Chuyện Chúng Mình Với Nhạc Sĩ Phạm Mạnh Đạt

Chuyện Chúng Mình Với Nhạc Sĩ Phạm Mạnh Đạt




Đàn bầu bài “Cám ơn”- Bùi H Nhựt




Bộ ảnh sinh hoạt của người Bình Dương xưa dưới thời Pháp thuộc

Bộ ảnh hiếm về cuộc sống sinh hoạt của người Bình Dương xưa dưới thời Pháp thuộc

Tỉnh Bình Dương ngày nay là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một xưa. Tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập tháng 12/1899, tách từ tỉnh Biên Hòa. Tháng 10/1956, tỉnh này được giải thể để thành lập tỉnh Bình Dương và một phần tỉnh Bình Long.

Khu chợ của thị trấn Thủ Dầu Một, tỉnh lỵ của tỉnh Thủ Dầu Một thời thuộc địa, ngày nay là thành phố Thủ Dầu Một trực thuộc tỉnh Bình Dương.

Một dãy phố buôn bán ở chợ Thủ Dầu Một thập niên 1920

Thời điểm này chưa có điện, mỗi góc chợ có một trụ đèn đường chiếu sáng bằng đèn dầu, có dây treo vào ròng rọc để hạ xuống thắp đèn mỗi tỗi hay để châm dầu. Ở cuối đường có mái nhà hình bát giác là chợ cá, phía sát bờ sông

Gánh hủ tiếu bán rong ở chợ Thủ Dầu Một thập niên 1920

Người dân mua bán ở bến đò chợ Thủ Dầu Một thập niên 1920

Những chiếc quang gánh thân thuộc của người Việt xưa nay hiếm còn thấy trên phố

Những chiếc lu khạp đặc trưng của vùng đất Thủ xưa nay – Hình chụp thập niên 1920

Bến phà cạnh chợ cá Thủ Dầu Một, chữ BAC trên biển hiệu, trong tiếp Pháp “BAC” có nghĩa là phà, đò ngang.

Thuyền chở hàng trên sông thập niên 1900

Con đường dọc bến sông thập niên 1920, có lẽ là đường Bạch Đằng ngày nay?!

Một bức ảnh khác chụp bến sông này

Một ngôi trường ở Thủ Dầu Một thập niên 1920

Một con đường rải nhựa ở Thủ Dầu Một thập niên 1920

Đường từ Thủ Dầu Một về Sài Gòn thập niên 1920

Doanh trại Vassoigne của quân đội Pháp tại Thủ Dầu Một thập niên 1920, trước 1975 là trường Công Binh của QLVNCH, ngày nay là trường Công Binh Bình Dương

Những dãy nhà kiên cố được xây theo kiến trúc Pháp của khu doanh trại

Giờ thể dục của học sinh trường Thiếu Sinh Quân trong khu doanh trại

Chùa bà Thủ Dầu Một thập niên 1920

Một ngôi nhà có kiến trúc độc đáo ở Thủ Dầu Một

Toàn cảnh đình Bà Lụa xưa

Nhà của một ngư dân Thủ Dầu Một.

Một cây cầu bắc qua sông ở làng Hưng Định, Thủ Dầu Một thập niên 1920

Một người dân đội nón lá đi qua cầu

Chợ Lái Thiêu ở quận Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một.

Chợ Lái Thiêu thập niên 1920 nằm sát bến sông

Lái Thiêu thập niên 1920 là một vùng đất giao thương sầm uất

Phát gạo cho người dân bản xứ trong nạn đói năm 1911 tại Đình Thủ Dầu ở Lái Thiêu

Xưởng vẽ tranh kính ở Lái Thiêu.

Xưởng nhuộm của dân địa phương tại Lái Thiêu.

Lò sản xuất đường mía ở Lái Thiêu.

Bỏ mía vào máy ép để lấy nước cốt mía làm đường

Chiếc máy ép mía thô sơ này hoạt động nhờ sức kéo của hai con trâu và một em bé ngồi trên trục quay để điều khiển. Mái nhà xưởng lợp ngói được dỡ ngói ra cho chiếu sáng vào chiếc máy, có lẽ để đủ ánh sáng chụp hình chi tiết, vì vào thời gian này chưa có điện ở đây và phim chụp còn là loại dùng hoá chất (gélatino-bromure) bôi lên kính.

Khu đồn điền trồng dứa ở Lái Thiêu.

Đồn điền mía và đường sắt ở tỉnh Thủ Dầu Một năm 1946.

Bến sông tại làng nghề gốm ở Lái Thiêu.

Một tòa nhà hành chính ở Lái Thiêu.

Cảnh họp chợ tại một ngôi làng ở Lái Thiêu.

Chùa Cô Hồn 1918, hiện nay là khu vực trường THCS Phú Cường, P.Phú Cường, TDM (?!)

Nguồn: Mạnh Hải Flickr

Theo Internet




CHUYỆN TÌNH CỦA THẦY GIÁO TÝ HON VỚI CÔ GÁI CAO 1m2

CHUYỆN TÌNH CỦA THẦY GIÁO TÝ HON VỚI CÔ GÁI CAO 1m2.

Đây là ĐÁM CƯỚI được nhiều người xem đông nhất ngày hôm nay tại Phan Rang, Ninh Thuận. Nguyễn Văn Hùng (31 tuổi) sinh ra ở Nam Đàn, Nghệ An. Thấy anh nhỏ bé so với các bạn, bố mẹ đưa anh đi khám mới biết con bị bệnh lùn tuyến yên vì thiếu hoóc môn tăng trưởng. Không còn cách nào, họ đành chấp nhận rằng anh mãi chỉ dừng lại ở chiều cao 1,17 m. Khi đó, anh mới 7 tuổi. Vì cơ thể thấp bé, thời còn đi học, Hùng luôn bị bạn bè trêu chọc. Không ít lần anh bị các bạn bồng bế như đứa trẻ trên tay. Những lúc như vậy, anh ngồi co mình lại một góc và khóc, rồi giấu cả nhà vì sợ mọi người lo lắng. Hết cấp 3, Hùng đi học Trung cấp Kỹ thuật tin học, rồi ra Trung tâm Nghị lực sống ở Hà Nội (trung tâm giáo dục cho người khuyết tật) học, và trở thành người quản lý đào tạo, giáo viên dạy công nghệ thông tin ở đây. Ở Ninh Thuận xa xôi, cô gái Lê Thị Diễm My (30 tuổi), cũng mắc chứng bệnh như anh Hùng, đã trúng tiếng sét ái tình ngay từ lần đầu tiên thấy anh xuất hiện trên tivi nói về câu chuyện của mình. Khi đó, trong mắt cô, chàng trai bé xíu ấy đầy nghị lực và tài giỏi. My chủ động liên hệ với anh, thổ lộ tình cảm nhưng anh từ chối.

Không nản lòng, My xin ra Hà Nội học nghề tại Trung tâm Nghị lực sống, nơi anh đang làm việc. Nhưng ở đây, Hùng vẫn luôn tránh mặt và hạn chế liên lạc với cô. Nhớ nhà, bỡ ngỡ trước cuộc sống mới và tình cảm không thuận lợi, 3 ngày liên tục My uống bia. Trong cơn say, cô gọi cho anh nấc nghẹn ngào. Những người bạn khác đã nhờ anh hỏi thăm và động viên cô. Cơ duyên này khiến đôi trẻ gần nhau hơn. Có lần, My phải đi khám bệnh. Nhiều ngày liên tiếp, anh đi xe đạp đưa My đi và chờ chở về rồi mới tất bật chạy đi làm. Lâu dần, Hùng nhận ra trái tim mình đã rung động. Từ đó họ gắn bó với nhau thực sự. Tuy vậy, hình hài nhỏ bé khiến không ít lần họ rơi vào tình cảnh khó xử khi đi chơi bên nhau. Có lần buổi tối họ ra ngoài công viên để tâm sự. Thấy “hai đứa trẻ” ngồi sát nhau ở bờ hồ, một số người đi tập thể dục chạy lại nhắc nhở. Biết tuổi thật của đôi bạn, những người này không tin. Có người nói: “Các cháu lừa bác. Trẻ con lừa người lớn là không tốt đâu!”.

Vài lần đi rạp xem phim 18+, họ bị nhân viên rạp đề nghị cung cấp giấy tờ tùy thân để chứng minh tuổi, ra khỏi rạp lại nhận thêm những ánh mắt thiếu thiện cảm. Mỗi khi lên phố đi bộ, thấy Hùng nắm tay bạn gái, những người xung quanh cười ầm ĩ vì tưởng họ là trẻ con.
“Chúng tôi đã quen với ánh nhìn của người khác như vậy”.

Giọng nói của cả hai đều nhỏ nhẹ như trẻ con nên không ít lần bị người ngoài nhầm lẫn. Có bận, My mua hàng trên mạng. Chủ cửa hàng nghe điện cứ nhắc đi nhắc lại: “Mẹ đâu con, cho cô gặp mẹ!”. Nghe cô bảo: “Em 30 tuổi rồi”, đầu dây bên kia ngập ngừng rồi xin lỗi.
Hiện tại, cả hai gia đình đều ủng hộ cho tình yêu này. Đôi bạn đã lên kế hoạch cho cuộc sống của mình và họ quyết định về chung một nhà , dù bệnh lùn tuyến yên khiến họ không thể có con. Hai người vẫn muốn gắn bó với công việc hiện tại, vì nó đem lại cho họ niềm vui trong cuộc sống. Hãy cùng nhau chúc phúc cho cặp đôi tý hon siêu đáng yêu này đi ạ…
(Nguồn: Fb John Glory Nguyen)




Xin Chào Việt Nam – Nghệ sỹ Violin JMI KO




Khi ‘Tiếng Việt’ được viết thành ‘Tiếq Việt’

Chúng ta nghĩ sao nếu chữ ‘luật giáo dục’ phải viết là ‘luật záo zụk’, ‘nhà nước’ là ‘n’à nướk’… Nhưng đó là cách viết cải tiến mà PGS-TS Bùi Hiền đề xuất trong một cuốn sách mới xuất bản gần đây. Điều này gây ra nhiều tranh luận không chỉ trong giới chuyên môn mà cả những người đang sử dụng tiếng Việt.

 

Chữ viết của tiếng Việt hiện tại chưa hợp lý?

Đó là cuốn sách Ngôn ngữ ở Việt Nam – Hội nhập và phát triển (tập 1) dày 2.200 trang, do nhà xuất bản Dân trí phát hành, nhân Hội thảo ngữ học toàn quốc được tổ chức tại Trường ĐH Quy Nhơn hồi tháng 9. Trong rất nhiều bài viết của các nhà ngôn ngữ học, có bài “Chữ quốc ngữ và hội nhập quốc tế” của tác giả Bùi Hiền với đề xuất cải tiến chữ viết tiếng Việt gây nhiều tranh cãi.

Khi 'Tiếng Việt' được viết thành 'Tiếq Việt' - ảnh 1
PGS-TS Bùi Hiền NVCC

 

PGS-TS Bùi Hiền (Nguyên Hiệu phó trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, nguyên phó Viện trưởng Viện Nội dung & Phương pháp dạy – học phổ thông) cho biết: “Từ năm 1924, khi toàn quyền Đông Dương ký nghị định cho phép dạy chữ quốc ngữ bắt buộc ở cấp tiểu học, trải qua gần một thế kỷ, đến nay chữ quốc ngữ đã bộc lộ nhiều bất hợp lý, nên cần phải cải tiến để giản tiện, dễ nhớ, dễ sử dụng, tiết kiệm thời gian, vật tư…”.
Những bất hợp lý mà PGS Bùi Hiền đưa ra, đó là hiện tại, chúng ta sử dụng 2, 3 chữ cái để biểu đạt một âm vị phụ âm đứng đầu. Ví dụ C – Q – K (cuốc, quốc, ca, kali), Tr – Ch (tra, cha), S – X (sa, xa)… Bên cạnh đó, lại dùng 2 chữ cái ghép lại để biểu đạt âm vị một số phụ âm đứng cuối vần như Ch, Ng, Nh (mách, ông, tanh…).
“Đó là những hiện tượng không thống nhất, không theo một nguyên tắc chung nào dẫn đến khó khăn cho người đọc, người viết, thậm chí gây hiểu nhầm hoặc không hiểu được chính xác nội dung thông tin. Người học như trẻ em hay người nước ngoài, cũng rất hay mắc lỗi do sự phức tạp này mang lại”, tác giả Bùi Hiền chia sẻ.
Từ đó, PGS Hiền kiến nghị một phương án làm cơ sở để tiến tới một phương án tối ưu trình nhà nước. Chữ quốc ngữ cải tiến của tác giả Bùi Hiền dựa trên tiếng nói văn hóa của thủ đô Hà Nội cả về âm vị cơ bản lẫn 6 thanh điệu chuẩn, nguyên tắc mỗi chữ chỉ biểu đạt một âm vị, và mỗi âm vị chỉ có một chữ cái tương ứng biểu đạt. Sẽ bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành và bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z. Bên cạnh đó, thay đổi giá trị âm vị của 11 chữ cái hiện có trong bảng trên, cụ thể: C = Ch, Tr; D = Đ; G = G, Gh; F = Ph; K = C, Q, K; Q = Ng, Ngh; R = R; S = S; X = Kh; W =Th; Z = d, gi, r. Vì âm “nhờ” (nh) chưa có kí tự mới thay thế, nên trong văn bản trên tạm thời dùng kí tự ghép n’ để biểu đạt.
PGS-TS Bùi Hiền cho biết: “Đề xuất của tôi có nhiều nhà ngôn ngữ họ thấy hợp lý vì chữ viết mới có một nguyên tắc thống nhất. Nhưng cũng có nhiều ý kiến phản bác vì cho rằng nếu cải tiến vậy sẽ phức tạp, có nhiều hệ lụy. Ví dụ kho tư liệu đồ sộ cũ chuyển sang chữ viết mới thì sẽ xử lý như thế nào. Và để thay đổi sẽ phải mất rất nhiều thời gian: thay đổi nhận thức, thay đổi cách học, cách dạy, sách giáo khoa cũng phải thay đổi, các văn bản, sách, báo, rồi lập trình chữ viết trên máy tính… Phải thay đổi từng bước một. Nhưng chỉ cần mất 1-2 năm là quen dần”.
Bù lại, theo PGS Hiền, cải tiến theo cách này sẽ thống nhất được chữ viết cho cả nước, loại bỏ được hầu hết các thiếu sót, bất cập không nhất quán trước đây gây khó khăn cho người dùng (dẫn mắc lỗi chính tả), giản tiện được bộ chữ cái khi từ 38 chữ cái chỉ còn 31, dễ nắm được quy tắc, dễ nhớ. Ngoài ra, còn tiết kiệm được thời gian, công sức, vật tư trong quá trình tạo lập các văn bản trên giấy, trên máy tính.
Sẽ mất đi sự tinh tế trong cách viết, đọc và phát âm của tiếng Việt
Chia sẻ về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ, PGS-TS Nguyễn Hữu Hoành, Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam cho biết, vấn đề này đã được các nhà ngôn ngữ học trao đổi, đề cập rất nhiều trong những năm qua chứ không riêng gì đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền.
“Tuy nhiên, không thể thay đổi được và cũng không nên thay đổi, vì chữ viết liên quan đến văn hóa, lịch sử và rất nhiều vấn đề khác. Ngay cả tiếng Anh, một ngôn ngữ phổ biến có nhiều chữ đọc và viết bất hợp lý mà cũng không ai nghĩ đến việc cải tiến. Đến nay, trải qua nhiều thế kỷ, tiếng Việt đã định hình và chữ quốc ngữ đã tồn tại cả thế kỷ với kho tư liệu đồ sộ từ lúc hình thành đến bây giờ”, PGS-TS Nguyễn Hữu Hoành nhìn nhận.
GS-TS Bùi Khánh Thế (chuyên ngành ngôn ngữ học, Phó Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo Trường ĐH Ngoại ngữ-Tin học TP.HCM ), cũng cho rằng, từ năm 1997, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM đã tổ chức hội thảo Chữ quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt, với 32 bài viết từ các chuyên gia ngôn ngữ. Từ đó đến nay cũng có rất nhiều hội thảo, chuyên đề đề cập tới việc nên giữ hay cải tiến.
Nói về đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền, giáo sư Bùi Khánh Thế cho biết: “Có một số bất hợp lý, chẳng hạn ký tự q lại thay thế cho chữ ng, z thay gi, c thay tr, ch… Chưa kể làm vậy sẽ mất đi sự tinh tế trong cách viết, đọc và phát âm của tiếng Việt. Từ lúc hình thành cho đến nay, tiếng Việt có nhiều âm thay đổi nhưng chữ viết vẫn giữ nguyên. Đó chính là sự bền vững cần có, chỉ những gì bất hợp lý mới mất đi”.
Theo GS-TS Bùi Khánh Thế, càng đổi mới thì càng bị rối. Đó là chưa kể, sẽ phải tốn rất nhiều thời gian, công sức và kinh phí để thay đổi. Vì thế, đối với chữ quốc ngữ, nên tìm cách chú ý khắc phục những cái khó, hơn là cải tiến.
 

Một ví dụ PGS-TS Bùi Hiền đưa ra được viết bằng 2 kiểu chữ hiện thời và cải tiến

 

LUẬT GIÁO DỤC

Điều 7. Ngôn ngữ dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác; dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số; dạy ngoại ngữ.
1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướng chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
2. Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
3. Ngoại ngữ quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần đảm bảo để người học được học liên tục và có hiệu quả.

Một ví dụ về chữ viết hiện tại và chữ viết cải tiến theo đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền /// M.Q

Một ví dụ về chữ viết hiện tại và chữ viết cải tiến theo đề xuất của PGS-TS Bùi HiềnM.Q
https://thanhnien.vn/giao-duc/khi-tieng-viet-duoc-viet-thanh-tieq-viet-903068.html