Phương pháp tập luyện Âm Dương Khí Công

Thu tu mot nguoi ban o xu Uc xa xoi.

———————————————————————————————–

Xin gởi mọi người một phương pháp luyện tập rất đơn giản nhưng rất hiệu quả nhằm tăng cường sức khỏe, phòng chống bệnh tật. Mình có quen một người đã và đang thực tập phương pháp này, anh ta cho biết kết quả vô cùng kinh ngạc, chỉ trong vòng 4 tháng mà hiệu quả rất cao không thẻ ngờ được. Anh ta năm nay đã 62 tuổi là trọng tài môn đá banh, anh ta cho biết lúc sau này anh có thể điều khiển 2 hay 3 trận đấu trong vòng một ngày mà không thấy mệt như lúc trước. Phương pháp Âm Dương Khí Công là do ông Bùi Quốc Châu sáng lập. 

Phương pháp trị bịnh của ông BQC rất hay và hiệu quả. Mình đã chứng kiến tại chổ về cách chửa trị của ông, có một cô bị bệnh nhức đầu cấp tính đã hơn 12 năm, cô ta đã đi chữa trị tất cả bác sĩ nhưng không ai có thể chữa được bệnh cho cô tay cả. Nhưng sau khi gặp được ông BQC và được ông ta điều trị và chỉ trong vòng vài phút thì chứng nhức đầu của cô này giảm được hơn 50% và sua đó ông ta hướng dẫn cách tự trị bệnh cho cô này.  Ngày hôm sau cô cho biết chứng nhức đầu của cô đã hoàn toàn biến mất, ngoài ra cô còn mang chứng bệnh tê chân đã hơn 6 năm nay và với phương pháp chữa bệnh của ông BQC đã giúp cho chân của cô bình phục trở lại, cô cho biết thật là kỳ diệu. 

Một điều rất hay về phương pháp chữa bệnh của ông BQC là không cần đến một loại thuốc nào cả, chỉ cần kích thích các sinh huyệt của người bệnh để tạo ra kháng thể mà khống lại con bệnh, và bệnh nhân có thể tự chữa cho mình. Phương pháp này cũng biến bệnh nhân thành thầy thuốc, thật là lý thú. 

Mình đã chứng kiến vài bệnh nhân được ông chỉ cách trị bệnh mà hiệu quả vô cùng khả quan. Muốn biết thêm chi tiết có thể vào web site www.dienchan.com 

Thương chúc tất cả luôn luôn mạnh khỏe 

Phú

Phương pháp tập luyện Âm Dương Khí Công

Lý thuyết về Âm Dương Khí Công (Phần 1)

 

ÂM DƯƠNG KHÍ CÔNG – MỘT PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TÂM TRÍ – KHÍ – LỰC CỦA VIỆT NAM NGUYÊN LÝ: KHÍ BÌNH => TÂM BÌNH; TÂM BÌNH => SÁNG SUỐT. ÂM DƯƠNG KHÍ CÔNG LÀ GÌ ? Âm Dương Khí Công là công phu luyện thở, nhằm điều chỉnh hai khí Âm và Dương trong hai mạch Nhâm và Đốc.

ĐẠI CƯƠNG:

Đây là phép thở được điều khiển bằng "Ý", chứ không phải thở bình thường bằng phổi. Do đó không nên và không cần phải quan tâm đến lượng oxy vào phổi nhiều hay ít , mà chỉ nên quan tâm đến làn hơi tưởng tượng chạy trên hai mạch Nhâm Đốc vào lúc tập thở mà thôi.

 

Đây là lối thở "Yếm Khí" nên khác với một số lối thở khác, thay vì là thở ÊM, NHẸ, DÀI, SÂU như ở một vài phương pháp khí công, thì ở đây là ÊM, NHẸ, NGẮN, CẠN. Do đó ta không cần cố gắng hít vào cho thật nhiều oxy, hay thở ra cho thật hết khí cacbonic. Trái lại ,nên thở ra hít vào một cách kín đáo vừa phải, nhẹ nhàng như con rùa thở (Qui tức). Tất cả động tác đều buông lỏng tự nhiên, không được gắng sức thái quá, mà phải làm vừa sức. Tuyệt đối tránh mọi cố gắng nào đưa đến mệt nhọc cho cơ thể trong khi thở. Nói khác đi, trong lúc thở hay sau khi tập thở một thời gian (Tối đa là 1 tuần) nếu thấy khoẻ là đúng. Nếu thấy mệt hoặc không có chuyển biến là đã tập sai phương pháp.

 

Tóm lại, nguyên lý chủ yếu của phương pháp này là luyện ý để điều tức ,chứ không phải luyện hơi, nên thở nhiều oxy vào là không cần thiết, thậm chí còn sai với phương pháp Âm Dương Khí Công.

 

Hãy thở như thế nào để người ngoài nhìn vào thấy như không thở (Dụng ý bất dụng lực). Có thể nói thở như không thở mới gọi là thở Âm Dương Khí Công.

Nắm vững nguyên lý:Tâm-Ý-Khí-Lực. Ý dẫn Khí, Khí dẫn Huyết, Huyết dẫn Lực.

Tuân thủ nguyên tắc: Vừa phải, thoải mái, tự nhiên, linh động, sáng tạo.

Biện chứng Đông Y: Âm Dương mất quân bình sinh bệnh. Chữa bệnh là điều chỉnh, lập lại quân bình Âm Dương. Cực Dương sinh Âm, Cực Âm sinh Dương. Vật cực tắc phản, vật động tắc biến. Nhân thân tiểu thiên địa, thiên nhân hợp nhất, vạn vật đồng nhất thể. Thông tắc bất thống, thống tắc bất thông.

 

Đây là phương pháp thở mà chủ đích của nó là luyện thần kinh cho thật vững chắc, nói cách khác là luyện ý lực, nôm na là luyện cái đầu chứ không phải là luyện cơ bắp hay buồng phổi. Cơ sở của nó là thông qua việc tập trung tư tưởng tạo thành thói quen theo dõi làn hơi chạy trên hai mạch Nhâm Đốc mỗi ngày, các bạn sẽ dần dần có ý lực mạnh. Chính điều này sẽ giúp cơ thể khoẻ mạnh (Ý dẫn Khí , Khí dẫn Huyết, Khí Huyết lưu thông làm cơ thể khoẻ mạnh) và cũng làm hệ thần kinh vững chắc, sáng suốt và nhiều ý chí hơn. Chính thông qua việc luyện ý này, tự ta sẽ điều chỉnh được hai khí Âm Dương trong cơ thể khi cần thiết và làm cho nó được quân bình, mà Âm Dương quân bình thì cơ thể sẽ khoẻ mạnh.

 

Đây cũng là điểm độc đáo của phương pháp Âm Dương Khí Công, vì nó cho phép người tập có thể tăng hay giảm khí Âm hoặc Dương trong cơ thể thông qua việc luyện thở đúng qui tắc , và như thế cũng có nghĩa là cho phép người tập không những tự phòng bệnh mà có thể tự chữa được một số bệnh do mất quân bình Âm Dương gây ra, cũng như tăng cường thể lực, giúp cơ thể khoẻ mạnh, tươi trẻ, vui vẻ, sống lâu. Ngoài ra , nó còn có thể hỗ trợ cho người tập trong rất nhiều lĩnh vực khác như Thiền (có thể coi nó là phương pháp trợ Thiền rất tốt. Nhiều người tập Thiền đã cho biết nếu thở Âm Dương Khí Công lúc sắp Thiền định, hoặc trong khi Thiền thì sẽ tránh được tình trạng mỏi mệt hoặc hôn trầm khi phải ngồi Thiền lâu, mà lại còn dễ định tâm hơn , khi xả Thiền thấy rất sáng suốt, thoải mái), chơi cờ vua, chơi thể thao (như đánh tennis, bơi lội, đá banh, chạy đua…) ,tập võ thuật ,học hành (học chữ hay học nghề tay chân), thai giáo (giáo dục con cái từ lúc còn trong bào thai), ca nhạc..vv….Cho nên, nếu biết khai thác, vận dụng khéo léo và sáng tạo phương pháp thở này, nó sẽ giúp ích cho ta rất nhiều về mặt thể xác lẫn tinh thần.

 

HƯỚNG DẪN CÁCH THỞ

Có 2 cách thở:

 

CÁCH THỞ 1

1/. Thở đường Dương:(còn được gọi là thở theo Nhâm Mạch)

Giai đoạn 1: Xoa mặt mũi chân tay cho thật tỉnh táo.

Giai đoạn 2: Hít vào thở ra khá sâu vài lượt để tạo trớn (thở tự do).

Giai đoạn 3: Bắt đầu hít vào bằng mũi, hít rất nhẹ và chậm, một cách tự nhiên, vừa hít vừa nghĩ tưởng tượng có 1 làn hơi như sương khói và nhỏ cỡ chiếc đũa hoặc nhỏ hơn, chạy dưới da vài mm từ đầu mũi xuống bụng qua rốn khoảng 3-4 cm nơi Đan Điền – Khí Hải thì dừng lại. Ngay lúc ấy liền nín thở chứ không nén hơi tại đây.

LƯU Ý: Chỉ nên để ý đến làn hơi tưởng tượng chứ không cần để ý đến hơi thở thật.

Giai đoạn 4: Nín hơi ở Đan Điền độ 5-10 tiếng đếm (đếm thầm) tùy sức của mình. Đồng thời , tập trung tư tưởng ở đó.

Giai đoạn 5: Sau khi nín hơi xong. Bắt đầu tưởng tượng làn hơi khi nãy chạy ngược lên theo đường cũ đến mũi.

Giai đoạn 6: Đến đây bắt đầu thở ra bằng mũi nhẹ nhàng và thoải mái vừa phải (lưu ý không được thở hết hơi cacbonic trong phổi ra. Mà trái lại, nên thở nhẹ và ít thôi). Tóm lại , hít vô và thở ra cũng ít mới là đúng.

LƯU Ý: Nếu khó tưởng tượng thì có thể DÙNG ĐẦU NGÓN TAY KÉO TRÊN DA ( từ đầu mũi xuống Khí Hải và sau đó ngược trở lên mũi ) để Ý TƯỞNG nương theo đó mà đi sẽ dễ hơn.

 

2/. Thở đường âm:(còn gọi là thở theo Đốc Mạch)

Cách thở đường Âm giống cách thở đường Dương ở phần đầu (các giai đoạn 1,2,3 và 4 ) tức là phần hít vào. Nó chỉ khác ở phần thở ra như sau:

Giai đoạn 5: Sau khi xong giai đoạn 4, hãy bắt đầu tưởng tượng cho làn hơi từ Đan Điền chạy xuống bộ phận sinh dục,vòng xuống luồn qua hậu môn (sẽ cảm giác hậu môn nhíu 1 cái bắt buộc mới đúng), vòng qua chót xương khu, theo cột sống chạy lên (cũng chạy dưới da vài mm, không được cho hơi chạy trong ống cột sống), qua ót, lên đỉnh đầu rồi chạy xuống đầu mũi.

Giai đoạn 6: Đến đây, thở ra nhẹ nhàng, vừa phải bằng mũi (cũng thở ra nhẹ và ít như lúc thở đường Dương )

LƯU Ý: Ta cần chú ý mấy điểm sau đây rất quan trọng:

Không được phình bụng, phình ngực cố sức hít vào cho thật nhiều oxy như một số lối thở khác đã có, trái lại hít vào ít và thật êm, thật thoải mái, tránh nén hơi hay gồng cứng cơ bắp ở ngực bụng hay tay chân, vì điều này sẽ đem lại hiệu quả xấu, cũng như có nghĩa là sai phương pháp Âm Dương Khí Công. Tóm lại, phương pháp này tránh sự cố gắng quá sức.

 

Lúc mới tập, chưa quen nín thở lâu tại Đan Điền, ta nên hít hơi ít, chậm và tưởng tượng làn hơi chạy nhanh, vì nếu ta cố tưởng tượng cho nó đi chậm thì sẽ bị ngộp thở do nín hơi quá lâu, nhất là khi thở đường Âm. Vì vậy phải tưởng tượng cho làn hơi chạy nhanh hơn trên Mạch Đốc, nếu không ta phải thở ra nửa chừng, và như thế là không có kết quả mà còn có hại.

 

Nên nhớ không nhất thiết làn hơi tưởng tượng phải cùng tốc độ với hơi thở thật, mà thường phải nhanh hơn hơi thở thật. Thông thường tưởng tượng từ mũi đến Đan Điền, cũng như từ Đan Điền lên đến mũi (đường Dương) khoảng 1-2 giây, còn từ Đan Điền xuống hậu môn vòng ra sau lưng lên đầu rồi ra mũi (đường Âm) khoảng 3-4 giây. Nhiều người vì không để ý điều này nên tưởng tượng làn hơi đi xuống Đan Điền rất chậm, cho nên có hiện tượng thiếu oxy và rất mệt. Do đó tập hoài không thấy kết quả và tất nhiên sẽ bỏ cuộc.

 

Trong cả hai đường thở Âm Dương, sau lúc nghỉ ở Đan Điền, tuyệt đối tránh hít hơi vào một lần nữa hay thở ra cùng lúc với làn hơi đang tưởng tượng đi ra (phải đưa ý tưởng tượng lên đến mũi, lúc bấy giờ mới được thở ra). Như vậy, trước sau gì cũng có 1 lần hít vào, 1 lần thở ra thôi. Và 2 lần này: 1 hít, 1 thở gọi là 1 đường thở hay 1 lượt thở.

 

Lúc thở không được tự ám thị mình, tưởng tượng hơi thở này nóng hơi thở kia lạnh, hoặc nghĩ rằng thở vào sẽ khoẻ mạnh, mà chỉ nên quán tưởng làn hơi đi mà thôi. Nên nhớ: Tưởng tượng cho làn hơi chạy dưới da vài mm chứ không phải chạy trong cổ họng hay vào phổi, sẽ không có kết quả.

 

Nhâm Mạch theo châm cứu học là thuộc âm, nhưng đó là THỂ (bản thể) còn sở dĩ ta gọi ở đây là Dương là vì căn cứ vào DỤNG (tác dụng) của nó. Vả chăng, theo nguyên tắc Động (thì) biến, thì NHÂM Mạch thuộc Âm , khi động nó sẽ biến thành Dương. ĐỐC Mạch thuộc Dương sẽ biến thành Âm khi được tác động bằng ý tưởng. Điều này sẽ lý giải tại sao thở đường trước ngực (trên NHÂM Mạch) lại cho phản ứng Dương tính và khí thở đường phía sau lưng (trên ĐỐC Mạch) cho lại phản ứng Âm tính. Nếu không thông điều này, người tập sẽ hoang mang không dám tập, nhất là khi có người không hiểu lý lẽ mà tác giả vừa trình bày ở trên cố tình tác động vào, xuyên tạc sự thật làm cho người khác sợ mà không dám tập.

 

 

Lý thuyết về Âm Dương Khí Công (Phần 2)

 

CÁCH THỞ 2 : (Thở trên da hay ngoài da) Cách thở này dễ cho người mới tập hơn là cách thở 1. Do đó mau đạt kết quả hơn cho người tập. Cũng dẫn ý theo lộ trình đã trình bày ở cách 1, chỉ khác là ý tưởng tượng (dẫn ý) ở trên da , thay vì dưới da vài mm như cách thở1. Do đó không cần phải tưởng tượng làn khí chạy bám theo đường cong của cơ thể

(Ví dụ từ mũi xuống Đan Điền không cần phải tưởng tượng làn hơi đi sát đường cong của cằm rồi xuống cổ , xuống ngực đến Đan Điền, mà chỉ tưởng tượng làn Khí đi thẳng từ đấu mũi đến Đan Điền cũng có kết quả). Cũng như cách 1, kết quả sẽ đến ngay với người tập trong vài buổi đầu nếu tập đúng.

 

 

TƯ THẾ , THỜI GIAN , KHÔNG GIAN LÚC TẬP THỞ:

Không nên thở lúc bụng còn đầy hay sau khi vừa ăn cơm xong (Trừ trường hợp cần thiết như cần phải thở để giải quyết 1 triệu chứng bệnh, 1 cơn đau đang xảy ra).

Đi, đứng, nằm, ngồi đều tập thở được. Nhưng lúc đầu nên tập ngồi thở, không cần ngồi Kiết già, chỉ cần ngồi xếp bằng hoặc ngồi trên giường hai chân thả xuống đất, bàn chân phải đi giầy hay để trên thảm và thẳng lưng là được. Hai bàn tay đan vào nhau hay là để úp trên 2 đầu gối đều được cả. Tránh gồng cứng, và phải để lỏng thắt lưng, mắt nên mở không nên nhắm sẽ tốt hơn. Tuy nhiên nếu mở mắt khó tập trung tư tưởng, thì cứ theo thói quen hé mắt hay nhắm mắt cũng được, nhưng sẽ khó tập thở trong lúc đi, đứng, làm việc sau này.

LƯU Ý:  Khi tập thở tránh ngồi sát mặt đất (phải ngồi cách mặt đất), trên di-văng là tốt. Tránh ngồi trên nệm, có độ đàn hồi cao.

Nên tập nơi cao ráo, thoáng mát, không khí trong sạch, cần tránh nơi bị ô nhiễm, nhất là hóa chất hay mùi hôi thối, bụi bặm.

Tối: nên tập lúc  23-1 giờ đêm. Sáng: nên tập lúc 5-7 giờ sáng. Mỗi ngày tập thường xuyên 2 lần. Trường hợp đặc biệt mới tập 4 lần chia theo 4 thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu.   Ngoài ra , khi cần thiết cứ thở theo nhu cầu lúc bấy giờ.

Tránh nơi ồn ào, có người qua lại quấy phá mình.

 

VỀ TỶ LỆ THỞ

Mỗi lần thở trung bình từ 4-5 hơi cho mỗi đường Âm hay Dương (Trừ giai đoạn đầu tập thở có thể tập đến 10 đường Âm hay Dương cho mỗi lần tập).

Tự định và điều chỉnh hơi thở của mình giửa 2 đường Âm, Dương sao cho phù hợp với sức khoẻ và cơ thể của mình.  Đó gọi là Tỷ lệ Vàng.

Thí dụ đối với người tạng Âm, hay bị Âm bệnh ( bệnh hư hàn ), hay sợ lạnh, lười biếng, mệt mõi thì tỷ lệ 5 Dương / 1 Âm có thể là Tỷ lệ Vàng. 

Tóm lại: Tỷ lệ Vàng là tỷ lệ giửa số lượt thở Âm và Dương thích hợp nhất đối với cơ thể 1 người trong 1 giai đoạn nào đó.

LƯU Ý: Để đạt Tỷ lệ Vàng, người tập phải tự tìm ra bằng cách theo dõi sát tình trạng cơ thể mình sau mỗi ngày tập thở ( sẽ tìm được sau 1 thời gian tập )

 

KINH NGHIỆM THỞ 

Lúc tâm trí bối rối, không ổn định tư tưởng hay có kẻ quấy rầy thì không nên tập thở.  Chỉ nên tập thở lúc bình tâm thoải mái.

Giai đoạn đầu nên tập thở thuần Dương trong vòng 1 tuần (mỗi lần 10 hơi).

Khi tập đường Dương có kết quả rồi, hãy tập sang đường Âm mới dễ có kết quả (cũng tập 1 tuần), mỗi lần tập thở 10 đường.

Nếu sau 1 tuần vẫn chưa đạt kết quả, thì phải tiếp tục tập cho đến khi có kết quả mới đổi sang tập đường Âm

Tuy nhiên, trong thực tế lại có người hạp đường Âm hơn. Trường hợp này có thể tập đường Âm trước cũng được. 

LƯU Ý: Nếu thở đường Dương mà thấy cơ thể nóng quá thì có thể bớt số lượt thở lại cho bớt nóng. Thở đường Âm cũng vậy, nếu thấy ngủ quá nhiều thì bớt lại.   Tóm lại , phải nhớ linh động, gia giảm sao cho đạt kết quả tốt là được.

Khi tập có kết quả ở cả 2 đường thở, lúc bấy giờ hãy tự định cho mình 1 tỷ lệ thở tùy theo tình trạng sức khoẻ của mình, căn cứ vào tiêu chuẩn Âm-Dương-Hàn-Nhiệt .

Ví dụ :  Thấy trời nóng, ta cũng cảm thấy nóng trong người, ta phải thở đường Âm nhiều hơn  , như 1 Dương 3 Âm chẳng hạn, thở xong, theo dõi sát cơ thể (phải tập lắng nghe cơ thể mình) xem có dễ chịu không, có khoẻ không, nếu vẫn còn nóng thì tăng thêm lần Âm lên nữa, nếu lạnh thì bớt lại…vv….Hãy tự mình kiểm tra cơ thể của mình và gia giảm làm sao cho hài hòa tốt đẹp nhất cho cơ thể, đó gọi là TỶ LỆ VÀNG.

LƯU Ý:  Các tỷ lệ trên chỉ là gợi ý. Trên thực tế phải tùy cơ thể mà định tỷ lệ thích hợp cho mình.

Tóm lại , phải chịu khó theo dõi sát sao cơ thể mình, để từ đó điều chỉnh tỷ lệ thở Âm-Dương thích hợp. Thở đường Âm là ức chế thần kinh, là làm mát người. Thở đường Dương là làm hưng phấn thần kinh, làm ấm cơ thể.  Nhưng phải đề phòng, thở nhiều quá có thể bị phản phục: Vật cực tất phản (nguyên lý của Dịch)

Có thể xen kẽ đường Âm -đường Dương , hay thở 1 loạt đường này rồi 1 loạt đường kia. Có thể thở thuần Dương, hay thuần Âm cho mỗi lần tập hay mỗi giai đoạn tập , hoặc theo nhu cầu. có thể thở làm nhiều lần trong ngày, mỗi lần 1-2 đường thở. Trong mỗi lần tập không nhất thiết phải thở liên tục theo phép thở Âm Dương vì dễ bị mệt khi mới tập (thiếu oxy vì hít vô rất ít). Do đó có thể xen kẽ thở tự do ( hít vô đầy phổi nhiều oxy và thở ra cho cạn phổi ) giữa các đường thở theo Âm Dương Khí Công.

 

Tránh thở đường Âm khi bị cảm lạnh hay đường Dương khi bị cảm nóng (vì sẽ làm bị cảm nặng hơn và kéo dài ). Trái lại , hãy thở 1 loạt 5,10 đường Dương nếu chớm cảm lạnh, hay thở 1 loạt đường Âm nếu chớm cảm nóng . Tuy nhiên nếu bệnh cảm đã hình thành thì ngưng tập thở, chữa cho hết hẳn bệnh rồi mới tập tiếp.

 

DẤU HIỆU THỞ ĐÚNG

Đường  Dương: Nếu thở đúng sẽ cho cảm giác hưng phấn, lạc quan, hăng hái, yêu đời, nóng tính, tăng cường trí nhớ và thông minh, khoẻ trong người, ăn ngon, mau đói , tăng trọng lượng (mập , lên ký ), ham làm việc, dai sức, mạnh hơn, khoẻ hơn, phản xạ nhanh hơn, tự tin, can đảm hơn, ấm áp hay nóng nhiệt trong người, táo bón (tuy nhiên có người lại xổ độc hay đại tiện được dễ dàng chứ không táo bón vì đó là bón Âm), trung tiện nhiều, giảm tiết dịch, tiểu ít. Nếu thở nhiều sẽ làm nhức răng, sưng nướu răng, nặng đầu, nổi mụn nhọt, tiểu gắt, tiểu đỏ, đau lưng, mất ngủ (tuy nhiên sẽ có người ngủ ngon và dễ hơn, vì cơ thể bị Âm hàn, thở đường Dương cơ thể ấm áp hơn và quân bình Âm Dương. Do đó dễ ngủ chứ không có gì lạ) , tăng huyết áp, lâu lành vết thương , hưng phấn tình dục , cầm máu , ghẻ lở…Đặc biệt sau khi thở có kết quả thì khi vận động nhiều như đánh tennis chẳng hạn, cơ thể sẽ ra ít mồ hôi hơn trước khi tập thở. Sở dĩ có hiện tượng này là vì cơ thể dồi dào Khí Dương hơn trước. Mà đặc tính của Khí Dương là giàm tiết dịch, giảm xuất tiết ( do đó làm giảm mồ hôi, giảm đi tiểu dù uống nước nhiều hơn, vì khát nước hơn khi thở đường Dương. Đây là điểm rất đặc biệt khác với quan điểm thông thường của Tây Y là hễ uống nước nhiều thì phải đi tiểu nhiều )

 

Đường  Âm:  Nếu thở đúng sẽ có hiện tượng ức chế thần kinh, buồn ngủ (nhưng đối với những người cơ thể hư hàn hoặc Âm tạng thì lại khó ngủ hơn), lười biếng, nguội tánh, mau mệt, không cảm thấy đói bụng, giảm cân, mát người, nhuận trường xổ độc, mau lành vết thương..vv…Nếu thở nhiều sẽ bị tiêu chảy, tiểu nhiều, tiểu trong, đau lưng, ngủ nhiều, hạ huyết áp, dễ bị cảm lạnh, sổ mũi, tăng tiết dịch, dễ bị xuất huyết, mỏi và mềm cơ bắp, phản xạ chậm, bi quan, thiếu tự tin, thiếu can đảm, ức chế tình dục….Đặc biệt thở nhiều đường Âm sẽ rất ít khi khát nước (do đó uống ít nước nhưng lại đi tiểu nhiều. Nghe ra rất nghịch lý nhưng lại là sự thật )

 

KẾT  QUẢ

Nếu tập đúng phương pháp thì chỉ sau 1 đến 3 ngày hoặc 1 tuần là đạt được các kết quả như trên. Nếu tiếp tục tập thường xuyên và lâu ngày người tập có thể PHÁT KHÍ ( PHÓNG KHÍ ) qua 2 bàn tay được, ngũ quan trở nên linh mẫn, đầu óc sáng suốt , thân thể nhẹ nhàng. Ngoài ra, chúng ta có thể dùng Âm Dương Khí Công để tự chữa cho mình một số bệnh như tiểu nóng gắt (thở đường Âm ), suyễn (đa số thở đường Dương ) , đau bụng , tiêu chảy , đau lưng , mệt mỏi thì nên thở đường Dương; đau bao tử, đau răng nên thở đường Âm, mệt tim, mất ngủ , táo bón, viêm họng, huyết áp cao..vv…Sau khi tập lâu ngày có thể dùng Khí Công để chữa một số bệnh cho người khác. Phải cẩn thận không dụng công chữa bệnh cho người khác khi sức (Nội lực ) còn yếu hay khi trong mình không được khoẻ…

DẤU HIỆU THỞ SAI

Tức ngực, bụng; mệt hoặc tức 1 chỗ nào đó trên cơ thể , chóng mặt, đổ mồ hôi dầm dề và mệt , tê dại tay chân , mệt tim….hoặc không có những kết quả đã trình bày ở phần thở đúng.

 

LỜI DẶN CẦN THIẾT 

Người có bệnh huyết áp cao tránh thở nhiều đường Dương, người bị huyết áp thấp tránh thở nhiều đường Âm. Tuy nhiên , ở một số trường hợp đặc biệt như Huyết Áp Cao Âm chứng thì thở Dương lại làm Huyết áp hạ xuống, và thở Âm lại làm Huyết áp tăng lên (Huyết Áp Cao Âm Chứng là Huyết áp không kèm theo xơ mỡ động mạch, cũng như lượng cholesterol và calci trong máu thấp; hay bình thường là bị xơ mỡ động mạch và có lượng cholesterol trong máu cao). Hạn chế càng nhiều càng tốt việc uống nước đá lạnh , thức uống có nước đá , nhất là ngay sau khi tập thở sẽ làm giảm kết quả của việc tập thở rất nhiều.

 

Vì đây là phương pháp nhanh, mạnh, toàn diện cho nên tránh ham thở nhiều (không quá 10 lần thở trong 1 buổi tập).  Trừ trường hợp cá biệt như chơi thể thao , đánh võ….

 




Làm thế nào khỏi già ?!

THÔNG TIN CHI TIẾT GIỚI THIỆU

Làm thế nào khỏi già ?!

 

Khi nào các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa? Già là một điều không ai tránh khỏi. Hiện nay các viện nghiên cứu y khoa đã cho biết một cách chính xác các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa từ lúc nào.

Các bác sĩ người Pháp đã tìm thấy chất lượng tinh trùng bắt đầu suy thoái từ tuổi 35, bởi thế khi người đàn ông 45 tuổi thì một phần ba số lần mang thai sẽ dẫn đến sảy thai. Angela Epstein đã viết trong DailyMail, tuổi của các bộ phận trong cơ thể bắt đầu suy thoái như sau

 

 

Làm thế nào khỏi già ?!
 

 

"  Chơi xuân kẻo hết xuân đi
    Cái già sồng sộc nó thì theo sau "  !!!

 
 

Làm thế nào để khỏi già ?
Tác giả: Lê Tấn Tài
 
Khi nào các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa? Già là một điều không ai tránh khỏi. Hiện nay các viện nghiên cứu y khoa đã cho biết một cách chính xác các bộ phận trong cơ thể của con người bắt đầu thoái hóa từ lúc nào.

Các bác sĩ người Pháp đã tìm thấy chất lượng tinh trùng bắt đầu suy thoái từ tuổi 35, bởi thế khi người đàn ông 45 tuổi thì một phần ba số lần mang thai sẽ dẫn đến sảy thai. Angela Epstein đã viết trong DailyMail, tuổi của các bộ phận trong cơ thể bắt đầu suy thoái như sau :

1./ Não bắt đầu suy thoái lúc 20 tuổi. Khi chúng ta trưởng thành, các tế bào não bị giảm dần. Và não cũng teo nhỏ lại . Khởi đầu con người có 100 tỉ tế bào não, nhưng đến tuổi 20 con số nầy giảm dần, và đến tuổi 40 con người mất mỗi ngày 10.000 tế bào ảnh hưởng rất nhiều đến trí nhớ và có tác dụng rất lớn đến tâm sinh lý người già.

2./ Ruột bắt đầu suy giảm từ tuổi 55. Ruột tốt có sự cân bằng giữa các vi khuẩn có ích và có hại. Vi khuẩn có ích sẽ giảm đi đáng kể sau tuổi 55, đặc biệt ở phần ruột già. Sau 55 tuổi bộ tiêu hóa bắt đầu xấu đi và sẽ gây hại cho các bệnh đường ruột. Táo bón là một bệnh thông thường của tuổi già, cũng như dịch vị từ bao tử, gan, tuyến tuỵ, ruột non bị suy giảm .

4./ Bọng đái bắt đầu suy thoái từ tuổI 65. Người già thường mất kiểm soát bọng đái. Nó bắt đầu co lại đột ngột, ngay cả khi không đầy. Ph�» ¥ nữ dễ gặp trục trặc này hơn khi chấm dứt kinh nguyệt. Khả năng chứa nước tiểu của bọng đái một người già chỉ bằng nửa so với người trẻ tuổi, khoảng 2 cốc ở tuổi 30 và 1 cốc ở tuổi 70. Ðiều này khiến người già phải đi tiểu nhiều hơn, và dễ nhiễm trùng đường tiểu.

5./ Vú bắt đầu thoái hóa từ năm 35 tuổi. Khi người đàn bà đến 30 tuổi thì vú mất dần các mô và mở, sự đầy đặn và kích cở của bộ vú bị suy giảm. Khi 40 tuổi núm vú bị teo lại và vú thòng xuống.

6./ Phổi lão hóa từ tuổi 20. Sụn sườn vôi hóa, lồng ngực biến dạng, khớp cứng ảnh hưởng tới thở, nhu mô phổi giảm đàn hồi, giãm phế nang. Dung tích của phổi bắt đầu giảm dần từ tuổi 20. Ðến tuổi 40 có nhiều người đã bắt đầu khó thở vì các cơ bắp và xưÆ ¡ng sườn buồng phổi bắt đầu xơ cứng .

7./ Giọng nói bắt đầu yếu và khàn kể từ tuổi 65. Phụ nữ có giọng khàn và nhỏ trong khi đàn ông giọng cao và nhẹ.

8./ Mắt lão hóa từ năm 40 và phần lớn phải mang kiếng, không còn nhìn rõ một vật ở xa. Khả năng tập trung của mắt kém hơn do cơ mắt yếu hơn.

9./ Tim lão hóa từ tuổi 40. Khối lượng cơ tim giảm. Tuần hoàn nuôi cơ tim cũng giảm, suy tim tiềm tàng, huyết áp tăng dần. Sức bơm của tim giảm dần vì các mạch máu giảm sự đàn hồi. Các động mạch cứng dần và bị mở đóng vào các thành mạch. Máu cung cấp cho tim cũng bị giảm bớt. Ðàn ông 45 tuổi và đàn bà 55 dễ bị đau tim.

10./ Gan lão hóa từ năm 70. Chức năng chuyển hóa và giải độc giảm. Tuy nhiên gan là một bộ phận gần như không chịu kh uất phục tuổi tác. Người ta có thể ghép gan của một ông già 70 tuổi cho một người 20 tuổi.

11./ Thận lão hóa năm 50. Số đơn vị lọc chất thải khỏi máu bắt đầu giảm xuống ở tuổi trung niên.

12./ Tuyến tiền liệt lão hóa vào năm 50. Hệ thống sinh dục nam gồm có: tinh hoàn và bộ phận sinh dục phụ như đường dẫn tinh, tuyến tiền liệt, tuyến hành niệu đạo, túi tinh và dương vật. Tuyến tiền liệt thường lớn dần theo tuổi tác. Khi tuyến tiền liệt tăng kích thước sẽ ép vào niệu đạo và bàng quang, gây khó khăn cho tiểu tiện. Nó gây nên triệu chứng tiểu ngập ngừng, tiểu nhiều lần, tăng nguy cơ nhiễm trùng tiết niệu và tiểu khó.

13./ Xương lão hóa hóa vào tuổi 35. Cho đến giữa những năm 20 tuổi, mật độ xương vẫn còn tăng. Trẻ em xương lớn rất nhanh, cứ mỗi 2 năm lại thay đổi toàn bộ xương củ nhưng đến tuổi 35 thì xương đã lão, hiện tượng mất xương bắt đầu như một quá trình già cả tự nhiên.

14./ Răng suy từ tuổi 40. Răng bị hao mòn. Dễ bị bệnh nha chu. Niêm mạc bị teo dần.

15./ Bắp thịt lão hóa từ năm 30. Thông thường bắp thịt khi bị lão hoá thì được tái tạo ngay, nhưng đến tuổi 30 thì tái tạo ít hơn là lão hóa. Ðến tuổi 40, mỗi năm bắp thịt bị sút giảm từ 0.5 đến 2 % . Vì thế người già khó giữ thăng bằng, trở thành chậm chạp, dễ bị ngã và gẫy xương.

16./ Nghe [thính giác] giảm đi kể từ giữa năm 50. Rất nhiều người bị lãng tai kể từ năm 60.

17./ Da suy giảm kể từ năm 20. Chúng ta đã giảm dần việc sản xuất chất keo dính của da từ giữa tuổi 20. Việc t hay thế các tế bào chết cũng chậm dần.

18./ Vị giác và khứu giác giảm từ năm 60. Thông thường chúng ta có thể nếm được 100.000 vị trên lưởi. Các vị này chúng ta chỉ nếm được phân nửa khi già và đến tuổi 60 thì không còn ngửi và nếm một cách chính xác được nữa.

19./ Sinh sản mất khả năng từ năm 35. Khả năng sinh nở của phụ nữ bắt đầu giảm sau tuổi 35, vì số lượng và chất lượng trứng trong tử cung giảm xuống.

20./ Tóc lão hóa từ tuổi
30. Thông thường cứ 3 năm thì tóc cũ sẽ được thay thế toàn bộ tóc mới. Và đến năm 35 tuổi thì tóc không còn đen nhánh nữa mà ngã màu đen xám và rụng dần đi.

Làm thế nào Ä �ể làm chậm sự lão hóa ?

Già không phải là một bệnh nhưng già tạo điều kiện cho bệnh phát sinh và phát triển; cần chú ý một số đặc điểm sau:

– Người già thường mắc nhiều bệnh cùng một lúc, có bệnh dễ phát hiện, nhưng cũng có bệnh rất kín đáo, tiềm tàng, nguy hiểm.

– Triệu chứng ít khi điển hình, không ồ ạt, không rõ rệt, nên khó chẩn đoán, dễ sai lạc nếu ít kinh nghiệm.

– Khả năng phục hồi sức khỏe sau các trận ốm thường chậm hơn so với người trẻ, nên sau điều trị phải có thời gian an dưỡng.

Một số biện pháp làm giảm tốc độ lão hóa:

Học thuyết âm dương của y học cổ truyền chứng minh con người là một chỉnh thể giữa âm dươn g, giữa khí và huyết. Luôn luôn thăng bằng với nhau từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong theo một quy luật nhất định, để duy trì sự sống của con người được bền vững dài lâu.

Vì thế muốn giảm tốc độ lão hóa cần phải:

Về tư tưởng luôn luôn lạc quan yêu đời, chủ động gạt bỏ những cái làm ảnh hưởng đến bộ não, hạn chế tối đa nỗi cô đơn, giải quyết tốt nhất mối quan hệ xã hội và gia đình, có triết lý sống đúng; phải chú ý cả 3 vấn đề: lẽ sống, lối sống và hành động sao cho khoa học văn minh để loại trừ 7 nguyên nhân gây bệnh của Ðông y là : hỷ, nộ, ưu, tư, bi, kinh, khủng.

Muốn được thảnh thơi phải có kiến thức, phải có hiểu biết để nhìn nhận vấn đề sao cho đúng đắn qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình để làm chủ được mình và giáo dục cho gia đình, con cháu giảm các nỗi bực dọc và tự chăm lo cho mình.

Thường xuyên luyện tập đều đặn về trí tuệ và thể lực như đọc sách báo, nghe đài, xem TV, internet… đồng thời tập thể dục thể thao, đi bộ, tập thở, tĩnh tâm thư giãn, v.v… phù hợp với hoàn cảnh và sức khỏe từng người.

Sinh hoạt điều độ, không làm gì quá sức bình thường, giữ gìn trạng thái cân bằng giữa ngủ và nghỉ, giữa ăn và làm, giữa trí óc và chân tay, giữa trong nhà và ngoài trời, giữa lười và chăm, v.v… cũng rất quan trọng.

Ăn uống đúng và đủ theo khả năng của mình, không nên nghiện bất cứ thứ gì, hạn chế thịt nhất là mỡ, ăn nhiều rau quả tươi, giảm chất bột, giảm bánh kẹo, b�º £o đảm cân bằng thức ăn âm và dương, giữ người không béo và cũng không gầy. Nên nhớ con người là giống ăn ngũ cốc, nên thức ăn cho người phải 80% là ngũ cốc còn 20% là rau quả và các thứ khác, không nên ăn quá no, người già rất cần đạm ở đậu tương, vừng lạc, tôm cua, ốc hến…

Cần có môi trường sống tự nhiên tốt, phần lớn các cụ sống 100 tuổi trở lên đều ở vùng núi, ở nông thôn còn ở thành phố thì rất ít và gốc cũng không phải thành thị. Hiện nay môi trường sống đang bị tàn phá nghiêm trọng đó là tự hủy hoại mình (chặt cây, phá rừng, chất thải, phân hóa học, thuốc trừ sâu….) đã làm mất đi cảnh thanh bình của thiên nhiên, là điều cũng nên hết sức tránh.

Kiên trì áp dụng 10 bài học về sức khỏe của Nhật Bản, đất nước đ ược mệnh danh là ‘vương quốc của tuổi thọ’ vì có tuổi thọ cao nhất thế giới hiện nay. 10 bài học đó là:

– Bớt ăn thịt, ăn nhiều rau
– Bớt ăn mặn, ăn nhiều chất chua
– Bớt ăn đường, ăn nhiều hoa quả
– Bớt ăn chất bột, ăn nhiều sữa
– Bớt mặc nhiều quần áo, tắm nhiều lần
– Bớt đi xe, năng đi bộ
– Bớt phiền muộn, ngủ nhiều hơn
– Bớt nóng giận, cười nhiều hơn
– Bớt nói, làm nhiều hơn
– Bớt ham muốn, chia sẻ nhiều hơn.

Những bài học trên có tác dụng rất lớn đối với những người bị tăng huyết áp, bệnh tim mạch, ung thư dạ dày, viêm gan…

Tóm lại: Biết cách sống, ta có thể làm chậm được quá trình lão hóa, kéo dài được tuổi thọ, có thể điều chỉnh được chiếc đồng hồ sinh học trong con người chúng ta chạy chậm lại, ta cũng có thể giữ bộ máy cực kỳ tinh vi của ta được bền vững lâu dài hơn.