THƠ: THƯƠNG TIẾC BÀ MAI ANH – Cao Mỵ Nhân & Thơ Họa Của Thi Hữu
Bà Mai Anh
THƯƠNG TIẾC BÀ MAI ANH
(Xướng)
Vô cùng thương tiếc bà Mai Anh
Nhân dáng ôn nhu, tính khí lành
Một thủa tham gia làm việc thiện
Nhiều lần tới hội góp công thành
Ngữ ngôn thuần hậu khi giao tiếp
Đạo hạnh khiêm cung lúc đấu tranh
Phụng sự gia binh trên đất nước
Phu nhân Tổng Thống đẹp phương danh …
Los Angeles 18 – 10 – 2021
Cao Mỵ Nhân
***
NGÀN THU VĨNH BIỆT ĐỆ NHẤT PHU NHÂN MAI ANH
(Họa)
Tin buồn Đệ Nhất Phu Nhân Anh
An giấc ngàn thu chốn đất lành
Cuộc sống hiền lương hằng đẹp tốt
Kiếp đời nhân ái mãi toàn thành
Nghĩa tình xử thế luôn hòa hoãn
Đạo đức giao du chẳng cạnh tranh
Yêu nước thương dân câu nhật tụng
Thành công hội nhập với thành danh.
Toronto 18/10/2021
Nguyên Trần
Viết với cả tấm lòng thành
***
RẠNG NGỜI THANH SỬ
(Họa)
Chẳng dòng thế phiệt cũng trâm anh
Đất Mỹ Tho cây trái ngọt lành
Thương nước, hòa bình chưa hiển hiện
Vì dân, công đức đã viên thành
Chăm lo nghĩa tử nơi trường học
Ủy lạo tiền đồn giữa chiến tranh
Đệ Nhất Phu Nhân hằng sống mãi
Rạng ngời thanh sử vẫn lưu danh
Nguyễn Kinh Bắc
Cape Cod 10/21/21
***
NIÊM THỨC HƯ KHÔNG
(Họa)
Các đài một thuở…cửa Trâm Anh
Cửu thập vân du hưởng phước lành
Nhất phận vẹn lòng, trang thục nữ
Hai Thân ấm dạ, bậc sinh thành
Giao tình luôn giữ tâm từ thiện
Vận thế phai lòa khói chiến tranh
Về cõi Niết Bàn an Nước Chúa
Riêng niềm,…chôn chặt lẽ công danh(!)
21-10-2021
Nguyễn Huy Khôi
***
KÍNH TIỄN BÀ MAI ANH
(Kính họa )
Đôi dòng kính tiễn Nguyễn Mai Anh
Đệ Nhất Phu Nhân tính thiện lành
Một thuở trợ nghèo ban ý đẹp
Nhiều năm giúp khó trải lòng thành
Uy nghi đức cả khi bình lặng
Điềm đạm tâm từ buổi chiến tranh
Tổng Thống chờ bà nơi nước Chúa
Sử trần ghi chép bậc hiền danh
Phương Hoa – OCT 21st 2021
***
Thương Quý Bà Mai Anh
(Họa)
Đệ nhất phu nhân bậc thiện lành
Buông trần tạ thế mệnh Mai Anh
Bao thời bởi nước nguyên lòng tận
Một thủa vì dân trọn ý thành
Bác ái tâm hoà đầy nhiệt cảnh
Hiền từ nghĩa thắm khó tài tranh
Mẫu nghi xứng đáng cùng thiên hạ
Hậu sẽ lưu truyền sử đẹp danh
Minh Thuý Thành Nội
Tháng 10/24/2021
Mưa Tạnh Nỗi Nhớ
CAO MỴ NHÂN
Cơn mưa mới đến, hay cơn mưa vừa tạnh, đều khiến những nghệ sĩ sáng tác bâng khuâng…
Tại sao lại có trạng thái tâm hồn như vậy nhỉ ?
Nghệ sĩ sáng tác, nghệ sĩ trình diễn, hay tất cả mọi người trong chúng ta đều vấn vương trong đầu óc thứ cảm giác mau chóng, ngắn ngủi, khi cơn mưa sắp đến, hay cơn mưa vừa tạnh, là vì ngay lúc đó, sắp đón nhận một quang cảnh khác .
” Lòng như mưa tạnh nhớ lưng chừng…”
( Đàn thu, tay ngọc – Đinh Hùng – Thục Vũ )
Nhạc sĩ Thục Vũ, có cuộc sống nội tâm hào sảng nhưng ôn hoà, ông tên thật là Vũ Văn Sâm ( 1932 – 1976 ) nguyên trung tá QL/VNCH, đơn vị sau cùng là Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị / Trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức .
Bài thơ đẹp như ngà ngọc của Thi sĩ Đinh Hùng ( 1920- 1967)
đã được nhạc sĩ phổ nhạc nguyên tác, không thay đổi hình thức thơ, chứng tỏ nhạc sĩ Thục Vũ dấu trong lòng một tâm hồn thi sĩ .
Hôm nay tôi xin giới thiệu với quý vị cái trạng thái lưng chừng trong nỗi nhớ thiết tha của nhạc sĩ gốc võ quan.
Bạn đọc có thể hình dung được một tráng sĩ thời xưa, hay một chiến sĩ nói theo thời nay, chính xác hơn là thời VNCH.
Hình như làm chưa xong…một bài thơ, một khuôn nhạc …chẳng hạn, mà vì công chuyện trước mặt, hay là bổn phận phải gấp rút lên đường để thi hành công tác, thí dụ thế .
Trung tá Vũ Văn Sâm với nhân dáng và tâm tư tình cảm hết sức huynh đệ chi binh. Ông cũng giống như quý huynh đệ chi binh là sống hết mình cho gia đình, quân đội, tổ quốc.
Huynh đệ chi binh dù ở cấp bậc nào, binh chủng nào, cũng không quên ” Tổ Quốc Danh Dự Trách Nhiệm” , huống chi những chữ đó là tinh thần trường hiệu của Quân Trường Võ Khoa Thủ Đức, những hình ảnh đã đi vào cuộc đời binh nghiệp của ông, trung tá Vũ Văn Sâm, tức nhạc sĩ Thục Vũ, thì làm sao có thể ung dung ngồi chờ mưa dứt hẳn, nắng khô đường trường đang ướt át chứ.
” Bốn dây tuyệt vọng đau hàng phím
Hoa dịu làn môi nghẹn khúc ca…”
( Đinh Hùng – Thục Vũ )
Cơn mưa đã tạnh, nên không thể như Thúc Sinh ngồi thầm lặng nghe Thuý Kiều đàn hát khúc đoạn trường, xuất thần đến nỗi :
Bốn dây như khóc như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
( Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du )
trước mặt chánh thất Hoạn Thư được .
Vốn ôn hoà, mã thượng, vị quan 5 đã mang phong cách cây tùng che chở cho một khóm hoa mong manh trên thềm nắng, cuộc tình cũng lưng chừng như cơn mưa vừa tạnh, khách tình quân trở về gia trang uống rượu bồ đào .
Ở đó người khuê phụ mở tiệc mừng xuân thắm, để:
” Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu ”
( Khuê Oán – Vương Xương Linh )
Nhạc sĩ Thục Vũ – Vũ Văn Sâm đâu cần phải sa trường lập công danh nữa, ông đã có sẵn công hầu “Trung tá QL/ VNCH” rồi, phu nhân ông chỉ nhắc ông vui xuân đừng quên nhiệm vụ đó thôi .
Ngày tôi hạnh ngộ người khuê phụ nêu trên, là khi nhạc sĩ trung tá Vũ Văn Sâm đã thất lộc ở trại tù nơi rừng thiêng nước độc ngoài Bắc rồi.
Bấy giờ tôi cũng vừa từ nông trường hậu tù cải tạo về.
Phu nhân trung tá Vũ Văn Sâm ghé chơi nhà chị ruột tôi ở khu nhà thờ Ba Chuông Phú Nhuận.
Bà tới với nhã ý là xin phép cho con gái đầu lòng của tôi ra đi vượt biên với gia đình bà, đồng thời gặp người con trai thứ nhất của bà đang ” tị nạn ” ở cùng khu nhà thờ vừa nêu.
Con gái đầu lòng của tôi là bạn học với con trai thứ hai của bà, bà muốn giúp tôi cho một cháu vượt biên, để đỡ gánh nặng gia đình đang bức bách, vì chế độ cộng sản bần cùng hoá nhân dân miền nam sau cuộc đổi đời.
Ngay buổi gặp gỡ sơ giao, nhưng vì gốc gác chúng tôi là các gia đình quân nhân chế độ cũ, nên thân nhau ngay, biết tôi làm thơ, bà hỏi thăm liền:
” Chị làm thơ thì chắc biết Lệ Khánh chứ ? ”
Tôi chưa kịp trả lời, bà tiếp luôn:
” Cô ấy làm thơ nói : Em là con gái trời bắt xấu, đó ”
Tôi ngắm phu nhân nhạc sĩ Thục Vũ, Trung tá Vũ Văn Sâm, bà đẹp một cách trang trọng, bình bệ, kẻ cả, thật là quý phái, tôi bật cười :
Chị à, em có nghe nhà thơ Lệ Khánh viết ” trời bắt xấu ” gì đó, nhưng không quen.
Phu nhân Trung tá Vũ Văn Sâm cười mỉm:
” Ông Sâm nhà này là ưa cô ấy đấy ”
Tôi lặng thinh, vì mình cũng lỡ làm thơ, nên không biết nói thế nào cho đẹp ý người khuê phụ đảm đang, linh hoạt mà rất cao sang đẹp đẽ kia nữa.
Đúng như ” Sơ yếu lý lịch ” của vị quan 5 hào hoa nhưng đằm thắm, ông bà có 5 cháu: cô chị đầu đã vượt biên tới Canada,
4 cậu em trai thì cũng ra biển nhiều lần, nhưng còn kẹt lại.
Bà Vũ Văn Sâm có một sạp hàng trong chợ Bà Chiểu, gần nhà, cũng trong khuôn viên chợ Bà Chiểu luôn.
Phải nói bà là người vợ rất đảm đang, chững chạc của nhạc sĩ Trung tá Vũ Văn Sâm. Bà trực tiếp chăm sóc cha mẹ già và đàn con 5 cháu. Vậy mà không sơ sót một sự việc nào trong nhà.
Đã thế, sau khi Trung tá Nhạc sĩ vô tù cải tạo, rồi mệnh chung, phu nhân ông vẫn không buông lơi một bổn phận đối với gia đình.
Bà tiếp tục nuôi cha mẹ già và đàn con, cả khi Cộng sản xâm chiếm miền nam, bà vẫn giữ lòng tin, lần lượt cho 3 cháu lớn đi vượt biên. Song có thành công mà cũng có thất bại.
Riêng chuyến dự trù cho cháu gái con tôi ra đi, thì cuối cùng tôi đã cám ơn nhã ý của bà, năm đó cháu học lớp 12, có ý thi lấy bằng tú tài đã, rồi tính sau.
Chao ôi ” lòng như mưa tạnh, nhớ lưng chừng ” chỉ có ai mang tâm trạng nửa vời của nghệ sĩ, mới thông cảm những nỗi buồn không dứt khoát được lòng mình …
Nhạc sĩ Thục Vũ viết nhiều nhạc lính, có một bài ” kinh điển ” trong kho tàng văn thơ nhạc hoạ tù cải tạo, là bài
” Anh Ở Đây ” viết chung với nhạc sĩ Trung tá Vũ Đức Nghiêm lúc mới tập trung được ít lâu ở Long Giao.
Lời nhạc nhắn nhủ vợ con ông, nhạc sĩ Thục Vũ, thời gian trước khi ra Bắc.
Sau đó, ông cùng bạn tù bị chuyển tới vùng núi rừng sương giá bốn mùa, trại thuộc phần đất Hoàng Liên Sơn, tôi không trực tiếp hỏi thăm phu nhân vị trung tá nhạc sĩ vốn tài hoa ấy.
Nhưng bỗng một ngày tôi đến Minnesota, ra mắt sách năm 1996, Trung tá Mai Quỳ vốn thật xưa làm Tâm Lý Chiến trường võ khoa Thủ Đức, vị tá 5 này bấy giờ là đại uý. Và tôi đã có thơ đăng trên đặc san Thủ Đức từ ngày đó.
Trung tá Mai Quỳ tới dự buổi sinh hoạt văn nghệ vừa nêu, đã kêu tôi rồi nói thật thiết tha:
” Này Cao Mỵ Nhân, khi nào về thăm quê cô ở Sa Pa, tìm ghé thăm mộ Trung tá Vũ Văn Sâm, nhạc sĩ Thục Vũ đó. Tụi tôi đưa nó ra tận chân núi. Cả vạt đồi hoa ban trắng biết không ”
Tôi lặng người đi, tôi không quên, nhưng tôi có về vùng trời mà gió hú gọi sương phủ kín núi rừng quanh năm đó đâu.
Tới nay, tôi lại thấm câu thơ của thi sĩ Đinh Hùng mà nhạc sĩ Trung tá Vũ Văn Sâm đã phổ nhạc:
” Lòng như mưa tạnh nhớ lưng chừng …”
Hình như trạng thái lưng chừng đã thay cho sự bộc bạch khó nói ở đời, để thoái thác hay là giữ kín trong lòng một chuyện gì mà không hay chưa kết thúc được.
CAO MỴ NHÂN
CHÙM THƠ: CAO MỴ NHÂN
CHÍNH KHÁCH – THI SĨ – VÀ TƯỢNG ĐÁ
CAO MỴ NHÂN
*
Hình như Chính khách làm Thi sĩ
Cũng dễ như đang ở chính trường
Thi sĩ một thời mê chiến sử
Đã từng lập quốc, dựng ngôi vương
*
Thủa nay ai giúp người thiên hạ
Xây mộng công hầu giữa nhiễu nhương
Chính khách trầm ngâm xem Tượng đá
Ra đi hay đứng lại bên đường
*
Tượng đá suy tư, buồn nhỏ lệ
Giọt sầu tan nát cả hoa thơ
Ngươi ơi, thà chẳng là chi cả
Đỡ phải băn khoăn với đợi chờ …
CAO MỴ NHÂN
***
TRONG GIÓ GỌI. CAO MỴ NHÂN
*
Một mình đứng giữa bao la
Sau lưng núi thẳm, trước là biển khơi
Tàu đi về cuối chân trời
Trăm câu hò hẹn, một lời thuỷ chung
*
Ánh vàng rực rỡ non sông
Cờ vui sắc lửa mênh mông bạt ngàn
Quân reo quang phục giang san
Lẫn trong gió gọi chiêng vang, trống mừng
*
Dập dồn lửa đạn sa trường
Đốt tan cuộc chiến đau thương đoạ đầy
Vòng ôm ấm áp thân gầy
Nụ cười quê mẹ hồn say nghĩa tình
*
Đi bên thiên hạ có mình
Hỡi anh yêu dấu hành trình có em
Một lòng, đừng nói gì thêm
Triệu người chung một nhịp tim kiêu hùng…
CAO MỴ NHÂN
BÓNG THIÊN THẦN. CAO MỴ NHÂN
Vào một sớm, ngày xưa, nơi ký ức
Em đứng chờ người đến, giữa không gian
Áo hoa rừng, mũ đỏ, cõi thênh thang
Ôi đẹp quá, tình ơi, tình quá khứ
*
Yêu cho tới bây giờ, đời lữ thứ
Anh lính dù, em hậu cứ tha phương
Tuổi hồn nhiên ta bỏ lại thiên đường
Sao chua chát mỗi lần ôn chiến sử
*
Anh bẻ gẫy súng trường trong nỗi nhớ
Mặt trận nào hoang hoá đã xa khơi
Viết cho anh thơ khói lửa bên trời
Như đau xót từng tháng ngày lưu lạc
*
Em quỳ xuống, lạy cuộc tình tan tác
Thiên thần ơi, nhân dáng đẹp hư vô
Sáng hôm nay hương khói chợt mơ hồ
Bên hoa nở mùa xuân về lãng đãng …
CAO MỴ NHÂN
***
MÙA XUÂN TRUYỀN THÔNG. CAO MỴ NHÂN
Sao anh từ chối mùa xuân
Khi em còn đang đốt pháo
Ngòi nổ văng vào thân áo
Cháy vòng thành một hình tim
*
Anh bảo :
Thủa xưa không là pháo binh
Nên anh không chờ tiếng nổ
Vốn anh chiến sĩ truyền tin
Giữ gìn âm ba trận tuyến
*
Những ngày xuân ở tiền phương
Nối liền ngữ ngôn trận mạc
Khi lính kích giặc biên cương
Các anh truyền tin thao thức
*
Giờ đây anh làm truyền thông
Đôi tai chia tình cặp mắt
Đôi tay thả lỏng mênh mông
Kéo về điện tin tức khắc
*
Thế nên mùa xuân vui hát
Còn tưởng nhạc khúc quân hành
Pháo nổ trường chinh tin tặc
Em vào ” tiếp lửa ” cùng anh…
CAO MỴ NHÂN
***
BÀI KỆ CUỐI NĂM. CAO MỴ NHÂN
*
Một người lỡ bộ đi tu
Một người vội vã xách dù bước theo
Về đâu ? Xóm núi tiêu điều
Qua sông, hoa nở yêu kiều đón sư
*
Sư rằng : Chân thiện, tương như
Điều chi cũng giống chốn từ bi ra
Đất trời chỉ có đôi ta
Chúng sinh trong cõi sa đà Nam mô
*
Thực hư nghe thật mơ hồ
Người này lãng đãng trên bờ tử sinh
Người kia ôm khối u tình
Lênh đênh bóng giác thả hình mê xưa
*
Áo sư mang sắc đại thừa
Vàng như ánh đạo mới vừa khai nguyên
Chiếc dù che mảnh tình riêng
Chơi vơi nắng gió ngả nghiêng mưa mù
*
Hai người tìm tới thiên thu
Chùa trong sa mạc hoang vu kiếp này
Lặng thầm mở những ngón tay
Kết thành bài kệ đắm say tặng đời …
CAO MỴ NHÂN
***
BUỒN QUÁ SỨC BUỒN. CAO MỴ NHÂN
*
Một người vừa bỏ về xa
Một người ngồi tưởng tượng ra nỗi buồn
Hai người trên quả đất tròn
Tìm đâu cũng thấy, mà còn làm thơ
*
Đố anh, ai kẻ mong chờ
Ai rơi nước mắt những giờ nhớ thương
Vẫn em đơn lẻ trên đường
Bao nhiêu người ngó nắng sương độc hành
*
Ỡm ờ, anh sẽ làm thinh
Nôm na anh lại cho mình…trẻ con
Cần chi phải tưởng tượng buồn
Em đang buồn quá sức buồn rồi đây…
CAO MỴ NHÂN
ĐÁM MÂY LẠNH. CAO MỴ NHÂN
*
Như một đám mây lạnh
Đứng lại ở sân nhà
Anh không về chắp cánh
Cho em bay đi xa
*
Ngọn gió lùa phất phới
Đám mây rơi sương mưa
Đôi chim khuyên chới với
Trên cành lá lưa thưa
*
Em chờ nơi song cửa
Vén màn nhìn ra đường
Mặt trời không toé lửa
Trốn thật kín trong sương
*
Ngày đầu tiên mùa tối
Nhớ anh đến vô cùng
Nắng chưa vươn bóng tới
Sưởi ấm tình mông lung…
CAO MỴ NHÂN
***
TỪ TIỀN KIẾP. CAO MỴ NHÂN
*
Kiếp xưa ta có gặp nhau
Vội vàng quá, khiến quên câu giã từ
Bây giờ bỗng thấy trong mơ
Bóng anh đang thả lưới tơ êm đềm
*
Em theo sương khói kiếm tìm
Từ nguồn xưa, tới những miền nước xa
Từng cơn lũ lụt, phong ba
Lưới tơ anh vẫn thả ra khắp trời
*
Theo anh mọi ngả đường đời
Trái tim e cũng cạn lời nỉ non
Núi cao, biển rộng, lòng son
Nhớ nhung triều cạn, mỏi mòn đường đi
*
Kiếp xưa chưa định từ ly
Đời nay chia biệt cả khi xum vầy
Thế là tình cũng phủ mây
Bóng anh thấp thoáng nhưng đầy hồn em…
CAO MỴ NHÂN
***
THƠ SONG NGỮ Anh & Việt – Cao Mỵ Nhân & Thanh Thanh
CÚC CỐ NHÂN
Anh về, yêu lại màu hoa cúc
Rực rỡ bình minh lộng lẫy xuân
Cúc đỏ, cúc vàng chen chúc nở
Phương trời như thiếu cúc tri âm
Anh giữ trên tay hoa cúc trắng
Một cành đơn độc giữa phù vân
Mây, hoa cùng thấy lòng hoang vắng
Từ thưở người đi đã cách ngăn
Cố nhân cột tóc bằng nơ tím
Áo tím làm xuân chợt thoáng buồn
Chiếc nón bài thơ quai lụa tím
Hiên chùa cúc tím nhuộm hoàng hôn
Ảo giác say hoa xưa bát ngát
Chao ôi, ngày tháng cứ xa dần
Hương gây mùi nhớ, thơm ngào ngạt
Thanh sắc nào thay cúc cố nhân
CAO MỴ NHÂN
OLD CHRYSANTHEMUM
Back home, I resume my love of chrysanthemums.
Red tansies, yellow tansies, do bloom as a whole
With their colors so radiant as when spring comes;
But this place seems to lack the flower of my soul.
I hold a white nice chrysanthemum in my hand,
The poor solitary blossom in this ephemeral state:
Clouds and flowers appear fallen in a forlorn land
Since my sweetheart and me are already separate.
The old lover used a purple tie to bind her hair rap;
Her violet dress suddenly caused spring to frown;
The poem-woven conical hat with purple silk strap
And the pagoda purple tansies imbrued the sundown.
So vast was my fancy addiction to this flower kind!
Alas, time has passed further and further, it by rolled.
The fragrance excites the recollections in my mind.
Which hue could replace my chrysanthemum of old?
Translation by THANH-THANH
THƠ: Đêm Thu Không – THƠ Xướng Họa: Đón Thu – Nhớ Huế – Mặc Khách & cao Mỵ Nhân
VĂN: CHIM BAY VỘI VÃ – CAO MỴ NHÂN
CHIM BAY VỘI VÃ. CAO MỴ NHÂN
Còn 10 phút nữa mới 8:00 pm, trời vẫn sáng, mình vẫn thích cái không gian như vầy, mùa sắp vào hạ, nhưng sao mình vẫn lạnh, vẫn 3,4 cái áo len, thung nỉ…vẫn không rời đôi vớ.
Anh chưa hề hỏi thăm mình nóng mùa hạ, lạnh mùa đông …bao giờ.
Còn mình, mình vẫn nghe rất rõ tiếng chim én rời tổ bay đi, chúng chỉ ở lại đây có đúng 3 tháng mùa xuân.
Mình vừa khép cửa sổ lớn trong phòng, ngó về phương nam, trời bắt đầu tối, ánh sáng nhá nhem, hay giờ gà lên chuồng như ở quê xưa thường nói thế.
Một năm xa cách …Rồi sẽ 10 năm, và bao nhiêu năm sau chả biết, sẽ hết trăm năm.
Anh là nhân vật tiểu thuyết của mình, nên có đứng sát bên mình, vẫn là xa cách.
Anh thân kính ơi, tại sao chỉ với một bàn tay thôi, là chúng ta mở được cửa thiên đường hạnh phúc .
Ố ô, lâu nay mình vẫn cảm nhận được điều hạnh phúc dù ở xa anh, mà vẫn tưởng anh đang ở cạnh mới tuyệt vời chi lạ.
Hôm qua mình gặp lại một nhà văn cũ, ông ta hỏi thăm một cách chân tình rằng: mình có vừa ý cuộc sống đương thời không?
Mình hỏi lại để làm gì ? Ông nói vì thấy các nhà văn, các nhà thơ hay trả lời phỏng vấn, quý vị được hỏi thường chuẩn bị sẵn câu trà lời có lợi cho cuộc đời và sự nghiệp họ .
Nhưng mình có là nhân vật được hỏi đâu, nên chả cần phải giữ gìn, mình nói với ông nhà văn nêu trên cũng rất chân tình:
” Ông ạ, tôi thích cuộc sống này quá, chỉ sợ thời gian không kéo dài thêm cho tôi được sống mãi … như vầy thôi.”
Ông nhà văn trố mắt nhìn tôi:
” Ôi, lần đầu tiên tôi gặp một người, mà là nữ giới nữa, bằng lòng với số phận của mình. ”
Chu choa, thì tôi có lúc tự hỏi là trên đường đời tôi đã đi qua, lên cao, xuống thấp đã từng, chắc tôi cũng đã so sánh phần nào số phận mình, để kết luận: tôi đang thực sự ” Yêu Quí ”
thời gian này.
Sau cuộc đổi đời 30-4-1975, là một Sĩ quan Nữ quân nhân chế độ cũ, tôi có 2 lần bị trả lời một câu hỏi, mà họ, bạo quyền cộng sản nghĩ là tôi không thật lòng khai báo .
Câu hỏi được đặt ra như vầy:
” Chị cho biết thời gian nào chị sung sướng nhất, và thời gian nào chị …khổ sở nhất “.
Khi đặt câu hỏi này, là người ta dư biết câu trả lời :
Nó sẽ là sự miệt thị chế độ csvn, lòng hoài cảm chế độ cũ, VNCH.
Để sau đó tuỳ cách ứng xử, nếu trong tù cải tạo thì theo luật rừng, mà ngoài xã hội thì theo luật …rú chẳng hạn.
Tuy nhiên tôi đã nói thật với lòng mình, là cứ lấy cái mốc thời gian 1975 cho dễ hiểu.
Thì trước 30-4-1975, cuộc sống tôi dư thừa vật chất, chan hoà phương tiện. Nhưng tinh thần tôi, đúng ra là tâm tư tình cảm tôi rất không như ý, vì ông xã tôi quá hào hoa phong nhã, nên tình chồng vợ có hao hụt ít nhiều.
Sau 30 -4 -1975, cuộc sống vật chất hoàn toàn phá sản. Nhưng tinh thần tôi, vẫn tâm tư tình cảm thôi nhé, thư giãn ít nhiều, vì ông xã tôi trực tiếp chấm dứt tình trạng phong lưu, hào phóng, cuộc sống gia đình yên ổn phần nào.
Theo như nhận xét của chị, thì ngoài xã hội đang khó khăn, vất vả hay sao ?
Tôi nghĩ đó không phải đặt ra câu hỏi, vì ai trong xã hội đương thời ( CSVN )đều biết cuộc sống trước mặt.
Thế rồi thì tôi dù muốn dù không, bị cuốn vào cái xã hội mà chủ trương của nó là tôn sùng vật chất.
Như lý luận học thuyết duy vật, mà biện chứng, lý giải thì hẳn là điều không khốn khó, khổ cực, sẽ không phải phương châm đấu tranh của họ.
Tới lúc tôi thèm nhìn một cánh diều trên đồng cỏ cháy nơi nông trường Tây Nam, buổi trưa ngồi giữa nắng chờ nghe tiếng chim bay vội vã lên núi Bà Đen, lòng trống trải buồn vô hạn.
Ông xã tôi đã trên đường vượt biển, để lại cho tôi nỗi mông mênh chán nản .
Câu chuyện sướng khổ vẫn được nối tiếp theo những trang nhật ký, mà tôi nghĩ rằng nếu có bị bạo quyền phát giác, trong nhật ký cũng chẳng có gì động chạm tới xã hội của họ. Bởi vì điều quan trọng nhất đối với tôi, vẫn là tâm tư, tình cảm
bỗng như bị bỏ quên, như mất mát, mình không có một hình ảnh, một lời nguyền đúng nghĩa trong tâm tưởng.
Tôi có lại cuộc sống trước 30-4-1975, giống một bức tranh có đường nét cũ, nhưng mầu sắc mới, khi tôi đến được Hoa Kỳ.
Tất nhiên thời gian chồng chất thêm, tuổi tác cũng bắt kịp chuỗi ngày vội vã, thực dụng, tưởng như không thoát ra được cái khuôn sáo xã hội mới mẻ, bởi vì còn nơi nào khác nữa để tái định cư vui vẻ, tươi đẹp hơn xứ Mỹ này chớ.
Nghĩa là muốn gì có nấy, thích chi thì làm, nhưng phải trong điều kiện không chạm tới quyền lợi của ai.
Do đó, tôi lại đi tiếp con đường của tôi.
Nhìn lại hành trình, có vẻ ngắn bớt, hành trang thì bỏ đi nhiều, nên tôi cảm thấy nhẹ nhõm, tha hồ tung tẩy như thủa mới vào đời.
Có một điều ít ai để ý, là hình như mình biến thành vai phụ trong chính những công việc của mình. Đôi khi mình không tự quyết định công việc mình sẽ làm, mà cứ phải hỏi thăm hay nhờ vả người thân hoặc bạn bè giúp đỡ.
Tức là đang ở trạng thái không đứng vững, hay không chắc chắn đúng, thế nên cuộc sống cũng bớt đi phần nào vui vẻ lạc quan kiểu ngày xưa.
Như vậy lại tự hỏi là: Thế có thể làm được gì khác hơn hoàn cảnh hiện tai ?
Ở thời điểm tôi bây giờ, tôi thẳng thắn trả lời: ” Chẳng làm được gì cả đâu, hãy giữ gìn sức khoẻ để không bị đau ốm, làm phiền con cháu thôi ” .
Nhà văn xưa mới tái ngộ cười: Bà nói đúng, ngay đến thế hệ sau chúng ta cả chục năm, chúng đã sớm có tư tưởng về hưu rồi .
Thế nên tôi mới nói ở trên là tôi đang thích cuộc sống này, chưa hoàn hảo lắm, nhưng thực sự thoải mái, thảnh thơi …
Với tôi, còn có thì giờ mơ mộng nữa chứ …
CAO MỴ NHÂN
VĂN: Từ Bến Sông Thương & Chapa Dang Dở – Cao Mỵ Nhân
Nguồn ảnh: Internet
TỪ BẾN SÔNG THƯƠNG. CAO MỴ NHÂN
Vào khoảng giữa thập niên 80 thế kỷ trước, nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội ( 1914 – 2007 ) nói với tôi là bà sẽ cùng tôi đi lang thang thăm các văn nhân thi sĩ lớn tuổi, ở cả 2 miền nam bắc mà bà quen biết.
Tôi rất hào hứng chờ dịp đi ” lang thang ” này.
Trước nhất, tôi khỏi cần phải đọc sách báo, mới biết được thân thế và sự nghiệp một nhà văn, thơ nào đó mà mình muốn tìm hiểu, hay là muốn ” tham khảo” để định viết lách gì đó .
Kế tới, là tự nhiên tôi không cầu cạnh được giới thiệu, hay muốn diện kiến dung nhan quý vị tên tuổi ấy, mà bỗng nhiên được thấy tận mắt quý vị danh tiếng như các cụ Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Đông Xuyên, Bàng Bá Lân …vốn sống ở trong nam.
Các vị nổi tiềng từ tiền chiến, như Thế Lữ, Anh Thơ… vốn sống ở ngoài bắc, sau 30-4-1975 lại vô nam cư trú vv…
Người đầu tiên là nữ sĩ Anh Thơ ( 1921 – 2005 ), vì nhà bà ấy ở số 11 đường Thiệu Trị, gần với biệt thự Úc Viên, cuối đường Nguyễn Mình Chiếu, của nữ sĩ Mộng Tuyết và cố thi sĩ Đông Hồ, giáo sư Hán học trường Đại học Văn Khoa Saigon trước 1975 .
Mỗi lần đi như thế, nếu gần thì đi bộ lai rai, xa thì ngoắc cyclo chạy lài dài, thích lắm .
Tôi thua bà đến ba chục tuổi, nên được hội thơ Quỳnh Dao của chúng tôi, do tôi tôn phong nữ sĩ Mộng Tuyết là niên trưởng kỳ 3, tức sau 2 vị niên trưởng đã quá cố : nữ sĩ Cao Ngọc Anh và nữ sĩ Đào Vân Khanh.
Quý vị hội viên coi tôi là em út Quỳnh Dao, đồng thời tôi là ” cây gậy ” của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội luôn.
Do đó, đi đâu tôi cũng được vời tới …
Tuy nhiên, cũng là sẵn dịp vừa từ tù cải tạo ra, tôi chưa có công ăn việc làm, mới rảnh rang như thế, chứ sau này tôi đi làm rồi, thì rong chơi làm sao được nữa.
Từ cái thập niên 30, nhị vị nữ sĩ: một trong nam Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội, một ngoài bắc Anh Thơ, đã làm nổi đình đám thơ phụ nữ của nền thi ca mới, không bay bướm, sâu xa được như quý nam thi sĩ cùng thời: Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, không trẻ trung, nội tâm được như Nguyễn Bính, Thâm Tâm vv…
Nhưng nhị vị Mộng Tuyết, Anh Thơ, lại mỗi người tự trải cho mình một cái chiếu thi ca riêng biệt trong làng thơ bấy giờ .
Đi song song với quý nữ sĩ đương nêu, về thơ thôi, thì còn có các nữ tác giả khác như Hằng Phương ( phu nhân nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan) Vân Đài ( sau theo Bác Đảng
CSVN cùng với nữ sĩ Anh Thơ) .
Cũng thời tiền chiến đó ( trước 1945 ), 2 cây bút nữ thi sĩ rất đáng trân trọng, quen thuộc trên cả nước là Ngân Giang và Tương Phố .
Tất nhiên còn quý vị nữ thi sĩ khác nếu có, không nổi bật lên, chẳng hạn Mai Đình ( một trong số nữ nhân vật của nhà thơ hẩm phận Hàn Mặc Tử) vv…
Vì chỉ nhắc tới thi ca, nên quý vị nữ văn sĩ cùng thời hoặc xê xích, như quý bà nhà văn Thụy An , Mộng Sơn, Nguyễn Thị Vinh, Lính Bảo ( sau 1945 ) .
Thi ca phái nữ VN thập niên 30 thế kỷ trước, có một sự kiện riêng biệt, một huyền thoại, mà khởi sự thì như một hiện tượng lạ, sau mỗi lúc mỗi huyễn ảo hơn, bởi cái tên ký tắt kín đáo, và nội dung không mới mẻ, nhưng đi vào đại chúng lan rộng mau chóng, đồng thời năm tháng cứ chất chồng thêm những bí ẩn của tác giả, chứ không phải câu chuyện.
Đó là hiện tượng TTKH với hình ảnh ” Hai Sắc Hoa Tị Gôn ” .
Tôi đi hơi xa về mục đích bài viết này. Tôi chỉ muốn ghi một chút kỷ niệm về nhị vị mang chính danh nữ thi sĩ trên thi đàn thế kỷ vừa qua thôi : Mộng Tuyết , Anh Thơ.
Tất cả những chi tiết như khuynh hướng thơ, sự nghiệp thơ, cuộc đời nhị vị ấy, thì đã đầy đủ trên sách báo vv…
Có chăng là một thoáng gần cuối đời quý bà, mà tôi có cơ hội gặp gỡ.
Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội và tôi đã ngồi trong căn nhà nhỏ thôi, tầng trệt và cái lầu có ban công hẹp, bình thường . Tất nhiên nhà đó là của một gia đình trung lưu miền nam, đã bỏ đi ngoại quốc, vì cộng sản Bắc Việt xâm chiếm miền nam.
Nữ sĩ Anh Thơ theo ” cụ Hồ” cùng với bà Vân Đài, mà tôi chẳng rõ văn nghiệp bà này thế nào .
Riêng bà Anh Thơ thì lặn lội theo đảng, theo thâm niên và tuổi tác bà đã lên tới chức ” thứ trưởng hàm” như một số văn nghệ sĩ tiền chiến theo Việt Minh lúc đầu , sau theo cộng sản là lẽ đương nhiên, như thi sĩ Huy Cận chẳng hạn.
Tức là cái chức để đó cho có vị , chớ chả có quyền hạn gì. Một nữ thi sĩ kiêm họa sĩ miền nam đã thản nhiên kêu đích danh nhà thơ Anh Thơ là ” Thợ thơ bậc 7 “cho phù hợp với giai cấp công nông đi lên.
Nữ sĩ Mộng Tuyết giới thiệu tôi, Cao Mỵ Nhân, nguyên là thiếu tá VNCH, ngành Chiến Tranh Chính Trị , đã xong chuyện đi tập trung cải tạo về.
Bà Anh Thơ im lặng một lúc, rồi cười cười kêu tên tôi, bà xưng là ” chị” như tất cả các nữ sĩ trong hội thơ Quỳnh Dao đều xưng ” chị ” với tôi .
Bà “Thứ trưởng văn hoá” hay “Thợ thơ bậc 7 ” do thi họa sĩ XXX đặt cho bà, vốn có cái tên rất ” mĩ miều xa xưa” do cụ thân sinh đặt cho là Vương Kiều Ân.
Sau, dầu muốn tham gia kháng chiến, để có vẻ tân thời, phá khuôn thước phong kiến, nhưng trong lòng vẫn thích là mệnh phụ phu nhân như hầu hết quý nữ sĩ ở thi đàn Quỳnh Dao.
Chẳng hạn như nữ sĩ Vân Nương phu nhân luật sư Lê Ngọc Chấn, nguyên đại sứ VNCH ở Anh và Tunisie, như nữ sĩ Thu Nga phu nhân của kỹ sư Lương Sĩ Phu, như nữ sĩ Đinh thị Thục Oanh phu nhân của giáo sư thi sĩ Vũ Hoàng Chương vv…và hàng chục phu nhân quý vị tên tuổi khác …
Nên sau này bà thường tới dự tiệc ở các khuôn viên quý bà Quỳnh Dao .
Bà kể lại giai đoạn bà được giải thưởng thơ của Tự Lực Văn Đoàn, và tìm cái bằng ghi giải thưởng thơ đó, do 3 thi sĩ ký tên là : Tú Mỡ , Thế Lữ và Xuân Diệu.
Khi tôi đi Mỹ theo diện tị nạn, thì có mấy diễn đàn báo chí đang tranh luận là : Xuân Diệu có trong Tự Lực Văn Đoàn không ? Lý do cặp bài trùng thi sĩ lớn Huy Cận, Xuân Diệu như chim liền cánh, mà sao chỉ có Xuân Diệu trong Tự Lực Văn Đoàn là thế nào ?
Nhà văn Đặng Trần Huân nêu chi tiết, là Cao Mỵ Nhân đã nhìn thấy tấm bảng ghi giải thưởng thơ Tự Lực Văn Đoàn do 3 thi sĩ nêu trên ký ở văn bằng nữ sĩ tiền chiến Anh Thơ, tất thi sĩ Xuân Diệu là thành viên Tự Lực Văn Đoàn.
Như trên tôi đã trình bầy, là hậu tù cải tạo, tôi chưa có việc làm, nên cứ thế rong chơi.
Nhị vị nữ sĩ Mộng Tuyết và Anh Thơ đều đề nghị tôi nên tới giúp bà Anh Thơ cái việc đọc lại những trang nhật ký của bà Anh Thơ đang viết theo yêu cầu của đâu đó ngoài trung ương, viết hồi ký mà có tiền …lương mấy đồng một trang, tôi chả nhớ .
Tôi đang phây phây mỗi sáng ghé nhà bà Anh Thơ để đọc những trang bà viết, cũng chỉ là đường trường đi…cách mạng, xem một số chấm, phẩy , câu cú vv… văn phạm, chính tả sơ sài.
Đương nhiên cũng có lúc tôi ở lại chơi, cơm nước vv…vì bà chỉ có một mình với cuốn nhật ký dở dang. Phu quân bà lúc đó là bác sĩ trưởng khoa thần kinh Bệnh viện Chợ Rẫy.
Tôi chẳng tò mò, nhưng tình cờ một lần nữ sĩ Mộng Tuyết kể rằng vị bác sĩ ấy nguyên xưa là y tá bệnh viện Chợ Rẫy tập kết ra Bắc năm 1954, nay trở về tiếp thu và được nhận ngay chức trưởng khoa thần kinh như đương nêu .
Đã gần xong cuốn hồi ký ấy,có thêm một thanh niên tới đánh máy kiểu tạch tạch ngày xưa cho tác giả Anh Thơ .
Phút cuối cùng kêu rang rảng, là bà hỏi tôi nên đặt tên cho cuốn hồi ký đó là gì ?
Bà đã đặt cho hồi ký cái tên đằng đằng sát khí là: “Sống Chiến Đấu ” , chỉ còn thiếu mấy chữ ” theo gương bác Hồ ” nữa là đúng cái câu hằng ngày của đảng bà : ” Sống chiến đấu theo gương bác Hồ vĩ đại…” vẫn nói.
Tôi chưa định trả lời thế nào, thì nữ sĩ Anh Thơ tiền chiến chợt nhớ ra, bà nói: ” ngày xưa nhà mình ở nơi có dòng sông Thương chảy qua đấy ” …
Thế là tôi đề nghị bà Anh Thơ đặt cho hồi ký bà : ” Từ Bến Sông Thương “, tôi giải thích đã hết chiến đấu rồi, chị cũng muốn kỷ niệm ” Từ Bến Sông Thương” đó chị thoát ly theo …cách mạng vậy .
Bà Anh Thơ thú vị lắm, đã hoàn tất có lẽ là tập 1. Còn tập 2 đang coi lại .
Tôi được nữ sĩ Mộng Tuyết kéo vào một nơi yên lặng nhất của Úc Viên, tư thất của nữ sĩ , dặn dò rằng : ” Thôi Cao Mỵ Nhân đừng ghé nhà chị Anh Thơ nữa, bà ấy là bà Anh Thơ, không giữ được bản lãnh như những người mình đâu, bà ấy nghe ông Thọ nào đó, vừa từ Bắc vô, nói rằng tại sao chị dám để một sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị địch đọc hồi ký trước khi phát hành . ”
Chu choa cũng may cái mối thân tình của nữ sĩ Mộng Tuyết với bà Anh Thơ lâu năm, chứ không thì họ vu vạ cho tôi tệ hơn nữa cũng chẳng kêu trời được .
Tiếp theo, có một bữa tiệc ở Úc Viên, cả bà Anh Thơ lẫn tôi đều có cách nhìn là muốn chào nhau mà cứ ngần ngại, tuy nhiên tôi chỉ là ” chiếc gậy “của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội niên trưởng Quỳnh Dao của chúng tôi, việc tới lui với bà Anh Thơ cho dù có thuận thảo, cũng chỉ là thứ yếu …
Trở lại Chapa năm nay, có lẽ là lần cuối tôi với chàng không còn cơ hội gặp nhau nữa.
Tại sao tôi có ý nghĩ này, bởi lý do rất khách quan, là cả chàng lẫn tôi đều chán nhau đến độ tôi cứ nhìn đồng hồ xem đêm đã hết tới đâu.
Tiếng tích tắc của chiếc kim đếm thời gian, như tiếng búa đóng đinh trên nắp quan tài tình ái rỗng tuếch, trái với ước mơ thủa ban đầu, những cặp tình nhân thường thiết tha thổ lộ : ” Chúng mình sẽ chết cùng nhau trong một huyệt mộ ” .
Mùa xuân này hoa đào vẫn nở như những mùa xuân trôi qua thung thổ núi rừng Chapa, khi tôi được sinh ra, lớn lên, trong bầu không khí ẩm ướt quanh năm .
Tôi bỗng muốn khóc thét như những cô nàng Mèo đến tuổi cập kê xưa, hay khóc oà ra như trẻ thơ thèm sữa mẹ quá, mà người mẹ đi mãi không về.
Mùa xuân ư ?
Mùa xuân ở một miền lâm nguyên xa nhất, cao nhất đất nước Việt Nam .
Quý vị sẽ cười mỉm, rồi nói rằng: ” Lâm nguyên nào mà chẳng ở xa nhất so với nơi chúng ta đang sinh sống thường ngày, thí dụ người ở Cao Bằng nhìn về Đà Lạt . Hay người ở Cà Mâu ngó tới Lạng Sơn chẳng hạn …”
Nhưng cao nhất, thì không thể lý luận chung chung thế được, cao nhất hay không, phải so từ mặt đất xuống bờ đại dương chứ .
Đại dương là cái bình thông đáy khổng lồ, tuy nó được Thượng Đế cho hiện hình theo độ cong của địa cầu, nhưng tôi không dám lan man …
Tôi chỉ đang muốn tưởng tượng lại chốn xưa, nơi tôi được sinh ra : Chapa như nêu trên, danh xưng nghe tưởng là câu thần chú nhật tụng mỗi lần tôi nhớ lại, tưởng tượng thêm, vì mỗi ngày mỗi chồng chất thêm năm tháng .
Bức thư của người Chapa gởi cho tôi, bảo rằng :
” Cô có về không, cả một phương trời đầy hoa anh túc, đa sầu đa sắc, đã tất cả cùng phai như mầu tóc thượng tầng cao nguyên Xuân Viên, làng nghỉ mát Chapa, Đông Dương…”
Ôi sao chúng ta cứ phải níu kéo dĩ vãng cả trăm năm trước thế ?
” Thế cô không nhớ tôi là chàng a phủ thời đó ư ?
Hãy lắng lòng thêm một chút nữa, hình ảnh mùa xuân đầy khói sương đã huyễn hoặc chúng ta cho đến giờ này, dẫu cô đang xa cách thiên đường chúng ta cả nửa vòng trái đất, tôi vẫn bồi hồi xúc động, nhớ nhung… “
Tôi chạnh nhớ tới mùa xuân sau cùng, khi bố mẹ tôi quyết định rời bỏ Chapa , đưa chị em tôi về suôi .
Tức là sau mùa xuân năm đó, chúng tôi đã ở đồng bằng .
Mỗi lần mẹ và chúng tôi, ngước nhìn trời mây châu thổ bay về hướng núi xa xôi, tất cả đều buồn, chị lớn tôi tên Thy , lại kể chuyện Chapa, làm như chỉ có mình chị Thy tôi biết :
” Có nhớ không, cái đám rước từ lòng rừng ra khỏi dốc hoa đào, ngang cửa nhà mình, tiếng kèn Mèo quyện vào tiếng thanh la, rung cả nhà cửa, em Mỵ , là tôi đấy , sợ quá , 2 tay bịt mắt lại , chúi xuống gầm bàn …”
Bà cô tôi đang lo tết nhất nhà quê ngoài Bắc, dừng tay quấy nồi chè kho, là chè đậu xanh đánh như chè Huế, nhưng bỏ mật ( mật là loại đường đen lỏng ) hỏi chị Thy tôi:
” Vậy người Mèo thế nào ? Ăn mặc thế nào ? Dữ hay hiền ? ”
Người Mèo ở độ cao nhất các thứ người thiểu số đó .
Họ dệt vải ” thổ cẩm ” chủ yếu có 3 mầu thôi, đen , đỏ và chàm.
Thấy trong đám rước hôm đó, đàn ông mặc quần, áo lá, đàn bà mặc váy , áo lá .
Đó là ngày xa xưa, chứ bây giờ, thanh niên dân tộc thiểu số đã văn minh, mặc quần jean, áo thung, xe honda leo núi như điên rồi .
Đám rước gồm đàn ông, đàn bà đi hàng dọc lộn xộn, đông độ mấy chục người thôi, không có người già quá, cũng không ai bế ẵm con nít quá nhỏ đi theo.
Họ đi suốt con đường chính của thành phố Chapa mà thủa đó kéo dài cho tới bây giờ, cơ sở đẹp nhất vẫn là ngôi nhà thờ xây bằng đá .
Ở ngay cửa ra vô lòng nhà thờ , có cây hoa đào cánh kép .
Đám rước xuống khu chợ, dừng ngang nhà bà đồ Mèo .
” Bà đồ Mèo ” là tiếng của người Kinh gọi bà người Mèo, bà chuyên nghề ” xỏ lỗ tai ” cho các cô bất kể Kinh Mèo…và nhất là các bé gái .
Chị em tôi cũng được mẹ dẫn tới xỏ 2 lỗ tai để đeo khuyên bạc với kiềng bạc như tất cả chị gái và bé gái ở Chapa xưa.
Bà đồ Mèo bỏ rừng ra thành phố lập nghiệp ” xỏ lỗ tai ” .
Bà đồ Mèo lấy một chiếc kim may nhỏ đã luồn sẵn một sợi chỉ tơ trắng ngả mầu cháo lòng làm dụng cụ xỏ tai.
Điều quan trọng là bà đồ Mèo chỉ dùng 2 đầu ngón tay cái và trỏ bên tay trái, bóp vào trái tai, giữ yên đó, xong tay phải cầm cây kim may kể trên .
Đoạn bà xuyên cây kim qua trái tai đang có 2 ngón tay bà giữ, cho cây kim chui qua hẳn lỗ nhỏ với sợi chỉ tơ để một khúc chỉ nối lại, đánh dấu 2 lỗ tai của khách hàng .
Cho tới khi lỗ tai tự lành, cắt chỉ toong teng, còn lại 2 lỗ thủng ở 2 trái tai sẵn sàng đeo đôi khuyên bạc như tất cả con gái Mèo .
Cứ cách xỏ tai chuyên nghiệp đó, bà đồ Mèo là người duy nhất làm nghề quen thuộc này ở Chapa.
Thái độ nửa tỉnh thành, nửa man dại của bà đồ Mèo, đã hấp dẫn hầu hết khách bất kể ai muốn xỏ lỗ tai.
Bữa có đám rước nêu trên, bà đồ Mèo kê ngoài cửa nhà một cái lu bự đựng nước mưa trong veo, gác mấy cái ống bương đã được cưa mấy đoạn có cái mắt bương, để làm đồ dùng múc nước uống, như ở miền suôi họ có gáo dừa múc nước .
Đám rước Mèo dừng lại, mấy người thay nhau uống nước .
Rồi theo nhau líu ríu trở vô rừng đang có chút nắng xuân .
Chắc bộ lạc ấy cũng đông, ước độ vài trăm người.
Cuộc sống lẩn khuất, huyền bí của họ , chẳng làm phiền ai.
Sa Pa trẻ trung bây giờ là hậu thân của Chapa già lão cỗi cằn, mà tôi cứ thương nhớ mãi .
Trung Tâm Du Lịch Sa Pa lâm nguyên, như cô gái tầm xuân, cứ lượn lờ trước mắt khách du, không sao tìm được quá khứ, cho dẫu quá khứ đó không đẹp, huống chi quá khứ đó lại quá tuyệt vời .
Tôi cúi xuống thau nước ấm mùi hoa đào, che dấu những giọt nước mắt não nùng đang lã chã tuôn rơi…
Thì cũng phải ra phố một lần trước khi vĩnh viễn chia tay.
Tôi thay chiếc áo lụa bạch, mầu tóc cũng lạt phai như tình ái cuối mùa tang chế…
Chàng đăm chiêu buồn, chắc đang tưởng nhớ thời gian chúng tôi gặp nhau ở “chợ tình ” .
Nghĩ đến ” Chợ Tình “, tôi lại buồn cười .
Sự thực cách đây hơn nửa thế kỷ, không ai nói hay là nhắc tới, bởi lẽ khi người Pháp còn trên đất nước VN nói chung, và ở Chapa nói riêng, Chapa do tên Tây đặt cho phần đất mà họ gọi là ” Làng nghỉ mát ” để những ông tây bà đầm đi du lịch hay dưỡng bệnh .
Nếu đúng dịp 14-7 dương lịch hàng năm, thì những người Tây đó họ tổ chức tiệc tùng vui chơi kỷ niệm ngày phá ngục
Bastille 14-7-1789, dựng Khải Hoàn Môn ở Paris.
Họ căng dù mầu, kết hoa, rượu Tây, bánh ngọt vv…
Người Kinh và người Mèo thường nói ” ngày hội ” Cát tó zdu zdee ” có nghĩa ” 14 – juillet ” vậy thôi.
Danh xưng ” Chợ Tình Sa Pa ” sau này như một hứng thú với khách du lịch trong và ngoài nước, âu là cái số lãng mạn cho một thành phố núi rừng thời đại .
Rằng nơi đó, chợ tình nhóm họp ở vài chỗ công cộng trong thành phố .
Nơi nam nữ thanh niên có thể tới đó gặp gỡ, hẹn hò vui vẻ, và cũng đã từng người bản xứ vừa ý, nên duyên chồng vợ .
Ở Praha Tiệp Khắc có ” Cầu Tình “, nhưng chiếc cầu này chỉ có những nghệ sĩ lãng tử ngồi đàn ghi ta, phong cầm dửng dưng, ai muốn nghe thì nghe, không hề thấy những đôi nhân tình tới đó ngó mây trôi dưới đáy sông.
Bất giác tôi mỉm cười nhẹ như hơi gió bấc thổi tới lâm nguyên lạnh lẽo, buồn bã:
” Anh ạ, hương hoa anh túc sẽ ủ hồn em cho tới khi Chapa tan vào khói sương nha phiến …”
Chàng hôn khẽ vào đôi mắt mờ lệ tủi, tại sao tôi phải khóc khi chính nguyên nhân giã biệt không cần phải đặt ra.
Như thế nghĩa là sao ?
Có ai bắt buộc chàng và tôi phải xa nhau vĩnh cửu trọn đời này ? Ôi, câu hỏi tự nó trả lời rồi. Đất trời đã là vực sâu ngăn cách đấy .
Chẳng lẽ tôi ở lại đây ?
Còn chàng, thì chẳng lẽ theo tôi đi đến cuối trời xa tít mù khơi ư ?
Tức là chúng tôi thiếu sức khoẻ, hay nói thẳng ra chúng tôi không còn tuổi trẻ để trang trải tình yêu say đắm hương xuân của hoa rừng ngạt ngào, trên những vạt cây anh túc muộn phiền mê muội .
Nhưng sao cứ mỗi mùa xuân về, tôi cứ phải gặp lại Chapa,
vì tôi không có gì ngoài Chapa làm vốn liếng .
Tôi chỉ có vùng trời đó, phần đất đó làm vốn liếng cho tư duy, nuôi dưỡng tâm tư tình cảm tôi, điều sáng rỡ lấy làm hãnh diện cho tôi bầy tỏ với mọi người .
Tôi đứng ở biên đình, như một người sống giữa quê hương, đợi khách lỡ viễn phương, cả hai đều mang tâm sự về Sa Pa dang dở .
Biên giới hoa đào đã khai quang lãnh địa.
Ngày xưa chỉ toàn một mầu hồng phấn miên man, thủa nguyên sơ tĩnh lặng không một dấu thú hoang, vì là rừng cảnh, nên chỉ có vết hoa rơi ướt hài khách văn nhân, tài tử .
Khi ra khỏi nhà ở cửa rừng hoa đào cánh kép, con dốc đổ xuôi hình thước thợ .
Đó là đoạn dốc ngắn trước cửa nhà ba tôi.
Ngôi nhà với 3 mặt lắp kiến dày, và phần lưng nhà thì lại là vách núi cheo leo.
Cuối đoạn dốc, rẽ qua tay trái, bắt đầu đại lộ chính của Sa Pa, cũng dốc, nhưng thẳng tắp, đại lộ này đã có lần thật xa xăm, bà vú em bồng tôi trên tay, để bước theo đoàn rước của người Mèo, vào mùa xuân năm ấy.
Chị Mỹ tôi đang được cha cố người Pháp làm lễ rửa tội , và cả gia đình bố mẹ tôi thủa ấy đang sắp sửa bữa tiệc trưa nơi sân nhà thờ đá, để hân hoan mừng đón ân sủng của Chúa vừa cho chị Mỹ tôi trở lại đạo .
Chị Mỹ tôi bây giờ không còn nữa, nhưng hình ảnh bé gái mũm mĩm mặc áo dài, tóc bum bê, mở to đôi mắt nhìn cha cố
đọc những lời ” mặc khải ” của Thiên Chúa tối cao, lại khiến tôi thương nhớ Chapa thần thánh nhiều hơn.
Tôi thở dài, nhà thờ đá vẫn hiện thân của một thời xưa cũ không thay lòng đổi dạ.
Nhưng sao tôi vẫn thấy lòng mình chẳng vẹn toàn .
Thế là tôi từ giã chàng, người tình Chapa nguyên thuỷ của tôi, cũng sẽ là người tình muôn đời chỉ hiện diện trong ký ức xa mờ .
Tôi cúi xuống ven đường vòng quanh Cát Cát, hái một nụ hoa sún mầu xanh biếc, hoa dại chưa từng ai đặt tên, tôi thầm thì nói thật nhỏ, nhỏ thêm chút nữa, bởi vì nếu tôi có nói lớn hơn, cũng chẳng có ai nghe, Chapa sẽ bị chôn vùi cùng cát núi, cỏ rừng …
Tên tuổi nó, mang hình ảnh chàng ta đang lịm chết dưới tảng đá khổng lồ, vô cùng trừu tượng ở muôn xưa Fang ci Pan.
Đã từ nửa thế kỷ trước, người ta khoác cho nó một cái tên hiền lành nhưng thơ mộng là Hoàng Liên Sơn hay Núi Sen Vàng.
Khi tôi đứng cạnh anh, tôi chỉ là tấm bia đá sầu ghi nhớ cuộc tình si thung thổ của lâm nguyên này .
Chiếc xe rời khỏi cầu Mây, tôi bâng khuâng tự hỏi: ” Tới bao giờ trở lại ? Ô hay vĩnh biệt rồi mà . ”
Dẫu không tử biệt, cũng là sinh ly.
Trăm năm như một luồng gió thổi qua vách núi, mang khí lạnh về suôi, không có một hơi ấm nào ngoài năng lượng của mặt trời, ấp ủ tình yêu mất dần ý nghĩa : Chapa huyền thoại đâu còn nữa, chỉ có Sa Pa huyễn hoặc ở thủa này .
CAO MỴ NHÂN
CHÙM THƠ VỀ TÌNH & ĐÁ – CAO MỴ NHÂN
THƠ: MƯA PHỐ NÚI – Cao Mỵ Nhân
nguồn hình: Internet
GIỌNG BUỒN THỔ NGỮ – Văn – Cao Mỵ Nhân
GIỌNG BUỒN THỔ NGỮ. CAO MỴ NHÂN
Khi gặp anh …mình thấy ngay cái bóng dáng đàn ông Huế .
Cái bóng dáng đàn ông Huế đó, không trộn vào đâu được, dẫu trong đám đông, hay ngoài đời …đơn lẻ .
Anh lắc đầu, bật cười : ” Nếu tui không Huế, thì có định quen tui không, răng đưa hình ảnh Huế ra chi rứa, có điều muốn nói điều khen, chê thì phải rõ ràng, không trúng sẽ giận đó nghe…”
Ô chưa chi đã hăm vậy, ai còn dám sơ rơ nữa hà . Tôi vô chuyện ngay tề .
Ngày xưa lâu rồi, vị đại tá tỉnh trưởng Đà Nẵng, Nguyễn Văn Thiện ( 1928 – 1970 ), mỗi lần xuất hiện ở đâu, dáng dấp như một công tử, bình lặng nhưng bay bướm …
Quan 6 gốc Thừa Thiên, xuất thân từ binh chủng Thiết Giáp, đi từ Trung đội trưởng Thiết Giáp, lên Chi đoàn trưởng Thiết giáp , rồi vv chức vụ khác, để sau chót là Chỉ Huy Trường binh chủng Thiết Giáp, mới ra ngành đi các đơn vị có tính cách tham mưu, hành chánh vv…
Với những buổi lễ đặc biệt, phải có sự hiện diện của tỉnh thị trưởng, thí dụ lần đầu tiên Hội Quả Phụ Tử Sĩ trên danh nghĩa các đấng chinh phu đã qua đời, bất kỳ tử trận hay lý do bịnh hoạn gì.
Trước một rừng khăn trắng thê lương như vậy , Đại tá Nguyễn Văn Thiện nguyên Tỉnh Trưởng Đà Nẵng với dáng dấp một tài tử văn nhân, hào hoa, mã thượng đến dự lễ nêu trên.
Ông chỉ nói ít câu thôi, mà quý phu nhân của những vị quá
cố đã thổn thức, nghẹn ngào …
Quý vị có nghĩ rằng: lấy được nụ cười của tha nhân đã khó, mà lấy được nước mắt thiên hạ còn khó hơn không ?
Trong buổi lễ nêu trên, tôi cũng thấp thoáng…bâng khuâng .
Tôi chợt nhận ra : ” đâu phải chỉ ngôn ngữ Bắc kỳ cũ , một giọng Bắc thoát thai từ lớp trí thức, tiểu tư sản Hà Nội xưa, mới quyến rũ từ trên quan quyền, xuống dưới bình dân …
Mà, giọng nam dịu ngọt, ân cần, cũng đầy …thuyết phục .
Tới giọng miền Trung, nói chung đầy thổ ngữ địa phương, như nhận định của Nhị ca Lính Dù phân tích hôm xưa , cái giọng đặc biệt Huế , nói riêng, thì chao ơi, cứ như là rót mật vào lòng …vậy .
Ấy tôi phải …thú nhận ngay , không có thể quý vị lại cười mỉm : ” Khi thương thì trái ấu cũng tròn , cha ơi , nội 2 cái dấu hỏi ( ? ) và dấu năng( . ) đã khiến người ta nhức đầu rồi, nay đọc y toàn bộ một bài diễn văn , thì tui nghe được , xin chào thua quý vị đó …”
Do đó, tôi chẳng lấy làm lạ, tại sao hầu hết ca sĩ 3 miền, bất kể nữ nam, cứ giọng Bắc trực chỉ hát lên, là trở thành một giọng vừa chuẩn, vừa hay, chịu không nổi …Hoàng Oanh, Hương Lan chẳng hạn .
Thế thì, tôi phải đơn cử ra cái chất giọng, mà Nhị ca Lính Dù cứ phải phân tích, để tôi không có ý …địa phương hoá, ông bảo :
” Tất cả đều từ miền Bắc vô Nam thôi, chẳng qua thổ nhưỡng nó tạo ra điều ngăn sông, cách núi …”
Tôi cười, kể cho Nhị ca Lính Dù hay , là hôm tôi ra mắt tập thơ tình mới đây ở trung tâm Minh Đức Westminster, có một cô bé độ ngoài 20 tuổi, đã dụt dè hỏi tôi : ” Cô cho em hỏi: có phải cô người Quảng Nam không ? ” .
Tôi biết ngay là rất thường xuyên quý vị đọc ” tôi “, đã nhất định nghĩ tôi ” không Huế, cũng Quảng Nam ” , lý do tôi cứ viết về miền Trung đẹp tươi của …tôi , mà Đà Nẵng là nơi biến tôi thành dân Quảng tự bao giờ .
Tuy nhiên tôi Quảng Nam thiệt quý vị ạ, vì số người quen biết tôi luôn luôn gặp tôi trên các phần đất ấy, cả ở ngoài đời, lẫn trong viết lách .
Thế nên, hình ảnh người đàn ông Huế, đã vô hình chung đi vào tâm tư tình cảm tôi tự bao giờ .
Thật vậy , tôi gốc Bắc ở thượng nguồn Chapa, nay họ đổi là Sa Pa, via Hải Phòng mấy năm, rồi lớn lên ở Saigon, đoạn ra Trung trưởng thành …
Sau khi xong tù cải tạo, tôi có thời làm Huấn luyện viên dưỡng sinh, kiêm nhiệm cái việc điều hành văn nghệ ” phục vụ quý vị cao niên và bịnh nhân an dưỡng ” vào mỗi sáng thứ tư, gọi là sinh hoạt câu lạc bộ Dưỡng sinh…thuộc Viện Y Dược Học Dân Tộc ở Saigon, sau 1975.
Một buổi kia, lên trình bầy bài thơ Ngậm Ngùi của Huy Cận, rõ ràng tôi ngâm kiểu Bắc kỳ , vậy mà lúc xuống , nhị vị học viên là cựu đại tá VNCH Khâu Đức Hùng, cũng vừa tù cải tạo về, cùng một huynh đệ chi binh cười lớn : ” thấy chưa , khi Cao Mỵ Nhân ngâm thơ, mới lòi giọng Huế ra ” .
Huế làm sao được chứ, muốn bắt chước lâu rồi , mà chưa được đấy .
Nhà báo tên tuổi Lê Ngộ Châu ở miền Nam, cùng đại tá công binh VNCH Lê Mộng Châu, cũng từ tù cải tạo ra , ngó tôi rồi nhị vị cười: Cao Mỵ Nhân không giống …ai, vì rất hoà đồng với …địa phương nào cũng được , này cô nói đi : người Bắc hay …Huế, cho biết đi, mới …ác chứ .
Sau đó thì 2 ông ” quá hào hoa phong nhã ” này, người xuất cảnh, ở Hoa Kỳ ít năm, người đi Mỹ rồi về lại VN, cả hai đều đã mãn phần .
Tôi vốn được may mắn quen biết quý vị qua câu lạc bộ Dưỡng Sinh ấy …nên quý ông quý bà chế độ cũ , VNCH, rất an lòng khi gặp tôi, như gặp lại người trong nhà …
Sự kiện dung hoà tình cảm của tôi, đã khiến tôi có bạn bè nhiều hơn …
Một lần tự ngâm bài thơ của mình diễn tả về khoa học Dưỡng Sinh sau 1975 ở Saigon, tôi ngó xuống hội trường , thấy một bậc nữ lưu còn giữ được vẻ quý phái, cười vui nhưng cứ giơ ngón tay lên chỉ chỉ như ngầm ngăn điều gì đó.
Lúc hết bài ngâm, tôi đến ngay ngồi cạnh bà, bà tự giới thiệu là phu nhân của nhà thơ, nhà báo Phạm Hải Hồ , cũng khá tên tuổi ở miền Nam, trước 30 – 4 -1975, hiện nay định cư ở San Jose.
Tôi chỉ muốn chứng minh về …thổ ngữ như Nhị ca Lính Dù nói thôi , song bất ngờ hình ảnh vị đại tá VNCH Nguyễn Văn Thiện, nguyên thị trưởng Đà Nẵng , sau là Chỉ huy trưởng Đặc khu Quảng Đà , ông cùng đại tá cũng gốc Thiết Giáp Nguyễn Văn Toàn , bấy giờ là Tư lệnh Sư Đoàn 2 Bộ binh đồn trú ở Quảng Ngãi, được thăng cấp chuẩn tướng một lần .
Nhưng nhị vị đại tá mỗi người một máy bay A37 về Sai gon lãnh cấp bậc tướng, thì chỉ có đại tá Nguyễn Văn Toàn tới nơi , còn A37 chở đại tá Nguyễn Văn Thiện lại lạc hướng mô, chẳng biết, người bao lần được tìm kiếm, mà vẫn biệt tin, vô vọng .
Cố chuẩn tướng Nguyễn Văn Thiện mất tích ở tuổi 42 , cái tuổi mà chưa hết hạng trung niên , người ta đã nhìn ông như đại quan già dặn, bởi cái địa vị nó khiến người ta phải cộng thêm cả chục tuổi, và phải sống như bậc ” Lão phu ” trong Văn chương VN .
Người đàn ông Huế như đại tá Nguyễn Văn Thiện , hay như hàng loạt quý vị nam nhi chi chí, có một phong cách cư xử, khiến kẻ bàng quang như …tôi, không đơn giản đoán được quý vị ấy ” nội tâm ” thế nào .
Vì ngay cả trong tình nghĩa phu thê, phụ tử họ vẫn giữ một vẻ gọi là đạo nghĩa riêng, mới đáng nể .
Thí dụ bản thân tôi lấy chồng Huế, đố ai biết được nỗi tức của tôi, ấy là lúc nào ” xã ” tôi, cũng ” anh em ” cả khi đang bất đồng ý kiến, mà lẽ ra chồng Bắc sẽ xưng
” ông ” ngay lập tức , bạn miền Nam thì sẵn sàng ” tôi bà, tao mày ” chết bỏ, nếu có dịp bất hoà nặng.
Ôi chao , có lần tôi sắp sửa giận đến phải thề bồi, thì khách tới chơi, lập tức tôi nghe ” xã ” tôi tằng hắng kêu ngọt sớt: “Mỵ ơi , có khách này , thôi ông hay bà , anh hay chị, ngồi chơi nhé , xin lỗi , tôi , là ông xã tôi, có việc phải đi ” .
Tôi tiếp bạn mà nước mắt cứ trào ra, vì nỗi tức chưa được giải toả, song lẽ nào , ông ấy ngọt như mía lùi , mà mình lại hàm hồ , nên cũng đành tiếp khách theo dòng ” chảy ” cho hợp lý, gọi là phải giữ thể diện đó mà.
Tất cả mọi sự việc như những trang đời, dù muốn hay không, cũng phải lật qua …
Những quý vị trượng phu Huế đã đi năm châu, bốn bể…còn giữ được giọng Huế, tất nhiên quý vị nữ lưu Huế cũng vậy, ở bất cứ nơi nào, trên thế giới , khi quý vị cất giọng lên, là một trời dĩ vãng đong đưa , con sông Hương dịu dàng nước mát , chùa Linh Mụ riêng một không gian …
Ôi thổ nhưỡng , mà trong một ca khúc được viết sau 1975 , tác giả khẳng định những gì ở Huế là ” không nơi nào có được “, dù ở quê hương , hay khắp trời hải ngoại …
Đến nỗi, ở thủ đô tị nạn Bolsa, đã có một nhà hàng dùng bảng hiệu ” Huế Ơi ” cho thoả lòng thương nhớ đó …kìa …
CAO MỴ NHÂN
THƠ Xướng Họa: TẶNG PHẨM & TRĂNG VỠ & ANH LÀ THƠ – Cao Mỵ Nhân + Phương Hoa + Minh Thúy
THƠ: GIỜ ĐÃ ĐIỂM – MAU VƯỢT LÊN- Hình Ảnh – Hoàng Mai Nhất & Cao Mỵ Nhân – Lê Văn Hải
Hòa cùng nhịp đập!
(Với những hình ảnh thê thảm đang diễn ra tại VN)
Danh ngôn đúng nhất tặng Nhà Cầm Quyền CSVN đang hành xử khốn nạn trong mùa dịch: “Kinh tởm nhất, đáng phỉ nhổ nhất, là hình ảnh những con kên kên, vẫn thản nhiên rỉa những bộ lông óng mượt của mình, sau những bữa ăn no nê, moi thây, ăn xác đồng loại của chính nó!”
Cảm tạ Thĩ sĩ Hoàng Mai Nhất, đã có những vần thơ “nổi lửa!” để mọi người cùng ý thức, phải chung tay, đốt sạch cái Đảng tham tàn, độc ác trên Quê Hương VN. Ngày ấy Quê Mẹ của chúng ta mới thực sự có Tự do, Dân chủ! Mong lắm thay!
LÊ VĂN HẢI
Bịnh viện tràn ngập xác chết, ngoài đường người dân ồ ạt di tản. Trẻ thơ 5 tháng tuổi, cũng lấm bụi đường! Đảng đâu? Sao không giúp? mà còn hành hạ, giết dân!
Ủa Thiên đàng XHCH, dưới sự cai trị vinh quang của “Đỉnh cao trí tuệ’ như vầy sao?
LÊ VĂN HẢI
THÀNH XÂY KHÓI BIẾC – NON PHƠI ÁNH VÀNG – Cao Mỵ Nhân
GỌI GIÓ VÀNG – Cao Mỵ Nhân
GỌI GIÓ VÀNG
Cao Mỵ Nhân
Thơ Đường qua thể loại thất ngôn bát cú thông thường, với hình thức một bài thơ gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ, 5 vần bằng ở mỗi cuối câu: 1 2 4 6 8, cuối 3 câu: 3 5 7 thì tất nhiên là vần trắc rồi.
Nhưng không phải “chỉ có vậy.” Nó, bài thơ thể loại này, còn bắt ta học gần nửa trăm quy luật: mà mỗi chữ, mỗi câu mang một nhiệm vụ riêng.
Các câu
1/ Phá đề
2/ Thừa đề
3+4 / Thực hay trạng: cặp đối thứ 1
5+6 / Luận: cặp đối thứ 2
7/ Chuyển
8 / Kết.
Xem ra quý vị cứ việc bám sát đề bài, với tinh thần nêu trên là qua cầu vui vẻ rồi.
Tôi nhớ cụ thi sĩ rất tên tuổi trong chiếu thơ Đường hàng chức sắc, nói với tôi rằng:
” Không phải cứ cặp đối 3+4 ( thực trạng ) với nội dung bài là đắc sách đâu, tất nhiên thực hay trạng của bài thơ Đường Luật là quan trọng rồi.
Nhưng, tôi nói cho Cao Mỵ Nhân biết, câu chuyển ( thứ 7 ), là đắt giá nhất, nó tóm gọn toàn bài trước khi kết thúc đấy .” ( Cụ Trình Xuyên ).
Sau khi tôi đã hoàn toàn chấm dứt cái nạn tù cải tạo do csvn áp đặt, đầu năm 1980, tôi bắt đầu sinh hoạt văn nghệ nơi các hội thơ, hội thảo thi ca cổ điển VN …xưa.
Tức là ngoài việc tôi gia nhập thi đàn Quỳnh Dao của quý vị nữ sĩ tên tuổi như Mộng Tuyết, Vân Nương, Quỳ Hương, Uyển Hương, Đinh thị Thục Oanh, Tuệ Mai vv…
Quý vị toàn gấp đôi, gấp rưỡi tuổi tôi, có vài vị nữ sĩ trẻ hơn các niên trưởng nêu trên, như Tuệ Nga, Tôn nữ Hỷ Khương, thì tôi trở thành ” Em út Quỳnh Dao “, có nghĩa là tuổi tác và sức khoẻ tôi còn xài được với thế hệ sau của quý niên trưởng chuyên xướng hoạ Thơ Đường.
Bên cạnh quý vị đương nêu, là quý thi khách Đường Thi như quý cụ Quách Tấn, Đông Hồ ( đã quá cố) , Giản Chi, Vũ Hoàng Chương, Hà Thượng Nhân vv…cũng đã quá cố.
Song le, mỗi quý vị nữ sĩ Quỳnh Dao lại giao hảo với số khách Đường Thi riêng, mà khác đường lối chơi thơ cổ điển chung của thi đàn Quỳnh Dao, nên tôi vì là ” Em út Quỳnh Dao ” gần như tôi có bổn phận phải biết từng tích tắc khác biệt đó.
Thí dụ : Nữ sĩ Thu Nga thì thỉnh thoảng xướng hoạ với quý cụ thi sĩ Tế Nhị, Như Ý, Trình Xuyên, Linh Điểu vv…
Đại khái ” xã giao ” thơ, mà lại là thơ luật Đường , không phải đơn giản, chỉ 2 chữ ” Thôi, Xao ” của Giả Đảo đã là một thần thoại thích thú.
Nay, sau cuộc đổi đời 30 -4 -1975, sĩ khí người cầm bút đã gây nhiều mâu thuẫn thời thế, huống hồ chơi thơ luật, là các bậc thịnh Hán, túc Nho, có dịp biểu lộ tinh thần ” chi hồ giả dã ” thời đại ra, để khích bác điều bất như ý.
Do đó thế giới thơ của mỗi vị thì vô cùng …
Chuyện xướng hoạ thơ luật Đường vô hình chung cho ta cảm giác tôn ti trật tự của trước nhất là tuổi tác, các yếu tố khác như địa vị, gia thế vv…và nhất là thơ, có hay ho tới đâu, cũng phải qua ngưỡng cửa ” niên tuế ” khách thơ đang hiện diện ở hội thơ lúc đó.
Trong hội thơ Quỳnh Dao chúng tôi, kể từ ngày tôi tham dự , tôi luôn luôn là người giới thiệu chương trình hội thơ, thường thi đàn tổ chức thay phiên tại các tư gia của các nữ sĩ.
Cũng từ đấy, tôi may mắn được diện kiến các bậc ” Đường thi khách ” lão luyện còn …sót lại, mà tôi rất kính phục như quý cụ Quách Tấn ( Nha Trang ), Bùi Khánh Đản ( Saigon ) Chánh Hà, và nhất là nữ sĩ tiền chiến Ngân Giang, các vị ở Hà Nội từ thủa còn được tôn phong là Hà Thành thanh lịch.
Tức là thời đệ nhất bán thế kỷ vừa qua, không phải mang cái mầu sắc Xã Hội chủ Nghĩa hay vô sản, quý vị vô thăm Saigon và miền nam sau 30 – 4 – 2020, tôi mới có cơ hội được gặp quý cụ ” Đường thi chuyên nghiệp “.
Ngoài việc nữ sĩ chủ nhà buổi hội thơ hôm đó, mời tiệc, hội có thể mời thêm dăm ba khách ” thời thế ” , không làm thơ, nhưng muốn thả hồn theo dòng suy nghĩ riêng tư, thể hiện nơi hội thơ hậu chiến .
Cũng chính vì thế, mà không khí loãng ở một vài hội thơ sau cuộc đổi đời nêu trên, đã có lúc được khách tham dự phải bỏ cuộc, để mau chóng ra về, cho khỏi mang hoạ ” chính trị ” vào thân, vì bị Công An rình mò, bắt bớ.
Thí dụ : Tại tư thất nhà thơ hoàng phái Vĩnh Mạnh Thường Quân vào mùa xuân năm 1982, buổi đó được giới thiệu là có 3 vị thi sĩ lão thành đại diện cho 3 miền, gồm : cụ Vũ Đình Liên ( Bắc) tác giả bài thơ” Ông Đồ “, cụ Vân Giang ( Trung ) và cụ Trác Ngọc ( Nam ) ngồi phía đầu dãy chiếu hoa trải kín nền phòng khách Thạch Động, chủ toạ.
Chúng tôi ngồi chung quanh chu vi chiếu thơ mở rộng.
Sau tất cả các thủ tục ban đầu, gồm giới thiệu thi tướng, thi tài vv… là ai muốn trình bầy ý thơ gì, cứ việc ” phát biểu “.
Nhà thơ ” Đường thi tức vị ” theo thời thế cho yên thân, đã hỏi cụ Vũ Đình Liên rằng :
” Cụ là chứng nhân của 2 thời đại thơ như Ông Đồ trước khi đi …cách mạng, và bài thơ Ông Đồ csvn, bút sắt thay bút lông ngày xưa vốn hoa tay thảo những nét, như phượng múa, rồng bay. Nay, nói theo thời đại ” logic ” tình hình thơ chung và riêng của cụ thế nào ?
Chúng ” cháu ” đã mất hết cảm hứng khi đọc lại bài thơ Ông Đồ xưa của cụ . Và, tại sao các cụ vô đây, để làm cái việc cho xe ba gác chở tất cả thơ hay, thơ đúng nghĩa thơ, của các thi sĩ danh tiếng cả nước, như thơ Vũ Hoàng Chương, thơ Đinh Hùng vv…” đem đi thiêu huỷ ?
Câu hỏi được đặt ra, nhưng không cần chờ nghe câu trả lời, nhà thơ trẻ ( ngoài 30 tuổi, cái tuổi dễ bị bắt nhất ) đứng lên cáo từ, và đi như chạy ra khỏi hội thơ.
Như tôi đã có dịp trình bầy nhiều lần là: Thơ luật Đường Tống đã phổ biến trong xã hội VN từ nhiều đời . Nét tinh hoa của thể luật này, tưởng kết thúc ngay từ đầu thế kỷ 20 vừa qua, với 2 hồi chuông báo tử thất thanh, của quý vị thi sĩ lỗi lạc Đường luật là cụ Tú Xương qua nỗi buồn phải chấp nhận hoàn cảnh tây học :
” Ném bút lông đi, viết bút chì …”
Cùng một cuốn thơ tạ từ năm tháng cũ :
” Mùa Cổ Điển ” của cụ Quách Tấn .
Tôi vốn ưa những điều ” ham hố ” .
Sau đại nạn 30 – 4 – 1975, thay vì đi tìm một ngoại ngữ học để có thể kiếm sống, tôi lại rong chơi ” Thơ Đường “, học hỏi và đi sát quý cụ để thấy được những kỳ bí, mà có lẽ chỉ ở thể loại này, người ta mới dễ bày tỏ, hứa hẹn, dặn dò quyết liệt người được nhận, hay phải trả lời thơ trao, hoặc tặng.
Nghe tin tôi vừa từ trại tù cải tạo về. Thi sĩ danh tiếng Bùi Khánh Đản cùng thi sĩ Bàng Bá Lân ( viết thơ mới nhiều hơn ) đã mỗi cụ một xe đạp mi ni, ghé thăm tôi sức khoẻ và hồn thơ khoảng khoát thế nào.
Cụ Bùi Khánh Đản viết trên một tờ giấy mầu vàng, rộng bằng trang báo lớn, bài thơ tên Quang Vinh như sau:
QUANG VINH
(Bài xướng)
Xiết chặt vòng tay cùng chặn gió
Mở đường kiếm khí dậy hào quang
Nước mây sẽ ấm trời băng lạnh
Cây cỏ rồi thay sắc đoạn trường
Hương chính nghĩa tràn trên đỉnh mộng
Lửa kiêu hùng đốt sạch rừng hoang
Chúng ta bỗng bật tim thành tiếng
” Sử Việt từ nay đẹp chữ vàng “.
Saigon 7/1980
BÙI KHÁNH ĐẢN
Dù mới từ trại tù cải tạo về, tôi cũng quên béng thân phận sĩ quan chế độ VNCH, rất dễ tái tù, khó tránh .
Tôi kính hoạ thơ cụ Bùi Khánh Đản tặng tôi như sau :
GỌI GIÓ VÀNG
(Bài hoạ)
Vẫn thả diều lên, tìm hướng gió
Những ngày xanh biếc bầu trời quang
Để xem bóng nắng bao hy vọng
Còn thấy hơi sương phủ dặm trường
Thật rất vô tình nghe nước chảy
Thà đừng cố ý bước chân hoang
Đôi phen tim thắt vì thương tủi
” Mộng với thơ ai chép sử vàng ? “.
Saigon 11-8-1980
CAO MỴ NHÂN
Cụ Bùi Khánh Đản ( 2010 ) và cụ Đỗ Bằng Đoàn ( 1908 – 1986 ) là đồng tác giả cuốn ” Đường Thi Trích Dịch” in roneo 300 cuốn tại Saigon năm 1959, gồm 503 bài của 133 tác giả.
Mới đây tôi được nghe: nhà xuất bản Văn Học Hà Nội đã in tái bản tác phẩm đồ sộ ” Đường Thi Trích Dịch ” của 2 cụ nêu trên, dày 1271 trang, năm 2006.
Mỗi lần nhật nguyệt lững lờ trôi trên biển trời, cả thế giới
” Đường Thi ” lại như vần vũ gió mưa.
Những thế hệ suy tụng Đường Thi không xếp nếp thời gian, hiện nay ở quốc nội lẫn Hải ngoại, đang vun vén cả rừng hoa tuy bình cũ, nhưng rượu mới, ý thơ bát ngát, thanh sắc lạ lùng, nhưng đầy hứng cảm. Khách yêu thơ cổ điển ưa chuộng những tinh hoa ẩn hiện, linh diệu.
Song cũng chỉ hợp với quý vị tồn cổ, mang cảm giác thầm lặng trước sóng gió phế hưng của thể loại thi ca…đầy nguyên tắc từ xưa tới nay này.
CAO MỴ NHÂN
Văn: ĐẸP NHƯ SUỐI MƠ – Thơ Xướng Họa: XỎA TÓC GỌI THƠ – Cao Mỵ Nhân & Phương Hoa
ĐẸP NHƯ SUỐI MƠ
Có lẽ quý vị gốc Huế thuần thành chả bao giờ muốn rời cố đô đi mô hết. Bởi vì đất Thần Kinh có thung thổ đặc biệt, là đi xa hay ở gần, vẫn nhớ Huế mới lạ.
Như thế cũng có nghĩa là nếu đúng Huế chính tông, thì chẳng thể nào dứt bỏ một mảy may, một tích tắc chất Huế, nỗi Huế được.
Tôi hay kể chuyện Huế một cách …loanh quanh thôi. “Chớ răng tui có thể bước vô cái vòng Huế kiên cố, thâm cung đó được. Là ri, tui có sinh trưởng ở Huế mô, người ngoài đạo Huế mờ”.
Song tôi lại ở Huế tới mấy chục năm, quen thuộc cảnh vật, người ta, và những điều rị mọ suốt ngày, tôi cũng biến thành dân …lai Huế chút chút, chỉ dở một cái, là không bắt chước được giọng Huế.
Nên, cách nào tôi cũng là người xa lạ, có ưa thích Huế tới mấy, thiên hạ Huế cũng dửng dưng với tôi.
Nói thế chứ tôi “tiền hô hậu ủng” toàn bạn Huế đấy, quý vị khỏi cần thương hại tôi nha.
Trong khi tôi cứ mong nói được giọng Huế, thì bà mẹ chồng tôi lại nói toàn tiếng Bắc với tôi.
Có lẽ bà sợ tôi không hiểu bà nói chuyện gì, bà dùng ngôn ngữ bắc để khỏi phải nhắc lại việc bà vừa sai hay nhờ tôi làm, cho đúng và mau chóng.
Một hôm, mẹ chồng tôi dặn trước khi bà đi công việc gì đó, rằng tôi lấy gói bồ kết để trên nóc trạn, khui bếp tro ủ lửa suốt đêm ngày kia, thổi cho đỏ mấy miếng than, rồi nướng bồ kết.
Nướng bồ kết cháy vừa đủ thơm thôi, đập sơ cho rơi bụi than cháy ra. Xong bẻ những quả bồ kết đó vụn rồi bỏ chúng, những mảnh bồ kết mới nướng đó, vô một chậu nước lã, bưng chậu ra sân đang nắng phơi cho nóng lên, để gội đầu.
Tôi làm trong nháy mắt, là vì tôi đã thấy các bà, các cô thủa tôi còn bé, gội đầu bồ kết thế nào rồi.
Chậu nước bồ kết đó nóng vừa ấm tay, sủi bọt thơm dìu dịu, quý bà, quý cô muốn pha thêm nước nóng cũng được, rồi gội đầu bình thường, tóc chảy thật mướt xuống chậu hứng phía dưới, đẹp như …suối mơ.
Có khi khách gội còn vắt những nửa quả chanh bóp trên tóc, cho thơm thêm nữa.
…Mạ ơi, ông Chánh đòi hầu
Mua chanh, bồ kết, gội đầu cho thơm…
(ca dao )
Tôi không biết “ông Chánh” nào mà sướng thế chứ.
Kêu người ta tới hầu chi chả biết. Và chắc ổng phải hào hoa, phong nhã lắm, mới được kẻ hầu ưng ý, đến nỗi phải mua chanh, bồ kết để gội đầu cho thiệt thơm tho, kẻo ông Chánh chê, mai mốt không chiếu cố nữa, thì lại tức.
Mấy lần nói chuyện xưa tích cũ, tôi định hỏi anh là thời anh ở Huế, anh có biết “ông Chánh” nớ không, thời đó thì anh còn nhỏ quá, mần răng biết được thế giới của ” ông Chánh ” trong ca dao Huế chớ.
Nhưng chưa hỏi, mình đã biết câu trả lời của anh rồi: “Thì tui là một… ông Chánh đây nì, hỏi chi xa rứa. Lâu ni, không thấy tui rất …ông Chánh, có điều ông chánh nì không cần đòi ai hầu, mà có người cứ tình nguyện tới đó tề”.
Ố ô, anh thì nguỵ rồi, rất tự tin, song tự trọng ghê hồn, lỡ ai vô phước nói hớ, hay tỏ vẻ không biết tới bản ngã đặc biệt của anh, là thôi, coi như đời sau cũng không gặp lại, chớ đừng nói kiếp ni nghe.
Hôm tê, mấy bà o ở Bên sông, phía Ngự Bình điện thoại viễn liên cho tôi, các o bảo: “Chớ răng mi, là tôi đó, chưa chịu về thăm tụi tau vậy ? Ít năm nữa cái lớp tau chết đi, không còn ai Huế thiệt nữa mô, không tin, mi về thử đi, toàn Huế…giả, ở mô chui ra lắm nợ…”
Tôi cũng đã nghe một phần như vậy lâu rồi.
Dẫu tôi không là con dân Huế, nhưng tôi cũng biết phân biệt Huế xưa đã dần dần đi khỏi thành phố cũ, nơi mà đàn bà con gái suốt ngày mượt áo dài, dù đi chân đất.
Mớ tóc thề thả ngang lưng dù gánh hàng quà rong trên đường mưa bụi bay.
Bỗng dưng tôi nhớ bài hát hồi mới có thành phần bên kia sông Bến Hải tràn vô, bài hát của một ” nữ cán bộ làm trưởng ban văn nghệ đài phát thanh thành Hồ ” bà ta viết nội dung là tất cả chỉ ở Huế, không nơi nào có được, đại khái thế.
Tới người cộng sản chủ trương san bằng giai cấp, mà cũng phải chào Huế mộng mơ, vẻ đẹp mà không đâu có được vậy.
Huế thật hay giả, vẫn hiển hiện sông Hương núi Ngự, có dập khuôn nhân dáng Huế, có tô vẽ dung nhan Huế, vẫn chỉ là Huế bên ngoài thôi.
Nói như anh nhận xét về thổ ngơi, thổ ngữ, thì giọng Huế rất khó đồng hoá, người giả bộ nói thế nào cũng lòi ra các lỗi vụng về, mà không phải họ không luyện kỹ hay tập chệu chạo dăm ba câu giả hò, giả hẹn cũng lộ liễu ngay.
Thế nhưng, có điều lạ là chính Huế, thì lại giả Hà Nội, Saigon in hệt.
Và để kết thúc bài này, tôi xin lỗi dẫn chứng chưa đúng, khiến anh sẽ cho điểm dưới trung bình, ấy là “ông Chảnh” chớ không phải ông chánh kiểu bắc kỳ quốc đâu.
Nói “ông chảnh” (dấu hỏi) phải hiểu chính là “ông chánh” (dấu sắc), ông chánh để ám chỉ những ngôi thứ nhất vừa thực tế, vừa mơ hồ.
Đồng thời ” ông chảnh “, cũng có nghĩa là ông ” chảnh ” với suy nghĩ ” bình dân học vụ ” của tôi, đừng giận nha quý ông …chánh thứ thiệt .
Cao Mỵ Nhân
THƠ: Chào Mừng Ngày QL VNCH 19/6 Cao Mỵ Nhân + VĂN: Đám Mây Vàng – Cao Mỵ Nhân & Thơ Cảm Tác Phương Hoa + Chung Văn
ĐÁM MÂY VÀNG
Cao Mỵ Nhân
Buổi sáng ở Denver Colorado, tôi theo gia đình chị Nhàn, nguyên chị là một nữ tiếp viên hàng không, của hãng Hàng Không Việt Nam ( Air Vietnam ) thời đệ nhị Cộng Hoà (Việt Nam Cộng Hoà ) lên ngọn núi danh tiếng sát ngay thành phố đá đó.
Trên đỉnh ngọn núi này, có một “đại hí trường” có thể chứa hàng chục ngàn tân khách. Chung quanh đại sảnh trường đó, toàn là vách đá dựng cao ngất, nhưng lòng động lại mái trống, lộ thiên.
Gia đình chị Nhàn đông đủ dâu rể cháu nội ngoại, tất cả đều tỏ ra thân quen với lâu đài hí trường khổng lồ đó .
Nghe tiếng gió từ bốn phương đổ về, chị Nhàn nói với tôi một cách trân trọng lắm : “Mỵ ạ, nơi đây người ta còn gọi là Chiếc đàn “Phong cầm gió” vĩ đại nữa đấy .
Tôi chỉ biết ngưỡng mộ và thán phục thiên nhiên, Đấng Tạo Hoá đã cho nhân thế này bao nhiêu là công trình tuyệt tác.
Đang lúc mọi người trầm trồ khen ngợi vũ đình trường gió mưa sương gió thiên nhiên, tự đến, tự đi tới cái động to lớn mịt mù đó, thì nóc động hửng lên một khung nắng rỡ ràng…
Một đám mây mầu vàng mỡ gà lững thững bay qua, tưởng như tà áo của thiếu nữ nào rơi trên mái động …
Chị Nhàn và tôi đều sững sờ thốt :
” Mây vàng Hà Nội ” .
Tại sao mây Hà Nội mầu vàng ?
Ôi phải rất nhiều lời , hay rất nhiều thì giờ mới giải thích được điều thơ mộng đó, chỉ biết rằng nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh ngày xưa, đã mang mây vàng từ trung nguyên về Hà Nội.
Và gần nhất với tôi thủa là thiếu nữ ở Saigon, đã có một nhà thơ tài tử, Nhị Thu viết cuốn thơ “Mây Hà Nội” , năm 1961, cùng lượt với cuốn “Thơ Mỵ 1961” của tôi.
Tất nhiên tôi chỉ nêu ra hình ảnh mây vàng Hà Nội dĩ vãng, nghĩa là trước 20 – 7 – 1954, hay trước khi chúng tôi di cư vào Nam thời sông Bến Hải chia đôi đất nước.
Đám mây vàng lặng lẽ rời khỏi nóc vũ đình trường đá đó, nắng còn ở lại cửa động lộ thiên một thoáng, cả chị Nhàn và tôi đều như có chút buồn phảng phất .
Tôi hỏi chị một cách nhớ nhung rằng:
“Chị ơi, ngày di cư, em ở tuổi vài năm “teen” đầu, chị gần gấp đôi tuổi em, thủa đó, chị có may áo dài lụa mầu vàng mơ, và nhất là, chị có may áo “vest” mầu mơ chín ở phố Nhà Thờ Hà Nội không ?”
Chị Nhàn cười xa vắng :
“Thế Mỵ cũng biết tiệm chuyên may áo vest ở phố Hàm Long đó à?”
Bỗng lòng tôi chùng xuống chi lạ, ba tôi có lần đã cho mấy chị em tôi từ Hải Phòng về Hà Nội để may cho mỗi đứa một áo vest mầu vàng mơ tuỳ theo sở thích, hoặc mơ non, mơ chín, mơ sậm, mơ lạt v.v…
Và chính buổi đi may áo dài, áo vest ở hiệu may danh tiếng phố Hàm Long xa xưa ấy, mà tôi nhớ mãi mầu mây thu Hà Nội. Ôi, có thể nói, ngoài mây thu vàng ở cái nơi tôi chỉ thấy đẹp thủa ấu thơ và thiếu niên ra, tôi không còn thấy thêm cái chất Hà Thành thanh lịch trong văn chương tiền chiến nữa.
Thế nhưng hôm nay, tôi muốn nhắc tới một mầu mây Hà Nội rất kinh điển, chính mầu mây vàng lợt thôi, nhẹ nhàng , thơ mộng mà những người đã một thời say đắm nó, mây Hà Nội, như nhà thơ Nhị Thu, hay sau này, khi tôi lớn lên, trưởng thành rồi già đi như bây giờ, sắc mây vàng mỡ gà, vừa rực rỡ, vừa hoang mê, vừa thần thoại, chỉ còn trong cổ tích mất mát thôi.
Ngay tức khắc tôi nhớ tới quý vị sĩ quan Quân Lực VNCH danh tiếng thơ ca lẫy lừng trong Cục Tâm Lý Chiến, mà không thể nào không nhắc tới mây vàng cố đô Thăng Long, là các vị người Bắc di cư năm 1954.
Để rồi tôi ngồi một mình xót xa, bây giờ “điểm danh lại” thì số quý vị đó đã không còn trên trái đất: Thi sĩ đại tá Cao Tiêu, Thi sĩ, Hoạ sĩ Tạ Tỵ, Nhà văn Trung tá Hà Thượng Nhân, Nhà văn Trung tá Phan Lạc Phúc, Nhà văn Thiếu tá Đặng Trần Huân, Nhà văn Thiếu tá Phạm Huấn, Thi sĩ Đại uý Du Tử Lê, Thi sĩ Trung uý Thanh Tâm Tuyền.
Thưa, rất nhiều văn nghệ sĩ quân đội nhưng ở các đơn vị khác, chẳng hạn Nhà văn Trung tá Duy Lam ở QĐI/ QKI.
Hay, Thi sĩ Thiếu tá Tô Thuỳ Yên Trưởng phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến VNCH, nhưng, không gốc Hà Nội.
Tôi chỉ đan cử hôm nay về quý vị Sĩ quan QLVNCH gốc Bắc di cư đã mãn phần, và ít nhiều một thời gắn bó tới mầu mây vàng Hà Nội thôi.
Bởi vì quý vị nêu trên đã mang theo sắc mây vàng quá khứ ra đi. Và, thực sự tôi muốn hoài niệm hình ảnh Thi Sĩ đại tá Cao Tiêu cùng phu nhân đã thưởng lãm mầu mây vàng Hà Nội ở Hồ Gươm, trước khi Thi Sĩ Cao Tiêu tức cựu Đại tá Hoàng Ngọc Tiếu nhập ngũ.
Một bức ảnh đen trắng xưa thôi, trên một ghế đá ở bờ hồ Gươm Hà Nội, Thi sĩ và phu nhân ngồi ngắm mây thu lượn quanh thành phố được tiếng là thanh lịch từ các thế kỷ trước.
Buổi tôi hướng dẫn các động tác tập thể dục Dưỡng Sinh cho quý cụ cao niên, bịnh hoạn ở Câu Lạc Bộ Dưỡng Sinh Saigon, sau khi tôi ra tù cải tạo.
Tôi tiếp chuyện một vị rất trưởng thượng quen quen.
Cụ cho tôi coi một bao hình nhỏ, cụ đưa tôi bức hình vừa nêu, cụ hỏi:
“Cô có biết Đại tá Hoàng Ngọc Tiếu không, Thi sĩ đấy …”
Tôi thưa với cụ là Thi sĩ Đại tá Cao Tiêu.
Cụ gật đầu : “Ông ấy là em ruột tôi”.
Tôi a lên mừng rỡ, cụ tiếp “Tôi là Hoàng Mai Đạt”.
Cụ Hoàng Mai Đạt nghệ sĩ hơn Đại tá Cao Tiêu, cụ vẫn vui vẻ thơ ca ở Câu lạc bộ Dưỡng Sinh trước khi qua Hoa Kỳ sau đó ít lâu.
Lại một câu chuyện về mây thu Hà Nội, cụ Hoàng Mai Đạt kể: “Tôi biết cô không có ở Hà Nội nhiều như chúng tôi, cái thế hệ mà thanh niên của thành phố có nhiều hồ, nhiều hơi thu lành lạnh, những đám mây vàng nhẹ như mối tơ vương sắc vàng rơi lững lờ trên thành phố thơ mộng từ ngõ hẻm ra đại lộ.
Tôi lắc đầu, “Cháu không phải người Hà Nội của các cụ nhìn đâu cũng thấy chút gì vừa thân mật vừa kín đáo. Cháu lớn lên ở Saigon. Khung trời rộng quá, hầu hết mây trắng 4 mùa, nếu mây xám là sắp mưa…đơn giản, mau chóng như những cơn mưa rào, thật nhanh và chưa kịp lạnh cụ ạ.
Thế rồi thì mỗi người mỗi chạy theo cái dòng chảy không riêng lẻ, nên chẳng thấy cô đơn lắm.
Tôi qua Hoa Kỳ giống như quý vị tị nạn, lại càng chẳng bao giờ nhớ cái mùa thu mây vàng như trong văn chương thơ nhạc tiền chiến, hay trước ngày đất nước qua phân.
Tôi cũng không về Bắc sau khi mọi người bảo là “thống nhất”. Tôi không nhớ nhung gì hết phần đất bên kia sông Bến Hải, dù tôi rất nhiều lần đứng bên cầu Hiền Lương do công tác xã hội tôi phục vụ trong Quân Lực VNCH, suốt cả chiều dài lãnh thổ từ Bến Hải tới Sa Huỳnh, cận nam Quảng Ngãi.
Cũng có lúc tôi buồn nhìn mây bay, nghe gió thổi ở miền địa đầu giới tuyến, nhưng quả thực, không thấy lại mây mầu vàng mỡ gà mà thuở thiếu niên ba tôi cho về Hà Nội, để may áo vest phố Hàm Long chỉ còn trong ký ức.
Và hôm theo gia đình chị Nhàn lên núi nghe gió hú trong đại hí trường, có một làn mây vàng ấm áp nhưng mong manh bay ngang đỉnh động đá khối khổng lồ, lộ thiên năm 1996.
Mầu mây vàng bất ngờ, khiến tôi nhắc đến hằng loạt tên tuổi những nhà thơ văn xuất thân ở Hà Thành thanh lịch, đã một thời hội tụ ở khuôn viên Cục Tâm Lý Chiến VNCH, rồi lưu vong, thả mây thu Hà Nội đi bát ngát, mênh mông…
Quý vị ấy không ai gặp ai nữa, kể cả những đám mây vàng tan loãng, hay đổi mầu trong không gian vô cùng mịt mù ngoài vũ trụ càn khôn…
Hawthorne 10 – 6 – 2021
CAO MỴ NHÂN
ĐÁM MÂY VÀNG
(Cảm tác từ bài viết “Đám Mây Vàng” của nữ sĩ Cao Mỵ Nhân)
Tha hương hạnh ngộ đám mây vàng
Mây-của-Hà-Thành, tâm dội vang
Ngắm núi bâng khuâng đôi mắt lạc
Nhìn trời xao xuyến mảnh hồn hoang
“Phong cầm gió” quyện âm lung luyến
“Đại hí trường” vương nắng loáng loang
Cảnh sắc thiên nhiên ôi tuyệt diệu
Bút nâng ghi lại phút huy hoàng
Phương Hoa – JUN 10th 2021
**
NHỮNG ĐÁM MÂY (Cảm tác sau khi đọc “Đám Mây Vàng của CAO MỴ NHÂN)
Mây Hà- Nội, mây Sài- gòn, hoa cúc Rồi thăm mây tận đỉnh Co-lo-ra-do Nhịp gió reo nơi Đại hý trường Denver Thành cây đàn “đại phong cầm” cao ngất
* Tôi cũng có đám mây vàng trong mắt Khi heo may xào xạc đón thu về Phố Hàng Đào, em áo dài vàng huê Gã lãng tử tưởng mây vàng trước gió
* Nước Hồ Gươm xanh rêu màu Tháp cũ Ngõ Gia Ngư họp chợ Lụa Hà Đông Để em đi mặc tấm áo phiêu bồng Cho nhà thơ tưởng đến màu hoa cúc
* Người nhạc sĩ thấy thu vàng nước Úc Còn nhà thơ cảm giác mái Denver Một màu vàng rực rỡ rất là thơ Hôm nay chợt nảy sinh trong tâm thức
Chung Văn – 10/06/202
TRÁI MỒNG TƠI – THƠ Xướng Họa CAO MỴ NHÂN + PHƯƠNG HOA + MINH THÚY & Loài Hoa Mắc Cỡ – LÊ TUẤN