Bí ẩn về ngôi mộ của ông Trần Phú

Trước năm 1975, ngoại ô Sài Gòn có một nghĩa trang rộng lớn, được đặt tên là “Nghĩa trang Đô Thành”, nằm trên đường Lê Văn Duyệt (nối dài Sài Gòn) – đối diện là trại lính Nhảy dù Nguyễn Trung Hiếu, và sau lưng là Cư xá Sĩ Quan Chí Hòa (Bắc Hải).

Nghĩa trang này bị giải tỏa vào năm 1998, một phần đất phía sau bị chia chác biến thành nhà ở, còn một phần mặt tiền trở thành Công viên Lê Thị Riêng.

Khi làm việc đào phá tại nghĩa trang này vào ngày 4.1.1999, lao công bất ngờ tìm thấy mộ của ông Trần Phú (Tổng bí thư đầu tiên của đảng CSVN).

Qua đó, sau 68 năm ngày ông Trần Phú chết, nhà cầm quyền ở thành Hồ mới “phát giác” ra một “chứng tích lịch sử” vô cùng quan trọng – để rồi ngày 12.1.1999 vội vã đưa số xương cốt này về tái an táng tại quê nhà của ông ở tỉnh Hà Tĩnh.

Câu chuyện “bí ẩn’ là ở chỗ, tại sao mộ của một Tổng bí thư đảng CSVN lại nằm trong khu Nghĩa trang Công Giáo, ở phía sau Nghĩa trang Đô Thành (sát với con rạch của Cư xá Sĩ quan Chí Hòa). Nơi  dành riêng cho những người có đạo (có tên Thánh) mới được chôn cất.

Và tại sao tư liệu và lịch sử Đảng CSVN chỉ viết ông bị bắt và mất vào cuối năm 1931, ngoài ra “không ai biết ông mất trong hoàn cảnh nào và chôn cất ở đâu”.

Theo lịch sử hình thành Đảng Cộng Sản ở VN, thì ông Trần Phú là “học trò xuất sắc của Chủ tịch HCM”, được ông Hồ đưa về từ Quảng Châu vào tháng 4 năm 1930.

Cuộc đời làm “Kách Mệnh” của Trần Phú thật ngắn ngủi. Vào ngày 18.4.1931 ông Phú bị Pháp bắt giam, nhưng đến ngày 6.9.1931 (tức chỉ sau 5 tháng) đã qua đời tại bệnh viện Chợ Quán vì bệnh lao, lúc mới 27 tuổi (như vậy khó mà có thể tạo hào quang cho ông Phú là đã bị Thực dân hành hạ dã man đến chết trong tù).

Mới đây trên facebook của ông Trần Đăng Phiệt có nói đến việc mộ của ông Trần Phú được tìm thấy ở Đất Thánh họ đạo Chợ Quán nằm sau Nghĩa trang Đô Thành, với mộ bia và tên tuổi đầy đủ.

Nhà cầm quyền CSVN cũng bán tín bán nghi, nhưng sau khi thử DNA thì xác nhận đây chính là hài cốt của ông Trần Phú nên mới cho đem về Bắc, để lập khu tưởng niệm.

Câu chuyện ly kỳ ở chỗ: “Một cụ già lão thành Cách mạng (bị giam chung với ông Trần Phú) ở Trà Vinh khi tình cờ biết tin “tìm được mộ TBT Trần Phú” trên báo SGGP đã viết một lá thư dài tường thuật đầy đủ quá trình bị giam giữ, theo đạo, rửa tội, chết và an táng của ông Trần Phú tại nhà thương Chợ Quán rồi gởi cho Cha sở xứ đạo Chợ Quán vào ngày 03.7.2018″.

Cha sở họ đạo Chợ Quán lúc đó là Linh mục FX Lê Văn Nhạc; Ngài đã kiểm tra lại tài liệu lưu trữ của Giáo xứ giai đoạn 1930-1940 thì phát giác sổ rửa tội năm 1931 có ghi tân tòng Phê-rô Trần Phú. Sau đó ngài cho sao chụp hồ sơ lưu sổ rửa tội, và bức thư của cụ lão thành Cách mạng Trà Vinh ra làm ba bản. Một gởi cho Chính quyền TP, một gửi lên tòa Tổng Giám mục SG, một lưu tại giáo xứ.

Hiện nay tại bệnh viện Nhiệt Đới (nhà thương Chợ Quán cũ) số 764 Võ Văn Kiệt, P.1, Q.5; bước vào cổng phía tay trái có một công viên nhỏ và tượng đài Đức Mẹ nay vẫn còn lưu giữ, là nơi các dì phước thời xưa mỗi buổi chiều đến thăm nom, chăm sóc bệnh nhân và đưa Mình Thánh cho các bệnh nhân có đạo được rước Chúa. Vào các chiều thứ bảy, các dì tổ chức dạy Giáo lý và có các Cha đến giải tội.

Ông Trần Phú là một trong những bệnh nhân được cảm hóa, tin Chúa và cảm mến Chúa để được rửa tội tại đây. Đi vào hành lang bên tay phải, nhà cầm quyền cho dựng lại “một chuồng cọp” nói là nơi giam giữ ông Trần Phú lúc được đem đến đây chữa bệnh. Người ta cũng dựng lên một bức tượng của ông tại đó.

Một nữ y tá làm việc lâu năm tại nơi này cho biết: “Cái nhà đá nói là nơi giam giữ ông Trần Phú là chuyện tưởng tượng. Bởi thời đó Bệnh viện là bệnh viện, và nếu là phạm nhân thì họ chỉ cần còng tay vào giường và có người canh gác là đủ”.

Riêng Cha sở Lê Văn Nhạc nay đã 80 tuổi. Ngài đang nghỉ hưu tại GX Hạnh Thông Tây, Gò Vấp”. (Hết trích).

Cần biết, một người trưởng thành xin rửa tội vào đạo Công Giáo thủ tục còn khó hơn đứa trẻ sơ sinh. Giáo hội đòi hỏi người tân tòng phải học đạo, có người “đỡ đầu”, và trí óc còn minh mẫn (nếu là bệnh nhân).

Câu chuyện trên, chắc chắn không được nhà cầm quyền CSVN công nhận, bởi Lm Lê Văn Nhạc cho biết, ngài từng được Cán bộ CS đến hỏi thăm khi nhận được “hồ sơ” về việc rửa tội xin vào đạo Công Giáo của ông Trần Phú, và yêu cầu ngài không phổ biến tin tức này.

Và nếu phải nói về việc “ngoài dự kiến” không hay ấy, các văn nô viết lịch sử Đảng cũng sẽ nói “bọn thực dân và tay sai” đã ép buộc Đ/c Trần Phú vào đạo, để phá bỏ hình ảnh “vô thần” của Tổng Bí Thư.

Cho đến nay CSVN đã có 12 người làm TBT, nhưng rất nhiều ông khi chết đã bị hé lộ chuyện vẫn tin tưởng có thế giới bên kia, chứ không “vô thần” như lúc tuyên thệ vào Đảng.

Ông HCM cũng nói khi chết sẽ đi gặp Các Mác và Lê Nin. Ông Lê Khả Phiêu trong nhà có bàn thờ Phật to tướng, và khi hạ huyệt có nhiều sư tụng kinh gõ mõ..v.v.

Hiện nay, khi đi vào Công viên Lê Thị Riêng, người ta sẽ thấy phía bên trái có một tượng đài được xây dựng vào tháng 9.2005 dành cho ông Trần Phú với phù điêu mang hình cờ Đảng, cùng câu nói “nổi tiếng” của ông: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”.

Cần biết, trước 1975 đây là nơi đầy “oan khiên, chướng khí”.

Vào năm 1963, gần trăm xác của các binh lính trung thành với TT Ngô Đình Diệm bị quân đảo chính bắn chết, và được đưa về đây.

Đến năm 1968 hơn 2 ngàn xác của Cộng quân bị hạ sát trong trận Tổng tấn công Tết Mậu Thân cũng được “tập kết” thành một lỗ.

Thê thảm hơn, vào ngày 30.4.1975 trên 3 ngàn xác chết của binh lính hai bên, và thường dân cũng được kéo về bỏ chất đống ở nghĩa địa, khiến dân chúng quanh vùng Ngã Ba Ông Tạ phải “ngộp thở” vì mùi tử khí trong nhiều ngày.

Và tất cả những người xấu số chết vào giờ thứ 25 này, đều đã được vùi chung trong một hố chôn tập thể.

Chưa hết, sau Tháng Tư Đen 1975, nhiều chuyến vượt biên không thành với vài chục xác chết của dân vượt biển (ở ấp Hàng Dầu) cũng được chở về đây, chờ người thân đến nhận.

Bên trong Công viên Lê Thị Riêng hiện nay còn có một hồ nước, nhưng không ai dám cho con em đến gần, bởi “các hồn ma nghĩa địa” đã kéo nhiều em chết chìm khi chơi dưới hồ, dù nước không sâu!

Nguyễn Vy Túy

Theo FB




Huyền thoại về chiếc chuông đồng thời Tây Sơn

Dù cách kinh thành Huế đến hơn bảy cây số nhưng vì sợ Nguyễn Ánh (lên ngôi vua năm 1802) tịch thu chuông quý nên các bô lão trong làng đã “thiến” chuông bằng cách khoan nhiều lỗ trên đỉnh rồi trám chì vào để giảm bớt… tiếng vang của chuông.

Đây là câu chuyện có thật về một quả chuông quý được đúc bằng đồng dưới thời vua Quang Trung. Chúng tôi đã tìm về làng La Chữ, xã Hương Chữ, huyện Hương Trà (tỉnh Thừa Thiên – Huế) để được mục sở thị về huyền tích quả chuông – hiện vật lịch sử đã gắn liền hơn 200 năm với lịch sử dân tộc.

“Sự tích” chuông đồng

Men theo quốc lộ 1A, chúng tôi hỏi đường tìm về làng La Chữ với hi vọng được tận mắt thấy và nghe được tiếng chuông quý mà tiếng đồn về nó bấy lâu nay như một… “huyền thoại”.

Nằm trong hệ thống đình làng, miếu mạo cổ kính, chùa làng La Chữ là một trong những di tích văn hóa lịch sử của tỉnh Thừa Thiên – Huế khi còn giữ lại được nhiều chứng tích của lịch sử. Đặc biệt là quả chuông đồng được đúc vào thời Tây Sơn với nhiều hoa văn độc đáo được dân làng La Chữ bảo vệ suốt mấy trăm năm nay.

Theo ông Hà Xuân Út, Trưởng thôn La Chữ thì quả chuông này được đúc vào năm Quang Trung thứ 4 (1791) do vợ chồng võ tướng Điện tiền Thái bảo Võ Văn Dũng và nhạc phụ Lê Công Học cúng dường. Chuông cao 0,92m, đường kính miệng chuông 1,78m và nặng trên 3,5 tạ.

Ông Lê Phước Vân bên quả chuông quý.

Theo gia phả của làng chép lại thì vợ của võ tướng Võ Văn Dũng là người họ Lê thuộc làng La Chữ, tên là Lê Thị Vi. Sau khi triều Tây Sơn định đô ở Phú Xuân đã cho xây dựng tại làng La Chữ một dinh trấn do tướng Võ Văn Dũng trấn thủ. Là một vị tướng tài giỏi của triều đình, lại là người rể quý của làng La Chữ nên tướng Võ Văn Dũng đều được tất thảy mọi người trong làng quý mến.

Ngoài chuông đồng, tại đây còn có “bãi voi” cũng đã được ghi vào lịch sử của làng. Vào thời điểm đó, làng La Chữ mua được một mảnh đất rộng chừng 7 mẫu từ làng An Đô. Và để giúp triều Tây Sơn, dân làng đã bàn nhau rồi quyết định hiến 7 mẫu đất này cho triều đình làm bãi luyện voi. Trải qua bao biến thiên thăng trầm của lịch sử, giờ đây “bãi voi” một thời gắn liền với tên tuổi của nữ tướng Bùi Thị Xuân – người phụ trách huấn luyện voi chiến tại bãi voi này, vẫn còn những dấu tích. Những vũng voi nằm nay trở thành những vũng nước trũng lớn phủ xanh một màu của lúa mạ.

Ngày nay, bãi voi, chuông đồng của làng La Chữ được nhiều người biết đến bởi những kì tích và huyền tích gắn liền với lịch sử dân tộc.

“Thiến” chuông để… giữ gìn báu vật  

Quả chuông ở chùa làng La Chữ hiện là quả chuông duy nhất được đúc dưới thời vua Quang Trung còn lưu giữ được.

Những hoa văn trên chuông không mang nặng dấu ấn Phật giáo mà được trang trí bằng “bộ tứ” hoa văn: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Theo đó ô Xuân được trang trí bởi các họa tiết, hoa văn như lược sưa, lược dày, gương hoa, thể hiện vẻ đẹp dịu dàng của mùa xuân, của phái đẹp. Ô Hạ được trang trí bởi ngọn lá và thanh gươm, biểu thị cho đấng mày râu anh hùng. Hai bầu rượu được quấn chặt bởi dải lụa được trang trí trên ô Thu và ô Đông là hình chiếc quạt lá và cuốn sách. Bên dưới các ô là hình 8 vị võ tướng tay cầm khí giới và dưới cùng là bộ “tứ linh”: Long, Lân, Quy, Phụng được trang trí tương ứng với mỗi ô.

Những lỗ khoan được trám bằng chì trên đỉnh chuông.

Ông Lê Phước Vân, người đang canh giữ chuông đồng tại chùa La Chữ cho biết: “Nhà tui đã có ba đời từ ông nội, ba tui và nay là tui làm nhiệm vụ canh giữ chuông quý của làng, mỗi ngày chỉ đánh hai lượt từ 3 giờ rưỡi sáng và 7 giờ tối. Dù đã trải qua hàng trăm năm lịch sử với gần chục lỗ đạn trên thân nhưng mỗi khi đánh, tiếng chuông vẫn ngân đến “lắng” lòng người chú à”.

Khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua (năm 1802), ngoài việc xóa bỏ những dấu tích của vương triều cũ như đình làng, miếu mạo… thì nhiều giá trị văn hóa lịch sử của triều Tây Sơn theo đó cũng bị nhà Nguyễn phá hủy. Nhất là việc “tận thu” các hiện vật bằng đồng để làm nguyên liệu đúc vũ khí. Thế nhưng, bằng tình cảm gắn bó bao đời với triều Tây Sơn, người dân làng La Chữ đã bảo vệ chuông đồng thoát nạn “tận diệt” của nhà Nguyễn với nhiều biện pháp…

Theo ông Vân thì quả chuông đồng này tuy không lớn nhưng khi đánh lên lại có tiếng ngân vang xa đến kỳ lạ. Và vì sợ Nguyễn Ánh nghe được tiếng chuông này (dù lúc ấy chuông cách kinh thành Huế hơn 7 cây số – NV) mà cho tịch thu nên các bô lão trong làng đã tìm cách “thiến” chuông nhằm giảm tiếng vang bằng cách khoan nhiều lỗ trên đỉnh rồi trám chì vào đó. Dân làng còn tự xóa đi tên tướng Võ Văn Dũng được khắc trên chuông. Và cứ mỗi lần có binh lính nhà Nguyễn đi lùng sục thì dân làng lại đem chuông giấu xuống giếng, rồi ngụy trang trên miệng giếng. Nhờ vậy mà chuông đồng vẫn giữ được cho đến ngày hôm nay.

“Có một thời, chiến tranh đã tàn phá, thiêu rụi đình, chùa ở đây nhưng phải mất 3 tháng sau, cột trụ to bằng hai người ôm của đình làng mới cháy hết. Còn những lỗ nhỏ trên chuông là do chuông bị trúng đạn vào năm Mậu Thân 1968”, một bô lão trong làng chỉ tay về những lỗ nhỏ do đạn bắn trên chiếc chuông đồng cho biết.

Bằng tình cảm và với những cách làm khác nhau, dân làng La Chữ đã bảo vệ được quả chuông quý đến ngày hôm nay. Và mỗi khi tiếng chuông ngân lên, dân làng nơi đây lại “lắng lòng” để nhớ về một vị võ tướng anh dũng thời Tây Sơn. 

Theo Internet




Nhìn lại những chặng đường của “Ban Hợp ca Thăng Long” – Ban nhạc đã trở thành huyền thoại

Nếu nói về một ban nhạc danh tiếng nhất trong làng nhạc Sài Gòn trước năm 1975, hầu hết giới chuyên môn, giới ca sĩ, nhạc sĩ và khán giả đều công nhận đó là ban hợp ca Thăng Long, với nòng cốt là 3 tên tuổi đã trở thành bất tử: Ca sĩ Hoài Bắc (tức nhạc sĩ Phạm Đình Chương), danh ca Thái Thanh và ca sĩ Hoài Trung (tức Phạm Đình Viêm).

Từ trái qua: Hoài Bắc (Phạm Đình Chương) – Thái Thanh – Hoài Trung (Phạm Đình Viêm)

Trong 3 người thì Hoài Trung có vẻ kém danh tiếng hơn, nhưng khán giả vẫn chưa thể nào quên một giọng tenor với phong cách trình diễn đặc biệt, tiếng hát ngân dài và có khả năng giả tiếng ngựa hí hoặc các âm thanh khác khi hát bè trong hợp ca. Ông cũng có tài chọc cười nên cứ thấy ông xuất hiện trên sân khấu là khán giả đã cười ồ.

Ngoài 3 cái tên chủ chốt này, thỉnh thoảng ban Thăng Long cũng có sự góp mặt của danh ca Thái Hằng, ca sĩ Khánh Ngọc (vợ Hoài Bắc) và cả nhạc sĩ Phạm Duy – là một trong những ca sĩ đầu tiên hát tân nhạc.

Đại gia đình Thăng Long: hàng trên: Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Hoài Trung, hàng dưới: Thái Hằng, Khánh Ngọc, Thái Thanh

Điều đặc biệt của ban Thăng Long là các thành viên đều là những anh chị em họ Phạm (hoặc dâu rể). Thân phụ của họ là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm (tức Hoài Trung của ban Thăng Long) và 1 người con gái đã không may qua đời sớm khi đi tản cư ở Sơn Tây.

Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh.

Từ trái qua: Thái Thanh – Phạm Đình Chương – Thái Hằng

Khi đặt chân vào đến phương Nam, những anh chị em nhà họ Phạm muốn lập một ban nhạc gia đình để đi hát, họ đã chọn cái tên Thăng Long, gợi nhớ về vùng đất Hà Nội, là cố hương gốc gác của họ. Cái tên Thăng Long cũng gắn liền với thời thanh xuân của các anh chị em họ Phạm ở vùng tản cư.

Để nói rõ hơn về nguồn gốc của cái tên Thăng Long, hãy cùng đi ngược về quá khứ vào những năm đầu thập niên 1940, khi ông Phạm Đình Phụng còn ở Hà Nội và mở một cửa hàng bán mứt và ô mai ở phố Bạch Mai tên là Mai Lộc. Thuở đó có một câu bé mới 13 tuổi tên là Nguyễn Cao Kỳ thường đến Mai Lộc để ăn ô mai và đánh đàn mandoline với Phạm Đình Chương 14 tuổi, và Thái Thanh lúc đó mới 9 tuổi thường ngồi một bên để nghe mấy ông anh dạo đàn, thỉnh thoảng còn bị Phạm Đình Chương bắt hát để họ luyện đàn. Nguyễn Cao Kỳ sau đó thành tướng không quân, rồi phó tổng thống, nhưng luôn giữ một tình bạn thâm giao thuở thiếu thời với nhạc sĩ Phạm Đình Chương.

Đến năm 1946, bắt đầu thời kỳ loạn lạc, nhiều gia đình Hà Nội phải dắt díu nhau đi tản cư, ông bà Phạm Đình Phụng cùng 2 người con trai, 3 người con gái ra vùng Sơn Tây (Lúc này người con trai đầu là Phạm Đình Sỹ đã lấy vợ là Kiều Hạnh và không đi cùng), sau đó dừng chân ở một vùng xuôi gọi là Chợ Đại. Tại đây, ông Phụng mua lại một cái quán và đặt tên là Quán Thăng Long, bán các món phở và cà phê. Trong những người con của ông bà Phụng có cô gái tên là Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy sau này. Thái Hằng cùng với quán cà phê Thăng Long này đã trở thành nhân vật chính trong ca khúc nổi tiếng Cô Hàng Cà Phê của nhạc sĩ Canh Thân.

Phạm Duy và Thái Hằng khi còn trong chiēn khu

Trong hồi ký Phạm Duy, ông kể lại:

“Tại Quán Thăng Long, ông bà có ba người con để giúp đỡ trong việc nấu phở, pha cà phê và tiếp khách. Người con gái lớn tên là Phạm Thị Quang Thái, vào trạc 20 tuổi, biết hát và biết chơi cả đàn guitare hawaienne nữa. Nàng có một vẻ đẹp rất buồn, lại là người ít nói, lúc nào cũng như đang mơ màng nghĩ tới một chuyện gì xa xưa. Văn nghệ sĩ nào khi tới gần nàng thì cũng đều bị ngay một cú sét đánh. Thi sĩ Huyền Kiêu luôn luôn thích làm người tao nhã (galant) và có nhiều lúc, trịnh trọng cầm hoa tới tặng Nàng. Thi sĩ Đinh Hùng, rụt rè hơn, nhờ người chị ruột của tôi – đang tản cư ở Chợ Đại – làm mối. Còn anh họa sĩ hiền lành như bụt và có đôi mắt rất xanh là Bùi Xuân Phái thì ngày ngày tới Quán Thăng Long, ngồi đó rất lâu, im lặng… Ngồi, nhìn, chứ không vẽ. Ngọc Bích cũng soạn một bài hát tỏ tình…”

Chỉ một vài năm sau đó, tất cả các anh chị em họ Phạm là Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Thái Hằng, Thái Thanh (lúc này đi hát với tên là Băng Thanh) đều gia nhập các ban văn nghệ quân đội Việt Minh của Liên Khu IV, hai ông bà chủ quán Thăng Long quyết định rời Chợ Đại di cư vào Thanh Hóa để được sống gần gũi các con. Hai ông bà tới một nơi gọi là Chợ Neo, thuê lại căn nhà lá và mở một quán phở, vẫn lấy tên là Quán Thăng Long.

Những anh chị em và dâu rể nhà Thăng Long. Hàng đứng, từ trái sang: Hoài Trung (Phạm Đình Viêm), Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Phạm Đình Sỹ. Hàng ngồi: Phạm Duy, Thái Hằng, Kiều Hạnh, Thái Thanh

Tháng 5 năm 1951, đại gia đình họ Phạm quyết định “dinh tê” về Hà Nội. Lúc này Phạm Duy đã cưới Thái Hằng, Phạm Đình Sỹ đã cưới Kiều Hạnh, sinh ra Mai Hương và cùng đi chung. Chỉ 1 tháng sau, đại gia đình Thăng Long quyết định vào vùng đất hứa Sài Gòn để định cư. Tại đây những anh em nhà họ Phạm, mà nòng cốt là Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Thái Thanh thành lập ban nhạc lấy tên là Thăng Long, đặt theo tên quán phở gia đình ở vùng Chợ Đại, Chợ Neo trước đây.

Rồi cũng trong một tâm trạng lưu luyến về dĩ vãng chưa xa lắm, Phạm Đình Viêm lấy nghệ danh là Hoài Trung để nhớ về Khu 4, Phạm Đình Chương lấy nghệ danh là Hoài Bắc để nhớ về cố xứ. Còn cô út Băng Thanh chính thức lấy nghệ danh là Thái Thanh cho giống với người chị Thái Hằng.

Hoài Trung, Hoài Bắc và Thái Thanh

Lúc này Thái Hằng đã lập gia đình, bận bịu con nhỏ nên không thể theo hát cùng ban Thăng Long thường xuyên, mà chỉ thỉnh thoảng góp mặt. Tương tự là Khánh Ngọc – vợ của Hoài Bắc. Vì vậy nòng cốt của ban Thăng Long thành lập từ những năm 1950 cho đến năm 1975 chỉ là 3 cái tên Hoài Trung, Hoài Bắc và Thái Thanh. Thời gian đầu họ đến cộng tác với đài phát thanh Pháp Á ở đại lộ de La Somme, mà sau này được đặt lại tên thành Hàm Nghi, ở gần góc đường với đường Công Lý. Ban Thăng Long thành công ngay lập tức mà lối hát khác biệt, có phần bè mới lạ và hấp dẫn. Họ lại có nguồn nhạc phong phú được sáng tác “cây nhà lá vườn” bởi 2 tên tuổi lừng danh là Phạm Duy và Phạm Đình Chương, mang được tính thời đại một cách sắc nét.

Thái Thanh – Hoài Bắc – Hoài Trung trong ban Thăng Long

Ngoài thù lao hát ở đài phát thanh và phòng trà vốn còn rất hạn chế ở Sài Gòn vào đầu thập niên 1950, thì ban Thăng Long kiếm sống chủ yếu là tiền thu thanh trong đĩa nhạc, lúc này vẫn còn là đĩa đá, chứ chưa có dĩa nhựa (vinyl) như sau này.

Ban Thăng Long cũng là một trong những ban nhạc/ca sĩ đầu tiên trình diễn theo hình thức phụ diễn ở rạp chiếu bóng. Nghĩa là các ca sĩ lên hát tân nhạc (gọi là phụ diễn) cho khán giả nghe trước khi phim bắt đầu được chiếu. Đầu tiên là rạp Nam Việt ở chợ cũ góc đường de la Somme và Chaigneau (sau này là Hàm Nghi – Tôn Thất Đạm), lối phụ diễn này của ban Thăng Long thành công ngay lập tức. Ngay sau đó là rạp Văn Cầm ở Chợ Quán, rạp Khải Hoàn và Thanh Bình ở khu chợ Thái Bình – Quận Nhứt liên tục mời ban hợp ca Thăng Long đến phụ diễn.

Thời điểm đó người Sài Gòn vẫn rất mê cải lương, nhưng tân nhạc bắt đầu được ưa chuộng, mà sân khấu đầu tiên chính là ở các rạp chiếu bóng, vì những người đi xem phim chiếu rạp như vậy đa số là dân Tây học rất thích tân nhạc, nên ban Thăng Long có dịp giới thiệu hàng loạt những sáng tác của Phạm Đình Chương, Phạm Duy và nhiều nhạc sĩ thời tiền chiến khác.

Ban Thăng Long lúc này có thêm Khánh Ngọc (áo đậm) và Thái Hằng (áo trắng)

Từ lối hát phụ diễn này, thừa thắng xông lên, ban Thăng Long tổ chức những Đại Nhạc Hội hát tân nhạc ở các rạp vốn được xem là “lãnh địa” của cải lương như rạp Nguyễn Văn Hảo hay Aristo. Lúc này không chỉ là hát phụ diễn nữa mà chương trình ca diễn của ban Thăng Long phong phú hơn nhiều. Các màn đơn ca, hợp ca, hay nhạc cảnh của ban Thăng Long cùng các nghệ sĩ khác được mời tới diễn chung, như Trần Văn Trạch, Phi Thoàn, Xuân Phát, và cả ban vũ Lưu Bình – Lưu Hồng (sau này gắn bó với Maxim’s của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ).

Click để nghe Ban Hợp Ca Thăng Long hát trong băng Sơn Ca 10 năm 1974

Với những hoạt động tân nhạc sôi nổi ngay từ khi mới chân ướt chân ráo đến Sài Gòn từ xứ Bắc, có thể nói ban hợp ca Thăng Long đã có những đóng góp lớn lao cho sự phát triển tân nhạc ở Sài Gòn thập niên 1950.

“Quái kiệt” Trần Văn Trạch – người có thời gian cộng tác cùng ban Thăng Long kể lại: “Mỗi xuất hiện của Ban Hợp Ca Thăng Long là một cơn nóng sốt đối với bà con khán giả miền Nam. Cách trình diễn, bài vở họ chọn, ngôn ngữ họ dùng… như một điều gì vừa gợi óc một tò mò, vừa mới mẻ, quyến rũ, lại cũng vừa thân thiết như một vật quý đã mất từ lâu, nay tìm lại được…”

Đạt được thành công to lớn ở phía Nam, những anh chị em nhà họ Phạm bắt đầu “Bắc tiến”, mà thực ra là sự trở về Thăng Long của ban nhạc mang tên Thăng Long, lúc này cùng theo đoàn hát mang tên là Gió Nam, với ý nghĩa là một làn gió mới đến từ phương Nam để đi trình diễn ở Hà Nội. Vì Nhà Hát Lớn giới hạn về không gian, nên rất nhiều thanh niên không mua được vé, phải trèo qua cửa sổ để nghe Gió Nam hát. Trong những người thanh niên đó có Lê Quỳnh, lúc đó hãy còn rất trẻ và hâm mộ tiếng hát Thái Thanh cuồng nhiệt. Đến sau này, khi di cư vào Sài Gòn năm 1954 và trở thành nam tài tử nổi tiếng bậc nhất Miền Nam, ông đến hỏi cưới Thái Thanh và được gia đình ông Phạm Đình Phụng đồng ý.

Ban Hợp Ca Thăng Long đứng trên đỉnh cao cho đến đầu thập niên 1960 thì có một sự cố đau lòng diễn ra trong nội bộ gia đình họ Phạm đã làm rúng động báo giới Sài Gòn. Vụ việc này có thể ai cũng đã rõ nên xin không tiện nói, chỉ biết rằng sau tai tiếng này, cuộc đời Phạm Đình Chương bước sang một giai đoạn khác. Chia tay vợ với vết thương lòng to lớn, ông sống những ngày gần như cắt đứt mọi sự liên lạc, chỉ tiếp xúc giới hạn với 1 vài bằng hữu thân thiết. Gia đình Phạm Duy cũng rời đại gia đình Thăng Long ở đường Bà Huyện Thanh Quan để về cư xá Chu Mạnh Trinh.

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương và Khánh Ngọc

Từ thập niên 1960 trở về sau, Hoài Bắc – Phạm Đình Chương sáng tác rất ít, nếu có thì cũng là những ca khúc u sầu như Người Đi Qua Đời Tôi, Khi Cuộc Tình Đã Chêt, hay Nửa Hồn Thương Đau. Nhiều người nói rằng ca khúc Nửa Hồn Thương Đau được ông viết ngay sau khi chia tay Khánh Ngọc, nhưng sự thật không phải vậy. Dư chấn của thảm kịch đã giảm thiểu mọi hoạt động của nhạc sĩ Phạm Đình Chương một thời gian khá dài, và ông chỉ sáng tác Nửa Hồn Thương Đau sau đó đúng 10 năm (1970) và được giới thiệu trong cuốn phim điện ảnh Chân Trời Tím qua tiếng hát Thái Thanh, được lồng vào phần trình diễn của minh tinh Kim Vui trong phim.

Cũng từ thập niên 1960, dù không hoạt động sôi nổi như trước, nhưng Ban Hợp Ca Thăng Long vẫn thu băng dĩa và trình diễn ở phòng trà Đêm Màu Hồng do Hoài Bắc Phạm Đình Chương mở ở Hotel Catinat có 2 mặt tiền đường, số 69 Tự Do và số 36 Nguyễn Huệ.

Hotel Catinat

Cuối năm 1974, ban Thăng Long cùng giọng ca Thái Thanh được nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông thực hiện riêng một băng nhạc duy nhất, đó là Sơn Ca 10.

Sau năm 1975, thời cuộc đổi thay, mỗi người mỗi ngả. Thái Thanh kẹt lại ở Việt Nam trong 10 năm, từ 1975 đến năm 1985. Trong thời gian đó, Hoài Trung và Hoài Bắc kết hợp cùng cháu ruột là ca sĩ Mai Hương (con của Phạm Đình Sỹ) thành lập ban Thăng Long hải ngoại để trình diễn ở một vài sân khấu hải ngoại.

Ban Thăng Long ở hải ngoại, với Mai Hương thay thế cô ruột là Thái Thanh

Năm 1991, Hoài Bắc Phạm Đình Chương qua đời ở tuổi 62

Năm 2002, Hoài Trung Phạm Đình Viêm qua đời ở tuổi 83

Đến năm 2020, cô em út Thái Thanh – linh hồn của ban hợp ca Thăng Long cũng rời bỏ chúng ta. Tất cả những người đã tạo lập thành ban nhạc huyền thoại năm xưa nay đều đã thành người thiên cổ, nhưng tên tuổi và những đóng góp của họ dành cho tân nhạc vẫn trường tồn với thời gian.

Bài: Đông Kha
Bản quyền bài viết của nhacxua.vn




Châu Công Tử – qúi tộc Hội An

Nguyên Ngọc

Chuyện này đến nay có lẽ chỉ còn mình tôi biết. tôi muốn kể lại, trước hết vì Hội An của tôi, để Hội An hiểu thêm rằng mình từng lạ và “hay” đến thế nào. Đặng mà cố giữ nó.

Năm ấy hình như tôi khoảng 12 tuổi,  cũng có thể chỉ mới 11 vì đến cách mạng tháng Tám 1945 tôi vừa 13, mà  theo tôi nhớ thì ông Nguyễn Tuân tới Hội An trước Cách mạng đâu khoảng  vài ba năm.

Ba tôi, bấy giờ gọi là “thầy thông bưu chính’’, tức đã có đến bằng diplome, hồi ấy thế cũng là trí thức bậc trung. Hình như ông định biến con trai mình thành một nhà bác học, hay tệ nhất cũng là  một nhà văn lừng danh. Ông có lối dạy con rất đặc biệt: ông bắt tôi đọc hầu như toàn bộ văn học Việt Nam đương thời, từ Tự Lực văn đoàn cho đến Tiểu thuyết Thứ bảy, rồi Phổ thông bán nguyệt san, đọc hết luôn tủ sách Văn mới của Hàn Thuyên, các tạp chí Thanh Nghị, Tri Tân, tất nhiên không  thể thiếu báo Ngày nay…, cả Tây sương ký và Trang Tử Nam hoa kinh qua  bản dịch của Nhượng Tống

… Còn sách Tây thì tôi phải đọc trước chương trình quy định ở lớp một, có khi đến hai năm. Ngốn toàn bộ “Những người khốn khổ” và “Nhà thờ Đức Bà Paris” của Victor Hugo, tra từ điển  Larousse đến mờ mắt để lần cho ra cái đoạn lê thê ông nhà văn lắm lời này tả các cánh cửa rậm rạp của nhà thờ Đức Bà… Tôi biết ơn ba tôi đã  biến tôi thành một con mọt sách suốt đời.

Một thành phố chỉ có thể thật sự là “thành phố văn hóa”, như Hội An, khi nó có, từng có, và  biết giữ một lớp tinh hoa cấp cao, một lớp quý tộc văn hoá như thế, có thể nhỏ thôi, có thể nghèo, nhưng là quý tộc, sang trọng, như là cái lõi vàng ròng của đời sống tinh thần và văn hóa chung.

Bây giờ nhớ lại, cứ như ngày ấy tôi vì say sách mà đã thành kẻ mộng du, mới 11 hay 12 tuổi mà đêm nào cũng lang thang một mình trên các đường phố Hội, thường rất khuya, chỉ đi một mình thôi – anh ấy dặn vậy, tìm đến một ngôi nhà cổ bé tí và sâu hun hút. Nhà ấy có hai mặt đường như tất cả các nhà trong phố cổ Hội An, một mặt quay ra Rue du pont japonnais (đường Chùa Nhật Bản) nay là Trần Phú, mặt kia trổ ra Rue Cantonnais (đường  Quảng Đông) nay là Nguyễn Thái Học. Đấy là nhà của một vị nho học nổi  tiếng có cái tên rất lạ: Châu Phi Cơ. Lúc nào cũng thơm nồng mùi thuốc bắc, về đêm càng sực nức. 

Khuya, tôi gõ cửa rất khẽ, đúng ra là chỉ cần chạm nhẹ vào cái khuy đồng ở cửa, lập tức “hạt vừng’’ từ từ mở ra. Anh  Châu Tường Anh, mới nghe tên đã biết tất phải là người rất sang trọng,  rất quý tộc, hình như đêm nào anh cũng sẵn chờ tôi sau cánh cửa dày và nặng, trong đêm đẹp như một bức sơn mài ấy. Vâng, một nhà quý tộc trẻ. Thanh mảnh, hơi gầy và cao, lúc nào cũng mặc áo dài hai lớp, áo dài  trắng bên trong áo lương đen mỏng tan. 

Hội An ngày ấy có một lớp “quý  tộc’’ như vậy của mình. Một lớp quý tộc chập chờn giữa hai thời đại. Còn nho nhã phương Đông, nhưng đọc rành Tây và thường nói chuyện với nhau bằng tiếng Tây. Một lớp quý tộc nghèo mà sang. Những La Hối, Lê Trọng Nguyễn, Dương Minh Ninh, Dương Minh Hòa, Lưu Nghi… tất nhiên cả gia đình họ Nguyễn Tường, những người đã mang tinh hoa phố Hội quê hương tự  trong máu của mình ra trộn với tài hoa Cẩm Giàng Hải Dương để làm nên Tự Lực văn đoàn, cả một thời đại trong văn chương xứ Việt như Hoài Thanh  từng nói… Và anh Châu Tường Anh nữa, bạn vong niên của tôi. Anh lớn hơn  tôi đâu chỉ ba hay bốn tuổi, ở tuổi đó cách nhau chừng ấy đã gần cả một  thế hệ rồi, vậy mà anh kết nạp tôi vào thế hệ anh. Vì anh biết tôi cùng  mê sách. Những người mê sách thì bình đẳng trước văn hóa và vĩnh cửu, và  không có tuổi.

Nhà tôi cũng có một tủ sách, tất nhiên, dày cộp.  Nhưng làm sao dám sánh với sách của anh Châu Tường Anh, dù anh có cuốn  nào tôi cũng có đúng cuốn ấy, không sót. Nhưng sách của tôi là sách  “thường’’, tầm thường, bán đại trà, cứ ra phố là mua được, mua hàng lô cũng còn được nữa là, những cuốn sách “vô danh’’, cũng còn có thể gọi là  “vô chủ’’ nghĩa là ai có cũng được, không đặc biệt là của riêng ai hết, có thể trôi nổi, nay vào tay người này mai vào tay người kia. Lại nữa,  không từ đâu đến, không ai trao cho mình cả, mình có tiền mình đi mua, có thể nơi một quầy vô danh bất kỳ ở một hiệu sách vô danh bất kỳ. Theo một nghĩa nào đó, một cuốn sách như thế không có “cá tính’’, không phải  là riêng nó, chỉ riêng nó, không có hai, duy nhất, đơn nhất, như một  người bạn, người thân, người yêu, của riêng mình… Có một dấu hiệu cho loại sách đó: mép sách được, hay bị, xén bằng dao kim loại, xoẹt một cái  phẳng lì, tăm tắp, chắc cũng có thể với máy móc hiện đại xoẹt một cái  xén phẳng sạch bong hàng chục cuốn…

Tôi để ý: trên bàn của anh Châu Tường Anh tuyệt không có một con dao kim loại nào. Thư phòng của  anh ở trên gác, nhỏ thôi, tường gỗ, bốn mặt tường đều là sách. Và tuyệt không có cuốn sách nào bị xén “công nghiệp’’. Trên bàn có một con dao  bằng ngà, trắng nhờ. Bởi vì ở đây chỉ có toàn những cuốn sách được in hai tờ, hay bốn tờ, dính vào nhau, phải rọc ra. Con dao ngà kia là để  rọc.

Ngày ấy sách được in như thế này: ở những nhà xuất bản lớn,  những cuốn sách hay của những tác giả tên tuổi, bao giờ ở trang giáp  cuối cũng có ghi: “… ngoài những bản thường, có 50 (hay 100) bản đặc  biệt, in trên giấy dó (hay giấy Lafuma), được đánh số từ A1 đến …, có  chữ ký của tác giả và không bán”. Không bán, vì nó vô giá. Bây giờ đến  lúc tôi khoe với các bạn rồi đây: 11 hay 12 tuổi, tôi đã có được một  người bạn vong niên, anh Châu Tường Anh, của Hội An tôi, là chủ nhân của  một tủ sách gồm toàn những cuốn như thế. Và đêm đêm, gần suốt tuổi thơ,  như một kẻ mộng du, tôi bỏ nhà lang thang trên các đường phố Hội An vắng tanh, một mình tìm đến ngôi nhà cổ nhỏ xíu trên đường Chùa cầu Nhật Bản,  chỉ chạm nhẹ vào cánh cửa nặng trịch thì vừng liền mở ra, và anh bạn vong niên của tôi, áo dài trắng bên trong áo lương đen, không nói một lời dắt tôi lên thư phòng của anh. Tôi ngồi yên trên một chiếc ghế nhỏ,  nhìn anh chậm rãi lấy từ giá xuống một cuốn sách mới, không bao giờ tôi  biết từ đâu mà anh có được, tôi không bao giờ dám hỏi. Tôi ngồi yên, sững sờ ngắm anh thực hiện cái nghi lễ thiêng liêng của người mê sách.  Đôi bàn tay các ngón đẹp như của một nghệ sĩ dương cầm, cầm con dao ngà,  rất chậm, rất nhẹ, như sợ làm đau giấy, rọc từng trang sách, mép giấy đó nhẹ nhàng xơ ra, một chút bụi giấy vàng mong manh bay lên và rơi  xuống lấm tấm li ti trên mặt bàn. Tôi những muốn được đưa ngón tay chấm nhẹ một hạt bụi ấy, mà không dám… Vậy đó mỗi đêm, một cuộc thôi miên…  Tôi không đọc sách ở nhà anh Châu Tường Anh, những cuốn sách ấy ở nhà  tôi cũng có, bản in phàm, bán đại trà, ba tôi mua. Tôi đến nhà anh Châu Tường Anh, đêm đêm, mộng du, là để chiêm ngưỡng những cuốn sách vô giá  của anh, được ngửi mùi thơm vừa thoảng vừa ngậy đặc trưng của giấy dó và  của mùi bụi giấy lấm tấm bay ra khi anh rọc sách bằng con dao ngà màu  trắng đục. Tôi cứ ngỡ bụi “phấn thông vàng” của Xuân Diệu cũng đẹp như  thế, thơm nhẹ và sâu như thế, tuy mãi mấy mươi năm sau tôi mới được biết phấn thông vàng thực ở Tây Nguyên. Cũng có hôm anh Châu Tường Anh cho  tôi được tự tay dở vài trang sách. Rất lạ, những trang ấy tôi đã đọc ở nhà rồi, có khi đến thuộc lòng, vậy mà ở đây mỗi con chữ đều long lanh,  và vang lên một cách khác… Nói thế nào nhỉ, chúng trở nên quý tộc hơn,  sang trọng hơn, và bổng như trở nên bí mật hơn… Vâng, mỗi đêm tôi được  hưởng một nghi lễ như vậy của cái đẹp…

Cho tới một bữa, vừa bước lên gác tôi đã nhận ra mùi hương trầm. Anh Châu Tường Anh, không nói một  lời, lặng lẽ chỉ cho tôi ngồi xuống ghế, và ra hiệu cho tôi phải để hai  bàn tay xuống bên dưới mặt bàn. Nghĩa là tuyệt đối không được sờ đến  bất cứ thứ gì. Và ngồi đó chờ… Rất lâu. Rồi anh nhẹ nhàng nhấc từ trên  giá xuống một cuốn sách mới tinh. Sách đã rọc. Các mép giấy dó xơ ra,  còn giữ nguyên từng sợi vàng óng. Chỉ những người chuyên chơi sách mới  biết: sách đẹp chính là ở những xơ giấy dó được giữ quý như vàng đó. Tôi  nhìn trân trân. Cuốn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Anh Châu Tường  Anh dùng mũi dao ngà khẽ lật trang bìa, rất chậm rãi, đến trang lót, rồi càng chậm rãi, đến trang thứ ba. Và tôi sững sờ: lời đề tặng của  chính ông Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân ngày ấy là huyền thoại của chúng tôi. Tự tay ông viết, cái ông Nguyễn Tuân tài hoa, phiêu bạt và ngang tàng  ấy, tự chính tay ông viết, như múa, không phải “Tặng anh Châu Tường  Anh”, cũng không phải “Kính tặng anh Châu Tường Anh”, mà là ”Kính tặng  Tường Anh Châu công tử”… Và bên dưới, chữ ký bay lên, như khói. Có người  bảo: đấy là hình tượng một cánh buồm lộng gió.

Ôi ông Nguyễn  Tuân, chỉ có ông mới nghĩ ra được như vậy, mới viết được như vậy. Tôi có  hỏi kỹ một anh bạn chuyên nghiên cứu văn bản học, anh ấy khẳng định  trước Cách mạng tháng tám Nguyễn Tuân đến Hội An chỉ một lần, năm 1941,  và viết tùy bút Cửa Đại nổi tiếng. Năm đó tôi đúng 11 tuổi. Anh Châu Tường Anh của tôi lớn hơn tôi đâu bốn hay năm tuổi, tức khoảng 15 hay 16. Mà đã “Châu công tử”, kỳ lạ không, đã có thể kết bạn với ông Nguyễn Tuân, đã được chính ông Nguyễn Tuân huyền thoại kết bạn tâm đắc đến mức  tự tay trân trọng tặng Châu công tử một cuốn Vang bóng một thời in giấy dó vàng ươm!

Vâng, Hội An của tôi là vậy đó. Cho phép tôi nói điều này: một thành phố chỉ có thể thật sự là “thành phố văn hóa”, như  Hội An, khi nó có, từng có, và biết giữ một lớp tinh hoa cấp cao, một  lớp quý tộc văn hóa như thế, có thể nhỏ thôi, có thể nghèo, nhưng là quý  tộc, sang trọng, như là cái lõi vàng ròng của đời sống tinh thần và văn hóa chung.

Chắc tôi phải nói thêm chút nữa về người bạn vong niên kỳ lạ của ông Nguyễn Tuân ở Hội An, anh Châu Tường Anh quý tộc nghèo của tôi. Anh mất vào những ngày đầu kháng chiến chống Pháp cuối năm 1946. Không ai biết thật rõ về cái chết của anh. Chỉ nghe đồn đâu đó  ở cửa sông Thu Bồn. Anh quen biết, và hẳn gắn bó nhiều với gia đình  Nguyễn Tường của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Ta biết, họ là Quốc dân  đảng. Trong những ngày cực kỳ rối ren, sôi nổi, hào hùng và thảm khốc của một cuộc chiến tranh ác liệt đang bắt đầu.

Lịch sử mà…

Nguyên Ngọc

Theo FB




Chân dung tin tặc Việt vừa bị trục xuất sau 7 năm ngồi tù ở Mỹ

Đứng sau một trong những hệ thống bán danh tính khách hàng lớn nhất từng tồn tại, tin tặc (hacker) Ngô Minh Hiếu kiếm được hơn 3 triệu USD trước khi bị mật vụ Mỹ bắt tại đảo Guam năm 2013.

Ngô Minh Hiếu sinh năm 1989 ở Gia Lai và có biệt danh Hieupc. Vừa được thả và trục xuất về Việt Nam sau 7 năm ngồi tù tại Mỹ, Hiếu đã liên hệ với trang KrebsOnSecurity từ nơi cậu ta đang phải cách ly bắt buộc do dịch Covid-19, để chia sẻ câu chuyện của bản thân. Hiếu hy vọng sẽ thuyết phục những người giỏi về máy tính đừng đi theo vết xe đổ của mình.

Ở thời đỉnh cao trong “sự nghiệp tội phạm mạng”, Hiếu kiếm tới 125.000 USD/tháng nhờ điều hành dịch vụ bán thông tin cá nhân chi tiết lấy được từ những công ty môi giới dữ liệu hàng đầu thế giới. Và chính lòng tham đã khiến Hiếu rơi vào bẫy của Mật vụ Mỹ.

Trong vài năm bắt đầu từ khoảng 2010, chỉ có một thiếu niên duy nhất ở Việt Nam, tên là Ngô Minh Hiếu, điều hành một trong những dịch vụ nổi tiếng và sinh lời nhiều nhất trên mạng Internet, chuyên bán “fullz” – bộ dữ liệu cá nhân đánh cắp được bao gồm tên, ngày sinh, số thẻ an sinh xã hội, email và địa chỉ thực tế của một khách hàng.

Lúc bị bắt vào năm 2013, Hiếu đã kiếm được trên 3 triệu USD nhờ bán dữ liệu cho những kẻ ăn trộm danh tính và các đường dây tội phạm có tổ chức hoạt động trên đất Mỹ.

Tháng 2/2013, đặc vụ Mỹ Matt O’Neill đã thực hiện thành công kế hoạch dụ Hiếu rời Việt Nam đến Guam, để bắt giữ và đưa ra tòa án tại Mỹ. O’Neill hiện là Giám đốc Trung tâm chiến dịch điều tra toàn cầu của Mật vụ Mỹ, chuyên hỗ trợ điều tra các tổ chức tội phạm xuyên quốc gia.

O’Neill cho biết đã tiến hành điều tra dịch vụ bán danh tính do Ngô Minh Hiếu điều hành, sau khi đọc về dịch vụ này trong một câu chuyện có tựa đề “Danh tính của bạn trị giá bao nhiêu?” trên trang KrebsOnSecurity năm 2011. Theo ông, hoạt động của Hiếu đã tiếp tay cho cả một thế hệ tội phạm mạng đánh cắp các tài khoản và gian lận tín dụng lên tới hơn 1 tỷ USD.

“Tôi không rõ có tên tội phạm mạng nào gây tổn thất tài chính cho người Mỹ nhiều hơn Hiếu hay không. Cậu ta đã bán thông tin cá nhân của hơn 200 triệu người Mỹ, cho phép mọi đối tượng mua chúng chỉ với giá vài xu”, O’Neill nói.

Khi còn nhỏ, Hiếu được gia đình mua cho một chiếc máy tính và cậu ta đam mê máy tính từ đó. Lớn lên, Hiếu sang New Zealand học đại học và lúc đó, Hiếu đã là admin của nhiều diễn đàn hacker trên web đen. Trong lúc học, nam sinh viên đã phát hiện một lỗ hổng trong mạng lưới máy tính của trường làm lộ dữ liệu thẻ thanh toán. Báo cho quản trị viên IT nhưng không ai quan tâm, Hiếu bèn hack luôn cả hệ thống rồi dùng lỗ hổng đó tấn công các trang web khác và ăn trộm được rất nhiều thẻ tín dụng.

Sau khi bị nhà trường phát hiện và báo cảnh sát, Hiếu phải về nước khi hết học kỳ 1 vì không được gia hạn thị thực. Để trả thù, Hiếu tấn công trang web của trường, khiến nó tê liệt ít nhất 2 ngày.

Về Việt Nam, Hiếu đi học lại nhưng vẫn dành chủ yếu thời gian lần mò trên các diễn đàn tội phạm mạng. Cậu chuyển từ hack cho vui sang hack vì tiền, khi thấy dễ dàng kiếm tiền từ đánh cắp dữ liệu khách hàng. Cậu cũng giao du với một số bạn bè từ các diễn đàn ngầm và bắt đầu nghĩ đến đánh cắp dữ liệu cá nhân để bán.

“Tiền kiếm được quá nhanh đã khiến tôi mờ mắt”, Hiếu tâm sự.

Số tiền phi pháp 3 triệu USD

Một trong những trang web của Ngô Minh Hiếu chuyên cung cấp dịch vụ đánh cắp danh tính.

Mục tiêu lớn đầu tiên của Hiếu là công ty báo cáo tín dụng MicroBilt ở New Jersey.

“Tôi hack nền tảng của họ, đánh cắp cơ sở dữ liệu người dùng để có thể dùng đăng nhập khách hàng nhằm tiếp cận dữ liệu [người dùng] của họ. Tôi đã ở trong hệ thống của họ khoảng gần một năm mà họ không hề hay biết”, Hiếu nhớ lại.

Tiếp đó, Hiếu lập trang Superget[.]info, chuyên bán hồ sơ người dùng cá nhân. Ban đầu, dịch vụ của Hiếu được thực hiện thủ công nhưng sau đó, hacker này tìm ra cách sử dụng các máy chủ mạnh ở Mỹ để tự động thu thập lượng lớn dữ liệu người dùng từ các hệ thống của MicroBilt và các hãng dữ liệu khác. MicroBilt đã phát hiện và đẩy Hiếu ra khỏi hệ thống, nhưng Hiếu trở lại được nhờ một lỗ hổng khác.

Sau này, Hiếu tìm thấy một mục tiêu hấp dẫn hơn, đó là công ty Mỹ Court Ventures chuyên lập hồ sơ công cộng từ tài liệu tòa án. Thứ Hiếu quan tâm thực chất là thỏa thuận chia sẻ dữ liệu của Court Ventures với US Info Search, vì hãng môi giới dữ liệu này có khả năng tiếp cận nhiều hồ sơ người dùng nhạy cảm hơn. Bằng một vài thủ thuật, Hiếu thuyết phục được Court Ventures tin mình là một nhà điều tra tư nhân ở Mỹ.

Năm 2012, Court Ventures được mua lại bởi Experian – một trong những tổ chức tín dụng khách hàng lớn của Mỹ. Hiếu trả cho Experian hàng nghìn đôla mỗi tháng để mua dữ liệu khách hàng, thông qua các tài khoản mới lập và đa số ở Trung cộng, Malaysia và Singapore.

Đặc vụ O’Neill cho biết, trang web của Hiếu thực hiện hàng chục nghìn lệnh truy vấn mỗi tháng và kiếm bộn tiền nhờ ăn chênh lệch. Trong khi Court Ventures thu của Hiếu 0,14USD, thì cậu ta thu của khách hàng 1USD.

Hiếu bị Mật vụ Mỹ để mắt tới và họ phát hiện một số email Hiếu gửi cho các đồng phạm, hướng dẫn cách thanh toán tiền cho Experian bằng cách chuyển khoản từ các ngân hàng châu Á. Các đặc vụ bắt đầu tìm cách đưa Hiếu vào bẫy.

Tính đến năm 2012, Hiếu đã kiếm được hơn 3 triệu USD từ các hoạt động trên mạng. Cậu nói với cha mẹ rằng mình kiếm tiền nhờ phát triển website cho các công ty.

Sa bẫy và hối hận

Cuối cùng, Hiếu đã “cắn câu” của mật vụ Mỹ khi tới Guam để gặp một hacker người Anh nhằm dàn xếp một số vụ việc và thiết lập hợp tác. Hiếu không hay biết người này đã bị kết án và chính là “mồi nhử”, khiến cậu ta sa bẫy ngay khi bước chân xuống máy bay.

Sau khi bị tạm giam 2 tháng ở Guam, Hiếu bị đưa tới New Jersey, nơi hacker thừa nhận đã thâm nhập vào MicroBilt cùng nhiều hệ thống khác. Hiếu kể rằng, trong quá trình xét xử, tòa án liên bang đã nhận khoảng 13.000 thư khiếu nại từ các nạn nhân. Họ trình bày mình bị mất nhà, mất việc và không còn khả năng mua nhà hay duy trì nguồn tài chính. Điều đó khiến Hiếu nhận ra mình là kẻ tồi tệ và cảm thấy rất ân hận.

“Nhà tù là một nơi khốc liệt, nhưng nó cho tôi thời gian nghĩ về cuộc đời và các lựa chọn của mình. Tôi đang cố gắng làm điều tốt và trở nên tốt đẹp hơn mỗi ngày. Giờ đây, tôi hiểu ra rằng tiền chỉ là một phần của cuộc sống, chứ không phải tất cả và cũng không mang lại hạnh phúc thực sự”.

“Tôi hy vọng những tội phạm mạng rút kinh nghiệm từ những gì tôi đã trải qua và dừng tay, thay vào đó hãy sử dụng các kỹ năng của mình góp phần làm cho thế giới tốt đẹp hơn”.

Theo Internet




Chiến hạm USS New York làm từ đống sắt của biến cố 9/11

Ngày 11 tháng 9 năm 2001, khủng bố đã hạ gục hai toà nhà Trung Tâm thương Mại Thế Giới World Trade Center (WTC) tại New York mang theo sinh mạng của hơn 3000 người dân vô tội, cùng một số rất đông cảnh sát, và lính cứu hoả đang thực hiện cuộc cấp cứu.

World Trade Center sụp đổ thành những đống thép, gạch vụn khổng lồ, và chính phủ Hoa Kỳ đã làm một việc rất ý nghĩa. Chính phủ cho gom và sử dụng tất cả những săt và thép vun đó để chế tạo làm thành một chiến hạm đặt tên là USS NEW YORK.

Tám năm sau, ngày 7 tháng 9 năm 2009, chiến hạm tối tân trị giá 1 tỷ đô USS NEW YORK đã hoàn tất và khởi hành chuyến đầu tiên về đất mẹ, tiến vào cảng New York giữa sự chào đón nồng nhiệt và cảm động của toàn cư dân New York city, nhất là thân nhân của những người bị nạn ngay tại World Trade Center ngày ấy.

Trong mỗi gram của 24 tấn thép vụn tại WTC trong chiến hạm khổng lồ USS New York đó đều có một chút thịt, da, máu, và xương của hơn 3000 người đã ngã gục tại hiện trường.

USS New York sau đó sẽ ra khơi với nhiệm vụ được giao phó từ Hải Quân Hoa Kỳ. Như vậy, tuy những nạn nhân WTC đã nằm xuống, nhưng thịt xương của họ vẫn luôn luôn sống còn trong khối thép khổng lồ của chiến hạm USS New York sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước và lý tưởng tự do của Hoa Kỳ.




Dịch giả HÀ MAI ANH

Người trong hình chính là ông Hà Mai Anh, dịch giả của Tâm hồn cao thượng, cuốn sách gối đầu giường của tôi từ bé thơ. Hà Mai Anh quê ở Thái Bình, ông đậu bằng Cao Ðẳng Tiểu học và trường Sư phạm, từng làm giáo học và hiệu trưởng ở các tỉnh ở Bắc Kỳ.

Hà Mai Anh (1905 – 1975), bút hiệu Mai Tuyết và Như Sơn, là một nhà giáo, cùng là tác giả của nhiều sách giáo khoa về văn chương, toán học và dịch giả nhiều cuốn sách phổ biến như Tâm hồn cao thượng (Les grands cœurs), Vô gia đình (Sans famille), Trong gia đình (En famille)…

Hà Mai Anh quê ở Thái Bình, từng làm hiệu trưởng ở các tỉnh ở Bắc Kỳ. Ông đóng góp nhiều bài vở cho các báo đương thời nhưng sự nghiệp văn học của ông chủ yếu là các tác phẩm mang tính cách giáo dục. Ngay từ năm 1938 cuốn Công dân giáo dục đã được xuất bản tại Nam Định và được chính phủ Bảo hộ chấp thuận dùng làm sách giáo khoa.

Vào những năm đầu 1940, ông dịch cuốn “Tâm hồn cao thượng” (tiếng Ý: Cuore) đoạt Giải thưởng Văn chương của Hội Alexandre de Rhodes Hà Nội năm 1943, dịch từ tiếng Pháp  (Les grands cœurs).

Cuốn này nguyên thủy viết bằng tiếng Ý của Edmondo De Amicis và tại Việt Nam được xem như một cuốn “luân lý giáo khoa thư” của thế kỷ 20 và trở thành “kim chỉ nam” của một thế hệ thiếu niên. Các tác phẩm khác do ông dịch lại từ tiếng Pháp, Anh: 

  • Vô Gia Ðình, Sans famille của Hector Malot (Giải I Dịch thuật 1970)
  • Trong Gia Ðình, En famille của Hector Malot
  • Về với Gia Ðình, Romain Kabris của Hector Malot
  • 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới, Le tour du monde en 80 jours của Jules Verne
  • Guy-Li-Ve Du Ký. Les voyages de Gulliver của Jonathan Swift
  • Hoàng Kim Ðảo, L’île au trésor của Robert Luis Stevenson
  • Con Voi Chúa, Poo Lorn l’éléphant của Reginald Campbell
  • Chuyện Trẻ Em, Contes de Perrault của Charles Perrault
  • Cầu Vồng Trong Ruộng Lúa, L’arc-en-Ciel dans les rizières của Rosy Chabbert
  • Thuyền Trưởng 15 Tuổi, Un Capitaine de 15 Ans của Jules Verne
  • Thuật Tàng Hình của Vi-Liêm, Le secret de Wilhelm Storitz của Jules Verne
  • Dòng Sông Tráng Lệ, Le superbe Orénoque của Jules Verne
  • Em Bé Bơ Vơ, Oliver Twist của Charles Dickens.

Năm 1954 ông di cư vào Nam làm hiệu trưởng trường Trần Quý Cáp ở Sài Gòn rồi chuyển sang làm việc trong Ban Tu thư và Học liệu thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục của Việt Nam Cộng hòa.

Khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, ông sang Mỹ tỵ nạn và mất ngày 20 tháng 8 năm 1975 tại San Bernadino, CA, Hoa Kỳ, thọ 70 tuổi.

Bạn ông, nhà giáo Bảo Vân Bùi Văn Bảo có làm bài thơ “Khóc Bạn Hà-Mai-Anh” như sau:

Thôi thế là xong nhé bác Hà

Tâm hồn Cao thượng kiếm đâu ra?

Tuổi Xanh đất Mỹ đành thua-thiệt

Sống Mới trời Nam hẳn xót-xa

Về với gia-đình sao vội-vã?

Vòng quanh thế-giới há lâu-la!

Đồng-hương, đồng-quận, thêm đồng-nghiệp

Giọt lệ như sương khóc bạn già.

—- Huy Phương —-




Kẻ sĩ đầy tiết tháo: LS Trần Văn Tuyên

Thũ Lãnh Việt Nam Quốc Dân Đảng/ Xứ Bộ Miền Nam.

Theo FB

“Tôi thà chết vì bàn tay của kẻ thù còn hơn sống yên thân trong sự khinh thường của đồng bào, của bạn bè, của đồng chí và đồng minh”. L/S Trần Văn Tuyên trả lời cho những người trong đó có các viên chức cao cậ́p Mỹ khuyên ông nên đi ra nước ngoài lánh nạn cộng sãn trong những ngày cuối tháng 4-1975.

“Tôi không có tội gì với tổ quốc và đồng bào của tôi cả. Nếu có tội thì đó chỉ là tội chống cộng sản, chống thực dân, chống độc tài và bất công”    đó là hàng chữ duy nhất trong bãn tự khai  trong nhà tù cộng sãn khi chúng nó bắt ông viết bãn tự khai lý lịch.

Trong lịch sử VNCH có hai người cao cấp trong chính quyền đã chết trong ngục tù cộng sản đó:

– Thủ Tướng Phan Huy Quát, chết trong nhà tù Chí Hoà 

– Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên, chết trong trại tù khổ sai ở miến Bắc. 

Chúng tôi, những hậu duệ xin được phép vinh danh người lãnh đạo cao cấp của miền Nam trước 1975 

– Luật sư Trần Văn Tuyên là một trí thức, một luật sư, một nhà văn, một nhà chính trị yêu nước một nhân vật lịch sử, một chiến sĩ chống cộng đến hơi thở cuối cùng. Ông là một tấm gương đầy khí phách của một Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn VNCH, một lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng trong những ngày cuối cùng của tháng 4/1975. Ông không di tản ra ngoại quốc, LS Tuyên đã khẳng định rằng mình “Thà chết vì bàn tay của kẻ thù còn hơn sống yên thân trong sự khinh thường của đồng bào, của bạn bè, của đồng chí và đồng minh” và ông cũng cho biết quyết định của mình như sau : .“Sinh ở đây thì chết cũng ở đây!”

Tìm Hiểu Về Cố Luật Sư TRẦN VĂN TUYÊN

Trước ngày 30-4-1975, LS Tuyên dù có nhiều phương tiện để xuất ngoại nhưng ông đã chọn ở lại và ông đã chết trong trại tù Hà Tây (Bắc Việt) ngày 26-10-1976. Luật sư Trần Văn Tuyên có 7 người con hiện tất cả đều ở hải ngoại. Người con trưởng là LS Trần Tử Huyền, cũng là nhà báo Linh Chi hiện ở vùng Bắc California. Trưởng nữ là bà Trần Đạm Phương, được biết nhiều trong các cuộc tranh đấu cho nhân quyền Việt Nam cũng như cho sự tự do của thân phụ lúc ông bị giam giữ tại Việt Nam. Ba người con trai cuối, các ông Trần Tử Thanh – một lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng, Trần Vọng Quốc và Trần Tử Miễn (một lãnh đạo VNQDĐ ở Pháp) đang theo hướng đi của thân phụ, hoạt động chính trị và tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Nhà báo Trọng Kim, chủ nhiệm, chủ bút báo Ngày Nay cũng là người trong gia đình LS Tuyên, từng giúp ông Tuyên trong việc liên lạc với báo chí ngoại quốc từ đầu thập niên 60 tới lúc mất miền Nam.

QUỐC DÂN ĐẢNG NGƯỜI NAM NƯỚC VIỆT

VÌ DÂN CỨU NƯỚC CÓ “TRẦN VĂN TUYÊN”

Nước NAM anh kiệt tiền nhân,

Bao người ái quốc vì đời cứu dân.

Quyết giành chính nghĩa Người NAM,

Bảo vệ nòi giống da vàng Việt Nam.

Thực dân tàn ác vô lường,

Chúng thường sát hại bao người thương dân.

Ngoại lai cộng sản tam vô,

Bất nhân một lũ tội đồ nội xâm.

Tri ân tưởng nhớ tiền nhân,

Noi gương ái quốc anh linh “Trần Văn Truyên”

Tinh thần nghĩa khí đấu tranh,

Lưu danh tiết tháo sử xanh muôn đời!!!

*****

LS TRẦN VĂN TUYÊN

( Quí Sửu 1913 – Bính Thìn 1976)

Luật sư Tuyên, một trong những người sáng lập Hội Hướng Ðạo Việt Nam, sinh ngày 1-9-1913 tại tỉnh Tuyên Quang, nguyên quán huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông.

Học ở Hà Nội, tốt nghiệp Cử nhân Luật Ðại Học Luật Khoa Hà Nội, dạy học tại Trường Trung Học Thăng Long, tham gia hoạt động chống Pháp từ những năm 1930-1931. Năm 1942 ông bị Pháp bắt giam một thời gian vì “tội thành lập Ðảng Thanh Niên Hưng Quốc”. Sau khi được xử trắng án và tự do, ông thi đỗ ngạch Tri Huyện Tư Pháp, được bổ làm Tri Huyện huyện Thanh Miện, Hải Dương, đến năm 1944 thì từ chức.

Sau Tổng Khởi Nghiã Tháng 8 năm 1945, ông tham chính, giữ chức Ðổng Lý Văn Phòng Bộ Ngoại Giao Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Ðầu năm 1946 ông lưu vong sang Trung Hoa, khi hồ chí minh lùng giết các đảng phái quốc gia.

LS Tuyên giữ chức vụ Tổng-Trưởng Thông-Tin vào năm 1949 trong nội-các của Tướng Nguyễn-Văn-Xuân, sau đó tham gia vào nội các Trần-Văn-Hữu (1949-1951) với chức vụ Bộ Trưởng Phủ Thủ-Tướng. Khi tham gia hội-nghị Pau để thương lượng với chính quyền Pháp trao trả chủ quyền cho Việt-Nam, LS Tuyên đã quyết liệt phản đối sự vi phạm trắng trợn các thỏa ước Pháp đã ký kết. LS Tuyên đã thẳng thắn nói với Cao-Ủy Pháp là Tướng De Lattre de Tassigny rằng ông ta không có quyền can thiệp vào nội bộ Việt-Nam và yêu cầu ông này rời khỏi phòng họp nội-các của chính-phủ Việt-Nam. Tướng De Lattre de Tassigny tức giận ra lệnh trục xuất LS Tuyên ra khỏi Việt-Nam. LS Tuyên đã tuyên bố:

“Không một người Pháp nào có quyền trục xuất một người Việt-Nam ra khỏi nước Việt-Nam”.

Năm 1950 ông về Sài Gòn, có thời làm Bộ Trưởng Bộ Thông Tin, năm 1950-1951 ông giữ chức Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng trong chính phủ Trần văn Hữu. Năm 1954 ông là Cố Vấn Ðặc Biệt trong Phái Ðoàøn Việt Nam (chính quyền Bảo Ðại) dự Hội Nghị Genève nhằm chấm dứt Chiến tranh Ðông Dương. Năm 1965 ông giữ chức Phó Thủ Tướng Ðặc Trách Kế Hoạch, năm 1967 ông là Dân Biểu Quốc Hội, Trưởng Khối Dân Tộc-Xã Hội tại Hạ Nghị Viện Sài Gòn, Cố Vấn Phong Trào Ðấu Tranh Cải Thiện chế độ Lao Tù, Thủ Lãnh Luật Sư Ðoàn Sài Gòn.

Năm 1965, LS Trần Văn Tuyên ra nhận chức Phó Thủ tướng cũng là lúc tình trạng chính trị và quân sự Việt Nam lâm vào hỗn loạn. Lúc ông lên nhận vai trò lãnh đạo cao trong hành pháp cũng là lúc quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẳng. LS Tuyên và Thủ-Tướng Phan Huy Quát chủ trương chống lại việc mang quân Mỹ vào Việt-Nam, nên chỉ sau 4 tháng cầm quyền chính quyền Phan Huy Quát đã bị thay thế vì sự khó chịu của phía Mỹ, nhóm bè phái trong quân đội và phía PG Ấn Quang cũng muốn loại trừ ông.

Trong thời gian ngắn ngủi làm Phó Thủ Tướng trong nội các Phan Huy Quát, LS Tuyên đã công du qua 10 nước Phi Châu và Toà Thánh La-Mã. Phái đoàn Việt-Nam do LS Tuyên lãnh đạo đã được đón tiếp trọng thể ở mọi nơi. Đức Giáo Hoàng Joan Paul VI đã không hạn chế giờ giấc để tiếp chuyện riêng với LS Tuyên. Tổng Thống Houary Boumedienne của Algeria đã tuyên bố: “Tôi đang tiếp một chiến sĩ cách mạng cùng chí hướng chống thực dân Pháp với tôi trước đây chứ không phải tiếp một Phó Thủ-Tướng của một nước. Cuộc công du trở về, Phái đoàn Việt-Nam đã hoàn trả lại cho công quỹ gần 50 ngàn đô la.

Vào năm chót của nền Đệ-Nhị Cộng-Hòa, LS Tuyên được bầu làm Thủ-Lãnh Luật-Sư Đoàn của Tòa Thượng-Thẩm Saigon (1975). Trong những giờ phút cuối cùng các luật sư đến xin giấy giới thiệu để di tản ra ngoại quốc, LS Tuyên sẵn sàng ký cho họ, nhưng cũng nói với các đồng nghiệp là mình quyết định ở lại. Bà Trần-Đạm-Phương theo chồng sống tại Mỹ đã được ít lâu, vào ngày 29.4.1975 điện thoại về để thuyết phục cha dời Viêt-Nam. LS Tuyên đã trả lời: “Thà chết vì bàn tay của kẻ thù còn hơn sống yên thân trong sự khinh thường của đồng bào, của bạn bè, của đồng chí và đồng minh”. Khi ô. Bùi Ngọc Lâm, một đồng chí, cùng hai người con trai của LS Tuyên là Trần Tử Thanh và Trần-Vọng Quốc đến trao công điện của bộ Ngoại Giao Hoa-Kỳ xác nhận đã dành đủ chỗ cho cả gia-đình di tản, LS Tuyên đã khẳng định rằng mình “…không phải là người đi làm bồi cho Mỹ. Sinh ở đây thì chết cũng ở đây…” Tuy nhiên LS Tuyên cho phép các con được tự do quyết định theo ý muốn của mỗi người.

Ngày17.6.1975, nhà cầm quyền Hà-Nội đã bắt LS Tuyên vào “trại cải-tạo” tại Long-Thành. Khi bị bắt buộc viết bản tự kiểm thảo, LS Tuyên vỏn vẹn chỉ viết có mấy hàng chữ dưới đây:“Tôi không có tội gì với tổ quốc và đồng bào của tôi cả. Nếu có tội thì đó chỉ là tội chống cộng sản, chống thực dân, chống độc tài và bất công”

Khi những hàng chữ này lọt ra ngoài lãnh thổ VN và xuất hiện trên các báo chí ngoại quốc, Ký giả Theodore Jacqueney trên trang nhất của tờ báo New York Times ra ngày 17.9.1976 đã gọi LS Tuyên là “Solzhenitsyn của Quần Đảo Ngục Tù Việt Nam” (Solzhenitsyn of Vietnam’s Gulag Archipelago). Đến ngày 5.10.1975, nhà cầm quyền Hà-Nội đã đưa LS Tuyên về một trại giam ở Thủ Đức. Đến tháng 4.1976 LS Tuyên được di chuyển bằng máy bay ra miền bắc và bị giam trong trại Hà Tây sau này đổi tên là Hà Sơn Bình. LS Tuyên chết đột ngột trong trại giam này vào ngày 26.10.1976. Khi qua Pháp vào tháng 6.1977 để xin viện trợ, Thủ Tướng Phạm-Văn-Đồng tuyên bố là ô. Trần-Văn-Tuyên vẫn sống và khoẻ mạnh vì sợ công luận thế giới. Năm 1977, Hội Ân Xá Quốc Tế tuyên xưng LS Tuyên là một tù nhân lương tâm. Đến ngày 19.5.1978, tòa Đại Sứ Hà-Nội tại Hòa-Lan chính thứ trả lời các tổ chức nhân quyền quốc tế là ô. Trần-Văn-Tuyên đã chết vì băng huyết ở trong não bộ. Trong số những người nhân chứng sống từng chứng kiến và đã mô tả cái chết đột ngột của LS Tuyên, họ đã tường thuật lại cái chết của LS Trần Văn Tuyên sau khi di tản khỏi Việt-Nam và hiện đang sống ở hải ngoại là các ông :Phan Vỹ, Thái-Văn-Kiểm, BS Trần Vỹ và BS Nguyễn-Văn-Ái.

LS Tuyên là người chủ xướng tờ báo Sao Trắng của Việt-Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) vào năm 1942. Sau này ông còn là một ký giả cộng tác với nhiều tờ báo trong nước như Thời-Luận, Chính-Luận, Quyết-Tiến, Đại Dân-Tộc, Tin Sáng, v.v. trong khoảng 1958-1975 dưới nhiều bút hiệu khác nhau: Chính Nghiã, XYZ, Trần Côn, v.v. Trong thập niên 40, LS Tuyên còn dùng bút hiệu Trần-Vĩnh-Phúc. Ngoài tiếng mẹ đẻ, ông còn rất thông thạo một số ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Quảng-Đông và tiếng Quan Thoại. Ngoài các báo Việt ngữ, LS Tuyên còn viết bài cho một số báo Pháp là Le Monde, l’Express, France – Asie, v.v

Luật sư Trần văn Tuyên qua đời trong trại cải tạo Hòa Bình ngày 26 Tháng 10, 1976, nhưng phía CS đã dáu nhẹm tin ông chết trong trại tù.

Các tác phẩm tiêu biểu của ông: 

  • Hiu quạnh (1944), 
  • Tình mộng (1953), 
  • Hội Nghị Genève ( 1954), 
  • Việt Nam dưới thời thuộc Pháp (1958), 
  • Chính đảng (1968), 
  • Người khách lạ ( 1969), 
  • Con đường Cách Mạng Việt Nam (1969)…

LS Trần-Văn-Tuyên đã dành cả cuộc đời của mình để tranh-đấu cho nền độc-lập của đất nước và quyền tự do và hạnh-phúc của dân-tộc, chống cộng triệt để, chống Mỹ đưa quân vào VN. Cuộc đời ông là bề dày của những cuộc tranh-đấu bền bỉ, mãnh-liệt, nhưng lại ôn hòa dựa trên căn bản dân quyền và nhân quyền, lấy ngòi bút, tiếng nói, diễn đàn quốc-hội và luật-pháp làm công cụ để đấu-tranh. Chỉ tiếc rằng khi chết đi, ước mộng của ông chưa thành. Sự ra đi của LS Tuyên là một mất mát to lớn cho tổ quốc Việt-Nam, một mất mát lớn cho hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ông đã để lại trong lòng mọi người, cả bạn lẫn thù, một niềm tôn-kính sâu sa. Ông đã đi vào lòng đất mẹ do sự chọn lựa của chính mình, đã đi theo Nguyễn-Thái-Học và để lại tấm gương oai hùng muôn đời cho các thế-hệ mai sau. Xin được ghi lại lời nhắn-nhủ của chính LS Trần Văn-Tuyên viết trong Hồi-Ký Hội-Nghị Genève 1954 để thay đoạn kết: “Nhắc lại quãng lịch-sử quá khứ … tôi mong các bạn nhớ bài học lịch-sử để hiểu sự việc ngày nay và chuẩn bị công-việc ngày mai, để sẵn sàng ứng phó với những biến cố lịch-sử “.




“Tiểu muội” Chu Đình

“Tiểu muội” Chu Đình
Ảnh: Nikkei Asian Review      

                                                                   

Máy quay các hãng truyền thông nhấp nháy liên tục khi cảnh sát thuộc lực lượng mới được thành lập còng tay và áp giải cô gái trẻ ra khỏi căn hộ của mình vào đêm thứ Hai 10-8-2020. Chu Đình chỉ vừa 23 tuổi. Cô là một trong những nhà bất đồng chính kiến đầu tiên bị bắt bởi Luật an ninh mới, với cáo buộc “thông đồng với các lực lượng ngoại bang”, nếu bị kết án, cô có thể phải đối mặt với án tù chung thân.

Một bức họa (chưa rõ tác giả) về Chu Đình

LÀM CHÍNH TRỊ KHI 15 TUỔI

Chu Đình thuộc thế hệ các nhà hoạt động dân chủ mới ở Hong Kong. Cô tham gia chính trị từ khi còn là một cô bé ở tuổi vị thành niên. Năm đó cô chỉ vừa 15 tuổi. Tiếng nói đấu tranh của cô ngày càng vang xa và vượt khỏi biên giới Hong Kong, gây khó chịu cho chính quyền Trung Quốc, giờ đây họ muốn dập tắt nó. Vụ bắt giữ Chu Đình đêm thứ Hai là vụ bắt giữ mới nhất trong các chuỗi dài những cuộc đối đầu giữa chính quyền Trung Quốc và những nhà đấu tranh ở Hong Kong.

Tại cuộc biểu tình Dù Vàng 2014 (HKFP)

Chu lớn lên trong một gia đình Công giáo không liên quan đến chính trị. Dẫu thế nhưng khi chỉ vừa 15 tuổi, cô đã quan tâm và dấn thân tham gia phong trào chống lại đề xuất đưa chương trình “giáo dục công dân yêu nước” theo ý muốn Bắc Kinh vào các trường học Hong Kong. Các học sinh ở Hong Kong khi đó sợ rằng kiểu giáo dục Đại lục sẽ bóp chết tinh thần khai phóng ở môi trường học thuật tự do Hong Kong với thâm niên hàng thế kỷ. Chu Đình và những thanh thiếu niên trẻ cùng chí hướng đã tổ chức những cuộc biểu tình khổng lồ để chống lại sự áp đặt giáo dục này và đã thành công. Chính quyền Hong Kong cuối cùng phải xuống thang và từ bỏ kế hoạch đưa chương trình “giáo dục yêu nước” vào giảng dạy. Cũng từ những cuộc biểu tình này, Chu đã gặp những người bạn đồng chí hướng, trong số đó có những gương mặt nổi bật khác như Hoàng Chi Phong (Joshua Wong) và La Quán Thông (Nathan Law).

Hai năm sau, Chu cùng bạn bè mình trở thành những gương mặt nổi tiếng trong “Phong trào Dù vàng”, với 79 ngày tọa kháng để phản đối việc Bắc Kinh từ chối cho phép người Hong Kong phổ thông đầu phiếu. Đây là cuộc biểu tình ôn hòa, nhưng thất bại. Dù vậy, một thế hệ trẻ mới đầy bản lĩnh chính trị ở Hong Kong đã được rèn giũa từ những thành công và thất bại đó. Lớp trẻ mới này là một cái gai đang nhú lên và bắt đầu ngày càng gây khó chịu cho Đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Chu Đình và Hoàng Chi Phong trong cuộc biểu tình tháng 9-2014 (HKFP)

TIẾNG TĂM VANG XA

Năm 2016, Chu Đình, Hoàng Chi Phong, La Quán Thông cùng những bạn bè sinh viên học sinh khác chung tay thành lập Đảng ủng hộ dân chủ với tên gọi Hương Cảng Chúng Chí (Demosistō). Hương Cảng Chúng Chí không giống như các đảng ủng hộ dân chủ trước đây ở Hong Kong, những đảng được thành lập từ sau phong trào Thiên An Môn, Demosistō bao gồm những thành phần trẻ, mười tám đôi mươi hừng hực lửa, sẵn sàng lên tiếng đối đầu trực diện với Bắc Kinh để đạt được mục tiêu tranh đấu của mình.

Tuy nhiên con đường đấu tranh không hề bằng phẳng. Năm 2018, Chu Đình là một nhân vật đầu tiên của Đảng Demosistō bị cấm ứng cử trong các cuộc bầu cử địa phương vì Đảng của cô chủ trương “quyền tự quyết cho Hong Kong”. “Chính phủ bằng mọi cách muốn loại bỏ những đảng đối lập, nhưng dù bị trù dập và đàn áp, chúng tôi vẫn cương quyết bảo vệ nhân quyền và tự do” – Chu nói với đám đông biểu tình sau phán quyết cấm cô ứng cử của chính quyền.

Chu Đình đã rất thành công trong vai trò thu hút sự chú ý của quốc tế đến các phong trào dân chủ ở Hong Kong. Nhiệm vụ này thuận lợi một phần do cô thành thạo tiếng Anh, Quảng Đông và tiếng Nhật. Theo cô cho biết, cô tự học tiếng Nhật bằng cách xem truyền hình và các chương trình trên mạng. Nhờ vốn liếng tiếng Nhật của mình, cô đã thu hút được một lượng lớn người Nhật theo dõi trên mạng xã hội của mình. Tài khoản Twitter của cô với ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Nhật có 458.000 người theo dõi.

Việc Chu bị bắt đêm 10-8 đã làm mạng xã hội Nhật Bản dậy sóng. Những người theo dõi và các tổ chức chính trị Nhật Bản đồng loạt lên tiếng phản đối việc bắt giữ Chu Đình. Vào thứ Ba 11-8, hashtag #freeagnes (thả tự do cho Chu Đình) là thẻ thịnh hành nhất mạng xã hội ở Hong Kong và Nhật Bản, được tweet 185.000 lần. Trang Facebook của Chu, sau khi đăng thông báo việc cô bị bắt vào đêm thứ Hai, đã tăng số lượng người theo dõi lên 192.000 người.

Trong một chiến dịch vận động tranh cử cho Demosistō năm 2018 (European Pressphoto Agency)

ĐƯƠNG ĐẦU LÀ SỰ LỰA CHỌN

Vận động quốc tế giờ đây đã trở thành một nhiệm vụ quá nguy hiểm ở Hong Kong. “Thông đồng với ngoại bang” là một trong bốn tội nghiêm trọng bị Luật an ninh nhắm tới, người vi phạm có thể bị kết án từ 10 năm đến chung thân.

Từ sau ngày bộ Luật an ninh quốc gia mới được ban hành vào ngày 30-6-2020 với những điều luật mơ hồ, việc loại bỏ những người đối lập chính kiến ở Hong Kong ra khỏi sân khấu chính trị dòng chính như Chu giờ đây trở nên một chuyện quá bình thường. Chỉ riêng tháng Bảy, đã có 12 nhân vật chính trị tranh đấu cho dân chủ bị cấm hoạt động vì quan điểm của họ bị cho là “không thể chấp nhận được”. Những vi phạm bị chính phủ dùng để truất quyền tham gia chính trị hợp pháp bao gồm chỉ trích luật an ninh mới hoặc đăng các khẩu hiệu phản đối lên mạng xã hội.

Các nhân vật của Đảng Demosistō đều hiểu rằng họ sẽ là mục tiêu của Luật an ninh một khi nó được ban hành. Họ đã nhanh chóng giải tán đảng vài giờ trước khi Luật chính thức có hiệu lực. La Quán Thông nhanh chóng rời khỏi Hong Kong để tỵ nạn tại Anh ngay tuần đầu tiên. Chu Đình và Hoàng Chi Phong chọn con đường ở lại Hong Kong bất chấp các rủi ro đang chờ đợi. Ngay cả trong trường hợp không liên quan đến Luật an ninh, những cáo buộc vi phạm khi tham gia các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ lớn năm 2019 cũng đủ đẩy họ vào tù. Tuy nhiên, những người tranh đấu chọn con đường ở lại với Hong Kong quan niệm, “Nếu không ai dám hy sinh cho tự do thì sớm muộn tất cả cũng sẽ bị vùi dập dưới gót giày chuyên chế”. 

Theo https://thenewviet.com/“tieu-muoi”-chu-dinh.html




DUY TÂN vị vua yêu nước thương nòi

“Chiều chiều trước bến Vân Lâu,

Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm!

Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông!

Thuyền ai thấp thoáng bên sông,

Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non!”

Tác giả 5 câu hò trên là “Ưng Bình Thúc Giạ Thị”, tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Bình (1877-1961), là một Hoàng Thân nhà Nguyễn, cháu nội của Tuy Lý Vương, đang nhắc đến một giai thoại bi tráng của lịch sử dân tộc.

Năm 1916, Trần Cao Vân và Thái Phiên ngồi giả câu cá để bí mật gặp vua Duy Tân bàn việc khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Chẳng may việc bất thành, nhà vua bị quân Pháp bắt và đày đến đảo Réunion.

Vua Duy Tân là con thứ 8 vua Thành Thái, tên húy Vĩnh San lên ngôi năm mới 7 tuổi, sau khi Pháp truất phế vua cha là Thành Thái.

Có giai thoại rằng, mùa hè năm nào vua Duy Tân cũng ra nghỉ mát ở cửa Tùng, một cửa biển đẹp, yên tĩnh, có bãi tắm bằng phẳng, cát trắng và mịn. Một hôm, nhà vua từ bãi tắm lên, hai tay còn dính cát, một thị vệ liền bưng lại một thau nước ngọt mời vua rửa tay, vua vừa rửa vừa hỏi: “Tay bẩn lấy nước mà rửa, nước bẩn lấy chi mà rửa?”.

Thị vệ lúng túng không trả lời được. Nhà vua bèn trả lời cho người thị vệ: “Nước bẩn thì lấy máu mà rửa! Hiểu không?”.

Theo sử sách, ngày 6/5/1916, vua Duy Tân bị thực dân Pháp bắt tại một ngôi chùa cạnh núi Ngũ Phong, đem về giam ở đồn Mang Cá, rồi sau đó đày ra đảo Reunion (châu Phi) cùng với cua cha ThànhThái

Khi bị giam ở Mang Cá, dù rất muốn duy trì thú vui đọc sách, tập thể dục, đánh đàn và nghe hòa nhạc… như thời trong cung, vua Duy Tân vẫn quyết không hạ mình, đòi Pháp một sự chiếu cố nào. Đến ngày nhà vua sắp bị dẫn lên tàu để vào Nam, bắt đầu cuộc hành trình đi đày, một viên đại diện của Khâm sứ đến thăm và hỏi: “Nhà vua có một quỹ tiền riêng lưu trữ tại kho nội vụ. Ngài có cần lấy một ít để đi đường không?”.

Vua Duy Tân đáp: “Tiền đó để cấp cho ông vua cai trị nước Nam, chứ không phải là của tôi – một người tù. Hơn nữa, chính phủ bảo hộ không chu cấp nổi cho một người tù hay sao, mà còn phải lấy tiền mang theo. Tôi không cần có tiền riêng”.

Viên đại diện toà Khâm sứ thấy vua thèm đọc sách, bèn hỏi: “Ngài có một tủ sách quý giá đến mấy ngàn cuốn bằng Pháp văn. Ngài có muốn lấy một bộ nào đem theo đọc cho khuây khỏa không?”. Vua Duy Tân gật đầu nhận ngay và dặn thêm: “Sách tôi rất thích. Nhờ ông lấy giúp bộ Histoires de la Révolution Française (Lịch sử cách mạng Pháp) của Michelet, nhưng phải lấy cho trọn bộ.

Vị đại diện toà Khâm sứ nghe thế sợ quá, không dám về báo cáo lại với phía Pháp.

Ngày 26-12-1945 vua Duy Tân mất trong một tai nạn máy bay ở xứ Bangui thuộc châu Phi.

Đến năm 1987, hài cốt của nhà vua được đưa về Việt Nam, cải táng bên cạnh vua cha Thành Thái.

./.

(ThaiNC sưu tập, tóm lược, và đúc kết)




Thời Phong Kiến thịnh trị, có phải con quan thì được làm quan?

Thời Phong Kiến thịnh trị, có phải con quan thì được làm quan?

(Cao Văn Thức)

Helios Thư Quán

 ·

Từ xưa đến nay, người đời thường nói “con quan thì lại được làm quan”. Nhưng ở các thời kỳ chế độ phong kiến thịnh trị thì có phải hầu hết con quan thì đều được làm quan hay không? Và muốn làm quan thì phải có những tiêu chuẩn nào? Chúng ta có thể tìm hiểu điều đó ở một nhà nước phong kiến gần với hiện nay nhất là triều Nguyễn thế kỷ XIX.

Nhà Nguyễn buổi đầu, sau khi tiêu diệt vương triều Tây Sơn, thì sử dụng quan chức là những người đã có công lao phò tá chúa Nguyễn trong chiến tranh hoặc một số cựu thần nhà Lê nhằm mua chuộc giới sĩ phu Bắc Hà.

Nhưng sau khi đã củng cố chính quyền vững vàng, ổn định được trật tự xã hội, thì vua Gia Long (1802-1819) đã cho mở khoa thi nho học để kén chọn nhân sự cho bộ máy nhà nước. Thời Gia Long mở được 3 khoa thi, cách nhau 6 năm (1807, 1813, 1819) và chỉ là thi Hương ở cấp địa phương để chọn hương cống và sinh đồ chứ chưa tổ chức được thi Hội ở cấp trung ương để chọn tiến sĩ.

Thời Minh Mạng (1820 – 1840) cho quy định lại 3 năm thi một lần và bắt đầu từ năm 1822 tổ chức thi Hội ở kinh đô để chọn tiến sĩ. Năm 1828, nhà vua cho đổi cách gọi học vị ở cấp thi Hương: hương cống là cử nhân và sinh đồ là tú tài. Thi Hương có tất cả có 4 kỳ tức 4 đợt hoặc 4 vòng loại), người nào đỗ 3 kỳ là tú tài, đỗ 4 kỳ là cử nhân.

Ai đỗ cử nhân thì được quyền thi Hội. Thi Hội cũng có 4 kỳ như thi Hương nhưng mức độ khó hơn rất nhiều; ai đỗ cả 4 kỳ thì được vào thi Đình để sắp xếp thứ bậc tiến sĩ(1). Từ năm 1829, nhà vua cũng cho lấy thêm những người có điểm thi gần sát điểm chuẩn tiến sĩ đệ tam giáp, ghi tên ở bảng riêng gọi là Phó bảng(2).

Những người thi đỗ cử nhân, phó bảng, tiến sĩ đều được triều đình bổ nhiệm ra làm quan. Tú tài muốn ra làm quan thì phải ôn luyện chờ ba năm sau thi lại để giật cho được cái cử nhân, có người thi nhiều lần cũng chỉ đậu lại tú tài. Có thể nói từ năm 1807 trở đi, nhà Nguyễn bắt đầu dùng khoa cử để tuyển chọn quan chức. Từ đó về sau, hầu hết quan chức đều xuất thân khoa bảng. Quan chức ngày đó đều có trình độ học vấn thực sự vì các khoa thi Hương, Hội được tổ chức nghiêm túc, khắt khe và tỉ lệ thí sinh thi đỗ rất ít ỏi. Thi Hương hàng trăm thí sinh thì mới có một người đỗ cử nhân, thi Hội hàng chục cử nhân mới có một người đỗ tiến sĩ. Ngày đó muốn đỗ đạt để ra làm quan đòi hỏi phải là những người thông minh, học giỏi và bền chí, kiên trì học tập trong suốt nhiều năm trời.

Thời phong kiến, người đỗ đạt khoa bảng rất được tôn vinh. Triều đình tôn vinh các nhà khoa bảng vì mục đích thu hút những người ưu tú vào guồng máy nhà nước, để họ đem tài năng phục vụ cho chế độ phong kiến. Xã hội tôn vinh người đỗ đạt vì họ là những người học giỏi làm rạng danh cho quê hương, xóm làng, là những ông Nghè (tiến sĩ), ông Cống (cử nhân) có địa vị cao quý trong xã hội. Người đỗ đạt nhưng chưa ra làm quan cũng đã có vai vế trong địa phương, được làng, tổng nể trọng. Người ra làm quan thì càng được trọng vọng, có địa vị cao quý trong xã hội. Làm quan từ tri huyện trở lên thì được ở trong dinh thự khang trang, đi ra ngoài thì được cưỡi ngựa hoặc ngồi võng điều, che lọng ngà giá trị như ngày nay đi xe hơi loại đắt tiền, có lính tráng theo hầu hạ… Và quan chức ngày xưa thì rất sang trọng, lịch lãm. Sự sang trọng ấy không phải vì cái vỏ bề ngoài (áo quần, võng lọng, ngựa xe…) mà ở nền tảng văn hoá bên trong con người họ. Nền tảng văn hoá được đào luyện từ tấm bé trong các gia đình nho giáo. Nên cái sang trọng của họ toát lên từ văn hoá, chứ không phải là những vật chất trang trí diêm dúa, loè loẹt, khoe mẽ bề ngoài của những kẻ trọc phú học làm sang.

Ngày trước, con quan mà muốn làm quan thì phải chịu khó học hành nghiêm túc, thi cử đỗ đạt. Con quan mà thi không đỗ thì cũng chỉ suốt đời làm thường dân mà thôi. Đơn cử một trong rất nhiều trường hợp tiêu biểu thời bấy giờ là gia đình Hoàng giáp Phạm Văn Nghị ở làng Tam Đăng, tổng An Trung, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Tam Quang, xã Yên Thắng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Phạm Văn Nghị nổi tiếng học giỏi, thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) năm 1838, làm quan đến Đốc học(3) rồi cáo quan về mở trường dạy học; ông có 5 người con trai thì một người đỗ Phó bảng, ba người đỗ cử nhân đều ra làm quan, còn một người không đỗ đạt thì ở nhà làm dân thường.

Thời Nguyễn luật lệ thi cử rất nghiêm khắc nên dù cho cha ông có làm quan chức cao cấp vẫn không thể can thiệp vào chuyện thi cử của con cháu. Luật “hồi tỵ” của triều đình đã quy định rõ là quan chức nào có con em dự thi thì không được ở trong hội đồng chấm thi nơi đó.

Và ở chốn trường thi thì rất sòng phẳng, con em người dân lao động nghèo khó hay con cháu quan chức cao cấp giàu sang thì cũng bình đẳng như nhau. Bài thi của thí sinh được rọc phách và qua hai vòng chấm sơ khảo, phúc khảo, rồi chánh chủ khảo, phó chủ khảo xem lại lần cuối trước khi quyết định công bố danh sách trúng tuyển. Sau đó bài thi và danh sách trúng tuyển phải đệ về kinh đô cho bộ Lễ xét duyệt lại. Vì vậy, trong hội đồng thi từ người cao nhất là ông chánh chủ khảo (chủ tịch hội đồng) cho đến thấp nhất là các ông chấm sơ khảo (vòng 1), người nào cũng phải làm việc nghiêm túc, cẩn thận và không dám “chấm mút” gì cả, vì sơ sẩy một chút là có thể bị tội: nhẹ thì bị giáng chức, cách chức, nặng có thể tù mọt gông hoặc tử hình. Đơn cử trường hợp chấm thi của nhà thơ Cao Bá Quát năm 1841 để thấy kỷ luật thi cử thời nhà Nguyễn khắc khe như thế nào. Năm đó Cao Bá Quát đang làm một chức quan nhỏ (Hành tẩu) ở bộ Lễ, được sung vào hội đồng giám khảo trường thi Hương Thừa Thiên. Trong khi chấm bài ở vòng 1, ông thấy có một số bài thi rất hay nhưng lại mắc đôi chút sai sót nhỏ phải bị đánh hỏng thật đáng tiếc; vì lòng liên tài nên ông đã bàn bạc với một vị sơ khảo khác là Phan Nhạ (bạn đỗ cử nhân đồng khoa với ông trước kia), dùng muội đèn chữa lại sai sót cho các quyển thi này. Nhưng rồi vụ việc phát giác, Cao Bá Quát bị bắt giam trong nhà ngục hơn một năm trời; ông bị thẩm vấn và tra tấn đòn roi rất tàn nhẫn. Cuối cùng ông cũng được tha vì dù vi phạm luật lệ nhưng là do tấm lòng quý trọng nhân tài chứ không có điều gì khuất tất, mờ ám trong việc chấm thi. Các quan khác trong hội đồng chấm thi ở trường Thừa Thiên năm đó cũng bị liên đới, nhiều người bị cách chức, giáng chức, đòn roi…

Con quan chức hay con dân thường mà đỗ đạt (cử nhân, phó bảng, tiến sĩ) thì đều được triều đình bổ dụng làm quan. Thăng tiến trên bước đường hoạn lộ chủ yếu là do tài năng của người đó, chứ không có chuyện cha ông quyền cao chức trọng “lót đường” cho con cháu ngồi vào những chức vụ béo bở như ở một số giai đoạn suy vi trong lịch sử.

Nhưng trong việc sử dụng nhân lực, nhà Nguyễn cũng có đôi chút “ưu ái” – được quy định rõ ràng bằng luật lệ – cho con cái các quan chức cao cấp, có công lao với triều đình. Quan chức cao cấp hàm nhất, nhị phẩm (Tổng đốc, Thượng thư…) thì con cái dù không đỗ đạt hoặc chỉ đỗ tú tài cũng được “tập ấm”(4) và ra làm quan. Tất nhiên là những người được “tập ấm” phải có học vấn, chữ nghĩa chứ loại dốt nát “đặc cán mai” thì không được chọn. Đơn cử một trong nhiều trường hợp tiểu biểu là quan Thượng thư (Bộ trưởng) bộ Công(5) là Đào Tấn, quê ở thôn Vinh Thạnh, tổng Thời Tú, huyện Tuy Phước, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định (nay thuộc thôn Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định); ông có nhiều con trai, trong đó có 3 người đỗ cử nhân và một người đỗ tú tài. Ngoài 3 người đỗ cử nhân được bổ làm quan, thì người đỗ tú tài cũng được “tập ấm” làm quan; mấy người con trai còn lại thì sức học yếu kém nên chỉ ở nhà làm thường dân mà thôi.

Tuy vậy, nhìn chung đa số những người được “tập ấm” mà ra làm quan thì đều lẹt đẹt ở chức vụ cấp thấp (phủ, huyện) rồi về hưu. Mà cũng phải thôi, triều đình cần những người thông minh, tài giỏi để cáng đáng việc nước, giữ những trọng trách của quốc gia, mà những người làm quan bằng con đường “tập ấm” chắc chắn là khả năng tầm thường vì sinh trưởng trong gia đình quan chức cao cấp, điều kiện học tập thuận lợi, thế mà họ không đỗ đạt hoặc chỉ đỗ làng nhàng (sinh đồ, tú tài) mà thôi.

Trong lịch sử, nhìn chung tỉ lệ con cháu quan chức đỗ đạt làm quan nhiều hơn con em người dân lao động. Như trên đã nói, thi cử thời Nguyễn rất sòng phẳng và công bằng nên không có chuyện “con ông cháu cha” tiêu cực như những thời loạn về sau. Cho nên con quan làm quan nhiều hơn con dân là điều hợp lý, vì xét ra con quan được cộng hưởng nhiều yếu tố thuận lợi hơn con em người dân lao động nghèo:

Thứ nhất, là “gien” thông minh di truyền của cha ông, dòng họ. Thời đó, muốn đỗ đạt làm quan thì phải thông minh, học giỏi.

Ngày trước, các cụ rất ý thức vấn đề “gien”di truyền, vì vậy trong chuyện hôn nhân con cái có quan niệm là phải “lấy vợ chọn tông, lấy chồng chọn giống”.

Những gia đình đỗ đạt khoa bảng thường thông gia với những gia đình tương đương như vậy. Đơn cử một trong rất nhiều trường hợp phổ biến thời bấy giờ: Gia đình Phó bảng Nghiêm Châu Tuệ ở tỉnh Hà Đông trước đây (nay thuộc Hà Nội) thông gia với hầu khắp các gia đình khoa bảng danh giá xứ Bắc Kỳ thời bấy giờ như Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền (Ứng Hoà, Hà Đông), Đình nguyên Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuân (Hiệp Hoà, Bắc Giang), Phó bảng Nguyễn Tái Tích (Bất Bạt, Sơn Tây)… Con cháu sinh ra sẽ ảnh hưởng tư chất thông minh của cha ông hai bên nội, ngoại, cộng với những yếu tố khác sẽ học giỏi, đỗ đạt và nối được nghiệp nhà (làm quan), đem lại danh giá cho gia đình, dòng họ…

Ngày đó, những gia đình có truyền thống đỗ đạt khoa bảng được gọi là một cách tôn kính là đại gia, tức gia đình lớn theo nghĩa chữ Hán, chứ không phải chỉ những người giàu có như hiện nay. Ngày đó, những người giàu có mà không có học vấn, ít chữ nghĩa  thì người ta thường gọi là phú hào, hoặc xem nhẹ hơn là trọc phú. Gia đình khoa bảng thì không đời nào họ làm thông gia với gia đình trọc phú vì họ cho đó là hạng người thiếu văn hoá, xảo trá, tâm thuật không tốt. Ngược lại, gia đình khoa bảng, quan chức nhiều đời giàu sang vinh hiển nhưng sẵn sàng thông gia với một gia đình lao động nghèo nếu nhận thấy gia đình ấy nề nếp, đạo đức và có con trai học giỏi. Ví dụ Thượng thư bộ Học(6) là Cao Xuân Dục (quê ở Thịnh Mỹ, Diễn Châu, Nghệ An) đã gả con gái cho một anh học trò nhà rất nghèo nhưng học giỏi là Đặng Văn Thuỵ. Về sau nhờ sự hỗ trợ cả vật chất và tinh thần của gia đình vợ, Đặng Văn Thuỵ đã thi đậu Hoàng giáp Đình nguyên khoa thi Hội năm Giáp Thìn (1904) và làm quan đến Tế Tửu trường Quốc Tử Giám (tương đương Giám đốc Đại học quốc gia ngày nay).

Thứ hai, nhà quan thì đầy đủ sách vở tích luỹ từ nhiều thế hệ trước. Ngày xưa, điều kiện in ấn rất hạn chế nên sách vở in ra ít và khó mua. Vì vậy những nhà nho thường có ý thức sưu tầm và tích luỹ sách vở làm tài liệu học tập cho con cháu. Khoảng ba, bốn đời tích luỹ thì từ tủ sách nhỏ đã trở thành một thư viện gia đình với hàng nghìn cuốn sách. Ngày đó, hầu hết các gia đình khoa bảng đều có một thư viện riêng của gia đình. Ví dụ như quan Thượng thư bộ Học Cao Xuân Dục có 8 người con trai nên mỗi khi mua hoặc mượn được một cuốn sách có giá trị, cụ cho sao chép lại thành 8 bản để phát cho mỗi người con học tập. Thư viện Long Cương của gia đình cụ Thượng Cao thuộc loại lớn nhất xứ Nghệ, hoặc thư viện Hy Long của quan Tuần phủ hưu trí là Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng ở làng Hành Thiện, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định cũng là một thư viện tư nhân tầm cỡ bậc nhất xứ Bắc Kỳ thời bấy giờ với số lượng sách hàng vạn quyển “chứa đầy sáu gian nhà ngói”….

Ngoài việc sách vở đầy đủ thì các gia đình khoa bảng ngày trước đều có truyền thống học tập. Ông dạy cháu, cha dạy con, anh dạy em…và trẻ em được học tập từ rất sớm, khoảng 6, 7 tuổi đã bắt đầu học vỡ lòng. Nhiều nhà khoa bảng giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước, nhưng vẫn tranh thủ thời gian rảnh rỗi để rèn cặp con cháu; nếu quá bận việc quan thì họ mướn thầy đồ về nuôi trong nhà để dạy trẻ em học. Lớn lên đến tuổi thanh thiếu niên thì học trò con nhà quan có thể học tại nhà với cha ông hoặc được gửi đến học ở trường của các bậc đại khoa trong vùng hoặc địa phương khác, dùi mài kinh sử cho đến khi đỗ đạt.

Thứ ba, nhà quan có điều kiện kinh tế đầy đủ hơn nhà dân lao động nghèo. Những nhà khoa bảng làm quan chức vụ càng to thì lương bổng triều đình chu cấp càng khá, nếu vì những lý do khác nhau họ từ quan sớm về mở trường dạy học thì với uy tín và danh vọng, trường của các vị cũng thu hút được môn sinh theo học rất đông; vì vậy nhà quan có điều kiện kinh tế nuôi con ăn học thuận lợi hơn người dân lao động nghèo quanh năm đầu tắt mặt tối, cày thuê cuốc mướn vẫn không đủ ăn.

Thứ tư, đa số quan chức đều ý thức để Đức cho con cháu. Ngày ấy các nhà khoa bảng đại đa số khi ra làm quan đều thanh liêm, vì họ được rèn luyện đạo đức từ chốn “cửa Khổng, sân Trình” và do được giáo dục nền tảng như vậy nên họ rất sợ luật nhân quả, vì vậy họ không nhũng lạm hoặc làm những việc thất đức để di hại cho con cháu. Họ thường làm những việc tốt để đức về sau cho con cháu phát triển bền vững. Ví dụ một số trong hàng trăm trường hợp quan chức thanh liêm thời bấy giờ, ví dụ như Nguyễn Công Trứ làm quan đến Tổng đốc Hải An nhưng khi về hưu vẫn sống thanh bạch với một ít tiền hưu trí và dăm sào đất ruộng do triều đình ban cấp; Nguyễn Khuyến khi về nghỉ hưu mà gia sản vẫn chỉ là “ba gian nhà cỏ thấp le te”(7);

Hoàng Diệu làm quan đến Tổng đốc Hà Nội nhưng tiền lương dành dụm mãi cả hàng năm trời vẫn chưa đủ để lợp lại mái ngói ngôi nhà ở quê đã dột nát…

Hầu hết các gia đình quan chức này đều phúc bền, con cháu đều thành đạt ở những mức độ khác nhau và duy trì được sự phát triển bền vững về sau. Đơn cử hai trường hợp tiêu biểu nhất  trong hàng trăm trường hợp tiêu biểu của sự phát triển bền vững ở các nho gia đạo đức là gia đình Tổng đốc Hoàng Diệu ở làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam và Thượng thư Cao Xuân Dục ở làng Thịnh Mỹ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Gia đình cụ Hoàng Diệu gồm 7 anh em thì có 6 người đỗ đạt (1 Phó bảng, 3 cử nhân và 2 tú tài). Anh em cụ đều làm quan thanh liêm, con cháu về sau cũng thành đạt; trong đó người em trai của cụ Hoàng Diệu là cử nhân Hoàng Văn Bảng có những người cháu nội sau này là những nhà khoa học nổi tiếng như Hoàng Phê (ngôn ngữ học), Hoàng Quý (vật lý), Hoàng Kiệt (mỹ thuật), Hoàng Tụy và Hoàng Chúng (toán học)…trong đó Hoàng Tuỵ là nhà toán học đẳng cấp quốc tế.

Cụ Cao Xuân Dục làm quan đến Thượng thư, rất nhân hậu, giúp đỡ nhiều người khó khăn; cụ có 8 người con thì người con trưởng đỗ Phó bảng, một số người con thứ đỗ cử nhân, tú tài và ra làm quan. Người con trưởng là Cao Xuân Tiếu làm quan đến Thượng thư bộ Lễ(8), hàm nhất phẩm như cha. Khi cụ Cao Xuân Dục qua đời, người con gái là nữ sĩ Cao Ngọc Anh viết bài văn tế về người cha mình, có câu:

“Này ninh, này phú, này quý, này khang

Sống có hậu trời cho đủ phúc”…

Trong hàng cháu của cụ Thượng Cao nổi tiếng nhất là Giáo sư Cao Xuân Huy, nhà Đông phương học và trong hàng chắt nổi tiếng nhất là Giáo sư Cao Xuân Hạo, nhà ngôn ngữ học; ngoài ra còn hàng mấy chục cháu, chắt, chít đỗ kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ… trong và ngoài nước.

Thời kỳ chế độ phong kiến thịnh trị, giáo dục thi cử nghiêm minh, đào tạo ra được những quan chức có tài năng và nhân cách, đóng góp nhiều công lao cho đất nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá…mà tên tuổi còn lưu danh cho đến ngày nay. Con quan mà muốn làm quan, giữ những trọng trách của đất nước thì phải thông minh, học giỏi, thi cử đỗ đạt và yếu tố quan trọng nhất là phải có tài năng thực sự. Con cháu nhà quan ngày đó đi lên bằng đôi chân thật sự của mình chứ hoàn toàn không có sự “lót đường”, nâng đỡ tiêu cực từ thế lực cha ông. Mà có muốn nâng đỡ cũng không được vì cơ chế kiểm soát rất ngặt nghèo: luật pháp nghiêm khắc, cơ quan giám sát như Ngự sử đài thẳng thừng đàn hặc tội lỗi các quan từ trung ương đến địa phương, các quan chức đối trọng nhau trong triều sẵn sàng tố cáo đối thủ, và trên hết là nhà vua cần người tài giỏi để giúp vua trị nước nên trừng trị rất nặng những vụ việc bổ nhiệm bất chính…Vì vậy, nhà quan chỉ có cách duy nhất nâng đỡ con cháu thành đạt là cố gắng lo đầy đủ cơm áo, sách vở, thầy giáo…để đám trẻ có điều kiện học hành đến nơi đến chốn.

Ở những giai đoạn suy vi trong lịch sử, con cháu quan chức thăng tiến bằng sự “lót đường”, dựa dẫm vào thế lực cha ông thì chỉ là những bọn quan lại dốt nát, ăn tàn phá hại đất nước mà thôi.

——-

Chú thích:

1.    Học vị tiến sĩ triều Nguyễn cũng tương tự triều Lê ở thế kỷ XV-XVIII:

·       – 1. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (tiến sĩ hạng nhất) gồm: Đệ nhất danh (Trạng nguyên), Đệ nhị danh (Bảng nhãn), Đệ tam danh (Thám hoa). Thực tế triều đình không lấy đỗ tới Trạng nguyên, chỉ từ Bảng nhãn trở xuống. Thời Nguyễn chỉ có 2 người đỗ Bảng nhãn và 9 người đỗ Thám hoa.

·       – 2. Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (tiến sĩ hạng hai) còn gọi là Hoàng giáp: số lượng đỗ không hạn chế, khoa đỗ cao nhất là 4 người, khoa thấp nhất là 1 người; có khoa thi triều đình không lấy đỗ đến Hoàng giáp.

·       – 3. Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (tiến sĩ hạng ba) thường gọi tắt là tiến sĩ: số lượng đỗ không hạn chế, khoa đỗ cao nhất là 10 người, khoa thấp nhất là 2 người; khoa thi nào cũng có người đỗ ở bậc này.

Tất cả tiến sĩ 3 hạng trên đều được yết tên trên bảng chính (Giáp bảng) màu vàng, có vẽ hình rồng nên thường gọi là long bảng (bảng rồng) hoặc hoàng bảng (bảng vàng).

2.    Tiến sĩ lấy thêm, tên yết riêng ở bảng phụ (Phó bảng) màu đỏ.

3.    Đốc học là chức quan phụ trách giáo dục của một tỉnh, tương tự giám đốc Sở GD-ĐT hiện nay.

4.    Triều Nguyễn có lệ tập ấm: con quan hàm chánh nhất, nhị phẩm thì được phong phẩm hàm ở bậc tòng lục phẩm gọi là ấm thọ và được bổ nhiệm làm quan; còn các quan phẩm hàm ở bậc thấp hơn thì còn cái chỉ được tập ấm gọi là ấm sinh. Ấm sinh muốn làm quan thì

phải thi đỗ cử nhân trở lên.

5.    Bộ Công: phụ trách về xây dựng, giao thông; tương tự Bộ Xây Dựng và Bộ Giao thông vận tải hiện nay.

6.    Bộ Học: phụ trách về giáo dục; tương tự Bộ GD-ĐT hiện nay. Thời trước ngành giáo dục do bộ Lễ kiêm nhiệm, đến năm 1906, tách riêng giáo dục ra thành Bộ Học.

7.    Trích trong bài “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến (Nguyễn Văn Huyền chủ biên, Nguyễn Khuyến – Tác phẩm, NXB KHXH, 1984).

8.    Thời phong kiến độc lập, bộ Lễ phụ trách 3 khối: ngoại giao, văn hoá, giáo dục. Thời thuộc Pháp, bộ Lễ chỉ còn phụ trách về văn hoá; tương tự Bộ Văn hoá-Thể thao-Du lịch hiện nay.

Tài liệu tham khảo:

1.    Nguyễn Ngọc Quỳnh, Hệ thống giáo dục và khoa cử Nho giáo triều Nguyễn, NXB Chính trị Quốc gia, 2011.

2.    Nguyễn Thế Anh, Theo dòng lịch sử, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2017.

3.    Cao Xuân Huy, Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, NXB Văn Học, 1995.

4.    Nguyễn Q. Thắng, Khoa cử và giáo dục Việt Nam, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2005.

5.    Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, NXB KHXH, 2016.

6.    Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Văn Học, 2015.

7.    Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục, NXB Lao Động, 2011.

8.    Cao Xuân Dục, Quốc triều khoa bảng lục, NXB Văn Học, 2011.

9.    Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB Hồng Đức, 2012.

10. Lê Văn Giang, Lịch sử giản lược – Hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, 2003.

11. Trần Thanh Tâm, Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn, NXB, Thuận Hóa, 1996.

12. Phạm Hồng Thái, “Tuyển dụng, sử dụng quan lại thời phong kiến Việt Nam và một số gợi mở”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, 04-01-2018.




CÁI CHẾT BI THẢM CỦA MỘT NHÀ GIÁO LỖI LẠC MIỀN NAM

CÁI CHẾT BI THẢM CỦA MỘT NHÀ GIÁO LỖI LẠC MIỀN NAM

Giáo Sư NGUYỄN DUY XUÂN, sinh năm 1925 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ. Ông sang Pháp du học tốt nghiệp cử nhân kinh tế; sau đó theo học chương trình sau đại học ở Anh, lấy bằng Thạc sĩ về kinh tế học; tiếp đến sang Mỹ theo học ở đại học Vanderbilt, và lấy học vị Tiến sĩ kinh tế học rồi trở về miền Nam VN năm 1963.

Về nước, GS Xuân giảng dạy tại nhiều trường đại học. Đầu năm 1970, ông được mời về làm Viện trưởng Viện Đại học Cần Thơ. Trong thời gian đảm nhận vị trí Viện trưởng, Giáo sư đã nỗ lực phát triển mọi lãnh vực, đặc biệt đối với hai ngành là Sư phạm và Nông nghiệp.

Giáo sư Nguyễn Duy Xuân là người TIÊN PHONG trong việc thiết lập hệ thống đào tạo tín chỉ theo mô hình các đại học bên Hoa Kỳ. Mà ai cũng biết, hệ thống đại học Hoa Kỳ cho đến nay vẫn là hệ thống đứng hàng đầu thế giới. Ở Việt Nam, sau biến cố 30/4/1975, việc đào tạo đại học hệt như… “trường cấp 4” (cấp 1: tiểu học, cấp 2 & 3: trung học). Mãi tới sau này nền giáo dục đại học của CHXHCN VN mới rục rịch chuyển đổi đào tạo theo hệ thống tín chỉ – trong khi GS Nguyễn Duy Xuân đã canh tân việc này gần nửa thế kỷ trước đây!

Những ngày sau cùng của chính thể VNCH, GS Nguyễn Duy Xuân đảm nhiệm vai trò Tổng Trưởng Văn hóa – Giáo dục – Thanh niên trong nội các Dương Văn Minh .

Sau biến cố tháng 4/1975, trong khi ông Dương Văn Minh vẫn điềm nhiên sống tại dinh thự riêng (dinh Hoa Lan) sau đó bay sang định cư tại Pháp thì Giáo sư Xuân bắt đầu cuộc đoạn trường khốn khổ, bi thảm. Ông bị đưa đi cải tạo tại Thủ Đức, rồi đẩy tuốt ra ngoài trại cải tạo Ba Sao thuộc tỉnh Hà Nam Ninh (nay thuộc tỉnh Hà Nam).

Ròng rã suốt 11 năm, nhà giáo & nhà trí thức lỗi lạc Nguyễn Duy Xuân đã phải chôn chân trong trại Ba Sao, để rồi chết rũ tại đây vào năm 1986 lúc Giáo sư 61 tuổi.

Trại Ba Sao nức tiếng với việc có tới 626 trại viên tử vong chỉ trong vòng 13 năm (1975-1988).

Thi hài của GS Xuân chôn nơi một quả đồi thuộc Ba Sao.

—————————————————————————

* Hình ảnh: Tiểu sành chứa tro cốt của GS Xuân, vào tháng 4/2015 tức mãi gần 30 năm sau khi ông qua đời, được bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga (con của GS Xuân) đưa từ nghĩa địa trại  Ba Sao bằng đường tàu lửa vào Sài Gòn.

Tro cốt của GS Xuân được gửi ở chùa Thiên Hưng (đường Vạn Kiếp, quận Bình Thạnh) thể theo di nguyện của GS Xuân được ở lại quê hương (thay vì đưa qua Pháp mà con cháu của GS đang định cư).

(Nguồn fb Võ Khánh Tuyên)




Cây đàn tranh kỷ niệm

Cây đàn tranh kỷ niệm

(Ghi theo lời kể)

Như mọi người đã biết kỹ thuật đóng đàn Tranh khó ai qua được tay nghề bác Vĩnh Bảo, ông vừa là một nhạc sư vừa là một nghệ nhân số 1 về đàn Tranh của Việtnam.

Tìm hiểu trên Wikipedia thì được biết:

“ nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo (sinh năm 1918) là nhà nghiên cứu âm nhạc, giáo sư giảng dạy âm nhạc truyền thống. nhạc sĩ trình tấu và nghệ nhân đóng đàn… Và đặc biệt Ông rất yêu thích đờn ca tài tử.

Chính Ông là người đã có nhiều đóng góp và cải tiến đàn tranh từ 16 dây thành đàn tranh 17, 19 và 21 dây với kích thước và âm vực rộng hơn.

Từ năm 1955 cho đến năm 1964, ông dạy môn đàn tranh và cũng là trưởng ban nhạc cổ miền Nam tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ ở Sài Gòn. Ngoài ra ông cũng đã đi diễn thuyết giới thiệu và trình tấu âm nhạc dân tộc Việt Nam ở nhiều nơi trên thế giới…”

Dịp may đến khi bạn mình quen biết nghệ sĩ Đặng Lan (đàn Độc Huyền) trong các buổi sinh hoạt âm nhạc tài tử tại San Jose, Calif do giáo sư Ngọc Dung (đàn Tranh) và Cô cũng chính là người thành lập đoàn Tiếng Vọng Quê Huơng (nhằm gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc của nền âm nhạc truyền thống Việtnam tại nước ngoài)

Cần nói thêm, mình được biết khi còn ở Việtnam nghệ sĩ Đặng Lan cùng với NS Văn Hai và các nghệ sĩ cổ nhạc khác trong các dịp rảnh rỗi (không đi diễn) thường ghé nhà bác Vĩnh Bảo để sinh hoạt và trao đổi thân tình về đờn ca tài tử (ít nhất bác cũng dành 1 ngày trong tháng thường thì nhiều hơn tại nhà để họp mặt ) nên từ lâu các anh đã trở thành người nhà của gia đình bác Vĩnh Bảo.

Nghĩ tới các nhạc cụ cổ truyền Việt nam thông dụng. Mình nghĩ ngay tới đàn Tranh và ngỏ lời với anh Đặng Lan muốn có một cây đàn Tranh 25 dây do chính bác Vĩnh Bảo đóng, (thật là quá sức tưởng tượng vì dân nghệ sĩ professional đi biểu diễn cũng chỉ sử dụng cây đàn Tranh 22 dây là quá dư rồi). Thế là anh Đặng Lan và anh Văn Hai đã tận tình giúp và thay mặt mình thưa chuyện chuyện cùng bác Vĩnh Bảo.

Những tình cảm mà bác dành cho các nghệ sĩ chân chính thì thật lớn, riêng các anh Văn Hai, Đặng Lan thì đặc biệt hơn hẳn nên Bác đã nhận lời đóng cây đàn Tranh 25 dây đầu tiên và độc nhất này, (vì từ xưa tới nay bác và gia đình chưa từng đóng cho bất cứ một ai cây đàn Tranh nào lớn và có nhiều dây như thế). Đây có lẽ là cây đàn duy nhất mà bác nhận lời đóng vì khi ấy bác Vĩnh Bảo đã tròn 100 tuổi rồi (2017).

Năm 2018 mình có về Việt nam và được nghe anh Văn Hai thuật lại: hàng tuần hoặc khi rảnh rỗi anh thường ghé thăm bác Vĩnh Bảo vì bác đã lớn tuổi và cũng vì cây đàn đặc biệt này. Anh Văn Hai cũng cho biết thêm Nhạc sư Vĩnh Bảo đã dành rất nhiều thời gian tâm huyết cũng như đã dồn tất cả tình yêu và cả tình tự dân tộc trong tâm hồn cho sự thai nghén đứa con tinh thần này. Chính Bác đã phải đích thân phát thảo từng chi tiết một và cùng gia đình tỉ mỉ đo ni làm khuôn cho cây đàn “Đại” này, vì trước đây xuởng đóng đàn không hề có khuôn lớn.

Kiểu dáng đàn cũng là một vấn đề cần phải nghiên cứu (nếu giữ nguyên dáng kiểu đàn Tranh truyền thống thì nhạc sĩ sẽ không thể chạy ngón lả lướt thật nhanh được trong lúc trình tấu vì phần thân sẽ vồng lên rất to và nhìn đàn sẽ thô kệch, mà đóng kiểu Koto “một loại đàn Tranh của Nhật” thì sẽ mất đi sự riêng biệt và nét dịu dàng duyên dáng cùng sự độc đáo của cây đàn Tranh Việtnam) Bác đã phải tính toán và mất rất nhiều công sức nhằm chọn lựa nhiều giải pháp khác nhau để có được sự hoàn hảo tối ưu như hiện nay.

Vì cây đàn cho xứ lạnh nên bác đã chọn gỗ mặt đàn là loại gỗ cây Kiri của Nhật Bản để có được âm thanh thật hay, chuẩn xác. (Kiri là loại gỗ nhẹ, mềm nhưng đặc, và là loại gỗ có độ đàn hồi xoắn cao, không bị rạn nứt, biến dạng và chịu được sự thay đổi của khí hậu, thời tiết của xứ lạnh… ) Vì những lý do trên nên bác không dùng gỗ Ngô Đồng truyền thống được, nó chỉ thích hợp với khí hậu của Việtnam. (Gỗ Ngô Đồng rất phổ biến cho đàn Tranh, vì âm thanh chuẩn và tốt ở Việtnam từ bao đời nay thì mặt đàn phải được đóng bằng gỗ Ngô Đồng)

-Nếu mặt đàn may mắn chọn được đoạn giữa của thân cây và thân gỗ khi phát triển mà quay về hướng mặt trời là tốt nhất, đoạn này ít bị thay đổi (rạn nứt, giãn nở theo thời tiết và thời gian của xứ nhiệt đới) cây đàn sẽ cho âm thanh chắc và vang.

-Nếu mặt đàn chọn gỗ ở phần trên gần ngọn thì âm thanh sẽ mỏng, lép, ít vang.

-còn mặt đàn mà ở phần gần gốc thì âm thanh sẽ tù, đục, không thoát.

Làm mặt cây đàn này phải nhập gỗ Kiri từ bên Nhật nguyên miếng thật lớn (vì là đàn 25 dây nên kích thước cũng lớn hơn hẳn).

Để phân biệt mặt gỗ Kiri (có vân) còn mặt Ngô Đồng (không vân), thường thì mặt đàn không phủ bóng bằng Verni (để mặt mộc) sẽ tạo được độ vang hơn và như thế ta cũng sẽ dễ nhận biết được chất lượng của gỗ.

Khi bán đàn cho mọi người bác vẫn khuyên nên đóng bằng gỗ Ngô Đồng âm thanh vẫn hay mà giá lại rẻ hơn nhiều, để tiết kiệm tiền cho chính khách hàng, có lẽ đây là lương tâm đạo đức và là tính cách rất độc đáo đã từng tạo nên tên tuổi của gia đình bác, sau này chị Thu Anh “con gái bác” cũng theo gương cha, bao giờ truớc khi bán cũng trao đổi thật kỹ với khách và cho những lời khuyên chân thành nhất chứ không vì đồng tiền mà đánh mất lương tâm, rồi chị cũng thú thật cái mà chị sợ nhất vẫn là sợ mất tiếng tăm của gia đình Vĩnh Bảo bao đời nay)

Như mọi người được biết: nhiều nghệ nhân rất giỏi về đóng đàn nhưng mặt khuyết họ thường lại không phải là nhạc sĩ giỏi nên cũng khó phân biệt chi ly, rạch ròi được thế nào là âm thanh chuẩn mực cùng sự ngọt ngào sâu thẳm của từng âm điệu của tiếng đàn Tranh trong khi nhấn nhá, hoặc họ là nghệ sĩ biểu diễn thì được trời phú cho họ có “cái tai” thẩm âm rất chuẩn xác thì lại không rành chi tiết về kỹ thuật đóng đàn. Nghệ nhân kết hợp được cả hai tính chất trên thật là hiếm, đúng là được mặt này thì khuyết ở mặt khác ?

Riêng nhạc sư Vĩnh Bảo thì có  được cả hai. Theo lời Bác kể: năm 10 tuổi bác đã tự tay ráp cái gáo dừa và cần đàn khi được người ta cho cây đàn gáo mà 2 phần rời nhau. Có lẽ bác đã tập mày mò đóng đàn từ khi ấy. Được biết sau thời gian không đi dạy tại trường nhạc trong nước. Bác may mắn có điều kiện ra nước Ngoài để dạy thêm về âm nhạc cổ truyền cho các học trò thế giới và Bác đã quyết chí ghi danh học thêm về kỹ thuật đóng đàn Violin tại trường hẳn hoi, nên có lẽ bác là nghệ nhân đàn dân tộc duy nhất đã được đào tạo từ trường lớp tại Tây Phương.

Những kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của cách đóng đàn Violin mà bác đã học được nó đã là một nền móng vững chắc chẳng phải ai cũng có được và sau này đã được bác nhuần nhuyễn áp dụng để hình thành cho cây đàn Tranh Việtnam với thương hiệu Vĩnh Bảo. nhưng để hình thành và tạo nên tên tuổi trong lòng mọi người chắc chắn bác đã phải qua rất nhiều thời gian tìm tòi trải nghiệm, cùng biết bao biến tấu để tạo thành.Ngoài ra chị Thu Anh cũng tiết lộ bí mật kỹ thuật tạo ra tiếng đàn hay nằm ở chỗ hiểu được đặc tính sự giãn nở của từng loại gỗ khi kết hợp với nhau, và gia đình đã dày công nghiên cứu để có hẳn loại keo đặc biệt gia truyền chỉ để dùng riêng cho việc đóng đàn… Chị tâm sự mỗi cây đàn xuất ra đều được thẩm âm thật kỹ trước khi tới tay người dùng… rất tiếc nhiều lần nói chuyện với Chị mà không ghi nhớ được là bao để chia sẻ cùng các bạn.

Điều quan trọng nhất vẫn là được gia đình bác xác nhận: “ chắc chắn đây là cây đàn Tranh 25 dây độc nhất vô nhị cả ở Việtnam cũng như trên thế giới do chính tay bác Vĩnh Bảo đóng và ký tên “.

Khi viết những dòng này thì năm nay bác cũng vừa tròn 103 tuổi, bác cùng gia đình cho biết: “sẽ không hề có ý định và muốn làm lại một cây đàn 25 dây thứ hai như vậy nữa.” Đây thực sự là một món quà tình cảm vô giá mà Bác muốn dành lại cho hậu thế.

Ngoài chữ ký của nhạc sư Vĩnh Bảo, cây đàn này còn may mắn hơn nữa khi được các giáo sư, nghệ sĩ cũng là những người bạn thân của bác Vĩnh Bảo ký tên lưu niệm. Xin cảm ơn Gs tiến sĩ âm nhạc học dân tộc Trần quang Hải (Pháp), Giáo sư đàn Tranh Ngọc Dung (San Jose, Calif), NS Đỗ Lộc, NS Văn Hai, NS Đặng Lan (San Jose, Calif) …

Nay được sở hữu, đó là niềm vui, niềm hãnh diện, và tự hào rất lớn, một lần nữa xin được đặc biệt cảm ơn bác Vĩnh Bảo và gia đình.

Chúc bác nhiều niềm vui trong tuổi hạc.

Hồng Nguyên.

***

– Giáo sư Trần quang Hải nhân dịp qua Hoa Kỳ nhận bằng tưởng lục của trường đại học Long Beach University “ tuyên dương về những đóng góp của Ông trong việc nghiên cứu, phổ biến âm nhạc dân tộc Việtnam trên thế giới.” Đã ký tên trên đàn.

– NS Đỗ Lộc nhân chuyến đi biểu diễn trong “Ao Dai Festival” tại Calif, Hoa Kỳ đã ký tên.

Theo Internet




Văn hoá là những gì còn lại sau thử thách

Văn hoá là những gì còn lại sau thử thách

Xem những món đồ gốm thuộc hàng thượng đẳng, từ thế kỷ 15 của Việt Nam ở The Metropolitan Museum of Art, New York.

Bình con chim này chắc chỉ còn lại vài con, lưu lạc đâu đó ngoài Việt Nam. Năm 2000 khi chiếc tàu chở đồ gốm bị chìm ngoài cửa biển Hội An được vớt lên và thẩm định. Giới khảo cổ học và dân sưu tầm đồ cổ hoàn toàn “choáng” trước một kho tàng gốm cổ, chìm dưới đáy đại dương hơn 500 năm, lại là đồ gốm của Việt Nam. Trước đó, giới nghiên cứu đã đổ về Hải Dương để khai quật, tìm hiểu. Nhưng chưa có trong tay những hàng gọi là thượng đẳng. Đợt đấu giá lô hàng gốm đầu tiên tại San Francisco, gồm bình rồng. Ba chiếc bình đầu tiên kêu giá từ 30 ngàn đến 50 ngàn đollars, đã được mua với giá trung bình 65 ngàn đollars một bình.

Từ đó gốm cổ Việt Nam làm từ Chu Đậu, tỉnh Hải Dương lên đời; được trang trọng có mặt trong một số bảo tàng viện quốc tế; sánh vai cùng gốm đời Minh, đời Song của Tàu.Khi đem chiếc tàu bị chìm phân chất, giới nghiên cứu cho biết chiếc tàu này làm bằng gỗ Teak, một loại gỗ của Thái, rất tốt để làm thuyền. Cùng chung số phận của chiếc tàu, có hai bộ xương chết dưới tận khoang tàu. Có lẽ là của những người Thái đi qua Việt Nam mua bán đồ gốm, và trên đường về lại Thái thì ghe gặp bão bị chìm. Hàng trăm ngàn món hàng gốm, có món bị nước biển làm hư, nhưng cũng có món gần như còn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp, cho dù hơn 500 năm đã bị nước mặn bào mòn.

“Văn hoá là những gì còn lại sau thử thách, được gìn giữ trong tim và tâm hồn của một dân tộc”. Thánh Gandi từng nói vậy. Văn hoá gốm cổ của Việt Nam hơn 500 năm vẫn được trân trọng. Còn văn hoá của bác và đảng, thứ văn hoá nghệ thuật mì ăn liền, hạ cấp và tuyên truyền như loại ca nhạc “chị Ba năm tấn”, mới có vài năm cọ xát với nhạc vàng của miền Nam; đã quay lưng ra lăn đùng chết một cách tức tưởi, không kèn không trống.

Đỗ T. Công




Cửa Ải Nam Quan qua các giai đoạn lịch sử

Cửa Ải Nam Quan qua các giai đoạn lịch sử

Từ xưa, khi còn nhỏ chúng ta thường nghe câu nói, nước Việt Nam ta “Từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau”. Lúc đó chỉ nghe tên thôi chứ chưa bao giờ biết hình ảnh cửa Ải Nam Quan nó ra sao và ở đâu? Ải Nam Quan chia đôi biên giới hai nước Việt – Tàu. Đường từ Lạng Sơn đi qua cửa Ải Nam Quan, theo bản đồ Pháp vẽ từ những năm 1885 khi quân Pháp đánh nhau với quân Cờ Đen. Từ Đồng Đăng đi về phiá biên giới Tàu, đến Ải Quan Nam là 4km như bảng chỉ đường tại Đồng Đăng. Sau 1885, Ải Nam Quan thay đổi theo những diễn biến của lịch sử.

Năm 1885, Thiếu tướng Pháp De Négrier đem quân đánh với quân cờ đen Lưu Vĩnh Phúc trong khu vực Lạng Sơn, ông đã cho phá tan cổng thành Ải Nam Quan. Như vậy cửa Ải Nam Quan này trước khi bị phá hủy, là do Tàu xây. Sau đó Ải được Pháp dựng lại, hình chụp năm 1896 cho thấy tại vùng đất biên giới, có hai cửa; gồm cửa Ải Nam Quan của Việt Nam và Trấn Nam Quan của Tàu. (1)

Theo hình, khu vực tại biên giới có hai Ải. Một của Việt Nam, cửa Ải Nam Quan (cửa Thành của người An Nam?) và sau Ải Nam Quan Việt Nam là Trấn Nam Quan của Tàu (Thành để trấn áp người An Nam?). Tàu kêu Trấn Nam Quan chắc là có ý miệt thị người An Nam.? Xem chúng ta là man di mọi rợ, cần phải trấn áp. Cửa Ải Nam Quan mới của Việt Nam do Pháp dựng lên; có mặt hình người vẽ trên cổng thành, Ải ngắn và đơn sơ, kéo dài qua hai bên sườn núi. Sau lưng cửa Ải Nam Quan là đường dẫn đến Trấn Nam Quan của Tàu, to lớn và xây dài qua bên nhiều dãy núi. Hiện nay cái gọi là “Hữu Nghị Quan” của Tàu, so với địa điểm vùng đất Ải Nam Quan của Việt Nam và Trấn Nam Quan của Tàu trước kia; thì không giống nhau.

Không biết chắc cửa Ải Nam Quan xây lúc nào nhưng từ thế kỷ 14, khi Nguyễn Trãi chia tay cha Nguyễn Phi Khanh, về phò Lê đuổi Minh thì đó là năm 1414. Sử ghi lại lúc Tàu bắt Nguyễn Phi Khanh và nhiều tù bình Việt giải về Tàu, có đi ngang qua cửa Ải Nam Quan. Nguyễn Trãi đã tiễn đưa cha mình, một đi không trở lại ngay thời điểm lịch sử đó. Khi Liễu Thăng đem quân qua Ải Nam Quan, quân nhà Lê đã dụ cho tướng Tàu đi sâu vào nước Nam. Tại Ải Chi Lăng, Lạng Sơn, Tướng Liễu Thăng đã bị quân Lê Lợi chém bay đầu. Đó là năm 1427, tức 13 năm sau khi Nguyễn Trãi nghe lời dặn của Cha mình tại Ải Nam Quan, về phò Lê Lợi mà phục hận, nợ nước thù nhà.  Vài năm sau đó, nhà Minh lại đem quân qua uy hiếp nước Việt. Mạc Đăng Dung đã trói mình, đi chân đất qua cửa Ải Nam Quan để xin hàng. Đem dâng nước Việt thành một Châu, một Quận hay một Trấn cho nhà Minh. Năm đó sử Việt ghi là 1541.

Cửa Ải Nam Quan đã có từ trước thế kỷ 14, cho đến thế kỷ 15, thời nhà Mạc và kéo dài đến thế kỷ 18. Suốt chiều dài lịch sử này không có nhiều sự kiện để ghi lại và thay đổi. Chỉ đến năm 1885 lúc quân Pháp đánh với quân Cờ Đen, cửa Ải Nam Quan mới bị phá hủy lần thứ nhất, và cho xây dựng lại sau đó. Hình chụp từ năm 1896 với kiến trúc đơn sơ, có hình vẽ trên cổng thành, từ những tấm bưu thiếp còn ghi lại.

Năm 1979, khi chiến tranh Trung-Việt xảy ra, Trung Cộng đã tàn phá nát Tỉnh Lạng Sơn; cửa Ải Nam Quan cũng chịu chung số phận. Từ đó, di tích lịch sử cửa Ải Nam Quan không còn nữa; và những vùng đất từng bị quân csTQ chiếm trong cuộc chiến này, coi như mất vào tay Tàu. Vì vậy đường biên giới mới đã bị Tàu lấn dài xuống phương Nam.

Trong cuộc chiến biên giới 1979. Việt Nam cho là “Trung Quốc đã huy động 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không.” Tạp chí Quân sự của Mỹ viết “Trung Quốc đưa 200 nghìn quân, 400 xe tăng và 1.500 khẩu pháo trong cuộc chiến Trung-Việt. Riêng tại Lạng Sơn, quân Giải phóng Trung Quốc đã lên tới 70 nghìn quân. Sư đoàn Sao Vàng của Việt Nam bị Trung Quốc bao vây. Trong vòng vài ngày quân Trung Quốc đã gần như xóa sổ Sư đoàn Sao Vàng và tàn phá Tỉnh Lạng Sơn thành bình địa.” (2)

Bản vẽ đường biên giới sau Hiệp Định Biên Giới của csVN, cho thấy khu vực thuộc Ải Nam Quan đã nằm sâu trong ranh phận của Tàu. Trong tài liệu do chính Bộ Ngoại Giao csVN công bố, tố cáo phía csTQ “đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100 m trên đường quốc lộ để xóa vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột ki-lô-mét 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này.” (3)

Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng khoảng 60 km² lãnh thổ và một số nơi như khu vực quanh vùng đất Ải Nam Quan gần Lạng Sơn. Trung Quốc chiếm đóng các địa điểm không có giá trị quân sự nhưng có giá trị biểu tượng. Tại các nơi khác, Trung Quốc chiếm giữ các vị trí chiến lược quân sự làm bàn đạp, để từ đó có thể tiến đánh Việt Nam sau này. (4)

Cái gọi là Hữu Nghị Quan hiện nay cho thấy nó là kết quả cướp đất của Tàu sau cuộc chiến Trung-Việt 1979, và cũng là tội của csVN trước lịch sử; khi đã không bảo vệ được sự toàn vẹn của lãnh thổ Việt Nam.

Theo FB Đỗ T. Công

(1) On 23 February 1885 de Négrier advanced from Lang Son and defeated the demoralised Guangxi Army at Đồng Đăng, close to the Chinese border, driving the Chinese out of Tonkin altogether. De Négrier briefly crossed into Guangxi province and blew up the Gate of China, an elaborate ceremonial gate erected by the Chinese at Zhennan Pass to mark the border between China and Annam. (Picture source: Sur les frontieres du Tonkin)

(2) Peter Tsouras – Military History Magazine

(3) Tài liệu do Bộ ngoại giao csVN công bố ngày 15.3.1979

(4) Edward C. O’Dowd – Chinese Military Strategy in the Third Indochina War and Nayan Chanda – Brother Enemy

(5) Hình Giặc Cờ Đen và vũ khí bị Pháp tịch thu




Người vẽ bìa tờ nhạc trước 1975

Người vẽ bìa tờ nhạc trước 1975

 Họa sĩ DUY LIÊM  

Họa sĩ Duy Liêm – Người vẽ bìa tờ nhạc trước 1975

Trước năm 1975, các hình bìa tờ nhạc được trang trí bằng các hình vẽ hoặc hình người mẫu, ca sĩ, diễn viên nổi tiếng. Đối với các bìa nhạc là hình vẽ thì có hai người họa sĩ nổi tiếng nhất chuyên vẽ bìa nhạc là Kha Thùy Châu và Duy Liêm. Khán giả sẽ không bao giờ quên được những hình bìa ấn tượng của các bài hát Thương Về Miền Trung, Chuyến Đò Không Em, Đêm Tâm Sự… qua nét vẽ của họa sĩ Duy Liêm.Bài viết dưới đây của người con rễ của Duy Liêm viết về sự nghiệp của ông.***Thời niên thiếu, thú tiêu khiển cùa tôi là vẽ lại những hình bìa các bàn nhạc. Tôi say sưa sưu tầm những bản nhạc, không vì nhạc mà vì những bức họa bìa nhạc của Họa sĩ Duy Liêm.Rồi lên đường du học, duyên tiền định, người tôi yêu lại là trưởng nữ họa sĩ Duy Liêm, đó là Duy Nga, người đã cho tôi ba đứa con gái thông minh xinh đẹp. Nhờ Duy Nga, tôi có được một bộ sưu tập tranh lụa, tranh sơn mài, tranh sơn dầu, sơn khắc, kim nhũ, bìa nhạc, bìa sách khá phong phú cùa Họa sĩ Duy Liêm.Họa sĩ Duy Liêm, sinh năm 1914 tại Phan Thiết. Vào những năm cuối đời, ông sống ở Việt Nam, hai mắt bị mù, bị suyển kinh niên. Bình sinh ông ít thích ai viết về ông, mỗi lần có ký giả đến gặp là ông bỏ đi mất, ông vẫn đùa “hữu xạ tự nhiên hương, hà tất phải bôi bù xít”. Nhưng bây giờ thì ông không “thoát” được vì người viết là con rể trong nhà và có lẽ tôi là người có được nhiều nhất các tác phẩm của ông.

Họa sĩ Duy Liêm thời trai trẻ

Tôi muốn so sánh ông với Katsushika Hokusai, một họa sĩ trứ danh Nhật Bản đã ảnh hường đến đời sống mỹ thuật cùa người Nhật từ thế kỷ 19 đến nay. Với sự nghiệp sáng tác đồ sộ, họa sĩ Duy Liêm xứng đáng với sự so sánh ấy.Họa phẩm của ông đi vào đời sống người Việt hàng ngày. Ai cũng nhớ đến những màu sắc vui tươi, những đường cong, nét gẫy hình khối, từ tờ giấy bạc thời Việt Minh, đến áo dài bà Ngô Đình Nhu, bức tranh Nhạc Sầu đoạt giải nhất Đông Nam Á hiện còn trang hoàng nơi phòng khách vị Thủ tướng Mã Lai, đến bìa nhạc, bìa sách từ 1954 đến 1990, đến tranh sơn mài Thành Lễ, Lam Sơn, đồ gốm Biên Hòa, tranh thêu Thu Hà, thảm, đồ thủ công, bìa sơn mài, hộp sơn mài… và hàng trăm tấm tranh lụa, sơn dầu đã được bán ra ngoại quốc.Tranh Thành Lễ được sao đi sao lại hàng trăm, hàng nghìn bản mỗi mẫu từ mấy chục năm nay, tranh sơn mài Thành Lễ hiện diện trong mỗi gia đình Việt Nam từ trong nước ra đến hải ngoại nhưng ít ai biết đến tác giả các bức tranh ấy là Họa sĩ Duy Liêm.Thành Lễ và Duy Liêm cùng học trường Mỹ Thuật Trang Trí Gia Định. (Ecole d’Art decoratif de Gia Định). Thành Lễ ngừng học từ năm thứ hai, ra đời kinh doanh ngành sơn mài và Duy Liêm tốt nghiệp năm 1937 là họa sĩ chính của Thành Lễ từ đó. Tài kinh doanh của Thành Lễ và nghệ thuật của Duy Liêm đã đưa nghệ thuật sơn mài từ một tiểu công nghệ bản xứ qua những lần huy chương vàng Hội chợ Paris và các hội chợ Quốc Tế khác, thế giới đã biết dến sơn mài Việt Nam. Các tác phẩm của Duy Liêm đã tạo nên công ăn việc làm cho hàng ngàn người các ngành sơn mài, đồ gốm, thảm thêu và các nghệ nhân miền Nam vẫn kính trọng ông là bậc thầy của nền tiểu công nghệ Việt Nam.Duy Liêm và tranh sơn mài

Nhiều bức sơn mài đã trải qua “tam sao thất bản”, nhiều bức trải qua các tay thợ vụng về đã làm sai lạc rất nhiều so với bản chính. Các hãng sơn mài trong nước, cũng như các hãng Thành Lễ của Hoàng Đình Tuyên (con rể Thành Lễ) của Nguyễn Thành Vinh (con ruột Thành Lễ) đã sửa đổi thêm thắt làm sai lạc và mất vẻ thẩm mỹ rất nhiều so với bản chính. Đó là lý do sự sa sút của ngành sơn mài những năm gần đây.Những tác phẩm đắc ý nhất cùa ông là tranh lụa, tôi dược may mắn có những tác phẩm đắc ý của ông:

  • Giấc hè một thiếu phụ cho con bú ngủ quên trên võng trưa, con ngù, mẹ còn lộ bộ ngực trần.
  • Du Xuân hai thiếu nữ đi giữa vườn hoa xuân.
  • Suối tóc bộ tranh thiếu nữ ngồi chải tóc trên giường tre bên bụi chuối đong đưa ngoài vườn.
  • Hái sen thiếu nữ hái sen bờ ao.

Đề tài tranh ông rất phong phú đa dạng từ cảnh chài lưới Phan Thiết đến đền Angkor, vinh quy bái tổ, cảnh ghe thuyền trên sông, cung điện Huế và đề tài ông thường vẽ nhất có lẽ là thiếu nữ Việt Nam.Sơn dầu, ông vẽ nhiều nhất tranh lập thể và lõa thể.

Các nhạc sĩ miền Nam ngày trước, muốn nhạc phẩm mình ăn khách, theo lời khuyên nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam, Diên Hồng, Sống Mới… là phải cố cho được bìa của Duy Liêm vẽ, vì thế mỗi bản nhạc viết xong là các nhạc sĩ thường phải xách đàn dẫn ca sĩ đến hát cho Duy Liêm nghe để vẽ bìa. Nhạc hay, Duy Liêm có hứng sẽ vẽ bìa đẹp, còn nhạc dở thì dù có năn nỉ, đắt tiền gấp đôi, nhạc vẫn bù trớt. Vì thế, giới nhạc sĩ miền Nam, từ Hoàng Thi Thơ, Phạm Đình Chương, Lam Phương, Trúc Phương, Trần Thiện Thanh, Hoàng Trọng, Nguyễn Hữu Thiết… đều rất thân thiết với Duy Liêm và qua ông đã đưa lên danh vọng người cháu gái là ca sĩ Thanh Thúy.Những năm tháng cuối của cuộc đời, khi mắt Duy Liêm chưa mờ hằn mà còn lờ mờ thì các con vẽ theo ý ông và ông sửa chữa, sau đó thì các con của ông đã trở thành các họa sĩ. Duy Sĩ, họa sĩ một hãng phim hoạt họa ở Portland (Mỹ), đã từng dược giải thưởng lớn truyền hình Mỹ. Quốc Hoàng, họa sĩ chính các hãng sơn mài, thay thế ông. Họa sĩ Vẹt (Hồ Đắc Vũ) con rễ (Canada).Đây là lúc để tổng kết lại một đời sáng tác của một họa sĩ đa tài, đa tình, đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ về lượng cũng như về phẩm, để lại bao nhiêu mối tình và ba mươi người con từ trong nước ra đến ngoài nước. Đó là điều hiếm có đối với một họa sĩ một nước nghèo, nghệ thuật hội họa chưa được trân trọng như các nước tiên tiến.Tôi mơ ước mai sau sẽ xây dựng mộc viện bảo tàng hội họa Duy Liêm ở Phan Thiết, quê hương ông, hay ở Gò Vấp, nơi ông sống và sáng tác, để sưu tầm toàn bộ sự nghiệp cùa ông ước lượng 40,000 hay 50,000 tác phẩm, từ sơn mài, sơn dầu, tranh lụa, bình, hộp, thảm, sứ… những tác phấm đã nâng cao nghệ thuật sơn mài Việt Nam lên tầm quốc tế, một sự nghiệp đồ sộ – tôi nghĩ không kém gì các họa sĩ tiếng tăm trên thế giới.Họa sĩ Duy Liêm đã qua đời năm 1994, hưởng thọ 80 tuổi.Nhất UyênNguồn: Thế Kỷ 21 số 49, Tháng 5-1993
Một số hình bìa nhạc bài hát nổi tiếng qua nét vẽ của họa sĩ Duy Liêm:

inh

Le Tuan 




Đất Thủ Thiêm

Đất Thủ Thiêm

Bút ký của Võ Đắc Danh

Hôm nay thấy cộng đồng mạng, đặc biệt là những bạn đồng nghiệp bày tỏ sự bất bình đối với hình thức kỷ luật những cán bộ liên quan đến tội ác thủ thiêm, đặc biệt là hình thức “phê bình ” ông Tất Thành Cang, lão nông xin đăng lại bút ký Đất Thủ Thiêm để góp phần làm rõ sự tương phản giữa nỗi đau hàng chục năm của bà con nơi đây và hình thức xử lý những kẻ đã làm nên tội ác. Có thể nói, đây là một bút ký dài nhất, được thực hiện kỳ công nhất trong cuộc đời cầm bút của lão nông, và không ít lần phải rơi nước mắt trên bàn phím.

Võ Đắc Danh

*

Nhố nhăng

Suốt bao nhiêu tháng, họp hành chán chê, cuối cùng Thành ủy TP.HCM (thông qua Ủy ban Kiểm tra) ra được cái kết luận nhẹ hều phê bình Tất Thành Cang.

Mà chối tỉ bỏ mẹ, trong kết luận chỉ ghi “Ông Tất Thành Cang – Thành ủy viên, Phó trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo công trình lịch sử TP.HCM, nguyên Giám đốc Sở Giao thông vận tải”. Tay Cang này vi phạm nghiêm trọng cả khi nó là Phó bí thư thường trực Thành ủy, sao lại cố tình lờ đi, giấu ém đi cái chức vụ quan trọng ấy?
Nói thẳng, qua vụ này, tôi càng coi ông bí thư Nhân chả ra gì, chỉ làm trò, đánh bóng là giỏi, không có tí bản lĩnh, thực chất cách mạng nào. Tôi hỏi ông, bênh cho thằng Cang, dây dưa xử lý nó, ông có được nó trả cho thùng trái cây nào không mà nhố nhăng thế.

Lại còn mấy ông trung ương lúc nào cũng đốt lò tôn không có vùng cấm nữa, các ông để sứ quân nó tự tung tự tác coi thường kỷ cương phép nước như vậy mà im, hay im lặng là… vàng hở.

Nguyễn Thông

*

THẾ NÀY LÀ THẾ NÀO. ANH NHÂN?

Theo Ban Thường vụ Thành ủy thành phố HCM, ông Tất Thành Cang có khuyết điểm, vi phạm đến mức phải thi hành kỷ luật, nhưng do đến nay đã hết thời hiệu xử lý kỷ luật đảng nên Ban chấp hành Đảng bộ thành phố thống nhất kết luận hình thức… phê bình.

Ông Tất Thành Cang, Thành ủy viên, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Công trình Lịch sử TP.HCM, nguyên Giám đốc Sở GTVT.

Các chức cựu Ủy viên Trung ương Đảng khoá XII; Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh của Cang đã làm cho Cang vi phạm kỷ luật không thấy ghi ở đâu?

Hà Phi

*

Sự khốn nạn với Nước, với Dân có thể hết thời hiệu với đảng nhưng với Dân thì không

Không!

Cho nên các cụ từ xửa xưa đã dặn:

Trăm năm bia đá thì mòn

Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

Tất Thành Cang cùng bè lũ của Cang gây ra bao khốn cùng cho Dân Thủ Thiêm, gây thất thoát mấy chục ngàn tỷ của Dân, đảng bảo “hết thời hiệu kỉ luật ” nên chỉ … phê bình.

Kiểu như học trò đi muộn cô giáo phê bình, nhắc nhở: lần sau em đừng đi muộn nữa nhé!

Nhưng Dân coi đó là tội ác.

Đảng phủi phủi bụi, vuốt má… có đau bằng Dân chửi không?

Lãnh đạo đảng tp HCM chả lẽ muốn chia rẽ ý đảng lòng Dân?

Lưu Trọng Văn

*

https://lh4.googleusercontent.com/tfgFuyesOAokR1a6IVjb1xjZOJgHUjnt9LDrTpeA7xWRt7fg1UklY1GVu2GdnALIDT-umw1kmP-fqM928wq7Wv6hTftdvkrScrtn3YvF74jAPiE1GdNVIzYwegCjCyJz1paU9kR4BhXbLMqAjw

I: GIẤC NGỦ BA TRĂM NĂM

Tôi đã bỏ ra một thời gian để sưu tầm tài liệu liên quan đến lịch sử vùng đất Thủ Thiêm, nhưng hầu như không tìm thấy tư liệu nào để có thể gọi là “bề dầy lịch sử” của vùng đất nầy ngoài một vài trận chiến thời kỳ nhà Nguyễn cùng với những cuộc di dân cũng từa tựa như những cuộc di dân trên vùng đất phương Nam. Song, điều đáng ngạc nhiên mà chưa thấy nhà nghiên cứu nào lý giải rằng vì sao chỉ cách trung tâm Sài Gòn có vài ba trăm mét bởi một con sông mà Sài Gòn – ngay từ khi chiếm được Nam kỳ, người Pháp đã muốn biến Sài Gòn thành Hòn Ngọc Viễn Đông để cạnh tranh với các nước thuộc địa của Anh trong khu vực. Những năm cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, dọc theo bờ sông Sài Gòn, cùng với thương cảng Bến Nghé, Bạch Đằng, hàng loạt công trình nguy nga đã được mọc lên trên đường Catinat (Đồng Khởi), Kênh Lớn (Nguyễn Huệ), Kênh Xáng (Hàm Nghi)… rồi đến nhà thờ Đức Bà, nhà hát Lớn, chợ Bến Thành… Sài Gòn đã trở thành thủ phủ của Đông Dương. Nhưng bên kia sông, cách Sài Gòn chỉ vài ba trăm mét, Thủ Thiêm như một vùng đất bị lãng quên.

Hai mươi năm với hai nền Đệ Nhị Cộng Hòa, Sài Gòn đã trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông thì bên kia sông Sài Gòn, Thủ Thiêm vẫn như một vùng đất bị lãng quên.
Sau năm 1975, gần một phần ba thế kỷ, Sài Gòn phát triển khá rầm rộ với những khu đô thị mới mọc lên ở ngoại thành, những tòa nhà cao tầng mọc lên ở ven sông Sài Gòn, nhưng phía bên kia sông, Thủ Thiêm vẫn như một vùng đất bị lãng quên.

Có thể nói, trong lịch sử ba trăm năm hình thành và phát triển Sài Gòn, Thủ Thiêm như bị chìm trong giấc ngủ ba trăm năm. Rồi bỗng một ngày, Thủ Thiêm thức dậy, vội vã khoác lên mình chiếc áo đô thị mới còn dở dang trong tiếng khóc than, rên rỉ xé lòng của người dân mất nhà mất đất… Và, chiếc áo ấy sẽ còn dở dang, nham nhở cho đến bao giờ?

Tôi nhớ cách đây gần hai mươi năm, một cô bạn đồng nghiệp kể chuyện vừa đi chơi Thủ Thiêm mới về, tôi ngồi nghe mà cứ hình dung như cô đang kể về một vùng đất xa xôi nào đó ở miền tây nam bộ, rằng cô thuê một chiếc xuồng chèo đi len lỏi trong những con rạch hoang vu, mênh mông dừa nước, mắm, bần, cóc kèn, ô rô, cỏ lác, có cả những đám lúa ma, cô gặp nhưng người dân đi săn chuột đồng, cắm câu, giăng lưới, đặt lờ đặt lọp, làm ruộng, nấu rượu, nuôi heo… Rồi cô kết luận: Cách trung tâm Sài Gòn chỉ một dòng sông mà Thủ Thiêm giống như một miền cổ tích.

Nhà văn Sơn Nam được xem là Nhà Nam Bộ Học, nhưng trong cuốn sách Bến Nghé Xưa dầy 240 trang, ông chỉ dành cho Thủ Thiêm mấy dòng ngắn gọn: “Bên kia sông, chợ Thủ Thiêm ở làng An Lợi (thành lập chánh thức vào năm 1751), sau tách ra thêm làng An Lợi Đông, phía lưng giáp với Giồng Ông Tố chuyên ruộng nương và vườn tược, muốn qua Sài Gòn phải nhờ “con đò Thủ Thiêm”.

Có lẽ vì sự ngủ yên của Thủ Thiêm không có gì cần thiết để ông nghiên cứu chăng? Nhưng tôi chú ý cụm từ “con đò Thủ Thiêm” mà nhà văn Sơn Nam dùng co chữ nghiêng và đặt trong ngoặc kép.

Ầu ơ… Bao giờ Chợ Quán hết vôi

Thủ Thiêm hết giặc em thôi đưa đò

Bắp non mà nướng lửa lò

Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm.

Nói là nói vậy, nhưng “con đò Thủ Thiêm” vẫn tồn tại đến hơn ba mươi năm kể từ ngày “Thủ Thiêm hết giặc”.

ình ảnh có thể có: 3 người, ngoài trời và nước

Cụm từ “con đò Thủ Thiêm” như là một thuật ngữ, một hình ảnh, một dấu ấn văn hóa mang tính đặc trưng của một vùng đất. Chưa có tài liệu nào cho biết “con đò Thủ Thiêm” ra đời vào thời điểm nào, cũng có thể là vài trăm năm, trước khi có chợ Thủ Thiêm (1751), nghĩa là khi những cư dân đầu tiên trên vùng đất nầy có nhu cầu đi lại giữa hai bờ sông. Ngay cả cái bến đò Thủ Thiêm, người ta chỉ xác định được thời gian qua một dấu chấm trên tấm bảng đồ Environs de Saigon do chính quyền Nam kỳ vẽ vào năm 1911 để căn cứ vào đó như cái mốc lịch sử của bến đò.

Một tài liệu nghiên cứu tổng hợp về Thủ Thiêm cho biết, trước năm 1975, bến đò Cây Bàng có 127 chiếc đò, bến đò An Lợi Đông có hơn 60 chiếc, bao gồm đò dọc, đò ngang, đò chèo, đò máy. Chúng ta chưa có số liệu để so sánh rằng có bến sông nào trên đất nước nầy mà số lượng đò nhiều như Thủ Thiêm chăng?

Lịch sử thăng trầm của một bến đò qua bao thế kỷ, bao nhiêu thế hệ đưa đò, bao nhiêu thế hệ khách sang sông, bao nhiêu đời người mỗi ngày qua lại, bao nhiêu xác con đò đã qua đời, vùi lấp dưới đáy sông…!

*
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tín với bút ký Đi Chơi Thủ Thiêm đăng trên báo Người Lao Động Cuối Tuần phát hành ngày 16 tháng 11 năm 2001, kể rằng, anh đến Thủ Thiêm lần nầy là lần thứ hai, lần thứ nhất vào đầu thập niên 80, lúc bấy giờ “con đường Lương Định Của còn là con đường độc đạo chạy một mạch lên ngã ba Cát Lái, không con đường nào cắt ngang, với đất đỏ và ngổn ngang ổ gà, xe đạp phải men theo lề đường. Hai bên đường trống trơn toàn đất bãi với bần, đế, cỏ lác…”.

Đất Thủ Thiêm vào những năm nầy người ta sang nhượng cho nhau với đơn vị tính là công và mẫu, nhưng đến những năm cuối thế kỷ 20 bước qua đầu thế kỷ 21, khi dư luận râm ran về đại lộ Đông – Tây và đường hầm Thủ Thiêm thì đơn vị tính của đất chuyển từ công, từ mẫu sang mét vuông, và theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Trọng Tín thì lúc bấy giờ, tức thời điểm năm 2001, đất trên đường Lương Định Của đã lên đến ba triệu đồng một mét vuông.

Cách nay chưa lâu, khi câu chuyện về Đất Thủ Thiêm bùng nổ trên báo chí và mạng xã hội, đầy rẫy những hình ảnh với âm thanh gào khóc của những người dân mất đất, tôi đem câu chuyện về giấc ngủ ba trăm năm của Thủ Thiêm ra trao đổi với một người bạn, anh nầy vốn là cử nhân Phật học, một nhà phong thủy có uy tín, sau khi tốt nghiệp ở học viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam, anh không đi tu mà ra làm kinh doanh ngành in và nghiên cứu về phong thủy, anh ngồi trầm ngâm nghe tôi kể về giấc ngủ của Thủ Thiêm bên cạnh ba trăm năm hình thành và phát triển của Sài Gòn, anh kết luận một câu ngắn gọn: Vậy là đất Thủ Thiêm chắc chắn có vấn đề về phong thủy.

https://lh4.googleusercontent.com/f_k4wBxhwsC8kG7-9icfGXBU3Rteb7Optja_Os3_W4jN7shz1cybiyMEWV6xeR7HR9LToW5wPl8yG3M1QbXX9W-YaPJJ0d2dK9kzt9Mmm1eYUHUpmWTUVR-DWtbQJP2mCGO6fB3gRadoMcWoYA

Thật tình, tôi không rành và cũng không quan tâm tới vấn đề phong thủy, chỉ luôn đặt câu hỏi trong đầu vì sao cách Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông chỉ một con sông 300 mét mà Thủ Thiêm vẫn chìm trong giấc ngủ ba trăm năm? Câu hỏi ấy đã thúc bách tôi lao vào tra cứu, tìm kiếm những tài liệu liên quan đến Thủ Thiêm, nhưng cuối cùng, đến giờ nầy vẫn chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng. Trong những ngày lang thang qua Thủ Thiêm, tiếp cận với những người dân kêu cứu vì mất đất, đầu óc tôi càng căn thẳng, cứ lảm nhảm như một thằng điên, gặp ai, ngồi với ai cũng kể chuyện Thủ Thiêm như nỗi oan ức của chính mình. Một hôm, thằng em tôi nói: Hồi xưa, ông Nguyễn Tấn Đời có một dự án về Thủ Thiêm nhưng không thành. Tôi hỏi tài liệu đó ở đâu? Nó nói tôi quên rồi. Gần suốt một đêm, theo đường dẫn của Google, tôi đọc gần hết những câu chuyện về Nguyễn Tấn Đời nhưng không hề tìm thấy cái dự án của ông về Thủ Thiêm, buộc lòng sáng hôm sau tôi phải nhờ “500 anh em trên facebook”. Và như một cơ duyên, chị Mai Lan, cựu phóng viên báo SGGP nhắn tin bảo tôi qua nhà chị lấy cuốn Hồi Ký Nguyễn Tấn Đời.

Có lẽ trong chúng ta, không ít người biết về cuộc đời và sự nghiệp của tỷ phú Nguyễn Tấn Đời. Ông xuất thân từ một gia đình địa chủ ở Long Xuyên, nhưng khi được giao cho cai quản điền địa, ông đã đứng về phía tá điền để chống lại cha mình và bỏ nhà đi theo Việt Minh. Rồi vì một chuyện bất đồng với người chỉ huy, ông bỏ ngũ. Năm 1945, toàn bộ ruộng đất và tài sản của gia đình ông bị Cách mạng tịch thu, bản thân ông bị kết án tử hình vì tội đào ngũ. Ông bỏ trốn lên Sài Gòn với hai bàn tay trắng. Từ cuộc mưu sinh bằng công việc làm môi giới vật liệu xây dựng, ông trở thành chủ hãng gạch bông Đời Tân, vua cao ốc và trùm Ngân hàng Tín nghĩa. Nhưng rồi không hiểu vì sao, ông bị Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tổ chức ám sát hụt chết hai lần rồi bị bắt giam, tịch thu gia sản cùng với cả hệ thống Tín nghĩa Ngân hàng. Năm 1975, ông vượt biên sang Canada với hai bàn tay trắng. Ở đây, ông bắt đầu gầy dựng lại cơ nghiệp và lại thành công với chuỗi nhà hàng Kobe từ Canada sang Bắc Mỹ. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1995 tại Orlando, bang Florida, Hoa Kỳ, thọ 73 tuổi. Cuốn hồi ký ông xuất bản cũng tại Florida vào năm 1988, dầy 310 trang, trong đó ông dành hơn 5 trang để kể tóm tắt về dự án Mỗi Người Dân Một Mái Nhà như sau:

“Sau khi thành công trên đường sự nghiệp, một ngày đẹp trời nọ, tôi đứng trên cao ốc, tầng 12 của Président Hotel 727 đường Trần Hưng Đạo Saigon. Nhìn quanh tứ phía, tôi thấy nhà cửa dân nghèo ở Thủ đô được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông hay Saigon Hoa Lệ, người dân đang sống trong các chòi ọp ẹp, sình lầy, tối tăm, bẩn thỉu… Tôi chạnh lòng nhớ đến những tá điền quen thuộc xưa kia, họ mộc mạc, hiền lương, đầy tình người và thật thà, giản dị… Cũng tự nghĩ, dù tôi có làm giàu đến đâu đi nữa, chỉ được tiếng giàu có như “Thạch Sùng”, cũng chỉ ngày ba bữa ăn mà thôi, rồi khi chết, chỉ còn hai bàn tay trắng với một nấm mồ ở lòng đất lạnh.
Nay tôi đã giàu có rồi, dư ăn dư để, thử hỏi tại sao tôi phải tiếp tục làm giàu thêm để sống một nếp sống ích kỷ, không nghĩ đến kẻ bất hạnh nghèo khó, chân lấm tay bùn, họ chỉ vì an ninh mà bỏ nơi chôn nhau cắt rún, bỏ ruộng vườn, nhà cửa cũng vì chiến tranh, họ tìm nơi lánh nạn, nên đã chịu chui rúc như ổ chuột. Vậy tôi phải làm gì, trước để giúp người dân, sau để lòng mình được an vui thanh thản, còn để lại tiếng tốt cho mai sau, hơn là cứ dấn thân vào tiền tiền, bạc bạc mãi. Đắn đo suy nghĩ mãi, rồi cũng tìm ra được một chương trình “Mỗi Người Dân Một Mái Nhà” mà không tốn tiền công quỹ quốc gia”.

Theo Nguyễn Tấn Đời, chương trình “Mỗi Người Dân Một Mái Nhà” của ông được phác thảo với nhiều dự án trải dài từ các quận ngoại thành đến vùng ven đô thị của các tỉnh miền Nam. Giải pháp ông đưa ra là mua đất của dân theo giá cả hiện hành, quy hoạch thành các trung tâm thương mại và khu đô thị sang trọng, bao gồm những khu nhà song lập, biệt lập và nhà liên kế để kinh doanh, tạo ra nguồn quỹ để xây những khu nhà bình dân cấp không cho người nghèo.

Nguyễn Tấn Đời chọn Thủ Thiêm để thiết lập dự án đầu tiên cho chương trình Mỗi Người Dân Một Mái Nhà. Theo dự án nầy, ông sẽ mua 500 mẫu đất từ bến đò Thủ Thiêm lên Cát Lái. Ngay chỗ bến đò Thủ Thiêm, ông sẽ cho xáng múc con kinh chiều ngang 30 mét, sâu 25 mét, dài 500 mét ăn sâu vô đất liền. Ở đoạn cuối con kinh, ông cho làm cái hồ nhân tạo, ngang 500 mét, dài 1.000 mét, sâu 15 mét, dùng xáng thổi đất lên bốn phía bờ hồ để san lấp mặt bằng. Xung quanh bờ hồ và dọc theo hai bờ kinh, ông xây dựng thành khu thương mại, đồng thời, xây dựng những khu nhà biệt lập, song lập để kinh doanh, tạo nguồn quỹ để xây dựng những khu nhà bình dân lân cận, cấp không cho người nghèo. Trong khu nhà bình dân sẽ có đầy đủ hạ tầng kỹ thuật, đường xá, điện nước, cây xanh, đầy đủ tiện nghi phục vụ cho đời sống. Theo ông, Thủ Thiêm sẽ là một Saigon mới, một Hongkong thứ hai, có bến phà lớn, có xe bus qua lại liên tục cho người dân đi về với Saigon, Chợ Lớn để mưu sinh, có bến tàu thương mại để vận chuyển hàng hóa từ các tỉnh và ngược lại. Khu thương mại chung quanh bờ hồ và hai bên bờ kinh được ăn thông với sông Saigon để ghe thương hồ mang hàng hóa trực tiếp đến người tiêu thụ, giảm bớt trung gian. Hồ nhân tạo ngoài vai trò cảnh quan và giao thương còn là nơi sinh hoạt lễ hội với các hoạt động văn hóa tượng trưng cho miền sông nước. Trên các đường phố, mỗi lề đường sẽ được trồng một loài cây riêng biệt và giao cho từng gia đình chăm sóc, hàng năm tổ chức cuộc thi cây đẹp trong từng khu phố và cây đẹp trong toàn vùng để trao giải thưởng để khuyến khích người dân tham gia làm nên vẻ đẹp của thành phố.

Soạn thảo chương trình xong, Nguyễn Tấn Đời trình với phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, được ông Thơ góp ý, chỉnh sửa rồi trình lên Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông Diệm cho mời ông Đời vào dinh, tỏ ý hoan nghinh. Chỉ một tháng sau, chương trình Mỗi Người Dân Một Mái Nhà của Nguyễn Tấn Đời đã được ông Diệm phê duyệt trên nguyên tắc. Theo đó, ông Diệm quyết định xuất 500 triệu từ quỹ xổ số kiến thiết cho Nguyễn Tất Đời vay không lãi trong mười năm, với điều kiện ông Đời phải đem toàn bộ tài sản ra thế chấp cho Chính phủ; giao cho Nguyễn Tấn Đời được toàn quyền điều hành dự án dưới sự giám sát về kỹ thuật của Bộ Công Chánh và giám sát nguồn thu và nguồn chi của Bộ Tài Chánh. Nhưng tiếc thay, dự án Thủ Thiêm chưa kịp triển khai thì Tổng thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh.

Từ năm 1965 đến năm 1972, chính phủ đệ nhị Cộng hòa cũng đã hai lần thuê các chuyên gia nước ngoài lập đồ án quy hoạch khu đô thị Thủ Thiêm nhưng không thành. Nhiều người cho rằng do hoàn cảnh chiến tranh. Nhưng theo bạn tôi thì đất Thủ Thiêm có vấn đề về phong thủy.

II: CÚ LỪA NGOẠN MỤC

Tháng Năm năm 2018, trong những ngày Thủ Thiêm trào nước mắt với tiếng kêu khóc thảm thiết của những người dân bị cướp nhà cướp đất dậy sóng trên mạng xã hội, bất chợt người ta thấy trên Facebook của chị Mai Xuân Phượng có một stt ngắn với những lời “Xin lỗi nhân dân, tôi ngàn lần xin lỗi nhân dân… với trách nhiệm là chủ tịch phường An Khánh, tôi đã thuyết phục bà con chấp hành giao đất, hy sinh lợi ích riêng tư rời xa nơi chôn nhau cắt rốn, nơi gắn bó từ thời thơ ấu đến tuổi xế chiều để nhường chỗ cho việc hình thành khu đô thị mới Thủ Thiêm. Tôi ngàn lần xin lỗi bà con vì tôi đã tin tưởng tuyệt đối cấp trên sẽ đưa dân mình vào tái định cư tại chỗ theo quy hoạch, để cuối cùng tôi cũng cùng chung số phận với bà con, ra đi rồi không có chỗ để quay về. Xin bà con hãy tha thứ cho tôi – Mai Xuân Phượng, nguyên phó bí thư, chủ tịch phường An Khánh”. Và rồi chỉ trong phút chốc, những lời xin lỗi ấy bỗng biến mất đi.

Cảm giác có cái gì đó bí ẩn ở người phụ nữ nầy, chúng tôi tìm đến chị ở phường Thạnh Mỹ Lợi, cách Thủ Thiêm hơn mười cây số.

Chị Phượng kể, gia đình chị ba đời sống ở Thủ Thiêm, tính ra đã hơn một trăm năm, từ khi nơi đây còn là vùng đất hoang vu. Cha chị, ông Mai Văn Năm đã từng làm phó chủ tịch xã An Khánh, mẹ chị, bà Nguyễn Thị Bông, từng là “Việt cộng nằm vùng”, từng vào tù ra khám và đã qua đời. Chị Phượng đi Thanh niên xung phong từ năm 1976, tham gia tải đạn ở chiến trường biên giới Tây Nam. Sau một trận sốt rét rừng bán sống bán chết, chị được giải ngũ, đi học văn hóa, chính trị rồi về An Khánh làm chủ tịch phường từ năm 1997 đến giữa năm 2004. Cũng trong những năm ấy, Thủ Thiêm được Chính phủ phê duyệt quy hoạch thành khu đô thị mới. Nhìn vào bản đồ quy hoạch, người ta hình dung một Thủ Thiêm nguy nga, tráng lệ như Phố Đông của Thượng Hải, như Manhattan của New York, một trung tâm thương mại, tài chính, văn hóa mang tầm quốc tế, một khu đô thị sinh thái đậm chất Nam Bộ với những dòng sông, ao hồ, kinh rạch ngoằn ngoèo, những làng biệt thự, những tòa nhà chọc trời từ 32 đến 40 tầng soi bóng nước. Nhưng theo chị Phượng, niềm vui lớn nhất của chị là 14 ngàn 600 hộ dân với 60 ngàn cư dân trong vùng dự án sẽ được táo định cư tại chỗ trên diện tích 160 héc ta theo quy hoạch. Nghĩa là họ sẽ thoát khỏi cảnh bùn lầy, ao tù nước đọng, nhà cửa nhếch nhác, âm u, muỗi mòng, rắn rết để tận hưởng đời sống của một khu đô thị Thủ Thiêm mang tầm quốc tế. Từng ngày, từng ngày đi tuyên truyền, vận động bà con trong phường giao đất, chị đã nói như thế. Và, bà con đã hăm hở giao đất cho nhà nước để ra đi về nơi tạm cư với một niềm tin như thế, một niềm tin đổi đời cho ngày trở lại với một Thủ Thiêm như một thiên đường.

Năm ấy, ông Mai Văn Năm, ba chị Phượng đã tám mươi hai tuổi. Chị Phượng còn nhớ như in, ngày dọn nhà ra đi, ba chị quảy cái túi trên vai, tay cầm cái bình thủy đứng trước sân, nhìn lại ngôi nhà, nhìn lại khu vườn mà rưng rưng nước mắt, ông nói hơn tám mươi năm ba đã gắn bó với nơi nầy, biết bao nhiêu kỷ niệm buồn vui của một đời người… nhưng mà thôi… mình ra đi là để trở về với một Thủ Thiêm đàng hoàng hơn, văn minh hơn… Nghĩ thế mà ông Năm vừa cười vừa lau nước mắt.

Nhưng sau đó không lâu, ông Năm lâm bệnh và qua đời ở nơi tạm cư. Chị Phượng nói… cũng may phước cho ba tôi là ông mang xuống mồ một viễn cảnh huy hoàng của Thủ Thiêm trong tương lai con cháu, cũng may phước là ông không phải chứng kiến cái cảnh ta thán nhân tình của Thủ Thiêm suốt gần hai chục năm qua, khi mà sau đó hơn mười bốn ngàn hộ dân với hơn sáu vạn con người bị sa vào một cú lừa ngoạn mục, nghĩa là 160 héc ta đất tái định cư của dân bị cướp trên tay để biến thành đất kinh doanh của những đại gia bất động sản. Họ ra đi rồi không có đường quay lại như lời hứa ban đầu. Mỗi gia đình nhận một ít tiền hỗ trợ để mua đất tái định cư tận trên Cát Lái, Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi và Nam Rạch Chiếc, cách xa nơi chôn nhau cắt rún của họ hơn mười cây số.

Dân Cát Lái, Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi, Nam Rạch Chiếc lại bị người ta nhân danh “thu hồi đất để tái định cư cho dự án Thủ Thiêm”, phải chịu lây mất đất. Nhưng lòng tham không dừng lại, dự án tái định cư cho Thủ Thiêm ở Nam Cát Lái, người dân ở đây bị thu hồi 90 héc ta, nhưng người ta lại bán cho tập đoàn Novalan 30 héc ta để xây làng biệt thự và tập đoàn Đất Xanh 30 héc ta để xây khu resort.

Chị Phượng vừa hỗ thẹn với bà con, vừa xót đau cho thân phận của mình bởi chính chị cũng nằm trong hàng vạn con người bị một cú lừa ngoạn mục.

III: TA THÁN NHÂN TÌNH

Các-Mác từng nói: Khi lợi nhuận tăng lên 100 phần trăm thì cha nó nó cũng giết. Điều đó cũng có thể hiểu rằng, vì sao người ta bất chấp tình đồng loại, bất chấp đạo lý, bất chấp nghĩa nhân và luật pháp để đuổi hàng vạn người dân cố cựu ra khỏi Thủ Thiêm – vốn là nơi chôn nhau cắt rún của họ để nuốt trọn 160 héc ta đất tái định cư của dân mà Chính phủ đã phê duyệt. Không có gì khó hiểu khi bùn đen đã trở thành vàng, không có gì khó hiểu khi đất từ hai trăm ngàn đồng lên vài trăm triệu đồng trên mỗi mét vuông.

Trong những trang tiểu thuyết, những tuồng tích kiếm hiệp, thỉnh thoảng ta thấy xuất hiện những tay giang hồ hảo hớn chuyên cướp của người giàu để chia cho người nghèo. Ngay cả cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền Việt Minh cũng tịch thu đất đai của điền chủ để phân phát cho tá điền. Vậy thì tại sao ngày nay, người ta nhân danh chính quyền của dân, do dân, vì dân lại đi cướp đất của người dân khốn khổ để giao cho những đại gia bất động sản tiếp tục làm giàu? Điều nầy chỉ có những quan chức trong cuộc mới có thể tự lý giải với lương tâm (nếu có lương tâm) hoặc trả lời trước vành móng ngựa (nếu có thể lôi họ ra được vành móng ngựa).

Sau khi nuốt trọn 160 héc ta đất tái định cư của dân, người ta lại tiếp tục cướp luôn phần đất đai và cả sự sống của những hộ dân nằm ngoài khu quy hoạch. Nghĩa là họ không thể để cho người dân lân cận được “ăn theo” môi trường sang trọng của khu đô thị mới Thủ Thiêm.

Chúng tôi gặp cụ Lê Huy Tiêu, 83 tuổi chống gậy đi từng bước chậm với sự dìu dắt của người vợ là cụ bà Trần Thị Mỹ, 77 tuổi. Hầu như mỗi ngày hai ông bà đều tới quán cà phê số 16 Vũ Tông Phan của anh Bùi Quốc Toản để trò chuyện cùng với hàng chục dân oan Thủ Thiêm, những người cùng nỗi niềm mất đất. Anh Toản sau khi bị cướp đất cướp nhà, anh về đây thuê một căn phố để mở quán cà phê kiếm sống. Khách của anh hầu hết là những dân oan. Vốn là người học cao hiểu rộng, am tường về pháp luật, nên anh Toản tư vấn hồ sơ khiếu kiện giúp cho từng hộ gia đình. Mỗi người khách đến đây đều quảy trên lưng một ba lô chứa đựng hồ sơ. Có lẽ, đó là phần tài sản duy nhất, sự sống duy nhất của họ sau khi nhà cửa đất đai bị cướp. Riêng cô Trần Thị Mỹ thì bộ hồ sơ của cô đóng thành một tập dầy cộm, có cả những bức ảnh màu chụp nhiều hình ảnh của khu vườn và ngôi nhà bị cướp.

Cô Mỹ và chú Tiêu thuộc thế hệ đầu của trường đại học Bách khoa Hà Nội. Chú Tiêu từng du học ở Đức, ở Liên Xô, và từng làm chuyên gia cho Bỉ, cho Hà Lan rồi về nước làm việc ở Viện nghiên cứu khoa học của Bộ Thủy Lợi, cô Mỹ làm chuyên viên của Tổng Công ty Xây dựng số 4.

Cô Mỹ kể rằng, hồi xưa quê cô ở làng Vũ Đại, cha cô, ông Trần Đức Thùy, gia đình nghèo không ruộng đất phải đi cạo mủ cao su. Năm 18 tuổi, ông tha hương cầu thực vào Nam, rồi sang Campuchia làm công nhân cho một đồn điền cao su của Pháp. Cô Mỹ được sinh ra trên đất khách. Năm 1945, cha cô hồi hương, tham gia Việt Minh ở Sài Gòn. Năm 1958, cô Mỹ được đi tập kết ra Bắc. Năm 1978, cả hai vợ chồng cùng chuyển vào Nam. Đầu thập niên 1990, họ lần lượt về hưu và sống cùng con cháu trong căn hộ chung cư ở quận 5. Năm 2001, họ qua Thủ Thiêm mua 2120 mét vuông đất ruộng trên đường Lương Định Của rồi san lấp thành một khu vườn, trồng xoài, trồng mít, trồng mận, trồng nhãn, trồng hoa kiểng và nuôi mấy đàn ong. Năm 2005, khi vườn cây bắt đầu cho trái, cô chú vừa mới tìm được niềm vui sau những năm khai hoang nhọc nhằn vất vả, cứ tưởng bắt đầu từ đây sẽ được tận hưởng thành quả lao động trong niềm vui của tuổi xế chiều. Cứ nghĩ, biết rằng tuổi mình không còn vui thú điền viên được bao lâu nhưng ít ra cũng làm nên một gia sản để lại cho đời con đời cháu. Nhưng có ngờ đâu nhân tai ập đến, cô nhận được thông báo giải tỏa với mức đền bù theo giá đất nông nghiệp là 150.000 đồng một mét vuông, cộng với 50.000 đồng công san lấp, nghĩa là họ sẽ đền bù cho cô tổng cộng trên 400 triệu đồng, nghĩa là tổng cộng số tiền không bù nổi công san lấp (!).

Cô Mỹ bắt đầu đi kiện, cuộc khiếu kiện kéo dài đến năm 2012, họ nâng lên mức đền bù cho cô mỗi mét vuông là 920.000 đồng, cô vẫn không chấp nhận. Lúc bấy giờ, những hộ chung quanh xóm cô đều bị cướp nhà cướp đất được mệnh danh bằng cụm từ cưỡng chế giải tỏa thu hồi đất. Cô nghĩ, trước sau gì cũng tới phận mình, nhưng với lòng tự trọng của người trí thức, cô không muốn bị tổn thương khi người ta đem cobe, xe ủi, xe cứu thương, cứu hỏa cùng với hàng trăm nhân viên công lực bao vây lôi mình ra sân để chiếm đoạt nhà cửa đất đai, cô lên quận làm giấy tờ thỏa thuận rằng, cô tạm thời giao đất cho chính quyền và tạm nhận căn hộ chung cư để tiếp tục đi khiếu kiện, tất nhiên, cô không chấp nhận đồng tiền gọi là đền bù giải tỏa trên bốn tỷ đồng.

Vậy là từ ấy đến nay, mười bảy năm cô về sống Thủ Thiêm thì đã mất mười bốn năm đi kiện với hàng trăm lá đơn kêu cứu. Nhưng đất trời nào có thấu? Cô kiện thì cứ kiện, trên trang web của ban quản lý dự án người ta vẫn kêu gọi đầu tư vào khu đất của cô, và, trong các dự án giáp ranh với khu đất ấy, một mét vuông đã lên đến hơn 200 triệu đồng.

Tôi nhìn cô dìu chú Tiêu đi từng bước chậm mà không kềm được nỗi xót xa, cô chú sẽ còn tiếp tục đi kiện đến bao giờ, còn đủ sức và quỹ thời gian để đi kiện được bao lâu trong khi hai tấm thân già đã tới tuổi gần đất xa trời!

*
Ông Nguyễn Phi Thường, 71 tuổi, nhưng trông dáng người lụm khụm, khắc khổ, trầm buồn, lúc nào cũng như đang khóc. Có lẽ vì chuyện bi kịch đất đai đã quá sức chịu đựng của ông.

Ông Thường sinh năm 1948 ở Ninh Bình, năm 22 tuổi, ông tình nguyện nhập ngũ, vượt Trường Sơn vào Nam, tham gia những trận chiến bán sống bán chết ở Quảng Bình, Quảng Trị, Campuchia, mang trên người nhiều thương tích và chiến tích. Năm 1987, ông ra quân vì mất sức. Sau nhiều năm lang thang trong hẻm hóc ở Sài Gòn, đến năm 2001 ông cùng sáu anh em trong gia đình hợp sức, bán hết tài sản hùn lại sang Thủ Thiêm, thuộc phường Bình Khánh mua gần mười ngàn mét vuông đất ruộng chỗ cầu Cá Trê và giao cho ông Thường đứng tên cai quản. Thấy trồng lúa không khá nổi, ông xin chuyển sang đất thổ vườn, ông san lấp 400 mét vuông làm nhà ở, toàn bộ phần còn lại ông đào ao lên liếp, dưới nước nuôi cá, trên bờ trồng 400 cây xoài và tu dưỡng hơn 40 cây dừa của người chủ cũ. Những ao cá đã cho ông đủ cập nhật manh áo chén cơm, nhưng vườn xoài phải đợi chờ qua nhiều năm tháng. Nghĩ thế, ông Thường chuyển sang nghề kinh doanh cây kiểng, ông ươm trồng và mua bán các loại hoa. Cần cù và chịu khó, chỉ sau ba năm, vườn kiểng An Bình của ông Thường trở nên nổi tiếng ở Thủ Thiêm, ông trồng mai vừa bán vừa cho thuê trong dịp tết, ông nhận chăm sóc mai cho khách, ông trồng cau sâm banh cung cấp cho các biệt thự sân vườn… 400 cây xoài và gần 50 cây dừa cũng đã đơm bông kết trái.

Thế rồi đùng một cái, nhà chức trách tới báo cho ông biết rằng đất của ông nằm trong khu quy hoạch, phải thu hồi. Người ta đưa cho ông bảng chiết tính đền bù 150.000 đồng một mét vuông, hỗ trợ tái định cư 720.000 đồng một mét vuông, với điều kiện phải ra đi tự tìm chỗ tái định cư, nếu ông nhận căn hộ chung cư thì sẽ không nhận 720.000 đồng của mỗi mét vuông phần hỗ trợ. Tùy ông lựa chọn. Không cần lựa chọn, không cần nghĩ suy toan tính, ông Thường hiểu ngay rằng, với một vườn kiểng, vườn cây ăn trái, ao cá gần một héc ta đổi lấy một căn hộ chung cư thì chỉ có thằng điên mới chấp nhận. Nhưng nghịch lý thay, đây không phải là cuộc thỏa thuận mà là sự áp đặt của kẻ cầm quyền. Chấp nhận hay không là việc của ông, còn việc của chính quyền là cưỡng chế thu hồi đất bằng bạo lực.

Ngày 14 tháng 10 năm 2011, khoảng mười giờ sáng, sau khi cưỡng chế hai căn nhà bên cạnh, họ kéo tới trước nhà ông, hàng trăm nhân viên công lực được trang bị tận răng trong tư thế sẵn sáng chiến đấu, xe cuốc, xe ủi, xe cứu thương, xe cứu hỏa cùng một đoàn xe tải xếp hàng chờ lệnh. Biết mình không thể chống cự, ông Thường cùng vợ con, cháu nội cháu ngoại chị biết khóc lóc đứng nhìn. Sau khi nhà chức trách đọc xong lệnh cưỡng chế, xe ủi, xe cuốc xông vào san phẳng ngôi nhà, nhân viên công lực cầm cưa máy xông vào quật ngã vườn cây. Vườn mai hàng trăm cây của ông và của khách gởi ông chăm sóc, trị giá hàng tỷ đồng bị chúng nó khiêng từng chậu chất đầy tám chiếc xe tải, chở đi đâu ông không biết…

Câu chuyện xảy ra gần tròn bảy năm, giờ ông Thường kể lại vẫn trong trạng thái kinh hoàng, rưng rưng nước mắt. Ông cho tôi xem bức ảnh chụp vườn cau sâm banh bị chúng cưa đứt đọt, hàng trăm cây xếp hàng dọc hàng ngang, trông thê thảm như hàng trăm con người bị chém đứt đầu. Những bức ảnh chụp khu vườn xoài vườn kiểng hoa trái xum xuê cùng với những bức ảnh chụp khu vườn đổ nát, hoang tàng sau khi bị cướp. Ông Thường nói, nhà tôi hồi năm 1953 bị Tây đốt một lần, tới năm 1966, một lần nữa bị bom Mỹ đánh sập, nhưng không đến nỗi kinh hoàng, khủng khiếp như lần nầy…

Suốt bảy năm qua, ông Thường vừa cùng với bà con Thủ Thiêm đi kiện, mặt khác, ông xin vào làm bảo vệ cho một công ty để kiếm đồng lương phụ với con cái thuê nhà. Nhưng đầu năm nay, tuổi cao sức yếu, người ta không thèm thuê ông nữa.

IV: TỘI ÁC NỐI DÀI TỘI ÁC

Chị ơi! Sắp đến ngày kỷ niệm 43 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Em hy vọng đảng bộ thành phố sẽ giải quyết dứt điểm vụ khiếu nại tố cáo của việc cưỡng chế thu hồi đất trái pháp luật tại địa chỉ B26/9 khu phố 1, phường Bình An, quận 2 theo đúng pháp luật để chúng em còn ổn định lại cuộc sống. Đập nhà chúng em, thu gom toàn bộ từ xác nhà và tất cả đồ đạc chở đi đâu đến nay chúng em không biết, làm cho một gia đình đang sinh sống ổn định, hạnh phúc, bỗng chốc nhà tan cửa nát, đó là tội ác. Gần sáu năm nay chúng em sống vất vưởng, chồng em cũng vì việc nầy mà sinh đổ bệnh rồi chết. Tại sao đất nước HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP mà chúng em không có TỰ DO, HẠNH PHÚC? Kính xin chị và đoàn đại biểu Quốc hội hãy lên tiếng cho chúng em. Xin hãy thương xót cảnh mẹ góa con côi, thương cảnh con gái em sanh không có nhà để ở…”. Đó là những dòng tin nhắn của chị Nguyễn Thị Kim Phượng gởi chị Nguyễn Thị Quyết Tâm, phó bí thư thành ủy.

Trong chiếc điện thoại “cùi bắp” của chị Phượng còn lưu lại hàng loạt tin nhắn với nội dung tương tự như vậy gởi cho các vị lãnh đạo thành phố, nhưng phần lớn những tin nhắn ấy chìm trong im lặng, cũng có vài tin nhắn mà phía dưới có vài câu phản hồi ngắn gọn, vô cảm, khô khốc, lạnh lùng, đại loại như “Hãy yên tâm chờ … giải quyết”. Chị Phượng nói buồn quá, đau quá, tuyệt vọng quá không biết làm gì, chị gởi tin nhắn để cầu may.

Tháng 3 năm 1976, chị Phượng tham gia lực lượng thanh niên xung phong, đi xây dựng nông trường Phạm Văn Hai cùng với ông Trương Tấn Sang. Năm 1978, chị tình nguyện chuyển sang quân đội, làm việc tại phòng vận tải trung đoàn 657, thuộc cục hậu cần quân khu 7. Năm 1981, chị ra quân với cấp hàm thượng sĩ, chuyển qua làm việc tại công ty dược 3/2. Năm 1985, chị kết hôn với anh Trương Việt Hiếu, công nhân cơ khí cùng cơ quan. Năm 1986, vợ chồng chị được cấp và hóa giá căn nhà 87 mét vuông trên đường Lương Định Của. Họ sinh được hai đứa con, một trai một gái. Cuộc sống sẽ kéo dài hạnh phúc, và căn nhà của chị vốn nằm ngoài ranh quy hoạch, cạnh khu đô thị mới Thủ Thiêm, vợ chồng chị sẽ sở hữu khối tài sản trị giá vài chục tỷ đồng nếu ngôi nhà không bị cướp.

Một hôm, có một nhóm người của nhà nước tới cho chị hay, nhà của chị nằm trong diện phải thu hồi, đề nghị chị cho họ đo vẽ để chiết tính giá đền bù. Anh Hiếu nói đất của anh không nằm trong quy hoạch khu đô thị Thủ Thiêm, và anh đuổi họ ra khỏi nhà. Cứ thế, mỗi lần họ tới đo vẽ đều bị đuổi. Cuối cùng họ dùng biện pháp cưỡng chế.

Ngày 4 tháng 11 năm 2010, hơn một trăm nhân viên công lực cùng với nhân viên địa chính, xe cứu thương, cứu hỏa kéo tới, họ cắt hàng rào lưới B40 rồi xông vào đo vẽ. Sau đó họ lập bảng chiết tính, áp giá đền bù cho vợ chồng chị theo hai phương án: Thứ nhất, chị sẽ nhận số tiền 236.449.000 đồng và được mua căn hộ chung cư 51 mét vuông bằng số tiền ấy, nếu muốn mua căn hộ diện tích rộng hơn thì chị phải trả tiền thêm theo giá bảo toàn vốn. Phương án thứ hai, nếu chị không mua căn hộ tái định cư thì sẽ nhận khoảng đền bù cộng với tiền hỗ trợ di dời tương đương 18.000.000 đồng trên mỗi mét vuông cả nhà lẫn đất, tức khoảng hơn 1,5 tỷ đồng rồi tự đi tìm chỗ ở.

Anh Hiếu và chị Phượng cùng hàng trăm bà con Thủ Thiêm làm đơn khiếu nại, nhưng không thành. Ngày 29 tháng 6 năm 2012, chúng đem quân tới cưỡng chế. Chị Phượng thương lượng xin hoãn lại hai tuần, họ chấp nhận không đập nhà. Chị viết thư gởi khẩn cấp cho ông Trương Tấn Sang hy vọng cầu cứu ở người sếp cũ. Ông Sang chỉ đạo cho văn phòng Chủ tịch nước làm công văn gởi ông Tất Thành Cang, yêu cầu ông Cang tiếp chị Phượng và báo cáo sự việc lên Chủ tịch nước trước ngày 20 tháng 8 năm 2012. Chị Phượng mừng rỡ mang “lá bùa” ấy lên ủy ban quận 2, nhưng ông Cang không tiếp. Ngày 31 tháng 7 năm 2012, tức là trước thời hạn 20 ngày ông Tất Thành Cang phải trả lời Chủ tịch nước, một đoàn xe cứu hỏa, cứu thương, xe tải, xe ủi, xe cuốc cùng với hàng trăm nhân viên công lực kéo đi giải tỏa, đập phá sáu căn nhà ở khu phố 1, đường Lương Định Của, phường Bình An.

Căn nhà chị Phượng bị đập vào lúc 10 giờ 30 sáng, toàn bộ vật dụng trong nhà chúng chất lên xe tải chở đi đâu không biết, chỉ nghe chúng nói chở vào khu tạm cư. Vợ chồng chị Phượng không vào khu tạm cư, chị nói trong đó chúng nhét mỗi gia đình vô căn phòng tạm bợ 21 mét vuông, không đủ chứa vật dụng thì làm sao ăn ở. Hai đứa con, một đứa về nhà cậu, một đứa về nhà ngoại, anh Hiếu vào ở trong cơ quan, chị Phượng lấy bốn khúc tre với tấm nilon dựng mái lều trên cái nền nhà đổ nát, đi kiếm việc làm thuê tạm sống qua ngày, ai kêu lau nhà thì tới lau nhà, ai kêu đón con thì đi đón con. Anh Hiếu có hôm thì ở cơ quan, có hôm thì về tá túc trong mái lều với chị.

Trong cảnh màn trời chiếu đất, anh Hiếu lại lâm trọng bệnh, khi đưa anh vào nhập viện, chị Phượng như sét đánh ngang tai, người ta cho chị hay anh Hiếu bị ung thư phổi ở giai đoạn cuối. Không còn khả năng điều trị, nhưng về đâu? Không thể đưa anh về chờ chết trong mái lều bạt trên nền nhà cũ. May thay, người chị ruột của chị ở Gò Vấp bảo chị đưa anh về đó tạm trú trong những ngày tháng cuối đời. Và cuối cùng, anh Hiếu đã ra đi trong cảnh tan nhà nát cửa. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, anh nói với chị Phượng rằng khi di quan, hãy cho chiếc xe tang chở anh đi qua con đường Lương Định Của để anh chào vĩnh biệt ngôi nhà, dù bây giờ nó chỉ còn là mái lều trơ trọi. Nhưng khi di quan, nhân viên của nhà chức trách bước lên chiếc xe tang, ngồi cạnh tài xế với lý do là để can thiệp khi tình huống kẹt xe. Thế là, chiếc xe tang đi thẳng về nhà hỏa táng Bình Hưng Hòa.

Tiếp xúc với chị Phượng, tôi cảm nhận được nỗi đau đã làm cho chị biến đổi tính tình. Từ một mái lều bạt, chị nhặt tol cũ chung quanh về dựng lại căn chòi trên nền nhà cũ, nền rải đá mi, một chiếc ghế bố, một bàn thờ nhỏ cho anh Hiếu, một chồng hồ sơ khiếu kiện. Đó là tất cả những gì còn lại sau trận cướp phá kinh hoàng.

Đã khổ đến thế, nhưng chị Phượng còn quan tâm, chở che cho những thân phận khổ hơn mình. Chị đưa chúng tôi đến thăm chị Vinh, một trong vài căn nhà còn sót lại giữa cái bãi đất hoang tàn, ngổn ngang xà bần của hàng trăm ngôi nhà bị đập phá trên đường Lương Định Của.

Chị Phạm Thị Vinh năm đời cha ông sống ở Thủ Thiêm, chị bị khuyết tật bẩm sinh, phải di chuyển bằng xe lăn và nạng gỗ. Năm 1968, lên 11 tuổi, chị được tổ chức Terre des hommes đưa sang Tây Đức nuôi dưỡng và cho học hành, đến năm 1974, chị quên mất tiếng Việt nên không liên lạc được với gia đình, chị xin phép về Việt Nam ôn lại Việt ngữ một thời gian ba năm, đến năm 1975, chị kẹt ở lại. Cha mẹ qua đời, chị lên Đồng Nai học Đông y rồi về Thủ Thiêm dựng căn nhà gỗ 15 mét vuông cạnh ủy ban phường Bình An, mở quán nước và phòng mạch Đông y từ thiện, khám chữa bệnh bằng thuốc Nam, ai cho bao nhiêu thì bỏ vào thùng phước thiện. Chị nói ở đây hồi ấy còn hoang vu, gần phòng mạch của chị có cái bô rác của chính quyền cũ để lại, chị lên quận xin dọn dẹp để cất nhà ở, ông chủ tịch quận nói mầy cất nhà chỗ đó tao còn mừng, để cái bô rác vừa mất mỹ quan, vừa ô nhiễm môi trường, lại là nơi chích choác của bọn xì ke ma túy. Chị Vinh thuê xe rác tới dọn dẹp rồi thuê người tới đập phá, san lấp mặt bằng, dựng lên căn chòi che mưa che nắng. Phòng mạch của chị bắt đầu thu phí, có được ít tiền, chị thuê thợ xây nhà, mua vật liệu trả góp, vay mượn bạn bè, cuối cùng chị đã dựng lên được ngôi nhà cấp bốn.
Thế nhưng, khi cuộc càn quét Thủ Thiêm xảy ra, chị Vinh không được đền bù vì nhà của chị không có giấy tờ. Người ta chỉ bảo chị đi tạm cư ở một căn hộ chung cư để giao đất cho nhà nước, chị nói tôi què quặt thế nầy là sao ở được chung cư, hồi xưa chỗ nầy là cái bô rác, tôi xin cất nhà, các anh còn mừng, tại sao bây giờ các anh lại cướp của tôi? Nói gì thì nói, không đi thì cưỡng chế.

Cuộc cưỡng chế lần thứ nhất không thành vì luật sư Trần Vũ Hải đứng ra bảo vệ chị, ông nói nếu các anh cưỡng chế nhà chị Vinh, tôi sẽ tố cáo các anh lên tổ chức bảo vệ người tàn tật thế giới. Chúng tạm dừng lại. Cuộc cưỡng chế lần thứ hai, bà con Thủ Thiêm kéo tới làm hàng rào sống bảo vệ chị. Chúng tạm dừng lại. Cuộc cưỡng chế lần thứ ba, cũng vậy, bà con kéo tới làm hàng rào cản đầu xe ủi, trong nhà, chị Phượng chuẩn bị sẵn đầy một bình xăng trong chiếc Honda, sẵn sàng châm lửa, chị nói với chị Vinh, chuyến nầy hai chị em mình cùng chết. Chúng dùng loa tay đọc lệnh cưỡng chế và kêu gọi chị Vinh mở cửa, mở cổng rào để giao nhà, giao đất. Bà con bên ngoài hò hét, đả đảo, chửi bới làm át tiếng loa, bên trong, chị Phượng mở nắp bình xăng, tay cầm quẹt gas, tay cầm tờ giấy báo làm mồi lửa trong tư thế sẵn sàng. Cuối cùng chúng phải rút quân.

V: ĐAU THƯƠNG CHỒNG CHẤT ĐAU THƯƠNG

Gần nhà chị Vinh, một ngôi nhà còn sót lại nằm chơ vơ giữa bãi tha ma là ngôi nhà của vợ chồng ông Hùynh Văn Lực và bà Nguyễn Thị Giáp. Ông Lực 91 tuổi đời, 70 tuổi đảng, bị tai biến mạch máu não nằm liệt giường, bà Giáp 83 tuổi, lụm khụm chăm sóc cho chồng. Hồi xưa họ có người con trai hiền lành, ngoan ngoãn, nhưng đã chết vì tai nạn điện. Bà nói, nếu nó còn sống thì đỡ khổ cho tôi, ít ra có con cháu cũng bớt đi sự cô quạnh của tuổi già. Giờ trong tình cảnh nầy, nếu tôi ngã bệnh thì thật là khổ.

Tôi hình dung điều gì sẽ xảy ra nếu không may bà ngã bệnh giữa cái bãi tha ma nầy, trong căn nhà không có người thứ ba, chung quanh không có láng giềng. Tôi không dám so sánh với bất kỳ quốc gia nào, xã hội nào về chính sách nhân đạo đối với tuổi già, và có lẽ, bà Giáp cũng không có mong muốn nào hơn ngoài việc đừng cưỡng chế, đừng đập phá cướp đất, hãy để yên cho vợ chồng bà trong những năm tháng ngắn ngủi còn lại cuối đời.

Vợ chồng bà Giáp đều là viên chức của Bộ Vật tư, khi về hưu, họ được cấp một căn nhà cộng cư bên phường Thảo Điền, tức là một căn nhà một trệt một lầu được cấp cho hai hộ, bà ở tầng dưới, ông sếp của bà ở tầng trên. Rồi ông Lực ngã bệnh, đứa con trai qua đời. Sau một thời gian chạy chữa cho chồng, chợt nhìn lại thấy mình ngồi trên đống nợ. Không còn cách nào khác, bà phải bán quyền sử dụng cái không gian tầng trệt ấy cho người ở trên lầu. Sau khi thanh toán nợ nần, còn lại ít tiền, bà sang Thủ Thiêm mua lại căn nhà nát trong con hẻm trên đường Lương Định Của, nhà không có chủ quyền, chỉ sang nhượng bằng giấy tay. Nhưng người chủ cũ bằng cách nào đó đã chạy chọt cho bà xây lại ngôi nhà cấp bốn. Ở yên được mười năm, đến tháng tư năm 2011, khi cả khu phố bị cưỡng chế, đập phá thành bình địa thì tới lượt hai ngôi nhà của ông bà và chị Vinh, một người già bị tai biến và một phụ nữ neo đơn khuyết tật bị cưỡng chế sau cùng.

Ngày 18 tháng 4 năm 2011, nhà chức trách tới trao cho bà quyết định cưỡng chế và bảng chiết tính bồi thường với giá… không đồng. Lý do: nhà và đất không có giấy tờ hợp lệ. Tuổi già sức yếu, trong cảnh neo đơn, nhưng bà phải vừa đi kiện vừa chăm sóc cho người chồng nằm liệt giường.

Đến ngày 25 tháng 1 năm 2003, bà nhận được thông báo giải tỏa kèm theo bảng chiết tính bồi thường theo hai phương án như sau: Phương án thứ nhất, nếu bà nhận tái định cư thì bà được trả 9.612.500 đồng (chín triệu sáu trăm mười hai ngàn năm trăm đồng) và được mua một diện tích tái định cư 7,75 mét vuông (bảy phẩy bảy mươi lăm mét vuông) trong căn hộ chung cư bằng với số tiền ấy, nói cho dễ hiểu là ngôi nhà và đất hơn một trăm mét của bà sẽ đổi 7,75 mét vuông chung cư, phần còn lại của căn hộ tùy theo lớn nhỏ bà phải trả tiền theo giá gọi là bảo toàn vốn. Phương án thứ hai, nếu bà không nhận tái định cư thì bà được lãnh số tiền 133.612.500 đồng, tự tìm chỗ ở. Cũng như bao nhiêu người khác, bà không chấp nhận cả hai phương án, và cuối cùng là cưỡng chế, nói cho chính xác hơn là bị cướp.

Cũng như trường hợp của chị Vinh, mỗi lần nhân viên công lực và phương tiện cơ giới tới bao vây thì hàng xóm kéo tới làm hàng rào sống bảo vệ cho vợ chồng bà. Bà khóa cửa rào và lấy hết hơi sức của tuổi già nói vọng ra với nhà chức trách: Các ông muốn làm gì thì cứ làm đi, vợ chồng tôi sẽ ôm nhau cùng chết, thà chết ở đây còn hơn chết ở ngoài đường.

Nhân viên công lực đi cướp thay cho người khác, dù sao cũng là con người, có lẽ cũng biết sợ luật nhân quả nên họ rút lui trước hai con người như ông Lực và chị Vinh, những người mà nếu ném ra đường, họ sẽ chết ngay tại chỗ.

*
Chúng tôi đến thăm anh Đặng Văn Truyền, 50 tuổi đang sống trong căn phòng tạm cư 21 mét vuông như cái ổ chuột ngổn ngang vật dụng gia đình, nhếch nhác, ngột ngạt và oi bức, giống như cái cảnh tản cư chạy giặc hồi chiến tranh. Trong phòng không có chỗ ngồi, anh Truyền bắc ghế ngoài sân để tiếp chúng tôi, anh nói ở khu tạm cư nầy có hàng trăm hộ với ngàn ngàn con người sống chật hẹp và chen chúc như thế, có hộ đã vào đây gần hai mươi năm, mất đất, mất nhà, mất công ăn việc làm, lang thang tìm mọi cách để mưu sinh và… đi kiện.

Trước đây, anh Truyền là chủ cơ sở đại lý gas cạnh chợ An Khánh. Làm ăn khấm khá, năm 2000 anh vay mượn thêm bạn bè, dòng họ để mua căn nhà 50 mét vuông mặt tiền đường Lương Định Của trị giá 75 cây vàng. Do nhà mua bằng giấy tay nên khi giải tỏa, người ta thông báo đền bù cho anh mức giá 36.000.000 đồng, tương đương với một cây vàng (!). Anh nói 36 triệu đồng bây giờ không đủ mua miếng đất để chôn, anh làm đơn khiếu nại, lên quận, quận bác đơn, lên thành phố, thành phố bác đơn, ra trung ương, trung ương làm công văn chuyển đơn về cho thành phố…

Ngày 21 tháng 2 năm 2011, ủy ban quận ra quyết định cưỡng chế, anh nói nếu cưỡng chế anh sẽ tử thủ, cho nổ cửa hàng gas. Lệnh cưỡng chế tạm hoãn thi hành. Người ta cử những đoàn cán bộ tới vận động, thuyết phục, nâng giá đền bù lên 19 triệu đồng một mét vuông, anh kiên quyết không nhận vì cho rằng nhà anh nằm ngoài ranh quy hoạch.

Lúc bấy giờ, những căn hộ chung quanh nhà anh đã bị san bằng. Ngày 23 tháng 12 năm 2015, tới lượt số phận của anh. Khác với những căn hộ khác, khi cưỡng chế nhà anh, ngoài xe ủi, xe cuốc, xe cứu thương, cứu hỏa và nhân viên công lực thông thường, người ta tăng cường thêm một đội đặc nhiệm và trang bị thêm một xe xịt hơi cay và hai xe chữa cháy đặc chủng chở bọt khí foam dùng cho các sân bay. Tất cả để đối phó với một con người và mục tiêu cướp cho được căn nhà năm chục mét vuông (!).

Khi người ta xịt hơi cay vào nhà, anh Truyền đeo mặt nạ và chuẩn bị cho nổ bình gas, nhưng đã muộn vì bọt khí foam đã phủ căn nhà. Chúng dùng xe cuốc phá toang ba cánh cửa, nhân viên đặc nhiệm xông vào, anh Truyền bị những thanh bá trắc đập thẳng vào hai ống quyển và hai bên be sườn, anh té quỵ xuống, hai nhân viên đặc nhiệm đè anh trói thúc ké, họ vừa trói vừa nói: ĐM mầy có biết cưỡng chế căn nhà mầy tụi tao phải tốn hàng trăm triệu tiền hóa chất hay không. Họ vừa trói, vừa chửi vừa đánh, đánh từ nhà đánh lên xe cấp cứu và tiếp tục đánh trên đường đưa anh tới bệnh viện quận 2, hàng trăm người dân kéo theo, rơi nước mắt như khóc cho chính con cháu ruột thịt của mình.

Mấy ngày sau, họ cho anh xuất viện nhưng không dám trao giấy chứng thương. Anh Truyền bị tràn dịch khớp gối, phải vào phẩu thuật trong bệnh viện Sài Gòn.

Cái giá tử thủ với nhà chức trách là như thế. Mất nhà, mất đất, mang thương tật, mất thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi tháng, sống cùng quẩn trong căn phòng tạm cư không biết đến bao giờ!

Ba năm qua, anh cùng với bà con Thủ Thiêm mang đơn kêu cứu ra Hà Nội không biết bao nhiêu lần, có lần ăn dầm nằm dề cả hai tháng trời. Nhưng vô vọng!

*
Cách chỗ anh Truyền vài chục mét là căn phòng tạm cư của chị Phan Thị Thủy, 63 tuổi. Đã 17 năm sống trong khu ổ chuột nầy, sống trong sự chồng chất khổ đau và bế tắc.

Mười bảy năm trước, chị Thủy đã có một gia đình đầm ấm, một quán cà phê nho nhỏ trên đường Lương Định Của, gần chợ An Khánh. Chồng chị Thủy, anh Trần Vĩnh Phúc, thiếu tá công an, làm việc ở quận 2. Hai vợ chồng cùng đứa con gái đang sống một cuộc sống bình thường thì nhân tai trút xuống.

Một ngày của năm 2000, chị nhận được thông báo giải tỏa không đền bù vì nhà chị mua bằng giấy tay. Chị làm đơn khiếu nại, nhưng khổ nỗi anh Phúc là đảng viên, là sĩ quan, cái vòng kim cô ấy buộc phải tuân hành.

Chấp nhận dọn vào căn phòng tạm cư, nhưng chị vẫn cùng bà con đi khiếu kiện, thậm chí kéo nhau hàng chục, hàng trăm người đi biểu tình trước văn phòng Chính phủ trên đường Lê Duẩn. Mỗi lần chị đi thì người ta gọi anh Phúc lên, bảo anh phải gọi chị về. Nhưng anh không thể mở lời khuyên can vợ bởi chính anh là người đau xót trước căn nhà trị giá tiền tỷ bị tước đoạt vô lý. Cuối cùng, sau nhiều lần kiểm điểm, anh Phúc bị kỷ luật với hình thức giáng cấp xuống hàm đại úy. Bị tổn thương, anh Phúc xin nghỉ việc về phụ vợ bán cà phê.

Hai vợ chồng cùng với con gái, con rể và đứa cháu ngoại không thể sống nổi trong căn phòng chật hẹp 21 mét vuông, anh Phúc mượn thêm một căn liền vách để chứa vật dụng và mở quán “cà phê chạy”, ai kêu đâu chạy đó. Vốn có bằng đại học Luật, anh Phúc làm thủ tục xin cấp chứng chỉ nghề với mơ ước mở văn phòng Luật sư, nhưng việc không thành, anh đành trở lại lầm lũi, âm thầm với cái quán “cà phê chạy”. Chị Thủy sau một thời gian dài đi kiện, người ta bán cho chị căn hộ tái định cư 41 mét vuông trên lầu 3 ở Bình Trưng, cách đó gần mười cây số với giá 70 triệu đồng. Chị không nhận và tiếp tục đi kiện với lý do, nhà chị 70 mét vuông trên đường Lương Định Của, giờ trở thành đất vàng, bị giải tỏa không đền bù giờ phải mua lại căn hộ 41 mét vuông, quá bất công.

Nhưng rồi bất công chồng chất bất công, người ta ra quyết định cưỡng chế, bắt chị phải ra đi và phạt 25 triệu đồng với lý do chiếm nhà tái định cư trái phép. Chị kiên quyết không đi và cũng không nộp phạt. Cứ tiếp tục cùng bà con làm đơn khiếu kiện.

Anh Phúc bắt đầu thay đổi tính tình như một người trầm cảm, mất ngủ, bỏ ăn. Có lần anh lẩm bẩm với chị: Phải chi tôi đừng nghỉ việc thì bây giờ tôi còn khẩu súng.  Chị can anh, thôi đừng nghĩ bậy.

Buổi sáng ngày 24 tháng 4 năm 2015, không thấy anh dậy sớm pha cà phê như mọi bữa, chị bước qua gọi cũng không thấy anh trả lời, nhìn thấy đèn sáng trong nhà tắm nhưng không nghe tiếng động. Chị bước tới mở cửa, thì trời ơi, anh đã treo cổ…

VI: ĐAU XÓT CHỐN TÂM LINH

Mục sư Nguyễn Hồng Quang, bảo vệ luận án Tiến sĩ Thần học tại Hoa Kỳ, ông tâm sự rằng, không hiểu vì sao, sau khi rời lực lượng Thanh niên xung phong, ông muốn đi tu, nhưng chưa có khái niệm rõ ràng về một tôn giáo nào. Ông nghiên cứu về đạo Cao Đài, Phật giáo, Thiên Chúa giáo… nhưng vẫn cứ phân vân. Rồi ông đi học hớt tóc với ý định mang bộ đồ nghề đi lang thang hớt tóc miễn phí cho trẻ bụi đời, người điên và người cơ nhỡ. Nhưng rồi như một cơ duyên, người dạy ông hớt tóc, sau khi nghe ông nói rằng ông muốn đi tu nhưng chưa biết chọn tôn giáo nào, ông ta giới thiệu với ông về giáo phái Tin lành Mennonite, một trong năm trường phái chính của châu Âu và Bắc Mỹ, được hình thành từ năm 1525 và du nhập vào Việt Nam từ năm 1954. Từ cơ duyên đó, ông Quang trở thành tín đồ Mennonite.

Năm 1992, ông sang Thủ Thiêm, cùng với người mẹ và người em trai mua gần ba ngàn mét vuông đất nông nghiệp. Ông Quang còn nhớ, ở đó có cả cái chuồng trâu và ao rau muống của người chủ cũ. Cuộc sống ban đầu dựa vào những công việc đồng áng, đặt trúm, đặt lọp, đặt lờ, giăng lưới, cắm câu. Dần dần, ông Quang tu bổ nhà cửa, dựng lên một cơ sở từ thiện và tôn giáo gồm một nhà nguyện, một thư quán hướng đạo, một phòng y tế, có cả một nơi dành cho học sinh sinh viên nghèo, bệnh nhân nghèo và người già neo đơn, không nơi nương tựa… Ở đây lúc nào cũng có hơn một trăm người tá túc. Ông Quang vận động nguồn gạo, họ tự trồng rau, kiếm cá và tự quản, người mạnh chăm sóc người bệnh và phân công công việc cho nhau như một đại gia đình.

Trải qua gần hai mươi năm, kẻ đến người đi, có những sinh viên nghèo trở thành kỹ sư, bác sĩ, doanh nhân, có những kẻ xì ke, bụi đời trở thành lương thiện, có những bệnh nhân trở nên lành lặn, và, có những người xấu số được tiễn đưa trong ấm cúng, đàng hoàng trong tiếng cầu kinh của Giáo phái Mennonite.

Thế rồi tang thương ập đến, ông Quang cùng với hơn một trăm con người cơ khổ ấy phải chịu chung số phận với hàng vạn đồng bào trên đất Thủ Thiêm.

Ngày 14 tháng 12 năm 2014, hàng trăm nhân viên công lực tới bao vây, họ dùng loa phóng thanh đọc lệnh cưỡng chế rồi xông vào bắt trói, đánh đập hàng chục người, quăng lên xe công vụ chở đi. Trong đó có bà Trần Thị Chuốt, 73 tuổi. Bà Chuốt vào đây chữa bệnh cùng với đứa cháu ngoại bị bại liệt. Sau khi lành bệnh, bà tình nguyện ở lại làm tạp vụ và chăm sóc cho đứa cháu tật nguyền. Hôm ấy bà phản đối không chịu đi, liền bị nhân viên công vụ hốt quăng lên xe, họ quăng bà từ trên cao rớt xuống, bị gảy be sườn và chấn thương nặng, họ đưa bà đi cấp cứu, nhưng bà không qua khỏi. Ông Quang lên phường xin đưa bà về chỗ cũ làm đám tang theo nghi thức của đạo, nhưng ông liền bị nhốt lại, sau đó người ta đưa xe công vụ tới chở bà Chuốt đi hỏa táng.

Hai hôm sau ông Quang được thả ra, ông trở về chỗ cũ, thì hỡi ơi, hơn năm trăm mét vuông nhà tiền chế, ao cá hàng chục tấn, vườn kiểng, vườn cây cổ thụ… tất cả thành đống xà bần vụn nát.

Cùng số phận với khu vườn nguyện của ông Quang, chùa Liên Trì, đình Thần An Khánh cũng bị san bằng.

Hôm cưỡng chế chùa Liên Trì, nhà sư Thích Không Tánh bị ngất xỉu tại chỗ, người ta đưa ông đi cấp cứu, đến khi trở về, ông chỉ còn biết cầm cây nhang quỵ xuống đống gạch ngói đổ nát. Tất cả tượng Phật và hài cốt Phật tử cùng với vật dụng thờ cúng trong chùa, người ta chở vào nhà kho.

Ông Lê Văn Tốt, Trưởng Ban Quý tế Đình Thần An Khánh nói rằng, hôm giải tỏa ngôi Đình ông không đủ can đảm để chứng kiến, ông ngồi nhà mà nghe nhói trong tim, ruột gan như ai cào ai cấu. Ông Tốt đưa chúng tôi xem bức ảnh của một người nào đó tặng ông, bức ảnh chụp lúc giải tỏa lăng mộ Tiền hiền Trần Thông Quân và phu nhân. Ông nói, ở nước ta hiếm có ngôi đình nào có được lăng mộ của tiền hiền, vậy mà, vì lòng tham, người ta sẵn sàng quật mồ của tổ tiên, người đã có công gầy dựng nên đất Sài Gòn – Gia Định. Một không gian cho Lễ Hội Kỳ Yên tưởng nhớ TIỀN HIỀN KHAI KHẨN – HẬU HIỀN KHAI CƠ gần hai ngàn mét vuông đã bị tước đoạt, tất cả vật dụng thờ cúng, sắc phong, hài cốt và linh hồn của tiền nhân giờ phải náu nương, ở trọ trên Đình Long Phú.

Đau xót biết chừng nào?! Quả báo nầy sẽ thuộc về ai?

VII: TAO BẮN…!

Ba ngôi nhà còn sót lại giữa cái hoang tàn đổ nát như sau một trận bom trên đường Lương Định Của, thuộc khu phố 1, phường Bình An là nhà của chị Vinh, ông Lực và Thiếu tướng về hưu Hồng Minh Hải. Nó còn sót lại, có lẽ là vì, với chị Vinh và ông Lực, người ta không dám ném ra đường một người phụ nữ tật nguyền phải nương nhờ vào đôi nạng gỗ và một ông già chín mươi mốt tuổi đời, bảy mươi tuổi đảng bị tai biến nằm liệt giường. Còn với Thiếu tướng Hải, có lẽ vì người ta sợ cái câu: Đứa nào tới, tao bắn…!

Khi chúng tôi tới thăm ông, ông hỏi các anh chị là nhà báo nhưng thuộc phe nào?

Thấy chúng tôi ngạc nhiên, ông nói báo chí bây giờ nhiều phe quá, chẳng biết tin ai. Khi cuộc tiếp xúc đến hồi thân thiện, ông Hải kể rằng, năm 1968, sau khi đậu Tú tài, ông được tuyển vào Khoa Không quân trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, lúc bấy giờ ông đang là biệt động thành Sài Gòn. Cấp trên yêu cầu ông nên đi học sĩ quan để tiếp tục “hoạt động trong lòng địch” khi ra trường, nhưng ông từ chối, bỏ học vào chiến khu rồi theo đơn vị trinh sát đặc công. Chúng tôi ngồi nghe ông kể những câu chuyện “xuất quỷ nhập thần” của lính đặc công như huyền thoại, bất kỳ những đồn bót, những căn cứ quân sự của đối phương, lính đặc công vào ra như có phép tàng hình.

Sau chiến tranh Campuchia, ông được phong hàm Thiếu tướng, Tư lệnh phó binh chủng đặc công miền Nam.

Khi xảy ra câu chuyện Thủ Thiêm, bí thư kiêm chủ tịch quận Tất Thành Cang tới nhà ông thương lượng rất chân tình, rằng sẽ đổi căn nhà 160 mét vuông của ông bằng hai nền nhà gần siêu thị điện máy Chợ Lớn trên đường Lương Định Của, nghĩa là ông sẽ được đền bù thỏa đáng. Ông nhẩm tính, hai nền nhà kia trị giá tương đương chín tỷ đồng, ông sẽ lên quận 9 mua được hơn hai ngàn mét vuông đất vườn chỉ hơn năm tỷ, còn lại xây nhà, hai vợ chồng cùng hai đứa con ông sẽ có cuộc sống thanh nhàn, vui thú điền viên.

Nghĩ thế, ông bằng lòng trao đổi. Nhưng một hôm, ông Cang gọi ông lên cáo lỗi, rằng quỹ đất không còn, chỉ đổi với ông một nền. Sau một hồi tranh cãi, ông đứng lên nói thẳng: “Người lớn với nhau không thể nói hai lời. Vậy thì tao không đi đâu cả, tụi bây cứ tới cưỡng chế, nhưng nên nhớ phải mặc áo giáp và đội nón sắt đàng hoàng, đứa nào bước vô tao bắn…! Máu tao đã đổ ngoài chiến trường nhiều rồi, giờ nầy tao không còn tiếc gì nữa, nhưng trước khi chết tao sẽ bắn nát đầu bọn cướp”.

Ông trở về, hàng ngày nhìn cảnh xe ủi, xe cuốc cùng với nhân viên công lực đi cướp bóc, đập phá nhà cửa xung quanh mà trào dâng căm phẫn, thương xót cảnh tan nhà nát cửa của bà con. Nhiều lúc không kềm chế được, ông muốn ra tay… Nhưng ông kịp nghĩ, nếu bắn thì phải bắn mấy thằng “đầu sỏ”, chớ cái đám nầy chỉ là tay sai…

Ông Hải đã bỏ ra nhiều ngày để nghiên cứu địa hình gia cư của những tay “đầu sỏ”, vào lối nào, ra lối nào, nhà có chó dữ hay không… Ông đã lên “phương án tác chiến”, đặt ra những tình huống bất trắc, và, ông viết sẵn mấy bản cáo trạng kể tội từng người. Xử xong người nào, đặt bản cáo trạng lên ngực người đó rồi rút lui. Ông nói, khẩu súng của ông sẽ chừa sẵn hai viên đạn cho mình nếu gặp tình huống bất trắc.

Tôi hỏi vì sao ông không cùng với bà con đi kiện mà nghĩ tới chuyện mạo hiểm như vậy? Ông nói tôi là lính, không thích dây dưa, khi đã xem chúng nó là kẻ thù của nhân dân thì tôi ứng xử theo cách của người lính, hoặc là tấn công, hoặc là rút lui, hoặc là phòng thủ và tử thủ. Ngắn gọn như thế, không cần phải dài dòng.

Thế là hết Thủ Thiêm ơi!

Từ chị Phượng chủ tịch phường xin lỗi nhân dân đến anh Thiếu tá công an Trần Vĩnh Phúc treo cổ tự tử, giờ tới lượt Thiếu tướng Hồng Minh Hải luôn sẵn sàng trong tư thế tấn công, huống chi đến hàng trăm, hàng ngàn con người thấp cổ bé miệng từng ngày ứa gan kêu cứu, gần hai mươi năm khổ đau chờ công lý đến mỏi mòn.

Hôm qua có một cô gái nhắn tin: “Chú ơi, con đã đọc nhiều câu chuyện đau lòng của chú viết về Thủ Thiêm, con mong chú kể tiếp câu chuyện của con, khổ lắm, nhà con bị cưỡng chế đập nát hết, con che tấm bạt dưới gốc cây lót tạm cái giường để hai mẹ con tá túc nhưng cũng bị họ cưỡng chế thêm lần nữa …”.

Tôi đành phải nhắn tin xin lỗi cô gái, cháu ơi, làm sao chú đủ sức đủ tài để kể hàng trăm, hàng ngàn tấn thảm kịch Thủ Thiêm, bởi tội ác cứ nối dài tội ác và đau thương cứ chồng chất đau thương. Chú xin lỗi cháu! Mỗi con người, mỗi gia đình trên ĐẤT THỦ THIÊM giờ đây giống như những trang tiểu thuyết mà bản thân chú không đủ sức đủ tài.

ĐÔI ĐIỀU VỚI CÁC ANH

Các anh là ai? Tôi biết các anh một cách mập mờ, loáng thoáng mà Thiếu Tướng Hồng Minh Hải đã viết sẵn cáo trạng định xử các anh.

Hầu hết các anh đều ít nhứt cũng có tấm bằng đại học, dù nó thật hay giả, dù các anh đã học phổ thông hay bổ túc văn hóa, thì điều chắc chắn rằng các anh đã học qua dòng văn học hiện thực phê phán mà trong đó có những tác giả lừng danh một thời như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan… với những tác phẩm tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến. Những tác giả ấy cũng đã bị phê phán rằng họ chỉ nhìn thấy hiện thực tối tăm, chỉ nhìn thấy cái tiền đồ tối đen như mực của chị Dậu mà không nhìn thấy cái tiền đồ rạng rỡ của dân tộc bởi chỉ vài năm sau, Đảng Cộng sản ra đời!

Nhưng, nếu giờ đây Ngô Tất Tố có đội mồ sống dậy, ông sẽ nói rằng nhân vật chị Dậu mà ông hư cấu làm gì so sánh được với những con người có thật như chị Vinh, chị Phượng, bà Giáp, cô Mỹ… ở Thủ Thiêm?

Giờ đây nếu Nguyễn Công Hoan có đội mồ sống dậy, ông sẽ nói rằng câu chuyện Nghị Lại bày mưu cướp đất của anh Pha mà ông hư cấu làm gì so sánh được với câu chuyện có thật của ông Hùng, anh Truyền bán gas, ông Nguyễn Hồng Quang… ở Thủ Thiêm?

Giờ đây nếu Nam Cao có đội mồ sống dậy, ông sẽ nói rằng Chí Phèo trước khi chết còn giết được Bá Kiến, huống chi anh Thiếu tá Công an Trần Vĩnh Phúc treo cổ chết âm thầm.

Những nhà văn tài hoa ấy không thể hư cấu nổi một nhân vật như Thiếu Tướng đặc công Hồng Minh Hải, không thể hư cấu nổi chuyện phá đình, quật mộ tiền nhân, đập chùa, cướp bóc cả một cơ sở tâm linh và từ thiện của Mục sư Nguyễn Hồng Quang…

Nói chung, không thể có một nhà văn nào trên trái đất nầy có đủ sức tưởng tượng để hư cấu ra những câu chuyện mà chính các anh đã tạo ra ở Thủ Thiêm, một hiện thực đầy bi thương và tội ác, thậm chí rất man rợ xảy ra ngay trên đất nước nầy, bên cạnh một thành phố được nhân danh là VĂN MINH, HIỆN ĐẠI, NGHĨA TÌNH, những khẩu hiệu mà chính các anh đã đẻ ra, treo đầy trên phố xá.

Cùng các anh (không quý mến)!

Tôi có đứa con gái út, cách đây gần mười năm, lúc đó cháu học lớp mười trường Quốc tế Mỹ tại Sài Gòn. Có lần cháu dịch một bài luận văn của cháu làm từ tiếng Anh sang tiếng Việt để nhờ tôi góp ý (Tôi còn nhớ rõ đó là thời điểm các anh đang cướp Eden bằng khói cay để giao cho Vincom), đại khái thầy giáo người Mỹ ra một đề văn nghị luận chính trị xã hội như thế nầy: “Bạn hãy chọn một vấn đề mà dư luận xã hội đang quan tâm đề bày tỏ hai thái độ: Một là đồng tình, hai là phản biện”.

Cháu đã viết: Hiện nay, dư luận xã hội ở Việt Nam đang quan tâm nhất là vấn đề đất đai, những mâu thuẩn xảy ra giữa nông dân với chính quyền và các nhà đầu tư ở các dự án xây dựng khu công nghiệp và khu đô thị. Chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng, Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, muốn phát triển, ngoài mục tiêu xây dựng một nền nông nghiệp công nghệ cao thì mục tiêu công nghiệp hóa và đô thị hóa là hai mục tiêu lớn và chính đáng. Nhưng vấn đề đặt ra là đất ở đâu để phát triển các khu công nghiệp và đô thị? Chỉ có một câu trả lời duy nhất là sử dụng đất nông nghiệp. Vì vậy, việc sử dụng đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp và đô thị là một vấn đề tất yếu, không có sự lựa chọn nào khác.

Đó là thái độ đồng tình.

Tuy nhiên, đất nông nghiệp là quyền lợi, là sự sống của người nông dân mà mục tiêu phát triển công nghiệp và đô thị là để phát triển kinh tế xã hội, vì vậy, trước khi sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các dự án khu công nghiệp và khu đô thị thì chúng ta phải làm cho người nông dân, những chủ sở hữu đất nông nghiệp đó có đời sống tốt hơn trước, họ phải là người hưởng lợi đầu tiên trong các khu công nghiệp và đô thị đó. Nhưng với cách làm của Chính quyền Việt Nam hiện nay, họ dùng biện pháp gọi là “Thu hồi, giải tỏa, đền bù”, họ đẩy người dân ra khỏi quyền lợi ngay trên mảnh đất vốn là sự sống của họ, nghĩa là trả cho họ một số tiền tượng trưng rồi lấy đất của họ giao cho doanh nghiệp kinh doanh, người đã giàu thì giàu thêm, người dân vốn đã nghèo còn bị tước đoạt quyền lợi, thậm chí lâm vào cảnh khốn cùng. Đó là những nghịch lý đã trở thành bức xúc trong dư luận xã hội.

Cùng các anh (không quý mến)!

Đó là góc nhìn, là suy nghĩ của một đứa bé mười lăm tuổi, cháu chưa biết làm chính trị và cũng chưa có khái niệm về chính trị.

Còn tôi, cha của cháu bé ấy, chỉ nhân danh là người kể chuyện, có thể kể hay và cũng có thể kể rất dở. Chỉ được cái là kể rất chân tình và chân thành, chân thật, kể một cách không né tránh dù có những câu chuyện cay đắng, phũ phàng.

Tôi kể về bài tập làm văn ngây thơ và hồn nhiên của con tôi như một câu chuyện để tham khảo cho các nhà chức trách. Tôi kể chuyện bà con Thủ Thiêm để chúng ta cùng chia sẻ nỗi đau, (cũng chẳng hy vọng gì sự chia sẻ từ những trái tim lạnh và “bàn tay sắt”). Tôi kể câu chuyện về những dự định của Thiếu tướng Đặc công Hồng Minh Hải để các anh, ai là người trong cuộc biết được mà tự vệ, đề phòng.

Mười lăm ngàn hộ dân với hơn sáu vạn con người ở Thủ Thiêm đã xem các anh là kẻ thù không đội trời chung, các anh đã tự dựng cho mình tấm bia ở Thủ Thiêm, sẽ vĩnh cửu ngàn năm vì nó là bia miệng.

Cuối cùng, xin chào các anh (không thân mến)!

Người nông dân cầm bút: VÕ ĐẮC DANH

(Chưa dám hứa sẽ còn tiếp)

V.Đ.D.

Nguồn: FB Võ Đắc Danh




Những chặng đường Y Khoa của tôi

Những chặng đường Y Khoa của tôi

Nguyễn Thị Kim Thoa

***

Tôi rất có duyên trong chuyện học. Cái duyên ấy được tạo tác nên bởi thầy cô từ cấp tiểu học biết kích thích tính tò mò của học sinh, và bản thân tôi luôn khao khát “khám phá những điều bí mật” trong sự sống tự nhiên và con người. Sách giáo khoa trình bày những kiến thức minh nhiên mà tôi thì cứ cho là bí mật, bởi vì tôi thường tự mình “khám phá” từ đầu hè hầu như tất cả các chương trình trong năm học tới. Cuối năm lớp nhì (lớp 4 bây giờ), anh Bửu Hàm, bạn học y khoa của anh trai tôi đem cho tôi cuốn sách Khoa Học Thường Thức do cha anh – cụ Ưng Luận biên soạn và xuất bản. Thế là mùa hè năm đó ngoài những cuộc rong chơi với bạn bè, hoặc một mình len lỏi “vườn Vỹ Dạ”, tôi đã miệt mài với cuốn Khoa Học Thường Thức và những cuốn sách giáo khoa lớp nhất khác. Cuối hè nói như ngôn ngữ ngày nay, tôi coi như “cơ bản” nắm bắt được chương trình lớp nhất.

Tôi thích cây cối, hoa lá, chim muông, sỏi đá và đặc biệt: Con Người. Từ thời học trung học đệ nhất cấp (cấp hai bây giờ) học Vạn vật (bây giờ là sinh học) với cô Minh Cầm, cô Nhàn… tôi có bộ sưu tầm hình ảnh cây lá, côn trùng, chim thú, Con Người dày và đẹp nhất lớp. Tôi thích con khỉ Paker được các nhà du hành Mỹ đưa lên vũ trụ lần đầu tiên. Tôi thích con mèo Orengey đóng phim. Tôi thích hình vị thần Atlas trong bộ sách địa lý của cha tôi. Tôi thích hoa Diên Vỹ trong tranh của họa sĩ Van Gogh. Tôi thích hoa Thạch Thảo trong thơ Apollinaire qua bản dịch của Bùi Giáng và nhạc Phạm Duy. Tôi thích ngắm bình minh trên biển Thuận An. Tôi thích ngắm chiều tím trên những ngọn núi xa nhìn từ bên này sông Hương. Tôi thích…Tôi thích…

Ôi cuộc đời học trò của tôi sao mà đẹp như vậy nếu mẹ tôi không bị chính quyền đánh bể nồi cơm sau khi môn bài gạo gia đình bị đình chỉ do vụ “gạo miền Trung” năm 1958, nếu cha tôi không vì bệnh mà chết sớm, nếu không có chiến tranh chết chóc trận Mậu Thân, nếu không có những cảnh đời đói khổ, chết chóc, bệnh tật…

*

Vào đệ nhị cấp (cấp ba bây giờ), tôi tham gia nhóm Hướng Thiện do bác Phạm Đăng Siêu chủ trì. Nhóm Hướng Thiện được thành lập tại nhà tôi với bốn thành viên trụ cột, kết nghĩa huynh đệ: Nguyễn Đắc Hồng (anh cả tôi), Phan Đăng Huy (còn gọi anh Sáu), Tống Viết Thành và Đoàn Thiện. (Nhóm Hướng Thiện sau này phát triển lên đến cả trăm thành viên. Cha Petitjean – thầy dạy thêm pháp văn của tôi cũng thỉnh thoảng lui tới và đóng góp. Cha Petitjean và bác Phạm Đăng Siêu thường gặp gỡ trò chuyện về đề tài tôn giáo – văn hóa trong tinh thần thân thiện và tương kính có tôi chầu rìa). Cuối mỗi tuần, nhóm thường họp tại nhà tôi trước khi bắt đầu các cuộc hành thiện. Chủ trương của nhóm Hướng Thiện là gom góp gạo, áo quần cũ, tiền bạc trong bạn bè thân quen đem chia sẻ cho những gia đình nghèo khó tại thành phố Huế hay tại các làng xóm ở nông thôn. Tôi thường hay đạp xe theo bác Siêu tới một vài làng quê vùng ven nào đó cách Huế năm, mười cây số. Những lần đi như thế, bác Siêu thường dạy tôi cách thực hành Phật pháp giữa cuộc vô thường. Bác gợi ý sau này lên đại học nên chọn ngành y vì đất nước đang rất cần hàn gắn quá nhiều vết thương.

Kết thúc chương trình phổ thông, tôi nhìn lại xem như một cuộc du ngoạn. Kỳ thi tú tài một (1968) và tú tài hai (1969) tôi đều đạt thứ hạng cao.

Kết quả học tập như thế, con đường vào đại học của tôi khá rộng. Tôi có thể nộp đơn xin học bổng du học Mỹ về giáo dục; du học Đức về triết, du học Úc, Tân Tây Lan học về hóa dầu…; hoặc ở lại Huế học sư phạm hay y khoa. Tôi đã chọn y vì tôi thích nhiều hơn những bí mật còn tiềm ẩn trong Con Người cả về tinh thần lẫn thể xác. Tôi chọn y vì có thể giúp ích được nhiều người giảm bớt đau thương như gợi ý của bác Siêu.

Chương trình y khoa lúc bấy giờ gồm bảy năm. Năm dự bị và sáu năm chính thức. Đó là chương trình y khoa tổng quát (y đa khoa). Các sinh viên tốt nghiệp sau một kỳ thi, trình luận án được công nhận là bác sĩ. Các bác sĩ được đào tạo tại các trường y lúc bấy giờ được bổ nhiệm vào các bệnh viện từ trung ương Sài Gòn, Huế, đến các bệnh viện tỉnh. Không ai phải chạy vạy đút lót xin việc như sau này trong chế độ Xã hội chủ nghĩa. Một số bác sĩ được trường Y giữ lại, đưa đi học chuyên khoa tại ngoại quốc, về làm phụ giảng. Các bác sĩ nam đến tuổi quân dịch được trưng tập vào quân đội, được phân bổ đến các quân y viện hay các đơn vị tác chiến đã tỏ ra thành thạo tay nghề và lương tâm chức nghiệp không thua kém các đồng nghiệp được đào tạo tại Sài Gòn hay ngoại quốc. Cũng không có sự chênh lệch quá xa giữa các thế hệ bác sĩ về văn hóa hay chuyên môn.

*

Để chính thức vào trường Y, tôi phải qua năm dự bị còn gọi là năm học chứng chỉ SPCN. Chứng chỉ SPCN được tổ chức tại trường đại học khoa học gồm 5 lớp. Hai lớp dự bị y khoa và ba lớp dự bị khoa học. Giảng đường rộng nên chứa được cả trăm sinh viên.

SPCN là viết tắt của bốn chữ: Sciences Physiques, Chimiques et Naturelles. Đây là chương trình khoa học cơ bản nên từ việc dạy của các thầy cô, đến việc học của sinh viên, và các kỳ thi học kỳ cũng như kết thúc rất nghiêm túc. Hai lớp dự bị y khoa có khoảng 200 – 250 sinh viên, nhưng chỉ có chừng 120 sinh viên hoàn thành chứng chỉ SPCN. Các sinh viên thi hỏng chứng chỉ SPCN tìm đường khác cho tương lai của mình, hoặc phải vào lính (nếu là nam).

Năm dự bị chúng tôi học chương trình đại cương gồm nhiều môn học: Toán gồm các môn: Toán thống kê – xác suất với thầy Lê Tự Hỷ, Tích phân vi phân với thầy Cao Doãn Nhơn, Tân đại số với thầy Nguyễn Dương. Lý gồm các môn: Nhiệt học với thầy Thọ, Cơ học với thầy Hoàng, Điện từ với thầy Thái. Sinh hóa học với thầy Cúc, cô Tuyết Mai. Anh văn với thầy Tôn Thất Viễn Bào…Tất cả các môn khoa học đều có giờ thực hành ở phòng thí nghiệm. Môn Sinh học: Làm các phẫu thức cây lá hoa, rồi vẽ lại các lớp cấu thành: hệ sube, hệ lõi, các tế bào diệp lục… Mổ các con vật nhỏ như dán, chuột, sán đũa, cá rô… Mổ xong ghim trình bày trên giấy bìa cứng các bộ phận của nó như xúc biện của dán, hệ tiêu hóa của chuột, của sán… Vẽ lại các phẫu thức ấy trên giấy rô – ki. Tôi nhớ có một người bạn mổ trình bày rất đẹp, nhưng khâu vẽ chị ấy trình bày kém: chị vẽ con chuột không ra con chuột, con dán không ra con dán, đành không theo học y được. Môn Vật lý: đo độ nhớt của các loại dầu, tính sức căng bề mặt của các loại chất lỏng… Hóa học: thực hiện các phản ứng thủy phân, acide hóa và kiềm hóa…

Cũng ở năm học này có một môn học tôi rất thích dù chỉ là môn nhiệm ý ( không có trong chương trình thi): “Con người và môi trường sống”. Đây là môn học mới do sáng kiến của thầy khoa trưởng Nguyễn Văn Hai. Trong môn này sinh viên tự chọn và dịch một cuốn sách khoa học ( không có sự kiểm soát của giáo sư). Cuốn sách tôi chọn là cuốn Médecin sous les Tropiques của Pierre Fourré. Tôi đã dịch cuốn này với sự giúp đỡ của cha Petitjean. Ngoài ra sinh viên còn được mời tham dự những buổi thuyết trình hay hội thảo về nhiều vấn đề ngoài chương trình thuộc các lãnh vực xã hội, tôn giáo, luật, kinh tế, văn học, nghệ thuật…

Tôi còn nhớ buổi nói chuyện rất hay của thầy Tôn Thất Viễn Bào với đề tài: “From the volcanoes to the rain”. Hay một bữa nói chuyện về thuốc ngừa thai của một dược sĩ tại hội trường của viện đại học. Trong buổi nói chuyện này có sự tranh luận rất sôi nổi giữa thầy khoa trưởng Nguyễn Văn Hai và thầy viện trưởng Lê Thanh Minh Châu: Có nên có hay không có sự quảng cáo thuốc ngừa thai? Thầy Nguyễn Văn Hai là một nhà giáo dục cấp tiến. Thầy muốn sinh viên nắm bắt một vấn đề thiết thực đối với xã hội và tuổi trẻ: Vấn đề dân số và kế hoạch hóa gia đình. Thầy Lê Thanh Minh Châu là người Công giáo: Vấn đề hạn chế sinh sản bằng biện pháp kỹ thuật động đến tín điều của giáo hội. (Sự thực này mãi mấy ngày sau chúng tôi mới sáng tỏ khi trao đổi với các bạn là giáo dân ở lớp Pháp văn của Cha Petitjean). Sau khi hai vị giáo sư lãnh đạo trường và viện bày tỏ nhận thức, quan điểm của mình, đến lượt sinh viên phát biểu. Sinh viên cũng chia làm hai cánh tự do bày tỏ ý kiến: Cánh ủng hộ thầy khoa trưởng, cánh ủng hộ thầy viện trưởng. Cuộc thuyết trình biến thành cuộc hội thảo: sôi nổi và tự do. Thầy viện trưởng không hề dùng quyền lực áp đặt tư tưởng lên cấp dưới và sinh viên.

Một buổi thuyết trình khác được tổ chức tại trường Luật do hai giảng viên rất trẻ thuyết trình, đề tài là Quốc tế công pháp. Cả hai thuyết trình viên đều rất hùng biện, cung cấp cho sinh viên chúng tôi các kiến thức sơ khởi và có tính cách lý thuyết về sự sự bình đẳng giữa các quốc gia, và luật pháp quốc tế bảo đảm hòa bình, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia trong Liên Hiệp Quốc… Các thuyết trình viên còn cho biết mục tiêu, cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Quản thác, Ban thư ký và các tổ chức thành viên như Lương – Nông, Văn hóa – Giáo dục…

Cuối những buổi nói chuyện như thế thường là những buổi chiếu phim. Love Story, Spartacus, Docteur Zivago… là những phim hay chúng tôi được xem sau những buổi nói chuyện này.

Mặc dù chương trình học dày đặc các môn lý thuyết và thực hành, nhưng xen kẽ là những buổi nói chuyện ngoại khóa khiến sinh viên thích thú.

Sau khi đạt chứng chỉ SPCN để chính thức vào năm thứ nhất trường Y, các sinh viên phải qua một cuộc thi vấn đáp.

*

Tại buổi thi vấn đáp:

Ban giám khảo gồm 9 vị giáo sư: Bùi Duy Tâm, Lê Văn Bách, Nguyễn Văn Tự, Lê Xuân Công, Lê Bá Nhàn, Võ Đăng Đài, Lê Bá Vận, Bùi Minh Đức, Nguyễn Mạnh Hùng. Các sinh viên được gọi vào theo thứ tự a,b,c.

Sinh viên thí sinh ngồi trên một bàn nhỏ đối diện với bàn các giáo sư giám khảo, lần lược trả lời các câu hỏi của từng vị giáo sư một.

Các câu hỏi đa phần thiên về kiến thức tổng quát: văn hóa, xã hội, lịch sử, văn học nghệ thuật… Qua đó, các vị giáo sư giám khảo đánh giá sinh viên có thích hợp với nghề y hay không.

Tôi không biết các bạn tôi được hỏi và trả lời như thế nào. Phần mình, tôi xin ghi lại:

Câu hỏi đầu tiên thầy Bùi Duy Tâm đặt cho tôi là: “Tại sao cô chọn ngành y? ”. Tôi đã trả lời như những gì tôi đã viết ở trang đầu bài này. Tiếp theo thầy Bùi Duy Tâm hỏi: “Cô có biết Trường Chinh và Trương Chính là ai không ?” Tôi trả lời rằng tôi không biết Trường Chinh là ai, nhưng Trương Chính thì tôi biết: Trương Chính là nhà nghiên cứu văn học dân gian của miền Bắc, tác giả cuốn sách Những bông hoa dại. Giáo sư Bùi Duy Tâm hỏi tiếp: “Do đâu cô biết như thế?” Tôi trả lời là hồi học trung học đệ nhất cấp, cô giáo dạy văn bảo học sinh sưu tầm ca dao tục ngữ. Tôi chạy đôn chạy đáo “điền dã” trong tất cả các mối quan hệ. Đặc biệt, cha tôi cho phép tôi sử dụng chiếc radio Philip của ông để tôi chờ nghe chương trình dẫn giải ca dao tục ngữ do linh mục Nguyễn Văn Thích phụ trách trên đài phát thanh Huế. Qua chương trình này tôi biết thêm nhiều chuyện, trong đó có chuyện Trương Chính là tác giả cuốn sách Những bông hoa dại. Giáo sư Bùi Duy Tâm tỏ vẻ hài lòng khi nghe tôi trả lời như thế.

Câu hỏi của thầy Võ Đăng Đài: “Cảm nhận của chị về vị béo khi ăn phở?”. Tôi trả lời là tôi không biết đích xác mùi vị của phở, vì tôi chưa được ăn. Tôi chỉ biết mùi vị của phở qua một “phế phẩm” là xương phở còn được gọi là “xí quách”. Mỗi tối ngồi học khuya nghe tiếng mõ lốc cốc, lốc cốc từ chiếc xe phở sắp tới trước đường, lòng dạ chị em chúng tôi nôn nao vì sắp được mẹ mua cho mấy cục xương có mùi vị thật hấp dẫn. Một vài rẻo thịt tuơ xác, mấy sợi gân và mấy vành sụn rã rời còn dính trên các ống và đầu xương, các sợi tủy chực long ra trong lòng các ống tủy… tất cả đều mềm lụn, thơm phức và béo ngậy, kích thích khứu giác, vị giác và cái bụng đói cồn cào của chúng tôi. Nó giúp chúng tôi có thêm năng lượng để tiếp tục buổi học khuya. Cái “phế phẩm” mà ngon lành như vậy huống hồ gì một tô phở nóng hổi đầy đủ các thứ nguyên liệu và phụ gia. Nghe tôi trả lời, cả hội đồng giáo sư đều phì cười.

Giám khảo thứ ba là thầy Lê Văn Bách: “Hai câu thơ mà người Huế ai cũng biết: Khô héo là gan cây đỉnh Ngự / Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương là của ai?” Tôi bật miệng đọc luôn: “Con ơi ruột mẹ bấn như tương / Bảy nổi ba chìm quá thảm thương / Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự / Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương. Tác giả bốn câu thơ này là mẹ vua Duy Tân, vợ vua Thành Thái. Tôi mở cờ trong bụng vì cho rằng mình đã “trúng tủ”, nhưng giáo sư Bách đã làm tôi tiu nghỉu với câu hỏi tiếp theo: Mẹ vua Duy Tân tên gì? Tôi lấy làm xấu hổ vì không trả lời được.

Hội đồng giáo sư chỉ hỏi tôi có chừng ấy và cho tôi ra về.

*

Kết quả tôi lọt vào top 20 /100 thí sinh chính thức được công nhận là sinh viên y khoa khóa 10 đại học Y khoa Huế. Tin vui tiếp theo là tôi nhận được học bổng Y tế. Ngày đó trường Y có hai loại học bổng: học bổng Quốc gia do bộ Giáo dục đài thọ, học bổng Y tế do bộ Y tế đài thọ. Học bổng Y tế nhiều gấp 3 học bổng Quốc gia và được nhận một lần vào cuối năm. Học bổng Quốc gia gần bằng lương của một công nhân tân tuyển ngoại ngạch, đủ cho sinh viên ăn ở (tại ký túc xá và quán cơm sinh viên), và các nhu cầu căn bản của đời thường.

Gần tới hè, nhận được học bổng Y tế, tôi rất phấn khởi, lần đầu tiên có được một số tiền lớn như vậy. Tôi tặng mẹ một phần ba, một phần ba sắm áo quần cho chính mình và các em, cũng tặng các em mỗi đứa một ít, một phần ba còn lại tôi dành cho chuyến đi Sài Gòn sắp tới. Năm nào cũng vậy, chuyến đi Sài Gòn nhằm mục đích mua sách ở Mỹ Hiệp và lục tìm sách báo cũ trên vỉa hè Lê Lợi. Đến cuối hè 1974, tủ sách của tôi có năm báy trăm đầu sách. Tôi mở một ngoặc đơn ở đây để nói với các bạn trẻ ngày nay rằng là mỗi cuốn là một người bạn, cũng là một vị thầy, chúng ta tha hồ mà hỏi han tâm sự. Các bạn thử tính xem, xong ba cấp học: tiểu, trung và đại học, các bạn có bao nhiêu thầy cô và bằng hữu? Bốn năm mươi thầy cô chăng? Năm bảy chục bằng hữu chăng? Hay nhiều hơn số đó? Các bạn cộng các thầy cô và bằng hữu đó với mấy trăm bằng hữu và thầy cô là những cuốn sách, các bạn sẽ có một gia tài khấm khá tri thức và tâm hồn. Đóng ngoặc đơn. Chuyến đi Sài Gòn đầu tiên bằng tiền học bổng y tế, ngoài mục đích mua sách, thăm viếng…, tôi còn có mục đích canh cánh từ sau cuộc thi vấn đáp để chính thức vào trường y là “ăn một tô phở”. Chuyến đi Sài Gòn lần ấy tôi đi với Hoài, cô bạn cùng lớp thân thiết. Hoài có nhà ở Sài Gòn nên trở thành người hướng dẫn tôi trong mọi chuyện. Hoài đưa tôi tới tiệm phở nổi tiếng Miền Nam lúc bấy giờ, Phở Tàu Bay. Nếu tôi nhớ không nhầm, Phở Tàu bay nằm trên đường Võ Tánh, số 47. Phở Tàu Bay di cư từ Hà Nội sau 1954. Hoài nói mấy ông tướng gốc Bắc nghiện Phở Tàu Bay đến độ ra Huế hành quân, mỗi sáng chờ máy bay của Air VN mang phở từ Sài Gòn ra để ăn điểm tâm.

Lần đầu đối diện với tô phở, tôi bồi hồi xúc động bởi cái mùi thơm riêng biệt mà tôi không cảm nhận được từ những tô bún bò hay những tô mỳ quảng đặc sản của quê nội và quê ngoại Huế – Quảng của tôi. Rất nhiều gia vị phối hợp một cách hài hòa với nguyên liệu chính là thịt xương bò hầm quấn quít lấy khứu giác tôi. Cái tô sứ màu trắng ngõa miệng, cộng với màu xanh của hành ngò, màu nâu nhạt của mấy lát nạm, màu đỏ sẫm của mấy lát tái, màu trắng sáng, màu trắng trong của bánh phở và nước dùng gây ấn tượng một bức tranh nhỏ. Ở giữa hai tô phở của tôi và Hoài còn có một dĩa rau mùi gồm ngò gai, húng quế, một khay nhỏ gồm một chai tương ớt màu đỏ, một chai tương đậu màu nâu, một thẩu nhỏ ớt cắt miếng xanh đỏ dầm chua, một chai tiêu bột và một chai nước mắm; còn có một dĩa nhỏ đựng mấy lát chanh. Hoài nói: “Những thứ rau và gia vị này thực khách tùy nghi sử dụng ít nhiều hay không do yêu cầu của từng người. Ai ăn mặn thêm nước mắm, Ai ăn cay thêm ớt … Theo mình (Hoài), nên vắt thêm lát chanh và ngắt thêm mấy lá rau thơm. Ăn phở nhiều lần mới tìm cho mình một thói quen thích hợp…” Tôi vốn dị ứng với những gia vị chế biến ngoài gia đình; vả lại, rất nôn nao trước sự mời gọi của tô phở còn bốc khói. Tôi vắt chanh, ngắt rau bỏ vào tô và dùng đũa muỗng trộn theo lời Hoài. Những cảm nhận ban đầu không hề mất đi khi tôi dùng đũa và muỗng chậm rãi đưa thức ăn vào miệng rồi từ từ nhai, từ từ nuốt. Lúc này không còn màu sắc, chỉ còn mùi và vị quyện vào nhau cho tôi những cảm nhận tinh tế và sâu sắc mà tôi chỉ có thể thầm nói lên một tiếng: Ngon. Tiếng Ngon không chưa đủ. Nếu có tài văn chương, tôi có thể mô tả những cảm nhận ấy bằng những thuộc từ chính xác và đầy đủ hơn.

*****

Năm thứ nhất trường Y Huế chúng tôi được học các môn học cơ bản. Các thầy đều là người Việt, dùng tiếng Việt nhưng các từ chuyên môn và sách tham khảo đều dùng tiếng Pháp, tiếng Anh, hoặc tiếng Đức (ít hơn). Các môn học gồm: Sinh lý (physiology) thầy Lê Văn Bách. Sinh hóa (biochemistry) thầy Võ Đăng Đài. Cơ thể học (Anatomy) thầy Lê Xuân Công. Mô phôi học (histiology) thầy Trà Văn Đỏ, thính giảng từ đại học Y Sài Gòn. Môn Sinh hóa học có phần thực tập tại phòng thực tập sinh hóa: pha chế các phản ứng, chế nghiệm viên phụ trách thực hành là dược sĩ Bội Tiên và kỹ sư hóa Lê thị Phước Hạnh. Môn cơ thể học có phần thực tập trên các mẩu xương người khô. Mỗi sinh viên chúng tôi có thể mượn các đầu lâu, xương tay chân đem về nhà để học. Vào năm thứ 2, thực hành môn cơ thể học có phần mổ xác. Trợ giảng phần thực hành này là bác sĩ Nguyễn Văn Chữ và anh Trần Tiễn Ngạc lớp trên tôi chừng 4 khóa.

Phòng mổ xác khá rộng, có hai bàn. Đến ngày học mổ xác, bác Khôi nhân viên của trường vớt các xác từ hầm formol đặt lên bàn. Sinh viên chia từng tốp nhỏ ba, bốn người dùng pince, kéo mổ theo chỉ dẫn của các bác sĩ trợ giảng.

Lễ Machabée: Hằng năm sau ngày khai giảng nhà trường tổ chức lễ Machabée, lễ cúng vong linh các thân xác vô thừa nhận đã giúp sinh viên học hỏi. Lớp y năm thứ hai trực tiếp học là lớp đứng ra tổ chức. Lễ được tổ chức theo cả hai nghi thức Công giáo và Phật giáo. Tuy tổ chức đơn giản nhưng từ trong tâm thức của mỗi sinh viên đều cảm nhận được cái trang trọng, kính cẩn và biết ơn bằng những nén hương, những lời cầu nguyện, và cả nước mắt của không ít nữ sinh viên.

Vê phần lý thuyết, hầu hết các thầy giảng bài và chúng tôi ghi chép, không có giáo án in sẵn. Ghi chép như thế nào cho kịp lời thầy giảng, ghi tắt, lấy note, tốc ký tùy từng sinh viên, sau đó vào thư viện đọc sách tham khảo thêm, soạn bài cho riêng mình. Sách tham khảo hầu hết bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, không hề có sách tiếng Việt.

Các sách cơ bản về sinh hóa như Biochemistry của Mary Campell, Medical biochemistry, Clinical biochemistry, Biochemistry and genetic hoặc các sách về sinh lý như Medical Physiology của Barett, Physiology của Stefan Silbernag là những sách đắt hàng ở thư viện.

Nghe giảng, ghi chép và soạn bài là như thế, nhưng học y trí nhớ rất quan trọng; không thuộc nằm lòng không thể làm bài và thực hành được. Một đặc tính khác của sinh viên y khoa là óc phân tích và tổng hợp, nếu không có khả năng này, không học được. Tôi còn nhớ một câu hỏi trong bài thi Sinh hóa của thầy Võ Đăng Đài. “Hãy cho biết các phản ứng chuyển biến của hạt cơm khi ăn từ miệng cho đến khi thành chất phế thải?” Với cách thức ra đề như thế này, nếu học thuộc bài mà không nắm cơ chế, không biết lý luận thì không thế nào làm bài được cho dù có mang theo tài liệu.

*

Qua hai năm học các môn cơ bản, lên năm thứ ba chúng tôi đi thực tập bệnh viện buổi sáng, buổi chiều về trường học lý thuyết.

Năm thứ ba về lý thuyết chúng tôi bắt đầu học triệu chứng: triệu chứng học nội khoa, triệu chứng học ngoại khoa, triệu chứng học sản phụ khoa.

Ở giai đoạn này những cuốn sách triệu chứng học như Medical semiology của Bariety, Surgical semiology của Leger, Osbstetric and Gynecology semiology là những sách cần thiết. Thế nhưng không phải ai cũng mua được. Chúng tôi phải vào thư viện đọc, ghi chép về để học. Khoảng cuối năm 1972 đầu năm 1973, nhà sách Ưng Hạ có bán một số sách y khoa dạng photocopy của nhà sách Mỹ Hiệp Sài Gòn, sách có giá tương đối rẻ so với sách nguyên bản nhập về, do vậy sinh viên có thể mua được, nhưng số hạng cũng còn ít so với nhu cầu.

Phần thực tập tại bệnh viện: chúng tôi được chia thành từng nhóm, mỗi nhóm gồm 4 hay 5 sinh viên y ba, ba hay hai sinh viên y năm và một sinh viên nội trú (sinh viên y6). Mỗi nhóm do một bác sĩ trợ giảng chỉ dẫn, theo dõi kèm kẹp và cho điểm cuối mỗi kỳ thực tập ở một buồng bệnh.

Mỗi buổi sáng các sinh viên đến sớm làm bệnh án theo dõi diễn tiến của bệnh. Năm thứ ba chúng tôi nhận diện các triệu chứng, tổng hợp các triệu chứng thành hội chứng. Sinh viên năm thứ năm thêm một bước nữa là tổng hợp các hội chứng để định bệnh, lý giải các triệu chứng, tìm chẩn đoán phân biệt và theo dõi tiến triển. Sinh viên năm nội trú xem như là một bác sĩ thực thụ: chẩn đoán, tìm biến chứng, theo dõi tiến triển bệnh và điều trị. Sinh viên năm ba có gì chưa sáng tỏ hỏi thêm các anh chị y năm, các anh năm thứ năm trao đổi hỏi thêm anh nội trú. Cứ thế chúng tôi cùng nhau học hỏi, xem nhau như anh em. Đến giờ bác sĩ trợ giảng khám bệnh, các anh vừa khám bệnh vừa giảng giải vừa cầm tay chỉ vẽ cho từng sinh viên năm ba chúng tôi, vừa giảng cơ chế bệnh lý, cách điều trị cho các anh năm trên. Tất cả những công việc trong ngày từ các em năm ba đến các anh chị nội trú mỗi người đều phải ghi chép từng ngày vào sổ thực tập, cuối tuần nộp lại tại văn phòng bộ môn; các thầy, các bác sĩ trợ giảng xem lại, sửa sai, phê bình, đóng góp ý kiến cho chúng tôi. Khi ngồi viết lại những dòng ký ức này tôi thật sự xúc động khi lần giở lại tập ghi chép thực tập năm xưa. Nhìn các thầy, các anh, sửa từng lỗi chính tả, chua thêm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức các từ y học, những câu khen thưởng, những lời nhắc nhở cần đọc thêm sách gì, ở đâu… Nhờ sự tận tâm chỉ vẽ trong những năm tháng thực tập ngày đó, chúng tôi mới có được những kiến thức cơ bản khi bước những bước đầu tiên trong nghề Y.

Cũng cần nói thêm sinh viên y khoa hồi đó đi thực tập tại bệnh viện ai cũng cặp kè những cuốn handbook trong túi áo blouse. Handbook là những cuốn sách bỏ túi có đủ chuyên nghành: Handbook medecin, handbook pediatric, handbook surgical… Những loại sách này có thể gởi mua ở sách vỉa hè Sài Gòn. Một đôi anh chị còn có loại sách lớn hơn một chút (cỡ 10×15) như Vademecum, Vademecum encyclopédique, Merck Manual.

Trong năm thứ ba, qua 9 tháng học tập chúng tôi đã qua ba khu bệnh lý: nội khoa, ngoại khoa, sản phụ khoa.

Tại khu nội thương, hai bác sĩ trợ giảng là bác sĩ Bùi An Bình và bác sĩ Trần Lương Hoa trực tiếp cầm tay chỉ việc, hàng tuần thầy Lê Văn Bách còn tổ chức trình bệnh và giảng giải những trường hợp khó. Tại những buổi trình bệnh sinh viên chúng tôi học hỏi được rất nhiều.

Tại khu ngoại thương các bác sĩ trợ giảng là bác sĩ Tôn Thất Hứa, bác sĩ Tôn Thất Chiểu, bác sĩ Đinh Sơn Thắng, bác sĩ Đỗ Như Đài trực tiếp hướng dẫn. Bác sĩ trưởng bộ môn Lê Xuân Công cũng tổ chức những buổi trình bệnh cuối tuần. Thực hành bệnh lý ngoại khoa chúng tôi được các đàn anh đàn chị chỉ dẫn tận tình từ cách dùng các loại pinces, kéo, kìm… từ cách sử dụng kim cong, kim thẳng dần đến phụ mổ…

Bệnh lý học phụ sản có các bác sĩ trợ giảng: Văn Quảng, Phan Xuân Tứ, Lê Duyêt Tảo trực tiếp chỉ dẫn. Bác sĩ trưởng bộ môn Nguyễn Văn Tự cũng có những buổi trình bệnh giảng dạy trong tuần. Cái vui cũng là cái khó của chúng tôi khi đi thực tập tại sản phụ khoa là phải làm đầy đủ các chỉ tiêu được giao: bao nhiêu trường hợp sinh thường, bao nhiêu trường hợp sinh con so… do vậy chúng tôi thường giành nhau nhận bệnh. Nhiều lúc nghĩ lại thấy đời sinh viên y thật thú vị.

Hết năm thứ ba chúng tôi có được kiến thức và kỹ năng căn bản về nội, ngoại, sản phụ khoa cả về lý thuyết lẫn thực hành.

*

Năm thứ tư chúng tôi học bệnh lý nhi khoa với bác sĩ Nguyễn Thị Tinh Châu và bác sĩ Hồ Đình Quế. Các chuyên khoa lẻ: Mắt với bác sĩ Lê Bá Vận. Tai mũi họng với bác sĩ Bùi Minh Đức, da liễu với bác sĩ Dương Đình Châu và bệnh Lao với bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế.

Năm thứ tư chúng tôi thực tập tại khoa nhi nửa năm, tại các chuyên khoa lẻ nửa năm còn lại.

Ngoài bệnh lý nhi khoa, bệnh lý mắt, bệnh lý tai mũi họng, bệnh lý da liễu, bệnh lao, năm thứ tư chúng tôi học thêm các môn học cơ bản:

– Vi trùng, ký sinh trùng (Bacteriology – Parasitology) với thầy Lê Bá Nhàn. Thực tập môn vi trùng, ký sinh trùng chúng tôi được xem, đọc, học cách nhuộm các tiêu bản để nhận dạng các loại vi trùng, ký sinh trùng.

– Giải phẫu bệnh lý (Anapathology) với bác sĩ Tôn Thất Chiểu. Thực hành môn anapathology tại phòng thực tập, chúng tôi xem, đọc và học cách làm các phẩu thức bệnh lý.

– Huyết học với bác sĩ Villagoes (người Tây Ban Nha), thầy Villagoes giảng bài bằng tiếng Pháp với giọng Tây Ban Nha nên rất khó nghe. Thực tập môn huyết học cũng được xem, đọc và làm các tiêu bản bệnh lý huyết học.

– Dược lý học ( Pharmacology) với thầy Nguyễn Mạnh Hùng. Thầy Nguyễn Mạnh Hùng là người Việt nhưng giảng bài bằng tiếng Pháp.

Trong năm ba và năm tư chúng tôi học Y tế cộng đồng (Public Health) và Dịch tễ học (Epidemiology) với các bác sĩ quân y Mỹ: Zerzavi, Candela (các bác sĩ này giảng bài bằng tiếng Anh). Phẫu thuật nhi với bác sĩ Dupuis (bác sĩ Dupuis giảng bài bằng tiếng Pháp).

Từ năm thứ tư, những cuốn sách hầu như không một sinh viên y khoa nào không thể không biết là Harrison’ principles of internal medecine, Textbook of pediatrices của Nelson, Goldman Cecil medecine. Chúng tôi chầu chực nhau để mượn ở thư viện. Thư viện trường y hồi đó luôn đông sinh viên, tan trường ra về nếu đến chậm có khi hết chỗ ngồi. Mùa thi thư viện mở cửa đến 8 hay 9 giờ đêm.

*

Lên năm thứ năm chúng tôi quay trở lại học bệnh lý và điều trị. Phần bệnh lý nội thương (medical pathology), bệnh lý ngoại thương (surgical pathology) và bệnh lý sản phụ khoa (Gyneco – obstetrico – pathology); các thầy giảng dạy là thầy Lê Văn Bách, thầy Lê Xuân Công, thầy Nguyễn Văn Tự.

Việc củng cố và phát triển kiến thức của năm thứ năm như vậy vô cùng cần thiết, nhưng rồi chương trình năm thứ năm của tôi cũng như những chương trình của hàng triệu sinh viên, học sinh khác trên khắp miền Nam phải dừng lại nửa chừng, bởi vì miền Bắc và Mặt Trận chuẩn bị tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh – Xuân 1975.

*****

Từ đầu tháng 2. 1975 quân Cộng sản đánh chiếm thị xã Phước Long, 10 tháng 3 Ban Mê Thuột bị xe tăng Bắc Việt nghiền nát, thành phố Huế kinh hoàng nhớ chết chóc Tết Mậu Thân 1968. Chợ búa náo loạn những tin đồn, trường học rã rời, đường phố nháo nhác, hàng ngàn gia đình bồng bế, gánh gồng di tản theo đường bộ, đường thủy vào Đà Nẵng. Đà Nẵng hỗn loạn, sân bay, bãi biển tràn ngập người tị nạn. Lính tráng, dân thường, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ em mạnh ai nấy được, kiếm cho mình một chỗ trên máy bay, trên ghe thuyền tư nhân và tàu hải quân. Bạo lực tháo chạy và bạo lực tấn công không phân biệt gây chết chóc, tội ác và tuyệt vọng. Ngày 29 tháng 3 quân Cộng sản chiếm Đà Nẵng. Gia đình tôi và hàng chục ngàn gia đình khác không may mắn đành lục tục bồng bế gánh gồng quay trở lại Huế.

30.4 Sài Gòn thất thủ. Chiến tranh chấm dứt, nhưng bạo lực cách mạng Xã hội chủ nghĩa kiểu Cộng sản bắt đầu. Trường học mở cửa lại theo lệnh của chính quyền quân quản.

Khoảng 50% giáo sư, và khoảng 90% sinh viên trường Y quay trở lại với tâm trạng “hàng thần lơ láo”. Bộ khung cán bộ giảng dạy từ miền Bắc vào cùng với Ủy ban quân quản tách thầy trò chúng tôi làm hai nhóm lao động buổi sáng và học chính trị buổi chiều. Đạo đức xã hội chủ nghĩa được đúc kết thành vè “Lao động là vinh quang – Ngồi không ở nể xóm làng cười chê”. Theo đó, người Cộng sản cho rằng chỉ có làm việc bằng cơ bắp dưới chỉ trỏ của cán bộ đảng viên mới là lao động đúng nghĩa. Theo đó người công nhân làm việc trong các nhà máy xã hội chủ nghĩa, người nông dân làm việc trong các nông trường quốc doanh, các hợp tác xã nông nghiệp mới có giá trị hơn hết, và đáng sống hơn hết. Các loại hình lao động sản xuất khác, các thành phần xã hội khác cần phải được cải tạo theo mô hình và định hướng Xã hội chủ nghĩa mới có lý do tồn tại. Giữa các buổi lao động và học chính trị, chúng tôi phải tập hát Quốc tế ca và các bài ca ngợi đảng, ca ngợi bác, ca ngợi tình hữu nghị vô sản quốc tế, ca ngợi quân đội nhân dân đã đánh thắng hai cuộc kháng chiến thần thánh… Tôi còn nhớ một câu hát mà mỗi lần cất lên tôi cảm thấy đau đến xé lòng: “Như có bác Hồ trong niềm vui đại thắng”.

Về lao động, chúng tôi phải phải tập hợp thành đội ngũ dưới sự chỉ đạo của các đoàn viên (những tín đồ cộng sản tân tòng, những cách mạng 30/4) cuốc xới các mảnh ruộng trước trường trồng rau muống, đào xới bất cứ mảnh đất nào còn sót lại quanh trường để trồng khoai sắn. Theo lệnh các đoàn viên lãnh đạo, chúng tôi vượt hàng rào phía đông bắc, phá vườn hoa hồng rất đẹp của các nữ tu Công giáo để trồng rau lang. Lúc bấy giờ, qua các “vị” này, chúng biết được rằng rau muống, rau lang và lá sắn có hàm lượng dinh dưỡng không thua kém thịt bò. Chúng tôi còn tham gia đào kênh thủy lợi nam sông Hương. Đây là công trình thủy lợi trọng điểm của Thừa Thiên – Huế nhằm kéo nước từ sông Hương băng qua núi đồi làng mạc phía tây nam thành phố để tưới cho 5000 mẫu ruộng thuộc khu vực huyện Hương Thủy. Nhưng, nước không thể chảy ngược, nên nước không thể về tới ruộng đồng theo ý chí của đảng Cộng sản, mặc dù hàng trăm ngàn công sức lao động đã bỏ ra, hàng ngàn ngôi mộ và hàng trăm ngôi nhà phải di dời. Kênh thủy lợi biến thành đường đi và hang ổ của chuột. Có người nói đây là biện pháp cải tạo trí thức tiểu tư sản thành trí thức xã hội chủ nghĩa nói riêng, và cải tạo nhân dân miền Nam nói chung.

Trí thức tiểu tư sản còn bị tẩy não bởi chương trình học chính trị. Chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa Duy vật biện chứng, biện chứng lịch sử, Tuyên ngôn đảng Cộng sản, lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam, lịch sử phong trào Cộng sản quốc tế là những từ ngữ tôi còn nhớ cho đến ngày nay với các khẩu hiệu: Trí phú địa hào – Đào tận gốc trốc tận rễ, Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân, chủ nghĩa xã hội nhất định thắng – chủ nghĩa tư bản nhất định thua, chủ nghĩa xã hội dân chủ một ngàn lần hơn chủ nghĩa tư bản, cải tạo xã hội chủ nghĩa là ăn cướp những gì đã bị ăn cướp, cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội… Trong khi chúng tôi đang học chính trị và lao động xã hội chủ nghĩa thì đảng Cộng sản tiến hành cải tạo Ngụy quân Ngụy quyền, cải tạo tư sản công thương nghiệp và đổi tiền. Tư sản công thương Huế tập trung trên hai dãy phố Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu với khoảng 100 cửa hàng bán lẻ trong số đó có khoảng 10 cửa hàng có mặt tiền rộng ( 5 – 7 mét ) bị cải tạo. Ở Gia Hội, An Cựu, Bến Ngự, Vỹ Dạ. Kim Long…, mỗi nơi cũng có vài cửa hàng chịu chung số phận. Thực tế là các cửa hàng này bị ăn cướp: hàng hóa bị tịch thu, nhà bị lấy, gia chủ bị đày đi ở nơi khác hoặc lùi về phía bếp. Độc giả đời sau cần ghi nhớ là những gia đình bị cải tạo này trong chiến tranh họ đã đóng góp cho “cách mạng” qua các cơ sở nội thành.

Cải tạo xong thì đến lượt đổi tiền. Đổi tiền hai lượt cách nhau mấy tháng. Không riêng gì tư sản, tất cả nhân dân Miền Nam đều bị lột sạch, bất kể giàu nghèo. 1000 đồng tiền Ngụy đổi lấy 01 đồng tiền cách mạng. Qua hai lần đổi tiền như thế từ tháng 6. 1975 gia đình tôi có 6 nhân khẩu cầm hơi hàng ngày với ba khẩu phần được mua hàng tháng tổng cộng 12kg gạo, 36kg khoai sắn mốc hay bột mì, bo bo, 1,5 kg thịt heo. Tôi xin nói rõ hơn chuyện này: Gia đình tôi 6 người gồm mẹ, anh kế, tôi và 3 đứa em. Anh kế tôi, tôi và em gái kế đều là sinh viên nên được cấp sổ gạo và tiền học bổng mỗi tháng 15 đồng một người. Mẹ tôi và hai em đang học phổ thông không có gì. Tất cả 6 người sống qua ngày với ba tiêu chuẩn như thế. Nhiều gia đình khác còn bi đát hơn. Gia đình anh cả tôi chẳng hạn. Anh cả tôi là đại úy quân y Ngụy đi học tập cải tạo, chị dâu tôi là cán bộ lưu dung đang giảng dạy tại trường Y. Một mình chị với khẩu phần 4kg gạo, 12 kg khoai sắn, 0,5 kg thịt nuôi sống ba đứa con dưới 10 tuổi. Chị Gái tôi còn bi đát hơn, chồng là sĩ quan Ngụy bị mất tích trong cuộc tháo chạy mấy tháng trước. Chị là cán bộ lưu dung tại Thư viện đại học Huế. Một mình chị với khẩu phần 4kg gạo, 12 kg khoai sắn khô, 0,5 kg thịt mỗi tháng nuôi sống 4 đứa con dưới 10 tuổi và cha mẹ chồng. Còn có nhiều gia đình bi đát gấp mười gấp trăm lần anh chị chúng tôi: Cha anh đi học tâp cải tạo chẳng biết bao giờ về, anh vượt biên bị bắt, nhà cửa bị cướp, mẹ mất việc, con không được vào đại học phải lê la đói khát đầu đường xó chợ hoặc phải đi kinh tế mới. Tình cảnh chung của nhân dân Huế và nhân dân miền Nam là như thế. Không có gia đình nào là không bị cải tạo. Không Ngụy quân thì Ngụy quyền, không tư sản, trí thức thì cũng là dân Ngụy đều bị cải tạo, có nghĩa là đều bị ăn cướp. Như thế là từ chiến dịch tổng tấn công và nổi dậy mang tên Hồ Chí Minh mùa xuân 1975, Cộng sản miền Bắc đã chiến thắng hai lần và nhân dân miền Nam đã thua hai lần. Lần đầu là quân sự, lần sau là kinh tế, văn hóa, xã hội. Sau hai lần thắng và thua, đất nước tan hoang, mấy triệu người vượt biên, mấy trăm ngàn người đi học tập cải tạo, mấy chục ngàn người chết trong các nhà tù, mấy triệu người bị làm nhục, chết trên biển, mấy chục triệu người lâm vào tình trạng đói rách, tuyệt vọng. Công cuộc cách mạng long trời lở đất với khẩu hiệu “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” của ông Lê Duẩn và đảng Cộng sản hoàn toàn thất bại. Thất bại này không chỉ là sai lầm mà còn là tội ác, di hại chẳng biết đến bao giờ?

Đảng Cộng sản đã biến cả dân tộc thành những con chuột bạch thí nghiệm cho một học thuyết, một ý thức hệ ngu xuẩn họ học mót từ Nga từ Tàu. Cách mạng gì mà coi trí thức là kẻ thù hàng đầu? Dân chủ gì mà đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối? Đạo đức gì mà dùng biện pháp ăn cướp và bạo lực để cải tạo con người?

*

Trở lại câu chuyện trường Y

Sau lao động cải tạo và học tập chính trị, trường Y và lớp Y5 của tôi lần hồi đi vào cơ chế xã hội chủ nghĩa. Thêm một số thầy và sinh viên lẳng lặng bỏ đi Sài Gòn hoặc vượt biên. Hai sinh viên lớp dưới tự tử không thành. Một anh nhảy lầu, một anh uống thuốc độc. Một trong hai anh bất khuất này là con của một cán bộ tập kết trở về. Cha con bất đồng chính kiến dẫn đến bi kịch.

Chương trình Y5 thuộc chế độ cũ của tôi bỏ dở vì chiến sự nay bị đình chỉ hẳn. Để bù vào thời gian bị mất do chiến tranh và thời gian lao động tẩy não, ban giám hiệu quyết định lớp Y5 của tôi thay vì ra trường vào hè 1976, nay kéo dài thêm gần một năm, tháng 6. 1977 chúng tôi mới tốt nghiệp.

Như thế, tôi trải qua năm năm rưỡi trường Y Việt Nam Cộng Hoà và một năm rưỡi trường Y Xã hội chủ nghĩa. Một năm rưỡi Y Xã hội chủ nghĩa chủ yếu là đi cuốc đất trồng rau, đào kênh thủy lợi; và thực tập tại bệnh viện. Trong một năm rưỡi Y Xã hội chủ nghĩa này chia làm hai thời đoạn. Nửa năm đầu, ngoài thời gian lao động cải tạo và học chính trị như đã trình bày ở trên, chúng tôi đi thực tập tại bệnh viện với các giáo sư và giảng viên lưu dung: Lê Văn Bách, Nguyễn Văn Tự, Hoàng Trọng Châu, Văn Quảng, Phan Xuân Tứ… Một năm cuối thực tập bệnh viện với hai bác sĩ của “bên thắng cuộc”.

Trước năm 1975, trường Y còn gọi là Đại học Y khoa có chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa. Giáo sư phụ trách các bộ môn gọi là trưởng bộ môn. Nay (sau 1975) đại học Y Huế theo mô hình miền Bắc, tổ chức chuyên khoa sau năm thứ tư. Lớp Y5 của tôi không theo mô hình nào cả. Một nhóm nhỏ gồm 10 sinh viên trong đó có tôi được phân đi chuyên khoa nhi (gọi là nhi sơ bộ) dưới sự dẫn dắt của bác sĩ Nguyễn Cước (chủ nhiệm bộ môn) và bác sĩ Nguyễn Tấn Viên (trưởng khoa nhi bệnh viên Huế). Số sinh viên còn lại tiếp tục học đa khoa.

Hai bác sĩ Nguyễn Cước và Nguyễn Tấn Viên nghe đâu là những bác sĩ chuyên nhi hàng đầu của miền Bắc. Hai vị này dù dày dạn kinh nghiệm lâm sàng nhưng chỉ nắm bắt bệnh trên triệu chứng, xử lý có tính cách kỹ năng không ngoài các giáo trình tiếng Việt; về phần lập luận cơ chế bệnh lý hầu như hai vị này mù tịt. Họ không sử dụng được ngoại ngữ vì vậy mà cần có thời gian để “thầy” và “trò” hiểu biết nhau qua các từ chuyên môn. Tôi có một kỷ niệm không thể nào quên với bác sĩ Cước: Một đêm trực tại khoa nhi với cuốn Merk Manual, bác sĩ Cước bắt được tôi đang chú tâm đọc quyển sách này. Ông đã tịch thu cuốn sách của tôi. Nghe nói ông đã đem sách của tôi đi hỏi các thầy lưu dung và sau đó nhờ một đoàn viên đem trả lại cho tôi.

Một kỷ niệm khác với giáo sư Tôn Thất Tùng.

Tại khoa ngoại bệnh viện Trung ương Huế, chúng tôi gặp giáo sư Tôn Thất Tùng từ Bắc vào cùng anh con trai của ông, bác sĩ Tôn Thất Bách. Trong một buổi giao ban, tôi trình bày một trường hợp u trung thất (tumeur médiastine) chẩn đoán phân biệt với u lao (tumeur tuberculosis), ông hỏi tôi PPD là gì, tôi đã trả lời PPD là từ viết tắt của nhóm từ Purified Protein Derivative. Trong buổi giao ban chúng tôi hầu như sử dụng toàn tiếng Pháp, giáo sư Tôn Thất Tùng tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Tiếp theo ông giảng giải về phương pháp “mổ gan khô”. Sau này tôi mới biết đó là “phương pháp mổ gan nổi tiếng thế giới Tôn Thất Tùng”.

Giáo sư Tôn Thất Tùng có lối giảng giải thiên về cơ chế bệnh lý giống các thầy giáo của trường Y Huế trước 1975 của tôi. Ông nói giọng Huế pha Bắc nhẹ nhàng và cử chỉ thân thiện, lịch lãm. Đặc biệt tôi thấy ông rất vui khi nghe lại giọng Huế của tôi, có lúc ông đã nhại tiếng: “như rứa đó nã…” Tôi có cảm tưởng ông như một lão trượng đi xa bao năm nay trở về mái nhà xưa, tìm lại được những kỷ niệm thân thương sau một thời gian dài ly biệt. Khi ra về, chúng tôi gặp lại anh Tôn Thất Bách tại cổng bệnh viện; anh có vẻ lạ lẫm khi nhìn chúng tôi mặc áo dài.

*

Lớp Y5 của tôi ra trường vào hè 1977. Nhóm mấy chục sinh viên đa khoa thi trước một hội đồng giám khảo gồm các giáo sư lưu dung: Cuộc thi nghiêm túc, khó khăn nhưng cuối cùng đều được công nhận tốt nghiệp vì ban giám hiệu mới quyết định như thế. Nhóm sinh viên “nhi sơ bộ” của tôi chỉ thi với hai giám khảo là bác sĩ Nguyễn Cước và bác sĩ Nguyễn Tấn Viên. Nói là thi cho oai chứ thật ra chỉ là một buổi trình bệnh cho có lệ. Suốt cả năm qua hai vị bác sĩ của “bên thắng cuộc” có dạy thêm cho chúng tôi bài học chuyên môn và đạo đức nào đâu!

Nhân đây tôi xin nói thêm về khóa 10 Y khoa Huế của tôi: Có chừng 120 sinh viên dự bị, vào vấn đáp còn lại chừng 80 sinh viên chính thức, cộng với số sinh viên năm trước ở lại thành ra tổng số chừng 100 người. Tổng số chừng 100 sinh viên khóa 10 bị đào thải từ từ từng năm một, cộng với hai người vượt biên sau tháng 5.1975, cuối cùng có chừng 40 được công nhận là bác sĩ. Kết quả này chứng tỏ đầu vào đại học Y Huế nói riêng và các đại học khác trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa không khó lắm, nhưng qua học tập, thi cử rất nghiêm túc nên đầu ra toàn là những người xứng đáng cả về mặt chuyên môn lẫn đạo đức nghề nghiệp. Trong Xã hội chủ nghĩa thì trái lại: Đầu vào quá khó khăn, nhưng học hành thi cử lại quá cẩu thả, dễ dàng, đầu ra nhằm đáp ứng phong trào thi đua, càng nhiều càng tốt.

Trong hồi ký của mình, bác sĩ Lê Quang Thông kể lại Kỷ niệm với thầy Lê Văn Bách rằng là có một bạn cùng lớp chỉ thiếu nửa điểm môn Sinh lý đành phải ở lại lớp (Bay Vút – Lê Quang Thông). Bạn tôi Trần thị Quí về ăn Tết ở Đà Nẵng, năm mới ra chậm một ngày thực tập, thầy Lê Văn Bách không nói gì chỉ ghi vào sổ thực tập: ngày hè đi lại một tuần. Đến hè, bạn ấy phải ở lại Huế một mình để đi thực tập thêm một tuần.

*

Sinh viên khóa 10 Y khoa Huế còn học thêm Đông y theo sáng kiến của thầy Bùi Duy Tâm. Bác sĩ Trương Thìn dạy về huyệt đạo. Bác sĩ Trần Văn Tích dạy đông dược và ông Võ Như Nguyện dạy hán văn. Việc học Đông y chỉ diễn ra gần nửa năm, khi thầy Bùi Duy Tâm thôi chức khoa trưởng, thầy Lê Bá Vận lên đảm trách thì môn Đông y bãi bỏ.

*****

Việc học sau đại học của tôi dưới mái trường xã hội chủ nghĩa.

Năm 1986, Viện Nhi Hà Nội mở lớp chuyên khoa I chính qui đầu tiên. Tiêu chuẩn cho bệnh viện Đà Nẵng là ba học viên. Dĩ nhiên là ưu tiên cho các cấp lãnh đạo và đảng, đoàn viên. Các bác sĩ đảng, đoàn viên, người thì bận rộn chuyện đấu đá tranh giành vị trí tại khoa và tại các phòng, người thì bận chuyện nhà, chỉ có chị khoa trưởng buộc phải đi học để có bằng cấp mà giữ ghế; tôi và một anh đồng môn đàn em sau ba khóa bị cắt cử đi học. Ra Hà Nội học được một tháng, anh bạn đồng nghiệp bị gọi về không cho học nữa vì sưu tra lý lịch “gia đình có nợ máu với nhân dân”. Một mình tôi lang thang quanh Hà Nội. Hà Nội xanh đẹp nhưng nếp sống quả là quá xa lạ với tôi… Xa lạ đến mức tôi không thể nghĩ nó là như thế…

Lớp học toàn là người miền Bắc, đa phần là con ông cháu cha; các chị hàng ngày cứ chào xáo với nhau chuyện mua hàng ở chợ Tôn Đản. Ngồi nghe thầy giảng bài mà hai tay các chị cứ thoăn thoắt đan len. Chẳng nghe ai nói gì đến sách vở trong lúc tôi cố tìm hiểu họ đang đọc và học sách gì? Tôi ở trọ tại nhà một người quen, chị bạn đang làm nghiên cứu sinh lấy bằng phó tiến sĩ. Chị ấy hãnh diện khoe: “Thầy chủ trì luận văn đi Thái Lan về tặng chị một chiếc xi-líp màu đỏ”! Tôi bộp chộp phản ứng liền: Văn hóa gì mà lạ thế? Thầy tặng đồ lót cho học trò nữ! Chị bạn trả lời nhanh không kém: “Chị lạc hậu quá rồi, không thực tế gì hết. Thời buổi này mà mơ mộng như người Miền Nam thì lấy gì nuôi con?” Chị bạn tôi cũng là người miền Nam, làm dâu trong một gia đinh tập kết là cán bộ cao cấp, đi chợ Tôn Đản, nhà ở khu tập thể Trung Tự chỉ dành riêng cho cán bộ cấp bộ, thứ trưởng, mới ra Hà Nội có mấy năm mà đã “tiến bộ” hơn người miền Nam như tôi đến muôn đời. Thời điểm 1986 cả nước đang đói, nhà chị bạn không thiếu thứ gì, nhưng vẫn chưa thấy đủ. Một câu ca dao phổ biến ở miền Bắc: Tôn Đản là chợ vua quan / Vân Hồ là chợ trung gian nịnh thần / Bắc Qua là chợ thương nhân /Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng. Trong chế độ Cộng sản: vua quan và nhân dân anh hùng cách biệt một trời một vực.

Việc học chuyên khoa I tại Viện Nhi Hà Nội chẳng có bài bản gì, học ở các khoa phòng, thầy giảng tại giường bệnh. Các thầy Chu Văn Tường (chuyên ngành tiêu hóa), thầy Lê Nam Trà (chuyên ngành thận niệu) Thầy Khanh (chuyên ngành huyết học), cô Nguyễn Thị Thu Nhạn (chuyên ngành nội tiết)… Tất cả các bài giảng lâm sàng cũng thiên về triệu chứng học hơn là cơ chế bệnh lý học… Sau một năm học, nghĩ lại tôi chẳng thu hoạch được gì về chuyên môn: không có cái gì mới, không có cái gì hay… Chỉ biết thêm miền Bắc có lắm chiêu trò.

Giữa một Hà Nội 1986 ăn kem Bờ Hồ với cái muỗng ăn phở, ăn bánh tôm Hồ Tây với cái rá nhựa đựng rau…Nhưng rồi tôi khám phá ra một Hà Nội tinh tế ngàn năm văn vật. Một hôm nọ, chị bạn – bác sĩ Minh Nguyệt mời đến nhà ăn bún ốc. Nhà bé tí tẹo như cái lỗ mũi, là một góc chéo của một ngôi nhà cải tạo chia cho nhiều hộ gia đình. Bún ốc, cái tên dân dã, nhưng gia chủ lại là một phần của tinh hoa Hà Nội còn sót lại, còn bảo lưu những giá trị truyền thống một cách nhẫn nại và tự tin. Thức ăn được bài trí rất đẹp với những dụng cụ đều bằng sứ. Bún ốc không phải là cao lương, nhưng mỹ vị thì không chê vào đâu được. Sau bún ốc, tôi được mời tráng miệng với chuối bà hương chấm cốm làng Vòng. Cũng rất nhiều mỹ vị sau món tráng miệng đặc chất Hà Nội này. Thì ra, giữa Hà Nội điêu tàn do chiến tranh và sự cai trị thô bạo của đảng Cộng sản còn có một niềm hy vọng.

*

Năm 1994 Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh mở lớp chuyên khoa II nhi chính qui đầu tiên. Tôi ghi danh thi để theo học. Lý do duy nhất là muốn gần gia đình (chồng và các con tôi đang ở Sài Gòn).

Thi đầu vào chỉ có hai môn là ngoại ngữ và chuyên ngành nhi. Có 47 người tham gia thi, 9 người đủ điểm để học. Lớp học do các giáo sư, phó tiến sĩ phụ trách: cô Tạ Thị Ánh Hoa và các thầy Hoàng Trọng Kim, thầy Võ Công Đồng, thầy Nguyễn Trọng Lân…

Chúng tôi gồm bảy người chia nhau đi thực tập tại các khoa phòng bệnh viện Nhi đồng I và Nhi đồng II, tham gia giao ban ở các khoa, tham dự các buổi trình bệnh và báo cáo khoa học chung với sinh viên trường Y, các bác sĩ chuyên khoa một, các bác sĩ làm nghiên cứu sinh cao học. Về mặt lý thuyết: chương trình cập nhật các thông tin mới về nhi khoa, đặc biệt là ba chuyên ngành: miễn dịch học, tim bẩm sinh, bệnh lý sơ sinh. Ngoài các buổi lý thuyết và thực hành tại các bệnh viện nhi Sài Gòn, mỗi năm ba tháng chúng tôi về lại nơi làm việc của mình thu thập dữ liệu, chuẩn bị viết luận văn chuyên ngành. Cuối năm1997, chúng tôi trình luận văn tốt nghiệp.

*****

Như thế là tôi trải qua 11 năm học Y: 7 năm y tổng quát và 4 năm y chuyên ngành nhi trong hai chế độ. Tôi đã làm bác sĩ gần 30 năm trong chế độ Cộng sản; nghỉ hưu 15 năm, trở lại bệnh viện nhiều lần trong tư cách người bệnh. Thời gian học tập, hành nghề và chữa bệnh đủ để tôi đưa ra nhận xét về hai chế độ y tế sau đây:

1/ Trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa: Người học và làm nghề y tế, gần như tuyệt đại đa số xem công việc của mình là một đam mê, đồng thời là sứ mệnh nhằm phục vụ bệnh nhân là những Con Người. Họ đối xử với nhau tận tụy, thân ái và tôn kính trong quan hệ thầy trò, đồng nghiệp. Họ đối xử với bệnh nhân hết lòng trong công việc và ấm áp trong giao tiếp, quan tâm đến hoàn cảnh sống mà không can dự vào đời tư của bệnh nhân.

Trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa bệnh viện được gọi là nhà thương. Ở đó người bệnh không phân biệt tầng lớp xã hội và khác biệt chính kiến, tất cả đều được miễn phí hoàn toàn từ khâu ăn ở, chẩn đoán, điều trị, thuốc men. Tại bệnh viện trung ương Huế, tôi đã thấy những bệnh nhân là cán bộ Phong trào đô thị của Mặt trận. Tại quân y viện Nguyễn Tri Phương, tôi cũng đã thấy những chiến binh miền Bắc được cấp cứu chung phòng với những binh lính Việt Nam Cộng Hòa. Hoàn toàn không có chuyện bệnh nhân bị đùn đẩy, bị từ chối, bị khai thác bóc lột, bị phân biệt đối xử. Đa phần các bác sĩ có phòng mạch tư nhưng hoàn toàn không có chuyện công tư nhập nhằng, bệnh nhân không bị kê đơn trái với yêu cầu chuyên môn, không bị chèo kéo lừa mị, bóc lột. Các công ty dược không khống chế được các cơ sở y tế nhà nước từ bộ xuống các ty và chi, cũng không khống chế được các bệnh viện và các phòng mạch tư. Sự thật này không tuyệt đối, nhưng đại thể là như thế. Nhân đây cũng nói thêm về việc tuyển chọn học viên cho các trường y tế trung sơ cấp và việc tuyển chọn sinh viên cho các đại học y khoa: Mọi thanh niên nếu hội đủ các điều khiện sức khỏe, tuổi tác, học vấn đều có cơ hội ngang nhau, không phân biệt thành phần xã hội, không phân biệt giai cấp và ý thức hệ chính trị. Nói chung là đầu vào không khó lắm nhưng đầu ra là khung cửa hẹp. Khóa 10 Y khoa Huế của tôi đầu vào chừng 200 – 250 ( ở 2 lớp dự bị), đầu ra còn khoảng 40. Các khóa đàn anh về trước, kết thúc trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa đều có tỷ lệ gần như thế. Trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa mọi sinh viên tốt nghiệp tại các trường: Sư phạm, Y khoa, Nông lâm súc, Kỹ thuật Phú Thọ đều được bổ nhiệm theo yêu cầu của cơ sở chuyên môn và thành tích học tập qua kỳ thi tốt nghiệp (chọn nhiệm sở theo thứ tự ưu tiên thứ hạng tốt nghiệp), không có chuyện đào tạo ra rồi bỏ đó. Các bác sĩ được trả lương đủ để sinh sống cho cá nhân và gia đình. Các bác sĩ có phòng mạch tư trở nên khấm khá bằng việc hành nghề chính đáng và khả năng chuyên môn của mình. Tôi lớn lên ở Miền Nam, là nơi báo chí tự do trong các lãnh vực đời thường (y tế, giáo dục…), chưa bao giờ tôi nghe một vụ tai tiếng nghề nghiệp do các y, bác sĩ gây ra.

2/ Trong chế độ Cộng sản trái lại, nghề y thông thường được xem là con đường làm quan đồng thời là nghề kiếm tiền như con buôn, thậm chí như kẻ trộm cướp. (tôi nói thông thường không có nghĩa là tất cả). Trong dân gian một thời phổ biến câu châm ngôn: Nhất Y nhì Dược, tạm được Bách khoa, Nông lâm qua loa, chuột chạy cùng sào mới vào Sư phạm. Quan niệm như vậy nên cánh cửa vào trường Y mở đóng, rộng hẹp tùy theo người có quyền lực: đảng Cộng sản. Một câu châm ngôn khác, thời bao cấp, thể hiện thứ tự quyền lực ấy: Nhất thân, nhì thế, tam tiền, tứ chế. Thời kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa lại có câu khác: Nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, bốn trí tu (học giỏi-NTKT). Hai ưu tiên đầu thuộc về con ông cháu cha trong đảng, ưu tiên thứ ba thuộc về người có tiền chạy đúng cửa đảng viên chuyên trách, ưu tiên thứ tư thay đổi từ con em gia đình có công trong chiến tranh, trong xây dựng xã hội chủ nghĩa sang những học sinh giỏi. Tóm lại: Đảng và tiền gắn liền trường y và ngành y nói riêng. Đầu vào như thế, đầu ra cũng như thế.

Chương trình đại học Y trong chế độ Cộng sản kéo dài 6 năm. Một phần ba hay một phần tư thời gian trong 6 năm ấy sinh viên còn phải học chính trị (chủ nghĩa Mác Lê Nin và lịch sử đảng…). Quan hệ thầy trò trong chế độ Cộng sản vừa là quan hệ đồng chí, vừa là quan hệ đối tác lợi quyền. Chương trình và chế độ đào tạo, học tập như thế nên sinh viên ra trường chưa làm được việc xét về mặt chuyên môn lẫn đạo đức. Nếu không thân không thế, bác sĩ ra trường còn phải chạy việc với giá cả không nhỏ tùy vị trí công việc có kiếm ra tiền nhiều hay ít?

Đa phần, lương khởi đầu hiện nay của bác sĩ chừng 3.000.000 (ba triệu). Đầu tư tốn kém, lương bổng èo uột nên công việc chính của người bác sĩ trong chế độ Cộng sản là kiếm tiền và tạo thế. Kiếm tiền trực tiếp từ bệnh nhân, từ kinh phí quảng cáo, từ tiền đút lót của các công ty dược, các công ty vật liệu và trang thiết bị y tế tư bản nước ngoài, từ ngân sách nhà nước, từ quỹ bảo hiểm, từ các loại thuốc quí hiếm trong kho của bộ của các sở y tế hay các bệnh viện,… Kiếm tiền để trở thành đảng viên, giành lấy một chức vụ kiếm ra tiền để lấy lại vốn, để kiếm lời. Người đảng viên bác sĩ trong chế độ Cộng sản ăn bất cứ thứ gì: từ sữa của các em bé sơ sinh, đến thuốc đặc trị của người bệnh ung thư, đến thủy tinh thể của người bị bị bệnh mắt, đến que thử và hóa chất trong kiểm tra HIV… Một dược sĩ làm cho một công ty dược nước ngoài nói với tôi rằng: Nền y tế của đất nước vận động theo sự điều hướng của các công ty dược và các công ty vật liệu, trang thiết bị y tế tư bản. Các công ty này gõ được cửa bất cứ nhân vật quyền lục nào từ trung ương xuống địa phương. Những chìa khóa vàng lớn nhỏ được các công ty tư bản kia sắm sửa để mở cửa các ông bà quyền lực. Để tranh giành các chìa khóa vàng, để chiếm đoạt công quĩ, các ông bà quyền lực trong đảng Cộng sản đã đấu đá nhau như kẻ thù, đã xem ngành y tế như một nghề béo bở để sắm xe sang, tậu nhà lớn và tích lũy bất động sản…Người bác sĩ đảng viên bất chấp sức khỏe, mạng sống của bệnh nhân và sự khốn cùng của gia đình họ.

Để kết thúc tôi xin kể hai câu chuyện về hai bác sĩ đảng viên.

Câu chuyện thứ nhất: Ngày tôi về hưu một nhóm nhỏ đồng nghiệp mời tôi một bữa cơm thân mật. Bữa cơm diễn ra tại quán “Cơm niêu đỏ” tại Đà Nẵng với 7 người. Bữa ăn gồm các món đặc sản Việt Nam: rau muống trộn tỏi, canh chua cá lóc, cà tím nướng tỏi. Ăn xong cô phục vụ đem biên lại đỏ tính tiền tới, theo thói quen các chị xúm lại xem tiền bao nhiêu, mắc rẻ như thế nào để lần sau còn đi. Một chị đảng viên sau khi xem, xếp tờ biên lại đỏ lại, bỏ vào ví thản nhiên nói:

“Cho tớ tờ biên lai đỏ này, con dâu tớ làm kế toán cho một cơ quan, nó rất cần biên lại đỏ để thanh toán”.

Tôi nghe người đảng viên này nói xong, các thức ăn trong bao tử tôi chực trào ra…

Câu chuyện thứ hai: Cũng ngày tôi về hưu, một nhóm nhỏ khác mời đi ăn nem lụi trong một buổi chiều chủ nhật. Ăn xong, mậu dịch viên đếm que tính tiền, một đảng viên trong nhóm kể rằng: “Thằng Đ con mình nó thông minh lắm, hồi mới năm tuổi đi ăn nem lụi như thế này nó đã dấu bớt que vào giỏ rác bên dưới”. Chị bạn kể một cách rất hãnh diện, chân thật và hồn nhiên.

Tôi không nêu tên hai bác sĩ đảng viên trong câu chuyện trên, bởi tôi nghĩ không cần thiết. Bạn đọc thử nghĩ xem có đảng viên nào trong đảng Cộng sản mà không khôn ngoan như thế, từ tổng bí thư trở xuống.

Nguyễn Thị Kim Thoa

Theo Internet




HOÀI NIỆM CHÙA BÁO ÂN QUA TẤM ẢNH NGƯỜI PHÁP CHỤP 150 NĂM TRƯỚC

HOÀI NIỆM CHÙA BÁO ÂN QUA TẤM ẢNH NGƯỜI PHÁP CHỤP 150 NĂM TRƯỚC

Ảnh: Chùa Báo Ân năm 1884 (bác sĩ người Pháp – Hocquard chụp lại)

Chùa Báo Ân mang trong mình nhiều kỷ lục nhưng đó cũng chính là ngôi chùa được cho là “đoản mệnh”, chỉ tồn tại vài chục năm sau khi được khánh thành với quy mô lớn. Dấu tích duy nhất còn sót lại đến ngày nay chính là tháp Hòa Phong nằm bên bờ hồ Hoàn Kiếm – Hà Nội.

Công trình chùa Báo Ân lớn bậc nhất kinh kỳ thế kỷ 19, không chỉ là một công trình mang dấu ấn nhà Nguyễn, mà còn là nét lịch sử văn hóa, kiến trúc Phật giáo độc đáo, tiêu biểu cho dòng tư tưởng “cư Nho mộ Thích” (học hành theo đạo Nho nhưng vẫn chuộng theo đạo Phật) thời bấy giờ. Tòa tháp Báo Ân ở chùa Bằng (Thịnh Liệt, Hoàng Mai), nơi được xác lập hai kỷ lục Phật giáo Việt Nam: Tháp Phật giáo cao nhất Việt Nam và Tháp có nhiều tượng Phật bằng đồng nhất Việt Nam – cũng chính là hướng đến di tích chùa Báo Ân thuở trước. Tất cả đều nhằm nói lên tinh thần cứu khổ, ban vui của Bồ Tát Quán Thế Âm cho tất cả chúng sinh trong thế giới.

Ngôi tháp nhuốm màu rêu phong nằm trên bờ hồ Hoàn Kiếm phía đường Đinh Tiên Hoàng, dường như là một điểm nhấn cổ kính giữa lòng Hà Nội hoa lệ. Nhiều du khách đến Hà Nội không khỏi ngỡ ngàng trước ngôi tháp cổ duyên dáng, nhiều người nghĩ rằng tháp là một trong những tác phẩm nghệ thuật xưa nằm trong quần thể Tháp Rùa – Hồ Gươm. Nhưng ít ai biết rằng ngôi tháp cổ ấy có một cái tên riêng biệt là tháp Hòa Phong và không hề nằm trong quần thể Tháp Rùa. Tháp Hòa Phong vốn gắn liền với quần thể chùa Báo Ân xưa, ngôi chùa lớn bậc nhất Hà thành thế kỷ 19. Tháp Hòa Phong bây giờ là di tích duy nhất còn sót lại đến ngày nay của quần thể bề thế một thời vàng son.

Theo ghi chép:

” Nơi đây vốn là phạm vi của khu vực lầu Ngũ Long do chúa Trịnh Doanh (1740-1767) cho dựng để làm nơi hóng mát tiết hè. Để xóa bỏ tàn tích của chúa Trịnh, năm 1787, Lê Chiêu thống đã ra lệnh đốt phủ chúa và những gì có liên quan.”

Chùa Báo Ân xưa được xây dựng trên bờ phía đông hồ Hoàn Kiếm vào khoảng năm 1846; với quy mô gồm 180 gian, 36 nóc nhà trên khu đất rộng gần 100 mẫu, mặt trước trông ra Sông Hồng, mặt sau dựa vào hồ Hoàn Kiếm. Bốn mặt chùa có hào nước uốn quanh, trong hào trồng sen nên thời bấy giờ người ta còn gọi là chùa Liên Trì (chùa Ao Sen). Ngoài ra, chùa Báo Ân còn được gọi bằng một số tên khác như chùa Quan Thượng, chùa Thụ Hình.

Với vị trí đắc địa ngay cạnh hồ Gươm linh thiêng, chùa Báo Ân xưa được ví như “động tiên” giữa chốn kinh kỳ với những câu ca truyền tụng như:

“Gần xa nô nức tưng bừng

Vào chùa Quan Thượng xem bằng động tiên”.

Quang cảnh thanh tịnh, đẹp đẽ của chùa Báo Ân khi ấy đã đi vào trong dân gian bằng những câu ngợi ca hết lời:

“Phong quang cảnh trí trăm đường

Trong xây chín giếng, ngoài tường lục lăng

Rõ mười cửa động tưng bừng

Đền vàng tỏa ngọc chất từng như nêm”.

Chùa Báo Ân được xây dựng năm 1846 do Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai đứng ra chủ trì. Người có công xây dựng nên ngôi chùa lớn bậc nhất thời bấy giờ, Nguyễn Đăng Giai vốn là người làng Phù Chánh, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Ông xuất thân trong một danh gia vọng tộc, ông nội là tiến sĩ Nguyễn Đăng Hoành, cha ông là Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Đăng Tuân (là thày dạy học của Vua Thiệu Trị). Thuở nhỏ, Nguyễn Đăng Giai theo học với cha, năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông đỗ hương tiến (cử nhân) rồi lần lượt được bổ nhiệm các chức quan quan trọng trong triều Nguyễn. Ông là vị danh thần có nhiều công lao to lớn trong việc dẹp nạn cướp, chấn chỉnh binh thuyền, tiễu trừ nhiều nạn nhũng nhiễu hại dân, dẹp nhiều cuộc nổi loạn, mở nhà dưỡng tế cho nhân dân mất mùa, đói kém… Năm Bính Ngọ 1846, dưới triều Thiệu Trị, Nguyễn Đăng Giai khi ấy giữ cương vị Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình) đã đứng ra chủ trì, quyên tiền cho việc xây dựng chùa Báo Ân với quy mô to lớn.

Ngôi chùa lớn bậc nhất Hà thành bấy giờ được đặt tên là chùa Báo Ân hàm chứa nhiều nội hàm sâu xa trong Phật pháp. Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm (Trụ trì chùa Bằng, ngôi chùa có tháp Báo Ân được xếp kỷ lục Tháp Phật giáo cao nhất Việt Nam) cho hay, từ Báo Ân trong ý nghĩa nhà Phật có hàm ý nhắc nhở mọi người sống trên đời phải nhớ đến tứ trọng ân gồm: ân tổ quốc, ân cha mẹ, ân tam bảo, ân chúng sinh.

Báo đáp Tứ trọng ân là bốn ân lớn nhất, trọng đại nhất của đời người mà bất cứ ai cũng không thể nguôi quên, có lẽ là ý nghĩa sâu xa của vị quan Tổng đốc xưa khi quyết tâm đi ngược dòng thịnh hành của Nho gia thời bấy giờ mà xây dựng nên ngôi chùa Báo Ân bề thế giữa lòng Hà Nội. Quy mô, bề thế bậc nhất Hà thành, chỉ sau một năm tập trung công sức và tiền của, chùa Báo Ân đã được khánh thành vào năm Thiệu Trị thứ 7 (năm 1847).

Theo những tư liệu còn lại đến ngày nay thì chùa Báo Ân khi xưa nhìn từ con đường ven hồ phía đông dẫn vào chùa có tháp Hòa Phong, sau đó đến cổng chùa, rồi vượt qua chiếc cầu đúc lát gạch thì đến lầu hộ pháp, hai bên có bốn ngọn tháp đối xứng cao ba tầng. Tiếp đó là “Đại hùng bửu điện” tôn trí nhiều pho tượng Phật, tượng Bồ Tát được chế tác bởi những nghệ nhân tài hoa nhất. Chùa còn có hành lang tô đắp, chạm trổ cảnh “Thập điện Diêm Vương”, mô tả sự quả báo trong chốn địa ngục khổ sai. Phía sau có điện thờ Thánh mẫu, nhà tăng xá, nhà trai đường…

Tháng 11-1885, công việc đổ đất, cạp hồ Gươm và lấp các chỗ trũng. Toàn quyền De Lanessan ra lệnh đốt các nhà lá quanh hồ.

Năm 1888, Pháp đã phá hủy chùa để xây nhà bưu điện (nay là Bưu điện Thành phố Hà Nội) và Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (nay là Nhà khách Chính phủ). Chỉ còn Tháp Hòa Phong phía sau chùa còn giữ lại, nay ở trên bờ hồ Hoàn Kiếm. Vì chùa có hào nước trồng sen bao quanh nên chùa còn có tên Liên Trì, có nghĩa là “Ao sen”.

Đêm 22-1-1891, 300 nóc nhà ở Cầu Gỗ, Hàng Bè, Hàng Mắm, Hàng Thùng, Hàng Vôi đã cháy trụi. Đêm 28-1-1891, vụ cháy thứ hai tiêu hủy cả thôn Cự Lâu. Chùa Báo Ân chỉ là mảnh đất hoang tàn.

Theo một bức ảnh được sưu tầm chụp mặt trước của chùa thì trên cổng Tam Quan của chùa có bốn chữ trên bảng là “Phương Tiện Pháp Môn” (方便法門), chữ Nho ngày xưa viết ngược từ phải qua trái, trích từ Kinh Pháp Hoa nhà Phật, ý nói “Cách dễ dàng để đạt được Phật pháp”, “Đây là cánh cổng mà bước vào thì dễ dàng đạt pháp”. “Phương Tiện Pháp Môn” còn có nghĩa thứ hai là “Các thức dễ dàng để đạt mục đích”.

Có cái lạ là tuy tên tháp là Hòa Phong nhưng tuyệt không thấy chỗ nào ghi là Hòa Phong cả.

Dòng chữ phía dưới cùng là: Báo Ân Môn (門 恩 報) viết kiểu Khải thư

Dòng chữ phía trên cùng lại là: Báo Thiên Tự (寺 天 報) viết kiểu Khải thư

Chữ ở giữa viết kiểu Triện Văn hình như chữ Phật.

Chứng tỏ chữ Môn này dùng chung cho chùa này

Tuy chùa do người Pháp triệt hạ năm 1889, song cũng chính nhờ những sách báo và tranh ảnh của họ để lại mà ngày nay chúng ta có được một ý niệm về ngôi chùa nổi tiếng mà họ mệnh danh là Pagode des Supplices (chùa Thụ hình). Theo tác giả Halais thì chùa sở dĩ mang tên Thụ hình vì hai tấm vách ván (panneaux) chạm nổi, chiều cao ba thước chiều dài năm thước, tả cảnh thần Phật ngồi phán xét những hành động của người dương thế: ai thiện được lên Thượng giới, kẻ ác bị đày xuống phía chân vách, có quỷ sứ áp dụng những cực hình xét ra còn thảm khốc bằng mấy cực hình của Pháp đình tôn giáo Âu châu thời Trung cổ.

Masson cho biết thêm chùa xây ở mé đông nam hồ Hoàn Kiếm, xung quanh có hồ sen bao bọc, trông giống như một vòng hoa nên có tên là Liên trì. Chùa thờ những bức tượng bằng gỗ hay bằng đá diễn cảng thụ hình ở địa ngục. “Những tác phẩm điêu khắc kỳ hình dị dạng, khó tả nên lời, nhưng không thiếu vẻ tinh xảo, vượt xa những tấm bích họa khủng khiếp nhất của các nghệ sĩ Âu châu thời Trung cổ”. Kể cũng lạ là một ngôi chùa được ta đặt tên là “Báo Ân” lại chỉ để lại những ấn tượng hãi hùng trong lòng người Pháp.

Bác sĩ Hocquard, y sĩ trưởng (médecin major) trong đoàn quân viễn chinh Pháp, là người đã từng chụp ảnh chùa khoảng 1882-1883. Ảnh lâu ngày đã mờ nhạt, những cái chúng ta thấy in trên sách báo phần nhiều là tranh vẽ lại theo ảnh của Hocquard. Chính Hocquard cũng là một trong nhữngngười đầu tiên mô tả chùa tỉ mỉ, theo đúng phong cách Âu Tây:

“Từ xa, tầm mắt khách thập phương đã bị những cái tháp chuông, cột trụ, tiểu tháp thu hút. Bước vào chánh điện, quy mô rộng lớn, giữa những hàng cột vàng son lộng lẫy, có đến trên hai trăm pho tượng thần Phật sắp hàng. Chính giữa là bàn thờ Đức Phật Thích Ca, cao 1m50, dát vàng từ đầu đến chân, ngồi trên tòa sen, đôi mắt lim dim nhìn xuống lòng bàn tay đặt ngửa trên đầu gối. Hai đại đệ tử đứng hầu hai bên.

Vây quanh mấy pho tượng trung tâm này, la liệt những tượng chư thánh tăng đặt trên các bàn thờ riêng biệt, chạy dài dọc theo tường vách, trông như một cử tọa đang chăm chú. Có những lão trượng khả kính, những ông quan mặc triều phục tay cầm hốt hay bưng lư hương, những tu sĩ khổ hạnh đang ngồi tĩnh tọa, tham thiền nhập định. Tuy họ chỉ mới đạt được bước đầu công phu giác ngộ Phật pháp song đã đủ tài chế ngự được các loài mãnh thú điển hình là những con hổ, con trâu nằm phục dưới chân.

Dáng dấp và cách trang phục pho tượng chính giống kiểu Ấn độ. Tượng Phật ở Bắc kỳ chẳng khác gì ở các chùa bên Tích-lan hay Tân-gia-ba. Chỉ những pho tượng phụ mới thay đổi, hệt như tượng của Trung quốc.

Chùa đã xiêu đổ và không còn mấy người bản xứ đủ khả năng giải thích những điển tích nhà Phật thể hiện qua các pho tượng”.

Paul Bourde, phái viên tờ Thời báo, đi sâu hơn vào khía cạnh kỹ thuật: “Tượng bằng gỗ phủ một lớp sơn màu hay quang thếp khá dày, có pho lại tô một chất liệu gì giống như stuc (đá hoa giả?). Vì lớp sơn phết bên ngoài quá dầy nên những nét đục chạm sắc bén trở nên tròn nhẵn, những đường rãnh sâu trũng bị lấp bằng, xóa mất các nét gân guốc, sắc cạnh của lưỡi dao nhà điêu khắc. Loại stuc không thích hợp với thuật đắp tượng diễn khối mạnh bạo.

Nhiều pho tượng, qua những tâm trạng biểu lộ trên nét mặt, những tư thái tự nhiên, rất đáng chú ý. Đứng sánh bên thì tượng của chùa Bách ngũ thần ở Quảng đông chỉ là những tác phẩm vụng về, thô kệch, bất thành dạng. Nghệ thuật tạo hình cũng như nghệ thuật khảm xà cừ của họ tỏ ra thực sự đặc sắc.

Người tạc tượng nay đã mất hoặc xiêu tán. Tuy nhiên, tôi rất muốn tìm hiểu cung cách làm việc của những nghệ nhân chân chất này, xem họ bị giằng xé đến mức nào giữa những quy tắc rập theo khuôn mẫu cổ truyền và khuynh hướng tôn trọng thiên nhiên. Tôi có cảm tưởng đôi phen sự thật đã làm họ phải khắc khoải.”

Nếu ta biết Bourde thường tỏ ra rất miệt thị dân “bản xứ” thì mới thấy những câu phê bình trên đây là những lời “vàng ngọc”! Hiển nhiên phẩm chất nghệ thuật của các nghệ nhân đã “chinh phục” được Bourde tới mức chịu nhìn nhận tác phẩm của những người này đã đáp ứng tiêu chuẩn trình độ thẩm mỹ của phái viên “thông kim bác cổ” tờ Thời báo. Ngày nay ai ai cũng ca tụng tượng Phật chùa Tây phương, có biết đâu xưa kia còn bao nhiêu tác phẩm có lẽ cũng độc đáo không kém của các nghệ sĩ vô danh khác đã bị mai một chỉ vì không được bảo tồn.

R. Bonnal, Trú sứ Hà Nội (1883-1884), một trong những viên chức hành chính dân sự đầu tiên của Pháp ở Bắc kỳ, cho rằng chùa Thụ hình có những sắc thái đúng với mỹ quan của dân Việt, và nhìn nhận nó có một giá trị lịch sử. Theo ý ông thì tất cả các ngôi chùa ở Việt Nam đều là những di sản văn hóa rất nên bảo trọng và tu bổ.

Cả năm chục năm sau khi chùa bị triệt hạ, Claude Bourrin vẫn còn than tiếc “cái quyết định phá hủy chùa là một quyết định không sao giải thích nổi, và đáng tiếc vô cùng!”. Claude Bourrin không phải là người Pháp duy nhất tỏ ý than phiền.

Theo Internet




Chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ

Chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ

  NGUYỄN HẢI HOÀNH

Thứ bảy, 18 Tháng 7 2020 15:54

Đã hơn trăm năm nay nước ta chính thức sử dụng chữ Quốc ngữ, thứ chữ viết được các nhà trí thức tiên tiến đầu thế kỷ XX ca ngợi là Hồn trong nước; Công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt và tin rằng Nước Nam ta sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ.

Dư luận nước ta trước đây quy công trạng làm ra thứ chữ kỳ diệu ấy cho giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes. Gần đây lại có dư luận yêu cầu ghi công các giáo sĩ không phải người Pháp như Francisco de Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes… và đóng góp của giáo dân miền Nam nước ta từng giúp các giáo sĩ đó học tiếng Việt, và đóng vai trò “giám định” trong quá trình thí điểm sử dụng thứ chữ mới ấy. 

Đáng tiếc là cho tới nay công luận ở ta vẫn chưa nhất trí chọn được các nhân vật tiêu biểu làm ra chữ Quốc ngữ, và cơ quan chính quyền liên quan cũng chưa dứt điểm giải quyết vấn đề này. Để tình trạng đó kéo dài sẽ không có lợi cho hình ảnh một dân tộc văn minh. Đã đến lúc cần bàn thảo rộng rãi và sớm có hành động tri ân những người xứng đáng ghi công. Bài này nhằm góp một ý kiến bàn thảo. Vì người viết ít hiểu biết về ngôn ngữ học nên ý kiến nêu ra khó tránh khỏi có sai sót, mong được bạn đọc chỉ bảo.

***

Tiếng nói là khả năng bẩm sinh của con người, còn chữ viết là một phát minh sáng tạo không phải dân tộc nào cũng có. Ở thời xưa, tiến trình làm chữ viết cho một ngôn ngữ cần thời gian nhiều thế kỷ, thậm chí hàng ngàn năm. Tiếng Việt có hệ thống ngữ âm cực kỳ phong phú, cho nên càng có sức sống bền dai và càng khó làm được chữ viết; có thể vì thế mà ta chậm có chữ của mình. Nhưng cũng chính nhờ tiếng ta giàu ngữ âm mà rốt cuộc dân tộc ta được thừa hưởng một loại chữ viết tuyệt vời nhất vùng Đông Á.

Hiếm thấy nướcnào từng sử dụng ba loại chữ viết như nước ta: chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, mỗi loại chữ ấy làm nên một trang sử vẻ vang đáng ôn lại.

CHỮ NHO

Khoảng thế kỷ II trước CN, phong kiến Trung Quốc (TQ) chiếm nước ta, bắt dân ta học chữHán [1]. Nhờ đó lần đầu tiên người Việt Nam biết tới chữ viết – phương tiện truyền thông tin cực kỳ tiện lợi, không bị hạn chế về không gian và thời gian như tiếng nói. Có thể vì thấy được cái lợi lớn ấy mà các bậc đại trí người Việt đã nảy ra ý tưởng mượn dùng loại chữ này. Nhưng học Hán ngữ cực kỳ khó, vì người TQ đọc tiếng Hán theo hàng trăm phương ngữ khác nhau. Cái khó ló cái khôn: tổ tiên ta đã nghĩ ra cách chỉ đọc thứ chữ này bằng tiếng Việt mà không đọc bằng tiếng Hán, tức chỉ học chữ mà không học tiếng Hán. Ngôn ngữ học ngày nay giải thích điều đó là hợp lý, vì chữ Hánlà chữ biểu ý (chữ ghi ý, ideograph), tương tự chữ tượng hình vẽ con vật hoặc chữ số 1, 2, 3 hoặc ký hiệu $, %,… cả thế giới đều hiểu ý nghĩa các ký hiệu biểu ý đó, tuy đọc bằng tiếng của mình. Tổ tiên ta đã lợi dụng tính biểu ý của chữ Hánđể đọc nó bằng tiếng Việt, như cách người Trung Quốc các địa phương đọc bằng phương ngữ của họ. Vì thế chính quyền chiếm đóng không thể cấm dân ta đọc chữ Hántheo cách của ta.

Người Việt gọi thứ chữ Hán đã Việt hóa phần ngữ âm ấy là chữ Nho, tức chữ của người có học. Khi ấy mỗi chữ Hán được đọc bằng một âm (từ) Hán – Việt gần giống âm Hán của nó; nhưng một âm Hán có thể chuyển thành một số âm Việt khác nhau. Không chữ Hán nào không được đặt tên tiếng Việt. Việc đặt tên cho hàngchục nghìn chữ Hán kéo dài hàng trăm năm, thực sự là một công trình vĩ đại. Chỉ bằng truyền miệng mà cách nay 2000 năm các thầy đồ Nho trong cả nước ta đã đọc chữ Hán bằng một âm Việt thống nhất (TQ đặt mục tiêu đến năm 2020 toàn dân đọc chữ Hán bằng một âm Hán thống nhất). Có lẽ đây là lần đầu tiên chữ Hán được phiên  âm ra tiếng nước ngoài.

Do dạy và học chữ Hán bằng tiếng mẹ đẻ nên dân ta học chữ Hán dễ hơn khi dạy và học bằng tiếng Hán, nhờ đó mượn được thứ chữ nàyđể dùng, và coi chữ Nho là chữ viết chính thức, là “chữ ta” trong khoảng 2000 năm. Không ít người giỏi chữ chẳng kém người Hán. Như Khương Công Phụ (731-805) người Thanh Hóa đỗ Trạng nguyên ở TQ, về sau được vua nhà Đường phong Tể tướng.

Sau khi có chữ viết, dân tộc ta thoát khỏi thời tiền sử lạc hậu, tiến sang thời đại có sử sách ghi chép, có công cụ giao tiếp đối nội đối ngoại, sáng tác văn thơ, xây dựng ngành giáo dục, tiếp thu nền văn minh Trung Hoa tiên tiến, tổ chức xã hội theo mô hình TQ, từ đó tạo dựng nền văn minh Việt. Việc dùng chữ Hán mà không nói tiếng Hán đã giúp dân ta đời đời nói tiếng mẹ đẻ; nhờ thế dù có học và dùng chữ Hán bao lâu thì vẫn tránh được thảm họa bị người Hán đồng hóa. Chữ Nho đã thầm lặng bóp chết âm mưu Hán hóa tiếng Việt. Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ cùng nền văn hóa của mình. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.

Phương pháp dùng từ Hán – Việt để phiên âm chữ Hán, qua đó làm thành chữ Nho, là một sáng tạo xuất sắc về ngôn ngữ, cực kỳ ích lợi: vừa mượn được chữ của người Hán về dùng, vừa lợi dụng được kho từ vựng chữ Hán làm nguồn bổ sung vô hạn cho kho từ vựng tiếng Việt. Thực ra hiện nay từ Hán – Việt đã kết hợp nhuần nhuyễn với từ thuần Việt tới mức khó phân biệt (ví dụ: lập trình, cận nghèo, v.v…). Khi cần dịch một từ ngữ mới xuất hiện, ta thường tham khảo cách dùng từ của người TQ. Ví dụ từ quantum, người TQ dịch là量子, ta đọc Hán-Việt là lượng tử, rất hay và dễ hiểu. Toàn bộ từ vựng Hán ngữ hiện đại do người Nhật cuối thế kỷ XIX phiên dịch các từ ngữ phương Tây [2], sau khivào Việt Nam đều được các nhà Nho Đông Kinh Nghĩa Thục chuyển thẳng thành từ Hán-Việt như vậy. Ngày nay khôngmộttừ ngữ mới nào không thể chuyển thành tiếng Việt.

Hơn nữa, tổ tiên ta phiên âm chữ Hán theo cách khôn ngoan không đâu có. Người Triều Tiên/Hàn Quốc phiên âm theo kiểu bám sát âm Hán, hậu quả là thừa kế 100% tình trạng tồn tại quá nhiều chữ đồng âmtrong chữ Hán; bởi vậy sau 7 thế kỷ dùng chữ Hangul, cho tới nay họ vẫn phải dùng chữ Hánđể ghi chú các chữ đồng âm. Người Nhật đọc chữ Hántheo nghĩa tiếng Nhật, không theo âm tiếng Hán – cách phiên âm này khiến cho ban đầu họ phải dùng hàng chục nghìn chữ Hán, làm cho tiếng Nhật thời cổ trở nên cực kỳ phức tạp. Về sau họ làm ra chữ Kana biểu âm, nhờ thế chỉ còn cần dùng khoảng 2000 chữ Hán. Tổ tiên ta phiên âm chữ Hántheo kiểu một âm tiếng Hán được chuyển thành hàng chục âm tiếng Việt, nhờ thế giảm hàng chục lần số chữ đồng âm, qua đó làm cho từ Hán – Việt chính xác hơn. Ví dụ âm [yi] tiếng Hán có 135 chữ đồng âm, ta chuyển thành hàng chục âm tiếng Việt như ất, dật, di, dĩ, dị, dịch, duệ, ích, y, ý, nghi, nghị, nghĩa, nhị, ức,…

Chữ Nho vốn là chữ Hán nên không ghi được lời nói tiếng Việt, do đó không thể làm chữ viết của tiếng Việt. Trên thực tế chữ Nho hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ của tầng lớp bình dân, chỉ một số ít người thuộc giới quan lại hoặc giới tinh hoa ở ta biết dùng chữ Nho, và chỉ dùng để viết (bút đàm) trong một số lĩnh vực hẹp, không dùng để nói. Văn thơ chữ Nho làm theo kiểu văn thơ của người Hán không được coi là văn thơ tiếng Việt.

CHỮ NÔM

Từ khoảng thế kỷ XII tổ tiên ta bắt đầu sáng tạo một loại chữ viết nhằm ghi âm tiếng mẹ đẻ, gọi là chữ Nôm. Thử nghiệm này nói lên ý thức tự chủ ngôn ngữ muốn có chữ viết riêng của ta, chấm dứt tình trạng dùng chữ đi mượn, lại thể hiện được trí tuệ của người Việt: tiến tới làm ra loại chữ tiên tiến nhất – chữ biểu âm(chữ ghi âm, phonograph), loại chữ người Hán chưa từng có.

Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán đọc theo âm Hán – Việt, kết hợp cả hai yếu tố biểu ý và biểu âm. Vì chưa biết tới ký tự Latin abc nên tổ tiên ta đã dùng các ký tự vuông chữ Hán(có cải tiến) để ghi âm tiếng mẹ đẻ của mình. Ban đầu chữ Nôm mượn dạng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, dần dần dùng cách ghép hai chữ Hán để tạo ra một chữ mới, một phần gợi âm, một phần gợi ý – về sau loại chữ tự tạo này được dùng ngày một nhiều. Nhưng vì các ký tự vuông gốc chữ Hán không phải là chữ cái ghép vần, cho nên mức chính xác ghi âm tiếng Việt còn thấp, chưa tiêu chuẩn hóa, nhiều chữ phải đoán âm đọc, có trường hợp một âm có nhiều chữ, v.v…

Mỗi chữ Nôm thể hiện một âm tiết. Tiếng Việt giàu âm tiết nên có nhiều chữ Nôm. Theo tài liệu [3], vào giữa thế kỷ XVII đã có khoảng 80.000 chữ Nôm (?). “Bảng tra chữ Nôm” (xuất bản năm 1976) cho biết có 8.187 chữ [4].“Từ điển Chữ Nôm dẫn giải” của GS Nguyễn Quang Hồng (xb. 2015) có 9.450 chữ Nôm (gồm gần 3.000 chữ tự tạo), ghi 14.519 âm tiết tiếng Việt. Do chữ Nôm chưa chuẩn hóa nên các số liệu trên có khác nhau, nhưng đều cho thấy tổ tiên ta đã làm được rất nhiều chữ, suy ra chữ Nôm thời xưa đã ghi được rất nhiều (nếu không nói là hầu hết) âm tiếng Việt đã dùng.

Chữ Nômtừng được gọi là Quốc ngữ hoặc Quốc âm, tức chữ của tiếng nói nước ta (chữ Nho chưa bao giờ được gọi như vậy). Nhưngdo cấu tạo trên nền tảng chữ Hánnên chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, khó học (biết chữ Nho mới học được chữ Nôm), khó phổ cập. Hơn nữa, do Nhà nước phong kiến và tầng lớp tinh hoa ở ta mù quáng sùng bái chữ Háncho nên chữ Nôm chưa được thừa nhận là chữ viết chính thức, bị coi là thấp kém dưới chữ Hán. Vì thế chữ Nôm khó được phát triển và hoàn thiện, chưa tiêu chuẩn hóa.

Tuy vậy văn thơ chữ Nôm, tức văn thơ tiếng Việt, do nói lên được tiếng nói và nỗi lòng của người bình dân nên đã tỏ ra trội hơn hẳn văn thơ chữ Nho. Nền văn học chữ Nôm từng đạttới cực thịnh từ thời Hậu Lê đến thời kỳ đầu nhà Nguyễn (thế kỷ XVII-XIX), với các kiệt tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Đoàn Thị Điểm (1705-1749), Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), Nguyễn Huy Tự (1743-1790), Nguyễn Du (1765-1820), Hồ Xuân Hương (1772-1822), Phạm Thái (1777-1813), Bà Huyện Thanh Quan (18051848), Lý Văn Phức (1785-1849), Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), Nguyễn Khuyến (1835-1909), Trần Tế Xương (1870-1907), v.v…[4]. Sách Thiên Nam Ngữ Lục (cuối thế kỷ XVII) gồm 8.136 câu thơ lục bát, dùng tới 58.212 chữ Nôm.

Càng về sau chữ Nôm càng được sử dụng nhiều: trong hơn 200 năm sau khi chữ Quốc ngữ đã ra đời nhưng chưa phổ cập, các linh mục Công giáo đều dùng chữ Nôm viết tài liệu giảng đạo. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của chữ Nôm trong đời sống văn hóa ở ta, đặc biệt trong cộng đồng Công giáo vốn không ưa dùng chữ gốc Hán.

Vì sao chữ Nôm khó học mà lại được sử dụng khá phổ biến đến như vậy? Chủ yếu do chữ Nôm có yếu tố ghi âm rất rõ, ghi được tiếng nói người bình dân, là “chữ của tiếng ta”. Hãy xem câu “Sóng tình dường đã xiêu xiêu/ Xem trong âu yếm có chiều lả lơi” (Truyện Kiều, câu số 499-500): hầu như toàn bộ là tiếng “thuần Việt”, không có từ Hán – Việt – là những âm mà chữ Nho không thể hiện được. Ngôn ngữ học thời nay giải thích: chữ Nôm có được yếu tố ghi âm là do tiếng Việt giàu âm tiết nên vượt qua được sự hạn chế của ngôn ngữ đơn âm tiết (monosyllabic)[5].

CHỮ QUỐC NGỮ

Thế kỷ XVII các giáo sĩ Kitô giáo Dòng Tên Francisco de Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes,Girolamo Maiorica, Alexandre de Rhodes v.v… đến nước ta truyền giáo. Dòng Tên chỉ tuyển người có trình độ tiến sĩ [6], và nghiêm khắc yêu cầu nhà truyền giáo phải thông thạo ngôn ngữ và theo phong tục tập quán của dân bản xứ.

Theo ghi chép, Francisco de Pina đến Việt Nam năm 1617, ba năm sau đã cùng các giáo sĩ soạn tài liệu giáo lý bằng chữ Nôm. Trong các năm 1632-1656 giáo sĩ Girolamo Maiorica (người Ý) đã viết 45 tác phẩm chữ Nôm, trong đó Thư viện Quốc gia Pháp hiện còn giữ 15 tác phẩm với tổng số 1, 2 triệu chữ Nôm [7], nhiều gấp 52 lần số chữ Nôm trong Truyện Kiều. Một số thư viện còn giữ được nhiều tài liệu chữ Nôm của các giáo sĩ đi đầu làm chữ Quốc ngữ như Gaspar do Amaral, António Barbosa…   

Vì đối tượng truyền giáo thời ấy là nông dân, ngư dân Quảng Nam, Quảng Ngãi nên dĩ nhiên các tài liệu giảng đạo chữ Nôm phải dùng từ ngữ của dân thường. Từ đây có thể suy ra các vị giáo sĩ-bậc thầy ngôn ngữ học ấy không thể không nhận thấy chữ Nôm có yếu tố biểu âm, vàđã ghi được phần lớn âm tiếng Việt, nhưng chỉ vì dùng ký tự vuông của Hán ngữ nên ghi âm chưa chính xác, và khó học, khó phổ cập. Kinh nghiệm thất bại của các giáo sĩ Dòng Tên ở Nhật trong việc phiên âm Latin hóa chữ Kanji biểu ý (tức chữ Hán) càng cho thấy việc chữ Nôm có yếu tố biểu âm là một thuận lợi lớn khi phiên âm nó thành chữ biểu âm Latin hóa.

Với nhận thức như vậy, các giáo sĩ giỏi chữ Nôm kể trên dĩ nhiên đã sớm nảy ra ý tưởng và niềm tin có thể dùng chữ cái Latin để phiên âm chữ Nôm, biến thứ chữ gốc Hán có yếu tố biểu âm ấy thành thứ chữ biểu âm Latin hóa dễ học dễ dùng cho việc truyền giáo.  

Hiển nhiên, phiên âm một loại tiếng nói đã có chữ viết ghi lại âm của tiếng đó thì đơn giản nhiều so với việc phiên âm thứ tiếng nói chưa có chữ viết – ở thời xưa, đó là một công trình lao động sáng tạo cực kỳ phức tạp, cần nhiều người làm trong hàng trăm năm.

Trên thực tế, các giáo sĩ kể trên dù rất ít người và làm việc phân tán nhưng đã nhanh chóng tìm ra các chữ cái Latin thích hợp thay cho các ký tự vuông tương ứng trong chữ Nômvà tạo ra loại chữ mới trong thời gian ngắn kỷ lục: 32 năm (1617-1649). Năm 1617 Francisco de Pina đến Đàng Trong, năm 1619 đã viết xong một bản từ vựng tiếng Việt bằng chữ Latin. Năm 1631 Gaspar do Amaral đến Đàng Ngoài, năm sau đã ghi âm rất tốt tiếng Việt, năm 1634 làm xong một cuốn từ vựng tiếng Việt. Trongmấy cuộc gặp tại Macao (1630-1631), các giáo sĩ đã xác định được 6 thanh điệu và tính đơn âm tiết của tiếng Việt. Năm 1649 Rhodes mang theo bản thảo Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) rời Việt Nam. Năm 1651 Từ điển này được xuất bản tại Roma, đánh dấu sự ra đời chữ Quốc ngữ Việt Nam [8]. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, chữ viết biểu âm Latin hóa thành công ra đời tại khu vực ảnh hưởng của Hán ngữ.

Trong quá trình làm chữ Quốc ngữ, các giáo sĩ đã phải giải quyết nhiều khó khăn gây ra bởi hệ ngữ âm tiếng Việt quá phong phú và mới lạ. Vấn đề phức tạp nhất là phải nghiên cứu sáng tạo ra hệ thống ký hiệu thể hiện được các thanh điệu sắc, huyền, hỏi. ngã, nặng, và các con chữ thể hiện được các ngữ âm không có trong bộ chữ La tinh như ă, â, ê, ơ, ô, ư, đ. Bộ ký hiệu và con chữ ấy làm nên cái gọi là “giày và mũ” trong nhận xét của một học giả nổi tiếng Trung Quốc: “Chữ viết của Việt Nam sau khi phiên âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười.” [9]. Thực ra “mũ, giày” ấy là những sáng tạo hợp lý tới mức người Việt xưa và nay đều không chấp nhận bất cứ thứ chữ Quốc ngữ nào không có các ký hiệu và con chữ đó. Ví dụ gần đây công luận không tán thành một số phương án chữ Quốc ngữ bỏ dấu. Ngoài ra các giáo sĩ đã hiệu chỉnh những âm tiếng Việt mà chữ Nôm chưa ghi chính xác, và hiện đại hóa ngữ pháp cùng cách viết, như đưa vào các loại dấu ngắt câu, ngắt đoạn, dấu ngoặc, ký hiệu toán học, lối viết hoa, viết tắt, v.v…

Về hình thức, chữ Quốc ngữ khác hẳn chữ Nôm, nhưng về bản chất cả hai đều là các hệ chữ viết ghi âm tiếng Việt; chữ Quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La thể hiện rất rõ mối tương quan với chữ Nôm [10].

Sau mấy chục năm dầy công lao động sáng tạo, các vị giáo sĩ nói trên đã hoàn thành việc phiên âm và biến đổi chữ Nôm thành một thứ chữ biểu âm dùng chữ cáiLatin -loại chữ viết tiên tiến nhất, quốc tế hóa nhất thời đó, về sau được gọi là chữ Quốc ngữ. Rõ ràng, chữ Quốc ngữ chính là chữ Nôm được Latin hóa và hiện đại hóa.

Giả thử thời ấy chưa có chữ Nôm, chỉ có chữ Nho, thì việc làm chữ của các giáo sĩ sẽ vô cùng khó khăn vì chữ Nho vốn là chữ Hán. Thực tiễn cải cách chữ viết ở Trung Quốc đã chứng tỏ không thể dùng bất cứ bộ chữ cái nào để phiên âm chữ Hán thành chữ biểu âm.

Năm 1582 giáo sĩ Dòng Tên người Ý Matteo Ricci đến Trung Quốc truyền giáo. Ông rất giỏi Hán ngữ, đã dành nhiều năm nghiên cứucách phiên âm chữ Hán. Năm 1605, Ricci đưa ra phương án phiên âm chữ Hánbằng chữ cái Latin, nhưng phương án này chỉ giúp người Âu học chữ Hán dễ hơn, chứ chưa phải là một loại chữ viết mới. Về sau, giới trí thức Trung Quốc tiếp tục nghiên cứutheo phương hướng của Ricci nhằm mục tiêu tạo ra một thứ chữ biểu âm có thể thay thế chữ Hán mà họ muốn loại bỏ. Nhưng mọi cố gắng ấy đều không có kết quả. Năm 1958, Ủy ban Cải cách chữ viết Trung Quốc làm ra Phương án phiên âm (Pinyin) Hán ngữ dùng chữ cái Latin, nhưng chỉ có tác dụng phụ trợ là ghi chú âm cho chữ Hán, không phải là một loại chữ viết. Từ năm 1986, Ủy ban này không còn nhắc tới mục tiêu tạo ra loại chữ biểu âm thay cho chữ Hánnữa, và nói tương lai của chữ Hánsẽ do các thế hệ sau quyết định. Hiện nay Trung Quốc vẫn dùng chữ Hánnhư cũ, có kết hợp dùng phương án Pinyin Hán ngữ chỉ để ghi chú âm đọc chữ Hán.

Tóm lại, việc dùng chữ cái Latin phiên âm chữ Nôm thành chữ biểu âm đã thành công ngay từ giữa thế kỷ XVII, trong khi mọi cố gắng tương tự đối với chữ Háncho tới nay vẫn bất thành. Tại sao vậy? Đó là do chữ Nôm có yếu tốbiểu âm, còn chữ Hánbiểu ý không biểu âm; và tình trạng đó bắt nguồn sâu xa từ chỗ tiếng Việt giàu âm tiết, tiếng Hán nghèo âm tiết.

Đến đây có thể kết luận:Chữ Nôm đã xây đắp nền tảng ngôn ngữ để các giáo sĩ nói trên dựa vào đó tạo ra chữ Quốc ngữ. Toàn dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công trạng làm chữ Nôm của tổ tiên ta, coi chữ Nôm là một sáng tạo ngôn ngữ xuất sắc góp phần quyết định sự hình thành chữ Quốc ngữ.

Sau cùng cần nhấn mạnh vai trò quan trọng của Kitô giáo. Là hiện tượng văn hóa của số đông loài người, các tôn giáo lớn đều tôn sùng và truyền bá tư tưởng nhân ái cao quý. Thế kỷ XVII, các giáo sĩ Kitô giáo người Âu khi đến Việt Nam truyền giáo đã kết hợp làm sứ mạng khai hóa dân bản xứ, khác hẳn hành vi xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Thực dân Bồ Đào Nha khi chiếm Brazil đã cưỡng bức đồng hóa dân bản xứ bằng cách bắt họ nói tiếng Bồ, trong khi các giáo sĩ Kitô giáo người Bồ như Franciscode Pina… đến Việt Nam truyền giáo đã không làm thế mà còn tìm cách Latin hóa chữ Nôm. Hơn nữa, de Pina còn nghĩ tới việc dùng thứ chữ hiện đại này bắc cây cầu đối thoại Việt Nam với châu Âu văn minh, và tạo dựng một nền văn hóa mới cho nước ta [11]. Đây thật là một ý tưởng cao quý! Khi mới chiếm Việt Nam, thực dân Pháp từng chủ trương bắt dân ta đời đời nói tiếng Pháp như chúng đã làm ở các thuộc địa châu Phi. Nhưng giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes lại hăng hái làm chữ viết riêng giúp cho người Việt giữ được tiếng mẹ đẻ. Nếu chưa có chữ Quốc ngữ thì nước ta ắt hẳn đã bị người Pháp đồng hóa từ lâu.

Bởi vậy sẽ là sai lầm khi cho rằng các giáo sĩ đạo Kitô đến Việt Nam truyền giáo là để phục vụ chính sách xâm lược của thực dân Pháp. Với truyền thống Uống nước nhớ nguồn, dân tộc ta ghi ơn tất cả các giáo sĩ Kitô giáo đã góp phần làm ra thứ chữ viết kỳ diệu ta dùng hơn trăm năm nay.

Và như vậy có thể nói chữ Quốc ngữ là thành quả kết hợp trí tuệ của nền văn minh Việt với nền văn minh Kitô giáo, là món quà vô giá mà các giáo sĩ Dòng Tên trao cho dân tộc ta trong một ngẫu nhiên lịch sử xảy ra ở thế kỷ XVII.

Ghi chú

[1] Thứ chữ này đến đời nhà Nguyên (thế kỷ XIV) mới có tên “chữ Hán”. Ở đây gọi thế cho tiện.

[2]  Nguyễn Hải Hoành: “Người Nhật phát triển Hán ngữ hiện đại”

[3] https://hocthenao.vn/2013/09/07/the-chan-vac-cua-ngon-ngu-van-tu-viet-dao-mong-nam-nguyen-tien-van/

[4]  Lại Nguyên Ân :  “Chữ Quốc ngữ và đời sống cộng đồng người Việt”.

[5]  Nguyễn Hải Hoành: “Một vài tìm tòi về ngôn ngữ”. Tạp chí Tia Sáng số 11 (5/6/2020).

[6]  https://tuoitre.vn/chu-quoc-ngu-nhung-nguoi-dau-tien-khai-sang-20191206213804476.htm

[7]  https://vi.wikipedia.org/wiki/Girolamo_Maiorica.  

     Lã Minh Hằng: “Đôi nét về thư tịch Hán Nôm Công giáo tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm”.

[8]  Phạm Thị Kiều Ly: “Lịch sử chữQuốc ngữ từ 1615 đến 1861: Quá trình La-tinh hóa tiếng Việt trong trào lưu ngữ học truyền giáo”. TC Tia Sáng số 24  (20/12/2019).

[9]  Nguyễn Hải Hoành: “Sao lại nói chữ Quốc ngữ Việt Nam rất nực cười?”

[10]  Nguyễn Ngọc Quân: “Chữ Quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La trong tương quan với cấu tạo chữ Nôm đương thời”.

[11]  http://www.rfi.fr/vi/ việt-nam/20200122-ông-tổ-quốc-ngữ-pina-người-bắc-cầu-văn-hóa-âu-việt.

—————Sửa lần cuối vào Thứ bảy, 18 Tháng 7 2020 16:10

Theo Internet




KỶ NIỆM VỚI LƯU QUANG VŨ

KỶ NIỆM VỚI LƯU QUANG VŨ

BÙI CHÍ VINH

Một trong những kẻ sĩ ngoài Bắc đầu tiên mà tôi tiếp xúc sau 1975 là Lưu Trọng Văn, con trai thi sĩ tiền chiến Lưu Trọng Lư. Ngay từ hồi mới quen, Lưu Trọng Văn đề nghị tôi nên viết hồi ức về những gì mà chính tôi nếm trải trong chiến tranh. Tôi trích từ tự truyện HAI HÀNG DỌC, TRƯỚC THẲNG vừa hoàn thành trong tháng 5 – 1975 ra một chương gần cuối đặt tựa là “LOÀI CHIM ĐI BIỂN” và gửi Lưu Trọng Văn đăng báo Văn Nghệ Trung Ương ngoài Bắc. Các bạn nên biết bốn chữ LOÀI CHIM ĐI BIỂN thoạt nghe có vẻ cực kỳ thơ mộng, nhưng thực chất đó là tên gọi triển khai một cách hài hước của bốn từ “LAO CÔNG ĐÀO BINH” gọi tắt là “LCĐB”, là tên gọi chung những sĩ quan binh lính Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ, bỏ ngũ, phản chiến, bị giam ở quân lao, cuối cùng gom lại tập trung đưa đi làm lao công chiến trường như một thứ “bia đỡ đạn” . LCĐB còn được gọi nôm na là “Lũ Chó Đái Bậy” hoặc “Lính Chiến Đồng Bằng”… Ngay khi vừa xuất hiện trên mặt báo, truyện ngắn LOÀI CHIM ĐI BIỂN đã gây tiếng vang và được dư luận ngoài đó nhận xét như một thứ bút pháp lạ.

Image result for lưu quang vũ
Lưu Quang Vũ

Qua Lưu Trọng Văn, tôi có dịp làm quen với cặp vợ chồng nhà thơ nổi tiếng ngoài đó là Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh. Tôi có một kỷ niệm riêng đặc biệt với Lưu Quang Vũ một đêm ở Hồ Con Rùa mà không tiện kể ra đây. Chỉ biết lúc đó anh đã kể với tôi về thời gian tuyệt vọng không lối thoát khi B52 dội bom miền Bắc, thậm chí anh đã có ý định tự sát dưới mưa bom (nhưng bất thành) khi tổ chức và đồng nghiệp tỏ ra nghi ngờ lòng yêu nước của mình. Cuối năm 1977 Lưu Quang Vũ là một trong vài người ngăn cản tôi đi bộ đội khi tôi cho anh xem những lá đơn tình nguyện ra biên giới chiến đấu. Bằng kinh nghiệm cá nhân của một người cầm súng phía Bắc, có lẽ anh hiểu rằng tôi không thích hợp với trò chơi phe nhóm của chiến tranh. Kỷ niệm văn nghệ của chúng tôi được ghi nhận bằng tuyển tập thơ NHÌN NHAU VÀ NÓI do tôi và anh Tôn Thất Mạnh Tường phụ trách tập hợp, đặt tên và biên tập. Trong tuyển tập thơ NHÌN NHAU VÀ NÓI ra đời cuối năm 1975 mang ý nghĩa thống nhất thơ ba miền do Thành Đoàn xuất bản này, tôi đã chọn một bài thơ của Lưu Quang Vũ dù lúc đó chưa quen biết anh. Bài thơ nói lên tâm trạng trống rỗng của người lính sau khi đất nước thống nhất, bài thơ độc đáo đối với độc giả phương Nam bởi không nằm trong dòng chảy của thơ minh họa và thơ đồng phục. Bài thơ ăm ắp tính người. Đáng tiếc đến giờ này kho sách của tôi đã bị mất tuyển tập đầu tiên ấy.

Kỷ niệm riêng với tôi và Lưu Quang Vũ một đêm ở Hồ Con Rùa thực ra khá lãng mạn nếu không có bài thơ RAU MUỐNG của tôi chen vào. Đêm đó khi Lưu Quang Vũ phác thảo về những vở kịch của anh và yêu cầu tôi đọc thơ thì tôi đã chọn bài mang tựa nêu trên để trắc nghiệm sự chịu đựng của anh. Còn phải hỏi, tôi là dân gốc Nam Định nhưng sinh ra ở Sài Gòn, ở xứ sở của những người trọng nghĩa khinh tài, ăn ngay nói thẳng, dám chơi dám chịu nên không thể giả dối với ai hoặc lắt léo theo kiểu miền Bắc. Tôi đã đọc bài thơ làm anh choáng váng:

RAU MUỐNG

Các bạn đã sống một thời hiếm hoi cá thịt
Các bạn chiêm bao nhà ngói cây mít
Và ước mơ một cái ao rau muống trong vườn
Các bạn hết còn tin trái đất có thiên đường
Thiên đường trước mặt là cái hàng rào có khóa

Các bạn rủ nhau vào Nam và trở thành khá giả
Chiêm bao và ước mơ có dịp được nhân lên
Các bạn được nhân lên ngay cả niềm tin
Năng nhặt chặt bị bằng túi tiền nửa nước
Các bạn viết kịch thành công mà không tự mình diễn được
Bởi những nhân vật lớn vẫn còn nguyên trong những hàng rào
Các bạn định dùng văn chương làm chìa khóa à ? Còn lâu !

Dù có cố gắng thủ vai cho đến lúc bạc đầu
Các bạn cũng không thoát khỏi những cọng dây rau muống…

Coi, phải nói rằng tôi khâm phục sức chịu đựng của Vũ. Sau một phút lặng người, anh đã cười ha hả quàng vai tôi và nói như khóc: “Tôi muốn làm thơ như ông nhưng không làm được, và có làm được cũng không đạt được”.
Năm 1994, ra Bắc tôi không còn cơ hội gặp Lưu Quang Vũ. Đơn giản là vì anh đã chết một cách bất đắc kỳ tử. Bất đắc kỳ tử đến độ cái chết của anh tới bây giờ vẫn còn là một dấu hỏi với quá nhiều lời giải đáp. Tôi chỉ biết tưởng niệm hai vở kịch NHÂN DANH CÔNG LÝ và TÔI VÀ CHÚNG TA của Võ Khắc Nghiêm – Doãn Hoàng Giang và của anh như sau:
CÔNG LÝ là một KÝ LÔNG
Lúc cân, chẳng biết phải NHÂN DANH gì ?

Mới đầu TÔI VÀ CHÚNG TA
Đến khi màn khép TAO VÀ CHÚNG BAY !

BCV
(Trích hồi ký GIAI THOẠI CỦA THI SĨ)




TÔI CÀI ĐIỆP-VIÊN VÀO NỘI-BỘ

BA-LAN & ĐÔNG ÂU

        ỦY-HỘI QUỐC-TẾ

        Hiệp-Định Paris

        NGÀY 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp-Định Paris chấm dứt chiến-tranh và tái-lập hòa-bình tại Việt-Nam được ký-kết và có hiệu-lực kể từ hôm sau.

        Phần đông đồng-bào Miền Nam đã nghe, đã đọc và đã phát-biểu quá nhiều những lời chỉ-trích Hiệp-Định Paris, và chính những người thân-Chính-Quyền nhất cũng phải đồng-ý phần lớn với những phát-biểu bất-mãn về các điều-khoản trong đó thua-thiệt cho Việt-Nam Cộng-Hòa.

        Tám tháng sau đó, vào ngày 26 tháng 9, tôi rời Vùng II ra Vùng I đảm-trách Giám-Đốc Đặc-Cảnh (An-Ninh và Phản-Gián) Miền Trung.

        VỚI tôi, về mặt nổi, những điều liên-quan thiết-thực đến cách xử-trí của nhân-viên công-lực, những khi đối-diện với các thành-viên Cộng-Sản (cộng-sản Ba Lan và Hung Gia Lợi trong Ủy Hội Quốc Tế, và cộng sản Bắc Việt Xâm-Lược trong Ban Liên Họp Quân Sự 4 và 2 Bên) ở nơi công-cộng, là điều cần đề-cập nhất, thì không nghe Cấp Trên chỉ thị gì, mả lại còn ra lệnh cấm tiếp-xúc với họ nữa, nên tôi đã tự ý hướng-dẫn cho thuộc-viên từ trong Vùng II rồi, nay ra Vùng I tôi cũng làm lại việc đó cho các cấp nhân viên ở ngoài này.

        NHƯNG. quan-trọng hơn hết, về mặt chìm, tôi đã có cách cụ-thể vớt-vát thiệt-thòi cho phe Quốc-Gia đối với Hiệp-Định Paris:

        Từ trong Vùng II, tôi đã quyết-định tấn-công tình-báo ngay vào chính các Phái-Đoàn Bắc-Việt Xâm-Lược và Cộng-Tặc Miền Nam (ít nhất thì cũng đã đạt được một thành công ban đầu tại Phan Thiết); và nay thì tại Vùng I, gặp được hoàn-cảnh cả đối-nội lẫn đối-ngoại thuận-lợi hơn, tôi phải đích-thân ra tay đối với cả Ba-Lan lẫn Hung-Gia-Lợi, bắt đầu từ các Phái-Đoàn liên-hệ tôi gặp hằng ngày trong thành-phố Đà Nẵng này.

Ủy-Hội Quốc-Tế tại Khu-Vực II

        THEO Hiệp-Định Paris thì lĩnh-thổ Việt-Nam Cộng-Hòa được chia ra làm nhiều Khu-Vực; mỗi Khu-Vực được đặt dưới quyền kiểm+giám của một Phái-Đoàn đại-diện Ủy-Hội Quốc-Tế, tức Ủy-Hội Kiểm-Soát và Giám-Sát Quốc-Tế (ICCS=International Commisssion of Control and Supervision).  Ủy-Hội Quốc-Tế gồm có 4 nước: Gia-Nã-Đại (Canada) ― về sau Ba-Tư (Iran) thay-thế ―, Nam Dương (Indonesia), Ba-Lan (Poland), và Hung-Gia-Lợi (Hungary).

        Đại Diện các phe lâm-chiến được gọi là Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-Bên (Hoa-Kỳ, Việt-Nam Cộng-Hòa, Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa tức Cộng-Sản Bắc-Việt, và Cộng-Hòa Miền Nam Việt-Nam tục gọi “Việt-Cộng”) ― về sau chỉ còn 2-Bên (VNCH và CHMNVN).

        Riêng (Quân-) Khu I của VNCH được chia thành  2 Khu-Vực của Ủy-Hội Quốc-Tế:  Khu-Vực I đặt trụ-sở tại Huế, và Khu-Vực II đặt trụ-sở tại Đà-Nẵng.

        Đà-Nẵng là thủ-phủ của Miền Trung, nơi có Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn I & Quân-Khu I, Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực & Ngành Đặc-Cảnh Vùng I, các cơ-quan Chính-Quyền cấp Vùng, các Tòa Tổng-Lĩnh-Sự ngoại-quốc cấp Vùng, v.v…

        Trong lúc Cảnh-Sát Quốc-Gia toàn-quốc đều phải tuân theo chỉ-thị của thiếu-tướng Tư-Lệnh Nguyễn Khắc Bình ― không được tiếp-xúc với Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi ― thì tôi đã xin, và đã được phép, cho riêng tôi được tiếp-xúc với các thành-viên Cộng-Sản nước ngoài ấy.

(Đối với Cộng-sản Việt-Nam thì Ngành Đặc-Cảnh, từ cấp lĩnh đạo xuống đến các Điệp-Trưởng, Trưởng Lưới, Trưởng Mũi và Trưởng Mối Biệt-Tác, đã tiếp-xúc từ lâu rồi, ngay từ trước khi bọn họ bị giết, bị bắt, hoặc hưởng-ứng chính-sách Chiêu-Hồi, mục-đích là để tuyển dụng họ làm nội-tuyến cho ta).

Hai Phái Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi

        ỦY-HỘI Quốc-Tế được một Hãng Thầu Hoa-Kỳ cung-cấp một tòa nhà riêng, để làm trụ-sở chính-thức; nơi đó hai Phái Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi làm việc chung với các Phái Đoàn Ba-Tư và Nam Dương.

        Đó cũng là nơi Ủy-Hội Quốc-Tế chính-thức hội-họp với các Phái Đoàn Hoa-Kỳ và Việt-Nam Cộng-Hòa.

        Hai Phái Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi được cấp một chỗ ở riêng, để phe Cộng-Sản ở chung với nhau:  họ chiếm toàn-bộ khách-sạn “Hồng Kông”.

        Một hãng-thầu Hoa-Kỳ cung-cấp cho họ mọi thứ cần dùng trong đời sống và sinh-hoạt hằng ngày.

        TẠI khách-sạn “Hồng Kông” này, hai Phái Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi có đặt những phòng-giấy bỏ túi cho Trưởng Phái Đoàn, Sĩ-Quan Điều-Hành, Sĩ-Quan Truyền-Tin/Mật-Mã, và Thông Dịch-Viên của mình.

        Dưới quyền Phái Đoàn Khu-Vực II, tại Đà-Nẵng, có 3 Tổ Ủy-Hội Quốc-Tế:  tại Hội-An, Chu-Lai, và Quảng-Ngãi.

        Về phương-tiện di-chuyển của UHQT thì:  về đường bộ là xe-hơi sơn màu trắng, có gắn cờ ICCS (mà tài-xế lúc đầu là người Mỹ, về sau là nguời Việt-Nam); và về đường hàng-không là các loại phi-cơ của Hãng “Air America” có sơn ba đường gạch ngang màu lục phía sau đuôi (và phi-công là người Hoa-Kỳ).

        Về phía Hãng Thầu thì:  tại khách-sạn “Hồng Kông” có một bộ-phận chấp-hành, gồm có một thư-ký khách-sạn là đại diện chính; quản-gia; và các công-nhân như bồi, bếp, tài-xế, thợ máy; v.v… đều là người Việt-Nam.

Kế-hoạch hoạt-động của tôi

        VỀ phía Chính-Quyền Việt-Nam:  Trung-Ương không hề ra lệnh; và hẳn sẽ không chấp-thuận cho tôi, cũng như cho bất-cứ ai, hướng mũi hoạt động ― gián điệp, tức là tình-báo chủ động; chứ không phải phản-tình-báo bị động ― của mình vào các mục-tiêu Cộng-Sản nước ngoài.

        Việc đó nằm ngoài phần-vụ và trách-nhiệm của Ngành Đặc-Cảnh VNCH.

        Nhưng tôi đã thuyết-phục và được phía Người Bạn Đồng-Minh (CIA) đồng-ý và trợ-giúp tôi.

        Các thành-viên Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi, nhất là các cấp chỉ-huy và chuyên-viên, không phải chỉ là sĩ-quan bộ đội bình-thường, mà là cán-bộ gián điệp quan-trọng của 2 nước này; chính CIA cũng đã xác-nhận như thế với tôi .  Bọn họ đến đây để tiếp sức cộng-sản Việt-Nam chống phá chúng ta, tại sao chúng ta không dùng gậy ông để đập lưng ông, mượn tay bọn họ để gây biến-loạn ngay trong nội-bộ guồng máy độc-đảng của chính bọn họ ngay bên trời Âu .

        Trong ngành tình-báo, kẻ thù có thể thuộc nhiều dân-tộc khác nhau, hoạt-vực có thể gồm nhiều quốc-gia khác nhau; huống gì CIA cũng đang cần tung thêm lưới vào trong hàng-ngũ các nước thuộc Khối Liên-Xô …

        Tôi mượn của Tòa Tổng-Lĩnh-Sự Hoa-Kỳ một số từ-điển bách-khoa cũng như tài-liệu thời-sự để tìm hiểu thêm về hai nước Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi.

        NÓI chung, tuy ở trong khối Liên Bang Xô Viết, đại đa số dân-nhân cả Ba-Lan lẫn Hung-Gia-Lợi đều đang vùng-vẫy để thoát khỏi quyền thống-trị của Nga-Xô .

        Tôi gợi ý Hoa-Kỳ lợi dụng tối-đa tình-hình ở hai nước ấy, đặc-biệt là Ba-Lan.  Ở Ba-Lan thì công-nhân là lực-lượng tiền-phong hùng-hậu, và các tầng-lớp dân-nhân thì chịu ảnh-hưởng sâu-rộng của Vatican.

        TRONG lúc chờ-đợi, tôi đứng ra móc nối các thành-viên cộng-sản trong Ủy-Hội Quốc-Tế hiện có ở đây .

        Tôi lý-giải rằng:  nếu tôi mà làm được việc, thì chính Người Bạn Đồng-Minh hưởng công; viên-chức liên-hệ sẽ được chuyển đến quốc-gia hữu-quan để phát-triển thêm mạng lưới của mình, thành tích gia tăng; làm việc bên đó, không có chiến-tranh, hẳn là an-toàn, an-nhàn hơn ở Việt-Nam!

        Thế là tôi được Người Bạn Đồng-Minh tán-đồng và yểm-trợ mọi mặt tối đa .

Một cơ-hội tiếp-cận tự-nhiên

        MỘT hôm, một viên-chức cao-cấp thuộc Tòa Tổng-Lĩnh-S Hoa-Kỳ tại Vùng I tổ-chức một buổi dạ-tiệc tại tư-gia ― thật ra là một bữa ăn đặc-biệt.

        Chủ nhà không nấu dọn gì, mà dùng sân trước và vườn sau làm một cảnh chợ vỉa hè.  Họ đặt mua trọn chuyến hàng: nơi này là xe phở bò; nơi kia là gánh bánh lá & chả tôm, v.v…; hầu hết các món hàng rong quen-thuộc của Đà-Nẵng đều được quy-tụ về đây.  

        Thực-khách đến ăn món nào thì đều theo đúng cách-thế thông-thường đối với món đó, chỉ khác là khỏi trả tiền.

        Trong khung-cảnh đó, tôi đã tiếp-xúc lần đầu với các viên-chức lãnh đạo 4 Phái Đoàn Ủy-Hội Quốc-Tế, và đặc-biệt là 2 Trưởng Phái Đoàn Cộng-Sản Ba-Lan và Hung Gia Lợi .  Cấp-tốc nghiên-cứu, lượng-giá đối-tượng, tôi đã dễ dàng tìm ra phương-thức đối đầu với các mục-tiêu.

Toán “Thạch-Mã”

        BỘ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia có chỉ-thị cho các Địa-Phương nơi nào có Ủy-Hội Quốc-Tế cấp Khu-Vực thì tổ-chức một Toán Hộ-Tống bảo-vệ an-ninh cho các Phái Đoàn.  Các Phái Đoàn Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi tại Khu-Vực II ở Đà-Nẵng không nhận việc hộ-tống ấy, vì họ cảm thấy là bị theo dõi; họ muốn tự-do đi lại, hành-động theo ý muốn riêng; nên các Phái Đoàn Ba-Tư và Nam Dương cũng đồng-ý theo .

        Do đó, tôi nhận nhiệm-vụ theo dõi các Phái Đoàn Ủy-Hội Quốc-Tế từ phía Cảnh-Sát Sắc-Phục sở-tại chuyển qua cho Ngành Đặc-Cảnh cấp Vùng.

        Tại đây có một bộ-phận đặc-trách mang bí danh “Toán Thạch-Mã”, trong đó có cả một số nhân-viên của Sở I An-Ninh Quân Đội biệt-phái đến; tất cả đều mặc dân-phục để hoạt-động chìm.

        TÔI thuê cho Toán một trụ-sở riêng.

        Vì không tiện bề sử-dụng xe Jeep sơn màu xanh+trắng của phía Sắc-Phục nên tôi đã xin Người Bạn Đồng-Minh một chiếc xe Jeep dân-sự để cho Toán dùng.  Xe này là của Tòa Tổng-Lĩnh-Sự Hoa-Kỳ nên mang bảng số NT (nhập tạm) dành riêng cho các ngoại-kiều .  Tôi không tiện xin cơ-quan Lộ-Vận cấp cho một số trước-bạ bình-thường, vì xe không thuộc sở-hữu chung của Cảnh-Lực hay riêng của cá-nhân nào .

        Có nhiều chỉ dấu, mà chiếc xe ấy là rõ-ràng nhất, khiến có một số đồng-bào gọi người sử-dụng xe ấy là CIA .

        Tôi chỉ nhắc-nhở anh+em trong Toán về mặt an-ninh bản-thân, chứ không giải-tán hoặc thay đổi ngụy-thức, mặc dù thật ra kết-quả giám-thị của họ chỉ thuộc lĩnh-vực thám-báo ― chưa phải điệp-báo như tôi mong muốn ― mà ở Trung-Ương thì do một Văn-Phòng khác chứ không phải Ngành chuyên-môn của tôi chủ đạo, mà Văn-Phòng ấy lại chỉ chủ-trương hoạt-động như thế mà thôi.

    Có lần Ðại-Tá Lê Quang Nhơn, Chánh Sở I ANQĐ, ngỏ ý muốn rút nhân-viên của Sở mình về, vì họ thiếu người ― vả lại trong đó có cả một thiếu-tá ― nhưng tôi không thuận.  Tôi muốn có sự hiện-diện của Toán ấy để đánh lạc hướng chú ý của đối-phương, nhằm bảo-mật các đường dây điệp-báo riêng của tôi.

Biệt-Đội “Thiên Nga”

        BỘ Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương, từ thời Trung-Tá Nguyễn Mâu, có thành-lập một đơn-vị nữ-tình-báo, từ cấp Trung-Ương xuống đến các Vùng, Tỉnh và Thị, mệnh danh “Biệt-Đội Thiên-Nga”.  Tuy trong một số trường-hợp Biệt-Đội này đã lập được thành-tích khả-quan, nhưng nhìn chung thì kết-quả hoạt-động vẫn chưa tương-xứng với tổ-chức quy-mô nói trên.  Nhiều nữ-nhân-viên được dùng vào các công-việc văn-phòng thay vì ra ngoài dò tìm và gài người xâm-nhập vào các chi-bộ cộng-sản nằm vùng hoặc từ mật-khu về móc nối tại nội-thành.

Thế nhưng Thiên-Nga dù sao thì cũng đã được đồng-bào ― và cả Việt-Cộng ― nghe tiếng, biết tên.

        GẶP lúc Bộ Ch?Huy Cảnh-Lực Vùng I tuyển-mộ một đợt nữ-nhân-viên, tôi chỉ-thị cho Sở Yểm-Trợ ― mà cốt là để bắn tiếng ra ngoài ― hãy chọn cho tôi mươi cô trẻ nhất, đẹp nhất, độc-thân, để tôi huấn-luyện tình-báo cho họ, trong đó có môn tiếng Anh và môn khiêu-vũ, kể cả kỹ-thuật chinh-phục đàn-ông.

        Trong lúc đó, Bộ Tư-Lệnh Đặc-Cảnh Trung-Ương điện hỏi ý-kiến các Vùng về việc giải-tán Biệt-Đội “Thiên- Nga”.

        Trong Vùng II, tôi đã nhân danh Vùng ấy mà trả lời là xin vẫn giữ y nguyên; nay tại Vùng I, có nhiều triển-vọng sử dụng mỹ-nhân-kế hơn, tôi lại có dịp góp ý mạnh hơn về việc duy-trì cái tổ-chức ấy … mà tôi không hề dùng đến trong các điệp-vụ của tôi.

        THIÊN-NGA ― của tôi ― là bất-cứ người-đẹp nào hội đủ điều-kiện cho tôi chấm chọn, từ học-đường, công/tư-sở, thương-xá, trà-thất, vũ-trường, cho đến nông-thôn, v.v…  vốn sẵn có mặt khắp nơi, và tự họ đã sẵn có môi-trường sinh-hoạt thích-hợp với công-tác hơn là các nữ viên-chức Ngành An-Ninh.  Đối với các cô gái phòng trà, từ ca-sĩ, má-xán, vũ-nữ, đến bồi bàn ― là giới “nhảy dù” tự do tại Thành Đà-Nẵng ― tôi đã bố-trí cho một số Trưởng Lưới, Trưởng Mũi, và Trưởng Mối thuộc Sở Tác-Vụ, kín-đáo khống-chế những ai có cơ-hội tiếp-xúc với các thành-viên Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi.

        Đối với phiá Cảnh-Sát Sắc-Phục, tôi đã khéo-léo sắp-xếp để không tổn-thương quyền-hạn của họ; và trung-tá Nguyễn An Vinh, Chỉ-Huy Cảnh-Lực Thị-Xã Đà-Nẵng, đã hiểu biết và hợp-tác với tôi trong việc này .

        Đồng-thời, tôi đã đạt được sự hợp-tác trọn-vẹn của Hãng Thầu nước ngoài, để tôi sử dụng nhân-viên có sẵn của họ, hoặc gài thêm người của Đặc-Cảnh vào làm công-nhân cho Hãng Thầu .

*

        Đối nội, tôi đã xin được Thiếu-Tá Ngô Phi Đạm, là giảng sư xuất sắc nhất về tình báo tại Trường Tình Báo Trung Ương, thuyên-chuyển ra Vùng I làm việc với tôi .

        (Tôi chỉ lược kể đôi điều chung chung mà thôi, còn nhiều vấn đề và các chi tiết khác nữa thì tôi đã viết trong các Chương khác của cuốn hồi ký này).

*    

        Nói chung, do sáng kiến riêng của tôi nói trên, nhóm thiểu số Đặc Cảnh Vùng I chúng tôi đã tuyển dụng được khá nhiều thành viên Ba Lan và Hung Gia Lợi, về mặt nổi thì từ các đại tá Trưởng Phái Đoàn cấp Khu Vực xuống đến các sĩ quan cấp úy Trưởng Tổ cấp Liên Tỉnh và Tỉnh, nhưng về mặt chìm thì họ là cán bộ tình báo chiến lược cấp trung ương (thông dịch viên có vị thế cao hơn Trưởng Phái Đoàn) của Đảng, Nhà Nước và Quân Đội 2 nước cộng sản quan trọng nhất, sau Nga, trong Liên Bang Các Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô, tức USSR: Union of Socialist Sovietic Republics), làm nội tuyến cho ta (tức là Hoa Kỳ) ― vì sau khi tuyển dụng được thì tôi đã chuyển giao họ cho cơ quan Tình Báo Trung Ương của Mỹ (CIA) tiếp tục khai thác sử dụng ngay trong hàng ngũ Liên Xô bên châu Âu .

        Những cán bộ vốn được chọn lọc và tín nhiệm đưa đi công tác tại Việt Nam, khi trở về nước đều được xem là có công tham chiến đánh Mỹ ngay trên chiến trường Việt Nam.  Với những cái-gọi-là kinh nghiệm đối đầu trực tiếp với phe “tư bản chủ nghĩa phản động”, các phần tử ấy được trân quý để đem hiểu biết thực tế vận dụng vào chức năng công vụ lãnh đạo hoạt động và huấn giảng nghiệp vụ gián điệp tại các khóa bồi dưỡng chuyên môn trong hệ thống Tổ Chức Liên Minh Warsaw (Liên Minh Quân Sự Vác Xô Vi, tại thủ đô Ba Lan) của Liên Xô chống lại Khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) của Thế Giới Tự Do .

        Vì tôi còn phải lo về Việt Cộng (cộng sản Việt Nam) và về nội chính (các chính đảng, các giáo hội, các tổ chức “đối lập”, v.v…), trong tình hình rất nguy ngập của thời gian 1973-75, nên tôi đã cho phép các thuộc viên liên hệ tùy tiện chiếu theo chủ trương và phương thức làm việc đã có kết quả cụ thể của tôi mà hợp tác với Người Bạn Đồng Minh (cố vấn CIA) để tiến hành thêm, do đó tôi không nắm vững hết các thành quả đã đạt được, phải là to lớn hơn.  Lại nữa, trong tinh thần phối hợp đồng minh chống Cộng, tôi đã chấp thuận cho Người Bạn Đồng Minh được trực tiếp sử dụng một số viên chức Đặc Cảnh của tôi mà họ thấy là xuất sắc, biệt phái hẳn qua cho họ (hẳn là thành quả phải không thua kém thành quả của phía Việt Nam), nên tôi không biết gì nhiều về các kết quả liên quan.  Ngoài ra, tôi cũng giúp cho NBĐM phương tiện cần thiết (giấy phép đi lại trong giờ giới nghiêm, giấy phép mang vũ khí, v.v…) để họ tuyển dụng nhân viên riêng cho họ, nên tôi hoàn toàn không biết gì về thành quả hoạt động của các đường dây bí mật kia.

        Chỉ riêng trong phạm vi những gì mà tôi có đích thân trực tiếp làm và còn nhớ, tôi đã tuyển dụng:

Đại tá Konelsko, Trưởng Phái Đoàn Ba Lan

Đại tá Guy Nagy, Trưởng Phái Đoàn Hung Gia Lợi

Trung úy Teleski, Trưởng Phòng Truyền Tin Mật Mã của Ba Lan

Đại úy Signalia, Trưởng Phòng Truyền Tin Mật Mã của Ba Lan (kế nhiệm Teleski)

Trung úy Benjenc Grosz, thông dịch viên của Hung Gia Lợi

Trung úy Benez Kadar, Trưởng Tổ Hung Gia Lợi tại Tam Kỳ

(quá trình nghiên cứu, chấm định, tiếp xúc, móc nối, bao vây, gài bẫy, thuyết phục, thử thách, tuyển mộ… đã được kể lại trong sách).

        Họ là cán bộ tình báo cấp cao, ở cả hai lãnh vực chính trị và quân sự, mà lại chuyên môn truyền tin mật mã (biết rõ bí mật nội bộ), và rành (ít nhất là) tiếng Anh, làm thông dịch viên quốc tế (có tư cách công khai tiếp xúc với cả  “đế quốc Mỹ”, huống gì bí mật liên lạc với các nhân vật ái quốc & chống Liên Xô), nay được tuyên dương là đã có công đánh Mỹ, được thăng lên cấp cao hơn và cử giữ chức lớn hơn:  họ mà làm tay trong cho Mỹ thì nguyện vọng của dân nhân Ba Lan và Hung Gia Lợi thoát khỏi gọng kìm Liên Xô chắc chắn là sớm đạt thành.

        Hồi đó, năm 1974-75, Người Bạn Đồng Minh đã chính thức thông báo cho tôi biết về một số tiến triển và kết quả khởi đầu ngay tại Ba Lan và Hung Gia Lợi, đồng thời nhiều lần công khai đãi tiệc khen thưởng các viên chức Đặc Cảnh hữu công (trong sáng kiến của tôi, bắt đầu từ năm 1973).

        Đến năm 1979 (sáu năm sau), Giáo Hoàng John Paul II mới về thăm Ba Lan lần đầu tiên, mở đầu cho những hoạt động kế tiếp của Ngài, cũng nhằm góp phần giải thể chế độ cộng sản ở quê hương mình.

        Năm 1981, cán bô cấp cao Công An trung ương Việt Cộng nói thẳng với tôi:  “Tôi báo trước cho anh biết, chỉ trong vài hôm nữa thôi, tất cả các thành phần phản động tại Ba Lan cũng như Hung Ga Ri đều sẽ phải đền tội trước tòa án nhân dân; vả ngay cả bọn CIA liên quan cũng sẽ bị nhà nước có chủ quyền của hai nước ấy trừng trị thẳng tay …  Sẽ không bao giờ xảy ra sự cố mà bọn đế quốc và lũ tay sai như anh hằng mơ, để anh có thế “tự hào” là chính mình đã góp phần đánh đổ hệ thống xã hội chủ nghĩa tại Ba Lan và Hung Ga Ri, kéo theo sự sụp đổ của cả Khối Cộng Sản Đông Âu!  Có phải bọn chủ CIA của anh đã nhồi nhét cái ý tưởng hão huyền ấy vào trong đầu óc vong bản của anh hay không?”

        Lúc đó, vào năm 1981, Cộng-sản Việt-Nam chỉ biết là Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi bị tôi tổ-chức xâm-nhập giùm cho CIA từ năm 1973, nên mới suy-luận là nếu cộng-sản tại hai nước ấy mà sụp đổ thì sẽ kéo theo cả sự sụp đổ tại các nước kia.  

        Sau này, khi sự suy-diễn của họ trở thành sự thật, thì cái trình-tự nói trên đã đảo ngược lại:  Từ đầu năm 1989, cộng-sản tại các nước trong Liên-Bang Xô-Viết đã chấm dứt, và cuối năm ấy, cộng-sản tại Hung-Gia-Lợi cũng đã cáo-chung.  Chính Liên-Xô, do Gorbachev lãnh-đạo, đã mở đường, từ năm 1985, cho các nước thuộc quyền lần-lượt về với Tự-Do trước tiên, rồi chính mình cũng lột xác vào đầu năm 1990.  Đến cuối năm này thì cộng sản Ba Lan cáo-chung.  Thế là tan rã toàn Khối cộng-sản Đông-Âu.

(còn nữa)

LÊ XUÂN NHUẬN

Cảnh-Sát-Hóa