TRUYỆN NGẮN: Bão Tuyết & Biên Khảo: CHỦ ĐẠO VĂN HÓA VIỆT NAM – Chu Tấn

BÃO TUYẾT (truyện ngắn) * Chu Tấn

tranh “Haystacks trong tuyết” của Frank Marc

Trong ta là núi là rừng,

Là trăm câu hát đã dừng trên môi.

(Hoài Khanh)

1

Ông Bình đang ngồi uống trà thì Lan ra phòng khách, ngồi đối diện với ông, lên tiếng:

– Thưa chú, chắc chú Niệm đã nói chuyện với chú về cháu và việc cháu đến nhờ chú trong thời gian mới đến Mỹ.

Ông nhìn Lan một lúc, rồi nói:

– Chú Niệm không nói với chú nhiều về Lan, chỉ có một bức thư ngắn nói Lan qua Mỹ theo diện du lịch, sẽ đến Chicago và nhờ chú cho Lan tá túc và chỉ dẫn Lan những điều cần trong thời gian sống ở Mỹ – Ông ngừng lại một lát: Ở nhà chú thì dễ dàng, ở bao lâu cũng được. Nhưng chú muốn biết Lan sẽ ở lại Mỹ bao lâu và sẽ đi những đâu?

Lan ngạc nhiên:

–  Như vậy là chú Niệm không nói rõ mục đích qua Mỹ của cháu.

– Có thể không tiện nói. Qua điện thoại mấy lần, chú Niệm cũng chỉ nói chừng đó.

Lan ngẫm nghĩ một lúc:

– Thưa chú, chồng cháu mất cách đây hơn một năm, và một người bạn thân của cháu ở Chicago đã giới thiệu cháu cho người bạn Mỹ của chồng chị ấy, một kỹ sư vi tính tên là John, ly dị vợ và muốn tìm một người vợ Việt Nam. Không muốn phải kéo dài thời gian qua liên lạc thư từ, nên cháu đã dùng chuyến du lịch này để kết hôn với John và ở lại Mỹ luôn.

– Lan có nói với John về ý định này trước khi qua Mỹ?

– Lan đã nói và John rất vui, vì cũng mong muốn như thế.

Ông Bình cười:

– Như vậy thì ổn rồi. Lan sẽ về nhà John sớm.

Lan nói:

– Thưa chú, Lan cũng chỉ mới liên lạc thư từ và điện thoại mấy tháng. Lan cần tìm hiểu thêm khi gặp nhau. Vì thế xin chú cho Lan ở đây tới ngày làm giấy kết hôn với John. Nhưng Lan không đi luôn đâu, sẽ trở về thăm chú. Vì thành phố Elgin, nơi John sống, ở vùng phụ cận thành phố Chicago.

Ông Bình nói:

– Cám ơn Lan là chưa đi đã muốn trở về. Có nhiều gia đình người Việt ở đây, con cái lớn lên đại học là tìm cách ra ở riêng, ít khi về nhà. Có lẽ chúng không tìm thấy niềm vui nào khi sống cùng cha mẹ.

– Chắc chúng theo cách sống của bạn bè Mỹ.

Ông gật đầu:

– Chúng thích sống tự do như người Mỹ. Mười tám, đôi mươi là có bồ bịch. Chúng không muốn phải sống dưới tầm mắt của cha mẹ. Vì thế đời sống già ở Mỹ rất buồn. Thường thì chỉ hai người già. Khi ông hay bà mất một thì đời sống của một người lại càng cô độc. Có một số ông tướng Việt Nam Cộng Hoà, con cái thành công, nhưng về già cũng phải vào Nursing home – Ông ngừng lại, rót trà vào tách uống mấy hớp, rồi để xuống:

– Thế còn gia đình Lan, ông bà thân sinh và anh em?

Lan thưa:

– Dạ, Lan còn ba má, một em trai và một em gái. Ba má Lan vẫn đi làm, còn hai em thì đang học đại học. Phần Lan thì số phận không may, lấy chồng cách đây 3 năm, sống với nhau được hơn một năm thì anh ấy mất vì tai nạn xe.

– Thế Lan học ngành gì và làm gì ở Sài Gòn?

– Dạ, Lan học đại học ngoại ngữ và làm ở công ty du lịch.

Ông Bình cười:

– Vậy là Lan chọn đúng nghề, đúng khả năng.

– Sao chú lại nói vậy?

– Làm du lịch thì phải duyên dáng, linh hoạt và khéo léo. Lan có nhiều ưu điểm trong ngành này, nhất là nét mặt sáng và tươi.

Lan cười, nói:

– Cám ơn chú quá khen. Thật sự Lan muốn dạy học, nhưng theo ngành giáo dục thì thu nhập quá thấp, nên phải bước qua du lịch.

– Nhưng khi đi vào ngành du lịch Lan thấy thế nào?

– Dạ, du lịch cho Lan tiếp xúc nhiều, có cơ hội đi và luyện nghe và nói tiếng Anh.

Ông gật đầu:

– Với cái vốn đó, Lan dễ thích ứng với đời sống ở Mỹ. Nhưng tại sao lại bỏ nghề, đi tìm chồng ngoại quốc?

– Thưa chú, đó là một cách để từ giã Việt Nam. Bây giờ người ta tìm mọi cách để ra khỏi nước, nhất là qua Mỹ. Con cái cán bộ cấp lớn thì đi du học, những người giàu có thì đem tiền vào Mỹ đầu tư, còn những người khác như Lan thì tìm đường bằng hôn nhân. Những người nghèo không thể qua Mỹ, qua Pháp, qua Canada thì tìm đường qua Hàn, qua Đài loan, qua Malaysia, qua Phi Châu bằng cái cầu đi lao động nước ngoài – Lan ngừng lại hỏi: Chú vượt biên năm nào?

– Năm 1984.

– Năm 84 Lan mới sanh, nhưng lớn lên thì biết là những năm đó người ta liều chết vượt biên, phó thác số mệnh cho rừng, cho biển, nhưng nếu thoát được rừng biển thì có Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đón nhận. Bây giờ cũng thế, ai cũng muốn ra đi, nhưng không thể vượt biên như trước, nên người ta vượt biên bằng những cách khác như Lan vừa nói – Lan ngừng lại một lúc rồi tiếp với giọng buồn: Ai cũng muốn ra đi, muốn từ bỏ quê hương, nên chỉ trong ít năm mà qua đường hôn nhân, những cô gái Việt qua được Đài Loan và Hàn quốc lên tới hàng trăm ngàn. Và biết bao nhiêu người khác phải đút tiền để được đi làm thuê ở những nước như Hàn, Đài Loan, Mã Lai, cả những nước ở Trung Đông, rồi trốn ở lại không về.           

Ông Bình nói:

– Về thì lại sống vất vưởng và vô quyền trên quê hương mình, nên người ta thà chọn cách sống bất hợp pháp ở xứ người, nhưng có việc làm, có tiền gửi về giúp gia đình. Đời sống đó vô định, nhưng có lẽ vẫn tốt hơn ở Việt Nam.

– Thưa chú, Lan cảm thấy xấu hổ khi hàng năm nhà nước loan tin có vẻ hoan hỷ về tổng số người được được đi lao động ở các nước. Trước khi qua đây, Lan đọc một bài báo trên mạng nói là người Hàn qua Việt Nam để làm chủ, vì họ có những công ty ở Việt Nam, còn người Việt qua Hàn chỉ để làm thuê, làm người ở.

– Lan sẽ buồn hơn, nếu biết rằng năm 1975, miền Nam Việt Nam, tuy phải đương đầu với cuộc chiến do chế độ Cộng Sản miền Bắc gây ra, nhưng phát triển hơn Hàn và mức sống cao hơn Hàn. Thế mà chỉ sau hơn 30 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Việt Nam thống nhất đã tụt hậu như thế.

Ông Bình đứng dậy cầm bình trà, nhưng Lan đã giơ tay đỡ bình:

– Chú để Lan pha trà.

Ông Bình đưa Lan bình trà, rồi theo Lan ra bếp, vặn nước vào chiếc bình điện Breville. Sau khi rửa bình và cho vào bình 2 thìa trà, Lan đến bên ông tò mò nhìn chiếc bình điện:

– Bình nấu nước này lạ và đẹp, Lan mới thấy.

Ông Bình gật đầu:

– Loại bình này chú cũng mới biết, rất tiện vì nước mau sôi và có nhiều độ sôi cho các loại trà – ông chỉ vào một dẫy vòng tròn trên nền bình: Đây này, nếu pha trà xanh thì nhấn vào đây, green tea, trà trắng nhấn nút white tea, trà oolong nhấn nút oolong và trà đen nhấn nút black tea. Nhưng không muốn rắc rối nên chú chỉ dùng một nút black tea, mặc dù trà chú uống là oolong. Lan nhấn nút này và chỉ chừng 7 phút là nước sôi – ông nói rồi đi lên phòng khách.

Chừng 15 phút sau, Lan đem bình trà lên, tráng chén rồi rót ra 2 chén, để một chén trước ông Bình:

– Chú uống nước, trà thơm quá, chỉ mới tráng đã thấy ngát hương.

– Cám ơn Lan, trà này của Đài Loan, tên là Thiên Lộ của hãng trà Thiên Nhân, có đại lý khắp các thành phố trên nước Mỹ, và có thể khắp thế giới, ở những nước có người Tàu.

Ông uống chén trà rồi nói:

– Chuyện Việt Nam nói không cùng mà chuyện nào cũng buồn cả. Chú ở Mỹ chỉ theo dõi báo mạng cũng đã thấy ngột ngạt khó sống, nói chi người dân phải sống dưới chế độ đó.

– Thưa chú, chính vì thế mà giàu nghèo, ai cũng muốn ra đi. Như cháu có nghề nghiệp sống được, nhưng là sống trong một xã hội hỗn loạn, quá nhiều cái xấu, nên thấy đời sống bất an. Lan không đến nỗi như mấy cô, xin lỗi chú, phải khỏa thân cho mấy ông Hàn quốc ngắm nhìn, sờ nắn để mong được mấy ông ấy mua về làm vợ, nhưng cũng không khác bao nhiêu, vì cũng kiếm cách qua đây để tìm một người khác chủng xa lạ, mong được họ mua để khỏi phải trở về nước – cùng với lời nói, Lan cúi xuống lấy tay áo thấm những dòng nước mắt.

Ông Bình im lặng chờ cho Lan qua cơn xúc động, rồi nói:

– Vì hoàn cảnh đất nước nên cuộc đời bắt thế. Nhưng Lan sẽ may mắn vì người Lan gặp sẽ cầu mong được kết hôn với Lan, chú chắc vậy – Ông đứng dậy, đến bên Lan, đập khẽ vào đầu cô gái và nói: Đi ngủ đi. Từ ngày mai sẽ có nhiều điều vui đến với cô. Đừng khóc như thế.

Lan khẽ “dạ”, rồi đứng dậy đi về phòng.

Ông Bình đi đến chiếc piano, ngồi xuống nhìn phím đàn đen trắng hình dung lại một video clip mới coi, trong đó mấy chục cô gái khỏa thân xếp hàng dựa vào tường trong một phòng rộng, rồi từng cô lần lượt ra giữa phòng bỏ chiếc khăn trắng che trước bụng để mấy ông Hàn đến mua vợ ngắm nhìn như mấy bà đi chợ mua gà hết coi lông đến nắn lườn xem gà gầy, mập. Một cuộc thi khó, vì mấy chục cô dự thi mà chỉ có chừng 4, 5 ông tới mua. Ở thế kỷ 21 mà lại phát sinh kiểu đi tìm mua phụ nữ như người Mỹ da trắng đi mua nô lệ da đen ở thế kỷ 19, mà cũng chỉ ở Việt Nam mới có tình cảnh phụ nữ khỏa thân cho đàn ông nước ngoài đến kén chọn để mong được họ mua đem ra khỏi quê hương mình. Nghĩ đến tiếng khóc của Lan, ông bỗng xúc động, nhắm mắt lại để mặc cho những giọt nước mắt nhỏ xuống phím đàn. Khi mở mắt ra nhìn lại màu đen trắng, ông lấy tay áo chùi mắt, đập hai tay xuống phím đàn, những giọt âm thanh của Clair de lune đã đưa ông ra khỏi sự xung động rồi theo nếp quen, bàn tay đi vào âm thanh của Bài Thơ Hoa Đào, Ai Lên Xứ Hoa Đào.

2

Lan ngồi bên cửa sổ, nhìn ra khu vườn rộng âm u với ánh đèn đường xuyên qua những tàn lá. Nàng ngồi như thế đã cả giờ, lắng nghe tiếng dương cầm ngoài phòng khách vọng vào, và hình dung dáng ông Bình theo âm thanh lúc trầm bổng, lúc cao vút, lúc rộn rã. Hẳn lúc này ông đang cúi gập người theo giòng âm thanh đuổi nhau như lá cuốn theo gió trên đường. Rồi tiếng đàn ngừng bặt và ngôi nhà lại rơi vào im lặng như khu vườn âm u.

Lan ra phòng khách, đến ngồi đối diện với ông. Ông nâng ly rượu màu hổ phách uống một hớp, rồi để xuống bàn, ngước nhìn Lan:

– Qua đây cũng đã được 3 tuần, Lan cảm thấy gì?

Lan thưa:

– Sự yên ổn, chú ạ. Chú cứ tưởng tượng đến một đời sống bất an kéo dài thì sẽ cảm được sự yên ổn đó. Yên ổn vì chú là một chỗ dựa cả vật chất lẫn tinh thần mà người Lan sẽ gọi là chồng cũng không xa với những điều Lan mong cầu. Lan không ngờ đời mình lại gặp được sự may mắn này.

– Rồi những ngày không có Nhung hay John đến chở đi chơi, một mình ở nhà Lan thấy sao?

Lan ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

– Nhà chú thuộc khu ngoại ô, ở cuối con đường cụt, lại ở cạnh một nghiã địa cổ. Nếu chỉ một mình thì Lan không bao giờ dám ở đây. Vì thế Lan ngạc nhiên là tại sao chú lại chọn một nơi như thế này. Một mình trong một tòa nhà với vườn rộng, cây cao, như tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, nhìn từ ngoài đường giống như một ngôi nhà hoang.

Ông đặt ly rượu xuống bàn:

– Thật ra, nếu mua nhà thì chú không bao giờ chọn khu vực này. Nhưng đây là nhà của của ông bà Adams, người đã bảo lãnh và giúp chú từ những ngày đầu vào Mỹ. Vì không có con, nên ông bà đã nhận chú là con, và khi qua đời, ông trước bà sau, đã để lại ngôi nhà này cho chú. Sống ở đây đã trên 20 năm, chú thấy đời mình đã hòa nhập vào cái khung cảnh liêu trai này.

Lan nhìn ông một lúc:

– Đó cũng là điều Lan suy nghĩ về đời sống của chú. Khi ở Việt Nam, nghe chú Việt nói về chú, Lan nghĩ chú sống ở Mỹ lâu chắc sẽ có một cuộc sống hướng ngoại sinh động. Nhưng khi qua đây Lan thấy điều mình nghĩ không đúng. Chú đã có một đời sống khác hẳn với những gì Lan hình dung ở Việt Nam. Vì ngoài việc đi làm thì chú ít giao tiếp, ít bạn bè, gần như xa lánh xã hội bên ngoài. Sự sinh động của tòa nhà là tiếng đàn piano trong đêm, còn ngoài ra là sự yên lặng. Mấy tuần nay Lan ngạc nhiên vì đêm nào chú cũng đàn hai bản Bài Thơ Hoa Đào và Ai Lên Xứ Hoa Đào trước khi ngừng đàn và đoán là có lẽ do chú sống ở Đà lạt, nên gắn bó với những bản nhạc viết về thành phố sương mù này – Lan ngừng lại, nhìn lên hai bức ảnh lớn treo trên tường một lúc, rồi nói: Cả sự trang trí nữa, Lan cũng thấy lạ. Chú treo bức ảnh của cô đối diện với bức ảnh Biển Động, một mỹ nhân hong tóc bên hiên nhà trước Biển Động với những lớp sóng cuồn cuộn dâng cao dưới bầu trời đỏ ối, một cảnh tượng đầy sự đe dọa. Trong một phòng khách rộng thế này mà chỉ có hai bức ảnh, người và biển, thì Lan có thể liên tưởng đến một thảm kịch vượt biên và chú đã mất cô trên những ngọn sóng kia – Lan bắt gặp nét mặt xúc động của ông, nên ngừng lại một lúc, rồi tiếp: Theo Lan hiểu thì người ta thường cố gắng tìm quên những vết thương với thời gian, còn chú lại khác, chú đã dùng hai bức ảnh kia như con dao hàng ngày chém vào vết thương của mình và nếu điều Lan suy luận đúng thì đó là nguyên nhân đời sống cô độc của chú.

Ông Bình nhìn Lan, vẻ ngạc nhiên:

– Lan nhìn ảnh mà luận được như thế thì thật hay. Có điều chỉ đúng phần khung cảnh, còn sự việc thì khác. Tất nhiên Lan không thể suy đoán xa hơn. Chỉ có người trên con tàu giữa biển lúc đó mới biết sự việc. Nhưng đã biết chú và coi chú như chú Việt thì mai kia sẽ hiểu. Chuyện xưa cứ để đó không vội chi.

– Thế sau khi vượt qua được đại dương kia, chú đến đâu?

– Chú đến được đảo Bidong thuộc Mã Lai, rồi đi Mỹ năm 85.

– Sao chú không chọn Cali hay mấy bang phía nam mà lại chọn Chicago, miền tuyết lạnh?

Ông cười:

– Chú thuộc diện không có thân nhân ở Mỹ và được ông bà Adams bảo trợ, nên chú về Chicago và ở Chicago, trong ngôi nhà này từ đó đến nay.

– Năm chú mới đến, Chicago có chừng bao nhiêu người Việt?

– Khoảng 6, 7 ngàn, ở rải rác nhiều nơi, nhưng tập trung nhiều nhất ở vùng Uptown, khu vực mà chú đã đưa Lan tới ăn phở, ăn cơm. Con đường Argyle và mấy con đường quanh đó là trung tâm thương mại và dịch vụ của Cộng Đồng Người Việt ở Chicago.

Lan nói:

– Con đường đẹp với những cửa hiệu sang trọng. Hôm đi với chú, Lan có cảm tưởng là đi trên một con đường buôn bán ở Sài Gòn, vì bảng hiệu tiếng Việt và nghe toàn tiếng Việt. Nhưng ngày chú mới đến, con đường đó đã như thế chưa?

Ông Bình lắc đầu:

– Chưa, ngày đó, con đường mới thành hình là nơi làm ăn, thương mại của người Việt và người Tàu biết nói tiếng Việt với một số cửa hàng, chợ, tiệm sách, nhạc, tiệm thuốc bắc, nhà cửa cũ kỹ. Rồi mỗi năm mỗi thay đổi, không những ở đường Argyle mà lan ra những con đường quanh khu vực đó. Đi quanh những con đường gần Argyle, Lan sẽ thấy toàn là người Việt và đa số dân Việt ở vùng Uptown là dân ở nhà thuê – ông cười: Cứ bước lên thang một building 3, 4 tầng là ngửi thấy mùi nước mắm và cá kho. Nhưng khi làm ăn khá giả thì người ta lại mua nhà ở những khu xa hơn hay mua building ở đó cho người Việt thuê.

Lan nhận xét:

– Mấy lần đi với chú trên đường Argyle và 2 con đường lớn gần đó, Lan ít thấy Mỹ trắng, chỉ thấy Mỹ đen lảng vảng ở ngoài mấy chợ và ở mấy ngã tư.

– Họ lảng vảng trên mấy đường Argyle, Winthrop, Kenmore, Sheridan… vì nhà họ gần đó. Chú là người đến sau, nên không biết nhiều về sự khởi đầu của người Việt ở khu vực Uptown, còn theo sự kể lại của những người mới đến định cư ở vùng này thì sự khởi đầu của người Việt ở đây cũng khá chật vật, vì đụng phải dân Mỹ đen mà vùng của dân Mỹ đen thì luôn đi kèm với nhiều tệ nạn trộm, cướp và ma túy. Nhưng sức sống và sự can đảm của người Việt đã đẩy lùi Mỹ đen và phát triển vùng này thành một khu thương mại và dịch vụ phồn thịnh như Lan đã thấy – Ông cười: Phải nói rõ hơn là của người Việt, người Hoa và Việt gốc Hoa. Người Hoa và Việt gốc Hoa chiếm lãnh chợ, nhà hàng lớn, người Việt làm nhà hàng nhỏ và văn phòng dịch vụ các loại.

Lan cười:

– Thảo nào Lan thấy nhiều biển hàng chữ Tàu với chữ Việt.

– Một thầy thuốc bắc người Việt gốc Hoa, chú quen do uống thuốc của ông, cho biết là Cộng Đồng Thương Mại người Hoa ở khu Uptown muốn biến khu thương mại ở đây thành một Chinatown mới, vì Chicago đã có một Chinatown lâu đời cả trăm năm ở phía nam.

– Theo chú, họ làm được không?

– Chú nghĩ họ muốn lấn người Việt, vì họ làm ăn lớn và đoàn kết theo kiểu Tàu với bang hội, còn người Việt chỉ làn ăn nhỏ. Về tương lai xa, vài chục năm thì chưa biết thế nào, còn tương lai gần thì khó thành vì người Việt ở Uptown chiếm đa số mà đơn vị thương mại và dịch vụ cũng nhiều hơn.

– Từ ngày định cư ở Mỹ đến nay chú đã về Việt Nam lần nào chưa?

Ông Bình lắc đầu:

– Chưa, chỉ biết đời sống Việt Nam qua báo chí và thấy rằng Việt Nam bây giờ quá khác với Việt Nam thập niên 1980. Phồn thịnh hơn do bỏ chế độ kinh tế tập sản trở về với tư nhân và mở cửa làm ăn với các nước tư bản, nhưng xã hội cũng xuống cấp ghê gớm hơn với tham nhũng, bất nhân và bạo lợi. Cái khác đó chẳng có gì vinh quang, trái lại đã đưa xã hội tới chỗ tan rã tinh thần, tàn phá con người khi áp chế, lợi và tiền đã ác hóa con người và xã hội.

– Đúng vậy chú ạ. Lan thấy rõ là dối trá, hung hãn và tội ác đã trở thành phổ biến ở Việt Nam. Người ta quan niệm không biết nói dối, lừa đảo là ngu, không dám hung hãn là nhát. Còn tội ác thì rộng khắp, báo chí đầy ắp những tin tức cướp giật, hãm hiếp, giết người tàn bạo, con giết cha, cháu giết bà, chồng giết vợ, vợ giết chồng. Riêng Lan đã biết rõ một chuyện, có lẽ chỉ xảy ra ở Việt Nam, là 2 vợ chồng trẻ tổ chức sinh nhật tại nhà với bạn bè thân. Đến cuối tiệc, mấy người đàn ông chủ mưu đã chuốc rượu cho chồng thật say, rồi lừa cho vợ uống thuốc kích dục để thay nhau cưỡng hiếp. Bạn bè gọi là thân mà chó má với nhau như thế thì sao còn tin được chữ bạn ở trên đời – Lan ngừng một lát, nhìn ông: Từ ngày biết được chuyện này, ngoài đám cưới họ hàng hay bạn quá thân phải đi, còn Lan không dám bén mảng đến mấy vụ sinh nhật, ăn giỗ ở mấy nhà bạn đồng nghiệp. Lan không còn dám tin vào người khác.

Ông Bình trầm ngâm một lúc:

– Chú theo dõi một số báo mạng để biết về Việt Nam, nhưng rất khó hình dung về sự thay đổi của người dân, xã hội và chính quyền. Là người sinh trưởng trong một giai đoạn có nhiều thay đổi, Lan cảm thấy gì dưới xã hội đó?

– Chú hỏi đột ngột một vấn đề quá phức tạp, khó có thể thu tóm để nói trong một thời gian ngắn.

– Cứ nghĩ đến những điều mình phải đối mặt hàng ngày thì Lan sẽ thấy vấn đề. Chẳng hạn ở Mỹ chú cảm thấy sự yên ổn trong việc làm, và nếu thất nghiệp thì sẽ có trợ cấp thất nghiệp, rồi mình sẽ tìm việc khác. Chú có niềm tin vào chế độ dân chủ, vì chú có thể hoạt động chính trị, văn hóa và nhiều việc khác theo khả năng của mình. Chú có niềm tin vào chính quyền, vì chính quyền đó do dân bầu lên từ cấp Liên bang, Tiểu bang đến thành phố. Và những người được bầu sẽ cố gắng thực hiện chương trình họ công bố khi tranh cử, còn nếu làm không ra chi thì hết nhiệm kỳ, dân sẽ bầu người khác. Như thế, Chính trị ở Mỹ là cạnh tranh chương trình hành động và khả năng thực hiện chương trình. Nói tóm, ở Mỹ có tự do trong đời sống, yên ổn trong việc làm và niềm tin vào cơ chế dân chủ và luật pháp.

Lan ngước nhìn ông với nét vui:

– Nghe chú nói, Lan nhận ra những gì ở Việt Nam rồi.

Ông Bình cười:

– Là những gì?

– Là mất niềm tin vào con người và xã hội, là sống bất an và khinh thường những ông lãnh đạo từ thấp đến cao.

Ông gật đầu:

– Đó là những tổng kết hay, nhưng Lan có thể nói rõ hơn là tại sao?

Lan đáp:

– Thưa chú, mất niềm tin vào con người và xã hội, vì người Việt ngày càng xấu với dối trá, lừa đảo và hung bạo, còn xã hội thì quá nhiều tệ nạn, cạm bẫy do con người xấu tạo ra. Sao tin người khác được như chuyện sinh nhật Lan vừa nói. Tin sao được khi có những tên đàn ông lừa người yêu đem lên biên giới Tàu rồi bán người yêu cho bọn buôn người, và khủng khiếp hơn nữa là có thằng, vì tham chiếc xe và ít tư trang đã đang tâm đập chết người yêu rồi chặt thành mấy khúc cho phi tang – Lan nói như muốn khóc.

Chờ cho cơn xúc động của Lan dịu xuống, ông Bình nói:

– Dối trá, lừa đảo như thế là đã đến chỗ cùng. Mỗi con người Việt Nam ngày nay lại trở thành một pháo đài tự thủ. Thế còn sống bất an là sao?

– Dạ, ở miền quê Lan không rõ, nhưng ở những thành phố lớn như Sài Gòn thì ai cũng cảm thấy bất an. Vì ra đường thì sợ cướp, cướp thành băng đảng và rất tàn bạo, chém người ta rồi mới cướp. Cảnh sát đầy đường, đầy ngõ, nhưng cướp vẫn lộng hành rình rập ở khắp nơi. Ăn uống thì sợ thực phẩm chứa những chất độc hại.

– Từ hàng hóa, thực phẩm của Tàu?

 Lan lắc đầu:

– Không phải chỉ của Tàu mà chính người Việt vì lợi đã dùng hóa chất của Tàu, học Tàu tẩm độc vào thịt, trái cây và rau… để hại người Việt. Thịt thối ngâm hóa chất thành thịt tươi, bơm hóa chất vào trái cây cho mau chín và tươi lâu, rau thì thì dùng thuốc trừ sâu quá độ. Cái gì cũng hóa chất và mấy tiếng hóa chất đã thành mối đe dọa ám ảnh. Người ta thường chép miệng nói với nhau: Biết sao đây, ăn gì cũng chết! – Lan ngừng một lúc rồi tiếp: Còn công việc làm ăn thì bất an, vì dân đã hết niềm tin vào chính sách, lời nói của nhà nước. Tham nhũng quá nên làm ăn lớn nhỏ gì cũng phải có tiền bôi trơn. Đến như bà Nguyễn thị Doan, phó chủ tịch nước cũng phải lên tiếng than ở Quốc Hội: Người ta ăn không từ một thứ gì của dân.

– Biết rõ như thế, sao không có những biện pháp để giảm tệ tham nhũng?

Lan cười:

– Theo Lan nghĩ thì chẳng có biện pháp gì hết. Vì họ đã công khai nói tham nhũng là quốc nạn, tham nhũng là nội xâm và nói chuyện diệt trừ tham nhũng hết năm này đến năm khác. Còn dân thì hiểu rằng tham nhũng đã trở thành một chính sách dung dưỡng cho cán bộ làm ăn, lớn ăn theo lớn, nhỏ ăn theo nhỏ, nên không có chuyện diệt trừ mà là nuôi dưỡng. Vì thế tham nhũng thành rộng khắp và tàn nhẫn hơn. Chẳng hạn đến chỗ nằm trong bệnh viện, chỗ nằm trong nhà tù cũng phải chạy thì dịch tham nhũng đã lan đến tận đáy xã hội. Khi đã nhận rõ một sự thực như thế thì dân phải biết hối lộ để sống, còn quan thì tìm đủ mọi biện pháp sách nhiễu dân để nhận được nhiều hối lộ hơn.

– Trước thực trạng đó, người dân nghĩ thế nào về nhà nước, về những ông quan vô sản?

– Người dân coi họ là một tổ chức côn đồ, mafia, chớ không phải là nhà nước lãnh đạo theo luật pháp như họ tự xưng là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Họ đặt ra quá nhiều luật, nhưng không cai trị theo luật mà tùy tiện muốn làm gì thì làm. Vì thế những tên cảnh sát đứng đường hay những tên công an ở phường thường vỗ ngực nạt nộ “luật là tao” khi muốn đánh đập hay bắt ai. Chiến tranh đã chấm dứt gần 40 năm, nhưng dân sống không yên với chế độ cai trị hành dân, cướp bóc của họ và chế độ này đã tạo ra sự bất an trong tâm trí người dân.

Nhìn môi ông Bình mấp máy, Lan ngừng lại, nhưng thấy ông vẫn yên lặng nên đứng dậy tới tủ lạnh, lấy bình nước cam rót ra hai ly, đem đến đặt trước ông một ly: Chú uống nước.

Lan về chỗ, nâng ly nước cam uống mấy hớp, nhưng lúc uống đã vô tình ngồi ở thế mở hai chân, chiếc váy ngủ ngắn co lên hớ hênh, ông Bình chợt nhìn suốt cả một bên đùi trong nên ông vội cúi xuống, cầm ly nước đưa lên miệng. Khi ngước lên, thấy Lan đã sửa lại thế ngồi với hai đùi chéo nhau, ông để ly nước xuống:

– Ngày còn ở Việt Nam, chú thường nghe mấy ông cán bộ trên bàn nhậu phê phán chế độ xã hội chủ nghĩa đã làm tình làm tội người dân. Đến nay sau 40 năm, chú lại nghe Lan tổng kết một thực trạng y như trước. Vậy là sau 40 năm thống nhất, người dân chỉ bị hành chớ không an cư lạc nghiệp.

– Thưa chú, an cư lạc nghiệp sao được khi đời sống luôn bị đủ thứ đe doạ bao quanh như Lan đã nói. Nhưng còn một vấn đề rất lạ là hơn chục năm trở lại đây gia đình những ông lãnh đạo cao, thấp và những người giàu đã tìm cách cho gia đình con cái họ qua Mỹ theo diện đầu tư, du học, kết hôn để ở lại Mỹ. Họ muốn gia đình họ tránh xã hội bất an ở Việt Nam, nhưng lại nhất quyết duy trì chế độ mà họ muốn con cái họ từ bỏ.

Ông Bình cười:

– Họ duy trì chế độ để giữ quyền lực và kiếm thêm tiền, duy trì chế độ để giữ đảng Cộng Sản. Vì làm quan dưới chế độ độc tài đảng trị dễ và làm giàu cũng dễ. Lòng tham quyền lực và tham tiền vô đáy đã che mờ dân và nước. Cả chục năm nay chú nghe gia đình họ qua Mỹ mua nhà mấy triệu bằng tiền mặt mà họ gọi là tiền tươi và còn biết là một số người đã đưa con cái qua Mỹ từ cấp tiểu học hay trung học để thoát tình trạng giáo dục xuống cấp của Việt Nam, mà một số bài trên báo mạng đã gọi đó là đi “tỵ nạn giáo dục xã hội chủ nghĩa” cũng như 40 năm trước, dân miền Nam đã vượt biên tỵ nạn cộng sản. Như vậy là sau hơn nửa thế kỷ tranh đấu chống chế độ tư bản bằng núi xương sông máu để giải phóng con người, giải phóng đất nước, đảng cộng Sản đã đưa nước đến một mối hận: Nước tan, dân tán – Nhìn đồng hồ đã 12 giờ, ông Bình nói: Khuya rồi, Lan đi ngủ đi. Ngày mai chú sẽ đưa đi shopping.

– Chú cũng đi ngủ chứ ạ – Lan cầm hai cái ly, đứng dậy nói rồi bước ra phía bếp.

Ông Bình bâng quơ nhìn theo Lan, cảm được cái eo thon mềm với đôi mông thuôn nở ẩn hiện theo bước đi dưới lớp vải mỏng và mỉm cười nghĩ đến anh chàng John, chỉ qua giới thiệu mà may mắn gặp được cô vợ đẹp, khéo léo và thông minh. Ông đứng dậy đi đến đứng bên chiếc piano một lúc, rồi bước về phòng.

3

Ông Bình đậu xe trong một khu sân rộng gần bờ hồ Michigan, rồi chỉ quanh:

– Đây là công viên bờ hồ, có mấy sân để tập lái xe. Lan muốn lái thử nên chú đưa ra đây.

Lan nói:

– Cám ơn chú, Lan nôn nóng vì muốn thử kết quả của khóa học lái xe ở Việt Nam. Có bằng nhưng vì không có xe nên lái vẫn lạng quạng.

– Đúng rồi. Có bằng mà không có xe để lái thường thì cũng như không, chỉ ít tháng sau là quên hết. Bây giờ Lan coi lại những động tác, những việc phải làm. Ông Bình mở máy rồi nói: Trước hết đạp thắng, kéo cần số xuống chữ D. Rồi bỏ thắng đưa chân qua bàn gas, đạp nhẹ cho xe đi. Ông lái quanh sân ba vòng, rồi dừng lại.

– Lan nhớ những động tác khi cho xe đi và khi dừng lại chớ?

– Dạ.

– Bây giờ mình đổi chỗ, đến phiên cô làm tài xế.

 Khi đã ngồi yên trên ghế, thấy Lan vẫn loay hoay đưa chân lên đạp vào bàn thắng, ông hỏi:

– Ngồi như thế chân có vừa với bàn thắng không?

– Dạ, hơi xa chú a.

– Vậy kéo ghế lên một chút.

Lan quay lại hỏi:

– Làm sao kéo lên được chú?

– Cô không biết làm ư? Luồn tay xuống phía dưới ghế, có cái cần sắt. Nâng người lên, rồi kéo cần về phía trước, ghế sẽ đi theo.

Lan loay hoay kéo mấy lần không được, quay nhìn ông:

– Có cái gì vướng chú ạ.

– Chắc để nấc đó lâu quá thành sét gỉ – Ông nói, rồi cúi nghiêng sang bên, luồn tay dưới chân Lan kéo cần, nhưng cần bất động. Ông rút tay về, nghiêng hẳn người qua Lan, đưa tay xuống ghế, cầm cần lay mạnh, rồi kéo lên. Cái cần theo tay ông đi lên quá đà làm cánh tay đè lên đùi Lan. Ông vội nâng cánh tay lên một chút, rồi đẩy thanh sắt xuống một nấc.

– Chắc vừa tầm rồi đấy, Lan thử đạp thắng xem sao?

Lan ngồi thẳng, đưa chân đạp thắng:

– Vừa rồi, chú ạ.

– Vậy seatbelt, rồi đi thôi. Trời lạnh ít người, ít xe vào đây, nhưng cứ giữ tốc độ từ 15 đế 20 miles là vừa.

Lan mở máy, lái xe đi mấy vòng quanh sân, rồi đi ra đường, lên sân ở phía trên. Sau mấy vòng, Lan ra đường vòng qua những con đường quanh công viên. Cứ thế, Lan đi vòng quanh mấy đường trong công viên khoảng trên nửa tiếng.

Ông Bình theo dõi cách lái của Lan và thấy Lan có vẻ thành thạo trong những động tác và bình tĩnh tự nhiên khi gặp xe đối diện hoặc đi qua một nhóm người. Hơn tháng nay có Lan, ông thấy ngôi nhà như thay đổi với mái tóc, tiếng phụ nữ và những bữa ăn ngon. Chiều nào bước vào nhà là nghe tiếng: Chú đã về với nụ cười trên khuôn mặt rạng rỡ của Lan. Và sau đó Lan đem lên cho ông bình trà, ngồi với ông một lúc, rồi mới xuống bếp. Ông chợt nhận ra một nguồn vui khi trong nhà có tiếng nói, tiếng cười của phụ nữ, nên quay nhìn Lan và hình dung lại dáng dấp Lan vào buổi sáng hôm qua, khi alarm báo cháy vang lên inh ỏi do ông rang mè bị cháy và Lan đã bước vội từ phòng tắm ra hốt hoảng: Sao vậy chú? Ông quay lại đáp: Không sao đâu. Chú rang mè bị cháy nên alarm báo động vậy thôi. Vậy mà Lan hết hồn – vừa nói Lan vừa bước trở vào phòng tắm và lúc ấy ông thấy Lan với chiếc khăn tắm choàng hờ hững trên người như một bức tranh. Bức tranh biến nhanh, nhưng chiếc khăn tắm choàng một bên vai xuống nửa thân đã trở thành một tác phẩm mà một thoáng nhìn  ông đã chụp được vài giây sinh động của cô gái, chỉ phút hốt hoảng ấy, cô mới tỏ lộ được sự tự nhiên của thân thể dưới tấm khăn choàng. Ông mỉm cười kéo bức tranh choàng khăn tắm lại gần cô gái đang nhìn thẳng trong chiếc áo len xanh dương.

– Lan trở lại sân để tập parking.

– Dạ.

Lan vào sân, đậu xe, rồi nói:

– Ở Việt Nam, Lan đã tập park, nhưng chỉ để thi. Bây giờ chắc phải tập lại nhiều.

– Park có 3 trường hợp: park song song và 2 cách park sát lề đường. Song song thì dễ, chỉ cần ước lượng. Park bên lề đường thì khó hơn. Nếu khoảng lề đường rộng, mình có thể vào thẳng, rồi đậu cách lề chừng hơn gang tay là đẹp. Trường hợp lề đường có nhiều xe đậu, chỉ còn một khoảng hẹp cho một xe, vào thẳng không được, phải vào bằng cách lui thì khó, phải tập nhiều – Ông chỉ những viên gạch lớn ở gần lề sân:

– Khi đậu bằng cách lui, Lan tới chỗ 2 hàng gạch kia và đậu vào giữa 2 hàng gạch đó. Bây giờ Lan đi quanh sân, cứ mỗi vòng đậu môt kiểu: đậu song song, đậu bên lề vào thẳng và đậu bên lề bằng cách lui – Nói rồi ông mở cửa xe bước xuống.

Lan đi mấy vòng, rồi tới chỗ ông đậu lại. Cả hai lần đậu song song và đậu bên lề vào thẳng, ông đều cười gật đầu theo nụ cười của Lan, nhưng đến khi đậu bên lề bằng cách lui thì Lan lúng túng, phải cho xe ra vào nhiều lần và đậu cách lề quá xa.

Ông Bình đến mở cửa xe:

– Lan về chỗ đi. Hôm nay tập thế đủ rồi.

– Đậu lui khó quá chú ạ.

– Phải tập nhiều lần, rồi sẽ quen – Ông cười nói, cho xe đi dọc theo công viên, rồi đậu bên bờ hồ.

– Chú thấy Lan lái thế nào?

– Lái như thế là vững rồi. Sau khi có giấy tờ, chỉ tập thêm ít ngày là có thể đi thi. Thấy Lan nôn nóng nên chú cho lái thử, chớ tập lái kiểu này, cảnh sát chặn hỏi thì sẽ bị phạt. Theo luật, Lan phải có thẻ an sinh xã hội, có bằng thi viết, mới được phép tập lái.

– Sao chú không cho Lan biết?

Ông cười:

– Tại cô muốn thử nên chú không cản. Nói thế thôi chớ cảnh sát ít khi hỏi, nhất là khi thấy mình tập bài bản như thế.

– Chú thấy John thế nào?

– Phải quen biết lâu mới có thể nhận xét, còn chỉ gặp vài lần với ít câu chào hỏi thì biết gì mà nói. Nhưng anh ta dáng dấp ngon lành, vẻ mặt nghiêm mà hiền. Nhìn bề ngoài thì hai người đẹp đôi. Chỉ qua giới thiệu mà gặp được một người như thế là qúi lắm rồi.

Với giọng buồn Lan nói:

– Cần thoát khỏi Việt Nam nên Lan liều. Chẳng biết ngày mai ra sao.

– Cứ ở lại Mỹ hợp pháp cái đã, còn ngày mai ai biết.

Lan nhìn ông, rồi nhìn ra hồ:

– Hồ gì mà chỉ thấy mây và nước. Nếu chú không nói thì Lan lại nghĩ Chicago ở cạnh biển.

– Đây là hồ Michigan, một trong 5 hồ lớn ở Bắc Mỹ, gồm các hồ Superior, Huron, Erie và Ontario. Cả 4 hồ này, Mỹ và Canada, mỗi nước được một nửa hồ, vì hồ ở giữa biên giới hai nước. Hồ Michigan chạy dài lên tới gần tới biên giới Canada và đi vòng theo 4 tiểu bang là Illinois, Wisconsin, Indiana và Michigan. Theo hướng Lan nhìn về phía đông qua bên kia hồ là tiểu bang Michigan.

– Hồ Michigan làm tăng vẻ đẹp bát ngát của Chicago. John đã đưa Lan lên tòa building cao nhất nước Mỹ, Sears Tower, và Lan đã thấy được cái đẹp này.

Ông Bình gật đầu:

– Lan dùng chữ bát ngát thật đúng. Vào những ngày lộng gió mà Chicago là thành phố gió, Windy city, đứng đây sẽ thấy hồ mênh mông đầy sự đe dọa với sóng cuồn cuộn bất tận như sóng đại dương. Còn vào mùa hè, dọc bờ hồ, người đông như kiến, theo ước lượng có ngày lên tới cả triệu người. Mình đang ở mùa đông, nhưng hôm nay nắng, ít lạnh, nên chú đưa Lan xuống thăm khu vực người Tàu lập nghiệp ở Chicago cả trăm năm trước, Chinatown cũ, ở phía nam Chicago. Ông mở máy, cho xe ra đường Foster, rồi đi vào đường bờ hồ.

– Đường này đẹp chú ạ. Một bên building cao ngất, đủ màu sắc, một bên hồ trong xanh – Lan chỉ ra phía bãi cát dọc theo hồ: Chắc giải cát kia vào mùa hè sẽ đầy người.

– Đường này tên là Lakeshore Drive, chạy dọc bên ngoài Downtown và hồ. Bờ hồ ở đây không cao như như chỗ mình tập lái xe, lại có bãi cát thoai thoải chạy ra xa như bãi biển, nên mùa hè là nơi vui thú của dân Chicago: Tắm, phơi nắng và đi dạo.

– Chú có thường tới đây không?

Ông lắc đầu:

– Chú không thích chỗ đông người mà cũng chưa bao giờ tắm ở hồ. Hè và thu, có đi dạo là đi ở chỗ mình tập xe. Khu đó, công viên rộng, hồ sâu, đường bờ hồ cao. Có khi chú ngồi cả giờ nghe sóng ào ào đập vào vách đá dưới chân mình… Tiếng hát của hồ hay tiếng than của biển – Môi ông mấp máy nói nhỏ, rồi im lặng chú ý đoạn đường hay lầm lẫn mỗi lần vào Chinatown.

Đi thêm trên một mile, ông rẽ phải mấy lần ở những đoạn đường ngắn. Khi rẽ trái vào được Cermark, ông thở phào:

– Quãng đường phía ngoài phức tạp nên hay quên, vì mỗi năm chú cũng chỉ xuống đây vài lần mua trà. Bây giờ thì tới rồi. Chừng 15 phút sau, ông rẽ phải vào một đường ít xe, và Lan thấy tấm biển “Welcome to Chinatown”.

Ra khỏi sân đậu xe, Lan hỏi:

– Trên mấy đường quanh đây không còn chỗ đậu xe hở chú?

– Giờ này thì khó lắm, đường nào cũng đầy xe. Công đi tìm và tránh xe trên mấy con đường nhỏ còn mệt hơn là tốn mấy đồng vào bãi đậu – Ông cười nói, rồi hỏi: Lan thích ăn dim sum hay ăn mì?

– Ăn mì, chú ạ. Dim sum béo quá.

– Dim sum và mì ở đây nổi tiếng, nhất là dim sum. Chú có mấy người bạn ở ngoại ô, cách Chicago 6, 7 chục miles mà mỗi Weekend đều vào đây ăn rồi mới xuống chợ Argyle.

– Khu Argyle cũng có mì và dim sum. Vậy là họ chê dim sum của Chinatown mới.

– Có thể họ quen vị ở dưới này hơn. Còn chú thì thấy chỗ nào cũng vậy – Ông nói rồi cầm tay Lan theo đoàn người băng qua lộ để vào đường Wentworth.

Bước lên lề đường, Lan nói:

– Bước lên đây là thấy chất Tàu: Chữ Tàu, tiếng Tàu và màu sắc chói chang.

– Đây là con đường chính của Chinatown, cũng như đường Argyle, khu thương mại Việt Nam ở Uptown. Đi thêm chừng 200 mét, ông cầm tay Lan đi vào một tiệm rộng đầy khách. Hai người đi tới chiếc bàn vuông ở góc phòng.

– Ở đây có đủ loại mì: mì vằn thắn, mì vịt quay, mì xá xíu, mì sào dòn, mì thập cẩm…

– Mì vằn thắn, chú ạ.

Vừa lúc cô tiếp viên đến, ông cầm tấm menu, chỉ vào hàng chữ Wonton Noodle Soup:

– Please give me two bowls and hot tea.

Khi cô tiếp viên bước đi, Lan nói:

– Vào đây lại tưởng là vào mấy tiệm mì của Tàu ở Sài Gòn, toàn màu đỏ với kim tuyến vàng và sự ồn ào.

– Tiệm mì này mở cửa suốt ngày đêm. Cách đây 2 năm, chú từ thành phố Detroit tiểu bang Michigan về trong đêm nên ghé đây ăn mì. Hai giờ đêm mà vẫn đầy người với tiếng nói cười – Ông chỉ ra ngoài, đường Wentworth, đoạn này dài chừng 7, 800 mét. Tất cả hai bên đường là cơ sở kinh doanh, buôn bán, tiệm sách, nhà in, báo chí, tiệm ăn, siêu thị… Vào đây là thấy mình lạc vào một khu Tàu, từ cửa hàng cho đến khu cư dân – Ông chỉ ra phía cửa: Lan coi, bàn thờ ông thần tài.

– Tiệm mì Hon Kee và chợ Mỹ Á ở khu Argyle cũng vậy – Lan ngừng lại khi người tiếp viên đặt cái khay xuống bàn, rồi bưng 2 tô mì để trước hai người và nói nhanh: Thanks for your coming.

– Thank you – Lan đáp lại.

Ông Bình nhìn hai tô mì bốc hơi thơm:

– Vậy là hôm nay mình đi trên 40 miles để ăn mì Thất Bảo.

4

Từng đoàn người lũ lượt đi về hướng nhà hàng Furama trong tiếng nói, Lan nghe những lời chào: Năm mới, năm mới với tiếng cười.

Lan nắm tay ông Bình:

– Năm nào Hội Tết cũng tổ chức ở Furama, hở chú?

– Cả chục năm rồi. Hội Tết được tổ chức ở lầu 2. Hội trường sang trọng có thể chứa được cả trên ngàn người.

Ra khỏi thang máy, Lan thấy một rừng người. Giữa hội trường, những hàng ghế mấy trăm cái đã kín người. Người ta đi lại, chen nhau ở vòng ngoài và vây quanh những gian hàng bán đồ ăn. Lan dừng lại trước chiếc bàn có mấy hàng chữ: Mời quí vị ghi tên thi trình diễn áo dài và thi hát, hỏi ông:

– Năm nay có thi trình diễn áo dài và thi hát hở chú?

– Năm nào cũng có hai mục này mà là tiết mục ăn khách nhất.

Ông Bình dẫn Lan đi quanh một vòng, rồi dừng lại khu triển lãm hình ảnh những hoạt động của Cộng Đồng trong năm, khu giới thiệu những người đấu tranh cho dân chủ trong nước, những tù nhân lương tâm. Lan nhặt một sấp tài liệu nói về Trần Huỳnh Duy Thức, Đỗ thị Minh Hạnh, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần…, rồi tới khu thi cờ tướng, khu thư pháp và vẽ truyền thần. Tới khu có mấy vị cao niên đang uống trà, ông Bình nói: Chỗ này là chỗ của các vị bô lão, tiên, thứ chỉ ở đình làng Việt Nam ngày xưa. Ngày xưa, các cụ chủ trì lễ đình, bây giờ các cụ ở đây ngồi tiếp khách cao niên đi Hội Tết. Nghe ông nói, Lan mới để ý đến bình trà, rượu và hộp mứt trên mấy cái bàn vuông với ghế dựa.

Ở cạnh khu cao niên là một hội trường lớn thứ nhì. Qua chiếc cửa lớn, thấy bên trong đầy người, Lan kéo tay ông Bình tới gần cửa để nhìn vào thì thấy người ta chen nhau tụ quanh những cái bàn dài. Ông Bình cười: Phòng bầu, cua, cá, cọp để khách thử thời vận đen đỏ đầu năm. Tết đi liền với truyền thống cờ bạc.

Khi đến ngồi vào ghế ở phía trước sân khấu, Lan nói với ông là ra ngoài một lúc và khi trở lại Lan đi cùng vợ chồng người bạn với đứa con gái khoảng 7, 8 tuổi và John, hôn phu của Lan mà ông đã gặp mấy lần tại nhà khi anh ta đến đưa Lan đi chơi. Ông đứng dậy chào bắt tay John: Welcome to the Việt Nam Tết Festival, bắt tay Định, chồng của bạn Lan: Chúc anh chị và cháu gái một năm mới an lành, thịnh vượng.

Định đáp lại: Vợ chồng Định cũng xin chúc chú như vậy.

Ông Bình lấy trong túi ra một xấp bao bì đỏ, đưa cho mỗi người một bao: Ở Việt Nam thì chỉ mừng tuổi cho trẻ nhỏ, ở Mỹ thì xin mừng tuổi cả người lớn – Khi đưa bao lì xì cho Lan và John, ông nói: Cầu chúc Lan và John năm mới đạt được điều mong ước với niềm vui lớn. Ông xếp cho Lan ngồi cạnh John, đến bạn Lan, cháu gái, và Định ngồi cạnh ông.

Bỗng tiếng pháo nổ chát chúa trên sân khấu làm mọi người giật mình. Lan nhìn lên, băng pháo treo ở cây mai lớn ở trước sân khấu đang lóe sáng với những tiếng nổ liên tục… Khi tiếng pháo dứt, một người trẻ điều khiển chương trình ra đứng trước micro:

– Xin quí vị đứng dậy nghiêm chỉnh làm lễ chào quốc kỳ Mỹ, Việt. Đoàn ca lên sân khấu.

Từ phía sau, 5 thanh niên quần đen, áo trắng và 5 thanh nữ quần trắng áo dài vàng đi theo hàng một ra đứng trước sân khấu, ở giữa hai giá quốc kỳ Mỹ và cờ vàng ba sọc đỏ.

– Nghiêm. Quốc kỳ Mỹ… Quốc ca… Âm thanh The Star Spangled Banner vang lên từ chiếc máy CD.

– Quốc kỳ Việt Nam…. Quốc ca… Người điều khiển chương trình bắt giọng: Này công dân ơi… và 10 người trẻ trên sân khấu cất cao giọng kéo toàn thể hội trường hát theo…

Lan nhìn lên hàng cờ trên sân khấu, người nổi gai ốc theo với tiếng hát của cả ngàn người. Chưa bao giờ nàng trải qua sự xúc cảm như bây giờ.

Khi tiếng hát dứt, tiếng người điều khiển lại vang lên:

– Phút mặc niệm để tưởng nhớ anh hùng, tử sĩ đã vì nước vong thân, tưởng nhớ đồng bào đã bỏ mình trên rừng biên giới, trên biển cả trên đường đi tìm tự do. Phút mặc niệm bắt đầu.

Lan cúi xuống khi âm thanh bản Chiêu Hồn Tử Sĩ vang lên và người nàng lại nổi gai ốc.

– Phút mặc niệm chấm dứt. Xin mời qúy vị an toạ.

Sau làn sóng rào rào khắp hội trường, tiếng người điều khiển lại vang lên:

– Xin giới thiệu qúy vị, bà Trần Lương Ngọc, chủ tịch Hội Đồng Đại Diện Cộng Đồng Người Việt Tự Do Illinois, đọc diễn văn khai mạc Hội Tết Nhâm Thìn, 2012. Xin mời bà Trần Lương Ngọc.

Bà chủ tịch cộng đồng người cao thuôn thả, áo dài vàng nhạt, lên sân khấu cúi đầu chào với tiếng vỗ tay của cả hội trường. Sau lời chúc năm mới quí vị quan khách và đồng hương, bà tường trình ngắn về những sinh hoạt chính trị, văn hóa, y tế và kinh tế của cộng đồng trong năm. Cuối cùng bà tuyên bố khai mạc Hội Tết năm Nhâm Thìn. Sau lời tuyên bố khai mạc Hội Tết, tiếng pháo trên cây mai lại nổ. Những tia lửa với xác pháo tung bay trên sân khấu.

Tiếng người điều khiển chương trình lại vang lên:

– Tới giờ lễ tổ. Xin mời bác Phạm Thanh.

Ông Thanh mặc áo dài đỏ, đội khăn xếp đỏ, lên sân khấu với một thanh niên. Anh thanh niên giúp ông đốt nhang, rót rượu, rót trà, rồi đứng sang bên, trong khi ông vái, cắm nhang vào bát  nhang, rồi quỳ lạy trước bàn thờ tổ.

Ngồi cạnh John nên mỗi tiết mục Lan đều nói ít điều về ý nghĩa cho John hiểu. John nói là sống ở gần Chicago và chơi thân với gia đình Định, nhưng John không biết những sinh hoạt văn hóa của cộng đồng người Việt ở đây. Chỉ biết tết Việt Nam khi gia đình Định mời đến với một bữa ăn gồm nhiều món như chả giò, thịt heo kho trứng, giò lụa, thịt đông và bánh chưng. Theo John thì những món đó ngon, nhưng làm mất nhiều công và thì giờ. Lan cho biết là trong đó có thứ tự nấu, có thứ mua và nói thêm, việc nấu ăn cũng là niềm vui của đa số phụ nữ Việt, nếu họ có thì giờ. Lan đùa là sau này về sống với John, nàng chưa biết là sẽ bị Mỹ hóa hay John sẽ bị Việt hóa. John cười nói: Lan không nên Mỹ hóa, vì John xin tình nguyện để được Việt hóa.

Lan đưa tay bịt miệng để tiếng cười khỏi bật ra, khi nghe tiếng:

– Xin thông báo qúi vị, sau đây là chương trình thi trình diễn áo dài. Xin quí vị trong Ban Giám Khảo lên hàng ghế trước sân khấu.

Cùng lúc ấy hàng chục thanh niên đã lên sân khấu khiêng bàn thờ để xuống phía sau và hai giá cờ Mỹ, Việt để xuống phía dưới sân khấu. Ông Bình đứng dậy nói: Bây giờ tới việc của tôi. Rồi đi lên ngồi vào chiếc piano ở góc cuối sân khấu. Nhìn xuống Ban Giám Khảo, gồm 5 vị, 2 nữ, 3 nam, người nào trên tay cũng 1 xấp giấy với cây bút, ông mỉm cười khi thấy vẻ mặt trịnh trọng của cả 5 người. Đã 4 năm, ông làm việc đệm đàn cho chương trình trình diễn áo dài và năm nào Ban Giám Khảo cũng không thống nhất được với nhau về số điểm và thứ hạng của mấy người trúng giải. Cuối cùng phải dùng đến giải pháp tương nhượng.

Tiếng của người điều khiển vang lên:

– Ban Giám Khảo xin công bố 3 tiêu chuẩn với 3 loại điểm: Thứ nhất là dáng người, thứ nhì là dáng đi và thứ ba là nghệ thuật phô diễn những nét đẹp, quyến rũ của áo dài… Chương trình thi trình diễn áo dài bắt đầu… Xin mời cô Nguyễn thị Thu Thủy, sinh viên đại học Northern Illinois.

Những tiếng vỗ tay theo Thu Thủy lên sân khấu. Thu Thủy dáng thanh, mặc áo dài xanh dương, tóc xõa lưng, vào giữa sân khấu cúi chào, rồi xoay một vòng cho 2 cánh áo dài vờn lên. Thủy đi vòng quanh sân khấu, tới mỗi góc, cô đứng lại, rồi mới xoay nhanh về phải hay trái để đi tiếp, và mỗi bước xoay đều cuốn tà áo bay lên. Đi hết 3 vòng, cô đi vào giữa sân khấu cúi chào với tiếng vỗ tay của cả hội trường.

– Xin mời cô Cao Thị Thu Cúc, sinh viên đại học Loyola. Thu Cúc dáng thuôn thả đài các, tóc buông xõa, quần áo lụa trắng. Cúc đi tự nhiên, đôi khi ngừng lại, ngước nhìn lên, vươn tay lên cao như với một cành hoa. Vòng đầu, Cúc đi thong thả, đến vòng thứ 2 và 3 đi nhanh và cánh áo dài vờn lên theo những bước chân. Rồi bất ngờ, cô vòng ra giữa sân khấu, bước chậm lại, cúi chào với khuôn mặt phúc hậu nhu mì.

Trong tiếng vỗ tay có tiếng nói lớn: Đi thêm vài vòng nữa, đẹp lắm.

– Xin mời cô Lê thị Tâm, nhân viên nhà băng Chase, Chicago. Tâm người tầm thước đầy đặn, tóc uốn cuộn vào gáy, mặc áo dài huyết dụ, quần trắng. Cô làm dáng nhiều trong bước đi, nên quên mất những động tác phô diễn hai cánh áo dài. Sau Tâm là 2 cô nữa, nhưng cả hai đều thiếu sự linh động trong việc tạo ra những động tác của riêng mình. Các cô chỉ biết đi quanh, xoay người, lập lại một số động tác của mấy lần trước nên thiếu tự nhiên.

Ông Bình đã xúc động nhìn theo những bước đi. Vì bước đi nào hai cánh áo dài cũng tạo dáng tha thướt như giải lụa. Và theo từng bước đi, thân thể của các cô đã bộc lộ sự khêu gợi từ cánh áo phất phơ và chiếc quần hờ hững. Theo dòng những bước chân với hai cánh áo vờn lên, hạ xuống, ông đã biểu lộ sự xúc động qua những ngón tay trên phím dương cầm. Ông bỗng giật mình khi nghe tiếng: Xin mời cô Trần Quỳnh Lan.

Lan bước lên sân khấu, nhìn ông mỉm cười, rồi bước ra giữa sân khấu cúi chào và xoay một vòng cho cánh áo dài cuốn lên. Chiếc áo xanh dương và hai ống quần trắng quyện vào tà áo và đôi chân theo những bước đi. Lan đi vòng sân khấu với những động tác bất chợt đứng lại và xoay nhanh làm tà áo cuốn lên để lộ cả một bên đùi lên đến mông, hiển lộ nét quyến rũ và lẳng của tà áo dài khi đi trên đường lộng gió. Tự trong góc, Lan bước ra giữa sân khấu, cúi xuống như cúi nhặt một vật gì, với tay nâng tà áo, hiển lộ nét khêu gợi của thân áo ở chỗ xẻ tà tam giác với khuôn ngực vươn cao. Rồi Lan đứng dậy bước nhanh, tay đỡ tà áo vờn lên…

Bàn tay ông Bình đã chạy trên bàn phím để theo kịp những bước đi, chợt nhanh, chợt chậm, chợt dừng của Lan. Ông ngạc nhiên trước những động tác rất tự nhiên qua bước đi, Lan đã đưa được những nét đẹp và quyến rũ nửa kín, nửa hở của hai tà áo lên sân khấu. Và khi Lan bước xuống với những tiếng vỗ tay và huýt gió, bàn tay ông vẫn lướt trên những hòa âm của Tà Áo Cưới.

Khoảng 20 phút sau, người điều khiển chương trình đến trước micro:

Kính thưa quí vị, Ban Tổ Chức xin công bố 3 người đoạt giải của cuộc thi trình diễn áo dài:

– Thứ nhất, cô Cao thị thu Cúc, giải 3 với 500 đô la.

– Thứ nhì, cô Nguyễn thị Thu Thủy, giải nhì với 700 đô la.

– Thứ ba, cô Trần Quỳnh Lan, giải nhất với 1000 đô la.

Cả hội trường như bùng vỡ với tiếng vỗ tay cùng những tiếng hú.

Nhìn xuống hội trường, ông Bình thấy John và vợ chồng Định đứng dậy bắt tay Lan.

Sau khi 3 cô trúng giải lên sân khấu nhận giải từ tay bà chủ tịch cộng đồng, tiếng người điều khiển lại vang lên:

– Kính thưa quí vị, tiếp sau đây là chương trình thi hát. Xin mời quý vị trong Ban Giám Khảo lên hàng ghế trước sân khấu.

Nhìn xuống Ban Giám Khảo, ông Bình nhận ra 5 người quen, gồm nhạc sĩ Vũ An, 4 ca sĩ – 1 nam, 3 nữ ở Chicago, hàng năm vẫn làm giám khảo cho chương trình thi hát.

– Thưa quí vị, chương trình thi hát bắt đầu. Xin mời anh Lê Nghĩa, sinh viên đại học Devry.  Anh Nghĩa sẽ hát bản Phiên Gác Đêm Xuân của Trần Thiện Thanh.

Nghĩa lên sân khấu cúi chào, bước mấy bước theo nhạc dạo, rồi cất tiếng: Đón giao thừa một phiên gác đêm, chào xuân đến súng xa vang rền… chỉ hai câu đầu, ông Bình đã thấy sự điêu luyện và truyền cảm của giọng hát. Và ông nhìn Nghĩa, ngạc nhiên là một sinh viên hơn 20  thì chắc phải sinh trưởng ở Mỹ mà sao lại có giọng hát như một ca sĩ Việt Nam. Nghĩa đi lại say sưa theo tiếng hát qua dáng điệu và đôi tay – Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh mà nhớ chiếc bánh ngày xuân… Ông Bình đã kết bản nhạc từ thời còn ở Việt Nam. Rồi những năm ở Mỹ, ông thường nghe Hà Thanh và Thanh Tuyền hát. Bây giờ lại gặp một giọng ca mới, ông hát nhỏ theo bạn ca sĩ sinh viên: Thì đừng đến xuân ơi… Tiếng “ơi” được dương cầm đưa đi xa, trong khi Nghĩa cúi chào trong tiếng vỗ tay vang dội.

Sau Lê Nghĩa là cô Trần Thu Vân hát bản Anh Cho Em Mùa Xuân, cô Tô Thị Oanh hát bản Nếu Xuân Này Vắng Anh, và anh Trương Thìn hát bản Xuân Và Tuổi Trẻ. Cả ba giọng không có gì đặc sắc, nhưng ông chăm chú vào cách diễn tả và dùng tiếng đàn để che lấp những chỗ yếu kém của giọng hát.

Người thứ năm là cô Lê Ngọc Trân, sinh viên đại học Chicago, ca bản Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa của Tô Vũ. Với áo dài màu tím hoa cà và áo len tím thẫm, Ngọc Trân đã làm dịu khung cảnh náo nhiệt trong hội trường, khi cô bước mấy bước theo tiếng đàn, rồi dịu dàng: Em đến thăm anh một chiều đông. Em đến thăm anh một chiều mưa, mưa dầm dề, đường trơn ướt tiêu điều… Giọng ngọt ngào như màu áo, ông Bình nghĩ và ngạc nhiên là Ngọc Trân, ở lứa tuổi 18, đôi mươi, sinh trưởng ở Mỹ mà lại tìm đến bản nhạc của lớp người mấy thế hệ trước. Nhìn Ngọc Trân bước đi với tiếng hát, ông như đang nghe Mộc Lan, Châu Hà, và cảm nhận là Ngọc Trân đã nhập được vào tình ý của bản nhạc: Có hay lúc em về, gót chân bước reo âm thầm, trên đường một mình ngoài mưa, mưa như mưa trong lòng anh, lòng bồi hồi nhìn theo chân em chìm trong ngàn xanh… Ngọc Trân đứng lại, nhìn xuống hội trường: Ta ước mơ một chiều thêu nắng, em đến chơi quên niềm cay đắng và quên đường về… Ông Bình bỏ phím đàn, vỗ tay theo tiếng vỗ tay vang dội trong hội trường.

Tiếp sau Ngọc Trân là Vũ Bản, một ông trung niên, ca bản Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng. Ông Bản cúi chào khán giả, rồi theo nhạc cất tiếng: Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu. Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều… Ông Bình thầm nghĩ: Lại gặp một giọng truyền cảm điêu luyện. Vũ Bản nhìn ra hội trường: Hà Nội ơi, nào biết ra sao bây giờ. Ai đứng trông ai ven hồ khua nước như ngày xưa… Ông Bình đã nghe nhiều ca sĩ ca bản Nỗi Lòng Người Đi và bây giờ tưởng như mình gặp lại tiếng hát Sĩ Phú… Những ngón tay trên bàn phím đi theo xúc cảm của Vũ Bản: Sài Gòn ơi, Mộng với tay cao hơn trời, tôi hái hoa tiên cho đời để ước mơ nên đẹp đôi – Vũ Bản cúi chào trong tiếng vỗ tay vang dội.

Ông Bình sửng sốt khi nghe: Kế tiếp là cô Trần Quỳnh Lan. Quỳnh Lan sẽ ca bản Bài Thơ Hoa Đào của Hoàng Nguyên. Sau lời giới thiệu, người điều khiển chương trình bước đến bên piano: Quỳnh Lan vừa mới ghi tên nên Ban Tổ Chức không có bản Bài Thơ Hoa Đào. Ông Bình cười nói: Không sao, bản này tôi biết.

Quỳnh Lan tới bên ông Bình nói nhỏ: Thấy vui nên Lan liều, rồi mới ra giữa sân khấu cúi chào. Cô bước một vòng theo tiếng nhạc, tay phe phẩy như đánh nhịp: Ngày nào dừng chân phiêu lãng khách tới đây khi hoa đào vương lối đi, mầu hoa in dáng trời, tình hoa lưu luyến người, bồi hồi lòng lữ khách thấy chơi vơi… Ông Bình ngạc nhiên, Mấy tháng qua ông chưa từng nghe Lan hát một câu hay nói về nhạc, chỉ ngồi nghe ông đàn. Sao hôm nay bỗng dưng lên thi hát và giọng Lan như giọng của một ca sĩ chuyên nghiệp… Tay ông lướt trên bàn phím theo tiếng hát: Ôi, Đà Lạt là mơ, giấc mơ tiên nữ giáng xuống trần, tóc mây buông lơi tha thướt bên hồ, đợi tình quân đến trong giấc mơ… Giọng đầy tiềm lực, lên cao, xuống thấp rất ngọt và tự nhiên. Ông đã nghe hầu hết những ca sĩ thế hệ cũ cũng như mới hát bản này. Nay nghe Lan, ông gặp lại giọng của Lệ Thanh với thuật luyến láy và nũng nịu. Lan bước một vòng với cánh áo dài quấn quít hai ống quần, rồi ngừng lại giữa sân khấu: Nhưng rồi mùa hoa tàn, người hoa sao vắng mãi, sao chiều lòng mong chờ, đường hoa sao hững hờ để lòng lữ khách cất bước đi nhớ hoa nở trên má ai, mầu hoa in trên má làm lữ khách lưu luyến mãi Đà Lạt ơi...Quỳnh Lan cúi xuống trong tiếng nhạc và tiếng vỗ tay vang dội hội trường.

Trước khi xuống sân khấu, Lan đến bên piano: Cám ơn chú. Ông Bình đứng dậy bắt tay Lan: Đã lâu lắm chú mới được nghe Bài Thơ Hoa Đào với nghệ thuật luyến láy điêu luyện.

Khoảng 20 phút sau, người điều khiển chương trình lên tiếng:

– Kính thưa quí vị, Ban Tổ Chức xin công bố kết quả cuộc thi hát với ba giải:

– Thứ nhất, ông Vũ Bản, giải ba với 300 đô la.

– Thứ nhì, cô Ngọc Trân, giải nhì với 500 đô la.

– Thứ ba, cô Trần Quỳnh Lan, giải nhất với 700 đô la.

Hội trường như vỡ tung với tiếng vỗ tay và tiếng hú.

– Xin mời ông Vũ Bản, cô Ngọc Trân và Quỳnh Lan lên sân khấu nhận giải.

Ông Bình và Lan vừa trở về chỗ thì bà Lương Ngọc, chủ tịch cộng đồng, đến tươi cười:

– Năm mới chúc anh mạnh khỏe, nhiều may mắn. Xin cám ơn anh đã đàn cho 2 cuộc thi.

– Tôi cũng xin chúc chị cùng gia đình một năm mới an lành và thăng tiến. Nhân tiện xin giới thiệu chị, Quỳnh Lan là cháu tôi mới ở Việt Nam qua.

– Vui vậy ư – Bà Lương Ngọc cầm tay Lan – Cô cháu anh thật tuyệt vời. Tôi chưa nghe ai hát Bài Thơ Hoa Đào truyền cảm như cô. Rồi nghệ thuật trình diễn áo dài nữa, phá cách, không đi vào khuôn nếp cũ, sinh động và biểu lộ được những nét đẹp ẩn tàng của chiếc áo dài. Cám ơn Quỳnh Lan đã đem lại cái đẹp cho Hội Tết.

Lan đáp:

– Cám ơn bà quá khen. Thấy hội tết vui nên Lan liều, không ngờ lại được giải.

Bà Lương Ngọc nhìn ông:

– Cũng như mọi năm, 8 giờ tối nay, xin mời anh và Quỳnh Lan đến nhà ăn tết. Có điều xin báo trước là tôi muốn được nghe Quỳnh Lan hát thêm.

Ông Bình đáp:

– Cám ơn chị, chúng tôi sẽ đến.

Khi bà Lương Ngọc bước đi, ông Bình nói với vợ chồng Định: Hội Tết sẽ kéo dài tới 6 giờ với một số chương trình như Lotto, trình diễn võ thuật Vovinam và chương trình ca nhạc của một số ca sĩ ở Chicago và vùng phụ cận, cả mấy tiểu bang gần Chicago như Iowa, Michigan và Indiana. Bây giờ xin mời anh chị và John đi ăn phở. Rồi sau đó về hay ở lại, tùy quí vị. Cả toán đứng dậy theo ông ra cầu thang. Ông Bình mỉm cười nhìn Lan khi nghe tiếng người chủ trì Lotto ngân nga:

– Chồng chê thì mặc chồng chê,

Ăn đồng kẹo kéo chồng mê đến già… Nó là con số… con số mười ba.

– Cả hội trường chơi Lotto hở chú?

– Cả hội trường. Lotto sẽ kéo dài tới 6 giờ. Xen kẽ vào đó có một số chương trình khác, nhưng chính yếu là ca nhạc.

Định lên tiếng:

– Vậy Hội Tết ở đây là đánh bạc và ca nhạc.

– Chỉ có thế mà hội trường lúc nào cũng đầy người. Toán này xuống thì toán khác lên – Ông cười nói, rồi chỉ vào một toán cả mười mấy người vừa bước lên lề đường: Anh thấy đó, chúng ta đi thì lại có toán khác tới.

5

Quỳnh Lan rót trà ra 2 tách, rồi nhìn ông Bình:

– Thưa chú, sáng mai Lan sẽ đi với John xuống Springfield để John giới thiệu với cha mẹ và tiện thể thăm mấy di tích lịch sử của tổng thống Lincoln.

– Vậy là việc của Lan sắp xong, chú mừng cho Lan. Một ca sĩ Việt Nam về làm dâu miền đất dựng nghiệp của Lincoln, vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ. Thật đẹp.

Lan cúi xuống cười che dấu sự e thẹn, rồi hỏi:

– Ông ấy vĩ đại vì cái gì chú?

– Lincoln vĩ đại về hai việc. Thứ nhất là ông đã hủy bỏ chế độ nô lệ người da đen của nước Mỹ. Một việc rất khó, vì tới giữa thế kỷ 19, thời Lincoln, số nô lệ da đen ở những tiểu bang miền Nam đã lên tới 3 triệu trong khi người da trắng chỉ có 6 triệu và chế độ nô lệ đã được ghi trong Hiến Pháp. Thứ nhì là đã cứu được chế độ Liên Bang thống nhất (Union) của Mỹ. Vì sau khi ông đắc cử tổng thống năm 1860, 11 tiểu bang miền Nam muốn duy trì chế độ nô lệ nên đã ly khai, tách ra thành lập một Liên Bang mới gọi là Confederacy. Lincoln cương quyết duy trì sự thống nhất của Liên Bang Union. Từ đó tạo thành cuộc nội chiến giữa Miền Bắc, gồm những tiểu bang tự do không có nô lệ và Miền Nam. Cuộc nội chiến kéo dài 4 năm, từ 1861 đến 1864 với sự chiến thắng của quân đội Miền Bắc – Ông ngừng lại một lúc rồi tiếp: Nhân chuyện này chú nói thêm một điều là chính quyền đảng trị của Việt Nam thường tự xưng là nhà nước của dân, do dân, và vì dân. Tất nhiên chúng ta hiểu là họ đã làm ngược lại với chữ đảng, nhưng cần biết thêm là mấy ông nhà nước Việt Nam đã lấy những chữ đó từ câu kết trong bài diễn văn của Lincoln đọc trong lễ khánh thành nghĩa trang Quân Đội Gettyburg, vùng đất đẫm máu nhất trong trận chiến kết thúc cuộc nội chiến – Ông tới kệ sách lấy một cuốn, nhìn qua mục lục, rồi giở tới một trang: Đây, Lan nghe câu đó như sau: And that this nation, under God, shall have a new birth of freedom and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth.

– Government of the people, by the people, for the people…Nhà nước của dân, do dân, vì dân…, Lincoln hủy bỏ chế độ nô lệ da đen và giữ được sự thống nhất của nước Mỹ – Lan lẩm bẩm như học bài, rồi hỏi: Chú đã tới Springfield lần nào chưa?

Ông gật đầu:

– Chú đã xuống đó một lần để thăm mấy di tích lịch sử của Lincoln, gồm ngôi mộ và ngôi nhà. Ngôi nhà 2 tầng khá lớn với nhiều đồ đạc được giữ nguyên vẹn như giường, bàn ghế và nhiều đồ dùng khác. Springfield là thủ phủ của tiểu bang Illinois, nhưng là thành phố nhỏ. Trên mấy con đường quanh ngôi nhà của Lincoln, ngoài mấy nhà hàng fastfood của Mỹ như Mcdonald, Kentucky, duy nhất có một tiệm ăn Tàu – Ông ngừng lại một lát: Về làm dâu miền đất của Lincoln thì rồi sẽ thành thổ công của Springfield. Nhưng có một điều chú muốn nói là trong vài năm nữa quen đồ ăn Mỹ, Lan sẽ quên nghệ thuật nấu món ăn Việt Nam.

Lan cười:

– Hôm ở hội tết nói chuyện về ăn uống, John bảo là muốn được Việt hóa. Như thế Lan sẽ không biết nấu đồ ăn Mỹ thì đúng hơn.

Ông lắc đầu:

– Đó là nói cho vui, chớ người Mỹ không ăn được những món ăn truyền thống Việt Nam. Chẳng hạn mấy món như canh chua cá catfish, đậu hũ chiên chấm tương bần, cá kho tộ, rau muống sào tỏi mà Lan thường nấu thì ít người đạt được, nhưng về với John thì hết. Vì thế chú tiếc.

Lan cúi xuống có vẻ thẹn:

– Chú quá khen, chớ Lan chỉ nấu bình thường thôi.

– Bình thường được như cô mà mở tiệm ăn thì sẽ hốt hết khách của mấy nhà hàng ở Argyle. Chú thường ăn canh chua ở nhà hàng Thái bình và Ba Miền và chỉ thấy chua chớ không có mùi thơm của canh chua ở Việt Nam. Còn rau muống sào thì dươn và dai chớ không thơm và mềm.

Ông Bình nâng tách trà uống cạn, rồi nói:

– Chú cũng thường nấu canh chua với đủ thứ như me, cà chua, đậu bắp, nhưng chỉ chua chớ không có mùi thơm như canh chua Lan nấu. Bí quyết ở đâu, để lại cho chú rồi hãy về Springfield.

– Chú nói như Lan có bí kíp như truyện Kim Dung… Thật ra thì hơn 20 sống với cha mẹ, Lan đi học, rồi đi làm, đôi lúc phụ mẹ chớ không nấu. Tới khi sắp lấy chồng mẹ mới chỉ cho một số món. Nhưng chưa có ai khen, chỉ có chú, nên Lan sẽ ghi lại cho chú những điều mẹ dạy.

Ông nhìn Lan:

– Chú muốn nói thêm một điều nữa là John không thể quen với nước mắm, tương bần, cá kho và rau muống, nhưng có thể quen với tiếng Việt. Vì thế Lan nên khuyến khích John học tiếng Việt, vợ dạy chồng thì mau thành thạo, để John có thể nghe và biết tiếng hát của vợ mình ra sao. Món ăn Việt rồi sẽ quên, nhưng đừng để mất tiếng hát.

– Cám ơn chú. Không biết nấu ăn và hát có được như chú khen không, nhưng chú đừng lo, vì Elgin về đây có hơn tiếng lái xe, mỗi tháng Lan sẽ về nấu ăn và hát chú nghe – Lan cười nói, rồi đứng dậy đi về phòng.

Ông Bình nhìn lên bức ảnh Biển Động, trầm ngâm về sự hứa hẹn của Lan. Ông không mong Lan thực hiện lời hứa, vì bao nhiêu năm nay ông đã giảm trừ đời sống tới gần số không, sống đơn giản và không giao du để giữ sự yên lặng. Quỳnh Lan đến đã phá vỡ mất sự yên lặng đó. Vì thế ông mong việc kết hôn của Lan mau thành để ông trở về với đời sống cũ. Vô tình qua một lời khen mà Lan lại nói lên một điều ông sợ. Không thể nói ra điều này, nhưng ông hy vọng chỉ trong vài tháng sau kết hôn, việc làm, việc nhà và shopping sẽ nuốt hết thời gian của Lan và lúc đó ông có thể giúp Lan cởi bỏ lời hứa. Ông đứng dậy đi đến chiếc dương cầm… Bàn tay lướt trên bàn phím tìm âm thanh của Ta Với Trời Bơ Vơ, Lá Đổ Muôn Chiều, Chiều Trên Phá Tam Giang, Giọt Nắng Bên Thềm, Có Một Niềm Riêng… Dừng lại trầm ngâm một lúc, rồi trở về Đà Lạt với Đà Lạt Hoàng Hôn… thì Lan ra phòng khách trong chiếc robe ngủ màu hồng, đến bên piano, lấy tay đập nhịp rồi cất tiếng: Đứng trên triền dốc nhìn xuống đồi thông, hàng cây thắm màu đèn lên phố phường. Giờ đây hơi sương giá buốt, biết ai thương bước cô liêu, một người đi trong sương rơi… Ông Bình ngạc nhiên, vì từ sau tết Lan chỉ ra phòng khách nghe ông đàn, thế mà đêm nay lại hát theo đàn. A! lời hứa, ông mỉm cười… Đà Lạt ơi, có nghe chăng Cam Ly khóc tình đầu dang dở. Đêm xuống Than Thở vang cung hờn, người đi trong bóng cô đơn… Lan bước đến cạnh ông… Gần nhau xa nhau mấy nỗi, hỡi quê hương xứ sương rơi, Đà Lạt ơi, Đà Lạt ơi…

Ông Bình cầm tay Lan cảm động:

– Chưa về Springfield mà đã thực hiện lời hứa rồi. Cám ơn Lan.

6

Ông Bình để ly rượu Martell trên cửa sổ, đứng nhìn sân đầy tuyết. Qua ánh đèn đường, tuyết rơi phơi phới như mưa rào. Những cơn gió thổi tuyết cuộn lên bay ngang như một tấm màn trắng. Tuyết đi với gió và gió hú từng cơn qua đầu hồi nhà.

Lan ra phòng khách, đến bên ông:

– Bão tuyết cả đêm như thế này thì ngày mai tuyết sẽ ngập tới đâu chú?

– Theo dự báo thì trận bão sẽ kéo dài qua đêm và tuyết sẽ dày khoảng 1 feet. Công sở, trường học đóng cửa. Xe rải muối đã chạy suốt từ chiều, nhưng tuyết xuống nhiều quá không biết có kịp tan – Ông chỉ ra sân: Bây giờ tối, chỉ nhìn thấy sân và cây đèn đường, chớ ngày mai Lan sẽ thấy tuyết phủ đầy mái nhà, hè đường, cây cối. Toàn thành phố là một màu trắng. Đẹp thì có đẹp, nhưng đi làm thì rất cực và thành phố tốn rất nhiều tiền, hàng trăm triệu, để xe xúc tuyết chở tuyết ra ngoại ô đổ xuống cánh đồng.

–  Xe xúc tuyết cả thành phố, hở chú?

– Xúc tuyết ở những con đường chính và ở những khu quan trọng, còn ở những con đường nhỏ thì có loại xe đẩy tuyết vào hai bên đường. Và nhà hai bên đường có bổn phận xúc tuyết trên lề trong phạm vi nhà mình thành một con đường để người có thể đi lại. Ngày mai khi tuyết ngừng rơi, chú sẽ xúc từ cửa ra tới cổng thành một đường rộng khoảng 1 mét, rồi sẽ xúc một đường phía trước nhà nối với nhà bên phải và bên trái. Con đường giữa hai bờ tuyết cao này sẽ kéo dài một, hai tuần hay lâu hơn cho tới khi có mưa. Được trận mưa lớn chừng 2, 3 tiếng là thành phố sạch như lau, vì tuyết tan chảy sẽ kéo theo rác xuống sông, xuống cống.

– Thế nắng không làm tuyết tan hở chú?

Ông lắc đầu:

– Sau khi tuyết rơi, trời thường rất lạnh nên dù nắng tuyết vẫn đóng băng. Đi phải rất cẩn thận vì dễ té. Theo thống kê, mỗi mùa đông, số người chết vì té rất cao. Dân xứ tuyết mà vẫn chết vì tuyết. Chúng ta là dân xứ nóng lại càng phải cẩn thận. Đi chậm và nhìn kỹ, chỗ nào có băng bóng loáng thì tránh. Mấy trận tuyết trước nhẹ, chỉ kéo dài mấy tiếng, rồi sau đó một, hai ngày là có mưa, tuyết tan nhanh nên cô không thấy tuyết đóng băng trên đường, trên sân nhà. Qua trận bão tuyết này cô sẽ biết rõ xứ tuyết hơn.

Lan nhìn ra sân một lúc, rồi quay lại nói:

– Sân và đường đầy tuyết rồi chú ạ. Ngày mai Lan sẽ ra xúc tuyết với chú.

– Gái mười bảy bẻ gẫy sừng trâu. Mặc ấm rồi thử xúc cho biết – Ông cười rồi cầm ly rượu trở lại ghế salon. Lan xuống bếp uống nước, rồi lên phòng khách ngồi đối diện với ông:

– Đêm nay chú không đàn?

– Đàn chứ. Những đêm bão tuyết như thế này, chú đàn nhiều để khỏa lấp sự trống vắng. Vì những ngày bão tuyết hay mưa bão thì chú cảm thấy ngôi nhà này trống vắng nhiều hơn. Chỉ có tiếng đàn vang vọng, tràn đầy là có thể khỏa lấp sự trống vắng ấy. Có nhiều lần chú đã đàn cho tới khi ngủ gục trên phím đàn. Năm nay có Lan nên đêm tuyết này mới có tiếng người thay cho tiếng đàn – Ông nhìn lên bức ảnh Biển Động, nói nhỏ: Đã bao nhiêu năm…

Lan nhìn ông rồi cúi xuống che dấu sự xúc động, khi ngước lên vẫn thấy ông nhìn bức ảnh, mãi một lúc sau mới cất tiếng:

– Thưa chú.

Ông Bình nhìn Lan, lắng nghe.

– Thưa chú, John đã quyết định làm giấy kết hôn vào thứ hai tuần tới. Và sau đó John sẽ đưa Lan ra Hawai một tuần. Chiều thứ hai hôm đó John sẽ tổ chức một bữa tiệc mời một số bạn thân bên John, còn Lan thì chỉ có chú và gia đình chị Nhung.

– Chú mừng là Lan sẽ có đời sống ổn định sớm ở Mỹ. Còn bữa tiệc thì thì xin miễn cho chú. Vì từ bao lâu nay chú đã tránh tới chỗ tiệc tùng đông người.

Lan nhìn ông một lúc:

– Chú không muốn tới, Lan không dám ép, nhưng Lan xin được phép thưa hai điều: Trước hết là cám ơn chú đã giúp Lan, coi Lan là người thân và thứ nhì là muốn biết về cuộc đời cô độc của chú và bức ảnh Biển Động. Từ chiều đến giờ, nhìn tuyết rơi và nghe từng cơn gió hú, Lan lại nghĩ về đời sống âm thầm của chú trong ngôi nhà này. Trước đây chú nói là rồi sẽ hiểu, nhưng cứ nhìn hai bức ảnh, Lan lại đặt ra những giả thuyết và băn khoăn với nó. Nếu chuyện chẳng có gì bí mật thì xin chú giải sự băn khoăn này cho Lan.

Ông Bình trầm ngâm một lúc:

– Ai cũng có chuyện riêng tư khó nói hay không cần nói, nhưng chúng ta thì có thể nói cho nhau nghe được. Cám ơn Lan đã quan tâm đến đời sống của chú – Ông ngừng lại uống một hớp rượu rồi hỏi:

– Trước kia Lan có lên Đà Lạt vào mùa hoa anh đào bao giờ không?

– Dạ có. Vì làm ở công ty du lịch nên Lan thường lên Đà Lạt, nhưng đáng tiếc là do việc làm lại các hồ lớn, nhỏ như Xuân Hương, Than Thở…, rồi do việc khai phá để xây dựng nhà cửa, nên anh đào trong thành phố còn rất ít. Vì thế hoa anh đào không còn là một cảnh sắc đặc biệt của Đà Lạt. Bây giờ người ta bán ảnh hoa anh đào nhiều hơn. Cái danh “anh đào Đà lạt” đã thành dĩ vãng. Nhưng do thích hát nên Lan biết nhiều bản nhạc viết về Đà Lạt, nhất là hai bản Bài thơ Hoa Đào và Ai Lên Xứ Hoa Đào.

Ông gật đầu:

– Như thế thì tiếc thật. Thời chú sau 75, Đà Lạt tiêu điều đi nhiều, nhưng cảnh sắc thiên nhiên chưa bị phá, nên anh đào vẫn nở tung vào mấy tháng mùa đông trên khắp thành phố, ven hồ và thung lũng. Bản nhạc và ảnh chỉ ghi lại được một số nét nào đó thôi. Còn khi mình đi dưới một rặng anh đào hay nhìn màu hồng anh đào nở tung trên một dốc đồi thì mới thấy và cảm được sự quyến rũ của anh đào trong cái lạnh buổi sáng, buổi chiều của Đà Lạt. Gia đình chú ở Đà Lạt, lại ở trên đường Pasteur, con đường vòng dốc thoai thoải có nhiều biệt thự và anh đào, nên vào cuối đông và đầu xuân, lúc nào hoa anh đào cũng vây bọc quanh mình.

Lan hỏi:

– Sao trong dịp tết người ta không chơi anh đào như mai, như đào thiên thai?

Ông cười:

– Nếu chơi anh đào như mai, như đào thiên thai thì anh đào đâu còn kịp nở. Nhà nào cũng chặt ít cành thì anh đào thành trơ trụi. Có điều nhân câu hỏi, chú mới nghĩ thêm là người ta không chơi hoa anh đào vì đó là hoa ngoài đường, hoa chung của thành phố. Nhưng chú đã dùng hoa anh đào trong đám cưới của chú. Lan thử tưởng tượng khung cảnh từ cổng vào đến hiên nhà đầy màu hồng và lá xanh của mấy chục cành anh đào cao hơn 2 mét.

Lan nói nhanh:

– Đường lên thiên thai, chú ạ.

Ông Bình cười:

– Chú không nghĩ được như Lan mà chỉ nghĩ là cho khách đi qua một vườn anh đào khi vào nhà. Tại sao chú lại nghĩ đến việc dùng anh đào thì sẽ nói sau, còn trước hết chú nói về cô Như Mai – Ông chỉ lên bức ảnh treo trên tường: Gia đình chú và gia đình Như Mai không phải nguyên gốc Đà Lạt mà ở nơi khác đến. Gia đình chú là dân Bắc di cư vào Nam năm 1954, còn gia đình Như Mai gốc Nha Trang, lên Đà Lạt sau gia đình chú vài năm. Nhưng đều là gia đình ngụy quân, ngụy quyền theo ngôn ngữ đánh tráo của đảng cộng Sản Việt Nam, nên chú và Như Mai đã bị chận cửa vào đại học, sau khi học xong trung học. Do đó, mới 18, đôi mươi đã phải nhập vào đời tìm sinh kế. Như Mai có một gian hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ ở chợ Đà Lạt, còn chú được trời phú cho sự khéo tay, nên đã tự vẽ kiểu và tự sản xuất đồ mỹ nghệ bằng gỗ go, loại thông 3 lá Đà Lạt, rồi đem bỏ mối cho những gian hàng bán đồ mỹ nghệ. Từ việc bỏ mối này mà chú quen biết Như Mai. Có lẽ do nhan sắc, lịch thiệp và khéo nói nên gian hàng của Như Mai rất đông khách và trở thành một trung tâm cung cấp đồ mỹ nghệ cho khách hàng từ Sài Gòn, Nha Trang, Phan Rang… Ông cười: Người làm, người bán, cuối cùng thành người yêu rồi thành vợ chồng – Ông ngừng lại uống mấy hớp rượu, rồi tiếp: Như Mai có giọng ca thiên phú thường hay hát mấy bản Ai Lên Xứ Hoa Đào, Bài Thơ Hoa Đào và Tà Áo Tím, gần giống Lệ Thanh với thuật luyến láy nũng nịu điêu luyện, còn chú biết đàn guitare nên từ khi thân nhau đến thành vợ chồng chú đã đệm đàn cho Như Mai hát ở mấy đám cưới người thân hay bạn bè. Từ đó Lan biết vì sao chú đã dùng hoa anh đào trong ngày cưới.

Lan cười:

– Chú giàu tưởng tượng, nên Như Mai đã lên thiên thai ở trần thế.

Ông Bình uống hết ly rượu, rồi đi pha ly khác. Trở lại ghế, giọng ông trầm xuống:

– Sau 2 năm kết hôn, chú và Như Mai kiếm được một số vàng kha khá, nên đến năm 84 thì tìm đường vượt biên. Chú và cô đã lên tàu ở một làng cù lao thuộc Cần Thơ. Tàu đi được hơn một ngày thì gặp tàu hải tặc. Chuyện tàu vượt biên đụng tàu hải tặc Thái Lan thì chắc Lan đã đọc hay đã nghe dù sanh sau và khi trưởng thành thì thảm kịch vượt biên đã kết thúc. Bây giờ chú chỉ có thể nói là trên con tàu nhỏ mình hy vọng đưa mình tới một chân trời mới thì lúc đó đã trở thành một thế giới không thể đặt tên. Người ta có thể dùng mấy chữ thế giới súc vật để chỉ cho thế giới ấy, nhưng không trúng, vì con người chưa bao giờ thấy súc vật cười man rợ trước những dòng máu bắn tung tóe và trước những thân người chưa chết bị hất xuống biển. Khoảng ba, bốn chục người đàn ông phải nằm cúi đầu trước vợ, con, em mình trần truồng giữa một bầy thú người tay búa, tay dao. Chúng đập chết người nữ nào dám chống lại chúng. Chúng chém chết người nam nào dám lao lên liều thân – Ông cúi xuống nhắm mắt lại, mấy dòng nước mắt chảy dài xuống hai bên má.

Lan chạy vào phòng lấy chiếc khăn đưa cho ông:

– Lan hiểu chuyện rồi, đừng kể nữa chú ạ.

– Kể hay không thì cũng thế thôi – Ông lau nước mắt, rồi nhìn lên bức ảnh Biển Động – Buổi chiều đó với bầu trời đỏ ối như thế kia, sau khi cướp đoạt vàng, phá máy tàu, chúng bắt theo khoảng hơn chục phụ nữ, trong đó có Như Mai. Khi chúng kéo Như Mai qua gần chỗ chú, Mai nhìn chú với vẻ mặt bình thản lạnh lùng. Sự bình thản tới rợn người. Chú cảm được đó là cái nhìn tuyệt vọng trước sự bất động của chú, trước cái hèn của chú. Khi hải tặc cắt dây tàu, mở máy lướt đi thì chú mới chợt tỉnh là đã quá trễ để ân hận. Tại sao chú không dám liều mạng để chết như những người đã chết? Tại sao khi Như Mai đi ngang trước mặt, chú đã không lao ra kéo Mai nhảy xuống biển? Chú hèn để tìm cái sống, nhưng sống như thế để làm gì? Trên 20 năm qua, câu hỏi “Sống để làm gì” đã là một chứng nhân luôn nói với chú về cái hèn khiếp nhược của mình và chú đã xấu hổ, ân hận về cái hèn này. Từ đó, chú đã không dám nghĩ đến tình ái, đến những cái đẹp, vì nghĩ đến làm gì nữa khi mình không dám sống với nó – Ông nhìn lên bức ảnh Biển Động: Ngày đó, chú đã không dám chết để lỡ một cơ hội cùng chết với Như Mai. Cơ hội đó không còn nữa, nên chú coi như mình đã chết… Như Mai đã đi vào chân trời kia… Chú cầu mong nàng đã chết để thoát nợ đời, nợ nhan sắc và xin nàng tha thứ cho một người đàn ông hèn, chỉ biết nói mà không biết sống…, Biết chết đúng lúc cũng là biết sống.

Ông ngừng lại, uống cạn ly rượu, rồi nói:

– Đó là câu chuyện Lan muốn biết. Thôi khuya rồi, đi ngủ đi.

Nhìn lên bức ảnh Biển Động một lúc, rồi ông đi lại chiếc piano. Hai bàn tay lướt nhẹ tìm âm thanh của Serenata. Nhưng khi âm thanh lên tới độ cao nhất thì ông đập tay vào bàn phím, đứng dậy đi về phòng.

oOo

Lan đứng nhìn qua cửa sổ. Tấm thảm tuyết phản chiếu ánh đèn đường thành một màu sáng lấp lánh, soi tỏ màn tuyết mờ mịt trong sân. Ngoài phòng khách, dương cầm vang lên khúc Serenata. Nàng đang nhập vào âm thanh để cho lòng dịu lại thì một hợp âm bùng lên phá vỡ âm thanh rồi im bặt. Lan sao động trước vết thương của ông Bình. Từ tuần sau thì nàng sẽ không còn thấy ông ngồi với ly rượu hay ngồi trước chiếc dương cầm. Nghĩ đến thảm kịch của ông nàng ứa nước mắt. Một mình trong ngôi nhà cổ, bên một nghĩa địa, sống với 2 bức ảnh và chiếc dương cầm cho tới chết. Bốn tháng sống chung, nàng thương và sợ sự cô độc của ông, nhưng ông giữ nguyên một cung cách coi nàng như cháu, đôi lúc quá xa cách tới độ nàng cảm thấy như ông không nhìn thấy nàng trong ngôi nhà này. Mấy lần hát cho ông nghe, đứng bên ông, mong ông ngước lên để nhìn mắt nàng lúc đó, nhưng chỉ thấy hai bàn tay ông nhanh, chậm chạy trên bàn phím, và cuối cùng ngước lên cười, cầm tay Lan với mấy lời: Cám ơn Lan. Đã bao lần nàng đã biểu lộ bằng mắt và bằng phục sức cho ông thấy là nàng thương ông và muốn cho ông hết trước khi đi, nhưng ông thản nhiên xa cách với ly rượu hay tiếng đàn. Nàng không hiểu tại sao như thế, vì ông với nàng đâu có bức thành luân lý đạo đức gì để phân cách giữa hai người. Đến đêm nay thì nàng hiểu, thảm kịch nội tâm của ông đã là bức thành ngăn cách ấy. Từ đó, Lan có một ước muốn kéo ông ra khỏi tấn thảm kịch.

Lan ngồi xuống chiếc ghế bành ở cạnh tường, suy nghĩ một lúc rồi đứng dậy đi sang phòng ông. Khi Lan đẩy cửa bước vào, ông nằm trên giường nhìn ra, rồi ngồi dậy:

– Lan còn muốn hỏi điều gì nữa?

Lan đến bên giường, ngồi xuống trước ông:

– Lan không hỏi chú điều gì nữa mà muốn gánh bớt tấn thảm kịch của chú bằng hồn và thân thể của Lan. Đời người ngắn lắm, mươi, mười lăm năm nữa chú thành ông già và Lan cũng bắt đầu đi vào tuổi già. Đã không chết được thì phải sống. Tại sao để phí thời gian của nguồn sống ngắn ngủi ấy – Nàng nhìn vào mắt ông trong ánh đèn ngủ: Chú sống cô độc với 2 bức ảnh và đàn Bài Thơ Hoa Đào để gọi hồn Như Mai chừng đó thời gian là đã quá đủ. Lan sẽ thay Như Mai hát chú nghe, đưa tay đón chú về và khoác tay chú đi trên bờ hồ những ngày lộng gió – Nàng vuốt hai bàn tay vào hai má ông – Những ngày mưa bão, những đêm bão tuyết chú sẽ nghe tiếng Lan hát chớ không chỉ có tiếng dương cầm, sẽ thấy Lan đi lại với tiếng cười chớ không còn sự cô tịch của ngôi nhà cổ với tuyết lạnh bên ngoài, sẽ thấy Lan là người thật với mái tóc dài đứng bên dương cầm chớ không phải là bức ảnh hong tóc vô tri bất động đã chiếm hết cuộc đời của chú – Nàng vòng tay ôm cổ ông – Người ta nói: Thời gian hàn gắn mọi vết thương, nhưng thời gian đã bất lực với chú, vì thế Lan sẽ thay thời gian xóa mờ vết thương cho chú. Lan kính trọng và thương chú – nàng buông cổ ông, nằm bật ra trên nệm trắng – Sao lại phải sống khổ như thế, tỉnh lại đi, thân thể Lan đây – Cùng với lời nói, nàng dướn người kéo váy lên đến tận cổ.

Dưới ánh đèn ngủ, ông Bình nhìn hai đùi trắng mở rộng… mắt mờ dần theo cơn bão đang nổi lên… và Như Mai trong chiếc áo tả tơi vừa bước vừa nhìn ông dưới bầu trời đỏ ối… Ông mở mắt lớn nhìn lên rồi xuống giường, nhìn hai mắt Lan, môi run run: Cám ơn Lan, cám ơn chân tình của Lan, nhưng đã bao nhiêu năm… Không nói được hết lời, ông bước ra khỏi phòng. Chừng 10 phút sau, Lan nghe tiếng dương cầm với Serenata, Clair de Lune, rồi Bài Thơ Hoa Đào, Ai Lên Xứ Hoa Đào… Nàng ngồi dậy nhìn hai đùi mình, rồi để nguyên chiếc váy mỏng quấn quanh cổ, nằm sấp lại, vùi mặt vào gối và cảm được là tiếng đàn đang đưa nàng về một nơi bình an.

oOo

Ông Bình đang uống trà thì Lan trong chiếc robe màu xanh lợt, tóc xõa phủ vai từ trong phòng bước ra, đến ngồi bên ông:

– Chú, Lan vừa gọi điện thoại báo cho John biết là Lan xin hủy vụ làm giấy tờ kết hôn ngày mai.

Bỏ tách trà xuống bàn, ông Bình ngạc nhiên:

– Tại sao vậy? Mất bao nhiêu thời gian vất vả, rồi bỗng chốc bỏ đi.

Lan nhìn vào mắt ông:

– Lan không thể xa chú, không thể để chú sống một mình trong ngôi nhà này.

– Cám ơn Lan. Còn John nói sao?

– Anh ấy nói là không hiểu tại sao vì trên một năm tìm hiểu, hứa hẹn, rồi tới ngày cuối cùng thì bỏ. Lan trả lời là cám ơn John đã đáp ứng việc Lan đi tìm chồng với tình cảm chân thật. Nhưng sau những đêm tra vấn lại mình, Lan mới nhận rõ là Lan cần một người chồng Việt Nam, và xin John tha thứ cho việc đã làm xúc phạm tình cảm của John – Lan chờ ông lên tiếng, nhưng ông vẫn trầm ngâm, nên nói: Tại sao Lan lại ngớ ngẩn như vậy. Đã tới được một nơi yên ấm để trú ẩn lại còn muốn đi đâu. Lan ở lại đây với tiếng đàn để phá vỡ sự yên lặng của ngôi nhà này. Không đi đâu nữa.

Ông Bình đặt tay vào má Lan:

– Không muốn đi thì ở đây với chú.

Lan choàng tay, gục mặt vào lòng ông, khóc oà. Ông yên lặng nhìn hai bờ vai Lan rung lên từng hồi, rồi nước mắt trào ra, từng giọt nhỏ xuống mái tóc dài phủ kín đôi vai. Khi bờ vai Lan bớt rung, ông lấy tay áo chùi mặt, nhìn ra ngoài trời. Tuyết vẫn đang rơi

* Chu Tấn.

===================

CHỦ ĐẠO VĂN HÓA VIỆT NAM (CHU TẤN)

 Tháng 11 26, 2019 

 Lượt xem: 1230

‘…Đạo Sống Nhân chủ đặt trọng tâm hoàn thành cuộc Cách mạng tâm thức con người, làm nền tảng cho mọi cuộc Cách mạng Dân tộc và Xã hội…’

Vì thế tuy chống cộng, nhưng vì thiếu chủ đạo nên mắc đầy mâu thuẫn giết người: Chống cộng được một thì nuôi cộng đến tám chín. Vì thiếu chủ Đạo nên không hướng dẫn đời sống hiện nay để nó trôi dạt, như con tầu mới nhổ neo

“Đạo Sốngcũng là “Minh Triết Đạo”, và cũng chính  là “Nhân Chủ Đạo”_Chủ dạo Văn hóa Việt Nam là “chìa khóa vàng” cho phép chúng ta mở tung các cánh cửa, các kho tàng vô giá vô biên vô tận của Văn hóa Việt Nam và Văn hóa nhân loại

I. Lời mở:

Nhằm phát huy văn hóa Việt Nam, trong thời đại “Toàn Cầu Hóa Văn Hóa”, nhiều người trong chúng ta có thể dễ dàng đồng ý với nhau là theo nhu cầu thời đại, cần phải có một một Chủ Đạo Văn Hóa, nhưng Đạo là gì? Khái lược về Đạo Sống Việt Nam ra sao? Sự hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam trên nền tảng nào? Thành quả và giá trị của Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam như thế nào?

Để trả lời các câu hỏi trên, trong bài tham luận này, chúng tôi xin tuần tự đề cập tới:

  * Đạo là gì?

  * Khái Lược về Đạo Sống Việt Nam  

  * Quan Niệm và phương pháp hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam

 * Những cột trụ hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam

* Tác năng Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam:

(“Nguyên Động Lực”, “Vũ Trụ Quan”, “Nhân Sinh Quan, “Văn Hóa Xã Hội Quan” hay “Nhân Thế Quan, của Chủ Đạo Sống như thế nào? “)

II. Đạo là gi?

Đạo, theo chữ Nho nghĩa đen là con đường hay đường đi, nghĩa bóng mang khái niệm trừu tượng về con đường, phương hướng, đường lối dẫn dắt con người đi đến mục tiêu hay lý tưởng nào đó. Có rất nhiều lý tưởng, phương hướng và nguyên tắc khác nhau về Đạo. Thí dụ: Thiên đạo, Nhân đạo, Trí đạo, Tâm đạo. Tuy vậy, tất cả những con đường Đạo khác nhau đó cùng chung một nền tảng cơ bản là dựa trên cái Lành, cái Thiện, cái Đẹp, tự nhiên trong sáng, lành mạnh và chân chính để mưu cầu Hạnh Phúc và An Bình cho con người. Khi nói đến Đạo, người ta thường cho rằng đó là vấn đề thuộc tôn giáo như nói đến  đạo Phật, đạo Thiên Chúa hay những đạo giáo khác đang lưu truyền hiện nay. Thật sự, đạo giáo hay tôn giáo chỉ là một trong nhiều Đạo khác nhau nhưng chủ yếu về tâm linh dựa vào lòng tin hay đức tin của người theo đạo giáo để khuyên con người làm lành tránh dữ. Những đường Đạo khác cũng thế, đều dẫn dạy con người cách sống, cách hành xử, cách yêu thương “cho và nhận” thể hiện Từ bi, Công Bình, Bác Ái.

Tóm lại Đạo có 3 nghĩa:

1-   Đạo là con đường (nhân đạo thiên đạo) Phàm là con đường thì có tốt, xấu, thiện ác… Theo Đạo Phật, hễ còn trong vòng đối đãi thì không thể hoàn toàn rốt ráo được

2-    Đạo là bổn phận: (đạo vua tôi, đạo cha con, đạo thầy trò, đạo vợ chồng…) Phàm là bổn phận thì chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập quán. Phong tục, tập quán thì mỗi vùng khác nhau. Do vậy chữ Đạo là bổn phận cũng chưa đúng với nghĩa chữ Đạo theo ngôn ngữ Phật giáo.

3-   Đạo là tính tuyệt đối, là bản thể, nó lìa nói năng, không thể nghĩ bàn. Theo Nho giáo, Đạo là “Thiên Lý” (Thiên lý tại nhân tâm= Đạo trời ngay trong lòng mỗi con người chúng ta) Phật giáo quan niệm: Đạo là “tính giác” hay Phật tính (Ta là Phật  đã thành, Chúng sinh là Phật sẽ thành) Đạo cũng là “Chân Như” “Niết Bàn”. Chữ Đạo của nhà Phật chính là đồng nghĩa với bản thể vậy (1*).

III. Khái niệm về đạo sống văn hóa Việt Nam

Thực ra khi nói riêng về chữ “Đạo” như trên, dĩ nhiên là không được đầy đủ vì Đạo bao giờ cũng là “Đạo của con người” vì lẽ nếu không có con người thì cũng không có “Đạo”; hoặc “có Đạo” mà “không có con người” thì Đạo dẫu có đó, và cho dù Đạo có “linh diệu” đến đâu cũng không “liên quan gì đến con  người”, nếu con người “vắng mặt” trên trái đất hay trên liên hành tinh. Do trên “Thiên Đạo” luôn gắn liền với “Nhân Đạo” (Đạo Trời” và “Đạo người” luôn gắn bó với nhau.) Tiến sâu hơn,“Đạo của con người” cũng chính là Đạo của “Sự Sống Con Người” vì “Con người” và “Sư Sống Con Người” cũng chỉ là một và luôn luôn là “Một”, trở thành “Sinh Mênh Con Người”

Chúng tôi gọi là “Đạo Sự Sống” hay nói đầy đủ là ‘Đạo Sống Con người” hay “Đạo Sống Dân Tộc Việt Nam” hay “Đạo Sống Nhân Loại” “Đạo Sống Vũ Trụ”. Vậy Sự Sống là gì? Và có thể định nghĩa Sự Sống được không?

Xin thưa ngay danh từ “‘Đạo” hay danh từ “Sự Sống” vượt lên ngôn ngữ , vượt lên trên mọi khái niệm nên không thể định nghĩa được, chúng ta chỉ có thể hiểu hay đúng hơn “cảm ứng với Đạo”, cảm ứng với “Tinh hoa Chân lý Sự Sống” bằng phương pháp “ Hội thông”….

Lão Tử nói:”Đạo khả đạo phi thường Đạo” nghĩa là: “Đạo mà nói ra được, không phải là Đạo thường“Lão Tử cũng không biết gọi tên gì cho đúng, chỉ “cưỡng danh” gọi là “Đạo”.

Kinh Dịch, cho rằng: “Đạo là do 2 sức mạnh của Vũ Trụ có đặc tính đối kháng mâu thuẫn nhau là “Âm” và “Dương” đun đẩy, phối kết, bổ sung lẫn nhau mà thành “Nhất âm nhất Dương chi vị đạo” (Hệ Từ Thượng)

Theo sự khám phá, chứng nghiệm của chúng tôi, sở dĩ gọi là Đạo Sống Việt Nam hay Đạo Sống nhân loại – vì Đạo luôn tiềm ẩn trong “Nền Tảng Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống Con Người”

Cũng có người đặt câu hỏi: Phải chăng “Tinh hoa Chân Lý Sự Sống “đặt nền tảng trên triết lý “Duy Sinh”chăng? Xin thưa:

Sự Sống vốn vô duy – Không có duy – Cho dù các triết lý “Duy Tâm”, “Duy Vật”, “Duy Lý”, “Duy thần”, “Duy Nghiệm”, “Duy Sinh” hay “Duy Linh” đều là cái nhìn phiến điện về cuộc đời hay “Tinh hoa Chân lý Sự Sống Con Người”.

Sự Sống là vô duy – không có duy – không những thế, “Tinh Hoa Sự Sống Con người” còn mang các yếu tính căn bản sau đây:  “Sống Động”, “Biến Hóa” “Thường hằng”, “Vĩnh lạc”, “Toàn thẩm”, “Bao dung”, “Tương tức”, “Tương nhập”, “Thành Toàn”, “Vượt thoát”, “Giải thoát”, “Hiện hóa” “Dung hóa”, “Sáng hóa”, “Sống Hóa”…)

Xuất phát từ các yếu tính căn bản trên nên Đạo Sự Sống đã được hiện thực hóa trong xã hội nhân loại qua các dạng thức hay Sống năng: (Nói theo triết lý “Tri-Hành hợp Nhất”của Triết Gia Vương Dương Minh):

·  Vô cực – Thái Cực – Sống hợp nhất

· Âm – Dương – Sống hợp nhất

·  Tinh Thần – Vật Chất – Sống hợp nhất

· Tri- hành- Sống hợp nhất (2*)

· Chân –Thiện- Mỹ- Sống hợp nhất.(3*)

· Chân- Minh- Hoan- Sống hợp nhất(4*)

· Chân- Thiện- Nhẫn –Sống hợp nhất (5*)

IV. Quan niệm và phương pháp hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam

A. Danh Từ Chủ Đạo và Quan Niệm Chủ Đạo:

A-1.  Danh từ “Chủ Đạo”:

Danh từ này do Linh Mục Triết Gia Kim Định đặt ra để phân biệt giữa “Chủ Đạo” và “Chủ Thuyết” hay “Chủ Nghĩa”….

A-2:  Quan niệm về Chủ Đạo Văn Hóa:

“Trước hết Linh mục Triết Gia Kim Định công nhận sự giải thích về Đạo theo kinh Dịch “Nhất âm nhất dương chi vị Đạo” Đạo là một âm một dương. Theo câu này thì Đạo phải có cả âm và dương tức phải hội nhập được cả hai đầu đối lập. Đó là điều con mắt thường thấy không thể làm được: không thể nước lửa ở với nhau hay vuông hoặc tròn, hoặc chẵn lẻ cùng nhau một trật. Vì thế cho tới nay Đạo toàn được định nghĩa theo một chiều nên kể là không có Đạo, chỉ có chủ thuyết, mà người ta gọi đại là “chủ đạo”. Đấy là cái lầm giết người. Giết thực sự chứ không nói bóng bẩy chi cả …

Hỏi tại sao thế?

Thưa là một sự tế vi ít được nhận ra, đó là khi người ta dùng có tai mắt thì chỉ thấy có vòng ngoài hiện tượng là cái vốn không thể ở cùng với nhau trong một nơi. Muốn hội nhập cần phải đi bước Tâm Tư nữa mới thấu được vào vòng trong, mới tới phần Vô của sự vật, mà có Vô thì hai chiều trái ngược mới gặp được nhau.

Nói kiểu thông thường thì phải vượt qua giai đoạn duy lý để đi vào tâm tư mới có thể đi thẳng đến đúng sự vật mà không qua ý niệm hay chủ thuyết nào, lúc ấy sẽ thấy như Kinh Dịch là muôn vật đều mang trong mình một trật cả Không lẫn Có, cả Hữu lẫn Vô.Và chính ở chỗ Vô, mẫu số chung của muôn loài mà hai luồng khí trái ngược gặp gỡ. Đó gọi là Đạo. Đạo là thấy cả 2 phần Hữu và Vô trong sự vật. Như vậy Đạo chẳng qua là Cơ Cấu toàn diện của sự vật gồm cả hiện tượng lẫn ẩn tượng – là chiều kích vô biên vi tế. Trang Tử định nghĩa Đạo trong ý đó khi nói câu Đạo Vật chi Cực. Đạo là đi tới cùng triệt sự vật. Nếu đi đến tận cùng thì thấy muôn vật đều thành bởi hai luồng khí ngược chiều. Đó là điều ngày nay khoa học bắt đầu thấy như vậy: đó chính là bản tính muôn loài, khoa học kiện chứng cho lời kinh Dịch. Ta phải công nhận như thế. Và phải nhận rằng không thấy được là vì tin trọn vẹn vào tai mắt, nên con người đã không đạt Đạo.

Mà Có đạt Đạo mới có hạnh phúc:

Vì thế mà Đạo cũng có tên Minh Triết, vì Minh Triết là nghệ thuật rất cao xếp đặt việc nước việc nhà sao cho mọi người đều được hạnh phúc. Vậy theo kinh nghiệm lịch sử thì cho tới nay loài người không đạt được những điều đó. Xưa kia phần lớn dân chúng bị nô lệ. Ngày nay cũng đến phân nửa bị áp bức hết sức dã man. Đến khi nghiên cứu về triết học, ta phải giật mình nhận ra rằng căn do sâu xa, nằm trong chỗ toàn bộ triết học đều dựa trên tai mắt nên chỉ thấy có vòng ngoài. Do đó triết cũng định nghĩa sự vật theo vòng ngoài, chỉ có một chiều, bỏ mất chiều kia coi như đối kháng. Trong triết học, quen gọi đó là nhị nguyên đối kháng, bắt chọn một bỏ một. Chọn vuông bỏ tròn, chọn lẻ bỏ chẵn, chọn có bỏ không. Từ đấy xẩy ra hiện tượng này là triết học, dùng toàn những nguyên lý sự vật cho người, như nguyên lý đồng nhất: Một là một, hai là hai, không thể có trường hợp thứ ba (gọi là triệt tam) như hai mà một, một mà hai. Đó là nguyên lý dùng cho sự vật có tính cách bất động, nên cũng theo cung cách sự vật là đưa ra chủ thuyết dựa trên sức mạnh: mạnh được yếu thua. Kẻ mạnh chiếm hết tài sản, người yếu không còn chi, ngoài quyền làm nô lệ cho người có, kẻ có làm chủ, kẻ không làm nô, gây nên xã hội đầy tranh đấu. Vì chút quyền lợi vật chất mà đến nỗi coi người cùng nước như quân thù cần phải phân thây uống máu.

Đó là căn nguyên nô lệ và bất công:

Nó nằm ngay trong chủ thuyết, nhưng không một ai thấy nên số phận nô cứ bị kéo dài từ nô lệ thời Hy Lạp, La Mã, chuyển sang nông nô Trung cổ, dẫn tới Cách mạng Pháp 1789

Từ đấy cuộc tranh đấu mở ra công khai, tức có thêm trí thức nhập cuộc lại nhờ những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, nên Tây Âu dần dần phá bỏ được chế độ nô lệ và đi vào được nền dân chủ. Nhưng đó không là công của Triết, cho bằng của lương tri. Triết vẫn theo con đường một chiều như trước nên chỉ là chủ thuyết vốn dựa trên ý niệm một chiều (ý niệm bao giờ cũng một chiều) thiếu khả năng hội nhập hai đối cực nghĩa là không đạt Đạo, nên cũng không thấy căn nguyên nô lệ con người ở đâu.Thật là đi đến kết quả trái ngược hẳn với dự phóng ban đầu là phá bỏ chế độ nô lệ thì  thực tế chỉ là dịch nô: Gỡ nô lệ từ  Âu châu chuyển sang đầu các dân khác , sau khi đã làm cho ách đó trở thành thảm khốc hơn nhiều.

Chứng cớ là các nước Tây Âu chỉ phồn thịnh bên ngoài mà thiếu chủ Đạo nên đời sống vẫn vô hướng vô hồn.

Nước chỉ đến Hiến Pháp là cao nhất bên trên không có đạo nghĩa gì. Trong văn học không có nền triết lý nào gọi được là ưu thắng. Các đảng phái thì quanh quẩn ở tầng cương lĩnh với chủ thuyết nên cũng chỉ biết theo đường chính trị mưu mẹo trí xảo, đó là những cái biết vụn vặt mà Trang Tử bảo nếu không bỏ đi được, thì không trông có được cái khôn lớn cỡ luận đạo kinh bang tế thế, tức không đạt chủ Đạo.   

Vì thế không có cách ngăn cản cộng sản đem gieo rắc ra khắp thế giới cái chủ thuyết nhị nguyên đối kháng đã được đẩy đến chỗ thái thậm, dìm non nửa nhân loại vào vòng nô lệ khổ nghèo như chưa bao giờ cơ cực đến thế.

Vậy mà chưa thấy đâu là Chủ Đạo chỉ lối thoát ra ngoài hai gọng kìm nhị nguyên đối kháng. Một là theo cộng sản thì có hướng, nhưng là hướng giết người, giết mọi tự do. Hai là theo thế giới tự do thì có tự do, nhưng lại vô hướng vô hồn.

Vì thiếu Thái Hòa nên không tìm ra được lối kiêm cả tự do lẫn có hướng có hồn.

Các nước Tây Âu tuy xưng mình là thế giới tư do nhưng thực ra mới được tự do hàng ngang xã hội, mà chưa đạt tư do hàng dọc, là đối với Trời cùng Đất: Mới có tự do tiêu cực, mà chưa đạt tự do hàng dọc tâm linh, vẫn còn nô lệ cho địa lợi một cục. Tâm lý nói đó là:  freedom from, not yet freedom to

Vì thế tuy chống cộng, nhưng vì thiếu chủ đạo nên mắc đầy mâu thuẫn giết người: Chống cộng được một thì nuôi cộng đến tám chín. Vì thiếu chủ Đạo nên không hướng dẫn đời sống hiện nay để nó trôi dạt, như con tầu mới nhổ neo, nhưng đâu là bến là bờ, đâu là đường hướng thì chưa tìm ra câu đáp”

Tại Sao?

Thưa vì Triết đã không triệt, là không đi tới tận cùng triệt để. Triết Tây mới tới bờ Có, bờ Hữu, chưa hỏi bên kia Hữu có còn chi nữa chăng? Ấn Độ mới tới bờ Vô, chưa hề đặt câu hỏi bên kia bờ Vô còn chi nữa. Thế là cả hai tự giam mình trong tư duy Hữu Hay Vô thì làm chi thấy được bờ bên kia mà thiết lập nên Thái Hòa.

Mà không đạt lý Thái Hòa thì không thông đạt được cái lý nhỏ khác, như châm ngôn nói: “Nhất lý minh, vạn lý thông”. Có minh được Lý Thái Cực, thì vạn lý khác mới hanh thông. Khi lý Thái Cực không thông thì tất nại tới ảo thuật: ”Thất Lý nhi nhập ư thuật” Thuật đây là các thứ chủ thuyết, các tôn giáo bái vật, các phù thủy pháp môn.

Tóm lại tất cả các phép do lý trí nhỏ hẹp bầy bịa ra đều chỉ là thuyết với lý. Đó không là Chủ Đạo mà chỉ là Chủ thuyết một chiều đầy mâu thuẫn giết người. Hiện nước ta đang chiếm giải quán quân: Bên nhà thì nghèo hèn nhất thế giới, ở hải ngoại thì tan rã nhất hoàn cầu. Ấy chỉ vì Chủ thuyết.Vì Việt Cộng đã rước voi về dầy mộ tổ, gây nên thiên sầu địa thảm dường ấy, chỉ vì nó là chủ thuyết mà không là Chủ Đạo. Nói rộng ra, cả thế giới này, đang khủng hoảng là vì chỉ toàn chủ thuyết mà không có một Chủ Đạo nào cả.

B. Phương Pháp Hình Thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt:

Có 2 phương pháp hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam:

Một là: Căn cứ trên “Biện chứng pháp” hay đúng hơn là “Dịch hóa Pháp” của Kinh Dịchđể hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam. Đây là Phương pháp mà Linh Mục Triết Gia Kim Định đã đề nghị: Trong tập sách mỏng: “Thử đề nghị một Chủ Đạo cho Người Việt Lưu Vong” Linh Mục Triết Gia Kim Định dẫn giải như sau:

“Muốn hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam phải hội đủ bốn đức tính: “Văn, Lý, Mật, Sát”…Muốn là Chủ Đạo đủ khả năng hướng dẫn thế giới thì phải có đủ bốn đức tính đó. Triết lý Tây thiếu Mật (= thấu vào vòng trong, nói vắn tắt là thâm sâu) tức thiếu Tâm linh.

Còn Nho thì xưa kia có đủ cả “Mật” lẫn “Sát”. Thế nghĩa là Nho đã hội nhập được cả âm lẫn dương. Vậy là đã có chủ Đạo. Nhưng không còn đủ cho ngày nay: Lý trí con người đã phát triển hơn xưa rất nhiều. Nho muốn còn tác động được như xưa tất phải thêm phần “Sát” là phân tích lý luận, nhưng lại thiếu “Mật” (tâm linh) nên không đạt Đạo mà chỉ là chủ thuyết hay ý hệ. Nay nếu đưa được cái “Sát” của triết Tây áp dụng vào cái “Mật” của Nho ta sẽ có một chủ Đạo hợp với tâm trạng ngày nay; lần đầu tiên trong nhân loại sẽ có một chủ Đạo như trên. Vậy mà Thái Nho đã thử tiến hành trong chiều hướng đó “Nói tóm lại vẫn theo Linh Mục Triết Gia Kim Định; “Chủ Đạo văn hóa gồm 3 yếu tố “Thái Hòa Nhân Chủ Tâm Linh”. (*6)

Hai là:  Hình thành Chủ Đạo Văn Hóa theo phương pháp “Chân Nguyên Sống Tính luận” ngõ hầu theo đúng lộ trình miên viễn của“Đạo Sống” đồng thời nhịp theo trình độ tiến hóa của “Con Người Thời Đại Hôm Nay Ngày Mai”.

Phương pháp  mới này của chúng tôi không hề mâu thuẫn với phương pháp “Dịch Hóa Pháp” của Linh Mục triết gia Kim Định mà là tiếp nối, sự chỉ hướng của  của Linh Mục Triết Gia Kim Định, Phát Huy Đạo Sống ,Mở rộng và đi sâu hơn.

Chúng tôi quan niệm rất rõ: Đạo Sự Sống, không có ai là tác giả, và tất nhiên không có ai là Giáo Chủ, mà Đạo Sống là Đạo của Trời Đất của Vũ Trụ, mà con người có trách nhiệm, có sứ mệnh phát huy Đạo Sống, kinh dương Đạo Sống, Hiện Hóa Đạo Sống  vào nhân quần xã hội sao cho Quốc Gia được vinh quang, phú cường, toàn dân được hưởng Quyền Sống, Quyền Bình Đẳng, Dân Chủ, Tư Do và Quyền mưu cầu Hạnh Phúc, nhân loại được thái hòa.

V. Ba cột trụ hình thành chủ đạo Văn Hóa Việt Nam

Ba cột trụ hình thành “Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam”. Đó là:

·        Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống

·        Triết Lý Nhân Chủ.

·        Thực Thể Quần chúng Chính Trị 

1- Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống:

1a: Tại sao gọi“Chân Lý tinh hoa sự Sống”?

Xin thưa vì muôn loại chúng sinh từ con vi khuẩn, lên các loài động vật đều có sự Sống, nhưng chỉ có Sự Sống nơi con người mới đạt đến độ Tinh Hoa, khiến cho con người trở thành thượng đẳng trong muôn vật. Thực vậy con vật dù khỏe mạnh đến đâu hay thông minh đến đâu chăng nữa, cũng không có khả năng suy tư và sáng tạo là 2 động năng chính hình thành Văn hóa. Do trên chỉ có con người mới có Văn hóa, còn con vật không bao giờ có khả năng sáng tạo Ngôn ngữ, Triết học, Văn hóa và Văn minh.

Từ cơ sở  nhận thức trên, chúng ta có thể đi đến kết luận  mà không sơ sai lầm là  “Chính Chân Lý  Tinh Hoa Sư Sống  là bản chất của Văn Hóa “ Chính Tinh Hoa chân Lý sự Sống là Bản chất  con người”. Có nhìn từ góc độ chân lý này, chúng ta mới khám phá ra nhiều điều hay lạ và kỳ diệu.

1b: Sự Sống con người là điều quí giá nhất:

Không đứng trên  phương diên tâm linh tôn giáo, mà đứng trên phương diện tâm lý thông thường của mọi người trên thế gian, ai ai cũng phải công nhận rằng “Không có gí quí bằng Sư Sống con người” hay “Sự Sống  con người là điều quí giá nhất”. Giá trị của “Tinh Hoa Sự Sống con người “là chân lý vượt thời gian không gian”.

Thực vậy, người Đông Phương cho rằng “cái Tâm” con người là điểm tinh hoa nhất của con người … Thi hào Nguyễn Du cũng nói:

Thiện căn ở tại lòng ta
“Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”

(Truyện Kiều)

Có điều chúng ta phải phân biệt rõ: Chữ Tâm có 2 nghĩa: Chân Tâm (là điểm Tinh Hoa cao quí nhất của con người) và Vọng Tâm (Là ý thức, ý niệm, tư tưởng và dục vọng…) là những rung động xấu như những đám mây mù che mất Chân Tâm hay làm loạn Chân tâm, che mất “mầm thiêng”, làm loạn “Tính Giác ngôKhoa tu Thiền   gọi “Vọng Tâm” là “Tâm Viên Ý Mã” (tâm như con vượn truyền cành; ý như con ngựa không cương chạy lung tung …) còn Chân Tâm hay Bản Tâm là “Bản Lai Diện Mục” (Tức bản mặt thật, con người thật,  trước khi chúng ta sinh ra đời).

Nói tóm lại điểm tinh hoa nhất của con người chúng tôi gọi là Chân lý Sự Sống, danh từ Đông Phương gọi là Chân Tâm, Phật Giáo gọi là Bồ đề tâm,(“tâm giác ngộ  hay “Tính Giác,” Tuệ Giác” “Trí huệ Bát nhã”  Duy Thức học hay Tâm  Lý học Phật Giáo gọi phần tinh hoa của con người là   A lại Gia thức ( (Àlaya-Vunanana) tức thức thứ  8.  Duy Thức học Tây Tạng còn khám phá ra thức thứ 9 gọi là À-Mana hay Àmana Thức (Àmana-Vunanana). Kinh Dịch gọi là Thái Cực, Thái hòa, Thiên địa chi đức  hay Thần vô Phương(Thần Vô Phương Dịch vô thể- Hệ Từ Thượng)Nho giáo gọi là “Thiên Lý ” … Manh Tử gọi  là “Xích tử chi tâm”(Tâm của đứa trẻ mới sinh) hay “Khí Hạo Nhiên. Vương Dương Minh gọi là “Chí Lương tri Lê Quí Đôn gọi là “Nhất điểm linh thông” “Danh” tuy có nhiều nhưng “Chân lý” chỉ có một .

1c: Phát huy Đạo Sống và Diệu dụng Chân Lý Tinh hoa Sự Sống Con Người:

Như trên đã trình bầy: Điểm tinh hoa nhất của con người có nhiều tên gọi khác nhau: Người Đông Phương quan niệm: “Con người quí ở “Chữ Tâm”, “An Tâm”, “Chân tâm, chúng tôi gọi là Chân lý tinh hoa Sư Sống”.Sở dĩ có tên gọi mới như trên, vì qua công phu “thiền quán,” khi con người thể nghiệm trong tịch lặng hay sống thiền sẽ ngộ ra rằng chân tâm, tính giác, hay tinh hoa sự sống , cũng chỉ là một. Khi con người bặt tưởng, vượt lên “đối đãi nhị nguyên” thì thấy ngay sự sống trong ta và sự sống vũ trụ cũng chỉ là một  Đúng như câu nói thời danh của triết gia Lục Tượng Sơn đời Tống: “Ngô Tâm tiện thị vũ trụ, vũ trụ tiện thị ngô Tâm”= Tâm ta hòa vào vũ trụ, vũ trụ ở trong tâm ta) hay triết lý “Nhất tức nhất thiết, Nhất thiết tức nhất” = “Một là tất cả, tất cả là một”. Khi ngộ ra chân lý này chúng ta sẽ hiểu ngay thế nào là “Kinh vô tự” hay “Kinh vô lượng nghĩa”. Khi khám phá ra Chân Lý này,  con người mới thực sự hiểu đạo, sống đạo và không còn chấp vào “ngôn từ”, “không còn chấp “Ngã tướng” “Nhân tướng” “Chúng sinh tướng” hay “Thọ giả tuớng”.. như lời Phật dạy trong Kinh Kim Cang (7*)  Khi khám phá ra chân lý tinh hoa sự sống là tìm ra điểm nhất quán giúp cho con người có khả năng “Diệu dụng” được chân Lý… đưa chân Lý vào “Đời Sống Dân Tộc” và “Nhân loại”, hay nói khác đi “Đưa Đạo vào Đời” Khi con người biết phát huy Chân tâm đồng nghĩa với Phát huy  Đạo Sống, sẽ giúp cho con người hiểu thế nào là “tình huynh đệ đại đồng”  và hóa giải được sự ngăn cách và kỳ thị giữa các tôn giáo. Khi con người biết tôn vinh “Đạo Sống” thì chúng ta không chỉ “Đưa Đạo vào Đời mà kỳ diệu thay “Đạo đã nở hoa trong Đời’….

2- Triết Lý Nhân Chủ:

2a: Nguồn Gốc Danh từ Nhân Chủ:

Hiện nay Tây Phương chỉ có Danh Từ Dân Chủ (Democracy) chứ chưa có Danh từ hay Triết lý Nhân Chủ (Humanocracy). Vậy Danh từ Nhân Chủ bắt nguồn từ đâu và xuất hiện vào thời điểm nào tại Việt Nam? Xin thưa Danh từ Nhân Chủ xuất hiện tại Việt nam từ thời Nhà Lý thời Vua Lý Thái Tông.  Ngài là vị Hoàng Đế thứ hai của triều Đại Nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Cai trị trong 26 năm (1028-1054) Ngài được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi, uy dũng hơn người, bách chiến bách thắng, thời đại của ngài được xem là khởi đầu sự thịnh vượng của nhà Lý. Nhà Vua đã thân chinh đi đánh giặc để trị an xã tắc, lại là vị Vua rất nhân từ. Năm 1049, một hôm vua Thái Tông nằm mộng thấy Phật Bà Quan Âm hiện ra đưa nhà vua đến một tòa sen rạng ngời ánh sáng. Sau khi tỉnh dậy Vua thuật lại câu chuyện chiêm bao cho quần thần hay. Các vị cao tăng và Đại Thần đã khuyên nhà Vua dựng một ngôi chùa lấy hình tượng một bông sen để nhớ ơn Đức Quan Âm. Chùa này có tên là chùa ĐỘC TRỤ hay chùa MỘT CỘT trở thành một trong những thắng cảnh tiêu biểu cho Văn Hóa Việt Nam. (8*)

Nhà Vua ngoài danh hiệu HOÀNG ĐẾ (như tất cả các vị Vua thời quân chủ phong kiến) Song ngài còn được tôn xưng là bậc NHÂN CHỦ. Danh từ Nhân Chủ xuất hiện đầu tiên tại Việt Nam kể từ đó… (Thế kỷ thứ 12) Sau này lý thuyết gia Lý Đông A lập ra chủ nghĩa Duy Dân (1940-1946) Lý Đông A đưa ra học thuyết “Tam Nhân” gồm “Nhân Bản, Nhân Chủ và Nhân Tính”.Tới thời điểm này chính Lý Thuyết Gia Lý Đông A là người đầu tiên tại Việt Nam đưa Nhân Chủ lên thành chủ nghĩa hay học thuyết. Tiếp theo Lý Thuyết Gia Lý Đông A, Linh mục triết gia Kim Định, và Nhà Văn Hóa Lý Đại Nguyên đều đã viết sách tôn vinh  triết lý Nhân Chủ hay Nhân Chủ Đạo.  

2b:  Nội dung Triết Lý Nhân Chủ:

 – Xác minh địa vị và giá trị cao cả, của con người trong  tương quan Tam Tài: Trời Đất Người. (Thiên Địa Nhân).

– Xây dựng và phát huy Chủ Thể Con người: Con người là chủ thể trên mọi lãnh vực Văn hóa, Chính trị, kinh tế, xã hội, nhất là giúp con người được an nhiên tự tại, không bị làm nô lệ cho bất cứ một thế lực nào.

– Giá trị của Triết Lý Nhân Chủ…

– Sống triết Nhân Chủ có khả năng Tập Đại Thành Triết  Lý Đông Phương và Tây Phương (Đây là một đề tài lớn, rất lớn, vượt ra ngoài khuôn khổ của Tuyển Tập này)

– Triết lý Nhân chủ phục vụ Quốc Dân và xây dựng Thái Hòa Nhân loại.

2b.1.. Xác Minh địa vị và giá trị cao cả của con người:

Bàn về địa vị và giá trị cao cả của con người, chúng ta không thể không đề cập đến Bài thơ Vịnh Tam Tài của nhà Văn Hóa Trung Thiên Dịch Trần Cao Vân mà Linh mục Triết gia Kim Định đã góp lời phẩm bình như sau:

Bài Vinh Tam Tài

Trời đất sinh Ta có ý không?
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh
Trời Đất in Ta một chữ đồng
Đất nứt Ta ra Trời chuyển động
Ta thay Trời chuyển Đất mênh mông Trời che Đất chở Ta thong thả
Trời Đất Ta đây đủ hóa công.

(Trần Cao Vân)

trancaovan
Nhà Cách Mạng, Nhà Dịch Học TRẦN CAO VÂN (1866- 1916 )

Quả là một bài thơ triết lý có tầm kích mênh mông như vũ trụ. Cái tài tình của bài là từ đầu chí cuối Trời Đất Người luôn cùng xuất hiện “ba mặt một lời” xoắn xuýt trong Nhất thể uy linh. Ta hãy thưởng thức từng câu

Trời Đất sinh Ta có ý không?

Thưa không có ý nào hết, vì có ý về một cái gì thì dễ biến cái đó thành phương tiện… Đã là phương tiện thì phải qui chiếu vào mục đích mới có túc lý tồn tại. Đàng này con người là một cùng đích tự thân (fin en soi). Vì thế nói thật chính xác thì phải kể là vượt tới đợt có với không, để đi lên bình diện “Hữu nhược vô. Thực nhược hư”: Có mà như không, đầy mà rỗng. Đây mới là bình diện chân thực của con người Đại ngã tâm linh, tức bao la không gì bao quát, không còn gì ở ngoài nữa để mà đối tượng đáng cho con người phải quy chiếu tới để tìm lý do tồn tại. Vì thế nói “có ý” thì dễ sa vào “Thiện Chí” của Mặc Địch, tức dễ biến con người ra dụng cụ cho ý Trời. Hoặc nói “không có ý” thì dễ rơi vào thuyết “cơ giam” của Lão Tử “Thiên địa bất nhân” vô tình như cái máy (cơ giam) lù lù quay một cách vô tình. Vì thế khi ta nói không có ý nào hết là phải hiểu vượt ra khỏi có không thường nghiệm để vươn đến đợt “Xuất hoạt sơ nguyên” theo đó thì thiên địa với ta cùng sinh “Thiên địa dữ ngã tịnh sinh” (Trang Tử). Tuy nhiên nếu cưỡng lý mà nói theo trước với sau thì Ta ỡ giữa Trời Đất hoặc như sản phẩm của cuộc linh phối (hieroganie) Đất Trời, hoặc như trung gian cho hai bên giao thiệp thông hội. Đó là sứ mạng trao cho người cũng như cho Trời cho Đất do Đạo mà ta hay gọi là Tiên Thiên Tiềm Thể nghĩa là trước cuộc đại tạo đất trời. Thực ra nói trước sau, tiên thiên, hậu thiên, là lối biểu diễn của con người trong cõi hiện tượng bị lệ thuộc vào thời gian sau trước với không gian ở đây ở kia, như ở đợt Tiềm thể chỉ có một hiện tại miên trường không có sau trước gì cả.

Chưa sinh Trời Đất có Ta Trong.

Ta đây phải viết hoa, tức chính là Đại ngã tâm linh nằm trong Nhất thể mà thần thoại gọi là Bàn Cổ, không lệ thuộc Trời hay Đất nhưng là tính bản nhiên con người muôn thủa. Vậy chớ hiểu là ta bé mọn hiện tượng nhưng là Ta cao cả như câu ba:

Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh.

Sánh là sánh bằng vai, không ai hơn ai kém, chẳng qua cũng là đồng xuất hoạt như nhau, kiểu này kiểu nọ đều là sức huyền vi phong phú vô biên, nhưng quy vào ba mối là Thiên Địa Nhân.

Trời Đất in Ta một chữ Đồng

In Ta là y như Ta nghĩa là cùng tham dự vào nguồn sinh lực bao la như vũ trụ, cùng một Thể u linh siêu hình, siêu tượng, vô thanh vô xú, không thể đem lý trí suy luận vào đây mà ngo ngoe tìm hiểu: đó sẽ chỉ là trò trẻ lấy vỏ sò đòi tát cạn Trùng Dương, sinh ra những thuyết phiếm thần ứ đọng. Ứ đọng vì đánh mất “lưỡng nghi tính” nên giản lược Thực thể vô biên vào những phạm trù nhân vi (antificiel) hời hợt giả tạo làm nghẹt thở con người.

Đất nứt Ta ra Trời chuyển động

Hãy chừa thói xấu nhị nguyên, chỗ nào cũng muốn đối tượng hóa. Ở dây là bầu khí tương giao mãi từ trên cấp vương giả không có đối tượng nào hết chỉ có chủ thể và xuất hoạt: ba chủ thể, ba xuất hoạt, ba động từ. Vậy đừng hiểu đất nứt ra Ta theo lối Đất là chủ thể đẻ ra đối tượng: hạ tầng cơ sở đẻ ra thượng tầng kiến trúc, đó không phải là Truyền Thống Tam Tài. Nhưng phải hiểu: Đất nứt Ta ra, trời chuyển động.

Ta thay Trời mở Đất mênh mông

Trong Tam tài không có mối tương quan lệ thuộc như đã nói ở câu trên, vì cả ba hội thông nơi Tiềm thể. Tuy nhiên câu này như biểu thị một sự trội hơn của Tài Nhân bao giờ cũng chiếm hai nét, còn Thiên một Địa một. Vì chúng ta đang ở trong đất của Nhân hoàng nên có thể “Thay trời để mở đất”. Đất chỉ những giới hạn mà Đại Ngã cần phải vỡ bằng tâm linh để cho con người lớn lên dần bằng tầm mức vũ trụ. Như vậy mở đất là đi sâu mãi vào tiềm thức bản năng để mở rộng vòng tâm thức bao trùm được cả vũ trụ.   

Trờ che Đất chở Ta thong thả

Ta an nhiên tự tại “quân tử thản đãng đãng” việc chi phải sợ. Có đáng kể chăng là Trời với Đất. Thế nhưng Trời Đất có chống ta đâu, bố cả mà lị, trời thì che, đất thì chở, còn chi hơn nữa, nên chỉ việc ung dung phó thác: “nhân giả bất ưu, bất cụ” người giữ được đạo nhân không lo sợ, không ưu tư. “Quân tử vô nhập nhi bất tự đắc yên” người quân tử ở vào cảnh nào cũng có thể an vui. Đó là tâm thức tự nhiên đến với những ai đã hiện thực được chiều kích tâm linh nơi mình: một thứ an nhiên tràn ngập khắp thân tâm.

Trời Đất Ta đây đủ hóa công

Khả năng hóa công đó được tóm vào câu: “Khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục”. Trong cõi nhân sinh có hai việc quan trọng nhất là nuôi sống (ăn uống) và giáo hóa. Hai điều đó chỉ có con người hiện thực được chiều kích tâm linh mới đủ khả năng bao dung và tạo dựng một cách hữu hiệu: vừa liệu cho dân có ăn có mặc, mà đồng thời biết giáo hóa tức biết cải hóa để con người vươn lên đợt Đại ngã vô biên vậy (9*)

2b.2: Xây dựng và phát huy Chủ Thể Con người

Hiện nay nhân loại bị đe dọa và trấn áp bởi 2 “Quốc tế nạn”: Đó là nạn độc tài ( “độc tài đỏ CS” và “độc tài trắng” do nạn “quân phiệt “ “tài phiệt “ hay “giáo phiệt”) và nạn “Khủng bố”. Chính hai ách nạn này đã trà đạp nhân quyền và phẩm giá con người, nô lệ hóa con người, đã cướp đi Quyền Chủ Thể của con người. Do trên Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam và Nhân loại có sứ mệnh, chống lại cái ác, hiện thực chế độ Tư Do Dân Chủ không những trên đất nước Việt Nam mà trên qui mô toàn cầu. Rồi từ chế độ Tư do Dân chủ, nhân loại sẽ tiến tới Thể Chế Nhân Chủ Quốc Gia và Nhân Chủ Toàn cầu. Nhằm thực hiện tiến trình trên, Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam có sứ mạng lớn và quan trọng hơn cả, là thực hiện cuộc Cách mạng Tâm thức Nhân Chủ trong phạm vi Quốc gia lan tỏa trên toàn thế giới…. Hơn thế nữa  Chủ Đạo Văn Hóa Việt  Nam có sứ mệnh giúp con người tu dưỡng bản thân, “tự Vượt mình”, “tự thắng chính  mình” để đạt tới  tâm hồn  “Tự Chủ Tự Tại” phát huy chiều kích vô biên của con người hòa đồng vào vũ trụ, vạn hữu….

2b.3: Giá trị nền tảng của Triết Lý Nhân Chủ

Nhà nghiên cứu Văn Hóa Đông Lan đã có những nhận xét rất xác đáng khi nhận định: “Các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đầu thế kỷ 20, đã dẫn đến sự tranh giành ảnh hưởng thị trường và quyền lợi của các nước, hậu quả là 2 cuộc đại thế chiến tiêu diệt hàng triệu nhân mạng chỉ cách nhau chưa đầy nửa thế kỷ. Tây Phương sợ hãi vội vàng đưa ra Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948. Từ đó con người bắt đầu có lối nói kiểu Nhân Quyền của Tây phương.

Nhưng thực ra Á Đông mới là quê hương của Nhân Quyền.

Theo tinh thần Nhân Chủ của Minh triết Việt, các triều Lý, Trần đã thực hiện được thái bình, an lạc. Điển hình thời Vua Lê Thánh Tôn đã để lại một Bộ luật Hồng Đức năm 1483. (Quốc Triều Hình  Luật) mà ngày nay thế giới ca ngợi, vì các khoản về Nhân quyền về phụ nữ, giáo dục, chủng tộc, đã đi trước cả Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc những gần 500 năm. Thật thế, Nhân Quyền chỉ là hệ luận tất nhiên của Nhân Chủ. Con người chỉ có Nhân Quyền một khi được làm chủ, được tôn trọng hơn bất cứ điều gì, kể cả thần linh hay vật chất. Chưa có Nhân Chủ tính làm nền tảng trong tư tưởng, triết lý chính trị thì nói chuyện Nhân Quyền chỉ là hời hợt mị dân, hoặc để làm khó, đặt điều kiện trả giá, đổi chác các mối lợi giữa các cường quốc kinh tế, chính trị, quân sự… chứ hoàn toàn không liên quan thật sự gì tới con người, quyền làm người của ai cả! Còn Dân Chủ cũng thế. Con người là một NHÂN DÂN. Có nghĩa là ngoài việc là dân, con người trước hết phải là Nhân, là con người. Nhân được làm chủ, được tôn qúy, thì cái vai trò làm Dân mới được tôn trọng theo. Vì Nhân đi trước Dân. Nhân quan trọng hơn Dân. Chưa có triết lý Chính Trị đạt tới mức Nhân Chủ thì Dân Chủ chỉ là một từ ngữ rỗng, giả hiệu, một trò chơi của tư bản, đảng phái và các chính trị gia mà thôi.

Hay nói cách khác NHÂN CHỦ  là Xương Sống của Nhân Quyền và Dân Chủ. Không có Triết lý Chính trị Nhân Chủthì Nhân quyền chỉ là “Mị dân”, Dân chủ chỉ là “Hình thức”, con người vẫn nô lệ dưới nhiều dạng thức, vẫn bị vong thân, vẫn cần chờ được giải phóng.

Chúng ta đang sống trong sự giả trá của ngôn từ, đang quay cuồng theo một thế giới của các suy tư hời hợt, chưa ngay chính, các lý thuyết èo uột, các sinh hoạt thoái hóa, vì thiếu cái xương sống của chính trị, đó là Triết Lý Nhân Chủ (10*)

2b.4: Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam phục vụ con người xây dựng và giữ gìn nền Thái Hòa Nhân Loại.

Khi Văn Hóa chưa có Chủ Đạo thì nền văn hóa còn mông lung, nếu không nói là vô hướng vô hồn… Còn khi chúng ta đã xác định được Chủ Đạo Văn Hóa Việt thì hiển nhiên Văn Hóa Việt không còn tính cách “mông lung”, hay “vô hướng vô hồn” nữa mà đã hình thành “con Đường Sáng” và “con đường Sống” cho Dân Tộc, đạt tới mục tiêu phục vụ con người xây dựng và giữ gìn nền Thái Hòa Nhân Loại.  

Ngoài hai cột trụ hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam là Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống , và triết lý Nhân Chủ, giờ đây chúng ta đề cập đến trụ cột thứ Ba là Thực  Thể Quần chúng Chính Trị.

3. Thực Thể Quần Chúng Chính Trị:

3.a: Thân phận người dân qua các thể chế chính trị:

Con người hơn hẳn các sinh vật khác là biết sáng tạo ra Ngôn ngữ, Văn hóa, Chính trị và Pháp luật… Theo nguyên nghĩa Văn hóa bao gồm chính trị và có vai trò chỉ đạo cho chính trị. Song rất ít khi Văn hóa đóng nổi vai trò chỉ đạo chính trị mà thường ngược lại chính trị lấn át văn hóa, lợi dụng văn hóa phục vụ cho chính trị. Trải qua các thời đại, bài học lịch sử còn cho chúng ta biết rằng: Quyền lực Chính trị bao giờ cũng nằm trong tay của một thiểu số người : Thời Quân Chủ Phong kiến, chính trị là đặc quyền của  Vua Quan:

    “Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa”

Thời Dân chủ, trên danh nghĩa chính trị thuộc về toàn dân. Nhưng thực tế Chính trị vẫn nằm trong tay những kẻ có quyền và có tiền, hay nói chung nằm trong tay thế lực tư bản. (Như câu nói của Tổng Thống Kennedy: “Muốn ứng cử Tổng Thống Hoa Kỳ phải có 3 điều kiện: Điều kiện  thứ nhất là “Tiền”, điều kiện thứ hai là “Tiền” và điều kiện thứ ba cũng là Tiền” – Có phải bất cứ người dân nghèo nào dù theo nguyên tắc – cứ trên 35 tuổi sinh quán tại Hoa Kỳ là đều có thể ra ứng cử Tổng thống Hoa kỳ” được cả dâu?! Nguyên tắc thì được, nhưng dân nghèo thì phải biết thân biết phận, làm sao có thể ra tranh cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ cho được??) Còn dưới chế độ  cộng sản, chính trị hoàn toàn do Đảng CS quyết định: Người dân sống dưới chế độ độc tài toàn trị CS bị ngăn cấm, bị tước đoạt mọi quyền Tự do Dân chủ, Nhân quyền hay nếu được hưởng một chút quyền nào đó là do chế dộ “Xin- Cho” (Người dân phải xin, và chế độ CS chỉ  cho phép những gì xét ra vô hại  đến sư an nguy, tồn tại của chế độ mới ban phát cho mà thôi)

3.b: Sự Giác ngộ và trưởng thành của Ý thức Quần Chúng Chính Trị:

Có 5 yếu tố lớn hay 5 sự kiện lịch sử đưa đến sự giác ngộ, trưởng thành của Ý thức Quần chúng Chính trị mà chúng ta cần đề cập đến sau đây:

Yếu tố thứ nhất: Sức Mạnh của Quần Chúng:

Từng người dân đứng riêng lẻ rời rạc thì không có sức mạnh nào đáng kể, nhưng khi có một biến cố lịch sử, người dân biết tập họp lại thành đám đông- tạo nên các cuộc đình công bãi thị – hay các cuộc biểu tình thì có sức mạnh vô địch. Ngay từ thời quân chủ người ta đã nhận ra sức mạnh của quần chúng quốc dân, chứng tỏ trong câu nói: “Chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Người dân ví như “Nước, chính quyền ví như “Thuyền”. Nước chở thuyền, nhưng nước cũng có thể lật được thuyền. Có điều muốn tập họp quần chúng thì bao giờ cũng phải do một vị “hào kiệt”, một “lãnh tụ” hay một đảng phái nào đó đứng ra kêu gọi mọi người tập hợp quanh mình để đấu tranh chống bất công, chống cường quyền đàn áp bóc lột dân chúng hay chống thế lực ngoại bang xâm lăng đất nước v…v… mới làm nên đại sự cứu nước cứu dân.

Yếu tố thứ hai: Từ năm 1948 bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc  ban hành và tiếp theo năm 1966 ban hành hai công ước: Công Ước Quốc Tế về những Quyền Dân Sự và Chính trị-, Công Ước Quốc Tế về những Quyền Kinh tế,  Xã Hội và văn Hóa. (11*) Cả ba văn kiện lịch sử này đã tạo ra CHÍNH NGHĨA cho các cuộc đấu tranh đòi Nhân Quyền Dân Chủ Tư Do cho các tầng lớp dân chúng của các quốc gia đang bị các chế độ độc tài thống trị, đàn áp nô lệ hóa con người.

Yếu tố thứ ba: Cuộc cách mạng 1917 tại nước Nga thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản đầu tiên trên thế giới.

Khởi đầu cuộc cách mạng, chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn xây dựng một thiên đàng trên trái đất. Nhưng kết quả là Chủ nghĩa CS đã làm cho nước nghèo dân kiệt, gieo tai họa kinh hoàng khủng khiếp nhất cho nhân loại. Phê bình về chế độ và chủ nghĩa cộng sản Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã nói:

Anh có thể xây ngai vàng bằng lưỡi lê, nhưng anh không thể ngồi trên đó”.

 “Chế độ cộng sản không thể nào sửa chữa được mà cần đào thải nó đi”.

Và  Mikhail Gorbachev Tổng Bí Thư Xô Viết đã cay đắng nhận xét:

“Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.

Chế độ CS là chế độ tuyên truyền dối trá nhất, bạo lực nhất, tàn ác nhất, cai trị dân bằng thủ đoạn tinh vi nhất, xảo quyệt nhất, thâm hiểm nhất! Tất cả những cái nhất đau đớn này đã làm cho người dân tỉnh ngộ là mình đã bị mắc lừa, quả lừa lớn nhất thế kỷ, và cũng do đấy ý thức chính trị của quần chúng quốc dân đã được tôi luyện và thực sự trưởng thành. Trong các xã hội bị chế độ Cs độc tài toàn trị đương nhiên trở thành những “kho thuốc súng”, những “quả bom nổ chậm” chực chờ bùng nổ khi thời cơ  chin muồi sẽ tới và phải tới ….như biến  cố  lịch sử đã  xẩy ra tại Đông Âu và Liên xô làm sụp đổ  Đế quốc CS và cáo chung chủ nghĩa CS vào năm 1989 .

Yếu tố thứ tư: Cuối Thế kỷ 20 bùng nổ cuộc cách mạng Truyền Thông  

Đây là một thành quả khoa học Kỹ thuật lớn làm thay đổi gần như toàn bộ hoạt động xã hội nhân loại! Từ ngày máy điện toán Computer và điện thoại  cầm tay (Cell phone) ra đời, các phong trào các lực lượng đấu tranh của Quần chúng nhân dân đã có trong tay một thứ khí giới truyền thông mới, có khả năng rút ngắn thời gian và thu hẹp không gian và có sức công phá các “bức màn sắt” “màn tre” của các chế độ độc tài toàn trị ( Dù là “độc tài trắng” hay “độc tài đỏ”) đều không thể nào bưng bít sự thật, mang bộ mặt giả nhân giả nghĩa được nữa !

Yếu tố thứ năm: Cuộc cách mạng Hoa lài Tại Tunisia:

Cách mạng Tunisia còn gọi là cách mạng hoa lài gồm những cuộc biểu tình đã diễn ra tại Tunisia, trong đó người dân xuống đường biểu tình để phản đối chính quyền Tunisia. Các cuộc biểu tình, đình công và bạo loạn được loan truyền rộng rãi mà nguyên nhân cuộc cách mạng bùng nổ do nạn thất nghiệp, giá cả thực phẩm tăng, chính quyền tham nhũng, tự do ngôn luận bị cấm đoán và mức sống của người dân thấp. Các cuộc biểu tình lên tới đỉnh điểm bằng sự lật đổ tổng thống Zine Fl Abidine Ben Ali, người đã từ bỏ chức tổng thống và bỏ chạy khỏi Tunisia ngày 14 tháng 1 năm 2011 sau 23 năm cầm quyền (12*)

Khác với các cuộc cách mạng trước đây hoặc do một lãnh tụ hay một tổ chức đảng phái đứng ra kêu gọi các cuộc biểu tình hoặc hô hào quần chúng đứng lên làm cach mạng. Cuộc cách mạng tại Tunisia là do Quần chúng tự phát. Đây là điểm đặc biệt nhất của cuộc cách mạng Hoa Lài đánh dấu bước tiến bộ vượt bực của ý thức chính trị quần chúng quốc dân.

Tóm lại, qua việc duyệt xét 5 yếu tố kể trên, chúng ta có thể nói thời đại hiện nay (thế kỷ 21) là thời đại của Quần chúng Quốc dân. Ý thức Quần Chúng Chính trị đã được tôi luyện và trưởng thành trong máu và nước mắt. Không một công việc lớn lao nào không có quần chúng tham dự mà có thể thành công! Do trên Thực thể Quần Chúng Chính Trị là trụ cột tư tưởng thứ ba không thể thiếu trong việc hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam.

VI. TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ ĐẠO VĂN HÓA VIỆT NAM

(“Nguyên Động Lực”,” “Vũ Trụ Quan”, “Nhân Sinh Quan, “Văn Hóa Xã Hội Quan” hay “Nhân Thế Quan, của Chủ Đạo Sống như thế nào? )

A. Lý Nhất Quán hay Nguyên Động Lực Diệu Dụng chân lý, Vũ Trụ Quan, Nhân Sinh quan….

Nội dung (nội hàm) Văn hóa quá bao la, nên việc vận dụng phát huy văn hóa là công việc vô cùng khó khăn nếu chúng ta không tìm ra Chủ Đạo Văn Hóa là gì như thế nào? Khi đã khám phá ra Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam là trước hết chúng ta đã tìm lra “lý nhất quán” của văn hóa , điều mà Đức  Khổng Tử gọi là “Nhất dĩ quán chi”. Nói cách khác chúng ta đã tìm ra “Nguyên động lực  “ hay Chìa khóa vàng ”  để “diệu dụng và phát huy” Văn hóa Việt Nam. Chủ Đạo Văn hóa Việt Nam còn giúp chúng ta tìm ra Vũ Trụ Quan,  Nhân Sinh Quan, Văn hóa, Xã hội quan hay Nhân thế Quan  để phụng sự nhân sinh, giúp con người tìm được hạnh phúc, nhất là dẫn đưa con người tới Chân Thiện Mỹ.

B. Trước hết chúng ta đề cập đến Vũ Trụ Quan của Kinh Dịch:

Kinh Dịch (xuất hiện khoảng 2852- 2738 TCN) Kinh Dịch bắt đầu từ Thái Cực, sau Chu Liêm Khê (1017-1073) viết thiên Thái Cực Đồ Thuyết, khởi đầu bằng một câu bất hủ “Vô Cực nhi Thái Cực” Như vậy Vô Cực hay Thái Cực điều cùng là Bản Thể của Vũ trụ, có khác chăng là ở hai thể  ẩn hiện. Vô Cực là nguyên thể bất khả tư nghị, chưa đi vào Hữu Thể sinh hóa. Thái cực  là toàn thể chưa phân chia của trạng thái sơ nguyên hàm chứa tiềm năng vô tận.Thái Cực sinh Lượng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng Sinh Bát Quái, Bát Quái sinh Lục Thập Tứ Quẻ (64 quẻ) Dịch cũng là Đạo Sống của Vũ trụ (Sinh Sinh chi vị Dịch) Dịch  có 3 nghĩa: “Biến dịch” (thay đổi) “Giao dịch” (âm dương ngũ hành trao đổi, tương khắc, tương sinh,tương tác  tương thành) và “Bất dịch”(Sự biến hóa theo một  quy luật không thay đổi)

Yếu chỉ của Kinh Dịch: Dịch có 2 chiều; Chiều ra đi và chiều trở về:

– Chiều ra đi: Từ Thái Cực (1) sinh lưỡng nghi âm dương (2) sinh tứ tượng (4) sinh bát quái (8) sinh 64 quẻ, từ 64 quẻ sinh ra vạn hữu….(nhiều vô kể)

– Chiều trở về: (Nguyên thủy phản chung) Từ vạn hữu (vô số kể) trở về 64 quẻ, từ 64 trở về 8; 8 trở về 4; 4 trở về 2; 2 trở về 1

“Nếu Dịch chỉ chủ trương một chiều biến hóa, từ Thái Cực đến Vạn Hữu, từ nhất đến vạn, từ giản đến đa tạp, thì chẳng có gì là cao đẹp, vì nó chỉ mới là chiều sa đọa, phá tán, tử vong của trời đất, chưa nói lên được chiều hòa hợp,  đoàn tụ, siêu thăng, sinh tồn của vạn vật, chưa nói lên được nỗ lực, của vạn hữu, luôn luôn muốn vươn lên để trở về với Thái Cực.

Nhưng thực ra, Dịch không quan niệm biến hóa một chiều, và cho rằng khi vũ trụ đã biến hóa, đã phân tán đến cực độ, sẽ xoay chiều, đổi hướng bước dần lên những nấc thang tinh thần, để cuối cùng lại phục hồi Nguyên Bản.

Nói cách khác, vũ trụ biến thiên không phải theo một đường thẳng vô cùng tận, nhưng theo hai chiều Âm Dương, vật chất và tinh thần, để cuối cùng lại phục hồi Nguyên Bản.

Lưu Nhất Minh viết: Dịch nói Nguyên Thủy phản chung. Thế là biết lẽ tử sinh. Mạnh Tử nói: Bậc trí giả, để ý suy cứu đắn đo, còn Thánh nhân để ý tìm cho ra cùng đích của cuộc đời. Cho nên Đạo cả của Thánh Hiền có đầu có đuôi, có gốc có ngọn. Biết được đầu, hay được cuối, khảo được gốc, cùng được ngọn, mới có thể thông suốt tòng đầu tuyệt vĩ, quán triệt đại giác, đại ngộ… Giả sử còn có điều mịt mờ, thì ắt hành động sẽ mò mẫm, biết đã không đúng, thì làm sẽ ngắc ngứ không thông. Học giả phải cùng kỳ lý rồi mới có thể đem ra mà thi hành áp dụng. Biết đến kỳ cùng, làm tới hoàn mỹ, đó là hai phương diện cần yếu không thể nào không có được. Mà lý ấy chẳng qua là đạo của trời đất tạo hóa… Đạo của Tạo hóa có thể có dụng, có đầu có đuôi, là môi trường cho Âm Dương đắp đổi vận hành đổi thay tiêu trưởng, biến hóa ở bên trong, nhưng mà chốt then quan hệ nhất, tâm điểm của tất cả mọi biến thiên, vẫn là Chân Nguyên nhất khí, vẫn là Thái Cực hư vô, vô hình, vô tượng. Hiểu được điều này, lập tức sẽ lên tới bậc Thánh Hiền, không hiểu được điều này, sẽ phải trầm luân muôn kiếp. Cùng lý tức là hiểu biết thấu đáo căn bản này vậy” (13*).

C.  Vũ trụ Quan theo Lão Tử: 

Tại Trung Hoa, trước Lão Tử chưa triết gia nào khởi xướng vũ trụ luận. Học thuyết trung tâm của Lão Tử là Đạo và Đức. “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”. Lão Tử đếm vài con số rồi phán như thế, và ta hiểu ý của ông cho rằng không thể định nghĩa Đạo, nhưng Đạo có trước vũ trụ và Đạo là nguồn gốc của vũ trụ. Theo Lão Tử, trời đất muôn vật do Đạo mà sinh thành. Đạo là cái hỗn mang chưa phân, là cái nguyên thủy và là sự vận động hằng cửu mà ta không thể cảm, không thể biết. Đạo vô danh, vô hình là căn nguyên và cốt lõi của muôn vật, muôn vật đều khởi từ Đạo, đi theo Đạo, và quay về Đạo. Còn Đức? Chữ Đức ở đây không phải là đức hạnh, hiểu theo lối luân lý thông thường, mà ta phải hiểu theo nghĩa của Lão Tử. Đức là “mầm sống ngấm ngầm” trong vạn vật. Đạo thì sinh ra còn Đức thì nuôi nấng. Người sống có Đức là sống theo Đạo. “Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước Tự nhiên”… Tới đây, ta chớm hiểu. Cái Đạo “phi thường Đạo” được Lão Tử nói đến là thiên nhiên, năng lượng sống và sự vận hành của tự nhiên… Cũng có thể gọi tự nhiên hoặc thiên lý. Và Đức là cứ theo tự nhiên mà sống, thuận theo thiên lý mà lưu hành: trong cái Đạo của vũ trụ ấy, thiên nhiên và những qui luật của chúng tập hợp thành cái trụ cột, cái bản thể, còn đất trời và sinh linh…v.v. là những thực thể có vị trí thích hợp và chức năng thích hợp, thao tác theo một thể thức tự nhiên… Đạo ấy chỉ biết được bằng trực quan, không bằng lý trí. Lão Tử không lập luận về Đạo vì ông chống lý trí. Theo ông, lý trí khiến ta nhìn cuộc đời với con mắt nhị nguyên, phân chia thế giới nội tâm và ngoại cảnh, con người với thiên nhiên, thế gian với vũ trụ, thiện và ác vinh và nhục, đúng  và sai, cao và thấp… làm ta xa lìa đạo. Lão Tử không mất công giảng giải về Đạo, ông chống trí thức và trí năng. Ông cho rằng trí thức không giúp cho người ta sống  theo Đạo và Đức. Nó chỉ làm cuộc sống thêm phức tạp: nó tạo “cơ khí” khiến sinh ra “cơ tâm”, nó bày ra lý thuyết này, nọ khiến đưa tới xung khắc,… trí năng khiến người ta phân biệt cái hay cái dở nên sinh ra ham muốn. Ông chủ trương bỏ trí năng, bỏ văn tự, bỏ việc dạy dỗ dân, để dân chúng sống mộc mạc, tự nhiên. Lão Tử không chịu nói nhiều về Đạo vì ông hiểu rõ giới hạn truyền đạt của ngôn ngữ. Tóm lại Đạo, cái lý tự nhiên trong con người và vũ trụ, thì hư vô mênh mông, sâu thẳm và ngập tràn tới độ nằm ngoài tầm nắm bắt của lý rtrí, nhận biệt của trí thức và diễn đạt của ngôn từ. Lão Tử nhìn sự vật thường xuyên biến đổi và nhận ra luật mâu thuẫn nơi vẻ ngoài của vạn vật. “Cái yên tĩnh là chủ  của cái xáo động. Cái quí lấy cái tiện làm gốc, cái cao lấy cái thấp làm gốc, cái thật đầy thì giống như trống không, con người thật khéo thì trông giống như vụng về…”  Ông còn nhận ra luật phản phục ở bên trong vũ trụ, “vật gì phát tới cực điểm thì phải hao giảm- Trăng tròn rồi khuyết, hết mùa đông rồi mùa xuân… “Cùng tắc biến, biến tắc thông”.

Trong cùng một lúc, bị chi phối bởi luật mâu thuẫn  và luật phản phục, vũ trụ vận hành với Đạo, vạn vật đều nương tựa vào nhau “có và không cùng sinh, khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng hình, cao và thấp cùng nghiêng, thanh và âm cùng họa, trước và sau cùng theo”. Tuy Đạo không thể hiểu, không thể bàn, không thể nói, nhưng Lão Tử cho rằng loài người chỉ tự mình phục vụ mình tốt nhất bằng việc đi trên con đường Đạo. Để xoay xở trong tình cảnh nghịch lý đó thì có Đức. Sống có Đức tức là sống không khiên cưỡng, sống tự nhiên, vì vô vi- làm một cách tự nhiên– và đi đúng con đường vận hành của đạo”(14*).

D. Vũ Trụ Quan theo chủ nghĩa Duy Tâm

Chủ Nghĩa Duy Tâm chủ trương tinh thần có trước, vật chất có sau, tinh thần độc lập với vật chất và làm chủ vật chất. Chủ nghĩa Duy tâm đưa đến sự nhìn nhận có Đấng Thượng Đế sáng tạo ra vũ trụ con người và vạn vật. Nói một cách khái quát, chủ nghĩa Duy Tâm chia làm 2 khuynh hướng: Chủ nghĩa Duy Tâm Chủ quan và Chủ nghĩa Duy Tâm khách quan…

E. Vũ trụ Quan Chủ Nghĩa Duy Vật.

Chủ nghĩa Duy Vật chủ trương vật chất có trước tinh thần, có vật chất rồi mới có tinh thần, tinh thần là sản phẩm của vật chất  Chủ nghĩa Duy vật đưa đến phủ nhận linh hồn, phủ nhận Thượng Đế và các Thần linh, nên còn gọi là chủ nghĩa Vô Thần (15*).

F. Cả hai chủ nghĩa Duy Tâm và Duy  Vật đều phiến diện và  bất cập – Khoa học hiện đại còn giới hạn, nếu không nói là bất lực  trước câu hỏi về nguồn gốc đầu tiên của vũ  trụ:

Ngày nay nguồn gốc loài người đang là nơi tranh chấp ác liệt giữa duy vật và duy tâm. Duy tâm cho rằng trời sinh ra con người, duy vật cho rằng do tiến hóa từ Vượn lên Người mà có con người. Xét cả hai quan niệm trên thì cả hai quan niệm đều có lý, chính cái có lý nên nó mới tồn tại. Duy vật sử dụng “duy vật biện chứng” và “duy vật lịch sử” để chứng minh nguồn gốc loài người, khai thác khảo cổ, sinh vật học, phôi sinh vật học… và tôn chỉ vật chất có trước ý thức, để chỉ ra con người có nguồn gốc từ Vượn. Duy tâm sử dụng:  “biện chứng siêu hình” chỉ ra nguồn gốc ban đầu của muôn vật, tuy không được chứng minh như duy vật, nhưng sự thiếu hụt của duy vật giúp cho sự đứng vững của duy tâm. Duy tâm luôn đứng vững ở đoạn cuối của duy vật khi duy vật chưa đi tới, tuy nhiên duy tâm chủ quan khi cho con người sinh ra từ đất – nước – gió – lửa – từ cát bụi hay đất sét thì chưa thuyết phục vì thiếu cơ sở khoa học.

Duy tâm dựa vào thế giới chưa có để lý giải cho nó, vì thế cho rằng con người phải được sinh ra từ vai trò của lực lượng siêu nhiên. Theo cách lý giải này thì con người là con của Thượng Đế hay Đấng nào đó tương tự như vậy.

Duy vật dựa vào thế giới hiện tại để lý giải cho nó, vì thế cho rằng con người sinh ra từ tiến hóa mà gần nhất là tiến hóa từ Vượn lên Người. Theo cách lý giải này thì con người là con của Vượn người, vấn đề này còn được lý giải là chỉ có một loài Vượn được tiến hóa theo chiều hướng thành người, còn những nhánh khác vẫn phát triển thành Vượn. Quan niệm này đứng khá vững vì người ta tìm được những nét tương đồng của Vượn tới Người cổ, nhưng cũng còn nhiều hoài nghi vì con người là con người, con vượn vẫn là con vượn từ nhiều năm vẫn như vây. Thế thì lý gì mà vượn lại biến hóa lên người? Cái khó của duy vật là phải chứng minh được vượn biến thành người do lao động trong khi người ta bắt con khỉ làm xiệc mãi mà nó vẫn là khỉ…? Hơn nữa chẳng mấy ai muốn tổ tiên mình lại là vượn và có muốn thì vượn vẫn là vượn và người vẫn là người không thể là tổ tiên của nhau. Tự nó không thể chứng minh cho nó, vì thế duy vật cứ chứng minh mãi cũng chưa biết con người là ai.

Chúng ta đã thấy sự phiến diện và bất cập của duy vật và duy tâm vì thế chúng ta vẫn chưa thể biết được con người đích thực là ai nều cứ theo duy vật hoặc cứ theo duy tâm….

Bằng các nghiên cứu về lịch sử tiến hóa vũ trụ, các nhà khoa học đã phát hiện được tiến trình hình thành thế giới, nơi duy tâm vẫn cho là “bất khả xâm phạm”. Có thể nói cuộc tranh chấp về nguồn gốc vũ trụ cũng như sự sống của những người duy tâm với những người duy vật đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Tính ác liệt của sự tranh chấp này không phải là đấu tranh mà là “Thượng Đế” thuộc về ai, có nghĩa “Thượng Đế” được vật chất hóa để trả cho duy vật hay trừu tượng hóa của duy tâm.

Các nhà khoa học gần đây đã nói về những phút đầu tiên của sự hình thành vũ trụ. Theo thuyết vũ trụ học, hiện đại nhất hiện nay, được gọi là thuyết “mô hình chuẩn”, trong tương lai thì chưa thể biết được mô hình chuẩn có còn “chuẩn” không, nhưng hiện tại đây là lý thuyết cao nhất, về nguồn gốc vũ trụ, giải thích về hình thành vũ trụ. Xuất phát từ thuyết “vụ nổ lớn” gọi là “Big Bang” của các nhà bác học Mỹ Penzias và Wilson, được giải thưởng Nobel 1978, về sự khám phá quan trọng này. Có thể nói thuyết vũ trụ học “Vụ nổ lớn” có được dạng chuẩn như ngày nay được nhiều người công nhận là thành tựu khoa học lớn nhất, trong thế kỷ 20 và là cơ sở để các nhà duy vật xây dựng thêm vào nấc thang tiến hóa vật chất.

Khám phá nguồn gốc vũ trụ là ước mơ của nhiều nhà khoa học, có gì hấp dẫn hơn là vấn đề “phát sinh trời đất” Steven Berg, nhà vật lý chuyên về những cái rất bé nhỏ, lý thuyết hạt cơ bản đã viết “Ba phút đầu tiên” một lý thuyết chi tiết về quá trình diễn biến của các sự kiện trong vũ trụ sơ khai đã được công nhận rộng rãi dưới tên “mô hình chuẩn”. Ông đã khám phá chi tiết của buổi ban đầu hình thành vũ trụ  cùng những tiên đoán về “số phận” vũ trụ hiện nay nhưng không thể giải thích được trước “ba phút đầu tiên” vũ trụ là gì?

Bởi không thể tìm được trước phút đầu tiên của vũ trụ cho nên các nhà khoa học thường phải giải thích “lòng vòng”  trong muôn vàn cái “có thể” và “nếu” để chứng minh nguồn gốc vũ trụ. Các nhà khoa học có đủ sức thay “trời” tạo dựng “trời đất” được hay không, hay ít ra cũng hiểu được “trời sáng tạo vũ trụ” như thế nào là một thách đố cuối cùng để con người có chịu khuất phục về một “Thượng Đế” hay không?

Duy vật giải thích thế nào về nguồn gốc vũ trụ cũng không vượt qua được “nguồn gốc vũ trụ” mà phải chấp nhận mệnh đề “tự nó” được coi như một “tiền đề “Cái “tự nó“đó được xác lập bởi các qui luật, trong khi nguồn gốc qui luật “tối thượng” từ đâu mà có thì duy vật  không giải thích mà chấp nhận như định chế. Định chế đó chính là duy lý vật chất, duy lý với duy tâm cũng là một nhưng khác định hướng mà thôi. Nếu duy tâm cho rằng có “Thượng Đế”nhưng không thể thấy được bằng cảm giác, mà phải thấy bằng đức tin, thì duy vật cho rằng chỉ có vật chất không có “Thượng đế” và vật chất đó cũng không thể thấy bằng cảm giác mà thấy theo” tiền đề”, nghĩa là phải chấp nhận vật chất bằng tiền đề niềm tin để trở thành chân lý. Người ta không thể định nghĩa cái mà người ta chưa biết nó là cái gì. Khoa học đã chỉ ra cho con người thấy vật chất là các hạt mà loài người chưa hiểu, vậy định nghĩa vật chất của triết học có chủ quan và quá sớm không? Nếu trước kia “Thái Cực” là cái không thể giải thích thì ngày nay “tiến hóa vật chất” cũng không thể giải thích, đó là những nét tương đồng của hai nền triết học  duy vật cổ và duy vật hiện đại. Duy vật ngày nay khác với duy vật ngày xưa ở chỗ xác định những tính chất và thuộc tính vật chất cụ thể hơn. Hay nói cách khác duy vật biện chứng là một hệ thống khoa học giải thích về thế giới ban đầu hay nguồn gốc thế giới bằng phương pháp biện chứng giúp cho loài người hiểu rõ hơn về thế giới hiện tại. Còn thế giới trong quá khứ hay nguồn gốc thế giới thì duy vật biện chứng phải bó tay và đưa nhân thức chung chung thiếu cụ thể, bởi thế duy vật biện chứng không thỏa mãn được nhận thức con người. Con người muốn biết “cái gì đã sinh ra vật chất” chứ không phải là “vật chất vô hạn”   

Nếu các nhà khoa học, không bằng lòng với cách giải thích của tôn giáo về thế giới hiện tại, thì những người có đức tin hoặc hiểu về thế giới theo tình cảm cũng không đồng ý với cách giải thích của duy vật biện chứng. Bởi vì duy vật không giải thích được nguồn gốc thế giới mà đưa ra định đề vật chất làm “khuôn mẫu” trong khi nguồn gốc thế giới là cái gì thì chưa biết.Ngày nay khoa học tìm được “mô hình chuẩn” là những giây phút của vụ nổ Big Bang, nhưng con người muốn biết trước Big Bang là cái gì? Một câu hỏi được đặt ra, nhưng chưa có câu trả lời, nếu tìm được cơ sở hình thành Big Bang thì trước cơ sở đó là cái gì?? Cứ như thế khoa học không thể chứng minh nguồn gốc tận cùng của vũ trụ, nơi tận cùng đó là chân lý của tình cảm và mãi mãi là như vậy. Tính trường tồn của thế giới ban đầu càng vững bền chứ không như nhiều người cho rằng khoa học phát triển thì duy tâm không còn chỗ đứng (16*).

G. Vũ Trụ Quan Đạo Sống Việt Nam:

Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam nhận thức rằng:

·Vũ Trụ Quan Đạo Sống là NHƯ NHIÊN.(Tự Nhiên và Như Nhiên )

·Năng Lượng Sống Vũ Trụ hay nguồn Sống Vũ trụ  là “bất khả tri” hay “bất  khả tư nghị “

·Năng Lượng Sống là Căn Nguyên Hình Thành Vũ trụ và Con Người.

·Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống con người, chính là bản chất con người. Do công phu tu dưỡng con người có khả năng hòa đồng cùng Năng Lượng Sống Vũ Trụ.

·Tinh Thần và Vật Chất là hai mặt ẩn và hiện của Năng Lượng Sống Vũ Trụ.

·Vô Thể, Sống Thể, HữuThể vừa là Chân Nguyên, Đồng Nguyên của Sống Thể, Sống Năng Thái Hòa.

·Năng Lượng Sống Vũ trụ  và Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống con người có các  đặc Tính,khả tính sau đây:

1-  Quang Minh, Chân Thực, Sống Động& Vĩnh Hằng

2-  Linh thông,Toàn thẩm,Tiềm di & mặc hóa

3-  Tương Tức, Tương Nhập, Tùy Duyên Hằng Hóa & Bất Nhị

4-  Liên tục Bổ sung, Phân Hóa,& Điều Hợp

5-  Bảo tồn,  Phát triển, Tiến Hóa &Thăng Hóa

6-  Tư Do, Tư Chủ, Tư Tạo & Tư Thắng

7-  Vượt Thoát, Dung Hóa, Sáng Hóa & Sống Hóa

H. Nhân Sinh Quan

H. Phát hiện quy luật sống

Trong cuốn “Nhân Loại Mới” do Mekong xuất bản năm 1991 hai tác giả Nguyễn Thùy và Trần Minh Xuân trong khi suy tư về các phạm trù mâu thuẫn cặp đôi như “Bản Chất và Hiện Tượng”,  “Đạo và Đời”, “Hữu Thần và Vô Thần”, “Tất Định và Tư Do”, “Tư Do và Bình Đẳng” v.v…  Hai tác giả đã phát hiện ra hai qui luật của đời sống. Đó là “Tất Định Như Nhiên” và “Tất Định Qui luật” Hai qui luật này mới đọc qua, chúng ta không thấy điều gì mới lạ, hay không mới lạ lắm … Nhưng suy gẫm, suy tư  và trầm tư  sâu sắc, chúng ta mới thấy  hai qui luật này vô cùng cấp thiết và quan trọng giúp cho con người “an thân lập mạng”  thuận theo “lẽ Đạo” và “tiến xa trên đường Đạo”…

Trước hết chúng ta hãy nói về “Tất Định Như nhiên” (Déterminisme-Nature):

“Tự do được đề cập nhiều trong triết lý, chính trị và kinh tế và cả trong khoa học, nhưng trong Đạo học lại ít hoặc không đề cập đến. Các kinh Phật Giáo , Ki Tô giáo hầu như không nhắc đến , trong lúc các vấn đề Bình đẳng, Từ Bi, Bác ái … lại được xiển dương. Có lẽ trong Đạo học, Tư do được xem như là bản nhiên, một vấn đề của bản chất con người, không do một cấu trúc nào tạo nên, hoặc Tư do đã nằm trong cái lẽ Đạo rồi.

Đạo như đã nói, không chỉ dành riêng cho chủng loại người mà cho tất cả mọi giới loại thì Đạo là một tất định, vì tất cả đều ở trong Đạo, chi phối bởi Đạo. Hiểu Đạo là lý vận hành biến dịch chung của vạn hữu thì Đạo là một thứ “Tất định Như Nhiên” (Déterminisme – Nature) bao giờ cũng thế.

Xin được  giải thích sơ lược về từ “Như Nhiên” ”Như Nhiên” có nghĩa “là vậy, là thế” bao giờ cũng thế, không hiểu do đâu, không hiểu tại sao. Dù có giải thích được, dù có tìm ra nguyên nhân, diễn tiến,dù có biện pháp sửa đổi thế nào thì sự việc vẫn thế , vẫn cứ là như thế. “Như Nhiên” bao gồm cả tự nhiên và có tính cách khẳng định hơn là “Tự Nhiên” vì cái tự nhiên có thể sửa đổi, có thể thay thế, , như có thể đào núi, lấp sông, ghép cây, thay tim…Nhưng cái Như nhiên thì không thể nào cải đổi, sửa chữa hủy diệt.

Đức Phật nói đến cái khổ đầu tiên của con người là “Sinh, Lão, Bênh, Tử” (có lẽ chung cho cả mọi giới loại) đấy là bốn cái “Như Nhiên”. Cho dù ngày nay, y học dùng lối cấy tinh trùng để tạo nên một bào thai không cần đến sự giao hợp giữa nam và nữ, theo cách tự nhiên, nhưng như thế sự sự sinh cũng đã có rồi. Cái chết cũng vậy. Điều kiện dinh dưỡng và y dược có thể kéo dài tuổi thọ, nhưng thế nào rồi con người cũng chết; cho dù chết vì già yếu, bị bịnh tật hay bị sát hại, bị tai nạn…mà qua đời thì sự chết cũng đã đến, cũng đã xảy ra… Người Phật Tử gọi đức Phật là “Như Lai” có nghĩa là như nhiên đến, không do ai, không do gì. Điều đó có nghĩa đức Phật  không còn là Tất Đạt Đa, không còn là Thích Ca mà là  biểu tượng của Tâm Chân Như là một thứ “Như nhiên”. Hiểu như thế Thượng Đế là như nhiên, cuộc sống, cuộc đời là Như nhiên.

Nhiều người theo Phật giáo ngày nay bỏ luôn từ “Như” chỉ dùng từ “Nhiên” không thôi, trong dụng ý kết hợp cả cái “tự nhiên” và cái “là vậy” vào một. Đạo là Như nhiên vì Đạo là tự nhiên và bao giờ cũng là thế, cũng là vậy, không sinh sôi, không phát triển, không hư hoại, không hủy diệt, không trương nở, không giản lược, không tăng, không giảm, không tiến, không lùi, không xấu, không tốt, không mà có, có mà không, không hữu, không vô, Hữu vô là một. Con người sống trong Đạo là sống theo “Tất định Như Nhiên” trong khi con người sống trong xã hội là sống theo: “Tất Định Qui Luật

   “Tất Định Quy Luật” (Déterminisme –Loi)

Bên cạnh Đạo, bên cạnh cái “Tất định Như hiên” này, cuộc sống mỗi người cũng như của mỗi chủng loại cũng tuân theo một cái tất định khác, vì tuân theo những qui luật của tự nhiên, tự nhiên nơi đây bao gồm khung cảnh thiên nhiên cùng môi trường sinh hoạt của cá thể, và chủng loại trong cộng đồng hiện thể của mình.

Mỗi chủng loại cũng như mỗi cá thể trong chủng loại, từ tự thân, muốn tồn tại, tiếp nối và phát triển phải thỏa mãn một số thiết yếu bản nhiên mà ta gọi là bản năng sinh tồn. Rồi do “hiện thể trong toàn thể” (kết hợp thành xã hội) các thiết yếu ban sơ đó dần dần phức tạp hóa, đa diện hóa, tạo nên vô số nhu cầu và sở thích.

Tất cả nhũng thiết yếu ban sơ cùng nhu cầu và sở thích là nguyên nhân và động cơ phát sinh tư hữu và chiếm hữu đó .Vì thế cuộc sống có tính cách cơ năng (tuân theo những đòi hỏi của sinh vật lý). Lịch sử tại thế chính là dòng diễn biến của tính cơ năng. Tính cơ năng là một “Tất định qui luật” (Déterminisme –Loi)

Những qui luật đó phát sinh từ trường tương tác của vạn pháp, những mối quan hệ hầu như bất biến giữa mọi sự, mọi vật mà khoa học thực nghiệm đã tìm và tìm mãi cùng với những qui điều trong các khoa học nhân văn  phát sinh từ nhu cầu  của đời sống thực tiễn của  xã hội. Những qui luật và qui điều có thể thay đổi do nhận thức của con người, do diễn biến sinh hóa của nhân sinh qua lịch sử và được hướng dẫn vận hành của cái “Tất Định Như Nhiên”

Cái “Tất định Như Nhiên” là lẽ Đạo, là Ý chí của Thượng Đế và là nền tảng của Định mệnh thuyết siêu hình. Cái “Tất định Qui luật”là lịch sử hay cuộc sống  của từng chủng loại, của từng cá thể trong chủng loại, nghĩa là vũ trụ hiện tượng  của cõi sắc giới, và là nền tảng của Định mênh thuyết tự nhiên ( hay Định mênh tuyết khoa học, Định mênh thuyết lịch sử). Hai cái “Tất định”này không chống đối phủ nhận nhau.

Cái Tất định qui luật nằm trong cái Tất định Như nhiên và thể hiện cái Tất định như nhiên ra mặt hiện thể. Trong ý nghĩ này, ta có thể hiểu lời nói của Gaston Bachelard: “Tất định thuyết đã từ cõi trời đến với cõi đất” mặc dù chủ ý của ông chỉ mới nói về mặt khoa học.

Vì tất cả để trở về trong Đạo, khởi đi từ cái Một, nên cái Tất định Qui luật diễn biến qua muôn hình vạn trạng hình thái, cách thế cuối cùng sẽ hội nhập, tan hóa vào trong cái Tất định Như nhiên để chấm dứt một chu kỳ biến dịch, tức là một kỷ nguyên sinh hóa của chủng loại. Làm thế nào và vào lúc nào đấy là phần vụ của Ý chí Tự do của con người. Con người cuộc sống con người bơi lội giữa hai dòng  tất định đó, bị tác động bị chi phối bởi cái “Tất định Qui luật”, nhưng lại được hướng dẫn bởi cái “Tất định Như nhiên”.

Tư do con người thể hiện ở ý thức và hành động giải trừ vượt thoát vòng chi phối, tác động của cái Tất định Qui luật để hướng về cái Tất định Như nhiên. Đấy là ý nghĩa của giải thoát, Cứu rỗi trên mặt cá nhân. Định mệnh thuyết siêu hình hướng con người đến cứu rỗi, giải thoát trong lúc Định mênh thuyết tự nhiên tác động vào cuộc sống chung để con người và chủng loại dần dà qua hành động đấu tranh chống cơ năng để loại dần cơ năng (hoặc giảm thiểu chế hóa cơ năng, hoặc bành trướng cơ năng để loại dần cơ năng) mà tiến tới Đạo, đến cái Tất định Như Nhiên.

Trong ý nghĩa hướng đi đó, Tự do con người, của mỗi người, chính là cái khuynh hướng, cái hướng vọng  dẫn về trong cái Tất định Như Nhiên và thể hiện nơi ý chí đấu tranh trước tiên với bản thân mình( có nghĩa không để tính động vật  chi phối nặng nề ) và đấu tranh với xã hội, để mọi mặt đòi hỏi xã hội thỏa mãn những yếu tính của tồn tại về mặt cơ năng (thỏa mãn nơi đây có nghĩa là cung cấp mọi điều kiện thuận tiện do từ cơ cấu tổ chức xã hội) mặt khác dần dà  giải trừ tính cách cơ năng  của xã hội  đối với cuộc sống , để rút ngắn cái quá trình diễn biến của cơ năng hầu sớm đưa chủng loại vào trong cái Tất  định Như nhiên.

Trong chiều hướng đó, Tự do không phải là thứ của cải được ban cấp bởi xã hội mà là một yếu tính từ bản chất con người, và là động lực để cải biến con người và cải biến xã hội. Hiểu Tư do là cái quyền được sống theo ý mình, không bị cản ngăn; Hiểu Tư do là cái Ý chí, cái Năng lực quyết định, chọn lựa giữa bao nhiêu trường hợp, bao nhiêu khả năng, không hẳn là sai, nhưng đấy chỉ là những thể hiện từng lúc trong cuộc sống theo cái Tất định Qui luật mà thôi, và như thế, Tư Do không có một ý nghĩa, một tác dụng nào cao quý về mặt chủng loại. Cũng chính vì thế mà Tự Do đòi hỏi và liên hệ mật thiết với Cảm thông, Yêu thương,Độc lập, Bình đẳng, Hòa bình, Đoàn kết, Hy sinh,  Sáng tạo (17*)  

H.2:  Nhân sinh quan, thể hiện trong nếp sống, cách sống của con người “Biết Sống sự sống mình”:

·Sống Vui

·Sống Hùng

· Sống Mạnh

· Sống Đẹp

· Sống Tỉnh Thức

· Sống Hướng Thượng, Hướng Tha

· Sống Tranh Đấu, Cầu Tiến

· Sống Đạo Nghĩa Hiếu Trung 

· Sống Tôn Sư Trọng Đạo

· Sống Tự Tin,Tự Chủ

· Sống Chết theo Lẽ Đạo

· Sống không hờn giận oán trách

·Sống Bao Dung Tha Thứ

· Sống  Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm

· Sống Thực dụng, Thực Tiễn

· Sống Thử Thách, Kiên Nhẫn

· Sống Lý Tưởng, Sáng Tạo.

· Sống Từ Bi Bác Ái.

·Sống Bình Đẳng, Hòa Đồng

· Sống Yêu Dân Yêu Nước.

· Sống Kết Đoàn, Đoàn Kết

·Sống Dân Chủ Tự Do,

· Sống Tự vượt, Tự thắng

· Sống Thiền, Sống Vi… 

· Sống Nhân Chủ Thái Hòa (18*)

Trên đây chúng  ta  đã  đề cập đến những cách sống đặc biệt, như những bông hoa tươi thắm muôn hồng ngàn tía tiêu biểu cho  hàng trăm cách sống khác nhau, tạo thành cá tính hay nếp sống con người và nếp sống của mỗi dân tộc… tùy theo ý thích, sở trường, khả năng và ý chí mỗi người kể cả hoàn cảnh gia đình và xã hội  ảnh hưởng lên sự chọn lựa và quyết định  của mỗi cá nhân như người  ta  thường nói “Anh hùng tạo thời thế” hay “Thời thế tạo Anh hung”. Điều đặc biệt đáng ghi nhận hơn là:  Nhịp theo đà tiến của nhân loại, thế kỷ 21, đã mở ra những chân trời mới: Đạo Sống không còn là đặc quyền của một thiểu số giành cho những “Tao nhân mặc khách” “hay “những người có căn cơ tu Đạo” mà Đạo luôn luôn mở ra cho tất cả mọi người. Nhiều người nói: thời đại ngày nay chúng ta phải “Đem Đạo vào Đời”,  “Hiện đại hóa Đạo Phật”, “Hiện đại hóa Tôn giáo”, v.v.  Những cách nói này không  phải sai, nhưng chưa đúng lắm, chưa thật hay …vì chúng ta chưa khởi đi từ gốc, chưa khởi đi từ chính mỗi người  chúng ta … Vấn đề quan trọng nhất của “Thời đại hiện nay” là khai mở ĐẠO SỐNG trước hết cho chính mình (cho mỗi cá nhân) trước khi phổ biến, thức động “quảng đại Quần chúng  Quốc dân”. Làm công việc này chúng ta  không những giúp ích cho tất cả mọi tôn giáo, và cho cả những người không theo một tôn giáo nào… hay ngay cả những người “vô thần” nói chung, đều biết sống sự sống mình, tư chọn cách sống nào hay đẹp thích hợp nhất với mình… Khi  con người  biết sống sự sống mình thì chúng ta không cần “Đem Đạo vào Đời” mà kỳ diệu  thay “ Đạo đã nở hoa trong Đời”. Hoa Sư Sống sẽ tưng bừng nở trên khắp mọi miền đất nước Việt Nam và trên toàn thế giới. Kỷ nguyên Đạo Sống Nhân Chủ đã từng bước hình thành tại Việt Nam, tự nhiên như sự chiếu sáng của mặt trời mặt trăng, tự nhiên như hoa nở …  

I. Văn Hóa Quan:

Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam chủ trương:

– Văn Hóa có sứ mạng “Giáo hóa con người , Phụng sự Quần chúng Quốc dân” và có khả năng “chỉ đạo” cho Chính trị, Kinh tế, Giáo dục, Xã hội…

– Muốn thực hiện được sứ mệnh lớn lao trên, Văn hóa phải có “sức mạnh tự thân” và biết phát huy Sức mạnh vô biên, vô tận của Văn hóa. Nếu Văn hóa không biết phát huy sức mạnh tự thân và sức mạnh của Văn hóa Dân tộc, thì Văn hóa luôn luôn bị các thế lực chính trị đôc tài (độc tài đỏ và đô tài trắng) biến Văn hóa trở thành “những cây cảnh, những chậu cảnh” trang trí cho chế độc đôc tài, nhất là chế độc độc tài toàn trị CS, chuyên lợi dụng văn hóa, biến văn hóa trở thành “công cụ cho các chế độ độc tài” mang danh Xã hội Chủ nghĩa .

– Không chỉ nêu ra cứu cánh “Chân, Thiện Mỹ”, mà phải thực hiện ,thực hành Chân Thiện Mỹ, hiện thực Chân Thiện Mỹ, quan trọng hơn nữa là “Sống  hóa Chân Thiên Mỹ” chính là phương cách tuyệt diệu nhất để “phát huy sức mạnh tự thân của Văn hóa”.  

– Biết phát huy “sức mạnh tự thân của văn hóa”, mới là “điều kiện cần”, chưa phải là điều kiện đủ. Mà còn phải  biết, “vận dụng”, “diệu dụng chân lý Sự Sống” vào tổ chức “hình thành Văn hóa Tổ chức”. Tiếp đến là “vận dụng văn hóa tổ chức” vào mục tiêu “Giáo dưỡng, Hướng đạo sinh hoạt Quốc Dân” hình thành “kỷ nguyên Văn hóa Quốc dân”. Cao hơn nữa là “Vận dụng Văn hóa Tổ chức” vào việc không ngừng nâng cao mực sống Quốc dân” “Thăng hoa và Thăng hóa hay Thành toàn  sự sống Quốc dân”

– Khởi đi từ việc phát huy “Sức mạnh Tự thân của Văn hóa” hình thành “Văn hóa Tổ chức”, “Văn hóa Giáo dưỡng, Hướng đạo Sinh hoạt Quốc dân”, “Văn hóa Phụng  sự Quốc dân, không ngừng nâng cao Mức Sống Quốc dân”,  “Văn Hóa Thăng hoa, Thành toàn Sự Sống Quốc Dân”.

J. Chính trị Quan: 

Trong các chế độ Dân Chủ Tự Do chân chính tại Tây Phương cũng như Đông phương bao giờ cũng hình thành 2 trận tuyến: Đó là

       – Trận tuyến Cầm Quyền

       – Trận Tuyến Đối Lập

Nay Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam chủ trương thành hình:

              – Trận Tuyến Quần chúng Chính trị Quốc Dân làm trung gian giữa 2 trận tuyến Cầm quyền và trận tuyến  Đối lập để tạo thế “Quân Bình Động”  trong Sinh hoạt Chính trị Quốc gia.

             – Trận tuyến Quần chúng Chính trị Quốc dân còn là Mặt Trận Gốc của Quốc gia Dân tộc Việt Nam đóng vai trò Chủ Lực Cách mạng trong giai đoạn Cứu Quốc hiện nay cũng như giữ vai trò chủ lực Kiến quốc và Hưng quốc sau hâu kỳ cs (Khi chế độc độc tài toàn trị cs bị lật đổ cáo chung)  

–  Trận tuyến Quần chúng Chính trị Quốc dân (TT/QCCTQD) không chủ trương tranh giành quyền lực với chinh tuyến cầm quyền, không chủ trương cướp chính quyền, cũng không chủ trương đưa người ra tranh cử vào các cơ quan Công quyền như Quốc hội hay các cơ quan hành chánh của Chính phủ từ trung ương đến địa phương, hầu bảo đảm tính chất trong suốt (transparent) của tổ chức Quần chúng Chính trị Quốc dân. Hơn thế nữa, Trận tuyến QCCTQD còn sẵn sàng hậu thuẫn hợp tác với Chính tuyến cầm quyền trong các công tác ích quốc lợi dân. Ngược lại khi Chính tuyến cầm quyền làm điều gì sai trái với Hiến pháp, vi phạm quyền lợi của Quốc dân thì Chính tuyến Quần chúng Chính trị Quốc dân sẽ lên tiếng chống đối hay hợp tác với Chính tuyến đối lập để phản biện hay đối thoại với Chính Quyền hầu “sửa sai và xây dựng Chính tuyến cầm quyền” ngày một tốt đẹp hơn.

– Cho dù “hậu thuẫn, hợp tác với chính quyền” hay “lên tiếng chống đối chính quyền”, Chính tuyến Quần chúng  Chính trị Quốc dân không coi đó là công tác chính  yếu mà chỉ là những  công tác cần thiết trong từng giai đoạn lịch sử mà thôi. Nhiệm vụ hay sứ mạng chính yếu nhất của Chính tuyến QCCTQD là Khai mở Đạo Sống Dân tộc Việt, khai mở dân trí Quốc dân, không ngừng phát triển tổ chức, duỗi dài tổ chức vào khắp mặt sinh hoạt từ Văn Hóa,Kinh tế, Chính trị, Giáo dục, Truyền thông, Luật pháp. Y tế, Quản trị học, Thương mại, Khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến v.v….

– Trận tuyến Quần chúng Chính trị Quốc Dân còn tạo môi trường cho nhà trí thức, Kẻ sĩ, Sĩ phu thời đại đem tài năng ra giúp nước giúp dân bằng phương thức dấn thân hòa đồng với Dân chúng theo tiêu ngữ “Hòa Quang Đồng Trần “ (Hòa kỳ Quang, đồng kỳ trần = Hòa cùng Ánh sáng, đồng cùng bụi bặm-( trích Lão Tử  Đạo Đức Kinh)

– Trận tuyến Quần chúng Chính trị Quốc dân còn tạo môi trường cho giới trẻ (Thanh niên, sinh viên, học sinh) có cơ hội, học tập và thi thố tài năng  trên mọi lãnh vực, học tập và phát huy Văn hóa,Nghệ thuật. Âm nhạc, Võ học….theo đúng nguyện vọng và hoài bão của tuổi trẻ, nối gót cha ông. 

– Trận tuyến  Quần chúng Chính trị Quốc dân song hành với trận tuyến Quần Chúng  Văn hóa Quốc dân còn có sứ mệnh quan trọng và cao đẹp nhất là “Đào Tạo Nhân tài ưu tú, cho  Quốc gia  Dân tộc Việt và xa hơn cho Nhân loại.

K.  Xã Hội Quan:

Chủ đạo Văn hóa Việt nam quan niệm: Một xã hội thực sự tốt đẹp có tính chất điển mẫu là một xã hội:

–         Đạo Đức, hiền thiện, công bằng, tư do dân chủ, pháp trị, khai phóng và tân tiến.

–         Hài hòa, “cộng đồng đồng tiến”, tôn trọng sáng kiến cá nhân, “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cộng đồng” và “sức mạnh tổng hợp của Dân tộc”.  

–          Theo thể chế, Dân chủ Đa nguyên, tập trung quyền hành tối thiểu tại trung ương và Tản quyền tối đa tại địa phương.

–         Giảm thiểu  khoảng cách giầu nghèo giữa các cộng đồng khu vực,song hành với việc  giảm thiểu  khoảng cách giầu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân (Quốc Dân)

–         Tạo ý thức Sống, khai mở tinh hoa Chân lý sư Sống  bảo vệ  môi trường Sống trong sạch làm bừng lên Sức Sống Quốc dân.     

L.  “Nhân Thế Quan” hay “Nhân Chủ quan”

Chủ đạo Văn hóa Việt nam chủ trương:

–         “Kết Sinh toàn dân-, xây dựng Lực  lượng Gốc “  nhằm hát  huy :  Văn Kinh, Chính GiáoĐạo, Khoa, Truyền,  y, Luật, Quản ( tức Văn hóa, Kinh tế, Chính trị, Giáo dục, Đạo học, Khoa học, Truyền thông, Y tế, Luật pháp, Quản trị )

–         Tôn Vinh và Tri ân Quốc Tổ Hùng Vương.

–         Tôn Vinh Đạo Sống Nhân Chủ

–         Bảo vệ Sư Sống Quốc dân.

–         Phát huy Sự Sống Quốc Dân,

–         Không ngừng nâng cao mức Sống Quốc dân

–         Thăng Hoa sự Sống Quốc Dân,

–         Thành toàn Sự Sống Quốc dân.

VII. KẾT LUẬN

Trong thời đại chúng ta mọi người đều công nhận trận tuyến hay Mặt trận Văn Hóa rất quan trọng. Nhưng muốn phát huy sức mạnh Văn Hóa phải làm thế nào và phải khởi đi từ đâu? Và đi tới đích điểm nào? Những câu hỏi được nêu lên: “Triết học Tây phương đi về đâu”? Triết học Đông phương đi về đâu? Văn hóa đi về đâu? Thì mọi người đều lúng túng không tìm ra lời giải đáp. Do đó văn hóa rơi vào tình trạng mà Linh Mục triết gia Kim Định gọi là “Vô hướng vô hồn”. Giờ đây chúng ta đã khám phá Chủ Đạo Văn hóa Việt Nam có nghĩa là chúng ta đã vượt lên màn lưới của ngôn từ, màn lưới của Ý thức hệ đang che phủ thực tại và phát hiện ra Chân Lý tinh hoa Sự Sống ở ngay trong mỗi con người chúng ta. Chúng ta giác ngộ ra rằng “Không có Ý thức hệ nào quí bằng Sư Sống”. Chúng ta không còn mắc kẹt trong ý thức hệ (bất cứ ý thức hệ nào, dù là duy tâm, duy vật, duy nghiệm, hay duy linh….) Tất cả mọi thứ “Duy” đều chỉ là phiến diện và bất cập… Chúng ta phải vươn tới Đạo mới đem lại hạnh phúc cho con người, đem lại ơn ích, phúc lợi cho Dân Tộc

Đạo Sốngcũng là “Minh Triết Đạo, và cũng chính  là “Nhân Chủ Đạo”– Chủ dạo Văn hóa Việt Nam là “chìa khóa vàng” cho phép chúng ta mở tung các cánh cửa, các kho tàng vô giá vô biên vô tận của Văn hóa Việt Nam và Văn hóa nhân loại. Đạo Sống Nhân chủ không cần kêu gọi ai, không o ép ai, mà chủ trương, tự thức tỉnh, tự vượt và tự thắng chính mình. Đạo Sống Nhân chủ đặt trọng tâm hoàn thành cuộc Cách mạng tâm thức con người, làm nền tảng cho mọi cuộc Cách mạng Dân tộc và Xã hội.

Từ ngày lập quốc, Dân tộc Việt Nam với  5 ngàn năm Văn Hiến… từ các bậc tiền nhân Anh Thư, Anh hùng, đến những người thường dân đều đã có những giấc mơ Việt Nam. Các giấc mơ của Cha Rồng Mẹ Tiên thể hiện trong các câu chuyện huyền thoại, mà nay trở thành Bô Kinh Việt lưu truyền hậu thế như Kinh Tiên Rồng, Kinh Chử Đồng ; Kinh Trầu cau; Kinh Tiết liêu; kinh Phù Đổng v.v..(19*)

Giấc mơ Việt Nam cũng đã được gửi gắm trong “Sứ Điệp Trống Đồng”… trong “Gậy Thần Sách Ước…” Chúng ta không thể không đề cập đến các Giấc mơ của Đức Nguyễn Trãi, giấc mơ của Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm, giấc mơ của Lý thuyết gia Lý Đông A, giấc mơ của học giả Hồ Hữu Tường (20*)  và gần đây nhất là “Ước mơ  của Thủy (Lệ Việt Kỳ Nhi)

“Mượn lời một nhân vật tên Thủy, tác giả Lê Việt Kỳ Nhi chia sẻ những kiến thức hiểu biết, suy nghĩ “to gan” của mình về một đất Việt đầy truyền thống hào hùng mà bị khỏa lấp, che đậy yếu hèn bởi một thứ chủ nghĩa ngoại lai, không phù hợp.

Nhi với cái nhìn tỉnh táo, đã nhận định những sự việc đang xẩy ra trên đất nước Việt trong mối quan hệ hữu cơ biện chứng với tình hình thế giới .

Nhi với chủ trương “Nhân bản” thuần Việt đã mạnh dạn vứt bỏ chủ nghĩa cộng sản vào sọt rác, xem chủ nghĩ Tư Bản cũng không ra gì …

Với Nhi, duy tâm hay thuần duy vật cũng không hay, dễ đi tới cực đoan, mà cái chính phải là “duy nhân” xem con người làm trọng, phục vụ cho lợi ích con người  trong sự tổng hòa với các mối quan hệ xã hội khác.

Nhi viết trong sách về cái cảm giác chung của dân Việt trước sự đổi mới, hòa chung xu thế thế giới “bỏ cái cũ thì cảm thấy như bị cắt thịt da, tiếp nhận cái mới thì bị tự ái dân tộc cản trở …” Tôi tin rằng, với vài người những gì đề cập đến trong “Ước mơ của Thủy” sẽ rất mới mẻ, cứ như lần đầu tiên nghe thấy điều đó! Tuy nhiên mong rằng đó chỉ là những cú “sốc phản vệ’ rất nhỏ để bạn đọc tiếp tục tìm hiểu đọc kỹ hơn, tìm ra con đường mình muốn đi khi đang trong trạng thái hoang mang, đằng sau những câu chữ đầy tâm huyết này” (Trích lới Bạt của Huỳnh Lê Nam cuối tác phẩm (21*).

Ước mơ chính đáng và tha thiết của Thủy cũng là ước mơ của đa số Quốc dân Việt Nam, muốn quay về Nguồn cội với những giá trị nhân bản, nhân chủ cao quí của truyền thống dân tộc Việt,  để chối bỏ tất cả những chủ thuyết ngoại lai không phù hợp với  tỳ vị dân tộc, nhất là tranh đấu giải thể  chế độ cs, vất bỏ chủ nghĩa CS vào sọt rác để đất nước Việt sớm được thoát Trung , dẫn đưa dân Tộc Việt Nam đến cường thịnh và vinh quang.        

Muốn hiện thực “Ươc mơ của Thủy “còn đòi hỏi nhiều thách thức với toàn dân Việt tại quốc nội cũng như hải ngoại. Tuy nhiên “Ước mơ của Thủy” là con đường thoát là lối ra tất yếu của Dân Tộc Việt Nam. Chúng tôi tin tưởng rằng quốc dân Việt Nam sẽ nhất tề vùng dậy lật đổ chế độ Cs trong một ngày không xa nữa.

Sau khi chế độ Cs đã bị sụp đổ, bị cáo chung, quốc dân Việt sẽ phải cùng nhau thực hiện sách lược và chương trình Kiến Quốc và Hưng Quốc như thế nào? Giấc mơ của Đức Nguyễn Trãi là mong sao “Trong thôn cùng xóm vắng không có tiếng thở dài, không còn tiếng hờn giận oán sầu” (22*) Giấc mơcủa Đức Nguyễn Trãi rất chính đáng cao cả nhưng khó khăn thực hiện biết bao! Đây là một thử  thách vô cùng lớn, không những dành cho các đại chính trị gia, cho các Hiền Nhân Thánh Triết  mà là thử thách cho toàn thể Quốc Dân Việt trong suốt mấy thế kỷ qua nhất là sau hậu kỳ cộng sản. Nếu trước đây chúng ta chưa khám phá ra “Chủ Đạo Văn hóa Việt Nam” thì giấc mơ của Đức Nguyễn Trãi hoàn toàn có tính cách ước lệ lý tưởng. Nhưng  bước sang thế kỷ 21, Quốc dân Việt đã khám phá và hình thành  “Chủ Đạo Văn hóa Việt  Nam “ thì giấc mơ của Đức Nguyễn Trãi, vị đại Anh hùng Dân tộc,   Danh nhân Văn hóa Thế giới tuy vẫn là thử thách lớn đối với Quốc dân Việt, nhưng không phải là Không thể thực hiện được…. 

“Vang Vang Trời vào Xuân”…..

San Jose Thung lũng Hoa Vàng
Năm 2017

Chu Tấn

Tài liệu Tham Khảo:

” Trich trong Tuyển Tập Văn Hóa Chính Trị TẤC LÒNG NON NƯỚC Tập I  của Chu Tấn)                                                                              

(1*) Đạo là gì?

https://www.bing.com/search?q=%20%C4%90%E1%BA%A1o%20l%C3%A0%20g%C3%AC%3F&qs=n&form=QBRE&sp=-1&pq=undefined&sc=0-2&sk=&cvid=EFEEBB187F58459F9E77A50F843EFE37

(2*) Xem Triết lý Tri- Hành-Sống Hợp Nhất của Chu Tấn cũng trong Tuyển Tập này.

(3*) Cứu cánh hay cùng đích của Văn Hóa Chính Trị theo quan niệm của Tây Phương là đạt tới CHÂN- THIỆN- MỸ

(4*) Theo triết lý Ấn Độ cứu cánh của Văn Hóa, Chính Trị là đạt tới CHÂN- MINH- HOAN.

(5*) Theo Thày Lý Hống Chí giáo chủ Pháp Luân Công CHÂN- THIỆN – NHẪN  là 3 đặc tình của vũ trụ .falundafa.org/

(6*)  “Thử đề nghị một Chủ Đạo cho người Việt  lưu vong” tác giả Lương Kim Định – Tủ sách Việt Linh xuất bản -L/L  Vương Kỳ Sơn P.O box 29683 NewOrleans LA 70189 ( 504) 254-0497 .

(7*) Kinh Kim Cang: Hán dịch Cưu Ma La Thập –Việt dịch: Thích Trí Tịnh (https://thuvienhoasen.org/a758/kinh-kim-cang-bat-nha-ba-la-mat)

(8*) Lý Thái Tông (https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_Th%C3%A1i_T%C3%B4ng)

(9*) Nhân Chủ – Kim Định (http://www.vietnamvanhien.net/NhanChu.pdf)

(10*)  Nhân Chủ Tính trong Huyền sử Việt – Đông Lan (http://minhtrietviet.net/nhan-chu-tinh-trong-huyen-su-viet/)

(11*) Luật Quốc Tế Nhân Quyền – Luật Sư Nguyễn Hữu Thống

Phiên dịch và dẫn giải – Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam ấn hành .

(12*)  Cuộc Cách Mạng Tunisia (http://search.myway.com/search/GGmain.jhtml?p2=%5ECPX%5Exdm113%5ETTAB02)

(13*) Kinh Dịch Đai Toàn Quyển 1-trang 41 – Tác giả B.S Nguyễn Văn Tho và Huyền Minh Yến Lê. Tác giả tự xuất bản.

(14*) http://www.hoalinhthoai.com/news/detail/news-3806/Quan-diem-vo-vi-cua-Lao-Tu-va-vo-vi-cua-Dao-Phat.html

(15*)  http://www.tailieuontap.com/2012/12/chu-nghia-duy-vat-va-chu-nghia-duy-tam.html

(16*) Lương Duyên Ngọc – Sự Sống- Chương I  trang 7, 8, 16. 17. Tác giả tự xuất bản.

(17*) Nhân Loại Mới tập 1- Tác giả Nguyễn Thùy & Trần Minh Xuân Mekong tỵ nạn xuất bản 1991 trang 192, 193,194, 195

 (18) Xin xem bài Sống Hoa- Những đóa hoahương sắc ngàn đời   của Chu Tấn cũng trong tuyển tập này.

(19*) Kinh Việt tác giả Nam Thiên –Hoa Tiên Rồng xb

(20*) Xin xem bài“Sứ mênh Văn hóa trong Thời đại Toàn cầu hóa của Chu Tấn cũng trong tuyển tập này.

(21*) Ước mơ của Thủy tác phẩm của Lê Việt Kỳ Nhi do Bước chân Lạc Hồng phát hành- Xem lời bạt của Huỳnh Lê Nam

(22*) Nguyễn Trãi toàn tập NXB Khoa học xã hội in lần thứ 2 Hà Nội 1976 trang 410, 420




Truyện Ngắn: GIÓ NGÀN & Tham Luận: SỨ MẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM – Chu Tấn

GIÓ NGÀN (truyện ngắn) * Chu Tấn.

“Đi sông bến lạnh lên ngàn

Khóc thời xa cũ đã tàn thanh âm.”

(Hoài Khanh)

PHẦN I .

1

Nhân đang theo chiếc thuyền lớn bằng 2 bàn tay chạy vào bờ thì nghe tiếng nói: Anh ấy đấy. Anh Nhân ơi… Nhìn lên, nhận ra người gọi là Dũng, người bạn đi thả thuyền với Nhân hơn một tuần nay, Nhân cúi xuống vớt chiếc thuyền cầm tay, bước lên bãi cát, cười gật đầu chào lại cô gái đứng cạnh Dũng, rồi nói:

tranh “Thiếu Nữ Dâng Trà” của Lê Phổ

– Tưởng hôm nay cậu không đi, tôi ra đây cả tiếng rồi.

– Em đi hơi trễ, vì chị Điệp em đây cũng muốn đi coi thả thuyền, rồi lại tìm anh ở phía bên kia mất khá lâu.

– Mình thay chỗ coi xem sao, phía này gió dìu hơn – Nhân nói, rồi nhìn cô gái: Điệp đã đi thả thuyền bao giờ chưa?

– Dạ chưa. Mấy hôm nay nghe Dũng nói nhiều về chuyện thả thuyền với anh, nên Điệp muốn đi coi cho biết.

– Vậy Điệp xuống nước thả thuyền với chúng tôi hay đứng trên bãi cát.

– Điệp ở trên bờ coi thôi.

Trong khi Nhân và Dũng lội ra xa, Điệp nhìn cảnh tượng xao động dưới nước, cả trên trăm người thả thuyền với những tiếng gọi và tiếng cười. Những con sóng nhỏ trào vào bãi cát vàng thoai thoải, nhưng những con thuyền nhỏ lại không bị sóng cuốn theo. Chúng dập dềnh chạy ngang hay chạy theo vòng tròn. Thỉnh thoảng có chiếc bị lật úp thì chủ chiếc thuyền bị lật vội vớt thuyền lên, dốc cho nước chảy hết, điều chỉnh lại buồm và bánh lái, rồi lại thả cho thuyền đuổi theo những chiếc đang chạy trước. Theo những lượn sóng, những chiếc thuyền dài chừng 2 hay 3 gang tay với những cánh buồm nâu, trắng, xanh, đỏ tỏa rộng khắp khu vịnh nông, đã đem đến nguồn vui trong buổi chiều lộng gió cho cả người trẻ lẫn người già.

Ở phía xa, nước sâu quá đầu gối, Dũng nhập vào một toán cả chục cậu ngang tuổi, còn Nhân đang thả thuyền một mình. Nhìn chiếc thuyền chạy vát quanh mình mấy vòng, Nhân vớt thuyền lên, điều chỉnh bánh lái và buồm cho thuyền chạy vát vào bờ, rồi bước theo con thuyền cho tới khi những con sóng sắp trào lên giải cát thì Nhân vớt thuyến lên đi đến chỗ Điệp.

– Vui nhỉ, anh Nhân. Ra Cát Bà mấy hè mà hôm nay Điệp mới biết trò chơi thả thuyền.

Nhân nói:

– Điệp ra đây mà không vào khu vịnh làng chài thì làm sao thấy. Chỉ vùng vịnh này, biển nông, bãi cát thoai thoải chạy ra xa, mới có thể lội xuống nước thả và đi với thuyền. Hè năm ngoái ra đây, đi lang thang gặp mấy cậu cỡ tuổi Dũng, mỗi cậu cầm một chiếc thuyền, tôi hỏi đem thuyền đi đâu? Mấy cậu ấy trả lời là đi thả thuyền. Tôi đi theo, thấy trò chơi thú vị nên kết. Rồi mấy ngày sau tôi tới đây nhập bọn với chiếc thuyền tôi làm.

– Làm thuyền có khó không, anh?

– Tôi đi coi hai buổi, quan sát những chiếc thuyền lớn nhỏ, chiếc nào cũng làm bằng một khúc gỗ thông khô. Phải gọt thành thuyền, rồi đục khoang, làm bánh lái, làm cột buồm và buồm. Khó thì không khó, nhưng phải làm tỉ mỉ. Rồi tới lúc thả, phải tập điều chỉnh bánh lái, buồm, cho thuyền chạy thẳng, chạy vòng, chạy vát theo gió, theo sóng – Nhân cười: Điều chỉnh khó, tôi phải quan sát người thả điều chỉnh ra sao, phải hỏi mấy cậu thành thạo, rồi tự tập một mình cả tuần mới có thể nhập toán đua. Mấy tháng hè, sẵn gỗ, tôi làm cả chục chiếc thuyền lớn, nhỏ, thay đổi hình dáng theo ý mình.

Điệp đưa tay:

– Anh cho Điệp coi chiếc thuyền.

Cầm chiếc thuyền, nhìn trên dưới, bánh lái và buồm, Điệp nói:

– Anh khéo tay, chiếc thuyền này đâu có thua gì những chiếc thuyền bày bán trong mấy cửa hiệu đồ chơi ở Hà Nội.

Nhân cười, lắc đầu:

– Không bằng thuyền của cửa hiệu đâu. Tôi chưa thấy những chiếc thuyền đó, nhưng biết chắc là nó đẹp và tinh sảo hơn, vì do thợ chuyên môn làm. Họ làm nhiều và có đủ dụng cụ. Còn mình thì làm bằng mấy con dao nhà bếp với chiếc đục cùn.

Điệp cười, đưa lại Nhân chiếc thuyền:

– Cả tuần nay, ngày nào Dũng cũng say sưa nói về chuyện đi thả thuyền và đang làm một chiếc lớn hơn chiếc này. Mê thuyền đến độ quên cả sách vở.

– Nghỉ hè mà sách vở gì.

– Nghỉ nhưng vẫn phải ôn toán cũ và học toán mới để khi vào lớp mới, học cho dễ.

– Điệp và Dũng chăm chỉ đến vậy đấy hả. Còn tôi thì hè chỉ đi chơi và đọc truyện.

– Anh đọc loại truyện gì?

– Kiếm hiệp, tiểu thuyết và trinh thám… Ngày ở tiểu học thì chỉ đọc kiếm hiệp, còn bây giờ đọc thêm tiểu thuyết và trinh thám. Điệp có đọc truyện không?

Điệp đáp:

– Ở tiểu học không đọc, nhưng lên trung học  Điệp đọc tiểu thuyết của một số nhà văn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan và Hoàng Công Khanh.

Có tiếng cười reo hò ở phía xa. Nhân quay nhìn bật cười. Cả mấy chục người lớn nhỏ đang đua thuyền. Họ reo hò, hình như để trợ lực cho thuyền của mình. Điệp nhìn chăm chú xuống đám người đua thuyền, bỗng hỏi:

– Dũng thả thuyền thạo chưa anh Nhân?

Nhân cười:

– Học rất nhanh. Bây giờ đua thuyền với Dũng, tôi thua luôn, nên Dũng kết với mấy người khác để thi có hào hứng hơn. Tôi ít đua, thường chỉ cho thuyền chạy một mình để xem sự điều chỉnh bánh lái và buồm được chính xác tới đâu. Quê tôi cũng đảo, nhưng không có trò chơi làm thuyền, thả thuyền. Ra đây mới biết thú vui này.

– Quê anh ở đảo nào?

– Đảo Vạn Hoa.

– Tên hay quá, Điệp chưa nghe.

– Tên hay nhưng không hùng vĩ, ngoạn mục bằng đảo Cát Bà.

– Bây giờ anh vẫn ở Vạn Hoa?

– Không, tôi đã theo ba tôi vào Quảng Yên để đi học. Đảo Vạn Hoa nhỏ, ít dân, nên trường học chỉ có tới lớp ba. Muốn học lên, phải vào thành phố như Cửa Ông, Cẩm Phả.

Điệp hỏi:

– Ở Quảng Yên có mấy trường trung học?

– Một trường, trường Trần Quốc Tuấn và chỉ có tới lớp đệ tứ. Muốn học lên phải qua Hải Phòng hay lên Hà Nội. Ở tỉnh lẻ đi học khó lắm, chứ không có sự thuận lợi như Điệp là gia đình ở Hà Nội.

Nhân ngừng lại, quay nhìn đám đông đang reo hò. Họ reo hò cho những chiếc thuyền đang trên sóng nước hay sắp tới mức đến. Cả một bên bầu trời ngoài biển vàng đỏ chói chang. Những dãy núi cao như những lớp trường thành của đảo biến thành xanh, xám và tím. Dưới biển đã bớt người thả thuyền, nhưng những tiếng reo hò xa gần vẫn vang lên. Để ý tìm Dũng không thấy, Nhân nói: Mải tranh đua, Dũng quên cả về – Rồi hỏi: Lên trung học, Điệp học trường nào?

– Trưng Vương, anh ạ. Thi vào đệ thất khó lắm, nhưng Điệp may mà đỗ được.

Nhân nói:

– Chăm chỉ và thông minh như chị em Điệp thì thi đỗ là chuyện thường. Nghỉ hè, tôi chỉ cầm mấy cuốn truyện, còn Điệp vẫn cặm cụi với sách vở.

Điệp cười:

– Điệp cũng đọc truyện, nhưng đọc vào buổi tối, còn ban ngày học ôn. Anh bảo học chăm thì đúng, còn thông minh thì không. Điệp học toán, lý, hóa chậm lắm. Có điều đặc biệt là mấy năm nay, từ ngày ba Điệp ra đây làm việc, cứ đến hè là Điệp háo hức nghĩ đến cái vui đi nghỉ hè xa. Bạn bè đa số ở lại Hà Nội, còn Điệp ra biển mà biển đó lại là biển vịnh Hạ Long.

Nhân hỏi:

– Từ Hà Nội ra đây, đi như thế nào, mất bao lâu?

– Mất hai ngày, anh ạ. Một ngày xuống Hải Phòng, sáng hôm sau đi tàu từ Hải Phòng ra Hòn Gai. Rồi từ Hòn Gai đi tàu hoặc thuyền ra Cát Bà. Tàu Hải Phòng – oHòn Gai dừng lại Bến Ngự cả tiếng, nhưng Điệp chưa lên phố Quảng Yên lần nào.

– Ông còn làm việc ở Cát Bà thì Điệp sẽ có dịp biết Quảng Yên. Tỉnh nhỏ, chỉ có mấy con phố, nhưng buổi chiều thì đầy lính, vì Quảng Yên có nhiều trại lính với mấy trung tâm huấn luyện lính mới.

Điệp hỏi:

– Học xong ở Quảng Yên, anh sẽ tiếp tục học ở đâu?

– Hải Phòng, vì tôi có gia đình ông chú ở Hải Phòng. Nhưng hy vọng một, hai năm nữa trường Trần Quốc Tuấn sẽ có những lớp tam, nhị, nhất thì khỏi phải đi xa.

Nhìn chiếc thuyền trên cát, Nhân cười thầm là mê mải chuyện trò, quên cả việc thả thuyền. Nhân tính lên bảo Điệp xuống gần nước để chỉ cho Điệp thấy việc điều chỉnh bánh lái và buồm cho thuyền chạy theo ý muốn ra sao, nhưng Điệp đã dẫn Nhân đi xa, và Nhân cũng bỏ mất ý định ban đầu. Điệp hồn nhiên và phong phanh chiếc áo cánh lụa trắng và chiếc áo đã làm nổi lên khuôn cổ cao tròn với nét mặt tươi rạng rỡ ở đôi môi và đôi mắt đen sắc. Theo những điều Điệp hỏi cùng với sự hồn nhiên, Nhân cảm thấy một nguồn vui dâng lên khi thấy Điệp tự nhiên như đã quen biết Nhân từ lâu. Bỗng nhớ lại việc đọc truyện, Nhân hỏi:

– Từ ngày đọc truyện, Điệp đã đọc truyện kiếm hiệp bao giờ chưa?

– Chưa, anh.

– Tôi có đem theo mấy bộ. Muốn đọc thử thì ngày mai qua tôi, lấy một bộ về đọc cho biết.

– Vâng, ngày mai anh cho Điệp mượn một bộ – ngừng một lát, Điệp hỏi: Lại sắp hết hè, hôm nào anh về Quảng Yên?

– Khoảng cuối tháng, về trước ngày tựu trường một tuần.

– Vậy Điệp về Hà Nội trước anh một tuần. Anh cũng đi tàu thủy?

– Không, tôi đi xe hàng từ Hòn Gai về Quảng Yên.

Điệp trầm ngâm một lúc, rồi nói:

– Tàu thủy hay xe thì anh cũng chỉ mất một ngày, còn Điệp phải mất hai ngày. Nhưng về Hà Nội lại nhớ trời xanh, biển xanh buổi sáng và nhớ những con sóng lóng lánh leo lên những ngọn núi chơ vơ giữa biển.

– Cát Bà ở giữa núi non trùng điệp, uy nghi hùng vĩ, nhưng tôi nhớ nhất là những cánh buồm ở ngoài khơi vào buổi chiều, vì nghĩ đến con thuyền cô độc giữa biển trong đêm – Nhân nhìn ra biển một lúc – Dũng đua thuyền quên cả về. Bây giờ phải qua bên kia tìm cậu ấy.

Bỗng Điệp chỉ tay nói:

– Dũng đang chạy tới kia.

Nhìn theo hướng tay Điệp, Nhân bật cười:

– Từ đây mà đưa thuyền đua tới bên kia.

2

Trên đường về nhà, Nhân dừng lại coi toán lính chơi bóng chuyền trước sân dinh Phó Tỉnh Trưởng Quảng Yên, bỗng nhận ra một người:

– Dũng ơi.

Cầu thủ nhỏ nhất trong đội bóng quay lại, vẫy tay cười vui, chạy băng ra đường, ôm lấy Nhân:

– Em tìm anh cả tuần nay.

– Không biết địa chỉ, tìm ở đâu?

– Em hỏi mấy ông lính.

– Bằng tên anh hay tên ba anh?

– Cả tên anh và tên ba anh.

Nhân cười nói:

– Anh không quen mấy người lính gác dinh phó tỉnh trưởng, còn ba anh mấy năm nay đều làm việc ở các quận, nên họ không biết đâu.

– Vậy nếu anh không qua đây thì phải chịu chớ làm sao tìm.

– Rồi cũng sẽ gặp, vì anh ở phía sau dinh phó tỉnh, trên phố Hoàng Hoa Thám. Cổng sau dinh đi ra Hoàng Hoa Thám, gần căn nhà anh.

Nhân nắm tay Dũng băng qua đường đi tới một quán nước lộ thiên dưới một cây bàng lớn. Đến trước chị bán quán, Nhân nói: Chị cho 2 cốc thạch găng – Rồi cùng Dũng ngồi xuống hai cái ghế thấp, bên chiếc bàn gỗ tạp.

– Quán này gọi là quán Cây Bàng, chỉ bán thạch găng và nước chanh. Không biết thạch găng ở Hà Nội thế nào, chớ ở Quảng Yên thì thạch găng quán này đứng hạng nhất – Chủ quán nghe khen, cười nhìn Nhân – Thấy thế Nhân hỏi:

– Thạch găng ở đây làm bằng lá găng trên rừng hay găng trong vườn, chị?

– Phần lớn làm bằng găng trên rừng, khi nào không đủ mới phải dùng găng vườn. Lá găng trên rừng xanh trong và ngon hơn như em vừa nói.

– Nhà chị có trồng không?

Chủ quán lắc đầu:

– Không, trồng găng phải có nhiều đất. Chị không có đất. Chị có mối lá găng rừng, người ta cung cấp khá đều.

Dũng khuấy cốc thạch găng, rồi xúc uống mấy thìa:

– Ở Hà Nội chỉ có thạch đen, thạch trắng, chớ em không biết loại thạch này.

Nhân nói:

– Thạch găng tự nó có mùi thơm của lá găng, còn mùi thơm của thạch đen, thạch trắng là mùi thơm của dầu chuối… Cũng có người cho thêm vài giọt dầu chuối vào thạch găng. Còn anh thì không. Em thử ăn không dầu chuối xem sao…. À, thế gia đình em xuống đây ngày nào, còn ba em vẫn ở Cát Bà?

– Không, anh. Ba em về Quảng Yên từ tháng trước, còn gia đình em xuống đây đã hơn 2 tuần rồi.

Nghĩ đến cái mê thả thuyền của Dũng, Nhân cười hỏi:

– Về Hà Nội có thả thuyền không?

Dũng cười:

– Dạ, có. Em thả thuyền trong ao nhà, chỉ mình em. Chị Điệp ở Cát Bà thì đòi đi xem thả thuyền, còn ở Hà Nội thì không để mắt tới.

– Ở Cát Bà, mấy trăm người thả mấy trăm chiếc thuyền, đông vui như ngày hội. Còn ở Hà Nội chỉ một mình cậu, một chiếc thuyền trong ao tù thì có gì vui mà coi.

Dũng gật đầu:

– Hai năm trước ở Cát Bà về Hà Nội, em không có gì nhớ. Còn năm ngoái về thì nhớ những buổi chiều thả thuyền và cứ mong tới hè ra Cát Bà. Nhưng từ nay thì hết được ra đó. Ở đây có chỗ nào thả thuyền không anh?

– Ở đây có sông, có những hồ nước cạnh sông, nhưng không thể thả thuyền như ở biển, vì sông  hồ sâu, mình chỉ đứng trên bờ chớ không lội xuống được. Thả thuyền ở sông hồ thì thuyền đi luôn hay mình phải xuống bơi theo nó.

Ăn hết cốc thạch găng, Dũng đặt cốc xuống nói:

– Thạch găng ngon hơn thạch đen, thạch trắng.

– Vậy ăn thêm một cốc nữa.

Dũng lắc đầu:

– Thôi anh ạ, để lần khác. Em còn ở đây lâu.

Nhân đứng dậy vào quán trả tiền, mượn cây bút ghi địa chỉ đưa cho Dũng.

– Sáng mai tới anh chơi. Đi cổng sau tới nhà gần hơn. Bây giờ mình về.

3

Nghe tiếng nói: Nhà số 8 đây, Nhân bước ra cửa, vừa lúc Điệp và Dũng bước lên thềm. Nhân nắm tay Dũng: Năm ngoái Điệp ước được lên Quảng Yên thì nay điều ước đã thành. Câu nói đã giúp Nhân che bớt sự lúng túng trước cái nhìn của Điệp. Mới một năm mà Điệp đã thay đổi nhiều, cao lên với những đường nét mềm mại, thuôn thả, mặc dù Điệp vẫn mặc chiếc áo lụa cổ tròn.

Vừa ngồi xuống ghế, Điệp nói:

– Chỉ ở cách nhau khoảng 400 mét mà hai tuần không nhìn thấy nhau. Điệp ở trong nhà không nói làm gì, còn Dũng có mấy khi ở trong nhà.

Nhân cười nói:

– Dũng ở ngoài sân, nên chiều qua tôi mới nhìn thấy. Gần thế chớ cũng khó gặp, vì tôi ở phía sau và từ đầu phố Hoàng Hoa Thám có thể băng qua sân vận động để ra phố chợ mà không cần đi ngang qua phố Lê Lợi trước dinh. Vậy mà gặp được nhau cũng là nhanh rồi.

Điệp mở cái xách lấy ra 1 hộp bánh Petit Beure và 1 cuốn sách để lên bàn:

– Từ Hà Nội xuống mà đi như chạy loạn, nên Điệp không kịp mua cho anh quà Hà Nội. Em và Dũng đem cho anh hộp bánh và cuốn truyện.

– Cám ơn Điệp và Dũng, chạy loạn mà vẫn nhớ đến bạn. Nhân nhìn bìa tập truyện, rồi nói:

– Cuốn Nắng Đào của Nguyễn Xuân Huy, tôi đã đọc bài phê bình trong báo từ lâu, nhưng nhà sách ở đây không có.

– Còn Điệp thì có người bạn giới thiệu, đọc thấy hay nên mua thêm một cuốn dành cho anh – Điệp nói rồi hỏi:

– Chỉ có một mình anh ở nhà thôi ư?

– Có hai em, chúng nó đang chơi với chị người làm ở phía sau. Còn mẹ tôi bán hàng ở chợ, mãi đến tối mới về. Ba tôi đã về Quảng Yên, nhưng đã đi làm từ sáng. Nghe Dũng nói ông Bang đã về Quảng Yên từ tháng trước.

– Sau Hiệp Định Đình Chiến, ba Điệp lên Hà Nội đón gia đình xuống đây.

– Hà Nội như thế nào mà Điệp nói là chạy loạn?

– Người ta hoảng sợ, bỏ nhà cửa, lũ lượt chạy xuống Hải Phòng để di cư vào Nam. Gia đình Điệp cũng bỏ nhà chạy như thế.

– Hiệp Định có ấn định thời gian cho từng tỉnh. Hà Nội thì Việt Minh được tiếp thu sớm, nên dân Hà Nội phải chạy. Quảng Yên thì còn thời gian. Bây giờ người ta gặp nhau chỉ để nói chuyện đi chuyện ở với nhiều lo lắng tương lai.

Nhân đứng dậy tới kệ sách lấy ra cả chục cuốn để xuống bàn:

– Có mấy bộ kiếm hiệp hay, tôi tặng Điệp bộ Giao Trì Hiệp Nữ, còn Dũng bộ Nhất Chi Mai – Rồi chỉ lên mấy kệ sách: Trên này hầu hết là truyện kiếm hiệp, trinh thám và tiểu thuyết. Điệp và Dũng cần đọc cứ qua lấy.

Thấy Điệp và Dũng xếp gọn bộ truyện cầm trong tay, Nhân nói:

– Cứ để truyện lại đây, lúc về sẽ lấy, bây giờ mình đi ăn sáng. Năm ngoái ở Cát Bà, Điệp và Dũng cho tôi ăn nhiều thứ: mì, bánh bao, phẳn, cháo gà ở mấy hiệu Tàu. Hôm nay đến phiên tôi mời lại, Quảng Yên có nhiều thứ như mì, phở, xôi, bánh bao, bánh tôm và bún riêu cua đồng…, Điệp và Dũng chọn thứ gì, tùy ý.

– Điệp ăn bánh tôm.

Dũng lưỡng lự một lát rồi nói:

– Em ăn bún riêu.

Nhân cười:

–  Bánh tôm và bún riêu đều là món đặc biệt của Quảng Yên. Bây giờ chúng ta tới một quán có cả hai thứ đó.

Nhân ra sau, đóng cửa lại, dẫn hai người đi hết phố Hoàng Hoa Thám, rồi đi dọc phố Lê Lợi bên Sân Vận Động.

Dũng chỉ sân vận động:

– Sân rộng và có tường đẹp thế mà như bỏ hoang.

– Sân này dài hơn cây số, chiều rộng cũng tới 7 hay 800 mét. Do chiến tranh không được tu sửa, nhưng vẫn đẹp, vì có nhiều loại cây như phượng vĩ, đại và bàng.

Dũng nói:

– Chiều nay em đãi anh và chị Điệp thạch găng ở quán Cây Bàng.

Điệp cười, nói:

– Không biết thạch găng quán Cây Bàng ngon thế nào mà từ chiều qua Dũng nói mãi về cái quán này.

– Quán lụp sụp, nhưng món thạch găng thì ngon. Chiều tới sẽ biết – Nhân nói, rồi ra dấu cho Điệp rẽ vào một cái cổng gỗ đầy hoa giấy màu tím. Quán ở trong sân, ngay cổng một ngôi nhà gạch lớn kiểu cổ.

Nhìn thấy Nhân, bà chủ quán nói:

– Cậu Nhân hôm nay lại có bạn nữa.

– Thưa bà, bạn cháu từ Hà Nội xuống đấy ạ.

Nhân ngồi xuống chiếc bàn ở ngoài sân, rồi nói:

– Bà cho hai đĩa bánh tôm, mỗi đĩa 3 cái, và một bát bún riêu.

Điệp nói lại:

– Bà cho 1 đĩa 2 cái thôi.

Dũng lưỡng lự, rồi nói với Nhân:

– Em đổi, anh cho em bánh tôm luôn.

Nhân hướng về phía bà chủ quán:                    

– Chú em tôi đổi ý bỏ bún riêu, lấy bánh tôm. Bà cho thêm một đĩa bánh tôm.

Khi bà quán đem bánh đến, Nhân cắt bánh cho Điệp và Dũng. Đẩy đĩa bánh đến trước Dũng, Nhân nói:

– Ngày khác mình sẽ ăn bún riêu, xem bún riêu Quảng Yên hơn thua bún riêu Hà Nội ra sao.

Trong khi ăn kẹo chè lam và uống nước chè tươi, Điệp nói:

– Về Hà Nội sau kỳ nghỉ hè năm ngoái, Điệp và Dũng cứ nhắc lại việc anh dẫn đi thả thuyền, đi đáp cá, đi vào làng mua hồng, và những lần đi trên con đường đá sát biển từ Bang vào làng chài, đường dài trên cây số mà nước đập vào những khe đá, bắn tung tóe lên chân, lên quần và nao nức nghĩ đến hè năm nay… Thế là vĩnh biệt Cát Bà.

Nhân nói:

– Không ra Cát Bà thì xuống Quảng Yên. Ở đây cũng có nhiều chỗ, nhiều thứ đặc biệt, chẳng hạn đê sông Chanh, buổi chiều trong những ngày nắng đẹp có thể nhìn thấy những ngọn núi của Vịnh Hạ Long. Làng La Khê có nhãn, hạt nhỏ như hạt bắp. Làng Quỳnh Lâu có những đồi ổi, từ dưới đồi đã dậy mùi thơm. Có hai rạp ciné là Lido và Majestic. Có phở Bạch Đằng, kem Á Đông, và gần chúng ta hơn là một gia đình chuyên làm bánh dầy, bánh giò và bánh khoai sọ có tiếng. Có thể đêm nay Điệp và Dũng sẽ nghe tiếng rao: Bánh dầy, bánh giò… bánh khoai… Đó là tiếng rao của cụ Nhâm đẩy xe đi bán ba thứ bánh đã gần 40 năm.

– Hè năm ngoái đi với anh, Điệp mới biết nhiều nơi đẹp và những thú vui ở Cát Bà, còn trước đó chỉ biết khu bãi biển trước Bang, khu phố chợ và những ngọn núi giữa biển.

– Tôi đi chơi với mấy người bạn ở làng chài nên mới biết được nhiều nơi. Bây giờ ở Quảng Yên, tôi lại làm hướng đạo.

4

Ciné Majestic đã đầy người khi Nhân, Điệp và Dũng tới. Người dẫn ghế đưa 3 người tới khoảng giữa, chỉ vào 3 ghế trống, Dũng vào trước, đến Điệp rồi Nhân. Chương trình đang chiếu phim phụ. Chợt nhớ mấy gói lạc rang mua của ông già Tàu khi Điệp và Dũng vào mua vé, Nhân đưa cho Điệp và Dũng mỗi người một gói. Gần 2 tuần, sau khi Nhân gặp lại Điệp, ngày hôm qua chị em Điệp tới Nhân cho biết là gia đình Điệp sẽ qua Hải Phòng để đi vào Sài Gòn bằng máy bay. Chuyện di cư vào Nam là chuyện người ta nói hàng ngày sau Hiệp Định Đình Chiến Geneve, và qua báo chí, Nhân biết là Hiệp Định Geneve đã chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 17, phía bắc tỉnh Quảng Trị. Chính phủ Quốc Gia Bảo Đại và Pháp được phần lãnh thổ từ phía nam vĩ tuyến 17 trở vào nam. Còn chính phủ Việt Minh được phần lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 trở ra bắc. Theo Hiệp Định, các tỉnh phía Bắc và phía Nam đều có thời gian ấn định để quân và dân chúng ở hai miền có thời gian chuẩn bị vào Nam hay ra Bắc theo ý muốn. Với miền Bắc thì Hải Phòng là địa điểm tập trung quân và dân và cũng là địa điểm cuối cùng để người dân tới và đi vào Nam bằng tàu thủy hay máy bay.

Việc gia đình Điệp xuống Quảng Yên để di cư là chuyện Nhân đã biết, nhưng không ngờ lại đi sớm như thế. Khi gặp Điệp và biết chuyện, Nhân nghĩ là gia đình Điệp sẽ ở lại Quảng Yên lâu, vì thời gian ấn định còn tới bốn tháng và nghĩ thầm là biết đâu hai gia đình sẽ cùng đi trên một chiếc tàu.

Chương trình đã đi vào phim chính. Đó là một phim Cao Bồi miền viễn tây Hoa Kỳ. Nhìn lên màn ảnh, nhưng Nhân không để ý gì đến phim mà chỉ nghĩ đến ngày Điệp vào Nam và sẽ không cách nào gặp lại. Năm ngoái ở Cát Bà, hơn một tháng biết Điệp đã đem đến cho Nhân một cái nhớ và một niềm vui khi nhìn thấy Điệp. Những lúc ấy nhìn ánh mắt Điệp, Nhân cảm được là Điệp cũng ở tâm trạng như mình, nhưng chỉ có thế. Và hàng ngày nguồn vui sẽ kéo dài trong một buổi thả thuyền, một buổi đi vào thôn xa, một buổi đi ăn mì ở phố chợ, bên bờ vách đá nước xanh của biển. Điệp về Hà Nội một năm Nhân không biết tin, cả hai trong ngày từ giã không có lời hẹn, tuy vậy Nhân vẫn nghĩ là tới hè sẽ gặp lại. Hè là một lời hẹn. Nhưng lần này thì muốn hẹn cũng không được, vì người đi trước, người đi sau, đều không biết mình sẽ tới đâu. Vì thế Nhân nghĩ lần này là lần gặp cuối cùng của người mới lớn đi vào vòng hệ lụy.

Nhân tựa đầu vào nệm ghế, đặt cánh tay sát cánh tay Điệp. Hai đầu gần nhau. Người Điệp toát ra một mùi thơm, mùi hương Nhân đã gặp theo làn gió biển khi ngồi với Điệp trên một tảng đá hay đi trên đường ven biển. Nhân nhìn ngang và bắt gặp ánh mắt Điệp. Trong bóng tối của màn ảnh trong đêm trăng mờ, ẩn hiện đàn ngựa đi dưới chân đồi. Điệp ngồi thẳng và mùi hương vẫn phảng phất. Một nỗi sợ cùng với sự khao khát bỗng dâng lên đưa bàn tay Nhân nắm lấy bàn tay Điệp và cảm thấy bàn tay Điệp ấm lên trong tay mình theo nhịp đập của tim. Nhân buông tay Điệp khi ánh sáng bừng lên trên màn ảnh. Điệp cúi xuống lâu. Khi màn ảnh đi vào bóng đêm, Điệp ngồi thẳng lên, nắm bàn tay Nhân một lúc và để lại trong tay Nhân chiếc khăn tay. Nhân bỏ chiếc khăn tay gấp nhỏ vào túi, rồi tìm bàn tay Điệp và hai bàn tay không rời nhau nữa.

Trên màn ảnh trận chiến giữa hai phe trải rộng trên một cánh đồng mênh mông với những dẫy đồi thấp. Ngựa phi từng lớp băng qua cánh đồng, tiếng súng và những kỵ mã trúng đạn, thân bật về phía sau. Qua trang phục và phụ đề, Nhân hiểu đây là một trận chiến giữa một bộ tộc Da Đỏ và những người da trắng trên đường lấn chiếm.

Nhân nhắm mắt lại nghĩ đến dụng ý của Điệp trong việc mời Nhân đi ciné và khi đi vào cửa Điệp đã đi giữa Dũng và Nhân. Hôm nay, lần đầu tiên Nhân thấy Điệp mặc áo dài lụa màu mỡ gà. Tà áo vàng nhạt vời quần trắng mỏng đã biến Điệp thành một giải lụa mềm khi bước nhẹ trên hè đường và Nhân đã ngẩn ngơ bên mái tóc xõa trên giải lụa ấy. Còn những ngày ở Cát Bà và tuần vừa qua đi đâu cũng chiếc áo cánh cổ tròn. Trưa nay hai chị em qua Nhân sớm và Điệp đã nói với Nhân là cho Điệp đi qua một con đường đẹp nhất Quảng Yên để nhớ một thành phố chỉ đến được một lần. Nghe thế, Nhân bảo Quảng Yên có mấy con đường đẹp, theo cảm quan của mình, nhưng không thể nói con đường nào là đường đẹp nhất, vì mỗi đường có cảnh sắc và nét riêng của nó. Chẳng hạn con đường đê ở Bến Ngự, đi về phía phố Khê Chanh, quanh bước đi là sông, ao đầm, còn phía xa tít mù tắp là những dãy núi của Vịnh Hạ Long. Con đường đó Điệp đã đi và khen là đẹp. Con đường thứ nhì, Điệp cũng đã đi và khen là đường Lam Sơn, chạy dọc một bên Sân Vận Động, nhà nào cũng cổng xây theo lối cổ với bờ tre, dậu dâm bụt, và trong sân nhiều nhà có hàng chục gốc hồng, hoa nở quanh năm. Và trưa nay Nhân đã dẫn hai chị em Điệp đi qua con phố Yết Kiêu, đường dài khoảng hơn cây số, hai bên đường có những ngôi nhà cổ, nhà mới xây và cả những nhà lợp tranh, nhưng nhà nào cũng có dàn hoa giấy đỏ tím lan theo bờ tường hoặc bờ dậu. Cạnh đó là những cái ao nhỏ nuôi bèo và thả rau muống. Đi hết con đường sẽ vào giữa phố Độc Lập, con phố thương mại, trung tâm thị tứ của thành phố. Khi ngồi ăn kem ở Á Đông để chờ tới giờ vào Ciné, Điệp nói là trong ba đường Điệp đã đi thì đường hôm nay đẹp nhất.

Nhân cười hỏi:

– Đẹp nhất, tại sao?

– Con phố yên tĩnh, đơn sơ mà đậm đà. Điệp chưa thấy ở đâu nhiều hoa giấy như ở phố Yết Kiêu, hai bên đường như hai tường hoa tím thẫm.

Nhân gật đầu:

– Mấy năm ở Quảng Yên, khi nào ra phố Độc Lập tôi cũng đi theo phố Yết Kiêu và nhận ra rằng từ sự ồn ào, người xe và bụi bặm của Độc Lập mà rẽ vào Yết Kiêu sẽ thấy nhẹ người.

Qua mấy lời yên tĩnh, đơn sơ mà đậm đà, Nhân chợt nghĩ đến chiếc áo cánh lụa Điệp thường mặc. Lâu nay Nhân cảm một điều gì đó, nhưng không nghĩ ra thì hôm nay Điệp đã nói lên thành lời. Cảm nghĩ ấy đã dấy lên trong lần đi với chị em Điệp vào một thôn sâu trong đảo mua hồng. Dũng chạy tung tăng từ cây này qua cây kia, hình như cậu ấy không biết dừng ở đâu vì cây nào cũng trĩu quả. Còn Nhân ở trên cây hái hồng đưa xuống cho Điệp, và lúc ấy mỗi lần Điệp giơ tay đỡ túi hồng, Nhân chỉ nhìn thấy đôi mắt đen sắc và cái cổ áo tròn bọc khuôn cổ Điệp, và rồi cái cổ áo cũng biến mất chỉ còn cái cổ và đôi vai.

Bây giờ không như ở Cát Bà, người trên cây kẻ dưới đất, mà tay trong tay, nhưng Nhân lại cảm thấy bâng khuâng lo sợ. Gặp lại sau một năm, Điệp tặng cuốn Nắng Đào, có ý nghĩa sâu đậm hơn là Nhân tặng lại bộ Giao Trì Hiệp Nữ, vì mỗi trang Nắng Đào đượm tình, còn Giao Trì Hiệp Nữ chỉ là những trang giấy mua vui, tiêu khiển. Tặng rồi mới nhận ra là với Điệp, Nhân đã hiểu sau và đi sau.

Nhân buông bàn tay Điệp khi trên màn ảnh bừng lên với đoàn kỵ mã đi thành hàng bên rừng, còn phía sau là ánh lửa dài cả cây số của ngôi làng bị đốt.

PHẦN II

1

Dựng chiếc xe đạp trước nhà sách Phú Nhuận, Nhân cầm xấp báo đi vào, vừa nói: Chào bà – vừa đặt tờ Tự Do trên quầy. Bà chủ tươi cười: Chào cậu – Rồi như chợt nhớ ra, bà nói: A, hôm nay cuối tháng rồi, để tôi đưa cậu tiền báo – Bà mở ngăn kéo lấy tiền đưa cho Nhân.

– Cám ơn bà, chào bà.

Nhân bỏ tiền vào túi, vừa định bước ra thì có người cầm tay kéo lại. Nhân ngước nhìn chưa kịp nói thì người kéo tay hỏi:

– Anh còn nhớ em không?

– A, Dũng! Nhân vừa nói vừa choàng tay qua vai Dũng kéo ra ngoài.

Dũng nói:

– Nghe tiếng “chào bà”, em nhìn lại, nhận ra anh ngay.

– Thời buổi loạn ly mà chúng ta vẫn gặp lại nhau. Ở Quảng Yên thì tôi nhìn thấy cậu trong dinh phó tỉnh, còn ở Sài Gòn thì cậu nhận ra tôi trong tiệm sách.

Dũng giơ cuốn “Kim Chỉ Nam Của Học Sinh” ra trước mặt Nhân:

– Nhờ vào nhà sách tìm cuốn này mà gặp được anh, thật may.

Nhân nói:

– Cậu ghi cho tôi địa chỉ. Bây giờ phải đi, ngày mai tôi sẽ tới.

Dũng nói:

– Nhà gần đây, anh ghé nhà ít phút cho biết, rồi hãy đi.

– Nhà gần đây ư, vậy thì tốt quá – Nhân cười, bỏ xấp báo vào cái giỏ ở trước ghi đông, rồi nói: Cậu ngồi lên đây, tôi chở đi cho nhanh.

Dũng nói:

– Em cao lớn thế này, ngồi lên sợ gẫy xe mất. Thôi đi bộ, anh ạ.

Buổi chiều, giờ đi làm về, đường Võ Di Nguy, dưới mặt đường là những dòng xe đạp, xe gắn máy đi sát nhau, còn trên lề thì người đi bộ, có chỗ gần như chen nhau. Dũng muốn đi ngang Nhân, nhưng rừng người cứ đẩy Nhân với chiếc xe về phía sau, nên Dũng phải đi trước.

Tới ngã tư Phú Nhuận, Dũng quẹo trái đường Võ Tánh, đi chừng hơn 300 mét thì dừng lại trước một ngôi nhà lầu có giàn hoa giấy trên cổng.

– Nhà đây anh – Dũng nói rồi đẩy cánh cổng cho Nhân dắt xe vào sân.

– Chị Điệp ơi, chị Điệp. Ra đây em cần nói chuyện này.

Điệp xuất hiện ở cửa, chợt sững người lại khi nhìn thấy người đứng với Dũng ở giữa sân.

– Chị nhận ra ai không?

– Anh Nhân! Điệp bước vội ra như muốn ôm chầm lấy Nhân, nhưng Nhân đã giơ tay cầm tay Điệp cùng đi vào nhà.

Điệp kéo Nhân tới ghế salon:

– Anh ngồi đây, để Điệp đi lấy nước.

Điệp đi vào đem ra một chai cam vàng và một cái ly có nước đá, rồi rót nước vào ly để trước Nhân.

– Anh uống nước.

– Cám ơn Điệp.

Điệp ngồi xuống ghế đối diện với Nhân:

– Đường phố đông người mà nhận ra nhau. Sao lại có chuyện ngẫu nhiên như vậy nhỉ?

Dũng nói:

– Không phải gặp ngoài đường. Em vào nhà sách Phú Nhuận tìm cuốn “Kim Chỉ Nam Của Học Sinh” của Nguyễn Hiến Lê và gặp anh trong nhà sách.

Nhân nói:

– May mà cùng vào nhà sách, chớ ở ngoài đường Võ Di Nguy thì khó có thể nhận ra nhau. Dũng cao lớn, mập mạp, thay đổi nhiều.

Điệp nhìn Nhân:

– Anh cao lên, nhưng gầy đi, khuôn mặt thì vẫn vậy.

Bà mẹ Điệp bước ra, Nhân đứng dậy:

– Chào bác, con là bạn của Dũng ở Quảng Yên.

Bà nhìn Nhân một lát, vui vẻ:

– Tôi nhớ rồi. Ngày chúng tôi rời Quảng Yên sang Hải Phòng, cậu đã ra bến xe tiễn chúng tôi với một gói bánh giò và một gói bánh khoai sọ …, Mấy năm rồi mới gặp lại, ai nhận ra ai trước.

– Thưa bác, Dũng nhận ra con trước.

– Vào Sài Gòn, bây giờ gia đình cậu ở đâu?

– Dạ, con ở khu ngã ba Ông Tạ.

– Vậy thì cũng không xa đây, nhưng khu Ông Tạ với khu Phú Nhuận trái đường nên gặp được nhau cũng khó lắm. Mới đó mà đã 3 năm, người nào cũng cao lớn cả rồi. Thôi, cậu ngồi chơi với các em. Đã gặp lại nhau, nhớ năng đến chơi.

– Dạ, cám ơn bác. Con sẽ đến luôn ạ.

Sau khi mẹ Điệp vào nhà được một lát, Nhân uống cạn ly nước, rồi nói:

– Bây giờ tôi phải đi có việc. Để hôm khác sẽ đến chơi.

Điệp và Dũng đi với Nhân ra đường. Khi Nhân ngồi lên yên xe, Điệp nói:

– Anh nhớ đến chơi, đến buổi sáng. Buổi chiều Điệp đi học.

– Tôi cũng học buổi chiều – Nhân gật đầu cười nói, rồi đạp xe trở lại ngã tư Phú Nhuận, ngược lên đường Chi Lăng, vào mấy hẻm bỏ nốt những số báo Tự Do, Ngôn Luận còn lại.

Trên đường về, khi qua nhà Điệp, Nhân nghĩ hơn một năm đi bỏ báo qua con đường này mà không bao giờ gặp Điệp hay Dũng. Đêm nào Nhân cũng dừng lại chiếc xe chiên bánh tiêu và dầu cháo quẩy gần phía đối diện với nhà Điệp, mua một cái bánh tiêu, rồi vừa đạp xe vừa ăn. Gặp lại Điệp lòng Nhân trĩu nặng và giao động vì thấy sự cách biệt giữa hai đời sống.

Vào Sài Gòn ba Nhân giải ngũ và thất nghiệp. Mẹ Nhân buôn tần bán tảo ở chợ Ông Tạ.  Có cái may là được bạn hàng chỉ dẫn, cha mẹ Nhân mua được một mảnh đất diện tích trên 500 mét vuông trong ấp Cả Trắc. Với cây, gỗ, ván tạp, ba Nhân và một người bạn đã làm được ngôi nhà lá 3 gian. Thế là yên được chỗ ở, nhưng còn sinh kế thì khó khăn, nên Nhân đã phải theo mấy người bạn đi bỏ báo tháng để tìm cách tự túc cho việc đi học.

Còn gia đình Điệp, chỉ nhìn bề ngoài qua ngôi nhà hai tầng lớn ở mặt tiền đường phố và qua nét đài các của mẹ Điệp và Điệp, Nhân thấy là dù di cư, nhưng gia đình Điệp vẫn ở tầng lớp giàu có hay trung lưu như ngày còn ở ngoài Bắc. Gặp Điệp Nhân sửng sốt trước sự thay đổi của Điệp, vì Điệp đã trở thành một thiếu nữ khuê các lồ lộ đường nét căng đầy. Nhìn lại mình, quần một manh áo một mảnh, mỗi tối đi bỏ mấy chục tờ báo với chiếc xe đạp để ở đâu cũng không cần khóa, Nhân cảm thấy Điệp đã quá xa cách. Gặp Nhân, Điệp mừng cũng như Dũng đã cầm tay Nhân kéo lại, nhưng Nhân thầm nghĩ có lẽ giờ này Điệp đang nghĩ về mình cũng như mình đang nghĩ về Điệp. Đừng để cho Điệp phải khó xử về chuyện gặp lại – Nhân lẩm bẩm: Phải giải thoát cho cô ấy. Và lòng Nhân bỗng chùng xuống khi đi đến quyết định là cứ đến Điệp một, hai lần, rồi sẽ đi luôn không trở lại nữa.

2

Sáng chủ nhật Nhân đến cà phê Gió Bấc ở đường Phan Đình Phùng được chừng 15 phút thì Điệp tới. Điệp mặc áo dài màu xanh dương, khóa chiếc Velo Solex, rồi xách một gói lớn đi vào quán. Điệp cười khi nhìn thấy Nhân và thản nhiên trước những cái nhìn của khách cà phê.

– Anh đợi em có lâu không?

Nhân cầm tay Điệp khi nàng ngồi xuống ghế:

– Không lâu, anh cũng mới đến – Nhân đáp, rồi nói: Bên cạnh đây có quán bánh cuốn. Em ăn bánh cuốn?

– Em ăn ở nhà rồi, uống cà phê thôi anh ạ.

Cô tiếp viên đến, Nhân hỏi Điệp: Em uống cà phê sữa?

– Dạ.

– Cô cho tôi hai cà phê sữa.

Khi cô tiếp viên bước đi Nhân nói:

– Mấy năm, anh vẫn nghĩ là gia đình chúng ta đều sống ở Sài Gòn cả, loanh quanh ở những khu tập trung nhiều dân di cư như Phú Thọ, ngã ba Ông Tạ, ngã tư Bảy Hiền, đường Trương Minh Giảng, đường lê Văn Duyệt, khu Bàn Cờ và vẫn hy vọng là một buổi chiều nào đó sẽ gặp em trên đường Lê Lợi.

Điệp nhìn Nhân một lúc:

– Em cũng nghĩ như anh, nhưng thời gian cứ đi, nên hy vọng cũng nhạt dần.

– Có một điều, sau khi gặp em, anh mới chợt nhận ra là nếu anh thông minh, nhanh trí một chút thì anh đã gặp em từ lâu. Đầu óc quá chậm nên đến nay mới nhờ cái đụng đầu Dũng trong nhà sách mà tìm lại được cô Điệp Cát Bà.

Điệp bật cười, rồi nói:

– Anh nói em không hiểu.

Nhân cười:

– Có gì mà không hiểu. Ở Hà Nội em là học sinh Trưng Vương thì vào đây em cũng học Trưng Vương. Nếu nghĩ ra sớm, anh đến đứng ở trước cổng Trưng Vương thì sẽ thấy Điệp. Một việc đơn giản như thế mà mấy năm không nghĩ ra.

Điệp ngẩn ra một lúc, nhìn Nhân:

– Không nghĩ ra nên mới mất ba năm… Nhiều lần đi ăn kem với Dũng ở Mai Hương, em thường ngồi lâu vì hy vọng sẽ trông thấy anh trên hè đường Lê Lợi. Thật tiếc, khi chạy khỏi Hà Nội, mọi người hoảng loạn cả, em đâu biết Trưng Vương sẽ di cư. Nếu biết Trưng Vương cũng vào Sài Gòn thì em đã dặn anh. Khi từ giã, em sợ mình sẽ lạc nhau, vì chúng ta cùng đi tới một nơi không có địa chỉ.

Nhân hỏi:

– Gia đình em ở lại Hải Phòng bao lâu?

– Trên hai tuần, anh ạ. Gia đình em vào Sài Gòn bằng máy bay, ở trại tạm cư Bình Đông 2 được hơn hai tháng thì ba em vào và đi làm ở Bộ Nội Vụ, nên me em thuê nhà ở đường 20, nay là đường Phan Thanh Giản.

– Gia đình em lên đường Võ Tánh từ năm nào?

– Khoảng giữa năm 1955, chỉ thuê nhà mấy tháng thôi. Me em mua nhà ở mặt tiền để bán gạo.

Nhân cười:

– Vậy là trên một năm qua, ngày nào anh cũng đi qua nhà em mà không bao giờ thấy người.

– Anh không thấy ai cũng phải, vì mặt ngoài là cửa hàng bán gạo. Em ít khi ra đó. Hơn nữa anh lại đi vào buổi tối khi nhà đã đóng cửa.

Thấy phin cà phê đã chảy hết, Nhân bỏ phin ra, đổ thêm nước vào 2 tách, khuấy cho sữa tan đều rồi đặt tách cà phê trước Điệp.

Nhìn Điệp hồn nhiên như những ngày ở Cát Bà và Quảng Yên, Nhân băn khoăn về những điều mình nghĩ về Điệp. Chủ nhật tuần trước đến Điệp, Nhân đã ngạc nhiên trước những lời ân cần của nàng: Em đã lớn và được phép giao du bạn bè. Ở nhà khách ra vào mua gạo, rồi có me em, mình chẳng nói được gì. Có chỗ nào, thỉnh thoảng mình đi chơi với nhau. Em vẫn nhớ những ngày ở Cát Bà và Quảng Yên. Nhân bảo: Chỗ đi chơi trong thành phố có Ciné, công viên và những quán cà phê yên tĩnh, còn ngoài thành phố ở đâu anh không biết mà mình cũng không có phương tiện đi xa. Nghe thế, Điệp đã chọn quán cà phê và Nhân đã hẹn Điệp ở Cà phê Gió Bấc, đường Phan Đình Phùng, nơi thỉnh thoảng Nhân đã tới để làm quen với hương vị cà phê miền Bắc, cả mùi thơm lẫn phong cách uống.

Nâng tách cà phê uống mấy hớp, rồi Nhân nói:

– Gia đình em may mắn, đi sớm, lại đi máy bay. Rồi vào đây, gia đình vẫn giữ được nếp sống ở ngoài Bắc. Còn gia đình anh khó khăn hơn. Mãi tháng 10 mới qua Hải Phòng, 3 tuần sau đi tàu Mỹ vào Sài Gòn, ở trại tạm cư Bình Đông 3 được chừng một  tháng thì ra ngoài thuê nhà ở cho thoải mái và phải tính chuyện làm ăn.

– Từ Bình Đông 3, gia đình di chuyển thẳng tới ngã ba Ông Tạ?

Nhân lắc đầu:

– Đâu có nhanh và gọn vậy em. Từ Bình Đông 3 tới Phú Thọ trường đua, rồi Phú Thọ Hòa. Cuối năm 55 mới tới khu Ông Tạ. Đó là chuyện ở, còn chuyện sống thì vào Nam, ba anh thuộc quân đội nên phải giải ngũ và thất nghiệp. Cách đây mấy tháng ông mới xin được một việc trên tàu đánh cá biển. Mẹ anh vào đây phải tần tảo ngay sau khi ra khỏi trại tạm cư. Tới chợ Ông Tạ, khởi đầu bán bún riêu, sau đó kiếm được một chỗ tốt, bà đổi sang bán cơm.

Nhân dừng lại, nâng tách cà phê uống mấy hớp:

– Trước hoàn cảnh gia đình như thế, anh may mắn xin được vào trường Chu Văn An, vì là học sinh trường trung học Trần Quốc Tuấn, và là con binh sĩ, nhưng phải tìm cách tự túc đỡ cho cha mẹ, nên anh đã theo mấy người bạn, xuất thân từ Trại Học Sinh Phú Thọ, đi bán báo Tự Do và Ngôn Luận vào buổi tối. Khởi đầu phải bán rao, nhưng sau đó nhiều gia đình mua thường xuyên nên chuyển thành mối. Cứ 7 giờ chiều tới nhà in lấy báo, rồi đi bỏ mối. Bỏ mấy chục mối báo mất nhiều thì giờ, vì phải đi nhiều đường. Trước kia anh lên cả Xóm Mới, nhưng xa quá nên phải bỏ…. Thời gian đầu đi rao báo, thường thì đi vào mấy ngõ hẻm, anh nhớ lại tiếng rao “bánh dầy, bánh giò, bánh khoai” của cụ Nhâm ở Quảng Yên. Tiếng rao của cụ lanh lảnh, nhất là trong những đêm mưa. Anh không biết tiếng rao của mình ra sao trong những đêm mưa, nhưng vào mấy ngõ sâu, anh nghe tiếng rao như lạc mất trong mưa.

Nhân nâng tách cà phê lên, rồi lại bỏ xuống:

– Buổi chiều gặp được Dũng là do anh tới đưa báo cho nhà sách Phú Nhuận. Anh bỏ báo ở đó cả năm rồi. Và khu vực anh bỏ báo là đường Võ Di nguy, Chi Lăng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Huệ, vòng trở lại Võ Di Nguy nối dài. Hơn năm nay, anh thường đi lại đường Võ Tánh và đêm nào khi bỏ báo xong, anh cũng phải đi qua Võ Tánh để về nhà.

– Vậy từ ngày mai anh bỏ báo Tự Do cho nhà em, có Văn Nghệ Tiền Phong thì bỏ cho em luôn.

– Hiện tại em lấy báo của ai?

Điệp lắc đầu:

– Không, nhà không lấy báo của ai. Hàng ngày mua ở sạp báo đối diện trước nhà. Rồi em sẽ giới thiệu cho anh mấy mối nữa trên đường Chi Lăng.

– Em phải hỏi những gia đình đó là đang lấy báo của ai. Nếu họ bảo đã có người bỏ báo thì thôi. Vì số anh em đi bỏ báo không nhiều mà cũng biết nhau cả.

Nhìn mấy ông đọc báo Tự Do với tách cà phê và điếu thuốc, Nhân nói:

– Quán này là của dân Bắc, chắc là đồng hương Hà Nội với em, và khách cũng toàn dân Bắc. Ở Quảng Yên, mấy tiệm ăn đều có ghi cà phê, nhưng cà phê hình như không thông dụng, thành ra mấy năm ở Quảng Yên anh chỉ được uống ít lần, loại cà phê sữa bột Nestlé của Pháp. Vào đây chỉ một thời gian ngắn là quen vị cà phê đen, quán cà phê ở khắp nơi.

Điệp hỏi:

– Nhà ở khu Ông Tạ mà sao anh lên tận đây uống cà phê?

– Chỉ thỉnh thoảng thôi, nhưng tới đây vì cà phê có hương vị đặc biệt, quán của người lớn tuổi và yên tĩnh. Mình bỏ miền Bắc vào tuổi mới lớn, chưa được sống nhiều, nhưng hai chữ Gió Bấc có âm hưởng quyến rũ gợi nhớ gió biển Cát Bà, gió bấc mưa phùn Quảng Yên và những rặng núi xanh, xám mùa đông.

Thò tay vào túi quần, Nhân lấy ra chiếc khăn tay màu hồng lợt và từ túi áo lấy ra tấm ảnh nhỏ kẹp trong mảnh giấy vuông. Vừa nhìn thấy chiếc khăn tay, Điệp xúc động:

– Anh vẫn còn giữ được…

Nhân nhìn Điệp: Cả cuốn Nắng Đào – Nhân cũng xúc động nên yên lặng một lúc lâu mới tiếp: Mảnh giấy nhỏ trong khăn tay em ghi ít chữ với địa chỉ ở Hải Phòng. Tháng 10 qua Hải Phòng, anh đã tìm đến hiệu bánh Phúc Châu, nhưng tiệm đóng cửa và nhà bên cạnh cho biết là gia đình Phúc Châu đã di cư vào Nam.

– Gia đình em đi với gia đình Phúc Châu. Căn nhà ở Võ Tánh cũng do người em của Phúc Châu giới thiệu.

Điệp nhìn tấm ảnh bán thân nàng chụp cuối năm 1953, gói trong chiếc khăn tay tặng Nhân buổi đi coi Ciné ở Quảng Yên:

– Bây giờ em khác nhiều, anh nhỉ?

Nhân không để ý đến điều Điệp hỏi mà tiếp tục theo dòng ý nghĩ của mình:

– Hy vọng gặp em ở Hải Phòng sẽ có địa chỉ ở Sài Gòn, nhưng em đã đi, nên chỗ cuối cùng anh bấu víu là ba anh, vì hy vọng ông sẽ biết ba Điệp ở đâu. Nhưng anh đã sai, vì hành chính và quân đội không có liên hệ gì với nhau, vào Nam thời gian cũng khác nhau. Rồi ba anh giải ngũ, thế là hết dấu vết.

Điệp gấp lại chiếc khăn với tấm ảnh và rót cho Nhân chén nước:

– Anh uống nước, rồi mình về. Chẳng cần dấu vết mà mình vẫn gặp nhau, ngẫu nhiên như ở Cát Bà và Quảng Yên.

Quán còn ít khách, Điệp nhìn lên những bức tranh treo trên tường, và chú ý bức ảnh chụp Hồ Hoàn Kiếm trong mưa phùn và Tháp Rùa như lẫn vào màn mưa. Điệp bồi hồi nhìn bức ảnh, nhớ lại những ngày mưa phùn trắng thành phố, nàng đã đi qua đây. Giờ thì đã xa quá, nhưng mỗi lần nàng nghĩ đến Hà Nội thì hình ảnh tháp rùa lặng lẽ trong nắng, dưới mưa, uy nghi mà thân tình lại ập trở về…

Khi Nhân uống cạn chén trà, Điệp cầm gói giấy mà nàng đã đem theo đưa cho Nhân:

– Em mua cho anh một ít vải để may quần áo và tập truyện “Trăng Nước Đồng Nai” của Nguyễn Hoạt.

Nhân nhìn Điệp một lúc lâu:

– Em còn là học sinh, sao lại cho anh nhiều thế?

– Ba và me cho, em để dành. Vải quần áo cũng như mì, bánh bao, phẳn ở Cát Bà hay bún riêu, thạch găng, kem Á Đông ở Quảng Yên.

Nhân cầm gói giấy: Cám ơn em – Rồi đứng dậy nói: Mình về, Điệp.

Nhân đứng lại quầy trả tiền, rồi theo Điệp ra chỗ để xe, dắt chiếc Solex xuống đường cho nàng. Dưới ánh nắng gắt, Điệp đưa tay cho Nhân nắm một lúc, rồi xỏ tay vào đôi găng trắng:

– Thôi em về.

Chiếc Solex lao đi với tà áo xanh trong dòng xe đạp trên đường Phan Đình Phùng.

3

Nghe tiếng xe Solex dừng ở cổng, Nhân đi vội ra đỡ xe cho Điệp:

– Em tìm nhà dễ dàng chứ?

– Em theo những điều anh ghi và vẽ trên giấy.

Nhân dựng xe ở sân, rồi dắt Điệp vào nhà.

Ngồi xuống ghế Điệp hỏi:

– Ở nhà chỉ có mình anh thôi ư?

Nhân đáp:

– Hai em đi học, ba anh đi biển đánh cá, còn mẹ ở chợ tới 2, 3 giờ mới về.

Điệp nói:

– Nhà rộng, vườn rộng, lại ở giữa một cái làng đầy cây thế này thì yên tĩnh và mát. Nhà trên phố quạt máy suốt ngày đêm, đến gió từ quạt cũng nóng lên.

Nhân vừa rót nước trà ra tách, vừa nói:

– Cái làng này cũng gần giống con phố Yết Kiêu, con phố em bảo là đẹp nhất Quảng Yên, phần lớn nhà cửa vách ván, lợp lá, chừng 1/3 lợp tôn và ngói. Đường đất nhỏ, nhưng chỉ ra khỏi làng là gặp những con đường lớn, xe và người tấp nập.

Điệp hỏi:

– Nhờ ai chỉ dẫn mà ông bà lại mua được đất nhà trong làng, một chỗ tốt như thế này?

– À, khi mới tới khu Ông Tạ, phải ở nhà thuê và mẹ anh sang được một cái sạp nhỏ ở chợ Ông Tạ bán bún riêu. Sau đó chuyển qua bán cơm, chính khách ăn cơm đã chỉ cho bà khu đất này – Nhân ngừng một lát, rồi tiếp: Gia đình anh là dân di cư vào làng này đầu tiên. Hồi mới tới, con đường vào đây, hai bên là lũy tre với những khu vườn trồng hoa và rau. Ở đầu đường là một tiệm mì và cà phê vợt mà anh đã làm quen với cà phê ở tiệm này. Bây giờ thay đổi khá nhiều. Dân di cư mua đất, đã phá bờ tre ở phía đầu đường để làm nhà và mua tiệm mì, rồi phá đi xây thành nhà hai tầng, mở lò bánh mì Hạnh Phúc.

Điệp nói:

– Con đường đất cát lồi lõm, nhưng đi vào thấy mát mắt với màu xanh của bụi tre, vườn và cây cối.

Nhân gật đầu:

– Ngày đó em vào tới đây là thấy những vườn hoa cúc, hoa huệ, hoa mào gà và vườn rau cải, sà lách và rau thơm bao quanh những ngôi nhà nhỏ.  Dân Bắc di cư tràn tới, dân Nam bán đất đi chỗ khác. Bây giờ chỉ còn một số dân Nam sống về nghề trồng hoa, trồng rau ở mãi phía trong – Nhân chỉ qua cửa sổ:  Nhà bên cạnh kia vách ván, lợp ngói cong, tiêu biểu cho nhà cửa của ấp này, họ buôn bán và chạy xe ngựa đường Ông Tạ – chợ Cầu Ông Lãnh.. Những buổi sáng dậy sớm, anh thường nghe tiếng chặc lưỡi gọi ngựa và tiếng vó ngựa lịch kịch kéo xe ra đường.

Điệp nói:

– Cách đường lớn không bao xa mà điện vẫn chưa vào tới đây. Ban đêm tối tăm quá, đúng là cảnh thôn dã chớ không như đường Yết Kiêu, thôn dã mà có điện, có nước máy và đường trải nhựa.

Nhân chỉ ra sân:

– Trước bếp là cái giếng sâu trên 3 mét, nước ngọt và rất trong. Em thấy đời sống ở đây là nước giếng, rau vườn và đèn dầu. Những đêm mưa gió thì mịt mù với tiếng ễnh ương, ếch nhái. Còn những đêm trăng thì mờ ảo.

Nhân chỉ lên kệ sách:

– Anh có bộ Liêu Trai Chí Dị do Đào Trinh Nhất dịch. Đọc Liêu Trai trong những đêm mưa bên ánh đèn dầu mới cảm được sự huyền ảo ma quái trong Liêu Trai. Em có đọc Liêu Trai không?

– Dạ, em mới đọc một số truyện do Nguyễn Hoạt dịch – Như chợt nhớ ra, Điệp hỏi: Anh đã đọc “Trăng Nước Đồng Nai” chưa?

– Đọc rồi. Trăng Nước Đồng Nai bắt mình nghĩ nhiều về cái làng cù lao giữa sông Đồng Nai, ở giữa 2 cây cầu dài… sông nước, trăng, người và hoa bưởi. Có dịp nào, chúng ta thử tới cái làng đó hái bưởi cũng như đi vào sơn thôn có mấy chục nóc nhà hái hồng ở Cát Bà. Có thể em không để ý, nhưng do anh thường đọc Liêu Trai, lại đọc trong khung cảnh làng quê, tối tăm đèn dầu với tiếng giun dế, nên anh để ý đoạn Nguyễn Hoạt nói về tính chất Liêu Trai của những cái cổng và những cái tháp trong mấy nghĩa trang ở bên đường đối diện với núi Châu Thới. Con đường Sài Gòn – Biên Hòa, mình đã đi biết bao nhiêu lần, nhưng không để ý đến những cái cổng và tháp nghĩa trang – Nhân cười – Có lẽ Nguyễn Hoạt dịch Liêu Trai Chí Dị nên ông đã bắt được khung cảnh ấy để đưa vào Trăng Nước Đồng Nai.

Điệp hỏi:

– Ngoài Trăng Nước Đồng Nai, Nguyễn Hoạt còn có tác phẩm gì khác nữa không anh?

– Xuất bản thì hình như chỉ có Trăng Nước Đồng Nai, còn truyện đang đăng báo thì có Tỵ Bái trên Tự Do. Ông còn viết mục Đàn Ngang Cung trên Tự Do với bút hiệu Hiếu Chân.

Nhân tới kệ sách lấy một cuốn bìa nâu đưa cho Điệp:

– Đây là quà tặng của một người Hà Nội.

Nhìn mấy chữ: Nắng Đào – Nguyễn Xuân Huy, Điệp cười với ánh mắt lung linh nồng nàn:

– Anh đóng bìa đẹp thế này ư? Em giữ được bộ Giao Trì Hiệp Nữ, và thường đọc lại nhiều đoạn, nhưng em đã quên việc đóng bìa.

Nhân đặt tay lên vai Điệp:

– Thấy Nắng Đào cũng như thấy em, cảm được điều em muốn nói. Vì thế, ba năm em biệt tích anh đã sống với Nắng Đào, tấm ảnh và cái khăn tay. Ông bà mình kiêng tặng nhau khăn tay, vì khăn tay để lau nước mắt… Từ Nắng Đào anh nhớ Cát Bà với những ngày đi trên con đường lát đá cạnh núi với sóng biển dạt dào, nhìn em kéo quần tránh nước đập vào đá tung tóe lên đường, nhìn sóng biển leo núi ngoài khơi, với ngày đi hái hồng, anh nhớ cổ áo tròn với đôi mắt sắc mà nồng nàn ngước lên đỡ túi hồng. Từ Nắng Đào, anh nhớ Quảng Yên. Hôm đi coi Ciné, anh không để ý đến phim mà suốt buổi chỉ nghĩ đến việc em đi. Buổi sáng từ giã ở bến xe, anh dõi theo chiếc xe hàng màu vàng cổ dụt chạy ra đường, rồi mất hút trên đường Khê Chanh. Trên đường về, anh đi theo phố Yết Kiêu, nghĩ là giờ này, chiếc xe vàng đã dừng lại ở bến Rừng, qua phà sông Rừng, rồi đi qua dãy núi Tràng Kênh. Đến trưa anh nghĩ giờ này xe đã qua núi Đèo tới bến đò Bính, qua phà, vào bến. Em xuống xe và mất hút, vì anh không còn …

Điệp bật khóc:

– Anh đừng nói nữa – Nàng lấy khăn tay lau nước mắt, yên lặng một lúc lâu, rồi nói:

– Khi vào Nam em sợ, nhưng mấy năm qua em vẫn tin là mình sẽ gặp lại nhau, niềm tin mơ hồ, nhưng em vẫn tin như thế. Chúng ta còn đi học, hoàn cảnh của anh khó khăn hơn em. Đêm đêm lăn lộn với mấy chục tờ báo, nhưng đó là cách thích nghi với hoàn cảnh. Và bây giờ, nhà chỉ mình anh mà khu vườn tươi tốt thế kia.

– Cám ơn Điệp đã nghĩ như thế. Ai cũng bận nên vườn không có gì nhiều. Cây ăn trái có ổi, đu đủ và chuối, còn rau thì chỉ có mồng tơi, rau đay và rau thơm.

Nhân để cuốn Năng Đào lên kệ sách, rồi nắm tay Điệp:

– Bây giờ mình đi hái ít ổi và đu đủ.

Ra tới sân, Nhân đi nhanh xuống bếp lấy một cái rổ và một cái túi xách bằng cói. Đưa cho Điệp cái túi xách và chỉ mấy cây ổi, Nhân nói:

– Em hái ổi, còn anh đi coi mấy cây đu đủ xem có trái nào chín.

Nhân bưng 3 trái đu đủ trở lại hàng ổi, trong khi Điệp vẫn đang đứng nhìn từng cây, ngắm nghía những trái ổi vàng bóng.

– Em hái được nhiều chưa?

– Dạ, được chừng hơn chục trái, anh ạ, mà sao trồng cùng thời gian mà có những cây lớn nhỏ khác nhau?

Nhân cười:

– Mấy cây lớn là do chủ cũ trồng, còn những cây nhỏ mình trồng và phải 2 năm nữa mới có trái.

Nhân tới một cây cao, vin cành, chỉ: Em hái mấy trái này – Rồi cứ thế vin cành cho Điệp hái.

Thấy giỏ đã nặng, Điệp nói:

– Thôi anh ạ, nặng rồi. Em sợ cái giỏ này không đựng hết 3 trái đu đủ.

– Có thể đủ, để thử coi – Nhìn trái thứ ba, gần sát miệng giỏ, Nhân cười: Em thấy chưa, vừa vặn. Rồi một tay xách giỏ, một tay dắt Điệp vào nhà.

Nhìn đồng hồ, thấy đã hơn 11 giờ, Điệp nói:

– Em về, anh ạ.

– Trưa rồi, phải kiếm cái gì ăn. Đi ăn phở với anh.

Nhân đang loay hoay buộc giỏ ổi vào cái giỏ sắt sau xe Solex thì nghe tiếng:

– Thưa anh, em đi học về.

– Chào chị.

Nhân nhìn lên, nói:

– Phượng, em gái út – rồi chỉ Điệp: Chị Điệp, bạn của anh.

Điệp cầm tay Phượng:

– Phượng học trường xa hay gần em?

– Dạ, em học trường Khuông Việt gần đây.

Điệp lấy trong sắc tờ 20 đồng đưa cho Phượng:

– Chị cho em để mua sách, mua quà.

Phượng nhìn anh.

Nhân nói:

– Chị cho, em cầm lấy.

– Em cám ơn chị.

– Anh đi với chị Điệp ra ngã ba Ông Tạ. Em hâm cơm và đồ ăn, chờ Thanh về ăn một thể – Nhân dặn em, rồi nói:

– Thôi, mình đi, Điệp.

Nhân dắt xe đạp đi trước, Điệp dắt Solex theo sau. Ra tới cổng, Nhân chỉ khu vườn đối diện:

– Kiểu nhà với vườn trồng hoa và rau kia là tiêu biểu của ấp này. Nhà mình lúc mới mua cũng thế, chỉ khác là nhà lợp tranh.

Điệp nhìn một lúc:

– Người ta trồng rau cải, hoa cúc và hoa huệ.

– Vào sâu một đoạn nữa, vườn nào cũng rau, hoa cúc, huệ và mào gà.

Đi hết đoạn đường nhỏ, tới đoạn có bờ tre, đường rộng hơn, Điệp dắt xe đi song song với Nhân.

– Bố mẹ mua nhà ở ấp này, nên anh được sống giữa làng hoa, huệ và cúc, nhưng chỉ có thế. Anh không biết làng hoa Nghi Tàm ở Hà Nội đẹp thế nào mà nhiều nhà văn đã viết về cái làng hoa đó. Thời ở Hà Nội, em đã tới Nghi Tàm chưa?

– Em đã tới những làng hoa này nhiều lần. Nghi Tàm ở bên Hồ Tây, nên là một thắng cảnh. Làng hoa ở Nghi Tàm trồng nhiều thứ hoa như cúc, hồng, lay ơn, cẩm chướng, mẫu đơn, hoa ly…, đặc biệt là đào và quất. Cuối tuần dân Hà Nội thường xuống đây chơi, nhất là vào dịp Tết, người ta xuống Nghi Tàm để mua đào và quất. Em có một ít ảnh chụp trong mấy làng hoa Nghi Tàm, hôm nào em đưa anh coi. Anh sẽ thấy, vào đến làng hoa Nghi Tàm là vào rừng hoa với màu xanh, đỏ, tím, vàng, trắng – Điệp cười – Chớ không chỉ một màu xanh của lá cây và rau như làng hoa của anh.

– Đó là ban ngày, còn ban đêm em vào đây thì chỉ thấy một màu đen với đom đóm lập lòe và thỉnh thoảng đôi ánh đèn dầu leo lét từ mấy căn nhà vườn.

– Thế những đêm mưa tối tăm, đường lồi lõm thế này thì đi làm sao?

– Ở đâu quen đó, em ạ.

Đến đầu ngõ ra Thoại Ngọc Hầu, Nhân nói:

– Bây giờ em đi trước, Solex theo sau anh sẽ khó đi. Tới ngã ba Thoại Ngọc Hầu – Lê Văn Duyệt thì quẹo trái chừng hơn 200 mét sẽ thấy phở Thiên Thai ở bên trái.

Điệp gật đầu, lên xe, gài tà áo dài vào sau xe, đạp chừng chục mét rồi hạ máy, chiếc xe lao đi.

Nhân đạp xe theo sau và thấy tà áo dài xanh của Điệp bung lên như cánh buồm no gió.

4

Nhân dừng xe bên đường đối diện với núi Châu Thới, nhìn vào cái cổng mái cong và mấy cái tháp. Điệp chỉ vào phía cổng mái cong gần nhất:

– Khu này là khu Liêu Trai của Nguyễn Hoạt. Đồng hoang chỗ thấp, chỗ cao bát ngát màu xanh, xám, giờ này chớ buổi chiều thì đúng là miền đất của hồ ly, ma qủi.

– Em lên xe, mình vào chỗ cái cổng kia tìm chỗ nghỉ chân – Nhân nói rồi đạp máy, cho xe đi chậm khoảng 300 mét thì quẹo vào con đường đất đỏ, hai bên đường là những bụi cây thấp. Nhân dừng lại trước cái cổng mái cong. Đó là khu nghĩa địa với những ngôi mộ xây. Ở phía dưới chừng 500 mét có một cái cổng mái cong nhỏ hơn.

Nhân dựng xe:

– Mình ngồi đây một lúc. Thật may, đi chơi lại gặp ngày nắng nhẹ, chớ ngày nắng gắt thì cái mũ không che kín hai má em đâu. Nhân lấy bình nước đưa cho Điệp. Hai người ngồi trên bực xi măng của cái cổng gạch mái cong.

– Khu này người Tàu mua làm nghĩa trang, nhưng họ không xây qui mô như nhiều nơi ở ngoại ô Sài Gòn – Nhân chỉ lên mấy chữ Hán ở Cổng: Anh đọc được hai chữ Triều Châu, chắc là nghĩa trang của Bang Triều Châu thuộc Biên Hòa.

Điệp ngả người tựa vào vai Nhân:

– Họ làm nghĩa trang theo từng Bang chớ không làm chung hả anh?

– Người Tàu ở Việt Nam có tổ chức chặt chẽ với những Bang Hội, qui tụ những người cùng tỉnh thành một Bang, như ở Sài Gòn anh thường nghe Bang Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu. Có lẽ dân ở mấy tỉnh này qua Việt Nam nhiều. Họ sống theo Bang để trợ giúp nhau và khi chết thì cùng nằm một chỗ, thành ra mỗi Bang có nghĩa trang riêng – Vừa nói Nhân vừa nắm tay Điệp để lên đầu gối mình.

Từ ngày Điệp tới nhà Nhân tới giờ, nàng đã tới 3 lần nữa, một lần đi với Dũng để ăn giỗ, và lần nào nàng cũng xin phép mẹ. Còn Dũng đã kể lại chuyện gặp Nhân ở Cát Bà và ở Quảng Yên mà theo Điệp nói thì bà vui vẻ, khen Nhân chững chạc và có chí. Còn Nhân và Điệp sau lần hẹn nhau ở Cà phê Gió Bấc thì hai người còn hẹn nhau nhiều lần nữa, nhưng chỉ loanh quanh ở trung tâm thành phố như đi Ciné, nghe nhạc, vào Sở Thú hay công viên Tao Đàn. Mới đây mượn được chiếc xe gắn máy Capri của người bạn thân, Nhân đã chở Điệp xuống Nhà Bè ăn ở nhà hàng bên sông. Hôm nay đi núi Châu Thới, đi tới vùng đất Liêu Trai của Nguyễn Hoạt và dự trù vài tuần nữa sẽ đi tới làng cù lao giữa sông Đồng Nai ở Biên Hòa. Thấy Điệp yên lặng, Nhân đặt tay vào trán vào cổ Điệp.

– Em có sao đâu – Nàng ngồi thẳng lại rồi nói: Buổi sáng mà ở đây vắng quá.

Nhân cười:

– Khu nghĩa địa, ai tới làm gì, ngoại trừ những người đi tìm hồ ly, ma quái.

– Buổi chiều, buổi tối ai dám vào đây?

– Có Bồ Tùng Linh, nếu ông ấy tái sinh ở Việt Nam.

Điệp cười rồi hỏi:

– Anh có nhớ bài thơ Cô Vọng Ngôn Chi gì đó của một nhà văn, viết cảm đề cho Liêu Trai Chí Dị?

– A, bài tứ tuyệt của Vương Ngư Dương, mỗi lần giở tập Liêu Trai của Đào Trinh Nhất đều đọc nên nhớ:

Cô vọng ngôn chi, vọng thính chi

Đậu bằng qua giá vũ như ti

Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ

Ái độc thu phần quỷ xướng thi.

Nghĩa của 4 câu này:

Nói lời lảm nhảm, nghe lời lảm nhảm

Mưa như tơ trên giàn dưa, giàn đậu

Giọng đời đã chán không muốn nhắc tới nữa

Chỉ thích nghe quỷ dưới mồ mùa thu ngâm thơ.

Bài thơ hay nói lên được tâm sự của Bồ Tùng Linh qua Liêu Trai Chí Dị, đã có nhiều người dịch, nhưng anh chỉ nhớ bài của Tản Đà, có thể nhớ sai vài chữ vì lẫn bài nọ qua bài kia:

Nói láo mà chơi, nghe láo chơi

Giàn dưa lất phất hạt mưa rơi

Chuyện đời âu hẳn ta đà chán

Thơ thẩn nghe ma hát mấy lời.

Điệp nói:

– Như vậy chắc Vương và Bồ là hai bạn tâm giao.

– Không phải. Họ Vương đậu tiến sĩ, làm quan tới thượng thư và là nhà thơ, nhà văn. Còn họ Bồ chỉ dạy học ở tư gia và nghèo. Khi Vương làm quan ở Sơn Đông, quê của Bồ Tùng Linh, đọc Liêu Trai Chí Dị, khen và viết Liêu Trai đề từ gửi cho Bồ Tùng Linh – Nhân ngừng lại nhìn ra xa một lúc rồi nói: Cả một đời lận đận thi cử và nghèo, nhưng Bồ Tùng Linh đã giàu và phong lưu trong thế giới hồ ly, ma quỷ. Ông tung hoành múa bút trong thế giới này thành ra ông muốn lià thực để sống trong mộng:

Chuyện đời âu hẳn ta đà chán

Thơ thẩn nghe ma hát mấy lời.

– Bây giờ đi được chưa cô? Nhân nâng cằm, nhìn vào mắt Điệp hỏi, rồi đứng dậy cầm tay Điệp kéo lên, nhưng Điệp đã quàng tay qua cổ Nhân, đu người khi Nhân bước xuống mấy bực xi măng.

Con đường đi vào núi Châu Thới khoảng hơn một cây số, cũng đất đá, đầy cỏ nhưng rộng. Đến chân núi, Nhân dừng xe trước cổng đá, có mấy chữ: Châu Thới Sơn Tự bằng chữ Việt và chữ Hán, rồi nhìn lên những bậc đá của đường lên chùa với cây rợp bóng và cỏ mọc lan vào đá. Dắt xe đến một cây lớn, Nhân chỉ vào mấy tảng đá:

– Ngồi đây một lúc em ạ.

Điệp chỉ con đường lên chùa:

– Nhìn những tảng đá mòn với rêu phong kia có thể đoán tuổi của chùa Châu Thới.

– Thế em đoán bao nhiêu?

– Trên trăm năm.

Nhân lắc đầu:

– Em đoán thế thì chùa này còn mới quá. Theo tài liệu anh đọc nhân câu chuyện mình nói về vùng đất Liêu Trai của Nguyễn Hoạt và núi Châu Thới thì chùa Châu Thới được xây dựng từ cuối thế kỷ 17 và là một trong nhưng ngôi chùa cổ nổi tiếng của đất Gia Định ngày xưa. Núi cao trên 80 mét và con đường kia phải trên dưới 200 bậc. Đi bộ thì thú vị đấy…

– Em tưởng ở đây có đường cho xe hay có chỗ gửi xe.

– Anh cũng nghĩ thế, nhưng chỉ có con đường bậc đá kia. Có lẽ vào những ngày lễ như Phật Đản, Vu Lan hay Tết, người ta mới làm bãi giữ xe ở những khu đất dưới chân núi. Muốn viếng chùa thì phải đi vào mấy ngày lễ đó.

Điệp nói:

– Thôi để dịp khác, Sài Gòn tới đây đâu có bao xa. Hôm nay mình đi vòng dưới chân núi rồi tìm chỗ nào mát ngồi chơi anh ạ.

– Phải vậy thôi.

Nhân đạp máy xe, nhìn con đường đi vào phía trong vắng vẻ, cây cối rậm rạp như rừng, nên đi trở ra và vòng theo chân núi ở phía ngoài. Nhưng chỉ đi được khoảng hơn nửa cây số thì con đường đi vào khu rừng cao su, Nhân thầm nghĩ, phía ngoài này là rừng cao su thì không đi thêm nữa và cho xe đi vào giữa rừng phía gần chân núi. Gặp một vùng cỏ xanh dưới bóng mát của cây cao su, Nhân dừng lại một khu nhiều bóng râm.

– Ở đây có thể ngồi chơi được, mát mà có thể nhìn xa – chàng nói, rồi dựng xe cạnh một cây cao su lớn.

Sau khi lấy cái túi xách đựng đồ ăn, nước uống để trên tấm vải nhựa trải trên cỏ, Nhân đi quanh ra phía bờ ranh rừng cao su, vừa để vận động chân tay, vừa quan sát khu nhiều cây cối rậm rạp  dưới chân núi. Khi trở lại, chàng thấy Điệp trong tà áo dài nâu, đang đi giữa những hàng cây. Lần đầu tiên nàng mặc áo dài nâu, nâu thẫm, còn lâu nay Nhân chỉ thấy nàng mặc áo màu xanh, màu trắng và vàng nhạt. Sáng nay thấy Điệp mặc áo nâu, Nhân nghĩ, đi chơi xa và lên chùa nên nàng mặc áo nâu, nhưng Điệp có biết đâu là áo dài nâu cổ thấp đã nâng khuôn cổ cao và làm nổi lên làn da trắng như ngó cần ở cổ và ở hai chỗ xẻ tà.

Khi đến gần thấy Nhân nhìn mình đăm đăm, Điệp đi nhanh, vừa ngả người vào Nhân, vừa nói: Quanh núi Châu Thới, chỗ nào cũng vắng quá.

– Núi xa làng thì lấy đâu ra người, ngoại trừ những người đi tìm Bồ Tùng Linh – Nhân cười, đỡ Điệp rồi cầm tay đi đến chỗ tấm vải nhựa:

– Lên chùa không được thì vào rừng. Bây giờ ăn, khoảng 1 giờ mình về.

Điệp ngồi xuống tấm vải nhựa:

– Sáng ăn phở còn no, anh cho em trái quít.

Nhân lấy trái quít, dùng con dao nhỏ bóc quanh phần trên rồi đưa cho Điệp.

Điệp hỏi:

– Anh ăn pâté chaud hay croissant?

– Anh cũng còn no, thôi theo em ăn quít.

Điệp cười, đưa trái quít đã bóc vỏ cho Nhân:

– Vậy anh ăn trái này, đưa em trái khác. Quít lớn quá, em ăn nửa trái thôi.

– Thế mỗi người một nửa, khỏi phải bóc thêm.

Ăn xong nửa trái quít, uống mấy hớp nước, Điệp ngồi tựa vào vai Nhân:

– Mẹ em và Dũng quí anh lắm đó. Nghe Dũng kể chuyện đi đáp cá, hái hồng ở Cát Bà và chuyện đi ăn bánh tôm, bún riêu ở Quảng Yên, bà bảo là sao ở Quảng Yên không cho bà đi theo.

Nhân nói:

– Như thế may cho chúng ta. Bà vui tính và phúc hậu, còn gặp những bà mẹ khó tính thì rất khó.

Từ thế tựa, Điệp xoay người nằm gối đầu lên đùi Nhân. Ánh mắt nồng nàn với đôi môi hồng đã kéo Nhân cúi xuống. Rừng cây im lặng như tờ, đây đó ánh nắng xuyên qua kẽ lá thành những vệt sáng trên cỏ. Nhân ngước đầu lên nhìn cổ Điệp và phần căng lên ở ngực, núm vú hằn lên dưới lớp vải nâu mỏng. Cái cổ áo lụa tròn biến mất ngày đi hái hồng ở Cát Bà đã theo Nhân suốt mấy năm, bây giờ hiện hình, chỉ cách mặt Nhân một gang tay. Chàng cúi xuống đặt môi mình lên hai phần căng ở ngực. Điệp vòng tay qua ngực kéo khuy áo. Mấy tiếng kêu nhẹ và phần áo ở ngực bung ra và Nhân đã tìm thấy chỗ biến mất theo cổ áo lụa ở Cát Bà. Nhân ngạt thở và ngước lên. Bụng Điệp mịn trắng lồ lộ trên phần vải ở đùi trong căng ra theo thế chân duỗi. Chàng cúi xuống, bỗng giật mình ngồi dậy với ý nghĩ xẹt qua đầu: Còn là học trò nghèo. Nhân không dám nhìn xuống dưới mà kéo lại vạt áo dài, cài lại khuy.

– Anh xin lỗi em.

Điệp nhìn Nhân một lúc, rồi ngồi dậy bật khóc. Nàng khóc nức nở, hai vai rung lên từng hồi.

– Đừng khóc nữa, anh xin lỗi em – Nhân nói như van xin, nhưng tiếng nói đã đưa tiếng khóc lên cao hơn.

Nhìn Điệp cúi đầu trên gối nức nở với quần áo xộc xệch, Nhân cũng bật khóc và chàng muốn lấy tiếng khóc để chuộc cái lỗi đã gây ra tình cảnh này, nên để cho nước mắt dàn dụa cho đến khi thấy vai Điệp thôi rung mới lấy khăn lau mặt. Nắm chiếc khăn ướt đẫm, Nhân ngồi yên lặng nhìn những hàng cây cao su và không dám nói vì sợ Điệp khóc nữa.

Chừng nửa giờ sau, Điệp đứng dậy nói:

– Cho em về.

Nhân gấp miếng vải nhựa để vào túi xách, quàng lên xe, rồi không biết nói điều gì nên lặng lẽ ngồi lên xe đạp máy. Trên đường về chàng dừng lại ở Thủ Đức để đổ săng và vào một tiệm kem để Điệp có chỗ lau mặt.

Đêm ấy Nhân nghĩ là chỉ một, hai ngày mọi chuyện sẽ qua và Điệp sẽ lại vui cười đón Nhân khi chàng đến đưa báo. Nhưng mấy buổi tối kế tiếp không có Điệp đón chờ. Rồi đêm thứ tư, Dũng đưa cho Nhân bức thư của Điệp. Nóng lòng muốn biết Điệp nói gì, Nhân đã dừng xe bên một cột điện, nghĩ là Điệp sẽ viết nhiều để bày tỏ nỗi lòng, nhưng không, cả một tờ giấy chỉ có mấy hàng:

Anh Nhân,

Em không ngờ anh lại như thế. Anh coi thường và xúc phạm em. Em ân hận và xin nói với anh một điều là chuyện của chúng ta kết thúc ở đây.

Vĩnh biệt anh.

Nhân bỏ tờ giấy vào túi, rồi lảo đảo đạp xe đi. Trời đêm gió mát, nhưng Nhân toát mồ hôi ướt áo. Chuyện đến thế kia sao? Tình cảm trai gái, nếu là lỗi thì đâu phải lỗi một người… Ánh mắt nồng nàn đắm đuối của Điệp ngày gặp lại ở Quảng Yên, tiếng kêu “anh Nhân” như reo lên khi gặp lại ở Phú Nhuận và tiếng khóc giữa rừng cao su Châu Thới, tất cả đều là sự biểu lộ tình cảm… Nhưng sao tình cảm ấy lại có thể lấy kéo cắt như cắt sợi dây… Nhân không hiểu và mải nghĩ nên quên rẽ vào con đường ấp Cả Trắc. Chàng quay lại, đi vào con đường hai bên bờ tre tối tăm, từ xa chỉ có những ánh đom đóm lập lòe.

PHẦN III

1

Nhân bước ra khỏi Barracks trong khi mọi người còn ngủ. Chàng đi lên dốc đường, rẽ vào quán cà phê. Chủ quán cười, gật đầu chào.

– Chào chị. Chị cho tôi ly cà phê sữa.

Chị chủ quán đem cà phê đến, đặt ra bàn, rồi nói:

– Hôm qua phái đoàn Mỹ đến, anh lại bận rộn cả tuần.

Nhân nói:

– Bận rộn mà vui, chị ạ. Vui vì bà con, anh em đến tấp nập đầy phòng, đầy sân chờ vào phỏng vấn và vui vì nghĩ là sắp đến phiên mình.

– Diện của anh nhanh lắm, chỉ 4 hay 5 tháng thôi – Chủ quán vừa bước đi vừa nói.

  Nhìn hộp thuốc Dunhill màu nâu với ly cà phê và nghe Hà Thanh hát Mấy Dặm Sơn Khê từ máy cassette, Nhân thấy những năm tháng vừa qua ở Việt Nam như một giấc mộng dữ, và nay chàng hy vọng là sẽ tìm lại được đời sống của mình. Đời sống đó là yên vui, không sợ hãi những người quanh mình, và có thể nghĩ đến tương lai. Trên tàu Cao Ủy Tỵ Nan đi nhặt những người vượt biển bị trôi giạt vào những đảo nhỏ thuộc Indonesia, Nhân đã hỏi người đại diện Cao Ủy là ở Galang chúng tôi có thể làm gì? Ông cười trả lời: “Đảo chứa mấy chục ngàn người, nên phải có những cơ sở phục vụ như bệnh viện, Kho thực phẩm, vệ sinh, trường học… Các anh có thể làm việc trong những cơ sở ấy. Nhưng quan trọng hơn là các anh phải học tiếng Anh để chuẩn bị cho ngày đi định cư”. Vì thế chỉ mới lên đảo được hai tuần chàng đã nhận lời làm trưởng toán phụ giúp cơ quan JVA (Joint Voluntary Agency) của Mỹ thay thế ông thiếu tá không quân tên Long đi định cư, qua sự giới thiệu của Ban Đại Diện Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản ở Galang.

Khách cà phê đã bắt đầu vào nhiều. Hai người mới vào đến bên Nhân:

– Chào anh.

– Chào hai anh – Nhân chào lại, rồi nói: Nhìn sắc diện, tôi đoán hai anh có tên vào phỏng vấn kỳ này.

– Anh đoán thật hay. Bọn em nghe tên trên loa phóng thanh từ chiều hôm qua.

– Xin mừng hai anh – Nhân đứng dậy bắt tay hai người, rồi nói: Uống cà phê rồi lên cho sớm.

Hai người chào Nhân, rồi nhập bọn với hai người khác mới vào đi đến chiếc bàn ở góc trong.

Một người trong toán hỏi với qua một bàn khác:

– Sơn, mày cũng có tên kỳ này?

Người tên Sơn cười:

– Gia đình tao và cả họ nhà thằng Phong nữa. Kỳ này đi hết, giã từ Galang.

Nghe những lời rộn ràng và nghe loa phóng thanh liên tục đọc tên những người được vào phỏng vấn sáng nay, Nhân cười nghĩ đến việc mình với mấy người thuộc toán JVA Việt Nam đã làm suốt chiều qua để có kết quả của việc gọi tên những người được vào phỏng vấn.

Quán đã đông và ồn ào. Nhân nghe hết bản “Cuối cùng cho một tình yêu” do Khánh Ly hát, rồi đứng dậy tới quầy trả tiền. Bước ra khỏi quán, đi lên đoạn đường dốc thoai thoải, Nhân thấy nhẹ người và tận hưởng những cơn gió mát của Galang vào sáng sớm. Chàng chưa quen cái nắng và nóng của nơi gần xích đạo làm ẩm người, dù Galang là đảo với núi rừng bạt ngàn. Nhưng đặc biệt là khoảng chiều tối, khi mặt trời đã khuất thì những cơn gió mát trở về đưa tới cái lạnh trong đêm.

Lên hết dốc, rẽ vào Trung Tâm JVA, Nhân tưởng mình tới sớm, nhưng vừa lên tới sân đã nghe những tiếng cười nói của mấy chục anh em nam nữ đang xếp dọn lại bàn ghế.

– Chào anh.

– Chào chú.

– Morning…

Nhân cười:

 – Chào các bạn. Các cô các cậu đều ở Galang 2 mà tới đây trước tôi.

– Những ngày JVA làm việc là những ngày vui trên đảo, nên bọn em dậy sớm đi uống cà phê để đón chào những người được may mắn đi sớm.

Nhân nói:

– Trước sau chúng ta cũng sẽ đi hết. Hôm nay mình vui với cái vui của bà con, ngày mai mình sẽ vui với cái vui của mình. Biết đâu kỳ này sẽ có một số anh em chúng ta vào phỏng vấn, chẳng hạn cô Vân, cô Thanh và cậu Tuấn …, nhưng khi Vân, Thanh đi rồi thì khó có thể tìm được cô nào có thuật đánh máy như mưa rơi trên mái tôn của hai cô (có những tiếng cười), còn Tuấn mà đi thì chúng ta mất một người trẻ, đẹp trai và nói tiếng Mỹ như người Mỹ. Và còn ai nữa, toán chúng ta trên 30 người mà người nào cũng đáng yêu đáng quí… ra đi thì sẽ nhớ nhau…, (có những tiếng cười khúch khích)

–  Anh Nhân nói đúng. Chúng ta nhớ nhau và sẽ đi định cư cùng nhau.

– Ghép form thì đi định cư chung chớ khó gì.

Những tiếng cười rộ lên của toán JVA đã kéo theo tiếng cười của những người lên chờ vào phỏng vấn.

Đúng 8 giờ, toán JVA Mỹ tới, người nào cũng tay xách và ôm những cặp hồ sơ. Cùng với những tiếng chào nhau, toán thanh niên JVA Việt Nam đã xuống đường giúp toán Mỹ khiêng lên những thùng Coca, Pepsy và Seven Up ngâm nước đá, những thùng bánh mì sandwich và chocolate. Lần này toán JVA gồm 6 người, ngoài bà Nancy là toán trưởng, còn 5 người phụ trách phỏng vấn.

Sau khi nhân viên Mỹ và những người thông dịch đã ngồi vào bàn, Nhân nói với người phụ trách gọi tên: Bắt đầu đi anh Châu – Rồi cầm một xấp danh sách đi qua chỗ hai cô đánh máy:

– Cô Vân đánh danh sách ngày mai, còn cô Thanh, danh sách ngày mốt.

Nhân trở về chỗ coi lại xấp danh sách, rồi lẩm bẩm: Đây mới một nửa. Như vậy họ phải ở lại cả tuần. Chợt Nhân mỉm cười với xấp danh sách dày và nghĩ đến niềm vui của những cái tên sẽ được gọi trong tuần này.

– Anh Nhân, tứ diệu đế và bát chánh đạo dịch thế nào?

  Nhìn về phía người hỏi, ông Đại Đức Tâm Hòa ở chùa Galang 2 và người thông dịch đang chờ, Nhân lấy tờ giấy đi đến vừa nói vừa viết: The Four Noble Truths and Noble Eightfold Path, và dịch cho ông sư một câu rồi trở về chỗ.

Vừa định đọc tiếp tập danh sách thì Nhân nghe tiếng gọi:

– Anh Nhân.

– Nhân nhìn lên, đứng bật dậy sửng sốt: Điệp – và phải đứng một lúc mới có thể bước ra: Gặp Điệp ở đây ư? Chàng nói rồi bước qua chỗ bàn đánh máy lấy chiếc ghế đem về để trước bàn:

– Điệp ngồi đây.

Điệp ngồi xuống, vừa định nói thì nước mắt trào ra, nên vội lấy khăn lau những dòng nước mắt lăn xuống má.

– Đừng khóc nữa …, tôi chưa biết gia đình Điệp ra sao, nhưng Điệp thoát được tới đây là bước qua một cuộc đời khác – Nhân chờ một lúc rồi hỏi: Điệp đi với những ai?

– Em đi một mình và tới đây từ tháng 7 năm ngoái – Điệp ngừng lại đưa khăn lên mắt… bị trục trặc giấy tờ nên mãi tới tháng 2 năm nay mới được gọi lên phỏng vấn, nhưng không may lại bị lây dịch đau mắt đỏ, nên bị hoãn… Mắt mới hết đỏ từ tháng trước. Hôm nay em định tới đây hỏi xem những người bị hoãn đến bao giờ sẽ được phỏng vấn, không ngờ lại gặp anh.

Nhân nhìn Điệp một lúc rồi nói:

– Mọi chuyện sẽ nói sau, còn bây giờ tôi sẽ hỏi bà Trưởng Phòng Nancy xem có thể giúp gì trong trường hợp của Điệp.

Vừa lúc ấy bà Nancy bước ra khỏi phòng đi đến chỗ để thùng Coca ướp đá lấy một lon.

– May quá, bà ấy ra kia, đi theo tôi, Nhân vừa nói vừa bước nhanh tới chỗ Nancy:

– Excuse me, Ms. Nancy, I would like to talk to you some words and I hope you’ll give me a favor.

Nancy cười:

– What can I do for you?

Nhân chỉ Điệp:

– Bà Điệp là bạn tôi từ thuở nhỏ tôi mới vừa gặp lại, được vào danh sách phỏng vấn từ tháng 2/1985, nhưng bị bệnh mắt đỏ nên bị hoãn. Nay bệnh đã hết, bà Điệp nhờ tôi hỏi bà xem bà có thể giúp gì trong trường hợp này.

Bà Nancy nhìn Điệp, rồi nói:

– Việc đó dễ, tôi có thể cho bà Điệp phỏng vấn kỳ này. Anh lên trụ sở JVA lục tìm hồ sơ của bà Điệp, rồi ghép vào danh sách phỏng vấn ngày mai.

Bà Nancy nói rồi tới bàn của Nhân lấy một tờ giấy viết mấy hàng đưa cho Nhân:

– Anh đưa tờ giấy này cho ông John. Ông ấy sẽ mở cửa văn phòng. Anh vào tìm thùng có mấy chữ “Bệnh Mắt Đỏ”. Hồ sơ của bà Điệp trong thùng đó.

Bà Nancy quay lại Điệp:

– Mừng bà gặp được bạn cũ trên một đảo tỵ nạn Cộng Sản.

Điệp nói:

– Cám ơn bà đã giúp tôi.

– Tôi rất vui là đã giúp được bà, vì đó là việc của tôi – Nancy nói rồi quay lại Nhân: Bây giờ anh có thể đi chứ?

– Vâng, cám ơn bà, tôi đi ngay bây giờ và trong khi tôi vắng mặt, nếu bà cần gì, xin gọi Cường.

– Được rồi – Nancy gật đầu nói rồi đi vào phòng.

Nhân để tập danh sách vào ngăn kéo, rồi cùng Điệp đi ra sân.

Điệp hỏi:

– Em có thể đi với anh được không?

– Trời nắng, Điệp chờ ở đây để tôi đi một mình cho nhanh. Chỉ có một thùng hồ sơ thì dễ tìm –  Nhân nói rồi đi nhanh xuống những bậc xi măng ra đường.

Khoảng hơn một giờ sau Nhân về, tay cầm một kẹp giấy, vừa bước lên mấy bậc xi măng đã thấy  Điệp bước ra:

– Tìm được hồ sơ rồi, hả anh?

Nhân đưa kẹp giấy cho Điệp:

– Tìm thì nhanh, nhưng phải chờ ông John khá lâu.

Chàng đứng lại dưới bóng râm của mấy cây dương, nhìn lại Điệp sau gần 30 năm: Vẫn dáng thanh tú, dù hơi đẫy đà. Mặt vẫn tươi, hồng nhuận với đôi môi và đôi mắt đen sắc. Cổ vẫn tròn cao trong cổ áo sơ mi rộng. Nhìn bàn chân, bàn tay, Nhân thầm nghĩ: Chân tay thế kia thì sau 75 Điệp không vất vả.

Điệp lật coi qua hồ sơ, rồi đưa lại cho Nhân:

– Cám ơn anh, không gặp anh thì chẳng biết đến bao giờ họ mới xét lại hồ sơ của những người đau mắt.

– Tôi nói với bà Nancy cũng là cầu may vậy thôi. Có thể bà ấy có thiện cảm với Điệp nên đã quyết định nhanh chóng. Cứ cho đó là cái may của Điệp ngày hôm nay – Nhân đưa tay cầm tay Điệp: Chúc mừng Điệp. Bây giờ Điệp về nghỉ để chuẩn bị cho ngày mai.

Điệp lấy quyển sổ trong cái túi xách, xé một tờ, ghi số Barracks đưa cho Nhân:

– Em ở Barracks 16, phòng 4, Galang 2. Chiều nay anh lên em được không?

– Chiều nay tôi phải sắp xếp một số việc ở đây, lên Điệp thì muộn quá. Thôi để sau phỏng vấn.

2

Sau bữa cơm chiều, Điệp đưa Nhân lên quán cà phê Gió trên giải đồi cao, gần khu Barracks. Hai người chọn chiếc bàn ngoài trời gần mấy tảng đá lớn.

Chủ quán là một thanh niên đi nhanh tới, đon đả:

– Chào anh, chào chị Điệp, đã khá lâu không thấy chị lên uống cà phê. Anh chị uống chi ạ?

Nhân nói:

–            Anh cho tôi cà phê sữa và một bao DunHill – rồi hỏi: Em cũng cà phê sữa?

Điệp đáp:

– Không, em không uống cà phê – rồi nhìn chủ quán: Anh cho tôi Milo thêm sữa.

  Chủ quán đi nhanh vào quán, một lúc sau có tiếng hát từ máy cassette vọng ra.

Nhân lắng nghe bản Nhà Anh Nhà Em một lúc, rồi nói:

– Bao nhiêu năm, hôm nay mới nghe lại giọng lả lơi của Trúc Mai. Quán Cà phê trên đồi này thật đắc địa. Dưới đường lên không bao xa, rồi lại gần những Barracks.

– Thế mà khách không bao nhiêu, anh ạ. Có lẽ người ta ngại lên dốc. Quán ở dưới đường đông khách hơn.

Khi chủ quán bưng khay cà phê, milo đến để ra bàn, Nhân hỏi:

– Ở đảo thế này, anh mua cà phê, milo, thuốc lá và những thứ hàng khác ở đâu?

Chủ quán đáp:

– Ở đây hàng tuần có chuyến tàu đi Penang. Chúng tôi xin phép đi những chuyến tàu đó, sáng đi chiều về. Penang là đảo lớn, là thành phố, hàng hóa như núi.

– Anh mở quán thế này, khi được đi định cư thì tính sao?

– Sang cho người khác. Gọi sang là có người bắt ngay. Quán Gió này tới nay đã qua tay nhiều người. Tôi sang quán đã được trên 2 năm, và mong sớm có ngày kêu người sang lại để ra đi.

Nhân cười:

– Galang có những tên quán thật hay, không quán nào đề bảng, nhưng có tên mà ai cũng biết như Tống Biệt, Vượt Biển, Biển Đen, Người Ở Người Đi… Quán này lấy tên Gió thật tuyệt, vì ở trên đỉnh đồi cao, gió biển gió núi đều bay thổi đây.

  Chủ quán cười, vừa bước đi vừa tiếp: Còn Tình Sù, Tình Nhớ, Tình Câm… Thôi mời anh chị.

Nhân cười nhìn theo chủ quán, rồi nói:

– Năm 1957, gặp lại em ở Sài Gòn, anh mời em tới cà phê Gió Bấc. Năm 1985, gặp em ở đảo Galang, em đưa anh tới cà phê Gió… Ở đây phải gọi là Gió Biển hay Gió Ngàn. Năm 57, anh chỉ uống cà phê, còn năm 85 thêm thuốc lá – Nhân mở bao DunHill, rút một điếu xoay vòng ngắm nghía, rồi bật diêm châm – Đêm từ tàu Cao Ủy lên bến tàu Galang, trong khi ngồi xếp hàng để người ta gọi tên, kiểm lại người, Ban Đại Diện Người Việt Tỵ Nạn mời mỗi người một điếu thuốc 3 số 5. Đêm gió mát, với cái vui cập bến đã biến điếu thuốc thành hương vị đặc biệt. Anh chưa bao giờ được hút một điếu thuốc ngọt ngào và ý vị đến như thế.

– Tàu vượt biên vào đảo nào mà tàu Cao Ủy phải tới đón?

– Tàu anh đi là tàu đánh cá loại nhỏ, chạy được một đêm một ngày thì bể máy, và trôi theo sóng gió một ngày một đêm thì dạt vào đảo Subii, một đảo nhỏ, dân số chừng trên 500. Anh phải ở đó 3 tuần thì được tàu Cao Ủy, trong chuyến đi nhặt người tỵ nạn giạt vào các đảo nhỏ, nhặt về.

Điệp đang nâng ly Milo uống, nghe thế bỏ xuống:

– Tàu em đi cũng lạc vào một đảo nhỏ, tên dài khó nhớ và phải ở đó trên 3 tháng. Dân trên đảo thiếu gạo, phải ăn độn khoai lang và củ mì, nhưng rất tốt, chia cho mình từng ký gạo, ký khoai.

– Em vượt biên một mình, thế gia đình em và các cụ đâu?

Điệp lặng đi một lúc, mắt chơm chớp như muốn khóc:

– Toàn là chuyện buồn cả anh ạ. Ba em đi tù cải tạo về và mất đầu năm 1982, còn bà cụ mất cuối năm 1982. Dũng đi Thủ Đức sau Mậu Thân, tình nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến và chết ở Quảng Trị năm 1972 – Điệp ngưng lại một lúc lâu – Còn em, sau chuyện của chúng ta, em buồn, lấy học làm vui. Xong tú tài em vào được Đại Học Sư Phạm, ra trường phải xuống Cần Thơ dạy và lấy chồng, một giáo sư dạy cùng trường. Sau 75, anh ấy dạy toán nên vẫn được tiếp tục dạy, còn em dạy văn, sử địa nên phải nghỉ. Năm 81, chồng em và đứa con trai, đứa con duy nhất, vượt biên. Tàu bị hải tặc cướp và phá vỡ ở vịnh Thái Lan…. Mẹ em để lại cho em một số vàng, nhưng vượt biên mấy lần cụt hết vốn. Không biết làm gì để sống nên em liều. Gia đình rủi cả, chỉ có em may tới được Galang và gặp được anh.

Trời về chiều với những cơn gió cuốn đi cái nóng ban trưa, và quán đã nhiều khách. Cả một khu đồi rộn lên tiếng nói, tiếng cười với mùi cà phê và thuốc lá.

Nhân hỏi:

– Trước 75 ông cụ còn đi làm hay đã về hưu?

– Ba em về hưu năm 72. Sau 30/4/75 ông không đi trình diện, nên tháng 6/75, họ tới nhà bắt và phải đi cải tạo ở trại Long Giao, rồi Z30A, Xuân Lộc, Long Khánh. Cuối năm 81 ba em được về, nhưng chỉ được 3 tháng thì mất – Điệp ngừng một lúc rồi hỏi:

– Còn anh phải đi cải tạo ở đâu?

Nhân châm điếu thuốc khác, hút mấy hơi:

– Cùng với đội quân tan rã ở Thừa Thiên tháng 3/75, anh bị bắt và bị giam ở nhiều nơi, rồi sau tháng 4/75 một thời gian được chuyển tới trại cải tạo Bình Điền, Thừa Thiên.

– Anh chỉ ở một trại cải tạo hay phải qua nhiều trại?

Anh chỉ ở Bình Điền cho tới ngày được tha, cuối năm 82. Hoàn cảnh của anh không khác em. Chỉ khác là phải đi tù cực khổ hơn. Khi được về thì gia đình cũng chẳng còn ai. Ông bà cụ mất sau 75 một hai năm, em vượt biên vào những ngày sau 30/4/75 và mất tích, còn vợ con, anh cũng chỉ có một đứa gái, đi kinh tế mới đã chết, con đi trước, mẹ đi sau, vì thiếu ăn và bệnh.

Điệp nói:

– Khoảng đầu năm 58, Dũng đã tới anh nhiều lần và lần nào cũng kể em nghe những gì Dũng và anh đã nói với nhau. Và đến hè 1958 thì Dũng cho em biết gia đình anh đã bán nhà và chủ nhà mới cho biết là gia đình anh di chuyển lên Đà Lạt. Em ngạc nhiên, vì gia đình anh đã yên ổn ở khu Ông Tạ. Ai cũng có việc, tại sao lại bỏ để đi lên một chỗ mới, một thành phố nhỏ, làm ăn sẽ khó khăn hơn.

– À, gia đình di chuyển lên Đà Lạt vì ông cụ xin được việc làm ở Bệnh Viện Đà Lạt, bà cụ tiếp tục bán cơm ở chợ, còn anh có thể xin chuyển vào trường Trần Hưng Đạo. Nhưng đúng như em nói, ở Sài Gòn anh có việc bán báo, còn lên Đà Lạt thì chẳng biết làm gì. Vì thế, lên đó được chừng hơn một tháng, anh trở lại Sài Gòn. Thời gian đầu ở nhà người bạn đã cho anh mượn chiếc xe gắn máy Capri để chở em đi chơi. Sau đó, anh kiếm được một chỗ kèm trẻ ở tư gia, và thuê được một căn gác xép ở cuối đường Trương Minh Giảng. Vẫn đi bỏ những mối báo cũ nên thường đi qua khu Phú Nhuận và thỉnh thoảng buổi chiều, anh thấy em trên đường Hai Bà Trưng hay Võ Di Nguy, vẫn áo dài xanh, trắng và mỡ gà, thêm màu nâu nữa, lao xe Solex vun vút giữa phố đông người.

Điệp xúc động:

– Anh vẫn nhìn thấy em ư…, vậy anh ở Sài Gòn đến năm nào?

– Hết hè năm 60, xong tú tài, anh lên Đà Lạt kiếm chỗ dạy học và làm vườn cho đến năm 66 phải động viên vào Thủ Đức. Chín tháng ở trường Bộ Binh Thủ Đức, những ngày thứ Bảy, Chủ Nhật được nghỉ phép về Sài Gòn, anh vẫn thường đi qua đường Hai Bà Trưng, Võ Tánh và mong có một buổi chiều nhìn thấy Điệp.

Mắt Điệp chơm chớp:

– Thời gian này em đã xuống Cần Thơ dạy học.

Nhân nói:

– Trong những năm quân ngũ ở chiến trường Thừa Thiên, Quảng Trị anh thường nghĩ là em vẫn còn ở Sài Gòn. Sau khi ra tù, sống ở Sài Gòn, đi qua đường Võ Tánh thấy nhà em thay đổi với những người lạ và sân không còn giàn hoa giấy nữa, anh lại nghĩ là gia đình em đã vượt biên.

– Nhà bị họ chiếm sau khi bà cụ mất, vì em đã sống ở Cần Thơ từ năm 66 nên không có hộ khẩu, còn người cháu gái con ông bác ở với bà cụ đã bị đuổi ra khỏi nhà. Chuyện vượt biên với gia đình em và họ hàng bên em là một thảm kịch, vì hai gia đình chú bác sạt nghiệp vì vượt biên mà con cái đều chết cả. Phần em thì đi ba lần mới thoát, cũng có cái may là không bị bắt lần nào.

Bỗng Nhân đứng dậy nói:

– Anh vào gọi thêm cà phê. Em uống Milo nữa không?

– Dạ, anh cho em một ly nữa.

Nhân đi vào quán và khoảng 15 phút sau bưng một cái khay có cà phê, Milo và một gói bánh quế. Chàng khuấy ly Milo để trước Điệp, rồi bóc gói bánh quế, lấy một cái đưa cho Điệp:

– Bánh này làm ở Singapore, em ăn xem có bằng bánh quế Sài Gòn không?

Điệp ăn chiếc bánh quế rồi nói:

– Trước kia em ít ăn bánh quế nên không nhớ hương vị ra sao, nhưng em nghĩ bánh sản xuất ở Singapore phải ngon hơn, vì họ làm để xuất cảng, phải cạnh tranh. Còn mình làm chỉ để tiêu thụ trong nước.

– Ở Sài Gòn không biết có mấy nhà sản xuất bánh quế, nhưng anh chỉ nhớ bánh quế Bảo Hiên Rồng Vàng, chuyên dùng cho những đám hỏi – Nhân cười: Thời gian ở Đà Lạt mỗi lần nhà được biếu quà đám hỏi, anh thường thấy một hộp bánh quế Bảo Hiên, một hộp trà Chính Thái hoặc trà Bảo Lộc, một quả cau và mấy lá trầu, đôi khi có thêm hai chiếc bánh xu xê.

Nghe hai tiếng đám hỏi, Điệp nhìn Nhân một lúc, rồi hỏi:

– Trong mấy năm đầu xa nhau, có bao giờ anh có ý định tìm gặp lại em không?

– Có nghĩ chứ. Bao giờ anh cũng nhớ em, nhưng không dám gặp.

Nhân nâng ly cà phê uống mấy hớp, rồi để xuống:

– Cuối năm 57, Dũng thường đến anh và lần nào cũng bảo anh tìm cách gặp lại em và Dũng sẵn sàng làm trung gian để giải hòa. Anh cảm động vì Dũng qúi mến anh và quá nhiệt thành muốn chúng ta trở lại với nhau. Anh cũng muốn thế, nhưng nghĩ đến mấy dòng chữ quyết liệt của em, nên đã nói với Dũng là khi tình cảm đã chết là hết, chẳng có gì nối lại được. Bao nhiêu năm nay nghĩ lại, thật sự anh không hiểu em và cứ truy vấn mãi về cái lỗi của mình – Nhân ngừng lại châm điếu thuốc khác. Trăng đã lên cao, soi tỏ những hàng cây trên đồi. Giữa không gian ấy có tiếng hát, tiếng nhạc từ một quán nhỏ vọng ra. Tiếng hát Việt Nam vang lên giữa núi rừng ở một xứ xa lạ. Bỗng Nhân nghẹn thở với ý nghĩ là chàng đang nói lại chuyện tình cho người tình của 30 năm trước nghe, trên đỉnh đồi của một hòn đảo cưu mang người Việt trên đường chạy trốn khỏi quê nhà. Nhân uống cà phê và hút mấy hơi thuốc cho dịu cơn xúc động, rồi tiếp: Anh truy vấn mãi về cái lỗi của mình. Nhưng có phải cái lỗi đó chỉ mình anh gây ra?

Điệp nói:

– Lỗi ở em. Bao nhiêu năm em ân hận về sự tự ái vô lý của mình. Lúc đó thái độ bất ngờ và lạ lùng của anh đã làm em nổi giận vì xấu hổ và tự ái.

– Bất ngờ và lạ lùng, em nói đúng, vì anh đã giật mình ngừng lại với ý nghĩ:  Học trò nghèo. Em thử nghĩ, nếu chúng ta đi tới và em có thai thì cuộc đời của chúng ta sẽ ra sao? Anh có thể nói gì với mẹ em khi bà tin yêu mình?

– Sao anh không nói những điều này ngay lúc ấy?

Nhân lắc đầu:

– Không thể nói, phải tự hiểu. Anh nghĩ em hiểu vì chúng ta đã lớn chớ đâu còn như thời đi thả thuyền ở Cát Bà.

Điệp nói:

– Em không nghĩ như thế mà nghĩ là anh coi thường em và chê em nên em hận.

Nhân nhìn Điệp một lúc:

– Sao lại có thể nghĩ như thế Điệp? Chúng ta là gì của nhau mà coi thường nhau? Nghĩ vậy là em quên mất lúc anh nắm bàn tay em suốt buổi ciné ở Quảng Yên, quên mất lời anh nói là ba năm em biệt tích khi di cư vào Nam, anh đã coi chiếc khăn tay, bức ảnh và cuốn Nắng Đào như sự hiện hình của em…  Mà sao em không viết thư nói những điều này, vì nếu viết như thế anh sẽ có thư trần tình và chúng ta sẽ cùng hiểu một lẽ chớ không có tình trạng mỗi người hiểu một cách để phải đoạn tuyệt nhau – Nhân ngừng lại uống mấy hớp cà phê, rồi tiếp: Cái đêm mà sáng hôm sau gia đình anh di chuyển lên Đà Lạt, anh với người bạn tên là Vịnh, người cho mượn chiếc xe Capri, đã đi bộ lên đường Võ Tánh. Khi anh rủ Vịnh đi bộ lên ngã tư Phú Nhuận, Vịnh hỏi: Có xe sao lại phải đi bộ?. Anh trả lời: Mấy năm bán báo, đi lại nhiều con đường thuộc khu Phú Nhuận, Chi Lăng, nhưng tôi nhớ nhất đường Võ Tánh,  vì Võ Tánh là đường về mỗi đêm. Đêm nay là đêm cuối cùng tôi muốn đi để ghi nhớ những ngày vui, buồn, mưa nắng trên đường này và đi bộ để giã từ nó. Nghe thế, Vịnh cười, gật đầu.

Tới ngã tư Phú Nhuận, anh quay lại và dừng ở chỗ cái xe bán bánh tiêu, dầu chao quẩy, ở phía trước nhà em, em nhớ cái xe đó chớ?

– Dạ nhớ, em cũng thường mua bánh tiêu, dầu chao quẩy ở đó.

– Anh mua 2 cái bánh tiêu, đưa Vịnh một cái và nói: Mấy năm bán báo, tôi đã ăn không biết bao nhiên cái bánh tiêu ở đây. Cứ mỗi đêm khi về là mua một cái. Vịnh đứng, anh ngồi trên cái ghế đẩu ở gần cột điện, nhìn lên phía gác, phòng của em, lúc đó khoảng hơn 10 giờ, hình dung là em đang ngồi học bài hay đọc sách và cảm được sự kín cổng cao tường của một tiểu thư khuê các. Vịnh mua thêm bánh tiêu, đưa anh một cái và nói: Ăn bánh tiêu nóng kiểu này ngon hơn ở nhà. Hai tay cầm hai cái bánh tiêu, anh vẫn nhìn lên phía cửa sổ có ánh đèn vàng… và lúc ấy anh mới cảm được là em đã ở xa và cao quá, với không tới.

– Với không tới hay là chê?

Nhân nhìn Điệp:

– Em vẫn giữ ý nghĩ đó ư?

Điệp cầm tay Nhân:

– Em buột miệng nói đùa, xin lỗi anh.

Nhân nâng ly cà phê uống mấy hớp, rồi nói:

Thời gian đó anh đọc một truyện ngắn của nhà văn Trung Hoa do Vi Huyền Đắc dịch, trong đó có hai câu thơ:

Thiên nhai hải giác hữu cùng thì

Duy chỉ tương tư vô tận xứ.

(Chân trời góc bể còn đi tới

Chỉ có tương tư không bến bờ)

  Cả tập truyện anh chỉ nhớ hai câu và hai câu ấy đã đi theo anh mấy chục năm.

Điệp lấy khăn tay lau những dòng nước mắt chảy dài trên má, rồi nắm tay Nhân:

– Sao lúc đó không đi tìm em? Anh đi tìm, em sẽ hết tự ái, hết hận.

– Thư đoạn tuyệt viết như thế, sao dám đi tìm.

– Em xin lỗi anh. Lỗi ở em, sự kiêu hãnh, tự ái của tuổi trẻ – Điệp bật khóc …. nghẹn lời – đã làm đời chúng ta dang dở.

– Chuyện đã gần 30 năm, mất nửa đời. Bây giờ gặp nhau mà hiểu được chuyện ngày trước thì đời chúng ta vẫn còn đó. Đừng khóc nữa Điệp… Hãy nghĩ đến hai cái vui em đang có trong tay: Cái vui thoát nạn và cái vui lưu lạc chân trời góc biển mà gặp được nhau.

Điệp ngước lên với cái khăn tay trên má:

– Cám ơn anh đã giải tỏa cho em cái hận ngày trước.

Nhân nói:

– Chuyện cũ buồn, nhưng đã qua. Chúng ta thả nó ra biển để nghĩ đến chuyện ngày mai.

Hai người yên lặng. Nhân lắng nghe Hà Thanh hát bản Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa và đang định nói với Điệp về chuyện đi định cư thì Điệp hỏi:

– Anh có biết ngày nào đợt được phỏng vấn kỳ ày sẽ đi Bataan không?

– Anh không biết rõ, nhưng theo lịch trình thuờng lệ thì khoảng 2 hay 3 tuần họ sẽ đưa em qua Singapore, rồi từ Singapore đi máy bay qua Phi Luật Tân. Em sẽ ở Bataan 6 tháng để học tiếng Anh và văn hóa Mỹ. Thời gian này cũng là thời gian để người tỵ nạn tìm người bảo lãnh ở Mỹ.

Điệp Nói:

– Em có người bạn thân ở Denver, tiểu bang Colorado. Chị ấy sẽ bảo lãnh em.

– Thế thì yên đường đi định cư.

– Vậy còn anh?

– Anh có mấy người bạn ở Cali, Texas và Washington, nhưng chưa định nhờ ai bảo lãnh. Khi nào qua Bataan sẽ tính. Theo bà Nancy thì những sĩ quan đi cải tạo, dễ xác minh, nên sẽ được phỏng vấn trong vòng 4 hay 5 tháng. Có thể anh sẽ gặp em ở Bataan 1 hay 2 tháng trước khi em đi Mỹ – Nhân cười – Biết đâu mình sẽ có dịp đi với nhau ra Manila.

Điệp như reo lên:

– Cứ hy vọng như thế đi anh.

Nhân nhìn Điệp một lúc, rồi nói:

– Mấy người bạn ở Mỹ gửi cho mấy trăm. Anh chia cho em một ít – vừa nói Nhân vừa với tay bỏ vào túi áo Điệp 200.

Điệp nói:

– Anh còn ở đây lâu, lại thời gian ở Bataan nữa, cho em rồi anh lấy gì chi dùng?

– Phụ nữ có nhiều nhu cầu hơn… Về thôi em ạ, kẻo lạnh – Nhân nói rồi đứng dậy vào quán trả tiền.

Dưới ánh trăng, Điệp cầm tay Nhân đi xuống đồi. Đến trước Barracks 16, thấy có nhiều người kê ghế ngồi ở hàng hiên, nên Điệp chỉ nắm chặt tay Nhân một lúc, rồi nói:

– Chiều mai anh lên ăn cơm với em.

Nhân gật đầu:

– Chiều mai anh lên.

oOo

Khi Nhân tới bến tàu Galang thì bến đã đầy người đưa tiễn. Sân trong là một cái nền xi măng dài lợp tôn với vách gỗ chỉ tới nửa người, đã có 5 hàng người ngồi chờ. Chừng 20 phút sau, 4 chiếc xe kiểu GMC chở đầy người từ Galang 2 tới. Nhân cười vẫy tay khi nhìn thấy Điệp trên xe thứ hai. Người trên xe xuống xếp hàng đi vào sân trong. Nhân đứng cạnh lối vào nên khi Điệp đi tới, chàng giơ tay nắm tay Điệp: Em đi may mắn, khỏe mạnh. Điệp nói: Anh ở lại khỏe mạnh. Hẹn gặp anh ở Bataan.

Đã tới giờ xuống tàu. Những người xếp hàng, nghe gọi tên, lần lượt đi xuống 4 con tàu sơn trắng, đậu dọc kè bến. Khoảng 15 phút sau thì tàu nổ máy, tháo dây buộc. Khi 4 con tàu rời bến thì trên bến có người khóc, người cười, người vẫy tay.

Nhân đứng tựa vào vách ván nhìn Điệp xuống tàu thứ ba, và đã nhìn theo con tàu cho tới khi màu trắng của tàu biến mất trong màu xanh của biển.

Nhân rút điếu thuốc, bật diêm châm. Hơn hai tháng trước đến đây vào đêm nên Nhân không thấy gì, chỉ biết là mình đã ngồi xếp hàng trên cái nền có mái tôn để người ta gọi tên, được một điếu thuốc thơm rồi lên xe về Barracks. Hôm nay Nhân mới thấy toàn cảnh bến tàu Galang. Công trình xây dựng đơn giản, thô sơ, gồm mấy ngôi nhà lợp tôn và một bến dài mà tàu lớn có thể vào như chiếc tàu của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đã đi nhặt những thuyền nhân tỵ nạn trên các đảo nhỏ vừa qua. Đối diện với bến tàu là một đảo nhỏ án ngữ, cách bến khoảng gần một cây số với rừng cây xanh biếc. Màu xanh của eo biển nhập vào màu xanh của đảo xanh thành một bức tranh. Bến tàu Galang là một bức tranh hiền hòa mà ngoạn mục. Nơi đây đã chứng kiến niềm vui của người cập bến và người rời bến.

Nhân nhìn ra khơi, biển xanh thẫm lóng lánh màu nắng vàng và nhủ thầm chỉ vài giờ nữa Điệp sẽ lên Singapore. Năm 1953 ở đảo Cát Bà, Nhân đã tiễn Điệp đi Hải phòng, cũng trên chiếc tàu sơn trắng mà Nhân đã nhìn theo cho tới khi tàu khuất sau những hòn núi giữa biển. Hơn 30 năm sau, trên đảo của xứ người, Nhân tiễn Điệp đi về một nơi bình yên không phải quê hương mình. Đứng lặng dõi theo những đám mây trắng ở chân trời, Nhân lẩm bẩm: Rồi mình cũng sẽ tới đó.

* Chu Tấn

******************

SỨ MẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA

 (CHU TẤN)

SỨ MẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA (CHU TẤN)

 Tháng 8 27, 2019

”…vấn đề “SỨ MẠNG VĂN HÓA” cần phải làm sáng tỏ và tiến hành một cách dũng mãnh hơn. Chúng ta khẳng định “Văn hóa Việt Nam có sứ mênh “Chống cái Ác để mưu cầu Tư Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Con Người và Xã Hội…”

– Văn hóa là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả. (Edouard Herriot)

– Văn hóa là tiếng khóc của con người khi đối mặt với số phận. (Albert Camus) 
– Tôi không muốn ngôi nhà của mình bị vây kín giữa những bức tường và những khung cửa sổ luôn luôn bịt chặt, tôi muốn văn hóa của mọi miền đất tự do thổi vào ngôi nhà đó. Nhưng tôi sẽ không bị cuốn đi bởi bất cứ ngọn gió nào. (Mahatma Gandhi)

I. DẪN NHẬP:

Người xưa thường đề cập tới VĂN KINH CHÍNH GIÁO một cách rất trang trọng. Vậy VĂN KINH CHÍNH GIÁO là gì? Xin thưa đây là nói tắt của 4 bộ môn quan trọng ảnh hưởng đến quyền lợi, họa phúc của người dân và sự hưng vong của Quốc Gia Dân Tộc. Bốn bộ môn đó là VĂN HÓA, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ và GIÁO DỤC. Mỗi bộ môn này đều có vai trò, chức năng và sứ mạng riêng song đều hướng đến một cứu cánh chung là phục vụ người dân được sống trong thanh bình, an lạc hạnh phúc,và đem lại sự giầu mạnh vinh quang cho Đất Nước. Đứng về mặt “cứu cánh” mà xét, thì đây là “Nguyên Tắc kinh điển”, là “Chính Nghĩa” hay “Đạo Thống Quốc Gia”. Nhưng chúng ta không quên là cả bốn bộ môn chính yếu này đều do con người sáng tạo và thiết dựng lên, nên trong tiến trình “hiện thực hóa” văn hóa chính trị, kinh tế, giáo dục …. không phải lúc nào cũng theo một “chiều thuận”, “tiến bộ” mà thường theo “chiều nghịch” “tha hóa” “suy đồi”. Tại sao lại có hiện tượng Văn hóa tiến bộ và Văn hóa suy đồi? Tại sao lại có chính trị cấp tiến và chính trị bảo thủ dẫn đến suy vong? Tại sao lại có nền kinh tế thịnh vượng và kinh tế lụn bại tụt hậu? Tại sao lại có nền giáo dục “Nhân bản” “Dân tộc”, “Khai phóng” và nền giáo dục “phi nhân bản”, “phi dân tộc”, “phản khoa học”, cổ hủ lỗi thời? Riêng bộ môn Văn hóa, bộ môn quan trọng nhất có vai trò, chức năng và sứ mạng nào trước các vấn nạn của thời đại ? Nhất là trong thời đại toàn cầu hóa? Nhằm làm sáng tỏ các câu hỏi trên, trong bài tiểu luận này chúng tôi xin thảo luận cùng quí bạn đọc các điểm sau:

– Tương quan Văn Hóa Chính Trị

– Họa phúc của người dân tùy thuộc cá nhân hay tập đoàn cầm quyền tốt hay xấu và tùy thuộc cơ chế chính trị xưa và nay như thế nào?

– Văn hóa Quốc Gia trong thời đại Toàn cầu Hóa

– Vai trò và chức năng Văn Hóa.

– Sứ mệnh Văn Hóa trong thời Đại Toàn Cầu Hóa.

II. TƯƠNG QUAN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ:

Trong bốn bộ môn VĂN KINH CHÍNH GIÁO, người xưa xếp Văn hóa đứng hàng đầu là rất đúng vì về phương diện chuyên môn, người ta phân tách ra thành các bộ môn khác nhau, nhưng đích thực theo nghĩa rộng và tổng quát nhất thì cả 3 bộ môn kia: kinh tế, chính trị, giáo dục hay nhiều bộ môn khác như tôn giáo, xã hội, luật pháp, y tế, địa lý, lịch sử, dân tộc học, nhân chủng học v..v… đều có liên quan ít hay nhiều, và đều thuộc về bộ môn Văn hóa cả. Có điều nổi bật nhất, đặc biệt nhất mà chúng ta cần chú ý là Văn hóa có tính chất lý thuyết, nặng về “phần TRI”, còn Chính trị thiên về “phần HÀNH” (Thực tế, thực tiễn, thực dụng, thực quyền, thực hành, điều hành….). Do đó mới đầu phát sinh ra 2 hiện tượng, rồi sau trở thành 2 chiều hướng lớn trong lịch sử nhân loại:

Khi văn hóa (TRI) và chính trị (HÀNH) cùng “song hành”, “thuận chiều” với nhau trong sứ mạng phục vụ người dân và phụng sự đất nước – vì nền văn hóa nào xuất hiện, sẽ có một nền chính trị “tương ứng” hay “đồng dạng” – TRI HÀNH HỢP NHẤT theo lối nói của triết gia Vương Dương Minh thì đây là điều ĐẠI PHÚC cho Quốc Gia Dân Tộc (sẽ đem lại kết quả “Dân giàu nước mạnh”, quốc gia văn hiến, văn minh).

Ngược lại khi Chính trị “không song hành”, “không thuận chiều” theo văn hóa, mà vì quyền lợi của cá nhân, phe nhóm, hay đảng phái lợi dụng khi nắm được chính quyền lũng đoạn chính trị, biến chính trị thành vai trò THỐNG SOÁI LÃNH ĐẠO tất cả, coi văn hóa, kinh tế giáo dục, pháp luật đều chỉ là “công cụ” của Chính tri thì đây là ĐẠI THẢM HỌA của Quốc Gia Dân aTộc.Nếu nền chính trị độc tôn, độc tài toàn trị này lại nhân danh một Ý Thức Hệ (Như ý thức hệ Cộng sản), đề cao “cách mạng bạo lực”, “thượng tôn giai cấp cầm quyền” theo chủ trương “vô sản chuyên chính” thì nền chính trị này không còn là nền chính trị phục vụ con người, phụng sự Tổ Quốc mà là nền chính trị phản dân hại nước, đầy đọa con người, giam hãm con người trong địa ngục trần gian, gieo rắc đau thương đói khổ kinh hoàng cho dân cho nước,tai họa không thể nào kể xiết đươc.

III. HỌA PHÚC CỦA NGƯỜI DÂN TÙY THUỘC CÁ NHÂN HAY TẬP ĐOÀN CẦM QUYỀN TỐT HAY XẤU VÀ TÙY THUỘC CƠ CHẾ CHÍNH TRỊ XƯA VÀ NAY NHƯ THẾ NÀO?

Họa phúc của người dân tùy thuộc cá nhân hay tập đoàn cầm quyền tốt hay xấu xưa và nay như thế nào?

A.1- Thời đại Quân chủ phong kiến xưa:

Dù là tại Trung Hoa hay Việt Nam trong thời đại Quân Chủ Phong kiến, đều có các đấng Minh Quân (Vua sáng suốt) điển hình như Vua Lý Thánh Tông (1054-1072) của Việt Nam, Vua có lòng nhân từ, “biết thương dân như con đỏ”… và các quan lại “thanh liêm”, “chính trực” “có đức có tài “ hết lòng chăm sóc đời sống của dân chúng, lo cho dân được an cư lạc nghiệp, được cơm no, áo ấm, đời sống sung túc, giầu có hạnh phúc… Nhưng tiếp theo những vị “Chúa Sáng Tôi Hiền” kể trên, cũng thường xuất hiện những Hôn quân (Vua u tối-chỉ biết sống xa hoa trụy lạc – không ngó ngàng gì đến đời sống đói khổ của dân chúng ) và bọn quan lại vô tài kém đức, chỉ biết hành hạ dân, bóc lột dân bằng nhiều hình thức sưu cao thuế nặng, không bình trị được đất nước, khiến chiến tranh triền miên, lại thêm tệ nạn tham nhũng, cường hào ác bá khiến người dân chịu khổ cực trăm chiều… Nhà ái quốc Phan Bội Châu đã không tiếc lời lên án loại vua quan hủ lậu đó bằng lời thơ vô cùng thấm thía:

“Một là Vua sự dân chẳng biết
Hai là quan chẳng thiết gì dân
Ba là dân chỉ biết dân
Mặc quân với quốc, mặc thần với ai”

(Trích trong “Hải Ngoại Huyết Thư)

Thực ra khi vua thì u tối, quan lại tham ô nhũng lạm thì thân phận người dân bị áp bức bóc lột đến tận cùng … Người dân “thấp cổ bé miệng” nào biết nương dựa vào ai, trông cậy vào ai, kêu cứu nơi đâu để giải oan cho bao nỗi oan khuất, bất công phi lý mà mình phải chịu đựng…. Ca dao Việt Nam cũng đã cực tả thân phận “thấp cổ bé miệng” của người dân dưới chế độ chuyên chế thối nát thời quân chủ phong kiến

“Ếch kêu dưới vũng tre ngâm
Ếch kêu mặc ếch, tre dầm mặc tre” …

A-2: Thời Cộng sản Thống trị nay:

Thời quân chủ phong kiến, nhà vua nắm toàn quyền cai trị đất nước, sang thời đại Cộng sản, Đảng chính là “Vua Tập thể” cai trị dân bằng đường lối chính sách vô cùng độc hại và tinh vi hơn nhiều. Sự sai lầm độc ác, không còn trong phạm vi cá nhân mà trở thành sự sai lầm, độc ác có tính hệ thống … gieo rắc đại họa cho dân, chưa từng thấy trong lịch sử loài người! Ngoại trừ những đảng viên cộng sản gộc, nay nghiễm nhiên trở thành “giai cấp thống trị mới”, còn toàn thể dân chúng, dù thuộc thành phần “nông dân”, “công nhân” đến “trí thức” đều là nạn nhân của chế độ CS:

Thân phận giai cấp Nông Dân:

“Nông dân là khối người đông đảo chiếm đến trên 70% dân số cả nước.Khi chưa chiếm được chính quyền Đảng CS ra sức ve vãn, phủ dụ nông dân, gọi nông dân là «hậu bị quân», là “một trong những chủ lực quân” của “cách mạng” để họ “sướng cái bụng” đem tiền của, sức lực và thậm chí cả thân mạng của mình hết lòng ủng hộ ĐCS với niềm tin vững chắc mà ngây thơ là khi cách mạng thành công, ĐCS sẽ thực hiện “ước mơ ngàn đời” của mình là “người cày có ruộng”! Nhưng thực tế lại quá phũ phàng cho bà con nông dân nước ta!

Quả lừa tiếp theo là ĐCS “phát động cải cách ruộng đất” nói là để tiêu diệt giai cấp địa chủ, tước đoạt ruộng đất của giai cấp này chia cho dân cày, trước nhất là bần cố nông. “Thắng lợi vẻ vang” (!) của cuộc Cải Cách Ruộng Đất hồi giữa thập niên 50 của thế kỷ trước, báo chí đã nói nhiều, giờ chỉ xin nhắc lại vài điều thôi. CCRĐ thực sự là một cuộc thảm sát có tính diệt chủng đã làm cho 172 nghìn 008 người dân ở nông thôn, chủ yếu là nông dân, trở thành nạn nhân, nghĩa là bị bắn giết, đọa đày đến chết, trong số đó 123 nghìn 266 người (tức là 71,66%) về sau được xác nhận là oan; riêng 26 nghìn 453 người bị quy là địa chủ cường hào gian ác thì có đến 20 nghìn 493 người (tức là 74,4%) được xác nhận là oan! Còn 62 nghìn người bị quy là phú nông thì có đến 51 nghìn 003 người (tức là 82%) được xác nhận là oan! Trong số những người bị oan cũng có hàng nghìn cán bộ, đảng viên cộng sản (tài liệu chính thức trích từ cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam, tập 2). Đó là chưa nói đến những hậu quả nguy hại khác của cuộc tàn phá khủng khiếp ở nông thôn mà ĐCS gọi là “cuộc cách mạng long trời lở đất” là: bằng cuộc CCRĐ theo khuôn mẫu Mao-ít, ĐCS đã phá vỡ truyền thống tốt đẹp,hòa hiếu, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn mà cha ông ta đã tạo dựng hàng mấy nghìn năm trước; đã phá hoại đạo lý, luân thường của dân tộc và tạo nên một lối sống giả dối, man trá, điêu ngoa, vu khống, bất nhân mở đầu cho sự băng hoại đạo đức, nhân cách sau này; đã phá hủy cuộc sống tâm linh vốn có lâu đời, vì chùa chiền, miếu mạo, nhà thờ, những nơi thờ tự… đều bị phá phách, triệt hạ… CCRĐ kết thúc, một số bần cố nông hớn hở được nhận ruộng tưởng rằng “ước mơ ngàn đời” của họ đã bắt đầu được thực hiện. Họ được chụp ảnh, quay phim để ĐCS tuyên truyền khoe khoang “công ơn” của đảng đối với nông dân, thì… chưa đầy một năm sau, ĐCS đã lùa những bần cố nông đó, cùng các nông dân khác bắt họ đem ruộng đất tư vốn có của họ vào hợp tác xã, vô hình trung ĐCS tước đoạt mất quyền tư hữu mà giao ruộng đất của họ cho các chủ nhiệm hợp tác xã quản lý. Đấy, ĐCS đã thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” một cách bịp bợm như vậy!

Đến quả lừa “vĩ đại”, tồi tệ nhất của ĐCSVN đối với nông dân và nói chung cả với toàn dân ta, là… khi soạn thảo và thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, bằng điều 19 của Hiến pháp, ĐCS đã nhẹ nhàng, gần như thầm lặng, không “long trời lở đất” tí nào, chuyển quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái gọi là “sở hữu toàn dân”! Từ đây, thực tế ĐCS đã “quốc hữu hóa”, hay nói chính xác hơn “đảng hữu hóa” ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây, quyền tư hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong tay sở hữu của ĐCS là đảng độc tôn thống trị đất nước” (1*) Từ đây dẫn tới hiện tượng DÂN OAN….. lại càng bi thảm gấp bội, gây bao đau thương cho nhân dân không bút nào tả xiết ….

Thân phận giai cấp Công Nhân

Theo ông Trần Quang Thành một đảng viên CS đã bỏ đảng trốn ra nước ngoài để vận động Quốc tế yểm trợ cho việc thành lập Cộng Đoàn Độc Lập ở trong nước, đã cho biết về số phận người công nhân dưới quyền thống trị của CS hiện nay như sau:

“Năm 2006 thấy tình hình Việt nam có những cuộc đình công mà không có cuộc hướng dẫn của ai cả thì một số anh em trong nước và ngoài nước thấy cần thiết phải thành lập Công Đoàn độc lập. Ngày 20/10/2006 tại Hà Nội đã tuyên bố thành lập Công Đoàn độc lập Việt Nam.Và cũng kêu gọi chính phủ Việt nam cho phép Công Đoàn độc lập được hoạt động để giúp đỡ những người công nhân Việt Nam.

Sau đó 1 tuần tại Warsaw, thủ đô nước Cộng Hòa Ba Lan, chúng tôi đã tổ chức hội nghị về quyền lao động quốc tế gồm trên 70 thành viên,gồm cộng đồng người Việt và quan khách Quốc Tế trong nhà Quốc hội Ba Lan. Mục đích của cuộc họp đó để yểm trợ Công Đoàn độc lập trong nước.Cuộc họp đó được chính phủ Ba Lan hết sức ủng hộ, ngồi ghế chủ tọa là ông Phó chủ tịch Cộng đoàn Đoàn kết và ông Chủ Tịch Hiệp Hội Tự Do Ngôn Luận.

Nhưng một điều đáng tiếc là sau khi Việt Nam họ gia nhập tổ chức WTO và họ tổ chức thành công hội nghị APEC tại Hà Nội thì họ nuốt lời hứa và quay ra đàn áp những người tranh đấu vì quyền nghiệp đoàn của công nhân. Những người sáng lập và cổ vũ cho nghiệp đoàn như là luật Sư lê Thị Công Nhân, Luật Sư Nguyễn Văn Đài đều bị bắt. Anh Lê Trí Tuệ là Phó chủ Tịch Công đoàn độc lập bị truy đuổi và sau đó phải trốn chạy sang Cam Pu Chia, nhưng cũng bị nhà cầm quyền Việt Nam bắt và đến nay không rõ tung tích.

Năm 2008 một nhóm các anh em hoạt động dưới cái tên là Phong trào lao động Việt tiếp tục hoạt động bán công khai, giúp đỡ những người công nhân.

Khi nhà máy Mỹ Phong ở Trà Vinh quịt lương của công nhân, quịt bảo hiểm xã hội thì anh em đã hướng dẫn trên 10 ngàn công nhân đình công trong vòng 1 tuần. Giới chủ nhân đã đáp ứng phần lớn yêu cầu của công nhân. Nhưng sau đó nhà cầm quyền bắt ba người hướng dẫn trực tiếp cho công nhân. Họ tuyên án anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm tù, Cô Đỗ Thị Minh Hạnh, cũng như anh Đoàn Huy Chương 7 năm tù.

Ngoài ra chúng tôi cũng nói rõ cho thế giới biết rằng hiện nay Việt Nam có Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam, nhưng họ là cánh tay nối dài của Đảng Cộng sản. Tổng liên Đoàn Lao Động Việt nam từ khi ra đời từ năm 1946 đến giờ chỉ giữ vai trò thay mặt đảng kiềm tỏa người công nhân chứ không tranh đấu cho quyền lợi của người công nhân !!!

Cộng việc của chúng tôi rất là thầm lặng. Anh em ở trong nước hoạt động hầu như là bí mật”… (2*).

Thân phận người Trí Thức:

Tại Việt Nam chỉ có các cá nhân các nhà trí thức, chứ không có tập thể trí thức. Đa số giới trí thức đều sơ hãi cam tâm làm công cụ cho Đảng CS, nói theo lệnh Đảng! Một thiểu số can đảm nói lên tiếng nói của Dân, đòi hỏi Dân Chủ Tự Do và Nhân quyền cho mọi người công dân Việt Nam. Họ là những người bất đồng chính kiến với nhà cầm quyền và thường bị gán ghép chụp mũ là những phần tử phản động bị theo dõi, trù dập bắt bớ tù đầy, hay bị ám hại thủ tiêu! Một số người bị tra tấn, đánh chết ngay trong đồn công an rồi vu cho chết vì bệnh ác tính hay treo cổ tự tử !!!….

Họa phúc người dân còn tùy thuộc vào Cơ Chế Chính Trị Xưa và Nay như thế nào?

B1- Thời Quân Chủ Phong Kiến Xưa:

Tại Đông phương,trong thời đại quân chủ phong kiến xưa, có 3 đường lối cai trị dân nổi bật nhất, và được nhiều người bàn luận nhiều nhất, sôi nổi nhất là : ĐẾ ĐẠO, VƯƠNG ĐẠO và BÁ ĐẠO.

– ĐẾ ĐẠO:

Đây là đường lối cai trị dân bằng Đạo Đức (còn có tên gọi khác là “Đạo trị” hay “Đức Trị”) của các bậc Thánh Vương mang tính chất Hoàng kim thời Đại -thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Mục đích của Đế Đạo là xây dựng một xã hội lý tưởng, đặt nền tảng trên tình thương lòng nhân ái. Thông qua “lễ nghi và giáo dục” mọi người dân biết yêu thương tha thứ bao dung nâng đỡ nhau, không hề có sự tranh giành chém giết lẫn nhau… Nhà vua và các quan lại đều là những nhà đạo đức, nêu gương sáng cho dân, noi theo, giáo hóa dân xa lánh điều ác, thực hiện những điều thiện, tạo nên thuần phong mỹ tục, đưa việc hành thiện trở thành thói quen thường ngày của con người. Đưa xã-hội đi vào con đường Chân Thiện Mỹ một cách tự-nguyện, tự-giác chính là mục-đích của Đế-Đạo. Kết quả của xã hội “Đế Đạo”: Nhà nhà đi ngủ mà không cần đóng cửa. Ngoài đường không có ai nhặt lươm của rơi… Thật là lý tưởng, thật đáng mong ước!

Đế Đạo lấy việc thuyết phục giáo hóa làm tôn chỉ hướng dẫn và uốn nắn xã hội. Đế Đạo không dùng đến pháp luật, nên không cần xây dựng nhà tù hay các biện pháp chế tài nào khác…

Nếu bất đắc dĩ mới phải dùng đến biện pháp chế tài! Mà khi đã dùng đến biện pháp chế tài thì có nghĩa là đường lối, tôn chỉ Đế Đạo đã thất bại !!?? “Lý tưởng Đế Đạo đã bị sụp đổ !! Đế Đạo chưa bao giờ nếm mùi thất bại và sụp đổ, lý do dễ hiểu vì Đế Đạo chưa bao giờ được thực hiện trên trái đất – bất kỳ ở Đông hay Tây Phương! Đế Đạo thực chất chỉ có trong tưởng tượng hay trong ước mơ của loài người! Dẫu sao Đế Đạo cũng đem lại cho người đời một GIẤC MƠ ĐẸP không kém GIẤC MƠ THIÊN ĐƯỜNG…

Trong lịch sử Trung Quốc có nhắc đến Đế Đạo thời Vua Nghiêu (2337-2258 TCN) vua Thuấn ( ?- 2184 TCN) – được coi như khuôn vàng thước ngọc của Hoàng Kim Thời Đại! Theo Trúc Thư Kỉ niên: Việc Vua Nghiêu truyền ngôi cho Thuấn chứ không truyền ngôi cho con là Đan Chu thường được sử sách đời sau xem là tấm gương mẫu mực của việc chọn người tài đức chứ không vì lợi ích riêng tư của dòng họ.(3*)

Trong thiên Thái Bá sách Luận ngữ, Khổng Tử ca ngợi Đế Nghiêu: “làm vua như Nghiêu thật là vĩ đại! Thật là cao quí thay! Chỉ có trời là cao lớn nhất, cũng chỉ có Nghiêu thật là người biết đựa vào đạo trời. Công đức vua Nghiêu to lớn khôn cùng, dân chúng không thể ca ngợi cho xiết. Công lao của Nghiêu vô cùng vĩ đại. Chế độ lễ nhạc do Nghiêu đặt ra vô cùng sáng tỏ, chiếu tỏa hào quang khắp mọi nơi”

Các thế hệ sau Khổng Tử thường nêu lên câu hỏi: Tam Hoàng Ngũ Đế thời sơ sử của Trung Quốc có phải là những con người bằng xương bằng thịt hay đó chỉ là “Huyền Thoại”? Liệu có một Thời hoàng kim thật sự thời Vua Nghiêu vua Thuấn? Tại sao Đức Khổng Tử hết sức ca ngợi công lao của Vua Nghiêu mà không nói rõ bí quyết hay đường lối trị nước theo Đế Đạo của Vua Nghiêu như thế nào? Nếu “Đế đạo chỉ là giấc mơ không có thật trong thực tế thì lời khen công đức của Vua Nghiêu của Không Tử cũng chỉ là “huyền thoại? hay “hư chiêu” mà thôi ư ??

Theo quan điểm của chúng tôi: Sở dĩ Đức Khổng Tử hết lời klhen ngợi công lao của Vua Nghiêu vì quả tình Vua Nghiêu là người Đạo cao Đức trọng thật sự… Hơn nữa Không Tử muốn lấy Tấm gương Vua Nghiêu làm khuôn vàng thước ngọc cho các thế hệ Vua Chúa sau này, lấy đó để làm ĐIỂN MẪU cho việc cai trị dân đúng theo Đạo Trời – nhằm giúp cho thế hệ các Vua sau này nếu không theo được ĐỀ ĐẠO thì ít ra cũng là theo VƯƠNG ĐẠO, chứ đừng đi theo BÁ ĐẠO hay TÀ ĐẠO… Đây là “Chiến thuật” hay “Đạo thuật” của Không Tử áp dụng phương pháp:“Thác Cổ Cải Chế”(Thác lời người Xưa để răn dạy Người Thời Nay… Thiết nghĩ đây cũng chính là Bản Tâm của Đức Khổng Tử vậy..).

VƯƠNG ĐẠO:

Nói vắn tắt Vương Đạo là dùng Đức trị, hay Nhân Trị còn bá đạo dung lực trị, “Dĩ lực phục nhơn giả Bá, dĩ đức phục nhơn giả Vương (Mạnh Tử Công Tôn Sửu) Dùng võ lực mà thu phục người là “Bá đạo”. Dùng đức mà thu phục người là “Vương đạo”…Theo triết gia Linh Mục Kim Định, chúng ta cần xác định lập trường hay chủ trương đó bằng đưa ra những điểm khác nhau theo 5 nguyên tắc sau đây:

Nguyên Tắc Thứ Nhất: Cử Hiền

Trước câu hỏi quyền bính thuộc về ai? Người có tài đức hay võ lực, hoặc dòng tộc?

Vương đạo chủ trương thuộc người hiền đức, cắt đặt người hiền tài có năng lực (cử hiền dữ năng) Khi Mặc Tử viết: “Thượng hiền cử năng vi chính” “tôn trọng người có đức, dùng người có tài năng làm chính sách (Chương Thượng Hiền) là tỏ ra Mặc Tử còn trung thành với Khổng trong phương diện này). Chủ trương đó chống với câu “Bất thượng hiền sử dân bất tranh” của Lão Tử và cũng là đối lập với câu “kế thừa huyết thống Thượng Đế” của quí tộc, xây trên thần thoại với chế độ kế tử “cha truyền con nối” kể cả trong hàng quan lại. Đó là chủ trương “thiên hạ vi gia các thần kỳ thân” lấy thiên hạ làm của riêng gia đình ngược với câu Luận ngữ “Phiếm ái chúng nhi thân nhân”, “Rộng yêu mọi người nhưng thân hơn với người nhân đức” (L.N.16) sẽ được giảng diễn ra thành thuyết “Đại đồng” trình bầy trong Thiên Lễ vận“ Đại đạo chi hành dã, thiên hạ vi công”.

Nắm chủ trương then chốt đó rồi ta dễ dàng hiểu những câu khác. Chẳng hạn câu “Thiên mệnh mỹ thường” trong Kinh Thi, thiên Đại Nhã, thiên mênh không phải trường tồn, có đức thì còn, mất đức thì hết, vì quyền bính thuộc người Hiền Đức chứ không thuộc dòng tộc. Câu đó thường được nhắc nhở luôn dưới nhiều hình thức. Mạnh Tử nói:“Lập hiền vô phương”,(IV B.20) cắt đặt người hiền thì không kể đến phương, tức nơi xuất xứ, cũng lại Mạnh Tử viết: “Tam đại chi đắc thiên hạ giả dĩ nhân, kỳ thất thiên hạ giả dĩ bất nhân” “Ba đời vua trước được thiên hạ vì có đức nhân, mà mất thiên hạ vì không có đức nhân: Nhà Hạ lên với Vũ có nhân, mất với Kiệt bất nhân. Nhà Thương được thiên hạ với Thành Thang có nhân, mất thiên hạ với Văn Võ, Châu Công nhân đức, mất thiên hạ với U lệ bất nhân (Mạnh,VII3). Theo nguyên lý đó Khổng Tử chỉ chú trọng tài đức mà không kể đến dòng họ. Trọng Cung có tài đức mà không được đắc dụng chỉ vì thuộc tầng lớp thường dân. Khổng ví Cung với con bò tơ sắc đỏ sừng tốt (đủ đều kiện để tế) người ta không dám dùng để tế vì mẹ nó lang, nhưng thần sông núi có từ đâu? (L.N.VI.4) Theo chủ trương kế hiền thì Trọng Cung không những nên cử làm quan mà cả đến làm Vua “Ung giả sử nam diện” Trò Ung (tức Trọng Cung) có thể bầu làm Vua (L.N.VI.1).Ông thường khen Tử Lộ mặc dầu áo thường cũng không ngại đứng vào hàng đại thần (L.N.IX.25) và hy vọng lớn nhất của ông đặt vào một người bình dân nghèo xác sơ trong nhóm môn đệ tức Nhan Hồi. Cũng trong tư tưởng đó Khổng Tử đề cao sự quan trọng của chức quan Đại Thần.Do đó ông đặt việc Vua Nghiêu sợ ông Thuấn không ra giúp mình, Thuấn sợ ông Cao Dao bất hợp tác (Mạnh III.4) Trọng Cung vấn chính viết “tiên hữu ty, xá tiểu quá, cử hiền tài” (XIII.2) Dưới con mắt Khổng lúc nhà Châu thịnh đạt nhất là thời nhiếp chính của ông Chu Công.Trong L.N.XIV.20 hỏi tại sao Vệ Linh Công vô đạo mà nước còn? Được trả lời là tại biết giao cho quan đại thần cai trị (Trọng Thú Ngữ giữ ngoại giao, Chúc Đài giữ nội vụ. Vương Tôn Giả giữ bộ binh) vì thế mà nước còn. Đó là chủ trương “quan cai tri vua kiểm soát” tức sự quan trọng đặt nơi quan chứ không nơi vua, quan phải trung với đạo chứ không trung với cá nhân vua “dĩ đạo sư quân, bất khả tắc chỉ” (L.N.XI.23). Chủ trương đó sau này Mạnh Tử đặt nổi bằng câu “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” hoặc câu của Tuân Tử “Trụ bạo quốc chi quân nhược tru độc phu” (Tuân Tử chính luận) giết vua tàn bạo cũng như giết kẻ độc phu (chẳng thần thánh gì). Thật là sớm sủa khi ta so sánh với sự kinh hoàng của bao người Tây Phương coi việc giết Louis XIV như một tội phạm sự thánh. Chung qui đó là hậu quả của thuyết kế Hiền.

Nguyên Tắc Thứ Hai: Giáo Chi

Chủ trương cử hiền tài như trên thật đúng là Tinh Thần dân chủ chỉ chưa có phổ thông đầu phiếu. Nhưng bù lại ông đã có sự bình dân hóa việc học cố gắng giật cái độc quyền học thức ra khỏi tay phái quyền quí để mở rộng ra trong quần chúng, không phân biệt quí tiện: “Hữu giáo vô loại”(l.N.XV.38) trong việc giáo hóa không có phân biệt giai cấp quí tiện sang hèn. Với chúng ta hiện nay, điều này quá tầm thường nhưng đời Khổng thì đó là một cuộc cách mạng tận nền. Điều đó dễ hiểu khi ta nhận xét bên các nước Âu Mỹ có tiếng là tiên tiến mà mãi tới năm 1850 mới mở cửa giáo dục cho toàn dân. Còn trước kia dành riêng cho quí tộc (C.C 152) Như thế ta thấy việc của Khổng thật là táo bạo sớm sủa và là một cú chí tử đánh vào thể chế “Quyền quý thế tập” dưới con mắt của họ việc nhận người nghèo hèn, người thường dân vào trường dạy cai trị là một việc phá rối quốc gia. Đời ông việc giáo dục toàn dân chưa được mở rộng, số người chống đối vì thế còn ít, sau nhờ môn đệ hết sức nối chí Khổng Tử là dạy đời không biết mỏi mệt (Hối nhân bất quyện) nên mới gây ra nhiều phản đối pháp gia chủ trương giữ độc quyền giáo dục cho quyền quý thế tộc.

Ở đây nên ghi nhận câu trong Luận Ngữ “dân chỉ có thể theo chứ không thể hiểu được” (dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi) (L.N.VII 10.) coi như nghịch với chủ trương trên đây. Nhưng nên chú ý, nếu câu đó thật là của Khổng Tử thì chúng ta không biết được trong trường hợp nào ông đã nói câu đó và nhân đấy giới hạn câu đó đến đâu (C.C.219). Do đấy có thể dịch khác nhau, hoặc “dân chỉ cần sai khiến, không cần dạy bảo” như thường thấy. Dịch thế là đi ngược với chủ trương “giáo chi” vừa nói trên… Hoặc là “dân chỉ có thể theo mà không biết được” thì dẫu ngày nay cũng không có gì đáng trách cả, bởi nói về đạo lý hay cả về chính trị, thì làm sao cho toàn dân hiểu được. Ngay đời ta giáo dục phổ thông đã tràn ngập mà đại chúng còn chưa hiểu nổi chính trị và đạo lý phương chi đời ấy. Nên thánh hiền theo nguyên lý tùy năng lực, ai có khiếu học hiểu thì đi học mà làm quan để làm chính trị, còn nếu không đủ năng lực thì nên làm theo. Nếu không chịu hiểu như thế thì câu trên phải cho là xen vào sau, nó giống với câu Lão trong Đạo Đức Kinh 65 “dân mà khó cai trị là tại nó học biết” Câu đó đi ngược với câu “tiểu nhân học đạo tắc dị sử giã” (L.N.17-24) người thường dân có học đạo thì dễ cai trị.

Nguyên tắc Thứ Ba: Phú Chi

Muốn cho dân nhờ giáo dục thì phải có của dư dả mới tìm ra thì giờ nhàn rỗi đi học, nếu như bụng đói thì hết có thể nói đến học với hành, có hô hào cũng vô ích. Vì thế tất cả sách Mạnh Tử phản chiếu mối lo âu làm sao dân giàu “dân khả sử phú dã” (Mạnh Tử VII.23) không có sách nào trong triết học tha thiết về vấn đề làm giàu bằng, nên trước khi nói “giáo chi” Khổng Tử đặt “phú chi” Điểm này cũng phản lại pháp gia chủ trương làm giàu Chúa, yếu dân (phú quốc, cường binh) Khổng trái lại làm giàu dân: “bá tánh bất túc, quân thục dữ túc” (L.N.XII.9) bá tánh không đủ ăn thì vua đủ ăn với ai. Ông đã từ Nhiễm Hữu là người đi sái tinh thần “phú chi” bằng câu “quân tử chu cấp bất kể phú”( L.N.VI 3) “người quân tử thì cấp phát cho khắp hết, chứ không gia thêm cho người giàu”. Kinh Dịch quẻ Ích . “Tổn thượng ích hạ, dân duyệt vô cương” “Lời Thoán nói rằng: quẻ Ích là lấy bớt của người trên mà thêm cho người dưới thì dân ủng hộ vô bờ bến”.

Chính Khổng Tử thường tuyên bố coi phú quí phi nghĩa như phù vân (L.N.VII 15). Muốn hiểu câu này, nên chú trọng thời đó chưa có kỹ nghệ, buôn bán chưa mở mang, người ta không có cách làm giàu nào mau chóng hơn là làm quan để bóc lột dân chúng. Chính vì tình trạng đó có câu “vi nhân bất phú, vi phú bất nhân (Mạnh Tử III3). Vì thế Khổng nói “Nước vô đạo mà giàu có phú quí là điều đáng sỉ nhục, cũng như nước có đạo mà mình nghèo nàn bần tiện cũng là đáng sỉ hổ” (L.NVIII.14). Khi Quí Khương Tử ngỏ ý sợ dân ăn trộm, Khổng Tử liền trả lời thẳng: Nếu ông trút bỏ được lòng tham, thì có thưởng dân cũng không thèm ăn trộm (cẩu tử bất dục, tuy thưởng chi bất thiết) (L.N.XIII.17)

Điều lo âu của ông vẫn là “bất hoạn quả như hoạn bất quân (L.N. XVI.1). Không lo không có của mà lo có của nhưng chia không đều, vì nó dễ chảy vô vào tay mấy người có quyền thế.

Nguyên tắc quân phân tài sản đó sau này được Mạnh Tử phát huy rộng trong chủ trương “Minh quân chế dân chi sản” (I,6) bậc minh quân phải lo phân chia tài sản đều cho dân (đọc thêm Mạnh 1,12,36, 38) và làm cho dân giàu thì nước mạnh. Và nhân đấy ông đề cao phép tỉnh điền cũng như Nho giáo chống đối việc bán đất mà sau này đời nhà Tần, Thương Ưởng đã cho phép (Zanker 193. C.A Maspéro314). Cho bán đất tức coi đất là của riêng (thiên hạ vi gia) và nếu coi là công thì phải để chung rồi cứ thời hạn mà phân phát “Quân cấp”đời Lê Lợi cũng như phép hạn chế ruộng không được giữ quá 10 mẫu thời Trần bên ta là hậu quả của thuyết quân phân này. Gọi là công điền hay là đất của Vua chỉ khác danh từ mà thôi. Nhiều người tỏ ý mỉa mai những luật cấm không ai được tậu đất làm của tư kẻo mất quân bình. Mà không thấy rằng từ khi bãi bỏ thể chế đó đã cho phép mua bán đất (Đời Tần) thì sự chênh lệch trở thành quá đáng: đưa đại chúng vào cảnh nông nô cơ cực làm cớ cho cuộc nổi loạn của Vương Mãn, An Lộc Sơn. Ở những kỳ đó thì đất vào tay những đại điền chủ, ruộng công chỉ còn 5% (Xem chẳng hạn Histoire de la Chine de René Grousset: 77,114, 208, và 353) Đây là một thí dụ cụ thể chứng tỏ khi một thể chế được bảo trợ là vì nó gây điều kiện thuận lợi cho chủ trương Vương đạo. Tuyên bố mọi đất của Vua tức là một lối thi hành câu “Thiên hạ vi công” nhờ đó “Người 50 tuổi có lụa mà mặc, 70 tuổi có thịt mà ăn (Mạnh Tử VII.22). Những cải cách điền địa hiện nay, những khẩu hiệu “đất đai thuộc người cày người cấy” tuy khác thể chế mà tinh thần đều là “Hoạn bất quân” của người xưa vậy.Không nên câu chấp danh từ để nhắm mắt trước thực tại.

Nguyên tắc Thứ Tư: Lễ Trị

Con người hễ đã giàu có thì sinh lễ nghĩa, nhân vị cao lên. Bởi vậy tiếp theo chương trình “giáo chi”, “phú chi” ông chủ trương lễ tri “Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thá cách” Dùng chính trị hình luật mà cai trị thì dân mới chỉ biết tránh phạm luật, dùng đạo đức và lễ nhạc dân mới trau dồi nhân cách”

Việc Lễ trị tuy phe đối lập có chủ trương nhưng muốn dành riêng cho phái quyền quý còn thường dân thì trị bằng luật “lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu”(Couvreure 153) Tuy câu này có trong Lễ ký, nhưng chắc do Pháp gia đưa vào, vì nó trái với chủ trương không phân biệt quí tiện của Khổng Tử “Quân tử vô chúng quả, vô tiểu đại”(L.N.XX.20). Người quân tử không phân biệt ít hay đông, lớn hay nhỏ, như không phân biệt Kinh Thượng ở đâu cũng phải cư xử cung kính, trung tín “Cư xử cung chấp sự kính. Dữ nhân trung. Tuy chí Di Địch, bất khả khí dã” ( L.N.XIII.19) “cư xử phải tự trọng, khi thi hành việc (với người khác) phải kính tôn. Đối với tha nhân phải trung tín. Giầu sang miền Di Địch (Mường rợ 785) cũng không thể bỏ được những nguyên tắc đó (không được phân biệt Kinh với Thượng trong lối đối xử. Ở đâu cũng là người cả)

Trước kia người ta dành riêng cho quý tộc được quyền đặt tên tự, mãi sau này mới mở rộng đến toàn dân. Đó là việc làm của Thưởng Ưởng nhưng người cổ động đâu tiên là Khổng Tử (C.A. Maspéro P.95). Và lễ gia tiên, ban đầu cũng dành cho quý tộc, về sau nhờ Khổng Tử cổ động nên đã mở rộng tới toàn dân không phân biệt sang hèn (R. Grousser, Histoire de la Chine (P.15). Như thế không thể bảo Khổng Tử phân biệt quý tiện, mà chính ông là người muốn đại chúng hóa lối cai trị bằng Lễ.

Bởi nó là lối cai trị trung dung giữa hai Thái Cực là hình pháp và thả lỏng, và là lối xứng hợp quan niệm con người cao cả hơn hết như sẽ bàn sau.

Nguyên Tắc Thứ Năm: Thành Tín

Lễ trị là một lối cai tri tôn trọng người dân; coi người dân như người cộng tác với chính quyền. Đã nói đến cộng tác thì chữ Tín là cần “Thượng báo Tín tắc dân mạc cảm bất dụng tình (L.NXIII). Nếu người trên thành tín thì không ai không hết tình. Đã tín thì phải coi ý dân làm trọng. Bên phía pháp trị coi trọng thần lực và dùng quyền uy vũ lực, ít chú ý đến lòng dân. Bên Lễ trị thì chủ trương lất tín làm đầu “Kính ư dân hưng, kính ư thần vong” (Tả truyện). Kính nể dân thì hưng thịnh, đi cầu quỉ thần thì sẽ bị diệt vong và “đắc thiên hạ hữu đạo, đắc kỳ dân, tự đắc thiên hạ hỹ (Mạnh Tử IV.9), có một đường lối để được thiên hạ, đó là được lòng dân và “đắc hồ khâu dân nhi vi thiên tử (Mạnh Tử VIIb, 14) được lòng dân ở đồng bái là làm được thiên tử (nên đọc cả câu trong sách)

Trong ba vấn đề “túc thực, túc binh, dân tín nhi dĩ hĩ” thì ông cho Tín là quan trọng hơn cả bởi vì “dân vô tín bất lập” (L.N.XII.7) “Dân không tín nhiệm chính quyền hết đứng nổi”. Do đó chủ trương “Hữu nhơn tắc hữu địa” có dân tự nhiên có đất (ĐH.10) để trả lời vào mặt ông cai trị chuyên lo mở rộng đất đại, tích chứa giầu sang mà không chú ý được lòng dân. Ông ghét nói đến chiến tranh binh lực “Ký bất xưng kỳ lực, xưng kỳ đức dã” (L.N. XIV.35) con ngựa ký được xưng tụng không vì có sức mạnh mà vì đức. Sau này Mạnh Tử đã phát huy chủ trương chống bạo lực rộng rãi “người hiếu chiến thì tội chém chưa đủ đền” (nhất tướng công thành vạn cốt khô) và nhân đó gây ra trong văn hóa Viễn Đông một bầu khí “trọng văn khinh võ” khác hẳn ở xã hội chẳng hạn của Platon “luôn luôn nói đến chiến tranh binh lực”

Thân hữu có thể đọc đầy đủ trong Kim Định Nho giáo nguyên Thủy ) (4*)

BÁ ĐẠO:

Bá đạo là dùng vũ lực và luật pháp (Cũng gọi là Pháp trị) để cai trị dân. Có điều danh từ Pháp trị ở đây chúng ta phải để ý có sự phân biệt rõ rệt như sau:

– Thời quân chủ Bá đạo dùng luật pháp để cai trị dân và gọi đó là “Pháp trị” (Khác với “Đức Trị” “Nhân Trị”của Vương Đạo)

– Thời Dân Chủ cũng dùng luật pháp để cai trị và gọi là thượng tôn luật pháp. Nhưng có sự khác nhau giữa “Quân chủ Pháp trị” và “Dân chủ Pháp Tri

+ Quân chủ Pháp trị= (luật Pháp do nhà Vua và quan lại triều đình tự lập ra – Tất nhiên không có ý kiến của dân chúng)

+ Còn Dân Chủ Pháp trị= (Luật pháp do những vị “Nghị sĩ hay dân biểu” là những người đại diện cho dân soạn thảo ra – tức luật pháp do ý kiến của dân chúng). Luật Pháp của nền “Dân Chủ Pháp trị” do Hiến Pháp qui định.

Tại Trung Hoa Bạo chúa Tần Thủy Hoàng là tiêu biểu cho đường lối Bá đạo (5*)… Bá Đạo là phương pháp dùng vũ lực + luật pháp của kẻ cầm quyền bắt dân chúng phải răm rắp tuân theo. Để thi hành bá đạo Tần Thủy Hoàng chủ trương đốt sách chôn học trò.( học trò là tiếng nói của kẻ sĩ – rất nguy hiểm cho chế độ độc tài cần tiêu diệt từ trong trứng nước – Hai hành động tàn ác này của Tần Thủy Hoàng nhằm “triệt tiêu”mầm chống đối tại trong nước. Không cho tiếng nói chống đối của người dân được cất lên hay thậm chí lời bàn tán xầm xì trong dân chúng! Trên cả nước, chỉ có tiếng nói hay pháp lênh duy nhất – là luật pháp của triều đình ban ra bắt dân phải tuân theo).

B2- Thời Đại Dân Chủ Nay

Cơ chế Tư Do Dân Chủ

“Thế chế hay chế độ chính trị là mô hình tổ chức nhân xã, nói một cách dễ hiểu, là tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp của một cộng đồng con người.

Người ta thấy có chế độ độc tài, chế độ dân chủ. Trong chế độ độc tài có nghĩa là chế độ mà quyền hành trong tay một người hay một nhóm người (oligarchie) Trong chế độ dân chủ là chế độ mà quyền hành nằm trong tay người dân, người dân có quyền quyết định số phận mình, người ta thấy có dân chủ trực tiếp như ở Thụy Sĩ, những quyết định quan trọng đều do trưng cầu dân ý quyết định và chế độ dân chủ gián tiếp người dân bầu ra đại diện của mình trong nhiệm kỳ, những người được bầu này thay mặt dân lấy những quyết định. Hiện nay phần lớn nhũng chế độ dân chủ là những chế độ dân chủ gián tiếp.

Trong chế độ dân chủ gián tiếp, người ta thấy có chế độ tổng thống như ở Hoa Kỳ, chế độ đại nghị như ở bên Anh, và phần lớn các quốc gia trên thế giới. Người ta cũng có thể thêm chế độ nửa tổng thống chế, nửa đại nghị chế như ở bên Pháp.

– Sự quan trọng của thể chế chính trị trong đời sống con người.

Thể chế chính trị giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển đời sống con người. Vì vậy có người ví thể chế chính trị như mảnh đất và người dân như hạt mầm. Con người dù là da vàng, da trắng hay da đen có thể ví như hạt mầm, nếu hạt mầm này được gieo vào một mảnh đất tốt, tức sống dưới một chế độ tốt, chế độ tôn trọng con người, những quyền căn bản của con người được bảo đảm, đồng thời được hướng dẫn, dìu dắt bởi một nền giáo dục tốt, một hệ thống an sinh xã hội tốt, thì hạt mầm này sẽ kết bông nẩy trái… người dân sẽ sống trong an lạc hạnh phúc… Điển hình như quốc gia Nam Hàn. Từ khi chế độ độc tài chuyển sang chế độ dân chủ đất nước đã vô cùng phát triển:

“Nển khoa học kỹ thuật tân tiến hiện nay được coi là ngành điện thoại cầm tay, vì trong đó là cả một cái máy điện toán tối tân, thế mà Nam Hàn với hãng Samsung đứng đầu trong việc sản xuất và bán trên thị trường đã lâu, trên cả hãng Apple của Hoa Kỳ và hãng Nokia của Phần Lan. Ngành xe hơi cũng vậy, hãng Kia của Nam Hàn mặc dầu mới xuất hiện nhưng số lượng bán cũng không thua gì những hãng quốc tế nổi tiếng từ lâu đời khác như hãng General Motor, Toyota, Volkswagen, Renault. Nam Hàn từ mấy chục năm nay đã nổi tiếng về giáo dục, người thợ Nam Hàn có một trình độ hiểu biết tổng quát đứng đầu thế giới. Người chuyên viên Nam Hàn cần cù làm việc, chịu khó học hỏi đi làm nơi nào cũng được trọng. Bằng cớ là hai tổ chức quốc tế quan trọng nhất thế giới là Liên Hiệp Quốc và ngân hàng quốc tế, đều được cầm đầu bởi người Nam Hàn.

Được như vậy tất nhiên do nhiều nguyên do, nhưng một trong những lý do chính đó là dân Nam Hàn được sống dưới một chế độ tư do, dân chủ, mặc dầu chế độ này mới được thiết lập vào khoảng thập niên 80..

Không nói đâu xa, chúng ta trở về Việt nam thời cận đại. Hai chế độ miền Nam Việt Nam thời trước 1975 là hai chế độ cộng hòa, Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa. Hai chế độ này, vào thời đó có thể so sánh với những nước dân chủ tiên tiến, nhưng nó là một trong những nước dân chủ đầu tiên ở châu Á, chỉ thua có Nhật. Chính vì vậy mà miền Nam cũng đã phát triển hơn cả Nam Hàn và Đài Loan lúc bấy giờ. Nếu tính theo sản lượng đầu người hàng năm thì vào cuối thời Đệ Nhất Cộng Hòa, sản lượng của miền Nam Việt Nam là 118$ trong khi đó cũng của Nam Hàn và Đài Loan là trên dưới 80$.Sự phát triển của miền Nam được ngay những người cộng sản công nhận, như ông Lê Đăng Doanh, “nhà kinh tế Cộng sản, trong một bài phỏng vấn của đài BBC cũng công nhận là sau 1975 ông vào miền thăm Miền Nam đầu tiên, ông đã phải ngạc nhiên về trình độ phát triển, ông đi thăm những vùng quê, ông thấy nơi nào cũng có điện, có máy cầy, đời sống người dân tương đối đầy đủ. Nhà văn Dương Thu Hương cùng với “đoàn quân chiến thắng” vào miền Nam, trước đời sống dân miền Nam, bà đã sững sờ bà tìm một góc phố, như lời bà kể, để khóc, và sau đó tuyên bố “Tôi đã cùng một đoàn quân chiến thắng nhưng mô hình tổ chức xã hội của kẻ chiến bại lại văn minh hơn mô hình của kẻ chiến thắng.” Chính “Luật người cầy có ruộng” của thời Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam đã được chính phủ Đài Loan bắt chước và đem áp dụng thành công ở nước này. Chỉ tiếc rằng những gì đã được xây dựng ở miền Nam đã bị cộng sản đổ xuống sông xuống biển. Chính vì vậy mà dân miền Nam đã có câu “Năm đồng đổi lấy một xu, người khôn đi học, thằng ngu làm thày (“6*).

B3- Chế Dộ Độc Tài Toàn Trị Cộng Sản:

Ngược lại với Nam Hàn, chế độ Bắc Hàn là một chế độ cộng sản độc tài, người dân sống dưới chế độ này không những không thể phát triển được mà hàng năm còn bị nạn đói hoành hành từ bao chục năm nay. Ngoài xã hội thì những hãng xưởng thiếu điện để chạy nhà máy, trong khi những công thự chỗ tôn thờ lãnh tụ thì điện chan hòa cả ngày lẫn đêm. Giáo dục là một nền giáo dục nhồi sọ, từ trẻ em cho đến người lớn chỉ biết vâng lời, gọi dạ bảo vâng, nhắc lại những khẩu hiệu tuyên truyền rỗng tuếch… Người ta nói “chế độ độc tài là chế độ cái loa, cái còng và cây súng” là vậy.

Nhìn vào lịch sử cận đại, 2 chế độ cái loa, cái còng và cây súng là chế độ độc tài phát xít Hitler và chế độ cộng sản. Cả hai đều dựa trên quan niệm triết lý, tư tưởng bất bình thường: Hitler cho rằng chủng tộc Aryen là chủng tộc tinh khiết, không pha trộn với những chủng tộc khác. Đây là một điều vô cùng phản khoa học. Theo Hitler dân tộc Đức tiêu biểu cho chủng tộc này, nên thông minh, đáng để cầm đầu thế giới. Chính vì vậy nên Hitler đã không ngần ngại phát động chiến tranh khắp nơi. Marx thì cho rằng lịch sử con người là bạo động, là đấu tranh giai cấp, không ngần ngại mở đầu Bản Tuyên Ngôn Thư Cộng Sản “Lịch sử nhân loại từ xưa tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Đây cũng là một cái nhìn quá phiến diện và tổng quát hóa, chẳng có gì là khoa học, như những người cộng sản bắt đầu bởi Marx thường rêu rao “Khoa học lịch sử, Khoa học biện chứng” không cần chứng minh dài dòng, chúng ta chỉ nhìn chính chúng ta và những người chung quanh, xét cuộc đời thì chúng ta rõ: Bình thường con người muốn sống hòa bình. Con người chỉ dùng bạo động trong những trường hợp bất bình thường. Điều này đúng với cả lịch sử của những quốc gia. Marx và những người cộng sản đã lấy cái bất bình thường làm cái bình thường, nên từ lý thuyết cho đến chế độ đã trở nên bất bình thường, bệnh hoạn. Đấy lại chưa nói đến ngay từ lúc đầu, chế độ cộng sản, bề ngoài thì mang nhãn hiệu “Thế giới đại đồng, anh em cộng sản” nhưng bên trong là chủ nghĩa quốc gia cực đoan, bành trướng. Bề ngoài mang nhãn hiêu “Liên Bang các cộng hòa xã hội sô viết (URSS), nhưng bên trong, Lenine, qua tay em của mình là Staline, vì lúc đó Staline đã đặc trách về vấn đề các dân tộc chung quanh, bắt họ đi theo Liên Xô. Bằng chứng rõ ràng là khi đế quốc Liên Xô sụp đổ năm 1989, thì những dân tộc này nổi lên đòi độc lập.

Chính vì mang đầu óc quốc gia cực đoan, bành trướng, nên đã có những vụ tranh chấp Nga-Hoa ở biên giới vào những năm 60, tranh chấp giữa Việt Cộng và Trung Cộng, rồi đi đến chiến tranh năm 1979, tranh chấp Việt Miên rồi cũng đi đến chiến tranh trước đó năm 1978.

Sau khi Liên Xô sụp đổ thì Việt Cộng chạy sang thần phục Trung Cộng, mở đầu bằng Hội nghị Thành Đô tháng 3/1990, và không ngừng ký những hiệp ước dâng đất nhượng biển cho Trung Cộng. Nhưng vì Trung Cộng từ xưa đã mang mộng bành trướng đế quốc, nay lại được cấy vào vi trùng bất bình thường Mác Lê, nên mộng bành trướng càng ngày càng mạnh. Mặc dầu cả 2 bên, lúc nào cũng rêu rao “Bốn tốt và mưới sáu chữ vàng” nhưng đùng một cái, Trung Cộng cho đặt giàn khoan, xâm phạm chủ quyền lãnh hải Việt Nam.

Nhiều người vì tin tưởng ở những câu nói đầu môi chót lưỡi của cộng sản “Tình huynh đệ tốt, Môi hở răng lạnh, Tình đồng chí cộng sản” đã ngỡ ngàng về sự việc Trung cộng đặt giàn khoan dầu ở quần đảo Hoàng Sa, thuộc về chủ quyền Việt Nam. Thực ra nếu chúng ta xét lịch sử xa của cộng sản, thì chúng ta không có gì ngạc nhiên.Trung cộng và Việt cộng đã nhiều lần đánh nhau.

Bởi lẽ đó, chừng nào hai dân tộc Việt Nam và Trung Hoa vẫn còn phải mang cái ách chế độ cộng sản, lấy lý thuyết Marx làm nền tảng cho chế độ kêu gọi đấu tranh giai cấp, một lời kêu gọi chiến tranh triền miên, không những chiến tranh chính nội bộ, mà còn chiến tranh với nước ngoài, chừng đó hai dân tộc không thể nào sống hòa bình với các nước chung quanh và với cộng đồng thế giới.

Người dân sống dưới chế độ độc tài phát xít hay độc tài cộng sản không những chỉ như một hạt mầm gieo trên một mảnh đất khô cằn mà còn bị giới lãnh đạo dùng như những bia đỡ đạn cho tham vọng bành trướng và đế quốc của mình.

Vì vậy, ngày hôm nay, những chế độ độc đoán độc tài, không phát triển hay phát triển chậm hơn những chế độ dân chủ và đi ngược lại trào lưu tiến hóa của con người là như vậy.

Quả thực nhân loại đã trải qua 5 nền văn minh, từ trẩy hái qua du mục, quân chủ, tới dân chủ ngày hôm nay, mỗi một nền văn minh tương xứng với một mô hình tổ chức nhân xã khác nhau hay nói một cách rõ hơn, hiện đại hơn là cách tổ chức chính trị, kinh tế khác nhau, từ thể chế gia tộc, bộ lạc, tới quân chủ và dân chủ.

Nước Tàu và Việt nam hiện nay nói riêng và các nước phương Đông nói chung trong đó có cả các nước Trung Đông, những nước này đã có một nền văn minh rất sớm, hơn cả Tây phương. Nhưng tiếc rằng chế độ quân chủ kéo dài quá lâu. Ngày hôm nay chế độ cộng sản ở Tầu và Việt Nam cũng chỉ là một chế độ quân chủ phong kiến trá hình. Chế độ cộng sản để rồi sẽ tắt luôn như một nhóm lửa trước khi tàn.

Tây phương mặc dầu văn minh đến chậm hơn Đông phương, nhưng đã biết từ bỏ sớm chế độ quân chủ để bước sang chế độ dân chủ, và kinh tế thị trường đã phát triển rất mạnh, vượt mặt Đông phương.

Đối với những chế độ quân chủ, từ lạc hậu như ở các nước Trung Đông cấm đoán ngay cả những người phụ nữ làm đủ mọi nghề, ra đường phải bịt mặt, tới chế độ cộng sản tước hết mọi quyền căn bản nhất của con người, người xưa có câu “Trễ còn hơn không”. Hãy từ bỏ thể chế chính trị quân chủ phong kiến, độc tài cộng sản để bước sang chế độ dân chủ tôn trọng những quyền căn bản của con người, trong đó có nam nữ bình quyền, tự do tư tưởng và ngôn luận, thì mới hy vọng theo kịp những nước văn minh. Gương Nam Hàn và Đài Loan cho ta thấy rõ. Hai nước này đã từ bỏ chế độ độc tài vào thập niên 80, để bước sang chề độ dân chủ, thế mà ngày hôm nay cả 2 nước đã có thể sánh cùng với những nước văn minh khác trên thế giới.

Đất nước và dân tộc đang đứng trước hiểm họa diệt vong, trong thì đảng cộng sản mặc tình cấu kết với ngoại bang bán đất dâng biển, hèn với giặc, ác với dân, giết hết tinh anh, triệt mọi cơ hội phát triển của người dân, ngoài thì Tầu cộng lộng hành, ngang nhiên kéo dàn khoan đến vùng biển Việt Nam. Con đường duy nhất để chống ngoại xâm là bằng mọi cách phải thay đổi thể chế chính trị từ độc tài cộng sản qua Dân chủ Tự do, vì có như thế, giới lãnh đạo mới quy tụ được sức mạnh toàn dân, vận động được các quốc gia và cộng đồng yêu chuộng Tự Do và Hòa bình trên thế giới cô lập và bẻ gãy mọi mưu mô bá quyền của Tầu cộng (7*).

IV. VĂN HÓA QUỐC GIA TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA VĂN HÓA:

“Trong hiện tình văn hóa thế giới hôm nay có thể khẳng định rằng bên cạnh quá trình toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra như một xu thế tất yếu và đang trở thành đề tài sôi nổi và nóng bỏng trên thế giới thì chúng ta còn nhận ra một trào lưu toàn cầu hóa, thậm chí còn quyết liệt hơn, sâu sắc hơn,đó là toàn cầu hóa về văn hóa.

Với tình đặc thù và tính độc lập tương đối của mình, quá trình toàn cầu hóa diễn ra rất gần song song với toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu hóa kinh tế nói riêng. Trên cơ sở sự tăng cường mạnh mẽ của toàn cầu hóa kinh tế, sự tăng cường mạnh mẽ của các thành tựu khoa hoc, công nghệ, đặc biệt là giao thông và viễn thông; sự tăng cường giao lưu ảnh hưởng và xích lại gần nhau giữa các dân tộc, các quốc gia, khiến văn hóa các dân tộc có nhiều cơ hội giao lưu ảnh hưởng, cọ sát, học hỏi chia sẻ lẫn nhau. Trong quá trình như vậy, một mặt văn hóa các dân tộc vừa phong phú đa dạng hơn, mặt khác cũng không loại trừ sự mất mát, thui chột của các nền văn hóa, các yếu tố văn hóa lỗi thời, không còn sức sống cạnh tranh. Như vậy, cũng như toàn cầu hóa nói chung, mà cốt lõi của nó là toàn cầu hóa kinh tế, thì toàn cầu hóa văn hóa cũng đương nhiên hiện hữu. Vấn đề chỉ còn là toàn cầu hóa văn hóa như thế nào, theo tiêu chuẩn nào, mức độ nào mà thôi. “Toàn cầu hoá văn hoá có thể được hiểu là quá trình văn hoá các dân tộc, thông qua giao lưu, dung hợp, xâm nhập và bổ sung lẫn nhau, không ngừng phá vỡ tính hạn chế về khu vực và về mô hình của văn hoá dân tộc mình và trong sự bình phán và chọn lọc của loài người mà đạt được sự hoà đồng văn hoá, không ngừng chuyển các nguồn khu vực của văn hoá dân tộc mình thành các nguồn hưởng thụ chung, sở hữu chung của loài người. Tuy nhiên, điều cần chú ý là toàn cầu hoá văn hoá là một quá trình bao gồm sự xung đột, giao lưu, dung hợp giữa các nền văn hoá dân tộc, đồng thời bản thân nó cũng là một kết quả, tức là các nguồn khu vực của văn hoá các dân tộc có thể được loài người cùng hưởng cùng sở hữu. Nhưng nó tuyệt nhiên không có nghĩa là sự mất đi của các nền văn hoá dân tộc để hình thành nên một thứ văn hoá có tính toàn cầu thống nhất, liên thông, phổ quát”

Như vậy, toàn cầu hoá văn hoá đã tạo ra những cơ hội, thách thức và rủi ro đối với các nền văn hoá khác nhau trong việc quảng bá nền văn hoá của mình ra bên ngoài. Trong quá trình toàn cầu hoá, các nền văn hoá đều bình đẳng, giao lưu với nhau trong thế bình đẳng, đều có những chỗ “mạnh”, những chỗ “yếu”, đều có “quyền” tự do nhìn nhận, lựa chọn, thử nghiệm để tiếp nhận từ “kẻ khác” những gì mà họ muốn tiếp nhận.

Tuy nhiên, không phải mọi quốc gia đều tham gia vào quá trình toàn cầu hóa với những mức độ giống nhau và đều được bình đẳng như nhau. Khi tham gia vào toàn cầu hóa, các nước phát triển có rất nhiều lợi thế. Phần còn lại của thế giới thì chịu thiệt thòi về nhiều mặt và gặp nhiều thử thách. Mặc dù vậy, trong thế giới ngày nay, các quốc gia không thể tẩy chay hoàn toàn toàn cầu hóa hoặc đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa. Vấn đề đối với tất cả các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển, là phải có chiến lược thích ứng và khôn ngoan để vượt qua thử thách và chớp lấy thời cơ; trong quá trình hội nhập thế giới, phải có ý thức, giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ để đưa quốc gia dân tộc mình đến chỗ phồn vinh” (8*).

V. VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG VĂN HÓA:

Càng ngày người ta càng nhận thức rõ tầm quan trọng, quá quan trọng của văn hóa. Có thể nói “Vai trò” và “Chức năng” Văn Hóa giữ vai trò quyết định toàn bộ “Sinh Mênh” con người, xã hội, dân tộc, quốc gia và nhân loại. Vấn đề là chúng ta có “quán chiếu sâu sắc” nhận thức rõ vai trò và chức năng văn hóa để “hiện thực” và “diệu dụng” văn hóa trong thời đại của chúng ta hay không?!

1. Vai Trò Văn Hóa:

Văn Hóa có các vai trò chính yếu sau đây:

a- Văn Hóa giữ vai trò khai sáng trí tuệ con người. Không những trên phương diện Triết học, Văn học, Luật học, Khoa học mà còn trong Chính Trị học, Văn Hóa học, v.v…

b- Văn hóa có vai trò chủ động đấu tranh, giúp con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội, vượt thoát, giải thoát chính con người mình…hòa đồng cùng vũ trụ, vạn hữu.

c- Văn hóa giữ vai trò: Truyền sinh: SỐNG CÒN NỐI TIỀN HÓA

d- Văn hóa có vai trò: Chống cái ác, Phát huy cái thiện, dẫn đưa con người tới Chân Thiện Mỹ.

Ngoài 4 vai trò chính yếu trên, Văn hóa còn có các chức năng có tính cách đa năng, đa hiệu như sau

2. Chức Năng Văn Hóa:

a- Văn hóa có chức năng tìm tòi, học hỏi thảo luận nghiên cứu.

b- Văn hóa có chức năng “Ứng xử” với tha nhân, “Thích nghi” với mọi hoàn cảnh…

c- Văn hóa có chức năng “Sáng tạo”, “Phát huy sáng kiến”, “Phát minh” Khoa Học Kỹ Thuật.

d- Văn hóa có chức năng “Giáo dưỡng” “Giáo hóa” con người.

e- Văn hóa có chức năng tạo ra “Xung đột” “Đối kháng” “Mâu thuẫn” “Tán tụ” “Bảo thủ” “Tiến bộ” theo qui luật “Âm Dương” “Sinh Khắc Chế Hóa”.

f- Văn hóa có chức năng “Điều hợp” “Hóa giải” mọi mâu thuẫn trong cuộc sống.

g- Văn hóa có chức năng “Chuyển hóa” thời cuộc. “Thăng hoa con người” và “Thăng hóa xã hội”

h- Văn hóa có chức năng “Thẩm thấu” sâu rễ bền gôc tạo nên Thuần Phong, Mỹ Tục của mỗi Dân Tộc…

i- Văn hóa có chức năng “Hội nhập” con người vào hoàn cảnh mới, cộng đồng mới…

j- Văn hóa có chức năng “Vượt thoát” và “Sáng Hóa”

k- Văn hóa có chức năng “Chọn lọc”, “Tiếp thu” tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác, đồng thời “Đào thải” những cổ hủ lỗi thời.

l- Văn hóa có chức năng “Hiện đại hóa” xã hội thời đại.

VI. SỨ MẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA:

Có người quan niệm rằng “văn hóa thì “trường cửu”, còn chính trị là “nhất thời” rồi đi đến quan niệm: Cần phải tách “chính trị” ra khỏi “Văn hóa”… Nhận định trên văn hóa có giá trị trường cửu hơn chính trị thì đúng, nhưng nhận định thứ hai “Tách chính trị ra khỏi văn hóa lại là sai! Văn hóa và chính trị tuy là hai bộ môn có những điểm khác nhau, nhưng lại có nhiều điểm giống nhau nhất là về mục đích và cứu cánh. Hơn thế nữa Văn hóa còn là “nguyên lý” “nguyên tắc” hướng dẫn chính trị, phục sự con người. Chỉ có nền chính trị vô nhân, vô đạo như chính trị độc tài “quân phiệt” độc tài “giáo phiệt” kiểu độc tài Hồi giáo cực đoan” hay chính trị “độc tài toàn trị cộng sản” mới lợi dụng văn hóa, dùng văn hóa là công cụ phục vụ “chính trị” bá đạo thì không kể. Trong trường hợp này Văn hóa bị “tha hóa” bởi chính trị và cả hai “văn hóa” cũng như “chính trị” đều bị suy đồi… Không còn là văn hóa, chính trị tiến bộ hay văn hóa chân chính nữa. Chúng ta không bàn đến loại “văn hóa suy đồi” ở đây.

Trở về văn hóa chân chính tiến bộ, chúng ta đã nhận định văn hóa có chức năng và vai trò vô cùng quan trọng như đã nói trên, nên văn hóa có “Sứ mệnh” là điều hiển nhiên và tất yếu, không ai có thể phủ nhận được..

1. Sứ mệnh Văn Hóa theo kinh Dịch:

Theo học giả Nguyễn Đăng Thục, nguyên nghĩa danh từ Văn hóa của tây phương có thể tìm thấy ý nghĩa tương đồng rút từ “Lời thoán” của Kinh Dịch: “Quan thiên văn dĩ sát thời biến, quan nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ” (Nhìn hiện tượng trên trời để xét sự biến đổi của thời tiết. Nhìn hiện tượng của nhân quần xã hội để hóa nên thiên hạ, thay đổi thế giới). Theo cái nhìn của Kinh Dịch: Văn hóa có chức năng và sứ mạng thay đổi nếp sống con người và thay đổi cả vận mạng thế giới. Sứ mạng văn hóa chỉ tóm gọn như vậy thôi. Lối nói của Kinh Dịch là lối nói “cô đọng” “hàm súc” ít lời mà nhiều ý, đòi hỏi chúng ta phải trầm tư sâu sắc mới lĩnh hội được hết ý tứ của người xưa! (Xin xem định nghĩa văn hóa thứ hai trong bài “Bàn về 25 định nghĩa văn hóa của Chu Tấn cũng trong tuyển tập này).

2. Sứ Mạng Văn Hóa Theo Lý Thuyết Gia Lý Đông A

Cụ Nguyễn Hữu Thanh tức Lý Đông A (9 *) Tổng Thư Ký của Đảng Đại Việt Duy Dân và cũng là nhà Văn Hóa lớn của Việt Nam, thế giới có đưa ra 5 lời thề cho các chiến sĩ cách mạng của Đảng Đại Việt Duy Dân như sau:

Thề Giác Biện chứng Lớn

Thề Tu Tính Mệnh Ta

Thề Cứu Nòi Giống Việt

Thề Thương Loài Người Khó

Thề Cùng Vũ Trụ Hòa.

Qua 5 lời thề trên tuy Lý Thuyết gia Lý Đông A không nói đến danh từ “Sứ mạng văn hóa” nhưng xét vào nội dung 5 lời thề nói trên, đích thực chúng ta thấy đây là 5 sứ mệnh lớn của Văn Hóa Chính Trị Việt Nam.

– Lời Thề 1: Thề Giác Biện Chứng Lớn:

                “Biện chứng Lớn” ở đây không phải là “Biện chứng pháp Duy Tâm” ( “Idalistic dialectic” của Hegel) hay

                “Biện Chứng Pháp Duy Vật” (Materialistic dialectic” của Karl Marx) mà là Duy Dân Tung Hợp Biện Chứng của Lý Đông A).

– Lời Thề 2: Thề Tu Tính Mệnh Ta.

                Các cụ ta xưa có câu: “Từ Thiên tử (Vua) cho đến thứ dân ai ai cũng phải lấy việc TU THÂN làm gốc ( Tu thân vi bản)

– Lời Thề 3: Thề Cứu Nòi Giống Việt:

                Dân tộc Việt Nam bị “linh lạc” bị “điêu linh thống khổ” dưới ách đo hộ Tầu, thực dân Pháp-Nhật, rồi C.S nên rất cần phải cứu nguy.

– Lời Thề 4:Thề Thương Loài Người Khó:

                Chỉ đại đa số nhân loại bị nghèo khổ áp bức bóc lột trên toàn thế giới

– Lời Thế 5:.Thề Cùng Vũ Trụ Hòa:

Chỉ khi nào người dân Việt chúng ta hoàn thành được 4 lời thề trên, tâm hồn mình mới được thảnh thơi, tự tại hòa đồng cùng Vũ Trụ

Năm lời thề của Lý Thuyết Gia Lý Đông A lớn lao thay! Vĩ đại thay! Cao cả vô cùng… Đây cũng chính là Sứ Mạng Cao Tột Của Văn Hóa Chính Trị Việt Nam. Lý thuyết gia Lý Đông A còn gián tiếp, bí nhiệm khuyên chúng ta: “Sinh Mênh Việt Nam Luôn Gắn Bó Với Sinh Mênh Nhân Loại Không Thể Tách Rời”

3. Sứ Mạng Văn Hóa theo Học Giả Hồ Hữu Tường:

Trong cuốn Tương lai Văn Hóa Việt Nam Học giả Hồ Hữu Tường đã định nghĩa “Văn hóa là cái gì làm cho con người trở thành NGƯỜI (Chữ Người viết Hoa). Theo định nghĩa này thì sứ mệnh văn hóa Việt Nam sẽ vô cùng cao quí và lớn lao. Hiện nay dân số Việt Nam ở trong nước là 95 triệu người (Quốc nội và Hải ngoại) xấp xỉ 100 triệu người. Nếu trong tương lai văn hóa VN có thể đào luyện cho 100 triệu người dân thường đều trở thành 100 triệu CON NGƯỜI (Viết Hoa) thì nền văn hóa chính trị Việt Nam sẽ hùng mạnh vinh quang và rực rỡ đến như thế nào… (Đây là “dự phóng” hay “giấc mơ văn hóa” của học giả Hồ Hữu Tường. Xin tất cả độc giả và toàn dân Việt Nam đều nên lắng nghe, chia sẻ và góp phần vào sứ mệnh văn hóa cao cả vĩ đại này. (Xin xem lại định nghĩa văn hóa thứ 6 của học giả Hồ Hữu Tường trong bài “Bàn về 25 định nghĩa văn hóa của Chu Tấn).

4. Sứ Mạng Văn Hóa theo Văn Hào André Malraux:

Nhà văn hào Pháp André Malraux (10*) có định nghĩa Văn hóa như sau:

“Văn hóa là tất cả các hình thái của nghệ thuật, tình yêu và suy nghĩ, những thứ mà trong sự tồi tệ cũng như trải qua bao nhiêu thế kỷ đã khiến cho con người trở nên ít nô dịch hơn”

Trong định nghĩa này nhà văn hào André Malraux tuy xác định văn hóa có sứ mạng giải phóng con người, thoát khỏi các chế độ và tất cả các hình thức “nô dịch” con người. Nhưng tác giả tỏ ra rất bi quan là qua tác dụng và hiệu năng văn hóa trải qua bao nhiêu thế kỷ đã khiến con người trở nên ít nô dịch hơn!”. Có nghĩa là “Thân phận con người- “Condition humaine” trong nhân loại cho đến thế kỷ 20 – thời đại mà André Malaux đưa ra định nghĩa văn hóa vừa nói – Con người vẫn còn bị các hình thức “nô dịch” tồi tệ chưa hết được! Phải thế không?

Thấp hơn hay đặc biệt hơn, Văn hào Albert Camus định nghĩa “Văn Hóa là tiếng khóc của con người khi đối diện với số phận”

Văn hóa chỉ có tính cách “phản ứng” lại bằng “Lời than” hay “tiếng khóc” thôi sao? Điều này chúng ta không lấy làm lạ vì Albert Camus còn là triết gia theo triết thuyết Hiện sinh – Ông cho “cuộc đời là phi lý” – nhưng không buông xuôi theo số phận mà chống lại số phận, phản kháng lại số phận bằng bất cứ biểu hiện nào…dù là “Lời than hay tiếng khóc”…cũng là cách phản kháng ….(11*)

Cùng quan tâm, suy tư về “Sứ mạng Văn Hóa” song Lý thuyết gia Lý Đông A và học giả Hồ Hữu Tường thì hoàn toàn tin tưởng và “lạc quan”. Trái lại hai văn hào André Malraux và Albert Camus thì quá “dè dặt và bi quan”… Vậy người làm văn hóa trong thời đại chúng ta nên có thái độ nào?

Thiết nghĩ, từ cuối thế kỷ 20 và bước sang đầu thế kỷ 21 chúng ta đã kinh qua bốn biến cố lịch sử lớn sau đây:

Một là: Cuối thế kỷ thứ 20 nhân loại đã bùng nổ cuộc cách mạng truyền thông- Internet- có tác dụng thu hẹp không gian và rút ngắn thời gian:Chỉ một biến cố nhỏ xẩy ra-tân Phi Châu hay châu Đại dương –mấy phút sau đã trở thành tin tức lan truyền khắp thế giới,…

Hai là: Năm 1989 chế độ CS tại các nước Đông Âu và đế quốc CS Liên Sô sụp đổ, chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh và đã đánh dấu thời điểm “cáo chung chủ thuyết sai lầm không tưởng Mac-Xít”.

Ba là: Vào đầu thế kỷ 21 đánh dấu kỷ nguyên “Toàn Cầu hóa” từ văn hóa, chính trị, kinh tế, thương mại…vv…

Bốn là: Năm 2011 “Đợt sóng dân chủ thứ tư” đã chính thức bùng phát và trào dâng trên toàn thế giới… Với bốn biến cố lịch sử này nên “Độ gia tốc chính trị Văn hóa” đã tiến rất nhanh, không còn trì trệ như trước nữa. Đây là 4 chứng cứ lịch sử hùng hồn nhất, cho phép chúng ta khẳng định người làm văn hóa trong thời đại hiện tại, không chỉ có niềm tin lớn, mà còn có thái độ lạc quan có tính cách viễn kiến, thống quan và được kiện chứng bằng thực tiễn lịch sử. Chúng ta cần quan niệm “Sứ mạng Văn Hóa” quan trọng và lớn lao này, nhịp theo đà tiến của Lịch Sử Văn Hóa Toàn Cầu Hóa.

4. Văn Hóa Việt Nam Trong Thời Đại “Toàn Cầu Hóa”:

Có các sứ mệnh sau đây:

Khai sáng trí tuệ con người, hình thành Minh Triết nhân loại.

Giáo hóa con người.

Làm cho cuộc sống lên hương, làm cho cuộc đời thêm tươi thêm đẹp. Văn hóa đem lại nguồn vui sống cho con người.

Thăng tiến con người, phát triển, thăng hóa xã hội trên mọi phương diện.

Văn hóa có sứ mệnh ngăn chặn cái Ác để mưu cầu Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền cho con người và Xã Hội.

Văn hóa có sứ mệnh khuyến khích con người làm việc THIỆN, phụng sự Con Người, Xã Hội,Tổ Quốc và Nhân Loại, Liên Hành Tinh.

Giải Phóng con người ra khỏi mọi chế độ độc tài và nhiều hình thức “nô dịch” “nô lệ hóa” con người.

Thiết dựng chế độ dân chủ (Tam quyền phân lập) trên qui mô thế giới, làm nền tảng căn bản tiến tới chế đô “Nhân Chủ Quốc Gia” và“ Nhân Chủ Toàn Cầu”

Văn hóa có sứ mệnh: Phát huy “Dân tộc Tình”, “ Dân Tộc Tính” và “Dân Tộc Chí”…

Văn hóa có sứ mệnh: Tôn Vinh Đạo Sống, Bảo vệ Sư Sống Phát triển Sư Sống, Thăng Hoa Sự Sống, Khoáng trương Sư Sống và Thành Toàn Sư Sống, con người Dân Tộc, Nhân loại. Liên Hành Tinh.

Văn hóa có sứ mệnh gin giữ hòa bình và xây dựng nền Thái Hòa Nhân Loại

Sau cùng Văn Hóa có sứ mệnh khó khăn nhất và cũng cao đẹp nhất là giúp con người Tự Vượt Và Tự Thắng Chính Mình

VII. KẾT LUẬN:

Từ thời cổ đại, nhân loại đã khám phá ra sức mạnh hay sứ mạng của Văn Hóa. Tuy nhiên theo bản chất văn hóa nặng về phần TRI (Lý thuyết) còn Chính trị nghiêng về phần HÀNH (hành động, thực hiện) nên trong thời quân chủ vẫn thường diễn ra tệ trạng: “Minh quân’ (Vua sáng suốt) thì ít còn “Hôn quân” (Vua u tối) thì nhiều, “Thanh quan” thì ít còn “tham quan ô lại” thì nhiều! Ngay cả sang thời đại Dân Chủ vẫn có một số nước theo chế độ tài kiểu độc tài “Quân phiệt” độc tài “Giáo phiệt” kiểu Hồi giáo cực đoan” hay nền chính trị độc tài toàn trị Cộng Sản!!! Chính vì chính trị lấn át Văn hóa, bắt Văn hóa phải làm “công cụ” cho chế độ độc tài nên “Sứ mạng văn hóa” vẫn chưa được phát huy đúng mức… khiến nhà văn hào Pháp André Malraux đã phải than thở: “Thân phận con người” (Condition humaine) trải qua bao nhiêu thế kỷ vẫn còn bị tình trạng “Nô dịch”hay chính trị “Nô lệ hóa con người”

Tuy nhiên tình trạng tồi tệ này không thể là mãi mãi! Lịch sử phải sang trang….

Bước sang thế kỷ 21 nhân loại đã tiến sang thời đại “Toàn cầu hóa Kinh tế” “Toàn cầu hóa Chính tri” và “Toàn cầu hóa Văn hóa: nên vấn đề “SỨ MẠNG VĂN HÓA” cần phải làm sáng tỏ và tiến hành một cách dũng mãnh hơn. Chúng ta khẳng định “Văn hóa Việt Nam có sứ mênh “Chống cái Ác để mưu cầu Tư Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Con Người và Xã Hội…

Văn hóa có sứ mệnh thiết dựng chế độ Dân chủ (Tam quyền phân lập) trên qui mô toàn thế giới, làm nền tảng căn bản tiến tới chế độ “Nhân chủ Quốc Gia” và “Nhân Chủ Toàn Cầu” không là lời lẽ “khoa trương” hay “cường điệu” mà là thông điệp Văn Hóa “Minh Nhiên”, “ Tự nhiên” vậy.

Chu Tấn

Tài Liệu Tham Khảo:

(1*) Vấn đề nông dân đầu thế kỷ 21- Nguyễn Minh Cần (Nguồn: Đài RFI ngày 7-09-2012)

(2*) Phỏng Vấn Ông Trần Quang Thành về “Công Đoàn Độc Lập” (Nguồn: Đài RFA)

(3*) Vua Nghiêu: (2337 TCN-2258 TCN )-Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia

(4*) Kim Định (Nguồn: Newvietart.com)

(5*) Tần Thủy Hoàng (259-TCN -210 TCN) –Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.

(6*) Sự quan trọng của Thể chế chính trị trong đời sống con người- Chu Chi Nam-(Nguồn: Đối Thoại 08-6-2014).

(7*) Tại sao chúng ta phải thay đổi thể chế chính trị trước khi chống giặc ngoại xâm- Chu Chi Nam (Nguồn: Đối Thoại 08-6-2014)

(8*)Hue.edu./vn/vi/id129 Nhìn nhận thế nào về Toàn Cầu Hóa Văn Hóa- Đặng Thị Minh Phương…

(9*)Tiểu Sử Lý Đông A (1921-1947) Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.

(10*) Tiểu Sử André Malraux (1901-1975) Bách khoa Toàn Thư Mở Wikipedia.

(11*) Thuyết Hiện Sinh qua Tư Tưởng các Triết Gia-Võ Công Liêm- (Nguồn: NEWVIETAR.COM ).