Bà cụ & chiếc xe chó

Dù thành phố đâu thiếu thứ rau trái gì. Dù đời sống vật chất ở vùng biên giới này chẳng dư thứ gì. Nhưng, biết đâu là giới hạn của thiếu và đủ. Thôi thì, cứ hồn nhiên cho và nhận những gì mình có – người đàn bà ít học ấy đã dạy tôi như thế!

Bà cụ & chiếc xe chó
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ. Mỹ trong nghĩa từ Hán – Việt là “cái đẹp”. Nhưng ít ai gọi cái tên ấy, người ta thường nhắc đến bà một cách nửa lạ nửa quen: bà cụ có chiếc xe chó
10 năm nay, bà con xã Phước Vinh, khu vực biên giới, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã quen với hình ảnh bà cụ và chiếc xe chó. Bao năm qua chó Vàng cứ lầm lũi kéo xe chạy trên đường, gánh trên vai gánh nặng cuộc đời của bà chủ tội nghiệp của nó.
Cỗ xe cuộc đời
Bà Mỹ từng có chồng, có con. Chồng mất, người phụ nữ ấy hết lặn lội nuôi con, đến nuôi dâu, rồi nuôi cháu. Mấy mẹ con tần tảo xây được căn nhà. Nhà mới chưa ráo hồ thì người ta khiêng xác đứa con trai đầy máu về đặt trước mặt bà. Một “hung thần đường phố” nào đó đã cướp sinh mạng nó rồi bỏ trốn. Người mẹ ấy lặng lẽ bán cái nhà mới xây để lo tang ma và xây một cái mả tươm tất cho con.
Bấy giờ, tài sản đáng giá của người mẹ chỉ còn cái thân già, ba con chó và một con heo. Con trai chết rồi, chẳng còn ai đỡ đần. Chỉ còn đàn chó, con heo trung thành quấn dưới chân bà. Ban đầu bà lấy mấy thanh tre, ghép với hai bánh xe đạp rồi dạy cho con heo kéo. Cái loài ủn ỉn hay ăn hay ngủ chỉ kéo được mấy bước rồi lăn ra nghỉ mệt. Bà thử buộc xe vào cổ ba con chó. Không ngờ chúng kéo chạy bon bon. “Vậy là trời còn thương, cho một kế sinh nhai, di chuyển”. Bà tự nhủ rồi chất một bao gạo, một giỏ xách đựng quần áo và di ảnh của con trai lên cỗ xe chó ấy. Cứ chó kéo xe đi trước, bà đạp xe tất tả theo sau. Người và chó đi về hướng thị xã. Ngày đi. Đêm nghỉ bên lề đường. Ròng rã gần 70 cây số đến toà án tỉnh. Người mẹ quyết tâm đòi công lý cho đứa con xấu số.
Không nhớ nổi bao lâu ăn ở vạ vật bên đường để chờ đến ngày người ta tìm ra kẻ gây tai nạn, tuyên án, người đàn bà già cỗi ấy mới cùng ba con chó lủi thủi về. Đến quê, bà tặng hết số tiền người ta đền mạng sống đứa con trai cho cô con dâu, nó cũng nghèo khó và bạc phước như bà. Còn bà, dắt mấy chú chó xuống chiếc xuồng ba lá sống một đời lênh đênh.
Cuộc đời du cư cứ buổi sớm ra đồng mò ốc, mót lúa, mót mì…, buổi chiều lại cùng mấy con chó chở những thứ vừa kiếm được ra chợ để đổi lấy thức ăn. Hàng năm trời, giấc mơ của con người ấy và mấy chú chó cũng bập bênh trên con xuồng neo ở sông Vàm Cỏ. Sau trận bệnh tưởng chết trên xuồng, bà mới mua khung chòi tre với giá bằng bốn ký thịt bò. Người ta cho dựng nhờ trên một nền đất hoang bốn mùa lộng gió bên kia sông. Vậy là bà có một nơi bình yên để treo di ảnh đứa con thân yêu.
Robinson trên đồng
Nghèo, nhiều người nghèo. Khổ, nhiều người khổ. Nhưng, con người ấy đã cho tôi cảm xúc rất lạ. Lạ từ nụ cười khanh khách trên khuôn mặt đen nhẻm đầy bùn đất. Lạ từ những giọt nước mắt lăn vội khi bỏ di ảnh con vô giỏ bàng rồi treo lên cỗ xe chó chở theo những ngả đường mưu sinh. Lạ từ chuyện lần mò trồng và chăm sóc cả một vườn khổ qua, bí đỏ, rau lang xanh mướt… để cho bà con hàng xóm ai thích ăn thì cứ hái miễn phí. Lạ từ cách mỗi ngày bà đều tìm và cắm một cành hoa tươi lên vách chòi tả tơi. Lạ đến những ngày bà nhịn đói để cho mấy chú chó được no. Lạ từ sự tự vấn bản thân khi trót làm chết mấy chú chó: “Trời! Tui già rồi, mà sao tui còn ngu hết biết vậy trời!”.
Gặp tôi, bà rớt nước mắt hai lần: lần thứ nhất nói tới con trai, lần thứ hai nhắc về mấy chú chó. Cỗ xe tam cẩu giờ chỉ còn một mình con Vàng kéo. Con chó được huấn luyện đeo tờ giấy đi chợ giúp bà cụ đã bị sợi dây quấn vào cổ chết khi thò đầu xuống sông uống nước. Con chó thứ hai từng bơi qua sông kiếm người cứu chủ nhân trong đêm bà bệnh nặng trên xuồng đã bị mấy bợm nhậu bắt trộm làm thịt.
Sau khi chèo xuồng đưa tôi qua sông, bà và con Vàng lặng lẽ quay về căn chòi le lói ánh đèn chong. Nơi ấy đêm đêm chỉ còn bà cụ và con chó ngủ còng queo trên chiếc nệm làm bằng rơm khô. Phía sau xe chúng tôi nặng trĩu mấy trái bí đỏ do chính tay bà cụ nghèo trồng và hái tặng. Dù thành phố đâu thiếu thứ rau trái gì. Dù đời sống vật chất ở vùng biên giới này chẳng dư thứ gì. Nhưng, biết đâu là giới hạn của thiếu và đủ. Thôi thì, cứ hồn nhiên cho và nhận những gì mình có – người đàn bà ít học ấy đã dạy tôi như thế!
 
Y.T 

Y.T.
Theo: Diễn Đàn Net



Mùa Xuân Trên Đảo Galang(Đoan Phương)

Trong cuộc đời định cư, tôi luôn luôn sâu sắc ghi ơn Cao Uỷ Tỵ Nạn và chính quyền Nam Dương đã mở rộng vòng tay nhân đạo để cưu mang chúng tôi trong giai đoạn thập tử nhất sinh của cuộc đời. Hôm nay đây, tôi xin gửi tới Galang, hòn đảo nhỏ bé, thân thương, những tình cảm biết ơn chân thành nhất từ trái tim tôi. Đoan Phương – 1/2009

Mùa Xuân Trên Đảo Galang
 
   Con thuyền tỵ nạn nhỏ bé của chúng tôi cặp bến một hòn đảo nhỏ ở Nam Dương vào lúc chạng vạng tối một buổi chiều cuối năm. Tôi còn nhớ rõ, khi dời tầu để lội bộ vào bờ, 2 đầu gối tôi run rẩy, hai chân châp choạng, lảo đảo muốn té, có lẽ do năm ngày bốn đêm nằm dài trên chiếc ghe chật chội không đủ khoảng trống để co duỗi. Bước chân xuống nước, các vỏ sò, vỏ hến cứa vào hai bàn chân tôi rát buốt. Tuy nhiên, lúc đó tinh thần tôi bay bổng, trái tim tôi ca khúc khải hoàn, reo mừng vì sau một cuộc hành trình đầy gian nguy tôi đã tới miền đất hứa mà tôi hằng mong đợi.
   Sau những thủ tục đơn giản, chúng tôi được chuyển qua các đảo Sedanau, Kuku, rồi về trung tâm Tỵ nạn Galang. Tai đây, cuộc sống được tạm ổn định. Chúng tôi được Cao Ủy Tỵ Nạn nuôi ăn, ở, và đi học các lớp Anh ngữ để chờ ngày đi định cư. Tâm lý con người thực dễ dàng thay đổi. Sau những dồn dập mừng vui, tôi bắt đầu nhớ nhà. Mỗi buổi sáng khi tỉnh dậy, nghe tiếng sóng biển đều đều vỗ vào bờ, tôi lại tha thiết nhớ quê nhà, nhiều khi đến không cầm được nước mắt. Rồi cảm giác nhớ nhà cũng qua đi, tôi bắt đầu lo lắng cho tương lai mịt mù nơi xứ lạ khi đã định cư.
   Galang là một hòn đảo nhỏ, hoang vu của Nam Dương được Cao Uy Tỵ Nạn xây dựng thành Trung Tâm chuyển tiếp cho người Việt Nam chạy trốn chế độ Cộng Sản trước khi được nhận định cư tại một nước thứ ba. Khi tôi lên làm việc tại Bệnh Viện Galang I thì nhân viên người Việt không được hưởng thù lao mà mỗi tháng chỉ được lãnh các nhu yếu phẩm như kem đánh răng, khăn rửa mặt, xà bông, bột giặt v.v.… Phụ cấp tuy không nhiều nhưng cũng phần nào giúp đỡ cho cuộc sống khó khăn trên đảo. Bác sĩ Giam Đốc Bệnh viện, Ông Ivan Jusuff, là một người lịch lãm nên đối xử với nhân viên người Việt hết sức tế nhị. Một ngày, khi tôi đang làm việc thì được BS Evan mời vào văn phòng nói chuyện. Ông Evan cho tôi biết: “Bà Soeur, trưởng phòng Xã Hội của Cao Ủy Tỵ Nạn nhờ ông tìm một người phụ nữ VN để làm “Hội Trưởng hội Phụ Nữ” ở Galang, và ông muốn đề cử tôi”. Thực là khó nghĩ, vì trong khoảng thời gian ngắn ngủi ở lại đảo, không ai có nhiều thời gian rảnh rỗi. Những việc nấu ăn, giặt dũ, đi học Anh Văn hầu như đã chiếm hết thời giờ trong ngày. Ngoài ra, còn thêm nhiều việc không tên không tuổi khác như xách nước, lãnh đồ ăn, nghe thông cáo, nhận thư từ .… Tuy nhiên, nếu từ chối thì không tiện vì người ngoại quốc đã làm quá nhiều cho dân tỵ nạn, không lý, là người tỵ nạn lại từ chối làm việc cho cộng đồng tỵ nạn.
   Tôi được đưa vào Galang II để tiếp xúc với Soeur Marie của Cao Uỷ Tỵ Nạn vào buổi sáng hôm sau. Soeur Marie cho tôi biết nếp sống của các phụ nữ trên đảo cần được cải tiến. Bà đã nhận được báo cáo về một số phụ nữ túm năm, tụm ba đánh bài tứ sắc suốt ngày trong Barrack thay vì đi học Anh ngữ. Một số khác, sau giờ giới nghiêm còn bị nhân viên an ninh bắt gặp trong các lùm cây, bụi cỏ với bạn trai. Một vài phụ nữ trẻ đã có những liên hệ tình cảm bất chính với các nhân viên Nam Dương trên đảo để kiếm tiền. Sau cùng bà cũng nói rõ, bà muốn tôi đứng lên tổ chức các lớp dạy làm bánh, đan, may để các phụ nữ học được chút nghề trước khi đi định cư. Soeur Marie còn thúc dục tôi phải bắt tay làm việc ngay và nhấn mạnh là: Chương trình phải phù hợp với hoàn cảnh eo hẹp của ngân quỹ tỵ nạn.
   Tôi trở về, nhờ ban đại diện thông báo trên loa phóng thanh về việc muốn tìm các chị em có tay nghề về “làm bánh, thêu may, đan” để dậy các lớp nữ công gia chánh. Có lẽ không nghe nói tới thù lao, nên qua 1 tuần mà chẳng nghe ai trả lời. Trong khi đó Soeur Marie cứ đôn đốc thúc dục mỗi ngày. Sau cùng, tôi phải tự thăm dò và tìm tới tận Barrack để năn nỉ các chị em bỏ thời gian cộng tác với hội để “trước mua vui, sau làm nghĩa”. Tôi thành lập được một staff khoảng 8 người cho đầy đủ các bộ môn làm bánh, đan, và may. Buổi học đầu tiên là lớp dậy làm bánh “lỗ tai heo”, nhiên liệu chỉ có bột, mè, đường, và dầu chiên. Buổi khai trương có 20 học viên ghi tên, nhưng có diễn văn khai mạc của Soeur Marie cùng với sự hiện diện của BS Evan và vài nhân viên của Cao Uỷ Tỵ Nạn. Theo sự thỏa thuận, khi lớp học bế mạc, giáo viên có thể chia bánh cho các học viên, và lấy về nhà thưởng thức.
   Thấm thoát đã tới ngày rằm tháng Chạp, Tết nhất đã gần kề, các chị em trong Hội Phụ Nữ, ai cũng bùi ngùi vì trong hoàn cảnh khó khăn này, làm sao có thể “đón ông bà”, rồi làm sao để “đón mừng Năm Mới”. Tuy nhiên, trong lúc khó khăn, cũng nảy sanh ra nhiều ý kiến kỳ diệu. Một chị đề nghị, kỳ lãnh đồ ăn sắp tới, mọi người góp đậu xanh và đường, nấu chung một nồi chè để ăn đêm liên hoan. Một chị khác đề nghị, kỳ lãnh đồ ăn tới, mỗi người hùn vào 1 hộp đồ ăn, đem bán, mua 1 bao nhang chia cho mỗi người 3 nén để thắp cúng ông bà đêm giao thừa. Tiền còn lại, mua ít đậu phộng để nhâm nhi đêm văn nghệ. Một chị khác có ý kiến, tuần lễ trước đêm liên hoan, cho lớp làm bánh thực tập “bánh trứng nhện” vì rẻ, dễ làm, lại được nhiều. Sau khi làm, bánh sẽ được gom lại, để dành cho đêm liên hoan. Có chị xung phong trang trí không tốn kém cho hội trường bằng những bông hoa dại mọc đầy 2 ven đường ở Galang. Tôi vô cùng thán phục những phụ nữ VN đảm đang và thao vát này. Chúng tôi đồng ý, đêm liên hoan sẽ là ngày 28 Tết, lúc 6 giờ chiều, địa điểm là một lớp học tôi mượn được. Số người tham dự khoảng 25 người gồm gia dình các chị em trong ban chấp hành của hội phụ nữ.
   Gần ngày Tết, tôi cần phải hoàn tất một việc trước khi bước sang năm mới. Danh sách các cô thiếu nữ trẻ được soeur Marie nêu tên, tôi đã gặp được hết, duy chỉ có 1 cô tên Như Tâm khoảng 23 tuổi vẫn cố tình né tránh nên tôi chưa gặp được. Nhiều khi tôi nhắn mời cô tới Barrack của tôi, nhưng cô nhận lời, rồi lại không tới. Nhiều khi tôi lại Barrack của cô thì cô lại vắng mặt. Nhiều người nói nhỏ với tôi rằng, khi thấy tôi tới đầu Barrack thì cô theo cuối barrack lỉnh ra ngoài để tránh mặt tôi. Tôi rất cần nói chuyện với cô này, vì theo Soeur Marie, đêm nào cô cũng gửi đứa con khoảng 6 tháng cho người bạn cùng phòng để đi chơi với các nhân viên Nam Dương cho tới sáng. Soeur Marie còn nhấn mạnh: Qua Tết, nếu hội Phụ Nữ VN không giải quyết được thì Cao Uy sẽ làm việc thẳng với ban an ninh của chính quyền Nam Dương trên đảo.
   Thời giờ chẳng còn xa nữa, tôi suy nghĩ nát óc mới ra một cách. Tôi nhờ một chị bạn, sáng sớm tới chờ cô Như Tâm ở cửa Barrack, khi cô về thì lại mời cô tới tham dự buổi liên hoan của chúng tôi, rồi ráng tìm cách cầm chân cô cho đến khi tôi tới. Buổi sáng hôm ấy, tôi cũng phải dậy sớm. Chỗ tôi ở khá xa với chỗ của cô, lại thêm đường xá ở Galang toàn là đường đất mấp mô, dốc lên dốc xuống nên khi tôi tới nơi thì mệt bở hơi tai. Cô đứng quay lưng về phía tôi nên khi tôi tới gần thì cô sửng sốt, rồi bất chợt bưng mặt khóc. Đây là lần đầu tiên tôi gặp cô, quả là môt người đẹp tuyệt vời như tin đồn, mặc dầu không trang điểm và có nhiều nét mệt mỏi. Thấy mọi người trong Barrack chú ý, tôi nhờ chị bạn bồng đứa con cho cô, rồi rủ cô ra ngoài nói chuyện. Cô bảo tôi: “Chị ơi, em xin lỗi chị bởi vì em đã nhiều lần thất hứa với chị. Em không dám tới gặp chị vì em quá xấu hổ nhưng em thú thực với chị, nếu em không làm vậy thì con gái em sẽ phải chết.” Rồi cô thổn thức kể cho tôi: “Vợ chồng em đi vượt biên từ cửa Đại Ngãi, Gò Công. Khi vừa được chuyển từ ghe xuống “cá lớn” thì bị công an phát hiện, em nghe súng bắn tứ tung. Lúc đó chủ tàu vội vã tắt đèn và nổ máy dời bến. Em hoảng sợ kêu tên chồng em lung tung nhưng không nghe anh ấy trả lời. Hôm sau, khi trời sáng thì em mới biết là chồng em không có mặt trên tàu. Đến bây giờ em cũng không biết tình trạng chồng em sống, chết ra sao. Khi lên tới đảo, con em mới có 4 tháng, nó bị tiêu chảy liên miên, lại thêm em tự nhiên bị cạn hết sữa nên không có đủ sữa cho con bú. Em chỉ có một mình trên đảo, lại không có thân nhân ngoại quốc tiếp tế nên không có tiền để mua sữa bò cho cháu. Nhìn con mỗi ngày một tiều tụy, em không cam tâm. Chẳng thà em chịu nhục, hay chết đi còn hơn là nhìn thấy con em chết”. Nhìn cô gái trẻ nước mắt chứa chan, tôi cũng mủi lòng. Tôi hứa với cô sẽ cố gắng xin Soeur Marie cấp phát sữa cho cháu bé. Phần cô, cũng cần hứa với tôi phải chấm dứt ngay tức khắc hành động không đẹp này. Cô Như Tâm vô cùng mừng rỡ, nắm chặt lấy tay tôi và quả quyết với tôi rằng: “Nếu chị “cải tử hoàn sinh” được cho mẹ con em thì em cũng xin thề sẽ không tiếp tục làm chuyện xấu hổ này nữa”. Trước khi giã từ, tôi ân cần mời cô ra chung vui với chúng tôi vào chiều nay, 28 Tết và dự tính sáng mai, ngày 29 Tết sẽ vào Galang II để gặp Soeur Marie, trình bày hoàn cảnh của cô.
   Buổi “Mừng Xuân” bỏ túi của Hội Phụ Nử chúng tôi được bảo nhau giữ kín trong vòng nội bộ, nhưng không hiểu sao khi chúng tôi tới lớp học thì đã có nhiều người chờ sẵn ngoài cửa. Một bác lớn tuổi bảo tôi: “Chúng tôi là khách không mời mà tới, không muốn làm phiền mấy cô, nhưng đầu năm thấy cô đơn, nhớ nhà quá, mong mấy cô cho đứng ngoài nghe mấy bài ca xuân để đỡ nhớ quê hương.” Thế rồi người đem bánh, người đem kẹo, đổ hết ra bàn chung vui. Buổi liên hoan dự tính cho 25 người bây giờ trở nên trên 50, 60 người. Chúng tôi hơi hồi hộp lo sợ vì đông người, khó kiểm soát, có thể xẩy ra điều đáng tiếc. Tuy nhiên, cuộc vui diễn ra trong bầu không khí hết sức thân mật và đầm ấm. Để mở đầu, chúng tôi mời một cụ cao niên lên chúc Tết mọi người, Sau đó, là phần văn nghệ. Có rất nhiều ca sĩ nghiệp dư tình nguyện lên sân khấu. Hết bài hát về “Xuân” là mấy bài nhạc “tình cảm”. Tôi còn nhớ một anh thanh niên lên hát bài “Con Thuyền Viễn Xứ” rất truyền cảm. Khán giả im phăng phắc. Tới câu: “… quay lại xóm làng, Đà Giang lệ ướt tràn …” thì tôi nghe nhiều tiếng sụt sịt, trong đám khán giả và chính tôi cũng cảm thấy cay cay ở mắt.
   Tới 9 giờ khuya thì chúng tôi phải chấm dứt buổi liên hoan để dọn dẹp lớp học. Mọi người chia tay ra về. Lúc đó, tôi loáng thoáng thấy cô Như Tâm bồng con đứng ở cuối đám đông. Có lẽ, cô muốn chứng tỏ cho tôi thấy cô đã bắt đầu thay đổi từ hôm nay.
   Tôi rời Galang để đi định cư sau 13 tháng, lưu lại sau lưng biết bao kỷ niệm khó quên. Những ngày tạm cư ở Galang, tôi đã được chứng kiến những hoàn cảnh đau thương của cuộc đời, những phấn đấu can trường để tồn tại, và những tình cảm chân thành của những người cùng cảnh ngộ. Trong cuộc đời định cư, tôi luôn luôn sâu sắc ghi ơn Cao Uỷ Tỵ Nạn và chính quyền Nam Dương đã mở rộng vòng tay nhân đạo để cưu mang chúng tôi trong giai đoạn thập tử nhất sinh của cuộc đời. Hôm nay đây, tôi xin gửi tới Galang, hòn đảo nhỏ bé, thân thương, những tình cảm biết ơn chân thành nhất từ trái tim tôi.
                     Đoan Phương – 1/2009

Đoan Phương
Theo: Đoan Phương



MỘT NGÀY VỚI NỘI TÂM. (Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)

Tôi đến đất Mỹ này chẳng còn gì, ngoài một lòng sắt son khi cầm bút, với chí hướng một dạ thủy chung với những người bạn còn sống hay đã chết; và một hoài bão nhỏ nhoi : Làm thế nào để không còn những cảnh đau thương như vậy nữa trên trái đất này.

MỘT NGÀY VỚI NỘI TÂM.
 
   Tôi là nhà văn, nhà báo, một văn nghệ sĩ.  Cả cuộc đời của tôi dành cho một lý tưởng: Bênh vực quyền sống, quyền làm người, quyền được suy tư, quyền được nói lên tiếng nói của mình.
Tự do ngôn luận là một trong những quyền căn bản nhất của bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền năm 1948. Mỗi người có quyền trình bày tư tưởng của mình bằng lời nói, bằng ngòi viết và bằng hành động . Tôi và những người khác, 14 người tất cả, đã ngồi tuyệt thực tượng trưng để nói lên ý nghĩ của mình: chúng tôi muốn có nhân quyền ở đất nước chúng tôi cũng như không còn có những tù nhân chính trị nữa.
Ý kiến của tôi có thể đúng, có thể sai, nhưng tôi có quyền nói lên ý kiến đó. Cùng với quyền đó, tôi lại phải có bổn phận tôn trọng ý kiến người khác, dù là đúng, dù là sai, nhưng tôi không thể bóp nghẹt hay bưng bít nó đi bằng cách này hay cách khác. Đó là quy luật của xã hội tự do dân chủ. Trong thời đại tiến bộ của loài người ngày nay, không thể còn có những người bị bắt bớ, giam cầm chỉ vì tư tưởng và tín ngưỡng của họ.
Những người cầm bút thường hay sống với nội tâm của họ. Một ngày một đêm sống ở ngoài trời chính là lúc sống cho nội tâm nhiều nhất.
Đêm hôm đó ngồi ngoài trời cùng với những người bạn, mới quen nhưng cùng chí hướng, tôi nhìn những ngọn nến thắp sáng trước mặt tôi, giữa đêm khuya trời lạnh. Ngọn lửa lung linh trước những cơn gío của mùa Đông miền Nam Cali khiến tôi liên tưởng đến thân phận con người lung linh như ngọn đèn muốn tắt trước cơn bão tố của bạo lực, Tôi đã nhớ … nhớ rất nhiều.
Tôi đã nhớ đến một ngọn đồi bên kia bờ Thái Bình Dưong , trên vùng cao nguyên Trung phần của đất nước thân yêu của tôi. Ngọn đồi đó ở gần một trại cải tạo, trong khu vực lao động khổ sai của chúng tôi. Vì là một miền rừng núi hoang vu, nên dù đứng xa ở phía nào chúng tôi vẫn có thể nhìn lên ngọn đồi đó. Chúng tôi gọi là “Vườn sắn” nhưng thực ra đó là nơi chôn người, chôn những người tù cải tạo đã chết trong trại tù. Mỗi lần vác cuốc, vác rìu đi lao động, chúng tôi nhìn về Vườn Sắn và tự hỏi phải chăng chuyến đi lên đó sẽ là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời mình. Bởi vì chúng tôi đã biết đi tập trung cải tạo là có đi mà ít có về.
Rồi có những ngày, tình cờ ngước mắt nhìn lên ngọn đồi, chúng tôi thấy hình ảnh thê lương trên sườn đồi in rõ trên nền trời xanh biếc: Bốn người tù cải tạo khiêng một cái hòm làm bằng ván sơ sài theo sau là một Vệ binh Công an áo vàng vác súng . Chúng tôi buông cuốc cúi đầu khẽ thở dài. Chúng tôi biết lại có một người bạn vĩnh viễn từ gĩa chúng tôi rồi.
Tôi còn nhớ, nhớ khá nhiều bạn bè của chúng tôi đã an nghỉ trên đồi. Tôi còn nhớ anh Trung Tá Nguyễn Văn Thanh ở Nam Hà về đây, bị đánh chết, cũng nằm ở đó.
Tôi còn nhớ 5 người bị cùm nhiều nhất ở Gia Trung, Người thứ nhất là anh Thiếu tá Trần Văn Kính, sau khi tháo cùm được một ngày, đã chết tức tưởi. Tôi nhớ anh lắm, vì trước khi lìa đời, anh còn nói được một câu : “ Khánh ơi ở lại nhé!” Suốt đời tôi, chắc tôi không thể nào quên câu nói này. Người thứ hai là anh Trung úy Võ Hồng đã chết vì kiết lỵ chỉ vài ngay sau khi được tháo cùm. Còn lại ba người còn sống đến nay, nhưng không phải là quân nhân mà là dân sự, Người thứ nhất là nhà văn Nguyễn Sĩ Tế, Tiến sĩ văn chương Pháp, Anh không chết, nhưng khi được tháo cùm sau 9 tháng kiên giam, tôi thấy anh quay đi một vòng rồi ngã vật xuống như một cái cây bị đốn gốc và đổ nhào. Người ta phải khiêng anh đi cấp cứu.
Người thứ hai là luật sư Mai Văn Lễ, Tiến sĩ kinh tế của Harvard. Anh Lễ không ngã nhào, nhưng sau khi tháo cùm,  anh chống hai tay bò lết, vì hai chân anh đã bị liệt.
Người thứ ba là tôi. Tôi không té, không bò, nhưng tôi phải vịn vào tường mới đi được, vì lúc đó tôi chỉ còn da bọc xương. Thấy tôi lúc đó người ta gọi tôi là “Cái thây ma biết đi” hoặc khôi hài hơn, có anh bạn bảo tôi: : ”Tôi thấy anh đi trên bờ ruộng mà chỉ sợ có ngọn gió nào thổi mạnh là anh sẽ  bay đi như chiếc lá”.
Tôi còn nhớ… những người bạn thân yêu của tôi, những người bạn cầm bút, những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, đã bị lùa đi cải tạo vào mùa xuân năm 1976 cũng chỉ vì những gì họ đã viết, vì tư tưởng, vì chánh kiến của họ. Rất nhiều… rất nhiều .. nhưng hỡi ôi, đã có những người gục ngã trước cơn gió của bạo lực.
Hồ Hữ Tường chết ở Hàm Tân, Nguyễn Mạnh Côn chết ở Xuân Lộc. Hiếu Chân chết ở khám Chí Hoà, Dương Hùng Cường chết ở T.20.
Hai người anh kính yêu của tôi là Vũ Hoàng Chương và Trần Việt Sơn đã được thả về để …chết ở nhà sau khi đã quá kiệt lực trong những năm tháng tù đầy . Cả người bạn của tôi, Minh Đăng Khánh cũng đã chết sau khi về nhà vì tê liệt.
Những người còn sống, sau khi thoát nạn, đã tủa đi khắp phương trời bằng cách này hay cách khác. Riêng ở Mỹ này, đã có Nguyễn Sĩ Tế, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Hồ Văn Đồng, cũng như một số người đã sang Âu, sang Úc và tất nhiên cũng còn những người ở lại quê nhà… Chúng tôi những người có may mắn được cầm bút trở lại, chẳng thể nào quên những người anh em mình. Cũng chẳng thể quên bà con, đồng bào mình.
Ở Gia Trung, người tôi nhớ nhất là một người con gái, con của Trung Tá Lò Văn E, Gốc người Thái của miền thượng du Bắc Việt. Anh Lò Van E đi cải tạo đến lúc đó là đã 6 năm trời mà không được tin tức gì về gia đình. Anh sống rất kham khổ thiếu thốn, vì tự ái ít khi chịu nhận sự giúp đõ của bạn bè may măn hơn có gia đình tiếp tế. Rồi một ngày kia, anh nhận được một tin mừng: Đó là lá thư của con gái anh, viết thay cho mẹ, nói rằng trong mấy năm qua mẹ con quá lam lũ khổ sở, không kiếm nổi kiếng ăn, có lẽ vì gốc người thiểu số không quen buôn bán, nhưng bây giờ thì dành dụm được hút tiền rồi, nhất định sẽ cho con gái lên thăm anh và cho anh chút quà.
Khoảng một tháng sau, quả nhiên cô con gái lên thăm cha cô, đến trại thì trời đã chạng vạng tối, nhưng hỡi ôi, đúng lúc cô đặt tờ giấy phép xin thăm trước mặt người Công an giữ nhà thăm nuôi thì cũng là lúc mà trong trại tù, anh Lò Van E đã trút hơi thở cuối cùng, vì bao năm thiếu dinh dưỡng và kiệt lực. Cô con gái chỉ còn được phép nhìn mặt cha lần cuối và nức nở khóc như mưa.
Sáng hôm sau, tôi tình cờ cuốc đất bên con đường đi lên “Vườn Sắn”, Tôi thấy bốn người bạn tù cải tạo đòn sóc khiêng cái quan tài làm bằng ván thông của anh Lò Văn E, và theo sau ngoài anh lính vác súng đi theo như thường lệ, còn có cô con gái của anh. Lần đầu tiên một người bên ngoài được đi theo quan tài của một người tù cải tạo chết trong tù. Trời ơi, tôi làm sao quên nổi hình ảnh đó. Cô con gái đi theo cha lần cuối, mà mặt cô lạnh như băng, mắt cô không còn nhòa lệ nữa, mà thay vào đó là một đôi mắt mở trừng trừng, tôi có cảm tưởng như đôi mắt đó đang tóe ra những tia lửa căm hờn, và công phẫn đén cùng độ. Không, tôi không thể nào quên.
Tôi cũng côn nhớ đến chị Quách Thị Thu Hương đến trại thăm chồng đem theo một đứa con gái còn nhỏ tuổi. Nhưng khi chị đến trại, chưa kịp gặp mặt chồng thì đêm hôm đó, chị ngã bịnh rồi chết luôn ở nhà thăm nuôi. Chị đã thay chồng nằm an giấc ngàn thu trong nghĩa trang của những người tù cải tạo chăng? Tôi không nhìn thấy , nhưng đã nghe thấy những chuyện đau thương, chẳng hạn có người vợ hiền lặn lội đi thăm chồng cải tạo miền Thanh Hoá Nghệ Tĩnh, đến nơi chỉ còn gặp nấm mồ của chồng mới chôn, chị đã cắt tóc rải lên nấm mồ trước khi ra về, cũng như chuyện một người vợ khác đào huyệt lấy xương của chồng đem về miền Nam chôn cất…
Và tôi nhớ… Tôi nhớ đến biết bao người vợ hiền, chung thủy, đã vượt đèo trèo suối, gồng gánh, xách mang trên những nẻo đường rừng xa tắp, lên thăm chồng trọn tình nghĩa phu thê, chỉ cốt đem lại một chút thức ăn, mong chồng đủ sức tiếp tục cuộc sống tù đầy để một ngày kia còn có hy vọng gặp lại được vợ con.
Tôi đến đất Mỹ này chẳng còn gì, ngoài một lòng sắt son khi cầm bút, với chí hướng một dạ thủy chung với những người bạn còn sống hay đã chết; và một hoài bão nhỏ nhoi : Làm thế nào để không còn những cảnh đau thương như vậy nữa trên trái đất này.
15/12/1992.
Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh.           

Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh
Theo: Văn Thơ Lạc Việt



ĐỨA CON của RỪNG HẠC

Vào một năm trời làm mưa bão dầm dề, núi Kỳ Sơn đổ. Nhiều người cho đó là điềm trời báo trước sự sụp đổ của nhà Chu . Trấn thủ Kỳ Sơn Thiệu Tường dâng biểu tâu lên vua về những thiệt hại do thiên tai gây ra và khẩn xin triều đình mở kho cứu trợ cho dân chúng Kỳ Sơn. U-Vương đã chẳng màng đến lời tâu, còn cười chê Thiệu Tường là người dốt nát không biết cai trị, rồi cách chức.

ĐỨA CON của RỪNG HẠC
                                         
 
                                                                     Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
 
 
     Bao Thành và Kỳ Sơn là hai pháo đài ở phía tây và tây nam của kinh thành để bảo vệ cho kinh đô Kiểu Kinh. Trấn thủ Bao Thành Bao Quýnh và trấn thủ Kỳ Sơn Thiệu Tường là đồng liêu và cũng là chỗ tâm giao. Cả hai đều là đại phu và là những người trung quân ái quốc.
 
     Vào một năm trời làm mưa bão dầm dề, núi Kỳ Sơn đổ. Nhiều người cho đó là điềm trời báo trước sự sụp đổ của nhà Chu . Trấn thủ Kỳ Sơn Thiệu Tường dâng biểu tâu lên vua về những thiệt hại do thiên tai gây ra và khẩn xin triều đình mở kho cứu trợ cho dân chúng Kỳ Sơn. U-Vương đã chẳng màng đến lời tâu, còn cười chê Thiệu Tường là người dốt nát không biết cai trị, rồi cách chức.
 
     Vua tôi trong triều vẫn cứ thản nhiên tiếp tục ăn chơi hưởng lạc. Nhà vua phái nội thị bủa đi tứ phương tìm gái đẹp tuyển vào cung để đờn ca múa hát và phục vụ xác thịt. Triệu Thúc Đái đang giữ chức gián quan, thấy đất nước càng ngày càng nguy ngập, bèn dâng biểu để can ngăn. U-Vương nghe lời Quắc Công dèm pha, cách chức Triệu Thúc Đái đuổi về. Bao Quýnh đang ở Bao Thành nghe tin, tức tốc vào triều để can gián vua. U-Vương giận lắm, sai quân bắt Bao Quýnh tống vào ngục. Từ đó về sau, các quan trong triều không còn ai dám can ngăn vua nữa.
 
     Bao Quýnh ở tù đã ba năm. Phu nhân và con trai ở nhà sống thiếu thốn và bị cô lập. Các đại thần đồng triều cũng như bọn quan lại thân sơ đều sợ hãi mà xa lánh. Lâu rồi, mẹ con không lẽ cứ ngồi ôm nhau mà than khóc. Bà mẹ cuối cùng đành phải liều đẩy đứa con ra đường để tìm cách cứu nước, cứu chồng. Qua bao nhiêu đắn đo suy nghĩ, Bao Quýnh phu nhân hôm nay mới đem những điều mình ấp ủ ra bàn với Hồng Đức, đứa con trai duy nhất của mình hãy còn trẻ. Bà nhỏ nhẹ nói với con:
 
–   Con không ra bên ngoài nên không biết được việc thiên hạ. Qua nhiều năm liên tiếp, hạn hán rồi lụt lội làm mất mùa liên miên. Trời làm cơ cực một phần, nhưng tham quan của triều đình nhũng nhiễu gây thê lương còn nhiều hơn gấp bội. Bọn tham quan vơ vét bóc lột thật thậm tệ. Bá tánh vì thế sống vô cùng lầm than đói khổ. Loạn lạc triền miên. Trai tráng phần bị lùa đi lính, phần thì phiêu bạt tứ xứ để làm ăn kiếm sống. Con gái còn trinh kẻ bị bắt dâng lên cho triều đình, kẻ bị bán làm nô lệ tình dục khắp nơi tại các nước chư hầu. Còn lại bên trong các làng mạc khô cằn là các cụ già và những người không sứt càng thì cũng gẫy gọng. Bên trong triều đình thì Thiên tử hoang dâm vô đạo, ham mê tửu sắc, đêm ngày nghe đàn ca hát xướng. Nhiều khi cả tháng trời vua không thiết triều một lần. Triều thần ít khi trông thấy mặt thiên tử. Mọi việc triều chính giao vào tay bọn Tam Công là Quắc Công, Sái Công, và Doãn Cầu. Một tên làm tổng quản quân đội của thiên triều. Một tên lãnh chúa đám mật vụ côn đồ. Còn tên nữa là chưởng quản tất cả đám quan lại từ trong triều ra đến ngoài quan ải. Cả ba cấu kết với nhau làm thành một mạng lưới chuyên quyền độc đoán. Vì thế mới sinh ra nạn buôn quan bán tước. Có tiền là mua được chức quan. Khi đã có chức quan, chúng vơ vét để bù lại. Toàn thể hệ thống quan lại từ trên xuống dưới đều là những tên tham quyền ham lợi, chỉ biết trên thì nhắm mắt xu nịnh, dưới thì tham lam vơ vét. Bá tánh đói khổ, còn quan lại sống phè phỡn trên sự đói khổ của lê dân. Những người trung trực kẻ thì bị giết, người bị lưu đầy, còn lại hầu hết đều cáo thoái về cầy ruộng. Trong số những người bị đi tù có thân phụ của con đang làm quan đại phu tổng trấn Bao Thành. Chưa bao giờ đất nước sa vào cảnh điêu linh như hiện nay. Cũng chưa bao giờ bá tánh phải lầm than đói khổ như bây giờ. Con phải biết, cứu phụ thân của con là chuyện nhỏ, cứu giang sơn xã tắc này khỏi ách tàn bạo vô luân của tên bạo chúa mới là chuyện lớn phải làm của một trang nam tử như con. Con cần phải hiểu rõ cái thảm cảnh hiện nay của giang sơn bá tánh.
 
     Hồng Đức nhìn mẹ buồn rầu thưa lại:
 
–   Thưa mẹ, mặc dầu con không thiếu quyết tâm báo thù cho cha và cứu dân cứu nước, nhưng con còn nhỏ, cuộc đời chưa từng trải, thiếu kinh nghiệm, lại không quen biết nhiều, làm sao con có thể làm nên việc, nếu không có người lớn bên cạnh?
 
     Người mẹ không phải không hiểu lý lẽ đó. Đặt một gánh nặng quá lớn so với tuổi đời và từng trải trên vai của đứa con, bà không thể nào không lo lắng cân nhắc. Nhưng trong hoàn cảnh đơn lẻ này, bà không còn cách nào khác hơn để giải quyết. Nghe con nói xong, bà quàng tay kéo con trai ngồi sát bên mình, rồi ôn tồn giảng giải:
 
–   Cứu phụ thân con, con làm công việc này một mình đơn độc. Nhưng con đứng lên diệt bạo chúa, mọi người đều hưởng ứng theo con. Ai bảo con không có người bên cạnh. Hơn nữa, cho dù cứu được phụ thân con, ai bảo đảm gia đình mình thoát được những tai họa khác nữa sau này. Chỉ có cứu được giang sơn này thì mọi người mới được sống yên vui hạnh phúc lâu bền. Con phải hiểu như thế.
 
     Hồng Đức không cần suy nghĩ, vội vàng quì xuống đất, nắm lấy bàn tay mẹ, nhìn thẳng vào mắt bà, giọng quả quyết:
 
–   Vâng thưa mẹ, con hiểu ra rồi. Con sẽ làm theo lời mẹ dậy. Con hứa sẽ làm được cả hai điều mẹ mong muốn, vừa cứu cha con, vừa giải phóng bá tánh khỏi ách tham tàn mê muội của hôn quân.
 
     Bao Quýnh phu nhân xúc động ôm đầu đứa con trai ghì chặt vào lòng như chưa bao giờ bà tỏ ra thương con như vậy. Ngày hôm sau, chàng thanh niên Hồng Đức từ giã mẹ ra đi, mang trên vai một gánh nặng hai bên thù nhà và nợ nước.
 
                                                / / /
 
     Hồng Đức đi Bao Thành có ý tìm gặp những thân hữu hoặc thuộc hạ cũ của cha mình khi xưa để mưu việc đại sự, nhưng chuyện đời không đơn giản như chàng nghĩ. Tất cả những người quen biết mà chàng tiếp xúc họ đều từ chối. Không phải họ không có lòng, mà vì họ nhát sợ trước những sự tàn bạo của triều đình.
 
     Suốt mấy tháng trời, sự ra đi của Hồng Đức không đem lại một kết quả nào khích lệ. Đa số đều từ chối. Một vài người hứa suông cho qua chuyện. Chàng cảm thấy thối chí nên muốn trở về bàn bạc lại với mẹ. Điều làm chàng buồn phiền nhất là sợ khi gặp lại mẹ và nhìn thấy vẻ mặt thiểu não của bà. Nhưng bất luận thế nào chàng cũng phải trở về.
 
    Trên đường về, đi đã cả buổi, chàng dừng chân nghỉ mệt. Đang lúc ngồi nghỉ dưới một gốc cây bên bờ sông, bất chợt chàng thấy một cô gái quẩy đôi thùng từ trong xóm ra gánh nước. Cô gái trông còn rất trẻ, chắc chắn chỉ vừa độ tuổi trăng tròn. Một cô gái nhà quê mộc mạc nhưng lại rất xinh đẹp, xuất hiện giữa khung cảnh buổi chiều hè rực rỡ với trời, mây, nước bao la, trông chẳng khác nào một bức tranh thủy mạc sống. Thật tuyệt vời. Cô gái có vẻ lúng túng vì sự có mặt của một chàng trai xa lạ. Nàng vục nước đầy hai chiếc lu sành rồi vội vã quẩy vô xóm. Hồng Đức để cho nàng đi khuất rồi mới theo dấu nước sánh trên mặt đất mà tìm đến nhà. Tới đầu ngõ, chàng bắt gặp một ông gìa đang đứng hóng mát gần một khóm trúc ngoài cổng. Chàng dừng lại lễ phép cúi đầu chào. Thấy cái dáng thư sinh của người khách lạ, ông già lên tiếng trước, hỏi:
 
–   Chẳng hay công tử có việc gì đi qua đây?
 
–   Kính chào lão bá, cháu ở xa đi ngang qua đây mà trời cũng không còn sớm. Cháu có ý kiếm một chỗ trọ qua đêm. Lão bá có biết xin chỉ dùm.
 
     Hồng Đức không kịp chuẩn bị trước cho tình huống bất ngờ này, nên chỉ còn cách nói dối. Nhưng làm sao chàng che mắt nổi một ông già từng trải. Con gái ông vừa gánh nước về. Ông thấy rõ chàng thanh niên theo dấu nước trên đất mà tới đây. Nhìn mặt chàng trai không quen nói láo, sắc diện trở nên bẽn lẽn, thật tội nghiệp, ông già thương hại cái dáng khờ khạo ấy, chỉ mỉm cười độ lượng:
 
–   Chỗ trọ quanh đây thì lão phu không biết. Nhưng nếu công tử không chê bai túp lều tranh này của cha con lão thì công tử cứ tự tiện ở lại đây qua đêm. Chúng tôi rất lấy làm hân hạnh được tiếp đón công tử.
 
     Hồng Đức được lời như cởi tấm lòng. Thấy ông già như có ý muốn gói ghém một lời giới thiệu khéo léo cô con gái trong cách mời mọc, chàng cảm thấy phấn khởi nê nhận lời  không chút do dự:    
 
–   Được như vậy thì tốt quá. Cháu không dám khách sáo. Xin hết lòng đa tạ lão bá.
 
     Chủ khách theo nhau vô nhà, một căn nhà tranh vách đất tồi tàn nhưng ngăn nắp và kín đáo. Ông già tự tay nấu nước pha trà, và sai cô con gái sửa soạn bữa cơm chiều đãi khách. Hai người đàn ông vừa uống trà vừa trò truyện. Biết được Hồng Đức là con quan đại phu Bao Quýnh trấn thủ Bao Thành trước đây, ông già vui mừng giãi bầy tâm sự:
 
–   Gia đình lão phu ở đây lâu rồi. Lão tên là Tự Đại. Hai vợ chồng già không có con trai, chỉ sanh được một đức con gái duy nhất, đặt tên nó là Bao Tự. Chẳng bao lâu tiện nội mất. Lão phu một mình nuôi con. Trời cho nó có chút nhan sắc. Điều này làm cho lão hãnh diện nhưng lại rất lo sợ. Con gái đẹp ở vùng này hiện nay đang bị quan lính săn bắt dâng lên cho thiên tử. Lão phu lo ngaị cho đứa con gái của lão.
 
–   Thưa lão bá, không có cách nào để tránh cho Bao cô nương không bị bắt sao?
 
     Hồng Đức lo lắng cắt ngang. Lão Đại nhấp ngụm trà, trầm ngâm, mắt nhìn mông lung ngoài trời ra chiều tư lự lắm. Lão thở dài úp mở:
 
–   Thực ra thì cũng không phải là không có. Nhưng……..
 
–   Nhưng cái gì? Xin lão bá cho biết tôn ý. Hay lão bá có điều gì khó nói thì thôi cũng không sao.
 
     Không khí bỗng dưng trở nên nặng nề. Hồng Đức cũng e dè, chàng im lặng chẳng còn biết nói gì. Một lúc lâu sau, ông già đổi đề tài câu chuyện. Lão hỏi:
 
–   Lão phu có nghe lệnh tôn bị gian thần ám hại. Chẳng hay việc này có đúng không?
 
–   Thưa lão bá, chuyện này là thiệt. Phụ thân cháu bị bọn tam công hại. Nhà vua chỉ biết nghe lời xu nịnh. Phụ thân cháu bị giam có đến gần ba năm nay rồi.
 
     Ông già chép miệng thở dài:
 
–   Thời buổi này làm dân đã khó, mà làm quan thanh liêm trung trực lại càng khó gấp bội. Những người làm quan như lệnh tôn đây không được mấy người, nhưng rồi dần dần cũng mất cả. Bá tánh lầm tham không còn biết trông cậy vào đâu. Không biết đất nước này rồi sẽ ra sao!!! Ba năm…cũng là lâu rồi đấy.
 
     Ông già ngồi trầm ngâm một lúc rồi lại tiếp tục:
 
–   Phu nhân và công tử đã có dâng biểu trần tình để minh oan cho lệnh tôn bao giờ chưa? Cũng nên thử xem sao.
 
     Hồng Đức rầu rĩ thưa:
 
–   Xin thú thật với lão bá, làm thế không được đâu. Thiên tử đã trở thành điếc đặc đối với những lời ngay thẳng từ lâu rồi. Cháu đã lặn lội mấy tháng nay để tìm xem có phương pháp nào không nhưng vô hiệu. Những chỗ quen biết xưa kia với phụ thân cháu họ đều từ chối. Cũng có người quen biết trong triều nhận giúp đỡ nhưng họ đòi nhiều tiền bạc quá, gia đình cháu thật bất lực. Lão bá có diệu kế gì xin chỉ dậy cho. Cháu mang ơn suốt đời suốt kiếp.
 
     Ông già mỉm cười hiền từ:
 
–   Nói lão phu chỉ dậy thì không dám, và mang ơn thì cũng không cần thiết. Theo ý lão phu, nếu công tử chỉ muốn cứu lệnh tôn thôi thì việc cũng không có gì khó khăn lắm. Còn nếu công tử muốn làm chuyện lớn hơn thì cũng cần phải bỏ ra một chút công sức. Tuy nhiên, dù việc lớn hay nhỏ cũng có thể làm theo cùng một nguyên tắc mà các binh gia thường hay áp dụng. Đó là lấy cái yếu của đối phương làm cái mạnh của mình mà hành động ắt có thể thành công.
 
     Hồng Đức nghe lạ tai muốn biết liền nên nóng lòng hỏi:
 
–   Cháu ngu dốt. Xin lão bá có thể giảng giải rõ hơn một chút được không?
 
–   Có gì đâu mà khó hiểu…. Nhưng thôi, chuyện còn dài. Công tử đi đường xa chắc đã mệt và đói bụng. Nghỉ ngơi một lát rồi ăn uống trước đã.
 
     Mặc cho Hồng Đức ngồi bần thần suy nghĩ, ông già cắt ngang câu chuyện, đứng dậy đi xuống bếp tiếp con gái giọn cơm. Thực ra ông đã có chủ đích rồi, nhưng ông không thể đường đột nói ra nên muốn thăm dò ý kiến của con gái, và cũng cần bàn bạc trước những gì cần thiết.
 
                                                / / /
 
     Ăn uống xong thì trời vừa tối. Chủ khách ngồi uống trà bên ngọn đèn nhựa chai leo lét. Bao Tự đứng hầu bên cạnh cha. Hồng Đức cứ băn khoăn về câu chuyện còn dở dang hồi chiều: cái gì là cái yếu của đối phương, và cái gì là cái mạnh của mình? Chàng muốn thử phân tích cái chiến pháp mạnh, yếu mà các binh gia thường áp dụng ấy xem sao. Chàng trình bầy với ông già:
 
–   Theo cháu thấy, nhược điểm lớn nhất của triều đình hiện nay là vấn đề độc đoán và thối nát. Vua không còn biết nghe lời nói phải. Quan chỉ quen thói xu nịnh. Từ Thiên tử trở xuống ai nấy chỉ biết vơ vét để ăn chơi và hưởng lạc. Hà hiếp bá tánh và vơ vét cho thật nhiều để tận hưởng. Đây là vấn đề trọng yếu phát sinh ra các nguy cơ khác làm suy yếu chế độ. Có thể kể đến như khắp nơi nạn mua quan bán tước trở thành đường lối cơ bản trong việc chọn lựa người làm quan. Do đó, quan lại chỉ là một bọn vô luân, vô đạo, vô tài và vô tướng. Chúng bỏ tiền ra mua được chức quan rồi thì tất nhiên là phải đục khoét và vơ vét để bù lại. Bọn chúng vì phe cánh và vì miếng ăn, đối với nhau cũng như mèo với chó chứ chẳng tử tế gì. Chỉ bằng mặt mà nhiều khi còn coi nhau như thù địch. Chế độ vì thế có thể ví như một cái cây đã rỗng ruột, có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào. Bên ngoài bá tánh bị thiên tai rồi bị bóc lột đến tận xương tủy. Mọi người sống lầm than khổ cực như trâu chó. Thanh niên phải đi lính hay bị bắt làm phu dịch. Con gái đẹp ngoài số bị bắt tiến cung, còn lại hầu hết cũng bị ngay cha mẹ mình bán đi làm gái điếm để nuôi sống gia đình. Nói chung, người dân bất mãn và hoàn toàn mất tin tưởng vào triều đình. Chế độ nào cũng cần phải lấy dân làm gốc. Chế độ này đã mất gốc thì tất nhiên nó sẽ phải sụp đổ. Triều đình hiện nay đã không nhìn thấy điều đó lại còn lơ là mất cảnh giác. Thiên tử và cả triều thần vẫn cứ tưởng họ còn đang vững mạnh! Còn về phía bá tánh, cái mạnh của người dân là gì nếu không phải là hiện nay ai cũng đều có cơ hội lũng đoạn triều đình bằng bất cứ phương tiện nào họ có trong tay. Với tiền bạc, người ta có thể mua và sai khiến được quan viên triều đình trên dưới. Còn gái đẹp chính là chìa khóa có thể qua được bất cứ cánh cửa nào. Nếu có hai thứ đó là có thể đốn gục cái chế độ mục nát này rồi.
 
     Hồng Đức nói hăng say đến nỗi không để ý đến cô con gái rất xinh đẹp của ông già đang đứng gần đó. Chàng giật mình và ngừng lại, cảm thấy đã quá khinh xuất bèn xin lỗi:
 
–   Cháu thật là thất lễ, đã có lời mạo phạm. Xin lão bá và Bao cô nương tha thứ.
 
     Ông già nhìn chàng cười bao dung:
 
–   Không sao. Công tử nói rất đúng. Những nhận xét và phân tích của công tử cũng là những suy nghĩ trong đầu của lão phu. Tuy nhiên cũng còn một khía cạnh khác mà công tử không đề cập đến. Đó là thế lực của các chư hầu. Hiện nay thiên tử yếu mà có nhiều chư hầu mạnh. Tuy vậy không có chư hầu nào đủ sức lấn lướt mà vượt lên, nên họ vẫn cần phải bảo vệ ngôi thiên tử để giữ thế quân bình ổn định. Nếu có cách nào làm cho các chư hầu không còn tin tưởng vào thiên tử nữa thì sự biến mới có thể xẩy ra. Chiến lược là đúng, nhưng cũng cần phải có sách lược thích hợp để vận dụng kế sách.
 
     Lý luận của ông gìa rất mới lạ và lôi cuốn, Hồng Đức càng nghe càng bị thuyết phục. Nhưng ông ngừng lại ở đấy hình như có ý muốn cho chàng có thì giờ tiêu hóa hết những điều mình vừa nói.
 
     Không gian về đêm vốn đã tịch mịch càng trở nên u tịch hơn khi tiếng nói của ông dứt đoạn. Ông già nhấp ngụm trà nóng, mắt vẫn không rời khỏi bát nước trà một hồi lâu rồi mới lại tiếp tục nói mà như đang nói với bát nước trên tay. Ông bỗng vừa lắc lư cả thân mình ra điều thận trọng lắm, vừa thật chậm rãi cố ý gò từng câu từng chữ để thăm dò người đối diện:
 
–   Hoàn cảnh của công tử cũng là hoàn cảnh của nhiều người. Có rất đông bá tánh bị oan ức, bị vùi dập. Lão phu rất hiểu và cảm thông với công tử. Cho phép lão nói thẳng, chẳng hay công tử đã có dự tính riêng cho mình như thế nào chưa?
 
     Hồng Đức lắc đầu thở dài:
 
–   Thưa lão bá, rất tiếc là cháu tài hèn sức mọn, hai bàn tay trắng lại không có kinh nghiệm. Những tính toán đều đã thất bại cả. Cháu xin lão bá cho một lời chỉ giáo và nếu có thể giúp đỡ cho cháu chóng hoàn thành được ý nguyện.
 
     Ông già vẫn giữ giọng trầm đều:
 
–   Giữa công tử và chúng tôi trời đất xui khiến xem ra có chỗ đồng thanh và còn có thể là đồng khí nữa đấy. Công tử có mối thù gia phụ. Gia đình tôi, tiện nội bị triều đình vô cớ thảm sát. Công tử sống ở kinh đô vả lại còn trẻ chắc không biết chuyện xẩy ra tại đây mười mấy năm về trước, lúc ấy đứa con gái này hãy còn phải bế trên tay.
 
     Ông quay sang nhìn Bao Tự, rồi quàng tay kéo con lại sát bên cạnh mình, tỏ một cử chỉ âu yếm khác thường. Trong không gian chìm lắng, ông già lại cất tiếng trầm buồn kể chuyện. Chàng thanh niên trẻ vẫn im lặng chăm chú nghe:
 
–   Chuyện xẩy ra vào lúc giặc Khương Nhung nổi loạn, Tuyên Vương ngự giá thân chinh và bị thua. Quân lính chết rất nhiều. Vua phải thân hành ra đất Thái Nguyên kiểm tra dân đinh để bắt lính bổ sung. Khi trở về ngang qua một cái chợ, vua cho dừng quân để nghỉ. Có lũ trẻ con chơi đùa ngoài chợ hát câu đồng dao thế này:
 
                        Bao giờ thỏ mọc ác tà,
                        Yểm hồ Cơ bặc ắt là mất Chu .
 
     Tuyên Vương nghe thì cả sợ, bèn bắt lũ trẻ mà điều tra. Nhưng lũ trẻ cũng không biết câu đồng dao đó từ đâu mà có. Vua về triều hội bàn với các quan, nhưng mỗi người bàn một cách. Kẻ thì cho là chuyện trẻ con chẳng đáng tin. Người thì bảo rằng ứng về điềm trong nước có loạn lạc vì yểm hồ và cơ bặc ám chỉ cung tên và túi cỏ để đựng tên. Riêng quan thái sử Bá Dương Phụ bói quẻ bàn rằng thỏ là mặt trăng chỉ âm, ác là mặt trời chỉ dương. Thỏ mọc ác tà là dấu chỉ âm thịnh dương suy. Ắt hẳn là sẽ có cái họa đàn bà can thiệp đến chính trị trong nước.
 
     Bất ngờ đúng vào lúc đó, tại hậu cung lại đồn chuyện một cung nữ từ thời tiên đế đã ngoài 50 tuổi đạp phải rãi rồng mà mang thai 40 năm mới sinh được một đứa con gái. Khương hậu, vợ Tuyên Vương, thấy vậy, để giữ tiếng tăm cho hoàng gia, bắt đem đứa trẻ bỏ trôi sông. Một câu chuyện yêu quái như thế không biết từ đâu được thêu dệt rất ly kỳ khiến nhà vua liên tưởng đến cái nạn nữ họa thời Kiệt, Trụ (Thương, Ân). Tuyên Vương sợ hãi bèn hạ lệnh đi khắp mọi nơi hễ ai vớt được đứa con gái ấy đem nộp, dù còn sống hay đã chết, thì được thưởng 300 tấm lụa. Nếu có ai bắt được mà giấu giếm thì cả nhà phải chém đầu.    
 
     Vua cũng nhớ lại câu đồng dao “yểm hồ cơ bặc” ngày trước, nên truyền cho chợ búa khắp trong nước không ai được bán cây cung bằng gỗ dâu (yểm hồ) và túi tên bằng cỏ cơ (cơ bặc) nữa. Ai không tuân lệnh cũng bị chém đầu.
 
     Vợ chồng lão phu không biết lệnh cấm, đem cung dâu và túi cỏ ra chợ bán như thường lệ, vì đây là nghề sinh sống của gia đình lão từ lâu nay. Tiện nội mang đồ bán đi trước một quãng, còn lão phu đùm đề đứa con mới sanh lẽo đẽo theo sau. Vừa đến cửa thành, quan lính xét thấy đồ quốc cấm gùi trên lưng, tiện nội bị bắt liền tức thì. Lão phu ôm đứa con đi sau thấy vậy phải lẩn trốn mới thoát. Vua Tuyên Vương cho là câu hát của lũ trẻ đã ứng nghiệm, ra lệnh chém đầu tiện nội để trừ hậu hoạn. Cha con lão phu phải trốn tránh, đến ở cái xóm Hạc Lâm hẻo lánh này từ ngày đó đến nay.
 
–   Bá mẫu chết thật là oan ức!
 
     Hồng Đức nghe uất ức bèn thốt lên. Ông già cũng ngừng kể. Một lúc lâu sau ông mới đi vào kết luận:
 
–   Ông trời thật không phụ lòng người nên đã cho lão phu gặp được công tử. Chúng ta cùng có chung một kẻ thù, cũng nên phải cùng chung một hành động mới đúng. Lão phu đã già rồi, khó có thể thực hiện ý nguyện được. Lão xin có một đề nghị với công tử.
 
     Ông ngập ngừng có ý thăm dò phản ứng của chàng thanh niên và cũng còn để lựa lời cho thích hợp. Hồng Đức sốt ruột dục:
 
–   Lão bá có đề nghị gì xin cứ dậy bảo. Cháu xin lãnh giáo.
 
–   Có hơi đường đột một chút đấy, nhưng xin công tử tha lỗi cho. Nếu công tử không chê bai, lão phu xin được gởi gắm đứa con gái này cho nó theo hầu để công tử sai bảo trong khi công tử bôn ba lo công việc. Không biết ý công tử thế nào?
 
     Ông già hỏi, nhưng xem ra đã biết trước câu trả lời của Hồng Đức rồi, nên ông quay sang nhắn nhủ Bao Tự đang đứng sát bên cạnh ông:
 
–   Con phải nghe theo lời dậy bảo của công tử cũng như nghe lời cha. Con có biết không?
 
–   Thưa cha con biết.
 
     Từ chiều đến giờ, Hồng Đức mới nghe thấy người con gái nói. Chỉ vỏn vẹn có mấy tiếng. Chàng thật sự không hiểu rõ ý nghĩa trong mấy câu ngắn ngủi của cha con ông già. Ông muốn gả con gái cho mình, hay ông tình nguyện hy sinh con gái mình cho chàng để làm kế cứu cha. Thế nào thì cũng đều là chuyện khó tin. Không dễ dàng như thế chứ! Nếu ông có ý định gả con gái thì ít ra cũng phải có cưới hỏi, và nhất là được sự ưng thuận của hai bên cha mẹ. Không thế nào có chuyện quá hấp tấp đến vô lý thế được. Còn nếu ông mưu tính kế mỹ nhân thì ít ra ông cũng nên tiết lộ cho chàng biết kế hoạch? Nếu ông tình nguyện hy sinh con gái làm mỹ nhân kế để trừ bạo chúa thì chàng cũng khó lòng mà đồng ý được, vì từ lúc gặp Bao Tự ngoài bờ sông, chàng đã bị cái đẹp của nàng hớp hồn mất rồi. Theo cách này thì chàng sẽ vĩnh viễn mất nàng. Chỉ nghĩ đến chuyện phải mất người con gái xinh đẹp này, chàng đã cảm thấy chán nản, mất nghị lực. Một đàng không thể để mất đi cơ hội, một đàng không thể không hoàn thành sứ mạng mẹ chàng trao cho lúc ra đi. Cả hai đều khó cầu toàn. Điều làm chàng thực sự bận tâm là rước Bao Tự về nhà trong hoàn cảnh gia đình như thế này thì có hợp đạo lý không. Việc cứu cha chưa hoàn thành mà đã mải mê chuyện tình cảm riêng tư. Điều đó mẹ chàng chắc chắn không tha thứ, mà người đời cũng sẽ cười chê. Hồng Đức suy tính nhanh trong đầu thấy chỉ còn cách cứ đồng ý đại đi rồi sẽ tính. Chàng hy vọng sẽ tìm ra cách giải quyết. Chàng tự tin, đứng dậy khoanh tay cung kính thưa với ông già:
 
–   Cháu xin phụng mệnh của lão bá. Cháu hứa sẽ chăm sóc tốt cho Bao cô nương.
 
     Sáng hôm sau, Bao Tự theo Hồng Đức lên đường trở về nhà chàng. Ra đến đầu ngõ, nàng ôm cha nói lời từ biệt:
 
–   Con mong sớm có ngày được trở về bên cạnh cha.
 
     Ông già hôn lên mái tóc đứa con gái mà không nói gì. Sau đó ông đưa tay vẫy ra dấu hiệu bảo đi, rồi quay đầu lủi thủi trở vào nhà.
 
                                                            / / /
 
     Quả đúng như Hồng Đức lo ngại. Bao Quýnh phu nhân thấy con trai trở về tay không, lại còn mang theo một cô gái trẻ đẹp, bà buồn rầu không nói gì và tỏ ra lạnh lùng với con. Cũng may mà trên đường về chàng đã biết rõ được vấn đề nên đã hình thành được một kế hoạch đem trình bầy với mẹ nên bà mới an tâm.
 
     Những gì ông già nói với chàng mới chỉ là một nửa của sự thật. Còn lại nửa kia ông khôn khéo dành lại cho con gái nói ra. Nói trắng ra trước tất cả, ông già sợ Hồng Đức không chịu cho con gái ông đi theo. Việc tiến cung của Bao Tự như ông già kế hoạch bỏ đi mất một cơ hội hiếm có.
 
     Theo Bao Tự kể, nàng không phải con ruột của vợ chồng ông già mà chỉ là con nuôi. Nàng chính là đứa trẻ bị ném bỏ ngoài bờ sông. Người đàn bà đẻ ra nàng thực ra là một cung nữ trong triều đình Tuyên Vương. Cung nữ này bị hoàng tử An Kỳ, con út của Khương Hậu, tức em trai của U-Vương làm có bầu. Khương hậu không chấp nhận mối tình chủ tớ đó, nên đã cho giết chết người cung nữ và đem đứa trẻ bỏ ngoài bờ sông Thanh Thủy. Lại còn bầy ra một câu chuyện hoang đường để gạt vua. Đứa bé được vợ chồng ông già cứu sống, đưa về nuôi và nhận làm con. Bà mẹ nuôi là vợ ông già Tự Đại bị chém đầu vì tội bán cung dâu túi cỏ đúng như ông già nói. Như vậy là cả hai người đàn bà mẹ đẻ và mẹ nuôi của Bao Tự đều bị triều đình giết chết. Bao Tự từ khi lớn lên, hiểu chuyện nên thề quyết sẽ trả mối thù này. Dựa vào sự tài khéo, ý chí, và sắc đẹp của Bao Tự, cha con ông già tính kế phải vào tận hang cọp để giết cọp. Sự xuất hiện của Hồng Đức đúng là cơ hội trời cho. Ông già vì thế đã thận trọng và tỉ mỉ đi từng bước để không bị hư việc.
 
     Bao Quýnh phu nhân nghe con trình bầy, sau một đêm suy nghĩ, đến sáng cho gọi Bao Tự vào và hỏi:
 
–   Chuyện cô nương muốn báo thù cho mẹ cô là thế nào?
 
     Bao Tự kính cẩn hỏi lại:
 
–   Chắc phu nhân đã được nghe công tử kể?
 
–   Phải, ta đã nghe, nhưng tại sao cô nương lại phải đi qua gia đình ta mà thực hiện ý định đó? Có phải cô nương muốn gia đình ta phải mắc nợ cô không?
 
     Bao Tự cả sợ, vội vàng qùi xuống thưa:
 
–   Phu nhân đã quá lời rồi. Tiện nữ không dám. Tiện nữ và phụ thân chỉ vì quí mến công tử, và cảm mến công đức của quan đại phu khi người còn ở Bao Thành nên mong làm một chút việc nhỏ đáp đền mà thôi. Kính xin phu nhân chấp nhận.
 
     Mẹ Hồng Đức nghe Bao Tự ăn nói lễ phép và trôi chẩy, rất lấy làm bằng lòng. Bà cho rằng con trai mình hẳn đã đem lòng yêu thương người con gái này, và ngược lại cũng thế. Bà lấy làm đau xót và thương cho cả hai đã phải hy sinh cả cái riêng tư cao quí nhất là hạnh phúc của đời mình. Bà quay mặt đi để dấu hai dòng lệ chẩy trên má.
 
     Vài hôm sau, có quan thái sử Bá Dương Phụ là chỗ thân tình ghé thăm. Bao Quýnh phu nhân ra tiếp đón. Bá Dương Phụ nhác trông thấy Bao Tự ở nhà trong nên có ý hỏi dò:
 
–   Chẳng hay công tử nhà ta mới lấy vợ, sao không cho tại hạ biết để mừng?
 
–   Dạ không phải đâu, xin đại nhân đừng hiểu lầm.
 
     Phu nhân cải chính và nhận Bao Tự là con gái út trước đây gởi tại nhà người dì ở Bao thành nay mới đem trở về nhà, lại có ý nhờ thái sư giúp tiến dẫn Bao Tự vào cung làm cung nữ để hầu hạ vua. Bá Dương Phụ rất mừng vì tin rằng kế này chắc chắn có thể cứu được Bao Quýnh ra. Nhưng ông ta lại muốn lánh mặt, không muốn đứng ra làm trung gian, nên nói với Bao Quýnh phu nhân:
 
–   Kể như chắc ăn rồi đấy, nhưng việc này nên nhờ cậy đến Quắc Công thì tiện hơn.
 
     Bao Quýnh phu nhân đem lụa và vàng bạc đến đút lót cho Quắc Công để nhờ tâu với U Vương rằng Bao Quýnh có tội ở tù đã ngoài ba năm, nay đã già và đã biết hối lỗi. Bao Quýnh xin đại vương khoan hồng và xin tiến đứa con gái út của mình là Bao Tự để hầu hạ đại vương.
 
     Quắc Công bằng lòng nhận vàng bạc, gấm lụa để lo công việc.
 
                                                            / / /
 
     Bao Tự ở trong nhà Bao Quýnh phu nhân đã gần một tháng. Đêm trước ngày được tiến vào cung, nàng nói với Hồng Đức:
 
–   Thiếp hình như đã có thai.
 
–   Đứa bé sau này sẽ là con chúng ta.
 
     Hồng Đức mừng rỡ ôm người yêu vào lòng quả quyết. Rồi lại hỏi:
 
–   Có phải nàng có điều gì không vừa lòng mà từ ngày gặp nàng tới giờ ta thấy nàng lúc nào cũng tỏ ra buồn bã không vui?
 
–   Thiếp được chàng và phu nhân hết lòng thương yêu và săn sóc thế này là hạnh phúc lắm rồi. Thật sự không có gì làm thiếp phàn nàn cả. Nhưng xin chàng hiểu cho, thiếp chỉ có thể cười to lên được khi thiếp chắc chắn trừ được tên bạo chúa kia mà thôi.
 
     Hồng Đức đã hiểu ra và thông cảm được tâm trạng của Bao Tự.
 
     Ngay ngày hôm sau, Quắc Công đưa Bao Tự vào ra mắt U-Vương. Nhà vua nghe Quắc Công tâu trình thì ưng ý, liền lập tức truyền cho Bao Tự vào bệ kiến. Bao Tự hôm nay trông xinh đẹp như một nàng tiên giáng trần. Nàng vốn đã đẹp tự nhiên, lại được trang điểm thật là lộng lẫy nên càng trở nên kiêu kỳ và quyến rũ hơn gấp bội. U-Vương trông thấy là mê liền và cho ở lại trong cung. Vua còn truyền chỉ thả Bao Quýnh, và còn cho phục chức như cũ.
 
     U-Vương được Bao Tự rồi thì hình như quên mất hẳn mình đang là thiên tử, trao triều chính cho tam công để bọn này muốn làm gì thì làm. Nhà vua xây cất cung Quỳnh Đài cho nàng ở và cả ngày tự nhốt mình trong đó như một tên tù của xa hoa và xác thịt. Bao Tự tuy chưa có danh phận gì, nhưng nàng không thèm tới chào hỏi ra mắt hoàng hậu theo đúng lễ nghi hậu cung, còn tìm nhiều cách để trêu tức bà ta. Thân hậu vừa ghen vừa tức giận vô cùng nên cùng con trai là thái tử Nghi Cửu tìm cách hạ nhục Bao Tự. Không dè đây lại là cái kế của nàng giăng ra để triệt hạ hoàng hậu.
 
     Chẳng bao lâu sau, Bao Tự sanh được con trai, đặt tên là Bá Phục. Nàng càng được vua sủng ái hơn. Bao Quýnh trở thành quốc cựu và Hồng Đức trở thành bào huynh của hoàng hậu. Cả hai thỉnh thoảng được phép vào cung thăm mẹ con Bao Tự. Thằng bé Bá Phục được hai người quí mến và coi như hậu tự của dòng họ Bao. Bọn tam công và các quan triều đình đều bị mua chuộc và đứng về phe Bao Tự cả.
 
     Khi Bao Tự đã hoàn toàn lèo lái được nhà vua và có thể khống chế được triều đình, nàng tiến hành bước kế tiếp là bước lên ngôi hoàng hậu. Vấn đề này không khó khăn gì đối với nàng, vì sự thất sủng của Thân hậu chính là bước tiến lên của nàng.
 
     Thân hậu là con người thiếu bao dung, tính tình lại hay ghen tương nhỏ mọn làm vua càng ngày càng chán mà xa lánh, cuối cùng bị thất sủng, rồi bị truất phế và đẩy vào lãnh cung. Thái Tử Nghi Cửu cũng bị chung một số phận và bị đuổi ra khỏi hoàng cung. Sau khi đã phế hậu và thái tử, U-Vương theo công luận của triều đình, lập Bao Tự làm hoàng hậu và Bá Phục làm thái tử. Ý vua đã định, triều đình nhiều người không bằng lòng, nhưng không có ai dám can ngăn vì sợ bị kết tội là phe đảng của Nghi Cửu và bị trị tội. Bá Dương Phụ trưóc kia là bạn bè thâm giao với Bao Quýnh, trước sự việc này cũng bất bình và xin từ chức. Nhiều quan viên khác cũng bắt chước từ quan theo ông.
 
     Bao Tự dẫu được phong làm chánh cung, nhưng nét mặt lúc nào cũng rầu rầu ủ dột. U-Vương truyền nhạc công và cung nữ vào cung đàn ca múa hát để nhà vua và hoàng hậu uống rượu vui chơi. Bao Tự dù thế nào cũng vẫn không tươi nét mặt. U-Vương hỏi:
 
–   Hoàng Hậu không thích ca nhạc thì thích cái gì?
 
–   Thần thiếp không thích gì cả. Chỉ nhớ hôm xưa tay cầm xé tấm lụa. Tiếng lụa xé nghe thấy cũng vui tai.
 
–   Chỉ có vậy thôi à, sao không cho trẫm biết trước?
 
     U-Vương cười rạng rỡ, truyền mỗi ngày mở kho lấy 100 tấm lụa rồi sai cung nữ đứng xé lụa cho Bao Tự nghe. Trò chơi xé lụa vậy mà gây tác dụng không nhỏ. Nó làm hao tốn công quĩ và làm cho bá tánh mang thêm gánh nặng phải phục vụ triều đình. Bao Tự dẫu hằng ngày được nghe tiếng xé lụa, nhưng vẫn không nở một nụ cười. U-Vương thất vọng lại hỏi:
 
–   Hoàng Hậu nghe tiếng xé lụa mà sao vẫn không thấy vui?
 
–   Được hoàng thượng yêu quí thế này thần thiếp vui lắm chứ, tại sao lại không?
 
–   Nàng vui nhưng sao lại không cười?
 
–   Vốn từ xưa tới giờ thần thiếp chưa bao giờ cười cả.
 
–   Thật hả? Vậy thì trẫm nhất định phải tìm ra cách làm ái hậu cười cho bằng được mới thôi. Nhất định!
 
     Nhà vua nhớ lại chuyện hồi nhỏ trong vườn thượng uyển có một đàn khỉ, tính bắt một vài con đem về cung làm trò để mua vui cho hoàng hậu, nhưng đàn khỉ ngày nay đã bị đưa ra khỏi hoàng thành vì chúng phá phách quá chừng. Vua dẫn hoàng hậu ngự giá ra ngoài dân gian tìm đến nơi có đàn khỉ. Đàn khỉ nay vẫn còn và do một người tiều phu chăm nuôi. Người này không có tên. Người ta gọi ông ta là ông Khỉ. Giống khỉ này là một giống khỉ hiếm quí, chúng được hưởng bổng lộc của triều đình, lại được chăm sóc tử tế nên triều đình thường chỉ dùng để làm quà tặng cho các chư hầu và lân bang. Chúng có bộ lông đen mướt, cũng có nhiều con lông vàng rất đẹp, lại rất thông minh, biết làm trò, và nhất là biết bắt chước tiếng người và các động tác của người ta. Bao Tự thấy đàn khỉ cũng tỏ ra thích thú. Vua liền cho bắt bốn con đen đẹp nhất và khôn nhất trong bầy, đem về cho Bao Tự. Vua hãnh diện khoe với triều thần: đây là tứ trụ điều đình của trẫm. Mỗi khi vua ngự triều đều có đem hoàng hậu cùng với đám khỉ theo. Nghị sự xong, vua thường bắt các con khỉ ra làm trò để triều thần giải trí, cốt để các quan tung hô hoàng hậu cho nàng khoái chí mà cười. Khi làm trò, những con khỉ tỏ ra rất tài nịnh bợ, luôn mồm kêu: hoàng thượng vạn tuế, hoàng hậu thiên tuế, thiên thiên tuế. Có một lần, đang lúc các con khỉ làm trò, thấy hay quá, nhà vua quay sang hoàng hậu hỏi ý kiến để xem nên ban thưởng cho chúng như thế nào. Hoàng hậu không nghe rõ nhà vua muốn hỏi gì, tưởng vua muốn hỏi tên các con khỉ, nàng trả lời gọn một tiếng “Hầu” (hầu tức là khỉ). Lập tức vua truyền chỉ phong hầu cho tất cả bốn con khỉ, gọi là Bá Hầu, Công Hầu, Đình Hầu, và Khắc Hầu, và ban hưởng bổng lộc một vạn hộ. Từ đó khỉ cũng được mang hia, đội mão, mặc triều phục. Mỗi khi vua ngự triều đều có Bao Tự ngồi bên cạnh, và dĩ nhiên các con khỉ qúi cũng có mặt và lon ton bên cạnh Hoàng Hậu. Các quan và mọi người trong triều đều phải gọi các con khỉ này theo tước vị đàng hoàng là Vạn Hộ Bá Hầu đại nhân, hay Vạn Hộ Công Hầu đại nhân v.v.
 
     Cái trò khỉ này làm cả triều thần giận tím mặt, nhưng vì sợ vua nên họ vẫn cố gượng cười để làm vừa lòng thiên tử và hoàng hậu. Bao Tự xem trò khỉ nhưng vẫn cứ ngồi trơ, không nở được lấy dù chỉ một nửa nụ cười.
 
     Vẫn không làm được cho hoàng hậu cười, U-Vương thất vọng, một hôm lên tiếng hỏi triều thần:
 
–   Các ái khanh ai có kế gì làm cho Hoàng hậu cười được thì trẫm sẽ thưởng cho một ngàn lượng vàng.
 
     Quắc Công là tên đại thần giỏi nịnh bợ nhất trong đám quan lại, hiến kế cho vua:
 
–   Tâu Hoàng Thượng, tiên vương ngày xưa có lập ra hơn hai mươi cái chòi dưới chân núi Ly Sơn, lại làm mấy chục cái trống thật lớn, phòng khi có giặc thì đốt lửa ở trên chòi và gióng trống lên để cho các chư hầu biết có biến mà đến cứu. Lâu nay thiên hạ thái bình không được nhìn thấy cảnh đốt lửa bao giờ. Nếu hoàng thượng muốn làm cho hoàng hậu được vui thích thì xin hoàng thượng và hoàng hậu ngự giá thưởng ngoạn phong cảnh Ly Sơn một chuyến. Ban đêm hạ thần sẽ cho bầy yến tiệc ở đó để hoàng thượng và hoàng hậu cùng vui hưởng. Đồng thời thần sẽ cho đốt lửa tại các chòi để báo cho các chư hầu đem quân đến. Đùa cợt với các chư hầu một phen đâu có hại gì. Hoàng Hậu thấy vậy chắc sẽ thích lắm.
 
     U-Vương nghe tâu đắc chí vỗ tay khen:
 
–   Ý kiến rất hay! Khanh cứ thế mà làm.
 
     Chẳng phải Quắc Công có sáng kiến mới mẻ gì, mà đó là gợi ý Bao Tự đã mớm cho hắn từ trước: Bữa nào ta được ra chơi ngoài Ly Sơn xem đốt lửa thì vui biết mấy. Đây là bước chót trong kế sách ba bước tiêu diệt nhà Chu mà ông già Tự Đại đã công phu nghiên cứu và dậy cho con gái. Bước thứ nhất là làm khánh tận công khố bằng việc xây cất cung Quỳnh Đài, việc xé lụa để vui chơi, và những yến tiệc quanh năm suốt tháng trong triều đình. Thứ hai là gây bất mãn làm ly gián giữa các đại thần và thiên tử qua việc phong tước cho khỉ ngang hàng với các đại thần. Sau chót là màn đốt lửa tại Ly Sơn để huỷ diệt sự tin tưởng của các nước chư hầu.
 
     Mọi việc được an bài đúng như kế hoạch của Quắc Công đã tâu trình. U-Vương và hoàng hậu ngự giá tới Ly Sơn. Trịnh Bá Hữu là chú của vua, cũng là một đại thần cảm thấy nguy cơ nên lên tiếng can ngăn nhà vua. Nhưng U-Vương nổi giận mắng lại:
 
–   Ngày nay thiên hạ thái bình, cần gì đến các chư hầu cứu viện. Trẫm cùng hoàng hậu không có gì tiêu khiển, chỉ bỡn chơi với các chư hầu một chút có hề gì. Ngày khác có nguy cấp, can dự gì đến nhà ngươi mà nhà ngươi phải lo cho mệt trí.
 
     Màn đêm vừa buông, vua truyền lệnh khai mạc cái trò chơi đế vương của mình. Ánh lửa bập bùng lập tức nổi lên từ các chòi, soi sáng khắp bầu trời. Khói đen phủ kín núi rừng. Trống đánh, chiêng khua vang lừng bốn cõi. Vua và hoàng hậu trên ngự đài vừa uống rượu vừa nhìn tứ phía thưởng thức trò chơi.
 
     Các chư hầu tưởng có biến, lũ lượt vội vã kéo quân về Ly Sơn. Tới nơi thấy cảnh tượng triều đình bầy ra yến tiệc vui chơi để đánh lừa mình, họ nhìn nhau ngơ ngác và hậm hực tức tối. Bao Tự đứng trên lầu nhìn các chư hầu ào ào kéo tới, rồi lại đùng đùng giận dữ bỏ đi thì thích chí vỗ tay cười vang. Nàng mừng đến rơi nước mắt, mơ ước giá mà lúc này đây, không phải tên hôn quân khốn kiếp, mà là Hồng Đức nghe được tiếng cười của nàng. U-Vương nhìn thấy hoàng hậu cười, rất lấy làm đắc chí, mừng rỡ nói:
 
–   Một tiếng cười của hoàng hậu đủ trăm vẻ đẹp. Thật là Trời không phụ ta. Trẫm thật là thỏa mãn. Chuyện này âu cũng là nhờ cao kiến của Quắc Công mới có. Trẫm phải giữ đúng lời hứa với hắn mới được.
 
     Nói rồi, vua truyền lấy vàng đủ ngàn lượng ra thưởng cho Quắc Công.
 
                                                            / / /
 
     Không bao lâu sau, lần này thì có biến thật.
 
     Thân Hầu cai trị đất Thân là cha  của Thân Hậu tức hoàng hậu bị truất phế và thái tử Nghi Cửu là cháu ngoại của Thân Hầu bất mãn với việc phế lập của U-Vương, mượn quân Khuyển Nhung kéo về tấn công kinh đô Kiểu Kinh. Triều đình đang trong lúc thái bình nên không có phòng bị gì. U-Vương thấy có biến lo xanh mặt, bấn loạn cả lên, dậm chân, đập bàn quát hỏi Quắc Công:
 
–   Khanh có kế gì chống giặc không, nói mau?
 
     Quắc Công run sợ quì sụp xuống tâu:
 
–   Xin Hoàng Thượng mau sai người ra đốt lửa ở Ly-Sơn để kêu quân cứu viện của các chư hầu.
 
–   Khanh chỉ có kế đốt lửa là giỏi. Thôi được, đi làm gấp.
 
     Vua truyền chỉ nhưng vẫn cảm thấy nghi ngờ. Quả thật, không một chư hầu nào đem quân đến cứu vì họ sợ lại bị mắc lừa như lần trước. Vua tôi bấy giờ bàn nhau chỉ còn nước chạy là thượng sách. Mọi người bàn chạy. Chỉ có thái sử Trịnh Bá Hữu, chú của vua, người trước đây đã can vua đừng đốt lửa gạt chư hầu, là còn mang quyết tâm cự địch. Ông đích thân sai người đốt lửa lên một lần nữa. Chư hầu vẫn không một ai đến.
 
     Kinh đô Kiểu Kinh trở thành hoàn toàn tuyệt vọng. Một cảnh hỗn loạn chưa từng thấy xẩy ra. Người sợ chết thì bỏ của chạy để giữ lấy thân. Kẻ sợ mất của ở lại giữ của thì mất cả thân lẫn của. Cướp bóc nổi lên khắp nơi. Những tham quan ngày trước bị giết để trả thù vô số kể. Quân địch chưa đến nơi nhưng vua tôi đã bỏ thành mà chạy trước. Bá tánh lũ lượt bồng bế nhau chạy theo.
 
     Trịnh Bá Hữu phò vua đi trước chạy ra Ly-Sơn, giữa đường bị quân Khuyển Nhung chận đánh và bị giết. U-Vương cũng chết trong trận này.
 
     Bao Tự trước khi ra đi, truyền lệnh cho Quắc Công vào lãnh cung để thả Thân Hậu đang bị giam trong đó. Nàng có ý nhờ tay Thân hậu giết U-Vương và Quắc Công, tên loạn thần số một này, vì Thân hậu biết Quắc Công trước kia đã dâng sớ xin truất phế bà ta. Quắc Công nhận lệnh nhưng hắn không thi hành vì sợ nguy hiểm đến tính mạng.  
 
     Khuyển Nhung người đông thế mạnh tiến vào kinh đô Kiểu Kinh như chỗ không người. Bọn man rợ này tha hồ mà vơ vét, cướp bóc, vì chúng phải sống trong một đất nước vô cùng nghèo nàn và lạc hậu. Thiếu thốn và đói ăn triền miên khiến chúng trở nên thèm khát hết mọi thứ. Chúng tàn phá không thương tiếc cả những tiện nghi mà vì lối sống đã quen thói rừng rú, chúng cho là hoang phí và xa xỉ. Kinh đô Kiểu Kinh dưới gót chân của quân chiếm đóng chẳng mấy chốc trở nên tan hoang, trơ trụi.   
 
     Thân Hầu theo quân Khuyển Nhung mà vào thành. Thân phận kẻ rước cướp vô nhà bị đối xử cũng không hơn gì một tên đầy tớ. Ông ta chẳng có quyền hành gì dưới chế độ ăn cướp của Khuyển Nhung ngoài cái quyền ông ta tự ban phát cho mình là thu giọn những đổ nát mà quân chiếm đóng đã gây ra. Ơn huệ độc nhất quân Khuyển Nhung ban cho ông ta là được phép vô lãnh cung cứu con gái ông. Thân Hầu nghe nói U-Vương đã trốn ra Ly-Sơn liền vội vàng đuổi theo để có ý khuyên vua hàng giặc hầu giữ lại ngai vàng, khôi phục địa vị cho con gái và cháu ngoại của ông. Ông gặp vua Khuyển Nhung ở dọc đường, và được nghe kể về chuyện U-Vương đã bị giết như thế nào. Lúc đó ông mới giật mình chợt tỉnh, thở dài thậm thượt và than:
 
–   Mình chỉ muốn mượn oai hùm để răn thiên tử, không ngờ lại thành ra kẻ phản quốc bất trung. Tiếng đời sẽ cười chê khó mà rửa được.
 
     Vua Khuyển Nhung nghe được, cười lên hô hố, chế nhạo Thân Hầu:
 
–   Quốc cựu thật là ngây thơ giống như con gái mới lớn, lúc nào cũng sợ bị dụ khị.
 
     Bao Tự ra khỏi thành, lén tách rời đoàn xa giá, giắt thái tử Bá Phục và một thị nữ trà trộn vào đám đông, ăn mặc như thường dân, theo đoàn người lánh nạn chạy về phía Bao Thành. Dọc đường, hai mẹ con bị Khuyển Nhung bắt. Chúng giết chết thái tử, còn Bao Tự thấy xinh đẹp, chúng định bắt đem về hầu trong trướng của vua Khuyển Nhung, nhưng nàng tự vẫn mà chết.
 
     Hồng Đức đang ở Bao Thành nghe tin kinh thành bị thất thủ, vội trở về để đi tìm Bao Tự. Trên đường chàng chứng kiến bao nhiêu là thảm cảnh của chiến tranh. Những bãi chiến trường còn vương mùi tử khí. Binh khí vương vãi khắp nơi không ai thèm lượm. Xác chết rải rác không có người chôn. Từng đoàn người lôi thôi, lếch thếch, lang thang không định hướng, không được tiếp tế. cũng chẳng được ai giúp đỡ. Mọi người đều phải tự sinh, và không thiếu người đã phải tự diệt. Hồng Đức đi từ sáng tới chiều, hỏi thăm từng người, lật xem từng xác chết trên đường. Cuối cùng chàng may mắn tìm được Bao Tự chết nằm bên bờ một con suối. Xem chừng nàng cũng mới chết chưa bao lâu. Một mũi đao xuyên qua ngực, đúng vào tim. Đao vẫn còn nằm trong đó. Máu khô bết lại nhuộm đỏ hết xiêm y. Chàng cẩn thận lục xét chung quanh tìm Bá Phục, nhưng không thấy. Chàng gói xác Bao Tự lại tươm tất cho lên xe rồi đẩy về xóm Hạc Lâm.
 
     Mái tranh xưa vẫn còn đó nhưng dột nát và tồi tàn đi nhiều. Ông già Tự Đại lọm khọm chống gậy ra nhận xác con gái. Lão đã già đi, tiều tụy và thiểu não, vẻ tinh anh đã biến mất. Hai người chôn xác Bao Tự bên cạnh căn nhà. Ông già lấy từ trong nhà ra một cái thúng nhỏ và một gói đồ. Cái thúng bằng mây đan rất tinh xảo. Gói đồ gồm một tấm nệm gấm nhỏ mầu hồng nhạt, và một vuông mền mỏng bằng lụa quí có thêu hoa ngũ sắc. Ông trao tất cả những thứ ấy cho Hồng Đức và nói:
 
–   Của nó. Nên đem theo cho nó.
 
     Hồng Đức đốt những thứ đó chung cùng với vàng mã khi hạ huyệt. Chàng thắp nhang, đứng trước ngôi mộ, nghẹn ngào nói với ông già:
 
–   Đây là người vợ yêu quí của con. Chúng con đã thành thân và đã có con. Cả hai mẹ con nàng đã vì con mà hy sinh mạng sống.
 
     Ông già không giám nhìn thẳng vào cảnh tượng trước mắt, hai tay ông run run, mắt nhắm nghiền, giọng thều thào như hơi gió:
 
–   Không phải vì một mình công tử không thôi, mà còn vì thiên hạ bá tánh nữa. Bây giờ thì con gái lão đang đoàn tụ với cả hai người mẹ của nó rồi. Nó đã có thể vui cười thoải mái như ý nó. Đây là cái giá phải trả cho một mơ ước đạt thành. Công tử cũng đừng quá đau buồn, nên vui lên mới phải vì các con đã trả được thù nhà và đã đền được nợ nước.
 
     Xóm Hạc Lâm đón đứa con thân yêu của nó trở về. Trời Hạc Lâm vẫn xanh. Rừng cây xanh. Đồi núi xanh. Và dòng sông xanh quanh co uốn khúc. Đứa con của Hạc Lâm có cái tên Bao Tự đã hoàn thành xuất sắc một sứ mạng cao cả. Giờ đây nàng xứng đáng được yên nghỉ giữa cái không gian đầy mầu xanh tươi đẹp này của Rừng Hạc.
 
 
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Theo: Văn Thơ Lạc Việt



BÔNG HỒNG NHUNG THỨ TÁM

Khi đưa Hằng lên phòng, Trí có cái phong cách của một người đàn ông đưa người tình vào khách sạn. Anh thản nhiên đến bên giường, ghé ngồi xuống, tháo giầy tháo vớ, rồi đến bên bà Hằng xoay mặt bà đối diện với anh. Bà Hằng chưa kịp phản ứng thì Trí đã khóa bà lại trong tay anh và hôn tới tấp trên mặt trên cổ bà.

BÔNG HỒNG NHUNG THỨ TÁM
Trần Mộng Tú
 
      Bà Hằng liếc vội vào trong chiếc gương nhỏ, thoa chút má hồng trên má, một mầu son thật nhạt. Bà không dám trang điểm mạnh sợ trông già, bà đã kín đáo ăn mặc trẻ trung hơn số tuổi của mình. Chỉ còn hai mươi phút nữa máy bay đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, người đàn ông trẻ hơn bà mười lăm tuổi sẽ đón bà bên dưới. Bà thấy hồi hộp chen lẫn một chút ngượng ngùng.
    Cả ba tháng nay bà đã e-meo, gửi ảnh, nói điện thoại với Trí. Trí bằng tuổi em út bà, nhưng Trí rất lịch lãm, nhìn trong hình thấy khá sáng sủa, Trí có giọng nói ấâm, không kiểu cách, Trí cho biết đang làm giám đốc một công ty du lịch tư nhân, hùn vốn với hai người bạn. Trí sẵn sàng làm người hướng dẫn viên, người yêu của bà Hằng sau ba tháng hai người biết nhau nhưng chưa biết mặt. Trí nói chưa lập gia đình bao giờ, bà Hằng vừa hoàn tất thủ tục ly dị được sáu tháng, không phải nuôi con nhỏ.
“Thật là tuyệt!” Trí nói tiếp
“Hằng hiểu là tình yêu không có tuổi phải không? Hằng ở trong hình không thể nào ở tuổi 55 được, ở ngoài chắc Hằng còn trẻ nữa”
Hằng giao cửa tiệm One Hour Photo của mình cho một người anh họ, về Việt Nam gặp Trí, với mọi người trong gia đình bà giấu, chỉ nói là nghỉ về thăm quê, thăm họ hàng.
 Trí đón bà Hằng với bó hồng nhung bẩy bông đỏ thẫm. Bà Hằng hơi khựïng lại một chút khi thấy Trí trẻ hơn trong hình rất nhiều, người đàn ông Việt Nam ở tuổi 40 ăn mặc không khác gì những người đàn ông Việt Nam  có tiền ở Mỹ. Quần xám đậm, áo xám nhạt ngắn tay, cà vạt vàng nhạt, hơi nới lỏng (cố ý) một chút để khoe một cái cổ ngăm ngăm hồng, khỏe mạnh.
Trí thuê một chiếc xe Camry còn mới, tự lái. Trí mở máy lạnh tối đa trước khi bà Hằng bước vào xe. Trí nhìn rõ cái bối rối của bà Hằng, Trí nhẹ nhàng trấn an bằng một câu hỏi:
   “Hằng có biết tại sao lại là 7 bông hồng mà không là 8 hay là 10?”
Bà Hằng chưa kịp trả lời thì Trí mỉm cười, giọng ấm áp nói tiếp:
    “Vì Hằng chính là bông thứ 8 rồi. Người Pháp không bao giờ tặng hoa cho phụ nữ ở số chẵn cả, vì họ luôn luôn kể nàng là một bông”
Bà Hằng lặng người đi một giây, từ lúc xuống máy bay đến phút này, bà mới gật đầu chào Trí, chưa nói được tiếng nào. Khi rời Mỹ, bà rất tự tin, bà nghĩ dầu sao bà ở Mỹ lâu năm, tiếp cận đời sống văn minh hơn, nói tiếng Mỹ khá hơn và trẻ hơn những người đàn bà khác cùng tuổi bà ở Việt Nam rất nhiều, Trí sẽ thán phục, và mê bà rất nhanh.
Trí đã lấy sẵn buồng trong Continental cho bà, sau khi làm thủ tục giấy tờ, Trí không hấp tấp nhận phòng, anh cất chìa khóa của bà vào túi áo mình. Với cử chỉ lịch lãm, tự nhiên, anh nâng nhẹ khuỷu tay bà Hằng nói:
“Hằng cần uống một chút gì cho mát trước khi lên phòng”
 Bà Hằng gọi một ly nước dừa tươi, trong khi Trí uống bia. Hai người im lặng nhìn nhau. Đây là lúc cả hai cùng định giá kể đối diện. Trí uống một ngụm bia, nheo mắt nhìn bà Hằng một giây, khẽ mỉm cười, rồi ngửa cổ ra đằng sau hơi duỗi người ra một chút trên ghế, chiếc sơ mi mỏng cho khí hậu nhiệt đới bám sát vào mình chàng, cho bà Hằng nhìn rõ thân thể còn quyến rũ của người đàn ông trẻ, bà bối rối nhìn vào cây hoa bông giấy qua vai Trí. Trí như đọc được tư tưởng của bà Hằng, nói một câu vừa khen vừa trấn an:
 “Hằng trẻ hơn tôi hình dung nhiều”
 Bà Hằng tuy hài lòng, nhưng bắt đầu cảm thấy hơi bất an.
 Khi đưa Hằng lên phòng, Trí có cái phong cách của một người đàn ông đưa người tình vào khách sạn. Anh thản nhiên đến bên giường, ghé ngồi xuống, tháo giầy tháo vớ, rồi đến bên bà Hằng xoay mặt bà đối diện với anh. Bà Hằng chưa kịp phản ứng thì Trí đã khóa bà lại trong tay anh và hôn tới tấp trên mặt trên cổ bà. Khi bà vừa kịp nhập vào đà cuốn hút của Trí, thì  lại đúng lúc Trí buông bà ra. Anh cúi xuống đi vớ đi giầy, nói nhẹ nhàng với bà:
“Em nghỉ một chút cho thoải mái, Tôi sẽ trở lại đón em chiều nay, mình đi ăn, đi chơi.”
 Chữ “em” Trí gọi bà, làm bà quên bẵng đi cái khoảng cách 15 năm giữa bà và Trí.
   Bà Hằng ở lại Việt Nam hai tuần, bà tiêu đến đồng mỹ kim cuối cùng của  số tiền tám ngàn mang về. Trong đó có tiền khách sạn, tiền du lịch, tiền may sắm cho người tình trẻ. Bà không hối hận, bà tự nhủ ” Nếu như Trí có quên bà ngay, sau khi bà rời Việt Nam thì cũng là chuyện tất nhiên, bà nhiều tuổi hơn Trí quá, bà chẳng trông mong gì một mối tình lâu dài. Đây là một sự trao đổi lịch sự. Cả hai cùng biết giá của món hàng mình phải trả”
Nhưng thật sự bà Hằng có hạnh phúc trong hai tuần lễ đó không thì chỉ có mình bà trảï lời được. Cách đây 3 năm, ông Tâm chồng bà, đã về Việt Nam lấy một người con gái hơn con gái đầu lòng của ông bà hai tuổi. Ông Tâm lấy lén lút, và tìm cách cứ vài tháng lại vềâ du lịch Việt Nam một mình. Bà Hằng biết được, ông Tâm ra điều kiện li dị hẳn hay chấp nhận cho ông một cảnh hai quê. Bà Hằng vì tự ái, chọn giải pháp li dị.
Để trả thù, bà đi mỹ viện chỉnh trang lại nhan sắc, đi ghi tên tập thể dục thẩm mỹ, đi học khiêu vũ, và cuối cùng bà nghe lời bè bạn, vào internet tìm bạn phương xa. Phong trào về Việt Nam tìm bạn trai trẻ tuổi hơn mình không còn là vấn đề phải tránh né khi đề cập đến. Đã có nhiều bà bạn hơn bà 5,6 tuổi. Nghĩa là đã sáu mươi vẫn kiếm được người yêu, người bồ kém mình mười tuổi rất thường. Các bà quan niệm đàn bà sống lâu, trẻ dai hơn đàn ông, nhất là đàn bà sống ở Mỹ. Tiền bạc và những tiện nghi vật chất đã giúp các bà không những có bề ngoài trẻ trung mà trong tâm họ cũng quên đi một số năm tháng đã đi qua đời mình.
 Trong hai tuần ở Việt Nam, bà Hằng được Trí chiều chuộng hết sức, coi bà như một người tình bé bỏng. Khi Trí dưa bà lên núi thì bà tưởng chàng là Sơn Tinh, vì chàng vừa leo dốc vừa đỡ bà mà không biết mệt, khi chàng đưa bà xuốùng biển thì bà ngỡ chàng là Thủy Tinh vì chàng bơi giỏi quá, thân thể chàng còn đẹp quá! Bà mơ màng nghĩ kiếp trước có thể bà là Mỵ Nương con của vua Hùng Vương thứ 18 nên kiếp này mới gặp Trí. Chỉ khi Trí tiêu tiền của bà thì bà hơi hốt hoảng, nhưng bà vội nhủ lòng. “Tiền bạc mà làm gì, lúc chết đâu đem theo được, hãy tận hưởng mối tình cuối đời, ta đang mua hạnh phúc mà”
Bà Hằng ngồi trên máy bay trở về Mỹ, nhìn qua khung cửa sổ nghĩ đến Trí đang đi tìm mua một bó hồng nhung 7 đóa để đón một người đàn bà khác trong chuyến bay sắp tới. Bà hình dung ra nét cười nhẹ, cử chỉ lịch lãm, giọng nói ấm áp của Trí khi nói về bông hoa thứ 8 với một người đàn bà ít ra cũng hơn chàng cả 10 tuổi.
Phi đạo xa dần, nhà cửa bé lại, cây cỏ mờ nhạt. Tất cả bỗng biến mất chỉ còn lại những từng khí quyển chồng lên nhau như ngàn chiếc dù trắng, xóa sạch cả núi của Sơn Tinh, cả biển của Thủy Tinh….. . . Bà Hằng ôm ngực kêu lên trong cuống họng:
” Ôi Mỵ Nương!”

Trần Mộng Tú
Theo: Văn Thơ Lạc Việt



TỪ SƠN LA

…Cho đến bây giờ không biết vì lý do nào mà tên thượng úy hầm hừ ấy đã bỏ qua cho chúng tôi. Có thể vì những tấm mộ bia, nghĩ đến những người anh em xấu số của chúng tôi đã chết vì đói lạnh… hoặc là phong thái “đại hùng, đại lực, đại từ bi” của con nhà Phật trong phút giây nào đó đã khơi dậy được “chút tính người còn sót lại” trong y?

TỪ SƠN LA
Trời Sydney năm nay lạnh hơn mọi năm. Đêm đông buốt giá, phải trở dậy kiếm cái heater. Mở đèn lên, nhìn ra ngoài vườn, sương đêm đã đọng thành một màn băng mỏng. Nhìn màn băng mỏng trên sân, ký ức tôi bỗng trở về cái lạnh buốt xương năm 1976, khi tù cải tạo miền Nam năm đầu tiên ra Bắc. Tụi tôi được “chiếu cố” cho ở Sơn La, địa danh nổi tiếng “Nước Sơn La, ma Vạn Bú”. “Sơn La âm u, núi khuất trong sương mù”.
   Tù cải tạo thuộc trại 1, liên trại 2 được phân ra ở trong trại tù Sơn La thời Pháp thuộc. Sau nhiều cuộc biến thiên, nhất là sau vụ ném bom miền Bắc, các trại tù này đã đổ nát, chỉ còn lại cái nền xi măng. Nhà tù đã đổ bây giờ được che tạm bằng ni lông, hoặc lợp bằng tranh mỏng. Sơn La là miền cao nên lạnh sớm. Mới tháng 11 gió bấc đã lồng lộng thổi về. Đến cuối tháng 12, lạnh vào cao điểm… Chậu nước để ngoài sân, qua đêm đã đọng thành băng mỏng bên trên.
Tù thì nóng cũng khổ, lạnh cũng khổ. Nhưng nóng thì đôi khi còn trốn được. Tạt vào một lùm cây hoặc là tạm ngâm mình xuống ao, xuống suối. Còn lạnh thì không trốn vào đâu được, nó theo mình suốt ngày, suốt đêm. Nhất là anh em trong Nam ra cứ yên trí là “học tập một tháng”, nên quần áo đem đi làm gì nhiều cho nặng. Ra ngoài Bắc đụng cái buốt giá của mùa đông thượng du miền Bắc, thêm mưa phùn ẩm ướt nên cái lạnh lại càng thấm thía. Ban đêm cái nền xi măng trong nhà tù nó lạnh như nước đá, mặc đủ thứ áo quần hiện có mà vẫn lạnh, mặc cả áo mưa đi ngủ, có anh chui vào
một cái bao tải vừa kiếm được mà vẫn cứ run. Hóa ra cái lạnh ở ngoài vào thì ít mà cái lạnh ở trong ra thì nhiều. Cái lạnh vì đói cơm nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo.

Hồi đó nằm cạnh bên tôi là hai người bạn tù cùng trong đội rau… Một ông nguyên là dân Thiết Giáp, một ông nguyên là Thượng Tọa (giám đốc nha Tuyên Úy Phật giáo). Ông Thiết Giáp trước đây vốn là một tay hào hoa rất mực.
Ông thuộc loại “Tây con”, học trường danh tiếng Saumur, đánh giặc rất chì, ăn chơi rất bảnh… Đôi lần tâm sự vụn, ổng rút trong ngực áo ra có tấm ví có hình một bà rất đẹp, rất mignonne mà khẽ nói “bà xã
moi”. Đôi mắt đục và nhăn vì đói lạnh của ông chợt sáng lên khi nhìn lại hình ảnh vợ. Mới đây ổng vừa nhận được một gói quà 1kg đầu tiên từ trong Nam gửi ra. Ông hy vọng lắm vì có người nhận được ít thịt khô, ít ruốc chà bông. Gói quà của ông, xem đi xem lại mãi chỉ có một cái áo lạnh và đặc biệt có hai
cái quần slip màu hồng nhạt, chắc là của phái nữ. Tôi không tiện tò mò, hỏi han về việc riêng của bạn nhưng tôi chắc bà xã của bạn phải yêu thương lắm, phải lãng mạn lắm mới gửi món quà để “tưởng nhớ một mùi hương” như vậỵ. Đôi khi rảnh rỗi, ông bạn tù hàng xóm của tôi lại khẽ giở món quà
đặc biệt ra hồi tưởng…
Trước đây ông bạn tôi thường hút Luckỵ. Đi cải tạo ông mang theo một cái pipe Dunhill và vài hộp thuốc Half and Half. Nhưng đã lâu rồi hết thuốc hút pipe, ổng cũng như mọi người khác hút thuốc lào. Quá nửa đời người rồi mới biết cái hấp dẫn của thuốc lào. Nhất là mùa rét, sáng sớm tinh mơ ngồi dậy, hút một điếu đầu tiên trong ngày, cho nó say lơ mơ quên trời, quên đất, quên cảnh lên voi xuống chó, quên luôn cảnh lưu đày tù tội. Ôi phút tuyệt vờị…Thuốc lào hấp dẫn như vậy nên trong tù
đã có thành ngữ “Có thuốc lào là có tất cả”. Nhưng ở miền Bắc cái cần thiết nhất là gạo, ăn còn không đủ thì lấy đâu ra thuốc lào cho tù. Đành trông chờ vào quà của gia đình gửi tới. Nhưng trong những chuyến gửi quà đầu tiên, có mấy ai được  nhận thuốc lào. Thuốc lào thành của hiếm…
Ở trong tù cái gì thiếu cũng chấp nhận được, nhưng thiếu thuốc lào là một thiếu thốn rất lớn lao. Thuốc lào không những làm quên hiện tại mà thuốc lào còn là dấu móc để người tù cải tạo thêm kiên nhẫn đi tiếp cuộc đời tù dằng dặc. Trong trại không có ai có quyền đeo đồng hồ. Phải gửi đồng hồ cũng như những đồ tùy thân có giá ở trại. Ngày ngày đi làm, cuộc sống khổ sai nhọc nhằn, đời tù hun hút, thời gian mịt mờ.
Trong khi đó quy định của trại giam cứ một tiếng rưỡi đồng hồ lao động là có “kẻng” nghỉ 10 phút “hút thuốc, uống nước”. Điếu thuốc lào ở trên một cái đích gần gũi để người tù vươn tới, một đoạn đường dù ngắn nhưng sắp đến nơi. Nó cũng là một an ủi nhỏ sau hơn một giờ cực nhọc. Vì vậy nên dù khó kiếm, dù đắt đỏ, cũng không ai muốn bỏ thuốc lào. Những tay có thuốc lào thấy vậy nên càng ngày càng lên giá. Một phần ăn sáng (một phần tư chiếc bánh mì luộc) trước đổi được 5 điếu thuốc lào, sau
xuống giá còn 3, rồi còn 2 điếu… Người ta sẵn sàng quên đi cái đói để đổi lấy một vài phút say quên.
Anh bạn tù hàng xóm của tôi, nghiền thuốc lào quá nặng, rét đến nơi mà không thuốc hút. Anh liền lấy cái pipe Dunhill nổi tiếng của Ăng lê ra đổi thuốc lào. Được chừng 10 hôm là hết thuốc. Có người mách lấy lá ngải cứu phơi khô thái nhỏ hút vô nghe được lắm. Anh bạn tôi nghe lời, phơi đi phơi lại lá ngải cứu trộn thêm với nước điếu và một chút nước mắm, một chút đường. Hôm hoàn thành thuốc lào
ngải cứu, anh có mời tôi hút thử, cũng thấy say say nhưng không êm bằng thuốc lào, mà rát cổ họng. Ông bạn tù Thượng tọa mới bảo rằng không nên hút cái giống ấy, hao người, hao phổi. Nhưng anh bạn tôi thèm thuốc quá cứ hút thuốc ngải cứu cho đỡ thèm. Một hôm, vừa hút xong, chưa kịp đặt cái điếu cày xuống, máu mũi anh đã chảy ròng  ròng.,..

 Mùa đông đầu tiên ngoài Bắc, anh bạn tù hào hoa một thuở của tôi vừa đói, vừa lạnh, vừa thèm thuốc. Theo anh thì mùa lạnh ở VN khó chịu hơn bên Tây nhiều mà lạnh nhất là hai cái taị “Nhiều khi tôi cứ tưởng hai cái tai lạnh cóng của tôi nó rụng mất rồi”. Anh vừa nói, vừa run lập cập. Một buổi tối trời vừa lạnh, vừa mưa, lán lợp giấy nilong, nước mưa giột tí tách, anh bạn tù của tôi chợt có sáng
kiến mớị Anh lấy chiếc quần slip của vợ gửi cho chụp lên đầu, kéo sụp xuống tận mí mắt, che kín hai taị Trong cái chập choạng của một ngọn đèn dầu hỏa, tôi thấy anh “không giống ai”, mà trên thế giới này chắc không thể có một cái mũ, cái nón nào ly kỳ đến vậỵ Anh nhếch một nụ cười, vừa hài lòng
vừa ngượng ngập và khẽ nói: “Cho nó  ấm hai cái tai mà đỡ nhớ thương vợ con, ông ạ…”
Dạo ấy, tù cải tạo còn thuộc quyền quân quản, thuộc Bộ quốc phòng, chưa thuộc Bộ nội vụ. Quân đội trông nom tù, chưa phải công an. Anh em chưa phải vào các trại tù mà ở trong các lán, có dây thép gai bao quanh và bộ đội canh gác ở ngoài. Buổi tối chưa có lệ vào phòng giam, xích cửa lại, gióng sắt đưa lên giam tù trong đó suốt đêm, sáng mai mới tháo xích, mở cửa, ăn uống, ỉa đái trong đó luôn như các trại tù công an sau này. Nhưng mỗi tuần vài ba lần thế nào quân đội Vi Xi cũng có kiểm tra đột xuất,
mà kiểm tra thường vào ban đêm. Nghe tiếng còi gắt gỏng rít lên là anh em phải vội vàng trở dậy, mắt nhắm mắt mở chạy ra sân đứng xếp hàng 2 để cho cán bộ kiểm soát. Anh “lán trưởng” sau khi kiểm lại số người trong lán, đứng nghiêm báo cáo. –  Báo cáo cán bộ, lán 4 trại 1, 30 người đủ. Tên Thượng úy chính trị viên cầm đèn pin, đứng cạnh một anh lính mang AK tùy tùng, hất đầu ra lệnh:
– Được, cho vào.
Tù hàng hai lần lượt kéo nhau vô lán. Anh bạn tù Thiết Giáp của tôi đang giở thức giở ngủ nên lật đật cứ đội nguyên cái “mũ” không giống ai ra xếp hàng. Khi anh vừa đi qua tên Thượng úy, chợt có tiếng giật giọng:
– Anh kia đứng nại.
Tất cả anh em vô lán hết, chỉ còn NVP Thiết giáp đứng co ro ngoài cửạ Anh em lắng nghe cuộc
đối thoại bên ngoài:
– Cái này là cái gì?
– Dạ… cái quần…
– Ở đâu ra?
– Vợ tôi gửi cho tôi.
– Tại sao mà anh “nại” đội cái quần
của vợ anh…
– Tại trời lạnh quá… mà không có mũ…
– À, anh này bôi bác chế độ. Anh tên gì? Mai
nên nàm việc…

Tên Thượng úy Vi Xi này anh em trong trại đặt tên là “Thượng úy Không No”. Tuần nào sáng thứ Hai, y cũng lên lớp anh em về mọi thứ chuyện trên trời, dưới biển. Nói thì ngọng líu, ngọng lo, “l” đánh ra “n”
nhưng lúc nào cũng thở ra giọng “đỉnh cao trí tuệ”. Một hôm trong đề tài “an tâm học tập, cải tạo” y ta lên tiếng: “Các anh không no, gia đình các anh không no, nhân dân không no, đã có đảng và nhà nước no”. Mọi khi, y ta nói trời trăng mây nước gì, tù cũng cứ ậm ừ, coi như gác bỏ ngoài tai. Bữa ấy, khi vừa nghe y nói tới đó, đám bạn tù cải tạo bỗng phát lên một trận cười rầm rĩ cũng với tiếng vỗ tay vang dậy. Y ta tưởng bở, lại càng đỏ mặt tía tai lên mà nói tiếp…
Nhưng sau này không biết có tên “thối mồm” nào đó mới lý giải cái cười rôm rả và tiếng vỗ tay không ngớt của tù cải tạo cho y. Y ta giận lắm. Giận lắm nên y hành hạ anh em tù sát ván. Một anh bạn tù đói quá, nhổ trộm khoai mì (sắn) mọc trên sườn non. Trước đây, cái tội như thế này chỉ bị cảnh
cáo trước đội, rồi viết kiểm điểm “rút kinh nghiệm” là xong. Kỳ này, chính trị viên “Không no” liền nhốt anh bạn nhổ trộm sắn 1 tuần vào trong cái cũi dây thép gai, một kỳ công của đỉnh cao trí tuệ. Đây là một túp lều, nhưng một túp lều quây bằng dây kẽm gai. Không có tường mái, chỉ có một tấm bạt được coi như mái lềụ Ở trong dây thép gai quấn ngang dọc, chằng chịt cao thấp. Người vô ở trong đó phải cẩn thận lắm không thì bị gai cào  rách lưng, rách mặt, đặc biệt là ngồi không được vì thấp quá, nằm cũng không được vì không đủ chỗ. Lúc nào cũng phải nửa nằm, nửa ngồi cứ lom khom, lom khom…
Chính trong thời điểm này anh bạn tù Thiết Giáp của tôi lên gặp “y ta làm việc”. Khi về NVT mặt mũi chảy dài. Anh cho hay là cán bộ “không no” tuyên bố không cho anh đội cái mũ “thiếu văn hóa” ấy nữa. Anh phải làm kiểm điểm” hứa trước đảng và nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh lệnh của cán bộ”. Buổi tối, bên ngọn đèn dầu tuôn khói mịt mù, anh bạn thiết giáp của tôi thở phào phào ngồi viết kiểm điểm, vừa viết vừa run vì đói lạnh, vì không có cái mũ che tai…
Chợt ông bạn hàng xóm bên phải của tôi là Thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc nha
tuyên úy Phật giáo) từ từ lên tiếng:
– Đừng có lo, rồi đâu có đó…
Nói xong, ông khẽ lục trong đám quần áo của ông lấy ra một tấm áo nâu dài, tấm áo “Thượng tọa” của ông mà đưa cho ông Thiết Giáp.
– Hãy cứ quấn cái áo này lên đầu cho ấm…
Rồi ta tính…
Chúng tôi, ông Thượng tọa, ông Thiết Giáp, và tôi, là 3 người trong số 1 tổ “tam tam” trong đội rau. Ba người chúng tôi phụ trách một khu rau ở bên bờ suối, cạnh bệnh xá và khu B dưới gốc cây lim già… Chúng tôi cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm… nên hiểu nhau nhiều lắm.
Được làm với ông già này là một điều may mắn lớn. Vì ông Thiết Giáp với tôi, từ xưa đến giờ đâu có biết cày cuốc, trồng rau trồng củ ra làm sao đâu. Ông già Thượng tọa chỉ vẽ cho chúng tôi hết thảy. Từ cách cầm cái cuốc, cái thế đứng khi cuốc phải như thế nào? Cuốc hùng hục “như trâu đánh mả”
như tôi là không được. Cuốc như thế là “cuốc lật” dành cho việc cuốc ruộng, cuốc vườn. Ở đây trồng rau thì cuốc phải “đầm”, nhẹ nhàng, từ tốn như mưa dầm, mưa lâu thấm đất. Cuốc hùng hục như tôi
thì sức đâu mà cuốc cả ngày cả buổi. Ông cụ còn chỉ cách sử dụng các loại cuốc thật nhỏ, chỉ lớn hơn
cái bay thợ nề một chút thôi. Rồi còn ủ phân, pha nước tiểu, tưới bón, trồng trọt…
Mỗi loại rau, mỗi thời kỳ đều tưới bón khác nhau, lúc nhỏ tưới bón khác, lúc lớn phải bón thúc lại khác. Bây giờ chúng tôi đang trồng rau cải ngồn ngộn, những trái su hào no tròn…
Đi tưới nước giữa hai hàng cây cải tốt tươi, tiếng vòi nước hoa sen dội vào lá cải nghe rào rào, ông cụ ung dung làm việc, thần thái an nhiên. Ngoại cảnh hình như không ảnh hưởng được đến ông cụ. Ông giống như một ông già nhà quê thuần hậu, quanh quẩn bên cây lá trong vườn. Ông hình như không lo, không sợ cái gì.
Ông nói ít, cái câu thường thấy ở ông cụ là:
“Đừng có lo, rồi đâu có đó”…
Để cho cái việc của ông bạn Thiết GIáp “đâu có đó” đối phó với anh thượng úy “không no”, ông cụ Thanh Long một ngày chủ nhật sau đó liền cắt cái vạt áo dài nâu “Thượng tọa” của ông lấy vải may cho
ông bạn Thiết Giáp một cái mũ đội đầu. Bàn tay già nua run rẩy (năm ấy 1976 ông cụ đã 63 tuổi) đường kim mũi chỉ cũng thô sơ vụng về nhưng ông bạn Thiết Giáp đón nhận cái mũ mà rưng rưng xúc động. Ông cụ đã cắt chiếc đạo y ra may mũ. Ai cũng tiếc chiếc áo dài theo ông cụ đã lâu, chắc mang nhiều kỷ niệm tu hành của một vị cao tăng, nhưng ông cụ chỉ cười xòa mà nói: “Thì nó cũng chỉ là cái
áo…”
Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay. Đúng là “giậu đổ bìm leo”, vào cái lúc mà tù cải tạo ra Bắc, lại đụng ngay một trận rét kinh hồn… Mà xưa nay cái lạnh và cái đói nó có liên hệ “hữu cơ” với nhau. Càng đói thì càng rét – mà càng rét thì càng đói. Anh em ta đã có người “nằm xuống” vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng 17 tháng 11 năm 1976 bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không rõ là ngày 3 hay 13 tháng giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Quý Thuyết tòa án quân sự vùng 4 cũng đi luôn, đi
rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh cứng từ lúc nào rồi. Trong tờ khai của  đội trưởng đội của anh NQ Thuyết, có nói rằng “Anh NQ Thuyết được đội cử nuôi heo, anh đói quá nên thường ăn vụng cám heo. Chắc là bị ngộ độc nên đã
chết”.
Ở xứ thượng du này có cái rất sẵn là đá và cỏ. Những bữa trời quang mây tạnh, trèo lên núi kiếm lá về ủ phân, thấy bát ngát toàn núi là núi. Những chỏm núi gần xa, chập chùng ngút mắt trông giống y như một màng lưới bao la mà mỗi ngọn núi là một mắt lưới. Sơn la: lưới núi. Hay thật, đúng y như thế thật. Tù mà ở trong cái lưới núi này thì chạy đi đâu cho thoát. Vì nhiều núi nên có nhiều loại đá. Một
bạn tù trẻ tuổi ở khu B bên cạnh, Vũ Xuân Th. tay biệt kích dù mũ xanh kiệt hiệt có khá nhiều tài: đóng ciné, điêu khắc, vẽ, đánh bóng chuyền có hạng, mưu sinh kỳ tài… Bây giờ Vũ Xuân Th. kiếm ăn lần hồi những khi rảnh rỗi bằng cách chọn đá marble về gọt thành nõ điếu hút thuốc lào. Nõ điếu made in Vũ Xuân Th. thì khỏi nói, vừa  đẹp vừa có khắc hoa, khắc chữ (theo yêu cầu) vừa kêu ròn rã không thể tả. Giá rẻ thôi: một ký sắn hay 2 cục đường tán 1 cái. Tôi và Vũ Xuân Th. là chỗ “bồ tèo” nên Vũ Xuân Th. có tặng một cái nõ điếu tuyệt vời: rất kêu (cái này là dĩ nhiên rồi) mặt trước có khắc nổi hình một con diều hâu đậu trên cành thông, một bên là một đóa hoa hồng, một bên nữa là khắc năm tháng… Khi đem tặng cái nõ điếu, Vũ Xuân Th. mới “bốc láo” rằng:
-“Một đóa hồng cho đại bàng cô đơn đây”.
-“Đại bàng đại biếc gì nữa ông ơi, đáng lẽ ông phải khắc một con quạ già mắc bẫy”.
Trong khi đó ông bạn già Thượng tọa của tôi cũng đi kiếm đâu được mấy mảnh đá dài dài.
Lúc nào rỗi rãi lại thấy ông cụ ra bờ suối mài mài, đục đục…. Một hôm tôi thấy trong lều dụng cụ của tổ rau tụi tôi, hình dạng hai tấm bia đá thô sơ có khắc tên Vũ Văn Sâm, mất ngàỵ.., Ngô Quý Thuyết mất ngàỵ..

Tôi nhấc tấm mộ bia lên, nhìn ông cụ? Ông cụ ngó mông ra khoảng rừng núi chập chùng mà nói:
“Thì cũng mong đánh dấu được vài nắm xương tàn.”
Một sáng mùa đông vào khoảng nửa buổi, tôi đang lặc lè 2 thùng “ô doa” (arrosoir) tưới nốt cho khoảng vườn rau trước mặt, gần nhà bếp khu B thì bỗng có tiếng gọi khe khẽ, khẩn trương:
– Này, này?
– Ai đấy?
– Vũ Xuân Th. đây.
– Làm gì đấy?
– Bữa này làm “chảo trưởng”. Thổi cơm nhà bếp. Ăn cháy không?
Tại sao mà bạn ta hôm nay lại hỏi một câu “thừa thãi” như thế nhỉ. Tôi và Vũ Xuân Th. đều là dân “volley”. Tôi thì già rồi còn Th. thì đang sức. Trong làng “bóng chuyền” tụi tôi, mỗi khi mà cây nêu lỡ tay
nêu sang lưới bên kia thì dân bóng chuyền kêu bằng “cơm nắm cho tù”, nghĩa là đối phương được biếu không một trái banh ngon lắm, bổ lắm, chắc ăn lắm, ít khi có lắm. Bây giờ chúng ta là tù “chính cống bà lang trọc” rồi, đói lòi xương, vàng mắt mà lại còn hỏi “có ăn cháy không?”. Chừng như nhận ra
sự vô duyên của mình, Vũ Xuân Th. vội nói:
– Chạy ra góc vườn lấy mảnh lá chuối lại đâỵ
– Có ngay.
Sau đó từ cái lỗ mắt cáo của hàng rào nhà bếp khu B, qua đám lá duối và dây leo bìm bìm, tôi nhận được từ bạn ta Vũ Xuân Th. một cái gói lá chuối âm ấm, nóng nóng. Để ngay cái gói này áp sát vào bụng, mà đi về dưới gốc lim già bên bờ suối, nơi cái lều nhỏ của tiểu tổ chúng tôi.. Ôi chao, cái làn da bụng lép kẹp của tôi đang được sưởi ấm, đang được phỉnh nịnh. Cái may mắn này ít khi có lắm. Tôi
phi về như bay. “Tây con” Thiết Giáp thấy tôi mặt mày tươi rói liền ngẩng đầu lên hỏi:
– Cái gì mà hí hửng thế?
Tôi bước vô lều, nhìn trước nhìn sau, rút từ trong bụng ra gói lá chuối còn tươm khó. Mở ra, miếng cháy vàng rộm, nóng hổi, đang bốc hơi.
“Tây con” sáng mắt ra, vội hỏi:
– Ở đâu ra thế?
Tôi chỉ sang khu B mà khẽ nói:
– Bạn vừa cho…
Tôi để phần ông cụ một miếng, ông cụ đang bận tay ngoài chỗ “cây giống”. “Tây con” và tôi chia nhau miếng cháy nóng, vừa ăn rau ráu vừa hít hà. Từ sáng đến giờ, mỗi đứa chúng tôi xách ít ra cũng hàng trăm đôi nước, chân tay, mình mẩy rã rời, bởi vì buổi sáng có cái gì vào bụng đâu. Dạo này hết bột
mì cứu trợ rồi. Cái gọi là “bữa sáng” chỉ là một chén cháo bột khoai mì loãng đầy mùi hôi mốc. Không ra đâu vào đâu. Mùa lạnh nước suối cạn, phải lần xuống dưới lòng suối mới múc được nước. Leo lên
bao bậc đá trơn, tay xách đôi thùng tưới, miệng thở dốc, sức cứ oải dần, tay chân càng lúc càng nặng trĩu, nhấc không muốn nổi. Trời thì lạnh và ẩm. Cái rét thượng du miền Bắc rất thấm, rất sâu. Người Bắc kêu bằng rét ngọt. “Cái  ngọt nó lọt tận xương”, lại thêm xách nước nên áo quần thấm nước suối. Cái lạnh bên ngoài cái đói bên trong nó hành mình tơi tả.
Đang khi sức cùng lực kiệt, đầu váng mắt hoa như thế thì có miếng cháy nóng này…”Ôi món quà từ trên trời rơi xuống”. Chưa có món bánh mì nào trên thế giới có thể sánh được với miếng cháy.
Ông cụ ăn từ tốn, không có ào ào như tụi tôi. Ông cụ làm còn nhiều, còn mạnh hơn tụi tôi nữa mà hình như ông già không thấy mệt mỏi. Lúc nào cũng nhẩn nha, lững thững mà việc gì cũng xong. Ông cụ vẫn nói “từ lúc nhỏ đi tu ở nhà chùa…. thì tôi vẫn làm lụng như thế này, cũng dưa cà như thế này… chỉ tội
nghiệp các ông…” Ông cụ chỉ vẽ cho chúng tôi cách làm vườn, trồng cây, bón tưới…
Những công việc gì khó khăn, vất vả ông cụ giành lấy mà làm. Như cái món lấy phân bắc (phân người) về ủ, ông cụ cũng tự tay làm lấy. Hôm nay, sau khi ăn miếng cháy xong, ông cụ khẽ nheo mắt, tay giơ một nhúm thuốc lào mà nói “hút đi”. Thuốc lào thật, dẻo quánh, thơm nồng, đâu phải thuốc lào “ngải
cứu” hay thuốc lào “lá cải khô”.
 – Hút luôn hở cụ. Hay là xái nhì, xái ba?
– Hút luôn đi.
Trong cái lúc thuốc lào khan hiếm như lúc này, nếu có thuốc lào thật, đâu có dám hút luôn cả điếu. Phải hút xái nhì, có khi xái ba, tức là một điếu thuốc mà hút 2 hay 3 người. Người thứ nhất châm lửa, rít một hơi, người thứ 2 rít một hơi, rồi người thứ 3 hơi cuối cùng. Người nào mà được hút cuối cùng là “đặc biệt”, vì được hưởng cái hậu, được rít kêu lóc cóc… Hôm nay, trúng số rồi. Vừa được ăn “bữa lỡ”, lại có thuốc lào thật rít thẳng tay. Tôi hút xong điếu thuốc lào mà say lừ đừ. Từ mấy bữa nay, hôm nay mới có thuốc lào thật. Còn toàn hút thuốc lào “lá cải già tẩm nước điếu phơi khô”. Ăn xong, hút xong thấy đời sáng láng, phơi phớị Tôi liền tà tà đi ra gần chỗ nhà bếp, đằng hắng lấy giọng mà thưa với bạn ta  rằng: “Tương phùng được buổi hôm naỵ.. Trùng phùng lại nhớ giờ này hôm sau”.
Tôi nghe thấy tiếng cười rinh rích rồi Vũ Xuân Th. vừa cười, vừa nói vọng ra:
– Được rồi, hiểu rồi… ông nội … Cứ
khoảng giờ này ngày mai ông lại tới đây… Nhưng mà khéo léo đấy nhá.   Thế là cứ vào khoảng nửa buổi, 9 giờ rưỡi mười giờ sáng những ngày sau đó, mỗi khi thấy bạn tôi “chảo trưởng” ra cơm, tiếng
xẻng khua xuống chảo gang kêu xoèn xoẹt, là tôi lại lững thững giả vờ bắt sâu bọ, bên bụi ruốị.. rồi lĩnh từ tay bạn ta một gói cháy vừa chín tới mang về…
Nhưng cái thời gian “bồi dưỡng” này không được bao lâu. Chừng hơn nửa tháng sau, bạn tôi Vũ Xuân Th. đã rời khỏi nhà bếp, ra làm công việc khác. Nguồn tiếp tế của tụi tôi bị cắt. “Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí”, bạn Thiết Giáp NVP của tụi tôi cũng điều sang đội chăn nuôi.
Cái khu rau này, thượng úy “không no” tuyên bố: “Chỉ cần 2 người cũng đủ. Các anh khắc phục”. Công việc 3 người làm trước đây đã “bá thở” bây giờ còn lại có 2 người. Ông cụ gần như bao giàn hết công việc cũ của NVP nhưng tôi vẫn phải làm thêm. Nhưng điều đáng phàn nàn là trong thời gian bồi dưỡng vừa qua cái bao tử của tôi nó bắt đầu quen ăn “bữa lỡ” hồi 9, 10 giờ sáng rồi. Bây giờ “ăn quen nhịn không quen” cứ nửa buổi là tôi phờ phạc, đói mịt mờ, cất chân, cất không muốn nổi. Thấy tôi rũ rượi như “gà chết” ông cụ một bữa nhìn tôi rồi chắt lưỡi: “Đừng có lo…” Ông cụ cầm con dao, xách cái bị cói
phăng phăng, chừng nửa giờ sau ông cụ về, đặt phịch cái bị vào trong bếp. Trong cái lều nhỏ của tụi tôi, lúc nào bếp cũng cháy lim  dim, vừa để đun nước, hút thuốc vừa để sưởi những lúc nghỉ tay… Bây giờ ông cụ quạt lửa lên, lấy mấy củ sắn ở trong bị ra bỏ vào bếp nướng. Ông cụ bảo tôi ra ngoài coi
“động tĩnh”. Tôi lại bắt đầu mừng vì có đồ ăn, nhưng lại ghê vì tôi biết ông cụ vừa lên trên đồi lấy sắn của trại. Ở các trại tù hoặc các nơi đóng quân của Vi Xi, ở chung quanh thế nào cũng có một số đất đai
thống thuộc. Ở vùng đồng bằng hoặc trung du thì trồng lúa, trồng ngô khoai trồng trà, trên thượng du như Sơn La này thì trồng sắn, trồng ngô, trồng mía. Thứ sắn lưu niên để từ năm này sang năm khác, coi như là nguồn lương thực dự trữ. Đây là thứ cây lương thực dễ trồng nhất trong thiên hạ. Nhổ cây sắn lên lấy một chùm củ. Xong rồi cứ cây  sắn ấỵ lấy dao chặt một gang tay, phải có ít nhất là 3 mắt. Cuốc một nhát cuốc hay lấy dao đào lên, nhét một cái hom lên trên mặt đất. Cứ thế là chừng năm sau, mỗi cái hom lại thành một cây sắn, lại cho một chùm củ. Đất tốt thì củ lớn, đất xấu thì củ nhỏ. Trong những thứ lương thực ở trại tù miền Bắc, sắn được xếp vào hạng bét. Chỉ tiêu, cân đo, đong, đếm của lương thực là 1 gạo ăn 2 ngô, hay là 3 khoai, hay là 4 sắn. Dù là hạng bét nhưng đối với tù đói nhăn răng, nó vẫn là rất quý. Tù mà động đến sắn, ngôi, khoai của trạị.. là xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa”. Nhất là trong khi thượng úy “Không no” cứ như cái bóng ma, lúc ẩn lúc hiện, chuyên môn rình rập theo dõi anh em. Đó là nghề của hắn.  Tôi có một anh bạn cùng khóa, NKB xưa nay tính tình “nhà binh” cho đến tận kẽ răng. “Reglo” số 1, việc làm răng rắc quần áo là ủi thẳng tắp, giầy bottle de saut bóng láng,
huy chương đeo một dề, xe díp bóng ngời nệm trắng tinh tươm. Đi cải tạo ra Bắc bây giờ
bạn tôi, không biết vì không hợp thủy thổ hoặc đói khát ra sao mà răng rụng hết, thành một ông già móm xọm. Nhưng bạn tôi lại thèm đường thèm mật quá. Ở gần khu trại mộc của đội anh có một khu trồng mía. Mía cứ bị bẻ trộm hoài, thượng úy “không no” rình rập mãi mà không bắt được ai. Một bữa,
thượng úy thấy thấp thoáng bóng người trong ruộng mía liền nhảy ra bắt giữ. Gặp ông bạn móm xọm của tôi.
 – Anh vào đây nàm gì? Ăn trộm mía phải không?
– Tôi đi kiếm rau “tàu bay”, tôi đâu có ăn trộm mía.
– Không ăn trộm mía vào đây để làm gì?
Anh bạn tôi liền há mồm ra, chỉ vào hai hàng lợi không răng mà phều phào nói:
– Tôi đâu còn răng mà ăn mía.
Thượng úy “không no” thấy vậy, không còn bắt bẻ vào đâu được nữa nên vùng vằng bỏ đi. Nhưng y ta nhất quyết bắt cho bằng được người ăn cắp mía. Một bữa không biết y ta đến từ bao giờ, cải trang ẩn dạng ra sao mà ông bạn móm của tôi vào chặt một cây mía là bị y ta bắt được ngay tại trận. Y rất
bằng lòng về chiến công “bắt trộm” của mình. Bạn tôi quá thiếu chất đường (cũng như hầu hết các tù cải tạo thèm chất ngọt và thèm mỡ) nên thường lén vô ruộng mía, đem dao chặt vội một vài đẫn, nhét vào người mang về. Lấy dao dóc mía, chẻ mía ra từng miếng nhỏ đưa vào miệng không răng mà nhần, mà ngậm. Nó cũng khỏe lên được phần nào. Còn vỏ mía thì phải chôn xuống đất ngoài vườn.
Ngay bữa bắt được kẻ trộm mía, thượng úy “không no” liền biểu diễn quyền uy của mình bằng cách khác; không có giam tội nhân vào cái cũi dây kẽm gai mà y bắt ông bạn không răng của tôi cầm nguyên một cây mía đứng riêng ở ngoài cổng trạị Y ta nói: “Hãy nhìn cho kỹ đi, thượng cấp của các anh đấy”. Anh em đi làm về đều thấy ông bạn tù gì, cầm cây mía đứng lom khom, cúi mặt không dám nhìn ai. Ai cũng thương anh…. đồng cảm với anh vì đi tù cải tạo trăm người như một đều phải “cải thiện” cách này, cách khác. Con người “một động vật xã hội”, nên “đói là đầu gối phải bò”. Thế thôi, chả ai coi
thường, chả ai bỉ thử anh đâu. Nhưng tôi biết, bạn tôi vốn trọng phép tắc lễ nghi nên bạn tôi đau lắm.
Do vậy nên bây giờ thấy ông bạn già Thượng tọa đi lấy trộm sắn về cho tôi ăn vì tôi thèm quá, đói quá, tôi vẫn cứ ghê ghê trong bụng. Thượng úy “không no” mà bắt được, không biết y ta sẽ hành hạ mình cách nào đây? Nhưng sợ bị bắt là cái lo xa. Còn đói cồn cào ruột gan là cái lo gần. Thế thì ta hãy cứ ăn cái đã. Đang đói bụng mà lại có sắn lùi bếp than thì nhất thế giới rồi. Tôi cứ chạp thẳng cánh. Ông cụ đi lấy sắn, nướng sắn mà ông cụ có ăn bao nhiêu đâu. Tôi ăn phần lớn. Và sau đó cứ vào khoảng 9, 10
giờ sáng, tưới bón xong là ông cụ xách cái bị đi ra. Lúc thì sắn lúc thì khoai, lúc thì củ giong… Tôi cứ có ăn đều đặn.
Bạn “Tây con” Thiết Giáp NVP phải đổi sang đội chăn nuôi, trong cái rủi lại có cái may. Bên ấy có công tác lên rừng đẵn cây chuối hột về cho heo ăn. Được ra ngoài thuộc “diện rộng” đi xa xa, gặp được
‘đồng bàó nên mới có cơ hội kiếm ăn, đổi chác. Vắng mặt tên quản giáo, len lén đem được một cái quần tây, một cái ao pull, một cái kính, một cái bật lửa… đem “quy ra thóc” lấy xôi, lấy cơm mắm… hoặc ‘quy ra thuốc’ lấy thuốc lào… đều được cả, thành ra tụi tôi dạo này có vẻ “phong lưu” hơn trước.
Một bữa lấy sắn về ông cụ đang ngồi trong lều, quạt đang đều tay, sắn đã bắt đầu chín bốc mùi thơm ngậy, tôi đã chực sẵn đến giờ ăn, thì bỗng có tiếng động nhẹ đằng sau. Tôi quay lại thì thấy đôi ủng màu đen đã đứng sau lưng tự lúc nào rồi. Tôi chết sững. Thượng úy “không no” đã tới.
 – Biết ngay mà, cứ vào khoảng 10 giờ nà cái nều này có khóị – Thượng úy “không no” đắc chí.
Tôi cứng họng không biết nói năng gì, tâm thần hoảng hốt. Ông già thượng tọa của tôi, khẽ ngước lên, nhìn thượng úy “không no” rồi điềm đạm nói:
– Cán bộ thứ cho. Anh em chúng tôị.. đói quá… Giọng nói ông bình tĩnh, người ông vẫn ngồi vững vàng, cái tay quạt sắn vẫn đều đặn không thay đổi, không cuống quýt, mà cũng không ngừng nghỉ.
– Như thế này là “nâu” rồi đấy nhá.
Không phải chỉ một hôm nay mà thôi đâu?   Thượng úy “không no” vừa nói vừa quay ra xem xét, kiểm soát căn lều. Chợt y thấy hai cái mộ bia mà ông già Thượng tọa của tôi mới đục xong còn để đó. “Vũ Văn Sâm mất ngàỵ..”, “Ngô Quý Thuyết mất ngàỵ…” Y đọc mộ bia xong nhìn chúng tôi, một anh tù già tóc bạc phơ, một anh tù trung niên xác xơ ốm đói. Hình như có một suy nghĩ gì đó thoáng qua, nên nét mặt y có vẻ đắn đo, xong rồi y lững thững đi ra mà nói:
 – Sau không được thế nữa nhá. “Ninh” tinh.
…Cho đến bây giờ không biết vì lý do nào mà tên thượng úy hầm hừ ấy đã bỏ qua cho chúng tôi. Có thể vì những tấm mộ bia, nghĩ đến những người anh em xấu số của chúng tôi đã chết vì đói lạnh… hoặc là phong thái “đại hùng, đại lực, đại từ bi” của con nhà Phật trong phút giây nào đó đã khơi dậy  được “chút tính người còn sót lại” trong y?
   Phan lạc Phúc



ĐỒNG CHÍ TƯ LÙ

Làm báo nào chứ làm cho bọn Mẹc-Cu thì xin phép tao chê. Ở trong nước bọn báo chí phải làm văn nô cho đảng chả nói làm gì. Ở cái xứ tự do này mà đi làm văn nô cho tụi báo chí bất lương để kiếm miếng ăn thì chó má lắm. Thằng tỵ nạn như mình thà đi rửa nhà cầu mà sống còn hơn chui đầu vô làm cái nghề điếm nhục đó.

ĐỒNG CHÍ TƯ LÙ   

                                                                                           
 
                                                                             Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
 
     Hoàng đến. Hắn vừa liệng tờ báo Mercury tiếng Việt xuống bàn truớc mặt bạn bè vừa lớn tếng đùa dỡn:
 
–   Tin nóng hổi! Tin nóng hổi đây!
 
     Thế là bọn chúng tôi ba đứa đã đủ mặt. Tuần nào cũng vậy, chúng tôi gặp nhau vào cuối tuần để hàn huyên và tán gẫu cho vui. Có thể nói cuộc gặp gỡ hàng tuần như thế này đã trở thành nếp sống riêng của cả ba. Nếp sống này hình thành từ ngày chúng tôi rời khỏi quân trường, trước kia thì những lúc rảnh rỗi, còn bây giờ thì vào mỗi cuối tuần. Cả ba chúng tôi tốt nghiệp cùng một khoá, phục vụ tại cùng một đơn vị, đóng quân tại một vùng trong suốt thời gian 6 năm lính. Cuộc đời vào sinh ra tử đã nối kết chúng tôi lại như một gia đình. Trừ ra quãng thời gian đi tù, sang Mỹ cả ba lại cùng gặp lại và chung sống với nhau trong cùng một thành phố, nên chuyện gắn bó với nhau là điều tất nhiên. Vì thế chúng tôi tự đặt cho mình cái tên là Ba-chàng-ngự-lâm-pháo-thủ theo tên của cuốm phim Les Trois Mousquetaires coi hồi còn là học trò. Đó có lẽ là một định mệnh. Chỉ cần một ly cà phê, một lon nước ngọt, hay một chai la de là đủ để buổi họp bạn kéo dài cho đến khuya. Đủ mọi chuyện để nói: chuyện đời học trò, chuyện trong đơn vị, những mẩu chuyện tình vụn vặt, cả những chuyện thời sự cũng được đem ra trao đổi.   
 
      Bạn bè đã quen tính láu lỉnh của Hoàng xưa nay nên chẳng bao giờ coi điều hắn đùa dỡn là quan trọng, chẳng cần biết tin nóng hổi mà Hoàng muốn loan báo là tin gì, cứ tưởng Hoàng méo mó cái nghề thông tín viên ngày xưa của hắn, một dạo làm cho hãng AP (Associated Press) trước khi nhập ngũ. Theo Hoàng kể, vì hắn có tài chỗ nào chui cũng lọt nên anh chàng Esper văn phòng trưởng của AP sai chạy có cờ. Đó là đặc điểm của nghề làm báo của Hoàng. Chuyện xào tin và phịa tin của bọn báo chí ngoại quốc là chuyện cơm bữa. Đôi khi chính Hoàng cũng phải tham gia vào. Sang Mỹ thỉnh thoảng Hoàng tỏ ý mơ ước được trở lại cái nghề tối ngày chạy rông này. Tôi cứ tưởng Hoàng xạo chuyện như mọi lần nên đùa lại để chế diễu:
 
–   Thì ra ông thầy trở lại nghề làm báo mà tôi không hay. Báo đời hay báo hại đây? Mà từ hồi nào vậy?
 
     Thằng bạn khác là Sơn nóng tính chẳng cần biết ất giáp gì, tiện thể phang liền:
 
– Làm báo nào chứ làm cho bọn Mẹc-Cu thì xin phép tao chê. Ở trong nước bọn báo chí phải làm văn nô cho đảng chả nói làm gì. Ở cái xứ tự do này mà đi làm văn nô cho tụi báo chí bất lương để kiếm miếng ăn thì chó má lắm. Thằng tỵ nạn như mình thà đi rửa nhà cầu mà sống còn hơn chui đầu vô làm cái nghề điếm nhục đó.
 
     Hồi còn ở lính, Sơn ghét cay ghét đắng bọn báo chí phản chiến, nhất là bọn nhà báo Mỹ lúc đó. Từ ngày sang Mỹ, cái ấn tượng này càng đè nặng hơn trên người Sơn. Nói đến bất cứ tờ báo nào của tập đoàn tư bản truyền thông Do Thái Knight Ridder là Sơn muốn nổi sùng ngay. Thấy Hoàng đi vào cầm theo tờ Việt Mercury là Sơn muốn điên lên rồi. Thấy câu chuyện bỗng đâu trở nên gay gắt một cách vô lý, Hoàng cụt hứng, nghệt mặt ra một lúc rồi mới lên tiếng phân trần:
 
– Đừng nóng! Các ông đừng nóng! Các ông lạc đề hết rồi. Thằng này có làm báo làm bổ gì đâu. Có cái tin ngộ ngộ trên báo muốn cho các ông biết chơi thôi.
 
     Hoàng vừa nói vừa cầm tờ báo lên, lật qua lật lại rồi banh ra trước mặt các bạn:
 
–   Các ông thử nhìn kỹ xem ai đây? Có quen không?
 
     Sơn không thèm ngó trong khi tôi dán mắt vào tấm hình đen trắng một đàn ông và một đàn bà trên một phần tư trang báo ở góc trái trang 2. Tôi bỗng kêu lên sửng sốt:
 
–   Thằng Tư Lù tụi bay ơi!
 
–   Đúng rồi, thằng Tư Lù. Mày hãy còn nhận ra nó. Khá đấy.  – Hoàng xác nhận.
 
     Tình hình xem ra đã bớt căng thẳng. Hoàng quay sang nói với Sơn:
 
–   Mày đừng nóng, coi thử đi.
 
     Sơn vẫn chưa hết hậm hực:
 
–   Ừ thì thằng Tư Lù, nhưng rồi làm sao?
 
     Nói thế chứ Sơn cũng phải lấy tay banh tờ báo và dán mắt vào tấm hình. Phải nói là cả bọn tôi đứa nào cũng hết sức ngạc nhiên. Không khí căn phòng trở lại thân mật như bình thường và chuyện trò bỗng sôi nổi hẳn lên:   
 
–   Sao lại là thằng Tư Lù được nhỉ?
 
–   Có cả con chằng lửa nữa. 
 
–   Không, tên con mẹ là Thu Đạm.
 
–   Cũng không đúng, phải nói là đồng chí Tư Lù và đồng chí Con Đĩ Ngựa mới phải.
 
–   Rõ ràng là thằng Tư Lù, mà sao lại thành Nguyễn Tạ?
 
–   Còn là thủ tướng mới rùng rợn nữa chớ.
 
– Tư Lù thành ra Nguyễn Tạ thì có sao, nhưng nó làm thủ tướng thì nghe chuế quá.
 
     Cả ba đứa tôi đều ngạc nhiên trước sự kiện thằng Tư Lù ngày nào, bây giờ trở thành ông thủ tướng Nguyễn Tạ. Không sao giải thích được. Chuyện sâu bọ làm người chỉ xẩy ra ở những xứ mọi rợ thôi chứ không bao giờ có trong các xã hội văn minh như cái nước Mỹ này. Dưới chế độ đồ tể Hồ Chí Minh thì chuyện gì cũng có thể xẩy ra được. Chúng tôi đành phải đi đến kết luận như thế. Hồ Chí Minh làm bồi tầu, Đỗ Mười thiến heo, cạp rằng đồn điền cao xu Lê Đức Anh đều là những thứ sâu bọ làm người cả. Dưới chế độ mọi rợ này, một con người mà tên tuổi bị lem luốc thì nó chỉ việc thay đổi một cái tên khác thôi là xong rồi. Xã hội coi như thằng người có cái tên ngày trước đã chết. Người mình thường nói: chó chết hết chuyện là thế. Vì thế người ta mới thấy bọn cán bộ thay tên đổi họ như thay áo mỗi ngày. Từ thằng to đầu cho đến lũ cán nhí bên dưới, không đứa nào là không mang ít nhất hai, ba tên. Thằng Hồ có đến hàng chục cái tên. Bốn thằng anh em nhà họ Đinh cùng một lỗ chui ra nhưng rồi bốn thằng mang bốn họ khác nhau. Dưới cái chế độ côn đồ này, giết người còn chưa phải là chuyện lớn thì việc thay tên đổi họ thì nào có nhằm nhò gì. Kinh điển Marx dậy: cứu cánh biện minh cho phương tiện không tấy sao!
 
     Thằng Tư Lù ngày nào, bây giờ biến thành thủ tướng Nguyễn Tạ, dưới bầu trời cộng hoà xã hội chủ nghĩa Vietnam không phải là chuyện lạ. Chuyện lạ là một tên du thủ du thực biến thành ông thủ tướng. Thế mới biết chánh sách đổi mới của nhà nước CS Việt Nam nó thần sầu quỉ khốc tới múc nào. Tư Lù, một con người mà mấy bà bạn hàng ngoài chợ thường gọi là thằng Tư, sống lang thang chui rúc trong một cái xó chợ nhỏ nhà quê hẻo lánh gọi là chợ Chọi, chỉ là một tên vô lại. Nhưng kể từ ngày bọn VC nhẩy lên cướp chính quyền, Tư Lù được mang tước hiệu là “đồng chí”, bỗng dưng trở nên sáng chói và uy danh khắp miền Lục Tỉnh. Hiện tượng đó các nhà sử học sau này biết đâu sẽ chẳng đặt ngang hàng huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương trong cổ sử nước ta.
 
     Về địa danh có tên là chợ Chọi, đó là một khu đất trống người ta họp để buôn bán mỗi buổi sáng sớm lúc gà chưa cõng con đi đái. Chợ họp chừng bốn năm tiếng đồng hồ là tan rồi. Nó nằm ngay mé sông, cạnh một thị trấn nhỏ gần Ngã Ba Ống Quần (xin đừng lộn với địa danh cũng có tên là Ngã Ba Ống Quần trong tác phẩm Vàng Và Máu của nhà văn Nguyên Vũ). Khu thị tứ này mấy bà nhà quê đã đo đạc tỉ mỉ, tính toán tường tận và qui ra chỉ lớn bằng một cái giạng đái của mấy bà. Ngày xưa, nơi đây không phải là cái chợ, mà là một khu đồng trống, bên cạnh một ngã ba sông. Trên bờ con sông lớn có một cái đồn Tây. Cách đó khoảng vài trăm thước là mấy túp lều tranh trá hình bán buôn giải khát, nhưng kỳ thực là nơi tiếp khách tây của chị em làng chọi. Vì thế khu chợ mọc lên sau này dân địa phương quen thói nôm na gọi là chợ Chọi. Nơi đây có thể nói là địa linh nhơn kiệt, đã sản sinh ra nhiều tay yêng hùng hảo hớn, những tay anh chị của đủ mọi thời đại. Chuyện kể về những bậc yêng hùng này có khi chỉ được truyền tụng giới hạn trong nền văn chương truyền khẩu tại địa phương, chẳng hạn đồng chí Tư Lù (khi chưa trở thành thủ tướng) như đang nói đây thì cứ tính từ chợ Chọi có đường bán kính vài chục dặm, bảo đảm từ già tới trẻ không ai là không biết. Nhưng cũng có chuyện được ghi chép lại trong nền văn chương được gọi là bác học của nước ta. Chẳng hạn như câu chuyện về nhân vật quen gọi là Bác Cáo thì cả nước ai cũng biết.
 
     Bác Cáo vốn là một tay anh chị nổi tiếng. Hắn sinh ra trong một gia đình nghe đâu là khoa bảng ở ngoài Trung. Người ta đồn ông bố thân sinh ra Cáo đã đậu tới thám hoa bảng nhỡn gì đó, rồi ra làm quan cho triều đình tại đất Nam Kỳ Lục Tỉnh. Được ít lâu, đất Nam Kỳ trở thành thuộc địa của tây mũi lõ. Ông bố Cáo trở thành ông quan ta thuộc địa, cai trị dân bản xứ ở mãi tận miệt Năm Căn Cái Nước. Ông quan ta thuộc địa này ăn phải bả tây nên nhiễm được hai cái tật rất tây là uống rượu tây như dân Năm Căn uống nước sông Hậu, và uấn dân ta như tây mũi lõ ngày xưa uấn nô lệ Phi Châu. Một hôm có một nông dân đến gãi đầu gãi tai xin quan giảm thuế vì mùa màng thất bát, lại vợ đau con ốm. Người này đến thật không phải lúc, làm mất hứng quan đang nhậu. Quan liền nọc anh nông dân ra đánh đòn. Đang lúc hơi men chếnh choáng, quan xuống tay quá mạnh chẳng may làm chết người. Thế là quan bị triều đình cách chức. Trước cảnh nhà sa sút, Cáo phải bỏ học, phiêu bạt giang hồ về mãi tận khu chợ Chọi này để lăn lộn kiếm sống. Lúc đó Cáo còn trẻ nên rất xốc vác. Hắn làm đủ nghề: cu ly có, bồi bàn có, đôi khi còn dắt mối tây cho chị em ta từ Cầu Hàn Chợ Lớn về đến chợ Chọi. Ông bố Cáo vì buồn phiền nên đâm ra nát rượu. Ngày nào cũng sáng xỉn chiều say. Chỉ vài năm sau ông bị thối gan mà chết. Cáo trở về thì ông bố đã ngỏm từ bao giờ. Thời gian bôn ba quá cực khổ làm Cáo gầy rộc đi, đen sậm lại, không còn cái dáng vẻ cậu ấm con quan ngày xưa nữa. Sống ở khu chợ Chọi, Cáo mới tròm trèm năm chục mà râu tóc đã bạc phơ. Có người gọi Cáo là cụ, kẻ kêu là bác để tỏ lòng kính trọng, vì dù sao hắn cũng thuộc giòng dõi nhà quan, lại có được cái dáng dấp tiên phong đạo cốt bên ngoài. Người ta vẫn thường nói ở xứ mù thằng chột làm vua. Ở cái chợ nhà quê này chẳng mấy ai có chữ nghĩa, nên Cáo đương nhiên được kể là người có ăn học. Hắn chễm chệ lên ngôi hương thân, và có chút vai vế trong khu vực. Thực ra ngoài mớ tiếng tây Cáo học được ở trường thuộc địa hồi còn bé, mớ kiến thức tả pín lù của hắn chỉ là do lăn lộn trường đời nhiều nên dễ nói phét khiến nhiều người nể nang hắn. Được chút nể vì của người đời, Cáo lên mặt ta đây, tự xưng là Bác với mọi người, bất kể lớn bé già trẻ. Cáo nối nghiệp ông bố được thói nát rượi và hút sách. Nhưng cũng còn được cái là hắn chỉ uống và hút lén lút một mình ở trong nhà. Ra đường Cáo cố giữ vẻ trang nghiêm và mực thước của bậc tôn trưởng. Đặc biệt Cáo đã tiêm nhiễm được ở đâu cái thói cầm nhầm. Để tỏ ra ta đây là người có ăn học, hắn thường đánh tráo thơ văn của người khác nhận làm của mình. Tệ hơn nữa hắn còn cầm nhầm cả vợ bạn. Nhiều người nói Cáo còn là một tên giết người. Hắn ăn vụng biết chùi mép, giết người, cướp vợ bạn, hay làm những hành vi bỉ ổi khác nhưng đều che dấu rất tài tình. Ai nấy đều e dè Cáo, nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười vồn vã với hắn vì sợ có chuyện gì lại liên lụy vào thân.
 
     Cáo xứng đáng là bậc tiền bối của đám hậu sinh như Tư Lù. Hai nhân vật này giống nhau ở một điểm là do thời thế tạo nên. Những điểm khác nhau chẳng hạn về thân thế thì có nhiều. Tư Lù không xuất thân nhà quan. Nghe đồn nó sanh ra từ mấy quán nước gần đồn Tây, và trưởng thành ở cái chợ Chọi này. Nửa chữ cắn đôi cũng không biết, nhưng nhờ “kách mệnh”, nó bỗng dưng trở thành một nhân vật được nể vì. Nhiều người cho Tư Lù là thứ sanh phùng thời. Cũng đúng. 
 
     Người ta sinh ra ở đời, ai cũng đều sống có nhà, chết có mồ. Nghĩa là còn sống thì có gốc gác gia đình, dòng họ. Chết đi để lại mồ mả để con cháu nhớ ngày cúng giỗ. Riêng đồng chí Tư Lù, cái khoản gia thế chỉ là con số không. Từ khi được “kách mệnh” giác ngộ và dậy dỗ, nó thường tỏ ra tự hào có tổ tiên là giống khỉ. Hậu duệ của nhà khỉ này trước kia ban ngày sống lang thang chung quang khu chợ Chọi. Đêm đến thì bất kỳ đâu cũng là nhà. Nhà nó có thể là cái chái miếu thờ Thổ Thần trong xóm. Cũng có thể là cái phản thịt của chú Ba Xệ ngoài chợ, hoặc cái sạp của mụ Bẩy Mướp bán bún nước lèo dưới mé sông. Tư Lù sống nửa cuộc đời vô gia cư, vô gia đình, vô bà con dòng họ. Thậm chí đến cái tên cúng cơm cũng vô luôn. Nó không có lấy một thứ giấy tờ gì lận lưng, nên không biết ngày sanh tháng đẻ, không biết cha mẹ là ai. Quê quán thật sự ở đâu nó cũng mù tịt.
 
     Từ ngày giặc cờ đỏ tràn về, Tư Lù bỗng dưng được coi là người có công với cách mạng. Chuyện cũng chỉ là tình cờ, nhưng đã có ông thầy bói mù ở chợ Chọi bốc quẻ nói tiên tri rằng nó là một thằng Xuân Tóc Đỏ thời đại. Trong lúc mọi người chạy giặc, cả đồn cảnh sát, chi khu và căn cứ lính tráng đã rút về tỉnh hết, một mình nó say xỉn, lượm đâu được lá cờ nửa xanh nửa đỏ, vừa đi vừa phất, miệng hát ngêu ngao. VC thấy nó cho  là dân chúng cử đại diện ra nghênh đón quân giải phóng. Nó ở thế chẳng đặng đừng nên tình nguyện hướng dẫn bọn bộ đội tiến vào quận lỵ đã bỏ trống. Tư Lù vì thế trở thành anh hùng cách mạng. Chỉ ít ngày sau, nó được tuyên dương thành tích trong một buổi meeting long trọng chào mừng ngày giải phóng của toàn tỉnh và được tham gia vào phái đoàn Thành Đồng Chống Mỹ Cứu Nước của Miền Nam ra tham quan Hanoi. Khi nó được gọi đến để lấy lý lịch và kê khai thành tích, tên chính trị viên của tiểu đoàn 307 cơ động tỉnh phụ trách công tác tuyên dương cấp tỉnh tiếp đãi Tư Lù như một thượng khách. Sau một tuần trà nước, bánh kẹo, và thuốc lá xã giao, tên bộ đội bắt đầu làm công tác. Hắn rút ra trong túi cuốn sổ tay và cây viết bic để ghi chép rồi ôn tồn hỏi Tư Lù: 
 
–   Đồng chí có giấy tờ gì không?
 
     Tư Lù chưa đoán được sự thể ra sao nên vẫn chưa cảm thấy yên bụng. Nó lí nhí trả lời trong cổ họng:
 
–   Dạ, không có.  
 
–   Có mà không mang theo hay không có?
 
–   Không có.
 
     Tên bộ đội nghĩ trong bụng dù sao Tư Lù cũng chưa tin tưởng cách mạng lắm nên cố tình dịu ngọt với nó để nó yên tâm: 
 
–   Đồng chí không có gì phải sợ. Cách mạng hiểu đồng bào sống trong vùng địch kiểm soát, ai cũng phải mang giấy tờ tùy thân mà đồng bào không muốn. Đồng chí tất nhiên cũng thế thôi. Chẳng hạn khi đồng chí muốn đi đâu thì cũng phải có giấy căn cước thì mới đi lại được. Chẳng lẽ đồng chí không đi đâu bao giờ?
 
–   Dạ tôi không có đi.
 
     Tên bộ đội vẫn giữ giọng thân mật:
 
–   Thôi cũng được. Đồng chí nhớ được gì thì đồng chí cho biết. Đồng chí tên gì?
 
–   Dạ, tên Tư Lù.
 
–   Đây là tên gọi của đồng chí? Tôi muốn hỏi tên họ. Đồng chí họ gì? 
 
–   Dạ không biết. Tôi không có họ. Người ta vẫn gọi tôi là Tư Lù.
 
– Cả tên họ của đồng chí mà đồng chí cũng không biết họ gì. Cha mẹ đồng chí còn sống hay đã chết, ở đâu?
 
–    Tôi không biết. 
 
–    Chết thật!
 
     Tên bộ đội thở dài hơi tỏ vẻ thất vọng. Hắn hỏi thêm về tuổi tác, thân nhân của Tư Lù nhưng nó vẫn ngồi làm thinh. Hắn ngồi cắn bút suy nghĩ trước cái lý lịch mù mơ của người đối diện. Đầu tiên tên bộ đội còn nghi ngại đoán già đoán non Tư Lù có thể là một điệp viên tụi Mỹ cài lại. CIA chắc chắn rất quỉ quyệt nên cần phải đề cao cảnh giác. Hắn tự nhủ. Tuy nhiên, chỉ trong khoảnh khắc hắn đã tìm ra được chân lý. Một lý luận rất logic trong kinh điển Mác chợt loé ra trong cái đầu đặc sệt của tên bộ đội làm hắn bật đứng lên, vui như nhà bác học Achimède đang lúc tắm truồng trên sông Nile, khám phá ra nguyên lý thuỷ tĩnh học. Hắn đập tay lên bàn một cái bịch, rồi nhả vào khoảng không trước mặt một hơi dài sự khoái trá trong lòng hắn:
 
–   Đúng rồi! Đúng rồi! Nhất định là như thế!
 
     Tư Lù không hiểu tên bộ đội này muốn nói đúng là đúng cái gì. Nó hơi hoảng, lo sợ biết đâu hắn lại chẳng nhớ ra một người nào đó trông giống mình mà cơ quan của hắn đang tầm nã. Tên bộ đội vẫn đứng đó. Hắn hí hửng ngắm nghía Tư Lù một lúc từ đầu xuống chân rồi từ từ bước tới trước mặt nó. Hắn biết Tư Lù đang thắc mắc và lo sợ nên làm ra vẻ kẻ cả, đặt tay lên vai Tư Lù và bắt đầu giảng giải về phép biện chứng mà hắn đã được học trước đây:
 
–   Đừng sợ! Đừng sợ! Trường hợp của đồng chí kể như đặc biệt lắm đấy. Đồng chí sống giữa lòng địch mà đã tự giác ngộ được cách mạng, thoát ly tất cả mọi ràng buộc gia đình giống như bác Hồ muôn vàn kính yêu, tự mình lột xác một cách toàn diện và triệt để. Đồng chí phủ định tất cả quá khứ, cũng như mọi liên hệ tình cảm của mình mà không cần đến sự giáo dục của đảng để trở thành một con người cộng sản tinh ròng theo đúng logic, phù hợp với biện chứng của chủ nghĩa Mác bách chiến bách thắng thì thực là trên đời có một không hai đấy. Tôi nhiệt liệt hoan nghênh đồng chí, và thay mặt đảng tuyên dương đồng chí là một người con yêu của tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tuy đồng chí chưa chính thức gia nhập đảng, nhưng tôi tin chắc rằng rồi ra đồng chí sẽ có những bước tiến nhẩy vọt để trở thành một người cộng sản chân chính, một đảng viên gương mẫu. Tôi chúc mừng đồng chí, và một lần nữa, thay mặt đảng, tôi nhiệt liệt hoan nghênh và tuyên dương đồng chí.
 
     Tư Lù ngồi chết trân. Mặt nó nghệt ra, đầu óc lùng bùng vì những thứ chữ nghĩa mà nó chưa hề nghe nói đến bao giờ.  Nào là lột xác. Nào là qui luật. Rồi còn biện chứng, logic, chủ nghĩa Mác vv.. Tuy không hiểu gì, nhưng nhìn vào nét mặt rạng rỡ của tên bộ đội, và bỗng nhiên được ông quan cách mạng này gọi là đồng chí, nó cảm thấy yên tâm với ý nghĩ dữ ít lành nhiều. Tên bộ đội nói xong, sửa lại tư thế đứng nghiêm kiểu nhà binh, giơ tay ra bắt tay Tư Lù. Nó vội vàng đứng dậy, lưng hơi cong xuống, không dám ngẩng mặt lên, mắt chớp chớp, đưa cả hai bàn tay nắm lấy tay tên bộ đội mà lắc. Trong lúc nắm tay tên bộ đội, Tư Lù chợt nhận thấy trong lòng nó trào lên một thứ tình cảm thật khó diễn tả, vừa sung sướng, vừa tự hào, vừa tin tưởng, vừa hy vọng. “Nhờ ơn cách mạng, nhờ ơn đảng”, nó gật gù cái đầu bờm xờm và lẩm bẩm một mình. Nó không nói lên sự cám ơn tên bộ đội bằng lời, nhưng bằng hai con mắt rươm rướm ướt. Nó cảm thấy như cuộc đời của nó như đã biến đổi. Nó thầm cám ơn cách mạng đã giải phóng nó. Đối với nó, tất cả quá khứ từ nay đều tiêu tan hết. Một tương lai mới hiện ra trước mắt nó. Từ nay nó sẽ không còn bị khinh khi, bị gọi tên một cách xách mé: thằng Tư này, thằng Tư nọ nữa. Nó ghét nhất kẻ nào gọi nó xách mé như thế. Nó hình dung ra những kẻ mà chỉ vài ba ngày trước còn chiếm một địa vị trên nó rất cao, rất cao, giờ này đây chỉ còn là những con giun, con kiến dưới chân nó. Mấy mụ bán hàng ở chợ và ngoài bến sẽ hết còn dám xỉ vả nó. Tên xã trưởng già mà thường ngày nó vẫn khép nép vâng vâng, dạ dạ xưng bố xưng con, từ nay nó sẽ bắt phải bỏ cái thói nhìn nó bằng nửa con mắt đi. Bọn sĩ quan trong chi khu và căn cứ nữa, tuy phần lớn có xề xoà tốt bụng thật đấy, còn trẻ măng, cũng cỡ chừng tuổi với nó, nhưng nó vẫn phải khúm núm kêu bằng ông thầy, từ nay sẽ biến mất khỏi cái giang sơn này của nó, hết còn hàng ngày ra ăn uống tại quán bún nước lèo của mụ Bẩy Mướp. Lại còn anh chàng trưởng chi cảnh sát mới thật đáng chết. Xưa nay nó vẫn kính cẩn gọi anh ta là sư phụ. Có lần nó bị sư phụ nhốt một đêm trong đồn vì tội ăn cắp, còn doạ bắt nó đi lính. Nó không sao quên được cái đêm trong căn hầm nóng nực đầy muỗi ấy. Gặp được sư phụ ít nhất nó cũng phải xỉ vả cho mấy câu để trả thù. Nó sẽ bắt mọi người từ nay phải kính trọng nó. Phải rồi, còn cả cái ả bán hột vịt lộn tên Nở ấy nữa. Mỗi khi nó ăn hột vịt, ả tính toán với nó từng đồng từng cắc, không cho thiếu một xu. Ấy vậy mà không hiểu sao trong khoảnh khắc tưởng tượng đó, Tư Lù lại chừa ra cho ả một chút lòng thương hại. Nó cho rằng ả cũng nghèo nên đáng thương hơn là đáng ghét. Sự phân biệt đối xử này có lý do khác chứ không phải mang tính giai cấp mà nó mới giác ngộ được từ tên bộ đội. Đã nhiều lần Tư Lù chọc ghẹo thị Nở nhưng lần nào cũng bị ả cự tuyệt và đuổi đi. Nó đặt cho Nở một cái tên thật văn vẻ là Thu Đạm. Bình thường nó thân mật kêu ả là Con Đĩ Ngựa. Nó bấm bụng phải trả thù cái tội hỗn láo và bần tiện của Con Đĩ Ngựa mới được. Nó nhớ lại lần ăn chạy năm cái hột vịt lộn của Thị Nở. Ả đòi kẹp nó vào háng để đậy cho nó một bài học. Giận Nở thì có giận thật, nhưng sao lúc này nó lại thấy tội nghiệp ả vô cùng. Nó bỗng mơ ước được Con Đĩ Ngựa kẹp vào háng để dậy cho nó bài học ngay vào lúc này thì hay biết mấy. Nó cảm thấy nóng ran ở mặt. Nó nuốt nước miếng ừng ực, nhếch mép cười ruồi và quả quyết trong đầu: vụ này quyết không thể bỏ qua được, nhưng để rồi sau sẽ tính.
 
     Tên bộ đội vui vẻ hiện ra mặt vì hắn vừa mới khám phá ra được một con người cộng sản lý tưởng. Hắn tự cho mình đạt được một chiến công đúng ngày hắn vào giải phóng khu chợ Chọi này. Hắn khám phá ra rằng một con người nếu đã mang sẵn tính giai cấp trong mình, khi gặp điều kiện thì họ lập tức sẽ đột biến, chẳng khó khăn gì. Đó là mỘt bước nhẩy vọt, cũng giống như bước nhẩy vọt từ vượn thành người mà hắn đã được học ở khu rừng già chiến khu D Phước Thành. Cả một mớ lý thuyết hắn dồn vào bụng, nay mới có cơ hội được chứng minh. Quả thật có sức thuyết phục. Thái độ vừa khuất phục, vừa biết ơn của Tư Lù làm tên bộ đội càng tự tin hơn vào sự suy nghĩ của mình. Sự mù tịt về lý lịch của Tư Lù đã không còn phải là vấn đề, mà trái lại còn là động cơ cho tiến trình phát triển đúng với qui luật. Hắn cho đó là một sự lột xác thần kỳ, một mánh lới khôn ngoan để thi hành chánh sách bất hợp tác với ngụy quân, ngụy quyền. Rõ ràng là một hình thức phản kháng đầy trí tuệ đã đem lại hiệu quả. Chỉ với sự kiện này, Tư Lù cũng đáng được kể là đã lập được thành tích, có công lớn đối với cách mạng. Nó xứng đáng được tuyên dương anh hùng chống Mỹ cứu nước, và được tưởng thưởng huy chương Thành Đồng Chống Mỹ. Với Tư Lù, giờ đây nó chỉ cần biết một điều là nó đã có tên tuổi hẳn hoi đối với cách ma.ng. Tên nó là Tư Lù. Đúng hơn nữa là Đồng Chí Tư Lù. Cách mạng gọi nó là đồng chí thì nhất định nó là đồng chí rồi. Nghĩa là nó cũng như những tên bộ đội mang súng, đội nón cối, chân mang dép râu mà nó thấy. Nó tin rằng chắc chắn nó cũng sẽ được khoác khẩu súng trên vai và lúc đó mọi người ở chợ Chợi sẽ phải phục nó sát đất. Chữ “đồng chí” đối với nó thật đáng yêu làm sao! Ngày trước người ta gọi nó là thằng Tư thì nó tưởng đấy là tên cha mẹ đặt cho nó. Còn chữ Lù đi kèm tên Tư thì lại là một câu chuyện truyền tụng khó quên chung quanh khu chợ Chọi, một thành tích có một không hai về nghề ăn quịt của nó. Điều này Tư Lù biết rõ hơn ai hết. Nhiều bà bán hàng ngoài chợ những lúc vắng khách vẫn còn đem ra bàn qua tán lại câu chuyện ăn quịt rất hài hước này của thằng Tư.
 
     Thị Nở, hay Thu Đạm, hay Con Đĩ Ngựa hàng ngày vào mỗi buổi chiều đội thúng hột vịt lộn ra bán ngoài đường cái ngay lối vào chợ. Bữa đó, khi Nở vừa bầy hàng ra xong thì bỗng thằng Tư lù lù vác xác tới. Mỗi khi thấy nó, ả vội vàng lập tức đuổi nó như người ta đuổi tà. Ở chợ ai lại không biết Tư Lù là thằng chuyên môn ăn chạy, nghĩa là ăn xong là chạy, không trả tiền. Hôm ấy Nở chưa kịp ra tay tống khứ Tư Lù thì nó đã xà đến kéo ghế ngồi. Nó hách dịch nói với ả như ra lệnh:
 
–   Cho năm cái vịt lộn. Nhớ chọn mấy cái ấp mề già đấy nhá.
 
     Nở muốn điên liên. Ả nghĩ trong bụng, thằng này hôm nay chán sống rồi, nhưng ả cũng cứ cho nó ngồi yên để xem thử, vì dù sao nó cũng đã lỡ ngồi xuống rồi. Ả trợn mắt nhìn thẳng vào nó rồi lên giọng kẻ cả, hỏi:
 
–   Có tiền không cái đã. Không thì đi chỗ khác chơi cho người ta buôn bán. Đừng có đến đây mà ám. Chưa mở hàng đâu đấy nghe, ông thần nước mặn.
 
     Nó làm bộ thọc tay vào túi quần, lắc lắc mấy cái như ra dấu bảo rằng ta đây có tiền, còn nhe răng cười và trả lời chắc nịch:
 
–   Sao lại không? Yên chí đi. Sòng phẳng mà chị Hai.
 
     Thị Nở cũng là người cả tin. Ả giọn ra cho nó một cái tô đựng năm cái hột vịt lộn còn nóng hổi. Ả dằn mạnh cái tô trước mặt Tư Lù rồi dục:
 
–   Ăn đi. Ăn lẹ lên rồi đi ngay, chỗ người ta làm ăn.
 
     Ả còn không quên nhắc lại một lần nữa:
 
–   Mà phải trả tiền sòng phẳng đó nghe. Không thì cứ để cái xác lại đấy. Không dỡn đâu.
 
     Tư Lù chẳng thèm để ý đến lời đe doạ của Thị Nở. Nó gục đầu xuống, vừa thổi phù phù, vừa ăn một cách rất tự tại. Chỉ trong khoảnh khắc, nó đã nuốt trôi năm cái hột vịt lộn nóng hổi vào bụng, rồi thản nhiên đứng lên đi. Biết mình lại bị một phen nữa mắc lừa, Thị Nở đứng bật dậy, dục hết đồ đạc trên tay xuống bàn. Ả bung người nhẩy bổ ra, đứng chắn trước mặt nó, hét lên như trời gầm:
 
–   Mày lại dám ăn quịt của tao nữa hả, cái thằng trời đánh này? Mày phải trả tiền cho tao đã rồi mới được đi. Không thì mày móc họng mày ra hết cho tao. Lần này tao không tha đâu. Tao nói trước rồi.
 
     Tư lù không còn đường tiến, cũng không còn đường rút lui. Bất thình lình, nó lấy hết sức gạt người đàn bà sang một bên rồi ù té chạy. Thị Nở té chúi xuống, nhưng chồm dậy ngay được. Ả đuổi theo nó, vừa đuổi vừa chửi. Ả chạy một quãng rồi dừng lại vì biết rằng không thể nào đuổi kịp nó. Vả lại ả không dám bỏ lại thúng vịt lộn không có người coi. Thấy Nở đứng lại, nó cũng đứng lại. Thấy ả bước tới, nó lại cắm cổ chạy. Cứ như thế một lúc thật lâu. Người ta chung quanh chợ đổ ra xem đông nghẹt. Con nít coi màn tuồng cút bắt này khoái tỉ, vừa reo hò, vừa vỗ tay bôm bốp. Trước tình trạng đó, thị Nở cũng đành phải bất lực. Ả cảm thấy mắc cỡ với những người đứng coi vì sự nhẹ dạ của mình. Ả đứng lại thách thức thằng Tư:
 
– Mày có giỏi thì lại đây chơi tay đôi với bà. Bà không xé xác mày ra không làm cái giống người.
 
     Nó đứng ở xa cười hăng hắc, hỏi lại để cố ý trêu chọc ả:
 
–   Mày dám?
 
–   Tao không dám thì ai dám?
 
–   Tao lại mà không dám làm gì tao, mất năm cái hột vịt nữa, chịu không?
 
– Thằng chó đẻ! Bắt được mày, tao kẹp mày vào háng bắt mày bú L. tao cho mày chừa cái thói ăn dựt, ăn chạy đi.
 
     Tư Lù nghe vậy cười khoái chí, nó càng trêu chọc thêm:
 
– Thiệt không? Sợ gì mà không dám cho mày bắt. Sướng thấy mồ. Tổ sư cha đứa nào chỉ nói mà không dám làm? 
 
     Người đứng xem cười ồ lên. Đám trẻ con vỗ tay rần rần như pháo tết. Kể từ ngày đó, thằng Tư được đặt cho một chữ nữa ghép vào cái tên Tư thành ra là Tư Lù. Ai gọi sao thì gọi. Nó chỉ cười hề hề, chẳng phân trần, cũng chẳng cải chính. Nó không buồn phiền gì với Con Đĩ Ngựa, trái lại nó càng mơ tưởng đến ả nhiều hơn.
 
     Sau khi Tư Tù đi tham quan thủ đô Hanoi về, nó được bố trí công tác an ninh ngay tại khu vực chợ Chọi. Trong giai đoạn đầu của chánh quyền “kách mệnh”, sự xếp đặt này là đúng người đúng việc, vì không ai xứng đáng được gọi là thổ công ở cái chợ Chọi này hơn nó. Nó biết rành từng gia đình, từng người trong khu vực. Gia đình nào có con, cháu đi lính “ngụy”, làm công chức “ngụy”, gia đình nào có người trước kia đi làm cho Mỹ vv.., từng gia đình, tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn như thế nào nó đều biết rành cả. Nó biết rõ mọi chuyện như nắm trong lòng bàn tay. Nó chỉ dưới quyền một người là tên bộ đội chính trị viên của tiểu đoàn 307. Tên này quyền hành cũng như chủ tịch xã lúc trước, còn Tư Lù phụ trách vấn đề an ninh trong khu vực. Cả hai tên này họp lại dưới danh nghĩa là Ban Quân Quản Chợ Chọi. Với tư cách là thành viên Ban Quân Quản, nó gởi hết vào trại cải tạo những thành phần đáng nghi ngờ đối với chế độ, nói cho đúng hơn là những người nó không ưa, hay nó có thành kiến. Chức vụ mới này cũng cho phép Tư Lù tuyển chọn theo ý nó một đám lâu la để sai khiến. Bọn này quản lý hầu như mọi vấn đề quanh khu chợ Chọi. Chúng gồm có bốn tên đàn ông và một mụ đàn bà. Mụ này không ai khác hơn lại chính là Con Đĩ Ngựa. Trước ngày VC vào, bốn tên lâu la này đều là thứ anh chị ở trong vùng. Mỗi tên bao sân thu hụi chết một lãnh vực buôn bán, chẳng hạn đứa hàng ăn, đứa hàng trái cây vv.. Giang san của đứa nào đứa ấy quản trị ngầm theo một nguyên tắc giữa chúng với nhau là nước sông không phạm đến nước giếng. Vì thế ít khi có đụng độ nào đáng kể giữa bọn chúng. Riêng Con Đĩ Ngựa, sau khi “chính quyền đã về tay nhân dân” rồi thì nó mới hiện nguyên hình là một đồng chí nữ giao liên VC. Ả được giao nắm đầu hội Phụ Nữ Giải Phóng huyện, trực tiếp làm việc với ban quân quản. Khi Tư Lù lên làm lớn, bọn bốn tên tự động qui thuận dưới trướng của nó. Chúng tôn Tư Lù lên làm lãnh đạo và gọi nó là thủ trưởng. Chức thủ trưởng này vậy mà rất có tác dụng.
 
     Từ khi Tư Lù lên chức thủ trưởng, sinh hoạt khu chợ Chọi có phần đi vào nề nếp hơn. Bọn đầu gấu này có mặt chỗ nào là chỗ đó hết ai dám hó hé. Chúng nói gì mọi người phải  tuân theo răm rắp. Chúng ghé hàng quán nào, ăn uống gì, mua bán gì, chủ quán đều phải khép nép mời chào rất lễ phép. Và tất nhiên mua gì chúng không bao giờ nhớ trả tiền. Cũng không ai dám đòi tiền chúng. Có một lần Tư Lù dẫn lũ đàn em vô nhậu tại quán chú Ba Thìn. Ăn uống xong, cả bọn đứng dậy. Tư Lù làm bộ móc tiền định trả làm chú Ba xanh mặt. Chú vội xua tay cười giả lả nói với nó như van xin:
 
–  Có gì đâu, thôi đi. Chuyện nhỏ mà ông Tư.
 
     Tư Lù làm ra vẻ thành khẩn:
 
–   Chú Ba buôn bán mà, tụi tui ăn không của chú sao được.
 
     Ba Thìn là dân Chệt. Chú chỉ cần được yên thân. Thói bợ đỡ đút lót là nghề của dân Chệt làm ăn trên đất người. Chú áp dụng mánh lới rất chệt để mà tâng bốc Tư Lù:
 
–   Cách mạng lo cho dân thì dân giúp đỡ lại cách mạng thôi mà. Có phải không ông Tư?
 
     Sự việc này sau đó trở thành nếp sinh hoạt tự nhiên của người dân buôn bán chung quanh khu chợ Chọi. Tất cả cán bộ, bộ đội, kể cả những kẻ chỉ có hơi hướng với kách mạng đều ngang nhiên ăn uống, mua bán miễn phí. Hậu quả đem lại là cả thị trấn chỉ trong sáu tháng từ sau ngày “giải phóng” đã đoạt ngọn cờ tiên phong, đi đầu trong cuộc chạy đua tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa đói rách. Không còn ai bán buôn. Chợ Chọi lại trở về hoang vu thời tiền Pháp thuộc. Tư Lù một lần nữa được tuyên dương tiên tiến xây dựng nếp sống mới xã hội chủ nghĩa.
 
     Khi người dân chợ Chọi đã quay về với đồng ruộng rồi thì Tư Lù do thành tích, được gia nhập đảng và dược đưa lên làm trưởng đồn công an phường tại thị xã Sóc Trăng. Sau ngày “giải phóng”, tỉnh Ba Xuyên sát nhập vào tỉnh Bạc Liêu và tỉnh lỵ trở thành thị xã Sóc Trăng. Thị xã này có 6 phường. Trong 8 năm trời, Tư Lù lần lượt nắm chức đồn trưởng công an của cả 6 phường trong thị xã. Tính trung bình mỗi phường nó làm đồn trưởng ở đó hơn một năm. Sau cùng nó được đề bạt làm trưởng ty công an thị xã kiêm thị uỷ viên. Dưới sự chăm sóc an ninh tận tình của đồng chí Tư Lù, Sóc Trăng cũng mau chóng tiến lên chủ nghĩa xã hội theo con đường của thị trấn chợ Chọi. Một thị xã lúa gạo trù phú nhất miền Nam chỉ trong 8 năm trời tiến lên tới đỉnh cao chủ nghĩa xã hội phải nói đó là một bước tiến nhẩy vọt. Công đầu làm nên thành tích này không phải do tên Mười Thì, bí thư thị xã, mà là do đồng chí Tư Lù. Thành tích này đã đẩy Tư Lù lên thay tên Mười Thì làm bí thư thị xã.
 
     Tư Lù không thể tưởng tượng có ngày nó lại được làm lớn như thế. Trước đây nó cứ tưởng càng làm lớn càng khó, không ngờ đối với nó lại quá dễ dàng. Mọi thứ công văn giấy tờ trình lên nó, nó chỉ cần hỏi tên cần vụ xem ký chỗ nào rồi cầm cây viết quẹt vào chỗ đó một con giun dài ngoòng là xong. Tuy nhiên tình trạng mù chữ cũng gây khó khăn đôi chút đối với nó. Một là rất dễ bị bịp, và hai là vấn đề sĩ diện đối với dân chúng và thuộc cấp. Trường hợp Mười Thì đã cho nó học được rất nhiều kinh nghiệm.
 
     Mười Thì bắn súng thì giỏi nhưng phải cái mù chữ cho nên hắn chỉ mang quân hàm đến đại tá và làm bí thư thị xã là cao lắm rồi. Trong suốt những năm làm bí thư thị xã, Mười Thì không một lần dám ăn nói hay đọc diễn văn trước đám đông. Những việc này thì lại xẩy ra quá thường đối với cương vị một bí thư, nhưng Mười Thì đều đẩy hết cho tên phó bí thư làm thay. Còn mù chữ bị gạt thì Tư Lù đã chính tai nghe, mắt trông thấy Mười Thì bị gạt nhiều lần. Người gạt Mười Thì không ai xa lạ mà là tên cần vụ của ông bí thư. Thằng ranh con này cũng không phải gạt chuyện lớn gì, mà chỉ kiếm chác bao gạo hoặc ký đường để bán lấy tiền gởi về Bắc nuôi bà mẹ già ngoài đó. Tư Lù biết rành chuyện qua mặt cấp trên của tên cần vụ nhưng nó nghĩ chấp nhất ba cái trò vặt vãnh này thuộc cấp sẽ khinh khi mình và có thể khiến nó hết làm ăn gì được. Tên cần vụ cũng biết thế nên tỏ ra rất khâm phục và biết ơn Tư Lù.
 
     Những cái bất lợi như trên làm Tư Lù suy nghĩ mãi. Con đường thăng quan tiến chức của nó không thể để tình trạng mù chữ phá hỏng được nên nó nghĩ mình phải quyết tâm học. Người thầy đầu tiên khai sáng cho Tư Lù lại là Con Đĩ Ngựa.
 
     Con Đĩ Ngựa đã học hết lớp hai bậc tiểu học. Nó bỏ học ngang xương theo du kích đi làm cách mạng. Ả được bố trí công tác giao liên và theo dõi tình hình địch tại khu vực chợ Chọi. Ít lâu sau khi Tư Lù về làm đồn trưởng công an tại Sóc Trăng, Con Đĩ Ngựa cũng được bố trí về đó. Ả được coi là thành phần có văn hóa nên được giao làm thư ký trong văn phòng bí thư. Do công việc đòi hỏi, Tư Lù và Con Đĩ Ngựa có cơ hội gặp nhau thường xuyên. Chuyện lúc trước ở chợ Chọi không những đã không làm chúng khó xử khi gặp lại nhau, mà trái lại cả hai coi đó như là những kỷ niệm đẹp làm chúng xáp lại với nhau một cách dễ dàng hơn. Chưa đầy hai năm sau chúng chính thức trở thành vợ chồng. Con Đĩ Ngựa đồng thời là người vợ, là tham mưu, và là cố vấn rất đắc lực của Tư Lù. Không những ả giỏi kiếm chác mà còn tỏ ra tinh khôn, biết tới lui những nơi cần tới và nhất là biết việc gì nên làm, việc gì không nên làm. Người ta thường nói khôn chết, dại chết, biết sống. Con Đĩ Ngựa trời cho được cái biết này. Cần làm gì, ả không sợ tốn kém, cũng không tiếc bất cứ một thứ gì, miễn sao con đường hoạn lộ của Tư Lù được hanh thông. Chính ả cũng thừa nhận rằng Tư Lù muốn tiến thân hơn nữa nó cần phải có học. Ả biết cách làm thế nào để Tư Lù đạt được những thứ mơ ước đó. Nhờ công lao của ả, Tư Lù từ bước đầu học i-tờ cho đến khi có trong tay tờ giấy chứng chỉ lớp 12 do chính hiệu trưởng trường trung học phổ thông Hoàng Diệu ký và đem đến tận nhà cho nó. Việc này tuy vậy cũng phải mất 6 năm. Đó là thời gian tối thiểu cho một thần đồng, hay ít nhất là loại người sinh nhi tri.
 
     Bây giờ Tư Lù đã có thể xem duyệt công văn và đọc được diễn văn rồi. Con Đĩ Ngựa lại tính đến bước kế tiếp. Ả phen này phải bôn ba đi Hanoi một chuyến. Rồi như là một chuyện may ngẫu nhiên, Tư Lù bất thình lình được kêu lên thành phố ( Saigon ) làm thủ tục đi Liên Sô du học. Liên Sô thời đó là một nơi đào tạo nhân tài số một cho các nước trong khối xã hội chủ nghĩa. Các đại học ở đây bảo đảm cho tất cả các du học sinh, miễn là có ghi tên học, đều được cấp bằng phó tiến sĩ khi trở về nước. Nhà nước Vietnam sau khi đã làm một bản hạch toán kinh tế, đề ra kế hoạch đào tạo nhân tài đầy sáng tạo mà người trong nước gọi là “dắt bò đi Liên Sô, đem phó tiến sĩ về”. Con cháu cách mạng vì thế ào ào đi Liên Sô. Vài ba năm sau trở về đứa nào cũng đem theo về ít nhất một mảnh bằng phó tiến sĩ. Tư Lù cũng đi Liên Sô du học theo cách thức đào tạo này.
 
     Khi Tư Lù lên máy bay thì nó đã biến thành một nhân vật khác rồi. Cái lý lịch cũng khác đi nhiều rồi cho phù hợp với tương lai đang tới của hắn như câu người Pháp vẫn thường đem ra biện lý: noblesse oblige. Trên hộ chiếu ghi tên nó là đồng chí Nguyễn Tạ. Thằng Tư Lù ngày nào coi như đã chết. Đây là việc đương nhiên nằm trong qui luật của chủ nghĩa Mác bách chiến bách thắng. Hồ Chí Minh sanh ra có tên là Nguyễn Tất Thành. Tên này có nghĩa là nhất định phải thành. Cái thành của chàng thanh niên Tất Thành này mơ ước là trở thành một viên quan thuộc địa như ông bố của hắn. Nhưng khi không thành ông quan thuộc địa, mà chó ngáp phải ruồi, mới thành chủ tịch nước, tên hắn lại đổi thành Chí-Minh, nghĩa là cực kỳ sáng láng. Khi Tư Lù cần phải giao tiếp với lớp thượng lưu trí thức, cái tên Tư Lù đầy dấu tích phèn chua nước mặn của miền sình lầy chợ Chọi Nam Bộ kia tất nhiên không còn hợp thời nữa.
 
     Trong thời gian Tư Lù đi du học, Con Đĩ Ngựa ở nhà tần tảo kiếm chác. Ả chẳng còn biết làm gì cho qua những ngày trống vắng đó ngoài việc thỉnh thoảng bay đi Hồng Kông hay Singapore sửa sắc đẹp. Qua mấy chuyến đi, Con Đĩ Ngựa ngày nào của đất chợ Chọi không mấy chốc đã biến thành nàng công chúa ngủ trong rừng. Cái tên Thị Nở bám đầy cáu ghét phù sa sông Hậu cũng đã đổi thành nàng Thu Đạm mơ mộng. Ở Saigon , ả tới lui cơ quan thành uỷ như đi chợ. Ngoài Hanoi, ả ra vào dinh tổng bí thư như đến chỗ không người. Bữa ra phi trường đón Nguyễn Tạ đi du học về, hai đứa hug nhau và hôn hít ngoài đường ngoài chợ hệt như tây đầm thứ thiệt. Để khoe sự quảng giao của mình, ả õng ẹo hỏi chồng:
 
–   Đồng chí muốn ra Hanoi công tác hay làm trong thành uỷ?
 
     Nguyễn Tạ cũng tỏ ra biết nịnh vợ, nó trả lời:
 
–   Anh chỉ thích phục vụ cho đồng chí Con Đĩ Ngựa của anh thôi.
 
–   Nghiêm túc đấy. Vậy thì thành ủy đi nghe.
 
     Nguyễn Tạ làm trong thành uỷ thật, phụ trách về kinh tế. Thế lực của Con Đĩ Ngựa đã lên cao, bao trùm trên cả nước. Nguyễn Tạ có số thân cư thê. Nó mang đôi hia bẩy dặm để đi làm việc nước. Nó bước những bước vững chắc từ thành uỷ, rồi lên bí thư, và hiện nay là thủ tướng chính phủ. Trong một chuyến đi sang Tầu trước đây, nó đã học được câu “phi thương bất phú” là phương châm cường quốc của người Tầu. Vì thế khi lên nắm chính quyền, Nguyễn Tạ chủ trương phát triển tối đa ngành bán buôn trong nước. Dân ta ai cũng lao đầu vào buôn bán. Khắp hang cùng ngõ hẻm, từ đồng quê đến thị thành, nhà nhà buôn bán, người người buôn bán. Có thể nói người Việt Nam bất kể sang hèn, lớn bé già trẻ, hết 90% đều làm nghề buôn bán. Lê dân bá tánh thì buôn thúng bán mẹt, củ khoai, củ sắn. Viên chức làng xã thì bán đất, bán ruộng cho Đài Loan làm sân golf. Cán bộ cấp trung san bằng phố xá để bán cho Hàn, cho Nhật làm khách sạn. Mấy ông ở trung ương bán biển, bán biên giới cho Tầu, nghe đâu kiếm ăn được lắm. Một điểm rất đặc biệt của nền kinh tế Việt Nam mà trên thế giới không nước nào có là nghề bán thân. Nghề này có xuất xứ từ chợ Chọi. Nay đã phát triển ra địa bàn cả nước, rồi còn xuất khẩu qua nhiều quốc gia trong vùng. Những cô gái xuân tình hơ hớ được xuất khẩu đi nhiều nước. Họ còn được nhà nước đem sang tận Singapore triển lãm để rao hàng. Món hàng đặc sản Vietnam này cũng được quảng cáo rầm rộ trên nhiều tờ báo Đài Loan. Mấy chú ba ham mua sắm đến nỗi khiến nguồn hàng trở nên khan hiếm. Trước tình trạng cầu vượt mức cung này, nhà nước của Nguyễn Tạ đã phải thu vét hàng loại tuổi mới vừa rời vú mẹ chưa được bao lâu để xuất khẩu.
 
     Đường lối lãnh đạo của Nguyễn Tạ tài tình và hữu hiệu đến nỗi khiến nhiều ông tổng thống Mỹ phải thán phục. Ông Clinton đã phải thân hành sang Việt Nam để học hỏi. Còn Bush thì mời mọc cho bằng được Nguyễn Tạ sang Mỹ để cầu thân. Trong bài diễn văn chào mừng Nguyễn Tạ, Bush không tiếc lời khen và hứa hẹn với ông khách quí này: Khi quí vị phát triển quyền buôn bán Tự Do (chứ không phải tự do buôn bán) của quí vị như hiện nay, chúng tôi sẽ cùng đứng chung với quí vị.    
 
     Thời gian ở thăm nước Mỹ, vợ chồng Nguyễn Tạ và bộ hạ không dám đi đến đâu, vì chường mặt ra là bị đồng bào tỵ nạn rượt đuổi. Phái đoàn của Nguyễn Tạ chỉ thấy xuất hiện một lần trong buổi họp báo tại vườn hồng toà Bạch Ốc. Cách toà Bạch Ốc không xa đồng bào ta biểu tình đông nghẹt. Bọn ba chàng Ngự Lâm Pháo Thủ chúng tôi cũng có mặt. Thấy một anh nhà báo Mỹ lăng xăng thu hình, ghi chép gần đó, Hoàng khều nhẹ anh ta hỏi nhỏ:
 
–   Này, lát nữa anh có vô trong kia không?
 
–   Sure.  – Anh nhà báo Mỹ trả lời.
 
     Hoàng cười xã giao:
 
–   Phiền anh có thể giúp tôi việc này không?
 
–   Việc gì? Tôi sẵn sàng.
 
–   Anh làm ơn nói với đồng chí Tư Lù và cả Con Đĩ Ngựa chúng tôi hỏi thăm họ:
 
–   Ai là đồng chí Tư Lù và ai là Con Đĩ Ngựa? Ông với họ thế nào?
 
– Thì là vợ chồng ông thủ tướng Nguyễn Tạ đấy. Chúng tôi hồi xưa ở vùng chợ Chọi Việt Nam có quen biết với họ.
 
–   À thì ra thế.
 
     Anh chàng phóng viên Mỹ nghe Hoàng nói nhưng không tin. Anh ta tưởng tượng đến dư âm cuộc chiến gần nửa thế kỷ trước, có thể hai kẻ thù hôm nay bất ngờ gặp lại nhau. Hoàng đoán biết anh chàng Mỹ nghĩ gì, cố tìm cách giải thích cho anh ta hiểu. Anh ta nhe răng cười thông cảm. Hoàng được trớn nhắc thêm:
 
– À còn chuyện này nữa, anh cũng làm ơn nhắc dùm với ông Bush hộ tôi là ông ta đã đứng lộn chỗ rồi đấy (*).
 
     Anh nhà báo Mỹ thật thông minh. Anh hiểu ra ngay Hoàng muốn nói gì mới kiếm một câu thật hóm hỉnh trả lời Hoàng:
 
– Chả đã làm hai nhiệm kỳ rồi, đâu có ứng cử lại được nữa, có đứng lộn chỗ một tí cũng không sao. Mà đứng bên cạnh Nguyễn Tạ có lợi nhiều hơn cho Chả chứ. Ông thấy có đúng không?
 
     Hoàng thẩy cho anh chàng nhà báo Mỹ một cái cười nhếch mép cùng với một bàn tay giơ lên thay cho câu cám ơn, cũng là câu từ biệt. Bọn chúng tôi kéo nhau đi chỗ khác. Cả ba vừa buồn thấm thía, vừa tội nghiệp đồng bào mình đang giang thân ra giữa trời nắng gió thế này mà biểu tình. Đồng bào thật có lòng và cũng thật đáng thương, ăn quả lừa đã ngán rồi vẫn còn ráng mà ăn.
 
 
 
(*) Trong bài diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2, Tổng Thống George W. Bush tuyên bố:
“Today, America speaks anew to the peoples of the world: All who live in tyranny and hopelessness can know: the United States will not ignore your oppression, or excuse your oppressors. When you stand for your liberty, we will stand with you. “(Tạm dịch: Hôm nay, một lần nữa nước Mỹ nói với các dân tộc trên thế giới rằng tất cả những ai đang sống trong chuyên chế và vô vọng đều nên biết Hoa Kỳ sẽ không làm ngơ trước việc họ bị áp bức, và tha thứ cho những kẻ đàn áp họ. Một khi các bạn đứng lên vì tự do, chúng tôi sẽ cùng đứng chung với các bạn).
 
 Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất



GIẢ TÌNH NHÂN

Huy theo chân người phụ nữ đến một góc của chợ Bình Tây. Người phụ nữ rẽ vào hàng bán trái cây và đang lựa mua một số trái Thanh Long. Huy vừa trờ tới, người phụ nữ như đã biết mình bị theo dõi, nên vội vã trả tiền, tiếp tục len lõi vào trong đám đông người về hướng nhà lồng chợ.

GIẢ TÌNH NHÂN
 
Lời tác giả: Đây là những công tác thật được tác giả kể lại một cách trung thực . Nhưng vì lý do tế nhị, những địa danh, tên tuổi nhân vật trong chuyện có thay đổi phần nào.
 
Duy Văn Hà Đình Huy
 
Buổi chiều Sàigòn cuối Đông năm 1989 thật nhộn nhịp. Từng đòan người và đủ các loại xe tấp nập trên những đại lộ, đông nhất là khu trung tâm thành phố, bởi nơi đây có chợ Hoa và các cửa hàng để mọi người mua sắm. Huy thả bộ ngang qua tòa Đô Chánh cũ tiến về hướng rạp Rex, định xem có phim nào hay để gởi mình vào ấy một xuất cho thư giản đầu óc sau những ngày làm việc vất vã. Vừa gần đến rạp, Huy chợt thấy một phụ nữ dáng gầy gầy cầm một cái xách tay lớn hơi khác lạ với những cái xách tay bán trong các cửa hàng quốc doanh trong thời bao cấp của chế độ “Xã Hội Chủ Nghĩa”. Vì khoảng cách còn xa để nhận diện được nhau, nên Huy không nhìn ra loại xách tay của người phụ nữ đang có là của nước nào sản xuất, nhưng một điều chắc không phải sản phẩm của các nước cộng sản.
Người phụ nữ đi như chạy về hướng trạm xe buýt trên đường Lê Lợi. Nhìn dáng đi của người này Huy chợt nhớ đến Loan một người bạn đồng nghiệp với mình có lần theo lệnh của cấp trên, hai đứa trong nhiệm vụ phá vở một cụm tình báo của cộng sản xâm nhập vào trường đại học Luật khoa Sàigòn, mục đích theo dõi bắt và sát hại những giáo sư có tinh thần quốc gia.
Không bỏ lỡ cơ hội, Huy thay đổi ý định vào xem phim và quyết theo dõi tìm hiểu về người phụ nữ vừa đi vừa chạy này. Đến trạm xe buýt, người phụ nữ không ngồi trên băng chờ xe như bao nhiều hành khách khác mà đứng lẫn khuất vào trong đoàn người, hai tay ôm tròn cái xách trước ngực. Xe buýt đến. Mọi người lên xe, Huy cũng lên xe và ngồi băng phía sau người phụ nữ. Xe thắng gấp vì phải nhường đường cho một chiếc xe gắn máy do người say rượu quẹo trái luật. Hành khách trên xe chao đảo có khuynh hướng lao người về phía trước phòng lái. Thân người của Huy như bị bứng ra khỏi chổ ngồi và đẩy về phía trước, Huy cố vịn thanh xà ngang trước mặt, để tạo sự thăng bằng, nhưng không cản nổi lực đẩy, tay của Huy đã tuột khỏi xà ngang chạm vào phía sau gáy và phần vai của người phụ nữ .Chiếc túi xách trên tay của người phụ nữ rơi xuống sàn xe và lăn tuột về phía sau chỗ Huy ngồi. Huy nhặt chiếc xách tay đưa lại cho người phụ nữ kèm theo lời xin lỗi. Người phụ nữ nhìn Huy trân trân và quay mặt về phía khác làm cho Huy lúng túng không biết người có chấp nhận sự xin lỗi của Huy không? Lòng Huy cảm thấy khó chịu về việc đụng chạm trước đó.
Nhìn khuôn mặt của người phụ nữ Huy không thể nào nghĩ ai khác ngoài Loan. Huy khẳng định với chính mình. Vì thế Huy quyết định hỏi chuyện. Xe ngừng ở trạm Chợ Lớn, người phụ nữ xuống xe làm ý định của Huy hỏng vở. Nhưng vốn bản tính lì lợm, Huy lại quyết bám mục tiêu, Huy nhảy xuống xe khi xe sắp sửa lăn bánh. Người tài xế xe buýt chửi toan lên bằng những danh từ tục tỉu về hành động phóng xuống xe của Huy. Rồi việc gì cũng qua. Xe chạy.
Huy theo chân người phụ nữ đến một góc của chợ Bình Tây. Người phụ nữ rẽ vào hàng bán trái cây và đang lựa mua một số trái Thanh Long. Huy vừa trờ tới, người phụ nữ như đã biết mình bị theo dõi, nên vội vã trả tiền, tiếp tục len lõi vào trong đám đông người về hướng nhà lồng chợ. Nhưng Huy đã xuất hiện đứng sờ sờ trước mặt. Trong ngạc nhiên, người phụ nữ ngẩng cao mặt và hỏi:
-Ông làm gì thế? Huy ấp úng.
-Dạ thưa tôi không làm gì cả. Tôi thấy bà giống một người bạn trước đây tôi đã quen.
Người phụ nữ nhìn Huy từ đầu đến chân và nói. Người yêu của ông ? Dạ thưa không!
Chỉ là bạn thôi.
-Bạn thôi, nhưng sao ông lại nhớ nhau dai thế ? Người phụ nữ hỏi.
-Vâng, chỉ là bạn. Nhưng đây là người bạn đặc biệt .
Miệng người phụ nữ the the giọng cổ như nói một điều gì không rõ! Sau đó bà bổng nói to: có phải ông là Huy không?
-Vâng tôi là Huy đây. Còn bà có phải Loan không ? Đúng rồi, tôi là Loan của 18 năm về trước với hổn danh “Loan mắt nhung Luật khoa Sàigòn”. Hơn 2 tiếng đồng hồ, ngồi trên xe buýt, tôi thật hồi họp, vì đã biết có người theo dõi, nên cố tìm mọi cách phản tình báo để biết nguyên do, nhưng không ngờ là anh. Huy thay đổi cách xưng hô.
-Nghiệp vụ của chị vẫn còn nhạy bén đấy chứ ! Còn tôi thì bị “cháy” rồi! Cớ đời gì làm tình báo theo dõi người ta lại để cho người ta phát hiện! Huy nói trong dè biểu nghề nghiệp. Chị Loan nhún vai và cười như không đồng tình với câu nói của tôi.
Cả hai chúng tôi rời khỏi nhà lồng chợ Bình Tây vào trong một quán nước kế bên đường, chị cho biết chủ quán là người thân của chị.
Qua trao đổi. Huy được biết chị vẫn chưa lập gia đình, vì cái chết của Trung Úy Tuấn Biệt Động Quân, người chồng sắp cưới của chị năm nào đã làm cho tâm hồn chị đau khổ, nên sống một thân đến giờ. Theo lời tâm sự của chị.
Năm 1972, chị khóc tiễn biệt Trung Úy Tuấn khi chị tròn 22 tuổi, đang học năm thứ hai đại học Luật Sàigòn. Trung Úy Tuấn cùng quê với chị ở Mỹ Tho. Hai người quen nhau từ còn là học sinh trung học Nguyễn Đình Chiểu. Sau Tết Mậu Thân, với khẩu hiệu “ Tổ Quốc Lâm Nguy” của chính phủ miền Nam . Hàng hàng lớp lớp thanh niên hưởng ứng theo lệnh tổng động viên của chính quyền ban ra .Cùng với những người trai thời chiến khác Tuấn xếp bút xếp bút nghiên vào quân ngũ .Anh vào khóa 3/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Ra trường phục vụ dưới cờ binh chủng Biệt Động Quân. Đơn vị của Tuấn trấn đóng các vùng biên giới của quân Khu 2 và 3.
Vào tháng 3 năm 1972, Cộng Sản Bắc Việt tung nhiều trận đánh lớn, vào các quân khu của Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt quân khu 1, 2 và 3 nhằm tạo áp lực quân sự để hậu thuẩn nước cờ chính trị của chúng tại Hội Đàm Ba Lê .
Tại quân khu 3, căn cứ hỏa lực Tống Lê Chân, được Việt cộng đánh giá cao về mặt chiến lược và xem như là cái gai chọc vào hai bàn chân của chúng, nếu không hạ được vị trí này chúng sẽ không thể tiến xa hơn theo kế hoạch của Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương đề ra là tạo một vùng “giải phóng” để cho nhóm cái gọi là “ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” phô trương thanh thế với quốc tế. Cho nên Trung Uơng Cục Miền Nam của Việt Cộng tại Mõ Vẹt ( Ba Thu) đã nhận lệnh của Bắc Bộ phủ Hà Nội là bằng giá nào cũng phải triệt hạ cho bằng được căn cứ hỏa lực Tống Lê Chân, dù phải nướng hàng vạn binh lính “cáo Hồ” và bọn Việt cộng miền Nam !
Cộng sản Bắc Việt đã dùng tòan bộ công trường 7 và một trung đòan pháo cùng với vài tiểu đoàn Việt cộng địa phương. Với chiến thuật cổ điển “ Tiền pháo hậu xung” vàø chiến thuật “đào hầm” dùng đặc công đánh bọc phá nhằm tiêu diệt căn cứ này.
( Quân cộng sản Bắc Việt áp dụng lại chiến thuật đánh Pháp ở trận Điện Biên Phủ .Họ dùng lực lượng thanh niên xung phong hoặc, hoặc nhân công phục vụ chiến trường, đào một đường hầm từ trong rừng hoặc trong những cánh đồng hay một ngôi nhà nào đó thông vào trong trại lính và quân của họ theo đường hầm đó vào dùng đặc công đánh phá bộ chỉ huy đầu nảo của quân đối phương)
Mỗi ngày cộng quân pháo kích hàng ngàn quả pháo đủ loại vào trong căn cứ Tống Lê Chân, sau đó dùng chiến thuật biển người xung phong để đánh vào căn cứ do tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân Biên Phòng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trấn đóng. Chỉ huy tiểu đòan này là Thiếu Tá Ngôn đã phản công mãnh liệt chống trả từng đợt xung phong của cộng quân. Nhờ pháo binh và phi cơ yểm trợ và nhờ sự đồng tâm tiêu diệt kẻ thù của quân nhân các cấp. Sau 3 tháng chiến đấu trong tình trạng khó khăn về mọi mặt. Cuối cùng theo lênh cấp trên Tiểu Đòan bắt buộc phải mở đường máu rút lui bỏ căn cứ .Tiểu đòan 39 Biệt Động Quân đã gây tổn thất nặng cho cộng quân. Theo báo chí thời đó tường thuật : Sau khi chiếm được căn cứ hỏa lực Tống Lê Chân cộng quân đã nướng hết gần một trung đoàn. Thiệt hại về tiểu đòan 39 Biệt Động Quân cũng không ít. Trung Úy Tuấn đã làm xong nhiệm vụ của một người trai thời chiến một cách hào hùng, sau khi “ chia nhau” hạ 3 tên bộ đội cộng sản định bắt anh bằng một quả lựu đạn M26.
Sau sự hy sinh của Trung Úy Tuấn, chị thật đau buồn cho số phận của mình. Nhưng chị tự nhũ, nếu cứ vì tình cảm bi lụy sẽ không giải quyết được gì cho bản thân và những mơ ước cống hiến cho đất nước. Chị không tiếp tục việc học sau lần thi khảo thí lên năm thứ ba ban tư pháp trường Luật Khoa Sàigòn mà chị đang theo.
Chị về Mỹ Tho, thăm Ba Mẹ các anh chị em của chị và đặc biệt thăm lại mộ phần của Trung úy Tuấn. Vã lại chị cũng muốn hít thở những không khí đồng nội trong lành để nhớ lại thuở còn là cô học sinh nhỏ trường làng mỗi ngày hai buổi đi bộ đến trường tung tăng cùng hoa bướm. Cũng như tìm lại những dư hương của tháng ngày yêu đương nồng ấm bên người yêu.
Sau một năm đầm ấm, hạnh phúc quanh những người thân, cùng tìm lại những kỷ niệm xa xưa của những ngày thơ mộng.
Chị trở lại thủ đô.
Mùa Đông khí hậu Sàigòn không lạnh như Mỹ Tho, có lẽ hơi lạnh bị chắn khuất bởi những tòa nhà cao tầng bao bọc chung quanh trung tâm thành phố. Tuy nhiên về chiều, khi mặt trời đi ngủ, một vài vị trí trong thành phố có vẽ lạnh hơn. Bến Bạch Đằng về đêm khách dạ du phải khoát trên mình một áo len chống lạnh.
Đi lại trên những đại lộ đầy những đèn hiệu quảng cáo đủ màu sắc và các thương hiệu sầm uất, cùng với những con hẽm nhỏ một năm trước đây là những ngõ tắt đưa chị đến trường Luật. Tâm hồn chị trở nên thư thái và như cảm nhận một điều gì đó thay đổi cho chuyến trở lại thủ đô lần này.
Qua một tuần lễ nghĩ tại nhà của người cô họ, chỉ có xem ti vi và nghe radio. Phần lớn những tin tức chị nghe và thấy là những tin nóng bỏng từ các chiến trường. Những cảnh tàn ác của Việt cộng nằm vùng, giết hại dân lành… làm chị phải suy nghĩ, nên đóng góp chút ít gì cho đất nước.
Với một đêm trằn trọc không ngũ đến sáng. Chị quyết định gia nhập vào ngành Nữ Quân Nhân để được chiến đấu bảo vệ dân lành. Đến Trường Nữ Quân Nhân, chị trình tất cả giấy tờ tùy thân cho người nữ hạ sĩ quan tuyển mộ để xin ghi danh gia nhập. Xem qua giấy tờ, người hạ sĩ quan từ chối cho rằng, chị thuộc thành phần tài nguyên quốc gia nên không thể gia nhập vào khóa A tân binh được. Nếu muốn phục vụ, nên ghi danh vào khóa Sĩ Quan Nữ Quân Nhân. Chị đồng ý gia nhập vào khóa Sĩ quan. Nhưng đến giai đọan khám sức khỏe nhập ngũ, chị bị loại vì lý do sức khỏe kém. Thế thì mộng “được chiến đấu bảo vệ dân lành” bị tan vỡ.
Không được vào khóa sĩ quan Nữ quân nhân, chị rất buồn định tìm việc làm để giải khuây, đồng thời có một ít tiền nuôi sống bản thân và giúp đở gia đình. Suốt một tuần đọc báo tìm việc, nộp đơn vào một vài cơ quan. Nhưng cả tháng trời chẳng thấy ai kêu gọi phỏng vấn. Chị chán nản định trở về quê làm quản lý nhà máy xay lúa cho Ba chị.
Tình cờ một buổi trưa, tại một quán nước gần nhà của bà cô họ, anh lính Thủy Quân Lục Chiến vừa uống nước xong trả tiền rời khỏi quán để quên lại tờ báo Quật Cường. Chị gọi người lính để đưa lại tờ báo đã bỏ quên, nhưng người lính đã vội nhanh lên xe máy phóng đi.
Đọc qua trang tìm việc, chị thấy công ty Z của Mỹ cần người biết chút ít tiếng Anh để làm thư ký. Liên lạc qua số điện thoại trên báo chị tìm địa chỉ đến xin việc làm.
Tại Văn phòng X trên đường Nguyễn Kim, cô gái hoa ngàn đồng nội của tỉnh Định Tường với chiếc áo dài trắng trinh nguyên thời sinh viên ngày nào. Nay trong chiếc áo dài màu cúc vàng sặc sở đã làm cho biết bao nhiêu người hiếu kỳ phải để mắt nhìn chị và thầm ru hồn vào lời thơ của thi sĩ Nguyên Sa. “Áo nàng vàng anh về mơ hoa cúc. Áo nàng xanh anh đếm lá sân trường….”
Đậu bài text 50 câu hỏi về trí thông minh và phong cách ứng xử .Chị được nhận vào công ty. Tuy nhiên để làm việc tốt chị phải qua một giai đọan huấn luyện. Hàng ngày chị đến văn phòng học, nhưng không thấy dạy về nghiệp vụ tiếp tân hay sổ sách phần vụ cho một thư ký mà học toàn là những kiến thức căn bản về tình báo, và phản tình báo …
Bởi quá đổi ngạc nhiên, hỏi giảng viên, chị mới hiểu ra rằng chị đang học lớp căn bản tình báo do Cục Trung Ương Tình Báo hướng dẫn.
(Vào thập niên 70, vì nhu cầu công tác, Cơ quan tình báo Miền Nam Việt Nam tuyển mộ nhân viên khế ước qua hình thức mẫu rao vặt tìm việc của những hãng thầu hay công ty Mỹ. Mục đích để bảo mật và giữ kín tông tích. Sau khi một người được tuyển vào công ty hay hãng thầu và biết mình không phải làm công việc thuần túy cho hãng hay công ty, mà làm công việc của một tình báo viên. Người đó có quyền không hợp tác. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, phần lớn ai đã được nhận vào điều cũng vui vẻ nhận việc, không bao giờ từ chối.)
Học xong lớp căn bản theo dõi (giám thị) chị làm việc tại A 17 thuộc Phủ Đặc Ủy Tình Báo Trung Ương. (CIO)
Hơn một tiếng đồng hồ, chị và Huy hàn uyên, Huy mới biết được một phần đời của chị có những nỗi đau tình yêu như không thể xóa nhòa và ở chị cũng có tấm lòng yêu tổ quốc như bao người, sẵn sàng chiến đấu chống lại bọn cộng sản vô thần.
Huy nhớ lại vào năm 1973, để phá vở một tổ chức tình báo của việt cộng chuyên trí vận, bắt cóc hay thủ tiêu các giáo sư và giảng viên có tinh thần quốc gia trong đại học Luật Khoa Sàigòn. Nha Nội Chính ( E4) thuộc khối Cảnh Sát Đặc Biệt (N.Đ.B) của Việt Nam Cộng Hòa (giống như F.B.I của Mỹ và S.E.D của Pháp và K.G.B của Liên Bang Sô Viết) mở đầu mối và phân công Huy điều nghiên để phá vỡ tổ chức này của việt cộng. Công việc tuy chỉ gọi là “phá vở” nhưng rất phức tạp. Bởi vì trước năm 1972, sau vụ ám sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật. Cở sở tình báo Việt cộng hầu như đã có mặt và ăn sâu vào trong các đại học miền Nam, đặc biệt là các đại học tuyển sinh qua hình thức ghi danh mà không qua thi tuyển như: Luật Khoa, Văn Khoa và Khoa Học. Trong các đại học này, các cơ sở tình báo việt cộng được che chở bởi một số vị giáo sư có uy tín nhưng khuynh tả, trong tổ chức mà chính quyền VNCH gọi là thành phần thứ ba. Ngoài ra, cơ sở tình báo việt cộng còn có sự trợ giúp nghiệp vụ bởi Ban Trí Vận thành ủy Saigon – Gia Định.
Ngày Z, tại một phòng nhỏ bên trái phòng khách của Tổng Hội Sinh Viên Sàigòn
( cũng là phòng nghĩ của Huy) được tin của mật báo viên Hồng Anh cho biết có một cặp tình nhân đang ngồi gần giáo sư VT trong lúc ông xem phim cùng vợ trong rạp Rex. Cử chỉ của cặp tình nhân này có vẽ không để ý gì đến phim ảnh, ngược lại chỉ thường để ý đến cử chỉ của vợ chồng giáo sư VT. (Giáo sư VT dạy môn công pháp quốc tế, ông là người đã từng lên án việt cộng vi phạm hiệp định đình chiến dịp Tết Mậu Thân và tấn công vào các đô thị miền nam giết hại dân lành) Ban Trí vận Thành Ủy Sàigòn – Gia Định đã có truyền đơn hăm dọa khủng bố ông. Nhưng ông vẫn không sợ hải mà còn viết bài đăng báo ngoại quốc tố cáo hành động hèn hạ này của Việt cộng. Nên việt cộng muốn trừ khử ông. Cụm tình báo C21 Trung ương Cục Miền Nam điểu khiển đưa hai nam nữ điệp viên trẻ thuộc phân cục tình báo Gia Định đảm trách kế họach hành động này.
Qua điện đàm, Huy bảo Hồng Anh bám chặt mục tiêu và nhận diện rõ ràng khuôn mặt từng người. Cố làm theo lời chỉ bảo của Huy, nhưng Hồng Anh cũng cho biết cặp tình nhân này dường như đã phát giác ra cô. Vì cô cho biết những hàng ghế gần cuối rạp phần lớn đã trám đầy những cặp tình nhân, họ lợi dụng cơ hội tối nhiều hơn sáng này để âu yếm. Vì đây là xuất hát về đêm, một mình cô lẽ loi trong môi trường này, nên có thể là mục tiêu tốt cho bọn tình báo khả nghi. Nghe qua, Huy bảo cô cố bám chặt mục tiêu và ráng đợi chờ Huy sẽ có kế họach giải tỏa tinh thần cho cô. Huy trình lên cấp trên và xin tiếp ứng cho Huy một nữ nhân viên tình báo để Huy thực hiện kế họach giám thị.
-Sĩ quan điều họp nói: Nữ Thiên Nga được không?
– Huy trả lời: Thiên Nga hay bên nào cũng được miễn là nữ và có khá tốt về nghiệp vụ khoa giám thị.
Mười phút sau, người sĩ quan điều họp nói, bên Thiên Nga không còn nữ nào rỗi rãnh cho anh cả. Nhưng tôi sẽ cho anh một nữ bên A 17 anh có đồng ý không?
-Được. Bao lâu họ đến ? Tôi cần gấp, vì xuất hát sắp hết.
– Năm phút nữa .
– Vâng . Chào thẩm quyền.
Một cô gái trẻ mãnh khảnh có đôi mắt đen láy, đến Tổng Hội Sinh Viên tìm Huy. Chúng tôi đã nhận diện nhau qua trao đổi mật khẩu và biết cô có tên thật là Loan với bí số nghiệp vụ Z12. Hỏi qua tuổi tác biết Loan
lớn hơn tôi 2 tuổi. Huy xin được gọi Loan bằng chi.
Màn kịch “ tình nhân” được diễn ra bởi tôi và chị Loan. Vào rạp chiếu phim chúng tôi ngồi phía sau mục tiêu. Vị trí chúng tôi ngồi cách vợ chồng giáo sư VT một hàng ghế. Sở dĩ chúng tôi chọn vị trí như thế để dễ quan sát 2 mục tiêu cùng một lúc. Trên màn ảnh một cặp tình nhân đang âu yếm ngoài một công viên có nhiều cây rợp mát. Liếc nhìn chung quanh mọi cặp tình nhân cũng đang mơn trớn nhau bằng ngôn ngữ đôi tay và miệng. Không ngoại lệ, Huy cũng kéo chị Loan vào lòng .Đầu chị đặt trên ngực Huy, nhưng đôi mắt của chị vẫn hướng về phía mục tiêu. Mắt Huy cũng thế.
Hơi thở của chị Loan dồn dập và tim đập nhanh. Huy hỏi khẻ chị Loan tại sao thế ? Chị chỉ cười thẹn mà không nói.
Lợi dụng đọan phim có phần sáng, đánh tan cái tối trong phòng, Huy đứng dậy giả vờ đi vào phòng vệ sinh để cố ý nhìn thật kỷ mặt của mục tiêu. Vì thế Huy đã nhận diện được mục tiêu là hai sinh viên đang học trong trường Luật.
Giữa phim thật hấp dẫn, và hồi họp. Phim chiếu vụ cướp và bắt cóc con tin tại một ngân hàng lớn kéo dài hai ngày trời. Cuộc đấu trí giữa cảnh sát và nhóm tội phạm diễn ra căng thẳng, hồi hộp nhưng kết thúc lại không ai ngờ tới. Tất cả đều có bằng chứng ngoại phạm.
Đầu đuôi câu chuyện bắt đầu từ lúc bốn kẻ tội phạm mặc đồ thợ sơn tiến vào sảnh ngân hàng Manhattan Trust, một chi nhánh quan trọng của một thể chế tài chính quốc tế lớn. Chỉ trong vài giây, những tên cướp ngân hàng đã biến nơi đó thành pháo đài với 50 con tin vô tội. Sở cảnh sát New York cử thám tử Keith Frazier và Bill Mithchell tới hiện trường để thương thuyết với tay cầm đầu Dalton Russell nhằm đảm bảo sự an nguy cho các con tin. Nhưng có điều kỳ lạ, dường như bọn tội phạm táo tợn này luôn đi trước cảnh sát một bước và che giấu âm mưu thực sự của vụ này. Frazier dần đoán ra mục tiêu cuối cùng của bọn chúng không phải là tiền.
Trong khi đó Arthur Case, ông chủ ngân hàng bị hại, không muốn cảnh sát can thiệp sâu mà cầu cứu Madeline White, một nữ luật sư, đàm phán với tên tội phạm. Phải chăng ông ta sợ “cháy nhà ra mặt chuột”? Nhưng cô luật sư này lại có đủ bản lĩnh để chơi trên cơ kẻ bắt cóc con tin. Bản thân ngài thanh tra Keith Frazier còn đang gặp rắc rối trong vụ án trước, làm thế nào để anh xoay sở khi phát hiện ra đây là điệp vụ kép với chỉ một manh mối?
Kết thúc bộ phim, thám tử Frazier đi vào căn hộ của mình, cậu em trai của bạn gái anh nằm vật vờ trên ghế, tay ôm một chai rượu hình quả bom. Chi tiết này gợi nhớ đến bộ phim trước của đạo diễn Spike Lee Bamboozled có nội dung về một loại rượu tên là “Da Bomb” được đóng trong chai có hình dáng tương tự như một quả bom.
Đèn rạp bật sáng, mọi người ra về, vợ chồng giáo sư VT lần lượt đứng lên rời khỏi chổ ngồi. Chúng tôi thấy mục tiêu cũng đứng lên và nhanh chân ra trước hướng cửa chính của rạp chiếu phim. Chị Loan và Huy cũng bám theo. Đến cửa, chúng tôi thấy mục tiêu dõi mắt nhìn theo vợ chồng giáo sư VT đi ra bãi xe gắn máy. Trong lúc cô gái liếc mắt quan sát mọi người đang đứng xung quanh, thì người thanh niên tiến chân theo sau vợ chồng giáo sư VT. Huy và chị Loan tay đang trong tay. Huy buông tay chị Loan ra và dặn : Nhớ bám chặt cô gái này nhé chị Loan. Huy theo gã thanh niên ra bãi đậu xe. Gã thanh niên đến chiếc xe gắn máy Honda 67, dỡ yên xe lên như lấy một vật gì bỏ vào túi áo khoác và dẫn xe theo sau vợ chồng giáo sư VT. Trả tiền cho người giữ xe máy xong vợ chồng giáo sư VT định mở máy xe chạy về đường Lê Lợi, nhưng gặp một người bạn, nên chần chờ vài phút nói chuyện qua lại bên ngoài khu giữ xe. Trong khi đó gã thanh niên cũng đã làm xong bổn phận của người gởi xe. Dẫn xe ra ngoài. Nhưng hắn có vẽ lung túng, vì mục tiêu của hắn ta đang theo dõi là vợ chồng giáo sư VT không di chuyển. Để không bị mọi người chú ý, hắn dẫn xe đến gần mục tiêu và đốt thuốc hút giả như chờ đợi ai vậy!. Trong lúc Huy đang bám chặt gã thanh niên, chị Loan cho Huy biết (dĩ nhiên qua điện đàm) cô gái đang tiếp xúc với một người đàn ông lái xe tắc xi . Đồng lúc Huy nhận tín hiệu từ sĩ quan điều họp là phải phá vở đầu mối ngay trước 12 giờ đêm, nếu không vợ chồng giáo sư VT có thể bị nạn. Qua thoại đàm Huy bảo chị Loan chuẩn bị xử dụng vũ khí và để ý thật kỷ gã tài xế xe tắc xi đang nói chuyện với cô gái.
Xe máy vợ chồng giáo sư chạy ngang trước cửa rạp hát hướng về đường Lê Thánh Tôn. Gã thanh niên tốc xe theo. Trong cùng lúc cô gái lên tắc xi cũng về hướng đường đó.Huy chạy ngang rước chị Loan và tăng tốc độ theo phía sau mục tiêu.
10 giờ đêm, thành phố Saigòn vẫn còn náo nhiệt, các toán cảnh sát tuần lưu vẫn còn kiểm tra trên đường phố rất khó cho đối phương hành động.Huy đoán nếu bọn chúng hành động phải chờ qua 10 giờ, và Huy cho sự tiên đoán của mình là đúng nên tự tin hơn để có đủ thời gian đối phó.
Đến đèn đỏ, chị Loan lên thay Huy lái xe. Huy bảo chị Loan lái nên giữ khoảng cách cho đều để dễ bề xử lý súng ngắn khi đụng chuyện. Huy móc khẩu súng P.38 nòng ngắn từ trong bụng ra sọt vào túi quần lên vồ sẳn sàng nhả đạn khi cần.
Đọan ngã tư Hai Bà Trưng và Điện Biên Phủ tiến về hướng ngã tư Hàng Xanh ngoại ô thành phố, đèn đường thưa, người đi đường vắng. Chị Loan cho xe tiến gần song song với xe của vợ chồng giáo sư (vì khỏang đường này chỉ có 2 lane). Chiếc xe tắc xi từ phía sau trườn tới như muốn hút vào cạnh sườn phải của xe máy vợ chồng giáo sư VT, trong khi chiếc xe máy của gả thanh niên cũng đang trờ tới như trợ lực cho chiếc tắc xi .Trong máy điện đàm của Huy, người sĩ quan điều hợp bảo: “phải dứt điểm mục tiêu” . Điểm cuối cùng là tại ngã tư Hàng xanh.
Tới trạm biến điện đối diện quán Mì Cây Nhãn trên đường Điện Biên Phủ, chiếc tắc xi bị nổ lốp tạo một tiếng nổ lớn, xe chao đảo lết một khoảng rồi lủi vào lề. Xe máy của gả thanh niên thế vào vị trí của xe tắc xi , cùng lúc một xe máy khác do một người trung niên từ phía sau lao tới thay vào vị trí xe của gã thanh niên. Huy cảm thấy không ổn và quyết định ra tay bắt gả thanh niên bằng phương thức đụng xe. Huy báo chi tiết cho cảnh sát tỉnh Gia Định và xin trợ lực, đồng thời bảo chị Loan cho xe chạy gần sát phía sau, xe của mục tiêu. Khi xe cảnh sát vừa đến. Chi Loan cho xe vào sát hông trái xe của gả thanh niên, và canh độ khoảng cách chính xác, để khi tăng tốc độ vượt qua mặt, để xe chúng tôi có thể kéo theo xe của mục tiêu. Tiếng máy xe của chúng tôi nổ gầm, chiếc xe máy vọt lên phía trước như con ngựa đua. Hai xe máy vướn vào nhau rồi ngã ầm xuống mặt đường. Huy, chị Loan và gả thanh niên không một ai bị thương nặng, chỉ trầy trụa sơ sài. Vì khi hai xe dính vào nhau tốc độ giảm đến mức thấp nhất nên mức độ thương tích không đáng kể. Cảnh sát đến lập biên bản giải cả hai phía đem về trụ sở.
Đến phòng Cảnh Sát giao thông của Ty Cảnh Sát Gia Định. Huy và chị Loan được tách rời ra khỏi gả thanh niên và ra về, còn gả thanh niên bị giữ lại qua đêm. Hôm đó, dù trời đã khuya, cả hai chúng tôi mệt mỏi và đau nhức bởi những vết trầy trên tay và chân, nhưng Huy và chị Loan vẫn đèo nhau ra bến Bạch Đằng tìm nhai vài con khô mực chấm tương đen, món hải sản mà Huy vốn thích, đồng thời tìm hương vị đêm của sông nước thị thành.
Hôm sau, vào đơn vị. Sĩ quan điều hợp cho biết cô gái và người tài xế cũng đã bị bắt và hiện giao cho Trung Tâm Thẩm Vấn, nếu Huy muốn khai thác đương sự hãy liên lạc với trung tâm.
Cảnh Sát Gia Định cũng cho Huy biết: gã trung niên và vợ chồng giáo sư VT cũng đã bị Cảnh Sát Tuần Lưu xa lộ tạm giữ. Vợ chồng giáo sư VT được cảnh sát bảo vệ về nhà ngay trong đêm, còn gả trung niên hiện đang giao cho F đặc biệt xử lý.
Tổng hợp tin thẩm vấn. Chúng tôi biết được gả thanh niên là một tên đặc công tình báo đội lốt sinh viên. Hắn được lệnh bắt có hai vợ chồng giáo sư VT, lúc giáo sư vừa đến cổng nhà. Vì thế chúng mang theo chiếc tắc xi để tống hai vợ chống vị giáo sư vào trong xe mà không ai có thể biết được.Đó là phương án 1. Phương án 2, nếu như không thể bắt cóc được thì phải hạ sát hai vợ chồng vị giáo sư này trên đọan đường vắng nhất.
Nhân số thực hiện hành động cho công tác này, gồm 4 nhân viên của phân cục tình báo Gia Định thuộc cụm tình báo C21 Việt cộng. Gả thanh niên trẻ và cô gái là 2 nhân viên trực vụ chính, còn gã tài xế và tên trung niên là hai nhân vật phụ trợ lực.
VÔ HIỆU HÓA CỤM TÌNH BÁO MANG ÁM SỐ C21
Bắt được những người định thực hiện công việc bắt cóc hoặc sát hại giáo sư VT xong, nhưng chưa phá vở được đầu mối chính là cụm tình báo C21 của cộng sản đó là một điều trăn trở vô cùng của Trưởng cơ quan GF, Thiếu Tá N.
Một tuần sau khi triệt hạ 4 nhân viên tình báo Việt cộng trong phân cục Gia Định.Thiếu Tá N gọi Huy vào văn phòng làm việc của ông .Người chỉ huy vui vẻ cho biết: việc làm của Huy và chị Loan vừa qua được cấp trên khen thưởng và ông đã đề nghị ban phát huy chương bội tinh. Nhưng cấp trên nói đó chỉ là bước đầu. Cần đi một bước hai nữa là: phải vô hiệu hóa cụm tình báo C21, điều này có nghĩa là phải bắt gọn toàn bộ ban lãnh đạo là những cán bộ nồng cốt của cụm C21. Đó cũng là mong muốn của D1( Chuẩn Tướng T) .Anh có thể làm được điều này? Thiếu Tá N hỏi?
-Dạ thưa thiếu Tá tôi tuân lệnh.
-Anh có thích cô Loan bên A 17 làm việc với anh?
– Huy ấp úng…
– Được nếu anh cần vì nhu cầu công tác, tôi sẽ trình với cấp trên xin cô ấy biệt phái sang đây làm việc với anh.
– Huy vui ra mặt.
– Thiếu Tá N vừa cười vừa nói: Tôi biết anh mà!
Huy chào Thiếu Tá N ra về nghĩ ngơi để chuẩn bị công tác mới. Hôm sau Huy mời chị Loan ăn nhà hàng seafood trong vùng Chợ Lớn. Huy cho chị biết: Huy và chi sắp sửa làm việc chung trong một công tác mới. Chị tỏ vẽ ngạc nhiên và nói: lần công tác trước đây Loan chỉ tăng cường cho anh, theo nhu cầu công tác, chứ Loan không thuộc quân số của đơn vị anh!
-Vâng, chị nói đúng. Nhưng trong tương lai chị sẽ thuộc về đơn vị của Huy. Cấp trên của Huy sẽ xin chị hẳn về bên này. Nếu được thế, chị có vui không. Huy hỏi?
– Chị Loan cũng ấp úng …và hỏi ngược lại Huy. Loan vẫn là người tình của anh trong công tác mới?
– Không hẳn thế, nhưng … làm người tình tâm hồn chi có hạnh phúc không ? Mặt chị Loan đỏ hồng sau câu hỏi của Huy. Chị quay mặt nơi khác để cố tránh những cái nhìn can đảm nhưng dò xét của Huy. Huy cầm tay chị để vào lòng bàn tay của mình và nói: Bàn tay của chị ấm quá! Chị Loan không phản ứng nhưng nhìn Huy thẹn thùng nói: “ Cái anh này!”, rồi đưa mắt vào màn ảnh truyền hình khi đang chiếu cặp tài tử Alen Delon và Bebe đang hôn nhau trong phim Adieux à L’été.
Với hành động trên, Huy không biết chị có cảm nhận gì không ? Chứ Huy cảm thấy nắm tay có nghĩa là một tình yêu nữa bắt đầu…. Khi hai cực nam và bắc chạm vào nhau, sẽ nãy sinh ra những giòng điện tình ái…nắm tay là một nghệ thuật…có nhiều người thích được người khác nắm tay, có nhiều người nắm tay phãi chọn lựa người. Đối với người Huy yêu, Huy thích nhất là nắm tay người đó.
Đầu năm 1973, tình hình chiến sự từ các quân khu có những sự việc làm bất lợi cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cộng sản miền Bắc đã tung bộ đội chính quy vào áp lực quân sự trên các quân khu 1 và 2 cùng một vài nơi trên lãnh thổ quân khu 3.
Tại thủ đô Sàigòn, phong trào chống chính phủ do những tổ chức cộng sản trá hình như linh mục Trần Hữu Thanh, Ngô Bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên … tạo những cuộc biểu tình làm cho không khí chính trị thủ đô vào thời điểm này trở nên nặng nề.
Tiếp tay với các nhóm cộng sản trá hình để làm cho bộ mặt thủ đô Sàigòn thêm nặng nề hơn. Cục tình báo C21 đã chỉ thị và bật đèn xanh cho các thám tử của họ tấn công đồng lọat vào các đại học để “ xây dựng cũng cố và quật khởi” phong trào sinh viên học sinh mà trước đây đã bị đã bị chính quyền miền Nam đập tan.
Cuối tháng 3 năm 1973, bước đầu Cụm tình báo C21 cho tổ chức sinh họat ngày truyền thống kỷ niệm Trần Văn Ơn và kỷ niệm ngày Quốc Tế Phụ Nữ .Đến đầu năm 1974 cộng sản đẩy mạnh phong trào sinh viên cụ thể là biểu tình khu vưc chợ Bến Thành đòi trả tự do cho Huỳnh Tấn Mẫm và các sinh viên khác. Nhóm sinh viên
“ xung kích” của cộng sản dùng cả bom xăng và lựu đạn khói gây rối làm náo động khu vự trung tâm thành phố. Đồng lọat cộng sản cho thành lập “phong trào bảo vệ quyền lợi sinh viên học sinh” họat động vào các trọng điểm như Đại Học xá Minh Mạng, Đại Học Vạn Hạnh, Đại Học Hòa Hảo và các Đại Học khác. Cộng sản còn lập ra một ủy ban gọi là “Ủy Ban Hành Động Công Bằng Xã Hội” tập họp gồm các sinh viên học sinh các tôn giáo . Ủy ban này phối họp với Phong Trào Bảo Vệ Quyền Lợi Sinh Viên Học Sinh ngày 25 tháng 8 năm 1974 vịn cớ ngày “hy sinh của sinh viên Quách Thị Trang” để xuống đường. Mặt khác cộng sản còn dùng các sinh viên của các tôn giáo mít tinh tại nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế chống bắt lính và đòi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức.
Những truyền đơn chống chính phủ Việt Nam Cộng Hòa,đòi Tổng Thống Thiệu từ chức được bí mật rãi đầy trong các đại học Văn Khoa, Khoa Học, đặc biệt là Đại Học Luật Khoa.
Tại trung tâm dự bị đại học trên đường Trần Hoàng Quân quận 10, trong vòng một tuần lễ có 3 vụ rãi truyền đơn. Những vụ rãi truyền đơn thường thấy vào những giờ học của giáo sư Vũ Văn Mẫu và Nguyễn Độ.
Qua sự nghiên cứu của cấp trên, để ngăn chặn và vô hiệu hóa các vụ rãi truyền đơn là phải phá vỡ tận gốc cụm tình báo C21.
Thiếu Tá N, trưởng cơ quan GF gọi Huy vào văn phòng, cố vấn cho Huy thực hiện kế họach và hướng dẫn Huy đến gặp D1. Sau khi trình bày kế họach công tác. D1 nói : tôi kỳ vọng vào anh và Thiếu Tá N. Khi ra khỏi văn phòng của D1, Huy cảm thấy lo lắng, mặc dù từ khi xa rời quân trường Mẹ là Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia và sau khi tốt nghiệp Á khoa khóa 3 Cán Bộ Điều Khiển ở trường Tình Báo Trung Ương, cũng như có thời gian làm việc với vai trò một trưởng đầu ngành đặc biệt của một quận hẻo lánh của tỉnh Tây Ninh. Huy đã có dịp thử lòng can đảm của mình đối với những công tác nguy hiểm, nhưng thành thật mà nói lòng Huy chưa có sự hồi họp nào như lần nhận công tác này.
Thiếu Tá N, nhìn vẽ mặt đăm chiêu của Huy, ông hỏi.
-Anh làm sao thế?
– Thưa Thiếu Tá, tôi hơi lo lắng…
– Anh sợ không hoàn thành công tác?
– Dạ thưa…
-Tôi hiểu anh. Tôi sẽ sát cánh cùng anh. Tôi tin anh là người thông minh và sẽ chiến thắng.
Về đến văn phòng của Thiếu Tá N, Huy đã thấy chị Loan ở đó. Chị mặc chiếc quần Jean Mỹ với chiếc sơ mi trắng dài tay, tóc xõa thẳng dài đến tận mông và má dậm thêm một ít phấn hồng ngọai làm cho khuôn mặt chi đẹp hẳn ra trông giống như
“ Nữ Hoàng Sân Khấu Cải Lương” Thanh Nga trong phim “Xa lộ không Đèn”. Nhìn chị lòng Huy bổng rộn ràng và chợt nhớ đến bài thơ “ Yêu Nhau Cỡi Áo Cho Nhau” của Thái Sơn.
Hồn ta một cõi đam mê
Tóc mây sợi nhỏ vương thề tình em
Em thơ ngây dệt mộng lòng
Thiên thai một chốn lãng du cuộc tình.
Tiếp thu lời dặn của người chỉ huy, Huy và chị Loan nhập cuộc. Ngày 25 tháng 01 năm 1975, Theo tin của cảm tình viên là một sinh viên cùng quê của chị Loan. Chúng tôi biết được tác giả của các vụ rãi truyền đơn trong trung tâm dự bị đại học trên đường Trần Hoàng Quân là do tên Khắc Tân một sinh viên năm thứ hai cầm đầu. Tên này thường có mặt trong giờ dạy của giáo sư Vũ Văn Mẫu cùng với một nữ sinh viên tên Dương thị Quỳnh. Hai sinh viên này lợi dụng giờ giáo sư Mẫu vì ông là người có chân trong thành phần thứ ba ( đó là một nhóm khuynh tả không ưa chính phủ. Nói theo từ ngữ tâm lý chiến thì nhóm nay là nhóm :ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản) . Ông thường có cảm tình với những sinh viên có khuynh hướng thiên tả, ưa quậy chống phá chính quyền. Cục tình báo C21 việt cộng điều nghiên và khai thác triệt để, những lớp học nào có giờ của giáo sư Mẫu thì cho người của họ hành động .
Với sự yểm trợ của cấp trên, Huy quyết định xâm nhập vào toán rãi truyền đơn của tên Khắc Tân. Qua nhiều ngày tiếp cận mục tiêu, chị Loan và Huy biết được quán tính của Khắc Tân mỗi sáng thường ngồi hút thuốc và uống nước ngọt tại vĩa hè trước hàng rào trường Nam Sinh Mù. (đối diện Trung Tâm Dự Bị Đại Học ) Chị Loan đến ngồi gần bàn của hắn, gọi một chai nước ngọt uống và lấy tự điển làm bộ tra từ, nhưng bên trong quyển tự điển là một máy camera technical color được thiết kế kỹ thuật riêng biệt dành cho công tác thu hình tình báo. Hắn hút chưa hết nửa điếu thuốc chị Loan đã lấy xong hình của hắn vào máy. Chị cất quyển tự điển vào cặp sách, vừa uống nước vừa nói chuyện với cô bán hàng. Thỉnh thoảng, chị nhìn hắn và cười đưa tình. Không mấy chốc hai người đã quen nhau. Hai người bạn mới thăm hỏi nhau về gia đình, nguyên quán…và đôi khi bàn về khía cạnh thời sự . Lãnh vực này, tên Khắc Tân có vẻ tâm đắc nên nói tương đối nhiều, trong khi đó chị Loan chỉ có nhiệm vụ là vuốt theo quan niệm của hắn. Hắn cho rằng sinh viên cần phải yêu nước, và nếu như vậy là phải đứng lên lật đổ chính quyền do tổng thống Nguyễn văn Thiệu cầm đầu, và phải đuổi Mỹ ra khỏi miền Nam, để lập một chính phủ mới hợp hiến công bằng hơn. Theo hắn có một chính phủ như thế chỉ có người cộng sản mới thực hiện được. Hắn thao thao bất tuyệt, mà hắn không biết rằng những lời nói của hắn đã lọt trủm vào trong các băng nhựa của chiếc máy thu băng đặc biệt hiệu sony của Nhật nằm trong chiếc áo nịch nhũ hoa của chị Loan. Đôi khi chị Loan ca tụng sự hiểu biết về nhận định của hắn làm hắn trở nên tự đắc. Hắn nói liên tằng không mõi mệt mãi đến khi bạn hắn Dương thị Quỳnh đến, hắn mới thôi.
Hắn và Quỳnh từ giả chị Loan và hứa sẽ gặp lại một nơi khác trong thành phố. Chúng tôi báo cáo sự việc về sĩ quan điều hợp cùng với những chứng liệu đã thu thập.Phân tích chớp nhóang tình hình Thiếu Tá N chỉ thị: Huy cần phải xâm nhập nhanh vào tổ chức, để làm cái nhân cho các tế bào để tế bào phát triển, còn chị Loan là những bó li be gổ tiếp nhận sự sống từ nhân làm cho thân cây được vững và phát triển. Chúng tôi hiểu ý vị chỉ huy và khai triển chỉ thị.
Tại một quán kem trên đường Nguyễn Trung Trực thuộc quận nhất, Khắc Tân và Dương thị Quỳnh gặp chị Loan. Chị giới thiệu Huy với hai người. Khắc Tân bắt tay Huy và nói: trông anh khỏe, rắn chắc quá! Chắc anh không phải là người của thành phố Sàigòn ? Vâng tôi là người ở tỉnh quê, nên có vẽ thô kịch. Cám ơn anh đã có lời khen . Mọi người ăn kem và uống nước lọc. Trong khi uống nước và nói chuyện Khắc Tân nói với chị Loan. Qua một thời gian quen biết, tôi nghĩ Loan là người tốt có thể họp tác với chúng tôi về nhiều công việc cần thiết, nhất là những việc có liên hệ đến tình hình thời cuộc hiện nay. Khắc Tân nhìn Huy và quay nói nhỏ với chị Loan cùng với Dương Thị Quỳnh. Huy cảm thấy khó chịu với thái độ này của Khắc Tân, nhưng cố nén lòng. Huy không hiểu nội dung Khắc tân nói gì! Nhưng chị Loan nói: tôi cam đoan với Khắc Tân, Huy sẽ làm được.Hắn là kẻ nhà quê mà! Cái khó của hắn bây giờ là không có tiền mướn nhà để tiếp tục học Luật ở thành phố Sàigòn này!. Gia đình của hắn nghèo lắm. Loan biết điều này rất rõ.
-Anh có yêu tổ quốc Việt Nam không? Khắc Tân hỏi Huy.
– Tổ quốc ai mà không yêu. Huy trả lời.
– Anh có dám dấn thân để làm một hành động gì đó cho tổ quốc không?
– Tôi sẵn sàng đi vào quân đội cầm súng để bảo vệ đất nước, hay làm một việc gì đó khi đất nước cần. Trước mắt tôi là cố học để tốt nghiệp và sẽ trở thành một người trí thức hữu dụng. Khắc Tân cười nhếch môi và nói: Anh sẽ thực hiện được gì anh muốn. Chúng ta sẽ thực hiện được. Bây giờ chúng ta sẽ là những đôi bạn cùng nhau thực hiện mơ ước. Tôi sẽ gặp lại anh. Khắc Tân và Quỳnh ra khỏi cửa quán kem, trong khi Huy dõi mắt theo họ cho đến khi hai người khuất vào dòng người đông đúc .
Huy nhìn chị Loan cả hai đều nhìn nhau không nói, nhưng ngầm hiểu nhau, bước đầu của kế họach tương đối thành công. Huy nắm lấy tay chị Loan rời quán kem.
Ngày X, tại quán Bún Ốc trên đường Hồng Thập Tự. Khắc Tân gặp Huy và Chị Loan mà theo lời nói của Khắc Tân đây lần gặp cuối để sau đó là hành động. Lần gặp này, ngoài Khắc Tân ra còn có một sinh viên nữa, Khắc Tân gọi sinh viên này là Hoàng Dũng. Trông Hoàng Dũng. Huy thấy như là đã gặp nơi nào một lần rồi. Hoàng Dũng bắt tay Huy và nói nhờ anh Tân tôi mới biết được anh. Tôi nghe anh Tân nói nhiều về hoàn cảnh của anh, nên định gặp anh để giúp anh. Khắc Tân đã nói gì về tôi. Huy hỏi?
-Anh ấy nói anh có tư tưởng tốt yêu quê hương đất nước, anh là một sinh viên nghèo đang khó khăn về nơi ăn chốn ở để học hành. Có đúng không?
– Vâng tôi ở tỉnh về đây học. Sau một năm ba tôi mất do bom mìn chiến tranh khi ông đốn gổ trong rừng, gia đình tôi bị khủng hỏang kinh tế, cuộc sống hàng ngày mẹ tôi phải gồng gánh tất cả nên không thể cung cấp chu toàn cho sự ăn học của tôi. Tôi có dạy kèm một vài em học sinh kiếm tiền phụ vào việc thuê nhà để được tiếp tục việc học, nhưng không đủ chi phí.
– Anh có muốn vào sinh họat với nhóm chúng tôi không? Vào nhóm này, anh sẽ được làm những công việc nhẹ nhưng có tiền, anh khỏi phải dạy kèm trẻ em mà thù lao thì chẳng có bao nhiêu! Hoàng Dũng nói.
– Vâng xin các anh giúp đở tôi. Huy nói.
– Được. Tôi sẽ gặp anh lại, bây giờ tôi và anh Tân có việc phải đi.
Tại căn nhà mang số K trên đường Nguyễn Trãi Hoàng Dũng gặp Huy. Anh dài dòng về hiện tình thời sự và giới thiệu “ Phong Trào Bảo Vệ Quyền Lợi Sinh Viên Học Sinh” với Huy. Hoàng Dũng cũng nói rõ: vào Phong Trào này khi làm tốt Huy sẽ được một số tiền hàng tháng là 10 ngàn đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa.
– Công việc của Phong Trào là như thế nào ? Và làm tốt thì là sao? Huy Hỏi.
– Hòang Dũng : Công việc của Phong Trào đơn giản bước đầu là rãi truyền đơn chống chế độ Cộng Hòa và đòi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức…Làm tốt những việc như thế tổ chức sẽ đánh giáo cao về chất lượng công tác. Anh sẽ được trọng thưởng.
Ngày L, tại Trung Tâm Dự Bị Đại Học Trần Hoàng Quân, hàng ngàn tờ truyền đơn nội dung chống Chế độ VNCH và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bay đầy lớp Cổ Luật của giáo sư Vũ Văn Mẫu do Huy thực hiện. Để tránh sự chú ý của sinh viên khác .Theo lời hướng dẫn của Hoàng Dũng Huy mang truyền đơn bỏ vào cặp sách
(truyền đơn được in khổ nhỏ để dễ bảo mật).Khi gần đến giờ ra về, chuyển những bó truyền đơn ( đã mở sẵn ) xuống ghế và ngồi lên, sau đó đứng lên đi ra nhanh khỏi vị trí. Những lá truyền đơn bay lên tung tóe bởi hàng chục chiếc quạt máy gắn trên trần nhà.)
Việc làm thử thách lần đầu đã trót lọt, Huy báo cáo sự việc về cơ quan đồng thời nhận chỉ thị mới . Về phía Phong Trào. Hoàng Dũng nhiệt liệt khen ngợi Huy và hứa giúp cho Huy nhà ở để học hành đồng thời làm việc cho Phong Trào.
Cũng tại căn nhà mang số K, sau này mới biết là nhà của dân biểu Nguyễn Văn B trong Hạ Nghị Viện của VNCH.
Hoàng Dũng sắp xếp cho Huy một căn phòng nhỏ vừa đủ để chiếc giường và một bàn học. Thế là Huy được thưởng số tiền 10 ngàn đồng và có chỗ cư ngụ. Lòng Huy mừng nhưng cũng rất hồi họp. Vì đây là một công tác tương đối nguy hiểm. Nhưng nếu không phải Huy chắc khó người nào làm nổi, theo sự ước đóan của Thiếu Tá N cấp chỉ huy của Huy.
Qua công tác rãi truyền đơn trong khu Đại Học Dự Bị, Huy phát giác thêm 4 sinh viên nữa cũng làm công tác này. Họ phần lớn là sinh viên theo học năm thứ nhất .
Một ngày nọ, Hoàng Dũng gọi Huy đến một căn nhà mang số E trên đường Nguyễn Cư Trinh. Đến nơi Huy đã thấy có Khắc Tân, Dương Thị Quỳnh và 4 sinh viên cùng rãi truyền đơn với Huy ở Trung Tâm Dự Bị. Mọi người đều chờ Hoàng Dũng đến. Lần này, Hoàng Dũng đến với một người thanh niên khỏang 32 tuổi có nước da ngăm đen. Dũng gọi người thanh niên này là anh Ba và giới thiệu cùng mọi người.
Anh Ba bắt tay từng người và nói với những người có mặt : “Lãnh đạo Phong Trào Bảo Vệ Sinh Viên Học Sinh muốn có cuộc đấu tranh quật khởi, phối họp với các phong trào khác để xuống đường rầm rộ yểm trợ cho “quân giải phóng” ngoài chiến trường. Và Phong Trào Bảo Vệ Sinh Viên Học Sinh là nòng cốt trong công cuộc tranh đấu. Vì thế để chuẩn bị tốt cho cuộc tranh đấu các anh chị sau đây cần phải dự khóa học tập để sau này là cán bộ nòng cốt cho Phong Trào” .Hai người được chon dự khóa học trong đó có Huy.
Huy báo cáo sự việc lên Thiếu Tá N, kế họach được điều nghiên và cơ quan phản gián E 2 cũng đã nhập cuộc để hổ trợ cho Huy.
Gần ba tuần lễ không gặp chị Loan lòng Huy cảm thấy buồn. Thăm hỏi được biết chị Loan đang được cấp trên điều về phòng tổng họp tin tức để ghi nhận sự kiện đầu mối của Huy, nhưng ban ngày vẫn đến lớp bình thường, và cũng vẫn bám chặt Khắc Tân cùng Dương Thị Quỳnh.
Kể từ được Hoàng Dũng cho ở trong nhà đường Nguyễn Trãi quận 5, Huy giống như con chim bị nhốt vào lồng dường như là mọi sự sinh họat của Huy đều có người theo dõi.
Buổi chiều ngày L, Hoàng Dũng qua phòng của Huy cho biết ngày T, sẽ đưa Huy đến một địa điểm bí mật để học tập. Khóa học tập này kéo dài khỏang 2 tuần cho nên Huy cần chuẩn bị tư tưởng.
Buổi trưa ngày T, Huy được người chạy Honda ôm đưa đến một ngôi nhà trong xã Bình Phước Quận Hóc Môn giáp ranh quận Thủ Đức. Nơi đây Huy được chủ nhà cho ăn một bửa cơm và nghĩ tạm vài giờ chờ đêm xuống lên đường. Chủ nhà là một người đàn bà trung niên nói với Huy: cháu làm công tác tốt nên “ Phong Trào ” đã chú ý và đề bạc cháu, ráng cố gắng học tập để giúp nước sau này.
Khoảng 8 giờ đêm, bà đưa Huy qua hai ruộng mía đến một chiếc xuồng câu đậu ven con rạch. Bà bảo xuống xuồng câu, trên đó có sẳn một người thanh niên đang chờ sẵn để đưa Huy đi. Trời càng về đêm càng tối lạ thường, Huy chỉ nghe tiếng nói của người đàn bà chào gả thanh niên ra về dù bà chỉ đứng trên bờ con rạch cách chiếc xuồng câu vài mét. Thỉnh thoảng Huy nghe văng vẳng tiếng chó sủa vang trong xóm xa quanh con rạch. Gã thanh niên đưa cho Huy một bó câu cấm và bảo: Huy đóng vai như là một người đi câu đêm, để qua mắt an ninh xóm ấp tuần tiểu khi gặp.
Xuồng câu ra giữa dòng rạch thẳng hướng về miệt Lái Thiêu. Trời hừng sáng, xuồng câu đến điểm H. Gả Thanh niên và Huy vào một căn chòi. Gả ra lệnh cho Huy ngồi trên chiếc sạp gổ và lấy khăn đen bịt hai mắt của Huy lại và nói với Huy. Đây là lệnh trên anh cần phải thi hành. Trong lòng Huy không đồng ý cách hành xử như thế nhưng vì nhiệm vụ phải cắn răng nhịn chịu.
Từ khi bị bịt mắt Huy giống như người mù, đành phải chịu theo sự hướng dẫn của bọn họ. Tuy không thấy đường, như đầu óc của Huy đoán được là mình bị họ dẫn đi trên một bờ ruộng lúa và những gò đất cao khô.
Ước khỏang một giờ đồng hồ đi đường. Huy được tháo bịt mắt ra thì thấy mình đang ngồi trong một căn hầm. Phòng học là một sàn nhà bằng đất phía trên căn hầm. Huy biết như thế là do người hướng dẫn nói. Thật sự Huy cũng chưa từng thấy bao giờ, vì mỗi khi lên lớp những học viên đều bị bịt mắt. Học viên chỉ dùng tai mình để nghe lời giảng hoặc hướng dẫn của giảng viên mà thôi. Sau khi học xong học viên được hướng dẫn về hầm, khi đó mới được mở mắt ra.
Hai tuần lễ bị hành hạ thể xác khổ cực như thế. Đến lớp thì lại bị “ hiếp dâm “ lỗ tai, vì chỉ nghe toàn là những câu “chuyện chống Mỹ – Ngụy” hoặc những bài học tranh đấu nhằm phá rối nền an ninh của chế độ VNCH, mà Phong Trào Sinh Viên Học Sinh thành thị là mũi xung kích.
Có ba giảng viên phụ trách khóa học. Huy không được nhìn mặt những giảng viên này, nhưng qua giọng nói của một giảng viên dạy về môn “ phương cách vận động kết họp các phong trào Sinh Viên tôn giáo” Huy đã biết được một người đã từng gặp Huy tại căn nhà trên mang số E trên đường Nguyễn Cư Trinh. Đó là anh Ba người mà Hoàng Dũng giới thiệu với Huy.
Sau khi nhận báo cáo mật về nội dung khóa học, chương trình hành động của Phong Trào từ Huy, Thiếu tá N, quyết định đưa 2 tóan xung kích gồm 6 người là những sĩ quan trẻ có võ thuật đóng vai sinh viên vào trận để yểm trợ cho Huy, để phòng những bất trắc có thể xảy ra. Các toán này luôn đặt dưới sự điều động của Huy .Chị Loan cũng được bố trí trở lại với phần nhiệm như là người bạn tình của Huy. Chị và Huy xuất hiện thường xuyên câu lạc bộ sinh viên
Có chị Loan Huy cảm thấy sự cô đơn lẫn mất, tâm hồn phấn chấn cường độ làm việc được tăng cao.
Bên Phong Trào cũng không bỏ cơ hội tiến hành những kế họach đã được cụm tình báo C21 chỉ thị.
Cuối tháng 10 năm 1974, với sự xuất hiện của anh Ba một cán bộ tình báo của Cụm cũng là giảng viên môn “ Phương Thức Vận Động..” trong khóa học mà Huy đã biết được thông qua tiếng nói. Đại Học Luật Khoa dường như không tuần nào được yên ổn. Không cảnh sinh viên cướp microphone để tuyên truyền cho cộng sản thì có màn hăm dọa Ban Đại Diện Sinh Viên v.v
Chiều ngày Y tháng 10 năm 1974, Hoàng Dũng cho người nhắn Huy đến trình diện anh Ba tại một quán cà phê cạnh hồ con Rùa. Huy nhận lệnh từ anh Ba là phải có kế họach cho pháo đại nổ vào phòng Hành Chánh của trường Luật đồng thời vận động Sinh Viên tiến chiếm văn phòng Ban Đại Diện Sinh Viên, cùng lúc 10 ngàn truyền đơn chống chính quyền, chống chiến tranh đòi tổng Thống Nguyễn văn Thiệu từ chức phải được rãi khắp trong khuôn viên trường Luật trong tuần lễ sau cùng của tháng 10. Huy nhận lệnh, nhưng lòng thật lo lắng vì biết luôn có người theo dõi và sẵn sàng thủ tiêu Huy khi bị bại lộ.
Theo kế họach họach định. Khoảng 12 giờ trưa ngày H, khi sinh viên hết giờ ra về và khi có tiếng pháo nổ trên lầu 2 thì thành phần sinh viên điều khiển những quả pháo đại khổng lồ sẽ cho nổ tung văn phòng Hành Chánh.
Sau khi sắp đặt kế họach trình cho anh Ba đồng thời cũng báo cáo về cho Thiếu Tá N, trưởng cơ quan GF. Để có phương pháp đối phó hữu hiệu. Huy đích thân đến gặp riêng vị chỉ huy này bàn thảo kế sách . Huy cũng đã được gặp D1(Chuẩn Tướng T) và ông đã quyết định cho phá vỡ đầu mối, để bắt gọn các nhân viên và cán bộ cụm tình báo C21. Ông đoán rằng: nếu không phá vỡ đầu mối trước 12 giờ ngày H tuần lễ chót của tháng 10, e rằng tông tích của Huy bị lộ, như thế sẽ nguy hại cho chiến lược lâu dài trong đại học.
Một kế họach phá vỡ đầu mối được Thiếu Tá N trình lên D1 đã được chấp thuận.
Thành phần: chính là Huy và các anh em trong đoàn đặc nhiệm. Thành phần ngoai vi: Một trung đội Cảnh Sát Dã Chiến của quận 5. Toán cảnh sát sắc phục có phương tiện là công xa…
11 giờ trưa ngày H như đã định, sinh viên lần lượt ra về anh Ba đến gần Huy nói nhỏ: Huy cẩn thận nhé. Bọn cảnh sát chìm trà trộn trong này nhiều lắm nhé! Ráng cố gắng thành công Phong Trào sẽ tưởng thưởng cho Huy. Anh Ba còn nói thêm, không biết sao hôm nay Cảnh Sát Đồ Bông nó lãng vảng gần khu vực này nhiều quá!
– Dạ em cố gắng, anh yên tâm.
11 giờ 30 phút sinh viên ra về càng đông. Huy và anh Ba đứng trong một góc để điều khiển kế họach. Trong khi đó Huy cũng đã bố trí nhân viên trong Đoàn Đặc Nhiệm đứng lẫn lộn vào các sinh viên trước lối ra vào cửa trường để ra dấu hiệu cho các nhân viên sắc phục đến bắt những sinh viên là nhân viên tình báo trong cụm tình báo C21.
Cứ mỗi cái gãy đầu hay gãy tai của anh em trong Đoàn Đặc Nhiệm thì lại có một tên tình báo viên hay cán bộ Cụm tình báo C21 bị nhân viên công lực tạm giữ. Gần 12 giờ anh Ba nóng ruột quay hỏi Huy: liệu kế họach được thực hiện tốt? Vâng thưa anh có thể thực hiện được, ngọai trừ các toán xung kích hành động chậm trể. Huy nói với anh Ba: hay là anh Ba và Huy ra phía cổng trường để quan sát rõ hơn. Anh Ba đồng ý! Vừa đi gần đến cổng, Huy thấy một nhân viên trong Đoàn Đặc Nhiệm đưa tay trái lên gãy vành tai phải của anh, liền ngay sau đó hai anh Cảnh Sát mặc Sắc phục đến còng tay của Huy và anh Ba tống lên công xa đưa về bót Cảnh sát Quận 5. Huy nhìn anh Ba và ngược lại anh Ba nhìn Huy trong nỗi tuyệt vọng.
Vào phòng điều tra của Ty Cảnh Sát Quận 5. Huy bị thẩm vấn viên tra tấn thẳng tay . Anh Ba cũng thế. Mặt của Huy bị sưng vù bởi cú đấm của anh Trung Sĩ T thẩm vấn viên . Sau màn dàn chào phòng thẩm vấn của Ty Cảnh Sát Quận 5. Anh Ba và Huy được tách rời ra. Một thẩm vấn viên khác đến đưa anh Ba qua một phòng khác . Riêng Huy vẫn bị giữ lại và sẵn sàng chờ nhận tiếp những cú đấm sấm sét không thương tiếc của Trung Sĩ T.
Bị đau, nhưng Huy không một lời tiếc lộ tông tích mình là ai! Trung Sĩ T bắt Huy hai tay chống lên tường và khám xét. Móc hết giấy tờ trong người của Huy.
Huy không biết ông tìm cái gì từ một chiến hữu của ông, khi cái công việc ông đang làm để hàng tháng ông có tiền nuôi sống bản thân và gia đình là do người chiến hữu vừa bị ông tra tấn đem đến.
Điện thoại reo, ông không thèm bắt ông chỉ cấm đầu vào cái mớ giấy tờ là những thẻ sinh viên và những giấy hoãn dịch sức khỏe hoặc học vấn trong cái bốp ông vừa lấy được từ túi quần của Huy. Xem chừng ấy giấy tờ, có lẽ không thỏa mãn tính chuyên nghiệp của ông, nên ông bảo Huy cỡi hết đôi giày để ông tìm chứng tích. Khi Huy cởi xong hai đôi giày đưa cho ông. Ông thấy dưới lớp vãi lụa dùng lót chân có một tấm card. Ông vội mừng và quay sang hỏi Huy: Cái thứ gì anh để trong này? Huy không trả lời câu hỏi của ông mà nhìn thẳng vào mặt của Trung Sĩ T. Huy thấy sắc mặt của ông biến đổi lạ thường. Ông đến gần Huy dịu giọng hỏi: Thiếu Úy là người của mình à ?
-Vâng. Anh đừng lo ngại. Việc anh anh cứ làm. Tôi chỉ trách anh là anh quá hăng say tìm hiểu về cái bóp của tôi mà anh quên nghe những cú phone từ mọi nơi gọi đến can thiệp cho tôi, đôi khi trong đó có cú phone của Chuẩn Tướng Phụ Tá Tư Lệnh Đặc Biệt.
-Trung Sĩ T, ra vẽ bối rối. Ông liên lạc với Thiếu Tá Hữu Trưởng F Đặc Biệt người chỉ huy của ông.
Sau cú phonre liên lạc của Trung Sĩ T. Thiếu Tá Hữu xuống gặp Huy tại phòng thẩm vấn tỏ vẽ hối tiếc và xin lỗi Huy. Đích thân ông đưa Huy khám sức khỏe và dùng bửa với ông.
Huy đã được Thiếu Tá N, trưởng cơ quan GF đề bạc với cấp trên ân thưởng Đệ Tam Đẳng Chiến Công Bội Tinh.
Thế là Cụm tình báo C21 đã bị sa lưới với 20 nhân viên trong đó có bốn cán bộ trung và cao cấp. Anh Ba là cán bộ tình báo nòng cốt của C21 vai trò như là một phái khiển tất cả các mạng lưới gián điệp trong các đại học miền Nam . Hoàng Dũng là Phó Chủ Tịch Phong Trào Bảo Vệ Sinh Viên Học Sinh, Khắc Tân là Tổng Thư Ký Phong Trào Sinh Viên các Tôn Giáo và Dương Thị Quỳnh cán bộ trí vận.
Sau công tác vô hiệu hóa cụm tình báo C21, Huy không còn làm việc với Thiếu Tá N và Đoàn Đặc nhiệm nữa. Cấp trên biệt phái Huy sang Phủ Đặc Ủy Tình Báo Trung Ương nhận công tác mới.Huy cũng được biết vị chỉ huy khả kính, Thiếu Tá N cũng không còn là trưởng cơ quan GF, ông cũng được cấp trên điều sang cơ quan khác.
 
Duy Văn Hà Đình Huy