Hình ảnh buổi RMS “Tự Lực Văn Doàn và các cây bút hậu duệ”
Link video sinh hoạt RMS Tự Lực Văn Doàn và các cây Bút Hậu Duệ”.
LỜI CÁM ƠN
Chinh Nguyên chân thành cám ơn tất cả quý vị quan khách, quý thành viên văn Thơ Lạc Việt, quý ban tổ chức, quý bạn thân hữu đã tham gia buổi ra mắt tác phẩm “Tự Lực Văn Đoàn và Các Cây Bút Hậu Duệ” vào ngày thứ Bẩy Nov. 9, 2019 vừa qua.
Buổi Ra mắt sách rất thành công nhờ vào sự hổ trợ thân tình của quý vị.
Cám ơn những quý anh trong giời truyền thông, nhiếp ảnh gia ViệtV, Việt Today, anh Trương Xuân Mẫn, nhà thơ Mạc Phương Đình đã lưu lại những hình ảnh kỷ niệm sinh hoạt của VTLV.
Cám ơn cô MC/Ca sĩ Hạnh Thảo, anh MC Lê Lợi, hai anh diễn giả TS Hồng Dũng, GS Nguyễn Tường Thiết, ban văn nghệ văn Thơ Lạc Việt, cô Thuý Nga, ba cháu Victoria Thuý Vi, Jenny Đan Anh, Hải Âu.
Đặc biệt cám ơn ban nhạc và âm thanh : Anh Thế (âm Thanh), anh Đoàn Keyboard, và anh Sơn tay saxophone với tiếng kèn mê muội đã giúp buồi ra mắt sách được vui vẻ và đầm ấm.
Tuy nhiên trong buổi tổ chức chúng tôi có những thiếu sót chẳng đặng đừng trong vài chi tiết tiếp tân, xin quý vị thông cản và tha thứ.
Kính chúc quý vị, an mạnh trong mọi ngày.
Sự đoàn kết cộng đồng sẽ đem lại cho chúng ta một sự khác biệt trong mọi trường hợp.
Trân trọng.
Thay mặt ban tổ chức.
Chinh Nguyên.








Tự Lực Văn Đoàn và Các Cây Viết Hậu Duệ
Văn Thơ Lạc Việt kết hợp với nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật tại Nam Cali
với sự hổ trợ của nhà xuất bản Tủ Sách Khai Trí ra mắt tác phẩm:
Tự Lực Văn Đoàn và Các Cây Viết Hậu Duệ.
Đây là một tác phẩm giá trị nghiên cứu về văn học.
Mong quý tham gia, và hỗ trợ.
Tổ chức tại: Grand Fortune Restaurant.
Thời gian: November 9, 2019, lúc 11:30 AM.
Địa chỉ: 4100 Monterey Street # 108, San Jose CA. 95111
Diễn giả: TS Hồng Dũng và Hậu Duệ TLVD Nguyễn Tường Thiết.
MC: Ca sĩ Hạnh Thảo.
Có văn nghệ phụ diễn và khiêu vũ.
Xin hổ trợ US$40.00 cho mỗi quý khách.
Để tiện việc sắp xếp chỗ ngồi, xin quý vị vui lòng phúc đáp.
Sư hiện diện của quý vị là một vinh dự cho ban tổ chức và quý tác giả.
Để biết thêm chi tiết xin quý vị phone cho:
Chinh Nguyên: 1(669) 225-6043
Thái Phạm: 1(408) 335-3862


Thông Báo Về Ban Hợp Xướng Lạc Việt & Thư Mời Họp Chiều Ngày 24 Tháng 8 Năm 2018.
VTLV THÔNG BÁO VỀ BAN HỢP XƯỚNG LẠC VIỆT &
THƯ MỜI HỌP CHIỀU NGÀY 24 THÁNG 8 NĂM 2018.
Kính chào quý vị,
Mục đích VTLV thành lập ban Hợp xướng bởi muốn bảo tồn và phát huy văn hoá Việt tại hải ngoại qua âm nhạc. Bắt đầu từ ngày thứ sáu 24 tháng 8 năm 2018, Văn Thơ Lạc Việt sẽ tiếp nhận tất cả các quý vị muốn ghi danh vào ban Hợp xướng Lạc Việt. Những quý vị ghi danh vào ban Hợp xướng Lạc Việt sẽ tự động là thành viên của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, và sẽ được Giáo sư Nhạc sĩ Phạm Đức Huyến hướng dẫn về Nhạc lý Diễn giải, Thanh nhạc, và Kỹ thuật Ca hát để sinh hoạt trong ban Hợp xướng Lạc Việt, và cơ sở Văn Thơ Lạc Việt.
Thành viên trong ban Hợp xướng Lạc Việt sẽ được Giáo sư Nhạc sĩ Phạm Đức Huyến hướng dẫn về Đơn ca, Song Ca, Tam ca và Hợp xướng, cùng với những tài liệu học tập miễn phí.
Những quý vị nào nhận thấy mình có năng khiếu âm nhạc nên tham dự vào ban Hợp xướng Lạc Việt sẽ được hướng dẫn căn bản trong nghệ thuật âm nhạc từ Giáo sư âm nhạc Phạm Đức Huyến.
Thay mặt VTLV.
Chủ tịch CS/VTLV :TVS Chinh Nguyên
Cố Vấn âm nhạc & và nghệ thuật : Gs Nhạc sĩ Phạm Đức Huyến. Trưởng ban Hợp Xướng: Ns Nguyên Hồng.
Chủ tịch VTLV.
Chinh Nguyên
———————————————————————————————————————————————————————
THƯ MỜI HỌP BAN HỢP XƯỚNG.
Xin thông báo quý vị thành viên Văn Thơ Lạc Việt và Ban Hợp xướng Lạc Việt.
Buổi họp đầu tiên để lựa giọng hầu chia bè tập hát trong ban Hợp xướng sẽ là ngày thứ sáu 24 tháng 8 năm 2018, lúc 6:30 PM. Buổi họp sẽ do Giáo sư Nhạc sĩ Phạm Đức Huyến chủ toạ, ông sẽ giúp Văn Thơ Lạc Việt nói về mục đích thành lập ban Hợp Xướng, chương trình Huấn Luyện và chia bè cho các hội viên hầu dễ dàng tập dượt. Trong buổi họp đầu tiên của Ban Hợp Xướng Lạc Việt sẽ có thêm phần trình diễn văn nghệ cây nhà lá vườn, chiếu clip Hợp xướng, tuyển giọng chia bè của ban Hợp Xướng, và có sự tham gia của ban Văn nghệ VTLV.
Vậy xin chị Thuý Nga trưởng ban Văn nghệ thông báo cho anh chị em ca sĩ tham dự đông đủ hầu thắt chặt sự đoàn kết giữa hai ban Văn nghệ của VTLV.
Điạ điểm họp:
CLB/Mây Bốn Phương
730 S 2nd Street San Jose CA 95112.
Xin ghi chú: Nơi đậu xe dưới gầm cầu I-280, giữa hai đường First và 2nd Street.
Có nước trà nóng và bánh ngọt.
Chủ tịch VTLV
Chinh Nguyên.
Thông báo Giải Văn Thơ Lạc Việt 2018
Video Lễ Trao giải thưởng Văn Thơ Lạc Việt năm 2017
Lễ trao giải Văn thơ Lạc Việt
Thiệp mời lễ Trao giải Văn Thơ Lạc Việt năm 2017

Hội thoại về giải Văn Thơ Lạc Việt – 3 tháng 12/2017
Sinh Hoạt VTLV năm 2017
Tưởng niệm cố nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm tại San Jose
Tưởng niệm cố nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm tại San Jose
Văn thơ Lạc Việt tổ chức buổi tưởng niệm cố nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm tại San Jose ngày 30 tháng 9 tại CLB Mây Bốn Phương.
Chương trình gồm có:
| 1 | Lời Tưởng niệm bác Vũ Đức Nghiêm | TS Hồng Dũng |
| 2 | Đọc Thay lời điếu NS Vũ Đức Nghiêm của Bác Diệu Tần | TS Hồng Dũng |
| 3 | Khúc ca dịu dàng | Kim Thư |
| 4 | Một mình ngồi yên | Lê Nguyễn |
| 5 | Tâm tư chiều | Thu Sa |
| 6 | Hương lan vườn xưa | Hoàng Lan |
| 7 | Ngâm thơ trích đoạn (Trời Hương Phấn Cũ) | Chị Minh Thúy |
| 8 | Thấp Thoáng Như Giấc Mơ | Văn Quân |
| 9 | Trên đồi cao | Bạch Tuyết |
| 10 | Bâng khuâng nhớ tình xưa | Thanh Hà |
| 11 | Từ ngục tù xông lên | Hợp ca |
| 12 | Ngâm thơ (NT Ngô Đình Chương) | Ngẩu Hồ |
| 13 | Thời gian còn lại | Bảo Ngọc |
| 14 | Vùng trời kỷ niệm | Kiều Liên |
| 15 | Đà lạt thành phố sương mù | Mai Hương |
| 16 | Gọi người yêu dấu | Hoàng Lan |
| 17 | Muôn trùng xa em về | Nguyên Hồng |
| 18 | Lời ru thương | Vũ Thơ Trinh |
Phân Ưu Nhà Văn Vũ Ngọc Đĩnh
PHÂN ƯU NHÀ VĂN ĐỐI KHÁNG CỘNG SẢN TẠI QUỐC NỘI:
VŨ NGỌC ĐĨNH.

Kính dâng hương hồn Anh Vũ Ngọc Đĩnh
Thế là Anh đã nhắm mắt, xuôi tay, chưa tròn nguyện ước .
Tôi đang layout cuốn “Ca dao thời Cộng Sản” của anh và đang cầm trọn vẹn mấy cuốn bản thảo anh trao để in và phát hành tại quốc ngoại :
Bảo Tòan.
Cười chả được.
Chui.
Hồn Nước trong các tòa thành cồ VN.
Lý Thường Kiệt.
Những âm thanh nhức buốt ngàn đời.
Sao Mai đã mọc.
Tiếng hát bên trong cửa.
Biết nói với anh sao đây …!!!
Cầu mong Anh :
chốn vĩnh hằng nghìn thu an giấc,
nồng nàn hương thảo Nam Sơn,
tiêu dao thâm thú ta bà,
ươm mầm tinh hoa đất Việt.
THÀNH KÍNH PHÂN ƯU
Anh đã đi…! Ai cười, ai rưng lệ…!
Đời chia ly không muốn cũng đành thôi.
Hội Ðồng Cố Vấn
Ban Ðiều Hành
Toàn Thể Thi Văn Hữu và Nhạc Sĩ & Nghệ Sĩ
Hội Viên khắp nơi thuộc
CƠ SỞ VĂN THƠ LẠC VIỆT.
Chinh Nguyên
Quỳnh Chi Tiêu Cẩm Tú.
Nhà Văn Uyên Thao
Nhà văn Trịnh Bình An
Chu Lynh
Nhà Văn Chu Tấn.
Nhà Văn Trần Nhu
Nhà Báo Việt Hải LA
Nhà văn Kiều Mỹ Duyên
Nhà văn Bích Huyền
Nghệ Sĩ Như Hảo
Nhà văn Phạm Bá Hoa.
Nhà thơ Thư Khanh.
Nhà thơ Quốc Nam.
Nhạc sĩ Phạm Mạnh Đạt.
Nhà Văn Thanh Xuân.



Kính chào quý vị Mạnh Thường Quân.

Kính chào quý vị Mạnh Thường Quân.
Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt được thành lập vào năm 1992 bởi các nhà thơ và nhà văn Hà Thượng Nhân, Chu Toàn Chung, Hoàng Anh Tuấn, Thượng Quân, và Dương Huệ Anh. Văn Thơ Lạc Việt hiện là một tổ chức phi lợi nhuận 501 (c) (3).
Mục đích của Văn Thơ Lạc Việt là cung cấp cho giới trẻ Việt Nam cũng như người lớn một cơ hội để duy trì và bảo tồn văn hóa Việt tại hải ngoại bằng cách biểu hiện văn học đa dạng như thơ, truyện ngắn, nghệ thuật, ra mắt cuốn sách, và chống đối văn hoá phá sản tại quốc nội.
Văn Thơ Lạc Việt cũng mở ra các cuộc thi văn, thơ hàng năm .
Xin quý vị giúp và gởi check về :
Van Tho Lac Viet
640 Rettus CT
San Jose CA 95111.
Hay dùng paypal :
https://www.paypal.com/cgi-bin/webscr…
Bởi luật của Mỹ (Van Tho Lac Viet Charity Tax ID# 38-3892047), mỗi dollar của quý vị gởi giúp đều được trừ thuế.
Chinh Nguyên.
1(669) 251-5366
Trân trọng
…………………………………
Dear Ladies and gentlemen
Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt was founded in 1992 by poets and writers Hà Thượng Nhân, Chu Toàn Chung, Hoàng Anh Tuấn, Thượng Quân, and Dương Huệ Anh. Văn Thơ Lạc Việt, and currently is a non-profit organization 501 (c)(3). Văn Thơ Lạc Việt’s mission is to provide Vietnamese youth as well as adults an opportunity to maintain and preserve Vietnamese culture by promoting diverse literary expression such as poetry, short stories, art, book launch events, and the annual Vietnamese Literature Contest in poetry and short stories.
If you would like to help, please write a check to:
Van Tho Lac Viet
640 Rettus CT
San Jose CA 95111.
Or by paypal :
https://www.paypal.com/cgi-bin/webscr…
Every dollar will make a difference and your contribution is tax-deductible to the extent allowed by US law (Van Tho Lac Viet Charity Tax ID# 38-3892047).
Chinh Nguyên.
1(669) 251-5366
Thanks.
Thông Báo lễ phát giải thi văn thơ 2008 của Cơ Sơ VTLV (Chinh Nguyên)

Ghi chú: Xin tắt Audio thông báo trước khi click vào slide show Bài Ca Lạc Việt để coi hình và nhạc.


Giang Thiên Tường: Giải nhất. Năm truyện ngắn trúng giai Văn Thơ Lạc Việt 2010
01 văn
Bài văn Đứa Con Đầu Lòng sau đây của tác giả Giang Thiên Tường là bài được giải Nhất về Văn trong Giải Văn Thơ Lạc Việt 2010. Được biết Giải Văn Thơ Lạc Việt khởi đầu từ năm 2008, đến nay đã được 3 năm. Cuộc thi hàng năm gồm có 3 giải chính thức và 2 giải khuyến khích cho mỗi bộ môn thơ và văn nhằm khuyến khích mọi người sáng tác để phát huy văn hóa Việt Nam ở hải ngoại.
Chúng tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả bốn phương.
VTLV
ĐỨA CON ĐẦU LÒNG
Tiến đứng dậy định đi tới đi lui trong phòng cho đỡ sốt ruột vì chờ đợi đã quá lâu, nhưng chợt thấy căn phòng chờ này quá chật mà người đợi khá đông nên đành ngồi trở xuống, tiếp tục xem báo. Phòng mạch của bác sĩ Nhân nằm tại một địa điểm có đông người Việt và hơn nữa bác sĩ cũng là người được tín nhiệm trong nghề nghiệp nên thân chủ rất đông. Bác sĩ lại không tiếp khách theo lối hẹn trước mà chỉ phục vụ theo thứ tự tới trước vào trước; hôm nay lại là ngày thứ hai, bao nhiêu bệnh nhân loại nhẹ như nhức đầu, cảm
đều có thể chờ để đổ dồn vào ngày đầu tuần này.
Ngồi đợi đã gần hai tiếng đồng hồ mà vẫn chưa tới phiên. Tiến bồn chồn đọc hết tờ tạp chí này đến tờ báo quảng cáo khác, nhưng những hàng chữ, những hình ảnh quảng cáo của các tờ báo chỉ nhảy múa vô nghĩa trước mắt, không giúp gì cho Tiến quên bớt lo âu. Tiến không phải là bệnh nhân, sức khỏe của Tiến rất tốt, cả mấy năm không cần bác sĩ. Tiến chỉ đang lo cho đứa con đầu lòng mình đang lên cơn bệnh nặng mà bác sĩ Nhân là niềm hy vọng cuối cùng.
Tiến nhìn qua phòng chờ đợi một lần nữa: còn gần cả chục người, biết tới bao giờ mới tới phiên mình đây? Thời gian tâm lý của đợi chờ còn như kéo dài hơn nữa. Thực sự Tiến chẳng có vợ con gì cả, "đứa con đầu lòng" chỉ là danh từ Tiến đặt cho tác phẩm đầu tay của mình, đúng ra là một tờ báo của trường mà lần đầu tiên Tiến tự đứng ra gánh trách nhiệm làm chủ bút. Loại báo free các trường không gây lợi lộc cho người làm, thế mà vẫn ra nhan nhản. Đó không phải vì ở Mỹ dư giấy mà chỉ vì anh em sinh viên yêu văn nghệ mà thôi. Có những bạn trẻ trước đây ở quê nhà không hề cầm bút viết văn hay biết chút ít gì về kỹ thuật làm báo, thế mà qua đây tự nhiên trở nên thi sĩ, văn sĩ và cả chủ bút nữa. Có thể bầu không khí tự do cởi mở ở đây đã khơi dậy cảm hứng và tiềm năng nghệ thuật nơi mọi người.
Tuy viết văn làm thơ ở đây thì dễ, chớ ra một tờ báo free thì không dễ chút nào, nhất là đối với sinh viên không có một đồng xu dính túi. Hôm qua, Tiến giao cho một số bạn đi quyên tiền, nhưng không biết họ ăn nói làm sao mà cả bọn thất thểu trở về với vài chục đồng. Lần này, Tiến nhất quyết đích thân chỉ huy đi quyên tiền cho bằng được, không thể chậm trễ nữa. Tờ báo này có chủ đề là "Mùa Thu", bài vở bắt đầu được thu thập từ đầu mùa cho tới nay mới tạm đủ thì cũng vừa vặn gần hết mùa thu rồi! Phải công nhận anh em làm văn nghệ lần này thật xuất sắc, không ai lạc đề cả, tất cả đều viết đúng chủ đề mùa thu: có những bài thơ như: "Đêm Thu", "Tiếng Thu", "Mưa Thu", những truyện ngắn "Rừng Thu", "Mùa Thu Trong Mơ". Nhưng nay đã tàn thu lá sắp hết bay rồi, nguy là ở chỗ đó! Nếu chậm trễ nữa, mùa đông tới thì bao nhiêu tác phẩm về thu phải dẹp qua bên, và điều đó có nghĩa là đứa con văn nghệ đầu lòng phải chết yểu!
Ý thức được tình hình khẩn trương, hôm nay Tiến lập tức huy động chủ lực để hành động. Hải "Phao Câu", trưởng ban báo chí, Loan "Tóc Ngắn", trưởng ban thể thao và Yến "Bồ Câu", trưởng ban xã hội. Lần đi quyên tiền này cũng không may mắn hơn hôm qua. Cả bọn đi hết cả ngày, vòng qua hết mấy tiệm Việt Nam mà chưa tới được một trăm, có những nơi tỏ ra rất lạnh lùng không ủng hộ, có nơi cho lẻ tẻ vài ba đồng mà đòi hỏi biên nhận đủ điều.
Nhóm thu tiền mệt mỏi và chán nản "lết" tới chợ Tân Tiến thì đã gần chiều và lại rước thêm một thất bại chua cay nữa. Đây là một trong những chợ lớn nhất của thành phố và có tiếng là cho tiền quảng cáo khá nhiều, thế mà hôm nay gặp ngày xui xẻo quá, họ trả lời dứt khoát không cần quảng cáo nữa! Yến "Bồ Câu" chán nản, mếu máo đòi về: "Mẹ không cho em đi đâu quá 5 giờ chiều!" Còn Loan cũng kiếm chuyện có hẹn đi làm răng. Hải "Phao Câu" đã chuồn mất tự hồi nào rồi.
Ông chủ bút Tiến hoàn toàn cô đơn, đau khổ và tuyệt vọng! Nhưng một tia sáng vụt lóe ra ở cuối đường hầm. Tiến bỗng chợt nhớ đến bác sĩ Nhân. Bác sĩ Nhân là người thường đứng đầu danh sách quý vị hảo tâm trong việc giúp đỡ các đoàn thể và báo chí. Phải, chỉ có bác sĩ Nhân là niềm hy vọng cuối cùng cho cơn bệnh ngặt nghèo của đứa con đầu lòng mình.
Tiến buông tờ báo đang đọc xuống, nhìn lại phòng chờ.
– Còn ba người.
– Còn hai người.
Rồi cuối cùng là đến lượt Tiến. Tim Tiến đập rộn rã giống như hồi còn đi học tiểu học, khi gần tới phiên mình lên trả bài, dù có thuộc bài đến đâu, tim Tiến cũng đập như muốn vỡ lòng ngực. Lần này cũng phải trả bài thật chớ không chơi đâu, đậu hay rớt là lúc này đây.
– Kính chào bác sĩ.
– Sao? Anh nghe sao đây? Bác sĩ hỏi với một giọng mệt mỏi sau một ngày làm việc vất vả với quá nhiều bệnh nhân.
Tiến cảm thấy mình ở tư thế khá bất lợi, nhưng cũng cố đọc bài "diễn văn" đã soạn sẵn:
– Dạ, tôi là đại diện của trường
chúng tôi chuẩn bị cho ra một tờ đặc san, trước tiên là để phát huy Việt ngữ và phổ biến văn nghệ, sau nữa là để thắt chặt tình đoàn kết trong cộng đồng người Việt Nam tại đây. Chúng tôi cần sự giúp đỡ của
– Trời! Bác sĩ ngắt ngang, vậy anh không phải là bệnh nhân? Tại sao anh không cho tôi biết để tôi mời vào ngay?
– Dạ, tôi có nói với cô y tá, nhưng chắc cô ấy quên.
Tiến khấp khởi mừng thầm vì thái độ đầy khích lệ của bác sĩ. Thừa thắng, Tiến đưa bản thảo tờ báo ra khoe:
– Đây là tờ đặc san tương lai của chúng tôi, đã đánh máy xong chỉ chờ in, bài vỡ rất phong phú và xuất sắc. Chúng tôi có dành một số trang ở phần sau để quảng cáo. Nếu bác sĩ muốn thì
– Tôi không cần quảng cáo! Bác sĩ ngắt lời một cách mau lẹ.
Tiến giật mình ân hận: vậy là mình vừa "tái phạm" một lỗi nặng nữa rồi! Các nhà buôn lớn, các bác sĩ đắt khách đều không cần quảng cáo. Họ từ chối cho tiền rất dễ dàng.
Tiến quyết định đổi chiến lược.
– Thưa bác sĩ, anh em chúng tôi rất yêu văn nghệ. Đây là một đặc san đầy nghệ thuật, vì chúng tôi tập trung tất cả các các cây bút xuất sắc của trường để viết về một chủ đề duy nhất là mùa thu.
Tiến lật qua từng tờ bản thảo của tờ báo cho bác sĩ xem, nhân tiện "quảng cáo" tiếp:
– Trong này có một bài viết rất đặc sắc là bài "Mùa Thu Trong Thơ" bao gồm những áng thơ tuyệt tác của các thi sĩ như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận.
Bác sĩ lơ đãng liếc qua các trang và bất ngờ hỏi:
– Xuân Diệu, Huy Cận là ai?
Tiến có hơi ngạc nhiên. Bác sĩ không biết chút gì về thi ca hay cố ý muốn đố mình chơi? Dầu sao, Tiến cũng trúng tủ đối với câu hỏi này nên trả lời thao thao bất tuyệt:
– Dạ đó là hai khuôn mặt lớn của thời thi ca tiền chiến lãng mạn, thời kỳ mà các tinh hoa nghệ thuật Việt Nam đồng rộ nở
– Thôi được! Bác sĩ có vẻ không chú ý đến lời giải thích của Tiến và tươi cười nói:
– Tôi không cần quảng cáo cho lắm nhưng tôi sẽ ủng hộ các anh. Anh biết tại sao không?
– Dạ
– Tôi thông cảm hoàn cảnh của các anh lắm, vì hồi trước tôi cũng gặp những khó khăn như vậy.
– Bác sĩ đã từng làm báo?
– Đúng!
Gương mặt bác sĩ mơ màng như trở về dĩ vãng:
– Lúc còn là sinh viên Y khoa tôi cũng như các anh rất say mê văn nghệ.
– Chắc bác sĩ viết nhiều lắm?
– Tôi viết và nhất là làm thơ. Lúc đó là: "Một thuở yêu em làm thơ" của tôi đó.
Tiến giữ yên lặng để bác sĩ tận hưởng dĩ vãng thơ mộng của ông.
– Anh cần bao nhiêu? Bác sĩ bắt đầu tỉnh giấc mơ và trở về thực tại.
– Dạ, đó là do lòng hảo tâm của người cho. Phí tổn tổng cộng của chúng tôi khoảng năm sáu trăm; đó là giá chót của ấn loát, thế mà chúng tôi chỉ mới được ủng hộ không đầy một trăm. Tiến kể lể với giọng điệu thật thểu não.
Bác sĩ móc ví, trang trọng đưa cho Tiến số tiền mặt ba trăm. Tiến choáng váng vì số tiền khá lớn và cử chỉ đầy nghĩa hiệp này. Như vậy đứa con văn nghệ đầu lòng của mình đã thoát nạn! Mình chỉ cần đi một vòng ngắn "bố" thêm vài ông chủ tiệm sửa xe nữa là đủ tiền in tờ báo rồi. Tiến run rẩy tiếp nhận số tiền của ân nhân và bày tỏ lòng biết ơn một cách kiểu cách:
– Dạ tôi xin thành thật cảm tạ bác sĩ đã cứu chữa cho đứa con đầu lòng của tôi thoát khỏi
– Đứa nào? Bác sĩ ngắt lời, phải em bé bị nhiễm trùng đường tiểu tuần trước không?
Biết là mình đã tạo hiểu lầm cho bác sĩ, nhưng Tiến cảm thấy không thể đính chính được nữa, đành nói luôn:
– Dạ phải, cũng nhờ bác sĩ cho toa, cháu nó uống có vài viên trụ sinh là khỏi bệnh.
Bác sĩ bất ngờ nổi giận la ầm lên:
– Trời! Trụ sinh mà anh sử dụng bừa bải vậy à? Tôi đã dặn phải cho uống ngày bốn viên liên tục trong hai tuần mà. Uống vài viên trụ sinh rồi ngưng, vi trùng sẽ kháng thuốc, anh có hiểu không?
Nhờ biết qua chút đỉnh về cách sử dụng thuốc, Tiến chữa tội dễ dàng:
– Tôi cho cháu nó uống vài viên Tylenol là đỡ đau ngay, nhưng về trụ sinh thì tôi cho nó uống rất đúng liều lượng.
Gương mặt bác sĩ đầy lương tâm chức nghiệp dịu lại ngay. Bác sĩ đứng dậy, tươi cười từ giã:
– Thôi, tôi chúc anh được nhiều thành công trong tờ báo sắp tới.
Bác sĩ đưa Tiến ra khỏi cửa và nói thêm:
– Cho tôi gởi lời thăm các anh em sinh viên trong ban biên tập. Chúc các anh hăng hái sáng tác.
Tiến không quên cám ơn lần nữa vị bác sĩ có lương tâm và đầy nghệ sĩ tính nầy và trong lòng Tiến đang rạo rực một niềm vui và một niềm hãnh diện vô biên:
"Chắc chắn tuần sau này, đứa con đầu lòng của mình sẽ vượt được mọi khó khăn để ra mắt mọi người. Nó không tạo ra cho mình bất cứ lợi lộc hay tiền bạc, hoặc danh lợi nào cả, nhưng nó sẽ là phần thưởng sáng giá nhất của con người văn nghệ. Nó không dành riêng để tặng một cá nhân nào mà nó chỉ phục vụ cho tất cả mọi người biết thương yêu nó. Điều chắc chắn là đứa con tinh thần này không những biết ơn cha mẹ đã cưu mang nó mà còn đội ơn những vị đỡ đẻ là những nhà mạnh thường quân đầy hảo tâm và yêu nghệ thuật".
(Giang Thiên Tường là bút hiệu của Tô Vĩnh Phúc hiện cư ngụ tại Sacramento, California)
Đại Đế Quang Trung Trận Đánh Cuối Cùng Dứt Họa Bắc Thuộc của nhà văn Vũ Ngọc Đĩnh.
m ơn những quí vị mạnh thường quân có tên trong danh sách dưới đây, đã hổ trợ cho Chinh Nguyên có một số tài chánh để phát hành tác phẩm văn chương "Đại Đế Quang Trung Trận Đánh Cuối Cùng Dứt Họa Bắc Thuộc" của nhà văn Vũ Ngọc Đĩnh.Chân thành cám ơn nhà Báo Lê Văn Hải đã đứng bao chót tất cả chi phí in ấn còn thiếu và sẽ tổ chức ra mắt tác phẩm.
Nếu quí vị trên net FB muốn mua sách cũng như ủng hộ nhà văn đối kháng Việt Nam Cộng Sản, xin giúp Văn Thơ lạc Việt phổ biến và mua sách. Tổng cộng tiền bán sách thu dược sẻ gởi về tặng tác gỉa.
Sách gía $20.00 Mỹ kim. Ngoài USA xin cộng thêm tiền gởi cước phí $5.00 Mỹ kim.
Nếu quí vị mua sách xin liên lạc với :
Văn Thơ Lạc Việt
(Chinh Nguyên)
(408) 279-2532
640 Rettus Ct. San Jose CA 95111
U.S.A.
Văn Thơ Lạc Việt
640 Rettus Ct. San JOse CA 95111
U.S.A.
Danh sách hổ trợ in tác phẩm của
Nhà Văn Vũ Ngọc Đĩnh.
“Đại Đế Quang Trung Trận Đánh Cuối Cùng Chấm Dứt Họa Bắc Thuộc”
Sô TT , Họ và tên Hổ trợ Ghi chú
1/ Mr. Tony Đinh (21 Centery) $300.00 Chinh Nguyên đã nhận
2/ Mr. Phạm Đức Vượng $200.00 (Check đang tới từ BS Phạm Đức Vượng)
3/ Mr. Chu Tấn $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
4/ Mr. Thư Sinh $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
5/ Mr. Thanh Thương Hoàng $100.00 Chinh Nguyên đã nhận .
6/ Mr. Đông Anh $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
7/ Mr. Giao Chỉ $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
8/ Mr. Nguyễn Phi $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
09/ Mr. Chinh Nguyên $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
10/ TS Nguyễn Hồng Dzũng $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
11/ BS Hồng Hà $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
12/ Mrs Nguyễn Thanh Xuân $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
13/ GS Nguyễn Cao Can $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
14/ Mr. Lê Đình Thọ $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
15/ Mr. Đỗ Hữu Nhơn $100.00 Chinh Nguyên đã nhận
16/ Thằng Mõ Nhà báo Lê Văn Hải $xxx.00 Người quan trọng, bao chót.
Tồng cộng Chinh Nguyên đã nhận : $1600.00 đô la
*************************************************************
NHỮNG TÁC PHẨM của
Nhà văn : VŨ NGỌC ĐĨNH
***
Đã xuất bản : (trước 1975)
1- Mười Hai Sứ Quân tiểu thuyết lịch sử
2- Máy cưa máy khoan truyện
3- Trên tháp chuông nhà thờ truyện
4- Một màn xiếc truyện
5- Bàn tay trên cỏ truyện
6- Tình trên non cao dịch “La Maison de Petrodava”của C.Virgil Georghiu
nhà xuất bản Âu Cơ-Saigon, ký tên Lê Vũ
7- Niki truyện con chó tác giả Roumanie không nhớ tên
Đã xuất bản (sau 1975)
1- Mười Hai Sứ Quân * tiểu thuyết lịch sử,nxb Trẻ tp HCM-1999
2- Bắn Rụng Mặt Trời * tiểu thuyết lịch sử nhà Trần phá Nguyên Mông ,
nxb Trẻ tp HCM-2000
3- Hào Kiệt Lam Sơn (Lê Lợi đuổi Minh)tiểu thuyết lịch sử-1995
4- Ứng Vận Thần Vũ (Lê Đại Hành Hoàng đế phá Tống)tiểu thuyết lịch sử; nxb
Văn Hóa Thông Tin tp. HCM-2005
5- Đôi Hài Tiên truyện thần tiên VN **
6- Chiếc Mõ Sừng Trâu truyện thần tiên VN
7- Ngọn Đèn Lưu Ly truyện thần tiên VN
8- Thủy Thủ Khăn Vàng truyện thần tiên VN
9- Cô Gái Tật Nguyền truyện thần tiên VN
10- Miếng Da Ếch truyện thần tiên VN
11- Chiếc Chiếu Thần truyện thần tiên VN
12- Hoa Trường Mộng truyện thần tiên VN
13- Ống Sáo Thần Kỳ truyện thần tiên VN ( 9 truyện thần tiên này xb năm 1993, nxb Văn Hóa tp.HCM
14- Tự Điển Anh-Việt Bộ Giáo Dục và Đào Tạo-Trung Tâm Ngôn Ngữ và Văn
Huyết Hoa VN-nxb Thế Giới-1994
15- Tự Điển Pháp Việt nxb Thế Giới-1995 –Công ty Phát hành Sách FAHASA tp
HCM
16- Tự Điển Thương Mại Anh-Pháp-Việt -2003 , Nhà Xuất Bản Thống Kê –
Hội Ngôn Ngữ Học thành phố HCM
17- Musashi Giang Hồ Kiếm Khách tác giả Eiji Yoshikawa; tiểu thuyết kiếm đạo kiệt
xuất của Nhật Bản 2000 trang,dịch theo bản tiếng Pháp, nxbVăn Học tp.HCM
2008
* Hai bộ tiểu thuyết lịch sử (mỗi bộ 8 tập – 3000 trang) Mười Hai Sứ Quân, Bắn
Rụng Mặt Trời, đã được Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ghi tên và bảo vệ tác
quyền trên toàn thế giới cho tác giả ;
** Bộ 9 truyện thần tiên (tổng cộng 2000 trang)
Các tác phẩm chưa xuất bản :
1- Ca Dao & Tục Ngữ Dẫn Giảng 6100 trang
2- Ca Dao thời Cộng sản 500 trang
3- Lý Thường Kiệt Phạt Tống-Phá Tống , tiểu thuyết lịch sử 1615 trang khổ lớn
4- Lịch sử & các thành cổ VN
5- Bảo Toàn & Ngày gặp lại
6- Sao Mai Đã Mọc, Này Cai Ngục…
7- Buồn Cười Chả Được
8- Tiếng Hát Bên Trong Cửa tiểu thuyết
9- KÀMA SÙTRA bộ sách kinh điển của Ấn độ về đạo đức và thực hành tình dục
có từ trước công nguyên, viết lại bằng tiếng Phạn cổ thế kỷ thứ 4 sau công
nguyên, giáo sư học giả Alain Daniélou dịch trọn bộ sang tiếng Anh , bản duy
nhất trên thế giới không cắt bỏ một dòng một chữ nào, nxb Park Street Press-
Rochester, Vermon USA, bản dịch tiếng Việt của VNĐ năm 1997.
10- Núi Hồn Tanios Le Rocher de Tanios, tác giả là nhà văn nhà báo người Liban,
từng chu du hơn 60 nước trong đó có cả VN thời chiến, tác phẩm viết bằng
tiếng Pháp,là tiểu thuyết lịch sử vùng Trung đông, được giải Văn học Goncourt
năm 1993, tác giả được ghi nhận là “nhà kể chuyện kiệt xuất”, VNĐ dịch xong
năm 1999.
11- Những Âm Thanh Nhức Buốt Ngàn Đời
12- Sao Mai Đã Mọc, Này Cai Ngục…
13- Chửi
14- Đại Đế Quang Trung –(Quang Trung đả bại Đại Thanh Càn Long–Trận đánh cuối cùng kết thúc nghìn năm Bắc thuộc)
15- Ngô vương Quyền
16- Hai Bà
Ba cuốn cuối (14-15-16 đang tiếp tục viết (2013))
*****
Vũ Ngọc Đĩnh sinh năm 1933 tại Hà Nội
Di cư vào Nam : 1954
Dạy học, viết báo, biên tập viên trưởng Tin Tức Đài Phát Thanh Saigon, đài Phát thanh Voice of Freedom (Saigon).
Sau tháng Tư 1975 đi tù về tội “ hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân 80-88”, tiếp tục viết.
"Đại Đế Quang Trung Trận Đánh Cuối Cùng Dứt Họa
Bắc Thuộc" của nhà văn Vũ Ngọc Đĩnh.
Lịc
h sử nước Việt Nam ta, trải qua bốn ngàn năm, đến thời Hai Bà Trưng dựng cờ đuổi quân Nam Hán lấy lại nước (n?m 43 sau TL), cứu muôn dân, xuống đến hùng tài Ngô Quyền phá giặc Bắc chém đầu thái tử Hoằng Thao bên sông Bạch Đằng dựng nghiệp Ngô Triều, rồi Đinh Tiên Hoàng ?? kh?i nghi?p trị loạn, thống nhất giang sơn, tiếp nối là nhà Tiền Lê với Thiên tướng Lê Hoàn cũng mở nghiệp bằng lấy đầu nguyên soái binh Tống Hầu Nhân Bảo giữ vững giang sơn truyền sang đến Triều Lý, lại gặp phải Tống đế tham tàn quyết nối chí tổ tiên m? thu phục tộc Việt, cậy có danh tài An Thạch họ Vương giữ ngôi Tể tướng dựng đại mưu cướp Đại Việt để cứu loạn bên trong, sai lấy ba châu Ung, Khâm, Liêm ở cực nam Hoa lục làm cứ địa sửa soạn đại hùng binh quyết hoàn thành ước vọng của tổ tiên suốt ngàn năm trước, chẳng may lại gặp phải tướng nhà trời văn võ kiêm toàn Lý Thường Kiệt của nước Nam đề binh thủy bộ sang tận ba châu Ung Khâm Liêm trừng trị, rồi tiếp đến đại phá vẫn giặc Tống trên sông Như Nguyệt giữ giang sơn an bình thịnh trị gần hai trăm năm, cho đến khi giặc du mục hiếu chiến Mông Cổ vượt Trường Thành Vạn Lý lấy Bắc Kinh, diệt nhà Hán mở ra kỷ nguyên Nguyên Mông cực hùng mạnh đánh chiếm gần trọn thế giới, tới lúc ấy giặc Bắc mới lại dám dòm ngó nước Nam, ngông cuồng ba lần đề hung binh cuồng tướng dẫn đại quân xuống cướp Đại Việt, cả ba lần đều bị thiên tướng Trần Quốc Tuấn triệt diệt, Nguyên chúa khóc hận từ đây ngưng binh tan mộng bá chủ địa cầu rồi tan rã sự nghiệp Nguyên Mông, mãi đến khi Triệu Khuông Dận giành được ngôi thiên tử ở Trung nguyên lập ra nhà Minh, thì giặc Minh lại dại dột đề hùng binh xuống cướp Đại Việt, lần này giặc Bắc gặp phải hào kiệt Lê Lợi ở đất Lam Sơn hưng binh hơn 10 năm kháng chiến buộc nguyên soái Vương Thông nhà Minh phải quỳ xuống đi bằng đầu gối mở cửa thành ra cầu hàng, nghĩ rằng từ đây nước Nam được yên ổn, nào ngờ đến đời nhà Thanh c??p ngôi nhà Minh, đế hiệu Càn Long cậy võ nghiệp lẫy lừng, lại thêm bên trong nước Đại Việt nhà Hậu Lê tàn mạt không giữ được nước nội chiến kéo dài giữa các họ Lê Trịnh Mạc ở phía Bắc, hai Nguyễn ở phương Nam, bên ngoài thì Xiêm La xấn tới, toàn cõi giang sơn trăm họ lầm than chưa từng thấy, Thanh đế Càn Long thừa cơ hội ngàn năm nay mới có : Lê Chiêu Thống cầu cứu, bèn sai Tổng Đốc Lưỡng Quảng xuất đại hùng binh, kéo xuống Đại Việt
Tình thế cực kỳ hung hiểm, tai họa mất nước vào tay gi?c ngoài, giang sơn cùng trăm họ dòng Việt tan nát sắp lại trở thành dân mất nước phải chịu nội thuộc nhà Thanh là điều đã rõ rệt. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo như vậy, nước Nam lần nào cũng lại có hùng tài xuất hiện làm nên đại kỳ công lưu danh muôn thuở. Đấy là vĩ nhân anh hùng Nguyễn Huệ, binh chỉ xuất chinh một trận mà đại phá thiên binh triều Thanh, tru diệt quân ngông cuồng, giữ vững giang sơn, từ đây chấm dứt vĩnh viễn họa giặc Bắc, đưa dân tộc vững vàng vào thời tự chủ mới.
Tuyệt vời của Tổ Tiên ta ngày ấy, là ở chỗ : chẳng phải Đại Đế Quang Trung cầm quân chiến với Tiến sĩ văn học Tổng Đốc Nguyên Soái Tôn Sĩ Nghị thần tử của Triều Đại Thanh, mà chính là cuộc đấu trí đấu võ khốc liệt giữa hùng tài Đại Thanh Hoàng Đế Càn Long chiến với anh hùng thánh võ Nguyễn Huệ ! Cuộc đấu có một không hai này trong lịch sử hai nước Việt Hoa chỉ diễn ra có một lần duy nhất, Bắc sử
ghi trong Đại Thanh Thực Lục, Nam Sử gần như hoàn toàn chẳng ghi lại chút nào !
Vì sao ? Hậu sinh không được biết ! Hậu sinh chỉ làm công việc âm thầm đi theo hai hùng tài, một già một trẻ, một Nam một Bắc, quan sát trí tuệ của hai bên, một Nam một Bắc, một già một trẻ, và ghi lại thành truyện Sử .
Hùng liệt cứu nước đại thành, nhưng trời chẳng chiều lòng chủng tộc Việt ! Đại hùng tài Thánh Võ Quang Trung yểu mệnh, giấc mộng lớn đề binh lên tận Bắc Kinh trừng phạt, đòi lại đất cũ lưỡng Quảng, tuyệt diệt vĩnh viễn họa Bắc xâm thế là thành mây khói, để lại tiếc thương không cùng cho Dân Tộc và Lịch Sử Việt Nam !
Để ghi lại sự nghiệp của tổ tiên qua Trận Đánh Cuối Cùng Chấm Dứt Họa Bắc Thuộc, chúng tôi lần theo đường đi cùng hành động của Đấng Nhân Thần Quang Trung Nguyễn Huệ, quan chiêm kỳ sử đại công của Ngài để cùng với dân tộc hôm nay vững niềm tin : giang sơn ta định phận từ sao Xích Quỷ sáng chói nhất trong chòm sao Nam trong Nhị Thập Bát Tú (1), cho nên loạn rồi lại trị, dân tộc ta cùng trời đất chung giòng nguyên khí, chắc chắn sẽ trường tồn cùng trời đất trong cuộc sống con người nhân bản đích thực, tổ quốc ta phải xứng đáng giữa hào quang của một thời đã từng diệt Nguyên Mông cứu cả nhân loại.
Với niềm tin ấy, toàn thể con dân tộc Việt dù ở phương trời nào, trong hoàn cảnh nào, cũng đều nên nghiệm Sử để xác quyết : quá khứ của tổ tiên ta đầy vất vả nhọc nhằn dựng nước rồi giữ nước, trong : diệt nội phản bán nước, ngoài : tận diệt ngoại xâm, vững non sông, bền dân tộc, đời nào cũng có Đấng Nhân Thần xuất hiện để lập thêm trang Quốc Sử Huy Hoàng.
_______________________________________
(1) Nhị thập bát tú : hai mươi tám chòm sao trên trời . Thiên văn cổ của ta (Tầu) chia bầu trời làm 4 phương, mỗi phương có một chòm sao gồm 7 nhóøm được kể như sau : Đông có nhóm Thanh Long (rồng xanh), 7 sao tạo thành là 1- Giác (Giốc) cá sấu, 2- Khương hay Cương (rồng), 3- Chi hay Đê (con cu li), 4- Phòng (thỏ), 5- Tâm (cáo), 6- Vĩ (cọp), 7- Cơ (con báo) ; Tây có nhóm Bạch Hổ (cọp trắng), 7 sao tạo thành là 1- Khuê (con sói), 2- Lâu (con chó), 3- Vị (chim trĩ), 4- Mão (con gà), 5- Tất (con quạ), 6- Chuỷ (con khỉ), 7- Sâm (con vượn) ; Nam có nhóm Chu Tước (chim sẻ đỏ), 7 sao tạo thành là 1-Tỉnh (con cầy), 2- Quỷ (con dê), 3- Liễu (con hoẵng), 4- Tinh (con ngựa), 5- Trương (con nai), 6- Dực (con rắn), 7- Chẩn (con giun đất) ;Bắc có nhóm sao Huyền Vũ (rùa và rắn đen), 7 sao tạo thành nhóm là 1- Đẩu (con cua), 2- Ngưu (con trâu), 3- Nữ (con dơi), 4- Hư (con chuột), 5- Nguy (con chim én), 6- Thất (con heo), 7- Bích (con nhím)
Hoàn cảnh, tình thế đất nước trong ngoài ở vào thời Đại Đế Quang Trung ba trăm năm về trước, có lúc nào lại là hoàn cảnh, tình thế đất nước ta vào một thời Lịch Sử nào không ? Có quan điểm : Lịch Sử không bao giờ lặp lại, cũng lại có quan điểm : Lịch Sử luôn luôn lặp lại. Có hay không lặp lại của Lịch Sử, thì với những hành động tráng liệt trùm trời đất của Tổ Tiên, cho phép con cháu các Ngài tin chắc rằng : Hồn thiêng của Tổ Tiên cùng với Chính khí của Trời Đất nghìn vạn năm vẫn bàng bạc khắp núi sông nước Việt,những lời răn dạy ở thời xưa nghiệm ở thời nay phải trải qua diễn trình trọn vẹn của Lịch Sử, chỉ khi dân tộc đã nhận chân được Sự Thật tuyệt đối, lúc ấy Hùng liệt mới xuất hiện, đúng như sự xuất hiện của Đại Đế Quang Trung bên thành Thăng Long xưa, khiến giặc nước trong ngoài chỉ một trận đánh năm ngày là dẹp xong, quét sạch nạn nước .
Con dân hậu duệ của Đại Đế kính cẩn ghi lại ở đây và đợi chờ tuyệt đại kỳ công của Ngài nhất định sẽ lại xuất hiện.
Tác giả Vũ Ngọc Đĩnh
2-9-2012
17-7-nhâm thìn
Tôi thấy, tôi hiểu Việt Nam ngày nay (Kiến Nâu)
Huỳnh Tâm Hoài: Giải nhì. Năm Truyện Ngắn trúng giải Văn Thơ Lạc Việt 2010
02 Văn
Bài văn Gã Bất Cần sau đây của tác giả Huỳnh Tâm Hoài là bài được giải Nhì về văn trong Giải Văn Thơ Lạc Việt 2010. Được biết Giải Văn Thơ Lạc Việt khởi đầu từ năm 2008, đến nay đã được 3 năm. Cuộc thi hàng năm gồm có 3 giải chính thức và 2 giải khuyến khích cho mỗi bộ môn thơ và văn nhằm khuyến khích mọi người sang tác để phát huy văn hóa Việt Nam ở hải ngoại.
Chúng tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả bốn phương.
VTLV
GÃ BẤT CẦN
Trước khi làm bản tự khai, tên quản giáo ngồi một chân để thổng, một chân chỏi trên mặt ghế. Hắn ngồi bật ngửa hút thưốc.Vài đám du kích mặt non choẹt mang vũ khí đủ loại đứng vòng ngoài phòng họp của trường trung học. Hắn từ từ đứng lên nói: Tất cả hồ sơ các anh chúng tôi đã nắm. Tội các anh theo Mỹ Ngụy đánh phá cách mạng là tội chết, nhưng nhờ lượng khoan hồng của nhà nước cách mạng các anh được tha và cho tập trung về đây để học tập chánh sách của nhà nước một thời gian ngắn rồi cho về với gia đình, làm công dân tốt của một nước Việt Nam dưới sự lảnh đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa và đảng Việt Nam quang vinh…..Hắn nói tràng giang đại hải như con vẹt, cuối cùng hắn gằn giọng: Các anh phải thật thà khai báo, các không qua mặt được chúng tôi, nhớ đó… Mọi người được cấp hai mảnh giấy trắng làm tờ khai lý lịch.
Trong bản tự khai gã ghi sơ sài tên họ cấp bực, công vụ và địa chỉ tận miền Trung. Tư Cần trong ban quản giáo trại tù đọc tờ khai của gã và bắt gã làm lại có hơn ba lần, lần nào gã cũng khai y như củ. Tư Cần gọi gã lên la lối:
– Anh chưa thành khẩn khai báo. Các anh khác khai đầy đủ còn riêng anh cứ còn dấu diếm. Tội không khai báo thành khẩn là tôi nặng anh biết không? gã thản nhiên trả lời:
– Thưa anh, tôi đã khai đủ.
– Anh không có thân nhân họ hàng?
– Dạ đúng.
– Ai sinh anh ra anh, anh không biết nữa hả!
– Tôi không biết, hồi nhỏ tôi sống trong cô nhi viện nên không biết cha mẹ là ai. Tư Cần ngó anh luờm lườm và hỏi gằn:
– Còn hoạt động đánh phá cách mạng anh ghi có bao nhiêu, đâu đủ!
Gã nhỏ nhẹ:
– Dạ đủ lắm rồi cán bộ. Cán bộ không tin cứ coi lại hồ sơ mà cán bộ có….
Tư Cần bực tức, nhưng không biết phải làm gì với gã. Tư Cần đưa gã miếng giấy trắng khác và nói: Anh về khai lại cho đủ hơn, chưa thành khẩn…anh hiểu chưa???.Gã mang giấy về và vẫn khai y như củ. Tư Cần ra lệnh nhốt gã vào phòng tối hai tuần. Hôm tên du kích mở cửa phòng giam đặc biệt, tống anh về lại phòng, người anh xanh xao và hôi thúi. Mọi người dìu anh về chỗ nằm. Anh em trong phòng bịt mũi vì chịu không nổi mùi hôi thúi bốc ra từ cơ thể của anh. Suốt hai tuần ở trong phòng tối gã ăn, ỉa tại chổ. Với mỗi ngày một lon nước trong phòng tối om làm gì để có cái sạch sẽ. Hồi ở ngoài phòng anh cũng là chúa nhát tắm gội rồi. Thế là vài ba anh đề nghị góp nước và lót miếng nylon ra giữa phòng, mời kéo gã ngồi vào để lau chùi, kỳ cọ cho gã hết mùi hôi. Gần ba tháng trong phòng giam ai ai cũng có người thân gởi đồ ăn vào bằng cách nầy hay cách khác, riêng gã thì không thấy ai gởi. Anh em hỏi gã thì gã cười mĩm nói: Tôi con bà phước làm gì có ai gởi. Gã ít khi quan đến sinh hoạt trong phòng, ai kêu làm gì thì làm không thì nằm phì phà hút thuốc một mình, không tâm sự với ai, ai hỏi gã điều gì thì gã nói cái kiểu trớt quớt không đâu vào đâu. Ngày tháng bị giam tù không biết rồi sẽ ra sao? Mọi người buồn bã ra mặt, riêng gã thì không ai đoán được gã có buồn hay không. Gã sống lè phè với cơm phát, nước đong. Anh em thấy vậy nên chia sẻ với gã khi có đồ ăn gởi vào. Gã không bao giờ từ chối món gì cả. Ai cho cái gì thì ăn cái đó, ăn không hết thì dồn hết vào lon Guigoz để dành ăn từ từ. Anh em thương gã vì biết gã chẵng có ai thăm nuôi, nhưng tin vào lời khai của gã thì chắc không ai tin, hoặc có tin cũng ở một giới hạng nào đó. Riêng về ban quản giáo thì thôi hạch hỏi gã từ khi gã từ hầm tối ra. Chắc họ có điều tra, nhưng không moi được gì thêm. Hồ sơ quân bạ ở tỉnh Chương Thiện bị đốt hết. Họ cứ dằn mặt: Các anh phải khai thật thà, hồ sơ của các anh chúng tôi nắm hết cả, đừng hòng khai gian! Thế nhưng cho đến khi chuyển trại lên Cần Thơ, mặc dù cũng qua nhiều lần làm lại tờ tự khai, gã cũng chỉ viết có bấy nhiêu mà chẵng thấy họ hạch hỏi gì thêm.
Cũng như còn ở trại giam tỉnh, ở đây gã cũng lè phè, lếch thết. Mọi người được vợ con tiếp tế thăm nuôi, còn gã thì vẫn mồ côi như củ. Gã tự đi “Cải hoạt” với cái bẩy chuột tự sáng chế. Đó là chiếc cần bằng tre với sợi dây nhợ. Gã đánh bắt chuột cống trong trại, vì là chuột chui nhủi trong các hang dơ dái nên lông lá bị rụng, da trầy trụi lỡ lói. Khi bắt được con nào gã cắt đầu, lột da, bỏ bộ ruột, đem nướng hoặc kho mặn. Anh em thấy gã ăn mà thương hại và thường có ý ngăn cản vì sợ gã bị bệnh. Mọi người chia phần ăn cho gã và khuyên gã nên ngưng ăn chuột, nhưng gã vẫn tiếp tục bẩy chuột. Nhiều đêm cái bẩy sập đưa cần không? Gã tức lắm và cho là có người nào đó ăn chận, bắt lén. Để phát giác khi bẩy sập. Gã cột thêm mấy miếng nhôm để khi bẩy được chuột, chuột giẩy dụa sẽ kêu leng keng. Có hôm vừa mỗ bụng chuột xong, gã cười khà khà: Ê bắt được chuột có chửa, ăn chuột hà nàm bổ lắm. Gã lôi ra từng con chuột con trong bọc bỏ vào miệng ăn ngon lành, mấy anh bạn trong phòng bụm miệng, nôn ói. Chẵng ai cản được gã nên cứ để gã tùy tiện. Anh em đồn đại: Tay nầy đúng là một tên khật khùng…! Cán bộ trại gọi gã lên hỏi:
– Chúng tôi lo cho các anh thức ăn đầy đủ, sao anh lại ăn chuột dơ bẩn như thế?
Gã cười cười trả lời:
– Thưa cán bộ thêm thịt…
– Thế chúng tôi cung cấp không có thịt cho anh à?
– Dạ không có.
– Cá nục…rau cãi, nước mắm đấy.
– Dạ thịt cá đâu phải thịt heo.
– Anh còn muốn ăn thịt heo… tư sản nhỉ?
– Dạ ăn để sống mà cán bộ.
– Thế chúng tôi có để cho các anh chết à….?
Gã cúi đầu ngưng nói. Tên cán bộ tức khí:
– Thôi anh về đi…cấm không cho anh bắt chuột. Gã làm thinh quay đầu đi
ra khỏi phòng.
Gã cùng đoàn quân xuôi Nam vào tuốt tận vùng sâu rừng U Minh, nơi mật khu củ của mặt trận trá hình “Mặt trận giải phóng miền Nam” dựng trại, phát hoang làm ruộng. Gã lè phè như bè trôi sông. Hồi mới tới U Minh mỗi tốp 10 người ngủ trong lều nilon, có đêm gió tốc mạnh mọi người thức dậy lo tu sửa căng lều lại. Gã vẩn nằm yên ngủ ngáy kho kho. Anh em cằn nhằn quá. Gã phân trần:
– Ngủ quên mà, sao không kêu tui.
Ít lâu sau gã xin được một miếng nilon nhỏ che đủ một bên gần kế lều chung, để khi mưa gió khỏi lo anh em cầu nhầu. Có hôm mọi người thấy gã ngủ với nửa người ướt nhem vì miếng vải che bị tróc một phần. Mặc kệ! Gã ngủ với cơn ngáy đều đều!!!
Trong lao động hằng ngày hể gã đi chung với nhóm nào là các bạn trong nhóm nhăn mặt cười. Thế nào cũng phải gánh thêm để cho xong việc. Gã làm từ từ, đôi lúc nửa chừng than mệt, lên bờ ngồi vấn thuốc rê hút thở phì phèo. Anh em biết gã như vậy nên riết rồi cũng để mặc gã làm gì thì làm. Ai phàn nàn, nặng nhẹ, gã cười trừ: Làm gì mà dữ vậy ông? Gã luôn từ tốn, hề hà không giận ai cho dù có bị nặng nhẹ, nên chẵng ai ghét gã được…?
Công việc đi vào rừng sâu chặt cây và bè về để dựng trại thì được phân theo đầu người. Mỗi người mang về ba cây đước hoặc cây vẹt. Mỗi nhóm 10 người của ai nấy lo. Cây đốn xong dùng giây chạy cột lại và thả xuống lạch nước kéo về. Anh em đốn cây theo tiêu chuẩn, cây to, dài suông thỏng, còn gã thì chả cần miển có ba cây là được. Gã thả rề rề dưới nước và luôn luôn là người về rất trể. Có hôm anh em trong nhóm phải quay lại kéo phụ với gã về chổ tập trung. Có một lần vì không bó chặt, lúc kéo về bó cây bị sút ra, gã rị mọ cột lại, nhưng vì nước lớn cây trôi theo dòng chảy. Gã giử cây nầy thì cây khác bị trôi đi, phần vì không biết lội nên cứ loay quay mãi mà không gom được cây để cột lại. Một chị bơi chiếc ghe tam bản ghé lại và giúp gã thu gom. Chi kêu gã lên xuồng ngồi, be bó cây vào xuồng, chèo về hướng trại. Bàn tay gã bị xướt, máu chảy ướt đẫm, gã xé một bên áo cột rịt vết thương. Khi xuồng vào đến khúc kinh nhỏ gần khu vực trại. Chị bơi tấp xuồng vào bờ ra hiệu cho gã xuống xuồng. Chị nói: Em giúp anh tới đây thôi, em không được phép vào khu vực trại. Chị bảo: chờ em một chú, em đem đồ ra băng bó vết thương cho anh. Chị chống sào giử xuồng, lên bờ đi vào cái chòi lá mang ra một nhúm gòn, chai thuốc sát trùng và miếng băng vãi. Chị kêu gã đưa bàn tay bị thương ra. Chị dùng bông gòn thấm thuốc sát trùng chổ bị trầy, bôi vào một chút thuốc đỏ và băng bó vết thương cho gã. Chị làm công việc rất thuần thạo. Gã đoán chắc bà nầy làm y tá. Gã muốn hỏi nhưng thôi. Gã lại lí nhí nói cám ơn và lội xuống nước kéo bè gổ về điễm tập trung. Hôm nay gã là người về sớm hơn mấy người bạn, ai cũng hỏi: Sao hôm nay tài quá vậy? Gã cười mĩm không trả lời.
Thời gian cứ trôi qua với những ngày những tháng tù đày nơi rừng U Minh. Lao động cực nhọc với mưa nắng, muỗi, vắt, tuy nhiên ăn uống ở đây được tạm đủ nhờ rau hoang và bầy cá bạc ngàn đổ ra từ phía rừng sâu khi mùa mưa tràn đồng lênh láng. Hồi mới xuống đây vào đầu tháng tư, cơn mưa mới rỉ rả. Bây giờ cơn mưa đã tạnh, các láng trại được thành hình, mùa lúa gặt đã xong. Nông trường 30 tháng tư được thành lập.Tin tức chuyển trại đi nơi khác được anh em rỉ tay nhau…đi đâu…về đâu…??? Lại có tin đồn lần nầy trại sẽ thả một số người…Ai đây…???.Mọi đồn đại rồi cũng đi qua. Một hôm gã được gọi lên C với vài anh bạn khác. C trưởng cho hay toán nầy được cho về đoàn tụ với gia đình. Anh em trong nhóm ai cũng vui mừng, còn gã thì tỉnh bơ và nói với C trưởng:
– Cho tôi ở lại được không cán bộ…?
– Không được, có lệnh là phải rời trại.
Gã làm thinh với mặt buồn buồn lầm lủi về láng. Anh em trong nhóm ngạc nhiên hỏi:
– Ai cũng muốn về…còn mầy…điên hả!!! Gã cười méo mó và im lặng vấn
thuốc hút…Đó là cuối năm 1980.
Ngày được thả về, tất cả nhóm hơn 12 người lên phòng họp của trại để làm lễ và lãnh giấy lệnh rời trại. Tất cả mọi người ai cũng được thông báo cho thân nhân vợ con vào ký giấy bảo lãnh nhận chồng về. Chỉ trừ anh chẵng có ai. Ban chỉ huy trại hỏi anh, anh nói: Xin cho tôi ở lại nông trường, tôi không còn ai là thân nhân. Cuối cùng ban chỉ huy trại cấp cho gã một công rừng ngoài nông trường gần phía trạm xá. Khi được cán bộ trại chỉ cho gã miếng đất được cấp, gã nhìn cái chòi lá mà trước đây chị y tá băng vết thương ở tay, chỉ cách độ một vuông đất. Chuyện gã xin ở lại lan truyền khắp nông trường. Mọi người cho gã là thằng khật khùng mới chọn ở lại cái nơi cùn khốn nầy. Nhưng người vui nhất khi nghe tin gã ở lại là Lượm.
Buổi sáng Lượm đứng trước cửa trạm xá nhìn mấy chiếc võ lãi chở mấy gia đình được cho về chạy ngang trước con rạch. Nàng nghĩ nếu gã mà có trong chuyến về nầy thì chắc nàng buồn lắm. Một cãm giác nôn nao truyền khắp cơ thể khiến Lượm mơ màng một đều gì đó không rỏ…. Lượm nghĩ trong những ngày sắp tới nàng sẽ còn được gặp gã.
Cuộc đời nàng rất hẫm hiu đau buồn, từ nhỏ tới giờ có khi nào nàng được cái cãm giác như bây giờ đâu. Mới 10 tuổi nàng đã mồ côi mồ cút vì ba má chết trong trận chiến Mậu Thân. Mười lăm tuổi đã vào đội giao liên. Nàng được nhào nặn hận thù Mỹ, Ngụy, học tập chiến đấu hy sinh theo các gương anh hùng mà nàng chỉ nghe thôi chớ chưa thấy tận mặt. Từ ngày vào đội giao liên tới giờ cứ luồn lách, chốn trui chốn nhủi khi lính đi càn. Nàng chỉ nghe báo cáo thành tích diệt địch, nhưng chưa bao giờ tham gia trận đánh nào.Trình độ thì chỉ nhá nhem đủ để có thể đọc được các chỉ thị công tác. Một hôm trên đường đi công tác với một anh bạn. Lính càn nhiều quá, hai đứa chém vè ở một cái hầm chìm dưới đám dứa gai. Cái hầm chật nứt hai đứa phải áp sát nhau suốt buổi. Hơi nóng hai cơ thể cứ như rang rang truyền vào nhau. Có lúc hình như thằng bạn để tay vào ngực áo đang bật khuy gần hết. Lượm vờ như không biết nhưng thấy rộn rả một thứ gì đó rất mơ hồ, cổ họng nàng như khô, nước miếng chực chờ chảy ra. Nàng nuốt một cái ực vào. Thằng bạn thấy nàng để yên nên làm tới. Nó đưa tay luồng xuống thấp và thấp hơn. Không biết tại sao nàng vẩn để yên cho nó làm gì thì làm. Buổi tối hôm đó khi vừa ra khỏi miệng hầm thì nó đè bật Lượm ra trên miệng hầm…Nàng nằm im, một lúc Lượm nghe gió thỗi lạnh khắp người, nàng ôm riết nó sát hơn…nàng tê dại và cãm thấy đau nhói như có một cây gai nhọn vừa đâm vào phía dưới…Tối hôm đó du kích xã phải đốt rọi đi tìm. Hai đứa rón rén về chòi canh. Mỗi đứa nằm một gốc ngủ say.
Vài tháng sau, cũng trong chuyến công tác giao liên. Khi lính bố ráp. Lượm nhanh chân trốn được dưới hầm trú, nhưng thằng bạn bị bắn phơi thân ngoài đám dứa gai. Thấy cái xác bị bắn lòi ruột Lượm trừng trừng nhìn nó rồi bật khóc. Những ngày tháng sau đó Lượm ăn nằm hết với chủ tịch xả, tới xả đội trưởng. Hình như họ biết Lượm ăn nằm với thằng bạn du kích hôm đó. Họ tạo điều kiện đề gần nàng. Hình như nàng cũng hực nóng khi nghĩ tới chuyện làm tình. Nàng sẳn sàng nằm ra khi có cơ hội. Thật ra mấy anh ở trên cứ tạo cơ hội để được ngủ với Lượm. Các anh nói: Ủng hộ sinh lý cho các anh cũng là một công tác. Lượm tin như vậy, cho nên chuyện ăn nằm với mọi người là chuyện giống như thi hành nhiệm vụ. Sự ăn nằm quen dần cho đến nổi Lượm không biết cái thai chình ình càng nở to ra của nàng tác giả là ai. Lượm có bầu thì bị lôi ra xử lý. Chính anh Tư Hồng chủ tịch xã đã ngủ với Lượm không biết bao lần. Anh gay gắt phê phán trước buổi họp kiễm điễm nàng: Đồng chí đã làm mất tư cách một cán bộ cách mạng. Anh nhấn mạnh: Phụ nử cách mạng luôn trong sạch để làm gương cho chị em trong đoàn ngủ, chưa có gia đình mà để có bầu là vi phạm điều lệ… Vợ của Tư Hồng là chủ tịch hội phụ nử cách mạng, sau khi kiễm điễm gay gắt chuyện nàng có bầu và cuối cùng chị đề nghị thuyên chuyển Lượm sang cơ quan y tế khi sinh nở xong. Sau nầy Lượm biết được là bà vợ của Tư Hồng nghe phong phanh chuyện anh có ăn nằm với Lượm nên nhân cơ hội nầy đẩy Lượm đi xa. Còn Tư Hồng thì thở ra nhẹ nhõm.
Lượm bị sẩy thai trong một chuyến đi công tác. Nàng được nằm tại bệnh xá huyện và chuyển đi học y tá vài tháng thì ngày ba mươi tháng tư đến.
Chuyện gần đàn ông của Lượm như một đòi hỏi của cơ thể chứ không có một chút tình cãm gì ở trong đó. Ăn nằm xong thì nàng lồm cồm ngồi dậy mặc quần áo và mạnh ai nấy đi. Cho tới khi gặp được gã. Một người tù cãi tạo lầm lì, hiền hậu, ăn nói từ tốn. Khi gặp nàng gã dững dưng chẵng nhìn nàng như mấy lão ở trong nầy, khiến nàng cứ muốn lấn tới với gã trong nỗi xuyến xao kỳ lạ. Lượm thường đứng nhìn gã kéo gổ dưới lạch nước trước trạm xá với cái vẻ cô độc kham khổ thấy mà thương. Nàng tìm hiểu và biết gã chẵng có ai thăm nuôi. Nàng đoán chắc gã chưa vợ con nên đâm lòng yêu thầm.
Khi cái chòi lá của gã khởi công thì mọi người trong trại phụ dựng nhà cho gã, chỉ trong hai ngày là xong. Miếng đất được nông trường cấp cho gã một công gần khu trạm xá cho nên Lượm có nhiều cơ hội đến giúp gã nhiều việc. Ngày tháng trôi qua, khi thì nàng mang cho gã một vài món ăn, vá cho gã manh áo rách…nhưng chưa bao giờ nàng nói được cái đều nàng nghĩ trong đầu. Lượm nói thầm: Đàn ông gì mà kỳ lạ…mình muốn ảnh mà ảnh …cứ lơ lơ chẵng để ý gì hết ráo…
Một buổi tối, Lượm nhìn qua kẽ hở của chòi tắm, thấy phía nhà gã chưa thắp đèn. Nàng quơ bộ quần áo mặc vào và thắc mắc: Cái anh nầy đi đâu, tối mò mà chưa zdìa để nhà tối om. Trạm xá cách nhà gã một vuông ruộng nhỏ cho nên nàng hay châm chú theo dõi sinh hoạt đi đứng của gã hằng ngày. Có hôm thấy gã ở trần trùn trụt phơi cái lưng vạm vở với màu da trắng muốt. Nàng thấy nôn nao một ham muốn dâng tràn, toàn thân nàng nóng rang. Luợm ước gì được nằm sát với gã. Khi ấy nàng nhắm mắt mơ màng nghĩ đến một một dòng ái ân tràn ngập trong đầu… Lượm quyết định sang nhà gã xem gã có ở nhà không? Trời mới nhá nhem tối nhưng Lượm cũng cầm theo cây đèn pin. Bước ra khỏi trạm xá, cơn gió chiều hôm thổi lùa, nàng nghe lành lạnh ở vùng ngực. Lượm chợt nhớ ra mình quên mặc áo lót. Nàng đưa đôi tay bắt chéo trước ngực khi đứng trước cửa nhà gã. Nhà tróng trơn không có cửa trước. Nàng nhìn suốt vào nhưng chẵng thấy ai bên trong. Lượm đi vòng ra phía sau, thì bất chợt nhìn thấy gả vừa mới ở dưới mương nước bước lên.Toàn thân trần truồng. Một bóng trắng chập chờn trước mắt. Nàng vội trở ra phía trước gọi: Anh ơi có nhà không, sao nhà tối om zdậy? Gã nghe nàng gọi thì vội đi ngay vào nhà lấy bộ đồ bà ba đen mặc vào và nói vói ra: Có tôi…chờ chút nha ? vừa nói gã vừa mò tìm cái ống quẹt mồi cây đèn. Căn nhà sáng lên. Lượm đứng ngay khung cửa. Ánh sáng làm lộ thân hình người con gái với bộ đồ bông hường nhô cao đôi vòng ngực. Gã tằn hắn:
– Có gì hong cô Lượm.
– Thấy nhà tối em tưởng anh không có nhà nên đi qua coi thử anh zdìa chưa?
– Tôi tắm ở dưới mương nước phía sau nhà.
Nàng vờ như không biết gì và nói: zdậy mà em tưởng anh đi đâu? Nàng bước hẳn vào bên trong. Nhà tróng trơn chưa có bàn ghế gì ráo. Gã nói: Cô ngồi lên gường đở. Lượm ngồi lên mép gường nhìn quanh quất căn nhà rồi nói: Mai em đi chợ mua đồ cho trạm, chắc em mua cho anh một ít đồ xài, anh cần món gì cho em biết. Gã đứng xớ rớ một gốc nhà nói: Chưa biết cần gì nửa cô ơi?. Lượm dượm người đứng lên bước vài bước, rồi nhìn trước, ngó sau xem có gì mua được cho gã đây? Nàng chột dạ nói trong lòng: Nhà thiếu đàn bà có khác và cãm thương cho gả một cách chân thành. Lượm hỏi:
– Anh ở như vầy…hỏng ai lo cho anh hết.
– Tui quen rồi cô.
– Em muốn lo cho anh…lo hoài hoài được hôn?
Gã xua tay:
– Không được đâu. Cô là cán bộ, tôi là tên tù mới được thả ra…nếu người ta biết cô lui tới như thế nầy có hại cho tui. Tui cám ơn sự lo lắng và sự giúp đở của của cô.
Lượm trân trân nhìn gã và nói:
– Anh…! em thương anh mà. Không ai có quyền cản ngăn em hết á! Em là một người con gái…không là cán bộ gì ráo, em chán cái luận điệu của mấy ông trong bưng nầy lắm rồi. Thời gian qua nhìn các anh sinh hoạt mọi người ở vùng nầy đều biết các anh là ai…là những người tử tế chứ không như những điều bôi xấu mà em và các người ở đây nghe về các anh… Dường như có một cơn sục sôi bùng cháy trong lòng. Lượm bước tới ôm chầm lấy gã và nói: Em thương anh!. Mùi thơm bồ kết từ mái tóc mới gội của nàng cộng lại với sự cọ sát vòng ngực nóng ran làm gã boàng hoàng lo sợ hơn là cãm xúc… gã vội tỉnh trí đưa hai tay lên hai vai nàng đẩy nhẹ ra và nói: Không được đâu…cô về đi…! Không được đâu….! Bỏ Lượm đứng khóc trong nhà, gã chạy ra phía sau … Cánh đồng mênh mông loáng nước trước mặt gã đã tối sầm. Gã khom lưng vóc một bụm nước úp vào mặt.
Vào một buổi trưa ngày.. tháng …năm 1984 một chiếc võ lãi chở một thiếu phụ sang trọng và hai người con tấp vô trạm xá. Người tài công bước lên hỏi Lượm nhà của anh T…. ở đâu? Lượm nhìn xuống chiếc võ lãi, lòng tự hỏi: Ai zdậy kìa???
Khi chiếc võ lãi tấp vô nhà của gã. Lượm ra đứng ngoài sân bệnh xá nhìn sang đấy, thấy gả chạy ra ôm chầm lấy người thiếu phụ, còn hai đứa nhỏ thì kêu ba ơi ba…! Gã quay sang ôm hai đứa nhỏ hôn lấy hôn để… Tất cả gia đình gã di tản sang sống ở Mỷ. Sau khi liên lạc được với những người bạn còn ở Sài Gòn có chồng bị tù ở vùng U Minh. Vợ gã biết gã còn ở Năm Căn. Chị xuống Cà Mau dò la tin tức và biết gã đang ở nông trường Thống Nhất. Hôm nay chị mướn chiếc võ lãi vào rước gã về. Lượm đứng như trời trồng và ôm mặt khóc: Trời ơi! vợ con của ảnh!!!!!
Chiều đó chiếc võ lãi quay mủi chạy ra khỏi nông trường, đi ngang trạm xá. Gã nhìn vào một lúc rồi vội quay mặt về phía vợ nói: Anh có nhiều kỷ niệm với cái trạm xá nầy. Người thiếu phụ nói: Vậy hả…? Chiếc võ lãi chạy khuất ra vàm kinh lớn. Tiếng bành bạch của chiếc máy đuôi tôm dội trong Lượm nỗi đau xót tận cùng buồn bã. Anh đi thật rồi! Em mất anh thật rồi…!Nàng đứng khóc một mình trong buổi chiều U Minh lặng lẻ.
Bẵng đi một thời gian rất lâu. Lúc nầy Lượm làm y tá cho một bệnh xá ở huyện…Một hôm nàng nhận được một món quà từ bưu điện. Đó là một sợi dây chuyền bằng vàng với hai trái tim kề nhau, kèm thêm có bức thư của gã bất cần năm nào gởi từ Mỹ về.
Cali..ngày… tháng….năm……
Lượm thương mến,
Tôi hiểu rỏ tấm lòng của em dành cho tôi và luôn ghi nhớ những sự giúp đở của em trong những ngày tháng ở rừng. Chiếc võ lãi chở vợ con của tôi vào ngày hôm đó cũng là một bất ngờ cho tôi. Trong cơn biến động trước ngày 30 tháng tư năm 1975. Gia đình tôi lo di tản trước đó vài ngày.Vợ tôi từ Sài Gòn xuống Chương Thiện ngày 28 tháng tư để đón tôi về cùng di tản ra hạm đội Mỹ, nhưng không gặp được tôi. Mọi người trong gia đình tôi đã ra đi trong lúc chúng tôi được lệnh tử thủ của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Chúng tôi đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng…và rồi những gì em biết sau đó. Chúng tôi đành thua trận. Người anh đầu đàn của chúng tôi hiên ngang gục chết trước pháp trường. Tôi mất liên lạc với gia đình và không biết họ về đâu trong cơn biến động đau đớn đó. Tôi đành chịu số phận chung cuộc của những người bại trận. Chúng tôi hèn nhát hơn vị Đại tá của chúng tôi! Chúng tôi buông súng, nạp mình cho kẻ chiến thắng là phía của em. Tôi phó đời trong bất cần số phận…và cuối cùng tôi gặp lại vợ con trong bất ngờ như chiêm bao. Tôi cám ơn ơn trên đã cho tôi hồi sinh được cuộc sống và xin cám ơn em đã tân tụy giúp tôi trong cơn khốn cùng đã qua. Tôi nhận biết rằng: Từ trong trái tim yêu thương chân thành thì không có lòng thù hận. Xin gởi em món quà từ đất Mỹ. Mong em vui lòng nhận cho, trong đó có tấm lòng của tôi.
Thương mến,
Lê văn T…
Riêng Lượm từ hôm nhận được quà và thư của gã nàng khóc thật nhiều. Sau đó nàng rời bỏ bệnh xá. Người ta không biết nàng đi đâu…?
Huỳnh Tâm Hoài
Bút hiệu: Huỳnh Tâm Hoài tên thật là Huỳnh văn Luận
Sinh năm 1943 tại Làng Long Hiệp, tỉnh Trà Vinh
Là hội viên của nhóm Chim Việt văn đoàn trước năm 1975.
Hiện sinh sống tại Sacramento Tiểu bang California
Nhà Văn Hà Mai Việt ra mắt tác phẩm tại hội trường Franklin Mc-Kenley District
Kính thưa quí vị. Việt Nam thực ra luôn luôn vẫn là cội nguồn cuộc chiến, vì đất nước chúng ta có một bờ biển quá dài là cửa ngõ đi vào vùng Đông Dương và là nút chặn nhà anh láng giềng Hán tộc xâm lược, cho nên từ thời lập quốc tới nay Việt Nam vẫn là cái ngòi nổ của cội nguồn cuộc chiến.Tuy nhiên, cái bệnh lớn nhất của người VN là mạnh ai người nấy thích làm lãnh đạo, tự tạo quá nhiều phe nhóm, đấu tranh rời rạc không có sự liên kết và liên tục, chẳng khác nào như từng chiếc đũa, CS hoặc đồng minh muốn bẻ lúc nào cũng được. Cũng có vị muốn là thái thượng hoàng trong cuộc đấu tranh quốc cộng tại hải ngoại. và chúng ta bị lạm phát lãnh đạo do đó Việt Nam vẫn luôn là cội nguồn của cuộc chiến ngay tại hải ngoại.
Quí vị hãy nhìn vào cuộc bầu cử tại San Jose của chúng ta mấy ngày nay sẽ hiểu tôi muốn nói gì… Chúng ta chưa đoàn kết để giữ một lá phiếu quan trọng có khả năng làm chính phủ bản xứ phải kiêng nể và giúp chúng ta thắng kẻ địch, mặc dù chúng ta chắc chắn hiểu rằng chúng ta có một sức mạnh mềm vô song đối với nội thù tại quốc nội đó là kinh tế và chính trị dựa vào khả năng cá tính ưu việt học hỏi, nhưng Người Việt Hải Ngoại đã gián tiếp trao cho Cộng Sản sức mạnh mền này với mỗi năm 10 tỷ đô để Cộng Sản vừa được ăn, vừa được chê chúng ta là "NGỤY" chống cộng theo kiểu dưa món. Vẫn áo gấm về làng nổ sảng như vài vị thích ăn cỏ non thì khó có thể có ngày khải hoàn vinh dự như chúng ta mong muốn.
Kính thưa quí vị, gần 40 năm xa sứ chúng ta đã học hỏi được gì hầu chiến thắng VN cộng sản ? Tôi xin quí vị hãy bỏ đi dị biệt và đoàn kết hậu thuẫn cho quốc nội bằng truyền thông báo chí, biểu tình đông đảo để đánh động lương tâm người bản sứ hầu trong quốc nội có tin tưởng hậu thuẫn, hy vọng đấu tranh. Nếu người Việt trong và ngoài nước làm được một hội diên hồng của thế kỷ 21, Việt Nam sẽ sớm thoát khỏi ách thống trị Cộng Sản và chống được ngoại xâm.Việt Nam cội nguồn cuộc chiến sẽ không còn nếu chúng ta thành lập được một nước Việt Nam trong một nước tự do mà chúng ta đang sống nhờ để dùng sức mạnh mềm hầu có thể xoay chuyển cội nguồn của cuộc chiến đang sảy ra cho dân tộc ta.
Thưa quí vị, Cộng Sản và đồng minh đều sợ người Việt Hải ngoại đoàn kết và hiểu biết được sức mạnh mềm kinh tế và chính trị bằng lá phiếu, để dùng lá phiếu như một vũ khí đấu tranh được hổ trợ bằng kinh tế, chính trị.
Một câu hỏi tôi muốn đặt ra với quí vị: Trong tình thế hiện tại trên biển đông, người Việt hải ngoại nên làm gì để cứu nước và giữ nước ?
Xin kính chào quí vị. Kính chúc quí vị luôn tâm an bình để trọn người ứng cử xứng đáng, bầu họ đúng vào vị trí chúng ta mong muốn hầu có Việt Nam cội nguồn của hoà bình hạnh phúc..
Chinh Nguyên


Nhìn thơ Xuân Trên Mạng (Duy Văn)
NHÌN THƠ XUÂN TRÊN MẠNG
Rà một vòng trên nét (net)
Thấy mọi người làm thơ
Chúc nhau nhiều khía cạnh
Mình cũng hăm hở chờ
Có ai hoài thương xót
Tặng mình một bài thơ
Chắc mình mừng vui lắm
Đọc mãi chẳng ơ hờ
Nhưng hai tuần trôi qua
Không ai gõ cửa nhà
E mail mình trống rỗng
Buồn quá sá quà sa
Mãi đến tuần thứ ba
Có một bài thơ lạ
Với ngôn ngữ văn hoa
Lời chúc xuân trìu mến
Nói rằng xuân Trâu đến
Mang viễn tưởng nhọc nhằn
Sự cày bừa vất vả
Đời cơ cực quanh năm
Nên chúc ông Duy Văn
Cuộc sống bớt lăng nhăng
Mùa Xuân này yên ấm
Như trâu ăn rồi nằm
Tác giả của bài thơ
Còn nhã ý mộng mơ
Muốn cùng Văn kết hợp
Cho thỏa nỗi mong chờ
Xin trả lời cùng ai?
Văn cũng muốn mê say
Trong “vũng đời” tình cảm
Nhưng vì sợ đêm dài
Nên Xuân Trâu năm nay
Thật tình Văn chưa nghĩ
Vì còn phải đi cày
Xin hẹn người tương lai.
Ngọc Huyền: Giải ba. Năm Truyện Ngắn trúng giải Văn Thơ Lạc Việt 2010
03-Văn
Bài văn Nón Quai Thao sau đây của tác giả Ngọc Huyền là bài được giải Ba về Văn trong Giải Văn Thơ Lạc Việt 2010. Được biết Giải Văn Thơ Lạc Việt khởi đầu từ năm 2008, đến nay đã được 3 năm. Cuộc thi hàng năm gồm có 3 giải chính thức và 2 giải khuyến khích cho mỗi bộ môn thơ và văn nhằm khuyến khích mọi người sang tác để phát huy văn hóa Việt Nam ở hải ngoại.
Chúng tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả bốn phương.
VTLV
Nón Quai Thao.
Ngày giỗ bố mẹ lần thứ mười nhưng cũng giống như lần đầu tiên, tôi dạy sớm lo lau chùi bàn thờ để trưng bày thức ăn chay cùng hoa quả. Cái gì ban đầu cũng tạo cảm giác thật phấn chấn như ngày đầu đến thăm nhà mới của bố mẹ mới dọn về. Tôi sắp trái cây ngũ quả lên bàn thờ, đâu phải chờ tết mới có ngũ quả mẹ nhỉ, lúc nào trong nhà của bố mẹ cũng có trái cây tươi, hoa lys thơm mới hái còn đọng sương, nhang có mùi trầm mà mẹ thường thích, ly nước trà xanh bố vẫn nhâm nhi; Vừa lau tôi vừa như đang hàn huyên với mẹ. Nhà mẹ có đủ rộng cho mẹ ở không? Có đủ chỗ cho mẹ ngồi đong đưa mỗi chiều ngắm hoa thơm sau vườn không? Có các bạn láng giềng tốt bụng cho mẹ nhờ vả khi gặp khó khăn không? Hay chỉ riêng 1 mình bố mẹ lẻ loi mới dọn tới? khu mẹ ở có gần nơi sầm uất như ý mẹ muốn khi còn sống không hả mẹ? Trên tường bên cạnh bàn thờ bố mẹ, tôi vẫn treo nón quai thao mà đã được sơn phết lại cho đẹp, dù sao đó cũng là kỷ niệm của mẹ con tôi!! …Tôi miên man nhớ…..
Hồi chúng tôi còn ở Việt Nam, mỗi lần đi chợ vào ngày thứ bảy, năm chị em gái chúng tôi đều được mẹ cho đi tháp tùng chợ vải Tạ Thu Thâu ở Saigon để chọn những mẫu vải mình thích mặc. Tôi là đứa con gái út, chưa đến 10 tuổi nên tất cả tùy ý mẹ và các chị. Nói là cho đi chọn vải nhưng thực ra mẹ muốn đưa chúng tôi đi chung cho gần gũi mẹ, nhân tiện mẹ dạy chúng tôi cách chọn vải, chọn màu cho hợp với từng lứa tuổi để lỡ sau này không còn mẹ nữa thì chúng tôi biết cách ăn mặc và có mắt mỹ thuật với người ta!! Mẹ không ngừng giải thích cho chúng tôi biết đời sống lao động khổ sở như thế nào để có được đồng tiền, miếng cơm manh áo nên phải biết quý trọng những gì mình đang có, không được phung phí, và bên cạnh đó phải biết chia xẻ cho những người không bằng mình. Chúng tôi quấn quít bao quanh mẹ, nghe mẹ giải thích như kể chuyện cổ tích, các chị tôi còn cho thêm ý kiến với mẹ, nhưng tôi còn quá nhỏ để đóng góp nên chỉ biết thu thập mà thôi, bất chợt có tiếng quen thuộc gọi to sau lưng:
Huệ Dung! Bà đưa cả gia đình ngũ long công chúa ra mua hết vải của Tạ Thu Thâu đấy à! Vào đây, tôi để đặc biệt cho, muốn lấy khúc màu gì??
Mẹ quay lại chúng tôi, giới thiệu với bác chủ tiệm vải lớn nhất của con đường ấy:
Các con! Đây là bác Thao, bác là bạn học thân của mẹ từ xưa ở Hà Nội đấy, các con chào bác đi, sau này các con có cần vải vóc thì đến đây mua, bác chỉ tường tận lắm!
Trong lúc mọi người đang chọn vải thì tôi nghe tiếng cười khúc khích và tiếng huyên náo của mấy anh chị con bác phía sau nhà. Tò mò tôi lẻn ra, núp trong bức tường nhìn mấy anh chị, một nhóm đang đánh đũa, còn nhóm con trai thì chơi bắn súng nước, có vẻ vui nhộn lắm, tia nước bắn phụt cả vào mặt chỗ tôi đang lén nhìn, vội vàng tôi định lấy vạt áo lau mặt, thì 1 tiếng nói ồm ồm khan khan vang lên sau lưng:
Lấy cái khăn này lau tạm đi! Xin lỗi nhe, không cố ý đâu!!…..Muốn chơi cùng không?
Tôi tần ngần còn lạ lẫm, rụt tay lại khi bị kéo ra khỏi chỗ núp. Người con trai thứ con bác Thao, Duy Tuệ, cao hơn tôi cả cái đầu, anh ốm nhom, cao ngồng, đang bước vào tuổi dậy thì, 14 tuổi, dúi cây súng nước vào tay tôi:
Cứ bắn đi, vui lắm, mình cùng phe!! Bắn như vậy nè, để tay vào nút này bóp là nước xịt ra, bắn cho chúng nó càng ướt là mình thắng cuộc, biết không? ….núp vào đây với …anh!
Bỗng dưng tôi trở thành 1 đồng đảng bất đắc dĩ của anh, cũng theo anh lúp xúp núp vào trong bụi rậm, lúc anh bảo tôi bắn là tôi lấy hết sức bình sinh để bóp cò. Vui chơi làm tôi quên cả mẹ và các chị đang thử vải vóc bên trong nhà, tôi hả hê cười tít mắt với đám con trai nghịch ngợm vô tư của bác, cho đến khi bị gọi về thì quần áo tôi đã nhem nhuốc ướt từ trên đầu xuống chân, phải mượn 1 bộ đồ của con gái bác mặc tạm. Mẹ tôi phàn nàn với bác:
Trong năm đứa con gái, chỉ có con bé Vĩnh An này là tinh nghịch như con trai mà thôi! Thật tôi xấu hổ quá, con gái mà cũng leo trèo, cũng bắn súng, cũng vật lộn ….chẳng có 1 chút nào thùy mị như các chị cả!!
Không sao! Có đứa này đứa nọ thì mới vui nhà vui cửa chứ, đứa nào cũng hiền lành nhu mì hết thì trong nhà sẽ không có tiếng cười đâu. Mấy cái đứa con gái hay tinh nghịch…sau này lại được nhờ lắm!
Vài tuần sau, tôi theo mẹ đến bác Thao để trả lại bộ đồ đã mượn mặc hôm nọ. Gia đình bác như đang có chuyện gì rất quan trọng, cứ to nhỏ với mẹ, làm mẹ tôi cũng đâm ra lo lắng, suy nghĩ, tôi chỉ nghe được loáng thoáng:
….Không biết tôi có nên đóng cửa tiệm hay không?….bà cứ hỏi ý ông nhà xem sao….
Tôi lại men ra sau nhà định để gặp các anh chị con bác Thao. Sân sau im lặng trống vắng một cách kỳ lạ. Tôi nghe tiếng khá quen sau lưng, gọi:
Ê! ….vào đây!
…..Anh …gọi ….em??
Ê…Ừ! Vào đây!
….Mẹ bảo là nếu con trai mà gọi con gái là « ê » là ….bất lịch sự lắm đó!
Không biết tên ….thì gọi bằng gì??
Sao không hỏi? ….bộ…không biết hỏi à!
…ừm…vậy tên gì ??
Vĩnh An!
Vĩnh An! Vĩnh An!
Sao ….gọi hoài thế? Có chuyện gì không?
Tên đẹp quá! ….anh muốn cho Vĩnh An cái này….không biết Vĩnh An có thích không!
Anh nhảy lên cao, kiễng chân trên nóc tủ lấy xuống cho tôi cái nón quai thao, đủ màu sắc hồng lẫn với vàng, xanh rất đẹp. Tôi đang ngạc nhiên tại sao anh lại cho tôi món quà này thì anh giải thích:
Đây là chiếc nón quai thao đem từ ngoài Bắc vô đấy! Quý lắm, mẹ giữ đã bao nhiêu năm nay rồi, nhưng bây giờ thì chắc ….không còn giữ được nữa đâu…chắc phải bỏ lại đấy!
Tại sao? Tại sao phải bỏ lại? ….
Tại vì….tại vì…không thể nói được đâu! Nếu …em thích hãy giữ nó, còn không thì tụi anh chắc phải bỏ đi …mà đây là kỷ niệm của bà ngoại cho mẹ…tính mạng còn không giữ được nữa, huống chi là vật kỷ niệm!
Lúc này tôi mới linh cảm những lời anh nói hình như quan trọng lắm, hình như là những lời nói cuối cùng tôi nghe được và cũng hình như tôi là người được giao cho phận sự giữ gìn kỷ vật của gia đình anh. Tôi còn quá nhỏ để hiểu sự việc vào lúc ấy, chỉ lờ mờ biết được vận nước đang trong cơn nguy biến; kỷ vật này tôi sẽ cố gắng gìn giữ cho anh, nhưng chẳng biết bao giờ nó mới được hoàn trả….Tôi ngây người nhìn anh, đôi mắt tròn to như đang muốn hỏi rất nhiều điều mà chẳng biết bắt đầu từ đâu. Anh chồm lên quàng tay ôm lấy cổ tôi:
Em giữ sức khỏe…coi chừng cho mẹ…không biết đến bao giờ mình mới gặp lại!!
Sau ngày ấy, chúng tôi chẳng còn dịp nào gặp lại bác Thao và đám con của bác nữa. Thời gian trôi nhanh, đủ mọi biến cố xảy ra cho đất nước mà gia đình tôi không là ngoại lệ. Bố mẹ tôi bao nhiêu tiền của dành dụm bấy lâu phải đổ ra cho những lần vượt biên không thành công, tài chính ngày càng kiệt quệ, chị em chúng tôi không được ăn mặc đẹp lụa là như xưa nữa, tuy thế vẫn mang sắc diện đặc biệt của dân đô thị. Mỗi lần “đi” là chúng tôi bị mẹ bắt phải bôi lọ nghẹ cho đen xấu để đừng bị ai để ý! Thế nhưng khi mặc chiếc áo đen vào thì làn da trắng của chúng tôi cứ nổi bật trên vùng vải sậm màu ấy! Mẹ dặn dò tôi nhiều nhất vì mẹ bảo là các chị đã được mẹ dạy dỗ đủ rồi, chỉ có riêng tôi còn quá nhỏ vào lúc đó nên mẹ cảm thấy như thiếu thốn 1 cái gì đó nơi tôi. Tiền bạc đã cạn, 1 lần cuối đánh 1 ván bài cho cả cuộc đời lẫn số mạng của mỗi chúng tôi, vì nếu ở lại với đất nước Cộng Sản cũng sẽ chết dần mòn, còn nếu đi được thì cứu cả tương lai của cả gia đình! Lần đi cuối cùng này bố chia ra hai phe, bố đi với 4 chị tôi, còn mẹ đi với 1 mình tôi. Tôi năn nỉ mẹ cho tôi đem theo chiếc nón quai thao vì lời hứa năm nào với anh Tuệ! Mẹ đã không la tôi mà còn cho tôi thêm niềm tin:
Con còn trẻ mà biết giữ lời hứa với bạn bè là điều rất quý!
Và chính nhờ chiếc nón quai thao ấy đã giúp tôi ra khỏi những lúc thập tử nhất sinh.
Khi lội từ tàu bé sang tàu lớn, tôi đã suýt uống 1 bụng nước xình, may quá, vì khi tôi té xuống thì trên tay còn cầm chiếc nón quai thao, nên nó đã đỡ lấy tôi! Thay vì phải té gục mặt vào nước sông đen ngòm! Mẹ đã dùng chiếc nón ấy làm thuyền đưa tôi từ chiếc tàu bé sang tàu lớn!
Lúc chiếc tàu của chúng tôi ra khỏi hải phận quốc tế, tôi thấy 1 loạt đạn ồ ạt nả không ngớt từ tàu của đối phương, tôi không hiểu là tàu của Mã Lai hay Việt Cộng; chưa kịp nhìn, tôi đã thấy mẹ tôi ngả cả thân người che khuất lên tôi, sợ tôi bị trúng đạn, vì tôi ngồi bên thành tàu. Tất cả mọi người đều như chết điếng sợ hãi vì dân thành phố chúng tôi vẫn chưa quen cảnh súng đạn như tên bay như vậy! Ai cũng nằm bẹp xuống lâm râm khấn vái đến tội nghiệp. Tôi vòng tay qua người mẹ, lấy chiếc nón to vành ấy che cho mẹ, mặc dù chỉ là đan bằng lá cọ, nhưng vào lúc ấy chiếc nón quai thao như 1 áo giáp bằng sắt cho mẹ con tôi nương náu!!
Chưa hết! những chuỗi ngày lênh đênh trên biển cả, nắng, mưa, tôi như có chiếc nón sẵn sàng bảo vệ, nó không còn giữ màu sắc tươi đẹp nữa, đã trở thành đen xì màu đất, nhưng cứng cáp và dũng cảm chiến đấu bên mẹ con tôi. Tôi cứ tưởng tượng như anh Tuệ là 1 ông tiên đã gặp tôi đúng lúc để cho tôi cái áo giáp này khi ra chiến trận. Không ai có thể tưởng tượng được, có 1 sự kỳ diệu nào đó trên con đường tìm tự do! Tôi lo cho mẹ khi thấy mẹ lớn tuổi, không quen cực nhọc, ói mửa, bệnh hoạn, đôi môi trắng nhợt thở thoi thóp, vì khát, đói, tôi muốn khóc khi nhìn mẹ, nhưng nước mắt không còn nữa để chảy, chỉ biết lấy vành nón che cho mẹ bớt nắng chói chan! Rồi nỗi cực nhọc nào tưởng như không lối thoát, cũng hết. Bến bờ mong muốn đã hiện ra. Chúng tôi lê lết lên bờ như những xác chết biết đi, tôi xin được tí sữa của những người đã đến định cư ở đảo Pilau Bidong trước tôi, đổ từng thìa cho mẹ. Đổ mãi, đổ mãi mà sao mẹ không nuốt vậy mẹ? sữa vẫn cứ tràn ra 2 mép!! Đôi mắt mẹ như căng ra trừng trừng nhìn tôi như muốn nói, muốn trăn trối, nhưng chẳng 1 hơi nào phát ra. Cuối cùng mẹ đã chịu thua số phận nghiệt ngã!! Tôi không còn hơi sức đâu để gào thét cho mẹ, hai tròng mắt tôi cũng không đủ một giọt nước để di động nhìn khắp thân thể mẹ đang từ từ co quắp, chỉ nhớ rằng tôi đã cùng mẹ gục xuống 1 lúc khi thìa sữa cuối cùng xùi ra khóe mép mẹ!!!
Mười năm nhanh như thoi đưa bên xứ người, tôi đã học lại, ra trường và đang đi làm cho 1 ngân hàng quốc gia lớn ở Gia Nã Đại, quá khứ đã làm tôi lớn khôn, trưởng thành trong cuộc sống. Bố tôi cùng 3 chị đã không chịu nổi sự đau thương, khắc nghiệt trên biển khi tàu gặp cướp, đã bỏ xác trên tàu, chỉ còn có mỗi 1 chị kế tôi còn sống sót, định cư bên Mỹ. Chị không quên được cảnh tượng đau lòng xảy ra trước mắt cho những người thân nên chị cứ hay buồn khóc, rồi lâu lâu lại cười vớ vẩn đến thương tâm! Chúng tôi cũng thường xuyên điện thoại nói chuyện với nhau, nhưng đầu óc chị không còn bình thường như xưa nữa. Nhiều lúc tôi cũng mong được như chị! Cuộc đời vô thường quá, quên hết cho nước mắt ngưng chảy, cho rũ sạch nỗi nhớ nhung ray rứt người thân!! Thế nhưng, tôi cứ phải làm bộ chai lỳ, cứ phải đương đầu với cuộc sống khó khăn, làm bộ như chẳng có chuyện gì quan trọng trên cuộc đời này cả! Nụ cười tươi vẫn can đảm giữ trên môi!
Nơi tôi làm việc, chẳng có ai là người da vàng cả, khi tôi bước vào làm thì đã được nhiều đồng nghiệp người Tây chú ý giúp đỡ, trong số ấy có Charles, người dân gốc Anh nhưng sinh đẻ ở Québec, anh và tôi tuy không đồng ngôn ngữ nhưng chúng tôi hiểu nhau lắm, cùng chung sở thích, anh nghe tôi tâm sự tuổi thơ và đất nước kém phần may mắn của tôi thì anh càng thấu hiểu và thương tôi hơn nữa, anh muốn san xẻ bù đắp những đau thương ấy trong tôi. Những buổi chiều sau khi xong công việc sở, tôi và anh cùng nắm tay đi dạo trên những đồi núi hay vòng quanh bờ hồ, tôi tha hồ kể cho anh nghe quê hương tôi đẹp như thế nào, những con rạch vòng quanh chảy trong những khe núi thật tuyệt diệu, những cây bông dại vô tên nhưng đượm đầy hương thơm, anh nói rằng rất thích nghe giọng nói như chim hót của tôi, vì trong tiếng nói của tôi như có mang điệu nhạc. Anh ôm khuôn mặt tôi, nhìn sâu vào trong đôi mắt tôi bảo rằng sao đôi mắt của tôi nâu trong thế, không 1 vẩn đục, không 1 vân màu khác; còn tôi thì lại thích màu mắt xanh ve của anh, như màu của bầu trời tự do, hy vọng. Chúng tôi cứ nói, cứ kể, cứ thêu dệt đủ mọi điều đẹp nhất về đất nước tôi, làm anh rất mong được về thăm quê hương tôi vào 1 ngày gần đây, mong nhìn được ngôi nhà tôi đã sinh ra và lớn lên…Tôi cứ ngỡ rằng đây chính là mối tình muôn đời của tôi, nó sẽ là duy nhất và mãi mãi. Nhưng nhiều lúc tôi có cảm giác như giữa chúng tôi không hoàn toàn hòa nhập, anh quá phóng khóang, còn tôi hơi khép kín; những tràng cười của anh thoải mái bao nhiêu thì của tôi như có chứa đựng những tâm sự bên trong. Anh yêu tôi nên cố gắng khắc phục những điều ấy, anh đi học thêm tiếng Việt, những câu nói bập bẹ của anh làm tôi cảm động và thấy gần anh hơn nữa….Cho đến 1 ngày tôi đi thăm chị tôi bên Mỹ, và trên đường về lại Montreal…
Thấp thỏm đứng xếp hàng vào máy bay, chiếc balô nhỏ đong đưa trên đôi vai, mái tóc vừa chấm cổ làm tôi ngứa ngáy quay qua quay lại; bất chợt ở 1 góc phòng ngay hàng ghế đầu, một khuôn mặt nhỏ khá quen thuộc hiện ra, cậu bé khoảng 5, 6 tuổi thôi, nụ cười của nó làm tôi liên tưởng đến 1 người, 1 người của quá khứ, xa lắm, lâu lắc lâu lơ rồi thì phải! Ai nhỉ! Làm tôi phải lục lọi ký ức. Vì sau cái biến cố cả bố mẹ cùng mất, hình như tất cả trong tôi như bị xoá hết đi những gì của trước đó, vì tôi đã quá sức chịu đựng, đau đớn ngoài sức tưởng tượng của 1 cô bé 18 tuổi. Cho nên bây giờ muốn nhớ lại, phải cố gắng hồi tưởng. Cậu bé này là ai?? Ánh mắt của nó cũng tinh anh như 1 người tôi đã gặp! Bên cạnh đó không xa, 1 người đàn ông trẻ đứng dựa bờ tường đang nói điện thoại di động, tôi nhìn sững ông ta. Phải rồi! Hình như là… chính là Duy Tuệ! Tôi vội vàng tiến đến, với nụ cười tươi trên môi:
Anh Duy Tuệ! Có nhớ ai đây không?
Sau 1 lúc suy nghĩ, chắc cũng như tôi, phải lục lọi trong bộ nhớ ghê lắm, anh mới thốt lên, vui mừng, ôm hai vai tôi:
Nhớ ra rồi, có phải ….có phải cô «Ê» đó không??
Chúng tôi phá lên cười thật vui, anh ngắm tôi, hỏi không ngừng:
Vĩnh An! Lúc này lớn lên….đẹp gái quá, nếu đi ngoài đường mà gặp thì chắc anh không nhận ra đâu! Lúc này em làm gì? Gia đình ra sao? Hai bác thế nào? Em ở đâu?…
…Còn anh ra sao? Cháu bé thật giống anh như đúc, nhờ nó mà em mới nhận ra anh đấy, anh được mấy cháu rồi? Hay đây là cháu đầu lòng?
…sai rồi! …đây là con bà chị của anh, anh dắt nó qua Mỹ chơi …cháu giống chú là…chuyện thường!! Anh …chưa lập gia đình…Còn em…đi đâu đây??…thật lâu quá…
Chúng tôi vui mừng tranh giành nhau kể chuyện, thì ra anh cũng ở Montreal như tôi, nhưng chúng tôi mỗi người ở 1 đầu của thành phố nên chẳng bao giờ gặp được nhau! Anh cũng thành công lắm trong việc tạo dựng tương lai xứ người. Bố anh cũng như số phận của bao gia đình không chịu đựng nổi cơn đói khát, bệnh hoạn trên tàu nên cũng đã mất, anh còn lại mẹ và các anh chị khác cũng đang định cư tại Mỹ và đã lập gia đình. Anh tiếc nuối:
Nếu như bây giờ còn ở đất nước mình thì đâu có những mất mát lớn lao như thế này! Gia đình em đã chẳng còn ai, ngoài người chị bị bệnh thần kinh, kết quả của cuộc vượt biên; bên anh thì cũng bị mất bố! Mình trả giá quá đắt để có được sự tự do này! Có đáng không??…Bây giờ tìm lại em, anh nghĩ hình như mình đã trả hết cái vận xui của mười mấy năm rồi đó…Mình may mắn …có duyên gặp lại nhau ….
Tôi muốn chảy nước mắt khi nghe anh nói, muốn cám ơn ông Trời đã cho tôi gặp lại anh. Tôi cứ tưởng làm người Việt Nam là bất hạnh nhất, bị trả nợ của bao kiếp trước! Anh nắm chặt lấy hai bàn tay tôi, xoay nhẹ trong lòng tay anh:
Em! Bỗng nhiên xuất hiện trước mặt anh như 1 giọt mưa sa! Giống như một trận tuyết đổ bất ngờ giữa buổi trưa hè, thật không sao tuởng tượng được…anh sẽ không để em biến mất đi đâu nữa cả…
Anh đưa tôi về nhà, muốn viếng bàn thờ bố mẹ tôi. Anh chăm chỉ đốt nén hương, lầm bầm khấn vái. Tôi đứng bên cạnh lạy trả lễ anh, đây là lần đầu tiên từ ngày tôi rời đất nước, có người thân viếng bàn thờ bố mẹ tôi. Anh nhìn thấy trên bờ tường có treo chiếc nón quai thao, anh reo lên:
Vĩnh An! Em còn giữ chiếc nón này à? Em làm sao giữ được nó? Gia đình anh tưởng rằng đã phải bỏ lại rồi đó chứ! Anh giao cho em, nhưng vẫn không mong là em đem được qua đây…chắc em phải khổ cực lắm hả??
Tôi kể cho anh nghe những mẩu chuyện có liên quan đến chiếc nón trong chuyến vượt biển:
…chiếc nón ấy không phiền gì cả mà còn giúp mẹ con em qua những cơn khó nhọc…mẹ không qua được cơn đau bệnh, đó cũng là số mệnh không tránh khỏi…có phải vì em còn giữ chiếc nón này nên mới gặp lại anh hôm nay, sau gần 20 năm??
Cám ơn em nhiều lắm, Vĩnh An! …chưa 1 người con gái nào mà anh giữ lại trong ký ức như thế! Cho dù trải qua bao nhiêu gian khổ, trắc trở, hình ảnh em bé nhỏ với chiếc nón xa dần hôm cuối cùng gặp ở nhà anh, không làm sao anh quên được, nó như 1 hành trang, 1 sức mạnh cho anh sống, đi làm và vươn lên đến hôm nay, thật kỳ diệu!!
Anh trân trọng đặt lên trán, lên mắt tôi những nụ hôn dài nhung nhớ đầy yêu thương của bao năm xa cách.
Tôi như người vừa tỉnh mộng, như người vừa ra khỏi cơn mộng du của 10 năm sống trên đất người: đây mới thật là tình yêu của tôi, mới thật là chỗ nghỉ ngơi của tôi cho suốt cuộc đời, Duy Tuệ! Anh mới chính là biểu tượng của quê hương, đất nước, tiếng nói và cùng dòng máu đỏ da vàng chảy suốt trong huyết quản của tôi….
Ngọc Huyền
ự trù
Sinh Hoạt Văn Thơ Lạc Việt : Sự khác biệt ngôn ngữ giữa Nam Và Nữ
SINH HOẠT VĂN THƠ LẠC VIỆT.
Buổi thuyết trình với đề tài thuộc ngôn ngữ học có phần khô khan, nhưng rất hữu ích với nhiều thắc mắc của tham dự viên cũng đã được diễn giả trả lời thoả đáng. Một vài màn văn nghệ "bỏ túi" cũng góp phần tạo không khí ấm cúng và vui vẻ với vài ca sĩ địa phương.
Mời quí vị chia xẻ vài hình ảnh,
Thêm phần Youtube :
———————————————————————————————————–
Trân trọng kính mời quí vị tham dự buổi thuyết trình về :
Sự Khác Biệt Ngôn Ngữ Giữa Nam Và Nữ
của nhà văn/Biên Khảo/Ngôc Ngữ Diệu Tần.
Được tổ chức :
Chiểu Chúa nhật, Ngày 22 tháng 6 năm 2014
Thời gian từ : !:00PM tới 5:00PM chiều.
Tại địa điểm : Thư Viện Tully
880 Tully Street, San Jose CA 9511
Diễn gỉa : Nhà Văn Diệu Tần.
Sự hiện diện của quí vị là vinh dự lớn lao cho bạn tổ chức, và thể hiện sự đòan kết tranh đấu cho tự do và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt
TM Ban Tổ Chức.
Chinh Nguyen




