KIỀU MỸ DUYÊN – NGƯỜI ANH HÙNG KHÔNG CHẾT: BÌNH TÂY ĐẠI TƯỚNG QUÂN TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH.




NGỌC HẠNH – BÚT KÝ: CHÍN MƯƠI CHƯA CHẮC MÌNH LÀNH.

Chín Mươi Chưa Chắc Mình Lành

Ngọc Hạnh

Tuần lễ này khí hậu vùng Hoa Thinh Đốn tương đối mát mẻ, không còn nắng nóng oi bức như những tuần lễ trước đây. Ban đêm trời hơi se lạnh. Hoa cúc có bụi đã ra hoa vàng xinh xinh, có bụi hãy còn đang chớm nụ. Cây Grappe Myrtle đã đầy hoa trong sân nhà Vân và rải rác nở hoa trong vườn nhà hàng xóm.  Những bãi cỏ trên các sân nhà đã có lá vàng rơi, dù phần lớn lá cây vẫn còn xanh um đầy trên cành.  Trẻ em sắp đi học, các cô cậu sinh viên chuẩn bị trở lại trường. Các cô cậu lo mang hành trang vào các ký túc xá hay nhà trọ gần trường Đại Học. Trời sắp vào Thu, những ngày nghỉ Hè thú vị qua rất nhanh theo lời các cháu Vân tiếc nuối. Rồi đây các cháu sẽ gặp thầy cô giáo, bạn hữu cũ, mới.

Riêng Vân cũng dự vài buổi tiệc nhỏ do gia đình tổ chức để mừng và tiễn các cháu trở lại trường  Đại học, bắt đầu năm học mới.  Vân vui vẻ cầu chúc các cháu hoc hành vui vẻ, nhiều sức khỏe, luôn may mắn trên đường học vấn. Trường Đai Học các cháu cách nhà khoảng 5, 3 tiếng lái xe. Nhớ lại cách đây ½ thế kỷ,ở quê nhà việc đi học ngoại quốc thật khó khăn, chỉ dành cho con nhà giàu hay học trò giỏi, được học bổng chẳng hạn. Nay ở Hoa Kỳ, việc học dễ dàng hơn. Chỉ cần học lực trung bình, mỗi năm đủ điểm lên lớp. Ai học giỏi càng tốt, mang danh dự cho gia đình, trường lớp. Cô, cậu nào nghèo không có tiền đóng học phí cho nhà trường thì vay, tốt nghiệp đi làm trả tiền vay mượn sau. Ngoài ra 3 tháng hè các cô cậu sinh viên cũng có thể tìm việc làm để kiếm tiền tiêu vặt khi trở lại trường.

Cuối tuần vừa qua, con Vân rủ mẹ đi thăm “nhà ngoại ô”  cách thành phố 90 phút lái xe. Nơi đó phần nào giống thôn quê Việt Nam, có trường Tiểu học, siêu thị, trạm chữa lửa, nhà thờ, tiệm ăn nhanh, tiệm hải sản… Tuy nhiên các kiến trúc này đều nhỏ so với các nơi trong thành phố. Đường xe chạy có hai chiều tráng nhựa sạch sẽ. Nhà nào dù lớn hay nhỏ cũng có sân rộng rãi, cỏ xanh mướt, hoa tươi tốt vì máy tưới tự động. Có nhà trồng được bụi chuối xanh mướt nhưng không thấy trái. Có lẻ chỉ để làm kiểng cho vui vì mùa Đông chúng chết và mùa Xuân mọc trở lại nhưng chỉ có lá mà thôi.

Vân cũng thích “nhà ngoại ô” vì cảnh trí có nơi khá giống thôn quê miền Nam Viêt Nam. Khi ra khỏi thành phố nhiều cao ốc, cầu vượt, xe qua lại lu bù là thấy đồng ruộng, nhà cửa thưa thớt. Xe chạy ngang qua các  ruộng bắp, ruộng đậu nành, hay những loại hoa màu khác. Mênh mông, bạt ngàn, xanh um, trù phú. Cảnh đồng quê làm Vân nhớ  những ruộng lúa bát Đồng Tháp và các nơi miền Tây Việt Nam mà 1/2 thế kỷ Vân không 1 lần trở lại thăm viếng. 

Con Vân chỉ có thể ra “nhà ngoại ô” vào ngày nghỉ. Khu vực này còn có 2 nhà của người Việt Nam, thường chỉ có mặt vào cuối tuần. Tuy nhiên nhà nào cũng có người cắt cỏ, cào lá vào mùa Thu khi là vàng rơi trên sân sau, sân trước. Những người này tuy gọi là người làm vườn nhưng họ không trông nom vườn hoa cho chủ nhà. Họ chỉ cắt cỏ, cào lá mà thôi. Ai thích trông hoa thì tự săn sóc lấy.

Tưới hoa  có nước tư động nhưng chủ nhà phải bón phân, tỉa cành, cắt lá, hoa của mình. Để chúng mọc hay bò tùm lum, hàng xóm sẽ phàn nàn. Thường con Vân ra đó là lao động, xén cây, tỉa lá… không mấy khi nghỉ ngơi hoàn toàn. Còn chăng đèn vào vườn hoa cho chúng tự đông cháy sáng vào đêm theo giờ ấn định nữa chứ. Dây  đèn thì dấu vào cỏ nếu không chú ý sẽ không thấy vì dây đèn cũng màu xanh…

Những sợi dây này là nguyên nhân làm Vân vấp té tuần rồi, đau điếng mà không thể phàn nàn.

Con Vân đã nhắc nhở là không được ra ngoài vườn một mình, không cắt lá tỉa cành chi cả nhưng Vân vẫn tự động làm theo ý mình. 

Hôm ấy xe vừa xuống xe Vân ra vườn hoa trước trong khi con còn lu bu đem thức ăn vào nhà.

Hoa khá đẹp. Những loại hoa mùa Hè đủ nước nên tươi tốt. Vân thấy một loại dây leo tầm bậy bò lên cây hoa nên bước vào kéo chúng xuống. Khi trở ra Vân vướng sợi dây điện, té ngã cái rầm, trán đập lên nền xi măng ở lối đi nhỏ, đau ơi là đau. Sờ tay lên trán, 2 đầu gối thấy cục u to khoảng bằng trái chanh cắt đôi nhưng không chảy máu. Ngoài ra không thương tích chỗ nào khác. Vào nhà con thấy trán bị u sợ cái đầu sanh chuyện nên gọi bác sĩ quen. Ông bác sĩ bắt Vân nghỉ ngơi, chườm nước đá và phải vào nhà thương chụp hình nếu thấy nhức đầu hay có triệu chứng lạ. Bác sĩ còn khuyên Vân nên đi thử xem có ngay hàng thẳng lối không, giống như cảnh sát thử người say rượu. Tối con phải canh chừng mỗi 2 tiếng xem có triệu chứng bất thường, khó ngủ… Dĩ nhiên là Vân không đi nhà thương, không chụp X-Ray vì ngoài cái trán, đầu gối u và trầy da rướm máu chút ít, mọi việc khác đều bình thường

Hôm sau  chỗ u trên trán xẹp xuống nhưng mũi và má thì hơi sưng đỏ. Cả nhà trở về thành phố vì con gái đã lấy hẹn khám bệnh online do Vân không chịu đi bác sĩ. Cô bác sĩ trẻ tươi cười xinh đẹp hiện lên màn ảnh cho biết nếu đã 2 ngày không triệu bất thường thì không cần X-Ray nhưng nếu buồn nôn hay nhức đầu là phải gọi xe cứu thương đi bệnh viên ngay.

Hai ngày đầu chỉ có trán, đầu gối Vân bị u và sưng  nhưng đến ngày thứ 3 sau khi té thì mũi và 2 bên má bị hơi sưng to. Ngày thứ 4 vết sưng 2 bên má thành màu tím như trái cà tím, không đau nhưng trông  ghê quá. Vân sinh hoạt bình thường, không thấy khó chịu chi cả. Nghĩ lại hơn 90 tuổi Vân mới té lần đầu tiên mà té nặng. Trẻ con thấy cái mặt bầm tím của Vân chắc sợ hãi lắm. Thì ra “chín mươi cũng chưa chắc là mình được lành lặn” Thật là ”bụng làm dạ chịu, chẳng dám trách ai’’.  Đúng là một phen bị hú hồn hú vía, may mà không bị chấn thương hay gãy xương cốt gì.  Giờ nghĩ lại giật cả mình, hối hận sao lại quá ỷ y.   Con đã dặn không được ra vườn một mình. Tự ý ra vườn cho bị té làm phiền con trẻ lo lắng, bạn bè bận tâm. Các bạn, con cháu ở xa điên thoại, điện thư thăm hỏi, mang quà đến viếng. Vân rất cám ơn và áy náy vô cùng.

Theo lời bác sĩ nhắc nhở Vân còn nhớ được là khi bị té sưng trán u đầu có những việc cần làm như sau:

1/ khi mới té bị sưng hay u đầu: Chườm nước đá

2/ Ngày thứ 2, chườm khăn ấm nơi bị sưng hay bầm

3/ Đi Bác Sĩ hay đến ER ngay nếu nhức đầu hay buồn nôn…

Từ kinh nghiệm khá nguy hiểm này, Vân muốn gửi vài lời khuyên đến quý độc giả, đặc biệt nhất là những vị cao niên.  Bác sĩ và các nhà khoa học đều dặn dò mọi người hàng ngày phải cố gắng đi ra ngoài hoạt động cho máu huyết lưu thông, tinh thần minh mẫn, và thân thể tráng kiện.  Nhưng quý vị hãy thật cẩn thận, đi đứng chậm rải, nhìn kỹ dưới chân, để tránh những chướng ngại vật làm cản bước và vấp ngã.  Và đừng ỷ lại là mình vẫn đang khoẻ, tư ý làm những việc khó khăn, ngoài sức của mình, rủi ro té ngã sẽ làm hại bản thân, làm phiền con cháu, và người thân xung quanh.

Người viết xin chân thành cám ơn tất cả quý anh chị em xa gần đã thương tinh thăm hỏi, tặng quà trong dịp bị té ngã này.  Vân thật xúc động vô cùng.  Xin cầu chúc quý vị và gia đinh luôn bình an khỏe manh, vạn sư như ý.

Xin ơn trên ban bình an, phước lành cho anh chi em, đồng bào Việt Nam và dân chúng Hoa kỳ, những người có lòng tốt đã giúp đỡ chúng ta các phương tiện buổi đầu đinh cư nơi xứ lạ 

Xin có mấy câu văn vần tặng độc giả:

    CHÚC BÌNH AN

Gần nửa đời người xa cố hương

Rất may con cháu, bạn bè thương

Chín mươi tuổi lẻ đôi chân khỏe

Một phút té nhào sợi thép vương

Chợt nhớ quê nhà, nơi viễn xứ

Và thương trò cũ, chốn xa trường

Cầu mong tất cả luôn an lạc

Hạnh phúc yên bình khắp bốn phương. 

     Virginia, tháng 8/25

          Ngọc Hạnh




CHU LYNH – VN FILM CLUB-TIM ĐỊA CHẤN (1+2)




KIỀU MỸ DUYÊN- Ký Sự: SÔNG CÓ KHÚC, NGƯỜI CÓ LÚC; TRỞ LẠI CỔ THÀNH; Qua Cơn Bão Lửa (Phóng Sự Chiến Trường)




KIỀU MỸ DUYÊN – Bút Ký: TẠ ƠN TRỜI, TẠ ƠN NGƯỜI, NGƯỜI VẪN THƯƠNG NGƯỜI & TRIỂN LÃM CÂY KIỂNG BONSAI VÀ HÒN NON BỘ NĂM THỨ 26.

***




KIỀU MỸ DUYÊN – BINH CHỦNG BIỆT ĐỘNG QUÂN MỘT THỜI HÀO HÙNG.




SƯƠNG LAM – Về Miền Đất Phật – Nơi Phật Đản Sinh.

****

***




PHƯƠNG HOA – Bút Ký: Nhờ Một Bài Thơ Hay – Tôi Tập Làm “Ngâm Sĩ”- Về Buổi Lễ Tưởng Niệm Ngày Tiểu Tường Của Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ.

Phương Hoa

Vào đầu:

KÍNH DÂNG THẦY THÍCH TUỆ SỸ

(Tam khúc liên châu)

Lễ tưởng niệm Thầy buổi tối nay

Lời thơ, tiếng hát, điệu đàn bay…

Vinh danh đức cả tình thêm trọng

Kính ngưỡng ân sâu nghĩa quá dày

TUỆ SỸ dịch tàng kinh tháng tháng

SƯ ÔNG truyền Đạo sử ngày ngày

Dù cho phàm thể đà tan biến

Danh Thánh còn lưu thế giới này.

*

Thế giới này lời Phật giảng sâu

Từ bi bác ái ngự chương đầu

SƯ ÔNG đức rộng nhuần thi phú

HOÀ THƯỢNG tài cao nhuyễn Đạo mầu

Phàm thể bất an lòng nguyệt tỏ

Trần tâm định ổn trí tươi mầu

Trước khi vĩnh biệt Người còn gắng

Để lại dương trần những ngọc châu.

*

Những ngọc châu gồm ĐẠO, PHẬT, KINH

Hàng đêm SƯ cố để vươn mình

Hậu nhân dạy bảo nguồn trung trực

Đệ tử trao truyền cội khiết tinh

Cao cả tấm lòng THẦY trọn nghĩa

Dày sâu tâm huyết CỤ chân tình

Tạ ơn con kính bài thơ nhỏ

TUỆ SỸ dâng Ngài cõi Thánh linh.

Phương Hoa – Viết trong ngày Lễ Tưởng Niệm Thầy Tuệ Sỹ – DEC 22, 2024

Chiều nay, 22 tháng 12, 2024, một buổi lễ Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ thật là trang trọng đã diễn ra, nhân dịp ngày Tiểu Tường của Ngài vừa qua, do nhóm Cư Sĩ Phật Tử Bắc Cali, nhóm thân hữu Cựu Sinh Viên Sài Gòn, Vạn Hạnh, Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, và Tu Viện Quảng Hương Già Lam tổ chức tại nhà Hàng Chay Di Lạc, San Jose.

Tôi và cô bạn Minh Thúy đã đến sớm hơn một chút theo lời Thúy Nga – trưởng Ban Văn Nghệ một hội đoàn khác – và cũng là trưởng Ban Văn Nghệ của Văn Thơ Lạc Việt (VTLV) chúng tôi, để gặp anh Long nhạc sĩ phụ trách buổi văn nghệ cúng dường Thầy Tuệ Sỹ, và “dợt tông”  trước chuẩn bị cho những bài thơ chúng tôi sẽ diễn ngâm trong buổi lễ.

Đến sớm mà không sớm. Nhà hàng Di Lạc đã đông người từ trong ra tận ngoài cửa.  Rất nhiều Phật tử, học viên trường Cao Đẳng Phật Giáo, sư thầy, ni cô, và bà con thân hữu trong cộng đồng Viêt Nam ở thành phố San Jose và các vùng phụ cận.  Thôi thì cánh nữ mặt hoa da phấn ngoài trang phục áo lam lại có thêm đủ màu đủ sắc khoe duyên trong mùa Lễ.  Các ông còn trang trọng hơn nữa với những bộ “đồ lớn” càng làm tăng thêm vẻ uy nghi của các “đấng anh hùng” thời VNCH xưa.

Thực ra tôi chỉ là tên “thợ” nghiệp dư, mà vì yêu thơ của thầy Tuệ Sỹ nên khi nghe Thúy Nga mời thì “xâm mình” tình nguyện hưởng ứng, theo kiểu …thử chút chơi, chứ tôi đâu có rành nhạc lý chi mô mà dợt với tập, tông với nốt.  May mắn, anh chàng nhạc sĩ trẻ Long này rất dễ tính. Nghe tôi nói không rành nhạc lý và chỉ có thể nhận chữ “đọc” thôi, còn chữ “ngâm” xin nhường cho các vị nghệ sĩ chuyên nghiệp, thì Long nói, “Chị cứ ngâm thoải mái, em sẽ ráng…chạy theo cho, không sao đâu.”

Nói chuyện với Long xong tôi ngồi vào bàn cùng Minh Thúy, thích thú nhìn quanh.  Nhà hàng được trang trí đẹp rực rỡ sáng chói ánh vàng Phật Giáo, với hai cây cờ Đạo, cờ Vàng VNCH thật lớn, băng rôn, cùng hình ảnh Phật, và chiếc bàn hương án trên sân khấu có đặt bức di ảnh của Thầy Tuệ Sỹ uy nghi. Không Quân Lê Văn Hải, anh Chủ Tịch VTLV hội chúng tôi, mang thật nhiều chậu hoa Trạng Nguyên trắng đỏ đến bày biện khắp nơi trong nhà hàng, càng làm tăng thêm phần đẹp đẽ.  

Lúc này đã có mặt của những vị dân cử địa phương, cô Vân Lê Chủ Tịch Học Khu East Side San Jose, tân Giám Sát Viên mới đắc cử Betty Dương, cùng các vị thân hào nhân sĩ quanh vùng San Jose và các nơi. Nhiều nhà báo, phóng viên truyền thông, đài TV, và nhiều Hội đoàn với máy quay phim rộn ràng tới lui trông thật nhộn nhịp.  Các món chay hấp dẫn đang được nhân viên nhà hàng Di Lạc chuẩn bị bày ra đầy bàn trông thật đẹp mắt, và tất cả quan khách đều được những Phật tử tình nguyện viên tới từng bàn mời nước mời trà với vẻ mặt đầy thân thiện hân hoan.

Ngồi cạnh tôi và Minh Thúy, là một Phật Tử, cũng là học viên trường Cao Đẳng Phật Học online của GS Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Dũng (Như Ninh) với chúng tôi mà lần đầu tiên gặp mặt.  Chị tên Thanh Hạnh, đến từ Nam Cali và đi thẳng tới buổi lễ không kịp ăn uống gì.  Điều này cho thấy sức ảnh hưởng và sự kính quý Hòa Thượng Tuệ Sỹ vô cùng to lớn đối với cộng đồng.  Thanh Hạnh ngồi xem văn nghệ mà miệng không ngớt trầm trồ, chắc cô nàng cũng có máu văn nghệ không nhỏ.  “Trên này sinh hoạt vui quá, ước gì em ở đây sẽ theo các chị học tập hát và ngâm thơ.”

Từ trái: TS Nguyễn Hồng Dũng, Thanh Hạnh, Phương Hoa, Hoa, Minh Thúy

Mở đầu buổi lễ, vẫn là anh cựu binh VNCH Hoàng Thưởng, một anh hùng của quê xưa, cũng là trưởng Ban Nghi Lễ của VTLV – và của các hội đoàn quanh vùng Thung Lũng Hoa Vàng – lên điều khiển thủ tục đầu tiên, chào cờ Mỹ, cờ VNCH và Phật Giáo Ca một cách đầy trang trọng.  Cảm động nhất, là khi anh Hoàng Thưởng đọc lời trong phút mặc niệm anh linh các chiến sĩ, anh hùng, và tiền nhân VN cũng như 58 nghìn tử sĩ Hoa Kỳ đã nằm xuống tại Việt Nam.  Nhắc sơ qua một chút về anh trưởng ban Nghi Lễ của VTLV chúng tôi.  Anh Hoàng Thưởng là phu quân của trưởng ban Văn Nghệ Thúy Nga, nên chúng tôi thường ghẹo, “Hai người đều trưởng cả, thì không biết khi ở nhà ai là phó nhỉ?” Có lần tôi hỏi Thúy Nga: -Anh Hoàng Thưởng rất có tài và có tâm với Tổ Quốc, hai người thật xứng đôi, làm sao mà gặp nhau hay vậy, trước 75 hay sau? – Sau 75, sau 5 năm rưỡi đi tù cải tạo. Thúy Nga trả lời. Tôi khen: – Wow! Đúng là tình nghèo! Sau khi đi tù về ai cũng trắng tay mà còn có người thương xinh thế thì đúng là… True Love!

Trái: Hoàng Thưởng, Trưởng ban Nghi Lễ.  Phải: Minh Thúy, Trưởng ban Văn Nghệ Thúy Nga, Phương Hoa

Đột nhiên, Minh Thúy kêu tôi và chỉ vào một “đấng hùng anh” đang đứng phía ngoài. Chúng tôi đã hẹn hôm nay sẽ gặp anh Lê Bình Định, Trưởng Ban Biên Tập của diễn đàn văn thơ “Văn Bút Tao Đàn Hải Ngoại” mà chúng tôi mới tham gia gần đây.  Anh Định là người San Jose, “cội nguồn gốc rễ” của thành phố biệt danh “Thung Lũng Hoa Vàng”.  Kể cũng vui và có chút hơi…hồi hộp, khi chờ đợi người bạn “ảo” sắp thành thật.  Hai chị em cứ mãi ngóng trông ra cửa mà không biết ai là người mình sẽ gặp, cuối cùng “người ấy” cũng xuất hiện, và đã nhận ra chúng tôi. Rất tiếc vì đông người quá khó tiếp cận nhau, nên anh đã …lặng lẽ ra về. Nhưng chúng tôi cũng rất vui, vì ít ra buổi Lễ cũng đã “đón tiếp trong thầm lặng” một người bạn văn thơ mới của chúng tôi.

Hình trên: Tân Giám Sát Viên Betty Dương & Vân Lê đang trao tặng bằng Tương Lục cho các nhân vật có công với cộng đồng Phật Giáo vùng San Jose 50 năm qua.

Không phải chỉ mình anh Hoàng Thưởng là “người cũ”, hôm nay nơi đây còn có nhiều vị cựu công chức, học giả, nhà báo, Giáo Sư, Tiến Sĩ, cựu quân nhân VNCH mà chiến công xưa từng rất oai hùng. 

Sau khi anh TS Nguyễn Hồng Dũng giới thiệu khai mạc buổi lễ xong thì một vị Sư Thầy đọc kinh Niệm Hương và dâng lời cầu nguyện Thầy.  Cư Sĩ Nguyên Lợi là nhà báo Huỳnh Lương Thiện đã lên đọc tiểu sử của Hòa Thượng Thích Tuệ

Sỹ, một bản tiểu sử khiến người người xúc động, ngưỡng mộ, và yêu thương.  Tiểu sử và tài năng của Thầy Tuệ Sỹ đã phổ biến khắp nơi từ trước tới giờ, ở đây tôi không cần lập lại.  Chỉ xin nhắc một chút là Thầy thông thạo nhiều ngôn ngữ, từ Hán Tự, đến Anh ngữ, Pháp, Lào, Thái, Nhật, Tây Tạng, và còn cổ ngữ Pali và Sanskrit cùng Đức ngữ, đáng khâm phục.

Khi đến dự lễ, cô Vân Lê đã mang tới rất nhiều bảng Vinh Danh để cho Tân Giám Sát Viên Betty Dương thay mặt Thành Phố trao tặng cho các vị Phật Tử và thân hữu đã có công lớn trong việc giúp đỡ, phục vụ cộng đồng Phật Giáo địa phương trong gần năm chục năm qua. Mọi người hạnh phúc, lên nhận bằng khen, và vui vẻ cùng nhau chụp hình.

Xen lẫn các màn văn nghệ là quan khách được mời lên nói chuyện, và vinh danh, tưởng niệm vị Cao Tăng tài hoa xuất chúng của Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất còn lại từ thời VNCH.  Nhóm Tuệ Đăng, Thu Nga cùng toàn ban văn nghệ, cộng thêm nhóm VTLV của Thúy Nga đã cùng nhau dâng lên Thầy những ca khúc, vọng cổ, và diễn ngâm thơ của Thầy làm cho buổi lễ thật là rôm rả tươi vui.

Trở lại chuyện ngâm thơ.  Tôi yêu thích hết các bài thơ của Thầy Tuệ Sỹ nhưng tôi không phải là nghệ sĩ ngâm thơ.  Lâu nay trong các buổi họp hành hay đại hội của VTLV tôi chỉ… đọc thơ và hát Karaoke bậy bạ cho vui với mọi người.  Trong nhóm văn nghệ hôm nay, Thúy Nga kêu mọi người tự chọn bài thơ nào của Thầy mà mình thích rồi gửi cho cô ghi vào danh sách.  Các chị em nghệ sĩ đã chọn nhiều bài thơ từng được nhiều người diễn ngâm và phổ biến khắp nơi, bài nào cũng hay không gì sánh nổi.

Riêng phần tôi, dù ngâm thơ không phải là “nghề của nàng” nhưng tôi đã tìm được trong vô số bài thơ nổi tiếng của Thầy Tuệ Sỹ một bài thơ Hán Việt rất là xúc động.  Bài thơ Đường luật Thất Ngôn Bát Cú có tựa đề là “Tự Thuật” đã làm cho tôi phải dừng lại, nghiền ngẫm, và rồi quyết định lấy xuống bài thơ đậm vị Thiền này.

  TỰ THUẬT

Tam thập niên tiền học Khổ Không

Kinh hàm đôi lũy ám Tây song               

Xuân hoa bất cố xuân quang lão          

Thúy trúc tà phi túy mộng hồn            

Nhẫm nhiễm trường mi thùy hoại án 

Ta đà tố phát bán tàn phong               

Nhất triêu cước lạc huyền nhai hạ    

Thủy bả Chân Không đối tịch hồng   

      Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ

Tôi và nhà tôi đã theo học nhiều khóa Thiền, tập trường trai, và thực hành Thiền định cũng đã mấy năm. Đọc bài thơ này tôi có cảm giác như là “Cá gặp nước” như là tìm được tôn chỉ cho mình noi theo. Thầy Tuệ Sỹ dù gặp phong ba bão táp trong cuộc đời tù tội, thầy chỉ cần dùng cái thuyết “Chân Không” mà đối lại với những gian truân. Và thầy đã tồn tại để trở về chùa tiếp tục theo đuổi công việc Phật Pháp cho đến cuối đời.

Sau khi nghiền ngẫm kỹ, tôi mạo muội…cắn bút tạm phỏng dịch và họa lại một bài:

TỰ THUẬT

(Kính tạm phỏng dịch và họa y đề)

Ba chục năm từng học “Khổ Không”

Kinh tàng chất đống ngập đầu song

Xuân nồng không thưởng xuân già cội

Trúc biếc lờ bay bóng não hồn

Mấy chốc mi dài xòa án cũ

Nay đà tóc trắng phủ đồi phong

Một ngày hụt bước rơi triền thẳm

Dùng thuyết “Chân Không” địch tối hồng.

        Phương Hoa – DEC 16/2024

Không dừng lại ở đó, vì quá ngưỡng mộ bài thơ Tự Thuật của Thầy, sau khi đưa bài họa cho chàng xã nhà tôi đọc và được sự ‘vỗ tay” của chàng, gần ngày đi tôi bèn “lấy trớn” họa luôn một bài nữa theo cái thể …vui vui tôi thường xướng họa cùng bạn thơ trên các diễn đàn,  “Thể Song điệp lưỡng đầu xà” mục đích để đọc dâng tặng Thầy trong ngày Lễ Tưởng Niệm.

TỰ THUẬT

(Song Điệp Lưỡng Đầu Xà – Kính tạm phỏng dịch và cẩn họa y đề)

Không khổ, trường kỳ luyện “Khổ Không”

Song đầu kinh chất ngập đầu song

Cội già Xuân lỡ, Xuân già cội

Hồn não trúc lay, trúc não hồn

Án chạm mi dài, đà chạm án 

Phong ngời tóc trắng, đã ngời phong

Sẩy chân triền thẳm, dù chân sẩy

Hồng ánh “Chân Không” địch ánh hồng.

         Phương Hoa – DEC 21, 2024

Tôi chỉ là hàng hậu học, rất ngại múa rìu qua mắt thợ, nhưng vì cảm xúc đối với bài Tự Thuật của Thầy nên mới “xâm mình” gửi mấy bài thơ họa cho cô Trưởng Ban hỏi ý kiến xem có thể dùng được cùng với bài xướng của Thầy hay không.  Và khi Thúy Nga nói “Ổn lắm mà chị” tôi vui mừng in ra và ráng “tụng đi tụng lại” suốt một đêm.

Lúc được Thúy Nga gọi tên trước mọi người, tôi thực tình …run lắm.  Nhưng sau khi quay lại án thờ xá Hòa Thượng ba xá xong, nhìn di ảnh Người tôi như thêm sức.  Tôi đã trình bày cả ba bài thơ xướng và họa suông sẻ không vấp váp, và được sự cổ vũ của nhiều người lúc bước xuống chỗ ngồi, thì tôi rất vui.

Nhưng rồi đến khi thưởng thức các bạn nghệ sĩ diễn ngâm những bài thơ khác của Thầy Tuệ Sỹ thì tôi thấy…ốt dột quá, và biết mình cần phải học hỏi, tập luyện nhiều hơn nữa nếu muốn tiếp tục với sở thích ngâm thơ này.

Ca sĩ Thu Nga ngâm một bài, tôi đã quên mất tựa đề, nhưng giọng cô trong vắt, ngân nga quá hấp dẫn mượt mà; Minh Thúy diễn ngâm giọng Huế thật ngọt ngào bài “Cho Ta Chép Nốt Bài Thơ Ấy”. Nàng thơ này tính hay khiêm nhượng nên có khen cũng dãy nãy lên không bao giờ chịu nhận, còn cự nự nữa, nên tôi “hỏng thèm” khen, mà chỉ… vỗ tay.  Trưởng Ban Văn Nghệ Thúy Nga diễn ngâm bài “Tống Biệt Hành” và một bài khác nữa.  Đến giờ ngồi ghi lại những dòng này, tai tôi như còn nghe giọng ngâm ấm áp đầy truyền cảm của Thúy Nga. Những nhấn nhá, những âm vang, và luyến láy nghe thật là hấp dẫn vô cùng.  Thế mới biết, nghệ thuật là phải qua tôi luyện mới có thành quả đáng kể.  Không thể giỡn chơi.

Trong khi mọi người thưởng thức văn nghệ đồng thời cũng được nhân viên nhà hàng Di Lạc dọn ra những món ăn chay nhẹ nhàng mát ruột.  Món chả giò chay đặc biệt của nhà hàng Di Lạc mà hương vị chúng tôi đã thưởng thức rất nhiều lần, ăn đến mê luôn phải thêm togo về nhà.   Ngoài ra còn có món súp nấm chay ngon tuyệt hảo, các chị ngồi gần trầm trồ nói súp này ăn giống hệt món “Súp măng cua” mà họ thường ăn ở nhà hàng đồ mặn.  

Họ nói không sai, vì nhà hàng Di Lạc hàng năm đều được An Toàn Thực Phẩm Thành Phố San Jose trao bằng Vinh Danh, công nhận là nhà hàng sử dụng toàn thực phẩm hữu cơ (Oganic) giúp bảo vệ an toàn cho sức khỏe cộng đồng.  Thật là thương người khách “viễn phương” Thanh Hạnh, nàng múc một mạch là …hết sạch sành sanh chén súp, và nói, “Món súp …cứu mạng này ăn vào là thấy khỏe ngay, vì em nhịn đói từ lúc xuống máy bay đến giờ.” Tôi trách nàng sao không nói, vì trong xách tôi lúc nào có mấy viên “kẹo cứu đói” để phòng ngừa những lúc bị kẹt xe.

Cuối chương trình, mọi người trong ban văn Nghệ đều được mời lên để tặng hoa, những chậu hoa Trạng Nguyên dành riêng cho mùa Giáng Sinh đón Chúa hạ trần.  Thật là vui và cảm động.

Có thể nói, buổi Lễ Tưởng Niệm ngày Tiểu Tường của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ thành công mỹ mãn.  Tôi không phải dân “Thung Lũng Hoa Vàng” chánh hiệu, mà là khách đến từ Vùng Đông Vịnh, San Fransisco, nên xin có vài nhận xét khách quan chia sẻ cùng ban tổ chức. Nhà hàng Di Lạc tuy nhỏ nhưng đẹp, ấm cúng, thức ăn ngon, và phục vụ tử tế thân thiện. Ban Tổ Chức buổi lễ lập chương trình rất bài bản, đúng giờ, và trang trọng; khách mời toàn những nhân vật có uy tín trong cộng đồng, và những người có công lao đối với Phật Giáo địa phương làm cho quan khách chăm chú lắng nghe và không cảm thấy lạc lỏng.  Đặc biệt, chương trình văn nghệ hôm nay tuy đơn giản nhưng rất tuyệt vời, nhạc hay chọn lọc, thơ của Thầy Tuệ Sỹ thì hay miễn bàn, làm cho một số khách ở lại đến giờ chót mới ra về.

Trân trọng chúc mừng và cảm ơn ban Tổ Chức đã cho nhóm VTLV chúng tôi cơ hội cùng tham gia và được thưởng thức một chương trình Lễ Tưởng Niệm Thầy Tuệ Sỹ thật là cảm động.

Phương Hoa – DEC 22, 2024




GIAO CHỈ VŨ VĂN LỘC: IRCC SAN JOSE Ta Biết Làm Gì Cho Hết Nửa Đời Sau.

Ta biết làm gi cho hết nửa đời sau.                      Kính thưa quý bằng hữu. Cơ quan IRCC định cư di dân tỵ nạn tại  Bắc CA từ cuối năm 1975 nhưng đến tháng 8 năm 1980 mới chính thức do người Việt Nam phụ  trách. Chúng tôi ở tuổi 45 nhận trách nhiệm xây  dựng lại tổ chức này mà người Mỹ gọi là  từ đống tro tàn. 

Năm nay 2024 chúng tôi sẽ dùng hết tháng 7 để sửa chữa và kiện toàn Việt Museum với trên 10 tượng đài  lịch sử để chuẩn bị cho chương trình sinh nhật bảo tàng tháng 8/2024 gọi là ngày Thank You America và lượng giá nửa thế kỷ người Việt Hội Nhập vào quê hương Hoa Kỳ..                                       

 Sau cùng sẽ chuẩn bị chu đáo cho ngày 30  tháng tư năm 2025 ghi dấu nửa thế kỷ  trầm luân của người Việt tại hải ngoại. Cá  nhân chúng tôi làm giám đốc cơ quan  trong giai đoạn đầu lo việc định cư và công tác tình nguyện cộng đồng. Tất cả cũng chỉ là sinh kế như mọi người.  Nhưng danh sách 35 năm hoạt động  trong bản liệt kê đính kèm xin trình diễn  gọi là khoe thành tích của một đời người

Sau 35 năm đầu chúng  tôi về hưu tiếp tục sống hoàn toàn là thiện nguyện qua giai đoạn  hiện tại cho đến nay đã ngoài 90. Năm nay 2024 chúng tôi mất một chiến hữu là anh Phạm Phú Nam như mất một cánh  tay.   Xin xem qua đoạn phim anh Nam làm về công tác tình nguyện IRCC.   Hình ảnh anh Nam phóng sự tại Nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Sau cùng xin viết lời cảm ơn nhà thơ Cao Tần (Lê tất Điều) mới gửi cho tôi đôi lời khích lệ. Năm tỵ nạn đầu  tiên Cao Tần phát hành tạp chí Bút Lửa viết lời ai oán như sau:  Hỡi người  chiến binh một đời anh dũng. Anh lang thang đất lạ đến bao giờ?

Rồi đến câu thơ cay đắng như dành cho riêng ta. 

Biết làm gì cho hết nửa đời sau.

Bây giờ đã hết nửa đời sau, bằng hữu đi xa từ lâu.  Biết ai tâm sự. Xin nhờ bài viết và cuốn phim của anh Nam gửi quý vị bản thành tích của chúng tôi…

IRCC SAN JOSE: ITS MISSIONS AND INFLUENCE IN THE VIETNAMESE COMMUNITY. – YouTube

Có hình ảnh của quý vị trong phim

Trân trọng–

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393




DU LỊCH: Thăm NEW ORLEANS, Louisiana – NGỌC HẠNH




VĂN: Thanh Thản – CAO MỴ NHÂN

Có những chuyện thật mà kể ra cứ tưởng trong tiểu thuyết kinh dị, hoặc tưởng tượng, chứ làm sao sự thể lại như vậy.

Mới cách đây một giờ, trời còn chút nắng chiều, tôi vừa nghe cú điện thoại từ Houston gọi về. Bà chị dâu bên chồng tôi tên tạm gọi Diệm Hồng, nói rất bình tĩnh là:

Thím có khoẻ không, phone cho thím để báo tin chị sẽ đi lúc một giờ đêm nay, mệt mỏi quá rồi…. Tôi nghe không hề có tiếng sụt sịt khóc cảm thương thân phận hay là oán trách gì ai.

Tại sao lại thế, chị còn khoẻ mạnh, tươi đẹp và mới ngoài bảy chục chút thôi mà?

Người báo tin sẽ chết thì bình thản, mà người nghe tin buồn thảm là tôi thì hốt hoảng, sợ hãi, tôi cứ hỏi dồn: Chị Hồng, chị Hồng, chị có đau ốm gì đâu, có chuyện gì vậy? Tại sao vậy?

Là vì người ta có thể biết trước thảm hoạ bi thiết khi bác sĩ hay bệnh viện nói cho gia đình hay, thí dụ bệnh nhân ung thư phổi này cao lắm là khoảng vài tháng nữa… đi tong chẳng hạn.

Nhưng có lẽ hiếm ai tự đi báo tin sẽ chết trong mấy giờ nữa. Song rõ ràng tôi mới nghe tức thì thôi. Chị Diệm Hồng thủ thỉ một cách ma quái, là chị thanh thản đi trước lúc 1:00 AM.

Chị nói bắt đầu nhỏ lời hơn: Chị có đau nhiều, mới ở hospital ra. Thôi, chị Hồng sẽ đi trong thanh thản, mệt quá rồi, chào em..

Thế là cái gì? Một mạng sống, một cuộc đời chấm dứt như vừa qua phiên chợ vậy sao?

Tôi vẫn chưa khóc, vì chưa biết hồi kết của đoạn phim chị Diệm Hồng vừa chiếu hàm thụ cho tôi coi. Lòng mông mênh quá, bấm điện thoại cả chục lần cho các số phone liên hệ tới nhà chị và bản thân chị, không có phản hồi.

Tôi kêu thử một cô em bên nhà chồng tôi, nhưng phone cũng chẳng được đáp ứng. Tôi đang cư ngụ ở Los Angeles, chị ở Houston, không thể chạy tới thăm chị được và càng không thể nhờ cảnh sát vì chị có nói chị bị bức tử hay là muốn tự chết đâu. Vả chăng chị có cả chục con trai, gái, dâu, rể, không kể hàng cháu nữa.

Thế thì cũng gọi là lạ đấy. Tôi lan man nghĩ về một hoàn cảnh tương tự qua cái ý chí, không phải sự chết mà sự muốn thay đổi sinh hoạt sống, hoặc giả muốn thử thời vận xem có như ý hơn không?

Đó là chuyện cắt tóc tới sát da đầu, hay nói văn hoa là xuống tóc, mà nói không cần giải thích là cạo trọc cái mái tóc, vốn như một điểm hẹn thề riêng tư với chính mình.

Còn gọi là hứa nguyện cho một nguyện ước sắp tới, có khi lại là đã đạt điều mong ước, cần giải lời ước thệ ban đầu.

Thí dụ nếu tôi đạt được ước nguyện sẽ ăn chay bao lâu, sẽ thí phát (nhưng không quy y).

Thủa còn ở Việt Nam, trong năm năm kể từ 1980 tới 1985, không phải mình tôi mà bạn bè chúng tôi đã chứng kiến nghệ sĩ diễn ngâm Hồ Điệp hai lần xuống tóc.

Lần thứ nhất có lẽ là chị đạt nguyện đã có tin tức của hai con trai chị ở Mỹ.

Lần thứ hai khi chị quyết định sắp xếp chuyện cho các con gái và cả cuộc sống riêng tư của chị nữa.

Thế nhưng ai hỏi, chị vẫn nói là trời Sài Gòn nóng quá, cắt tóc thật sát da đầu cho mát…

Mỗi lần rời nhà, chị vẫn có một tấm khăn hoa rất đẹp, rất trang nhã đội trên đầu, kể cả lúc tới các hội thơ ngâm nga, tới các chùa chiền, v.v..

Không phải thí phát để quy y của các tăng sinh, tăng sĩ, người dân miền Nam thường có những chú nguyện đơn giản như ăn chay có thời hạn hoặc vô thời hạn, tức là hy sinh cả những niềm vui ăn uống ngon lành, mặn mà, có thể giảm thiểu một số thực phẩm bổ dưỡng.

…đến xuống tóc để chú nguyện cũng là một trạng thái tâm thần trong cuộc sống. Vì hy sinh cả mái tóc, nếu là phụ nữ, thiếu nữ thì mất hẳn vẻ đẹp của một góc con người rồi còn gì. Cái răng cái tóc là góc con người (tục ngữ Việt Nam).

Thành ra, nghĩ lại con người mà Thượng đế sinh ra là sinh vật thượng đẳng số một trong danh sách sinh hoá của Ngài, Thượng đế, vạn vật muôn hình, muôn ảnh…

Sự sống với sự chết có những hỗ tương ràng buộc từng thế hệ nhân sinh xen kẽ nhau. Để sinh tồn mãi mãi nghĩa là cuộc đời không bao giờ chấm dứt, chỉ có chuyển hoá khác đi thôi.

Tuy nhiên vẫn có những lý giải thần học là đấng tối cao tối đại vẫn có thể xoá đi trong chớp mắt trái đất này, hiển nhiên nhất vẫn là nỗi chết của bất cứ con người nào… không tránh được, chỉ có sớm hay muộn thôi.

(viết trước ngày Halloween 2016)
CAO MỴ NHÂN




VĂN – ĐỒN ÔNG LỢI – Lê Xuân Nhuận

ÔNG ÐỒN LỢI

TÔI nói với Đại-Úy (sau này là Thiếu-Tá) Trương Công Ân, Chánh Sở Ðặc-Cảnh Tỉnh+Thị Thừa-Thiên+Huế, rằng anh khỏi cần tháp-tùng hoặc cử nhân-viên đi theo tôi. Tôi chỉ đi dạo chơi trên Đại-Lộ Trần Hưng Ðạo và quanh Chợ Ðông-Ba, để xem lại những nơi chốn cũ vốn đã ghi sâu trong tôi nhiều kỷ-niệm khôn quên trước ngày tôi bị đày đi khỏi Huế vào năm 1960.

Sau đó, cùng với Đại-Úy (sau này là Thiếu-Tá) Ngô Phi Đạm, Chánh Sở Tác-Vụ thuộc Ngành Đặc-Biệt Vùng I, ngồi trong chiếc xe Jeep sơn màu trắng-xám và mang bảng số ẩn-tế đậu dọc lề đường, tôi dùng máy vô-tuyến chỉ-huy công-tác của Đại-Úy Nguyễn Công Văn, Phó Sở Tác-Vụ, và Toán Ðặc-Nhiệm Vùng I, mà tôi đã phái đi riêng từ Ðà-Nẵng ra, đang kín-đáo làm việc ở bên kia Bờ Sông Gia-Hội và ở mé sau Chợ Ðông-Ba.

Vì các đối-tượng theo-dõi của chúng tôi có những liên-hệ mật-thiết với một số viên-chức hữu-trách ở đây, tôi không tiện giao cho địa-phương thi-hành nên phải đích-thân từ Ðà-Nẵng ra tận nơi hành-động với nhân-viên riêng của mình.

*

Dù là dân Huế hay là người ở xa mà đã có lần đến Huế, chắc là không ai không biết đến Đường Trần-Hưng-Ðạo và Chợ Ðông-Ba, nổi bật giữa trung-tâm thương-mại và kỹ-nghệ của cố-đô này.

Ðối với tôi, bây giờ cảnh-vật ở đây kém phần thân thương, vì bây giờ ở đây không còn có nữa một khuôn mặt quen thuộc, quen thuộc như người nhà của mọi người, mọi nhà, nhất là ở khu phố này, lần cuối cách đây chừng trên mươi năm.

Ðó là “ông Ðồn Lợi”.

*

Tháng 3 năm 1947, Đế-Quốc Pháp đem binh-lính viễn-chinh đến dẫm gót giày đinh xâm-lược lên đất Thần-Kinh, trong âm-mưu tái-chiếm cựu thuộc-địa Việt-Nam mà chúng đã khởi đầu tại Sài-Gòn từ tháng 9 năm 1945. Thực-dân đánh đuổi về đồng quê và lên rừng núi lực-lượng kháng-chiến mà Ðảng Cộng-Sản Việt-Nam đã cướp được quyền lãnh-đạo dưới lốt Mặt Trận Việt-Minh. Pháp dựng lên bộ máy kềm kẹp tại những thành+thị và khu-vực mà chúng đã chiếm-đóng được, thí-dụ:  Sở Liêm-Phóng Liên-Bang (Sûreté Fédérale), Ty Cảnh-Sát Pháp (Police Française), Toà Án Pháp (Tribunal Français), Lao-Xá Trung-Ương (Prison Centrale), v.v…

Các nhà ái-quốc không-Cộng-Sản bèn đứng ra thành-lập Chính-Quyền Quốc-Gia. Một mặt, họ đương-đầu với Mặt Trận Việt-Minh; một mặt, họ vừa hợp-tác với bạn đồng-minh để bình-định xứ-sở, vừa tranh-đấu với thù cố-cựu để giành lại chủ-quyền cho quốc-dân. Trong tình-hình đó, tại Miền Trung, Hội-Ðồng Chấp-Chánh Lâm-Thời Trung-Kỳ, mà trụ-sở được đặt tại Huế, đã tổ-chức các công-sở: ở cấp Phần thì có Nha An-Ninh Quốc-Gia, v.v…; ở cấp Tỉnh thì có Toà Hành-Chánh với các Ty, tỷ như Ty An-Ninh Quốc-Gia, Ty Cảnh-Sát Quốc-Gia, v.v… là những cơ-quan song-hành nhưng tranh-chấp với các bộ-phận tay-sai kể trên của ngoại-bang.

Huế là trung-tâm của toàn-quốc, đồng-thời là thủ-phủ cuả Miền Trung, cho nên khu phố cốt-lõi của Huế là nơi đầu tiên đón nhận sự hiện-diện của Chính-Quyền Quốc-Gia. Ðó là Ðồn Cảnh-Sát Ðông-Ba, nằm ngay đầu Đường Trần-Hưng-Ðạo và sát hông ngôi chợ mà Ðồn này mang tên.

Ðặng Hữu Lợi là viên Trưởng Ðồn đầu tiên ở đây.

Lợi có một bộ mặt dài thòng như mặt ngựa, với cái vẻ tỉnh bơ như không nói gì mà lại nói rất nhiều, sâu-sắc và chua-cay, khiến nhiều người so sánh anh với vai hề nổi tiếng cuả màn-ảnh Pháp, Fernandel, mặc dù gã diễn-viên của nước ngoài thì cao to ngược hẳn với ông cò thấp gầy của nước mình. Nhưng, xen kẽ với phim-ảnh Pháp thì cũng có nhiều phim-ảnh Mỹ được chiếu thời bấy giờ, nên đã có không ít người cãi lại, bảo rằng trông Lợi giống thằng gầy trong cặp mập+gầy Laurel và Hardy của Hoa-Kỳ. Ðó là những lúc Lợi pha trò, nhộn và tếu vô cùng.

Lợi có một đặc-điểm khác nữa, là anh thường hay chồm nửa người trên về phiá cửa lớn cũng như cửa sổ, nghiêng đầu và hướng mắt ra xa, dù cho đang bàn-luận chuyện gì với ai, tạo cho người xung quanh cái cảm-tưởng là anh luôn luôn ngóng đợi một người nào. Vì là Trưởng Ðồn nên anh được gọi là “ông Ðồn”, và vì tên Lợi mà lại có dáng-bộ chờ-đợi nên bạn-bè tinh-nghịch đặt cho anh cái biệt-danh “ông Ðồn… Lợi”, với cái hàm-ý theo lối nói lái là “ông đợi… l…”. Chính anh cũng lấy làm thích-thú được mọi người dùng cái tên ấy để gọi mình.

Sau khi có Chính-Quyền Quốc-Gia, những người dân Huế, vốn đã bỏ chạy về miền nông-thôn lánh nạn sau đêm lịch-sử 19 tháng 12 năm 1946quân và dân Việt-Nam bất-thần tấn-công các đồn/trại và tư-gia cuả Pháp để khởi đầu cuộc kháng-chiến toàn-quốcnay lũ-lượt hồi-cư. Một số dân quê cũng rời ruộng đồng lên phố sinh sống để tránh tai-họa vì các cuộc giao-chiến ngày càng lan ra. Tuy thế, hàng ngày dân-chúng vẫn di-chuyển tấp-nập giữa Thành-Phố này với các Tỉnh khác và các Quận+Xã xung quanh; và bến xe chính cũng như bến đò chính thì ở sát chợ, cạnh Ðồn, nên “ông Ðồn Lợi” được hầu hết bà con khắp nơi trong Tỉnh và các Tỉnh khác quen mặt hoặc biết tên, trong lúc các Đồn-Trưởng Ðồn khác chỉ được nghe thấy trong Phường mình mà thôi.

Lợi nổi tiếng không phải chỉ do cái dáng-mạo buồn-cười ấy, mà còn nhờ ở thiện-chí bênh-vực bảo-vệ đồng-bào hiền-lương.

Nào là Sûreté Fédérale (Mật-Thám Pháp), nào là Commando (Biệt-Kích Pháp), nào là Partisan (thân-binh Pháp), cùng với binh-lính Pháp và cả thường-dân Pháp nữa, ngày nào cũng có không biết bao nhiêu vụ chúng cướp-bóc, đánh-đập, hãm-hiếp, bắt-bớ, và cả bắn/giết, người dân Việt-Nam. Lợi là một trong số những viên-chức Cảnh-Sát Quốc-Gia đầu tiên đứng ra can-thiệp chống kẻ bạo-tàn. Tất-nhiên, không phải lần nào người ngay-chính cũng thuyết-phục được kẻ gian-tà. Anh đã bị không ít trận đòn dã-man.

Đặc-biệt, đối với các phần-tử phạm-pháp bị bắt quả-tang, ngay cả Việt-Minh, Lợi cũng đòi cho họ được đối-xử đàng-hoàng.

Vào những ngày cuối tuần, cuối tháng, và sau mỗi cuộc hành-quân, hầu như tất cả lính Pháp đều đổ xô ra đường; mua sắm thì ít mà nhậu-nhẹt và kiếm gái thì nhiều. Người gốc Ma-Rốc, Xê-Nê-Gan, An-Jê-Ri, Tuy-Ni Zi, từ các thuộc-địa của Pháp ở Châu Phi, thì chỉ dạo phố và giải-trí bình-thường; thỉnh-thoảng mới có vài vụ lôi-thôi. Người gốc thiểu-số Ra-Ðê ở Cao-Nguyên Trung-Phần Việt-Nam thì chất-phác, không gây phiền-hà. Chỉ duy người Pháp chính-quốc và người gốc Ðức cảm-tử trong binh-chủng Lê-Dương là thường hay say-sưa đánh người. Ðặc-biệt vào Ngày Quốc-Khánh Pháp, 14 tháng 7 hàng năm, người lính Lê-Dương được xá mọi tội nên tha-hồ phá-phách, quỵt-giật, hành-hung người, và hiếp-dâm phụ-nữ Việt-Nam.

Vào những dịp ấy, hầu hết nhân-viên Cảnh-Sát Quốc-Gia khắp Thành-Phố Huế, ngoài giờ làm việc đều mặc giả thường-dân, đổ dồn về Đường Trần-Hưng-Ðạo, nấp sẵn trong các con hẻm dẫn ra Bờ Hồ, hoặc phiá trước hiên đình Chợ Ðông-Ba, hễ thấy có lính Lê-Dương hoặc lính Pháp giở trò áp-bức dân lành là ào ra nện cho chúng những trận nên thân. Xong xuôi, “ông Ðồn Lợi” mới dẫn nhân-viên trực Ðồn đến tiếp-ứng giải vây cho chúng và giúp phương-tiện chở chúng về trại giùm.

Thảng-hoặc có Prévôté (Hiến-Binh Pháp) xuất-hiện thì Lợi cho nhân-viên tuần đường đi trước để thông-tin. Trong trường-hợp đó, các toán hành-hiệp đành nhẫn-nhịn nhìn đồng-bào bị thiệt-thòivì Prévoté chỉ can ngăn chứ không bắt giữ kẻ phạm-pháp hoặc bồi-thường cho nạn-nhânsau đó, họ mới bám theo bọn tội-phạm trên đường chúng trở về trại binh, và chận dọc đường mà trả thù.

Hồi đó, Ty Cảnh-Sát Huế là nơi cung-cấp Phái-Viên Hành-Chánh (về sau gọi là Quận-Trưởng) cho các Quận thuộc các Tỉnh, và các Cảnh-Sát-Trưởng cho các Thị-Xã, khắp Miền Trung.

Ðội Túc-Cầu Cảnh-Sát Huế nhiều lần đoạt giải vô-địch toàn-quốc.

Ban Kịch Thơ Cảnh-Sát Huế vượt trội các đoàn kịch-nghệ khác, tỷ như của Nha Thông-Tin, của Nha Cảnh-Sát Công-An, v.v… khắp Trung-Phần Việt-Nam.

Ðặng Ngọc Lựu, đạo-diễn, và tôi, tác-giả, luôn luôn để dành cho Lợi ít nhất là một vai kịch hài và một màn ngâm thơ tếu, trong mỗi đêm trình-diễn trước quảng-đại đồng-bào. Không-khí văn-nghệ cởi-mở ấy cũng là một dịp để “ông Ðồn Lợi” được người dân gần-gũi và thân-thương mình hơn.

Dần dần, các chính-khách Quốc-Gia giành thêm được nhiều bước nhượng-bộ cuả Pháp, và tiến tới nhất-trí mời Cựu-Hoàng Bảo Ðại về nước nắm chính-quyền trung-ương. Cùng với Hội-Ðồng An Dân Bắc-Việt và Chính-Phủ Cộng-Hoà Nam-Kỳ-Quốc Tự-Trị, Hội-Ðồng Chấp-Chánh Lâm-Thời Trung-Kỳ rút lui. Chính-phủ Quốc-Gia thành-hình. Các cơ-quan đơn-vị thuộc Pháp giải-thể lần lần. Nhiều phe phái thay phiên nhau lên cầm quyền trong từng địa-hạt và vào từng thời-kỳ. Nhưng “ông Ðồn Lợi” vẫn còn là Trưởng Ðồn Cảnh-Sát Ðông-Ba. Các cấp chỉ-huy chưa độc-tài đến độ chỉ bổ-nhiệm vây cánh của mình vào mọi chức-vụ điều-khiển mọi cấp trong mọi ngành như sau này.

Ngày 07-5-1954, Pháp thất-trận ở Ðiện Biên Phủ.

Ngày 07-7 cùng năm, Ông Ngô-Ðình-Diệm chính-thức nhậm-chức Thủ-Tướng Chính-Phủ do Quốc-Trưởng Bảo Ðại bổ-nhiệm, hướng về Hoa-Kỳ.

Ngày 20 cùng tháng, Hiệp-Ðịnh Geneva ra đời, chia đôi đất nước, mở đường cho Mỹ đến và Pháp ra đi. Phản-ứng cuả Quân-Ðội Quốc-Gia, thân Pháp, là gây một cuộc khủng-hoảng chính-trị trầm-trọng trên toàn-quốc, xuất-phát từ Sài-Gòn và Huế. Nhưng Huế mới là trung-tâm thực-nghiệm, với hành-động chống-đối quyết-liệt và cụ-thể, vì Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu ở Huế đang có cơ-hội điều-động và sử-dụng một lực-lượng quân-sự lớn để vào tiếp-thu Tỉnh Quảng-Ngãi mà Việt-Minh vì phải tập-kết ra Bắc nên giao lại cho Chính-Quyền Quốc-Gia; và Huế là nơi tập-trung cuả gia-đình họ Ngô. Ngoài một số ít các nhà cách-mạng sáng suốt, còn thì những người có ưu-tư vì thời-cuộc tuy dè-dặt nhưng đều nôn-nao nghe ngóng dư-luận trong và ngoài nước để ước-đoán chiều hướng biến-đổi cuả tình-hình, hầu chọn thế đứng cho mình.

Giới Công-An Cảnh-Sát vốn biết tôi đã tiên-đoán thế nào Mỹ cũng nhảy vào Việt-Nam nên đã chú-tâm trau-dồi tiếng Anh từ nhiều năm trước đó, nay thấy tôi đã qua bên quân-ngũ, giữ mục thời-luận hằng ngày trên mặt báo và trên Ðài Phát-Thanh, tiếng nói chính-thức của Quân-Lực và Tư-Lệnh Quân-Khu, bèn tìm cách thăm dò ý-kiến tôi. Lợi là người được họ cậy nhờ, và tôi cũng cần có anh để liên-lạc với bạn-bè. Bên ngoài thì sự tiếp-xúc thường-xuyên giữa Lợi với tôi chỉ nhằm mục-đích văn-nghệ, vì tôi vẫn còn tiếp-tục sáng-tác cho Ban Kịch Thơ cuả Cảnh-Sát Huế và cho chính anh diễn-ngâm, nhưng bên trong thì qua anh tôi thuyết-phục mọi người hãy đón nhận Hoa-Kỳ, giàu-mạnh hơn, và hào-hiệp, chứ không như Pháp, để nước nhà dễ sớm vươn lên.

Ngô Ðình Diệm là người được Hoa-Kỳ chấp-nhận và ủng-hộ.

Trong cảnh tranh-tối tranh-sáng của những ngày tháng giao-thời ấy, Lợi là một trong số ít những ủng-hộ-viên và cổ-động-viên đắc-lực nhất nhưng cũng bất-vụ-lợi nhất mà tôi đã tranh-thủ được cho Thủ-Tướng họ Ngô. Trong một nước còn hậu-tiến, một lời phát-biểu của các viên-chức chỉ-huy Ngành Công-Lực, tỷ như “ông Ðồn Lợi”, có một ảnh-hưởng khá lớn trong dân-nhân.

Rồi cố-vấn Mỹ vào, viện-trợ Mỹ vào, và Diệm tất-nhiên vững chân.

Vở kịch thơ dã-sử “Gươm Chính-Nghiã” của tôi, dưới bút-danh Nguyệt Cầm, mà nội-dung có ngụ-ý đề-cao Ngô Ðình Diệm, được khán-giả nhiệt-liệt hoan-nghênh và yêu-cầu diễn lại nhiều lần. Các bài thơ trào-phúng của tôi, dưới bút-danh Tú Ngông, mà chủ-đề là “đả thực, bài phong, diệt cộng”, đúng theo chiêu-bài của Diệm, qua tài diễn-xuất của “ông Ðồn Lợi”, cũng được công-chúng tán-thưởng nồng-nàn.

*

Cuối năm 1956, mãn hạn động-viên, tôi về lại với Ty Cảnh-Sát Huế.

Cầm lại cây bút dân-sự, tôi tái-hoạt-động văn-nghệ tích-cực hơn xưa.

Riêng trong công-quyền, ngoài công-vụ hằng ngày, tôi vun-đắp thêm cho Ban Kịch Thơ, xuất-bản một tờ nội-san mang tên “Phục-Vụ”, phổ-biến đi khắp các Tỉnh và lên cả Trung-Ương. Qua tờ nội-san này, tôi đã hướng-dẫn và khuyến-khích “ông Ðồn Lợi”, dưới bút-danh Hữu Lợi, viết tùy-bút, truyện ngắn, và làm thơ. Tôi mở các lớp bổ-túc nghiệp-vụ chuyên-môn, dạy tiếng Anh, cho cảnh-nhân toàn Thành, đồng-thời thuyết-trình về những ý-nghiã cao-đẹp của chủ-nghiã Nhân Vị, nòng-cốt của học-thuyết Diệm, và phổ-biến tạp-chí “Thế-Giới Tự Do”, chiếu phim cuả Phòng Thông-Tin Hoa-Kỳ, cả cho đồng-bào trong khắp địa-phương. Lợi là một trong những anh em sốt-sắng nhất, ngoài giờ làm việc tham-gia phụ-lực tôi. Chúng tôi phục-vụ hăng say, đúng theo tinh-thần của cuộc “Cách-Mạng Quốc-Gia” mà Tổng-Thống Ngô Đình Diệm chủ-trương.

Tuy thế, vì không phải là tay+chân thân-tín, cũng không phải là cừu non, nên dù đem hết tâm-huyết ra để đóng góp, số đông, như Lợi và tôi, vẫn không được đãi-ngộ công bình. Trái lại, có một số phần-tử kém-cỏi nhiều mặt vẫn được tưởng-thưởng vượt quá lệ thường; thậm chí tùy-phái lao-công cũng được thăng cấp sĩ-quan, mỗi khi lễ-lạc lớ-quớ trong bộ đại-lễ-phục xuất-hiện trước quần-chúng làm trò cười cho mọi người. Có kẻ in thiệp báo tin chịu lễ rửa tội gửi khắp toàn Miền, cho cả các công-sở khác và những người không quen, như một thông-cáo chính-thức bảo-đảm cho nấc thang giá-trị mới và tiền-đồ công-danh sự-nghiệp của mình.

Qua những mẩu tùy-bút của Hữu-Lợi mà tôi không dám cho đăng, tôi thấy anh không còn chỉ là một cây cười vô-biên-giới, mà đã nghiêm-túc chọn một giới-tuyến cho chính mình. Ðiều quan-hệ hơn hết là anh đã dám giãi-bày, bằng giấy trắng mực đen, tâm-tình ẩn-ức của những tầng lớp thấp cổ bé miệng, công-nhiên gửi cho báo đăng, thách-thức các thế-lực thịnh-thời.

Lâu nay, Lợi đến với tôi tại văn-phòng, tại hội-đường, tại câu-lạc-bộ, là những nơi hầu như khi nào cũng có đồng-nghiệp lắng nghe chúng tôi. Từ nay, tôi đến với Lợi tại Ðồn Cảnh-Sát Ðông-Ba, là nơi luôn luôn có quá nhiều giới người, mà lại có quá nhiều loại việc, nên không ai chú ý đến nội-dung câu chuyện của chúng tôi.

Lợi có thói quen uống cà-phê với thật nhiều đường, mà anh gọi là chè-phê. Bên ly chè-phê, “ông Ðồn Lợi” lắc đầu ngao-ngán kể thêm cho tôi biết mỗi lần vài ba sự việc mà tôi chưa hề nghe.

 Vẫn với thói quen chồm nửa người trên ra hướng cửa sổ, Lợi chỉ tay về phiá dãy phố buôn bán sầm-uất dọc lề bên kia Đại-Lộ Trần Hưng Ðạo, nơi đến đầu Cầu Gia-Hội thì giáp góc với Đường Huỳnh-Thúc-Kháng song-song với Đường Gia-Long. Anh nói:

– Hôm nọ là Bửu Bang chủ tiệm “Rồng Vàng”, hôm kia là Phan Văn Thí chủ hiệu “Đức Sinh”, hôm khác là nhà buôn Lý Lâm Thịnh, rồi Châu chủ hãng “Nam-Hưng”, rồi thầu-khoán Nguyễn Giáp, rồi thương-gia Phan Cho. (Chưa kể Nguyễn Văn Yến, Nguyễn Đắc Phương đã bị giết chết rồi.) Ngày mai, ngày mốt, sẽ đến phiên ai đây?

Ðó là những người có máu mặt ở trong khu-vực trách-nhiệm của Lợi, đã lần-lượt bị bắt giam, bị tịch-biên tài-sản, hoặc ít nhất là bị vây hãm phạm-vi kinh doanh.

Trong lúc phong-trào bài-trừ tứ-đổ-tường dâng lên cao thì những tệ-đoan xã-hội khác, trầm-trọng và nguy-hại hơn, lại do chính một số các con-cưng của chế độ gây ra.

Một dược-sĩ đêm đêm giả làm tài-xế đạp xe-đạp xuống các bến, dưới Cầu Trường-Tiền, dọc bờ Sông Hương, o-mèo các cô giúp việc của những gia-đình khá-giả ở các dãy phố từ Cửa Thượng-Tứ xuống đường Hàng-Bè. Thường thì đến mười một giờ tối cửa tiệm mới đóng; đợi dọn-dẹp xong, chủ nhà đi ngủ, các cô mới mang áo quần xuống sông giặt-dịa, hoặc gánh cặp thùng nhiều chuyến đi lấy nước về đổ đầy hồ chứa để có đủ dùng cho ngày hôm sau. Ðó là thời-gian tự-do; ai muốn nghỉ sớm thì gắng làm nhanh, còn ai muốn đàn-đúm bạn-bè thì cứ rán mà thức khuya. Họ là con gái nhà quê, ít chữ nghiã, nhưng có nhan-sắc nên mới được các chủ-nhân ăn-nên làm-ra chọn mướn cho phù-hợp với cảnh thanh-lịch thị-thành. Thế là, thay vì phải mặc đồ lớn đi chầu-lụy cả một đại-gia-đình, vất-vả tốn kém suốt năm mà chưa chắc đã nắm được bàn tay của một cô gái Huế hộ-đối môn-đăng, viên dược-sĩ nhà-ta chỉ cần bỏ ra vài xu mua một gói đậu phụng rang, trổ tài ăn nói của kẻ học rộng biết nhiều ra mà chiêu-dụ, mỗi khi một con mồi, là cầm chắc trung-bình mỗi tuần phá được cuộc đời cuả ít nhất là một cô gái còn trinh. Lợi đã tình-cờ bắt gặp một cặp trai+gái đang ôm nhau trên bãi hoang, và nhận-diện ra gã đàn-ông chính là viên dược-sĩ kia; nhà trí-thức ấy đã tâm-tình riêng với “ông Ðồn Lợi” như trên. Rồi một hôm, được tin báo có kẻ bị tình-địch đâm ở bờ sông, Lợi cùng nhân-viên chạy đến thì không còn thấy người nào. Riêng Lợi lần theo thì gặp được nạn-nhân-mà-là-tội-nhân đang ôm vai lủi-thủi về nhà. Y năn-nỉ “ông Ðồn Lợi” đừng ghi lời báo-cáo “vô căn-cứ” nọ vào sổ trực đêm, vì sợ sáng sau trình sổ lên Ty thì Ty sẽ cho mở cuộc điều-tra, nhà tai-mắt sẽ mất mặt với mọi người. Cứ thế mà tên hiếu-dâm vô-lương kia gặp gió thuận chiều nên vẫn lên cao như diều.

Một giáo-sư đại-học bị Ðội Biệt-Ðộng của Ty bắt gặp “ngủ đò” cùng với vợ bạn trên sông Hương. Ở Huế, có cái thú thuê đò mà ngủ giữa lòng sông: vừa mát-mẻ nhờ không-khí trong lành, vừa thoải-mái vì không ngại bị ai quấy rầy, lại kín-đáo bởi sông thì tối mà đò không thắp đèn, và nhất là không đòi hỏi khách, như khi mướn phòng khách-sạn, phải khai tên người thuê. Do đó, đa-số trường-hợp ngủ đò đều là để ăn nằm với nhau. Trong cuộc “cách-mạng quốc-gia”, mọi người đều phải noi gương “đạo-đức của Ngô Tổng-Thống”, cho nên dù là vợ+chồng với nhau mà đi ngủ đò thì cũng bị xem là tội-lỗi rồi, huống-hồ họ là những ông nọ, bà kia. Rốt cuộc, nội-vụ đã được ém nhẹm, và “ông Ðồn Lợi” không thể ghi chép gì trong sổ trực đêm, mặc dù sự việc xảy ra trong hoạt-vực của mình…

*

Hôm ấy, Lợi nhắn các bạn đồng cảnh-ngộ là Trần Xuân Tự, Trần Vĩnh Thuận, Ưng Hạc, Nguyễn Thông, Nguyễn Duy Hát, Nguyễn Mầm, Đỗ Dzư, Tôn Thất Ninh, v.v… đến Ðồn Cảnh-Sát Ðông-Ba để cùng gặp tôi. 

Không-khí có vẻ nghiêm-trọng khác thường. Khi tôi mới ngồi xuống ghế, Lợi đã hỏi ngay:

– Anh em muốn biết sự thật: anh đã có bao nhiêu “Д rồi ?

Tôi đã có nghe nhiều người kháo chuyện với nhau về cái thang “Д này. Dân-chúng truyền miệng với nhau:

     Một “Д mới đứng ngoài sân,

     Hai “Д mới được bước chân vô nhà;

     Ba “Д: con cháu ruột rà;

     Bốn “Д là chú, là cha trên đầu…

Nay Lợi nói ra, tôi muốn nhân dịp tìm hiểu rõ hơn, nên đáp chung-chung:

– Thì người nào trong chúng ta cũng đều có một “Д cả. Chúng ta là “đồng-Ðoàn” với nhau, tức đều có chân trong Ðoàn [“Công-Chức Cách-Mạng Quốc-Gia”].

Thuận tức “Thuận Xù” lắc đầu:

– “Ðoàn” thì nói làm gì? Nông-dân thì Ðoàn Nông-Dân Cách-Mạng Quốc-Gia, v.v… Một “Д thì chỉ là lính; hai “Д mới là sĩ-quan chứ!

Tôi cười:

– Thế thì tôi không phải là “sĩ-quan”!

Lợi đưa tay bắt tay tôi:

– Xin lỗi anh. Chúng tôi tưởng anh đã lên hai “Д rồi!

– Cho nên anh rủ các bạn đến đây để hài tội tôi chứ gì?

“Thuận Xù” kết-luận:

– Người như anh mà muốn kiếm thêm “Д thì chúng tôi còn biết trông nhờ vào ai!

Thật ra, không có một văn-bản nào quy-định như thế; nhưng cứ dựa vào sự việc xảy ra, người dânđã từng sáng-tác tục-ngữ, phương-ngôn, ca-dao, hò, vèđã hình-dung ra cái thang mới ấy, gồm có bốn cấp bậc “Д:

“Đ” thứ nhất là “đồng-Đoàn” như đã nói trên;

“Д thứ hai là “đồng-Ðảng”, tức đã vào Ðảng [“Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng”];

“Д thứ ba là “đồng-Ðạo”, tức đã theo Ðạo [Kitô-Giáo].

Nhưng nếu có “Д thứ tư thì mới lên đến tột-đỉnh quyền-lợi và uy danh: “đồng-Ðịa”, tức là cùng Ðịa-Phương, quê-quán [Quảng-Bình hay Thừa-Thiên] với gia-đình họ Ngô và các vệ-tinh.

Kết-nạp đảng-viên hay thu-nhận tín-đồ là một việc làm thông-thường; nhưng cậy thế cường-quyền và đơm mồi tục-lụy để đạt mục-đích là một việc trái với đạo-đức thông-thường.

Ðảng lãnh-đạo thì cứ lãnh-đạo, miễn sao đem lại hạnh-phúc cho mọi người thì tự-nhiên quần-chúng ủng-hộ và tham-gia. Tại sao ép buộc người ta theo mình, trở mặt với các chính-đảng khác, các tổ-chức ái-quốc kỳ-cựu khác, vốn có quá-khứ tranh-đấu vẻ-vang gắn liền với lịch-sử nước nhà; mà không thuận theo thì bị xem là phản-loạn, nghịch thù. Ðâu là quyền tự-do lựa chọn, kể cả quyền tự-do không nhập bọn với bất cứ một bọn nào.

Ðối với đa-số đồng-bào mà tinh-thần tam-giáo thấm-nhuần, sự dốt-nát và vụng-về của thiểu-số công-thần thao-túng chế-độ, trong vấn-đề này, để giúp cho tổng-giám-mục sớm lên hồng-y, bị xem là trắng-trợn xâm-phạm đời sống tâm-linh của người dân: dồn ép công-chức, quân-nhân, và cả thường-dân, từ bỏ tín-ngưỡng của mình để phải tuân-phục tín-điều của tập-đoàn cầm quyền, chà-đạp lên các giá-trị truyền-thống của nền triết-học Ðông-Phương vốn đã un đúc nên tinh-thần quốc-gia cho toàn-dân.

(Trước đây khi Pháp mới trở lại vào năm 1947, Cụ Trần-Văn-Lý, một nhân-sĩ Kitô-Giáo, đã làm Chủ-Tịch Hội Ðồng Chấp-Chánh Trung-Kỳ nhiều năm. Trong tình-trạng chiến-tranh, hiến-pháp không có, luật-lệ hỗn-tạp, tư-pháp một chiều, thì quyền-hành của Cụ Lý đối với người dân sâu rộng bội phần hơn so với Vua Bảo-Ðại ngày xưa; thế mà cụ có lợi-dụng cơ-hội để bắt ai theo đạo của mình đâu? Cho nên, đến năm 1967, mặc dù cụ không đắc-cử nhưng đã có biết bao nhiêu người tuy khác tín-ngưỡng với cụ song thâm-cảm đức-độ của cụ mà hy-sinh quyền-lợi tôn-giáo và đảng-phái của mình để dồn phiếu cho cụ mong cụ lên làm Nguyên-Thủ Quốc-Gia.)

Vấn-đề tế-nhị vô cùng, đâu phải dễ như chuyện “chớp thời-cơ”, “đốt giai-đoạn”, “thưà thắng xông lên” của cộng-sản độc-tài xem dân như dân ngu.

Cộng-sản củng-cố hệ-thống bằng thủ-đoạn phi-nhân; đằng này chống Cộng mà lại áp-dụng phương-sách và phương-tiện của quân thù…

Ðến nay thì chính bản-thân “ông Ðồn Lợi” đã bị đẩy vào chân tường. Dù anh có muốn nhắm mắt, ngậm miệng cho qua ngày, thì cũng vẫn không yên thân. Bộ-hạ của tập-đoàn chuyên-quyền đã đến móc nối “ông Ðồn Lợi”, cũng như các bạn kia, và tôi. Thuận theo thì danh-lợi hanh-thông. Trái lại, thì…

Bên ngoài thì một số các phần-tử cứng đầu, không chịu có hơn một “Д, mà thật-sự có khả-năng, vẫn được bổ-nhiệm vào các chức-vụ chỉ-huy cấp thấp, cấp trung.

Nhưng bên trong thì vì chỉ tuân phục một hệ-thống chính-quyền, chứ không chấp-nhận vai trò giật dây của các thế-lực đằng sau, nên họ bị kỳ-thị, bị ếm-trù, không được thăng-tiến dễ-dàng, và có thể bị hãm-hại bất-cứ lúc nào.

Lợi và các bạn tóm-lược tình-hình chung.

Họ không đòi hỏi tôi phải có thái-độ hay hành-động gì, nhưng kết-luận là họ đặt tin-tưởng vào tôi.

Xưa nay tôi vẫn tự mình chọn lấy đường đi của mình, tiền-phong bước những bước đầu, chứ không chịu quyền lãnh-đạo của ai.

Nhưng “ông Ðồn Lợi” và các bạn không lập thành một nhóm để lôi kéo tôi.

Dù sao, cùng với vô-số cá-nhân và tập-thể khác, họ là nguồn gốc của những đợt sóng cảm nghĩ tạo nên nền móng cho các phong-trào đột-khởi trong dân-gian.

Thế rồi biến-cố Ngày Lễ Hai Bà Trưng 3-3-1960 xảy ra*.

——-

         *Xem “Lãnh-Chúa Ngô Đình Cẩn” trang 215.

Lời phát-biểu công-khai của tôi tại Ty Cảnh-Sát Huế, rằng chế-độ có nhiều ung độc, đã có tác-dụng của một mồi lửa châm cháy ngòi thuốc súng nối liền vào quả mìn nhân-tâm.

Sau đó là Phong-Trào “Phật-Tử Tranh-Ðấu” đòi quyền bình-đẳng và chống đàn-áp tôn-giáo, được sự đồng lòng của quảng-đại quần-chúng, mà hăng-hái nhất là giới sinh-viên, và quyết-liệt nhất là giới quân-nhân.

Trong lúc bất-cứ một tu-sĩ Kitô-Giáo nào, nếu muốn, cũng có thể tiếp-xúc với Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm nhanh-chóng và dễ-dàng, thì Ðức Ðại-Lão Hoà-Thượng Thích Tịnh Khiết, là Hội-Chủ Tổng-Hội Phật-Giáo Việt-Nam, một tổ-chức quy-tụ trên chín mươi phần trăm dân-số trong nước, đang bị bệnh nặng ở Huế mà cũng rán sức vào tận Sài-Gòn để xin gặp Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, ước mong giải-quyết vấn-đề; thế nhưng Ngài phải chờ đợi nhiều ngày mà vẫn hoài-công.

Nhiều cao-tăng và Phật-Giáo-Ðồ theo nhau tự-thiêu từ Thủ-Ðô đến các Tỉnh Thành.

Cả thế-giới nhờ ngọn lửa Thích Quảng-Ðức mà thức tỉnh lương-tri.

Rồi cuộc Cách-Mạng 1-11-1963, rồi các biến-cố khác xảy ra.

Rồi “ông Ðồn Lợi” không còn làm Trưởng Ðồn Cảnh-Sát Ðông-Ba nữa.

Anh từ-giã Huế; rồi anh từ-giã cuộc đời, để lại tiếc thương cho những ai đã từng sinh sống trong khu-vực này, đã từng tán-thưởng những màn kịch vui và giọng ngâm thơ tếu của người Cảnh-Sát Văn-Nghệ mà không cảnh-sát văn-nghệ này.

*

Ðại-Úy Nguyễn Công Văn gọi máy báo-cáo đã bắt được một cơ-sở tiếp-tế nội-thành và một cán-bộ mậu-dịch từ miền quê lên, cùng hai tấn gạo được che giấu dưới những món hàng thông-thường, trong một chiếc ghe đang rời bến, để chở về tiếp-tế cho Việt Cộng ở mật-khu, đúng với tin-tức tình-báo cuả E6 chúng tôi.

Tiếng Văn vang lên từ máy vô-tuyến cắt đứt dòng hoài-niệm về người bạn cũ trong tôi.

Tôi ra lệnh chuyển-giao nội-vụ cho nhà chức-trách địa-phương, là người hiện nay thay thế “ông Ðồn Lợi” ở Cuộctên mới cuả ÐồnCảnh-Sát Ðông-Ba.

Bây giờ ở đây chỉ có một Trưởng Cuộc Cảnh-Sát Quốc-Gia kiêm-nhiệm đại-diện của Ngành Ðặc-Biệt, của tôi, tại cấp Phường này, chứ không còn có tên hề mặt-ngựa đã có một thời chọc cười tức-bụng chảy-nước-mắt cho cả mấy thế-hệ đồng-bào ở cố-đô…

*

Đại-Úy Nguyễn Công Văn đến với chúng tôi, báo-cáo tóm-tắt công-tác xong, tôi bảo mọi người lên xe rời Huế trở vào Đà-Nẵng.

Văn nói với Đạm, Chánh Sở Tác-Vụ, mà nhìn vào tôi:

− Qua đặc-nhiệm này, chắc ông Giám-Đốc muốn “dằn mặt” Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực ngoài này, chứ gì?

Tôi không trả lời, quay nhìn về Đạm.

Đạm phát-biểu:

− Mình là Cảnh-Sát Quốc-Gia, thì mình có bổn-phận và quyền-hạn phanh-phui mọi vụ phạm-pháp bất-cứ ở đâu. Nhưng mình là Cảnh-Sát Đặc-Biệt, thì việc-làm chính của mình là chính-trị chứ không phải là hình-sự, mặc dù mình cũng có thể nhúng tay vào các vụ hình-sự, vì mình là Hình-Cảnh-Lại cơ mà.

Nhưng mình có dòm-ngó gì đến các việc-làm khuất-tất của ai đâu.

Ngành Đặc-Biệt Khu thỉnh-thoảng mới hành-động phụ giúp Ngành Đặc-Biệt các Tỉnh/Thị thuộc Khu trong những trường-hợp đặc-biệt mà thôi, thế thì chỉ là việc-làm bình-thường, chứ có gì là “dằn mặt” ai đâu!

LÊ XUÂN NHUẬN  

Cảnh-Sát-HóaBiến-Loạn Miền Trung




VĂN: NHỚ ANH BA DƯƠNG HUỆ ANH- Tùy Bút HỒNG THỦY

NHỚ  ANH BA  DƯƠNG HUỆ ANH
     Tùy Bút   HỒNG THỦY

                                                

Lẽ ra theo đúng phép tôi phải gọi Thi Sĩ lão thành DƯƠNG HUỆ ANH là bậc tiền bối, nhưng ông đã nhận tôi là cô em nhỏ và cho phép tôi gọi thân mật là anh BA. Tình anh em tôi bắt đầu khi cô em văn nghệ thân quí của tôi là VĂN THI SĨ PHƯƠNG HOA rủ rê tôi gia nhập VĂN THƠ LẠC VIỆT. Mới chân ướt chân ráo bước vào ngưỡng cửa VTLV đã được các đàn anh gửi MAIL chào đón. Trong số đó có một email vô cùng dễ thương của THI SĨ lão thành DƯƠNG HUỆ ANH. Ông gọi tôi là “bạn cố tri”, và kể ông biết tôi qua Báo CỎ THƠM từ lâu lắm, chỉ chưa có dịp chuyện trò thôi. Tôi thầm phục trí nhớ của ông, còn tôi thì quá tệ, cảm thấy tên ông rất quen thuộc mà chưa nhớ ra ông cũng có Thơ đăng trên CỎ THƠM từ lâu.

Ngay sau đó, tôi mời ông gia nhập VĂN BÚT VÙNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ (VBVĐBHK), Ông vui vẻ nhận lời ngay. Từ đó thỉnh thoảng anh em tôi nói chuyện qua điện thoại. Ông tâm sự làm thơ từ năm 1954. Tôi nói năm đó tôi chỉ là con bé con mới 13 tuổi và là năm phải rời bỏ miền BẮC thân yêu để di cư vào NAM. Biết tuổi tôi rồi, ông gọi tôi là cô em nhỏ. Trong VBVĐBHK có Thi sĩ LÃO MÃ SƠN lớn tuổi nhất, chúng tôi tôn ông là anh HAI. Người lớn tuổi thứ nhì sau Thi Sĩ LÃO MÃ SƠN là Thi SĨ DƯƠNG HUỆ ANH nên tôi xin phép tôn ông là anh BA cho thân mật, ông vui vẻ bằng lòng ngay. Từ đó trên DIỄN ĐÀN VBVĐBHK chúng tôi luôn gọi ông là anh BA DƯƠNG HUỆ ANH. Ông rất hiền hòa, dễ thương, hòa đồng, thân mật với em út. Dạo sau này ông không được khỏe, nhưng nguồn thơ vẫn lai láng và sáng tác vẫn rất dễ dàng nhanh chóng.

Lâu không thấy ông gửi Thơ để tôi giới thiệu lên DIỄN ĐÀN VBVĐBHK, đang định phôn thăm ông và nhắc nhở, Không ngờ ông bỏ đàn em ra đi quá nhanh, không một lời từ giã. Anh BA ơi, anh em mình còn hẹn sẽ gặp nhau khi dịch bệnh yên lành, em sẽ qua SAN JOSE dự họp mặt VTLV để anh em mình có dịp được gặp nhau. Vậy mà anh đã quên lời hẹn  với em rồi. Cám ơn anh đã dành cho em gái nhỏ những tình cảm vô cùng quí giá. Bài thơ kỷ niệm anh đăng trong Tuyển tập VĂN BÚT VÙNG ĐÔNG BẮC HOA KỲ anh đã ưu ái nhắc tới tên rất nhiều em út Văn Nghệ, trong số đó có em. Chúng em sẽ nhớ anh BA của chúng em mãi mãi.

Cầu xin anh thanh thản trên nước Trời. Tiếp tục vui với văn chương thơ phú  bên những người thân yêu.

Sau đây xin mời quí vị thưởng thức bài thơ tràn đầy tình văn hữu quí hóa của ANH BA chúng tôi. 

             THEO AI…                       

Thơ Dương Huệ Anh 

     

Thuở nào, ta khổ vì yêu,       

Theo nàng áo tím,

lớp chiều…trường xa!       

Rồi, người tú nữ kiêu sa,       

Lên xe với bạn…bye, tà áo bay!       

Để rồi ngơ ngẩn, theo mây.       

Biển đông, xe cát, mộng xây…dã tràng!       

Không còn gặp lại,bẽ bàng…       

Còn chăng, kỷ niệm…ngàn trang thơ buồn!       

Theo ai… tật xấu vẫn còn,       

Lên trời( net) gặp…những thơ tròn, thơ vuông…       

Truyện dài, truyện ngắn…ơi thương,       

Người chưa thấy, muốn vấn vương, có kỳ?       

Phương Hoa, Minh Thúy…bộn bề       

Bao sân, đồ họa…cũng chì thật thôi!       

Cung Lan, Hồng Thủy…yêu người,       

Trước, sau gắn bó, lối ngoài tầm phương…         

…Truyện thơ nhớ Nguyễn Thanh Dương,       

Tiểu Thu, Dung Đỗ, Phan Lang,bao người…**       

Kiều Mỹ Duyên, thạo việc đời,       

Viết văn, làm báo… góp lời, dựng xây       

Gặp nhau, trao đổi, có ngày…        

** Những tên tiếp theo muốn kể…

Huynh LÃO MÃ SƠN,THÁI LAN, SAO KHUÊ,

MỸ NGA, DAO THANH L, KIM OANH LÊ,

Ý NGA, NGUYỄN KINH BẮC,

THANH KIM LÊ, TRẦN QUỐC BẢO,

PHAN KHÂM, NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG,

NGỌC AN, LÂN NGUYỄN,

KIM LOAN, LUÂN TÂM, THƯ KHANH,

NGUYỄN MINH NỮU, XUÂN TIÊN…

                 (9-1-2021) DƯƠNG HUỆ ANH




NỮ-SĨ VI KHUÊ – Lê Xuân Nhuận

NỮ-SĨ VI KHUÊ

TRỤ-SỞ Ðài Phát-Thanh Huế tọa-lạc ngay trên bờ Hữu-Ngạn của Sông Hương, cạnh mé Tây của đầu Cầu Trường-Tiền, đối-diện Đại-Khách-Sạn Morin bên kia Đường Lê-Lợi sát góc Đường Duy-Tân.

Thuở ấy, chưa có các Ðài cấp Tỉnh, Ðài Huế là Tiếng Nói chung của cả Miền Trung, nên máy phát rất mạnh (không thua Ðài Quốc-Gia và Ðài Pháp-Á [Radio France-Asie] của Pháp ở Sài-Gòn), nghe được cả ở Miền Bắc lẫn Miền Nam Việt-Nam.

Cả nước chưa có hệ-thống truyền-hình; cả Miền Trung chỉ có vài ba tờ nhật-báo ở Huế mà thời-sự thì dựa theo tin-tức-đọc-chậm của Ðài Sài-Gòn. Trong tình-hình đó, Ðài Huế là món ăn tinh-thần hằng ngày của đồng-bào Miền Trung, và của cả những người ở phiá Ngozi Tỉnh Thanh-Hoá và ở phiá trong Tỉnh Bình-Thuận mà có gốc-gác hoặc liên-hệ đời sống ở Miền Trung.

Ngoài những tiếng hát của các nam+nữ ca-sĩ mà một số về sau vào Sài-Gòn thì trở thành danh-ca của toàn-dân, giọng bình và ngâm thơ của các thi+kịch-sĩ tên-tuổi một thời, tiếng hát của các danh-ca quốc-tế trong các chương-trình nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, và giọng đọc xì-xồ của mấy người Pháp trong chương-trình vô-tuyến của Service d’Information, những ai đã từng nghe Ðài Huế cũng đều xác-nhận rằng người nữ-xướng-ngôn chính của Ðài này có một giọng đọc truyền-cảm vô-cùng. Giọng đọc của người con gái Huế ấy chẳng những dịu-dàng, ngọt-ngào, ấm-cúng, hấp-dẫn, mà còn trí-thức (vì không bao giờ vấp phạm lỗi-lầm khiến thính-giả khó chịu hoặc làm sai lạc ý-nghiã của câu văn).

Những người hiếu-kỳ đi ngang qua Ðài Huế thường để ý thấy có một thiếu-nữ be-bé xinh-xinh, cư-ngụ trong một căn phòng khiêm-tốn ở tầng trên của một buồng-kho bên hông trụ-sở Ðài. Một cầu thang nhiều bậc xi-măng từ mặt đất bắc lên cửa phòng làm cho căn phòng có vẻ cao hơn, khiến các thanh-niên ái-mộ đặt cho người-đẹp và căn phòng ấy cái mỹ-danh “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”.  

Ðó chính là cô xướng-ngôn nói trên.

Sau ngày hồi-cư vào đầu năm 1947, tôi thường đến Ðài Huế để góp phần vào các chương-trình kịch vô-tuyến hằng tuần, kể cả việc trình-bày một số kịch thơ dã-sử và xã-hội của tôi, trong đó nhạc-sĩ Trịnh Văn Ngân là một trong những cây ngâm tuyệt-vời.

Do đó, tôi quen biết “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”. Tên nàng là Trần Trinh Thuận, tức nữ-sĩ Vi Khuê, một biên-tập-viên chính-ngạch có giọng-nói-trời-cho nên kiêm luôn phần-vụ xướng-ngôn.

Tuy Vi-Khuê làm việc ở một cơ-quan thông-tin tuyên-truyền đậm màu chính-trị, nhưng những bài thơ của nàng hồi đó chỉ là tâm-tình của bạn gái ở lứa tuổi hai mươi, dễ thương như “con nai vàng ngơ-ngác, đạp trên lá vàng khô”.

*

Tôi thì lăn xả vào giữa tình-hình rối-ren cuả Quê Hương.

Dù đã từng bị giặc Pháp tù đày, tôi vẫn giao-du tuy không đồng-ý với Hồng Quang, chủ-nhiệm báo “Ý Dân”, là người chỉ chọn vũ-lực để chống chủ-nghiã thực-dân; và vẫn cộng-tác tuy không thuận-tình với Phạm Bá Nguyên, chủ-nhiệm báo “Công Lý,” là kẻ nhận Ðệ-Tứ thay cho Ðệ-Tam. Tôi lui+tới với Duy Sinh nhưng chưa yên tâm vì huyền-thoại văn-hoá điệp-báo của Nguyễn Bách Khoa. Tôi rất đau lòng vì đồng-bào đói khổ, nhưng chỉ hiệu-chính giùm thi-pháp chứ không tán-thành nội-dung khích-động giai-cấp đấu-tranh trong thi-tập “Tiếng Nói của Dân Nghèo” cuả Vân Sơn PMT [Phan Mỹ Trúc]. Tôi thân+thương Trụ Vũ và Quách Thoại nhưng không hợp tính với họ vì lối sống phóng-túng của hai nghệ-sĩ thân-nhân ấy của Vi Khuê. Tôi tiếp-xúc với tác-giả nhưng không khép mình trong triết-thuyết bi-quan trong “Con Thuyền Không Bến” cuả Nguyễn Vũ Ban. Tôi thả hồn lên cõi siêu-nhiên nhưng không bước vào nương nhờ Cửa Thiền trong “Không Bến Hạn” cuả Huyền Không.

Tôi ủng-hộ cả hai đường-lối phục-hồi độc-lập quốc-gia: công-nghiệp kháng-chiến vũ-trang chân-chính của người dân, và nỗ-lực ngoại-vận ôn-hoà của các chính-trị-gia không-cộng-sản trong lòng Thế-Giới Tự-Do.

Riêng ở phiá bên này lằn ranh, tôi nhận thấy Cựu-Hoàng Bảo Ðại thì quá yếu mềm mà Đế-Quốc Pháp thì còn luyến tiếc giấc mơ đô-hộ Việt Nam, nên viết cuốn truyện dã-sử “Trai Thời Loạn” để gửi gắm ý mình, và kết-quả là tôi bị cơ-quan An-Ninh Quốc-Gia bắt giam; sau nhờ có chính-khách Cao Văn Chiểu, Giám-Đốc Thông-Tin Lê Tảo, cùng nhiều nhân-sĩ khác, can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được thả ra.

Ðể tạo một thế đứng vững-vàng hơn, tôi thành-lập Thi+Văn Ðoàn “Xây-Dựng”, xuất-bản các tác-phẩm của mình và của các bạn từ Bắc chí Nam. Mới bắt đầu thì Nhất Hiên [Phan Nhật Hiến] bỏ theo Việt Minh, và nửa chừng thì Như Trị [Bùi Chánh Thời] cũng nhảy lên chiến-khu.

Tôi hướng về nền dân-chủ và lòng hào-hiệp cuả Hoa Kỳ như tia sáng ở cuối đường hầm.

*

Tháng 4 năm 1954, tôi vào phục-vụ tại Phòng 5 Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu với tư-cách văn-nghệ-sĩ & ký-giả bị/được động-viên chuyên-môn. Lê Ðình Thạch và Huy Vân thì kỳ-cựu, Tô Kiều Ngân gốc Nha Thông-Tin cũng đã thành quân-nhân. Tchya [Ðái Ðức Tuấn] và Nhất Lang thì được đồng-hoá sĩ-quan.

Ngoài việc viết bài cho báo “Tiếng Kèn”, cho các đơn-vị Võ-Trang Tuyên-Truyền ở tuyến đầu, và cho chính tôi đi vận-động trong dân-nhân, tôi còn là phóng-viên chiến-tranh và biên-tập-viên chính cuả Ðài “Tiếng Nói Quân Ðội” tại Miền Trung.

Do chương-trình phát-thanh này, mà tôi là giám-đốc, tôi mới đặt phòng-giấy ngay tại trụ-sở của Ðài Phát-Thanh Huế, và gặp mặt Vi Khuê thường-xuyên.

Thay chỗ nhạc-sĩ Anh Chương, tôi cử Lâm Tuyền làm Trưởng Ban Tân-Nhạc; nhưng rồi tôi làm lơ cho Lâm Tuyền đào-ngũ vì anh quá chán chuyện đời.

Tôi đưa Văn Giảng lên thay.

Hà Thanh mới bắt đầu vào nghề.

Những lần xe Jeep bị hư, tôi đạp xe-đạp qua chở Kim Tước từ cư-xá Nha Thông-Tin ở bên kia Cầu Trường-Tiền. Cặp Châu-Kỳ−Mộc-Lan của giới ca-nhạc, cũng như cặp Hoàng-Pha−Phương-Khanh của giới văn+thơ, cũng đã từng ở đây.

*

Rồi Thoả-Ước Geneva ra đời.

Trong hội-nghị quốc-tế ấy, có ba nhân-vật Việt-Nam đã được thế-giới chú ý hàng đầu: Cô Thiên-Hương, con gái của nhà văn Hồ Hữu Tường, là nữ ký-giả duy-nhất, nói được nhiều ngoại-ngữ và trẻ đẹp nhất trong giới truyền thông; Cụ Võ-Thành-Minh, một lão-thi-sĩ, từ Huế đến, đã bí-mật vượt hàng rào Cảnh-Sát Thụy-Sĩ vào cắm trại trên Bờ Hồ Leman trước hội-đường, tuyệt-thực thổi sáo nói lên nỗi lòng của người dân Việt-Nam mong-muốn Thống-Nhất và khao-khát Tự-Do; và Ông Nguyễn-Quốc-Ðịnh, Ngoại-Trưởng cầm đầu Phái-Ðoàn Quốc-Gia Việt-Nam của chính-phủ Bảo Ðại, đã từ-chức để khỏi ký tên vào văn-bản thừa-nhận việc đất nước bị qua-phân.

Thủ-Tướng Ngô Ðình Diệm cử Ông Trần-Văn-Ðỗ đến thay. Pháp và Việt-Minh thoả-thuận ngưng bắn, lấy vĩ-tuyến 17 ngang sông Bến Hai làm ranh-giới Bắc–Nam.

*

Ðại-Tá Trương Văn Xương, Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, thuộc cánh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng là Trung-Tướng Nguyễn Văn Hinh [con của cựu Thủ-Tướng Nguyễn Văn Tâm, thân-Pháp], mở một chiến-dịch đưa quân từ Huế vào tiếp-thu các Tỉnh phiá trong. Theo chương-trình chính-thức thì Thủ-Tướng Diệm sẽ từ Sài-Gòn ra chủ-toạ lễ thiết-lập Chính-Quyền Quốc-Gia tại vùng đất mới lấy lại này. Theo kế-hoạch riêng của cặp Hinh+Xương thì Diệm, trên đường đi từ Huế vào Quảng-Ngãi, sẽ bị lính và dân dàn chào bằng tiếng hô “Đả Đảo” cùng với trứng thối và cà chua. Câu hỏi nổi bật là “Mười vé phi-cơ cho gia-đình họ Ngô, hay là mạng sống cuả cả trăm ngàn binh sĩ Quốc-Gia?” Các bức tường vẽ khẩu-hiệu đã được xây lên; và biểu-ngữ, bích-chương, cùng truyền-đơn liên-hệ đã được chuẩn-bị sẵn dọc đường rồi.

Phòng 5 Quân-Khu đương-nhiên đảm-trách công-tác Tác-Động Tinh-Thần này.

Thành-Phố Huế ngẫu-nhiên được chia thành hai trận-tuyến. Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu thì đóng trong Ðại-Nội, phiá Bắc của Sông Hương; nhà Ông Ngô-Ðình-Cẩn, trung-tâm quy-tụ cuả gia-đình Họ Ngô, thì nằm trên Xóm Phú-Cam, phiá Nam của Sông Hương. Bộ-phận “Tiếng Nói Quân-Ðội” của tôi lại đặt trụ-sở tại Ðài Huế, trên bờ phiá Nam. Ðể biểu-dương lực-lượng, Quân-Khu phái đến hai chiếc xe-tăng, án-ngữ hai bên sân, trước Ðài Phát-Thanh. Các chương-trình vô-tuyến dân-chính chỉ có nội-dung lập-lờ, thông-tin hàng-hai.

Ở Quảng-Ngãi, cán-bộ Việt Minh gài lại xúi giục dân-chúng phản-kháng lực-lượng tiếp-thu, vì thấy vẫn có Cố-Vấn Pháp trong hàng-ngũ Quốc-Gia; súng nổ, người chết; Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát xen vào.

Ðảng Cần-Lao, qua nhạc-sĩ Ngọc Linh, móc nối tôi.

Tôi không theo đảng-phái nào hết, nhưng quyết-định ủng-hộ Thủ-Tướng Diệm, với chủ-trương “Ðả Thực, Bài Phong, Diệt Cộng”, để được sự giúp-đỡ cuả Hoa-Kỳ. Quốc-gia giàu mạnh nhất thế-giới này đã dìu-dắt Tây-Ðức, nâng-nhấc Nhật-Bản, và cứu-vớt Ðại-Hàn. Trung-Tá Nguyễn Văn Bông, Tư-Lệnh Mặt Trận Nam–Ngãi, đã phát-biểu với Trung-Tá Nguyễn Văn Tố, Phó Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, trong khi Bông lái xe ra đón Tố vào:

– Mình cộng-tác với thằng giàu thì hẳn sướng hơn phục-vụ cho thằng nghèo!

Tôi thảo truyền-đơn, tài-liệu, viết bài tuyên-truyền cho chí-sĩ họ Ngô.

Bộ Tham-Mưu của Xương không tin-tưởng ở tôi. Họ lập hẳn một Ðài Phát-Thanh riêng, trong Thành-Nội― dân-chúng gọi là “Đài bí-mật”để tự mình phổ-biến lập-trường chống-Diệm và hô-hào dân-chúng nổi lên.

Không còn bị Cấp Trên ràng buộc, tôi công-khai dùng “Tiếng Nói Quân Ðội” để hậu-thuẫn cho Diệm và Hoa-Kỳ.

Hồi ấy, chỉ có một số trong giới Nho-học lớn-tuổi nghe danh Ông Ngô-Ðình-Khả, còn đa-số dân-chúng nói chung thì ít ai biết tên Ông Ngô-Ðình-Diệm, ngoại-trừ một nhóm trong giới Kitô-Giáo có đọc tờ báo “Tinh Thần” thời-gian gần đó.

Chương-trình phát-thanh của tôi có ảnh-hưởng rất lớn trong quần-chúng, vì làn sóng của Ðài Huế phát đi rất mạnh và xa, trong lúc “Ðài bí-mật” thì nhỏ và yếu, chỉ lẩn-quẩn vùng gần, lại khi-có khi-không.

Tôi đã lèo-lái để người dân xứ Huế, nghe Đài “của tôi” và trông thấy hai chiếc xe-tăng trấn đóng trước Ðài mà tưởng và tin là phe mạnh nhất trong Quân-Lực đã đứng hẳn qua phía Diệm, nên biệt-phái chiến-xa đến cho tôi để bảo-vệ Tiếng Nói của mình, chống lại phe yếu thế Hinh–Xương.

Toàn-quốc, nhất là Sài-Gòn, hướng về xứ Huế, gốc-gác của họ Ngô, lấy đó làm chỉ-dấu mà lên tinh-thần.

Từ đó, các phần-tử thân-Diệm mới dám đứng ra khỏi vòng giới-hạn của mình mà hoạt-động rộng-rãi trước mắt mọi người.

*

Trong những tháng ngày gay-cấn ấy, cứ mỗi lần từ các cuộc hành-quân hoặc từ các hoạt-vực bên ngoài trở về với phòng-giấy tại Ðài, tôi lại cảm thấy nhẹ-nhõm cả người, khi gặp mặt lại những nữ-nghệ-sĩ trẻ đẹp tươi vui, như bướm, như hoa, tô thắm cuộc đời. Trong vườn thanh+sắc ấy, Vi Khuê của giới thi+văn vẫn gần-gũi với tôi hơn các bạn bên giới cầm+ca. Nhưng “nàng bồ-câu” vẫn vô-tư-lự như mọi ngày, đâu biết đầu-óc tôi đã bỏng-rát những tính-toán mưu-mô, thân-xác tôi đã bầm-dập những gian-nan nguy-khốn, và chỉ trở về văn-phòng để thư-giãn cho những căng-thẳng thần-kinh.

*

Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm thắng phe Hinh+Xương.

Hoa-Kỳ mở Phòng Thông-Tin tại Đại-Khách-Sạn Morin. Giám-Ðốc Thompson A. Grunwald là viên-chức dân-sự Mỹ đầu tiên đặt chân đến Miền Trung. Tôi tổ-chức dạy tiếng Anh trên Ðài, có Tôn Thất Ðát phụ-lực; tham-gia thường xuyên là Thompson, và bất-thường là bất-cứ người ngoại-quốc nào nói tiếng Anh mà tôi gặp được, bắt đầu từ Đại-Tá Richardson, Trưởng Phái-Ðoàn quân-sự Hoa-Kỳ T.R.I.M.

Lớp dạy tiếng Anh của tôi là lớp đầu tiên trong lịch-sử dạy tiếng Anh qua làn sóng truyền-thanh cho thính-giả Việt-Nam.

A picture containing text, indoor, person
Description automatically generated

Nguyễn Cửu Tú (Phó Giám-Đốc Đài), Thompson và Nhuận

Ðại-Tá Nguyễn Quang Hoành lên thay Trương Văn Xương, rồi vì bất-đồng chính-kiến nên lại nhường chỗ cho Thiếu-Tướng Lê Văn Nghiêm.

Ðại-Úy Ngô Văn Hùng thay thế nhạc-sĩ Ngọc Linh, làm Trưởng Phòng 5. Văn Giảng ra đi, tôi cử Lê Trọng Nguyễn lên thay. Nguyễn vừa dịch tài-liệu vừa sáng-tác nhạc; bên cạnh giai-phẩm “Nắng Chiều” là “Hoan-Hô Lê Thiếu-Tướng” theo lệnh của Hùng  (bắt chước “Hoan Hô Ngô Thủ-Tướng”). Ðể giúp Tôn Thất Ðậu chọn nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, tôi liên-lạc với hàng chục Toà Ðại-Sứ ở Sài-Gòn, viết lời mở đầu về nền âm-nhạc của mỗi nước, và đặc-tính của mỗi bản nhạc, để giới-thiệu trước khi trình-bày. Giáo-Sư Lê Hữu Mục có đến chơi đàn; nữ-sĩ Như Thu đến góp bài; thi-sĩ Hồ Ðình Phương đến ngâm thơ. Trình-bày “Mục Thi-Ca” của tôi là Trần Anh Tuấn, Ðinh Lợi, Lan Hương, và Tâm Thanh [Tôn Nữ Kim Ninh].

*

Ở các Tỉnh Cao-Nguyên và miền núi Tỉnh Quảng-Ngãi, phong-trào đòi tự-trị của người Thượng nổi lên. 

Chính-Quyền Diệm gom các phần-tử chủ chốt “Thượng Tự-Trị” về tập-trung ở đầu Cầu Nam-Giao. Một Nha Chiến-Tranh Tâm-Lý được lập nên, đặt trụ-sở ở đầu Cầu Phú-Cam. Đại-Úy Hùng kiêm-nhiệm Nha này. Tôi cũng kiêm thêm một số phần-vụ ở cơ-quan này, nên dời bàn-giấy đến đây.

Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu dời tổng-hành-dinh qua Hữu-Ngạn sông Hương.

Nước Việt-Nam Cộng-Hoà, với sự hậu-thuẫn của Hiệp-Chủng Quốc Hoa-Kỳ,  được Thế-Giới Tự-Do nhìn-nhận.

*

Trong những năm trẻ-trung của Nền Ðệ-Nhất Cộng-Hòa ấy, Liên-Xô, Hoa-Cộng, và Cộng-Sản Bắc-Việt, là những bên chủ-trương chia đôi đất nước Việt-Nam, chưa sẵn-sàng thực-hiện vũ-trang xâm-lược Miền Nam, mà Hoa-Kỳ thì viện-trợ tối-đa cả tinh-thần lẫn vật-chất cho con bài của mình và cái tiền-đồn mới lập này của họ ở Ðông Nam Á, nên tình-hình an-ninh khả-quan, chế-độ bắt đầu vững-vàng.

Thế là nhiều người liền tranh nhau mưu-quyền thủ-lợi riêng. Hầu hết chiến-công giữ nước, cũng như thành-tích dựng nước, được dùng để dâng lên Ngô Tổng-Thống, chỉ là những cử-chỉ qụy-lụy, những lời-lẽ tâng-bốc, những thái-độ tôn-thờ, dành cho toàn-thể gia-đình họ Ngô, được các tay+chân thân-tín của Cụ xét thấy êm tai đẹp mắt nên tường-trình lên mà thôi.

Ông Ngô-Ðình-Khôi, bào-huynh của Diệm, từ-trần đâu cả chục năm trước kia, không ai biết đến; nay dời mộ-phần thì có cả tá cấp-cao chức-lớn gây lộn nhau để giành làm Trưởng Nam danh-dự hầu-cận bên quan-tài; nhiều năm về sau, hễ nhắc đến ông, nhiều kẻ còn khóc-lóc thảm-thương. Ông Ngô-Ðình-Luyện làm đại-sứ tận bên nước Anh, người dân không hề thấy mặt, thế mà khi nhắc đến ổng thì ai nấy đều vẽ-vời ra vô-vàn tài-cao đức-trọng, để ngợi-ca cho vừa lòng thế-gia. Huống chi các “Cố Vấn” hùng-cứ trong nước mà uy-quyền có khi lấn át cả ông anh. Dù không muốn nhập-cuộc, đa-số vẫn phải nhắc đi nhai lại, để được yên thân, những sáo-ngữ đã thành công-thức chót lưỡi đầu môi: “Nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và các bào-huynh, bào-đệ cuả Người!” Thế là lắm kẻ được đặc-cách tiến-chức thăng-quan.

Trung-Tướng Thái Quang Hoàng thay thế Thiếu-Tướng Lê Văn Nghiêm.

Nhà văn Bùi Tuân trở thành Dân-Biểu, không còn viết thuê xã-luận cho Ðài của tôi, mà diện lễ-phục lái xe-hơi di diễu khắp phố-phường. Nhạc-sĩ Ngô Ganh không còn lập-dị, mặc bộ com-lê may bằng dạ chăn đi dưới nắng hè, bên trong là chiếc áo ngủ cổ kiềng mà mỗi lần đi đâu thì chỉ cần gài thêm vào đó một cái cổ áo trắng có đính sẵn ca-vát là khỏi phải tốn thêm nguyên cả chiếc áo sơ-mi; bây giờ ảnh làm Quản-Ðốc Ðài, kiêm Ðại-Diện Nhân-Dân Miền Trung, ngồi chung dãy ghế danh-dự với Ðại-Biểu Chính-Phủ, Tư-Lệnh Quân-Khu, v.v… trong những buổi lễ công-cộng trên khán-đài Phu Văn Lâu.

Trong lúc đó, tôi bị cơ quan An-Ninh Quân-Ðội thẩm-vấn tới, điều-tra lui. Họ vin vào cớ tôi đã là Trưởng Ðài Quân-Ðội từ khi còn Hinh+Xương.

Một hôm, Tổng-Thống Diệm ra Huế và ở lại đêm. Sáng sau, tôi nghe hàng-xóm kháo chuyện với nhau: “May mà bắt được, chứ không thì quân khủng-bố đã ám-hại Tổng Thống đêm qua rồi!” Ðến sở, tôi hỏi Đại-Úy Ngô Văn Hùng thực/hư thế nào; ổng liền gọi điện-thoại cho An-Ninh Quân-Đội, và cơ-quan này đến bắt tôi. Truy-cứu mới biết: chính-quyền sở-tại và thân-tộc có tổ-chức nhiều vòng đai an-ninh xung quanh nhà-thờ Phú Cam, nơi Diệm đến tiếp-xúc với giáo-dân; có một nhân-viên chìm, thuộc vòng-đai trong, vì đến trễ nên bị chận soát ở vòng-đai ngoài; thấy y có vũ-khí giấu trong người, đồng-bào tưởng lầm là Việt Minh. Chỉ có thế thôi, nhưng vì Diệm đã được thần-thánh-hoá, nên câu hỏi của tôi, dù là để phối-kiểm với mục-đích dùng Đài Quân-Đội mà trấn-an dư-luận đồng-bào, cũng đã bị xem là một sự xúc-phạm tày trời.

Ngày xưa, phần lớn văn-nghệ-sĩ đều phục-vụ trong ngành truyền-thông, nên tôi đã từng mong được chuyển nghề qua làm việc trong cơ-quan Thông Tin, để được quần-chúng độc-giả khán+thính-giả trọng-vọng hơn. Bây giờ đã ở trong ngành Tác Ðộng Tinh Thần, dù của Quân Lực nhưng cũng là thông-tin tuyên-truyền, tôi mới thấy mặt trái của tấm huy-chương.

Lần đó, nhà bác-học Bửu Hội, thân-thích của Cựu-Hoàng Bảo Đại, nhân dịp từ Pháp về thăm nhà, đến nói chuyện về y-học với đồng-bào Huế tại Rạp Chiếu Bóng Morin. Một số văn+thi-sĩ tùng-sự tại Nha Thông-Tin Trung-Phần đã nêu lên nhiều câu hỏi về thời-sự, mục-đích là để gài Hội phải phát-ngôn ủng-hộ Diệm, hoặc ngược lại thì có bằng-chứng để dễ ra tay. Mặc dù Hội đã nhấn mạnh rằng ông không về Việt Nam với mục-đích chính-trị, và xin miễn đề-cập đến các vấn-đề ngoài phạm-vi y-học, đồng-thời số đông trong cử-tọa cũng đã huýt gió phản-đối những câu hỏi lạc-đề, nhưng nhà văn Ðỗ Tấn [Đỗ Tấn Xuân] vẫn trơ-tráo đứng dậy đặt thêm cho được vài câu hỏi nữa.

Bác-Sĩ Trần Văn Thọ, Tổng Giám-Ðốc Thông-Tin, mà còn tranh tài với Bác-Sĩ Trần Kim Tuyến (Giám-Ðốc Nha Nghiên-Cứu [tức cơ-quan Tình-Báo] thuộc Phủ Tổng-Thống), thảo nào mà nhà-văn này cũng không chịu lép vế các nhà-văn khác trong thành-tích bao vây những ai bị nghi là, bị cho là có thể đối-kháng chế-độ đương-quyền.

Một số nhà-thơ giành nhau chức-vụ lãnh-đạo ngành Thông-Tin, khởi đầu bằng địa-vị Chủ-Tịch Hội Văn-Nghệ-Sĩ & Ký-Giả Miền Trung.

Nhà-thơ Đỗ Tấn Xuân nhai lại cái bã Tố Hữu tán-tụng Staline, in hẳn cả một tập thơnhan đề “Mùa Hoa Sim Nở”trong đó có câu “Tiếng đầu lòng con gọi: Cụ Ngô!”

Họ sợ vướng tôi nên tìm cách loại tôi, lùng thu thi-tập “Ánh Trời Mai” của tôi, v.v…

Thế nhưng hầu hết các nam+nữ tân+cổ+nhạc thi+ca+kịch-sĩ cộng-tác với tôi thì chỉ thấy tôi là một nhà thơ trẻ trai, hiền-lành, hòa-đồng với họ trong từng bộ-môn, chứ không biết gì về những khó-khăn của tôi.

Họ cũng không quan-tâm gì đến mục-đích chính-trị của Ðài, mà lại đinh-ninh rằng trọng-tâm hoạt-động và lý-do cùng ý-nghĩa của sự hiện-diện của Ðài chỉ là phần diễn-ngâm ca-tấu giải-trí văn-nghệ mà họ cống-hiến cho số thính-giả gần xa ái-mộ họ mà thôi.

Vi Khuê thì trầm-lặng hơn họ và có một thế đứng riêng. Nàng không ca hát nhưng số khán+thính-giả địa-phương hằng ngày háo-hức đến xúm dán mũi vào cửa kính để xem tận mắt các nữ-danh-ca hát thật cũng như dượt bài, đều không bỏ lỡ cơ hội nhìn ngắm cô biên-tập-viên duyên-dáng của Ðài. Các người-đẹp trình-diễn thì chỉ xuất-hiện vào giờ có chương-trình liên-quan, còn Vi Khuê thì có mặt ở đó suốt ngày, để những lúc trở về Ðài tôi nhìn thấy nàng mà dịu-vợi ưu-tư…

*

Thế rồi tôi giã-từ quân-ngũ, rời khỏi Ðài, ra ngoài hoạt-động văn-nghệ nhiều hơn trong một môi-trường rộng-lớn và khoảng-khoát hơn.

Ngoài các nỗ-lực tích-cực trong Quân-Ðội và sau đó là trong ngành Cảnh-Sát Công-An, tôi còn hăng say dùng hoạt-động văn-nghệ riêng tư để góp phần xây-dựng và củng-cố chế-độ Ðệ-Nhất Cộng-Hoà, thí-dụ: viết báo, đi thuyết-trình trong Cảnh-Sát & Công-An và ngoài dân-chúng; sáng-tác và trình-diễn khắp nhiều Tỉnh vở kịch thơ “Gươm Chính-Nghiã” của tôi đề-cao Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, kêu gọi sĩ-phu khắp nơi, đặc-biệt từ Miền Bắc, về với Chính-Nghiã Miền Nam; sáng-tác và xuất-bản tập thơ “Tuần Trăng Mật” vinh-danh tình yêu vợ+chồng, mà nguồn cảm-hứng sáng-tạo thì đi trước và sau đó lại phù-hợp với tinh-thần canh-tân trong Luật Gia-Ðình của Bà Ngô-Ðình Nhu…

Tôi giữ Mục “Vườn Thơ” trên tuần-báo “Rạng Ðông” của Lê Hữu Mục, họp làm đặc-san với Tôn Thất Dương Tiềm, xuất-bản thơ của các bạn gần+xa và của chính mình, kết-thân với các nhóm như Hồ Mộng Thiệp, Thanh Phượng, Anh Ðộ, Tô Như, và Quốc Dân… ở Ðà-Nẵng; đồng nhóm Xây-Dựng là Xuân Huyền, Tường Vi, Huyền Chi, Hoài Minh, Bàng Bá Lân, v.v… ở Sài-Gòn. Trong đó, tôi giữ mục “Hội Thơ” (do Hồ Đình Phương trung-gian) trên tuần-báo Văn-Nghệ Tiền-Phong của Hồ Anh, và có nhạc-sĩ Lê Mộng Bảo giúp phần ấn-loát & phát-hành sách và đặc-san.

Tôi tái-tổ-chức họp bạn hằng tuần; ngày xưa thì có Nhân Hậu, Vĩnh Thao, Hạnh Lang, Trúc Lang, Võ Ngọc Trác, Xuân Dưỡng, Giang Tuyền, Kiêm Minh, Lê Mộng Hoà, Nhân Nam, v.v…; bây giờ thì có Hoàng Hương Trang, Tuyết Lộc, Kim Lan, Nguyên Xuân Tứ, Hữu Ðỗ, Khang Lang, Hoài Tâm, Hương Thu, Xuân Nghị, Thanh Thuyền, Thế Viên, v.v…; có lần có cả Trần Minh Phú từ Hàng Me đến, Diên Nghị từ đơn-vị về, Hồ Ðình Phương từ Long-An ra…

Ðại-Hội Văn-Hoá Toàn-Quốc dưới thời Ðệ-Nhất Cộng-Hoà (khai-mạc ngày 11 tháng 1 năm 1957) đã đem lại cho tôi một phần thưởng tinh-thần: “Xây-Dựng” cuả tôi được nhìn-nhận là một cành của Cây Ða Văn-Hiến Việt-Nam.

Text
Description automatically generated

Trong thời-gian đó, Vi Khuê lên xe hoa. Và đôi uyên-ương đưa nhau lên xây tổ ấm trên đồi núi Ðà-Lạt sương mù, bỏ lại “chuồng bồ câu” trống lạnh như nỗi thiếu vắng trong lòng của những ai ai…

*

Sau khi bản-thân tôi gặp nhiều khó-khăn vì không chịu cải-đạo; sau khi người ta giết chết cả hai vợ+chồng thầu-khoán Nguyễn Văn Yến; sau khi người ta dùng ngay phòng họp là nơi tôi hướng-dẫn học-tập “Ðạo-Ðức của Ngô Tổng-Thống” cho các cấp chỉ-huy Cảnh-Sát Huế trong các buổi “học-tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục” hằng tuần, để làm nơi tra khảo và giết chết thầu-khoán Nguyễn Ðắc Phương rồi ném xác xuống sân tri-hô là Phương nhảy lầu tự tử; sau khi nhận được vô-số bài-vở của anh+chị+em Cảnh-Sát Công-An gửi về tôi để xin đăng lên tờ nội-san “Phục Vụ” do tôi chủ-biên, nội-dung tố-cáo nhiều, quá nhiều, hành-động tham-lam, tàn-bạo, kể cả giết người, dựa quyền cuả ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn; v.v…

Do đó, tôi đã liều-lĩnh đứng lên công-khai nêu ra một số khuyết-điểm của chế-độ họ Ngô, trong một buổi học-tập tại cơ-quan vào ngày Lễ Hai Bà Trưng (3-3-1960).

Biến-cố này đã gây chấn-động cả Miền Trung.

Kết-qủa là tôi bị quản-thúc điều-tra ba tháng, gây tranh-cãi giữa hai ông Cố-Vấn Cẩn và Nhu…

Rồi tôi bị đày lên Cao Nguyên “vùng nước độc và nguy-hiểm” với bụi đỏ mù trời.

Đời sống chính-trị tạo thi-hứng cho tôi sáng-tác và đăng báo rời-rạc các bài thơ mà sau Cách-Mạng 1-11-1963 mới được gom lại ấn-hành thành tập “Với Thượng-Ðế”, tập thơ thứ bảy cuả mình.

*

Qua đến Ðệ-Nhị Cộng-Hoà, tôi cũng lại gặp rắc-rối, vì tôi công-khai phản-đối những sai trái, nhất là chiều-hướng quân-phiệt trong chế-độ Nguyễn Văn Thiệu, bằng một bức thư trần-tình gửi lên Cấp Trên**.

Sau cùng tôi được (hay bị?) đưa về lại Miền Trung để giải-quyết giùm (và tôi đã giải-quyết được) những khó-khăn nội-bộ tại vùng đất này mà trước đó Trung-Ương hầu như bó tay…

Giờ đây, tôi trở về Huế lại.

Ngồi trên ghế đá công-viên trước Ðài Phát-Thanh Huế, tôi nhắm mắt mường-tượng những gì đã xảy ra tại đây vào buổi tối 8-5-1963phản-ứng của giới Phật-Tử bị cấm treo cờ Phật-Giáo vào ngày lễ Phật, Phật-Giáo-Đồ tập-trung, chất nổ, người chết, sức mạnh quần-chúng…

Rồi lịch-sử đã sang trang…

Lắc đầu xua đi những ảnh-hình thế-sự, tôi thả hồn sống lại quãng đời thơ trẻ đã qua.

Những khuôn mặt cuả Huế một thời, mà tôi nhớ thêm: các nhà văn Bửu Kế, Phan Khoang…; các nhà thơ Phan Văn Dật, Nguyễn Anh, Tô Kiều Ngân…; nhà khảo-cứu Bửu Cầm; hoạ-sĩ Phi Hùng; nhà dựng kịch Lê Hữu Khải; các kịch-sĩ Vũ Ðức Duy, Vĩnh Phan, Minh Mão, Hà Nguyên Chi…; các nhạc-sĩ Nguyễn Hữu Ba, Lê Quang Nhạc, Ưng Lang, Hoàng Thi Thơ, Lê Tất Vịnh, Hoàng Nguyên…; các ca-sĩ Minh Trang, Thanh Nhạn, Tôn Thất Niệm, Ngọc Cẩm–Nguyễn Hữu Thiết, Bạch Yến, Thiện Nhân, Hương Việt, Diệu Hương…

Tôi không gặp lại Phương Như, Bằng Trình của Huế, Anh-Ðộ [Ðỗ Cẩm Khê] của Ðà-Nẵng, và mất liên-lạc với Huyền-Chi từ sau khi nàng lấy chồng. Trước đó, bóng người áo trắng Kiều-Ngọc đã vuột khỏi tầm tay tôi.

Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ buổi hoàng-hôn ấy tôi lái xe Lambretta-2-bánh chở Trần Dạ Từ từ khách-sạn Khê-Ký lên Bến-Ngự để anh gặp Nhã Ca; và buổi sáng chủ-nhật kia Hy Văn Mộng đến nhà tôi chơi bị cháu nhỏ tè ướt cả quần khi anh bế nó lên hôn.

Có những bạn thân không còn, hoặc còn nhưng phai thân…

Nhưng Vi-Khuê thì vẫn còn là một người bạn thân. Cuả vợ+chồng chúng tôi.

Trong cuốn lưu-bút “Kỷ-Niệm Vàng” mà tôi giữ kỹ, bây giờ vẫn còn tờ giấy bạc “anh gánh dưa” một đồng mới toanh mà Vi-Khuê đã ký tặng mừng tuổi tôi vào dịp Tết năm nào.

Hình-ảnh ấy càng đậm nét khi nàng đưa Vân-Anh, cả hai phất-phơ tà áo màu qua cánh đồng An-Cựu vàng rực mùa lúa gie, đến thăm tôi vào thuở ban đầu, để rồi sau đó thì nàng làm chứng-nhân cho cuộc lễ thành-hôn của tôi với người bạn thân ấy của nàng.

*

Giờ đây Thành-Phố Huế đã bị giáng bậc xuống làm Thị-Xã, tước mấtngoại-trừ về phần văn-hóa và lịch-sử cái địa-vị thủ-phủ của Miền Trung; hoa-khôi Ðồng Khánh ngày càng hiếm-hoi; Ðài Huế xuống cấp làm Ðài Tỉnh nhỏ; các xướng-ngôn-viên và ca-sĩ chỉ gợi tiếc những giọng oanh vàng và hương sắc ngày xưa…

Ðệ-Nhất Cộng-Hoà thế kia, Ðệ-Nhị Cộng-Hoà thế này. Mỗi chế-độ có những vấn-đề khác nhau, nhưng đều giống nhau ở vận nước chông-chênh.

Liệu những biến-thiên của cuộc đời sẽ còn đem lại những đổi thay nào khác nữa cho Đồng-Bào, cho Quê-Hương?

Huế vẫn còn đây, Ðài Huế vẫn còn đây, và tôi trở về ngồi đây.

Nhưng tôi không còn tìm thấy lại được, sau mỗi chặng đườngcũng vẫn gian-nan một mình chống-chọi với ma-quỷ còn sót lại trong thời buổi mớisự thanh-thản, dù trong chốc-lát, cho tâm-hồn mình, như những ngày nào xa xôi…

LÊ XUÂN NHUẬN  




TẾT ĐI THĂM CÁC CHÙA – Kiều Mỹ Duyên




Nhớ Về Một Nhơn Sĩ Miền Nam – Cố Tổng Thống Trần Văn Hương – MAI THANH TRUYẾT

Cố Tổng Thống Trần Văn Hương




KHÉP MỘT CỬA SỔ – Nữ Sĩ Thụy An & Nữ Sĩ Mộng Tuyết – Cao Mỵ Nhân

Nữ Sĩ Thụy An

Buổi trưa hôm đó, khoảng mấy năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước, nữ sĩ Mộng Tuyết nhắn tôi đến biệt thự Úc Viên tọa lạc cuối đường Nguyễn Minh Chiếu để ăn cơm với bà, nhân dịp có bà nữ sĩ tiền chiến ở ngoài Bắc mới vô.

Nữ sĩ tiền chiến quen biết nữ sĩ Mộng Tuyết thì nhiều lắm: Ngân Giang, Mai Đình, Anh Thơ, v.v…

Không chỉ nữ sĩ, các ông văn thi sĩ tiền chiến quen biết với ông bà từ trước 1954, đều liên tiếp từ ngoài Bắc vô thăm miền Nam cho tận mắt thấy sự văn minh, lớn mạnh ở phần đất Mỹ – Diệm, rồi Mỹ – Thiệu, tức VNCH này.

Tôi từ nhà ở khu nhà thờ Ba Chuông đi lên ngã tư đường Nguyễn Minh Chiếu và Phạm Văn Hai trước 12 giờ trưa để dự bữa trưa có việc đón bà nữ sĩ nào đó mà đại tỷ Mộng Tuyết dặn đừng trễ hẹn vì rất bổ ích cho tôi, nếu như muốn có dịp tổng hợp quý vị nữ sĩ tên tuổi đã hiện diện trong văn học sử Việt Nam. Tới Úc Viên, nữ sĩ Mộng Tuyết cười thú vị:

Biết ngay mà, cô em Bắc Kỳ thế nào cũng dzọt đến liền hà, đâu thử đoán coi ai sắp tới?

Tôi ngẫm nghĩ:

Các bà Anh Thơ, Mai Đình trong đội ngũ văn nghệ miền Bắc đã từng đến Úc viên nhiều lần. Nữ sĩ Ngân Giang không trong bộ máy bạo quyền, chuyên sáng tác thơ cổ điển, mình cũng gặp hai lần rồi. Hai bà Hằng Phương, Vân Đài chỉ gặp tên tuổi trên hình ảnh chứ cũng chưa hề đọc tác phẩm. Bà Mộng Sơn, Thuỵ An đã ở Hà Nội trước 1954, gọi là quý vị không di cư thủa ấy. Vậy là ai chứ.

Tôi bèn lắc đầu: Chịu, em chả biết, vì quý bà ấy thuộc hàng cô, dì với em, ai vậy đại tỷ?

Nữ sĩ Mộng Tuyết – Thất Tiểu Muội, một chỗ ngồi riêng trong các chiếu thơ Việt Nam từ thủa cuối thập niên 30 tới buổi đó năm 1983, là phu nhân thi sĩ giáo sư Hán học đại học Văn khoa Sài Gòn. Nhị vị Đông Hồ –Mộng Tuyết có cả một sự nghiệp văn chương ở Chiêu Anh Các, Hà Tiên, vân vân và vân vân.

Nữ sĩ Mộng Tuyết nghiêm mặt nhưng vẫn vui vẻ:

Phải biết chuyện này nghe cô em. Nữ sĩ Thuỵ An cũng bị trong vụ án Nhân Văn giai phẩm Hà Nội là người phụ nữ có lẽ duy nhất tự tay móc một con mắt, hỏi trên thế giới đã có ai vậy chưa?

Tôi nghe ù cả tai, sự thực mà nói ở cả hai chế độ Nam, Bắc Việt Nam, có lẽ chưa có phụ nữ thứ hai nào uất khí đến nỗi móc mắt mình ra để gọi là phản đối bạo quyền Cộng sản độc tài, tàn bạo.

Đúng lúc chuông reo, ngoài cổng đã có khách tới, nữ sĩ Mộng Tuyết ngó tôi cười: Nào, chúng ta ra đón nữ sĩ Thuỵ An.

Đi dọc theo hành lang, tôi thốt một câu vườn trưa nắng chiếu nhiều ghê lắm… Nữ sĩ Mộng Tuyết cười giòn giã:

Đúng là Cao Mỵ Nhân còn trẻ, hăm hở quá chớ: Đã nhiều còn lắm, nên ghê thật, chớ giỡn đâu.

Tôi đã kéo một bên cánh cửa, cửa Úc Viên rộng có thể chạy xe hơi ra vô được.

Nhân dáng một bậc nữ lưu trạc gần bảy chục tuổi thôi, được nữ sĩ Mộng Tuyết giới thiệu là nữ sĩ Thuỵ An, tên thật là Lưu Thị Yến (1916 – 1989), một nữ tù chính trị. Cộng sản Việt Nam đã kết án bà, bà đã tự chọc mù một mắt để phản đối chế độ vô nhân đạo đó.

Viết về nữ sĩ Thuỵ An thì… dài lắm, vì bà là một người phụ nữ hội đủ mọi lãnh vực văn học, xã hội, chính trị, kể cả mặt tình cảm riêng tư, nhưng tôi chỉ kể giai đoạn sau cuộc đổi đời khốn nạn 30 – 4 – 1975.

Nữ sĩ Thuỵ An mặc áo dài lụa tơ nội hoá, quần satin đen, mang đôi dép thấp, bới tóc gọn lên cao, nên chẳng khó khăn gì khi thấy trên dung nhan bà chỉ còn một con mắt thực sự, vì con mắt bà tự chọc thủng cho mù đã chỉ còn lớp da nhíu lại, trõm sâu.

Tuy nhiên, tôi cũng xin ghi nhận những dấu hiệu tàn tích của cái gọi là Cộng sản Việt Nam. Chúng đã bắt bà năm 1958, kêu án 1960, tới năm 1973 mới thả ra.

Nữ sĩ Thuỵ An vô Nam, thuê một căn nhà nhỏ ở trong hẻm ngay sau lưng biệt thự Úc Viên nên tôi có dịp ghé thăm bà đưa thư hay chuyển lời nhắn của nữ sĩ Mộng Tuyết thời gian sau buổi hạnh ngộ ấy.

Chúng tôi ăn bữa trưa trong nghẹn ngào nước mắt. Nữ sĩ Mộng Tuyết cứ ngừng lại như chính bà đang khổ tâm lắm. Tôi thì vừa xong chuyện tù cải tạo. Đặc biệt là nữ sĩ Thuỵ An không hề tỏ ra xúc động khi ôn lại cái quá trình mà bà bị khổ nhục trong suốt thời gian bà ở lại miền Bắc sau 20 – 7 – 1954.

Kể lại rồi bà lắc đầu, khinh thường bọn chính quyền ấu trĩ Hà Nội, thỉnh thoảng còn bật cười, thật là can đảm và nghị lực.

Bà không hỏi tôi đi tù ra sao, khi chính bà hiểu rằng tôi vẫn có vẻ tươi tắn, hồn nhiên, xem ra tôi mới ở dưới chế độ bà gọi là khốn nạn có 8 năm, bà phải ở tới 21 năm, mà hết 15 năm trong tù, dù bà đã tự hủy hoại một con mắt.

Hình ảnh nữ sĩ Thuỵ An thủa tôi được diện kiến bà lần đầu tiên ở Úc Viên tới sau này khi tôi được gặp nhà thơ ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện trong cuộc biểu tình thu nhỏ đi quanh Westminster Civic Center đầu năm 1996 thấy hao hao giống nhau.

Vì hình ảnh như đang ở cõi chết, sự khô héo, cằn cỗi và rất hận thù của những người bị tước bỏ hết cả nhân cách cuối cùng khiến không còn khả dĩ một đức tin tối thiểu ở đời nữa.

Chúng tôi lặng yên để nữ sĩ Thuỵ An có dịp trút hết nỗi bi thương, thù hận Cộng sản Việt Nam hay bọn cầm quyền ở Hà Nội ra…

Bà vẫn giữ tư thế lịch thiệp của người làm chính trị ngoại giao, còn là vị chủ báo tên tuổi tiền chiến với những sự kiện đáng nể như chủ nhiệm báo Đàn bà mới (Sài Gòn), Phụ nữ tân văn (Sài Gòn), Đàn bà (Hà Nội), từng làm giám đốc Việt tấn xã và phóng viên chiến trường, đủ biết có bao nhiêu… kẻ thù, cả trong và ngoài nghề nghiệp.

Nghe nữ sĩ Mộng Tuyết giới thiệu tôi ở trong quân đội VNCH, hay làm thơ, v.v. bà cười rất bao dung: Vậy em có biết gì về chị không?

Lại một câu hỏi như hôm trước nữ sĩ Ngân Giang cũng hỏi tôi vậy. Vì quý vị nghĩ là tôi ở thế hệ sau quý bà mấy chục năm. Tôi gật đầu, kể lại giai đoạn gia đình ba tôi còn chưa di cư vô Nam:

Thưa chị, khoảng thời gian 1954, các nhật báo Tia sáng, Giang sơn, Liên hiệp ở ngoài Bắc có đăng một tin thật lớn, chiếm luôn nửa trang nhất tờ báo luôn, có lẽ chỉ sau tin Điện Biên Phủ thất thủ, tin: Ai giết Đỗ Đình Đạo, Thuỵ An Hoàng Dân? Tin đó cho rằng chị là người liên hệ tới nội vụ, thậm chí có cả hình chị luôn.

Chị cười hiu hắt: Chứ ngoài ra em không tìm hiểu văn thơ chị à?

Tôi nhìn chị thật lâu, có lẽ nào mọi chuyện đơn giản thế, tôi trả lời vui vẻ: Có thưa chị, em đọc qua cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, chị làm thơ và viết tiểu thuyết.

Có lẽ nữ sĩ Mộng Tuyết không thắc mắc lắm, vì trang lứa nữ sĩ Thuỵ An, nhưng tôi hơi tò mò:

Chắc chị bận rộn nhiều thứ việc quá nên đôi khi chưa có dịp nói ra những sự kiện chị đã và đang làm.

Nữ sĩ Thuỵ An gật đầu, vẻ xa vắng: Ồ, đã qua rồi. Cũng không quan trọng lắm. Thôi ăn đi chứ. Sao bà, nữ sĩ Mộng Tuyết, đãi tiệc mà cứ ngồi ngắm thôi à.

Người Bắc xưa cứ đi ăn cơm khách gọi là tiệc cho quan trọng, và ngắm là cứ nhìn hoài.

Sau đó thì chia tay, nữ sĩ Mộng Tuyết hơn nữ sĩ Thuỵ An độ vài tuổi, đã có sẵn quà tặng nữ sĩ Thuỵ An, nhưng quý vị niên trưởng lại từng khách khứa thời… phong lưu xưa nên nói tôi mang quà ấy và đưa nữ sĩ Thuỵ An về vì nhà nữ sĩ Thuỵ An đang ở rất gần nhà nữ sĩ Mộng Tuyết, như tôi trình bày trên.

Chuyện qua đi theo năm tháng…

Có đôi khi sự việc thật quan trọng đối với một nhân vật này nhưng lại không khiến thiên hạ lưu tâm nếu không phải bà con, họ hàng, tri âm, tri kỷ, v.v..

Còn đôi với tha nhân thì thật là khó nói, phải có một tình thương yêu ghê gớm, hay một tấm lòng tha thiết với xã hội cuộc đời, e mới thông cảm và thương cảm chân thành được.

Sau này qua Mỹ rồi, nhà văn Duy Lam gốc đảng phái… chuyên nghiệp mới vô tình nói về nữ sĩ Thuỵ An nhưng cũng trong giới hạn.

Tôi thầm tiếc là đã có dịp gặp gỡ nữ sĩ Thuỵ An mà không chịu thân hơn, để có dịp biết hơn về con người dũng cảm của bà, đồng thời bày tỏ nỗi bức bách tai nạn mà bà đã phải hy sinh một cửa sổ của tâm hồn như thế…

CAO MỴ NHÂN




KIỀU MỸ DUYÊN – Những Vũ Điệu TUYỆT VỜI CỦA ĐẠI HỘI SHEN YUN




Mùa Thu Thăm Trường Đại Học – Lễ Tạ Ơn – NGỌC HẠNH




Thăm Charleston-South Carolina – NGỌC HẠNH

Thăm Charleston-South Carolina

Ngọc Hạnh

Gia đình Vân ở Myrtle Beach được 4 hôm. Trưa hôm sau con Vân trả phòng lên đường đi Charleston, South Carolina, cách Myrtle Beach khoảng hơn 2 tiếng lái xe. Buổi sáng các con rủ nhau đi tắm biển. Cũng may biển lặng không có sóng. Nếu sóng to họ cắm cây cờ đỏ và không ai dám xuống biển. Trước khi ra biển các cháu ghé phòng ăn lấy túi đựng thức ăn điểm tâm với hàng chữ “chúc một ngày vui ”trong có sữa, trái cây, sandwich, bánh ngọt… dành cho những người muốn dùng điểm tâm ngoài bãi biển hoặc đi du ngoạn sớm. Ai muốn lấy thêm món ăn gì trong quầy tùy ý: bánh croissant,muffin, táo, cam, qúit, chuối, trứng,thịt nguội, sữa chua ….

Từ Myrtle Beach đi Charleston thấy nhà lớn nhỏ hay hàng quán dọc 2 bên đường. Cũng có ruộng trồng toàn hoa hướng dương mênh mông và cây xanh xanh nhưng không phải đậu hay thuốc lá. Không thấy cây bông vải. Các con Vân cho biết bông trồng nhiều ở Georgia. Dọc đường và trước nhà hoặc nơi sân thương xá, siêu thị có nhiều cây lạ, Vân mới thấy lần đầu tên gọi Spanish Moss, bám vào các nhánh cây sồi to thòng xuống đất giống như rễ cây si, màu trắng ngà, nhiều lắm, dài khoảng ½ mét đến 1 mét hay hơn. Tuy tên gọi Spanish Moss nhưng không phải xuất xứ từ nước Tây Ban Nha. Các cháu cho biết South America và Texas cũng có loại cây này. Chim lấy Spanish Moss làm tổ. Người ta còn gọi là”tree hair”hay cây”long beards”…

ĐẠI CƯƠNG:

Charleston South Carolina có khoảng 139.000 dân (2020) cửa vào Đại tây dương, có cảng Charleston, sông Cooper, Ashley và Wando, thành lập năm 1670, thành phố lớn của Nam Carolina. Mùa Hè Charleston nhiều mưa, mùa Đông ít khi có tuyết. Charleston là thành phố quan trọng trong nông nghiệp và mua bán nô lệ vào thế kỷ thứ 18. Hầu hết nô lê châu Phi đưa qua Mỹ ghé cảng Charleston, cảng lớn thứ tư Hoa kỳ, sau Boston, New York, Philadelphia và từ đó đưa đi các tiểu bang khác. Trong số người da đen đưa vào Hoa kỳ có cả phụ nữ và trẻ em.

Hàng trăm ngàn người Phi Châu đưa qua Mỹ làm công nhân, người hầu, phu đồn điền, khuân vác …Thời kỳ ấy người Phi Châu thường làm những việc nặng nhọc. Charleston có nhiều đồn điền. Các chủ đồn điền miền Nam Hoa Kỳ thường là chủ nô, có nô lệ nhiều ít tùy theo nhu cầu công việc như trồng và hái thuốc lá, bông vải,trồng mía, nuôi gia súc,các việc nặng khác…Năm 1750 Charleston có chợ bán đấu giá nô lệ công khai.Sau nội chiến Nam Bắc(Civil War 1861-1865) chế độ nô lệ hủy bỏ, người da đen được đi bầu, vào nhà hàng,học trường học như người da trắng… Các đồn điền thiệt hại nặng vì thiếu nhân công giá rẻ.Các tiểu bang miền Nam Hoa kỳ lúc ấy chưa dùng các dụng cụ hiện đại trong nông nghiệp như cày, ủi đất, gieo hạt, thu hoạch hoa màu bằng máy. Năm 2018, thành phố chính thức xin lỗi việc buôn bán nô lệ thời xa xưa.

DU NGOẠN:

Các con Vân đưa cả nhà thăm vài nơi trong thành phố sau khi nhận phòng khách sạn và nghỉ ngơi chốc lát. Theo tài liệu khách sạn, Charleston có nhiều di tích lịch sử và thắng cảnh.Khoảng xế chiều con rể cho xe chạy một vòng thành phố,những nơi gần gần khách sạn, qua nhiều kiến trúc khang trang ở French Quarter, Church St,Charmers St…, thấy khu “Rainbow Row”, những phố lầu cao 3, 4 tầng, sơn nhiều màu khác nhau, hồng, vàng, cam, xanh, tím, đỏ…vui mắt nằm phía đối diện bờ sông. Nơi vỉa hè trước khu phố có hàng cây palmetto thân suông đuột, cao,thẳng đứng, lá xanh to đang có trái. Có những đường nằm ngang đường bờ sông, nhỏ, xe chạy chỉ được 2 chiều xuôi ngược. Các nhà ở những đường này kiến trúc xưa nhưng đẹp, hoa cỏ cắt tỉa cẩn thận. Nếu là nhà lầu các cửa sổ có trồng hoa xinh xắn như phần lớn khu gia cư Âu Châu.

Đường bờ sông xe qua lại nhiều và du khách đi trên vỉa hè cũng đông, chẳng thấy ai mang khẩu trang.Xe tìm chỗ đậu và cả nhà đi bộ đến bồn phun nước ở giữa có hình trái thơm ( pineapple fountain) xinh xắn gần cầu tàu Charleston. Cầu rộng, dài, có lan can từ đường xe chạy ra tận ngoài sông khá xa, có nóc che và nhiều băng màu đen cho khách ngồi nghỉ chân,giải khát, nhìn chim biển, nước xanh, thưởng thức gió mát. Sở quan thuế(United States Custom House) bên kia đường gần cầu tàu, đẹp,hơn 100 tuổi nhưng còn tốt, chắc chắn ( xây 1879) nhưng khi về khách sạn xem tài liệu trên mạng lưới mới biết kiến trúc này được tu bổ năm 1968, tốn 212.000 mỹ kim.

Bồn nước Pineapple như công viên hình tròn, chung quanh có cỏ hoa xinh đẹp,lối đi lát gạch sạch sẽ. Nước phun ra liên tục từ trái dứa giữa bồn nước. Thiên hạ chụp ảnh kỹ niệm nơi đây, trẻ con người lớn khá đông, có lẽ du khách ở xa đều đến đây xem cho biết. Từ đó cả nhà vào” Công Viên Bờ Sông “(Waterfront Park) nằm dọc theo bờ sông Cooper, dài khoảng 1,5 dặm, chiều ngang cũng rộng hơn 2 mẫu tây. Bờ sông nơi công viên có hàng cây palmetto cao nghệu, thẳng đứng, đường đi sạch sẽ, đèn đường mỹ thuật và nhiều băng sơn đen dọc theo con đường. Gió sông nhè nhẹ thổi lên mát mẻ, dễ chịu. Bên trong công viên nhiều cây to trồng theo kiểu cách chuyên môn có hàng lối ngay ngắn.Các đường đi trong công viên rộng rãi, lát gạch, có bồn nước phun nước trắng xóa trong vườn cây. Rất nhiều băng sơn đen đặt rải rác dọc theo lối đi trong công viên.

Xe chay ngang qua chợ bán nô lệ ngày xưa, viện bảo tàng”Old Slave Mart Museum”, City Market…Harbourview Inn nằm gần Công Viên Bờ Sông. Cả nhà đi bộ về chỗ đậu xe. Vân không nhớ đậu xe miễn phí hay phải trả tiền nhưng vào công viên tự do. Cả nhà dùng cơm chiều ngoài phố trước khi trở về khách sạn. Tòa nhà chẳng biết xây cất năm nào trang trí theo lối cổ xưa, bàn ghế nơi phòng ăn và phòng ngủ, màn cửa, bàn viết như kiểu cách đây cả thế kỷ nhưng đẹp…

WHITE POINT GARDENS

Hôm sau các con đưa Vân đến viếng White Point Gardens ở Đại lộ Murray và King ST nơi các con Vân khuyến khích đi xem cho biết. Công viên rộng hơn 2 mẫu,có một mặt quay ra bờ sông,mở cửa công chúng viếng thăm từ đầu thế kỷ 19. Đến nơi tuy còn sớm nhưng đã đông du khách, nơi đậu xe gần hết chỗ. Chẳng thấy du khách mang khẩu trang. Trong vườn toàn là cổ thụ hơn 100 tuổi, cành lá xum xuê, gốc cây to lắm do những người chuyên nghiệp trồng, thẳng hàng theo khoảng cách nhất định rất đẹp mắt. Trong vườn sạch sẽ, nhiều bóng mát, chẳng thấy lá vàng, lá khô hay cành cây nhỏ rơi trên thảm cỏ xanh. Có lẻ công nhân quét lá từ sáng sớm. Vân nói như thế vì sân cỏ nhà Vân sáng nào cũng có lá rơi từ cây cổ thụ hàng xóm bay sang dù trời không gió không mưa. Hai kiến trúc nhỏ hình bát giác (Gazebo) sơn trắng xinh xắn với những bụi hoa mùa hè đang ra hoa rực rỡ chung quanh, tăng thêm vẻ đẹp trong công viên nhiều cây xanh bóng mát. Nơi đây thường có các buổi trình diễn âm nhạc,đám cưới, cô dâu chú rể và gia đình thân hữu hoặc du khách đến chụp hình kỷ niệm theo tài liệu mạng lưới.

Trước công viên phía bờ sông thật lý tưởng cho người đi dạo lúc bình minh hay chiều tà. Vỉa hè hai bên con đường này rộng rãi, phía bờ sông có lan can. Đường xe chạy cũng rộng. Xe đậu dọc con theo đường gần công viên. Rất nhiều tượng danh nhân hay chiến sĩ, to bằng hay hơn người thật, đặt trên các bục đá cao khỏi đầu người trước công viên sát vỉa hè.Có tượng mặc quân phục, có tượng mặc thường phục. Có nơi trên bục đá chỉ một tượng, có bục đá 2 tượng đứng chung và còn có một tượng bán thân. Dĩ nhiên nơi bục đá có tên tuổi, tiểu sử bức tượng nhưng Vân không nhớ để ghi lại. Ngoài ra còn nhiều cổ đại bác đặt trên cổ xe hay giá súng thật to, miệng súng đen ngòm hướng về con sông rộng. Một số đạn đại bác to như quả dưa hấu nhỏ xếp thành hình tháp gần những súng đại bác.Được biết đó là những canon dùng trong chiến tranh Nam-Bắc(Civil War)vào năm 1861-1865. Tưởng tượng khi những quả đại bác đó chạm vào tường thành hay chiến hạm sức công phá sẽ vô cùng mãnh liệt. Vân bùi ngùi nghĩ đến các chiến tranh từ ngày xưa và nay.

Ngày xưa cách đây hơn 200 năm nội chiến Hoa Kỳ, chiến tranh Nam- Bắc làm thiệt mạng khoảng 750.000 chiến binh hai bên. Quê hương Vân chiến tranh Việt Nam cũng làm cả triệu quân nhân chết trong các trận chiến không kể thường dân vô tội. Tội nghiệp hơn là có 58.000 người đồng minh Hoa kỳ chết và mất tích ở Việt Nam,một quốc gia xa xôi, không người thân, họ hàng cha mẹ vợ con bên cạnh. Chiến tranh để lại các cô nhi quả phụ, vợ trẻ khóc chồng, con thiếu cha,tang tóc nhớ thương, đau buồn khôn nguôi cho gia đình, cha già mẹ yếu. Ngoài ra còn những người bị thương tật vì súng đạn và các thiệt hại khác về tài sản,kinh tế, thương mại, giáo dục…Trẻ em không dám đến trường trong vùng khói lửa. Các công trình kiến trúc xinh đẹp, nhà cửa dân chúng bị hư hại, ruộng vườn, đồn điền hoang phế,buôn bán đình trệ, kinh tế suy thoái…

Vì chiến tranh đồng bào Việt Nam và gia đình Vân rời bỏ quê hương cách xa nửa vòng trái đất đến cư ngụ xứ Cờ Hoa, may mà được an toàn và đón nhận, cho học chữ học nghề. Vân nói may vì có người làm mồi cho cá biển hay chết vì hải tặc trên đường tìm tự do.

Xin lỗi quý độc giả, Vân đã lạc đề nhưng các khẩu đại bác làm Vân xót xa nghĩ đến những chết chóc tang thương do chiến tranh gây ra. Vân chợt nhớ bài thơ” Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng” của nhà thơ Lê Thị Ý buồn quá chẳng muốn tiếp tục xem các thắng cảnh dù gió mát trời trong, cây xanh nước biếc, chim hót trên cành, có hoa có bướm, cảnh trí êm đềm thơ mộng trừ…mấy khẩu ca- nông. Vân đến Charleston như người cưỡi ngựa xem hoa, ghi đại cương những điều nghe thấy và thêm ít tài liệu mạng lưới để quý vị chưa thăm Charleston có chút khái niệm về thành phố trù phú, có nhiều di tích lịch sử,thắng cảnh như: đồn điền và vườn Magnolia, viện Bảo tàng Charleston, Angel Oak, hồ nuôi cá Charleston …Dĩ nhiên còn thiếu sót và rất cám ơn nếu được người địa phương bổ túc cho.

Vân cầu mong Viêt Nam và các quốc gia trên thế giới được hòa bình, không chiến tranh, hết dịch cúm Covid, kinh tế phục hồi, mọi người an cư lạc nghiệp, trẻ em đến trường, dân chúng sống bình an, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau…

Ngọc Hạnh




TÔI GIỮA TRỜI BƠ VƠ – KỂ CHUYỆN TRUNG TÁ LÊ NGỌC TÔ: Giao Chỉ San Jose

Tôi giữa trời bơ vơ.

Giao Chỉ San Jose kể chuyện tiễn đưa trung tá Lê Ngọc Tô.IMG_3584.jpg

Tháng 3 năm 1954 tổng cộng 300 anh em chúng tôi xếp hàng ở trại Ngọc Hà, Hanoi. Đây là đám thanh niên Bắc Kỳ bị động viên được gọi đi Thủ Đức. Quân đội quốc gia mới thành lập sẽ huấn luyện cấp tốc các thiếu úy tưởng chừng sẽ đi cứu Điện Biên Phủ đang bị bao vây.Trong số hiện diện có một vài anh quê Nam Định. Vũ Văn Lộc, Trần Quốc Lịch, Nguyễn Thế Thứ, và Lê Ngọc Tô…

Phần lớn còn trẻ chưa có nửa mối tình đầu. Chúng tôi chia tay Hà Nội trong bài ca bất hủ. Tôi xa Hà Nội năm lên 18 chưa từng biết yêu. Sau khi cùng xây dựng 2 nền cộng hòa miền Nam, hai mươi mốt năm sau nước mất tan hàng tháng tư 1975. Bao nhiêu mộng đẹp tan ra thành khói bay bốn phương trời. Từ ngày đó đến nay tôi đã tiễn đưa bao nhiêu bạn cùng khóa lên đường về miền vĩnh cửu. Năm 72 trung tá Nghiêm Kế bị bắt tù binh trận Tân Cảnh. Năm 73 trung đoàn trưởng Nguyễn Thế Nhã đón Nghiêm Kế trở về trên sông Thạch Hãn. Nhã nói rằng Kế ơi là Kế, sao mày khốn khổ thế này. Hai tháng sau trung tá Nhã gốc mũ đỏ về sư đoàn 1 bị pháo kích. Chúng tôi làm đám ma cho đại tá truy thăng với vòng hoa cườm Thương tiếc Nguyễn Thế Nhã anh hùng. Nghiêm Kế khóc rằng. Nhã ơi Nhã. Sao số mày khốn nạn thế này. Sau cùng Nghiêm Kế vẫn còn sống ở San Jose cho đến năm 2020. Hai năm qua, với công việc hội trưởng của khóa Cương Quyết Đà Lạt 1954, tôi trở thành người chuyên lo Chung sự cho anh em. Tôi thừa biết rồi sẽ có một ngày anh em chẳng còn ai. Đưa người ta, không đưa qua sông.Cũng chẳng còn sóng ở trong lòng… Nào ngờ ngày sau cùng đó chính là hôm qua. Ngày thứ bẩy đầu tiên của tháng 9 năm 2021. Cả khóa trong tang lễ chỉ còn lại có 2 thằng cùng quê Nam Định. Một thằng nằm. Một thằng đứng. Trung tá Lê Ngọc Tô sinh năm 1934 đội mũ đỏ nằm trong quan tài. Tuy đã già những nét mặt bình yên. Con người của chiến tranh, của tù đầy, của cô đơn. Nhân hậu và dễ thương với chiến hữu và đơn vị nhưng xa cách và gia trưởng với vợ con. Phần tôi vẫn là thằng đứng đó giữa tang gia và bạn bè của gia đình. Rất đông các thanh niên nam nữ bạn bè của con cháu người ra đi. Tất cả mặc quần áo đen lịch sự và giữ yên lặng. Hầu hết đều không biết người chết là ai. Ông già này từ đâu đến và hơn 80 năm qua ông đã làm công việc gì. Tang gia có 3 cô con gái nhưng không giới thiệu ai là vợ. Dù không biết nhưng cũng không ai thắc mắc. Các cô thương yêu biết rõ về thân phụ nhưng không cháu nào biết rõ về ông trung tá nhảy dù. Lại càng không biết về ông chỉ huy đơn vị cảnh sát dã chiến.  Mười hai chiến binh nhảy dù xếp hàng nghiêm chỉnh làm lễ phủ cờ cho người anh hùng mũ đỏ nhưng không ai biết về những thành tích của ông thời đệ nhất cộng hòa. Đại diện hội cảnh sát và hội Võ bị lên chia buồn cùng tang quyến nhưng cũng không có dịp biết về công việc của vị trung tá cảnh sát thời đệ nhị cộng hòa.IMG_3582.jpg

IMG_3637.jpg

IMG_3589.jpg

Tôi sinh năm 1933 hơn bạn Tô một tuổi cùng quê Nam Định vì duyên nợ quân trường nên biết nhau qua 21 năm binh nghiệp. Nhưng quả thực không biết rõ về gia cảnh, về chuyện ngục tù, chuyện HO và đời sống nơi đất khách quê người. Gặp nhau 1 lần họp khóa ở Việt Nam rồi lại gặp nhau khi bạn HO mới qua Mỹ. Đã gần 30 năm qua Lê Ngọc Tô mới trở lại San Jose, tôi nhớ thủa từ Nam Định lên trại Ngọc Hà Hà Nội. Mười năm sau họp khóa ở Việt Nam rồi lại gặp nhau khi bạn HO mới qua Mỹ. Đã gần 30 năm qua Lê Ngọc Tô mới trở lại San Jose. Ngày xưa tuổi trẻ rực rỡ như sao mai, bây giờ một thằng nằm và một thằng đứng. Tôi với trời bơ vơ biết nói gì với người yêu cũ của bạn và đám con cùng với tuổi trẻ m ặc áo đen đưa đám người anh hùng của cuộc chiến tranh Việt Nam. Khóa chúng tôi ở miền Bắc này có 10 bà quả phụ và 8 vị anh hùng. Chỉ duy có con gái Đinh Trọng Ất chở mẹ ghé qua. Tất cả quý ông bà còn lại đều không đi được hoặc con cái không có ngày giờ thuận tiện. Hội trưởng về chiều tuyên bố các bạn cứ kêu Taxi hay Hu Bơ hội ta sẽ trả tiền. Các bạn tôi cho biết chưa từng gọi Hu Bơ và dù có kêu cũng rất cần có y tá hộ tống. Vì những lý do rất dễ thương như vậy nên tôi không bàn nữa mà xin kể qua câu chuyện riêng về bạn Lê Tô như sau.  

Năm 1954 khi ra trường Tô về nhẩy dù và trải qua các đơn vị tác chiến cho đến khi lên đại úy và làm tiểu đoàn phó. Sau thời gian dài làm sĩ quan mũ đỏ, đẹp trai hào hoa phong nhã anh lập gia đình với giai nhân Cẩm Dung qua mối tình Chú Cháu như tiểu thuyết của Chu Tử. Cô vợ trẻ hơn chồng trên 10 tuổi đã sinh hạ cho chàng một trai và 3 gái.Trong 21 năm chiến tranh anh sinh viên sỹ quan của khoá Cương Quyết Đà Lạt đã 4 lần lãnh chiến thương bội tinh. Đã từng làm quận trưởng cảnh sát quận 6 và chỉ huy sảnh sát dã chiến. Lần bị thương và thoát chết lịch sử là bị không quân Mỹ bắn nhầm trong Chợ Lớn năm Mậu Thân 1968. Giai đoạn tiếp theo là trang sử thi của gia đình và đất nước. Trung tá Tô đi tù tập trung 13 năm và người vợ tiểu thư gánh vác toàn vẹn việc nuôi con và nuôi chồng trong tù. Đến khi được tự do và gia đình HO qua Mỹ thì ông trung tá nhảy dù vốn là người của chiến tranh nên không thích hợp với cuộc sống bình yên tại Mỹ. Lê Ngọc Tô quyết định xa gia đình, tìm cuộc sống cô đơn và biệt lập ở miền Tây Bắc Hoa Kỳ. Cô Cẩm Dung trở thành bà mẹ quán xuyến một mình xây dựng cuộc sống nuôi đàn con trưởng thành như phép lạ. Những đứa con gái hiếu thảo vẫn liên lạc với thân phụ và sau cùng vào những ngày tháng sau cùng đưa ông Tô về San Jose để trông nom trong giờ phút cuối.

Phút lâm chung. Chuyện gia đình kể rằng vào ngày sắp ra đi ông Tô đã rất yếu. Những người con gái và bà mẹ ngồi quanh giường bệnh. Con gái thì vẫn là những đứa con gái thương yêu của bố. Nhưng người thiếu phụ bây giờ không phải là vợ, cũng chẳng phải là người yêu dấu bé bỏng ngày xưa. Bà ngồi đó tiếp tay cho con gái soa bóp cho ông Tô. Kỷ niệm nào còn lại hơn 10 năm làm vợ. Gần 13 năm nuôi tù. Rồi những năm chuẩn bị HO. Sau cùng là 30 năm xa cách ngay tại xứ Mỹ. Con gái nói. Bố có biết ai đang soa bóp không. Tay mẹ đấy. Trên khuôn mặt già nua hiu hắt qua ánh mắt chợt như nở một nụ cười. Tiếng con trẻ lại kêu vang. Bố cười rồi mẹ ơi. Trung tá Lê ngọc Tô thực sự đã mỉm cưới trước khi ra đi về miền vĩnh cửu. Con người mãi mãi thuộc về chiến tranh. Một thứ gia trưởng trong gia đình. Không biết bày tỏ tình yêu thương vợ con. Ở Việt Nam làm ông lớn đã đành. Đi tù về không chịu đạp cyclo. Qua Mỹ không chịu quét nhà. Vợ nấu cơm tháng nhưng chồng không chịu lái xe. Thời vàng sơn không chịu giao tiền cho vợ. Vào giờ phút cuối cùng anh Tô giao phong bì có chút tiền dành dụm bảo con đưa cho vợ. Cẩm Dung vừa khóc vừa nói. Ngày xưa anh không đưa tiền cho em vung vít. Bây giờ lâm chung anh đưa tiền cho người vợ cũ làm gì. Nhưng cô Dung ơi. Đó không phải là tiền. Đó chính là tình yêu.

Người anh hùng của cuộc chiến tranh tan hàng gẫy súng. Ông Tô đứng về phe thua cuộc. Ở Việt Nam ông không chịu đạp Cyclo. Đi Mỹ ông không chịu quét nhà và đưa cơm tháng. Ông khước từ đoàn tụ ngay trên đất Mỹ. Tô phải tìm đường đi xa vì ông mãi mãi là gia trưởng của nhà Lê. Ông là con cháu vua Lê Đại Hành, Lê Ngọc Tô không chịu lao động trước mặt vợ con. Anh đành đoạn để vợ con lao động tự do.

Trước phút lâm chung bạn Tô của tôi đưa cho vợ phong bì với chút tiền dành dụm từ 30 năm xa cách. Đó chính là thông điệp của người gia trưởng. Vẫn còn tiền và trách nhiệm đùm bọc vợ con .

Tiền đó chính là tình yêu. Tình yêu của chú Tô gửi cho cháu Dung. Sau cùng cuộc chiến tranh Việt Nam vẫn còn lại mối tình Chú Cháu. Tôi đứng dưới trời bơ vơ mà giải được một cuộc tình. Ước mong tìm được cái vòng hoa Cườm ngày xưa tôi đặt làm cho đại tá Nguyễn Thế Nhã với hàng chữ Tiếc Thương Nguyễn Thế Nhã anh hùng. Nếu phải ông còn đủ quyền hành như thời xưa. Trung tá Lê Ngọc Tô sẽ ra đi với cấp bậc đại tá truy thăng. Bây giờ tôi với bạn chỉ còn là một thằng đứng và một thằng nằm dưới trời bơ vơ. Chờ đến lượt mà thôi.

Xin cảm ơn anh em Mũ đỏ phủ cờ. Hội Võ bị và hội Cảnh sát đến  chia buồn. Cảm ơn thiệt tình.

Tiểu sử Trung tá nhảy dù Lê ngọc Tô

Trung tá Tô một thời được coi như anh hùng của binh chủng Mũ đỏ. 11 lần tuyên dương công trạng với 16 huy chương gồm đệ tứ bảo quốc với ngành dương liễu và 4 chiến thương bội tinh. Từ trung úy năm 1954 lên trung tá năm 1968. Chỉ huy các đơn vị nhảy dù cấp trung đội lên đại đội và tiểu đoàn. Với vóc dáng cao lớn ông được tuyển chọn làm sĩ quan liên lạc hội nghị Colombo. Được đặc cách qua chỉ huy biệt đoàn cảnh sát dã chiến. Trưởng ty cảnh sát quận 6 kiêm đặc khu trưởng khu 6 thuộc đô thành Sài Gòn. Đơn vị sau cùng ông là phối trị viên cho nghị hội Liên hợp quân sự 2 bên. Trung tá Tô cũng đã trải qua 12 năm 8 tháng 3 ngày tù tập trung từ trong Nam ra ngoài Bắc. Cùng gia đình định cư tại Bắc CA cuối năm 1991

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393




THĂM TÒA SOẠN THE EPOCH TIMES – Kiều Mỹ Duyên

THĂM TÒA SOẠN THE EPOCH TIMES

KIỀU MỸ DUYÊN

The Epoch Times Los Angeles

(9550 Flair Drive, # 411, El Monte, CA 91731)

          Một buổi ăn sáng thơ mộng ở giữa rừng cây xanh mướt, mùi thơm của hoa thoang thoảng trên các bàn ăn, vì bàn nào cũng có hoa tươi. Tiệm ăn rất đẹp và sang trọng. Một phụ nữ người Mỹ tặng tôi The Epoch Times tiếng Anh, bà Susie nói:

          – Mời An viết cho tờ báo này. Ở California, người Việt đông nên có ấn bản The Epoch Times tiếng Việt.

          Uống chưa hết ly cà phê thì bà gọi điện thoại cho chủ báo, tôi đoán như thế. Bà giới thiệu rằng bà giúp cho The Epoch Times, bà là vợ của tỷ phú Steve, người đã tặng cho trường đại học Cal State Fullerton 35 triệu để xây thêm phòng ốc. Ông Steve cũng là cựu sinh viên của trường này. Ở Mỹ, sinh viên ra trường thành tài, trở về giúp cho trường cũ nhiều lắm.

          Sau lần gặp gỡ đó, bà Susie đưa ông giám đốc điều hành của The Epoch Times, Nam California, ông Siyamak Khorrami, đến văn phòng Ana Real Estate thăm chúng tôi. Ông Siyamak Khorrami sinh ra và lớn lên ở Iran, một đất nước bị chính quyền kiểm soát truyền thông. Ông chủ trương nói lên sự thật. Thực tế vấn đề của truyền thông ở các nước chính phủ kiểm soát truyền thông là tẩy não con người. Ông nhập cư vào nước Mỹ năm 18 tuổi hợp pháp và học tại trường đại học San Diego. Mặc dù ông rất thành công trong việc xây dựng và bán các công ty kỹ thuật, ông vẫn rời khỏi thế giới kỹ thuật và cam kết với chính mình phải làm cho The Epoch Times thành công. Vào đầu tháng 8, ông khai trương văn phòng mới ở Jamboree Center ở Irvine, tiếp tục mở rộng tờ báo này ở Orange County.

Ông Siyamak Khorrami, giám đốc điều hành The Epoch Times, Nam California.

          Bà Susie và tôi email, điện thoại qua lại thường xuyên, bàn luận nhiều vấn đề từ giờ này sang giờ khác. Chúng tôi có nhiều quan điểm giống nhau. Bà biết nhiều về Việt Nam và người tị nạn Việt Nam. Bà rất bênh vực người Việt Nam trong giới làm nail và tóc. Bà chống những người kỳ thị người Á Châu, nhất là kỳ thị người Việt Nam. Bà là dân cư ở Arizona, nhưng ông bà có lâu đài lộng lẫy ở Newport Beach.

          Cầm The Epoch Times trên tay, tờ báo rất dày, nhiều ấn bản. The Epoch Times là một tờ báo đa ngôn ngữ và là tổ chức truyền thông quốc tế. The Epoch Times đã được ông John Tang và một nhóm các học viên Pháp Luân Công tại Mỹ thành lập vào tháng 5 năm 2000, có trụ sở chính tại New York và các tờ báo địa phương có những văn phòng tin tức và một mạng lưới các phóng viên địa phương. Pháp Luân Công là môn khí công tu luyện cổ xưa, người học tu dưỡng tâm tính chiểu theo nguyên lý Chân–Thiện–Nhẫn đây là nguyên lý tối cao của vũ trụ. Các học viên Pháp Luân Công thông qua các bài tập dạng khí công, thiền định và chiểu theo các tiêu chuẩn đạo đức được dạy trong sách Chuyển Pháp Luân để tu luyện tâm tính trong cuộc sống hàng ngày, kết hợp cùng với luyện tập 5 bài công pháp nhẹ nhàng trong đó có một bài tĩnh công thiền định, giúp người học đạt được nội tâm an hòa và cải thiện sức khoẻ. Hiện nay đã được truyền rộng trên toàn thế giới với số người theo học hơn 100 triệu người.

Các học viên Pháp Luân Công luyện các bài tập dạng khí công, thiền định.

          Chi nhánh tòa soạn The Epoch Times ấn bản tiếng Việt ở thành phố El Monte, Los Angeles County, trong tòa nhà 2 tầng đang tiếp tục tân trang, nhưng có đủ văn phòng để làm tòa soạn cho Epoch Times tiếng Anh, Hoa, Việt. Phòng thu hình và phát hình, phát thanh 24/24 giờ một ngày, nhân viên làm việc có người Mỹ, Hoa, Việt Nam, Đại Hàn, Mễ Tây Cơ, v.v.

          Mọi người chăm chú làm việc trước máy vi tính, không ai nói với ai một lời. Tôi vào phòng thu hình, phòng phát hình đang dạy nấu ăn, trực tiếp truyền hình, rất linh động. Chef John được nhiều người trên thế giới ngưỡng mộ, và thưởng thức tiết mục nấu ăn này, Chef John rất thân thiện với khách đến thăm. Ông Don Phạm, phụ trách The Epoch Times tiếng Việt đưa chúng tôi đi thăm từng phòng, nhân viên nữ nhiều hơn nam. Ông Don Phạm, chủ bất động sản, phụ trách tờ báo chi nhánh ở miền Nam California vừa chu du ở các tiểu bang khác về, Hawaii, miền Đông, v.v. chuẩn bị tổ chức đại nhạc hội Shen Yun vào tháng 10/2021.

Ông Don Phạm, phụ trách The Epoch Times tiếng Việt và ông Chris Lee tại tòa soạn The Epoch Times Los Angeles.

          Trong lúc dịch cúm Covid-19 hoành hành nhưng cơ sở The Epoch Times tiếng Việt vẫn phát triển mạnh mẽ. Nhiều người lấy làm lạ, nhưng tôi thì không thấy lạ. Theo lời ông Don Phạm thì The Epoch Times tiếng Việt có 75 nhân viên, chỉ có 20 nhân viên lãnh lương, còn 55 người làm thiện nguyện miễn phí.

          Thành viên của Pháp Luân Công làm việc tận lực, làm không kể ngày đêm. 55 chuyên viên làm việc cho The Epoch Times hoàn toàn miễn phí. Ông Don Phạm chủ nhiệm tờ báo The Epoch Times tiếng Việt nói:

          – Chúng tôi bỏ tiền túi ra làm cho báo hoàn toàn miễn phí. Tờ báo phát hành lúc dịch cúm Covid 19 hoành hành khắp nơi trên nước Mỹ. Phát hành được 63 số, mỗi tuần ra một lần vào ngày thứ sáu. Báo phát hành ở miền Nam và Bắc California, Houston, Texas. Đến hôm nay vẫn chưa có lời, giá bán 1 tờ The Epoch Times tiếng Việt là $2, tiếng Anh là $3. Ấn bản tiếng Anh 69,000, phát hành mỗi ngày, tiếng Hoa cũng vậy, chỉ có ấn bản tiếng Việt phát hành vào thứ sáu, 3000 số mỗi tuần 1 lần.

          Cô Yến Nguyễn, đưa tôi thăm The Epoch Times nói:

          – Tụi cháu làm cho The Epoch Times không có người nào lãnh lương, chúng cháu phải mang báo từng thùng báo mới mỗi tuần từ xe vào văn phòng. Trông cháu gầy nhưng bưng báo rất nặng, làm việc thiện nguyện vui lắm. Ngoài làm việc cho công ty của cháu, cháu còn giúp cho báo, vui lắm cô ơi. Cháu cảm phục vợ của anh Don Phạm, chị Cecilia Phạm, làm việc không ngừng nghỉ. Chị là phụ nữ ốm yếu, vậy mà làm thứ gì cũng làm được, ngay cả việc khuân vác.

          Cô Yến Nguyễn nói tiếp:

          – Cháu phục chị ấy, chị giúp chồng nhiều lắm và cũng giúp cho báo.

          Cecilia Phạm hiền lành, ít nói, làm việc tận tụy. Trong suốt bữa ăn, Cecilia chăm sóc khách chu đáo, lo cho khách hơn lo cho chính mình.

Ấn bản The Epoch Times tiếng Việt

          The Epoch Times tiếng Việt đang phát triển mạnh trong cộng đồng người Việt Nam. The Epoch Times là một cơ quan truyền thông độc lập phát triển nhanh nhất ở Mỹ, bảo toàn nguyên tắc đưa tin trung thực và phi chính trị. The Epoch Times không bị ảnh hưởng bất kỳ chính phủ, tập đoàn hay các đảng phái chính trị nào. Mục tiêu duy nhất của The Epoch Times là mang đến cho độc giả thông tin trung thực để độc giả có thể tự đưa ra nhận định của riêng mình về các vấn đề quan trọng nhất trong đại kỷ nguyên của chúng ta. The Epoch Times cũng không lan truyền các tin tức với mục đích dẫn dắt xã hội theo những xu hướng không lành mạnh. Thay vào đó, The Epoch Times coi những nguyên tắc của Sự Thật và Truyền Thống như ngọn hải đăng dẫn đường trong hoạt động của mình. The Epoch Times chú trọng tính nhân văn, những bài học quý giá của lịch sử và các giá trị truyền thống nhằm mang lại những giá trị tốt đẹp nhất cho cộng đồng nhân loại.

          Được thành lập tại Hoa Kỳ vào năm 2000, tập đoàn Epoch Times đã nhận được nhiều giải thưởng về nội dung  và thiết kế của Hiệp hội Báo chí New York, Hiệp hội Nhà báo Chuyên Nghiệp và Hiệp hội Thiết Kế Tin Tức. Mạng lưới của Epoch Times hiện đã được dịch sang 22 ngôn ngữ và có mặt ở 36 quốc gia trên thế giới.

          Trong lúc hướng dẫn chúng tôi đi thăm cơ sở báo chí, phát hình, phát thanh, nhà in, v.v. Ông Don Phạm liên tục nói về tôn chỉ của Pháp Luân Công, ông là thành viên của Pháp Luân Công, ông làm việc không kể ngày đêm, ông rất thành công trong việc đầu tư địa ốc, mua bất động sản đầu tư sinh lợi. Tâm nguyện của 2 vợ chồng ông làm việc có tiền giúp người nghèo, người tứ cố vô thân Việt Nam, xây cất chùa ở Việt Nam và nhiều nơi khác. Ở Orange County có lớp học Pháp Luân Công sáng ngày Chủ Nhật hàng tuần miễn phí do giáo sư Andy phụ trách ở Mile Square Park cách đây mấy chục năm về trước, đa số là người lớn tham dự lớp học này, về sau số người tham dự càng ngày càng đông. Sự hữu ích của các lớp học này là rèn luyện cho thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, lạc quan, vui vẻ mà sống.

          Ông Don Phạm cho biết thêm về ông, hồi nhỏ đi tu ở trong chùa, sang hải ngoại ông lập chùa cho mẹ ông đi tu. Ông đã thành lập 12 ngôi chùa ở khắp nơi. Cơ sở tôn giáo thành lập nhiều thì nhà tù bớt tội phạm vì không có tội phạm để ở tù. Hy vọng một ngày đẹp trời nào đó, Mỹ giống như các quốc gia Costa Rica, một quốc gia có 4 triệu dân không có Cảnh Sát, đi ra đường cứ một cây đèn xanh là có cây thánh giá, nơi nào cũng thấy nhà thờ, mà không thấy bóng dáng Cảnh Sát? Xứ sở thanh bình là thế đó.

          Phu nhân của tỷ phú Steve rất hãnh diện về tờ báo tiếng Việt, bà vận động người Việt tích cực đóng góp bài cho The Epoch Times tiếng Anh, Hoa và Việt.

          Môn phái Pháp Luân Công càng ngày càng phát triển thì độc giả Epoch Times càng ngày càng nhiều, cộng đồng Việt Nam ở khắp nơi đang đọc The Epoch Times. Hy vọng đồng hương của mình sẽ đóng góp bài vở, công sức để cho báo phong phú hơn. Tôi gọi đến trụ sở chánh của The Epoch Times ở New York thì được khuyến khích nếu có góp ý cho tờ báo thì gửi về địa chỉ tòa soạn ở New York.

          Chúc anh chị em thiện nguyện làm việc miễn phí cho The Epoch Times cũng như vợ chồng ông Don Phạm, Cecilia Phạm và Yến Nguyễn được nhiều may mắn đón thêm nhiều thiện nguyện viên yêu nghề truyền thông tiếp tục giúp The Epoch Times phong phú hơn.

Orange County, 09/09/2021

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)