuốn sách “Từ điển từ nguyên Hán ngữ cổ” ( Etymological_Dictionaryof old Chinese) khi bàn về quan hệ giữa Hán ngữ và các ngôn ngữ láng giềng, ở mục quan hệ với tiếng Việt (mục 1.2.6 trang 4) cũng dẫn ví dụ về chữ sưu 獶 này cùng với chữ trát 札(tức là chết tiếng Việt, nói kỹ ở phần dưới).
Trong khi đó các ngôn ngữ nhóm Thái – Kadai như Choang, Tày, Thái đều gọi chó là ma, âm đọc hoàn toàn khác với nạo sưu mà sách Trung Quốc đã ghi chép … Từ so sánh trên có thể thấy, giống người được sách Trung Quốc gọi là “Nam Việt nhân” nhiều khả năng là người Việt (Kinh) chứ không phải nhóm Choang – Tày – Thái.
Vả lại xét dân số của vùng Lĩnh Nam (tức vùng đất Nam Việt theo Thông Điển viết ở trên) được ghi chép trong Hán Thư thì quận Uất Lâm, phía tây Quảng Tây, vốn là vùng đất sinh sống của người Choang, đất rộng đến 12 huyện nhưng dân số chỉ có 71.162 khẩu, chưa bằng một huyện của quận Giao Chỉ (tức miền Bắc VN), khi đó quận Giao Chỉ có 10 huyện nhưng dân số cộng đến 746.237 khẩu. Nếu cộng luôn cả Tày – Nùng và nhóm Lê ở đảo Hải Nam khi đó thì nhóm Thái – Kadai có lẽ cũng chưa bằng 1/5 dân số của người Việt (Kinh) ở riêng quận Giao Chỉ chứ chưa tính đến quận Cửu Chân, nên bảo rằng người Nam Việt vốn là người Choang – Lê (và chỉ có thể là Choang – Lê?) thì thật là vô lý.
Lại xét Lữ Gia là Thừa tướng nước Nam Việt của Triệu Đà, truyền thuyết của người Việt nói Lữ Gia là người Việt đất Lôi Dương quận Cửu Chân, hiện còn đền thờ ở tỉnh Hưng Yên. Vì vậy việc sách Trung Quốc ghi tiếng nói Nam Việt có điểm giống tiếng Việt (Kinh) thì có gì lạ?
Chu Lễ, Địa Quan, Tư Quan: “Quốc hung trát, tắc vô tống quan chi trưng. Trịnh Huyền[3] chú dẫn Trịnh Ti Nông vân: hung, vị hung niên cơ hoang dã; trát, vị tật dịch tử vong dã. Việt nhân vị tử vi trát.
Ở đây chúng ta chỉ cần chú ý đến câu cuối “Người Việt gọi chết là trát”còn phía Hán ngữ thì nghĩa là “tật dịch tử vong”, Axel Schuessler có dẫn từ này như đã nói ở phần trên nhưng dịch thành epidemic tức là “tật dịch” mà bỏ sót nghĩa “tử vong”ghi trong từ thư Trung Quốc, đó mới là nghĩa gốc của nó bắt nguốn từ “chết” của tiếng Việt.
Đối chiếu phục nguyên âm thượng cổ Hán của chữ “trát 扎” theo Vương Lực là /tʃet/ , hay theo Baxter là /tsrit/ thấy khá gần từ “chết” của người Việt (Kinh), đó là một từ gốc Mon-Khmer mà ngữ âm thời proto Mon-Khmer (khoảng hơn 4000 năm trước) theo G.Difflot là /*kacet/[4] nếu bỏ qua tiền âm tiết “ka” thì cũng không khác lắm so với tiếng Việt hiện đại. Trong khi đó từ “chết” trong tiếng Thái Đen là “tai”, tiếng Tày là “thai” đều khác với từ “trát” nhiều, như vậy việc một số học giả Trung Quốc cho rằng các nhóm dân Bách Việt cổ ở vùng Nam Trường Giang là thuộc nhóm Thái – Kađai là thiếu căn cứ.
– Chữ cụ 颶(gió bão): Sách Nam Việt Chí của Thẩm Hoài Viễn (沈怀远) thời Nam Triều Tống南朝宋(năm 420-479)[5] viết: 颶風者-cụ, phong dã (cụ là gió), cũng đã được ghi lại trong Khang Hy Tự điển.
Phục nguyên âmthượng cổ của chữ cụ颶 (Thanh mẫuquần群, vận mẫungu虞, khứthanh, hợp khẩu,tam đẳng, nhiếpngộ遇,thiết âm: 衢遇- cù ngộ thiết):
Karlgren: /gʹi ̯u/
Lí Phương Quế: /gjugh/
Vương Lực: /gio/
Baxter: /gjos/
Trịnh Trương Thượng Phương: /gos/
Phan Ngộ Vân: /gos/.
Tiến sĩ Trần Trọng Dương trong Nguyễn Trãi Quốc âm từ điển chú về chữ Nôm gió như sau: “Tự dạng Nôm cổ hơn với cấu trúc {cá+dũ 个+愈} để ghi thủy âm kép *kj … đối ứng: kzo trong Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng … Kiểu tái lập *kjɔ …”
Như vậy tái lập âm của Trần Trọng Dương cũng không khác mấy so với tái lập của Baxter cho chữ cụ 颶là: /*gjos/, vì hai phụ âm k- và g- chỉ phân biệt ở đặc tính vô thanh hay hữu thanh, dễ dàng chuyển hóa cho nhau, như thường thấy ở tiếng Nga, còn âm cuối -s dẫn đến khứ thanh (theo Haudricourt) cũng phù hợp với dấu sắc ở tiếng Việt “gió”. Có thể dẫn thêm hàng loạt trường hợp chữ Hán có thanh mẫu kiến 見(K-),tương ứng âm Hán Việt là GI- như: 加gia; 價giá; 覺giác; 皆giai; 解giải; 間gian, 江giang… Nhân tiện nói thêm: TS Trần Trọng Dương dựa vào các ngôn ngữ bà con với tiếng Việt nên phục nguyên âm đầu là k-, nhưng chúng tôi đề nghị vẫn phục nguyên là g- tức “gjɔ”. Âm đầu g- vốn có sẵn từ xưa trong proto Mon-Khmer, nhiều tác giả cho rằng sau này đã gộp vào k- ở giai đoạn Việt – Mường chung, rồi sau này ở tiếng Việt lại tách ra, nhưng chúng tôi cho rằng riêng nhóm Việt vùng Bắc Bộ thì vẫn giữ phân biệt k-/g- từ thượng cổ đến nay.
Rõ ràng Thẩm Hoài Viễn đã ghi chép được đúng nghĩa chữ gió 颶của người Việt (Kinh) nghĩa là gió (phong) nói chung, chứ không chỉ có nghĩa hẹp hơn là “gió bão” như ở Hán ngữ.
Hình minh họa chữ Nôm gió cổ viết dạng {cá+dũ 个+愈} chụp lại từ bản Nôm Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh, trang 12a (câu Nôm: đi đỗ lệ tai gió):
– Chữ hào 蠔(nghĩa là con hàu)南越志》曰:南土謂蠣爲蠔Nam Việt Chí viết: Nam thổ vị lệ vi hào. (Sách Nam Việt Chí viết rằng người phương Nam gọi “lệ” là con hào).
Âm hào thời Thẩm Hoài Viễn trùng hoàn toàn với tên con hào (hay hàu) mà người Việt hiện nay vẫn sử dụng rất phổ thông.
Thử tra cứu tự điển chữ Nôm Tày và từ điển Thái Đen – Việt thì không thấy chữ hào nghĩa là con hàu, nhưng không cần ngạc nhiên chuyện này vì người Tày và Thái vốn cư trú ở miền núi, còn con hàu là sinh vật biển. Hiện người viết chưa tra cứu được từ điển Choang có chữ hào nghĩa là “con hàu” này không, nhưng nhiều khả năng cũng như Tày-Thái thôi, vì người Choang cũng cư trú ở miền núi, nếu hiện tại có từ hào thì có lẽ là họ mượn của người Hán hay người Việt (Kinh).
– Chữ đồn 豚(con lợn): 《南越志:江豚似猪Nam Việt Chí: Giang đồn tựa trư. (con lợn sông hay lợn biển hình giống như lợn).
Phục nguyên âm thượng cổ của chữ đồn 豚:
Karlgren: /dʹwən/
Lí Phương Quế: /dən/
Vương Lực: /duən/
Baxter: /lun/
Trịnh Trương Thượng Phương: /duun/
Phan Ngộ Vân: /duun/
Phục nguyên của Baxter /lun/cho thấy từ lợn của người Việt với đồn Hán ngữ có thể là cùng mộc gốc Nam Á, trong khi đó họ ngôn ngữ Thái-Kadai gọi con lợn là mu thì rất khác.
Ví dụ về quan hệ giữa âm đầu đ- Hán Việt với l- Việt còn thấy ở các cặp từ khác như chữ Đà (Hán: 柁) /Lái (Việt) mà phục nguyên theo Baxter là: /lajʔ/, hay chữ đạo 稻là lúa phục nguyên theo Baxter là: /luʔ /(âm cuối tắcʔ khi mở sẽ chuyển thành -a ở tiếng Việt).
Trong tiếng Việt còn có các ví dụ về từ có âm đầu đ/l đồng nghĩa như đạc ngựa cũng là lạc ngựa, hay đòi tói=lòi tói (tức dây xích sắt, từ đòi tói có ghi trong từ điển Việt Bồ La A.D.Rhodes và chú là cũng như lòi tói) v.v…
– Chữ trá 䖳(tức 水母 thủy mô, tức con sứa): sách《淡水廳志》Đạm Thủy Sảnh Chí[ 6] có chép rằng 南越志謂之䖳 (Nam Việt Chí vị chi trá).
Khang Hy Tự Điển có ghi một âm khác của trá 䖳là 咤, mà chữ này người Việt quen đọc âm Hán-Việt là sá. Như vậy có thể “con sá” tức là “con sứa” của người Việt, quan hệ giữa vần -a và -ưa là khá rõ ràng vì nhiều vùng khu 4 cũ như Thanh Hóa vẫn gọi “lửa” là “lả”. Chắc chắn đây là từ gốc Nam Á của nhóm Bách Việt, vì có sách ghi là người Mân Việt cũng gọi con sứa là 䖳.
– Sách 臨海異物志》Lâm hải dị vật chí của Thẩm Oánh (沈莹) đời Tam Quốc viết: 比目魚,似左右分魚,南越謂之板魚(Tỉ mục ngư, tựa tả hữu phân ngư, Nam Việt vị chi bản ngư– Cá mắt sát nhau, giống như cá phân biệt hai nửa trái phải, người Nam Việt gọi là cá “bản”).
Cá bản chính là cá bơn hay thờn bơn trong tiếng Việt[7], đặc điểm của cá bơn là hai con mắt nằm cùng một phía thân, sát vào nhau, (chữ tỉ trong tên “Tỉ mục” nghĩa thông thường là so sánh, còn có nghĩa khác là cặp sát). Có 2 chữ Nôm ghi tên cá bơn mà đều dùng phần biểu âm là chữ ban (~), khá phù hợpvớiâm bản, sai khác về thanh không quan trọng vì theo Haudricourt [11] thì khoảng đầu công nguyên tiếng Việt còn chưa có thanh điệu, tiếng Hán có thể cũng chưa định hình rõ thanh điệu.
Cứ ngư 锯鱼(cá lưỡi cưa), theo Nam Việt Chí và Thái Bình Hoàn Vũ Ký thì Nam Việt gọi là 狼籍鱼– lang tịch ngư[8].
Chữ “lang”có lẽ ứng với “răng” trong tiếng Việt vì phục nguyên âm thượng cổ của chữ 狼theo Baxter là /c-raŋ/, theo Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân là /raaŋ/, còn chữ “tịch” có thể là “lược” trong tiếng Việt vì Baxterphục nguyên âm thượng cổ của tịch 籍là /zljᴀk/, Trịnh Trương Thượng Phương: /ljaag/, Phan Ngộ Vân: /sɢlag/.
Cá răng lược hay “cứ ngư”
* Ngoài các dẫn chứng trên, còn hàng loạt các từ Hán có nguồn gốc phương Nam nhưng đã Hán hóa cao và không chỉ có ở đất Nam Việt nên người viết không tính là dấu tích Nam Việt, chẳng hạn như phù lưu (plâu=trầu), cảm lãm (klãm=trám), da (dừa), tân lang (binh lang=cây cau), trứ/trợ (đũa), đại mội (đồi mồi) .v.v…
Sơ kết
Các chứng tích ngữ âm Nam Việt còn lưu trong sách Trung Quốc tìm được ở trên tuy chưa nhiều nhưng tạm có thể đặt vấn đề là tiếng nói của người Nam Việt cổ chính là tiếng nói của người Việt (Kinh).
Tuy địa bàn Lĩnh Nam còn có các nhóm Thái-Kadai, nhưng dân số chưa bằng 1/4 của người Kinh, nên ước chừng nếu tìm được nhiều chữ hơn trong từ thư Trung Quốc viết về đất Nam Việt để so sánh thì tỉ lệ số chữ có gốc Việt (Kinh) vẫn áp đảo.
A Handbook of Old Chinese PhonologyGS William Baxter (1992, New York, Berlin).
王力古漢語字典,Vương Lực “Cổ Hán ngữ tự điển”.
Etymological_Dictionaryof old Chinese. Axel Schuessler , 2007 University of Hawai’i Press.
Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nguyễn Tài Cẩn, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 1995
Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nguyễn Tài Cẩn. NXB Đại học Quốc gia , Hà Nội. 2000.
Từ điển tiếng Cơ Tu- Việt, Việt -Cơ Tu, Nguyễn Hữu Hoành, Tạ Văn Thông, Nguyễn Văn Lợi, Sở KHCN Quảng Nam và Viện Ngôn ngữ học 2007.
Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật Thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh. Hoàng Thị Ngọ. NXB KHXH, Hà Nội, 1999.
Thử tìm hiểu từ nguyên một số cặp từ Việt Hán, PHAN ANH DŨNG, Bài viết tham gia hội thảo nhân một năm ngày mất GS Nguyễn Tài Cẩn, Hà Nội, 4-2012.
Tìm hiểu về lớp từ cổ Việt Hán qua các cứ liệu ngữ âm lịch sử, PHAN ANH DŨNG, Hội thảo quốc tế Ngôn ngữ học, Hà Nội 14-16/4/2013.
A.G. Haudricourt (1954). Về nguồn gốc các thanh của tiếng Việt. (Hoàng Tuệ dịch). In trong Những bài viết về lịch sử tiếng Việt – Trần Trí Dõi biên soạn, Hà Nội, 1997.
Nguyễn Trãi Quốc âm Từ điển. Trần Trọng Dương. NXB Từ điển Bách khoa. Hà Nội 2014.
[1] Đỗ Hữu 杜佑(735-812) từng làm Tiết độ sứ Lĩnh Nam, soạn sách Thông điển trong 36 năm từ 766 đến 801 sau đó làm Tể tướng nhà Đường gần 10 năm cho tới cuối đời. Đỗ Hữu là ông nội của nhà thơ Đỗ Mục. http://zh.wikipedia.org/wiki/%E6%9D%9C%E4%BD%91
[2] Đường Ngu tức là vua Nghiêu họ Đào Đường ( 2337 TCN–2258 TCN) và vua Thuấn họ Hữu Ngu. Tam Đại tức 3 đời Hạ (bắt đầu từ vua Vũ), Thương, Chu.
[3] Trịnh Huyền (郑玄127-200) là một học giả thời Đông Hán.
[4] Dẫn lại theo Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt của GS Nguyễn Tài Cẩn, trang 46.
[5] Hiện sách Nam Việt Chí đã thất truyền, nhưng nó được trích dẫn rất nhiều ở các sách khác, hiện đã có một công trình của các học giả Trung Quốc sao lục lại Nam Việt Chí từ các sách khácnhau, tập hợp lại được khoảng 49 trang A4 .
[6] Đạm Thủy Sảnh 淡水廳là một địa phương ở đảo Đài Loan.
[7] Cá bơn hiện nay là món ăn rất phổ thông ở Huế, thường dùng nấu canh với trái thơm (dứa).
[8] Xem thông tin ở trang http://baike.xzbu.com/995417.htm, 《寰宇记:“惠州出锯鱼,亦名狼籍鱼,身长二丈,口长三尺,广三寸,左右齿如铁锯,《南越志》作锯鱼。”Hoàn Vũ Ký: Huệ Châu xuất cứ ngư, diệc danh lang tịch ngư, thân trường nhị trượng, khẩu trường tam xích, quảng tam thốn, tả hữu xỉ như thiết cứ. Nam Việt Chí tác cứ ngư. Huệ Châu là ngoại ô phía đông bắc thành phố Quảng Châu, kinh đô xưa của nước Nam Việt của Triệu Đà.
Đó là một câu khẳng định chắc như cây đinh đóng cái cột nhà. Gia phả là gì ? 家譜 gia phả hoặc gia phổ là phả hệ của một dòng họ, gia đình, là cuốn sách chép tên ông bà tổ tiên, con cháu của một dòng tộc nào đó.
Người Bắc Kỳ xưa rày ta nghe tới là thói “lũy tre làng”, có gia phả, có dòng tộc nghiêm ngặc, có trưởng tộc, có nhà thờ tổ, mả tổ, thủy tổ và những quy định ná thở với con cháu. Nhưng với dân Nam thì không có, hoặc có hời hợt, hình thức.
Dân Nam Kỳ có câu cười Bắc Kỳ là “Tổ tiên đại bác thụt chưa tới”. Chúng ta biết tổ tiên khai phá dựng lên Nam Kỳ Lục Tỉnh là dân khai hoang, kêu là lưu dân.
流民 lưu dân là dân phiêu lưu, dân đi xa, dân bỏ làng quê gốc mà ra đi. Đó là người Ngũ Quảng : Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Huế), Quảng Nam, Quảng Ngãi hiệp cùng người Minh Hương, đồng hóa người Khmer, người bổn địa Stieng… mà trộn ra dân Nam Kỳ ngày nay.
Đó là dân nghèo rách nát, dân bị lưu đày, bị truy nã, bị làng ruồng bỏ, gái chửa hoang, học trò thất chí, quan bị biếm chức, người thích phiêu lưu, giang hồ lãng tử…
“Tới Cà Mau – Rạch Giá Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng Muỗi vắt nhiều hơn cỏ Chướng khí mù như sương Thân không là lính thú Sao chưa về cố hương?”(Sơn Nam)
Xa hơn dân Ngũ Quảng là những người ở mạn Bắc di cư theo chúa Nguyễn Hoàng vô Trung Kỳ mà Phạm Duy tả là ” Gió tiễn người về đến quê hương câu ca giọng Hời.”
“Mộng ngoài biên giới mơ hồ Chẳng ngăn được sóng vỡ bờ Với đêm mờ hồn về trên Tháp ma”
Rồi thời chúa Nguyễn, lưu dân Việt từ Ngũ Quảng theo bà Ngọc Vạn vô Mô Xoài, Đồng Nai : “Nhà Bè nước chảy chia hai Ai về Gia Định Đồng Nai thì về”
嘉定 Gia Định là nơi đô hội, trù phú nhứt Nam Kỳ, có nghĩa là định cư nơi an ổn, phước lớn.
Là những lưu dân tạo ra hợp chúng quốc Nam Kỳ, ông bà chúng ta tạo ra một nền văn hóa đặc trưng riêng của Nam Kỳ mà nhìn lại có phần khác ngoài Trung, đối lập với ngoài Bắc.
Thí dụ Bắc ăn bánh chưng cắt 8 miếng hình trụ nhọn,Nam Kỳ ăn bánh tét -tét ra khoanh tròn, Bắc Kỳ uống trà kêu uống chè, Nam Kỳ kêu trà.
Văn hóa Bắc là lũy tre làng bốn góc chôn chặc cái làng ở giữa, làng nào sống kiểu làng đó, cấm giao lưu trai gái, có hương ước ngặc nghèo, có thầy Lý hắc cám, có con Thị Màu lẳng lơ, có chị Dậu bế tắc, có những người con gái chửa hoang bị cạo đầu bôi vôi thả bè chuối trôi sông.
Nam Kỳ khác Bắc, phần nhiều Nam sống mở, làng của Nam dựa vô mé sông, giao lưu với làng khác bằng ghe xuồng, bằng những con lộ,người Nam luôn mời khách xa xôi vô ở chung, giúp đỡ nhau cùng an cư vui vẻ, gái làng thích lấy trai xa xứ và thương chồng đứt ruột đứt gan vì cái quá khứ “trôi sông lạc chợ” đó.
“Rồng chầu ngoài Huế ngựa tế Đồng Nai Nước sông trong chảy lộn sông ngoài Thương người quân tử lạc loài tới đây, Tới đây thì ở lại đây Bao giờ bén rễ xanh cây sẽ về”
Gái Nam Kỳ chịu chơi, dám theo người mình yêu, dám nhận hậu quả do tình yêu đó đem lại. “Đi đâu cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam Ví dầu tình có dở dang Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp dzìa”
Ông bà tổ tiên Nam Kỳ mình quá hãi hùng ở đất Bắc hắc ám nên vô Nam bỏ tục gần hết. Họ không muốn con cháu họ phải sống cái cảnh mõ làng rùng rợn phiên xử “hương ước” ở đình làng như ngoài Bắc.
Làng xóm Nam Kỳ không có hương ước, lệ làng, làng Nam Kỳ là làng mở, nhưng có những luật bất thành văn, mọi người phải tôn trọng, làng Nam Kỳ tuân luật triều đình, tôn trọng quan chủ quận, tri huyện.
Thành ra gái Nam thất tiết thì bị gia đình xử bằng cách đuổi ra khỏi nhà, nhưng đuổi là thủ tục thôi vì lén nhét tiền của cho nó đi trốn khuất mắt một thời gian, hoặc đày nó xuống nhà sau cấm ló mặt lên nhà trước trong một hai năm, hoặc ra vườn sau cất nhà mà ở. Hết thời gian đó cô gái sống lại bình thường, con cháu máu mủ mình mà.
Nên ai làm phim làm cạo đầu bôi vôi, thả bè chuối trôi sông, thả rọ heo xuống sống, quăng người xuống giếng là không hiểu gì về văn hóa Nam Kỳ. Tổ tiên Nam Kỳ chúng tôi chưa bao giờ có ý nghĩ đó trong đầu với con cháu mình.
Người Nam Kỳ không lập gia phả, vì sao ? Đừng bao giờ nói người Nam Kỳ là lưu dân dốt không biết chữ mà không lập gia phả.
Các bạn nghiên cứu thấy rằng Nho giáo Bắc Kỳ là đầu môi chót lưỡi, tức thể hiện bằng cái miệng, Nho giáo Nam Kỳ thể hiện bằng cách sống.
Có ai đó nói “Người Bắc cao đạo một cách ngây ngô còn người Nam thì thực tế một cách trần trụi”. Cái chữ trần trụi hơi quá,nhưng những quy tắc bất thành văn ở Nam Kỳ nó vô hình dữ lắm nha, thí dụ dân Nam Kỳ mời bạn ăn cơm, mà bạn ăn hỗn trong mâm cơm quá, họ không nói, nhưng lần sau sẽ không mời. Người Nam Kỳ luôn để khách tự giác và không nhắc.
Trong làng Nam Kỳ vẫn có người biết chữ Nho, sau là chữ Quốc Ngữ, nên biết chữ Quốc Ngữ được dạy ở Nam Kỳ đầu tiên.
Nhìn đền chùa, miếu mạo Nam Kỳ xưa đi, hoành phi câu đối rất nhiều, đó là bằng chứng.
Không viết gia phả vì thấy không cần thiết. Một xã hội mở thì không cần gia phả. Xưa đất rộng người thưa, con cháu đi tứ tán, ở nhà toàn nhờ láng giếng gần đó, có câu “Bán họ hàng xa mua láng giềng gần”.
Là dân gốc lưu dân, dân Nam muốn xóa bỏ quá khứ hãi hùng từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Cách xưng hô “anh Cả” ở Bắc so với “anh Hai” ở Nam là điển hình. Rất nhiều người đặt câu hỏi tại sao người Nam gọi “anh Cả”, “chị Cả” (người con trưởng, theo cách gọi miền Bắc) là “anh Hai”, “chị Hai”.
Nhiều người giải thích rằng thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng dân ở Bắc vào khai phá vùng đất Phương Nam, rằng trong đoàn quân Nam tiến lúc đó, hầu như không có ai là “anh Cả”, vì đi mở cõi thì nguy hiểm, theo tục Bắc phải để người con trưởng ở lại để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc mộ phần tổ tiên; những người ra đi đều là con thứ.
Nói vậy không trúng.
Có những gia đình họ ôm cả nhà cả dòng họ của họ vô Nam kìa. Chuyện anh hai ở Nam Kỳ là chuyện đặc trưng, không thể giải thích là ông cả cọp gì đó mà sợ nên Nam Kỳ tránh “Anh Cả”, vậy chứ ông Hương Cả thì sao ? Nam Kỳ có Hương Cả trong ban hội tề
Đơn giản người Nam cố tình làm cho khác Bắc Kỳ khi bỏ cả, chỉ gọi người lớn là anh hai, chị hai.
Bỏ chữ cả là một dạng dứt áo, cắt đứt với hương ước, lũy tre làng, với họ tộc kinh hoàng kiểu Bắc Kỳ.
Ông Hương Cả trong Nam đâu có quyền hành gì, chỉ tượng trưng, và là cả duy nhứt trong Nam, có lẽ là một chút hoài vọng.
Người Bắc thừa tự là con trưởng, nhưng thừa tự, cúng kiếng trong Nam là con trai út, Nam Kỳ rất thực tế, thằng út lúc nào cũng trẻ trung, nó sẽ gánh vác gia đình ở mức hăng hái, thằng hai thì già chát, nhỏ hơn cha mẹ không nhiều gánh gì nổi.
Câu “Giàu út ăn nghèo út chịu” cũng của Nam Kỳ đưa ra.
Thằng út giữ hương hỏa trong nhà, nhưng vẫn không hạ bệ thằng anh hai nha.
Bằng chứng là trong những ngày giỗ chạp, cúng kiếng tổ tiên, đám cưới thì ông anh hai vẫn đứng ra tế lễ, thằng út đứng sau lưng anh hai.
Trong họ tộc thì người thứ hai vẫn mang tiếng người đứng đầu, đám cưới thưa gửi là ông bác hai hết thảy, ông này chết thì ông bác ba lên thế.
Nhưng anh hai làm lễ thôi, anh hai không có quyền xen vô chuyện cúng kiếng của thằng út như cúng lớn, cúng nhỏ, cúng ra làm sao. Nam Kỳ chia quyền hết là ở đây.
Ngày nay Nam Kỳ thực tế luôn ở kiểu chia bàn thờ, anh hai giỗ cha, út giỗ mẹ, tới ngày tụ lại hai nhà vui vẻ.
Không gia phả, không họ tộc, không có khái niệm nhà thờ tổ, nhưng Nam Kỳ mặc định nhà thằng Út là nhà thờ tổ, tức là nhà nào mà cha mẹ, ông bà chết và thờ là nhà tổ.
Ông nào giữ hương hỏa có nghĩa vụ làm đám giỗ, không có quyền chỉ trỏ, ra lịnh này nọ nghĩa vụ với con cháu như tộc trưởng ngoài Bắc.
Con cháu trong Nam sướng là vậy, cứ về ăn đám giỗ, giàu mua đồ nhiều, nghèo mua đồ ít, không ai dám nói.
Với bản chất trọng người sống, kỉnh người chết ở mức tượng trưng, việc cúng kiếng Nam Kỳ cũng khác Bắc Kỳ. Thường giữa nhà người Nam đặt cái bàn thờ 九玄七祖 “Cửu Huyền Thất Tổ” tức “7 đời tổ tiên trên chín tầng trời”. Nhưng thực ra người miền Nam cúng giỗ chỉ 3 đời tới ông cố bà cố thôi, hết 3 hoặc 4 đời là không cúng kiếng gì nữa.
Có câu五代埋神主”Ngũ đại mai thần chủ” (Đến 5 đời thì chôn thần chủ), tức đem bài vị chôn hoặc đốt, nhập lại làm một gọi là “Cửu huyền thất tổ’ và giỗ chung tượng trưng. “Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha”
Cái đình Nam Kỳ rất chan hòa, vui vẻ, là nơi dân làng tụ hợp lại cúng thành hoàng rồi ăn uống vui chơi, coi hát bội, nó như một cái sân khấu. Gánh hát về đình là niềm vui bất tận của người Nam Kỳ. Nam Kỳ không có thằng mõ tay chưn của lý trưởng ,không có cảnh phạt vạ kiểu Thị Màu.
Trong cái làng Nam Kỳ có nhà việc là chỗ làm việc của làng, tra án ở đó, không mang vô đình như Bắc Kỳ. Coi ‘Con nhà nghèo’, bà Cai Hiếu đòi đóng gông Ba Cam thì Hương Quản đáp lại “Tôi đang tra án nó, mà thủa nay làng tôi có gông đâu mà đóng”.
Là gốc lưu dân, không viết gia phả, không lập họ tộc, không lập lũy tre làng, không có ông lý trưởng hét ra lửa
Để ý coi đi trong đám giỗ Nam Kỳ luôn cúng một mâm ngoài sân nhà, đó là mâm cúng lề, cúng những người khai hoang bỏ mình hồi xưa, sau 1975 CS kêu “mâm chiến sĩ”.
Tất cả các miếu, am, và bàn thông thiên Nam Kỳ đều có cúng mấy hủ muối, gạo và nước, có nơi cúng bó củi. Đó là cúng tổ tiên gốc lưu dân của mình hồi xưa.
Người Nam Kỳ cúng lề, cúng đất, cúng cô hồn. Cúng tổ tiên Nam Kỳ chung là ngày 25 tháng Chạp, khi con cháu tụ về dẫy mả, tảo mộ, họ sẽ làm mâm cơm cúng ở nhà, thường là nấu cháo gà cháo vịt.
Tục thờ ông bà ở Nam Kỳ rất đơn giản, chỉ ba bốn đời, nhưng không được bỏ bàn thờ tổ tiên. Đồ Chiểu chửi rằng “Sống làm chi theo quân tả đạo-Quăng vùa hương đạp bàn độc thấy lại thêm buồn”.
Xưa Nam Kỳ có cái bàn thờ và giường thờ. Người Pháp qua, đem qua Nam Kỳ cái tủ chén đứng kiểu thời Louis XVI, không cao không thấp, trước tiên là ở xứ Thủ Dầu Một, sau thợ Gò Công sáng tạo đóng cái tủ thờ dựa trên nguyên lý ráp mộng đi khung của tủ kiểu Pháp, nhưng cải tiến theo phong tục Nam.
Từ đó cái tủ thờ này là đặc trưng Nam Kỳ Lục Tỉnh, hiệp cùng tranh kiếng nữa, ra cái hồn tổ tiên Nam kỳ mình.
Trong “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức có đoạn : “Vùng Gia Định… đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ. Nhà nào tục nấy… Gia Định có vị trí nam phương dương minh, nên người khí tiết trung dũng, trong nghĩa khinh tài…”
Đó là tánh hiếu khách, hào phóng, không câu nệ hình thức, sống thực dụng.
Dân Nam Kỳ hay đờn ca xướng hát, làm ra đờn ca tài tử và cải lương vang danh, hệ thống bài lý nhiều nhứt Việt Nam.
Người Nam Kỳ trọng tôn giáo, nhưng kiểu của họ. Đạo Phật vô Nam biến thể, phải trộn với tín ngưỡng dân gian. Dân Nam Kỳ không phải là những tín đồ Phật giáo thuần thành. Các phái Phật trong Nam đều là biến thể, chùa trong Nam không lớn. Công giáo trong Nam Kỳ xưa khác ngoài Bắc, Nam không có các giáo xứ, người Công giáo Nam Kỳ hòa nhập, thế tục. Người Công giáo Nam Kỳ luôn ít hơn Công giáo Bắc Kỳ
Sông rạch và đồng bằng tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn trong chánh trị, nhưng tràn trề tình thương,biết nhìn người khác, biết cúi mình xuống tha thiết với Quốc Gia. Dân Nam Kỳ không những nói ngay mà hay nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt, đôi lúc bổ bả.
Không lập gia phả, nhưng con cháu sống làm sao phải ra dáng con người, sống không làm tủi nhục tổ tiên, sống thẳng, sống có ích, sống không để tiếng nhơ cho tổ tiên, dòng họ.
Người Nam Kỳ dạy con cháu cũng theo kiểu mở. Biên cái tục này là để răn mình. Biết cái hay cái tệ của mình để nhìn lại bản thân mình. Và tính cho ra cách thức tồn tại của xứ sở mình trước thời cuộc.
(trích) … Anh cả tôi tên Thụy, hồi có thai anh, mẹ tôi nằm mơ thấy có người đem đến cho một viên ngọc, nếu đặt tên Ngọc có vẻ con gái quá nên đặt là Thụy vì chữ Thụy có ẩn chữ Ngọc. Anh thứ hai tên Cẩm, thứ ba là Tam, anh thứ tư là Long, tôi thứ năm tên Thế, em thứ sáu tên Vinh, em thứ bẩy tên Bách. Thật sự tên anh em tôi không phải ngay từ lúc đầu đã đặt theo bộ chữ THỤY CẨM TAM LONG VINH BÁCH THẾ (Ba con rồng bằng gấm đẹp vinh hiển muôn đời) như một vài cuốn sách đã viết và coi như sự nổi tiếng của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam là tiền định.
Ba anh tôi tên đã được đặt từ trước là Thụy, Cẩm, Tam, anh Tư tôi (Hoàng Đạo) đáng lẽ là Tứ nhưng có người bạn của thầy tôi là Tứ nên mới đặt là Tư và tôi là Năm. Rồi tới em Sáu (Thạch Lam) và em út là Bẩy. Sau này vì anh tư tôi không đủ tuổi đi thi anh mới đổi là Long. Còn tên tôi, em Sáu và em Bẩy là do anh TAM đổi nhân dịp em Sáu cũng vì lý do đổi tuổi để đi thi. Như vậy tuổi khai sinh của anh em nhà tôi không hoàn toàn đúng với tuổi thật. Năm đó tôi nhớ anh Tam đã viết “NHO PHONG” và tôi khoảng 14, 15 tuổi, bấy giờ anh Tam mới nghĩ tới việc đặt tên anh em chúng tôi theo bộ chữ trên. Tôi là con gái nên lấy chữ cuối. Thứ tự gia đình tôi theo đúng tuổi là anh Cả NGUYỄN TƯỜNG THỤY sau này làm Tổng giám đốc bưu điện sinh năm Quý Mão (1903), anh Hai NGUYỄN TƯỜNG CẨM, kỹ sư canh nông, Giám đốc báo NGÀY NAY sinh năm Giáp Thìn (1904), anh Tam NGUYỄN TƯỜNG TAM, Nhất Linh, Nhị Linh chủ trương TỰ LỰC VĂN ĐOÀN sinh năm Bính Ngọ (1905), anh Tư NGUYỄN TƯỜNG LONG, Tứ Ly, Hoàng Đạo trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn sinh năm Đinh Mùi (1907), tôi NGUYỄN THỊ THẾ sinh năm Kỷ Dậu (1909), em Sáu NGUYỄN TƯỜNG VINH (LÂN), Thạch Lam trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn sinh năm Canh Tuất (1910), em Bẩy NGUYỄN TƯỜNG BÁCH, Bác Sĩ, sinh năm Bính Thìn (1916).
Riêng em Sáu tôi đổi tên tới hai lần. Lần thứ nhất đổi là Vinh, cũng vì lý do để đủ tuổi đi thi bằng thành chung. Tôi còn nhớ khi em Sáu thi đậu, Tú mỡ Hồ Trọng Hiếu có mừng em bài thơ tôi chỉ còn thuộc có 6 câu:
Gửi lời mừng bác NGUYỄN TƯỜNG VINH
Đáng bậc thần đồng bọn học sinh Năm trước vừa ăn kỳ tốt nghiệp Năm sau liền đỗ bậc chung thành Văn hay phúc ấm nhờ tiên tổ Cũng bởi công phu gắng học hành
Lần đổi tên thứ hai là Lân. Tên này em tôi giữ cho tới khi chết. Sự đổi tên của anh em tôi là do ý kiến của anh Tam vì khi đổi tên tôi và các em Sáu, em Bảy thầy tôi mất đã lâu. …
Tôi không ngờ em Sáu có trí nhớ dai thế, như truyện em tôi tả hai chị em thức đợi chuyến tầu đêm qua rồi mới đi ngủ. Năm đó tôi mới có chín tuổi, em tôi lên tám mà mẹ tôi đã giao cho hai chị em tôi coi hàng. Cửa hàng chỉ bán có rượu, ít bánh khảo, thuốc lào, cốt để đưa khách quen vào trong nhà bà ngoại. Tối đến hai chị em phải ngủ lại để trông hàng. Hai chị em vì ở nhà quê đã lâu nên bạo dạn. Chủ nhà là hai bà cụ đã già tóc bạc phơ hình như hai người là bạn với nhau, đều không có con, tôi cũng không rõ là ở đâu tới. Một bà trẻ, khỏe mạnh hơn dọn hàng cơm cho khách ăn, thỉnh thoảng cũng có người lỡ tầu ngủ trọ lại. Hàng bà cụ rất sạch sẽ, món ăn cũng ngon. Những con cá chép rán vàng, rồi canh cá nấu măng chua, mấy cái chân giò luộc, trông thật thèm.
Khách hàng là mấy ông lý ông chánh ở các làng xa xôi lên huyện có việc. Đông nhất là những ngày vào vụ thuế. Hồi đó thuế người thuế ruộng phải đem lên nộp cho quan, quan đem xuống tỉnh nộp cho công sứ. Hàng mẹ tôi dọn được ít lâu khách đã quen vào nhà trong rồi nên khỏi bán hàng ở ngoài nữa (xem truyện “Hai chị em” Thạch Lam đã viết lại đúng như sự thực). …
CÁI CHẾT CỦA THẠCH LAM
Chú Sáu trông nom nhà báo được ít lâu bị yếu phổi phải nằm nhà dưỡng bệnh. Biết tính chú ưa tĩnh nên dù ở gần tôi cũng ít sang thăm.
Một tết Trung Thu, chú mời tất cả các bạn thân đến ăn bánh thưởng trăng Tây Hồ. Anh em ai tới phải mang theo bánh, các bà không được tham dự. Thím Sáu và chị Song Kim vợ Thế Lữ rút vào nhà trong pha trà, cà phê. Tôi vì có cháu bé nên không sang được, Trung thu năm đó lại mưa bão không có trăng, các ông ngồi chật cả ba gian nhà. Sợ chủ nhân buồn, ông thì hát chèo cổ, ông thì hát trống quân, người thì ngâm thơ, kể cũng vui, không có cảnh trăng trong gió mát thì cảnh mưa bão hồ Tây cũng đẹp.
Tết năm đó tôi cùng chú về quê ăn Tết. Hai mươi tháng chạp tôi thu xếp việc nhà cho các cháu về trước. Chú Sáu ba mươi Tết mới về, nhà ở giữa cánh đồng, tuy có lũy tre bao bọc nhưng vẫn lạnh thấu xương. Chú về tới nhà là phải quạt một hỏa lò than hồng để sưởi, trên chăn dưới nệm vậy mà chú vẫn kêu lạnh. Mẹ tôi kêu con trai gì mà yếu thế, chú nói tại mẹ khỏe nên không thấy lạnh, giá mẹ xây một cái lò sưởi có phải ấm nhà và vui vẻ bao nhiêu không.
Sau mẹ tôi phải cho đốt một đống củi lớn ở giữa nhà, trải ổ rơm xung quanh ngồi đánh bất đợi giao thừa. Tôi phụ với mẹ tôi bầy cỗ cúng bàn thờ và cúng trời đất. Đúng mười hai giờ người nhà lên đánh trống lễ, đỉnh trầm khói hương nghi ngút, không khí đầy diễm ảo.
Làm lễ xong cả nhà ngồi vào bàn để uống rượu mừng năm mới. Ai nấy im lặng, chú Sáu có vẻ buồn, lặng lẽ nhìn khói trầm, không ai nói câu nào như sợ tan vỡ một cái gì. Người nào cũng tưởng nhớ đến người ở xa vì Tết năm đó anh Tư còn bị giam ở Vụ Bản, anh Tam ở bên Tầu. Tết buồn, vắng, và cũng là cái Tết sau cùng của em Sáu tôi.
Tết ra, em đau yếu luôn, vẫn về ở bên căn nhà bên hồ Tây. Mẹ tôi phải dời trại Cẩm Giàng đem theo một anh người nhà nữa để trông nom vì thím Sáu lúc đó đang có mang đứa con thứ ba. Mẹ tôi xem số tử vi cho chú ấy, nếu thím sanh con trai thì khó qua khỏi được. Vì vậy hôm báo tin sanh con trai, chú thở dài nói con trai mà làm gì. Đứa bé ra đời được ba ngày chú trở bệnh nặng. Mẹ tôi biết khó sống được nên lén lên nhà bảo sanh đón hai mẹ con về. Tôi bế thằng bé ra cho chú coi mặt. Chú liếc nhìn và khen trông nó khỏe đấy. Nó sau này là cháu Nguyễn Tường Giang.
Sáng hôm sau sang thăm, thấy hai mắt chú sáng trong. Tôi ngồi xuống cái ghế cạnh giường, nắm tay chú, bàn tay ấm và mềm. Chú bảo chị đẩy em lên cao một tí để em nhìn thấy cây liễu, chú phàn nàn anh người nhà đem chặt đi mất một cành liễu rủ xuống làm mất đẹp. Tôi biết chú vốn quý cây liễu ấy lắm, nhưng không ngờ lúc đau ốm gần kề với cái chết mà vẫn còn để ý đến vẻ đẹp thiên nhiên, như vậy chú còn ham sống yêu đời lắm. Năm đó chú mới ba mươi ba tuổi. Có một hôm chú bảo tôi hôm nào em khỏi chị cho em ăn một bữa cơm nguội với dưa chua và cá kho, sao mà ngon thế. Chị có nhớ hôm đi chơi khuya về chị lấy cho em ăn đó. Em vẫn ao ước hôm nào khỏi lại được ăn như thế. Tôi cười bảo bây giờ chú ăn chưa chắc đã thấy ngon. Ăn ngon phải đúng lúc mình thật đói và trong người khỏe mạnh mới ngon được.
Từ hôm bệnh trở nặng, chú Bách (tên chú Bẩy) thường ở luôn bên cạnh anh. Chú Sáu đang nằm tự nhiên bảo đỡ ngồi dậy. Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Thím Sáu ở trong buồng chạy ra ngồi đỡ một bên. Mẹ tôi ngồi một bên. Thấy thím khóc, chú bảo tôi đã chết đâu mà khóc. Hai anh em nói tiếng Pháp với nhau, tôi thấy chú Bách bỏ ra cửa, chú Sáu gọi “Bách, Bách”, chú Bách chỉ quay đầu lại thôi chứ không trở lại, tôi chực gọi thì thấy hai hàng nước mắt chú tuôn rơi, lúc đó tôi mới hiểu. Nhìn lại thấy chú Sáu duỗi hai chân thẳng ra. Thế là đi luôn.
Tiếng khóc của mẹ tôi, của thím Sáu cùng nổi lên một lượt, riêng tôi vẫn còn hoang mang, không thể ngờ chú còn tỉnh táo như vậy mà cái chết đã đến quá mau chóng. Người khóc nhiều nhất là chú Bách, từ nhỏ tới giờ không bao giờ thấy chú khóc nhiều như vậy. Có lẽ vì đã học năm thứ năm trường thuốc nên biết lúc đó là lúc anh mình phải chết mà mình bất lực không làm gì được. …
Tết năm đó (1942) chỉ còn có hai anh em về ăn Tết. Chú cũng đã yếu rồi nên thím Sáu đã phải đốt một lò than hồng để đón chú, mà chú cũng còn kêu: “Rét quá, giá mẹ xây lò sưởi có phải ấm không”. Đêm giao thừa phải đốt một đống củi ở buồng hai gian nhà ngang vải chung quanh trại ổ rơm mà chú vẫn kêu lạnh. Tất cả ngồi quây quần đánh bất để đợi Giao Thừa, năm đó tiết trời cũng giá buốt nên thay vì cúng và ăn ngoài sân, cả gia đình đều vào phòng khách. Đúng Giao Thừa, chú bảo đốt trầm lên và đem rượu ra uống mừng Xuân. Rượu rót ra rồi ai nấy đều thấy chú ngồi im lặng lẽ, khói trầm mờ ảo, tất cả tự nhiên đều im lặng, mỗi người hoài niệm một nỗi niềm riêng tư. Vắng mấy anh như là vắng tất cả. Xuân này mỗi anh mỗi phương, người góc bể, kẻ chốn rừng sâu, chắc giờ này cũng đương hướng cả tâm hồn về với nhau. Anh em sum họp đã bao cái Tết vui vẻ, nay như chim lìa đàn, con bay về phương Bắc, con về phương Nam, cách biệt từ nay mấy dặm ngàn.
Sau cái Tết đó là chú Sáu bắt đầu yếu. Hôm chú sang chơi nhà anh Thế Lữ rồi qua tới thấy tôi đốt lò sưởi, chú thích quá. Chú nói bên hồ năm nay lạnh quá, chú chịu không nổi. Tôi mời chú qua đây ở, tôi sẽ nhường chú căn phòng khách có lò sưởi cho ấm chứ nhà tôi có tiếp khách nào đâu. Nói rồi, tôi thấy nét mặt chú buồn buồn. Lúc tiễn chú ra cổng, thấy thân hình chú mặc cái áo cẳng dài, người mảnh và cao, chân bước đi như gió thoảng trên mặt đê, lòng tôi tự nhiên thấy buồn nhưng cũng không rõ vì sao. Không thấy chú sang, có lẽ chú sợ phiền vì đã hai lần chị đã nhường cho nhà rồi, vả lại đời sống chú cũng khó khăn, sang đây sợ thiếu phương tiện.
Chú đã yếu nhiều nên tính nết cũng khó khăn, thích yên tĩnh nên tôi có sang thăm chú phải bảo mấy cháu chơi ở ngoài hoặc ra cây đa, hoặc sang sân đình vì chú không ưa trẻ con. Tôi còn nhớ lần đó sang chơi, thấy chú đương ăn cơm, chú mời tôi ăn với chú một thể nhưng tôi đã ăn rồi, chú mới hỏi mấy cháu có qua với tôi không. Tôi bảo: “Chúng nó sợ chú nên ở chơi ngoài sân đình rồi”. Chú bèn nói gọi hết mấy cháu vào đây. Tôi và thím Sáu đều nhìn nhau lấy làm lạ vì đã có lần chú cấm tôi có sang thì để lũ trẻ con ở lại nhà. Thế mà hôm nay chú lại vui vẻ gọi các cháu vào, nào là bắt ăn rồi lại mở tủ sách của chú mà xưa nay các cháu thích lắm nhưng chẳng bao giờ dám mó vào, bây giờ muốn đọc thì tha hồ đọc. Lúc về chú lại cho mượn đem về, hẹn phải giữ cẩn thận rồi đem qua chú đổi cho quyển khác.
Tôi thấy chú cười nói tôi cũng mừng, hay là chú đã hết bệnh rồi nên chú thay đổi tính nết. Ai ngờ là gở chết, vì theo như các cụ nói thì người đương dễ tính sẽ đổi ra khó, còn người đương khó tính sẽ đổi ra dễ, đó là điềm gở. Được vài tháng sau là chú đau liệt giường luôn, không tới tòa báo được nữa. Chú Bách cũng hằng ngày xuống chích thuốc cho chú, nhưng cũng vô hiệu và chú đã lao phổi nặng rồi. Mẹ tôi cũng từ dưới trại lên để trông nom chú và người bếp già vì thím ấy đã gần ngày sanh. Chú gầy quá lại kêu đau mình, nên mẹ tôi cho mang cả giường lò xo lên cho chú nằm cho êm. Thuốc men ăn uống cũng chả thấy đỡ, bệnh chú càng ngày càng nặng, chú Bách chích đủ các loại thuốc tốt nhưng cũng đành bó tay thôi.
Mẹ tôi đi coi số cho chú ấy nói nếu có hai con trai thì là tận số. Hôm thím ấy sanh, nói con trai, chú chỉ thở dài nói lại con trai. Mẹ tôi thấy chú phù hai chân biết là khó qua khỏi, nên thím ấy sanh mới được có ba ngày là cho đón về lúc buổi sáng mười giờ. Bế thằng bé con ra cho chú coi mặt, chú bảo trông nó khỏe mạnh đấy. Tôi bắc ghế ngồi bên chú, chú bảo chị cho cái gối cao lên để em ngắm liễu, hôm nọ nó chặt mất cành thấp rũ xuống, em tiếc quá. Xong chú nói em nhớ bữa cơm nguội mà hôm em đi chơi về, chị cho em ăn với cá kho và dưa chua, sao mà ngon thế, hôm nào em khỏi chị lại cho em ăn như thế. Tôi cười nói đúng đó chú ạ, mình chỉ ăn ngon vào đúng lúc mình đói thì bữa cơm đó không có gì ăn cũng ngon, chú nhỉ. Chú lại hỏi sắp đến mùa na chưa, em thèm ăn na quá. Tôi bảo tháng sáu hoặc tháng bảy chú ạ. Chú chỉ ao ước một bộ đồ lụa mỏng vải cúc áo dài lụa thì Mẹ tôi đã may cho chú để mặc cho mát và nhẹ. Còn các thứ trái cây thì chú thích nhất là na, xoài, dưa tây ướp đá.
Có lần chú Bách đưa cho tôi mấy miếng dưa tây hoặc mấy miếng xoài, thế là quý chị lắm đó. Hai chị em cứ nói chuyện vẩn vơ như vậy, đâu có ngờ đến 12 giờ tôi về bên nhà ăn cơm, vừa ăn xong thì hai vợ chồng tôi sang cùng đứng cả bên giường. Chú bảo đỡ chú ngồi lên, anh người nhà một bên, mẹ tôi một bên, sau là thím Sáu. Thấy chú nói tiếng Pháp với chú Bách, thím Sáu khóc thì chú bảo tôi không chết đâu mà khóc. Chú Bách bỏ bước ra cửa, chú ấy gọi Bách, Bách rất rõ mà chú ấy không quay lại. Tôi và mẹ tôi đều kêu chú Bách, anh gọi này. Chú không quay vào chỉ ngoảnh mặt lại thôi, tôi thấy chú khóc. Tôi chưa từng thấy chú khóc bao giờ. Tôi thấy chú Sáu duỗi hai chân ra, thế là đi luôn, anh người nhà vội đặt chú nằm xuống.
Tôi sửng sốt không ngờ, chỉ có chú Bách và Mẹ tôi là biết rõ thôi. Chú đã học thuốc và đã từng chứng kiến nhiều nên chú không dám quay lại khi thấy mình bó tay không sao ngăn được thần chết. Chú lại là người khóc nhiều hơn ai hết, tôi còn phải đi lo báo cho mọi người biết. Mẹ tôi đứng lên lo hết ma chay cho chú xong, mẹ tôi lại trở về trại Cẩm Giàng. Còn nhà báo thì ai trông nom sau khi chú Sáu mất, tôi cũng chả rõ. Gần một năm sau thì anh Long và ông Khái Hưng về trông nom tờ báo. Năm đó cũng là năm Nhật hay sang bỏ bom, mọi người sợ hãi hay chạy về nhà quê và nhà nào cũng đào hầm để trú ẩn. Bên mấy mẹ con thím Sáu thì mẹ tôi đón về trại ở rồi, chứ ở trên này thì lấy gì sống.
(Văn hóa Ngày Nay tái bản 1996)
Chuyện về nhà văn Sơn Nam và nhà thơ Nguyễn Bính
Chuyện về nhà văn Sơn Nam và nhà thơ Nguyễn Bính
VHSG– Những năm sáu mươi của thế kỷ 20, do làm cùng một ban của cơ quan báo chí nọ nên tôi có quen anh, sau đó chúng tôi thành thân nhau, và khi biết anh hơn tôi mấy tuổi, tôi nói với anh xin kết nghĩa anh em. Anh bằng lòng ngay. Rồi một hôm, nhân tôi tìm được một cuốn truyện ngắn in đã lâu, tác giả là nhà văn Sơn Nam, tôi đọc một mạch, sau một ngày hết veo hơn ba trăm trang.
Nhà văn Sơn Nam
Cũng bởi biết tôi đọc cuốn sách của tác giả Sơn Nam, anh nói nhỏ: “Để lúc nào mình kể về nhà văn Sơn Nam cho mà nghe. Tác giả ấy mình cũng rất yêu; và nữa, mình với anh ấy cũng là chỗ bạn thân như mình với cậu vậy”. Giờ, tôi xin nói vài nhời nữa về người anh mà tôi kết nghĩa: Tên anh là Huỳnh Minh Nhựt, cháu ruột của cụ Huỳnh Tấn Phát (Thủ tướng Chính phủ lâm thời của Mặt trận Giải phóng miền Nam Việt Nam).
Anh Nhựt là dân miền Nam, tập kết ra Bắc. Những năm kháng Pháp, anh Nhựt công tác ở R. trong cơ quan thuộc Bộ tư lệnh miền của đồng chí Lê Duẩn. Anh Nhựt được phân công làm về báo chí. Dưới đây tôi xin được chép lại lời anh Huỳnh Minh Nhựt kể về nhà văn Sơn Nam:
“Có thể nói thế này về một đặc điểm của anh Ba Duẩn, anh rất mê đọc sách, nhất là các sách về triết học và văn học. Và nhà văn miền Nam mà anh Ba Duẩn rất quí trọng và thân tình là nhà văn Sơn Nam. Tất cả các truyện ngắn, các thể loại văn xuôi do nhà văn Sơn Nam viết thì đều chép ra một bản để dành đưa cho anh Ba Duẩn đọc.
Đấy là chưa kể đến chuyện cứ mỗi lần Sơn Nam vào thăm anh Ba Duẩn, theo nguyện vọng của anh Ba, nhà văn Sơn Nam đều đọc để anh Ba nghe. Nhà văn Sơn Nam có bản tính là bất cứ truyện ngắn hay thể loại văn xuôi nào, do mình viết ra, anh ấy đều thuộc lòng, nên cứ vậy nhà văn đọc ra để anh Ba thưởng thức.
Thế rồi, những ngày kháng chiến chống Pháp, nhà văn Sơn Nam từ R. là rừng miền Tây Nam Bộ, viết ra bao nhiêu thể loại văn xuôi và truyện ngắn, thì ông ấy đều tìm cách gửi về Sài Gòn cho một nhà xuất bản in. In xong, họ gửi ra chiến khu cho tác giả độ vài chục cuốn sách, còn đâu thì họ bán ở Sài Gòn, và bán cứ hết vèo vèo. Sách của anh ấy rất được độc giả Sài Gòn ưa chuộng.
Nhận được sách biếu, việc đầu tiên là anh ấy đến tôi, rồi vào gặp anh Ba Duẩn để tặng sách. Vậy là đêm ấy, mình chuẩn bị một chiếc măng xông ngon lành, để thắp cho anh Ba Duẩn đọc tập sách mới in của nhà văn Sơn Nam. Mỗi khi anh Ba thức đêm đọc, thì mình làm một việc là đúng 23 giờ đêm vào nhắc anh Ba giờ giấc, và báo cáo anh Ba lịch họp và làm việc ngày mai. Nhưng rất lạ nhé.
Nhà thơ Nguyễn Bính – ký họa của họa sĩ Tạ Tỵ
Lần nào cũng vậy, anh Ba đồng ý với sự nhắc nhở của mình, nhưng vẫn đọc, có đêm tới sáng luôn. Vậy mà, sáng hôm sau anh vẫn rất tỉnh táo vào điều khiển một cuộc họp, hay làm việc với các ban, ngành. Khi anh Ba đọc xong tập văn xuôi của Sơn Nam thì thể nào hai người sau đó cũng có một cuộc trò chuyện, mà tiếng cười hoan hỉ của họ vui râm ran.
Đến ngày cơ quan Bộ tư lệnh chuẩn bị tập kết ra Bắc, anh Ba Duẩn bảo mình đi gọi nhà văn Sơn Nam đến, và chuẩn bị mọi thủ tục để mời Sơn Nam cùng tập kết ra miền Bắc. Anh Ba nói: “Ra ngoài đó Trung ương nuôi cho nhà văn Sơn Nam sáng tác về Nam Bộ, về miền Tây Nam Bộ, để đồng bào miền Bắc có sách đọc, giàu có thêm vốn hiểu biết về miền Nam”.
Mình đi mời nhà văn Sơn Nam vào gặp anh Ba. Ấy vậy mà rồi anh Ba Duẩn nói thế nào, nhà văn Sơn Nam cũng nhất quyết không đi. Nhà văn nói tha thiết: “Anh Ba ơi, em là con cá mà miền Tây này là nước, là nước anh Ba ơi. Không lẽ anh vớt cá lên khỏi nước sao. Em ở lại mà, dẫu ở lại thì em vẫn là người của cách mạng, của anh Ba chứ”. Anh Ba Duẩn nghe thế, đành phải đồng ý và ngậm ngùi nói: “Em mà ở lại thì ta nhớ em đến chết mất”. Nhà văn Sơn Nam cũng nói: “Thế anh tưởng, em không nhớ anh sao. Anh Ba và các anh đi rồi, em chỉ ở lại đây, và em viết tiếp, rồi khi có người ra ngoài đó, em gửi truyện rồi văn xuôi của em ra biếu anh”.
Còn dưới đây là câu chuyện nữa của một anh từ chỗ nhà văn Sơn Nam toạ lạc, khi thời Diệm Thiệu, anh ấy ra miền Bắc có việc báo cáo với Trung ương, anh ấy đã kể lại như sau: Nhà văn Sơn Nam mở một ngôi trường nhỏ, rất nhỏ, chỉ có một gian rộng chừng hai chục mét vuông thôi, và dạy đâu chừng hơn một chục trẻ nhỏ. Ngoài cửa ra vào, gần sát mái lá có biển treo đề mấy chữ: “Học đường Sót Nót”. Bọn dân vệ và lính nguỵ đi càn qua chỉ nhòm thấy có trẻ con ngồi học, và lắng nghe thầy Sơn Nam giảng bài, hoặc nắn nót viết chữ trên bảng đen, để các em ở dưới cắm cúi viết vào vở học. Cán bộ ta nằm vùng ở đó, có người ngước nhìn hàng chữ: “Học đường Sót Nót” thì hỏi: “Nó là cái gì bay ơi. Là tên một loài cây ở Bời Lời rừng Cà Mâu à?” thì nhà văn Sơn Nam cười cười nói nhỏ: “Đúng, tên của loài cây như anh nói đó, và cũng là Học đường Sơn Nam…”.
Người kia gật gù có vẻ khoái trí, nhưng vẫn thắc mắc nói: “Sao không viết thẳng ra, mà còn vòng vo Sót Nót# (#Sót Nót: gốc chữ của tiếng Anh South và North nghĩa Nam Bắc. Đây là nhà văn Sơn Nam viết theo đúng với giọng nói nông thôn của người miền Tây Nam Bộ)”. Nhà văn Sơn Nam mới ghé sát tai người kia tiếp, nhỏ giọng: “Nó nghĩa là Nam Bắc là một. Hiểu rồi chứ?”. Người kia khoái trí quá vỗ tay ran và tiếp: “Biết ngay mà, ông vốn là người thâm thúy và luôn thích đùa. Nhớ anh Ba Duẩn nhiều hở?”. “Nhớ lắm!”, Sơn Nam nói.
Anh Huỳnh Minh Nhựt kể tiếp: “Có một nhà thơ nữa mà anh Ba Duẩn vô cùng yêu thích thơ của anh ấy, đó là nhà thơ Nguyễn Bính. Chính anh Ba Duẩn bảo mình nhiều lần là phải thuyết phục bằng được nhà thơ Nguyễn Bính nhận lời đi tập kết. Hồi ở R. anh Ba Duẩn cứ hôm nào thưa việc, lại bảo mình đưa Nguyễn Bính vào chơi với anh Ba, đọc thơ cho anh ấy nghe.
Anh Ba Duẩn có nói: “Đọc thơ của Nguyễn Bính càng thêm yêu cái làng quê của đồng bằng sông Hồng”. Khi anh Ba Duẩn biết nhà thơ Nguyễn Bính phổ thơ toàn bộ Bộ kinh của đạo Hoà Hảo của ông giáo trưởng Huỳnh Phú Sổ thì tấm tắc khen mãi. Anh Ba Duẩn bảo với mình rằng cách nay, năm ngoái anh đã đọc toàn bộ kinh của đạo Hoà Hảo, và thấy kỳ lạ là sao lại có thể giống giọng thơ của miền Bắc đến thế, thì hoá ra là như vậy.
Cái hôm nhà thơ Nguyễn Bính vào trò chuyện với anh Ba Duẩn, anh Ba hỏi nhà thơ Nguyễn Bính về chuyện đã phổ thơ vào Bộ kinh của đạo Hoà Hảo, nghe xong nhà thơ nhận ngay, và hỏi anh Ba: “Anh Ba có muốn nghe lại toàn bộ kinh của đạo Hoà Hảo mà em phổ thành thơ không?” Anh Ba Duẩn đáp ngay: “Có có! Bính đọc đi”. Nhà thơ Nguyễn Bính tiếp: “Bộ kinh đạo Hoà Hảo em phổ thành thơ, ông giáo trưởng Huỳnh Phú Sổ rất mê. Bộ kinh có 3.202 câu thôi mà, em đọc nhé”.
Vậy là nhà thơ Nguyễn Bính cứ thế tuôn ra như suối chảy. Đến lúc nhà thơ Nguyễn Bính tạm ngừng nghỉ, để nhấp chén trà cho trong giọng, thì anh Ba Duẩn thong thả: “Em phổ thơ rất hay và có ý nghĩa lắm. Chúng ta, những người làm cách mạng vì dân tộc, vì đất nước, thì càng phải am hiểu một cách sâu sắc những câu kinh của đạo như thế này. Đây cũng chính là tâm ý, là nguyện vọng tha thiết của một bộ phận nhân dân mình đấy chứ. Nào, em đọc tiếp đi”.
Anh Ba Duẩn sửa lại tư thế ngồi, và trang trọng nghe nhà thơ Nguyễn Bính đọc ngân nga cho đến câu kinh thứ 3.202, là toàn bộ Bộ kinh của đạo Hoà Hảo.
BÙI BÌNH THI
Theo ANTGCT
Sài Gòn xưa dù có giàu nhưng vẫn giản dị và không phách lối
Người Sài Gòn xưa dù có giàu nhưng vẫn giản dị và không phách lối
Cũng như tôi, nhiều người bạn có một thắc mắc: Rất nhiều bài viết về cảnh cũ nhưng người xưa ở Sài Gòn, nhưng hiếm thấy có bài báo nào đề cập tới tính cách, lối sống ngày xưa.
Bởi vì cảnh trí có thể thay đổi nhưng những nhà khảo cổ, nghiên cứu có thể tìm lại, phục dựng lại được qua hình ảnh, hiện vật, tư liệu. Nhưng lối sống, tính cách con người thì có cách chi mà diễn tả lại được. Cũng phải tìm trong sách báo mà thôi.
Vả lại trong những bài viết của tác giả người Sài Gòn nói về tính cách của người Sài Gòn xưa cũng khó làm người đọc tin được. Sự hoài nghi này cũng hết sức dễ hiểu. Hình như cái gì quen quá cũng chẳng ai muốn viết. Báo chí muốn ăn khách thì phải lạ, có thông tin. Thời nay trong lúc tẩn mẩn, tò mò “tầm chương trích cú”, tôi lại tìm được bài của nhà văn Nguyễn Ngu Í phỏng vấn cụ Á Nam Trần Tuấn Khải – một nhà văn, nhà giáo vốn dòng Nho học.
Cụ Á Nam sinh năm 1895 tại Nam Định và vào Sài Gòn sinh sống từ năm 1955. Bài phỏng vấn này được trích trong quyển Sống và Viết của Nguyễn Ngu Í (trang 77, in năm 1966 tại Sài Gòn). Xin được trích nguyên đoạn cụ Á Nam có nhận xét về tính cách người Sài Gòn để bạn đọc tham khảo.
Nhà văn, nhà giáo Á Nam Trần Tuấn Khải.
. Nguyễn Ngu Í hỏi: Dường như lúc thiếu thời, cụ đã từng vào Nam?
+ Cụ (Á Nam Trần Tuấn Khải) gật đầu: Tôi không nhớ rõ năm. Khoảng tôi trên 30 tuổi thì phải, tức là lối 28-29 gì đó.
. Hẳn cụ còn giữ ít kỷ niệm sau lần đầu tiên tiếp xúc với người và cảnh miền Nam?
+ Cảnh thì tôi quên mất. Còn người thì còn nhớ một kỷ niệm mà riêng tôi, tôi cho là rất thú. Một hôm nọ, tôi ghé thăm một người đồng hương, bán đồ cẩn xà cừ bên hông chợ Sài Gòn, đường Sabourain, bây giờ là đường Tạ Thu Thâu. Đang hàn huyên thì có một ông khách vào, hỏi giá một món đồ. Người Nam, mặc bà ba trắng, đi guốc vông. Dân thợ không ra dân thợ; dân thầy không ra dân thầy. Tôi tưởng ông ta là một khách qua đường, rỗi rãi, hỏi chơi để giết thời giờ, chớ cái bộ vó ông ta thế, tiền đâu mà mua nổi món đồ bạc ngàn.
Ông ta xin bớt hai trăm. Chủ hiệu bằng lòng bớt một trăm. Tôi tưởng ông ta sẽ bỏ đi, qua cửa hàng khác, nào ngờ ông ta ưng thuận, móc bóp ra, lấy chín trăm đồng trả. Hai ông biết chín trăm đồng hồi 40 năm về trước là cái gia tài nhỏ. Khi ông ta mở bóp, tôi nhìn thấy bạc giấy lớn còn nhiều. Người nhà hàng bao, cột món đồ xong, ông ta ra cửa, ngoắc một người tài xế Tây vội vã đến, ôm món đồ vừa mua để lên một chiếc xe nhà sang trọng. Ông ta vui vẻ bắt tay người chủ hiệu, lên xe. Thấy tôi ngạc nhiên ra mặt, ông bạn tôi cười: “Người trong này, họ như vậy đó, bác. Một nhà giàu có hạng ở đây mà đi phố, họ ăn mặc giản dị như thế đó. Lúc mới vào, tôi cũng thường đánh giá họ lầm như bác”. Tôi như được mở mắt ra và cảm thấy thương thương cái đất “Nam… Kỳ” này: Nơi đây, người ta sống hồn nhiên, ít bị lễ nghi, tập quán ràng buộc như ở Bắc, ở Trung”.
“Và cụ tiếp sau một ngụm rượu:
+ À còn điều này nữa. Một chiều thứ Bảy, tôi được thấy cảnh thầy thông, thầy phán, anh em thợ máy, anh em phu xe ngồi quây quần trong các quán ăn ở trong chợ Bến Thành cùng nhau bàn chuyện phiếm, chuyện đời hay chuyện thời sự một cách tự nhiên, thẳng thắn. Bầu không khí cởi mở giữa những hạng người khác nhau ấy làm tôi càng thích lối sống trong Nam.
“Vì thế mà nay về già (lúc này cụ Á Nam được 70 tuổi – tác giả chú thích) cụ được toại nguyện” – người bạn khoa học, cũng là người Bắc, vừa cười vừa nói. Rồi anh tiếp, sau mấy giây nghĩ ngợi: “Tôi cũng thích lối sống hồn nhiên của đồng bào trong này. Nhưng ta phải nhận rằng nay có khác xưa. Cũng đã có ít phần kiểu cách, trọng cái bề ngoài”. Anh đưa ly lên môi, giọng nửa đùa, nửa thật: “Kết quả của sự di cư gần triệu đồng bào miền Bắc chúng ta đấy”.