Tuyển Tập Kiều Mỹ Duyên: HOA CỎ BÊN ĐƯỜNG – Việt Hải, Khánh Lan, và Thụỵ Lan

Cách đây khá lâu khi tôi thực hiện tuyển tập Tây Ninh Quê Tôi dịp mỗi năm xuân về, hay ấn hành những đặc san văn hoc như Văn Học Thời Nay và Văn Đàn Đồng Tâm, tác giả Kiều Mỹ Duyên đã gởi bài góp mặt. Tôi thực sự trân quý tấm chân tình yêu văn chương, chữ nghĩa và lối viết hay phong văn bộc bạch chân thật, rõ ràng của bà. Xuyên qua tác phẩm này độc giả sẽ nghiệm ra điều như vậy. Đây là tác phẩm thứ hai sau tác phẩm khá thịnh hành về phóng sự chiến trường Chinh Chiến Điêu Linh của Kiều Mỹ Duyên.

Đọc qua Hoa Cỏ Bên Đường thì sách này gói ghém nhiều câu chuyện đời thường của tác giả khi sinh hoạt trong cộng dồng, dù là truyền thông báo chí, từ thiện xã hội, tôn giáo tâm linh hay địa ốc tài chánh,… của tác giả. Nó tiêu biểu cho những chuyện kể tin tích cực cần chia sẻ như YMCA: Niềm tin và hy vọng cho tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại (trang 157); Cảnh sát là bạn dân (trang 183); Có gan, làm giàu (trang 220); Những nữ tu sĩ dễ thương (trang 358); Hãy cho nhau tiếng cười (trang 429), Cho nhau thì giờ (trang 442) hay Lạc quan yêu ngưới, yêu đời mà sống (trang 452);…; hoặc những chuyện kể tin không vui nhưng chúng ta cần ôn lại nhắc nhớ như tin cộng đồng, những bản tin đồng hương kém may mắn như ở trang 239 tin bà con miền trunng ở quê nhà chịu nạn thiên tai lũ lụt; bài Cứu Người Như Cứu Lửa Cứu Lụt Bà Con Ơi!; bài đi thăm người Việt ở Miên sống khổ cực nơi xứ người; Một Chuyến Đi Ngậm Ngùi (trang 253); Và những bản tin về người quá cố như quý Hoà thượng Thích Tâm Châu, Thích Giác Nhiên, Thích Quảng Thanh, Trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, Nhà văn Đỗ Phương Khanh, Phóng viên chiến trường Phan Trần Mai (trang 413). Bài Nhà sách Tú Quỳnh Giã Từ Đồng Hương (trang 401).

Tuyển tập Kiều Mỹ Duyên: Hoa Cỏ Bên Đường gồm có 41 bài viết gom góp lại từ nhiều năm qua. Sách dầy hơn 460 trang, trình bày kỹ thuật ấn loát do GS. Phạm Hồng Thái đảm nhiệm. Bìa sách do Phương Hoa. Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt ấn hành. Sau đây ba anh em chúng tôi: Khánh Lan, Thụỵ Lan và Việt Hải thuộc Liên nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian xin đi tiếp về quan điểm nhận định về tác giả Kiều Mỹ Duyên và tác phẩm Hoa Cỏ Bên Đường.

Nhà bào Kiều Mỹ Duyên tên thật là Nguyễn Thị Ẩn. Mặc dù tác giả Kiều Mỹ Duyên nhiều lần minh định bà không là nhà văn, mà bà chỉ viết báo. Trước 1975, bà viết bài cho các tờ Công Luận, Hòa Bình và Trắng Đen. Từ 1964 bà chuyên viết phóng sự về xã hội và chiến trường. Năm 1976, bà vượt biên và định cư tại miền Nam California, Hoa Kỳ. Bà từng du học Úc Châu qua học bổng Colombo Plan vào cuối thập niên 60 về cử nhân ngành báo chí. Qua Mỹ bà theo học tại trường Đại Học Cal State Fullerton, tốt nghiệp cử nhân các khoa Báo Chí, Chính Trị và Địa Ốc vào năm 1982. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, bà chuyên viết những phóng sự chiến trường cùng những mảnh đời xã hội tan thương do chiến cuộc. Bước chân của bà ra mặt trận tiền phương theo những cuộc hành quân và nhiều chiến trường sôi động, khốc liệt nhất của thập niên 1970. Tác phẩm Chinh Chiến Điêu Linh ghi nhận giai đoạn này.

Kiều Mỹ Duyên: nhà văn hay nhà báo ?

Theo 2 bạn văn Thụỵ Lan và Khánh Lan cho là 2 phương vị này đều đúng với bà. Tôi đồng ý như vậy. Hãy tìm hiểu phần vụ của mỗi phương vị.

1/ Nhà văn là người chuyên sáng tác ra các tác phẩm văn học, đã có tác phẩm được công bố ra công chúng và ít nhiều được độc giả thừa nhận giá trị của một số tác phẩm. Kỹ năng của các nhà văn qua việc sử dụng ngôn ngữ để mô tả một ý tưởng, một câu chuyện hay qua bối cảnh, dù đó là do chuyện thực tế hay hư cấu.

2/ Còn nhà báo là người làm công việc đưa tin tức chuyên nghiệp, có nhiệm vụ tìm kiếm các tin tức sau khi phối kiểm tính xác thực của nguồn tin. Nhà báo chịu trách nhiệm bài viết của mình khi đưa tin ra công luận.

Hai tác phẩm của Kiều Mỹ Duyên như sách Chinh Chiến Điêu Linh khiến tác giả vừa là ký giả chiến trường kiêm nhà văn kể chuyện chiến tranh. Tác phẩm Hoa Cỏ Bên Đường lại là thể loại văn tạp ghi hay tạp bút với nhiều chủ đề.

Trên thực tế biên giới giữa nhà văn và nhà báo bị trùng lặp, trùng nhau, bởi vì báo đăng văn, văn đăng trên báo, ví du như Những Cột Trụ Chống Giữ Quê Hương (Phan Nhật Nam);  Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng (Ngô Thế Vinh); Bánh Mì Ai Cập, Cá Việt Nam, Khát Vọng Con Người (Trần Trung Đạo); hay Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch (Ngô Thế Vinh); …

Nhà báo viết văn, nhà văn viết báo cũng là chuyện chẳng phải gì lạ cả. Viết báo, viết văn vốn ở thể văn xuôi (prose). Phải chăng văn chương và báo chí vẫn thường được ví như hai anh em chung mái nhà chữ nghĩa. Bên phương trời Tây Âu họ như bên ta. Quý ông “văn kiêm báo” hay “báo kiêm văn” như những Daniel Defoe, Samuel Richardson, Henry Fielding, Lawrence Sterne, … (novelists or journalists), ví dụ như nhà văn nhà báo Jonathan Swift với danh tác Gulliver’s Travels, và nhà văn nhà báo Daniel Defoe với danh tác Robinson Crusoe.

Tác phẩm Chinh Chiến Điêu Linh cho thấy Kiều Mỹ Duyên đóng vai trò nhà báo khá rõ ràng, nhà báo xông pha nơi chiến trường viết tường trình sống động, 100% ta không bàn thảo. Và ở tác phẩm mới Hoa Cỏ Bên Đường nhà văn Khánh Lan (một học trò Văn Hoá Quân Đội của GS. Nguyễn Thị Ẩn, môn Công Dân ngày xưa) đọc bài viết do nhà văn Kiều Mỹ Duyên, dẫn dụ những bài viết mô tả những đặc tính văn chương của Kiều tác giả như sau:

“Buổi sáng thức dậy, tôi vẫn nghe tiếng hát reo vui của những con chim nhỏ vui đùa chuyền từ cành cây này sang cành cây khác. Những trái đào vàng rực rỡ trên cây, những trái ổi óng ả quằn cành cây từng chùm, từng chùm. Ôi, đời sao đẹp quá! Cảnh thiên nhiên dễ thương, vô tư làm cho những nỗi buồn bay xa, bay cao, không còn ở trần gian này nữa.” (trích bài Có Tin Vui Giữa Giờ Tuyệt Vọng. 24/12/2020. Kiều Mỹ Duyên).

Một ví dụ khác cho thấy sự thi vị của văn chương của nhà văn Kiều Mỹ Duyên trong sự mô tả không gian bối cảnh:

“Hàng tre trúc xanh mướt

Những bạn bè tôi đã đến Tây Ninh, họ có dịp ghé qua và nhớ về một địa danh đã ghi sâu dấu ấn vào âm nhạc, và đó là Tha La Xóm Đạo, nơi có những hàng tre trúc xanh mướt mà tàn cây đan vào nhau như ngày xưa tôi đã chiêm ngưỡng. Ở đây có bóng dáng những cô gái mỹ miều trong chiếc áo dài thiết tha dự lễ tại giáo đường. Hỡi ai còn nhớ câu thơ của Vũ Anh Khanh…

“Đây Tha La Đây Xóm Đạo hoang tàn

Mây trời vây quanh màu tang khói lửa

Bao năm qua, Tha La còn chờ đó

Đoàn người đi giết thù đã hẹn về từ dạo ấy

Lòng viễn khách, bồi hồi như thương tiếc

Mùa thu nắng hanh vàng…”

(Hận Tha La, nhạc và lời Sơn Thảo)”, (Kiều Mỹ Duyên, Đặc san Tây Ninh Quê tôi, Xuân Đinh Hợi 2007, “Tây Ninh: Hẹn Một Ngày Về”).

Thấy chưa nhỉ, văn phong bóng bẩy, mượt mà đáng yêu với những lãng đãng chất văn chương lãng mạn, có khác nào những Mai Thảo, Nguyên Sa, Nhật Tiến, Thạch Lam hay Nguyễn Xuân Hoàng,… theo ý tưởng thiển nghĩ của anh em tôi.

Còn nhà văn Thụy Lan đọc văn chương Kiều Mỹ Duyên, cô chú trọng về nét bao dung, từ tâm của tác giả Hoa Cỏ Bên Đường, trích đoạn sau:

“Người hạnh phúc và vui vẻ thì sống lâu, sức khỏe dồi dào, không đau bệnh. Người lạc quan, cười nhiều sống lâu hơn người hay than thở, chán nản. Ai cũng thích sống với người lạc quan hơn người bi quan. Hàng ngày, chúng tôi gặp nhiều người tươi cười như ngày hội Tết, lúc nào cũng cười, khuôn mặt tươi như hoa, tiếng nói như chim hót mùa Xuân. Những người này làm việc gì cũng thành công. Người thành công là người hạnh phúc, vì hạnh phúc nên thành công. Người lạc quan thì trẻ mãi không già. Sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc, ai cũng mong có đời sống như thế. Nhưng có bao nhiêu người trong chúng ta được đời sống hanh thông như thế?”, (Hạnh Phúc Cho Đi. 04/03/2021, Kiều Mỹ Duyên).

Ví dụ khác: Hãy yêu mình, hãy yêu người xung quanh mình…

“Hãy yêu mình, hãy yêu người xung quanh mình. Yêu người nhưng phải tự trọng, vì yêu người không phải đi xin thứ này, thứ nọ của người đó, nhất là xin thì giờ, xin kiến thức. Kiến thức phải đến trường học và học với nhiều người, nhiều ngành khác nhau, không phải chỉ học với một người. Chúng ta vào trường đại học cùng học với nhiều người chứ không chỉ học với một giáo sư duy nhất.”, (bđd, Hạnh Phúc Cho Đi. 04/03/2021, Kiều Mỹ Duyên).

Ý tưởng chân tâm, vị tha khi ta sống san sẻ, hạnh phúc lạc quan như Mẹ Teresa từng chia sẻ: “Chúng ta hãy luôn mỉm cười gặp nhau, vì nụ cười là khởi đầu của tình yêu.” (Let us always meet each other with smile, for the smile is the beginning of love). Hay như triết gia Ần quốc Debasish Mridha ghi nhận trong danh tác của ông Verses of Happiness: “Cuộc sống đơn giản và ngắn ngủi nhưng tình yêu là vô hạn và vĩnh cửu. Vì vậy, hãy cho đi nhiều nhất có thể được, không cần phải phán xét bất cứ ai ”(Life is simple and short but love is infinite and eternal. So give it away, as much as you can, without judging anyone.).

Phải chăng trong tâm tư nhà văn Kiều Mỹ Duyên chất chứa nét triết lý duy tâm nhẹ nhàng trong phong văn. Đọc Kiều Mỹ Duyên, tôi nghiệm ra rằng bà có quan điểm tựa như GS. y khoa Henri de Mondeville cho là  “Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ” ( Le rire est la meilleure médecine), hay triết gia Bertrand Russel nhận định là  “Tiếng cười là liều thuốc kỳ diệu rẻ tiền nhất và hiệu quả nhất” (Le rire est le médicament miracle le moins coûteux et le plus efficace); hoặc như văn hào Victor Hugo ghi nhận: “Làm được cho mọi người cười là làm cho mọi người quên thì thật là một ân nhân trên quả đất này, là một nhà phân phối của sự lãng quên!” (Faire rire, c’est faire oublier. Quel bienfaiteur sur la terre qu’un distributeur d’oubli !); hay như nhạc sĩ tài hoa Frédéric Chopin cho cảm nghĩ:  “Những người không bao giờ cười không phải là những người nghiêm túc.” (Les gens qui ne rient jamais ne sont pas des gens sérieux). Kiều Mỹ Duyên chủ trương sống thoải mái, triết lý sống thanh tao, đơn giản và san sẻ, bà nhìn cuộc đời bằng trái tim mở rộng cảm thông, bà lạc quan trong nhân sinh quan của chính mình.

Trong bài viết Cho Nhau Thì Giờ (25/02/2021), Kiều Mỹ Duyên viết: “Vậy thì khi người nào đó nói với bạn rằng tôi không có thì giờ hoặc tôi bận quá, bạn hãy tự hỏi mình người đó thân với bạn như thế nào? Khi một người nói với bạn tôi không có thì giờ thì bạn phải nghĩ rằng người đó không có thì giờ cho bạn, trong con mắt của người đó hoặc trong trái tim của người đó, bạn không phải là người thân. Nếu là người thân thì không bao giờ nói câu tôi bận quá, tôi không có thì giờ. Thì giờ người nào cũng bằng nhau, 24 giờ một ngày. Với 24 giờ, làm sao sử dụng cho hết: làm việc, ăn, ngủ, chơi, xem tivi, nghe radio, đọc sách, điện thoại, hoặc email cho người này hay người nọ. Nên bạn phải biết mình là ai khi nghe người nào nói rằng tôi có đọc email của bạn hay nhận điện thoại của bạn, nhưng rất tiếc tôi bận quá, tôi không có thì giờ trả lời….  Người nào cũng có việc làm, có bổn phận, trách nhiệm, không phải ai cũng có thì giờ nghĩ đến người khác, có thì giờ quan tâm đến những người xung quanh mình, nhưng nếu biết sắp xếp thì mọi chuyện đều có thể làm được.”

Bài Cho Nhau Thì Giờ có đoạn hay của nó: “Có những chuyện trong cuộc sống xảy ra rất đỗi bình thường nhưng lại có kết thúc bất ngờ. Một cụ bà nằm trong viện dưỡng lão, con cháu không có thì giờ đến thăm, chỉ riêng có cô y tá chăm sóc cho cụ bà hàng ngày. Vào những ngày nghỉ hoặc ngày lễ, cô nhớ cụ bà, cô vào viện thăm cụ. Cụ bà cũng rất thương cô y tá này. Rồi một ngày kia, cụ bà qua đời. Luật sư của cụ bà gọi cô y tá đến văn phòng luật sư để nghe di chúc của cụ bà ở viện dưỡng lão. Cô y tá ngạc nhiên và vô cùng xúc động, không ngờ cụ bà để lại tài sản cho cô thay vì để lại cho con cháu của mình.”

Cũng trong bài viết trên, nụ cười trong cuộc sống được nhà văn Kiều Mỹ Duyên cổ võ, quảng bá ở Nam Cali trên các hệ thống truyền thanh cũng như truyền hình: “Bà con ơi, Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ”, tôi vẫn nghe rõ nhự in. Hãy đọc tiếp bà viết: ” Cho nhau tiếng cười, cho nhau một chút thì giờ có gì quá đáng? Hãy tự hỏi mỗi ngày mình bỏ bao nhiêu thì giờ xem tivi, nghe radio, đọc sách báo, nghe nhạc thì tại sao cho người khác một chút thì giờ thì lại phiền? Chỉ có lòng mình chưa đủ để quan tâm đến người bạn của mình mà thôi?

Xin đừng bao giờ nói: tôi bận quá, tôi không có thì giờ, tôi không có thì giờ. Mỗi ngày 24 giờ là nhiều lắm, nếu mình sử dụng hết 24 giờ này ngoài việc ăn, ngủ, làm việc thì còn thì giờ nhiều lắm. Nếu mình quan tâm đến người khác thì xin đừng bao giờ nói: tôi bận quá, tôi không có thì giờ. Hãy bao dung, hãy rộng lượng, hãy thương người như thể thương thân, thì chúng ta có 24 giờ một ngày là nhiều lắm…”.

Kiều Mỹ Duyên vốn dĩ vui vẻ, hoạt bát và từ tâm,  Bà ăn chay, tránh sát sinh. Trong bài viết Hãy Cho Nhau Tiếng Cười, xin trích đoạn: “Hãy cho nhau tiếng cười reo vui, đời sống ngắn lắm, sự sống và sự chết gần nhau lắm, như sợi chỉ. Chỉ một cơn mê, chỉ một vài phút không thở, tim ngừng đập là lên đường ra đi mãi mãi, không bao giờ trở lại. Hãy cho nhau nụ cười cho người còn hiện hữu, đừng đợi người ra đi rồi luyến tiếc. Muốn gặp ai thì cứ gặp, đừng chần chờ, vì không biết ngày mai mình còn thức dậy? Gặp người mình muốn gặp vài ba giây cũng đủ, nghe vài tiếng nói cũng đủ. Đâu cần ngồi bên cạnh cả ngày, cả tháng, cả đời? Biết đủ là đủ…”.

Đọc trích đoạn người nữ tu yêu tiếng cười nhân hậu, hiền hoà, “Đời sống quá ư vất vả, ai cũng thích tiếng cười. Tiếng cười đem niềm vui và sức sống cho người xung quanh. Sống lạc quan khi có nụ cười, tiếng cười. Sự linh hoạt của đời sống là sự vui vẻ, yêu đời và lạc quan. Càng lớn tuổi, tôi càng thích tiếng cười. Tôi thích những người đem niềm tin đến cho mình, tôi cũng thích chính mình đem niềm tin đến cho người khác. Đem nỗi buồn làm phiền người khác để làm gì? Thương ai nên đem cho họ nụ cười, tiếng cười. Ngay cả người bệnh nằm trong viện dưỡng lão mà mình đem tiếng cười đến cho họ, nhìn vào mắt của bệnh nhân mình sẽ cảm thấy mắt của họ tươi hơn, khuôn mặt của họ có hồn hơn.

Hãy cho nhau nụ cười, cho nhau tiếng cười. Nếu mình có niềm vui trong lòng thì tiếng cười sẽ reo vui hơn, giòn tan hơn. Yêu người, yêu đời qua tiếng cười. Hãy yêu thương, lòng rộng mở, tiếng cười của mình sẽ hồn nhiên hơn, giòn giã hơn. Tôi yêu tiếng cười của trẻ thơ khắp nơi, nhất là các em trong viện mồ côi. Hãy ôm chặt các em trong tay với trái tim nồng nàn, chúng ta sẽ tìm thấy tình người trong vòng tay ấm áp của mình. Hãy nắm chặt tay người già trong viện dưỡng lão, chúng ta sẽ cảm nhận được người cần người dù trong chốc lát. Có người suốt đời đi tìm nụ cười đã mất, tìm hoài, tìm mãi không được, vì người có nụ cười thân thiện, thương yêu đã không còn nữa, cho nên khi còn hiện hữu, gặp bằng hữu, chúng ta nên cười vui vẻ, tự nhiên mà cười, nếu không ngày mai không còn kịp nữa.

Tôi được may mắn quen nhiều người có tiếng cười reo vui. Catherine bận rộn suốt ngày, làm việc không có ngày nghỉ. Vậy mà lúc nào cũng nở nụ cười trên môi và tiếng cười reo vui….  Catherine đem nụ cười đến với những người nghèo, trẻ em mồ côi. Catherine giúp họ rất tận tình như người mẹ chăm sóc con cái của mình. Những đứa trẻ ở Miên rất thương Catherine…Tiếng cười của bạn tôi vẫn reo vang. Năm nào, bạn tôi cũng gọi cho tôi với tiếng cười lạc quan pha chút nghịch ngợm của trẻ thơ vào ngày đầu năm. Tiếng cười vui vẻ không thay thế được cơm gạo, nhưng tiếng cười hồn nhiên của trẻ thơ, của người già vẫn là nhu cầu cần thiết của người nghe, của bằng hữu. Bạn tôi không gọi tôi thường xuyên nhưng mùng 1 Tết năm nào cũng gọi. Trước khi đi xa gọi, trở về gọi, có chuyện vui đều gọi tôi. Bạn tôi rất hồn nhiên, chỉ kể chuyện vui, không bao giờ kể chuyện buồn”.

Đoạn kết của bài viết thì cuộc đời này muôn thuở vẫn cần tiếng cười:

“Mãi đến bây giờ, tôi mới nhận ra một điều quan trọng là chúng ta rất cần nụ cười, cần tiếng cười trong đời sống hàng ngày: tiếng cười hồn nhiên của trẻ thơ, nụ cười héo hon của người già gần đất xa trời, giọng cười giòn tan của bạn bè, thân hữu,… Đúng là một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ?

Hạnh phúc thay cho những ai có tiếng cười giòn tan thường đến với mình trong 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Tiếng cười hồn nhiên pha lẫn chút nghịch ngợm của trẻ thơ làm cho người nghe lạc quan, yêu người, yêu đời mà sống, vượt qua những nỗi khó khăn ở hiện tại. Xin cảm ơn những nụ cười, những tiếng cười mà tôi đã được gặp, được nghe trong đời sống hàng ngày, nhất là vào mùa Xuân.

Kiều Mỹ Duyên, Orange County, 15/02/2021″.

Đọc Tuyển tập Kiều Mỹ Duyên qua tác phẩm mới Hoa Cỏ Bên Đường để chúng tôi, ba anh em: Thuỵ Lan, Khánh Lan và Việt Hải chia vui cùng tác giả Kiều Mỹ Duyên. Một nhà báo chuyên nghiệp đã ghi dấu giầy trên chiến trường xưa. Kiều Mỹ Duyên lặn lôi theo các mặt trận Quảng Trị qua danh trấn Mỹ Chánh, Hải Lăng, Đông Hà, La Vang, Gio Linh, cùng Huế như Cổ Thành, thung lũng Ashau, sang Quảng Ngãi với Ba Tơ, Quế Sơn, rồi Cao nguyên sương mù màu khói súng tại Tam Biên, Benhet, Dakto, Tân Cảnh, Pleiku, Kontum, Polei Kleng, Chu Pao, Bình Long, An Lộc,… Ngày hôm nay nếu chúng tôi nhận định Kiều Mỹ Duyên là một nhà báo nghiệp dư vì nhớ nghề xưa, hay một nhà truyền thông tài tử (amateur), hoặc giả là một phóng viên tự do (freelance) sẽ không ngoa. Và bà không làm vì tài chánh. Kiều Mỹ Duyên đã có nguồn cơm gạo từ hai cơ sở kinh doanh là Ana Real Estate và Ana Funding lo cho dạ dày. Hãy nói sự thật để được lòng người nghe. Sự thật hay chân lý là đích điểm đắc nhân tâm, như trường hợp nhà bác học Albert Einstein ghi nhận: “Những lý tưởng luôn luôn tỏa sáng trước mặt tôi và nó khiến tôi đầy ắp niềm vui về cái thiện, cái đẹp và chân lý” (The ideals which have always shone before me and filled me with joy are goodness, beauty, and truth). Tương tự, văn hào Nga Fyodor Dostoevsky cho ý tưởng: “Trên đời này không có gì khó hơn là nói ra sự thật lòng, không có gì dễ hơn là sự xu nịnh” (Nothing in this world is harder than speaking the truth, nothing easier than flattery).

oOo

Hoa Cỏ Bên Đường là tác phẩm chuyển tải nội dung những mẫu chuyện về chân thiện mỹ  trong đời sống xã hội. Khi “Gõ Cửa, Cửa Sẽ Mở”, như khi “Mở lòng, lòng thanh thản”; Hoa Cỏ Bên Đường là tác phẩm đề cao tiếng cười, bởi vì “Hãy Cho Nhau Tiếng Cười”, cũng bởi vì tiếng cười là nhu cầu, là niềm tin yêu của đời sống; Trong đời sống hãy “Cho Nhau Thì Giờ”, dành thì giờ cho yêu thương nhân đạo, nhân đức; Hoa Cỏ Bên Đường là tác phẩm cho thấy triết lý sống mà tác giả đề nghị về tư tưởng lạc quan. Tuyển tập Kiều Mỹ Duyên nhấn mạnh đặc tính nhân bản với nhân sinh quan hãy “Lạc Quan, Yêu Người, Yêu Đời Mà Sống”, nhũng tâm tư, tâm tình của tác giả chắt chiu từng con chữ, nắn nót từng ý tưởng nội tâm, để rồi Cơ Sở Lạc Việt gom góp in ấn hình thành tác phẩm này.

Đọc một tác phẩm, xin hãy tìm hiểu chiều sâu tâm hồn, những ngõ ngách của trí não qua ngòi bút của nhà văn, hãy truy nguyên sự góp mặt của tác phẩm, và xin hãy rộng mở chào đón tác phẩm như một viên gạch mới tô điểm ngôi nhà văn học Việt Nam hải ngoại. Chúng tôi xin chúc mừng nhà văn Kiều Mỹ Duyên với tác phẩm Hoa Cỏ Bên Đường như tiếng lòng gởi đến mọi người.

Việt Hải – Song Lan, Nam California. Mùa Xuân, 10/04/2021.




Chuyến Đi Biền Biệt

Xin quý vị click vào hình để đọc.




Tâm Pháp Khí Công

ÂM DƯƠNG KHÍ CÔNG – MỘT PHƯƠNG PHÁP LUYỆN TÂM TRÍ – KHÍ – LỰC CỦA VIỆT NAM NGUYÊN LÝ: KHÍ BÌNH => TÂM BÌNH; TÂM BÌNH => SÁNG SUỐT. ÂM DƯƠNG KHÍ CÔNG LÀ GÌ ? Âm Dương Khí Công là công phu luyện thở, nhằm điều chỉnh hai khí Âm và Dương trong hai mạch Nhâm và Đốc.
Xin quý vị click vào hình để đọc.




Những Mùa Xuân Trở Lại.

Mùa Xuân là sự bắt đầu của thời gian theo chu kỳ hàng năm, nhưng theo tập quán tống cựu nghênh tân của dân Việt Nam, Xuân là mùa của hy vọng có những tin vui, những sự tốt lành của năm mới. Trong tinh thần đó, tôi lựa ra những bài tôi đã viết về Mùa Xuân kể từ khi đến định cư tại nước Mỹ để tạo thành tuyển tập này.

Xin quý vị click vào hình để đọc.




Kho tàng sách cũ xuất bản trước 1975 dạng e-book:

Xin quý vị click vào hình để đọc.




Nếu đời không có thơ

Vài lời tự bạch

Khi tuổi đời đã xế bóng, vấn đề cơm áo tạm ổn định thì hồn thơ bỗng bừng cháy theo kỷ niệm thời áo trắng xa xưa…, của những chiều mưa ngồi bất động thả ánh mắt theo bong bóng nổi tan, hay mùa Thu với những tà áo tím xuất hiện trên khắp nẻo đường của xứ Sông Hương, Núi Ngự, của buổi chiều Hạ tìm hạt nắng mong manh sắp tàn dần theo hoàng hôn…

Thời gian đầu chỉ viết lung tung không lề luật. Rồi cơ may đến, MT gặp được người anh tên Bảo Trâm, đã chỉ dạy, hướng dẫn về các luật thơ, rồi đi xa hơn nữa là giới thiệu MT đến các diễn đàn văn thơ cũng như nhiều hội thơ Thất Ngôn Bát Cú để có cơ hội học hỏi thêm, từ đó MT lại được mời tham gia vào nhiều hội thơ khác nữa.

Khởi đầu, học thơ 5 chữ, 8 chữ, Tứ Tuyệt, Song Thất Lục Bát rồi cuối cùng là thơ Thất Ngôn Bát Cú, với loại thơ TNBC, có rất nhiều thể loại thật thú vị cho trí óc rèn luyện, đây là loại thơ MT thích nhất, vì vậy mà tập đầu tay MT chỉ nghĩ đến thơ Thất Ngôn Bát Cú là chính.

Thơ là sân chơi tao nhã, là cảm xúc dâng tràn theo câu chuyện đời, đôi lời tâm sự từ bạn bè, hay kỷ niệm được cô đọng đã lâu, hoặc là mơ là mộng, là thơ là thẩn đôi ba phút trong thế giới tưởng tượng, để tạm quên đi thực tế chắc hẳn không đẹp như mơ.

Còn gì thú vị bằng khi cùng với bạn thơ xướng họa giải trí sau một ngày làm việc mệt nhọc.

Khi vốn liếng đã đầy ắp, MT muốn lưu niệm cùng quý thi nhân khắp bốn phương trời, ước ao thành hình tập thơ và san sẻ đến những bạn yêu thơ gần xa, mong hỷ xã nếu có nhiều sai sót về mọi mặt 

Cuối cùng MT xin ngỏ lời tri ân đến người anh, người Thầy Bảo Trâm đã hướng dẫn đi vào luật thơ, đã làm hơn một ngàn tranh thơ cho MT, đã gom nhặt, tìm kiếm trên các hội thơ để cất giữ dùm thơ khi thấy MT quá bận rộn “cày bừa” trong tuần, cuối tuần chạy rong ngoài đường lo việc chú bác, chỉ biết xướng hoặc họa thơ mà không nhớ bài nào, không biết cách giữ gìn. Có lẽ người Thầy đã nhiệt tình hăng say khi thấy công lao đào tạo đệ tử…” tạm gọi” là có kết quả về luật thơ?

Nói tóm lại nếu không có Thầy Bảo Trâm thì MT không có được vốn liếng thơ để hôm nay được Thầy trình bày thành tập thơ này. 

Sau nữa MT xin cám ơn hội trưởng Chinh Nguyên của hội Văn Thơ Lạc Việt đã mở lớp học miễn phí về cách sử dụng Computer, về cách trình bày một cuốn sách, cũng như in sách do Thầy Phạm Thái nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ MT hoàn thành tập thơ Xướng Họa 2017 này.

Xin mời quý độc giả cùng bước vào vườn thơ với muôn cánh hoa đầy hương sắc. 

          Minh Thúy

Xin vui lòng click vào hình để xem sách



Hồi Ký Đập Đập Đá Trại 6 Nghệ Tĩnh

https://www.amazon.com/Quality-Shock-Absorbing-Iphone-4s-silver/dp/1716600782/ref=sr_1_1?dchild=1&keywords=Doi+dap+da&qid=1601437190&sr=8-1



The Mountains Sing: Tiểu thuyết Việt Nam đang làm độc giả phương Tây ‘cảm động’

Lê Quỳnh 

BBC News Tiếng Việt

Nguyễn Phan Quế Mai
Nguyễn Phan Quế Mai

Tiểu thuyết tiếng Anh của một tác giả Việt Nam đang nhận được sự quan tâm tích cực của các nhà phê bình nước ngoài.

The Mountains Sing là tựa đề tiểu thuyết đầu tay của nhà văn – dịch giả Nguyễn Phan Quế Mai, do nhà xuất bản đặt ở London Oneworld Publications ấn hành năm 2020.

Nhà văn được giải Pulitzer Viet Thanh Nguyen ca ngợi tiểu thuyết The Mountains Sing “cảm động và hấp dẫn”.

Báo chuyên ngành xuất bản Publishers Weekly khen sách: “Lá thư tình gửi Việt Nam xuất sắc, không che giấu nỗi đau này sẽ làm độc giả cảm động.”

Cuốn tiểu thuyết trải dài cả trăm năm lịch sử Việt Nam, tập trung vào một gia đình họ Trần. 

Qua cuộc đời của các nhân vật như Hương và người bà Diệu Lan, The Mountains Sing đề cập đến các biến cố như cải cách ruộng đất ở miền Bắc, chiến tranh với người Mỹ và giữa hai miền Nam – Bắc, và giai đoạn hậu chiến.

Là dịch giả tiếng Anh, bà Nguyễn Phan Quế Mai đã viết The Mountains Sing trực tiếp bằng tiếng Anh.

Hiện đang sống và làm việc ở Indonesia, bà đã dành cho BBC cuộc phỏng vấn về tiểu thuyết đầu tay này.

Nguyễn Phan Quế Mai: 

Tôi đã xây dựng không gian của tiểu thuyết The Mountains Sing (Những ngọn núi ngân vang) trong suốt bảy năm. Trước đó, tôi đã lắng nghe rất nhiều những câu chuyện của người Việt từ miền Bắc tới miền Nam, từ trong nước đến hải ngoại. Tôi cũng đã đọc rất nhiều các tác phẩm hư cấu và phi hư cấu bằng tiếng Việt và tiếng Anh viết về các sự kiện lịch sử Việt Nam, đặc biệt về các sự kiện mà tiểu thuyết của tôi đề cập tới: sự đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam, sự xâm lược của đế quốc Nhật, nạn đói năm Ất Dậu, cải cách ruộng đất, sự chia cắt Bắc Nam, chiến tranh Việt Nam, thời kỳ bao cấp… 

Tất cả những câu chuyện và các tác phẩm kể trên đều cung cấp cho tôi những tư liệu quý và thúc giục tôi sáng tạo nên một tiểu thuyết khác biệt, ở đó, những người phụ nữ là trung tâm tác phẩm: họ là những người kể chuyện, dẫn dắt người đọc qua chiều dài gần một thế kỷ lịch sử Việt Nam, qua sự thăng trầm của bốn thế hệ trong một gia đình người Việt.

Tiểu thuyết này ra đời trong khuôn khổ chương trình Thạc sĩ và Tiến sĩ Viết văn mà tôi thực hiện với trường đại học Lancaster (Anh quốc). Đó là lý do tôi viết nó bằng tiếng Anh thay vì tiếng mẹ đẻ của mình. Một lý do nữa để tôi viết bằng tiếng Anh là hiện nay bạn đọc quốc tế biết rất ít về văn học Việt Nam, và văn học tiếng Anh có rất ít các tác phẩm viết qua đôi mắt và trải nghiệm của người Việt trong nước.

Tôi được sinh ra ở một vùng quê nghèo Bắc bộ và lớn lên ở đồng bằng sông Cửu Long (thị xã Bạc Liêu). Tôi bắt đầu chập chững học tiếng Anh khi vào lớp 8, với sự giúp đỡ của một người thầy mở lớp dạy tiếng Anh tình nguyện cho các trẻ em nghèo. Vì thế việc sáng tác tiểu thuyết đầu tay bằng tiếng Anh là sự liều lĩnh và thử thách lớn, tuy nhiên, tôi đã học hỏi được rất nhiều và biết ơn cơ hội được đặt một chân vào văn học thế giới qua tiểu thuyết này.

BBC: Tuy đây là tác phẩm hư cấu, bà có hy vọng giải thích một số chương lịch sử Việt Nam qua truyện kể của các nhân vật?

Tiểu thuyết “Những ngọn núi ngân vang” là sự kế thừa văn hoá kể chuyện của người Việt: tiểu thuyết bắt đầu bằng việc một người bà kể cho người cháu nghe những gì đã xảy ra với gia đình mình trong lúc hai người phải trốn chạy khỏi những trận bom Mỹ dội xuống Hà Nội. Người cháu tiếp tục những câu chuyện ấy của người bà để rồi khi người bà mất đi, cô viết lại những gì xảy ra với gia đình mình. Khi hoàn thành tiểu thuyết, cô đốt bản sao của bản thảo trước ngôi mộ của người bà đã mất để bà có thể đọc ở thế giới bên kia.

Lịch sử của Việt Nam có rất nhiều thăng trầm, có quá nhiều đau thương, mất mát. Với tiểu thuyết này, tôi muốn tái hiện lại những biến cố chính trong chiều dài lịch sử ấy, qua thân phận của những người dân bình thường, những người ấy rất cần được lắng nghe. 

Lịch sử Việt Nam cũng vô cùng phức tạp, và vì thế không dễ tiếp cận. Với “Những ngọn núi ngân vang”, tôi hy vọng bạn đọc sẽ vào vai các nhân vật trong gia đình họ Trần, để từ đó, họ trực tiếp trải nghiệm các biến cố chính của lịch sử, để rồi cảm nhận sự tác động của các biến cố ấy lên số phận con người. Tuy viết về các sự kiện lịch sử, nhưng trọng tâm của quyển sách này là số phận con người và cách con người vượt qua biến cố để giữ gìn không chỉ mạng sống mà còn phẩm giá, tình yêu, tình cảm gia đình và sự bình an trong tâm tưởng. 

Bạn đọc quốc tế hầu như chỉ biết về Việt Nam như một cuộc chiến tranh. Qua tiểu thuyết này, tôi muốn khắc họa nên hình ảnh của một Việt Nam giàu truyền thống văn hoá bao gồm truyền thống văn học (kể cả văn học dân gian). Dù phải đi qua rất nhiều thảm kịch, nhưng niềm tin và hy vọng vào tương lai, vào lòng tốt con người là những ngọn đuốc sưởi ấm cho các nhân vật trong tiểu thuyết, giúp họ vượt qua nhiều vực thẳm của bóng đêm. 

The Mountains Sing

BBC: Một bài điểm sách ghi nhận rằng “tha thứ và hòa giải – trong gia đình, giữa người Việt và với ngoại bang – là những chủ đề xuyên suốt” trong tiểu thuyết. Bà có hy vọng độc giả người Việt đồng tình với những gì bà viết trong sách, hay sẽ có những người không tán thành?

Một trong những điều thôi thúc tôi viết quyển sách này là sự chia cắt vẫn còn sâu thẳm giữa cộng đồng người Việt. Tiểu thuyết “Những ngọn núi ngân vang” nói về gốc rễ của sự chia cắt ấy, về nỗi đau của một gia đình khi họ bị chia lìa bởi lịch sử, để rồi người Bắc kẻ Nam, anh em ruột thịt phải cầm súng ở hai đầu chiến tuyến. Khi tiểu thuyết kết thúc, nỗi đau chia cắt ấy vẫn còn hằn sâu vào từng thành viên gia đình, dai dẳng và khó nguôi ngoai. Với tiểu thuyết này, tôi ước ao người Việt chúng ta lắng nghe và chia sẻ nhiều hơn các câu chuyện của cộng đồng mình – dù các câu chuyện đó có khác biệt thế nào chăng nữa. Tôi tin rằng khi chúng ta đọc và lắng nghe các câu chuyện của nhau, sẽ có nhiều hơn sự thấu hiểu và cảm thông. 

Tôi tin rằng mỗi gia tộc người Việt đều có những trải nghiệm độc đáo, kịch tích và nhiều màu sắc – những trải nghiệm ấy hoàn toàn có thể biến hoá thành một tiểu thuyết hấp dẫn. Và tôi cũng tin rằng không một câu chuyện nào có thể đại diện cho tất cả mọi trải nghiệm của người Việt. Gia đình họ Trần trong tiểu thuyết của tôi là một gia đình được xây dựng nên bởi trí tưởng tượng. Trải nghiệm của họ phản ánh một phần trải nghiệm của gia đình tôi cũng như trải nghiệm của nhiều gia đình mà tôi đã từng tiếp xúc. Nhưng gia đình Trần có một cuộc sống riêng, nơi đó trí tưởng tượng, bắt nguồn từ các sự kiện lịch sử, được phép thăng hoa.

Tôi không dám mong đợi rằng mọi người Việt đều đồng tình với những quyết định, suy nghĩ của các nhân vật trong tiểu thuyết Những ngọn núi ngân vang. Tôi chỉ mong những gì xảy ra trong sách khiến bạn đọc xúc động, để từ đó họ liên tưởng và suy ngẫm tới gia đình họ và quê hương của họ, về những gì ông bà cha mẹ của họ đã phải trải qua để cho họ cuộc sống hôm nay. Tôi viết về sự thảm khốc của chiến tranh và xung đột để nói lên giá trị hoà bình, viết về sự chia lìa để nói về giá trị của sự đoàn tụ, viết về cái chết để nói về giá trị của mỗi phút giây bình thường. Tôi luôn ước ao mọi người Việt, dù ở bất cứ nơi đâu, cũng được hưởng một cuộc sống bình an, nơi họ có thể quây quần bên gia đình, được làm việc, học tập, được trân trọng và được yêu thương.




‘The Mountains Sing” A Song Of Many Voices

THÚY ĐINH

The Mountains Sing

by Que Mai Phan Nguyen

Hardcover, 352 pages

Nguyễn Phan Quế Mai

In The Mountains Sing, Nguyễn Phan Quế Mai has created a luminous, complex family narrative that spans nearly a century of Vietnamese history, from the French colonial period through the communist Viet Minh’s rise to power, the separation between North and South Vietnam, the Vietnam War, all the way to the present day. Told alternately by Diệu Lan, born in 1920, and her granddaughter Hương, born in 1960, the novel resembles a choral performance with multiple voices.

Diệu Lan is the family matriarch — bereft of father, husband, brother, and eldest son due to war and occupation, she weathers historical changes and economic hardship with self-reliance, intelligence, creativity, and kindness. Born in the same province as revolutionary leader Hồ Chí Minh, Diệu Lan’s actions reflect her own idea of independence. During the era before Vietnam’s economic reforms of the 1980s, she becomes a black marketeer to improve her family and community living conditions. She introduces contraband American literature to her granddaughter, hoping to broaden Hương’s intellectual horizons, and shows unwavering love to a son who fought in the pro-American South Vietnamese Army.

The Mountains in the title represent the Vietnamese people and their land, and Sing standsfor the novel’s celebration of plural perspectives. Mountains Sing is also the literal meaning of sơn ca, the Sino-Vietnamese word for the hand-carved wooden lark that Hương inherits from her long-lost father. As a symbol of immortality in Vietnamese culture, the sơn ca also brings to mind Yeats’s golden nightingale, his avatar in “Sailing to Byzantium” that sings of “what is past, or passing, or to come.”

The past figures prominently in Quế Mai’s novel, for it still affects the present and the future. The author dedicates The Mountains Sing to her grandmother, who perished in the Great Famine of the 1940s when Japan occupied Vietnam, to her grandfather who died because of the harsh land reform policy imposed by the North Vietnamese Communist government in 1955, and to her uncle, “whose youth the Vietnam War consumed,” as well as millions of Vietnamese and non-Vietnamese who lost their lives in the war.Article continues after sponsor messagehttps://5bacdb423a428db7f08f7e251c8d88b2.safeframe.googlesyndication.com/safeframe/1-0-37/html/container.html

‘The Mountains Sing’ affirms the individual’s right to think, read, and act according to a code of intuitive civility, borne out of Vietnam’s fertile and compassionate cultural heritage.

Born in 1973 in North Vietnam, Quế Mai relocated at six with her family to the South, before winning a university scholarship to study in Australia. She later decided to pursue a writing career exploring the long lasting socio-psychological consequences of the Vietnam War. This background gives Quế Mai an astute and graceful ability to sustain contradictory truths about war, displacement, aesthetic representations, and human nature. In The Mountains Sing, Hương is able to see the humanity of her so-called American enemies because she’s read Laura Ingalls Wilder’s depiction of the close-knit pioneer family in Little House in the Big Woods (a book she acquired from her grandmother Diệu Lan’s black market trade). At the same time, beauty does not exempt a culture from its inhumanity; at one point, Diệu Lan observes that an elegant haiku about a frog by the Japanese poet Basho could not save the Vietnamese from the brutality of their Japanese occupiers.

Most importantly, the novel helps all of us see “the enemy” not as abstract or demonic, but corporeal, even familial. An American bomber who falls out of the sky, Icarus-like, is as vulnerable as someone’s brother who fights for the other side. The Vietnam War is not only an international ideological struggle, but also a civil war among kin. A character laments, “But what if one of my comrades had his gun pointed at your forehead? Would I kill my brother in arms to save my brother in blood?”

In depicting the dire consequences of war and Marxist ideology, which forced citizens and family members to become either traitors or patriots, The Mountains Sing affirms the individual’s right to think, read, and act according to a code of intuitive civility, born out of Vietnam’s fertile and compassionate cultural heritage.

And yet, despite the novel’s wondrously balanced approach, true reparation has yet to take place between the Vietnamese state and its people. The “enemies” that Diệu Lan faces when she returns to her home town are not her true enemies, but merely agents of an oppressive Marxist regime that engineered the disastrous land reform.

At the end of the day, the fact that The Mountains Sing is published in English means its content still faces translation and censorship hurdles before reaching readers in Vietnam. Can Nguyễn Phan Quế Mai’s message be heard in her homeland, where the mountains of Vietnam are still a fortress silencing the sounds of birds?

Thúy Đinhis a writer, literary translator, and co-editor of the Vietnamese e-zine Da Màu (Multitude). Her work has appeared in NBCThinkAsymptotediaCRITICs, Amerasia Journal, Pop Culture Nerd, among others.




Tập thơ “Trịnh Cung trên nước Mỹ”

No photo description available.
No photo description available.
Image may contain: 1 person
Image may contain: 2 people, including Hong Nguyen, people sitting, tree, table and outdoor



Cô gái Dao đầu hai xoáy tung vó ngựa trời Âu

Cô gái Dao đầu hai xoáy tung vó ngựa trời Âu

Phạm Xuân Nguyên

Một cô gái dân tộc Dao Tuyển ở thôn Ngám Xá, xã Nậm Chạc, huyện Bát Xát (Lào Cai) sát biên giới Việt Trung đã trở thành người đầu tiên trong bản đậu đại học và cũng là người đầu tiên ở xã vùng cao này đi du học châu Âu. Năm 2016, sau khi tốt nghiệp xuất sắc trường Đại học Lâm Nghiệp Việt Nam và đi làm hai năm, cô đã giành được học bổng toàn phần Erasmus Mundus trị giá 50.000 USD đào tạo thạc sĩ ngành quản lý tài nguyên rừng bền vững của Trường đại học Gottingen (Đức) và Trường đại học Padova (Italia). Cuốn sách mang tên “Đường ngược chiều từ bản người Dao đến học bổng Erasmus”. Và tên tác giả là Chảo Yến.

This image has an empty alt attribute; its file name is Sach-cogai-Dao-hocbong-Eramus-1.jpg

Đường ngược chiều của Chảo Yến là đi ngược lại những định kiến, quan
niệm, thái độ của dân bản, kể cả bố mẹ và những người thân nhất trong họ
hàng, gia đình, cho rằng con gái thì không nên học lắm làm gì, con gái
người dân tộc thiểu số thì càng không mong học cao vì học sao lại người
Kinh. Cô bé đi học sớm tuổi khi được mẹ cho đi theo cùng chị đến trường
ngày khai giảng và rồi từ ngày đó, việc học của cô là chuỗi ngày vật lộn
với cái sự ăn đói mặc rách và đủ mọi sự thiếu thốn của một gia đình
nông dân nghèo vùng cao.

Hãy nghe cô thạc sĩ hiện nay ở thủ đô kể lại cái ăn của cô bé là mình hồi nhỏ ở quê: “Tôi
khai vị bữa sáng bằng lá me rừng, món chính là lá xuyến chi, có hôm đổi
sang lá tàu bay cho phong phú. Tôi kết thúc bữa sáng bằng món tráng
miệng là lá chó đẻ, có nơi gọi là sam hôi. Tôi chào đón bữa trưa bằng
món nộm lá thập cẩm: lá chó đẻ, lá tàu bay, lá me rừng, lá xuyến chi và
nhiều loại “rau thơm” khác có nguồn gốc xuất xứ không từ trên cành cây
thì cũng dưới mặt đất. Bữa tối của tôi sẽ hoành tráng hơn vì tôi được ăn
ở những nơi yêu thích của loài lợn như chuồng lợn hoặc các bụi rậm và
tất nhiên, các món ăn cũng không kém phần đặc sắc. Tất cả các bữa ăn của
tôi đều được ăn kèm với một loại gia vị mà gia đình người Việt Nam nào
cũng có, đó là muối trắng”
 (tr. 41).

Cứ thế,  bố mẹ suốt ngày lên nương rẫy, cô bé sống tự nhiên như cây
cỏ cùng chúng bạn và đi học hồn nhiên như đi chơi. Nhưng cô đã được Trời
phú cho trí thông minh nên học giỏi. Học giỏi nhưng hết năm lớp 9 thì
cô đành phải ở nhà cùng anh trai theo bố mẹ lên rẫy phát nương hoặc chăn
trâu, lấy củi dù cô rất muốn được xuống huyện dự thi vào lớp 10. Thầy
giáo thương trò đến nhà thuyết phục bố mẹ cho cô đi học tiếp cũng không
được và cô sau khi nghe lỏm xong câu chuyện của người lớn lòng đầy buồn
bã đã ra ngồi chuồng lợn khóc ròng bỏ cả bữa tối. Để nguôi ngoai nỗi
thèm học, cô tranh thủ những lúc chăn trâu lại đứng nấp ghé lớp học mà
mình đã học qua đến nỗi thầy giáo cũ lại cho vào lớp ngồi cùng để có dịp
ôn lại kiến thức cũ mong năm sau đi thi. Hy vọng lại nhen nhóm trong
cô. Nhưng rồi nó lại nhanh chóng bị dập tắt bởi những lời bàn ra tán vào
của bà con xóm bản để cuối cùng bố mẹ cô quyết định dứt khoát và lạnh
lùng là cô phải ở nhà đi rẫy thay vì đi học tiếp. Đó là sự ngược chiều.

Ba năm ở nhà cô đã những muốn ruồng bỏ, quên đi ước mơ đến trường học
tiếp, nhất là khi cô phải chứng kiến cảnh các chủ nợ đến nhà mình giằng
từng bao lúa mới tuốt xong để trừ vào món nợ bán lúa non mà bố cô đã
ứng trước để có tiền lo việc học cho các con. Cô đã tìm cách vào rừng
lấy măng phơi khô bán chợ, đã thử mua rau đưa sang Trung Quốc bán, đã
liều sang bên kia biên giới làm công kiếm tiền.

Và cô tưởng đã yên phận như bao cô gái vùng cao khác. Nhưng rồi ước mơ lại bùng cháy trong cô, “lần này không còn chỉ là đơn giản là thích đi học nữa mà là khát vọng thoát nghèo”
(tr. 212). Và người thầy giáo cũ đã khích lệ cô, đã lại đến nói chuyện
với bố mẹ cô. Rồi cô được xuống huyện thi vào lớp 10 và thi đậu vào
Trường Trung học Phổ thông số 2 Bát Xát. Cô được vào lớp 12A4 là lớp cá
biệt của trường. Cô được bầu làm lớp trưởng cả ba năm học. Cô được nhận
học bổng của tổ chức Global Care cho học sinh vượt khó học giỏi ngay năm
học đầu cấp.

Vượt qua những khó khăn nghịch cảnh cô đã bước đầu chứng tỏ được
mình. Nhưng cùng lúc, sự ngược chiều lại tăng lên với cô mỗi khi về nhà
thấy bố mẹ không vui, thấy những người bà con chòm xóm mỉa mai, dè bỉu
việc học của mình, thấy sự độc ác hồn nhiên của mọi người. “Tôi thật
sự sợ con đường về nhà! Sợ cái bản làng tôi yêu từng ngóc ngách, sợ
những con người mà tôi từng rất yêu quý. Bản làng lúc đấy đã có điện
lưới quốc gia, nhưng đường về nhà thì lại bị mất điện, nên chúng tôi
chẳng muốn tìm đường về”
(tr. 230) – cô gái lúc đó đã nghĩ vậy.

Nhưng cô vẫn quyết ngược chiều. Tốt nghiệp phổ thông, cô thi đậu vào
Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, tiếp tục phát huy năng lực học tập
của mình, chinh phục được tiếng Anh, từ đó mở ra cho mình con đường đi
đến châu Âu, vươn ra thế giới. Cô đã chủ động nắm lấy vận mệnh mình và
biết “căng buồm đợi gió” khi vận may đến. Cô chọn ngành học về rừng vì
cô sống ở rừng, biết nỗi đau của rừng khi bị con người phá hủy và nỗi
đau của người khi vì phá rừng mà bị thiên nhiên trừng phạt. Hiện giờ
Chảo Yến đang làm việc tại Trung tâm Con người và Thiên nhiên (Hà Nội).
Cô gái tuổi Ngọ (1990) đã thực sự tung vó ngựa vượt qua những rào cản
ngược chiều để phi tới những miền xa khát vọng, những đỉnh cao mơ ước,
cống hiến sức lực và năng lực của mình cho lợi ích cộng đồng.

Cuốn tự truyện “Đường ngược chiều từ bản người Dao đến học bổng
Erasmus” đọc thích vì giọng điệu kể chuyện. Chảo Yến kể lại cuộc đời
tuổi trẻ của mình bằng lời văn hồn nhiên, tinh nghịch, mang chất tuổi
mới lớn (teenage) tạo được sự đồng cảm yêu mến nơi người đọc dù chuyện
bố mẹ, bản làng và của chính cô nhiều buồn bã, đau xót. Những trang kể
về buổi khai trường, về buổi học cấp hai đầu tiên, về cuộc đi chợ huyện,
về cảnh tranh mót mía với bầy lợn, về cậu bạn tên Hộp, về chuyện
“cave”, về hình ảnh người bố trong buổi lễ tri ân trưởng thành của con
gái, về chuyến đi của bố con lần đầu xuống Hà Nội… đọc lên có thể cười
khóc được.

Đặc biệt trong truyện kể của Chảo Yến hiện lên sinh động những con
người quanh cô, đã giúp cô dám làm hành trình ngược chiều đi tới ước mơ.
Đó là những người thầy ở cấp trung học và đại học. Đó là anh chị em
trong nhà. Và trên hết là người mẹ của cô. Mẹ hay quát mắng, phát mông,
đánh đòn con gái mỗi khi cô nghịch ngợm. Mẹ đã có lúc cùng bố muốn con
gái thôi học ở nhà. Nhưng chính mẹ sau hôm nói chuyện với thầy giáo đã
quyết định cho con gái xuống huyện thi vào lớp 10 bất chấp ý bố không
muốn. Mẹ tin ở đứa con gái “đầu hai xoáy” của mẹ. Mẹ đã truyền cho con
gái quyết tâm đi tới từ lời tâm sự: “Cuộc đời mẹ từ bé đã vất vả,
tám tuổi mẹ đã phải đi làm thuê cùng bà ngoại để mua thuốc phiện cho ông
ngoại. Sau ông ngoại mất, mẹ lại phụ bà ngoại nuôi các cậu, các dì. Mẹ
cũng rất muốn được đi học, đến lúc lấy bố con mới được ông nội dạy để
biết đọc báo. Mẹ mà được đi học mẹ chắc chắn cũng học giỏi như con,
nhưng đời mẹ coi như bây giờ chỉ có các con thôi. Nên con hãy nhớ những
gì mẹ kể, những gì người ta đối xử với bố, với mẹ, với nhà mình, để cố
gắng học. Con tuyệt đối không được thất bại, con phải cho mọi người thấy
con đường mình đi là đúng”
(tr. 229). Nghe những lời này của mẹ,
cô gái biết không thể tự cho phép mình bỏ cuộc. Cô đã dấn bước tiếp trên
con đường đã chọn, đã quyết tâm leo hết con dốc Khó Khăn để được “rã
rời” trong hạnh phúc tột độ khi lên tới đỉnh dốc.

Khép lại cuốn tự truyện của mình, Chảo Yến viết: “Tôi không dám
nói tôi là người thành công, nhưng với tôi nụ cười tít mắt của bố mẹ
khoe khắp nơi rằng “Con gái tôi sắp đi Đức học thạc sĩ”, nụ cười của
thầy Lee, thầy Dũng khi nói “Congratulations! Well done, I’m proud of
you”, hay chỉ đơn giản là quyết tâm đi học của một vài em nhỏ ở trường
cấp hai trên bản, đó chính là sự thành công. Thành công còn là cả khi
tôi dám thoát khỏi lớp vỏ bọc, dám mơ ước được bay cao, bay xa như bao
người. Hay đúng hơn, tôi vốn đã thành công ngay từ giây phút tạo hóa cho
tôi được làm con của bố mẹ. Dù có nghèo, có vất vả, nhưng chính hoàn
cảnh đó đã tôi luyện tôi thành một người kiên cường”
(tr. 276).

Có lẽ cả cuốn sách và những lời này của tác giả sẽ truyền được cảm
hứng cho nhiều người đọc. Chảo Yến đã có dự định trích 10% lợi nhuận từ
cuốn sách này để lập một quỹ học bổng dành cho các học sinh nghèo ở quê
mình và cho các sinh viên ở Trường Đại học Lâm Nghiệp nơi cô từng học.




QUÊ HƯƠNG THƯƠNG NHỚ

QUÊ HƯƠNG THƯƠNG NHỚ-LỜI NÓI ĐẦU CHO “MIỀN THƠ ẤU”

Vũ Thư Hiên

Khi đặt bút viết những dòng đầu tiên của cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay, tôi không dám tin rằng sẽ có ngày nó được thấy ánh sáng mặt trời.

Nó ra đời như một may mắn không ngờ, như nhờ một phép màu.
Đối với tôi, nó có ý nghĩa đặc biệt. Một thời, nó đã là người bạn tâm tình, là cái nạng cho tôi vịn vào mà đi trên con đường vô định.

Mùa đông năm 1967 là một một mùa đông giá buốt, ít nhất là cho tôi, trong cái xà lim không có sưởi và không có quần áo ấm. Trong mùa đông ấy, không hiểu vì sao, tôi cảm thấy nhớ quê hương nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cái đầu tiên gợi nhớ đến quê hương là mùi khói cay nồng từ những đống lá mà phu quét đường đốt lên để sưởi, ở bên kia bức tường đá của nhà tù. Ở quê tôi người ta thường đốt những đống rấm như thế để khói ngăn sương muối sà xuống những vườn rau. Mùi khói thoang thoảng lọt vào xà lim gây nên một nỗi nhớ cồn cào, da diết.

Gối đầu trên đôi tay, tôi nằm dài trên phản xi măng lạnh ngắt mà thả hồn về quá khứ, tự hứa thể nào rồi mình cũng phải viết một cuốn sách về cái làng bùn lầy nước đọng quê hương. Cái làng nhỏ nhoi và nghèo khổ ấy gắn liền với thời thơ ấu của tôi, cái thời không mấy hạnh phúc nếu đứng ngoài nhìn vào, nhưng tuyệt đẹp đối với tôi, mà cũng có thể đối với bất cứ ai từng có một cái quê để mà nhớ.

Lúc ấy tôi không nghĩ rằng cuốn sách tôi định viết sẽ được thực hiện không phải ở nơi nào khác, mà trong nhà tù. Ở Hỏa Lò tù nhân bị cấm đủ thứ, nhất là viết, hoặc đọc. Một mẩu giấy báo bị quản giáo phát hiện trong xà lim cũng là một cái tội, người tù giấu nó sẽ bị kỷ luật cùm chân, bị cắt “tiếp tế”. Trong năm tù đầu tiên tôi chưa có đủ kinh nghiệm để biết rằng khi cần thiết người tù có thể làm được những việc anh ta không bao giờ ngờ tới.

Ở trại quân pháp Bất Bạt (Sơn Tây) sự sống trong xà lim còn tệ hơn ở Hỏa Lò. Tôi hoàn toàn bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Nếu ở Hỏa Lò người tù xà lim còn có thể đoán biết được một sự kiện nào đó xảy ra bên kia những bức tường và hàng rào dây kẽm gai nhờ nghe ngóng được động thái của bạn đồng cảnh ở các xà lim cùng khu, thì ở Bất Bạt cái đó hoàn toàn không có. Những người bị giam ở đây, bên cạnh xà lim tôi, thường đã qua thời kỳ hỏi cung (thẩm vấn). Họ yên tâm nằm chờ, tháng này qua tháng khác, mà cũng có thể năm này qua năm khác, nhưng họ có cái để mà chờ: đó là ngày chắc chắn sẽ được ra tòa lĩnh án. Án có thể ngắn, có thể dài, nhưng họ sẽ được trở về khi mãn hạn. Những người tù chính trị, lại là thứ có tên gọi mỹ miều là “xử lý nội bộ”, thì không thể có xử, cứ việc nằm đấy, không chờ.

May cho tôi, ở trại này trong một lần “tiếp tế” vợ tôi lén lút giúi cho tôi một cây bút bi Trung Quốc hai màu. Tôi có một đam mê khó hiểu đối với những cây bút. Vợ tôi biết người ta chẳng đời nào cho tù nhận thứ đồ quốc cấm ấy nhưng đã mang nó cho tôi, tôi sẽ có cách giấu. Tôi vờ xin đi vệ sinh, ở đó tôi kín đáo phá nát cây bút quý giá ấy, chôn những mảnh vỡ của nó xuống đất, rồi luồn hai cái ruột bút bi vào nẹp áo bông để mang vào xà lim.

Cuốn sách bắt đầu từ ấy, mùa thu năm 1969.
Tôi mải mê viết những trang đầu tiên trên vỏ bao thuốc lá, trên giấy kẹo, trên những riềm báo cũ mà gia đình bọc đồ “tiếp tế” (đến lúc đó nhà cầm quyền đã rộng lượng cho phép chúng tôi được giữ lại một số tờ giấy có in chữ, nhưng phải là thứ cũ, hết sạch thời gian tính). Viết phải rất cẩn thận, không được lãng phí những mẩu giấy hiếm hoi, lại phải canh chừng lính gác năm phút mươi phút một lần lượn lờ qua phòng giam để kiểm tra.

Những mẩu “bản thảo” lắt nhắt không thể xếp thành trang, phải đánh số rõ ràng để không lẫn lộn, được gom lại, được cất giấu bằng mọi cách trong cái xà lim nhỏ hẹp. Sau đó là những ngày chờ đợi đến lần được gặp gia đình kế tiếp thì tuồn cho mẹ tôi, vợ tôi mang ra. Khi viết được nhiều, bản thảo tích lại khá dày cũng gây ra mối lo. Mà những cuộc gặp lại khôngcó kỳ có hạn, gia đình muốn gặp thì làm đơn, khi nào người ta rộng lượng cho gặp thì được gặp. Được cái từ năm tù thứ ba trở đi đám quản giáo coi nhà tiếp tế không còn khám xét kỹ mỗi lần tôi được gặp gia đình nữa. Vả lại, chẳng cần khám làm gì – chúng tôi đâu có biết ngày nào tháng nào được gặp vợ con đâu mà chuẩn bị. Tôi bao giờ cũng sẵn sàng, cho nên lần nào gặp gia đình cũng chuyển ra ngoài được một ít bản thảo.

Về sau này, trong xà lim trại Tân Lập (Phú Thọ), việc viết không còn khó như trước, mặc dầu vẫn phải canh chừng để không bị phát giác. Sau nhiều lần yêu cầu kiên trì, chúng tôi thậm chí còn được người ta chiếu cố cho phép gia đình mang cho giấy bút và vài cuốn tiểu thuyết ngoại quốc để đọc.
Cuốn sách hình thành dần dần, từng ít một.

Một lần các nhân viên công an nghi ngờ tôi chuyển gì ra, họ chặn mẹ tôi và vợ tôi lại để khám, nhưng hai người đã mang được những mẩu giấy của tôi ra ngoài trót lọt.

Khi những bản thảo đã gom được kha khá, các em tôi – Vũ Chí Dũng, Vũ Thu Hương và Vũ Thu Hòa – hì hục chép lại. Năm 1976, sau chín năm tù, tôi trở về thì đã có một bản thảo hoàn chỉnh. Các em tôi còn đánh máy ra làm mấy bản sạch sẽ để những người thân đọc.

Mẹ tôi đọc xong, bảo:
– Mẹ thích. Nhưng sách không in được đâu. Một là, tên của con bị cấm. Hai là, chuyện một nhà, một làng, liệu mấy ai quan tâm?
Bố tôi nhận xét:
– Dù sao thì nó cũng ghi lại dấu vết một thời kỳ của nông thôn Việt Nam vùng Thiên Chúa giáo. Cứ để đấy, nó sẽ có ích sau này. Cho những nhà nghiên cứu chẳng hạn.

Tôi không có ý định viết cho những nhà nghiên cứu. Họ chẳng cần đến tôi. Tôi cũng chẳng có ý định viết để in. Tôi viết vì đó là công việc duy nhất mà tôi có thể làm trong sự ăn không ngồi rồi bất đắc dĩ. Tôi viết vì tôi thèm được làm công việc mà tôi yêu thích. Tôi viết, ít nhất thì cũng để cho các con tôi, chúng không biết thời thơ ấu của tôi đã trôi qua thế nào. Mà chắc gì sẽ có ngày tôi kể được cho các con tôi nghe?

Hồi ở trại Bất Bạt tôi không nghĩ tới ngày về. Không ít người đã nằm lại trong các nghĩa trang nhà tù. Những nghĩa trang ấy, thường ở sườn đồi, nếu có đồi, hoặc ở một bãi hoang giữa rừng. Trong cái sự tù của chúng tôi nghĩ tới ngày về là ý nghĩ ngu ngốc.

Ý nghĩ viết cuốn sách để lại cho các con đã làm cho cuốn Miền Thơ Ấu có một sắc thái riêng. Nó là hồi ký, nhưng trong lần in đầu tiên nhà xuất bản đặt nó vào loại tiểu thuyết. Trên bìa sách cũng đề rõ Miền Thơ Ấu – tiểu thuyết. Hồi ấy ở Việt Nam chỉ có loại hồi ký là hồi ký cách mạng, do các lãnh tụ kể cho các nhà văn ghi. Người thường không ai viết hồi ký, không được viết hồi ký. Để nó vào dạng tiểu thuyết thì dễ in hơn.

Còn có một lẽ nữa, là cuốn sách có hình thức giống tiểu thuyết trong cách viết, trong cách miêu tả nhân vật, dựng lại đối thoại. Tuy nhiên, tên người, tên đất trong cuốn này được giữ nguyên, không thay đổi. Người trong họ ngoài làng sẽ nhận ngay ra người quen khi đọc. Mà người làng tôi thì không quan tâm đến chuyện cuốn sách mà họ đọc thuộc thể loại gì.
Tôi cho rằng có thể chép cuộc đời vào sách và tạo ra cho nó một dáng vẻ nghệ thuật, nếu ta nhìn đời theo cách nghệ thuật.

Cuốn sách nằm lâu trong đống giấy má vàng úa của một thời chữ nghĩa. Tôi cũng chẳng có thời giờ để ý tới nó vì còn bận đánh vật với những thí nghiệm, chạy đi chạy lại các cơ quan nhà nước kiếm hợp đồng làm hàng gia công, là việc có ích cho sự kiếm sống. Từ khi ra tù tôi làm đủ mọi thứ nghề tạp nham, trong đó việc sản xuất hàng hoá liên quan tới hóa chất cho các tổ hợp thủ công nghiệp đem lại nhiều tiền hơn cả.

Mãi tới năm 1987, anh bạn Lê Phát, biên tập viên đài Tiếng nói Việt Nam, một người tò mò thích văn chương, đã khui nó ra trong đống giấy má bừa bộn của tôi. Lê Phát đọc một lèo, anh thích nó, bèn đưa cho nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, nơi nhà văn Hà Mậu Nhai làm giám đốc. Hà Mậu Nhai cũng đọc một lèo, rồi nhắn tôi đến chơi. Anh tỏ ý muốn in cuốn sách. Tôi ngăn anh:
– Anh không biết có một chỉ thị cấm in tôi sao ?
– Tôi biết.
– Vậy mà anh vẫn quyết định in ?

Hà Mậu Nhai nói:
– Chừng nào chưa có trước mặt tôi một văn bản pháp luật trong đó ghi rõ quyết định của tòa án cấm không được in Vũ Thư Hiên thì tôi vẫn in. Tôi không ngán những lệnh miệng và những chỉ thị nội bộ. Tôi in, và còn in tên Vũ Thư Hiên to hơn bình thường nữa kia.

Tôi ngần ngừ. Tôi không muốn vì cuốn sách của mình mà bạn mình mang vạ. Hà Mậu Nhai nói chỉ cần tôi đồng ý cho in. Tôi miễn cưỡng đồng ý.
Cuốn sách được in ra. Tên tác giả được in to hơn bình thường, đúng như Hà Mậu Nhai nói. Hà Mậu Nhai là một nhà văn nhưng không có chân trong Hội Nhà Văn. Anh chỉ có chân trong Xã Hội Những Người Tử Tế.

Năm sau Miền Thơ Ấu được giải thưởng loại A của Hội nhà văn Việt Nam, tức là giải nhất, cho sách dành cho thiếu nhi, mặc dầu nhà xuất bản không đưa nó vào danh sách tác phẩm dự thi. Trong chuyện này Hà Mậu Nhai nghĩ như tôi, sách được in ra là tốt rồi, mong gì được giải. Việc trao giải thưởng năm ấy là sự kiện lớn. Đã nhiều năm chuyện xét và trao giải thưởng văn học bị xếp lại, vì chiến tranh, và vì văn chương là cái sự không ra gì, một thứ xướng ca vô loài, dưới mắt các nhà lãnh đạo. Chủ tịch Hội đồng xét giải là nhà văn Tô Hoài. Phùng Quán cũng được giải thưởng, loại B, với tiểu thuyết ba tập Tuổi Thơ Dữ Dội. Hai tên tội đồ, một Xét Lại Hiện Đại, một Nhân văn-Giai phẩm, chiếm hai giải thưởng nhất nhì trong một cuộc thi văn chương, là quá lố. Nhưng đã là năm 1988, hai năm sau khi Đảng cộng sản tuyên bố “đổi mới” và “cởi trói”. Nếu là những năm trước, việc làm ngang bướng của Hà Mậu Nhai ắt bị trừng trị. Anh vẫn ngồi yên trên ghế giám đốc cho tới khi qua đời, ba năm sau.

Giải thưởng này đối với tôi là bất ngờ, không kém gì việc cuốn sách được in ra. Khi mọi người cho tôi biết các báo đều đã đăng tin, tôi mới biết. Việc cuốn sách kể chuyện tầm phào về một làng quê khỉ ho cò gáy mà được giải, lại giải cao, là điều khó tin.

Tô Hoài hiển nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc trao giải lần này. Uy tín của nhà văn già đã thắng tính bảo thủ của các cơ quan lãnh đạo tư tưởng của đảng cộng sản.
Sau đó, đài phát thanh Sài Gòn đọc Miền Thơ Ấu trong chương trình “Đọc truyện đêm khuya”, nhà xuất bản Kim Đồng ỏ Hà Nội tái bản một lần, rồi hai lần…

So với bản thảo, cuốn Miền Thơ Ấu trong lần in đầu tiên được rút gọn còn một nửa theo yêu cầu của nhà xuất bản. Vì không có giấy. Giấy vào những năm ấy đắt khiếp đảm.

Lần xuất bản sau ở hải ngoại không thiếu giấy nhưng lại thiếu những trang bản thảo bị bỏ ra nọ. Chúng nằm lại ở Việt Nam, cách tôi quá xa, không phải xa theo khoảng cách địa lý, mà bởi những khó khăn. Tôi cũng không tìm cách bổ khuyết. Cuốn sách đã có cuộc sống riêng của nó, diện mạo của nó. Chưa chắc gì một sự thay đổi sẽ làm cho nó đẹp hơn. Những gì bị bỏ ra ngoài trong lần xuất bản đầu tiên rồi sẽ được đặt vào một lần xuất bản khác, hoặc một chỗ khác.

Câu chuyện về một chú bé trong cuộc gặp gỡ với quê hương của chú đã tìm được độc giả của nó. Thì ra quê hương của một người, nếu nói về nó bằng tình yêu chân thật, từ trái tim mình, thì cũng mang dáng dấp quê hương của bất kỳ ai khác, trong sự đồng điệu của tâm hồn.
Tôi bao giờ cũng nhớ về tuổi thơ của mình với tất cả niềm thương yêu dịu dàng, bởi vì tuổi thơ của ai cũng vậy, nó chứa đựng những tình cảm đẹp nhất mà cuộc đời có thể cho ta, khi nắng bao giờ cũng lấp lánh và gió bao giờ cũng ngát hương. Nơi miền đất tuổi thơ, mỗi đám mây bay ngang cũng gợi ta hình dung ra những xứ sở xa xôi từ đó nó bay đến, mặt trăng rằm nào cũng bắt ta phải ngắm nhìn để tìm ra bóng dáng cây đa với chú Cuội cổ tích, thậm chí một con chuồn chuồn ngô cũng có phép màu làm cho ta biết bơi.

Bạn đã bao giờ cho chuồn chuồn ngô cắn rốn chưa? Nếu bạn đã được một con chuồn chuồn ngô cắn rốn một lần để được sặc sụa một lần trong dòng sông quê hương thì bạn là người hạnh phúc đấy.
Tôi đã đọc những dòng viết ấm áp và chân thành, và lạ thay, bao giờ cũng đầy nuối tiếc, về tuổi thơ trong sáng của mình nơi Lev Tolstoi, Maxim Gorky hay Paul Vaillant Couturier.

Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô dạy: “Hãy như con trẻ!”
Tôi chưa được nghe lời nào thông thái hơn.

Nếu tất cả những con người sống trên mặt đất này biết nâng niu gìn giữ trái tim con trẻ trong mình thì chúng ta đã không phải chứng kiến những gì xấu xa mà chúng ta phải chứng kiến: chiến tranh, nhà tù, và mọi sự hành hạ mà con người hàng ngày gây ra cho đồng loại.

Bằng cuốn sách bé nhỏ này, tôi muốn chia sẻ với bạn đọc tình cảm trìu mến đối với những gì quý báu nhất trong cuộc đời, những gì bạn và tôi đều có nhưng chóng quên, ở một miền thơ ấu của mỗi chúng ta.

Vũ Thư Hiên




Tâm sự của một người yêu Sài Gòn đến bất chấp

Tâm sự của một người yêu Sài Gòn đến bất chấp

“Vọng Sài Gòn” là một tâm sự ngút lòng của một người yêu Sài Gòn đến bất chấp. Nhưng Trác Thúy Miêu đâu chỉ yêu, mà muốn kêu gọi tình yêu ấy từ những người trẻ.

Trác Thúy Miêu (tên thật Vũ Hoài Phương) vốn được biết đến như một người có tính cách độc đáo. Cô không chỉ là nhà báo với ngòi bút sắc sảo, một MC có phong cách đặc trưng không lẫn vào đâu, mà còn là một thị dân yêu nồng nhiệt, yêu dữ dội đến bất chấp thành phố mình đang sinh sống. Tình yêu cuồng nhiệt ấy đã được cô gửi gắm vào trong tập tản văn vừa mới xuất bản Vọng Sài Gòn, như là một cách giữ gìn ký ức cho bản thân và những người đồng điệu.

Tam su cua mot nguoi yeu Sai Gon den bat chap hinh anh 1 17760895_10203258432937286_784245843635762483_o.jpg
Nhà báo, MC Trác Thúy Miêu. Nguồn: Facebook nhân vật.

Vọng Sài Gòn (sách do NXB Hội Nhà văn và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam liên kết xuất bản và phát hành) là đứa con đầu lòng của Trác Thúy Miêu. Cuốn sách tập hợp nhiều bài viết trong nhiều năm về miền đất mà cô đã gắn bó suốt hơn 40 năm.

Với Vọng Sài Gòn, Trác Thúy Miêu muốn cho thấy đằng sau sự hào nhoáng của giải trí truyền hình là một Trác Thúy Miêu với sứ mệnh của người cầm bút. Và ở trong địa hạt này, cô tiếp tục sự bền bỉ của mình trong việc gìn giữ Sài Gòn (cô đã làm việc này trong nhiều hoạt động khác nhau) theo cách rất riêng, như cách cô định tính cho Sài Gòn từ chính nhân xưng của nó. Mỗi miền đất hay mỗi con người, nếu mà thuộc tính đặc thù quá đặc biệt thì danh từ gọi miền đất hay con người ấy một ngày nào đó sẽ trở thành tính từ. Sài Gòn có những thuộc tính đủ để gọi một ai đó, một hành xử nào đó, một văn hóa sống “rất Sài Gòn”.

Cái riêng của Trác Thúy Miêu trong Vọng Sài Gòn còn là sự đột phá trong phong cách thể hiện, sự táo bạo trong các ý tưởng, sự ngồn ngộn của chữ nghĩa… Chẳng phải ngẫu nhiên mà trong chia sẻ về tập tản văn này (in cuối cuốn sách), MC, diễn viên Liêu Hà Trinh đưa ra nhận xét: “Nếu bạn đang tìm một nàng thơ áo trắng, đạp xe tới Dinh Độc lập trên con đường Trưng Vương đầy lá me, hay những hợp xướng ngợi ca cho sức sống trai trẻ tráng kiến của 300 năm thành phố, rất tiếc phải nói bạn tìm nhầm chỗ.

Tam su cua mot nguoi yeu Sai Gon den bat chap hinh anh 2 6g0Fstu.jpg
Bìa cuốn sách Vọng Sài Gòn

Miêu ví Sài Gòn như một ả đàn bà vừa hồn nhiên vừa giảo hoạt. Phép so sánh đó có phần phiến diện đó hy vọng không làm người đọc khó chịu. Bản thân tác giả cũng đóng vai xuất sắc vào thân phận đào hoa của một ả mỹ nhân “dễ bỏ khó quên” với những dẫn chứng hùng hồn chắc nịch khiến người ta khó nghĩ khác”.

Là một người có óc quan sát, trí nhớ đặc biệt tốt, Trác Thúy Miêu đã dùng ký ức của mình để chụp lại những hình ảnh đắt giá về Sài Gòn. Ở đó, cô đưa người đọc về những kỷ niệm và tâm thức Sài Gòn kiểu cũ, Sài Gòn tập làm quen với một giai kỳ mới trong thập niên 1980 với cái sức sống vừa trẻ trung, vừa hoài cổ, Sài Gòn trong vô số những cuộc đại phẫu, tiểu phẫu dọc ngang trong một vài thập niên trở lại đây, hay Sài Gòn hiện tại, một thành phố năng động đang chuyển mình, phát triển từng ngày…

Có rất nhiều thứ được Trác Thúy Miêu mô tả trong Vọng Sài Gòn, bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đôi khi cường điệu nhưng rất hợp lý. Đó là những đường nét bút vẽ tranh truyện của 02 họa sĩ Văn Minh và Đức Lâm trên báo Khăn Quàng Đỏ trong những năm 1980; sự kết thúc thói quen đọc truyện diễm tình của chị em phụ nữ bình dân có từ thập niên 1960 khi video phim bộ và truyền hình nội hóa xuất hiện; mùi hương mang đặc tính của Sài Gòn và loại nước hoa Oriental mang phong vị phương Đông từ thập niên 1920, ảnh hưởng đối với Sài Gòn đến mãi về sau này.

Tam su cua mot nguoi yeu Sai Gon den bat chap hinh anh 3 2.jpg
Chợ Hoa Nguyễn Huệ nhìn từ trên cao, 1990. Ảnh: Doi Kuro

Đó là một thành phố khi không còn mang tên Sài Gòn; những cư dân xuất hiện ở thành phố qua quan sát của Trác Thúy Miêu ở tuổi mới lớn, đầu thập niên 1990 mà cô gọi nôm na “Kỷ phục sinh – đánh dấu thời kỳ Việt Nam bắt đầu hé vào cuộc mở cửa khá tưng bừng, sau hơn một thập niên khóa kín”; cuộc hồi hương của những cựu thị dân đã nghiễm nhiên trở thành những kiều bào yêu nước, là màn khai sinh ổ ạt của những huyền thoại thời vụ như taxi vàng, điện thoại công cộng; sự tàn lụi của sân khấu cải lương; món nghêu phô mai đốt lò; tính hay chuyện của dân Sài Gòn…

Đó là câu chuyện nền văn minh mì Tàu Chợ Lớn, nghiệp vận của Thiên Hương, huyền thoại Miliket, Vị Hương giấy kraft; những gánh nhạc rong góp phần lưu truyền dòng nhạc đặc thù của Sài Gòn – dòng nhạc vàng, hay bolero; giọng đàn tình tứ vô ngôn của ghi ta vô thường; chiếc áo dài Sài Gòn đúng kiểu, mang nét bản địa đặc thù của Sài Gòn, đôi tà áo đặc biệt một thời đã làm nên cốt cách xứ ngọc Viễn Đông…

Đó là từ kịch nói đến phim trường, phòng trà đến vũ trường, kỷ niệm 30/4 cho đến lễ Giáng sinh; thương xá Tax bị phá bỏ đến hàng cây đường Tôn Đức Thắng bị đốn gục… Cứ thế, theo dòng cảm xúc với những ký ức vọng về, Trác Thúy Miêu kể tỉ mỉ về những điều mình quan sát thấy, những cảm nhận hết sức tinh tế về Sài Gòn như một kẻ si tình.

Có thể nói, Vọng Sài Gòn là một tâm sự ngút lòng của một người yêu Sài Gòn đến bất chấp. Nhưng Trác Thúy Miêu đâu chỉ yêu, mà muốn kêu gọi tình yêu ấy từ những người trẻ, như người đi truyền giáo, đạo của người yêu Sài Gòn. Cô nhắn họ hãy “Yêu thương mê đắm và hồn nhiên. Yêu không cầu hơn thua cao thấp, yêu bất luận xuất xứ nhân thân. Yêu khỏi ai hô hào thi đua phấn đấu”.




Ra mắt sách “Con Đường Phượng Vĩ”

     Ra mắt sách “Con Đường Phượng Vĩ”

Chiều Chù nhật 8 tháng 10, hồi 2PM tại Hội trường Câu Lạc Bộ Mây Bốn Phương đường số 2, thành phố San José, bắc California, buổi Ra mắt tác phẩm Con Đường Phượng Vỹ của Nhà Văn Tôn Nữ Áo Tím, đã được tổ chức và khai mạc với sư tham dự của hàng trăm đồng hương và thân hữu, có người đến từ Texas, Nam Cali và các thành phố phụ cận.

 
Thời tiết đẹp, không khí ấm áp, dễ chịu, nhưng vào cùng ngày giờ này có nhiều sinh hoạt khác tại địa phương, nên một số bạn bè của tác giả đã gọi phone xin lỗi, rất tiếc đã không đến tham dự được.
 
Tác giả Tôn Nữ Áo Tím là ái nữ của Nhà Văn Hoàng Diệp,- Thư ký Viện Đại học Huế ngày xưa – Cựu Nữ sinh Đồng Khánh và Đại học Huế, Tôn Nữ Áo Tím được sinh ra trong một gia đình mà các Anh Chị Em đều có máu Văn nghệ, ca hát, làm thơ, viết văn. Tác phẩm Con Đường Phương Vĩ của Cô là là tập truyện đầu tay với một số truyện ngắn, tuỳ bút với dòng văn chương bình dị nhưng mang đầy những suy tư về cuộc sống, nhất là hình ảnh cuộc đổi đời đầy cay nghiệt sau khi CS chiếm trọn miền Nam. Nhà Văn Song Nhị, Diên Nghị và Ngô Đức Diễm đã giới thiệu tác phẩm, Tác giả với những dòng cảm nghĩ thật đẹp.
 
Sau đây là một số hình ảnh chúng tôi ghi lại  xin được gửi đến Quí Bạn Xa gần, để gọi là chia chút niềm vui với tác giả Tôn Nữ Áo Tím, về một buổi Ra măt tác phẩm khá thành công, vào thời điểm mà chuyện ra mắt sách bây giờ càng ít thu hút người tham dự.
 
                      












 



Hà Thúc Ký : SỐNG CÒN VỚI DÂN TỘC

 

Đôi giòng giới thiệu tác phẩm

SỐNG CÒN VỚI DÂN TỘC

Hồi Ký Chính Trị Của Cụ HÀ THÚC KÝ

Image result for Hà Thúc Ký image

 

 

 NGUYỄN VẠN BÌNH

 

Tác phẩm“Sống Còn Với Dân Tộc”  hồi ký chính trị của cụ Hà Thúc Ký, một nhà cách mạng, một lãnh tụ cao cấp của đảng Đại Việt sẽ được các thân hữu của cụ cho ra mắt tại hội trường TownHomes America Community tọa lạc tại 1955 Quimby Road, San Jose (góc đường Quimby và Tully)  vào 2 giờ 30 trưa ngày thứ bảy 10-10-2009 tới đây.Buổi ra mắt tác phẩm nầy cũng nhằm  tưởng niệm một năm ngày cụ qua đời ngày 16-10-2008 tại tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ.

Với tựa đề của tác phẩm “Sống Còn Với Dân Tộc” và nội dung là hồi ký chính trị của một nhà cách mạng, một chính trị gia, thế nên tác phẩm của cụ đã liên quan  đến cuộc sống thăng trầm của bản thân cụ , đồng thời cũng đã ghi lại những biến động của đất nước Việt Nam trong cuộc sống của cụ.Chính vì thế, tác phẩm “Sống Còn Với Dân Tộc” đã có một giá trị về khía cạnh đấu tranh của người Việt Quốc Gia trong giai đoạn chống thực dân Pháp, chống Cộng Sản thời cận đại từ năm 1930 đến nay.

Đọc qua nội dung của tác phẩm “Sống Còn Với Dân Tộc”, người ta thấy rõ nơi cụ Hà Thúc Ký một tấm lòng yêu quê hương và dân tộc Việt. Cụ đã bày tỏ lập trường chính trị kiên định của mình là một người Quốc Gia yêu chuộng sự tự do, dân chủ và bảo vệ nền độc lập của nước nhà.Cụ chủ trương chống bọn thực dân Pháp cũng như lên án chế độ độc tài Cộng Sản Việt Nam.

Được biết cụ Hà Thúc Ký sanh năm 1920 tại Thừa Thiên.Tốt nghiệp kỷ sư Thủy Lâm.Năm 1943 cụ làm phó quận trưởng Thủy Lâm tại Cà Mau. Vào tháng 9 năm 1945, cụ tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp tại Mặt Trận Lào.Tháng 2 năm 1946, cụ rời bỏ hàng ngũ kháng chiến ra Hà Nội và gia nhập đảng Đại Việt do đảng trưởng Trương Tử Anh sáng lập.Năm 1950,  cụ được bổ nhiệm làm Xứ Bộ Trưởng Miền Trung.Năm 1953, cụ được bầu vào Hội Đồng Chủ Tịch Trung Ương Đảng Bộ Đại Việt.

Năm 1954, cụ tham gia Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình.Năm 1955, vì bất đồng chính kiến với chính phủ Ngô Đình Diệm và vì có liên quan đến vụ biến động Ba Lòng ở miền Trung, cụ đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên án khiếm diện chung thân khổ sai. Đến tháng 11 năm 1958 cụ bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt và bị biệt giam cho đến sau ngày đảo chánh 1-11-1963 mới được thả tự do.

Năm 1963, cụ tham gia Hội Đồng Nhân Sĩ .Năm 1964 cụ là tổng trưởng nội vụ.Nhưng chỉ được vài tháng, cụ lại từ chức vì bất đồng chính kiến với đại tướng Nguyễn Khánh. Tháng 5 năm 1965 cụ ra  một Bản Tuyên Ngôn 9 điểm đòi thực hiện đại đoàn kết quốc gia để cải cách về kinh tế, chính trị và xã hội.

Tháng 12 năm 1965, đảng Đại Việt Cách Mạng được thành lập và cụ được đại hội đề cử làm Tổng Bí Thư .Tháng 9 năm 1967, cụ cùng ông Nguyễn Vặn Định ra ứng cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống. Sau tết Mậu Thân 1968, cụ vận động 6 đảng quốc gia có thực lực để thành lập Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xã Hội nhằm tạo sức mạnh để chống Cộng Sản Bắc Việt.Năm 1972, cụ cùng giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và ông Trần Quốc Bửu thành lập Mặt Trận Tự Quyết.

Ngày 30-4-1975, khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm được miền Nam, cụ cùng gia đình vượt biển bằng tàu Trường Xuân và đến định cư tại Hoa Kỳ.Năm 1978, cụ cùng một số nhân sĩ, đảng viên Đại Việt, các bạn trẻ thành lập Mặt Trận Việt Nam Tự Do , đồng thời củng cố những cơ sở của Đại Việt Cách Mạng Đảng. Trong 3 kỳ đại hội đảng năm 1995, 1999 và 2003 của Đại Việt Cách Mạng Đảng, cụ được đại hội bầu làm Chủ Tịch Đảng. Cụ qua đời ngày 16-10-2008 tại tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ hưởng thọ 89 tuổi.

Tác phẩm “Sống Còn Với Dân Tộc” dầy 400 trang, bìa cứng, trình bày trang nhã kèm theo một số hình ảnh của tác giả và sinh hoạt của đảng Đại Việt.

Trong phần mở đầu của tác phẩm, cụ Hà Thúc Ký cho biết cụ tôn trọng sự thật, những gì cụ viết ra đều là người thật, việc thật.Vì thế, nếu có phê bình một số nhân vật , nhận định một số dữ kiện , thì  cụ luôn đứng ở vị thế khách quan, cốt để nêu ra điều ngay lẻ phải mà thôi.

Nhận định về thời gian gia nhập kháng chiến, cụ  Hà Thúc Ký cho biết cụ lên đường tranh đấu với một tâm hồn trong sáng, không vướng mắc định kiến chính trị, không bận bịu gia đình và không tơ tưởng bã lợi danh. Nhưng chỉ qua một thời gian ngắn, cụ đã tỉnh thức qua hành vi tỵ hiềm cá nhân, kỳ thị giai cấp của một ủy viên chính trị cộng sản, nên cụ đã dứt khoát rời bỏ hàng ngủ kháng chiến, nơi mà đảng CSVN đã lợi dụng lòng yêu nước của đồng bào chống Pháp, nhưng chủ đích là mưu đồ bành trướng chủ nghĩa cộng sản quốc tế hầu đưa đất nước vào vòng nô lệ Nga, Tàu.

Nhận định về Cựu Hoàng Bảo Đại, cụ Hà Thúc Ký cho biết có nhiều giai đoạn cụ không đồng ý về cung cách lãnh đạo của cựu hoàng, nhưng không bao giờ chống đối hay công khai chỉ trích. Theo cụ thì cựu hoàng Bảo Đại cũng có công lao không nhỏ với đất  nước trong giai đoạn 1945-1955  qua việc tranh thủ với Pháp để giải tán chính phủ Nam Kỳ tự  trị; thành lập lưc lượng liên tôn chống Cộng.

Nhận định về cá nhân tổng thống Ngô Đình Diệm, cụ Hà Thúc ký cho biết cá nhân cụ khi còn là sinh viên đã từng ngưỡng mộ ông Diệm.Cụ có cảm tình với ông Diệm trước hành động từ chức Thượng Thư vì không không muốn bị lệ thuộc vào bọn thực dân Pháp.Cho đến khi ông Ngô Đình Diệm nắm vai trò tổng thống thì cụ lại bị bắt bỏ tù.Cho đến nay, cụ cho biết mỗi khi nghĩ  đến việc tổng thống Diệm bị sát hại thì cái thiện cảm mà cụ đã dành cho ông Diệm lúc  thời sinh viên lại trở lại. Cụ Hà Thúc Ký cho biết mỗi khi nghĩ đến tổng thống Diệm, cụ vẫn bùi ngùi tiếc thương cho con người suốt đời nặng lòng lo toan cho đất nước.

Nhận định về cá nhân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cụ Hà Thúc Ký cho biết ông Thiệu tuy là người khôn ngoan, nhưng lại quá ỷ vào Mỹ, nên dần dà để mất chủ quyền quốc gia, rồi đưa đến sự bại trận của Việt Nam Cộng Hòa khi bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi.

Nhận định về vai trò của Hoa Kỳ ở Việt Nam, cụ Hà Thúc Ký cho rằng chính sách của Mỹ luôn luôn là ngăn chận cộng sản.Qua từng giai đoạn, trước tiên Mỹ giúp Pháp chống Việt Minh, sau đó ủng hộ giải pháp Bảo Đại, ủng hộ giải pháp Ngô Đình Diệm và cuối cùng can thiệp trực tiếp bằng cách gởi quân sang Việt Nam. Tất cả chỉ tùy thời đưa ra lập luận nầy hay lập luận khác, chứ chưa bao giờ thực sự là vì dân tộc Việt Nam.Việc chủ trương Việt Nam Hóa chiến tranh chỉ là phương thức để qút quân ra khỏi Việt Nam trong danh dự. Nhưng theo cụ danh dự của cường quốc Hoa Kỳ đã hoen ố bởi quyết định bỏ rơi Miền Nam Việt Nam.Đây là một vết nhơ trong lịch sử của Hoa Kỳ.

Nhận định về đảng Cộng Sản Việt Nam, cụ Hà Thúc Ký cho rằng sau hơn 30 năm cai trị miền Bắc và trên 30 năm cai trị toàn lãnh thổ Việt Nam, đảng CSVN đã chứng tỏ họ đã không có đủ khả năng để giải quyết những vấn đề dân sinh căn bản cho người dân.Cụ cho biết trên bình diện quốc tế, sự thực trước mắt đã chứng tỏ rõ rệt là chủ nghĩa Cộng Sản sai lầm đã bị phá sản.

Đối với các đảng viên của đảng Đại Việt, cụ Hà Thúc Ký đã có lời tâm huyết nhắn nhủ là con đường chông gai mà các anh chị em đã đi qua từ mấy chục năm qua , kế tục truyền thống cách mạng của cố đảng trưởng Trương Tử Anh là con đường chính nghĩa. Anh chị em hãy mạnh dạn cố gắng tiếp nối trên con đường đó cho đến ngày đất nước thực sự có Tự Do, Dân Chủ.

Sau cùng, với niềm tin lạc quan, cụ Hà Thúc Ký tin vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc Việt. Cụ cho biết  “Đất có tuần, dân có vận” có lẻ nào “vận’ của người dân Việt Nam đen đủi mãi.

Tóm lại, qua văn phong giãn dị cùng tấm lòng cởi mở và khách quan nhằm nêu lên những sự thật của lịch sử, cụ Hà Thúc Ký đã để lại cho thế hệ trẻ những tài liệu qúi báu .

Xin chúc cho buổi ra mắt tác phẩm ‘Sống Còn Với Dân Tộc” của cụ Hà Thúc Ký được thành công và nguyện xin hương linh của cụ Hà Thúc Ký, người luôn quan tâm đến vận mệnh của đất nước và dân tộc Việt được an lành về cõi Phật.

Mọi thắc mắc về buổi ra mắt tác phẩm “Sống Còn Với Dân Tộc”, xin liên lac về ban tổ chức:  (209) 430 – 9178 hay (408) 667-0961.Email: hoangmai2006@sbcgloabl.net ª

NGUYỄN VẠN BÌNH

 

 

 




Ra mắt hai tác phẩm NỢ EM MỘT ĐỜI & ĐÔI MẮT BIỂN của tác gỉa Chinh Nguyên

Hai tác phẩm mới in ấn và sẽ ra mắt tại Bắc và Nam Cali.

1/ Tại Bắc Cali vào ngày đại hội trao giải Văn Thơ Lạc Việt, chiều 
Chúa Nhật tại hội trường trường Trung Học Yarba Buena Nov. 2, 
2014 từ 1:00 PM tới 6:00 PM.

2/ Tại Nam Cali vào chiều ngày chúa nhật tại hội trường Thời Báo 
Nov. 9, 2014 từ 1:00PM tới 5:00 PM

Xin quý vị vào link dưới để mua sách, hoặc bảo trợ cho sinh hoạt Văn Thơ Lạc Việt. Thành thật cám ơn.

https://www.paypal.com/cgi-bin/webscr?cmd=_s-xclick&hosted_button_id=S5YH6RTJT6GEC

*******************************************

THAY LỜI BẠT: NỢ EM MỘT ĐỜI

Kiều Mỹ Duyên

May mắn được quen nhiều đồng hương ở VN cũng như ra hải ngoại, hàng tuần tôi được nhiều quà đến từ khắp nơi như nhạc, truyện, thơ v.v.
Đáp lại ân tình của bằng hữu người tôi đã gặp cũng như người chưa gặp, tôi đọc ngay những tác phẩm của họ bằng bản thảo hoặc những quyển sách vừa in còn thơm mùi mực.
Những tác phẩm hấp dẫn tôi, tôi đọc ngay trong ngày được tặng, điều làm cho tôi đọc miệt mài đọc một lần xong tác phẩm không đợi ngày mai sẽ tiếp, đó là tình người, đọc và cảm xúc, tôi thích những tác phạm người thật việc thật, lời văn ngắn gọn, không dài dòng văn tự, có lẽ sống ở đây ai cũng vội vàng làm nhiều việc trong một ngày, ngày nào cũng phải làm cho xong việc đó.
Tác phẩm của Chinh Nguyên tình cảm ướt như nước mưa, tình người phụ nữ trong thời chiến với người tình là lính chiến,thủa chiến tranh, cách biệt, chia lìa, mơ ước từng giây từng phút để được gặp nhau của những người yêu nhau, thật sự yêu nhau, yêu nhau tha thiết không biết ngày mai ai còn ai mất, yêu trong đợi chờ, tội nghiệp người phụ nữ trong thời chiến, hầu hết những truyện ngắn của Chinh Nguyên trước 1975 cũng như sau ngày 30 tháng 4/1975 cũng nồng nàn cũng ướt át, viết cho người đọc hay viết cho chính mình để nói lên ơn nghĩa của người lính chiến VNCH với người con gái yêu mình thật thiết không ai biết ngoài tác gỉa ?
Đọc truyện của Chinh Nguyên để cảm thấy mình hiện diện trong truyện hay thay người thân của mình trong truyện như chuyện về cha mẹ của mình, người mẹ tảo tần nuôi con nên người trong thời kỳ giặc gĩa mà nuôi nổi con mình tốt nghiệp đại học, tôi ngưỡng mợ và thương những người phụ nữ suốt đời vì chồng vì con mà sống. Hạnh phúc của chồng con là hạnh phúc của chính mình.
Chuyện của Chinh Nguyên chuyện nào cũng đậm đà tình cảm, tình phụ tử, mẫu tử, tình anh chị em, tình chiến hữu và cuối cùng tình cảm ướt át nhất vẫn là tình cảm của người nam và nữ.
Chuyện của Chinh Nguyên , chuyện nào cũng buồn, 
Nỗi nhớ mong manh, Nỗi buồn, Giọt buồn, Diễm Diễm, Nợ em một đời,Có phải là nỗi đau, Mắt Nhung , Sàigòn ơi. 
Đọc truyện của Chinh Nguyên để buồn theo tác gỉa,ngậm ngùi những nỗi đau thương, ngay cả thơ cũng buồn, Đọc để mà buồn, để mà nhớ vể thân phận con người trong chiến tranh, sau chiến tranh, thân phận của những người tù còn sống sót để trở về.
Rời khỏi nhà tự tìm đường vượt biển, tìm Tự Do, thơ Khát Vọng Tự Do cũng buồn, hình như nỗi buồn đi theo nhà thơ, theo nhà văn Chinh Nguyên đến suốt đời, nói chuyện thì vui vẻ, yêu đời, làm việc tích cực trong những công tác xã hội, mà sao Chinh Nguyên buồn quá trong thơ văn?
Xin trân trọng giới thiệu tập truyện đầy tình cảm của Chinh Nguyên đến với quý độc gỉa, nên đọc chuyện trong lúc đang vui, để thấy mình hạnh phúc hơn tác gỉa, để thấy mình may mắn hơn tác gỉa .
Và lúc nào tôi cũng cầ
u nguyện cho sự may mắn đến với những người cầm bút nhất là Chinh Nguyên, một cựu tù nhân nhưng vẫn còn tích cực hoạt động trong cộng đồng Việt Nam về thi văn, xã hội. 
Mơ ước in sách của những tác gỉa trong nước đang sống đọa đày, bị bủa vây kinh tế, và cũng mong giấc mơ của Chinh Nguyên thành sự thật, để cho những nhà văn, nhà thơ trong nước trước khi gĩa từ cõi tạm được nhìn thấy tác phẩm của mình được in, được đến với đồng hương,và được quý đồng hương ở hải ngoại yêu chuộng.
Tác phẩm là đứa con yêu quý của tác gỉa, tác gỉa đã để hết tâm huyết của mình trong tác phẩm, nếu tác phẩm được đón nhận một cách nồng nhiệt là món quà quý gía nhất của tác gỉa, hy vọng tác phẩm buồn của Chinh Nguyên sẽ được nhiều người đón nhận môt cách nồng nhiệt để tác gỉa vui vẻ viết tiếp, in tiếp và in sách của mình và sách của bằng hữu để độc gỉa thưởng thức về tình ngươi, tình bạn, tình gia đình và tình đồng hương.

KIỀU MỸ DUYÊN




HOẠN NẠN CA CỦA GIÁO SƯ PHẠM QUANG MINH

 

HOẠN NẠN CA

CỦA GIÁO SƯ PHẠM QUANG MINH:

 

•Một cáo trạng đối với đảng CSVN

•Một tác phẩm giá trị trên cả ba khía cạnh: đấu tranh, văn học và lịch sử

•Sẽ được ra mắt tại San Jose vào ngày 24-0-2009

 

 NGUYỄN VẠN BÌNH

 

Tác phẩm trường thi Hoạn Nạn Ca của giáo sư Phạm Quang Minh sau khi ra mắt thành công tại Paris, Pháp quốc ngày 24-5-2009 với số lượng người tham dự đông đảo và số sách bán ra ngoài sự ước đoán của tác giả.Nay ông sẽ cho ra mắt tác phẩm nầy tại hội trường của quận hạt Santa Clara, 70 Hedding, San Jose vào 1 giờ trưa ngày 24-10-2009 tới đây.

            Được biết giáo sư Phạm Quang Minh sanh năm 1945 tại Quảng Nam, miền Trung Việt Nam.Ông đã tốt nghiệp tiến sĩ Toán.Trước năm 1975, ông dạy Toán tại

các đại học Khoa Học Sàigòn, Bách Khoa Thủ Đức, Cộng Đồng Duyên Hải Nha Trang và Thành Nhân.Sau năm 1975, ông dạy tại các trường University of San Francisco (79-82) và Columibia Pacific University (80-86). Ông là tác giả của 10 cuốn sách giáo khoa về Tân Toán Học,về  Lượng Giác, về Giải Tích, về Đại Số Học.Tuy dạy về Toán, nhưng giáo sư có thiên bẩm về thơ văn.Ông rất yêu và làm thơ từ thuở nhỏ.Nhưng điểm đáng nói hơn cả là tinh thần Quốc Gia chống Cộng và sự dấn thân đấu tranh cho sự tư do, dân chủ của ông.Giáo sư Minh luôn quan tâm đến nạn xâm lăng của Tàu Cộng đối với Việt Nam trong quá khứ cũng như hiện nay.

            Tác phẩm Hoạn Nạn Ca dày 550 trang, bìa cứng, trình bày trang nhã với 4 trang thư họa của thi họa sĩ Vũ Hối cùng rất nhiều hình ảnh lịch sử giá trị. Đặc biệt qua câu chuyện hoạn nạn của ba nhân vật Dương Lan Hương cũng nhằm nói lên sự hoạn nạn của quê hương và dân tộc Việt Nam đã được ông diễn tả một tài tình và điêu luyện  qua 6364 câu thơ  lục bát. Hoạn Nạn Ca đã đạt được mục đích là nêu lên sự thật lịch sử của đất nước và sẽ phổ biến rộng rãi đến mọi người bằng những vần thơ lục bát dễ hiểu, dễ nhớ.

            Nội dung của trường thi Hoạn Nạn Ca gồm có 4 phần:

I-          Thư Mở Đầu

II-        Nhận Định và Nhân Sinh Quan, Lời Cảm Tạ và Cốt Truyện

III-       Hình ảnh phụ đính

IV-       6364 câu thơ lục bát

 

Trong phần phát biểu tâm tình khi ra mắt tác phẩm tại Paris, Pháp quốc, tác giả Phạm Quang Minh đã cho biết mục đích của trường thi Hoạn Nạn Ca là:

1-Nhằm ghi lại sự thật của lịch sử của dân Việt nhằm xóa tan những sự kiện bóp méo do CSVN đưa ra. Ông nêu cao chính nghĩa Quốc Gia dân tộc là tinh thần yêu chuộng sự tự do, thanh bình và quyền tự quyết độc lập của nước nhà.

2- Nêu ra nhân sinh quan và triết lý sống của dân tộc Việt và niềm tin tưởng vào nơi Thượng Đế. Theo ông, Thượng Đế rất chí ái, chí minh và chí công đã sắp xếp mọi sự.Ông đề cao sự hữu thần vì cho rằng chủ trương vô thần của chủ thuyết cộng sản là đồng nghĩa với sự vô luân và bạo tàn.Với niềm tin vào Thượng Đế, ông vững tin rằng sự hạnh phúc tươi sáng sẽ về với dân tộc Việt. Bởi vì: “Hết cơn bỉ cực thì đến thời thái lai”. Vì theo ông khi sự hoạn nạn càng cao thì sự an lành do Thượng Đế ban cho dân Việt sẽ càng vinh quang.

Trong Hoạn Nạn Ca, tác giả Phạm Quang Minh qua hồi ký Dương Lan Hương đã ghi lại những đau thương của mọi gia đình , của quê hương qua các biến cố  1954 chia đôi đất nước cũng như ngày quốc hận 30-4-1975, khi cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm được miền Nam Việt Nam.Ông cũng ghi  ơn những sự hy sinh cao quí của hàng trăm ngàn quân nhân QLVNCH trong cuộc chiến bảo vệ nền tự do cho miền Nam Việt Nam.

Nhận định về trường thi Hoạn Nạn Ca, giáo sư Cao Thế Dung đã cho biết: Hoạn Nạn Ca ra đời , gọi là hồi ký với 6364 câu thơ lục bát, nhưng không phải là hồi ký của riêng của một đời người mà là thân phận của một dân tộc Việt Nam trong “gió táp, mưa sa” cả một dặm trường bão tố, bao tang thương biến đổi chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.Giáo sư Phạm Quang Minh đã trở thành nhà thơ của tâm thức và tâm hồn dân tộc.Theo giáo sư Cao Thế Dung thì Hoạn Nạn ca còn là một bản cáo trạng tuyệt vời của giáo sư Phạm Quang Minh đã dành cho chế độ độc tài CSVN.

Cố học giả Vũ Ký lúc sinh thời đã nhận định rằng thường có những tác giả rất ít viết sách.Nhưng những quyển sách được viết ra bởi họ thường lại rất giá trị.Hoạn Nạn Ca của giáo sư Phạm Quang Minh là một trong những quyển sách đó.

Học giả Lê Mộng Nguyên, hội viện của Hàn Lâm Viện Pháp đã nhận định rằng Hoạn Nạn Ca là một trong những công trình văn học vĩ  đại của nền văn học nước nhà.

Được biết hoài vọng của giáo sư Phạm Quanhg Minh khi cho xuất bản tác phẩm Hoạn Nạn Ca là muốn lưu lại cho thế hệ đàn en, đàn cháu  hiểu rõ sự thật lịch sử của đất nước Việt Nam.Từ đấy, mọi người, già, trẻ cùng nhau bắt tay , hợp tác đấu tranh để đem dân tộc, đất nước ra khỏi cơn hoạn nạn và đem khải hoàn ca  về với với dân Việt.

Được biết, trong buổi ra mắt sách Hoạn Nạn Ca, tất cả quan khách đều được tác giả biếu tặng sách và mọi sự giúp đở tài chánh là tùy hỷ.Ngoài phần tâm tình chân thật, lôi cuốn, xúc tích và lý thú của tác giả, còn có phần phát biểu về tác phẩm Hoạn Nạn Ca của các diễn giả có tầm vóc trên các lãnh vực đấu tranh, văn học và lịch sử .

Rất mong sự hiện diện đông đảo của quí đồng hương, qúi nhân sĩ, quí hội đoàn, những người Việt yêu thơ văn và hằng lưu tâm đến vận mệnh của đất nước vào ngày ra mắt tác phẩm nầy tại hội trường quận hạt Santa Clara County, 70 Hedding, San Jose vào  1 giờ trưa ngày 24-10-2009 tới đây.

Mọi liên lạc về buổi ra mắt xin liên lạc: Phạm Quang Minh 408-569-8137 ./.

NGUYỄN VẠN BÌNH

 

             




Ra Mắt sách nợ Em Một Đời và Đôi Mắt Biển

Xin quý vị vào link dưới để mua sách, hoặc bảo tr cho sinh hoạt Văn Thơ Lạc Việt
https://www.paypal.com/cgi-bin/webscr?cmd=_s-xclick&hosted_button_id=S5YH6RTJT6GEC

Trích trong "Nợ Em Một Đời"

"Mẹ tôi đã kể rằng . Tuổi trẻ cha tôi vì lý tưởng quốc gia dân tộc nên đã bỏ học trường Bưởi theo Thanh Niên Tiền Phong, tiền thân của Cộng Sản vào khu kháng chiến. Cha tôi đã trốn về làng sau khi biết được bề trái bỉ ổi của người lãnh đạo Cộng Sản, rồi đi theo Quốc Đân Đảng chống thực dân Pháp, Cộng Sản.
Từ đó cha tôi bị Viêt Minh, và Pháp theo đuổi không có đêm nào ngủ được một chỗ bình an. Cuộc sống lẩn trốn, nghi ngờ mọi nơi mới đến, mọi người mới gặp và cả những bạn bè thân quen hồi còn đi học của cha tôi, đã làm mẹ tôi héo hắt với nước mắt ngắn dài hàng đêm trong cô đơn và sự khủng bố tinh thần triền miên của du kích trong làng.
Du kích xã dưới tay chú tôi chỉ huy là những tên quỉ xứ đã tới nhà còng tay mẹ tôi dẫn đi ban ngày, hoặc đêm để hỏi tin tức cha tôi, và mỗi lần mẹ bị bắt kéo đi tôi thường khóc chạy theo mẹ để vô tình nhìn, nghe được những gì du kích Cộng Sản tra tấn, bức cung mẹ. Lần cuối cùng họ đã bẻ gẫy tay mẹ tôi khi họ đã mất kiên nhẫn, và biết rằng họ chẳng moi được bất cứ manh mối nào, trái lại đã làm mẹ tôi ghi lòng với ánh mắt hận thù khi nhìn họ qua nước mắt trong mỗi lần nghe họ hỏi cung.
Sau hết Việt Minh phản bội các đảng phái quốc gia, trong sự đoàn kết có cái tên Đồng Minh Hội, cha tôi đã không còn trọn lựa nào, nên đã theo thực dân Pháp với nỗi buồn chất chứa trong lòng, nhưng mẹ tôi cũng chẳng được yên khi chiến tranh càng ngày càng lan rộng trên quê hương theo nỗi cô đơn dài, và sự khổ cực trong cuộc sống của mẹ, một mình lam lũ nuôi đàn con. 
Sau 1954, anh em chúng tôi theo cha mẹ di cư vào Nam. Cha mẹ tôi đã trọn Ban Mê Thuột là nơi đất sống gầy dựng tương lai cho đàn con tại dinh điền Kim Châu, Kim Phát bởi Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng lập, dưới sự hướng dẫn mọi sinh hoạt đạo đời của Linh mục Võ Quốc Ngữ nóng tánh, ngay thẳng, đôi khi chửi thề, nhưng luôn nghĩ tới an cư lạc nghiệp, hạnh phúc cho giáo hữu, và ngài đã lập một chương trình ba năm trồng cà phê hầu giúp dân giầu có trong tương lai giữa rừng gìa Cao Nguyên trung phần bát ngát núi đồi trùng điệp bao quanh những đồn điền cà phê của người Pháp. Mẹ lại một lần nữa tần tảo, mang thân xác gầy yếu với cổ tay gẫy cố gắng cùng cha phá rừng làm rẫy, lập lại cuộc sống bình thường cho cha tôi, và các con trong nỗi lo âu thoát ra từ lời cầu kinh của mẹ mỗi buổi chiều sương muộn phủ đầy rừng núi, mang hơi lạnh trải trên vùng đất mới mầu đỏ với nắng bụi mưa lầy."

Xin quý vị vào link dưới để mua sách, hoặc bảo trợ cho sinh hoạt Văn Thơ Lạc Việt. Thành thật cám ơn.





RA MẮT TRƯỜNG THI HOẠN-NẠN CA 24-10-2009

                             RA MẮT TRƯỜNG THI HOẠN-NẠN CA 24-10-2009        

     Ngày 24 tháng 10, 2009 sắp đến sẽ là ngày lễ ra mắt tập trường thi Hoạn-Nạn Ca (HNC) do tôi, Phạm-Quang-Minh, biên soạn. Hôm nay tôi xin được có đôi lời tâm-tình cùng tất cả Quý Đồng-Hưiơng tại San Jose và vùng phụ-cận. Bất cứ tác-giả nào cũng muốn đứa con tinh-thần của mình được đến với quần-chúng. Đó là lý-do tự-nhiên. Khi viết tập trường thi này, tôi có một mục-tiêu rõ-rệt: cố-gắng đóng-góp một chút gì cho công-tác văn-hóa đấu-tranh của tập-thể người Việt-Nam Quốc-Gia đang lưu-vong hải-ngoại. Lễ ra mắt ngày 24 tháng 10 mang  nhiều lý-do khác bên trên  cái lý-do tự-nhiên này. 
     1.- Trước hết, năm 1979, tôi đã tổ-chức cuộc biểu-tình chống Tàu-Cộng tại San Jose và trên diễn-đàn tôi đã nói lớn:
. Lúc còn ở quê nhà, tôi đã hát: Một ngàn năm nô-lệ giặc Tàu, một trăm năm nô-thuộc giặc Tây, hai mươi năm nội-chiến từng ngày .. tôi kêu gọi tất cả chúng ta sẽ không để cho con cháu phải hát bài này mà còn phải thêm vào . Rồi lại thêm một ngàn năm nữa nô-lệ giặc Tàu!!. Đồng-bào tham-dự vỗ tay vang-dội biểu đồng-tình. Bây giở vào thập niên đầu của Thế-Kỷ thứ 21, tình-hình diễn-biến trong 34 năm qua từ năm 1975, đã cho chúng ta thấy cái ý-nghĩa sâu-xa của cuộc biểu-tình cuối năm 1979. Quan-điểm chống Tàu-Cộng bành-trướng về phương Nam này đã được ghi rõ trong  HNC:                
              Sử xanh máu đỏ mực tươi
              Đuổi Tàu gian-khổ ngàn đời mới yên
              Nay Hồ võng đón lọng khiêng
              Rước Tàu trở lại, có điên không nào!!  – HNC
      Quan-điểm của HNC là quan-điểm của tất cả đồng-bào chúng ta trong cũng như ngoài nước. Những câu thơ lục bát dễ nhớ suôn sẻ của HNC như dính vào đầu môi chót lưỡi của mọi người âu-lo cho sự sống còn của dân-tộc. Bác-Sỹ Phan-Khắc-Tường, tại diễn-đàn Ra Mắt Hoạn-Nạn Ca 24-05 vừa qua tại Paris, đã đắt câu hỏi: với độc-tài Đảng-trị hiện nay, nước Việt chúng ta sẽ còn tồn-tại đến bao giờ và công-lao xương-máu của Tổ-Tiên chúng ta trong việc dựng nước và giữ nước có trở thành mây khói hay không? Đó là nỗi âu-lo chung của toàn thể dân-tộc chúng ta!               
    2.- HNC có cái nhìn rõ-rệt về cuộc chiến-tranh Gỉai-Phóng-Miền-Nam sai-lầm do Hồ-Chí-Minh khởi-xướng:                        
               Mạo danh giải-phóng Bác Hồ                     
               Ép con bức cháu chết khô chết đường                   
               Sinh Bắc Tử Nam thê-lương                       
               Dân-tộc Bác giết, ngoại cường Bác thương                       
               Bác bị xúi ép bởi phường               
               Đệ Tam Vô-Sản quên thương dân mình – HNC     

Hoặc:              
             Miền Bắc đói khổ cơ hàn                  
             Độc-tài khát-máu dân càng ngóp-ngoi                     
             Sống đời súc-vật tôi-đòi                    
             Thế bảo giải-phóng Nam coi nực cười. – HNC

Và Hồ-Chí-Minh cùng Chính-Trị-Bộ Đảng của Ông biết rõ họ không có thực-lực để chiến-thắng trên chiến-trường:           
           
            Hai lần Cộng-Sản thử rồi                   
            Hai lần thất-bại bể nồi banh vung                  
            Mậu-Thân lấn chiếm nhiều vùng                    
            Bốn tháng thua chạy xác cùng sơn nhai                    
            Mùa Hè Đỏ Lửa Bảy Hai                  
            Giữa thu tan-tác chì chài mất luôn                 
            Cố công chiếm một ô vuông              
            Dung thân Mặt-Trận diễn tuồng, không xong – HNC

Để chiến-thắng, Hồ chỉ còn trông chờ vào hai đàn anh Tàu Nga đấu-tranh chính-trị lừa-bịp ở Hoa-Thịnh-Đốn, nên đây chỉ là cái chiến-thắng bố-thí từ Tàu Nga mà thôi:                

            Cộng-Sản biết rõ chiến công
            Không đạt được nỗi từ phông chiến-trường              
            Toàn bộ cuộc chiến vô thường                      
            Dứt điểm Thịnh-Đốn, chiến-trường toàn thu – HNC

Ngày 30 tháng Tư 75, chúng ta thua cuộc nhưng:                
Không thua vì yếu thiếu can              
Mà thua vì bạn phản ngang giữa đường – HNC          

3.- Nói đến việc thống-nhất đất nước do Cộng-Sản rêu-rao,
HNC ghi rõ quan-điểm chung của tất cả chúng ta:    
           
          Bao năm chinh-chiến tả-tơi                  

         
Hai Vùng sống dỡ cầm hơi hận thù                 
          Đến khi toàn chiếm trọn thu                
          Độc-tài đảng trị thiên thu cổ còng                   
          Thêm Nga Tàu trị rút bòn                    
          Tương-lai thống-nhất: đọa-đày song nô. – HNC

Song nô: nô-lệ Đảng và nô-lệ ngoại-bang, quả là điều bất-hạnh cho dân-tộc! Điều bất hạnh này ngày nay đã quá rõ.              

4.- Những năm cuối của thập niên 70, tôi đã cùng các hội-đoàn lúc bấy giờ liên-hợp tổ-chức biểu-tình chống ăn mừng chiến thắng do các phe nhóm thân Cộng chủ-trương  tại San Francisco. Chúng tôi hành-động với một lập-trường minh định mà HNC  ghi rõ:              
          Không phải chiến thắng lẫy-lừng                     
          Mà là bố thí thẳng thừng  (từ) ngoại bang                   
          Khôn-tinh sắp xếp dọn đàng                
          Tái nô dịch chủ bội ngàn khổ thân. – HNC

Và rằng:         
         Ca mừng chiến thắng huênh-hoang                  
         Phải chăng bất nghĩa bất-nhân vô-loài – HNC    

5.- Đối với bản-chất của Đảng Cộng-Sản Việt-Nam, HNC vạch rõ:
                       
           Không đuổi giặc ngoại, giữ nhà                      
           Mà rước ngoại thuyết về chà mã cha              
           Không làn giàu mạnh dân ta               
           Mà bần-cùng hóa hiếp-hà vô-lương                
           Hồng-Thái Yên-Bái cang-trường                    
           Việt-Minh giả nghĩa giảo-lường tinh ma                    
           Đuổi Pháp kênh-kiệu hò la                  
           Nhưng ôi lệ-thuộc Tàu Nga nặng-nề              
           Lỗi-lầm sách-lược u-mê                      
           Hậu-quả độc-hại thảm-thê trường-kỳ. – HNC

Ngày nay chúng ta đã thấy tường-tận cái “hậu-quả độc-hại thảm-thê trường-kỳ” đó. Cái hậu quả này đang dấy-động nên phong-trào bảo vệ chủ-quyền và lãnh-thổ Việt-Nam trong tất cả các cộng-đồng người Việt hải-ngoại.  

    6.- Đối với đường-lối chỉ-đạo của Chính-Trị Bộ  Đảng do  Hồ-Chí-Minh hướng-dẫn,
HNC nhắc-
nhở và phải-chi rằng:
                       
          Phải chi Bác Đảng tinh thông              
          Tránh đường chinh-chiến hại tông hại nòi                   
           Khước-từ xúi-giục thúc đòi                
           Gọi thưa dạ bẩm tớ-tôi cho người.  – HNC

Và rồi HNC kêu-gọi Chính-Trị Bộ Đảng hãy dừng bước trên con đường phục-dịch ngoại bang để:                      

           Cho dân mình chút tương lai              
           Cho dân-tộc chút trang-đài vinh-quang                      
           Cho đời dân chút an-nhàn                  
           Trả lại nòi-giống huy-hoàng kinh-bang                       
            Giả-tạo ảo ảnh huênh-hoang              
            Không che thực-chất điếm-đàng vong-nô                 
            Không che thực-tế nghèo khô                       
            Lạc-hậu chậm-tiến bì phô xứ người. – HNC

Có phải đây là những vần thơ thật ự-nhiên thấm-thía lòng người. Toàn Đảng Cộng-Sản ngày nay đang sống nhờ vào hàng tỷ đồng đô do chính người tỵ-nạn chúng ta gởi về.      

7.- Đối với nội tình Miền Nam, HNC ủng-hộ lập-trường vì dân vì nước của Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm:                        

Dân-tộc lãnh-thổ tài-nguyên              
Quốc-gia tối thượng, chủ-quyền bất phân. – HNC

cho nên Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm không chấp-thuận chính-sách “đưa quân ngoại-quốc vào Miền Nam của Đồng-Minh Hoa-Kỳ:                   

Thề không rước ngoại về làng                       
Không nhầm-lẫn để nát tan cơ-đồ. – HNC

và Tổng-Thống kêu-gọi toàn dân:                  

             Quyết vì độc-lập tự-do                     
             Nhất tâm tự-vệ, đói no nguồn trời                
             Chính-nghĩa dân-tộc sáng-ngời                    
             Gót giày ngoại nhập muôn đời thảm-thương.- HNC

Đưa quân ngoại quốc vào Miền Nam là chiến-lược sai-lầm mà Hoa-Kỳ đã phải tự điều-chỉnh bằng sách-lược Việt-Hó
a Chiến-Tranh vào những năm đầu thập niên 70, nhưng đã quá muộn:                   
              Gỡ-gạc danh-dự Cờ-Hoa                
              Chiến-tranh Việt-Hóa ba-hoa lọc-lừa                      
              Chính-sách hùng-hổ năm xưa                      
              Giờ đây cuốn gói đẽo-đưa đặng chuồn – HNC 

     Sự chống-đối chính-sách quân ngoại nhập là lý-do chính khiến Đệ Nhất Cộng-Hòa sụp-đổ như chúng ta ngày nay đã biết. Sự nhầm-lẫn của những người mạo-nhận làm cách-mạng 1-11-1963 đã làm “nát tan cơ-đồ”. Những dòng thơ nhẹ-nhàng tự-nhiên đó đã vạch rõ cái sai-lầm sách-lược trong nội tình Miền Nam và Đồng-Minh, sự  sai-lầm đã mang lại cái đại nạn, cái muôn đời thảm-thương”  mà toàn dân-tộc  đang cam-tâm gánh chịu.            

 8.- Đối với tinh-thần chiến-đấu hào-hùng, với sự hy-sinh gan-dạ của người chiến-sỹ Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, HNC đã ghi rõ:    
           
            Em yêu non nước xinh tươi               
            Em yêu chính-nghĩa sáng-ngời tự-do                        
            Dẫu biệt tuyệt-vọng buồn lo              
            Em vẫn quyết phải đánh cho đến cùng – HNC

Vì hơn ai hết, kẻ mất tự-do mới biết tự-do là quý:               

            Tự-do hạnh-phúc thiên thu                
            Quý hơn tất cả trân châu ngọc vàng – HNC    

9.- Bên cạnh cái lịch-sử chính-trị, HNC cũng không quên nhân tình thế-thái:                      

            Duyên-tình phận-số đỉnh-chung                    
           Tử-tồn đắt-thất trùng-phùng : thiên cơ – HNC

Khi toàn dân phải sống triền-miên trong ly-loạn tang-thương:                     

           Thế-gian hoạn-nạn bẩm sinh               
           Chào đời binh lửa, lửa binh lìa đời                 
           Ngậm cười chín suối kiếp người
                       
Luân-hồi chẳng dám làm người trần-gian – HNC Và ở bất cứ nơi đâu, tình yêu nam-nữ, hạnh-phúc, gia-đình cũng cao quý:             

           Sướng nhất là kẻ được thương                       
           Và người đã có được người để thương                      
           Phúc nhất l&agr
ave; kẻ được thương              
           Người thương Trời kết phu nương mãn đời – HNC

Hạnh-phúc là cái gì không dễ có được:                     

            Hạnh-phúc quý phẩm Thiên Cung                 
            Chúng mình phước-đức kỳ-phùng Trời ban – HNC

cho nên phải gìn-giữ hạnh-phúc cho nhau:                

            Nhớ nghe Anh bền tơ tằm                 
            Bện tơ đan kén nhộng nằm ấm-êm                
            Nhớ nghe Em chớ yếu-mềm              
            Nghã sa vì dục vì tiền thế nhân – HNC

Một sắc-thái khác nữa, sắc-thái Hồ-Xuân-Hương, hãy nghe HNC  mô-tả các anh quây-quần lể ốc hương uống bia:                    

           Nhụy vàng phủ bởi lá trinh                 
           Que đâm ấn nhẹ, xoay mình đút vô                
           Tròn tròn nhớt nhớt thô thô                
           Lọt qua cửa khẩu, chất hồ phọt ra                  
           Muối tiêu chanh ớt đậm-đà                 
           Lể xong quảy ốc, tiếng gà đầu canh – HNC

      Học-giả Vũ-Ký, lúc sinh-thời 2007, sau khi đọc hết các sắc-thái trong Hoạn-Nạn Ca, đã viết: “  mỗi màu sắc, mỗi hương hoa, có hận-thù căm-phẫn, có bực-tức trước kẻ thù vạn đợi, có hãnh-diện tôn-xưng nguồn-cội Lạc-Hồng, có vinh-danh anh-hùng vị-quốc vong thân.  Có có tất cả…

     Nội-dung và thời-gian của bài này không cho phép tôi dài-dòng hơn; tôi chỉ xin nêu lên đây một số  câu thơ trong toàn bộ 6364 câu thơ lục bát của tập trường ca để chứng-minh sự phù-hợp một phần nào  của nội-dung tập trường ca này với cao-trào tranh-đấu chung của toàn dân trong cũng như ngoài nước. Sự phù-hợp mà học-giả Cao-Thế-Dung, tức bình-luận gia Hà-Nhân-Văn, đã viết: “GS Phạm-Quang-Minh đã trở thành nhà thơ của tâm-thức và tâm-hồn dân-tộc trải dài trong bản trường ca đại hợp-tấu”. Tôi cũng không có tư-cách để đề-cập đến giá-trị văn-học của  HNC; giá-trị văn-học  này  đã được học-giả Lê-Mộng-Nguyên, hội-viên Hàn-Lâm-Viện Pháp, viết rằng “Đây là một công-trình văn-học vĩ-đại chưa từng có trong lịch-sử  văn-học nước nhà. Sau hết, gần đây, Linh-Mục Nguyễn-Hữu-Lễ đã dày công sưu-tập, đã hoàn-thành và đã ra mắt  một DVD tài-liệu về mặt thật của Hồ-Chí-Minh. Đó là một công-trình lớn đóng-góp vào công-tác văn-hóa đấu-tranh chung. Tôi hy-vọng HNC sẽ đem đến nơi đầu môi chót lưỡi mọi người, bằng những câu thơ lục bát dễ thuộc dễ hiểu, tội-ác  của Hồ-Chí-Minh, sự hy-sinh cao-cả của Quân Dân Cán Chính Việt-Nam Cộng-Hòa, sự thật lịch-sử 1945-1975, cùng  lòng yêu nước và quyết-tâm xây-dựng lại một Việt-Nam Thanh-Bình Hưng-Vượng Độc-Lập Tự-Chủ  của toàn thể đồng-bào trong cũng như ngoài nước.  

    Quý vỵ đã chia-sẻ cùng tôi những lý-do bên trên cái lý-do tự-nhiên mà tôi vừa đề-cập đến ở phần đầu. Mong rằng sự ra mắt của trường thi HNC v&agrave
;o ngày 24 tháng 10 tới đây sẽ phù-hợp ít nhiều với tâm-tình và cao-trào đấu-tranh chung của đồng-bào tại San Jose nói riêng và của các cộng đoàn người Việt hải-ngoại nói chung trên toàn thế-giới. Đây có thể cũng là lý-do tại sao HNC đã được đón tiếp nồng-nhiệt bởi đồng-hương tại thủ-đô hoa-lệ Paris ngày 24 tháng 5 vừa qua. Xin kính-chào tất cả Quý-Vỵ và ước-ao được đón tiếp Quý-Vỵ ngày 24 tháng 10 năm 2009 tại số quen-thuộc 70 West Hedding St., San Jose.                                                                              

Tác-Giả Hoạn-Nạn Ca                                                                       
San Jose, CA 15 tháng 09, 2009.           
 Phạm-Quang-Minh




Hai Tác Phẩm : Nợ Em Một Đời (Tuyển tập truyện ngắn) và Đôi Mắt Biển (thơ)

THAY LỜI BẠT.

   
Kiều Mỹ Duyên

May  mắn được quen nhiều đồng hương ở VN cũng như ra hải ngoại,  hàng tuần tôi được nhiều quà đến từ khắp nơi như nhạc, truyện, thơ v.v.

 Đáp lại ân tình của bằng hữu người tôi đã gặp cũng như người chưa gặp, tôi đọc ngay những tác phẩm của họ bằng bản thảo hoặc những quyển sách vừa in còn thơm mùi mực.

  Những tác phẩm hấp dẫn tôi, tôi đọc ngay trong ngày được tặng, điều làm cho tôi đọc miệt mài đọc một lần xong tác phẩm không đợi ngày mai sẽ tiếp, đó là tình người, đọc và cảm xúc, tôi thích những tác phạm người thật việc thật, lời văn ngắn gọn,  không dài dòng văn tự, có lẽ sống ở đây ai cũng vội vàng làm nhiều việc trong một ngày, ngày nào cũng phải làm cho xong việc đó.

  Tác phẩm của Chinh Nguyên tình cảm ướt như nước mưa, tình người phụ nữ trong thời chiến với người tình là lính chiến,thủa chiến tranh, cách biệt, chia lìa, mơ ước từng giây từng phút để được gặp nhau của những người yêu nhau, thật sự yêu nhau, yêu nhau tha thiết không biết ngày mai ai còn ai mất, yêu trong đợi chờ, tội nghiệp người phụ nữ trong thời chiến, hầu hết những truyện ngắn của Chinh Nguyên trước 1975 cũng như sau ngày 30 tháng  4/1975 cũng nồng nàn cũng ướt át, viết cho người đọc hay viết cho chính mình để nói lên ơn nghĩa của người lính chiến VNCH với người con gái yêu mình thật thiết không ai biết ngoài tác gỉa ?

 Đọc truyện của Chinh Nguyên để cảm thấy mình hiện diện trong truyện hay thay người thân của mình trong truyện như chuyện về cha mẹ của mình, người mẹ tảo tần nuôi con nên người trong thời kỳ giặc gĩa mà nuôi nổi con mình tốt nghiệp đại học, tôi ngưỡng mợ và thương những người phụ nữ suốt đời vì chồng vì con mà sống. Hạnh phúc của chồng con là hạnh phúc của chính mình.
   Chuyện của Chinh Nguyên chuyện nào cũng đậm đà tình cảm, tình phụ tử, mẫu tử, tình anh chị em, tình chiến hữu và cuối cùng tình cảm ướt át nhất vẫn là tình cảm của người nam và nữ.

   Chuyện của Chinh Nguyên , chuyện nào cũng buồn, 

Nỗi nhớ mong manh, Nỗi buồn, Giọt buồn, Diễm Diễm, Nợ em một đời,Có phải là nỗi đau, Mắt Nhung , Sàigòn ơi.

   Đọc truyện của Chinh Nguyên để buồn theo tác gỉa,ngậm ngùi những nỗi đau thương, ngay cả thơ cũng buồn, Đọc để mà buồn, để mà nhớ vể thân phận con người trong chiến tranh, sau chiến tranh, thân phận của những người tù còn sống sót để trở về.

   Rời khỏi nhà tự tìm đường vượt biển, tìm Tự Do, thơ Khát Vọng Tự Do cũng buồn, hình như nỗi buồn đi theo nhà thơ, theo nhà văn Chinh Nguyên đến suốt đời, nói chuyện thì vui vẻ, yêu đời, làm việc tích cực trong những công tác xã hội,  mà sao Chinh Nguyên buồn quá trong thơ văn?

  Xin trân trọng giới thiệu tập truyện đầy tình cảm của Chinh Nguyên đến với quý độc gỉa, nên đọc chuyện trong lúc đang vui, để thấy mình hạnh phúc hơn tác gỉa, để thấy mình may mắn hơn tác gỉa .

  Và lúc nào tôi cũng cầu nguyện cho sự may mắn đến với những người cầm bút nhất là Chinh Nguyên, một cựu tù nhân nhưng vẫn còn tích cực hoạt động trong cộng đồng Việt Nam về thi văn, xã hội. 

  Mơ ước in sách của những tác gỉa trong nước đang sống đọa đày, bị bủa vây kinh tế, và cũng mong giấc mơ của Chinh Nguyên thành sự thật, để cho những nhà văn, nhà thơ trong nước trước khi gĩa từ cõi tạm đượcc nhìn thấy tác phẩm của mình được in, được đến với đồng hương,và được quý đồng hương ở hải ngoại yêu chuộng.

 Tác phẩm là đứa con yêu quý của tác gỉa, tác gỉa đã để hết tâm huyết của mình trong tác phẩm, nếu tác phẩm được đón nhận một cách nồng nhiệt là món quà quý gía nhất của tác gỉa, hy vọng tác phẩm buồn của Chinh Nguyên sẽ được nhiều người đón nhận môt cách nồng nhiệt để tác gỉa vui vẻ viết tiếp, in tiếp và in sách của mình và sách của bằng hữu để độc gỉa thưởng thức về tình ngươi, tình bạn, tình gia đình và tình đồng hương.

   
KIỀU MỸ DUYÊN




Thư Sinh : NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM: CUỐN SÁCH CỦA ANH EM H.O. VÀ TÙ CẢI TẠO

NỬA THẾ KỶ VIỆT NAM: CUỐN SÁCH CỦA ANH EM H.O. VÀ TÙ CẢI TẠO

* Thư Sinh

Tôi quen biết với ông Song Nhị, qua thơ.
Số là, vào năm 1995, một anh bạn tặng tôi cuốn tuyển tập thơ Gởi Người Dưới Trăng, trong đó có hai bài thơ tù đầy ấn tượng của ông. Nhất là bài Tôi Đi Giữa Đoàn Tù Vác Đá, viết tại trại tù Lam Sơn Thanh Hóa.
Nội dung bài thơ tả cảnh đoàn tù đi vác đá về xây xà lim để nhốt chính mình. Tôi cũng từng trải qua cảnh ấy, hồi  bị nhốt ở trại tù Phước Long. Thay vì đi vác đá, chúng tôi đi chặt cây rừng về dựng trại tù. Do đó, bài thơ đã tạo được sự đồng cảm giữa tôi và ông Song Nhi. Tôi giữ lại trong ký ức hai câu thơ:
Tôi đi dưới bóng thời nô lệ,
Ngọn núi đè lên cả kiếp người.
và nảy ra ý định muốn gặp tác giả hai câu thơ ấy. Không ngờ, cơ duyên hội ngộ đã đến rất nhanh, khi tôi được ông anh họ rủ lại nhà tham dự một buổi họp mặt với các đồng môn Đại Học Vạn Hạnh. Qua điện thoại, ông anh tôi bảo: Sẽ giới thiệu cho tôi một tay sính văn chương, và từng trải một cuộc vượt tuyến vào miền Nam, khác hẳn với đám Bắc kỳ di cư 54 chúng mình. Khi tôi đến, thì té ra người tôi được giới thiệu, lại chính là Song Nhị!
Từ mối quen biết này, ông có rủ rê tôi vào ban biên tập nguyệt san Cội Nguồn. Tôi từ chối. Vì nghĩ cái thứ văn chương mì ăn liền của mình không thể nào so sánh với… văn chương thứ thiệt của ông. Tuy vậy, tôi vẫn theo dõi sinh hoạt nhóm Cội Nguồn qua trang văn học nghệ thuật mỗi tuần trên nhật báo Việt Nam Thời Báo và tạp chí Nguồn. Và tôi thấy, nhóm Cội Nguồn vẫn kiên trì theo đuổi tôn chỉ mà nhóm đã đề ra, kể từ khi thành lập.
Riêng Song Nhị, hình như trong suốt những năm tháng dính dáng tới văn chương chữ nghĩa, ông thiên về Thơ nhiều hơn Văn. Ngay cả cuốn bút luận, viết chung với ông Diên Nghị, mang tên Lưu Dân Thi Thoại – thì chung cục, cũng dính dáng đến Thơ.
Và mãi cho đến hôm nay, chúng ta mới đón nhận tập bút ký tự truyện Nửa Thế Kỷ Việt Nam.
Cuốn sách này được phát hành đúng lúc tờ nhật báo Người Việt dưới Nam Cali mở ra mục HO, kỷ niệm 20 Năm Hội Nhập. Sơ khởi, đã có khoảng 15 bài viết liên quan đến chủ đề này. Mà tác giả, hầu hết là những anh em H.O., và vợ con họ. Trong số những bài viết ấy, tôi để ý đến bài viết của cô Niệm Huyên, con gái  một anh HO. Cô đã viết như thế này:
Tôi nghĩ lịch sử đã vô hình chung đặt lên vai mỗi người HO, và những người có trải nghiệm sống về họ, sứ mệnh phải biên tập lại những trải nghiệm ấy, không phải để cho chính dân tộc mình, mà còn cả cho thế giới làm sử liệu về sau.
Tôi nghĩ, cuốn sách Nửa Thế Kỷ Việt Nam đã đáp ứng được nỗi mong muốn đó.
Trước hết, xin nói đến cái tựa cuốn sách. Nửa Thế Kỷ Việt Nam chắc chắn phải là một nửa thế kỷ chót của thiên niên kỷ trước, bắt đầu từ năm 1950. Có thể, ông Song Nhị trải nghiệm đời mình lâu hơn thế nữa. Vì nơi trang 8 trong phần lời tựa, ông đã viết:
Mười lăm năm tuổi thơ tôi trên mảnh đất xóm làng chôn nhau cắt rốn. Mười chín năm ly tổ xa quê, sau khi thoát khỏi vòng tai họa, sống trên phần đất tự do. Bốn năm ở Lào, mười lăm năm giữa Saigon hoa lệ của miền Nam cho tôi một phần đời thành đạt, mộng đầy hăm hở mai sau.
Và đấy chỉ là một khúc nhạc dạo đầu cho một cuộc đời gian truân sau này. Nên cái con số 50 năm, quá dài cho một đời người. Nhất là những năm tháng đi tù cải tạo. Các cụ ta đã bảo, nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Song Nhị đã đếm từng ngày trong tù. Tổng cộng ba ngàn ngày! Mọi sự kiện được ghi chép lại một cách thật trung thực qua hai thể văn bút ký và tự truyện. Đó là hình ảnh chung của những người tù cải tạo. Nên khi đọc xong cuốn sách này, nhà báo Thanh Thương Hoàng, đã rất xúc động, và đưa ra những nhận xét như sau:
 "Đọc hết cuốn bút ký tự truyện Nửa Thế Kỷ Việt Nam của Song Nhị dày trên 460 trang, khi xếp lại, thú thật, tôi đã buồn càng buồn thêm, đã đau càng đau thêm. Tôi thấy bạn bè tôi (và cả thế hệ tôi) hiển hiện trong cuốn sách. Chẳng biết chúng tôi có sinh nhầm thế kỷ không, nhưng điều chắc chắn chúng tôi bị đánh mất tuổi trẻ, đã bị cuốn hút vào trận bão thời đại, và nhận lãnh những thua thiệt, bất hạnh về phía mình. Và có thể nói, cả thế hệ chúng tôi mộng vỡ tan tành. Nỗi đau này không phải chỉ riêng Song Nhị, mà là tất cả chúng ta – những người sống sót trong cuộc chiến, và sau đó trong tù đày ".
Riêng Song Nhị, ông còn lãnh thêm một đoạn đường đời cũng gian nan cực khổ không kém những năm tháng trong tù. Đó là thời kỳ xảy ra chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất (vào giữa thập niên 50) tại miền Bắc. Mà chính ông và gia đình là nạn nhân. Tất cả đều được ghi lại qua những chương I, II, II và IV. Qua mấy chương này, có những đoạn văn đã làm cho người đọc xúc động đến rơi nước mắt.
Như trang 53, chẳng hạn:
Chiều ba mươi Tết, mẹ tôi ngồi khuất sau một tấm phên rách nát, vừa lượm về che lên cho đỡ lạnh, đôi mắt quầng thâm, mặt vẫn chưa hết những vết gai bưởi, vết bầm sau hai tháng bị bắt giam và bẩy đêm bị hành hạ giữa đám đấu trường cuộc đấu tố… . Nước mắt bà ràn rụa, bà đưa hai tay kéo từng anh chị em chúng tôi chụm đầu vào lòng như con gà mẹ xòe cánh ủ  những con gà con. (trang 53)
Ta hãy tưởng tượng ra hình ảnh một người phụ nữ chân yếu tay mềm, bị trói thúc ké treo lơ lửng trên cành cây, bị kim gút và gai bưởi đâm nát mặt đến bất tỉnh (trang 36, 37), nhưng vẫn cố sống để bảo vệ đàn con bảy đứa, thì mới thấy sức chịu đựng của người Mẹ tác giả thật đáng phục.
Thế mới biết, muôn đời, dù ở vào hoàn cảnh nào, người Mẹ Việt Nam vẫn là hình ảnh thân cò lặn lội, chỉ biết hi sinh bản thân mình cho chồng con. Sự hi sinh bao la ấy đã được tác giả ghi nhận qua một mục đặc biệt mang tên: Mẹ Tôi.
Có điều, trong cảnh cả gia đình bị gạt ra ngoài lề xã hội trong cảnh cùng quẫn, đời sống tận cùng thê thảm đến thế – khi hồi tưởng lại, tác giả vẫn để cho ngòi bút mình tuôn chảy một cách nhẹ nhàng thanh thản. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận được, một nét nào đó hết sức khiêm tốn và nhân bản trong cái tôi của ông bàng bạc trong hầu hết 16 chương sách.
Vì khi tự kể lại đời mình, ông đã cho rằng, sự mất mát của một đời người, nào có thấm tháp gì so với sự mất mát của cả một dân tộc (trang 21).
Sau cuộc đấu tố kinh hoàng, trừ người anh cả còn kẹt lại, cả gia đình may mắn trốn thoát được sang Lào, trong một cuộc vượt tuyến đầy gian nan vất vả kéo dài cả tháng trời. Để rồi 4 năm sau (1960), ông mới trở về miền Nam Tự Do làm lại cuộc đời, đem hết nhiệt huyết tuổi trẻ phục vụ đất nước. Nên ở chương 5 này, ông đặt tên là Ngày Bắt Đầu Cuộc Đời.
Nhưng giai đoạn hào hứng này chỉ kéo dài vỏn vẹn 15 năm. Từ chương 6 trở đi, miền Nam đã bị chìm đắm trong Cơn Lũ Nghịch Thường. Cửa địa ngục đã mở, lùa tất cả các sĩ quan viên chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa vào trong những trại học tập cải tạo. Trải qua 3 ngàn ngày trong các trại tù khổ sai từ Nam ra Bắc, ông đã chứng kiến và tham dự vào nhiều cảnh huống đặc biệt khác thường xảy ra trong những trại tù này. Tất cả, đều được ghi lại một cách trung thực và tỉ mỉ, từ chương 6 đến chương 11. Trong đó, phải kể đến cuộc nổi dậy kéo dài 3 ngày tại trại tù Lam Sơn (Thanh Hóa), vào năm 1979. Và tác giả đã phải trả giá bằng 6 tháng kiên giam.
Nói chung, theo tác giả, tinh thần anh em tù cải tạo rất cao. Ngoại trừ một thiểu số đem thân làm tôi tớ cho đám cai tù để đổi lấy một chút vật chất trội thừa, hoặc cái ảo tưởng được thoát chốn lao tù trước những người cùng cảnh ngộ. (trang 151).
Chính những tay ăng ten này đã làm điêu đứng những bạn đồng tù, mà trong nhiều trường hợp còn hắc ám hơn cả cai tù quản giáo. Chỉ cần một lời báo cáo từ mấy tên ăng ten hay những đội trưởng thi đua, là người tù sẽ phải khốn đốn với những hình phạt: giảm khẩu phần ăn, nhốt kiên giam. Thậm chí có nhiều trường hợp, người tù bị chết thảm bởi  đòn thù.
Trong đám ấy, phải kể đến Bùi Đình Thi. Dù không sống chung một trại, nhưng tác giả Song Nhị cũng đã dành nguyên cả một chương 8 để nói về tay ăng ten khét tiếng, đã từng được linh mục Nguyễn Hữu Lễ kể lại trong cuốn hồi ký Tôi Phải Sống.
Bản án dành cho anh ta, như một chiêm nghiệm về Nhân Duyên Nghiệp Quả, đã đành. Nhưng còn vợ con anh ta ? . Qua cách diễn tả ở trong chương sách này, chúng ta tìm được nơi tấm lòng đôn hậu của ông, một sự cảm thông sâu xa với người vợ Bùi Đình Thi. Và theo tác giả tâm sự ở trang 118, chính vụ án Bùi Đình Thi, với những hệ quả của nó – đã làm cho ông hoàn tất sớm hơn dự liệu, cuốn bút ký tự truyện Nửa Thế Kỷ Việt Nam. Ông viết:
Vừa qua, nhân vụ Bùi Đình Thi làm xúc tác, tôi mới có hứng khởi tiếp tục hoàn thành bản thảo. Tôi viết như một trao gởi đến những ai – hôm nay và mai sau – muốn biết về một thời chiến tranh chia cắt, hận thù, tù đầy, tan tác chia ly… mà cả thế hệ chúng ta là người trong cuộc.
Như vậy, cái thông điệp mà ông gởi gấm qua cuốn sách này, đã rõ. Mà nếu đã rõ như thế, thì cái tôi đáng ghét qua dạng tự truyện, và những sự thật rất dễ làm người khác mất lòng qua dạng bút ký – đã không còn là những vấn đề làm cho tác giả băn khoăn lưỡng lự, như ông đã thố lộ ở ngay những giòng chữ đầu tiên, nơi phần " Thay lời tựa " cuốn sách này.
Có khối những cuốn hồi ký tự truyện được viết bởi các ông lớn, chưa chắc đã thành thật và trung thực bằng cuốn sách của Song Nhị, một cựu sĩ quan cấp nhỏ. Vì họ viết để dạy đời, để chạy tội. Trong khi, Song Nhị viết cuốn bút ký tự truyện này, bằng cái tâm trong sáng của mình. Nên nếu tôi thêm vào tờ bìa cuốn sách hai chữ Tâm Bút, chắc chắn cũng không phiền đến cái tôi đầy khiêm tốn của ông.
Vả lại, Nửa Thế Kỷ Việt Nam nghe có vẻ khói lửa và tang thương như thế đấy, nhưng đâu phải là không có lối thoát!
Ngay từ chương thứ 12, chúng ta đã thấy Châu Về Hiệp Phố, với mấy câu thơ lục bát mang ý nghĩa có vẻ như …Hy vọng Trong Màn Đêm Ánh Sáng Cuối Đường Hầm:
Xin từ biệt một cảnh đời
Tường xây cửa sắt tình đời lạnh căm
Xin từ biệt những tháng năm
Mồ hôi máu lệ nhục nhằn đắng cay.
(trang 295)
Trên đường trở về miền Nam, người tù cải tạo như đi trong tình tự dân tộc! Hành trình của người cựu tù cải tạo mang danh số HO, sau đó, tuy gian nan vất vả, nhưng sau cùng, cũng tới một kết thúc tốt đẹp, qua một chương trình nhân đạo mang tên… HO !
Riêng Song Nhị, chưa hẳn ông đã gấp lại cuốn sách Nửa Thế Kỷ Việt Nam.
Vì ông vẫn đi tìm… lý lịch của Con Chữ HO!
Để thấy rằng, chương trình HO mà những người đồng cảnh ngộ như ông được hưởng – là do nỗ lực của rất nhiều người. Từ Tổng Thống Ronald Reagan, Thứ Trưởng Ngoại Giao Robert Frenseth, cho tới những đồng hương bỏ nước ra đi trước tháng 4-1975, hoặc những người tù cải tạo vượt biên, trước khi có chương trình HO… . Tất cả, đều khởi đi từ tấm lòng nhân ái. Một thứ tình người vốn rất hiếm trong nửa thế kỷ Việt Nam đầy hận thù, đau thương tang tóc.
Các cụ ta đã bảo, cùng tắc biến biến tắc thông, hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai. Những người anh em HO và tù cải tạo xứng đáng được hưởng phần đời còn lại trong hạnh phúc và vinh quang. Bởi nơi trang 430, tác giả Song Nhị đã ghi lại câu nói của cựu Tướng hồi hưu John Vessey như thế này:
Riêng đối với tôi, danh từ H.O. là biểu tượng của lòng dũng cảm, tinh thần phục vụ, và lòng hi sinh của người H.O. Tất cả những ai thuộc diện H.O. đều là những anh hùng thật sự trong thời đại chúng ta.
Đúng vậy, những anh em HO và các cựu tù cải tạo, đã có một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử Việt Nam cận đại.
Và cuốn sách Nửa Thế Kỷ Việt Nam, thật xứng đáng là một cuốn sách dành cho họ.

* Thư Sinh

 

 

QCNTK002.jpg picture by hinhkhong




Tường Phạm & nhà văn Nguyễn Phước Đáng : Viết về buổi ra mắt sách của nhà thơ Hoàng Phong Linh.


 
Tường Phạm Viết về buổi ra mắt sách của nhà thơ Hoàng Phong Linh.

 " Thời gian quá lâuVodaiton2.jpg picture by tuongpham làm thay đổi lòng người. Hai mươi năm trước , gần năm ngàn người  ở San Jose  đã tưng bừng  chào đón chiến sĩ Võ Đại Tôn trở về. Hai mươi năm sau, chỉ có khoảng một trăm người đến tham dự "
Đó là lời phát biển của M.C . Đỗ Hùng và cũng được Ông Phạm phú  Nam lập lại  trong phần mở đầu của buổi ra mắt sách  : " Tuổi thơ và chiến tranh " , gặp gỡ và nói chuyện với đồng bào  của Ông Võ đại Tôn do Hội quán Việt nam IRCC tổ chức  vào lúc 1 giờ chiều ngày Thứ Bảy 15/5/2010 tại Hội trường quận hạt Santa Clara , khiến người nghe cảm thấy bùi ngùi, xúc động trong khung cảnh của một hội trường hơi trống vắng với  khoảng một trăm người tham dự ngồi rải rác so với sứa chứa theo bảng ghi trên vách tường là 209 người.   
 
   Trong hàng quan khách tham dự, người ta nhận thấy có Các Cụ Võ Toàn, cụ Trương đình Sửu ( Hội đồng cư dân San Jose ), Ông Phan quang Tuệ ( thẩm phán toà án  di trú San Francisco ), Ô. Lân Nguyễn ( ủy viên học khu East Side San Jose ), Giáo sư Lưu Khôn, Ông Nguyễn mộng Hùng , Ô. Hồ văn Khởi, Ô. Võ Đại , nữ Luật sư Nguyễn thu Hương, Ông Lại đức Hùng ( Tổng Thư ký Liên Hội ), Bà Ngọc Bích ( Hội đồng cư dân San Jose ), Ông Nguyễn như Hùng, Ô. Nguyễn trung Cao ( Oakland ) ..
  Giới truyền thông, báo chí gồm có : Ô. Lê Bình ( Nàng Magazine),Ông Bà Nguyễn vạn Bình ( Ý  Dân ), nhà báo Thư Sinh, Ô. Nghê Lữ ( SBTN ), Ô. Huỳnh lương Thiện ( Mõ San Francisco ) nhà văn Nguyễn phước Đáng, nhà thơ Chinh Nguyên ( văn đoàn Lạc Việt ), nhiếp ảnh gia Huỳnh minh Nhựt, Trương xuân Mẫn
 Điều đáng  nhận xét là  số quý vị nữ lưu tham dự buổi gặp gỡ hôm  nay khá nhiều so với tỉ lệ quý Ông  thường hay chú ý tới các cuộc hộp họp có tính cách thời sự chính trị, ra mắt sách , hội thảo  mà thông thường thì Quý Ông tham dự đông hơn Quý Bà. Lần này thì khác.
 Cũng không thấy có sự tham dự của các nhân vật sinh hoạt cộng đồng ( Public figure ),  các đoàn thể như Liên đoàn cử tri, khu hội cựu tù nhân chính trị, Ban Đại diện cộng đồng…, chỉ thấy  có 2,3  Bà cầm  các tờ " mailers " tranh cử của Ứng cử viên Lê hữu Phú phân phát cho  các người tham dự.
 Ông Võ Đại Tôn  năm nay đã 75 tuổi, râu tóc bạc phơ nhưng dáng dấp vẫn còn khỏe mạnh được mời lên diễn đàn.  Với một cách nói chuyện đầy sức thuyết phục,hùng biện và tràn đầy cảm xúc, trong phần mở đầu Ông cho biết hôm nay không phải là một buổi ra mắt sách thuần túy, mà là buổi Ông trở lại San Jose để thăm lại mái gia đình xưa, gặp gỡ  những Cô, những Bác, những Chú, những người Anh, người em,  của hơn hai mươi năm qua.
Ông nhắc lại những người bạn trẻ ngày xưa như các Ô. Đỗ Hùng, Huỳnh lương Thiện, Nguyễn trung Cao, Lại đức  Hùng đã cùng với Ông rong ruổi trên những chặng đường dài đi đây đi đó để đấu tranh vận động cho một quê hưong VN không còn chế độ  Cộng sản nữa.
 Về chuyện đấu tranh , Ông  quan niệm " Đảng Cộng sản  VN không xứng đáng để phải hoà hợp, hoà giải với họ . Ông đấu  tranh cho thế hệ  mai sau.  Đấu tranh không phải là " hận thù "
 Kết thúc buổi gặp gỡ, Ông Vũ văn Lộc, giám đốc Hội quán VN IRCC cám ơn  sự  tham dự của  quan khách và tiếp tục giới thiệu về buổi ra mắt sách cuả bà Mỹ Dung ( Dung Krall ) đến từ Georgia  với cuốn sách mang tên " Ngàn giọt lệ rơi " vào ngày mai  Chủ nhật 16/5/2010  vào lúc 1 giờ chiều cũng tại địa điểm này.
  Được biết buổi ra mắt này, Ban tổ chức cho biết: Trưởng ban tổ chức,MC, người  giới thiệu tác giả, giới thiệu tác phẩm đều là phụ nữ. Buổi ra mắt sách " ngàn giọt lệ rơi" vào dịp Lễ hiền Mẫu để tưởng niệm một Bà Mẹ VN không còn nữa. Người chồng, một  đảng viên cao cấp Cộng sản và con trai út là phi công QLVNCH đã nằm yên trong lòng quê hương. Mộ phần cúa Bà  và người con trai trưởng , nguyên sĩ quan phòng không tên lửa của Hà Nội, vượt biên tìm tự do đã cùng an táng tại Hoa Kỳ.VodaiTon.jpg picture by tuongpham
 Kính mời quý vị tham dự .
 
 

Hình 1 : Từ trái sang phải Ô. Võ đại Tôn, Ô. Phạm phú Nam ( Ảnh của nhiếp ảnh gia Huỳnh minh Nhựt )

 
 

Chuyện vòng vo.
Nguyễn Phước Đáng

 Xin  chuyển đến quý vị một bài viết của nhà báo Nguyễn phước Đáng : Chuyện vòng vo nhân buổi ra mắt sách của Ô. Võ đại Tôn vào lúc 1 giờ trưa ngày Thứ Bảy 15/5/2010.
 
 Hình 1: Ông Võ đại Tôn ( Hình của Ô. Nguyễn phước Đáng )
VodaiTon1.jpg picture by tuongpham
 
 
Hình 2: Từ trái sang phải : Bà Ngọc Bích, Bà Tuyết Mai tay cầm bó hoa ( phu nhân Ô. Võ đại Tôn ), Ô. Võ đại Tôn và một vị không biết tên ( Hình của Nguyễn phước Đáng )
 
VodaiTon2-2.jpg picture by tuongpham
 

Chuyện vòng vo.

(Tham dự buổi RMS của ông Võ Đại Tôn)

 

 Năm 1993, tôi sang được Hoa Kỳ, đoàn tụ với 2 thằng con vượt biển đến đây từ năm 1981.  Mấy tháng sau, nghe thằng Út kể:

– Năm đó con và Anh Vĩnh bỏ Cali, giông tuốt qua Colorado để học.  Anh Vĩnh vô được Đại học Boulder.  Ảnh ở nội trú.  Ảnh chăm chỉ học như ba căn dặn.  Con học ở Denver.  Chị Mai (lúc đó là bồ của Anh Vĩnh), từ VN gởi qua cho ảnh một số sách của Cộng Sản, của VNCS.  Một số bạn của ảnh thấy được.  Bọn Sinh viên trong Hội Sinh Viên Boulder định “làm thịt ảnh”.  Con từ Denver, biết được, bèn chạy lên Boulder, gặp bọn SV ở đó.  Con can thiệp, cho biết ảnh là anh ruột của con.  Con nói “Ba tao là sĩ quan QLVNCH, bị tù cải tạo của VC.  Bọn tao vượt biển sang đây, vào Mỹ với tư cách tị nạn Cộng Sản, làm sao anh Vĩnh tao là VC, là thân Cộng, mà tụi bây định làm dữ…”  Họ nghe con, vì lúc đó con là đoàn viên trong ‘Chí Nguyện Đoàn’, một tổ chức của Chiến sĩ Võ Đại Tôn bên Úc.  Lúc đó Bà Đỗ Mùi là xếp sòng của tụi con….

 Tôi không biết “chiến sĩ” Võ Đại Tôn, cũng không biết thi sĩ Hoàng Phong Linh, tôi lại nghĩ Võ Đại Tôn, Hoàng Cơ Minh chỉ còn là những người hùng dĩ vãng thôi, nên tôi không có dự tính đến tham dự buổi RMS và “Nói Chuyện Tâm Tình” của ông trong ngày 15-5-10.  Nhưng nhớ lại lời thằng con Út nói năm xưa, tôi lại quyết định đi xem cho biết mặt con người đã đấu tranh vang lừng một thời, mà từ Úc đã làm lay động được bầu nhiệt huyết của thằng Út nhà tôi, bỏ thì giờ vừa làm SV vừa làm “quân” trong “Chí Nguyện Đoàn” của chiến sĩ Võ Đại Tôn (Lúc đó VĐT chưa trở về VN để bị bắt).

 

****

 

Hội trường thưa thớt, còn rất nhiều ghế trống.  MC Đỗ Hùng so sánh, trước kia, khi Ông VĐT đến đây, có hằng 4 – 5 nghìn người chào đón và lắng nghe ông nói chuyện.  Nay chỉ có trên dưới 100 người.  Ý nghĩ “chỉ còn là người hùng trong dĩ vãng” lúc ban đầu của tôi được củng cố thêm.

Nghe ông Vũ Văn Lộc nhắc lại, cách mơ hồ, về 2 cuộc họp báo do VC tổ chức để “người tù” VĐT phát biểu, lần đầu chỉ có ký giả trong nước, lần sau có cả ký giả ngoại quốc.  Tôi mơ hồ hiểu ra, chính cuộc họp lần đầu đã di hại cho thanh danh của ông Võ Đại Tôn, vì những phát biểu lúc đó của ông chắc có lợi cho CSVN (được báo chí VN đăng lại thành bằng chứng “giấy trắng mực đen”)

Phần quan trọng trong buổi RMS là phần “nói chuyện tâm tình” của tác giả Hoàng Phong Linh (tức chiến sĩ Võ Đại Tôn).

Ông Võ Đại Tôn năm nay 75 tuổi, nhưng dáng vẻ còn quắc thước, bước đi vũng chắc, tiếng nói mạnh, cách nói thật hùng biện.  Ông không giấu giếm chuyện ông vừa mới sang đến Nam Cali thì đã thấy những bài trên Net, trên báo tố ông là nằm vùng cho VC, là phản bội… Ông rất buồn, nhưng hứa không bao giờ bỏ cuộc.

Ông không coi trọng chuyện RMS, vì ông không chủ tâm đi bán thơ của mình để kiếm tiền, mà ông cần đi thăm “gia đình” (tôi hiểu 2 tiếng “gia đình” có nghĩa là những bạn bè thân quen từ lúc xưa).  Và ông muốn thưa chuyện với cử tọa, thưa chuyện dong dài có mất thì giờ.  Ông kể 3 chuyện trên những chặng đường đấu tranh ông đi qua:

1) Chuyện Cá Ông.  Lúc mới sang Úc ông đã gặp đoàn người biểu tình kêu gọi cứu đàn Cá Ông bị lâm nạn, ông cật vấn BTC và trách móc sao “Con Người” VN bị chết trên biển cả mà không được “Con Người” nói đến, mà lại để hết tâm vào những con “Cá Ông”.  Ông chê trách cả thế giới không quan tâm đến những khổ nạn của dân tộc VN…

(Tôi nghĩ rằng ông VĐT vì quá xúc động, mà quá đà, chê trách rằng cả thế giới không quan tâm đến khổ nạn của dân tộc VN.  Thực ra cả thế giới từ Đông sang Tây đều đã viết, đã nói quá đầy đủ, quá nhiều, về những đày đọa, khổ nhục của người Việt, về những việc gian ác của VC, tưởng chừng không giấy mực nào ghi lại hết được tất cả.  Thế giới đã ước tính số người vượt biển đến được bến bờ tự do chừng 2/3.  Còn 1/3 đã chết trong lòng biển cả.  Nếu thoát ra được 500,000 người, thì đã bỏ thây trên biển hết 250,000 người.  Con số thật thê thảm, cả thế giới đều biết và buồn đau cho dân tộc VN!!!)

2) Chuyện con ruồi.  Năm 2009, ông VĐT đọc thấy trên báo kể chuyện Tổng Thống Mỹ họp báo tại Tòa Bạch Ốc, bị con ruồi cứ bay đến đậu trên bàn tay TT.  Đuổi hoài không được, sau cùng TT dùng bàn tay đập chết con ruồi.  Ấy vậy mà nhóm người “bảo vệ thú vật” đã rùm beng chê trách Tổng Thống Mỹ “tàn nhẫn” với… loài ruồi!  Ông VĐT so sánh con ruồi với “Ba Cô”, 3 thiếu nữ VN vượt biển chạy trốn chế độ CSVN, bị hải tặc hãm hiếp,, mình đầy thương tích, trôi tấp vào bờ biển Mã Lai, 3 cô treo cổ chết, khiến người Mã Lai lập miếu thờ, tên là Miếu “Ba Cô”.  Ông than phiền, thân phận 3 thiếu nữ, thân phận người Việt không bằng con ruồi ở nước Mỹ tự do.  Ông đã khóc vì nghĩ đến thân phận người Việt đồng bào!…

3) Chuyện Cô Hoàng Dung Bắc Kỳ Cộng Sản.  Trên chặng đường, sau khi Liên Xô sụp đổ, ông được mời sang Mat-cơ-va thuyết trình về nhân quyền.  Trong 3 ngày làm việc ông được cô Hoàng Dung là một cô gái lớn lên từ bé trong nền giáo dục CSVN, giúp ông thông dịch từ tiếng Việt qua tiếng Nga.  (Lớn lên, thấm nhuần chủ nghĩa CS, đến mức Đảng CSVN tín cẩn cử cô sang Liên xô du học về ngành Ngoại Giao.  Liên xô sụp đổ, cô ở lại.  Cô được BTC cử làm người thông dịch cho ông VĐT).  Sau đó, ngày ra phi trường trở về Úc, cô Hoàng Dung đã xin được nói chuyện riêng với ông VĐT ở một góc riêng, rằng cô vốn là một đứa trẻ mồ côi từ bé, cô xin ông VĐT chấp nhận cho cô được gọi ông bằng “Bố”.  Đó là “tình người”.  Từ đó, ông nhận chân cuộc chiến đấu với phe CS không phải vì thù hận, chiến đấu để trả thù, mà chiến đấu vì tình người, tình dân tộc Việt, cho con người được tự do dân chủ… Có người bảo rằng tư tưởng “không trả thù” của ông là tư tưởng hòa giải hòa hợp.  Ông dứt khoát “Không!  Chủ nghĩa Cộng Sản, chóp bu CS, không xứng đáng để hòa giải hòa hợp!”

(Tôi nghĩ, chỉ trong 3 ngày làm việc, mà với tài hùng biện, ông VĐT đã hoán cải được tâm trí một con người từ tấm bé luân lưu trong huyết quản chủ nghĩa Cộng Sản.  Tuy cô Hoàng Dung chỉ đơn giản xin được gọi ông bằng “Bố”.  Nhưng điều xin nhỏ nhoi đó có ý nghĩa thật sâu sắc, ý nghĩa người CS “ngộ” ra, sau khi nghe chiến sĩ VĐT, mà khước từ chủ nghĩa Cộng Sản.  Tôi muốn cám ơn ông VĐT đã thay mặt người Miền Nam thuyết giảng đến mức thu phục, hoán cải được một người miền Bắc Cộng Sản, ngay chính tại cái nôi Cộng Sản Liên Xô.)

Sau cùng, ông VĐT nói lên cái tâm tình nghe thật bi thiết:

– Tôi đến với các quí vị không phải để XIN PHIẾU, không phải để XIN TIỀN, thậm chí cũng không phải để BÁN SÁCH KIẾM TIỀN, mà tôi đến để xin quí vị một điều, “TÔI XIN QUÍ VỊ CHO TÔI ĐƯỢC CÙNG ĐỨNG TRONG HÀNG NGŨ CỦA QUÍ VỊ ĐỂ ĐẤU TRANH CHO DÂN TỘC VN ĐƯỢC SỚM TỰ DO DÂN CHỦ…”  Trân trọng kính chào quí vị.

            (Tôi thật ngậm ngùi khi nghe lời hạ mình cầu xin của chiến sĩ oanh liệt một thời Võ Đại Tôn.  Thưa ông VĐT, tôi không rõ nội tình giữa ông và Cộng Đồng người Việt, khiến ông phải buồn lòng mà hạ giọng ngỏ  lời như vậy.  Lý ra bọn trẻ, hậu duệ, phải nói ngược lại “Chúng tôi cầu mong có được tinh thần đấu tranh bền vững như Cụ Võ Đại Tôn, đấu tranh cho dân tộc VN lấy lại được tự do dân chủ, cho đến hơi thở cuối cùng, như Cụ từng dõng dạc tuyên bố…”  Tôi nghĩ, cũng vì buồn phiền, xúc động, mà ông VĐT lại quá lời trong việc nầy).

Ra xe về, sau buổi RMS và tâm tình của ông Võ Đại Tôn, tôi nhớ lại câu chuyện của thằng con Út, “Thuở đó, bọn con hăng say lắm, nghe tiếng kêu gọi của ông Võ Đại Tôn, sinh viên tụi con gia nhập ngay ‘Chí Nguyện Đoàn’.  Đâu có đứa nào ham hố, đòi giành chức vụ gì, chỉ nhào vô làm quân của ‘Chí Nguyện Đoàn’ thôi!”.

Ba cám ơn Út của Ba.  Nhờ lòng hăng say của con thuở đó, mà Ba đến tham dự buổi RMS nầy, để được thấy, được nghe tài hùng biện của ông Võ Đại Tôn, lúc tuổi đã 75 xế bóng, dù đã trở thành dĩ vãng.  Chắc lúc còn trẻ, ba mươi mấy năm về trước, hẳn ông Võ Đại Tôn còn hùng hồn, thu hút người nghe hơn nữa!

 

Nguyễn Phước Đáng.