THĂNG HOA CUỘC ĐỜI – Kỳ 55: Nguyễn Ánh Xưng Vương
Thăng Hoa Cuộc Đời – Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 55 Nguyễn Ánh Xưng Vương Ngoại Bang Phò Tá
Nói đến tôn thất nhà Nguyễn bị càn quét sau khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ giăng bủa khắp nơi, nhiều người trong dòng tộc bị sát hại hoặc đổi họ để làm thứ dân cho an thân; duy chỉ sót người thanh niên mười bảy tuổi của dòng dõi chúa Nguyễn còn sống sót, đó chính là Nguyễn Phúc Ánh, nhờ trốn xuống tàu thủy của giám mục Bá Đa Lộc đang neo thuyền ở sông rạch Cần Thơ. Mấy tháng sau tình thế lắng đọng, các quan tướng đất Nam hà tìm được Nguyễn Phúc Ánh cử làm Đại nguyên soái Nhiếp quốc chính để hội tụ quần thần khanh tướng triều chúa Nguyễn trong mục đích phục hoạt cơ đồ, chống Tây Sơn, nối ngôi nghiệp chúa.
Từ thành Hoàng Đế vua Tây Sơn đã nghe được tin Nguyễn Phúc Ánh gom góp tất cả binh tàn tướng bại nổi lên tại miệt Long Xuyên, Cần Thơ làm cho đất Nam hà lắm phen can qua (can là cái mộc làm bằng da để che thân; qua là cái giáo, ý của can qua là chiến tranh) chinh chiến, vì vậy Thái Đức hoàng đế sai Tổng đốc Chu, Phạm Ngạn và Tư khấu Uy dẫn hơn ngàn lính thiện chiến đem quân tiễu trừ.
Quân binh của Nguyễn Phúc Ánh chỉ mới kết hợp được vài tháng nên lực lượng còn khá lỏng lẻo, tuy nhiên cánh quân của Đỗ Thành Nhân lại rất hùng hậu nên sau đó tái chiếm lại thành Gia Định và ra sức phò tá đắc lực cho Nguyễn Phúc Ánh nhằm khôi phục giang sơn nhà chúa Nguyễn.
Kế hoạch không được ăn khớp khi quân Tây Sơn do các tướng Chu, Ngạn, Uy đưa quân vào bằng ba ngã Phiên Trấn, Sài Gòn và Trấn Biên không đồng bộ để thực hiện chiến lược nhất thời ba mặt giáp công, do điểm yếu đó mà phía quân Tây Sơn không đánh thủng phòng tuyến của Nguyễn Phúc Ánh. Trái lại, quân binh của Nguyễn Phúc Ánh do cai đội Lê Văn Câu, Nguyễn Văn Hoàng, Tống Phước Khuông phản công mãnh liệt giết chết Tư khấu Uy, đồng thời đẩy lui quân Tây Sơn ngược ra Quy Nhơn; nhân đó Tống Phước Khuông phối hợp với quân binh của Tống Phước Lương thừa cơ đem binh lấy thành Bình Thuận và thành Diên Khánh.
Nguyễn Phúc Ánh khôi phục được đất Gia định, củng cố binh lực rồi sai sứ sang nước Xiêm La thông giao, đồng thời sai Đỗ Thành Nhân và Hồ Văn Lân đem quân chinh phạt nước Chân Lạp nhằm bảo hộ đặng làm hậu thuẩn, đưa Nặc In là con của Nặc Tân lên làm vua xứ này rồi đặc cử Hồ Văn Lân ở lại coi sóc việc triều chính với Tân vương Chân Lạp.
Việc Nam hà đang phát triển một cách thuận lợi cho chúa Nguyễn đã không làm cho triều đình Tây Sơn nao núng, thực lực của Nguyễn Phúc Ánh như thế nào thì điệp báo của Tây Sơn đã nắm rõ nhưng Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ không nở để dân tình khốn khổ với chuyện chiến tranh triền miên, do vậy mà quân binh Tây Sơn nhân đấy lo tập luyện tượng mã đợi thời thế thuận tiện xuất binh hòng tiêu diệt toàn bộ triều thần Nguyễn Phúc Ánh.
Năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc Ánh xưng vương hiệu đặt triều nghi và chiêu dụ bá tính hợp lực gầy dựng nghiệp chúa, phong cho Đỗ Thành Nhân làm chức Ngoại Hữu Phụ Chính Thượng Tướng Công cùng ban phát tiền bạc để khen thưởng binh lính.
Trong khoảng năm tháng ấy vua Xiêm La là Trịnh Quốc Anh có hiềm khích với tướng Chất Tri (Chakhri) và Sô Si nên muốn đẩy họ xa khỏi triều đình bèn cách sai hai anh em Chất Tri và Sô Si dẫn binh mã đánh chiếm nước Chân Lạp. Như đã nói ở trên, lúc này Chân Lạp đang được bảo hộ bởi Hồ Văn Lân nên chúa Nguyễn Phúc Ánh cử Nguyễn Hữu Thoại đem binh trợ giúp Chân Lạp.
Đang khi hai anh em Chất Tri và Sô Si kéo quân qua Chân Lạp thì tại quê nhà, vua Xiêm La là Trịnh Quốc Anh bắt vợ con của Chất Tri và Sô Si giam vào ngục tối để làm con tin với ý đồ thúc ép Chất Tri quyết lấy đất Chân Lạp cho kỳ được.
Vừa nghe hung tin bay từ đất Xiêm, anh em Chất Tri và Sô Si liền giao kết với Nguyễn Hữu Thoại để đem quân ngược lại phía nam đánh Trịnh Quốc Anh hầu cứu vợ con. Chưa tới thủ đô Vọng Các thì nghe Trịnh Quốc Anh đã bị tướng Phan Nha Văn Sản nổi lên đánh chiếm triều đình và cướp ngôi vua. Chất Tri và Sô Si liền cho quân bao vây Vọng Các tiến vào thành giết chết Phan Nha Văn Sản, đồng thời sát hại luôn Quốc vương Trịnh Quốc Anh rồi Chát Tri tự lên ngôi hoàng đế xưng là Phật Vương, phong cho Sô Si là Đệ nhị Quốc vương. Do đó mối giao hòa, thân tín giữa vua Xiêm La Phật Vương và triều đình Nguyễn Phúc Ánh rất ư mặn nồng
Khi gặp hoạn nạn, Nguyễn Phúc Ánh đã được sự trợ giúp của Giám mục Bá Đa Lộc nên Nguyễn Vương nghĩ ngay đến việc cầu cứu giúp sức từ phương tây mà vai trò Bá Đa Lộc có thể làm được. Nghe tin chẳng tốt lành từ phương nam khi chúa Nguyễn có ý đồ cậy nhờ người ngoại quốc can thiệp vào nội tình đất nước, Thái Đức Hoàng đế vội hạ chiếu truyền Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ vào nam một phen nữa để tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh. Sau gần ba mùa đông yên tịnh, giờ đây chinh chiến lại bắt đầu khởi động dưới sự chỉ huy trực tiếp từ vị tướng trẻ vang lừng Nguyễn Huệ.
Nói về Đỗ Thành Nhân sau khi được phong chức Ngoại Hữu Phụ Chính Thượng Quốc Công thì oai danh vang lừng đất Gia Định, bản chất của cái ngã quá lớn đã khiến vị tướng tài ba này tỏ ra tự phụ, chuyên quyền, áp bức và không nể trọng đến chúa Nguyễn, vì thế mà Nguyễn Phúc Ánh đã tìm cách giết chết Đỗ Thành Nhân trước khi quân Tây Sơn kéo vào Gia Định thành.
Đại thần Tây Sơn là Bùi Đắc Tuyên người thôn An Khương, xã Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn có người con gái khá sắc sảo đã đến tuổi trăng tròn tên là Bùi Thị Loan. Để thêm vây cánh với hoàng gia, Thái Đức Hoàng đế tứ hôn cho Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ cùng Bùi Thị Loan nên nghĩa vợ chồng. Cuộc sống hôn nhân hạnh phúc chưa qua những ngày trăng mật nhưng việc quân binh hệ trọng đã buộc Nguyễn Huệ dồn nổ lực luyện tập võ nghệ cho binh sĩ và tìm thời gian rảnh để nghiền ngẫm binh thư Tôn Tử, phối hợp với loại võ công đặc biệt phát xuất từ vùng An Lão, Tam Quan, một môn võ thuật kết hợp giữa Thiếu Lâm Tự và võ Ta cùng sáng tạo những quyền cước độc đáo hầu thích nghi với chốn sơn lâm vốn nhiều thú dữ như cọp, báo, hùm, beo.
Để nâng cao những kỹ năng tuyệt công trong binh pháp và củng cố lực lượng thật tinh nhuệ, Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ thân hành cung kính mời các ẩn sĩ, mưu thuật chính trị cũng như những tay cao thủ võ lâm cùng nhau hợp tác và huấn luyện. Biết bao nhiêu anh tài, tuấn kiệt thấy cảnh đất nước tan hoang vì xâu xé, nạn tai sứ quân từng vùng lại nổi lên, ngai vua của triều Lê thì quá mục nát được dựng trên hư vị như một biểu tượng bù nhìn làm nơi mượn danh của nhiều phe phái chia chác quyền uy mà điển hình là hai chúa Trịnh-Nguyễn vẫn tranh giành thế lực cả bao nhiêu năm ròng, điều này đã khiến cho các danh sĩ tìm cách theo về với Tây Sơn rất đông qua ý hướng thống nhất sơn hà.
Trong đoàn quân của Long Nhượng tướng quân có nữ tướng Bùi Thị Xuân là một anh hoa nhi nữ, sức mạnh phi thường, tinh thông võ nghệ, mưu trí dũng lược và thường dùng đội chiến tượng với hơn một trăm thớt voi đã từng làm cho Nguyễn Phúc Ánh nghe danh bà đã vỡ mật khớp hồn.
Bùi Thị Xuân là vợ của tướng quân Trần Quang Diệu, một hổ tướng Tây Sơn đã có công đánh nam dẹp bắc, hạng mã công lao phi thường. Thân phụ của Bùi Thị Xuân là Bùi Đắc Kế, bào huynh của Bùi Đắc Tuyên, như vậy Bùi nữ tướng là vai chị vợ của Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ.
Cứ mỗi chiều nắng nhạt nơi thôn Xuân Hòa, trên gò đình rộng lớn và phẳng phiu ước chừng hơn mươi lăm mẫu, dân làng thường thấy vị nữ tướng đầu chít khăn đen, vai mang cung tiễn, áo quần gọn gàng trong bộ giáp trận thật uy nghi đã tập dượt trên trăm thớt voi để chờ ngày khởi binh xung trận.
Hoàng Đế thành được bao bọc bởi bờ lũy khá vững chắc, có đường hào chạy quanh như cách biệt nội ngoại cung đình với hàng trăm thớt voi sẵn sàng bảo vệ hoàng thành. Vòng ngoài cũng khá kiên cố, những bờ cây chắn gió thẳng tắp và xanh um cùng các đội vệ binh canh giữ nghiêm mật khiến cho vua Tây Sơn cảm thấy vững vàng với cơ đồ đang bắt đầu gây dựng.
Năm Tân Sửu (1781) khoảng tháng tư âm lịch khi gió nồm thổi từ hướng nam ra bắc thì Nguyễn Phúc Ánh vận động tàu chiến Bồ Đào Nha, đưa các tướng Châu Văn Tiếp, Nguyễn Hữu Thụy cùng quan tiết chế Bình Thuận là Tôn Thất Dụ, Tống Phúc Thiêm điều khiển ba vạn quân, hơn trăm thuyền bè, ba đại chiến thuyền có trang bị súng thần công, thêm ba tàu chiến Tây Ban Nha yểm trợ tấn công Bình thuận, Bình khang và Phú yên. Nhờ hỏa lực quá mạnh của tây phương thêm thời cơ lúc sức gió thuận lợi cho thuyền buồm căng chạy, quân Nguyễn vương thắng lợi khi vừa vào đất liền tiến đánh thành Phú Yên.
Hoàng đế Nguyễn Nhạc được cấp báo vội vã họp các tướng, cử Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ cùng nữ tướng Bùi Thị Xuân thống lĩnh bảy ngàn bộ binh, năm mươi thớt voi trực chỉ hướng Phú Yên nghinh địch. Đại quân Tây Sơn vừa tới mạn bắc bờ sông Đà Rằng đã gặp quân binh của chúa Nguyễn ngồi trên thuyền buồm kéo đến, Nguyễn Huệ truyền cho nữ tướng Bùi Thị Xuân cắt đặt năm mươi thớt voi xếp thành hình chữ nhất bao vây hai bên bờ sông đặng yểm trợ cho bộ binh tấn công thuyền Nguyễn Vương. Tờ mờ sáng Long Nhượng tướng quân đã đốc thúc toàn bộ lực lượng giao chiến, cung tiễn trên bờ bắn ra như mưa, đội cảm tử quân lặn xuống nước đục thuyền, đôi bên giao chiến ác liệt cho đến lúc chiều tà thì các chiến thuyền của Nguyễn Vương tan tác, số còn lại phải mở đường máu rút chạy ra biển để về lại đất Gia định.
Đêm hôm đó Nguyễn Huệ cho đốt đuốc khao quân chiến thắng và sáng hôm sau sai quân lính vớt hơn ngàn xác của cả đôi bên đem lên gò Nống để chôn cất tử tế và đốt huơng làm lễ chiêu hồn hết sức trang nghiêm. Dịp này Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ nói với ba quân rằng:
“-Ta không muốn việc đao binh kéo dài chỉ làm khổ dân lành vốn là người anh em một nhà. Nguyễn Phúc Ánh muốn khôi phục giang sơn trên cơ đồ đổ nát mà mượn tay ngoại bang thì qua mùa gió bấc sang năm ta sẽ quyết tiễu trừ một đợt nữa rồi an bang cho dân lành làm ăn sinh sống”.
Đầu năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Huệ chuẩn bị binh mã, tu bổ chiến thuyền, rèn thêm giáo mác, chế thuốc súng, luyện tập những thế võ bí truyền cho đội quân cảm tử xáp lá cà, vót thêm cung tên chờ ngày xuất binh.
Tháng ba năm ấy thì đứa con đầu lòng của Nguyễn Huệ ra đời đặt tên là Nguyễn Quang Toản có khuôn mặt phương phi phúc tướng dáng vẽ hào hùng. Nguyễn Huệ vừa đặt tên con xong thì nghe tin Nguyễn Phúc Ánh chuẩn bị binh mã tấn công quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ liền dùng kế “tiên hạ thủ vi cường” (Ra tay trước để giành thắng lợi) nên dốc toàn lực để hộ giá Thái Đức hoàng đế cùng hai trăm chiến thuyền giương cờ tiến quân vào nam. Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ làm hậu tập dẫn theo đội binh cảm tử và một số hổ tướng tài ba vừa hộ giá, vừa bao vây phía sau.
Như đã nói ở trên, Nguyễn Phúc Ánh nhờ Giám mục Bá Đa Lộc can thiệp nên một số nước phương tây lợi dụng việc giúp đỡ để tạo đầu cầu bước vào các nước phương đông cho việc truyền đạo, làm ăn và chiếm đất nên phái các chiến thuyền, súng đạn và những vũ khí tinh xảo dưới sự dẫn dắt của giám mục này. Đội thủy quân của Nguyễn Phúc Ánh tương đối khá hùng hậu, dàn trận trên sông nước có nghiên cứu hẳn hoi để chờ các chiến thuyền Tây Sơn vào trận đặng xáp chiến.
Mùa Hè năm Nhâm Dần (1782) thì hai trăm chiến thuyền của Tây Sơn đã vào cửa Cần giờ. Nguyễn Vương phối hợp với Tống Phúc Thiêm mang gần bốn trăm chiến thuyền dang theo hình chữ bát [/ \] đến khúc sông ngã bảy nghênh chiến.
Hơn nữa, lợi thế của chúa Nguyễn là nhờ vào sự yểm trợ của gần một trăm thuyền buồm chở người Trung quốc và một chiến thuyền của Manvel người Bồ Đào Nha điều khiển đi sau hỗ trợ về hỏa lực. Long Nhượng tướng quân lên mũi tàu quan sát tình hình và nghe báo cáo lại số quân binh cùng thuyền bè đối phương, dù gấp đôi số lượng chiến thuyền và hỏa công vững vàng của chúa Nguyễn, Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ vẫn không nao núng, đầy tự tin với sự điều binh vô cùng siêu phàm, Nguyễn Huệ động viên binh sĩ trước lúc xuất binh và truyền lịnh nghiêm minh cho từng người chiến sĩ, những người lính vốn đã gan dạ và có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trên bộ và trên sông càng thêm tin tưởng.
Thủy binh Tây Sơn tuy yếu về hỏa lực và số lượng nhưng từ lúc khai hỏa, Nguyễn Huệ đã thúc dục binh tướng gan dạ xông thẳng vào thuyền đối phương xáp trận theo các bí kiếp tập luyện hàng ngày; phía hỏa công của Nguyễn Phúc Ánh không phát huy nỗi vì sợ hãi uy danh của Tây Sơn, phần chưa tập luyện thành thục trên sông nước nên binh lính thật lúng túng với những kỹ thuật tây phương đầy tinh xảo.
Qua ba tiếng đồng hồ xông trận trên sông, Tống Phúc Thiêm liệu bề chống không nỗi vội truyền khẩu lịnh kéo hết chiến thuyền rút lui. Thừa thắng xông lên, Nguyễn Huệ thúc ba quân lướt thuyền con tới chận đầu, hai bên hỗn chiến khoảng nửa giờ thì chiến thuyền của Manvel có trang bị đại bát và lựu đạn tiếp cứu chống trả kịch liệt.
Dù bị chướng ngại vật ngăn trở, quân Tây Sơn vốn có tiếng biến hóa lẹ làng, đội cảm tử quân lặng xuống sông rồi đồng loạt leo lên thuyền của người Bồ Đào Nha. Sự gan dạ, quả cảm và yếu tố quyết thắng ngoại bang đã khiến cho binh sĩ bất chấp thần công bắn ra như mưa, lớp này ngả xuống đã có lớp khác hăng say tiến lên, chẳng mấy chốc đội cảm tử đã vào được cabin, chém những địch quân đang hốt hoảng khiến Manvel không kịp trở tay bèn quyết định cho nổ tàu rồi tự sát.
Lửa cháy trên sông đã lan vào bờ làm cho những bụi cây dừa nước bén lửa. Thế trận càng ngày càng trở nên thuận lợi, quân Tây Sơn xông trận như bay nhảy trên đất liền, tiếng chỉ huy của các tổng binh la hét để tìm bắt cho được soái tướng Nguyễn Vương trên cùng một khúc sông đã làm cho binh sĩ Tây Sơn nức lòng, gom thu được thêm một trăm chiến thuyền rồi tốc lực đuổi bắt Nguyễn Phúc Ánh.
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
NGẪU HỒ – Siêu Chiều Không Gian
Siêu Chiều – Chiều Chung Kết Của Khoa Học Phi Hữu &
11 Chiều Không Gian Của Khoa Học Hiện Đại.
Kính thưa đọc giả của diễn đàn thật nghĩa
Sau khi nghe sự giải thích của Lý Thuyết Siêu Dây, về Lý Thuyết Dây và 11 chiều không gian, Khoa Học Phi Hữu quyết định công bố Siêu Chiều hay còn gọi là Chiều Chung Kết, một thành quả rất đáng phấn khởi cho Khoa Học Hiện Đại, rất mong sự góp ý và sửa chữa từ các đọc giả của diễn đàn thật nghĩa, xin cám ơn.
Kính thư
Ngẫu Hồ.
Siêu Chiều – Chiều Chung Kết Của Khoa Học Phi Hữu &
11 Chiều Không Gian Của Khoa Học Hiện Đại.
Trần Ngẫu Hồ
Lời giới thiệu từ tác giả:
Lời đầu tiên, xin được cám ơn Giáo Sư, Tiến Sĩ Michio Kaku là một trong những tác giả của Lý Thuyết Siêu Dây, một thuyết khoa học mới nhất, mà qua đó có thể giải thích nhũng bí ẩn của chiều, của dây, của hạt, để từ đó đọc giả chúng ta hiểu vì sao chúng ta lại không nhìn thấy được những thực thể khác chiều của chúng ta, và những hành hoạt của họ.
Lý Thuyết Siêu Dây, sau khi được giải thích rõ ra, không ngờ nó lại dễ hiểu như vậy, nhưng trên hết, nhờ Lý Thuyết Siêu Dây này, mà Đồ Hình Liên Thông, Xa Lộ Thiền Định, Tân Trường Thống Nhất lại trở nên thực tế và hữu dụng, ba lý thuyết hèn mọn này của Khoa Học Phi Hữu ngày xưa là mơ hồ bao nhiêu, nay trở thành rõ nét bấy nhiêu, và nó sẽ giúp cho Khoa Học Hiện Đại đi tới cái rốt ráo sau cùng, mà không cần qua những kết luận phỏng đoán mông lung nữa.
Sau này có thể có nhiều chiều khác được tìm ra, mà phần nhiều là sẽ tìm được, kể cả các cõi Ma, nhưng nó sẽ không còn mông lung, khi chúng nối kết được với Siêu Chiều – Chiều Chung Kết của Khoa Học Phi Hữu. Thật là sự mở đầu đại phấn khởi cho thời đại của chúng ta.
Bài này xin được giới thiệu lại trên trang chính của Facebook, vì lần này có đính kèm Đồ Hình Liên Thông, mà vì lý do kỹ thuật lần trước đã không xuất hiện được, đồng thời cũng xin sửa một và chỗ. Xin thành thật cám ơn tất cả các đọc giả của diễn đàn thật nghĩa.
* *
Tôi hết mơ hoa, mộng bướm rồi
Bây giờ ngồi kể chuyện lòng thôi
Phòng tôi, chỉ một căn phòng nhỏ
Ẩn hiện Dòng Thơ, những Huyền Thơ
Ôi đẹp sao, những giấc mộng ban chiều.
Tôi lấy bút, vẽ con đường Vũ Trụ… bắt đầu.
Hai câu đầu xin mượn thơ, của nhà thơ Đinh Hùng, một nhà thơ mà tôi quý mến và ngưỡng mộ, thi sĩ Đinh Hùng đã tạo ra những vầng thơ vô cùng diễm tuyệt cho thời đại của chúng ta. Nhân đó giới thiệu những giải thích về Siêu Chiều Không – Thời Gian – Chiều chung kết của Khoa Học Phi Hữu. Đồng thời thí dụ, giải thích tóm tắt về Lý Thuyết Dây (LTD)
Đồ Hình Liên Thông (ĐHLT), trong đó, dung chứa các cõi giới trừu tượng và những thế giới khác chiều với thế giới 3 chiều của chúng ta. ĐHLT cũng hàm chứa thế giới 11 chiều, có thể chỉ ra và giải thích bởi Khoa Học Hiện Đại. Các thế giới khác chiều này và những thế giới khuất mặt, quay cuồng, biến đổi xung quanh Xa Lộ Thiền Định, là chiều chung kết.
Đồ Hình Liên Thông trên đồ họa (Xem hình ở trang cuối), chứa Xa Lộ Thiền Định, Xa Lộ Thiền Định dung chứa Tân Trường Thống Nhất, Tân Trường Thống Nhất dung chứa những giá trị lớn, vĩnh cửu, có thể hiểu và giải thích, nhưng không thể chứng minh là sai. Ba lý thuyết Đồ Hinh Liên Thông, Xa Lộ Thiền Định, Tân Truờng Thống Nhất chính là 3 dòng thơ Huyền Mỹ sẽ được tác giả hân hạnh giải thích sau đây.
Theo đồ họa diễn tả của Đồ Hình Liên Thông (ĐHLT: Connecting Diagram), thì chiều chung kết cũng là Xa Lộ Thiền Định (XLTĐ: Highway Of Meditation) nằm trong ĐHLT, là trung tâm của các chiều trong vũ trụ biến đổi mênh mông. Hãy tưởng tượng, chiều chung kết tức XLTĐ là một hình trụ ở giữa, chung quanh nó là những thế giới song song, biến đổi, quay cuồng xung quanh.
Trong chiều chung kết này, không có dây nào đang quay, vì thế nên không hạt cơ bản nào của nó tạo ra, cũng không có thời gian, không có chiều và độ mỏng, dù rất, rất mỏng, nên nó có thể, thể nhập vào bất cứ chiều không gian nào. Chiều của Xa Lộ Thiền Định thì vô hình, rỗng lặng, chỉ có năng lượng và trí tuệ của hành giả và những trầm bổng của Lạc (Bliss). Nhưng nó hiện thực, nó ở ngay đây, mọi chiều đều quay chung quanh nó, có thể thể nhập vào nó, và ngược lại.
Điều quan trọng là, mọi chúng sinh trong mọi chiều, đều có thể, thể nhập vào chiều chung kết, vô hình, rỗng lặng, vĩnh cửu, bằng chính công phu thiền định của mình. Xin xem chi tiết, giải thích bên dưới. Nhưng trước tiên, xin trở lại sự giải thích không gian 11 chiều của Ms Ruby.
Trong không gian 11 chiều, thì 9 chiều được tìm ra, được giải thích, và chứng minh bởi nhà vật lý, lý thuyết Michio Kaku, là một trong những người sáng tạo ra Lý Thuyết Dây (LTD). Lý thuyết M (M-theory) tiếp nối, tích hợp 9 chiều của Michio Kaku, thành chiều thứ 10, cộng với chiều thời gian, thành 11 chiều thời – không
Phần trích sau đây, từ bài nói chuyện từ youtube clip mang tựa:
“Có phải Thần đang ở siêu không gian 11 chiều” Của người đọc tên là Ms Ruby: https://www.youtube.com/watch?v=0oW4Iz1chvI&ab_channel=Ms.Ruby. Qua sự giải thích, của Ms Ruby chúng ta sẽ hiểu, các chiều không gian được thành lập như thế nào?
Nhưng tương lai sau này, dù Khoa Học Hiện Đại có thể tìm ra những chiều khác – Mà phần nhiều là sẽ tìm được – chiều thứ 12, 13, 14…26 hoặc chiều thứ… n+1, thì cũng không thể bỏ qua chiều chung kết của ĐHLT được, vì qua chiều chung kết chúng ta có thể dẽ dàng nối kết với các chiều, như sự giải thích chi tiết dưới đây.
Trích:
Trong thế chiến thứ 1, một nước nọ muốn dùng khoa học, để tuyên truyền cho thuyết vô thần, họ mong muốn cả dân tộc thoát ly khỏi tôn giáo, tín ngưỡng, vì thế đã mời 3 vị tiến sĩ, lên thuyết giảng giữa công chúng ở một quảng trường, vị thứ nhất là một tiến sĩ thiên văn nói: “Tôi đã dùng kính viễn vọng quan sát vũ trụ hơn 20 năm, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy thần. Vì thế, chắc chắn không có thần thánh.” Vị thứ 2 là tiến sĩ y học nói: “Tôi từng giải phẫu hàng trăm thi thể, quan sát tỉ mỉ các cơ phận, nhưng không tìm thấy nơi nào, để có linh hồn gửi gắm.” Vị thứ 3 là một nữ tiến sĩ, một nhà lý luận học từ từ lên phát biểu: “Người chết như cái đèn bị tắt, chết là hết, tuyệt đối không có cài gọi là thiên đàng, hay địa ngục để phán xét, tôi từng đọc qua các sách cổ kim, đông tây, nhưng không thấy ghi chép gì về chuyện này.”
Sau khi 3 vị tiến sĩ này nói xong, thì đều nhận được những tràng pháo tay vang dội. Vậy thần có tồn tại hay không? Tại sao chúng ta không nhìn thấy thần? Là do không có thần thật, hay chúng ta chưa đủ khả năng, nhận biết được ngài? Trong suốt thời gian qua, khoa học không ngừng tiến bộ, phát triển, nhận thức của con người đối với vũ trụ và siêu nhiên, ngày càng rõ nét hơn. Liệu khoa học mà chúng ta đang có hiện nay, đã đủ để chứng minh sự tồn tại của thần hay chưa? Một nhà vậy lý, lý thuyết người Mỹ, cuối cùng đã dùng vật lý siêu dây, để chứng minh sự tồn tại của thần, bạn có tin không? Hôm nay, chúng ta hãy thông qua khoa học, để tìm hiểu nguyên nhân: Tại sao chúng ta không nhìn thấy thần?
Michio Kaku, là một nhà vật lý lý thuyết, đồng thời cũng là một nhà tương lai học, và chuyên gia giáo dục phổ cập khoa học, hiện ông đang là giáo sư dậy vật lý lý thuyết tại đại học thành phố Newyork (University City of Newyork), những người học vật lý cơ bản đều biết đến ông. Năm Michio Kaku lên 8 tuổi, một nhà khoa học vĩ đại đã qua đời!
Một ngày nọ, thầy giáo bước vào lớp, buồn bã nói với các em học sinh của mình rằng: “Mới vừa rồi thôi, nhà khoa học vĩ đại nhất của thời đại chúng ta, vừa mới qua đời rồi”. Ngày hôm đó, tất cả mọi tờ báo đều đăng hình ảnh một chiếc bàn, trên bàn có những bản thảo đang còn chưa hoàn tất ở đó. Chủ nhân của chiếc bàn này, chính là nhà khoa học mà thầy giáo nói đến: Albert Einstein, tiêu đề tờ báo viết như thế này: “Tôi sẽ không bao giờ quên, người thảo, bản thảo vĩ đại nhất thời đại của chúng ta, đã qua đời rồi!”
Lúc đó cậu bé 8 tuổi Michio Kaku, đã tự hỏi trong đầu. Tại sao ông ấy không thể hoàn thành bản thảo chứ? Là gì mà lại khó như vậy? Là một bài toán mang về nhà, đúng không? Vậy tại sao ông ấy không hỏi mẹ của mình chứ? Tại sao lại không giải quyết được vấn đề này? Và thế là Micho 8 tuổi, lập tức đưa ra một quyết định, nhất định phải tìm ra vấn đề nan giải này, rốt cuộc là gì? Kể từ đó, Michio bèn yêu thích môn vật lý, và quyết định đi theo bước chân của Einstein.
Sau đó Michio mê mẩn một bộ phim truyền hình, có tên “Flash Gordon”. Mỗi thứ 7 hàng tuần, Michio ngồi trước Tivi, và chưa bỏ lỡ một tập nào cả, và cậu ngưỡng mộ vô cùng, những nhân vật trong phim, như Flash Gordon, tiến sỹ Zarkop Daladen. Và còn cả những thiết bị tương lai, khiến cho người ta phải mê đắm, như tầu tên lửa, lá chắn vô hình, súng Laser, còn cả thành phố trên không nữa.
Cũng chính do “hiệp sĩ bay Gordon, tức Flash Gordon, đã mở ra một tương lai hoàn toàn mới cho Michio, đầu óc nhỏ bé chủa Michio luôn có ý tưuởng bay bổng, liệu có một ngày, chúng ta cũng có thể đi xuyên tường, có thể chê tạo những con tầu vũ trụ, có thể bay nhanh hơn tốc độ của ánh sáng, cũng có thể đọc được suy nghĩ của người khác, trở nên vô hình, di chuyển đồ vật bằng tâm trí, thậm chí trong nháy mắt, có thể di chuyển cơ thể của chúng ta lên không gian, vũ trụ hay không nhỉ?
Liệu có thể thực hiện du hành thời gian, súng laze, trường lực (Force Field), vũ trụ song song. Những vấn đề này, đã thu hút Michio một cách sâu sắc, khiến cậu rất thích thú, cùng với việc săn film, Michio vẫn chưa quên bản thảo, chưa hoàn thành đó của Einstein. Khi học trung học, và để hoàn thành bài tập tham gia triển lãm khoa học, Michio đã chạy tới công Ty Westinghouse, thu thập hơn 400 pound, khoảng hơn 180 kg máy biến thể áp phế liệu và lắp một cỗ máy, nhân lượng tử gia tốc, trong gara của mẹ mình.
Trong dịp giáng sinh, Michio đã quấn 22 dặm dây đồng, trong sân bóng rổ của trường trung học, để chế tạo ra một máy gia tốc Electron, có công suất 2, 3 triệu electron volts, nó cần tiêu thụ 6000watt điện, tương đương tổng công xuất điện căn nhà của cậu ta, và có thể tạo ra từ trường tương đương 20 nghìn lần từ trường trái đất. Mục tiêu của Michio là tạo ra sức mạnh đủ lớn có thể tạo ra tia gamma phản vật chất, bài tập tham gia này của Michio cuối cùng đã lọt vào triển lãm khoa học quốc gia, đã giúp cho Michio nhận được học bổng từ Havard, thực hiện ước mơ, trở thành nhà vật lý học của mình và có thể tiếp tục theo bước chân của Einstein.
Nhiều năm sau, Michio mới nhận ra rằng, bài toàn khó năm xưa mà Einstein để lại, chính là thuyết vạn vật trong vật lý học, phương trình tổng hợp tất cả các lực vật lý trong vũ trụ, lý thuyết Trường Thống Nhất, lý thuyết này giống như phương trình E = mc2 của Einstein, có thể giải quyết nhiều bài toán khó về vật lý thiên văn, thí dụ tại sao các ngôi sao lại phát sáng? Tại sao ngân hà lại có thể phát sáng? Tại sao trên trái đất lại có năng lượng?
Hiện tại thì Michio Kaku là một trong những người phát minh ra vật lý siêu dây, trong vật lý lý thuyết và vật lý cao, năng lượng ngày nay, đồng thời là một học giả môi trường và một nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng quốc tế, ông luôn giữ vững tình thần của Einstein, không ngừng khám phá vạn vật. Lý thuyết siêu dây mà ông đề xuất, thật ra chỉ là một phương trình dài 1 in, thế nhưng phương trình dài 1 in này, có lẽ chính là chiếc chìa khóa mở ra những bí ẩn của vũ trụ.
Vậy thì Michio Kaku làm thế nào để giải thích vũ trụ, thông qua lý thuyết siêu dây? Ngay đây, những nhà khoa học vĩ đại luôn luôn gặp cái khó của vấn đề triết học, thí dụ Einstein nói, thuợng đế không chơi trò xúc xắc, Michio cũng vậy, mặc dù ông sinh ra tại Mỹ, nhưng có trải nghiệm lớn lên tại Mỹ và cả Nhật Bản. Trong khi mê mẩn với vật lý, ông còn đọc các loại sách đa dạng khác nhau nữa.
Các truyền thống thần thoại của Đông, Tây phương đã phá vỡ góc nhìn vấn đề một chiều của ông, khiến ông có thể từ góc độ đa chiều, không chỉ đứng trên góc độ của khoa học, mà còn đứng trên góc độ của tôn giáo để nhận định thế giới và vũ trụ, mà chúng ta chưa hiểu hết. Ông phát hiện trong thần thoại cổ Hy Lạp thần Zeus, vị vương của các vị thần có thể dùng suy nghĩ thuần tuý để điều khiển các vật thể chung quanh mình, chỉ cần một ý nghĩ, là có thể biến các hạt, trong hư không xung quanh mình thành vật thể. Nữ thần Venus thì có một cơ thể hoàn hảo vĩnh cửu, còn thần Apollo có một cỗ xe, có thể di chuyển trên bầu trới.
Vậy nếu các thần trong truyện cổ Hy Lạp là có thật, vậy tại sao chúng ta không thấy họ cơ chứ? Từ đó Michio nhận ra rằng, thế giới là đa chiều và vũ trụ cũng nên là đa chiều, chỉ vì con người sống trong thời không 3 chiều, không thể nào nhìn thấy sinh mệnh của các thời không cao hơn khác, vậy thì tại sao con người không thể nhìn thấy, mà lại càng khó mang theo cơ thể vật chất để tới các thời không khác. Vậy làm thế nào để chứng minh được điểm này? Mới có thể làm cho mọi người dễ hiểu hơn đây?
Quãng thời gian sinh sống ở Nhật đó, một chuyến tham quan, ngắm cảnh tình cờ, đã mang đến linh cảm cho ông. Tại Nhật Bản, ngày 5/5 là ngày bé trai, những gia đình có con trai, thì vào ngày này, thì đều có treo cờ cá chép, cầu mong con trai trong mỗi gia đình sớm thành tài, phong tục này, bắt đầu từ thời Edo, cũng có liên can đến “Cá chép vượt long môn” của Trung Hoa. Học giả từ thời nhà Tống là Lục Điền, đã để lại một cuốn sách lưu truyền, từ thế hệ này, sang thế hệ khác “Bỉ Ngã, Thích Ngư” trong đó có ghi chép lại.
“Tục thuyết Ngư dược long môn, quá nhi vi long, duy lý hoặc nhiên” Có nghĩa là, tục ngữ nói: Cá vượt long môn, vượt qua được thì hoá thành rồng. Chỉ có cá chép mới có được cơ duyên làm được điều này. Rồng có 81 vẩy, mang tính cửu dương, cá chép có 36 vẩy, mang tính lục âm, tuổi thọ có thể đến nghìn năm. Tương truyền từ xa xưa đến nay, các vị thần, tiên đều cưỡi rồng, hoặc cá chép bay qua núi, qua hồ, có thể thấy cá chép là giống rồng nhất, cá chép thông qua cải tạo giống thì thành cá Koi, và các loại cá vàng mà chúng ta nhìn thấy, là cải tạo tư cá diếc mà thành. Cho nên tại Nhật Bản rất thịnh hành văn hóa cá koi.
Là một loại cá cảnh, koi có một đặc điểm rất khác biệt, đó chính là người ta thích ngắm lưng của nó, cho nên thường được nuôi trong bể nước, để mọi người có thể chiêm ngưỡng hoa văn trên lưng, và tư thế bơi lội của nó, một ngày nọ, ông Michio cùng phu nhân đi ngắm cá, ngắm thì cứ ngắm, thì đột nhiên, dáng vẻ cá coi đang bơi lội trong tâm trí ông dần dần biến thành cảnh tượng từ 2 chiều, biến thành 3 chiều, nếu bản thân mình là chú cá này, đang bơi trong bể, sống cuộc sống 2 chiều, chắc chắn không nhận ra rằng, ở thế giới bên trên, đang có sinh mệnh cao cấp hơn đang theo dõi mình.
Rồi một ngày nọ, cá koi nhẩy lên khỏi mặt nước, tiến vào một thế giới 3 chiều hoàn toàn mới, một thế giới tầng cao hơn, từ góc nhìn của cá koi, trong thế giới cao tầng này, có thể nhìn thấy người đi lại ở tứ phía, thì đối với cá koi mà nói, thì cũng giống như con nguời ở hành tinh khác vậy. Thế giới này không có nước, không cần vây cá, lại có thể tự do di chuyển và tồn tại, đây hoàn toàn là một thế giới mà cá koi không thể nào lý giải nổi.
Sau khi trải nghiệm nâng chiều, nhìn thế giới với những quy luật vật lý hoàn toàn mới, lúc này cá koi quay trở về bể nước, và nói với các bạn của mình rằng: “Này, tôi vừa mới rời khỏi bể nước, nhìn thấy loài động vật có 2 chân, 2 tay, không có vây đấy” Mọi người thử đoán xem, những chú cá koi khác, sẽ nói gì đây? Chúng chắc chắn sẽ nói: Bạn điên rồi đúng không?” Vậy cũng tương tự, nếu con người nhẩy ra khỏi thời không 3 chiều, liệu có phải bước vào thế giới hoàn toàn mới, thế giới cao tầng, nơi thần tồn tại, mà con người không thể lý giải được.
Ba chiều với nhiều chiều, nếu đơn thuần từ góc độ vật lý học, lý thuyết mà nói, đúng là không dễ mà hiểu cho được, nhưng nếu nhìn từ thời không mà cá koi sinh sống, có phải là rất đơn giản đúng không?
Một chiều chỉ có chiều dài, 2 chiều là một thế giới phẳng, ba chiều là không gian lập thể, gồm chiều dài, chiều rộng, và chiều cao tạo thành, bốn chiều là không gian 3 chiều, cộng thêm chiều thời gian tạo thành. Cho nên, chiều thời gian cũng không phải, cũng không tương đương vói thời không, nói một cách khác, cho dù là cá koi hay con người, do chỉ đều do sinh mệnh đặc trưng của bản thân mình, nên bị giới hạn trong thời không mà mình đang tồn tại, sự thật vượt quá thời không này, là không nhìn thấy rồi, đương nhiên cũng không tin nữa, nhưng không nhìn thấy, không có nghĩa là không tồn tại mà.
Cho nên Michio Kaku đã theo bước Einstein, nhất định phải tim ra cho được, chứng cứ chứng minh, sự tồn tại của không tồn tại. Chính là đám cá koi này, khiến ông tìm ra lý thuyết siêu dây. Vậy thì lý thuyết siêu dây là gì?
Trong vật lý hiện đại để giải thích vũ trụ, có 2 lý thuyết lớn, một là thuyết tương đối rộng, hai là thuyết cơ học lượng tử. Thuyết tương đối rộng mô tả cấu trúc của vũ trụ hoành quan vĩ mô, còn cơ học lượng tử lại mô tả thế giới vi quan vi mô. Về lý mà nói, lý thuyết mô tả thế giới hoành quan và vi quan nên phối hợp nhịp nhàng với nhau, thế nhưng các nhà khoa học, khi thảo luận về vụ nổ lớn vũ trụ thì thấy, hiện tượng điểm kỳ dị và khoảnh khắc vụ nổ lớn, thì vừa thuộc thế giới vi quan, lại cũng thuộc thế giới hoành quan.
Vì thế nên tại đây, mâu thuẫn giữa cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng đã xuất hiện, bởi vì sự mô tả của chúng về 4 lực cơ bản, dường như mâu thuẫn với nhau, vậy thì 4 lực cơ bản là gì? Trong cuộc sống, chúng ta có thể quan sát thấy lực nổi của nước biển đối với thuyền, lực kết dính của keo, lực hút và lực đẩy giữa nam châm.
Trong thế giới vi quan, giữa phân tử với các nguyên tử, giữa nguyên tử electron và hạt nhân nguyên tử, giữa các hạt trong hạt nhân nguyên tử, cũng đều tồn tại lực hấp dẫn, hoặc lực đẩy, các nhà khoa học, đã tổng hợp các lực này thành bốn loại, chính là lực cơ bản trong giới tự nhiên, lực hấp dẫn, lực điện từ, lực mạnh và lực yếu.
Khi các khoa học gia phát hiện mô tả của cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng về 4 lực cơ bản này có mâu thuẫn, thì cần có một lý thuyết mới để hợp nhất 2 lý thuyết rời rạc này lại, để chúng trở nên hài hòa với nhau.
Thông qua nghiên cứu, gần một trăm năm nay, các nhà khoa học phát hiện, quả thật có sự thống nhất nào đó giữa thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử và chúng không ngừng tiếp cận nhau, rất nhiều công thức vật lý vì thế mà biến mất, đương nhiên không phải không tồn tại nữa, mà được thay thế bằng công thức đơn giản hơn. Cho đến bước cuối cùng sắp đạt được sư tích hợp thống nhất hoàn toàn, lý thuyết siêu dây đã xuất hiện. Và ông Michio Kaku là một trong những người sáng lập ra lý thuyết siêu dây này. Lý thuyết siêu dây cố gắng giải quyết mâu thuẫn giữa 2 lý thuyết không tương hợp nhau này, tạo ra lý thuyết vạn vật, có thể miêu tả toàn thể vũ trụ, bao gồm cả thế giới hoành quan và vi quan.
Lý thuyết siêu dây có một giả thuyết nổi tiếng nhất đó là, mọi lạp tử đều không phải dạng hạt điểm, mà là những giải năng lương cực nhỏ, không thể nhận thấy, chúng ta có thể gọi là các “dây” rung động theo nhiều cách khác nhau, cũng giống như dây đàn violon, nếu chúng rung động theo cách khác nhau, thì cũng tạo ra những âm cao, thấp, trầm, bổng khác nhau vậy. Các hạt cơ bản hình thành thông qua các trạng thái giao động khác nhau của dây.
Phương trình toán học của lý thuyết siêu dây, yêu cầu không gian 9 chiều, cộng thêm một chiều thời gian, chính là thời không 10 chiều. Mọi người nghe có đôi chút trừu tượng đúng không? Không gian 10 chiều đến từ đâu vậy? Nếu chúng ta đứng trên trái đất nhin mặt trăng, thì thấy mặt trăng là chuyển động tròn, tức là chuyển động 2 chiều. Nếu chúng ta đứng trên mặt trời nhìn, thì trái đất là chuyển động tròn, còn mặt trăng là chuyển động lò xo tròn, cũng tức là chuyển động 3 chiều rồi.
Nếu chúng ta đứng ở trung tâm giải ngân hà nhìn, thì mặt trời đang là chyển động tròn, còn trái đất là đang chuyển động tròn, theo dạng lò xo. Phương thức chuyển động cũng giống như ở mặt trời mà nhìn mô thức chuyển động ở mặt trăng vậy. Và trong chuyển động tròn lò xo của mặt trăng, còn bao gồm một chuyển động tròn lò xo của hệ trái đất, mặt trăng. Lúc này thì đã trở thành một chuyển động 6 chiều rồi.
Nếu chúng ta đứng ở trung tâm vũ trụ nhìn, thì lỗ đen ở trung tâm của giải ngân hà đang chuyển động tròn, trong khi mặt trời thì đang chuyển động theo chuyển động tròn như lò xo. Trái đất lúc này đã trở thành, đã trở thành quỹ đạo mầu xanh trong ảnh, còn mặt trăng thì trở thành quỹ đạo chuyển động mầu đỏ. Chuyển động tròn lò xo của mặt trăng, bao gồm 2 lớp chuyển động tròn lò xo, trở thành chuyển động 9 chiều, cộng với 1 chiều thời gian, không gian 10 chiều được thành lập như vậy.
Năm 1995, tại hội nghị vật lý thuyết dây, được tổ chức tại đại học nam California, nhà vật lý toán học người Mỹ Edward Witlen, lần đầu tiên đề xuất rằng, tất cả các lý thuyết dây, đều có cùng một gốc, và vì vậy lý thuyết M đã ra đời (M – theory) đã thống nhất mọi phiên bản lý thuyết dây, cho nên lý thuyết này được lên cấp. Lý thuyết M cho rằng, chiều lớn nhất của vũ trụ là 11 chiều, cũng là 9 chiều không gian của lý thuyết siêu dây, sau khi được tích hợp bởi lý thuyết M trở thành 10 chiều, cộng với chiều thời gian, trở thành 11 chiều. Vũ trụ 11 chiều không gian được hình thành như vậy.
Nếu chúng ta thu nhỏ không gian 11 chiều kích thước bằng một nguyên tử, rồi nhin lại chuyển động của các thiên thể hoành quan, thì thứ mà chúng ta nhìn thấy thì chính là rung động dây qui mô rồi. Sự chuyển động của lỗ đen và sao neutron, trở thành 2 loại rung động dây mở, còn sự chuyển động của mặt trời, trái đất và mặt trăng, thi trở thành chuyển động dây kín.
Nói tóm lại, lý thuyết siêu dây cho rằng trên thế giới vốn không tồn tại hạt, chỉ có các dây đang chuyển động trong không gian, các loại hạt khác nhau, là các dạng rung động khác nhau của dây mà thôi. Mọi tương tác xảy ra trong tự nhiên, mọi vật chất và năng lượng, đều có thể dùng sự tách và nối các dây để giải thích.
Suy cho cùng, thì những thế giới đa chiều này, chính là đang ở ngay xung quanh chúng ta, cũng giống như cá Koi không rời được bể nước được vậy, chúng ta cũng không thể tách rời khỏi môi trường mình đang sống tại đây. Dù chúng ta có rời khỏi bể nuớc, thì bên ngoài không gian, phía bên trên càng có thời không, càng cao hơn bên trên nó nữa, và tập hợp của mọi thế giới, giống như một tập hợp thời không hợp nhất.
Nói đến đây, có phải mọi người có thấy rất quen thuộc hay không? Đúng vậy, dường như trong kinh Phật cũng có cách nói tương tự như vậy. Mọi nguời xem, thời không gồm các chiều không gian, cộng vói chiều thời gian, có phải rất giống trong các tầng trời, nói trong kinh Phật đúng không? Trong kinh Lăng Nghiêm cuốn thứ 4 có ghi chép lại như thế này: “Thế vi phương lưu, giới vi phương vị
Đông, Tây, Nam, Bắc
Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc
Thượng hạ vi giới, quá khứ, tương lai, hiện tại vi thế.”
Có thể nói thế giới mà đức Phật nói thì đã bao gồm chiều thời gian, chiều không gian trong đó rồi. Trong Hoa Nghiêm Kinh, Khởi Thế Kinh và Phạm Võng Kinh, cũng đều có nói sự cấu thành nên thế giới, thế giới Tu Di nói trong kinh Phật tương đương với hệ mặt trời, và cõi Diêm Phù Đề nói trong kinh Phật chính là trái đất.
Trong Khởi Thế Kinh có nói đến học thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tập hợp 1000 thế giới là tiểu thiên thế giới, tập hợp 1000 tiểu thiên thế giới là trung thiên thế giới, tập hợp 1000 trung thiên thế giới là đại thiên thế giới. Tiểu thiên, trung thiên, đại thiên hợp lại, gọi chung là tam thiên đại thiên thế giới. Đây chính là thế giới của một vị Phật, tương đương với quy mô của giải ngân hà.
Trong vũ trụ tồn tại có vô số tam thiên, đại thiên thế giới, trong kinh Phật gọi là Thập Phương Hoành Sa thế giới, Thập Phương Vi Trần thé giới, xem đến đây có phải mọi người đã hiểu thời không khác nhau tồn tại khách quan như thế nào rồi chứ? Do chiều thời gian và thời không khác nhau, nên sinh mệnh sống trong đó cũng khác nhau, do chiều thời gian và thời không khác nhau, nên sinh mệnh sống trong đó cũng khác nhau, quy luật vật lý cũng sẽ không giống nhau. Đây cũng chính có lẽ là cảnh tượng phồn vinh trong tam thiên, đại thiên thế giới mà đức Phật nói đây sao?
Cho nên ông Michio Kaku đã nói: “Tất cả các sách vật lý hiện nay đều là sai, mọi sách giáo khoa vật lý trên trái đất đều nói vũ trụ chủ yếu đều cấu thành từ những hạt nguyên tử – Sai – Trong 10 năm qua, chúng tôi dần phát hiện ra, phần lớn vũ trụ đều là bóng tối. Các bạn trẻ cần phải khám phá, đi tìm ra những bí mật của vật chất tối và năng lượng tối đó” Ông Michio phát hiện, việc Einstein cuối đời, cuối cùng đã bước vào tôn giáo, đồng thời nhận thức về thượng đế trong khoa học tôn giáo, mới là khoa học cao nhất.
Điều này hoàn toàn hợp lý, bởi vì bản thân ông ấy, trong quá trình nghiên cứu dây và lý thuyết siêu dây, cũng đã nhận xét sâu sắc được rằng, có một sức mạnh mãn liệt đằng sau, tạo ra sự rung động dây, là thứ mà con người cho đến nay vẫn chưa thể hiểu và chạm tới được, vì vậy ông đã đưa ra lý thuyết Tachyons (primity semi radius Tachyons). Đây là một hạt hạ nguyên tử vượt tốc độ ánh sáng, được suy đoán trên lý thuyết, là một hạt giả tưởng, bắt nguồn từ thuyết tương đối, di chuyển với tốc độ vượt ánh sáng, nhanh hơn cả ánh sáng.
Có thể bóc tách không gian chân không, giữa các hạt vật chất trong vũ trụ, khiến cho vạn vật không chịu tác động bởi vũ trụ chung quanh, sau khi tiến hành thử nghiệm vớI những hạt này, ông Michio Kaku đã đưa ra một kết luận vô cùng thu hút, chứng minh sự tồn tại của thượng đế, ông nói: “Chúng ta tồn tại, trong một kế hoạch, được điều hành bới các quy tắc hình thành bởi trí tuệ phổ quát, chứ không phải sự sáng tạo ngẫu nhiên. Và trí tuệ phổ quát, chi phối hết thảy này là gì? Chỉ có thuợng đế mới đưa ra lời giải thích”.
Ông Michio Kaku cho rằng thượng đế chính là một nhà toán học, bởi vì không gian 10 chiều, không gian 11 chiều, rút ra từ lý thuyết siêu dây, không chỉ là siêu không gian, mà còn là siêu đối xứng, cho nên từ đó sinh ra lý thuyết siêu dây, rồi từ đó sinh ra siêu toán học, siêu hình học vi phân, lý thuyết siêu đối xứng và tất cả những thứ này, đã thay đổi toán học một cách triệt để, bởi vì mọi lý thuyết trong lý thuyết siêu dây đều có thể dùng toán học để mô tả
Ông Michio còn nói, thượng đế cũng là một nhạc sĩ, khi bạn đọc hiểu được suy nghĩ của thương đế thì cũng phát hiện được suy nghĩ của ngài giống như vô số các tần số dây khác nhau đang giao động, tạo ra vô số các hạt khác nhau, tạo nên vũ trụ, những sợi dây đàn vang lên, thông qua không gian 11 chiều, sinh ra cộng hưởng, từ đó tạo ra một bài vũ trụ tráng lệ, đó chính là nơi bắt nguồn sự sống của chúng ta, đây chính là hình dáng của vũ trụ, đây chính là suy nghĩ của thượng đế . <Hếttrích>.
Video Clip của Ms Ruby, cho chúng ta đã hiểu tại sao lại có tới 11 chiều, và thế giới 3 chiều của chúng ta vì sao lại không thể thấy các chiều khác? Thế giới 11 chiều của ông Michio chỉ nằm trong cái hột đậu phộng tròn tròn, vàng vàng của Đồ Hinh Liên Thông đó mà thôi. Và tương lai, những chiều 12, 13, 14…26 hoặc chiều… n+1 đưọc tìm ra, thì cũng chỉ quyẫy lộn, quay cuồng chung quanh chiều chung kết, Xa Lộ Thiền Định mà thôi. (Xin xem Đồ Hình Liên Thông ở dưới)
Tôi cũng không tin lời kết luận của Lý thuyết gia Michio Kaku, vì nó khá tuỳ tiện, khi cho rằng cần phải có vai trò của thượng đế đứng sau, để thúc đẩy hài hòa cuộc sống của chúng ta. Khiì sự giải thích tối hậu của Khoa Học Phi Hữu, và lý trùng trùng duyên khởi, đã nói rõ là không cần vai trò trung gian nào. Nhưng trước tiên, chúng ta sau đây giải thích hợp lý 11 chiều cùa Khoa Học Hiện Đại đã.
Các hành tinh đều đang quay theo quỹ đạo riêng, trọng trường riêng, vì sự quay này, mà tạo ra dây đang quay. Dây quay, tạo ra các hạt cơ bản, các hạt cơ bản tạo ra vật chất cho riêng nó, vì khác dây, khác hạt cơ bản nên chúng sinh ở chiều này không thể thể nhập vào chiều khác được,
Thí dụ chiều 0, chiều 1, chiều 2 đang cùng ở với nhau trên một sàn quay (Thường thấy ở các gánh xiệc) Anh A tượng trưng cho chiều 0, ngồi cố định trong ghế, được cột dây cẩn thận, anh A không thể đi lên, xuống, dọc ngang, nên có thể xem anh A đại diện cho chiều 0. Anh B, chỉ đi theo 1 đường thẳng trong sàn quay, anh B tượng trưng cho chiều 1. Anh C đi trên đường thẳng trong sàn quay, đồng thời có thể đi ngang được, nên anh C tượng trưng cho chiều 2.
Kế tiếp, chúng ta cho sàn quay, quay tròn, chúng ta đang đứng ở chiều 3, chúng ta có thể bước vào vòng quay tròn được không? Không thể, vì bước vào là ta sẽ bị văng ra ngay (Thí dụ cho sự khác chiều, khác dây, khác hạt). Muốn bước vào sàn quay, chúng ta phải quay cùng tốc độ, cấp độ với sàn quay. Thí dụ này, khiến chúng ta hiểu vì sao chúng ta không thấy, và không thể nhập vào được các chiều khác dây, khác chiều với chúng ta. Khi chúng ta quay cùng chiều với các chiều 0, 1, và 2, thì những chúng sinh trong đó thấy chúng ta, nhưng nếu chúng ta quay thụt xuống 1 bậc, thì chúng ta sẽ biến mất khỏi chiều của họ. Sự kiện này giải thích các UFO xuất hiện trên bầu trời, nhưng biến mất ngay trước mắt chúng ta.
Muốn thể nhập vào chiều khác chúng ta phải dùng giá trị tương đương, chúng ta không thể thể nhập nguyên điều kiện của ta vào sàn đang quay, nhưng nếu chúng ta thả vào sàn một khối không khí thì được chăng? Được, vì không khí nhỏ nhiệm tương đương, giải thích này, cho thấy nếu chúng ta nhập vào Xa Lộ Thiền Định, thì chúng ta có thể thể nhập vào bất cứ chiều không gian nào. Vì như đã giải thích, cơ chế của thiền định, không có dây, không có hạt, không có độ dầy, nên có thể thể nhập vào bất cứ thời – không nào. Xa lộ Thiền Định chính là siêu chiều, mọi chiều đều phải dựa vào nó
Và như tôi đã thưa, chiều chung kết, Xa Lộ Thiền Định, không có dây nào đang quay, nên không có hạt nào tạo ra, nên nó không có thời gian không có biến đổi. Chứng minh sự không biến đổi là nhục thân các vị thiền sư Huệ Năng (Hui Nan 713 – 2024) Hám Sơn, Đơn Điền (1623 – 2023) (trung quốc) Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường, Việt Nam (tồn tại 400 năm). Khoa Học Hiện Đại không thể giải thích những hiện tượng này, nếu không hiểu siêu chiều, Xa Lộ Thiền Định.
Muốn thể nhập Xa Lộ Thiền Định, thì phải thể nhập Tân Trường Thống Nhất, gồm 4 giá trị:
Tân Trường Thống Nhất 1: Là sự thống nhất giữa Tâm và Thức, để vào thực tại, vào thực tại quen thuộc là vào XLTĐ
Tân Trường Thống Nhất 2: Là sự thống nhất thời gian và phi thời gian, trong thiền định vì không còn biến đổi trong Tâm, nên không có thời gian.
Tân Trường Thống Nhất 3: Là sự thể nhập các thế giới khác chiều mà không bị ngăn ngạ
Tân Trường Thống Nhất 4: Là sự thống nhất giữa thuờng hằng bất hủy diệt và sự hủy diệt.
Khi Tâm và Thức muốn thống nhất, là khi Thức đối diện với ngoại cảnh, không chạy theo ngoại cảnh, tạo nên sân, si, tham luyến buồn vui với ngoại cảnh, mà Thức bình lặng trước nó. Sau khi giải quyết ngoại cảnh, Thức lại bình lặng, nên Tâm cũng bình lặng. Khi Tâm và Thức luôn luôn bình lặng ấy là Thực Tại, là cửa ngõ của Thiền Định, vào trạng thái thiền định quen thuộc, chúng ta vào Đại Định, vào Đại Định quen thuộc là vào Xa Lộ Thiền Định. Là Tân Trường Thống Nhất 1 thể Hiện. Chúng ta cũng có thể thực hiện thiền sự (Tức là ngồi thiền) để vào Xa Lộ Thiền Định.
Khi thường xuyên trong Đại Định không còn biến đổi, sinh diệt của Tâm, thời gian sẽ không còn, không có thời gian trong Tâm, bỏ mặc sự biến đổi thời gian chung quanh, chúng ta đã thực hiện Tân Trường Thống Nhất thứ 2. Là sự thống nhất giữa thời gian và phi thời gian. Tất cả 10 chiều của Khoa Học Hiện Đại đều phải có chiều thời gian, thêm vào, nhưng chiều thời gian của Khoa Học Hiện Đại luôn luôn trong sự biến đổi. Còn chiều phi thời gian của Khoa Học Phi Hữu thì không bao giờ có biến đổi.
Khi Tâm, Thức không biến đổi sẽ không có thời gian, chúng ta thường xuyên trong Xa Lộ Thiền Định, nơi không có dây và hạt biến đổi, ngay cả không có sự nhỏ nhiệm, nên chúng ta có thể thể nhập vào các cõi, các thế giới khác một cách không ngăn ngại, Tân Trường Thống Nhất thứ 3 được thể hiện, là sự thể nhập vào ra các thế giới, các cõi, các chiều không gian khác nhau.
Thường xuyên trong Xa Lộ Thiền Định, cũng là chiều chung kết, cũng là Tân Trường Thống Nhất thứ 4 được thể hiện, trong đó không có Không Gian, không có thời gian, không có biến đổi sinh diệt, chỉ có năng lượng vô hình của chúng ta biến hiện, nhưng không tạo ra hạt cơ bản nào, không có các dây đang rung, quay nên cũng không tạo ra các hạt cơ bản nào.
Vì vậy, nên khi năng lượng của người ấy, rời vùng Xa Lộ Thiền Định (Khi này, gọi là Thu Thần nhập diệt, hay nhập Niết Bàn Tịch Tĩnh, hay vào vùng Vũ Trụ Tiền Big Bang bất sinh diệt) Cơ thể vật lý của họ ở lại Xa Lộ Thiền Định, nơi không có dây, hạt nào biến đổi, cũng không thời gian biến đổi, nên tồn tại mãi mãi. Đây là sự giải thích cho các nhục thân của các vị như Lục Tổ Huệ Năng tồn tại trên 1310 năm (713 – 2024); Các thiền sư Hám Sơn; Đơn Điền (Trung Quốc) tồn tại trên 400 năm; Vũ Khắc Minh; Vũ Khắc Trường (Việt Nam) đã tồn tại trên 400 năm. Với nguyên óc, não, nội tạng, là những tế bào dạng mềm, ướt và xốp, rất khó bảo quản lâu quá 1 tuần.
Sau này, nếu Khoa Học Hiện Đại tìm ra được những chiều không gian khác, như chiều thứ 12, 13, 14, 15… hoặc tới chiều thứ… n+1, thì vẫn cần phải vào Xa Lộ Thiền Định, chiều chung kết, để câu thông liên hệ với các chiều không gian khác, nên chiều chung kết mới đúng là chiều cơ bản.
Chính chúng ta cũng sẽ là những vị Thần, khi chúng ta thống nhất được Tâm và Thức (Sự thống nhất thứ 1) Sau khi thống nhất giữa Tâm và Thức, chúng ta thường xuyên trong thực tại, cũng là thường xuyên trong thiền định. Tức là, chúng ta vào và ra Xa Lộ Thiền Định từ không gian 3 chiều của chúng ta, sự thể hiện đó dễ dàng như thế nào, thì chúng ta vào các chiều khác, từ Xa Lộ Thiền Định cũng dễ dàng như vậy.

Đồ Hình Liên Thông
Ngày Đại Dương Thế Giới 2022 – World Oceans Day & Tiến Trình Bành Trướng của Trung Cộng Hiện Nay – TS MAI THANH TRUYẾT
Kế Hoạch Ngàn Nhân Tài Của Trung Cộng – GS TS MAI THANH TRUYẾT
GIAO CHỈ San Jose: Tổng Thống Hoa Kỳ và Tỵ Nạn Việt Nam
Tổng thống Hoa Kỳ và tỵ nạn Việt Nam
·
Nhân ngày quốc lễ President’s Day xin ghi lại mối liên hệ Hoa Kỳ Việt Nam từ tổng thống thứ 34 vào năm 1953
Vài nét về cộng đồng Việt tại Mỹ qua 11 đời tổng thống.
Trước năm 1975 kiều dân Việt tại Mỹ chỉ có 15 ngàn. Cuộc di tản tháng 4-75 đem vào Mỹ 150 ngàn và sau đây là con số mỗi kỳ kiểm kể từng thập niên. 1980 có 250 ngàn,1990 có 600 ngàn, năm 2000 có 1 triệu và 100 ngàn. Năm 2010 có 1 triệu và 700 ngàn. Năm sau cùng hiện nay 2020 có 2 triệu và 200 ngàn. Con số này chưa được là 1% dân số Hoa Kỳ nhưng lại là một thành phần rất quan trọng so với dân số tại Việt Nam về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Tìm hiểu thêm với một vài chi tiết so sánh với dân Mỹ cũng có nhiều điều lý thú. Lợi tức trung bình của một gia đình Việt có 20 ngàn 1 năm với nhân khấu là 3.8 gần 4 người một nhà. Gia đình Mỹ tính chung có 26 ngàn 1 năm với 3.2 tức là hơn 3 người trong 1 nhà. Người Việt chưa tốt nghiệp trung học là 26% người Mỹ là 15%. Nói chung trình độ học thức người Việt thấp, nhưng tuổi trẻ Việt Nam tốt nghiệp đại học lên đến19% trong khi Mỹ chỉ có 17%. Tuổi trung bình của Mỹ là 36 nhưng Việt Nam có 34. Thành phần cao niên của Hoa Kỳ trên 70 tuổi lên đến 6% trong khi Việt Nam chỉ có 3%. Nước Mỹ hiện có 1 triệu 100 ngàn dân ở lậu. Trong số này Việt Nam cũng có 160 ngàn dân lậu. Các con số thống kê này cho chúng ta nhiều điều đáng lưu ý.
Tổng kết về các tổng thống Hoa Kỳ Hơn nửa thế kỷ vừa qua 9 vị tổng thống Mỹ, từ Eisenhower đến Obama đều là ân nhân của người Việt và di dân gốc Việt. Trong chiến tranh với 58 ngàn chiến binh Hoa Kỳ hy sinh và 300 ngàn thương binh, các vị tổng thống đều quyết tâm nhưng không vượt qua đươc hoàn cảnh. Sau chiến tranh nước Mỹ đã thực sự chào đón tỵ nạn. Chúng ta không bao giờ quên được tấm lòng hào hiệp của người dân Hoa Kỳ.
Trải qua 5 đời tổng thống Hoa Kỳ thời hậu chiến dù là Cộng Hòa hay Dân Chủ di dân Việt Nam luôn luôn được chào đón và trở thành con số vào Mỹ cao nhất cuối thế kỷ 20.
Chúng ta có thể quản ngại cho tương lai. Nhưng cũng ghi nhận sự vui mừng đã đạt được con số người Việt đáng kể tại Hoa Kỳ để làm thành một cộng đồng vững mạnh. Nếu Hoa Kỳ không tham dự vào Việt Nam từ 1954, dân Việt miền Nam không có được 2 thập niên tự do dân chủ. Nếu tổng thống, chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ không chủ trương bao dung với di dân, chúng ta không có mặt tại Mỹ.
Giao Chỉ, San Jose
Sơ lược tổng quát
Eisenhower 34,CH Kennedy 35 DC Johnson 36 DC Nixon 37 CH Ford 38 CH
Bắt đầu từ 1954 với tổng thống thứ 34 là ông Eisenhower, Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò trong lịch sử Hiệp Chủng Quốc. Vào cuối thập niên 50, trong chuyến đi Mỹ, chúng tôi thấy hình ảnh ông Eisenhower đón chào tổng thống Ngô Đình Diệm và ca ngợi vị nguyên thủ Việt Nam là vĩ nhân của Đông Nam Á. Chẳng bao lâu sau đó, vị tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ là ông Kennedy đã gián tiếp trách nhiệm về cuộc đảo chánh và việc hạ sát anh em ông Diệm năm 1963 tại Sài Gòn. Ông Kennedy tuy giải tỏa được một chế độ cản đường nhưng cũng rất ân hận về cái chết của ông Diệm. Cả hai ông Ngô Đình Diệm và Kennedy đều là Thiên Chúa Giáo. Nhưng niềm ân hận cũng không lâu, chỉ sau một thời gian ngắn đến lượt ông Kennedy bị ám sát chết tại Dallas, Texas. Cái chết của cả hai vị tổng thống vẫn còn nhiều bí ẩn cho đến ngày nay. Ông Johnson lên thay trong vai trò tổng thống thứ 36 với gánh nặng chiến tranh Việt Nam. Ông là người quyết tâm chiến thắng nhưng vẫn không thành công và để gánh nặng cho ông Nixon với chiêu bài Việt Nam hóa chiến tranh, rút quân về bằng mọi giá. Năm 1974, Nixon, vị tổng thống thứ 37 vì Watergate phải từ chức. Ông Gerald Ford thứ 38 lên thay, thể theo lòng dân và quốc hội, quay lưng cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ nay đối với Hoa Kỳ, Việt Nam chỉ còn là vấn đề nhân đạo. Với 5 vị tổng thống can dự vào chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford, người Mỹ gọi đây là The War of the Presidents. Ý nói là cuộc chiến riêng tư của các vị tổng thống, không can dự gì vào nước Mỹ và dân Mỹ. Làn sóng chống chiến tranh của dân Mỹ dâng cao với các cuộc xuống đường hàng triệu người. Bây giờ sống tại đây chúng ta mới có thể hiểu được là lòng dân của Mỹ quốc thực sự ảnh hưởng đến chính quyền ra sao. Không cần đúng hay sai, không cần giữ lời cam kết. Đối với dân chúng Hoa Kỳ, lòng kiên nhẫn và sự chịu đựng, hy sinh có giới hạn. Đánh không xong thì rút, sống chết mặc bay. Từ các quan niệm đó, định mệnh đưa chúng ta đến Hoa Kỳ. Sau đây là phần chi tiết.
Người Mỹ tại Việt Nam
1) Eisenhower,34 Chính sách ngăn chặn (1953-1961)
Sau cuộc vây hãm kéo dài 56 ngày, đầu năm 1954, Pháp đã phải chịu thất bại tại Điện Biên Phủ. Kết quả là Hiệp định Geneve 1954 chia Việt Nam làm hai phần ở vĩ tuyến 17. Hoa Kỳ bác bỏ hiệp định Geneve và giúp đỡ một chính quyền quốc gia ở Nam Việt Nam vào tháng 6 năm 1954. Ngô Đình Diệm, một người Công giáo chống Cộng từng sống ở Mỹ, đã trở lại Việt Nam với vai trò thủ tướng và năm sau lên làm tổng thống của một nước miền Nam Việt Nam độc lập. Hiệp định Geneve trở thành bàn khai sinh của Việt nam Cộng Hòa.
Khi những binh lính Pháp cuối cùng ra đi vào tháng 3 năm 1956, Mỹ đã thay thế, và Nam Việt Nam trở thành tiền tuyến trong cuộc chiến nhằm ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản tại Đông Nam Á. Chính quyền Eisenhower đã phải gửi 200 triệu đôla viện trợ một năm và 675 cố vấn quân sự đầu tiên. Tổng thống Eisenhower vốn là anh hùng nước Mỹ sau đệ nhị thế chiến trải qua 2 nhiệm kỳ từ 1953 đến 1961. Ông đón tiếp long trọng tổng thống Việt Nam thăm Hoa Kỳ năm 1957 và ca tụng ông Diệm là vĩ nhân châu Á.
2) Kennedy, 35 vấn đề nan giải.(1961-1963)
Khi Kennedy trở thành tổng thống, ông thừa kế di sản Việt Nam từ Eisenhower. Nhưng điều thực sự lôi cuốn ông là cơ hội để thử nghiệm học thuyết chống chiến tranh du kích cùng với chiến lược quân sự đáp trả linh hoạt.
Đến năm 1961, cộng sản Bắc Việt đã thành lập tại miền Nam một phong trào nổi dậy với cái tên Mặt trận giải phóng dân tộc (NLF). Trong một buổi phỏng vấn của đài CBS, Kennedy đã nhận định rằng tùy thuộc vào người Nam Việt Nam mà “Cuộc chiến của họ” sẽ thắng hay bại. Trong khi đó tình hình miền Nam ngày càng xấu. Nông thôn mất an ninh, cường độ chiến tranh gia tăng. Tại thành thị dân chúng và Phật giáo chống chính phủ. Vào thời điểm đó, đã có khoảng 16.000 “cố vấn” Mỹ tại Việt Nam. Mất kiên nhẫn với ông Diệm, Kennedy cho Sài Gòn biết rằng Mỹ sẽ ủng hộ một cuộc đảo chính quân sự. Vào 1/11/1963, chính quyền Diệm bị lật đổ và tổng thống Việt Nam bị giết chết, một kết cục mà Kennedy đã không đoán trước được. Nhưng ông phải chịu trách nhiệm về cái chết của nhà lãnh đạo mà tổng thống Eisenhower gọi là vĩ nhân châu Á. Ba tuần sau, chính ông Kennedy cũng bị ám sát chết.
3) Lyndon Johnson, 36 Quyết tâm sa lầy, (1963-1969)
Giống như Kennedy nhận lãnh Việt Nam từ Eisenhower, Lyndon Johnson cũng thừa hưởng Việt Nam từ Kennedy. Tuy nhiên di sản mà Johnson nhận được phiền toái hơn, bởi đến lúc này một cuộc can thiệp qui mô lớn của Mỹ mới có thể ngăn chặn sự sụp đổ của Nam Việt Nam. Johnson thề trong buổi nhậm chức,“Tôi sẽ không để mất Việt Nam”, Sau đó chiến tranh Việt Nam thực sự nằm trong quyết tâm của ông. Trong mùa hè 1964, Johnson nhận được báo cáo về những tàu ngư lôi của Bắc Việt Nam đã tấn công khu trục Maddox. Trong cuộc tấn công đầu tiên, vào ngày 2 tháng 8, tổn thất chỉ giới hạn ở một lỗ đạn; cuộc tấn công thứ hai, vào ngày 4 tháng 8, sau đó được chứng minh là nhầm lẫn của radar. Điều đó không quan trọng. Trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia, dù có thực hay tưởng tượng, lời kêu gọi vũ trang của tổng thống khó có thể cưỡng lại. Trong cả Quốc hội, chỉ có hai thượng nghị sĩ bỏ phiếu chống. Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ đã ủy thác cho Johnson quyền được mở các chiến dịch ở Việt Nam. Với cuộc bầu cử năm 1964 đã gần sau lưng, Johnson bắt đầu một chương trình để người Mỹ trực tiếp đảm nhiệm cuộc chiến ở Việt Nam. Chến tranh leo thang, bắt đầu từ đầu năm 1965, bao gồm 2 hình thái: Gia tăng bộ binh Mỹ và đẩy mạnh đánh bom miền Bắc. Ngày 8/3/1965, những người lính thủy quân lục chiến đầu tiên đã đặt chân lên bờ biển Đà Nẵng, bề ngoài là để bảo vệ căn cứ không quân ở đây. Nhưng họ sớm phải chạm trán với kẻ thù. Năm 1966, hơn 380.000 lính Mỹ đã đóng quân ở Việt Nam; năm 1967, 485.000 quân; và 1968 là 536.000. Mỹ tiến hành chiến dịch có tên Rolling Thunder, leo thang đánh bom Bắc Việt Nam. Mục tiêu đặc biệt là Đường mòn Hồ Chí Minh, một mạng lưới tinh vi bao gồm đường mòn, cầu, và nơi trú ẩn trải dài từ Bắc Việt Nam qua Campuchia và Lào đến Nam Việt Nam. Đến năm 1968, một triệu tấn bom đã trút xuống Bắc Việt Nam.
Johnson có lí do để tự tin về người dân Mỹ. Sự đồng thuận rộng rãi vững vàng được hình thành từ những năm trước đó là điều kiện thuận lợi để Washington tiến hành cuộc chiến. Cả Đảng Dân Chủ và Cộng Hòa đều chấp thuận cho Johnson leo thang chiến tranh ở Việt Nam, và điều tương tự đối với những cuộc khảo sát ý kiến công chúng trong năm 1965 và 1966. Nhưng sau đó quan điểm bắt đầu thay đổi.
Mỗi buổi tối người Mỹ lại thấy trên truyền hình cảnh tàn sát của cuộc chiến và những người Mỹ thương vong. Những phóng viên bắt đầu viết về một “Sự khủng hoảng lòng tin “
Nhưng kinh tế đặt ra cho Johnson nhiều vấn đề hơn. Chiến tranh Việt Nam tiêu tốn 27 tỉ đô-la vào năm 1967, đẩy thâm hụt ngân sách từ 9,8 tỉ đô-la lên 23 tỉ đô-la. Chi tiêu quân sự đã thúc tỉ lệ lạm phát lên cao. Chỉ trong mùa hè năm 1967, Johnson đã yêu cầu đánh thêm 10% thuế thu nhập. Cho đến lúc đó, vòng xoáy lạm phát sẽ gây họa cho nền kinh tế Mỹ trong suốt thập niên 1970 đang đến rất gần.
Phong trào phản chiến :Trong hoàn cảnh đó phong trào phản chiến bắt đầu hình thành. Hạt nhân của nó, cùng với những nhóm ủng hộ hòa bình lâu năm, là một thế hệ mới những nhà hoạt động hòa bình như SANE, nhóm đã biểu tình chống thử vũ khí hạt nhân vào những năm 1950. Phong trào phản chiến nhanh chóng có khả năng tạo ra những cuộc biểu tình lớn ở Washington, đem đến 20-30 ngàn người một lúc. Mặc dù bao gồm nhiều thành phần đa dạng, tất cả những người theo phong trào đều chia sẻ một mối hoài nghi về chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Tổng thống Johnson năm 1965 đã hy vọng vào một chiến thắng chớp nhoáng ở Việt Nam, trước khi cái giá chính trị của việc leo thang đến hạn. Nhưng đã không có chiến thắng nhanh chóng. Các lực lượng của Bắc Việt Nam và Việt Cộng đồng loạt tấn công, chính quyền Nam Việt Nam mất đất, và thương vong của Mỹ tăng lên. Vào đầu năm 1968, tỉ lệ tử vong đã chạm đến mức vài trăm người một tuần. Johnson và các tướng lĩnh của ông vẫn khăng khăng cho rằng có “ánh sáng ở cuối đường hầm”. Thực tế trên chiến trường đã cho thấy điều ngược lại.
Vào 30/1/1968, Việt Cộng mở một cuộc tấn công lớn ở Nam Việt Nam. Thời điểm trùng với Tết, kỳ nghỉ đón năm mới của người Việt, cuộc tấn công đánh vào 36 thủ phủ của các tỉnh và 5 trong số 6 thành phố lớn, bao gồm Sài Gòn, nơi Việt Cộng đã gần như lọt vào Sứ quán Mỹ vốn được cho là không thể đánh chiếm được. Về mặt quân sự, cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân là một thất bại, với con số thương vong nặng nề của Việt Cộng. Nhưng về mặt tinh thần, hậu quả là rất lớn. Truyền hình đã đem đến tận nhà người Mỹ những hình ảnh gây sốc.
Đến cuối một bài phát biểu truyền hình vào ngày 31/3, Johnson đã làm cả nước sửng sốt khi tuyên bố ông sẽ không tái ứng cử. Ông cũng kêu gọi tạm ngưng một phần chiến dịch đánh bom và hứa sẽ dùng những tháng trong nhiệm kỳ còn lại để tìm kiếm hòa bình. Vào 10/5/1968, Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam bắt đầu vòng đàm phán hòa bình sơ bộ tại Paris.
4) Cuộc chiến của Nixon 37 (1969-1974) Chiến lược Hòa hoãn.
Khái niệm thế giới hai phe, vốn đã trở nên lỗi thời từ thời của Lyndon Johnson, lại càng bị chối bỏ khi Richard Nixon sử dụng sách lược hòa hoãn. Nhưng khi đối diện với cuộc chiến ởViệt Nam, Nixon thừa hưởng di sản mà Johnson để lại. Từ bỏ Việt Nam, theo Nixon, sẽ hủy hoại “uy tín” của nước Mỹ và khiến cho cường quốc này có vẻ giống như một “Người khổng lồ chân đất sét”. Và cũng giống như Johnson, Nixon có những toan tính riêng cho bản thân mình. Ông không được phép trở thành vị tổng thống đầu tiên để thua một cuộc chiến. Nixon muốn hòa bình, nhưng phải là “Hòa bình trong danh dự”.
Để làm dịu chỉ trích trong nước, ông bắt đầu giao việc chiến đấu cho những người lính Việt Nam Cộng Hòa. Với chính sách mới có tên “Việt Nam hóa chiến tranh”, số lượng lính Mỹ giảm xuống từ 543.000 năm 1968 xuống còn 334.000 năm 1971 và chỉ còn 24.000 vào đầu năm 1973. Tỉ lệ thương vong cũng như uy tín chính trị của họ cũng giảm theo. Nhưng cuộc giết chóc ở Việt Nam vẫn tiếp tục. Như lời đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Ellsworth Bunker, đã nói một cách mỉa mai, đó chỉ là vấn đề thay đổi “Màu da của những xác chết”.
Vào tháng tư năm 1972, khi cuộc chiến trở nên khốc liệt, Nixon đã ra lệnh cho B-52 không kích miền Bắc Việt Nam. Một tháng sau đó, ông đồng ý cho gài mìn những bến cảng Bắc Việt, điều mà Johnson đã không bao giờ dám làm. Nixon có thể rảnh tay như thế là bởi, theo tinh thần hòa hoãn, Trung Quốc không còn đe dọa can thiệp nữa. Phía Nga, Brezhnev cũng làm ngơ khi chào đón Nixon vào tháng năm1972, thời điểm cao trào của những cuộc không kích B-52. Việt Cộng có thể cảm thấy bị cô lập, nhưng viện trợ từ Trung Quốc và Liên Xô vẫn tiếp tục đổ vào, và du kích Cộng sản vẫn tiếp tục chiến đấu.
Ở trong nước, cuộc chiến của Nixon đã trở thành gánh nặng. Chẳng những không suy giảm mà phong trào phản chiến ngày càng rầm rộ. Tháng 11 năm 1969, nửa triệu người đã biểu tình ở Washington. Ngày 30/4/1970, trong chiến dịch ném bom bí mật những tuyến đường vận chuyển khí giới của Việt Minh ở nước Campuchia trung lập, binh lính Mỹ đã xâm nhập để tiêu diệt những cơ sở địch ở đó. Khi tin tức về việc đổ bộ vào Campuchia được loan ra, những trường đại học Mỹ như nổ tung vì căm giận, và lần đầu tiên, có sinh viên bị chết. 4/5/1970, tại trường đại học Kent State ở Ohio, lực lượng cảnh vệ quốc gia đã nổ súng vào đoàn người biểu tình, giết chết bốn sinh viên và làm bị thương mười một người. Tại trường đại học Jackson State ở Mississippi, lực lượng cảnh vệ đã tấn công vào một ký túc xá, giết chết hai sinh viên da đen. Hơn 450 trường đại học đã đóng cửa để phản đối. Trên khắp đất nước, khóa học mùa xuân đã bị hủy bỏ.
Bất chấp tất cả, Nixon vẫn bền chí, phê phán kịch liệt những sinh viên biểu tình và tổ chức một cuộc biểu tình phản đối. Mũ bảo hộ lao động đã trở thành một biểu tượng yêu nước sau khi những công nhân xây dựng New York đánh bại những người biểu tình trong một cuộc biểu tình hòa bình vào tháng 5/1970. Dần dần, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” khiến phong trào phản chiến đi xuống. Khi nhân lực trong quân đội cần được cắt giảm, chế độ quân dịch cũng bị cắt bớt, làm xẹp đi lòng nhiệt tình của nhiều sinh viên phản chiến. Cuối cùng, Nixon đã đẩy lui được những chỉ trích. Nhưng cái mà ông không đẩy lui được là công sản Bắc Việt Nam.
Khi cuộc bầu cử năm 1972 đang cận kề, Nixon đã gửi Henry Kissinger đến mở cuộc đối thoại hòa bình ở Paris. Ở đây Kissinger đã có một nhượng bộ quan trọng khi chấp nhận sự xuất hiện của binh lính Bắc Việt ở lại miền Nam. Với lời tuyên bố của Kissinger: “Hòa bình trong tầm tay”, Nixon đã có thêm số phiếu mà ông muốn, nhưng thỏa thuận đã bị phá bỏ bởi ông Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống Nam Việt Nam. Bởi vậy Nixon, trong cuộc đổ máu cuối cùng, đã ra lệnh hai tuần “Ném bom giáng sinh”, sự kiện tàn khốc nhất trong cả cuộc chiến. Kết quả 27/1/1973, hai bên thỏa thuận hòa bình Paris, tái thỏa thuận việc ngừng bắn đã bàn tháng mười năm trước. Nixon hi vọng rằng với sự viện trợ ồ ạt của Mỹ, chính quyền Thiệu có thể tồn tại. Nhưng Quốc hội đã từ chối cho phép ném bom Campuchia sau 15/8/1973, và từ từ cắt viện trợ Nam Việt Nam. Tiếp theo ông Nixon bị truất phế vì Watergate 1974. Tháng ba năm 1975, các lực lượng Bắc Việt Nam đã phát động cuộc tấn công và Sài Gòn thất thủ. Liệu kết thúc như vậy có đáng buồn không?. Đúng, dĩ nhiên, đối với những người bạn Việt Nam của Hoa Kỳ, những người đã mất đi việc làm và tài sản, phải mất nhiều năm trong những trại cải tạo, hoặc phải rời khỏi quê hương. Đúng, đối với nước láng giềng Campuchia, nơi bọn Khơme đỏ điên cuồng lên nắm quyền, tàn sát 1,7 triệu người và đưa đất nước gần như quay trở về thời kì đồ đá. Đối với nước Mỹ, đúng, bởi sự lãng phí sinh mạng (58.000 người chết, 300.000 người bị thương), 150 tỉ đô-la, những vết thương bên trong lâu lành, và sự tự tin bị đánh mất đối với những nhà lãnh đạo nước Hoa Kỳ.
Ghi chú. Các tài liệu về tổng thống Mỹ trong chiến tranh Việt Nam được lấy từ phần Việt Ngữ của tự điển điện toán Wikipedia
Nhận định riêng.
Điều thực sự quan trọng là, trước khi bỏ rơi Nam Việt Nam, các vị tổng thống Hoa Kỳ đã thực sự muốn hoàn thành sứ mạng bảo vệ Việt Nam.. Johnson quyết tâm chiến thắng. Nixon muốn có hòa bình trong danh dự. Nhưng họ không vượt qua được hoàn cảnh. Chính vì những lý do đó, người Mỹ đã mở vòng tay đón tỵ nạn Việt Nam trong hơn 40 năm qua. Đồng thời tìm cách trở lại Việt Nam để trực tiếp gặp người dân của nước cựu thù. Nước Mỹ tìm cách chinh phục lòng người, vận động đồng minh bằng vòng tay mở rộng thay vì B52 hay bom đạn chiến tranh..
Sau đây là giai đoạn hậu chiến với các chương trình di dân và hình thành cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Tổng thống Cộng Hòa 38 Ford. (1974-1977)
Trong phiên họp cuối cùng quốc hội Hoa Kỳ bàn về viện trợ cho miền Nam. Tổng thống Ford thông báo tài khóa 1973 đã dành cho VNCH 2 tỷ 8 trăm triệu. Tài khóa 1974 chỉ xin 700 triệu nhưng không được chấp thuận. Kịp đến đầu năm 1975 xin 300 triệu cũng bị từ chối. Quốc hội quyết định không cho 1 xu nhưng tuyên bố sẽ dành cho ngân khoản tối đa để đón người ty nạn. Ông Ford lên thay Nixon làm tổng thống thứ 38 chỉ còn công việc cuối dành cho VNCH là đến San Francisco đón đứa bé mồ côi Việt Nam chụp hình cho báo chí phổ biến. Với 3 năm sau cùng, vị tổng thống Cộng Hòa đã hoàn tất việc định cư cho 150 ngàn người di tản Việt đầu tiên đến Mỹ.
(Carter 39 DC) (Reagan 40 CH) (Bush Cha 41 CH) (Clinton 42 DC) (Bush Con 43 CH)
Tổng thống Dân Chủ 39, Jimmy Carter. (1977-1981)
Ngay khi chiến tranh chấm dứt, ông đã cử phái đoàn đến Hà Nội ngỏ ý muốn giúp kẻ thù cũ xây dựng đất nước. Việt Cộng đã ngạo mạn bỏ qua một cơ hội bằng vàng. Sau đó đã kéo lùi đất nước lại hơn 30 năm từ khi chiến thắng 75 đến 85 mới tỉnh ngộ. Trong một nhiệm kỳ ngắn ngủi 4 năm ông đã trở thành vị ân nhân số một mang danh hiệu tổng thống của thuyền nhân Việt Nam.Tại Hoa Kỳ, tổng thống Carter đã mở đầu chính sách ODP từ 1979 và cho lệnh vớt thuyền nhân trên biển Đông. Năm 1980 kiểm kê dân số lần đầu tiên dưới thời kỳ Carter người Việt đạt được trên 260 ngàn. Cũng trong triều đại Carter bộ luật về Ty Nạn được ban hành 1980 với danh hiệu Refugee Act.
Tổng thống Cộng Hòa 40, Reagan (1981-1989)
Không thể quên được hình ảnh tổng thống Reagan ký tài liệu mở đường cho chương trình nhận tù chính trị và gia đình định cư tại Mỹ và tiếp theo là chương trình con lai. Kiểm kê dân số 1990 với thời kỳ Reagan kết quả gia tăng và người Việt đạt được 600 ngàn. Trong số này có nhiều thuyền nhân từ các trại ty nạn Đông Nam Á.
Tổng Thống Cộng Hòa 41, Bush Cha (1989-1993)
Chương trình ODP, con lai và thuyền nhân tỵ nạn tiếp tục được nhận vào Hoa Kỳ. Có thể nói trong 4 năm ngắn ngủi của ông Bush Cha là giai đoạn thuyền nhân đến Mỹ nhiều nhất.
Tổng Thống Dân Chủ 42 Clinton. (1993-2001)
Thời kỳ 8 năm của ông Clinton con số ODP rất cao và số thuyền nhân xuống thấp vì các trại ty nạn đóng cửa năm 1995. Tuy nhiên tổng số dân ty nạn Việt Nam ghi lại trong kỳ kiểm kê 2000 đã lên gần gấp đôi là 1 triệu và 100 ngàn. Đặc biệt tổng thống Clinton đến thăm Việt Nam lần đầu tiên năm 2000 đã đem luồng gió tự do, dân chủ đến trực tiếp với dân Việt cả hai miền Nam Bắc. Một hiện tượng lịch sử có rất nhiều ý nghĩa.
Tổng Thống Cộng Hòa 43. Ông Bush Con (2001-2009)
Thuyền nhân không còn trực tiếp đến Mỹ nhưng các diện đoàn tụ, con lai và HO vẫn tiếp tục. Tổng thống Bush con cũng đến Việt Nam và đem lại rất nhiều ý nghĩa đặc biệt . Đồng thời kỳ kiểm kê dân số năm 2010 người Việt tại Mỹ gia tăng lên con số 1 triệu và 500 ngàn.
Obama 44 DC Trump 45 CH Biden 46 DC
Tổng thống Dân Chủ 44 ông Obama. (2009-2017)
Trải qua 8 năm cầm quyền, hồ sơ đoàn tụ ODP và nhiều hình thức khác vẫn tiếp diễn. Thêm vào đó người Việt qua Mỹ theo diện kết hôn gia tăng đáng kể . Tính đến cuối năm 2016 dân số gốc Việt tại Hoa Kỳ vào khoảng 1 triệu 800 ngàn người. Đạt được rất nhiều thành quả đáng kể. Thế hệ thứ hai và thứ ba Việt Nam trở thành dân cử, các tướng lãnh, các chuyên gia và các công dân Hoa Kỳ gốc Việt gương mẫu. Chuyến thăm viếng Việt Nam của tổng thống Obama được coi là một thành quả ngoại giao vô cùng khích lệ không phải đối với chính quyền mà là trực tiếp đối với dân chúng Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ.
Tổng Thống Cộng Hòa 45 Trump (2017-2020)
Năm 2017 Hoa Kỳ có vị tổng thống mới. Một hiện tượng đặc biệt. Một đường lối khác biệt. Ông Trump có những suy nghĩ và hành động khác biệt hoàn toàn với tất cả các vị tổng thống tiền nhiệm dù Cộng Hòa hay Dân Chú Ông công khai bày tỏ ý kiến là việc Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam là một sai lầm. Với chủ trương hạn chế di dân thêm vào đó lại gặp nạn dịch Covid nên cộng động Việt Nam chia xẻ những khó khăn với nhân dân Hoa Kỳ trong vấn nạn chung của đất nước. Vị tổng thống 45 cũng không quan tâm đến đề tài nhân quyền nên các nhà đấu tranh tại Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn và thêm nhiều tù nhân của lương tâm bị tù đầy. Dưới triều đại của tổng thống Trump sự chia rẽ trầm trọng giữa 2 chính đảng Hoa Kỳ cũng đã tạo ảnh hưởng rất nhiều trong cộng đồng Việt Nam
Tổng thống Dân Chủ 46 Joe Biden. Ông mới lên nhận chức vụ được 1 năm chủ trương gần như hoàn toàn đối lập với đường lối của tổng thống Cộng Hòa tiền nhiệm. Trong hoàn cảnh rất khó khăn về kinh tế, lạm pháp và việc chia rẽ ngày càng trầm trọng giữa 2 chính đáng. Chưa có nhiều dữ kiện để nhận định cho tương lai.
Vài nét về cộng đồng Việt tại Mỹ
Trước năm 1975 kiều dân Việt tại Mỹ chỉ có 15 ngàn. Cuộc di tản tháng 4-75 đem vào Mỹ 150 ngàn và sau đây là con số mỗi kỳ kiểm kể từng thập niên. 80 có 250 ngàn,90 có 600 ngàn, năm 2000 có 1 triệu và 100 ngàn. Năm 2010 có 1 triệu và 700 ngàn. Năm sau cùng hiện nay 2020 có 2 triệu và 200 ngàn. Con số này chưa được là 1% dân số Hoa Kỳ nhưng lại là một thành phần rất quan trọng so với dân số tại Việt Nam về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Tìm hiểu thêm với một vài chi tiết so sánh với dân Mỹ cũng có nhiều điều lý thú. Lợi tức trung bình của một gia đình Việt có 20 ngàn 1 năm với nhân khấu là 3.8 gần 4 người một nhà. Gia đình My tính chung có 26 ngàn 1 năm với 3.2 tức là hơn 3 người trong nhà.Người Việt không tốt nghiệp trung học là 26% người Mỹ là 15% nhưng tuổi trẻ Việt Nam tốt nghiệp đại học lên den19% trong khi Mỹ chỉ có 17%. Tuổi trung bình của Mỹ là 36 nhưng Việt Nam có 34. Thành phần cao niên của Hoa Kỳ trên 70 tuổi lên đến 6% trong khi Việt Nam chỉ có 3%. Nước Mỹ hiện có 1 triệu 100 ngàn dân ở lậu. Việt Nam cũng có 160 ngàn dân lậu. Các con số thống kê này cho chúng ta nhiều điều đáng lưu ý.
Tổng kết về các tổng thống Hoa Kỳ Hơn nửa thế kỷ vừa qua 9 vị tổng thống Mỹ, từ Eisenhower đến Obama đều là ân nhân của người Việt và di dân gốc Việt. Trong chiến tranh với 58 ngàn chiến binh Hoa Kỳ hy sinh và 300 ngàn thương binh, các vị tổng thống đều quyết tâm nhưng không vượt qua đươc hoàn cảnh. Sau chiến tranh nước Mỹ đã thực sự chào đón tỵ nạn. Chúng ta không bao giờ quên được tấm lòng hào hiệp của người dân Hoa Kỳ.
Trải qua 5 đời tổng thống Hoa Kỳ thời hậu chiến dù là Cộng Hòa hay Dân Chủ di dân Việt Nam luôn luôn được chào đón và trở thành con số vào Mỹ cao nhất cuối thế kỷ 20.
Chúng ta có thể quản ngại cho tương lai. Nhưng cũng ghi nhận sự vui mừng đã đạt được con số người Việt đáng kể tại Hoa Kỳ để làm thành một cộng đồng vững mạnh. Nếu Hoa Kỳ không tham dự vào Việt Nam từ 1954, dân Việt miền Nam không có được 2 thập niên tự do dân chủ. Nếu tổng thống, chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ không chủ trương bao dung với di dân, chúng ta không có mặt tại Mỹ.
—
Giao Chi San Jose. giaochi12@gmail.com (408) 316 8393
GS TS MAI THANH TRUYẾT: Câu chuyện Da Cam/Dioxin Thay Lời Kết
SEN NGƯỜI SEN TA – GS TS MAI THANH TRUYẾT
Ikigai – Khái Niệm Nhật Bản Về “Lý do Của Sự Hiện Hữu” – MAI THANH TRUYẾT
ĐOẠN ÁI – Mai Thanh Truyết
Kaizen – Cải Tiến Liên Tục, Liên Tục… – Tưởng Niệm Anh Hùng Trần Văn Bá – Mai Thanh Truyết
Bài 1). Trải nghiệm sau 27 năm trong lãnh vực Quản lý Phế thải – Waste Management – Bài 2). Đoạn Ái – Mai Thanh Truyết
NHÂN MÙA GIÁNG SINH, MỜI ĐỌC: Kính Mừng Năm Thánh GiuSe 2021 – LS Nguyễn Công Bình
Lagom – Một Nếp Sống Đẹp Của Người Thụy Điển – GS TS Mai Thanh Truyết
Mời quý độc giả click vào mũi tên góc trái bên dưới (trang đầu hình trên) để lật tiếp trang
Oneness – Once and for All – Tất cả là Một – GS TS MAI THANH TRUYẾT
Biên Khảo – “Kỹ nghệ nhựa dẻo….” – Mai Thanh Truyết
Triết Học Và Thiền
Biên Khảo: Louis Tuấn Lê
Viết cho Chủ Đề Quyển Sách:
Triết Học Và Thiền & Bên Dòng Chảy Văn Thơ
Triết lý xuất hiện từ lúc nào? Phải chăng nó bắt đầu từ khi loài người có ngôn ngữ? Con người chỉ được gọi là người, khi con người biết nói, con người biết nói là con người biết nghe. Nói được là nghe được, nói là hỏi, hỏi là trả lời. Lúc con người biết nói là lúc triết lý xuất hiện, vì biết nói là biết hỏi, hỏi là triết lý. Đứng trước sự vật, con người nguyên thủy bắt đầu ngạc nhiên.
Chính sự ngạc nhiên tạo ra ngôn ngữ, thi ca và triết học, chính sự ngạc nhiên sinh ra tư tưởng, sự ngạc nhiên chính là câu hỏi. Triết học chính là lời giải đáp cho sự ngạc nhiên.
Sự ngạc nhiên xuất hiện cùng lúc với ý thức và ý thức có nghĩa là hỏi. Hỏi thì phải hỏi về vấn đề gì? vì nếu không hỏi về điều gì? thì không phải là câu hỏi, nghĩa là không phải là ý thức. Hỏi là triết lý, đặt câu hỏi về điều gì? sự hỏi này chính là triết học. Triết học là hỏi về triết lý, mà nói gọn là “Triết lý là gì?”.
“Triết lý là gì?” là hỏi về điều muốn hỏi, nghĩa là cái đó “Là gì? Cái ấy là gì?” nói gọn lại cũng chung một ý “Là Gì? ”. Như vậy ý thức quay ngược trở lại ý thức, hay nói cách khác là ý thức tự hỏi ý thức. Bởi vì triết lý là ngạc nhiên, mà triết học là ngạc nhiên về sự ngạc nhiên này.
Tôi đang tìm tòi trong kho tàng văn chương của triết học, cố tìm xem có điều gì để định nghĩa về tính chất của Thiền Định. Nhưng hoàn toàn không thấy, khi tìm hiểu thêm về lãnh vực triết học tôi lại khám phá ra một điều thú vị. Triết học chỉ là trò phân tích ngôn từ.
“Triết học đã chết”. Ai dám nói câu này? Đó chính là Stephen Hawking, người có bộ óc thông thái nhất của thời đại chúng ta. Trong cuốn (The Grand Design) tạm dịch “Đại Thiết Kế”, ông khẳng định triết học đã chết “Philosophy is dead!”
Thật ra không phải một mình Stephen Hawking xác nhận về điều này, mà trước đó Voltaire từng nói: “Triết học chỉ là xuyên tạc đời sống, nó chỉ là thức ăn nuôi trí tò mò của con người”. Ngoài ra những triết gia lớn khác cũng đều có chung một nhận định tương tự về triết học.
Friedrich Nietzsche (1844 – 1900) cho rằng: “Hồn sâu xa của Hy Lạp chịu ảnh hưởng của Đông Phương huyền bí nên cũng có một dòng huyền niệm đi liền với một dòng tư duy sáng sủa. Cái hồn ấy bị Socrates “Triết gia Hy Lạp cổ đại” bóp chết bằng tuyên dương lý trí: lấy ý thức sáng sủa minh triết mà xua đuổi năng lực ẩn tàng bên trong. Socrates chỉ biết phê bình mà không hề kiến thiết và ông thiếu hẳn óc huyền niệm bởi năng khiếu biện lý đã được vun tưới đến mức cực đoan nên đã cắt đứt với dòng truyền thống.”
Tóm lại, ba triết gia Nietzsche, Jaspers, Heidegger nhận ra rằng vì những sai lầm của các bậc tiền bối Socrates, Plato, Aristotle mà Triết cổ điển Phương Tây bị cắt đứt với truyền thống tâm linh, tức cội nguồn Minh Triết, để trở thành duy lý, một tri thức luận, một lĩnh vực chuyên môn hẹp không ảnh hưởng gì nhiều đến đời sống.
Do tính chất tư duy phân tích nên Châu Âu hình thành quan niệm Nhị Nguyên, chia thế giới thành hai mặt đối lập: sáng và tối, tốt và xấu; thiện và ác. Từ đó nảy sinh những trường phái triết học để lý giải cho một quan niệm riêng.
Phân chia thành nhiều trường phái, triết lý khác nhau, một sự đối kháng trong triết lý rồi nẩy sinh ra trường phái thứ ba nhầm để dung hoà hai trường phái đối kháng. Cứ như thế, triết học ngày càng duy lý, duy niệm, ngày càng xa rời cuộc sống, trở nên kinh điển khô cứng mất sức sống, dẫn đến cái chết không tránh khỏi. Đó là sự thật mà phải sau 2200 năm con người mới nhận ra.
Trong khi đó ở phương Đông, mang tính chất tư duy tổng hợp và quan niệm Nhất Nguyên nên trí tuệ không đi theo hướng hình thành khoa học thực nghiệm và triết học duy lý. Triết lý Phương Đông, phát hiện ra năm dạng vật chất làm nên vũ trụ là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. “Five Elements”.
Nhưng nền tư tưởng phương Đông không đi vào tìm hiểu bản chất của những thành tố đó để tạo ra khoa học thực nghiệm, mà cố công tìm hiểu về sự quan hệ giữa chúng. Từ đó khám phá khái niệm ngũ hành với nghĩa rộng lớn hơn, tìm hiểu sâu hơn về tính chất ngũ hành tương sinh, tương khắc để làm ra Dịch lý.
Có thể nói rằng, tương sinh & tương khắc là hai quy luật luôn tồn tại song hành cùng với nhau, có tác dụng duy trì sự cân bằng trong vũ trụ. Nếu chỉ có sinh mà không có khắc thì sự phát triển cực độ sẽ tạo nên nhiều tác hại. Ngược lại nếu chỉ có khắc mà không có sinh thì vạn vật sẽ không thể nảy nở, và phát triển. Do đó sinh – khắc tạo ra quy luật chế hóa không thể tách rời.
Đó chính là Kinh Dịch, một trước tác kinh điển và lâu đời nhất của phương Đông. Kinh Dịch ẩn chứa một tư tưởng triết lý uyên bác và thâm sâu nhất, đó là quan niệm Nhất Nguyên – Vạn Vật Đồng Nhất Thể.
Mỗi vật thể là một khối thống nhất của hai mặt đối lập. Nó như hai mặt khác biệt của đồng tiền, chính vì sự khác biệt “không đối kháng” mà đồng tiền mới mang một giá trị nhất định. Từ quan niệm Nhất Nguyên không cho phép sự đối lập trong cùng một vật thể, do dó không nẩy sinh ra những triết lý đối lập cạnh tranh nhau. Do đó triết học Phương Đông có phần khác biệt với triết học phương Tây.
Trong đoạn mở đầu của bài viết, tôi đã trình bày muốn đi tìm một triết lý để định nghĩa về Thiền Định. Nhưng tôi đã bị khựng lại, vì nhiều triết gia lỗi lạc của nhiều thời kỳ đã chứng minh (Triết học Tây Phương đã chết). Tôi chỉ còn biết quay về với triết học Đông Phương bởi vì nền triết học Phương Đông vẫn còn giữ được cái hồn của sự vật.
Tôi tiếp tục đi vào kho tàng văn học để tìm hiểu, và chợt nhận ra một nguồn tư tưởng phù hợp để định nghĩa về Thiền Định.
Thiền định không hề là một dạng của sự tư duy có tính tâm linh mà là một tình trạng vắng bặt tư duy. Mọi triết lý để cố định nghĩa về thiền định, có thể ví như những lời to tiếng bàn luận về sự lặng yên, còn thiền định là bản thân chính là sự lặng yên. Đó chính là nguồn tư tưởng của triết gia OSHO
Tên thật của ông là Rajneesh Chandra Mohan Jain. Người ta biết đến ông với tên Bhagwan Shree Rajneesh. Tháng 2 năm 1989, ông tự đổi tên là Osho. Osho vốn là danh xưng tiếng Nhật Bản cổ, có nghĩa là “đạo sư” của một dòng Thiền
Theo quan niệm của Osho. Đối với đời người, giá trị cao cả nhất của cuộc đời là lòng yêu thương, sự vui cười và thiền định. Niềm ân thưởng vô giá nhất của cuộc đời là trải nghiệm được sự giác ngộ tâm linh (spiritual enlightenment).
Sự giác ngộ đó được ông miêu tả là “nằm yên trong trạng thái bình thường của sự hiện hữu của tất cả mọi vật đang dựng xây vũ trụ”. Con người chúng ta lẽ ra ai cũng có thể trải nghiệm được trạng thái giác ngộ đó, nhưng sự thực là con người bị đánh lạc hướng do hoạt động tư duy cũng như do mong ước và dục vọng sinh ra bởi sự ràng buộc của xã hội.
Vì thế, thay vì hưởng được niềm vui cao cả của sự hữu hiện, con người rơi vào một tình trạng của sợ hãi và ức chế.
Osho (1931-1990) là một vị thiền sư hết sức kỳ lạ của thế kỷ hai mươi. Triết gia Osho cũng có lời giải thích về Thiền. Theo nhận định của ông. Thiền có nghĩa là nhận biết bất kỳ điều gì, khi bạn làm với sự nhận biết thì đó là thiền. Không phải là hành động mà chính là phẩm chất của bạn mang vào hành động, điều đó mới là vấn đề của suy tư và Thiền Quán Chiếu.
Đi bộ có thể là thiền nếu bạn bước một cách nhận biết. Ngồi có thể là thiền nếu bạn ngồi với nhận biết. Nghe chim hót có thể là thiền nếu bạn nghe với nhận biết. Nghe tiếng ồn bên trong tâm trí bạn có thể là thiền nếu bạn giữ nguyên nhận biết và tỉnh táo. Toàn bộ vấn đề là ở chỗ: con người không nên hướng vào mơ ngủ. Thế thì bất kỳ điều gì bạn làm cũng là thiền.
Osho vốn là một con người “nổi loạn”, luôn luôn chống lại qui tắc của xã hội. Không những ông không hề sợ bị xã hội lên án, xưa nay ông chuyên khiêu khích sự ổn định của một định chế có sẵn, kể cả một nền đạo lý chung của con người. Nhất quán với quan niệm thiền định tích cực của mình, khoảng cuối những năm 60, ông bắt đầu thuyết giảng một số bài về tình dục, được ghi lại dưới nhan đề
Từ tình dục đến ý thức siêu việt (From Sex to Superconsciouness), trong đó ông cho rằng “đối với phép Tantra thì mọi thứ đều thiêng liêng, không có gì không thiêng liêng” và mọi sự đè nén tình dục đều là sự tự huỷ vì người ta không thể chuyển hoá tình dục nếu không nếm trải nó “một cách đích thực và đầy ý thức”.
Thật ra quan niệm của ông không có gì sai. Bởi vì thực tế mỗi người đi tìm đạo tu thân, nếu đi đến chỗ tích cực và muốn chuyển hoá, đều phải tìm một phương cách riêng cho chính bản thân mình, để chuyển hoá năng lực của tình dục.
Đó là một con đường chứa nhiều hiểm nguy. Nhưng muốn “chuyển hoá” thì đó là con đường không thể tránh né, cũng như hoa sen không thể toả hương thơm nếu không bám chặt vào bùn đất để rút tỉa tinh hoa của năng lực nằm trong bóng tối. Và đó chính là con đường Kim Cương Thừa mà từ thế kỷ thứ 8, con người đã thực hành để đạt đến sự thành tựu.
Osho chỉ là người muốn thực hiện rộng rãi Kim Cương Thừa trong thế kỷ 20 tại Phương Tây, nhưng có lẽ ông đã phạm một sai lầm. Đó là Kim Cương Thừa chỉ dành cho những bậc thượng căn, không phải cho quần chúng.
Nếu Osho nghe những lời này, hẳn ông sẽ không nói “tất cả là thượng căn” vì ông quan niệm ai cũng là Thượng Đế cả, không có gì là không thiêng liêng. Chính điều này ông đã ngộ nhận và dẫn đến nhận xét sai về chúng sinh.
Theo quan niệm của riêng tôi. Con người được chuyển tiếp từ nhiếu kiếp khác nhau, có người đến từ Thượng Căn, những bậc cao quý, có người đến từ Hạ Căn, một cấp thấp hơn, có người đến từ Ngã Quỷ (loại người hung ác), có người đến từ Súc Sinh, loại người mà bản chất còn mang nhiều thú tánh. Nói chung con người đến từ nhiều kiếp khác nhau, cùng đến với trái đất này, để trải nghiệm và học hỏi thêm kinh nghiệm làm người. Do đó mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm với nhân qủa do chính mình tạo nghiệp.
Trở lại với triết gia Osho. Ông quan niệm thế nào về tình yêu?
“Tình yêu không có ranh giới. Tình yêu không thể ghen tị, bởi vì tình yêu không thể sở hữu. Tình yêu là xấu xa bởi chính ý tưởng rằng bạn có ai đó bởi vì bạn yêu. Bạn có ai đó, có nghĩa là bạn đã giết ai đó và biến họ thành hàng hóa. Chỉ có điều có thể được sở hữu đó là tình yêu mang lại tự do. Tình yêu là tự do.”
Ông bị kết tội môi giới làm giả hôn nhân cho những đệ tử mang quốc tịch Ấn kết hôn với những đệ tử mang quốc tịch Hoa Kỳ, để hợp pháp hoá việc định cư. Osho cũng bị truy tố về tội khai man trên những giấy tờ di trú. Ông bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ trở về Ấn Độ.
Osho qua đời vào năm 1990, nhưng công việc và những tác phẩm của ông vẫn tiếp tục được xuất bản bởi hơn 200 nhà xuất bản trên toàn thế giới và hơn 60 ngôn ngữ.
Đúng ra trước khi nhắc đến triết gia OSHO, tôi phải nhắc đến Jiddu Krishnamurti, bởi vì Krishnamurti (1895-1986) sinh ra và trưởng thành trước Osho, nhưng tôi nhắc đến những gì gần nhất rồi mới đi đến cái xa hơn.
Jiddu Krishnamurti (1895 – 1986) Được sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp Brahmin tại Ấn Độ, nhưng Krishnamurti khẳng định rằng mình không thuộc bất cứ quốc tịch, tầng lớp, tôn giáo hay trường phái triết học nào. Ông dành suốt quãng đời còn lại của mình đi khắp thế giới như một nhà diễn thuyết độc lập.
Tờ báo “The New York Times” gọi ông là người “từ bỏ mọi loại hình tôn giáo”. Tờ báo “The Guardian” đặt cho ông danh xưng “bậc thầy không tin vào những bậc thầy”. Ông tuyên bố rằng những tổ chức, với những tư tưởng vốn có làm lu mờ đi sự hiểu biết của mỗi cá nhân.
Chính vì quan niệm từ bỏ mọi loại hình tôn giáo, nên ông xem niềm tin vào Thượng Đế chỉ là cách con người né tránh nỗi khổ và một hình thức lệ thuộc độc hại, giả tạo: “Bởi vì trái tim chúng ta đã héo tàn, nên Thượng Đế trở nên vô cùng quan trọng”.
Ông coi các đạo sư hay bậc thầy tinh thần là không cần thiết. “Đạo sư cũng trở nên vô ích khi bạn chỉ biết có chút ít về chính mình. Không có đạo sư, không có sách vở hay kinh điển nào có thể giúp bạn tự biết mình”.
Ông nói. “Chân lý là vùng đất không lối mòn” (Truth is the pathless land) đây cũng là câu tuyên ngôn nổi tiếng của ông, cho rằng nếu chạy theo một ai hay điều gì đó, dù là đạo sư hay Thượng Đế, dù là một hệ thống, tổ chức hay phương pháp, con người sẽ không bao giờ tìm thấy sự thật. Ông dành hơn 65 năm để diễn thuyết về tự do tâm lý dành cho bất cứ ai trên thế giới muốn lắng nghe mình.
Ông quan niệm. Trong mọi phương diện cuộc sống, chúng ta dễ “nghiện công thức” và những thứ gì có sẵn, vì chúng dễ nắm lấy và mang lại cho ta sự an toàn, làm dịu những cảm giác bấp bênh.
Bởi vì mỗi người đều có khả năng vô biên về sự tự thức tỉnh này, nếu họ không bị những xiềng xích của truyền thống về sự sợ hãi, không bị những “đạo sư” che mất ánh sáng của chính họ tự chiếu.
(This Light in Oneself). Ánh sáng này không ai có thể “cho” người khác, không thể nhận được từ người khác truyền qua như truyền lửa từ ngọn nến này qua ngọn nến khác. Nếu ánh sáng mà có được nhờ sự từ người khác truyền qua thì chỉ là ánh sáng của ngọn nến, nó sẽ tắt. Chính sự tĩnh lặng, quán chiếu thâm sâu nội tâm, người ta sẽ thức tỉnh, sẽ xuất hiện ánh sáng của chính bản thân.
Ông luôn luôn nhắc nhở sự tĩnh tâm, tự thanh lọc những kiến chấp đã tích lũy trong tâm trí qua thời gian, để tự giải thoát.
Trong “Tự do đầu tiên và cuối cùng”, Krishnamurti nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thoát khỏi mọi định kiến, quy định, thoát khỏi mạng lưới tư duy, mọi hệ thống, uy quyền, để có được sự tự do tuyệt đối.
Krishnamurti: (Tự do đầu tiên và cuối cùng). Con người là kẻ tự giải phóng bản thân. Triết gia Phạm Công Thiện đã dịch quyển sách này. Ông đã viết về Krishnamurti như sau:
Khắp thế giới không ai còn lạ gì tên tuổi Krishnamurti. Từ nửa thế kỷ nay, Krishnamurti đã đi lang thang cô độc khắp trái đất, đã kêu gọi mọi người giải phóng khỏi mọi nô lệ ràng buộc trong đời sống đau thương này.
Tiếng nói của Krishnamurti là tiếng nói lặng lẽ của một con người đã tự giải phóng bản thân, của một con người đã trải qua tất cả mọi đau đớn không cùng, đã sống một triệu mùa ở hỏa ngục, đã tự giải thoát và nhìn thấy được Thực Tại toàn diện của đời sống, ca ngợi giòng đời vô tận, ngây ngất với tiếng cười lặng lẽ của mười triệu năm hư vô trong đêm tối nặng trĩu trái đắng mật đen.
Krishnamurti đã được nhân loại nhận là hậu thân của Phật Thích Ca và Chúa Giê Su. Krishnamurti đã được mấy trăm triệu người ở thế giới tôn lên ngôi vị đấng Đạo Sư, bậc Giáo Chủ của nhân loại, thế mà Krishnamurti đã giải tán hết mọi tôn giáo, tổ chức, đã phủ nhận tất cả tín điều, đã phá hủy hết mọi triết lý và ý thức hệ, đã đập vỡ hết mọi thần tượng và, trên năm mươi năm trời đã một mình bước đi lang thang khắp nẻo đường trần gian, không tiền, không bạc, không hành lý, không gia đình, không quê hương, không truyền thống, chỉ một mình và chỉ đi một mình, cô đơn, cô độc, sống tràn trề, sống bất tận, sống vỡ bờ như một thác nước ào ạt, tuôn chảy mãnh liệt nhưng vẫn trầm lặng, nói rất nhiều mà vẫn im lặng, đi rất nhiều mà vẫn tịch nhiên bất động, gắn kết đời sống mà vẫn cưới hỏi sự chết, chết và sống giao nhau.
Điều làm nổi bật Krishnamurti và nói lên sự khác nhau giữa Krishnamurti và những bậc giáo chủ vĩ đại trong lịch sử là sự trần truồng tuyệt đối của tâm hồn ông. Ông chỉ giữ lại cho mình một chỗ đứng độc nhất: một con người, với ý nghĩa giản dị đơn sơ của con người. Mang lấy xác thịt mảnh khảnh của con người, ông nương tựa trọn vẹn vào tâm linh, đồng thời ý thức rằng tâm linh và thể xác chỉ là một, không khác nhau.
Chúng ta hãy cùng ca hát với Krishnamurti bài ca tình yêu:
Trong những hải đảo xa xôi xanh thẫm
Trên giọt sương mong manh
Trên con sóng vỡ bụi
Trên ánh nước lung linh
Trên cánh chim tung trời
Trên lá non đầu xuân
Người sẽ nhìn thấy nét mặt Người Yêu của ta
Trong đền điện linh thiêng
Trong vũ trường mê đắm
Trên nét mặt thánh thiện của tu sĩ
Trong bước đi lảo đảo của người say rượu
Nơi những gái điếm giang hồ và những trai tân trinh nữ
Ngươi sẽ gặp Người Yêu của ta.
Điều làm nổi bật tư tưởng Krishnamurti và nói lên sự khác nhau giữa Krishnamurti và những bậc giáo chủ vĩ đại trong lịch sử là sự trần truồng tuyệt đối của tâm hồn ông.
Ông chỉ giữ lại cho mình một chỗ đứng độc nhất, là một con người, với ý nghĩa giản dị đơn sơ của con người. Mang lấy xác thịt mảnh khảnh của con người, ông nương tựa trọn vẹn vào tâm linh, đồng thời ý thức rằng tâm linh và thể xác chỉ là một, không khác nhau.
Ông chỉ giữ lấy một sứ mệnh độc nhất là tước bỏ con người ra ngoài tất cả những huyền tưởng, ảo giác, phá hủy cho sụp đổ tất cả chống nạng giả tạo của những lý tưởng, những tín ngưỡng, ngẫu tượng, phá hủy tất cả mọi hình thức chống đỡ con người, để trả con người trở lại sự tôn nghiêm trọn vẹn, sức mạnh vẹn toàn của nhân tính.
Người ta thường gọi ông là “Đấng Đạo Sư của Thế Gian”. Nếu có người xứng đáng được gọi danh hiệu như thế thì người ấy chính là Krishnamurti. Đối với tôi, điều quan trọng nhất trong thái độ tâm linh của Krishnamurti là ông không bao giờ muốn chúng ta coi ông như là bậc đạo sư, như một bậc thầy, mà chỉ muốn là một con người, với tất cả ý nghĩa đơn giản thông thường của hiện thể.
Krishnamurti đem đến một khái niệm mới là “Thực tại sáng tạo” đó là khi chúng ta lãnh hội với một nhận thức không chọn lựa, định kiến, so sánh.
Khi “thực tại sáng tạo” đi vào bản ngã và tiềm thức, con người sẽ xuất hiện tình thương và sự hiểu biết đích thực. Đó là sự tự do hoàn toàn trong tâm trí, khi sự thật hiện hữu trong từng khoảnh khắc.
Đó là tình yêu thương không mang tính cá nhân hay phi cá nhân, không thể định nghĩa hay mô tả bằng tâm trí, dù riêng biệt hay bao hàm.
Chỉ khi có được sự “tự do đầu tiên và cuối cùng” này, thì con người mới loại bỏ những hoạt động vị ngã như những xung đột, những mối nguy hại, lừa dối có mục đích. Khi quá trình này dừng lại, tình yêu thương và nhận thức đúng đắn xuất hiện, con người mới có thể giải quyết được các vấn đề gây khủng hoảng, chấm dứt chiến tranh, đau khổ, suy sụp…
Đây là tư tưởng trọng yếu và bao quát trong tất cả các tác phẩm của Krishnamurti.
Có thể nói, trải nghiệm đọc sách Krishnamurti không hề dễ chịu. Người đọc nôn nóng, không chịu tư duy sẽ dễ nản chí và gấp sách lại sau vài trang đầu.
Dịch giả Nguyên Phong (người phóng tác Hành trình về phương Đông, Dấu chân trên cát) có lần nhận xét:
“Nếu anh đọc kỹ sách của Krishnamurti thì ông ấy không hề khuyên bảo dạy hay trả lời gì hết, mà bắt anh phải tư duy suy nghĩ chiêm nghiệm để tự tìm ra câu trả lời”.
Cũng như trong những buổi nói chuyện khi ông còn sống, người ta hỏi Krishnamurti một câu, ông lập tức xoay vấn đề và hỏi ngược lại, để người hỏi phải suy luận và tự tìm ra lời giải.
Nhưng với ai thật sự nghiền ngẫm, tư tưởng Krishnamurti có thể thay đổi hoàn toàn góc nhìn của họ về cuộc đời, về cách họ làm mọi việc.
Kết luận Jiddu Krishnamurti là bậc hiền nhân, một triết gia, nhà tư tưởng, nhà giáo lãng du, nhà khoa học và nhà tâm lý học đột phá, song ông còn được xưng tụng là “người bài trừ thần tượng”, thậm chí được gọi là “kẻ nổi loạn”. Bởi những lời dạy của ông luôn dựa vào sự thấu triệt về tình trạng bị khuôn định của con người, chứ không dựa trên những hiểu biết thuộc sách vở, hay kinh sách.
Ở tuổi 90, Krishnamurti đã diễn thuyết tại Liên Hợp Quốc về chủ đề hòa bình và nhận thức, và ông đã được trao tặng Huân chương Hòa Bình của Liên Hợp Quốc năm 1984. Buổi nói chuyện trước công chúng cuối cùng của ông diễn ra tại Madras, Ấn Độ, tháng 1 năm 1986, một tháng trước khi ông qua đời tại nhà riêng tại Thánh phố cổ kính Ojai, California.
Hai triết gia nổi tiếng và gần gũi nhất với thời gian hiện tại, đó là Krishnamurti và Osho. Hai luồn tư tưởng gần như phá vỡ mọi trật tự của những khuôn định Triết Học và Tôn Giáo. Cả hai bị gán tội là “Kẻ nổi loạn”, nhưng cả hai được người đời tôn vinh như là hậu thân của Phật Thích Ca và Chúa Giê Su. Tuy nhiên cả hai vị triết gia đều phủ nhận mọi tước vị, chỉ muốn là một con người bình thường.
Chúng ta tiếp tục đi tìm những tư tưởng có nhiều ảnh hưởng nhất trên thế giới liên quan đến Thiền Định. Mọi người sẽ dễ dàng nhận ra Thiền Sư Thích Nhất Hạnh tại Làng Mai miền tây nam nước Pháp.
Triết lý sống của ông là hãy quan tâm đến Thời Gian hiện tại.
Ông chủ trương: “thông qua chánh niệm, chúng ta có thể học sống hạnh phúc trong giây phút hiện tại, cách duy nhất để phát triển hòa bình, cả trong bản thân và toàn xã hội.”
Vài nét về tiểu sử Thiền Sư Thích Nhất Hạnh. Sinh năm 1926 tại Thừa Thiên – Huế với tên khai sinh là Nguyễn Xuân Bảo. Ông xuất gia theo Thiền Tông vào năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu. Thiền sư tốt nghiệp viện Phật học Bảo Quốc, tu học thiền theo trường phái Đại Thừa của Phật Giáo và chính thức trở thành nhà sư vào năm 23 tuổi. Ông vừa là thiền sư vừa là giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người tiên phong trong việc đưa Phật Giáo qua Phương Tây, thành lập sáu tu viện và hàng chục trung tâm tu tập ở Mỹ và Châu Âu, cùng với hơn 1.000 cộng đồng thực hành chánh niệm được gọi là “sanghas”.
Ông đã xây dựng một cộng đồng rộng lớn, gồm hơn 600 nhà sư và nữ tu trên toàn thế giới, cùng với hàng chục ngàn sinh viên đang theo học, áp dụng các giáo lý về chánh niệm, hòa bình và xây dựng cộng đồng trong các trường học, nơi làm việc, kinh doanh và thậm chí là cả nhà tù trên khắp thế giới.
Đối với Thiền sư Thích Nhất Hạnh yếu tố thời gian chính là tư tưởng trọng yếu bao quát nhất trong triết lý của ông.
Theo ông thời gian thật sự vô giá. Đôi khi, chính vì nhịp sống vội vã, chúng ta để vụt mất đi những phút giây dành cho chính bản thân, gia đình và những giá trị khác trong cuộc sống của mình.
Ông mời gọi chúng ta hãy:
“Chậm lại một chút, sống trọn từng phút giây và cảm nhận sự hiện hữu của vạn vật trong từng khoảnh khắc, ta sẽ biết được mình đã bỏ lỡ những vẻ đẹp gì của cuộc đời trong những tháng ngày chạy đua với nhịp sống”.
Cuộc sống hiện đại luôn đi liền với những lo toan. Chúng ta luôn bị ám ảnh bởi ngày mai, không biết mọi thứ sẽ đi về đâu hay chuyện gì sẽ xảy đến. Chính vì lẽ đó, chúng ta đánh mất đi biết bao cơ hội để trải nghiệm hiện tại, được làm những thứ mình thích và ở cạnh những người ta yêu thương.
Lời nhắn nhủ của ông đến với mọi người, hãy tập trung, sống hết mình và tạo ra hạnh phúc ở ngay thời điểm hiện tại.
Sự vội vã tất bật của cuộc sống khiến chúng ta di chuyển quá nhanh, để rồi ta không còn thời gian để tận hưởng những khoảnh khắc dù chỉ là nhỏ nhất của cuộc đời.
Đôi khi, thiền định không chỉ là phương pháp duy nhất để đạt được sự an bình thư thái, chỉ cần chúng ta đưa ý thức của bản thân về hiện tại, bước đi chậm hơn, thở đều, nhìn ngắm xung quanh với tâm thái rạng rỡ, cũng đủ để bản thân ta thấy bình yên hơn mà tiếp tục hành trình cuộc sống. Với Thiền sư Thích Nhất Hạnh, bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể làm tâm mình lặng đi để cảm nhận sự chuyển động của vạn vật xung quanh:
Đi mà không tới
Trong cuộc sống bận rộn hằng ngày, ta không bị một áp lực thúc đẩy đi về phía trước. Ta thường phải “rảo bước”. Rảo bước để đi đến đâu, ta ít khi tự hỏi mình. Thiền hành cũng như đi bách bộ, không có mục đích đi tới một địa điểm nào trong thời gian cũng như trong không gian.
Mục đích của thiền hành là thiền hành. Cái quan trọng là đi chứ không phải tới. Thiền hành không phải là phương tiện. Thiền hành là cứu cánh. Mỗi bước chân là sự sống mỗi bước chân là sự an lạc. Vì vậy ta đi mà không cần phải rảo bước. Vì vậy ta sẽ đi chậm lại. Đi mà như không đi; đi mà không bị một mục đích nào kéo ta về phía trước. Vì vậy mà khi ta đi, ta có thể nở một nụ cười.
Bước chân thanh thản
Trong cuộc sống hằng ngày, bước chân ta trĩu nặng lo âu, thấp thỏm và sợ hãi. Có khi cuộc đời của chúng ta chỉ là một chuỗi năm tháng lo âu.
Bước chân ta vì thế không được thanh thản. Trái đất của chúng ta thật đẹp, trên trái đất có biết bao nhiêu nẻo đường tuyệt đẹp. bạn có biết quanh ta có bao nhiêu ngõ trúc quanh co, bao nhiêu con đường lúa thơm tho, bao nhiêu bìa rừng xanh mát, bao nhiêu lối đi đẹp màu lá rụng, nhưng ít khi ta thưởng thức được, cũng bởi vì lòng ta không thanh thản, bước chân ta không thanh thản.
Thiền hành là tập đi trở lại với những bước chân thanh thản. Hồi ta một tuổi rưỡi, ta tập đi những bước chập chững. Bây giờ đây thực tập thiền hành, ta cũng sẽ lại đi những bước chập chững như thế. Sau nhiều tuần lễ tập đi, ta có thể bước những bước vững chãi, an lạc, vô ưu.
Theo quan niệm của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Chánh niệm là một nghệ thuật tập trung tư tưởng vào ngay thời điểm hiện tại, là một cách để phát triển sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống của chúng ta.
Qua tư tưởng của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh tôi liên tưởng đến tư tưởng của triết gia Osho, ông mời gọi chúng ta sự sáng tạo, làm bừng cháy một sức mạnh tiềm ẩn bên trong, sáng tạo từ những bước đầu tiên.
Ông khiến chúng ta nhận ra rằng, bản chất cuộc sống là một vũ điệu, một bài thơ mỹ miều, chứ nó không trơ trọi như một cục đá sừng sững trước mặt bạn. Và vũ điệu đó, bài thơ đó, là do chính bạn viết nên. Không ai có thể làm hộ bạn điều đấy. Và dĩ nhiên, nếu muốn sáng tạo, điều đầu tiên bạn cần làm là tự mình bước ra khỏi đám đông. Bạn phải tự vạch ra cho mình hướng đi riêng, và tự mình giải mã những bí ẩn mà không để tư tưởng bị tác động bởi bất kỳ một yếu tố nào. Kết quả là dần dần, bạn sẽ được tận hưởng cuộc sống một cách đúng nghĩa và trọn vẹn nhất.
Osho cũng nhận biết về hạnh phúc xuất phát từ tâm hồn. Ông cho rằng con người vẫn hay ước mơ về điều mà họ luôn muốn có, nhưng chưa có được.
Cũng giống như vậy, ai càng đau khổ, người ấy càng khát khao được hạnh phúc. Bất hạnh càng nhiều, nỗi khát khao ấy càng lớn.
Tuy nhiên, hạnh phúc không có nghĩa là chối từ sự khổ đau. Cũng không phải là chịu đựng sự âm ĩ và mãi khóc than cho nỗi đau đó.
Trong Hạnh phúc tại tâm, Osho không định nghĩa hạnh phúc, cũng chẳng chỉ ra lý thuyết hạnh phúc. Osho không chỉ cho ta cách khước từ đau khổ để kiếm tìm hạnh phúc.
Osho cũng không khuyến khích chịu đựng và khóc than đau khổ. Osho muốn chúng ta chăm sóc nỗi khổ đau, đối diện và vượt qua nó. Trong những bài viết đầu tiên ông đã viết.
Khi bạn làm với sự nhận biết thì đó là thiền. Không phải là hành động mà chính là phẩm chất của bạn mang vào hành động, điều đó mới là vấn đề của suy tư và Thiền Quán Chiếu.
Tôi đã miên man trình bày, biên khảo một chủ đề quá rộng lớn, vượt ra ngoài sự hiểu biết nhỏ bé của tôi, mặc dù ngôn từ không thể nào đủ sức dẫn đưa luồn tư tưởng vào sự mênh mông của Tiết Học và Thiền Định, nhưng ít ra chúng ta cũng nhận biết một khái niệm bao quát về hai nguồn tư tưởng này.
Để từ đó mỗi người trong chúng ta có thể tìm thấy một lối đi riêng cho chính mình, ung dung tự tại. Hãy bước đi mà không đến, vì nơi đến chính là tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Tôi xin mượn bài thơ ngắn do tôi viết, để kết thúc bài viết bao la như biển rộng, mây trời, biết bao giờ mới đến nơi. Thôi thì xin kết thúc nơi đây qua bài thơ (Nhìn vào tâm)
Nhìn Vào Tâm
Hướng vào tâm hồn, ta nhìn thấy
Phật nằm trong thánh địa tâm này
Đáy hồn ta báu vật gìn giữ
Thiện tánh trong ta khối lượng đầy.
Ta còn tìm đến tận nơi xa
Mà quên khó báu, trong hồn ta
Nơi đây hiện diện chân hoàn mỹ
Đừng kiếm nơi nào ngoài chính ta.
Trân trọng
Louis Tuấn Lê
San Jose October 7, 2021

Công Án Thiền Là Gì?
Biên Khảo: Louis Tuấn Lê
Trước khi trả lời câu hỏi này, chúng ta cần hiểu rõ hơn về từ ngữ công án. “Công án” là cách phát âm từ chữ “kun-an” của Trung Hoa và ý nghĩa của chữ công án là “một bức công văn đặt trên án thư”. Nhưng từ ngữ này được các Thiền Sư, đem vào thiền học một cách khác thường, thoạt đầu “công án” chỉ là một mẩu đối thoại hoặc một biến cố nào đó xảy ra giữa Thiền Sư và đệ tử của ngài.
Tóm lại, công án có nghĩa là một câu chuyện Thiền, một vấn đề Thiền. Tham công án thường ngụ ý là cố giải quyết một vấn đề Thiền.
Như câu hỏi: “Ai là kẻ niệm Phật?” hay “Tất cả các pháp quy về một, cái một ấy quy về đâu?” hoặc chỉ một chữ “Vô” (Có nghĩa là không hay hư không).
Công án thiền cũng là ngôn ngữ, là hành động nhưng chúng ta không thể hiểu nó bằng tư duy, bằng lý giải trong suy tưởng, mà chỉ có thể thâm nhập vào trong nó, hiểu biết nó bằng trực giác.
Thế nên những công án Thiền không phải là đối tượng để cho chúng ta có thể tiếp cận hay hiểu nó bằng cảm nhận qua tri thức, bằng triết lý, chúng ta không thể lý giải bằng ngôn ngữ, văn tự theo cách hiểu thông thường.
Nghĩa là những Thiền ngữ này, tức phương tiện khai thị của các Thiền Sư hoàn toàn không giống như những bài toán, những luận đề hay là những lý thuyết khoa học mà con người có thể biện giải, phân tích, luận bàn đúng sai, phải trái, để rồi dẫn đến một kết luận tương đối hay và cho ra một đáp án chung nhất có thể chấp nhận được.
Trong Thiền Tông, thuật ngữ quan trọng này chỉ một phương pháp tu tập thiền định đặc biệt.
Công án có thể là một đoạn kinh, một kinh nghiệm giác ngộ, một câu chuyện về một vị sư, một cuộc đàm thoại, vấn đáp hay một cuộc pháp chiến. Nhưng chúng có chung một điều là đề cập đến thể tính của vạn vật.
Đặc trưng của công án là thường thường nghịch lý, “nằm ngoài phạm vi của lý luận”. Công án không phải là “câu đố” thông thường vì nó không hề được giải đáp bằng lý luận, muốn hiểu nó phải có cách nhìn khác, ở một cấp độ khác của nhận thức.
Công án là một bài toán, một câu đố mà người học trò nhận được ở vị thầy mình, một đề tài Thiền mà người ấy phải luôn luôn giữ trong tâm thức, không dùng đến lý luận lô gích, cho đến khi một ngày kia câu trả lời xuất hiện bằng trực giác, một cách bỗng nhiên, sáng tỏ. Chứng ngộ.
Khoảng giữa thế kỉ thứ 10, Thiền tông bắt đầu dùng công án như phương tiện để giáo hoá và các thiền sinh sử dụng chúng làm đối tượng quán tưởng trong lúc thiền. Vì lời giải của công án thường nằm ngoài lý luận, nên thiền sinh thấy rõ giới hạn của tư duy và bị buộc phải chuyển hoá tâm thức bằng một bước nhảy của trực giác, nhảy qua khỏi sự mâu thuẫn của lý luận nhị nguyên.
Với tâm thức này, thiền sinh có một kinh nghiệm trực tiếp về thể tính. Phương tiện công án được phổ biến trong các dòng thiền Lâm Tế tông, Tào Động tông ở Trung Quốc và Nhật Bản.
Thường thường đó là một câu truyện ngắn gọn, một giai thoại hay một cuộc đối đáp giữa hai thầy trò, mà điểm đặc biệt là tính chất ngược đời, theo từng quan niệm của nó. Như vậy nó không phải là một sự bí ẩn phải khám phá ra, một giải đáp cho một câu hỏi, nhưng đúng hơn là một bài tập tâm thức có thể đưa tới chứng ngộ, còn gọi là tuệ giác hay trí huệ Bát Nhã.
Trên thực tế, công án là một phương tiện, một mẹo được xem như một sự bổ túc có ích lợi cho Thiền định và thường được dùng bởi trường phái Lâm Tế (Nhật: Rinzai), nhưng đối với trường phái Tào Động (Nhật: Soto) xem nó là phụ.
Trong vài thế kỷ gần đây, công án đã trở nên phổ biến, đôi khi một cách quá đáng, chúng đã trở thành một con đường bắt buộc, như những đề tài luận án theo qui ước, thay thế tinh thần “dĩ tâm truyền tâm” giữa thầy và trò, đặc biệt trong Thiền.
Ảnh hưởng sai lầm đó đã bị chính các vị Thiền Sư chỉ trích, và khuyến cáo rằng mỗi câu chuyện là một câu chuyện đặc biệt xẩy ra ở một hoàn cảnh đặc biệt, trong một sự liên hệ cá nhân giữa thầy và trò.
Trong những công án, người ta phân biệt thoại đầu, là một chữ hoặc một thành ngữ, một câu hỏi căn bản đặt lên bởi một vị thầy. Nghĩa gốc thoại đầu là “nói, đầu”.
Có một số thí dụ quen thuộc về những công án:
“Bộ mặt đầu tiên của anh trước khi cha mẹ anh sinh ra như sao?”.
“Khi vỗ hai bàn tay người ta nghe thấy một tiếng vỗ, vậy thì đâu là tiếng vỗ của một bàn tay?”
“Cái gì suy nghĩ?”
“Anh hiện nay đang làm gì?”
Đại loại là như thế, có những câu hỏi thật ngớ ngẩn, nó như muốn phá vỡ mọi trật tự vốn có.
Phương tiện công án được phổ biến trong các dòng thiền Lâm Tế Tông, Tào Động Tông ở Trung Quốc và Nhật Bản. Người ta cho rằng, nếu gom góp lại có tất cả khoảng 1700 công án, đây chỉ là một con số mang giá trị trừu tượng, trong số 1,700 công án, có vào khoảng 500-600 công án, ngày nay còn được lưu hành tại Nhật.
Qua bài viết rất hạn hẹp, tôi không thể nào đem vào đây những công an thiền. Chỉ là một tượng chưng về những công án thiền mà chúng ta thương nghe nói đến, hay còn ghi chép trong các sách vở.
Chúng ta nên nhắc lại một vài câu chuyện đối đáp hay trong tập truyện “Truyền Đăng Lục” Chương sách Mã Tổ:
“Một vị tăng hỏi Mã Tổ: ‘Tại sao ngài lại dậy là “tâm chính là Phật?” .
Đó là để dỗ dành đứa bé đang khóc, người thầy trả lời.
Khi nó nín khóc rồi thì sao?
Tôi dậy: ‘Không tâm, không Phật.’
Nếu có người không là cái này, không là cái kia, ngài dậy sao?
Tôi sẽ dậy: ‘Chúng sanh cũng không”.
Xin để bạn đọc suy nghĩ về sự tinh tế của những câu trả lời, và xin nhắc lại rằng trong Đại Thừa, giữa Tâm, Phật và Chúng Sanh, không có gì khác biệt (Tâm Phật chúng sanh, tam vô sai biệt ).
Sự phủ định cái “không”. Câu truyện sau đây không có trong tập công án này, nhưng rất điển hình, bởi vì câu chuyện cho chúng ta thấy rõ rằng trong tinh thần Thiền, sự chấp chặt vào cái Không cũng phải được xả bỏ.
“Một vị tăng tới thăm Triệu Châu và nói:
Tôi không mang gì theo hết.
Hãy bỏ đi’, vị thầy trả lời.
Nhưng tôi không mang gì theo hết, thì phải bỏ gì ?’
Nếu ông không có gì bỏ hết, thì hãy mang về đi.
Nghe thấy vậy, vị tăng hốt nhiên chứng ngộ”.
Trong câu truyện này, vị tăng bị thắc mắc vì đi tới tay không, ông chấp chặt vào cái không đó, cho nên câu trả lời của Triệu Châu, phủ nhận cái không đó, đã làm cho vị tăng ý thức được rằng cái không đó không có thật.
Câu Chuyện. “Gậy trúc của Thủ Sơn”, chủ đề là cách kêu gọi một đồ vật:
Hòa thượng Thủ Sơn giơ gậy trúc lên trước chúng mà hỏi:
Này các ông, nếu gọi là gậy trúc thì xúc phạm, không gọi là gậy trúc thì trái nghịch. Vậy thì các ông gọi là gì?
Khi hối thúc học trò trả lời, vị thầy đẩy học trò vào một ngõ bí: không thể dùng được ngôn từ, không thể không dùng nó được. Gọi tên một vật, tức là chấp vào tên của nó, không gọi tên nó, tức là phủ nhận sự vật. Lối thoát duy nhất là vượt qua khỏi cái nhị nguyên đó, hoặc bằng cách lên tiếng nói, hoặc bằng cách chứng tỏ rằng câu hỏi đó vô nghĩa.
Câu chuyện “Qui Sơn đá đổ tịnh bình”.
Diễn tả sự hiểu biết vượt qua khỏi ngôn từ trong tinh thần Thiền :
“Hòa thượng Qui Sơn trước kia ở với Bách Trượng, giữ chức điển tòa (đầu bếp). Bách Trượng sắp chọn người đến núi Đại Qui làm trú trì, bèn mời Qui Sơn cùng ông thủ tòa Hoa Lâm ra đối đáp trước chúng, ai nói trúng sẽ được đi. Bách Trượng đặt một tịnh bình (chai nước) dưới đất, rồi hỏi:
Không được gọi là tịnh bình, thì gọi là gì?
Ông thủ toà đáp: – Không thể gọi nó là khúc cây.
Bách Trượng quay sang hỏi Qui Sơn.
Sơn liền đá đổ tịnh bình rồi quay đi.
Bách Trượng cười lớn, nói: ‘Thủ toà đã thua hòn núi rồỉ’.Vá phái Qui Sơn đi làm tổ khai sơn.
Như vậy, trong khi thủ tòa Hoa Lâm còn bị sa lầy vào sự mô tả bằng lời nói, Qui Sơn đã vượt qua khỏi những dính mắc, ngôn từ, khẳng định cũng như phủ định, bằng cách chỉ thẳng vào sự vật bằng một động tác làm cho đồ vật được lập tức nhận ra không là gì, nó vượt qua sự mô tả bằng ngôn từ.
Sự vô lý của câu hỏi.
Có một cách trả lời khác là chứng minh sự vô lý, vô nghĩa của câu hỏi, hoặc là tính chất hão huyền của sự lựa chọn giữa hai câu hỏi. Câu hỏi vô nghĩa, thì trả lời cũng vô nghĩa, có thể nói là như vậy.
Đó là trường hợp của câu chuyện bất hủ.”Nam Tuyền chém mèo”:
Hòa thượng Nam Tuyền, nhân tăng chúng hai bên Đông và Tây tranh nhau một con mèo, bèn giơ con mèo lên nói:
Các ông nói được thì con mèo được tha, nói không được thì ta chém. Chẳng ai biết nói sao. Nam Tuyền bèn chém con mèo.
Buổi chiều, Triệu Châu trở về. Nam Tuyền kể lại chuyện cho Triệu Châu nghe. Triệu Châu liền cởi dép, để lên đầu mà đi ra.
Nam Tuyền than : Nếu lúc đó có ông, thì đã cứu được con mèo rồi !
Trong câu chuyện này, những tâm hồn đa cảm chắc hẳn sẽ bị sốc vì sự tàn nhẫn của Nam Tuyềnđối với con mèo:
Làm sao một vị Thiền Sư, đệ tử của Phật, có thể giết một sinh vật để thử học trò mình ? Tâm từ bi ngài để đi đâu ? Dĩ nhiên, người ta cũng có thể đặt câu hỏi về sự thật của câu chuyện này.
Biết đâu đó chỉ là một đồ chơi, chẳng hạn một chiếc tượng mèo bằng gỗ mà các tăng chúng tranh giành nhau, và vị thầy sẽ phá hủy nếu họ không bênh vực được ? Dù sao chăng nữa, ở đây không đặt ra vấn đề luân lý, và trong tinh thần Thiền, sự bám chặt vào luân lý cũng là một trở ngại trên con đường kiến tánh.
Ở đây các học trò cũng ở trong thế không thể lựa chọn được, nếu có ai lên tiếng đòi lại con mèo thuộc phía mình, hoặc van xin tha chết cho con mèo, thì cũng là sai lầm; không lên tiếng thì đưa tới kết quả như chúng ta đã thấy.
Trong công án này, chúng ta phải thấy rằng cử chỉ hài hước và kỳ quặc của Triệu Châu, thật ra là một cách tránh đỡ cực kỳ khôn khéo, tài tình, như một chiêu kiếm, gạt phăng chiêu tấn công của vị thầy:
Câu hỏi đã vô lý, thì câu trả lời phải vô lý;
Câu hỏi có hành động điên khùng, thì phản ứng cũng điên khùng.
Qua cử chỉ của mình, Triệu Châuđã chứng tỏ rằng hành động chém mèo cũng vô lý và điên khùng không kém gì hành động cởi dép và để lên đầu mà đi.
Vị thầy đã công nhận chịu thua, và con mèo đáng lẽ ra đã được cứu sống…
Câu trả lời kỳ quặc: một sự nhắc nhở trở về hiện tại. Câu hỏi điên, câu trả lời điên, một sự nhắc nhở đúng thời điểm nhất.
Trong nhiều câu truyện Thiền, những câu trả lời của các vị Thầy có vẻ kỳ quặc, không đâu vào đâu, vô nghĩa hoặc hoàn toàn xa lạ với câu hỏi.
Ví dụ: “Ba cân gai của Động Sơn”
Một vị tăng hỏi Hòa thượng Động Sơn: ‘Phật là gì ?
Trả lời: Ba cân gai.
Câu chuyện: “Cây bách trước sân”
Một vị tăng hỏi Triệu Châu: Thế nào là ý Tổ sư từ phương Tây sang?
Trả lời: Cây bách ở trước sân.
Câu Chuyện: “Xa lìa khỏi ngôn ngữ”
Một vị tăng hỏi Phong Huyệt:
“Nói hay im đều là vụn vặt, làm sao hiểu mà không mắc?”
Trả lời: Nhớ mãi Giang Nam vào tháng ba, chim chá cô hót giữa trăm hoa thơm’. Đây là bài thơ của Đỗ Phủ:
“Trường ức Giang Nam tam nguyệt lý,
Chá cô đề xứ bách hoa hương”
Thơ dịch:
“Giang Nam nhớ mãi ngày xuân ấm,
muôn hoa lừng tiếng chá cô kêu”.
Trả lời: mượn câu thơ của Đỗ Phủ. Mượn theo ý thơ để trả lời câu hỏi, đây chính là điều hiểu mà không mắc.
Cho phép vượt qua khỏi lời nói và sự im lặng, và cũng một phần nào làm lắng đọng được sự lo lắng của vị tăng khách, qua không khí tĩnh lặng, an lành mang lại bởi câu thơ.
Các câu trả lời của các vị Thiền sư, dù có vẻ kỳ quặc, vô nghĩa thế nào chăng nữa, cũng không phải được lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Chúng nhằm chứng minh cho người nghe là không thể trả lời một cách lô gích “logic”
Một lời giải hợp lý, chỉ trói buộc vào vòng luẩn quẩn của khái niệm và ngôn ngữ, đồng thời kéo trở lại hiện tại là cái có thể đạt được tức thì, một sự hiện hữu thực tại không thể trối bỏ.
Như cây bách nhìn thấy trước sân, hoặc ba cân gai mà vị Thầy vừa nói tới, hoặc bài thơ mà ngài vừa nhớ lại.
Thêm một câu chuyện dẫn chứng, hãy trở lại hiện tại, sống trọn vẹn mỗi lúc ,mỗi giây.
Câu chuyện: Triệu Châu rửa bát
Một vị tăng hỏi Triệu Châu:
Tôi mới vào chùa (Tùng lâm), xin ngài chỉ dậy cho.
Ông ăn cháo chưa?’ Châu hỏi.
Ăn cháo rồi. Tăng trả lời.
Đi rửa bát đi. Châu nói.
Vị tăng liền tỉnh ngộ.
Một câu truyện tương tự tả lại sự gặp gỡ giữa Triệu Châu và Lâm Tế.
Lâm Tế lúc đó đang rửa chân.
Ý nghĩa của Tổ sư đến từ phương Tây là gì ?’ Triệu Châu hỏi.
Ông thấy đó, tôi đang rửa chân. Lâm Tế trả lời.
Triệu Châu tiến tới gần, tỏ vẻ lắng tai nghe.
Tôi phải đổ cho ông một gáo nước dơ thứ hai mới được, Lâm Tế nói.
Triệu Châu nghe vậy, bỏ đi.
Như vậy, tất cả các vị Thiền sư không ngừng nhắc nhở cho học trò trở lại hiện tại, sống trọn vẹn mỗi lúc, giữ niệm (pali sati, sanskrit smrti, Nhật nen)
Điều đó có nghĩ là “tâm trong hiện tại”.
Đó chính là giữ chánh niệm (pali samma-sati), thuộc về Tám Chánh Đạo được dậy bởi đức Phật Thích Ca.
Đối với người hành Thiền, không có gì không phải là Thiền. Không chỉ riêng cuộn gai, cây bách, bát cháo, nước rửa chân, mà ngay cả mọi sự vật trên thế giới này, núi, sông, đất, ánh mặt trời, tất cả những gì tâm nhận thức được là Thiền.
Tâm bình thường là đạo
Bình thường là đạo(Bình thường tâm thị đạo)
Triệu Châu hỏi Nam Tuyền:
Thế nào là đạo?
Tâm bình thường là đạo, Tuyền đáp.
Có thể tìm đến không? Châu hỏi
Tìm đến tức là sai, Tuyền nói
Không tìm đến, làm sao biết là đạo?’Châu hỏi
Đạo không thuộc biết hay không biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu đạt được đạo bất nghi, lúc đó như thái hư, trống không rỗng tuếch, há có thể nói được phải trái sao?’
Châu nghe vậy liền đốn ngộ.
Vô Môn làm bài kệ tụng sau đây:
“Xuân có trăm hoa, thu có trăng,
Hạ về gió mát, tuyết đông giăng.
Ví lòng thanh thản không lo nghĩ,
Ấy chốn trần gian buổi đẹp trời”.
Không có gì có vẻ đơn giản hơn là « tâm bình thường », giản dị, tự nhiên, thanh thản. Tuy nhiên điều đó không phải là dễ, bởi vì tâm lý con người thường hay phức tạp, cho nên phải có một sự cố gắng thực hành liên tục để làm cho nó trở thành « bình thường ».
Đồng thời cũng không nên tìm kiếm nó, tại vì tìm kiếm nó, như lời của Nam Tuyền, là chất chứa thêm những ý nghĩ không cần thiết, tức là đã đi sai đường.
Đó cũng là lời dậy của vua Trần Nhân Tông, vị tổ sáng lập ra phái Thiền Việt Nam Trúc Lâm Yên Tử, trong một bài thơ dài kết thúc bằng bốn câu :
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề, thốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói thì ăn đã, mệt ngủ liền.
Trong nhà của báu, thôi tìm kiếm,
Truớc cảnh vô tâm, chớ hỏi Thiền.
Một trong những thói quen cố hữu của con người là chấp chặt vào vẻ ngoài và những đức tính tưởng tượng của một số nhân vật, nhất là những vị mà họ kính trọng nhất.
Câu chuyện: “Que cứt khô của Vân Môn”
Một vị tăng hỏi Vân Môn :
Thế nào là Phật ?’
Que cứt khô. Vân Môn trả lời.
Câu trả lời, dưới mắt một tín đồ tôn giáo thuần thục, thì đó là một sự phỉ báng, xúc phạm nặng nề đối với bề trên.Dưới mắt một Phật tử chính thống thuần thành, thì đó là một câu trả lời thô lỗ, tục tằn, bất kính.
Nhưng trong Thiền,người ta gặp không ít những lời lẽ kỳ cục, gây sửng sốt như: “Đừng có nằm mơ lớn tiếng như vậy!” hay “Hãy súc miệng đi, nói thối quá” hay “Cho ta chút nước để ta rửa tai”. Có rất nhiều những câu nói nghe không chịu nổi.
Thật ra, ở đây cũng vậy, câu trả lời tự nó không có ý nghĩa gì. Nó chỉ nhằm lay chuyển người trước mặt, bằng cách đập tan những định kiến của người đó.
Khi vị tăng đặt ra câu hỏi, chắc hẳn trong đầu ông Tăng, đã có hình ảnh của một vị Phật toàn bích, tinh khiết, thiêng liêng,v.v., thật ra là một vị Phật tưởng tượng, giả mạo mà Vân Môn muốn lật tẩy, muốn phá hủy, bằng cách gọi nó là một “que cứt khô”. Đó chính là ý nghĩa của câu ”gặp Phật giết Phật”, giết cái hình tượng Phật giả mạo mà chúng ta đã tạo nên trong đầu óc và tin là có thật.
Cuộc đối thoại này cũng gợi lên một câu truyện về Tuệ Trung Thượng Sĩ, là thầy của vua Trần Nhân Tông:
Một vị tăng hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ :
Thế nào là thanh tịnh Pháp thân ?’
Ra vào trong bãi cứt trâu, nghiền ngẫm trong vũng đái ngựa. Trung trả lời.
Thoạt nghe thì có vẻ thô tục, lỗ mãng, nhưng thật ra đối với người đã thấy rõ bản lai diện mục của mình, thì đái, ỉa cũng bình thường và tự nhiên như ăn, uống, và một cục phân trâu cũng không dơ bẩn hay trong sạch hơn một đóa hoa sen. Trong sạch hay dơ bẩn chỉ là những sản phẩm của sự phân biệt trí thức, là những ảo tưởng gây nên bởi tâm lý con người.
Cũng như lời dậy của Lục tổ Huệ Năng:
“Khi trân quí khái niệm thanh tịnh và dính mắc vào nó, ta sẽ chuyển đổi thanh tịnh thành sai lầm. Sự thanh tịnh không có hình tướng, và khi ta đã ấn định một hình thức thể hiện sự thanh tịnh, thì ta đã đi ngược lại bản tánh của mình, và trở thành nô lệ của sự thanh tịnh.”
Vài thế hệ sau, Hoàng Bá Hi Vận cũng tuyên bố :
“Nếu ta nhìn đức Phật dưới vẻ thanh tịnh, giác ngộ và hoàn toàn giải thoát, và chúng sanh dưới vẻ ô nhiễm, vô minh và ngụp lặn trong luân hồi, thì ta sẽ không bao giờ tuệ giác, mặc dù sau vô số kiếp. Đó là tại chúng ta chấp chặt vào vẻ ngoài, vào hình tướng”.
Rốt cục, khi tìm lại nguồn gốc, chúng ta thấy rằng Kinh Kim Cương, là một trong những bài kinh căn bản của Thiền, dã dậy cho chúng ta nên coi chừng vẻ ngoài của sự vật và nên lìa xa nó :
“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”
“Tất cả những gì có hình tướng đều là hư vọng”.
Chúng ta cũng thấy trong Kinh sự cảnh cáo không nên dính mắc vào những hình tượng cũng như những kinh kệ hướng về đức Phật :
“Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai”
Nếu lấy hình sắc để tìm ta, lấy âm thanh để cầu ta, thì người ấy theo tà đạo, không thể thấy được Như Lai. Và dĩ nhiên, trong Kinh có một câu nổi tiếng đã gây nên đại ngộ nơi Huệ Năng và vua Trần Thái Tông:
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Không nên để tâm dính mắc vào ở một nơi nào.
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều đại nhà Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền. Ngài cũng từng thực tập thiền công án. Ngài đã để lại 43 công án Thiền, để cùng thực tập với tăng thân của Vua, gồm có giới xuất gia và tại gia.
43 công án thiền do Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch thuật. (tôi không trích dẫn vì quá dài)
Thiền ngữ của các bậc giải thoát nói ra như mây bay, như gió thổi, như sấm sét, như mưa rào, chợt đến, chợt đi, thoắt biến, thoắt hiện, không từ một gốc gác, một trụ xứ nào, khiến không một mảy may suy tưởng, tri thức có thể nắm bắt, nương vịn. Tuỳ căn cơ, trí tuệ, và đặc biệt là phước duyên sâu dày của từng người cầu đạo đối với pháp môn này, mà ngay trong chỗ biến hóa khôn lường của từng lời vượt thoát kia vừa chợt lìa miệng vị Tổ, thiền ngữ tự có công năng kỳ đặc, nhiệm mầu, kích thích sự khai mở tuệ nhãn một cách tích cực, hiệu quả tức thì.
Đó là thứ ngôn ngữ, hành động xuất phát từ cảnh giới tự chứng, vượt tri kiến, lìa đối đãi nhơn quả, có công năng vừa chặn lấp, đánh đổ, triệt tiêu toàn bộ mọi ngóch ngách có thể nghĩ ngợi, suy lường bằng thế trí của người đối diện, vừa kích thích sự phát huy mạnh mẽ tiềm năng trực giác, vừa cùng lúc biết khai mở lối thoát đúng thời điểm cho trực giác phóng xuất, ngay đó tánh thấy biết bổn lai bùng vỡ, cũng là hốt nhiên ngộ nhập bản thể.
Công án là một công cụ cao cấp, không có sức mạnh siêu nhiên ẩn tàng nào nhưng lại có thể giúp hành giả giác ngộ khi thực hành đúng đắn. Thiền sư Genki gọi chúng là ‘cách mở nắp lon’ cho Tâm của bạn.
Công án chỉ nên được dùng sau khi bạn đã vào được chánh định. Chánh định là trạng thái của tâm khi tất cả ý niệm, suy nghĩ, cảm thọ, phán đoán, đã im bặt, và tâm đã trở nên sáng tỏ, lặng lẽ, phản chiếu một cách tự nhiên, trôi chảy tự do trong khoảnh khắc này.
Nếu tâm bạn chưa đắc định, thì đừng tu tập gì với công án. Công án sẽ quậy lên dòng nước của tâm, và nếu tâm đang có sẵn sự hỗn loạn thì pháp tham công án sẽ chỉ làm cho mọi chuyện tệ hơn. Đó là lý do vì sao Thiền sư Genki chỉ trao cho công án trong khi vào các kỳ nhập thất Sesshins.
Công án sẽ (Không) được giải đáp. Bất kỳ đáp ứng mô tả nào: kiểu như trả lời có hay không, hay kiểu như cái này, như cái kia, đều sẽ bị bác bỏ. Thường thường, công án không cần gì tới lời nói ngôn ngữ. Một vài cử chỉ đột khởi cũng là đủ rồi. Công án không được trả lời, nhưng được giải quyết.
Để tham một công án có nghĩa là để một công án hoạt động trong bạn. Khi một mức độ chánh định đã đạt được, bạn đưa công án vào tâm.
Cách khởi công án thích hợp nhất là nêu câu hỏi một cách dịu dàng nhưng liên tục vào ý thức. Đừng mất thì giờ tìm cách hiểu công án. Hãy để nó đưa tâm của bạn xuyên qua chất vấn này, và đừng có nỗ lực nào giải đáp nó.
Bất kỳ phân tích nào cũng chỉ làm uổng phí thì giờ, và tận cùng kiểu đó chỉ cao lắm là sản xuất ra một câu trả lời kiểu Thiền giả mạo.
Công án là một khí cụ nhắm tới chỗ diễn dịch, giải thích, bắt chước hay phân tích của chúng ta mà đánh vào, và rồi, chỉ sau khi chúng ta cạn kiệt hay là buông bỏ hết mọi kiểu khảo sát, điều tra loại đó, thì một mức độ thâm sâu hơn của tham cứu mới có thể dò tới được.
Ví dụ như câu chuyện về: Tách trà
Một vị giáo sư của một trường đại học danh tiếng đến tìm gặp Thiền Sư, vì đã được nghe nói về trí tuệ cũng phẩm hạnh cao quý của ngài. Để chứng tỏ bản thân với Thiền Sư, ông ta giới thiệu một cách đầy tự hào về tất cả các danh hiệu, bằng cấp mà ông ta đã đạt được trong suốt những năm dài vất vả học tập và làm việc. Sau đó, vị giáo sư nói lí do của chuyến viếng thăm, đó là muốn tìm hiểu tất cả những trí tuệ của Thiền.
Thay vì đưa ra lời giải đáp, Thiền sư mời ông ta ngồi xuống và pha một ấm trà. Ngài rót cho giáo sư một chén trà và khi đầy chén, ngài vẫn tiếp tục rót.
Vị giáo sư nhìn nước trà tràn ra bàn cho đến khi không nhịn được nữa, bèn lên tiếng: “Trà đã đầy tràn rồi, không thêm được nữa đâu!.
Bấy giờ, Thiền sư mới thong thả đặt ấm trà xuống và nói:
Thì cũng như chén trà này, ông mang đầy những tư kiến và thành kiến. Làm sao tôi có thể chỉ cho ông về Thiền nếu ông không tự làm cạn cái chén của mình.
Câu chuyện này dạy cho chúng ta rằng: Với một tâm trí đầy những thành kiến, những suy nghĩ bảo thủ, chúng ta không thể học hỏi, tiếp thu những tri thức mới, những triết lý cao đẹp ở đời. Thể hiện một thái độ khiêm cung, dẹp bỏ sự chấp ngã là chúng ta đang tự làm cạn những chiếc chén tâm hồn của mình.
Để kết luận:
Như chúng ta đã biết, hơn bốn thập kỷ qua phong trào học Thiền, đã và đang phát triển mạnh trên toàn thế giới, nhằm đáp ứng những nhu cầu cấp bách, do môi trường sống chung quanh đang tác động, qua đó con người là nạn nhân chính do nền văn minh cơ khí vật chất hiện đại mang lại.
Chúng đã làm băng hoại tất cả mọi giá trị tinh thần, kể cả những thành tựu về vật chất do chính chúng ta đẻ ra. Từ những đòi hỏi đó, chỉ có Thiền mới đáp ứng và giải quyết một cách trực tiếp, sự điều hòa cuộc sống thế giới, trong đó con người là yếu tố cần thiết cho mọi quyết định này, do đó Thiền học hiện đang là đối tượng cần được phát triển mạnh.
Chính vì muốn có sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa, nên Thiền đã trở thành đối tượng nhận thức tư duy cho mọi người, và cũng từ đó chúng đẻ ra không ít, những sai lầm trong phương pháp học, cũng như trong việc thực hành do chính con người tạo ra, mà cái hậu quả của chúng sẽ trở thành một tác dụng nguy hiểm, đối với chính họ và những người đi sau.
Hiện tại, Thiền đã trở thành một phong trào thời thượng, để trang điểm cho một nội dung trống rỗng, mà con người đang đổ xô chạy theo nó và, tự đánh mất chính mình.
Thiền đa và đang đi vào lãnh vực kinh tế, trở thành một loại sản phẩm mua bán, được quảng cáo rầm rộ trên các món hàng, trên các thực phẩm trên mọi nhu cầu tiêu thụ của khách hàng. Chúng ta nhận ra vô số những sản phẩm mang nhãn hiệu ZEN.
Đó là một hiện tượng suy đồi của Thiền, chứ không phải là một sự phát triển. Vì chúng đã phản bội lại truyền thống và, sự kế thừa của Thiền Tông mà chủ đích nhắm đến của nó là:
“Trực chỉ nhơn tâm kiến tính thành Phật,
giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự.”
Với tinh thần này thì rõ ràng những việc làm hiện tại của chúng ta, trong việc cố gắng đại chúng hóa Thiền tông bằng cách bàn luận, định nghĩa, phân tích Thiền như thế này, hay như thế kia qua những bộ luận dày cộm, với mục đích là để cho mọi người cùng hiểu như chúng ta; hay bày ra những trò hí luận ngoa ngôn xạo ngữ, nhằm trang điểm cho một thứ kiến thức què quặt qua cửa miệng.
Họ đâu biết rằng, việc bàn công án của họ, không những không đem đến cho mọi người một sự đạt ngộ nào về Đạo Thiền, mà ngược lại còn làm cho người ta xa lìa ngăn cách hơn.
Họ cứ tưởng rằng: Lý Thiền lý Đạo là như thế này hay như thế kia, rồi an tâm cho rằng mình đã đạt Đạo, đã đạt Thiền. Từ đó, chấp vào khái niệm ngôn từ qua lời bàn của chúng ta, cho đó là Đạo là Thiền, thế là muôn kiếp ngàn đời, họ bị chết chìm trong mớ khái niệm ngôn từ đó, làm sao thoát ra được?
Cho dù chúng ta nỗ lực giảng giải phân tích đến chỗ kỳ cùng của nó, và khiến cho mọi người hiểu được, thấy được đi chăng nữa, thì cái hiểu và cái thấy này, vẫn là cái hiểu cái thấy về một khái niệm biểu hiện cho một thực tại, mà chúng ta chưa được thấy như thực chính nó.
Do đó, cái hiểu và cái thấy này, vẫn ở trong vọng thức điên đảo phân biệt. Còn tự nó, lý Thiền lý Đạo vẫn ở ngoài tầm tay và ngoài trí phân biệt của chúng ta.
Tôi xin mượn câu nói của triết gia Osho để kết thúc cho bài biên khảo này.
“Thiền định không hề là một dạng của sự tư duy có tính tâm linh mà là một tình trạng vắng bặt tư duy. Mọi triết lý để cố định nghĩa về thiền định, có thể ví như những lời to tiếng bàn luận về sự lặng yên, còn thiền định là bản thân chính là sự lặng yên.” Đó chính là nguồn tư tưởng của triết gia OSHO.
Và tôi cũng xin kết thúc bài viết rất mênh mông bao la như biển cả, không biết đâu là bến bờ. Với ngôn ngữ thông thường làm sao có đủ nghĩa để giái thích hết mọi sự.
Thôi thì xin mượn bài thơ (Hồn Mê) mang chút tâm ý Thiền do tôi viết để kết thúc bài biên khảo này. Nếu có điều gì thiếu xót, hay sai trái. Rất mong quý đọc giả lượng tình tha thứ.
Chỉ là một chút lòng thiền, ghi lại những gì đã sưu tầm, biên khảo, với mục đích thâu tóm lại cho ngắn gọn, giúp người đọc dễ nhận biết, để từ đó tìm hiểu thêm, đi sâu vào những Công Án Thiền, nhầm khai mở trí tuệ.
Hồn Mê
Mê đắm khi tâm ma trú ngụ
Bình an, là khi Thiền lên ngôi
Tham sân si tất cả tan biến
Tâm ý bừng lên sáng đạo trời.
Đừng cho tà kiến, vào suy nghĩ
Ma tâm đè nén dòng tư duy
Toạ thiền, xa lánh ba điều ấy
Cảm hóa hồn ta ngay tức thì.
Nhân sinh vốn tánh, tâm lương thiện
Trong như gương chiếu sáng lòng thiền
Hoá thân chánh kiến từ tâm đạo
Nhập thể, đi về trong cõi tiên.
Trân Trọng
Louis Tuấn Lê
San Jose October 13, 21
Ghi chú:
Biên khảo theo nhiều nguồn tư liệu tìm kiếm trên Google Search.
CÁC ĐIỂM NÓNG VỀ Ô NHIỄM….- TS Mai Thanh Truyết
Các Điểm nóng về Ô nhiễm Plastic của Thế giới ở Đâu?
Where are the World’s Plastic Pollution Hotspots?
“Hoa Kỳ sẽ đi đầu trong cố gắng toàn cầu là sẽ triệt tiêu mức phát thải thán khí (carbonic) vào năm 2050 trong lãnh vực chuyên chở hàng hóa bằng đường biển.” John Kerry – Đặc phái viên của Tổng thống Biden công bố vào mùa xuân 2021.
Trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, việc chuyển vận hàng hóa bằng đường biển chiếm hết 80% trong các dịch vụ trao đổi giữa các quốc gia. Chính vì vậy các khí nhà kính phát thải trong việc chuyển vận nầy là một yếu tố chính yếu trong sự thay đổi khí hậu toàn cầu. Một nhân tố quan trọng không kém là trong dịch vụ chuyển vận trên, việc phát thải các chất phế thải vào biển cả, nhứt là các loại plastic, và đó chính là nguyên nhân trong vấn nạn ô nhiễm plastic trên thế giới. Chúng ta đã từng biết sự hiện diện của một ốc đảo thành hình từ các loại phế thải trong đó hơn 90% là plastic giữa Thái Bình Dương có kích thước lớn hơn hai lần diện tích (268,597 mile2) của tiểu bang Texas Hoa Kỳ, hoặc bốn lần diện tích của Việt Nam.

Thử hỏi công bố trên của Kerry có thực tế hay không?
Hay đây chỉ là những lời nói của các chính trị gia chuyên nghiệp nhằm thỏa mãn mục tiêu tuyên truyền trong một sứ mạng được giao phó?
Làm sao có thể thay thế nguyên liệu dầu cặn (pitch black heavy oil) rẻ tiền hiện đang được xử dụng cho các tàu vận tải 20-40 ngàn tấn bằng năng lượng gió, hay năng lượng mặt trời, hay một năng lượng nào khác để chấm dứt sự phát thải khí carbonic?
Trong tạp chí Bảo tồn Đại dương – Ocean Conservancy xuất bản vào mùa thu 2021 đã nêu lên vấn nạn nầy mà người viết đã từng nêu lên từ hơn hai năm qua. Ngoài việc phát thải khí carbonic, vấn nạn thải rác plastic trên đại dương do các tàu biển chuyển vận hàng hóa. Hôm nay, một lần nữa xin đặt lại trọng tâm của vấn đề nhằm cảnh báo nguy cơ trên trên ngày càng trầm trọng không kém gì sự thay đổi khí hậu toàn cầu mà cho đến hôm nay vẫn còn là giả thuyết.
Việc ô nhiễm rác thải plastic vào đại dương là một sự thật hiển nhiên và sẽ là một hiểm họa cho thế giới trong một tương lai không xa nếu không có biện pháp ngăn chận.
- Cố gắng của một nhóm nhỏ “công dân toàn cầu”

Vào ngày 18 tháng 9, hàng trăm nghìn công dân toàn cầu gồm các nhà khoa học và cư dân nhiều nơi tự nguyện đi làm sạch các bãi biển hoặc các thủy lộ nơi địa phương của họ trong thời gian chiến dịch Quốc tế làm sạch Bờ biển do ICC (International Coastal Cleanup) kêu gọi. Tạp chí Bảo vệ Đại dương – Ocean Conservancy đã tổng hợp dữ liệu thu thập được trong nỗ lực do nhiều nhóm tình nguyện toàn cầu nhằm thay mặt cho Hội Sức khỏe Đại dương – Ocean Health kể từ khi ICC bắt đầu hoạt động vào năm 1986.
Giờ đây, sự hợp tác mới giữa Ocean Conservancy, Cơ quan cứu nguy biển PADI AWARE Foundation và các nhà khoa học tại Commonwealth Scientific and Industrial Research Organization (CSIRO) do chánh phú Úc tài trợ đã đưa ra bản đồ toàn cầu đầu tiên về các điểm nóng về rác thải plastic vào đại dương.
Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Global Environmental Change kết hợp tin tức thống kê từ 22.508 lượt dọn dẹp bãi biển và đất liền của ICC trên 116 quốc gia từ 2011-2017 với 7.290 lần do các thành viên của PADI AWARE dọn dẹp dưới nước cho hơn 118 quốc gia từ 2011-2018. PADI AWARE là thành viên lâu năm của Liên minh Bảo tồn Đại dương Miễn Rác – Ocean Conservancy’s Trash Free Seas Alliance và là đối tác quan trọng của ICC thông qua chương trình Lặn Sâu Chống các Mảnh vỡ – Dive Against Debris. Có thể nói đây là một cố gắng vượt bực của rất nhiều thiện nguyện viên trên khắp thế giới. Tuy rằng đây là những bước đầu, nhưng qua tạp chí Ocean Conservancy, mỗi người trong chúng ta nhận thức rõ hơn nguy cơ chất thải plastic trên đại dương, một nguy cơ có tính toàn cầu.
- Tầm hoạt động mở rộng trên toàn thế giới
Từ việc thành hình từng nhóm thiện nguyện, Tạp chí Bảo vệ Đại dương OC đã bắt đầu mở rộng tầm hoạt động và có thêm nhiều thiện nguyện viện toàn cầu như đã hợp tác chặt chẽ với các nhà khoa học CSIRO là Tiến sĩ Denise Hardesty và Chris Wilcox kể từ lần đầu tiên đã tổ chức một nhóm làm việc khoa học quốc tế về các xà bần (debris) trên bờ biển và đáy biển tại Đại học California Santa Barbara vào năm 2011. Nhóm đã cùng nhau đưa ra đánh giá khoa học lớn nhất, toàn diện nhất về dữ liệu các mảnh rác thải trên biển cho đến nay.
Như những ai đã từng đến bãi biển đều biết, một số khu vực tương đối sạch sẽ trong khi những khu vực khác lại có một lượng lớn rác và mảnh rác thải. Phân tích cho thấy rằng các điểm nóng (được xác định là các khu vực nằm trong 20% mật độ có xà bần cao nhất) không chỉ tập trung ở một quốc gia hoặc một phần trên thế giới; nhưng điều này xảy ra ở hầu hết trên tất cả các quốc gia. Với sự thay đổi đáng kể quy mô ở không gian nhỏ, các mảnh xà bần tiếp xúc với tất cả các khu vực đại dương, bao gồm cả môi trường sống dưới nước ngoài khơi các bãi biển và đường thủy. Các mô hình kết tụ tại từng vùng dường như là hậu quả ở những nơi có lưu lượng nước chảy hạn chế làm ứ đọng các mảnh rác thải lại với nhau.

Các tình nguyện viên của ICC và Dive Against Debris đã lập được danh mục một loạt các mặt hàng các mảnh rác thải từ chai nhựa đến vật liệu xây dựng. Xử dụng dữ liệu cụ thể về những mặt hàng này và phân tích thống kê phức tạp, nhóm đã phát hiện ra một số mẫu thú vị như sau:
- Tàn thuốc lá hầu như là mặt hàng ICC luôn tìm thấy nhiều nhất. Nhưng nghiên cứu còn cho thấy các điểm nóng về các mặt hàng này tập trung ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, Canada và Nam Âu;
- Chai plastic phổ biến nhất ở vùng nhiệt đới, ở những quốc gia trong đó các cơ sở hạ tầng cho việc thu mua và tái chế còn hạn chế so với các khu vực tân tiến khác. Với đường bờ biển dài so với diện tích đất liền, những vùng này thường xuyên bị gia tăng ô nhiễm plastic thải ra biển trong mùa mưa;
- Túi nhựa lại tìm thấy nhiều ở Trung và Nam Mỹ, Châu Phi, Nam Á và vùng Đông Nam Á;
- Giấy gói thực phẩm phổ biến nhất ở Philippines, nơi có 5 trong số 10 điểm nóng hàng đầu về mặt hàng này.
Những kết luận khoa học nầy phù hợp với kinh nghiệm thực tế trong suốt thập kỷ qua, nơi nhóm đã tận mắt chứng kiến rằng các mặt hàng như giấy gói thực phẩm và bao bì gói không tái xử dụng (non recyclable), không có giá trị thị trường sau khi tiêu dùng, được thải bỏ với số lượng lớn mà không có đủ cơ sở hạ tầng để giải quyết chất thải.
Những phát hiện mới này phù hợp với lời kêu gọi thay đổi căn bản về mối liên quan của chúng ta với plastic. Sự thay đổi này rất cần thiết ngay từ bây giờ để giải quyết một cuộc khủng hoảng ô nhiễm plastic đại dương, thậm chí hiện tượng nầy sẽ trở thành một mối đe dọa lớn hơn trong tương lai.
Có rất nhiều mặt hàng do các tình nguyện viên ICC lập danh mục có ít hoặc không có giá trị kinh tế sau khi xử dụng. Chính vì vậy, các chính sách quốc gia ở các nước đang phát triển cần được lên kế hoạch để tăng giá trị của plastic nhằm khuyến khích việc thu gom, tái chế và tái xử dụng chúng. Việc xử dụng lượng plastic sau khi tiêu dùng để tái chế các sản phẩm mới cũng sẽ giúp đáp ứng cho nhu cầu thị trường về đầu tư vào cơ sở hạ tầng tái chế, chuyển hướng plastic phế thải từ các bãi chôn lấp hoặc đốt và giảm nhu cầu về việc sản xuất ôạt nhựa nguyên sinh mới.
Trên đây là những vấn đề của toàn cầu, chúng ta không chỉ có thể tự giải quyết vấn đề cục bộ của từng quốc gia mà phải tìm cách vận động toàn thế giới, nhứt là các quốc gia đang phát triền với dân trí và ý thức ô nhiễm môi trường chung còn thấp kém.
Ngoài ra, thiết nghĩ đối với các quốc gia đang phát triển, chính phủ cần phải giảm sản xuất và xử dụng plastic nói chung bằng cách cấm hoặc tránh những sản phẩm và vật liệu không cần thiết mà chúng ta có thể không dùng đến. Các chính quyền địa phương và quốc gia cần thúc đẩy các chính sách khai triển cách tiếp cận nầy và đảm bảo ngành công nghiệp plastic chịu trách nhiệm lớn hơn đối với loại plastic mà họ thu được lợi nhuận cao như “Đạo luật không ô nhiễm plastic đang được xem xét ở Hoa Kỳ Plastic Pollution Act under consideration in the US”. Dữ liệu từ Hoạt động Quốc tế về Dọn dẹp bờ biển và Lặn sâu Chống Mảnh vỡ – International Coastal Cleanup and Dive Against Debris và những loại phân tích trong ấn phẩm mới của nhóm trên có thể đóng vai trò là căn bản để theo dõi một cách có hiệu quả của những biện pháp nêu trên và cung cách can thiệp qua chính sách của từng quốc gia một.
Trong thời gian tới, khi chuẩn bị năm thứ 36 (2022) của Chương trình Dọn dẹp bờ biển quốc tế của Ocean Conservancy, Đại diện Chương trình đã chia xẻ lời cảm ơn hàng triệu nhà khoa học công dân thiện nguyện (volunteer – citizen scientists), những người đã hoàn thành hàng chục nghìn đợt dọn dẹp trên toàn thế giới đã cung cấp dữ liệu; từ đó nghiên cứu nêu trên của Chương trình đã được thành hình và cập nhựt thường xuyên.
- Thay lời kết
Hầu như mỗi người trong chúng ta đều nhận thức rằng việc bảo vệ đại dương chung trên thế giới được trong sạch và lành mạnh là một nỗ lực toàn cầu mà sự thành công tùy thuộc vào số người thiện nguyện tham gia khắp mọi nơi.
Nhưng từ nhận thức đến hành động quả thật là một …khoảng cách rất lớn.
Chúng ta đều biết rằng các đại dương phải đối mặt với mối đe dọa lớn và ngày càng gia tăng từ những vật dụng bằng plastic mà chúng ta xử dụng hàng ngày. Ước tính có khoảng 17,6 tỷ pounds plastic xâm nhập vào môi trường biển từ các nguồn trên đất liền mỗi năm – con số này gần tương đương với việc đổ một xe rác đầy plastic xuống đại dương mỗi phút.
Khi nhựa plastic tiếp tục tràn vào các đại dương của chúng ta, danh sách các loài sinh vật biển bị ảnh hưởng bởi các mảnh vụn plastic ngày càng tăng thêm. Hàng chục nghìn loại sinh vật biển đã được quan sát khi bị vướng hoặc nuốt phải nhựa trong môi trường biển – từ động vật phù du và cá, đến rùa biển, động vật biển có vú và chim biển.
Plastic không bao giờ tự tiêu hủy. Thay vào đó, chúng phân hủy thành các mảnh nhỏ hơn và li ti và hoạt động như nam châm hấp thu các chất ô nhiễm trong biển. Khi cá và các sinh vật biển ăn vào, một số vi plastic chứa đầy hóa chất đó có thể thấm vào chuỗi thức ăn và xâm nhập vào các sinh vật biển mà chúng ta dùng làm thức ăn.
Plastic trong các đại dương đe dọa khả năng tồn tại quan trọng của các hệ sinh thái biển. Nhưng ô nhiễm plastic ở biển không chỉ là một vấn đề đối ảnh hưởng đối với các đại dương. Mức độ mà chúng ta cũng đang bị ảnh hưởng bởi chất dẻo đã trở nên bảo hòa trong môi trường sống, trong thực phẩm, nước và không khí. Tất cả là một chủ đề cần nghiên cứu sâu rộng.
Thật không may, một trong những giải pháp phổ biến nhất cho ô nhiễm plastic lại không còn nhiều. Chỉ có 9% tổng số rác thải plastic tạo ra được tái chế. Chỉ tái chế mà thôi thì không đủ để giải quyết cuộc khủng hoảng plastic. Vì vậy, để có tác dụng, chúng ta cần phải giảm lượng sản xuất các vật dụng bằng plastic không cần thiết phải dùng lại.
Sau hết, việc giải quyết vấn đề rác plastic trong các đại dương cần phải có hành động phối hợp từ các công ty, chính phủ và những thiện nguyện viện toàn cầu trong đó có sự hiện diện của thiện nguyên viên như mỗi chúng ta:
- Các công ty: Từ các tập đoàn đa quốc gia đến các nhà hàng địa phương – các công ty cần áp dụng cách lựa chọn thay thế cho vật dụng plastic không phải là một nhu cầu thiết yếu;

- Chính phủ: Ở tất cả các cấp, chính phủ cần ban hành luật và quy định thức thời nhằm hạn chế hoặc loại bỏ plastic không tái xử dụng và phải đảm bảo rằng những loại rác plastic nầy không được thải vào đại dương của chúng ta;
- Người tiêu dùng: Người tiêu dùng có vai trò quan trọng nhất là làm cho tiếng nói của bạn được lắng nghe như:
– Bỏ phiếu thông qua lá phiếu và bằng ủng hộ tài chánh của bạn (lobbying) để đảm bảo các chính phủ và công ty nhận thức, sở hữu và hành động quyết liệt trước mối đe dọa ô nhiễm plastic gây ra cho các đại dương;
– Hạn chế vật dụng plastic không tái xử dụng trong cuộc sống hàng ngày và tái chế nếu có thể. Như vậy, bạn đã tạo ra sự khác biệt trong vấn đề ô nhiễm plastic ngay từ bây giờ.
Và sau cùng, nói với mọi người về cam kết của bạn và yêu cầu họ làm điều tương tự
để chấm dứt sự phát thải plastic vào môi trường đại dương và đất liền.
Mai Thanh Truyết
Mùa Thu miền Đông – 9-2021
TRUYỆN NGẮN: Bão Tuyết & Biên Khảo: CHỦ ĐẠO VĂN HÓA VIỆT NAM – Chu Tấn
BÃO TUYẾT (truyện ngắn) * Chu Tấn

tranh “Haystacks trong tuyết” của Frank Marc
Trong ta là núi là rừng,
Là trăm câu hát đã dừng trên môi.
(Hoài Khanh)
1
Ông Bình đang ngồi uống trà thì Lan ra phòng khách, ngồi đối diện với ông, lên tiếng:
– Thưa chú, chắc chú Niệm đã nói chuyện với chú về cháu và việc cháu đến nhờ chú trong thời gian mới đến Mỹ.
Ông nhìn Lan một lúc, rồi nói:
– Chú Niệm không nói với chú nhiều về Lan, chỉ có một bức thư ngắn nói Lan qua Mỹ theo diện du lịch, sẽ đến Chicago và nhờ chú cho Lan tá túc và chỉ dẫn Lan những điều cần trong thời gian sống ở Mỹ – Ông ngừng lại một lát: Ở nhà chú thì dễ dàng, ở bao lâu cũng được. Nhưng chú muốn biết Lan sẽ ở lại Mỹ bao lâu và sẽ đi những đâu?
Lan ngạc nhiên:
– Như vậy là chú Niệm không nói rõ mục đích qua Mỹ của cháu.
– Có thể không tiện nói. Qua điện thoại mấy lần, chú Niệm cũng chỉ nói chừng đó.
Lan ngẫm nghĩ một lúc:
– Thưa chú, chồng cháu mất cách đây hơn một năm, và một người bạn thân của cháu ở Chicago đã giới thiệu cháu cho người bạn Mỹ của chồng chị ấy, một kỹ sư vi tính tên là John, ly dị vợ và muốn tìm một người vợ Việt Nam. Không muốn phải kéo dài thời gian qua liên lạc thư từ, nên cháu đã dùng chuyến du lịch này để kết hôn với John và ở lại Mỹ luôn.
– Lan có nói với John về ý định này trước khi qua Mỹ?
– Lan đã nói và John rất vui, vì cũng mong muốn như thế.
Ông Bình cười:
– Như vậy thì ổn rồi. Lan sẽ về nhà John sớm.
Lan nói:
– Thưa chú, Lan cũng chỉ mới liên lạc thư từ và điện thoại mấy tháng. Lan cần tìm hiểu thêm khi gặp nhau. Vì thế xin chú cho Lan ở đây tới ngày làm giấy kết hôn với John. Nhưng Lan không đi luôn đâu, sẽ trở về thăm chú. Vì thành phố Elgin, nơi John sống, ở vùng phụ cận thành phố Chicago.
Ông Bình nói:
– Cám ơn Lan là chưa đi đã muốn trở về. Có nhiều gia đình người Việt ở đây, con cái lớn lên đại học là tìm cách ra ở riêng, ít khi về nhà. Có lẽ chúng không tìm thấy niềm vui nào khi sống cùng cha mẹ.
– Chắc chúng theo cách sống của bạn bè Mỹ.
Ông gật đầu:
– Chúng thích sống tự do như người Mỹ. Mười tám, đôi mươi là có bồ bịch. Chúng không muốn phải sống dưới tầm mắt của cha mẹ. Vì thế đời sống già ở Mỹ rất buồn. Thường thì chỉ hai người già. Khi ông hay bà mất một thì đời sống của một người lại càng cô độc. Có một số ông tướng Việt Nam Cộng Hoà, con cái thành công, nhưng về già cũng phải vào Nursing home – Ông ngừng lại, rót trà vào tách uống mấy hớp, rồi để xuống:
– Thế còn gia đình Lan, ông bà thân sinh và anh em?
Lan thưa:
– Dạ, Lan còn ba má, một em trai và một em gái. Ba má Lan vẫn đi làm, còn hai em thì đang học đại học. Phần Lan thì số phận không may, lấy chồng cách đây 3 năm, sống với nhau được hơn một năm thì anh ấy mất vì tai nạn xe.
– Thế Lan học ngành gì và làm gì ở Sài Gòn?
– Dạ, Lan học đại học ngoại ngữ và làm ở công ty du lịch.
Ông Bình cười:
– Vậy là Lan chọn đúng nghề, đúng khả năng.
– Sao chú lại nói vậy?
– Làm du lịch thì phải duyên dáng, linh hoạt và khéo léo. Lan có nhiều ưu điểm trong ngành này, nhất là nét mặt sáng và tươi.
Lan cười, nói:
– Cám ơn chú quá khen. Thật sự Lan muốn dạy học, nhưng theo ngành giáo dục thì thu nhập quá thấp, nên phải bước qua du lịch.
– Nhưng khi đi vào ngành du lịch Lan thấy thế nào?
– Dạ, du lịch cho Lan tiếp xúc nhiều, có cơ hội đi và luyện nghe và nói tiếng Anh.
Ông gật đầu:
– Với cái vốn đó, Lan dễ thích ứng với đời sống ở Mỹ. Nhưng tại sao lại bỏ nghề, đi tìm chồng ngoại quốc?
– Thưa chú, đó là một cách để từ giã Việt Nam. Bây giờ người ta tìm mọi cách để ra khỏi nước, nhất là qua Mỹ. Con cái cán bộ cấp lớn thì đi du học, những người giàu có thì đem tiền vào Mỹ đầu tư, còn những người khác như Lan thì tìm đường bằng hôn nhân. Những người nghèo không thể qua Mỹ, qua Pháp, qua Canada thì tìm đường qua Hàn, qua Đài loan, qua Malaysia, qua Phi Châu bằng cái cầu đi lao động nước ngoài – Lan ngừng lại hỏi: Chú vượt biên năm nào?
– Năm 1984.
– Năm 84 Lan mới sanh, nhưng lớn lên thì biết là những năm đó người ta liều chết vượt biên, phó thác số mệnh cho rừng, cho biển, nhưng nếu thoát được rừng biển thì có Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đón nhận. Bây giờ cũng thế, ai cũng muốn ra đi, nhưng không thể vượt biên như trước, nên người ta vượt biên bằng những cách khác như Lan vừa nói – Lan ngừng lại một lúc rồi tiếp với giọng buồn: Ai cũng muốn ra đi, muốn từ bỏ quê hương, nên chỉ trong ít năm mà qua đường hôn nhân, những cô gái Việt qua được Đài Loan và Hàn quốc lên tới hàng trăm ngàn. Và biết bao nhiêu người khác phải đút tiền để được đi làm thuê ở những nước như Hàn, Đài Loan, Mã Lai, cả những nước ở Trung Đông, rồi trốn ở lại không về.
Ông Bình nói:
– Về thì lại sống vất vưởng và vô quyền trên quê hương mình, nên người ta thà chọn cách sống bất hợp pháp ở xứ người, nhưng có việc làm, có tiền gửi về giúp gia đình. Đời sống đó vô định, nhưng có lẽ vẫn tốt hơn ở Việt Nam.
– Thưa chú, Lan cảm thấy xấu hổ khi hàng năm nhà nước loan tin có vẻ hoan hỷ về tổng số người được được đi lao động ở các nước. Trước khi qua đây, Lan đọc một bài báo trên mạng nói là người Hàn qua Việt Nam để làm chủ, vì họ có những công ty ở Việt Nam, còn người Việt qua Hàn chỉ để làm thuê, làm người ở.
– Lan sẽ buồn hơn, nếu biết rằng năm 1975, miền Nam Việt Nam, tuy phải đương đầu với cuộc chiến do chế độ Cộng Sản miền Bắc gây ra, nhưng phát triển hơn Hàn và mức sống cao hơn Hàn. Thế mà chỉ sau hơn 30 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Việt Nam thống nhất đã tụt hậu như thế.
Ông Bình đứng dậy cầm bình trà, nhưng Lan đã giơ tay đỡ bình:
– Chú để Lan pha trà.
Ông Bình đưa Lan bình trà, rồi theo Lan ra bếp, vặn nước vào chiếc bình điện Breville. Sau khi rửa bình và cho vào bình 2 thìa trà, Lan đến bên ông tò mò nhìn chiếc bình điện:
– Bình nấu nước này lạ và đẹp, Lan mới thấy.
Ông Bình gật đầu:
– Loại bình này chú cũng mới biết, rất tiện vì nước mau sôi và có nhiều độ sôi cho các loại trà – ông chỉ vào một dẫy vòng tròn trên nền bình: Đây này, nếu pha trà xanh thì nhấn vào đây, green tea, trà trắng nhấn nút white tea, trà oolong nhấn nút oolong và trà đen nhấn nút black tea. Nhưng không muốn rắc rối nên chú chỉ dùng một nút black tea, mặc dù trà chú uống là oolong. Lan nhấn nút này và chỉ chừng 7 phút là nước sôi – ông nói rồi đi lên phòng khách.
Chừng 15 phút sau, Lan đem bình trà lên, tráng chén rồi rót ra 2 chén, để một chén trước ông Bình:
– Chú uống nước, trà thơm quá, chỉ mới tráng đã thấy ngát hương.
– Cám ơn Lan, trà này của Đài Loan, tên là Thiên Lộ của hãng trà Thiên Nhân, có đại lý khắp các thành phố trên nước Mỹ, và có thể khắp thế giới, ở những nước có người Tàu.
Ông uống chén trà rồi nói:
– Chuyện Việt Nam nói không cùng mà chuyện nào cũng buồn cả. Chú ở Mỹ chỉ theo dõi báo mạng cũng đã thấy ngột ngạt khó sống, nói chi người dân phải sống dưới chế độ đó.
– Thưa chú, chính vì thế mà giàu nghèo, ai cũng muốn ra đi. Như cháu có nghề nghiệp sống được, nhưng là sống trong một xã hội hỗn loạn, quá nhiều cái xấu, nên thấy đời sống bất an. Lan không đến nỗi như mấy cô, xin lỗi chú, phải khỏa thân cho mấy ông Hàn quốc ngắm nhìn, sờ nắn để mong được mấy ông ấy mua về làm vợ, nhưng cũng không khác bao nhiêu, vì cũng kiếm cách qua đây để tìm một người khác chủng xa lạ, mong được họ mua để khỏi phải trở về nước – cùng với lời nói, Lan cúi xuống lấy tay áo thấm những dòng nước mắt.
Ông Bình im lặng chờ cho Lan qua cơn xúc động, rồi nói:
– Vì hoàn cảnh đất nước nên cuộc đời bắt thế. Nhưng Lan sẽ may mắn vì người Lan gặp sẽ cầu mong được kết hôn với Lan, chú chắc vậy – Ông đứng dậy, đến bên Lan, đập khẽ vào đầu cô gái và nói: Đi ngủ đi. Từ ngày mai sẽ có nhiều điều vui đến với cô. Đừng khóc như thế.
Lan khẽ “dạ”, rồi đứng dậy đi về phòng.
Ông Bình đi đến chiếc piano, ngồi xuống nhìn phím đàn đen trắng hình dung lại một video clip mới coi, trong đó mấy chục cô gái khỏa thân xếp hàng dựa vào tường trong một phòng rộng, rồi từng cô lần lượt ra giữa phòng bỏ chiếc khăn trắng che trước bụng để mấy ông Hàn đến mua vợ ngắm nhìn như mấy bà đi chợ mua gà hết coi lông đến nắn lườn xem gà gầy, mập. Một cuộc thi khó, vì mấy chục cô dự thi mà chỉ có chừng 4, 5 ông tới mua. Ở thế kỷ 21 mà lại phát sinh kiểu đi tìm mua phụ nữ như người Mỹ da trắng đi mua nô lệ da đen ở thế kỷ 19, mà cũng chỉ ở Việt Nam mới có tình cảnh phụ nữ khỏa thân cho đàn ông nước ngoài đến kén chọn để mong được họ mua đem ra khỏi quê hương mình. Nghĩ đến tiếng khóc của Lan, ông bỗng xúc động, nhắm mắt lại để mặc cho những giọt nước mắt nhỏ xuống phím đàn. Khi mở mắt ra nhìn lại màu đen trắng, ông lấy tay áo chùi mắt, đập hai tay xuống phím đàn, những giọt âm thanh của Clair de lune đã đưa ông ra khỏi sự xung động rồi theo nếp quen, bàn tay đi vào âm thanh của Bài Thơ Hoa Đào, Ai Lên Xứ Hoa Đào.
2
Lan ngồi bên cửa sổ, nhìn ra khu vườn rộng âm u với ánh đèn đường xuyên qua những tàn lá. Nàng ngồi như thế đã cả giờ, lắng nghe tiếng dương cầm ngoài phòng khách vọng vào, và hình dung dáng ông Bình theo âm thanh lúc trầm bổng, lúc cao vút, lúc rộn rã. Hẳn lúc này ông đang cúi gập người theo giòng âm thanh đuổi nhau như lá cuốn theo gió trên đường. Rồi tiếng đàn ngừng bặt và ngôi nhà lại rơi vào im lặng như khu vườn âm u.
Lan ra phòng khách, đến ngồi đối diện với ông. Ông nâng ly rượu màu hổ phách uống một hớp, rồi để xuống bàn, ngước nhìn Lan:
– Qua đây cũng đã được 3 tuần, Lan cảm thấy gì?
Lan thưa:
– Sự yên ổn, chú ạ. Chú cứ tưởng tượng đến một đời sống bất an kéo dài thì sẽ cảm được sự yên ổn đó. Yên ổn vì chú là một chỗ dựa cả vật chất lẫn tinh thần mà người Lan sẽ gọi là chồng cũng không xa với những điều Lan mong cầu. Lan không ngờ đời mình lại gặp được sự may mắn này.
– Rồi những ngày không có Nhung hay John đến chở đi chơi, một mình ở nhà Lan thấy sao?
Lan ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
– Nhà chú thuộc khu ngoại ô, ở cuối con đường cụt, lại ở cạnh một nghiã địa cổ. Nếu chỉ một mình thì Lan không bao giờ dám ở đây. Vì thế Lan ngạc nhiên là tại sao chú lại chọn một nơi như thế này. Một mình trong một tòa nhà với vườn rộng, cây cao, như tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, nhìn từ ngoài đường giống như một ngôi nhà hoang.
Ông đặt ly rượu xuống bàn:
– Thật ra, nếu mua nhà thì chú không bao giờ chọn khu vực này. Nhưng đây là nhà của của ông bà Adams, người đã bảo lãnh và giúp chú từ những ngày đầu vào Mỹ. Vì không có con, nên ông bà đã nhận chú là con, và khi qua đời, ông trước bà sau, đã để lại ngôi nhà này cho chú. Sống ở đây đã trên 20 năm, chú thấy đời mình đã hòa nhập vào cái khung cảnh liêu trai này.
Lan nhìn ông một lúc:
– Đó cũng là điều Lan suy nghĩ về đời sống của chú. Khi ở Việt Nam, nghe chú Việt nói về chú, Lan nghĩ chú sống ở Mỹ lâu chắc sẽ có một cuộc sống hướng ngoại sinh động. Nhưng khi qua đây Lan thấy điều mình nghĩ không đúng. Chú đã có một đời sống khác hẳn với những gì Lan hình dung ở Việt Nam. Vì ngoài việc đi làm thì chú ít giao tiếp, ít bạn bè, gần như xa lánh xã hội bên ngoài. Sự sinh động của tòa nhà là tiếng đàn piano trong đêm, còn ngoài ra là sự yên lặng. Mấy tuần nay Lan ngạc nhiên vì đêm nào chú cũng đàn hai bản Bài Thơ Hoa Đào và Ai Lên Xứ Hoa Đào trước khi ngừng đàn và đoán là có lẽ do chú sống ở Đà lạt, nên gắn bó với những bản nhạc viết về thành phố sương mù này – Lan ngừng lại, nhìn lên hai bức ảnh lớn treo trên tường một lúc, rồi nói: Cả sự trang trí nữa, Lan cũng thấy lạ. Chú treo bức ảnh của cô đối diện với bức ảnh Biển Động, một mỹ nhân hong tóc bên hiên nhà trước Biển Động với những lớp sóng cuồn cuộn dâng cao dưới bầu trời đỏ ối, một cảnh tượng đầy sự đe dọa. Trong một phòng khách rộng thế này mà chỉ có hai bức ảnh, người và biển, thì Lan có thể liên tưởng đến một thảm kịch vượt biên và chú đã mất cô trên những ngọn sóng kia – Lan bắt gặp nét mặt xúc động của ông, nên ngừng lại một lúc, rồi tiếp: Theo Lan hiểu thì người ta thường cố gắng tìm quên những vết thương với thời gian, còn chú lại khác, chú đã dùng hai bức ảnh kia như con dao hàng ngày chém vào vết thương của mình và nếu điều Lan suy luận đúng thì đó là nguyên nhân đời sống cô độc của chú.
Ông Bình nhìn Lan, vẻ ngạc nhiên:
– Lan nhìn ảnh mà luận được như thế thì thật hay. Có điều chỉ đúng phần khung cảnh, còn sự việc thì khác. Tất nhiên Lan không thể suy đoán xa hơn. Chỉ có người trên con tàu giữa biển lúc đó mới biết sự việc. Nhưng đã biết chú và coi chú như chú Việt thì mai kia sẽ hiểu. Chuyện xưa cứ để đó không vội chi.
– Thế sau khi vượt qua được đại dương kia, chú đến đâu?
– Chú đến được đảo Bidong thuộc Mã Lai, rồi đi Mỹ năm 85.
– Sao chú không chọn Cali hay mấy bang phía nam mà lại chọn Chicago, miền tuyết lạnh?
Ông cười:
– Chú thuộc diện không có thân nhân ở Mỹ và được ông bà Adams bảo trợ, nên chú về Chicago và ở Chicago, trong ngôi nhà này từ đó đến nay.
– Năm chú mới đến, Chicago có chừng bao nhiêu người Việt?
– Khoảng 6, 7 ngàn, ở rải rác nhiều nơi, nhưng tập trung nhiều nhất ở vùng Uptown, khu vực mà chú đã đưa Lan tới ăn phở, ăn cơm. Con đường Argyle và mấy con đường quanh đó là trung tâm thương mại và dịch vụ của Cộng Đồng Người Việt ở Chicago.
Lan nói:
– Con đường đẹp với những cửa hiệu sang trọng. Hôm đi với chú, Lan có cảm tưởng là đi trên một con đường buôn bán ở Sài Gòn, vì bảng hiệu tiếng Việt và nghe toàn tiếng Việt. Nhưng ngày chú mới đến, con đường đó đã như thế chưa?
Ông Bình lắc đầu:
– Chưa, ngày đó, con đường mới thành hình là nơi làm ăn, thương mại của người Việt và người Tàu biết nói tiếng Việt với một số cửa hàng, chợ, tiệm sách, nhạc, tiệm thuốc bắc, nhà cửa cũ kỹ. Rồi mỗi năm mỗi thay đổi, không những ở đường Argyle mà lan ra những con đường quanh khu vực đó. Đi quanh những con đường gần Argyle, Lan sẽ thấy toàn là người Việt và đa số dân Việt ở vùng Uptown là dân ở nhà thuê – ông cười: Cứ bước lên thang một building 3, 4 tầng là ngửi thấy mùi nước mắm và cá kho. Nhưng khi làm ăn khá giả thì người ta lại mua nhà ở những khu xa hơn hay mua building ở đó cho người Việt thuê.
Lan nhận xét:
– Mấy lần đi với chú trên đường Argyle và 2 con đường lớn gần đó, Lan ít thấy Mỹ trắng, chỉ thấy Mỹ đen lảng vảng ở ngoài mấy chợ và ở mấy ngã tư.
– Họ lảng vảng trên mấy đường Argyle, Winthrop, Kenmore, Sheridan… vì nhà họ gần đó. Chú là người đến sau, nên không biết nhiều về sự khởi đầu của người Việt ở khu vực Uptown, còn theo sự kể lại của những người mới đến định cư ở vùng này thì sự khởi đầu của người Việt ở đây cũng khá chật vật, vì đụng phải dân Mỹ đen mà vùng của dân Mỹ đen thì luôn đi kèm với nhiều tệ nạn trộm, cướp và ma túy. Nhưng sức sống và sự can đảm của người Việt đã đẩy lùi Mỹ đen và phát triển vùng này thành một khu thương mại và dịch vụ phồn thịnh như Lan đã thấy – Ông cười: Phải nói rõ hơn là của người Việt, người Hoa và Việt gốc Hoa. Người Hoa và Việt gốc Hoa chiếm lãnh chợ, nhà hàng lớn, người Việt làm nhà hàng nhỏ và văn phòng dịch vụ các loại.
Lan cười:
– Thảo nào Lan thấy nhiều biển hàng chữ Tàu với chữ Việt.
– Một thầy thuốc bắc người Việt gốc Hoa, chú quen do uống thuốc của ông, cho biết là Cộng Đồng Thương Mại người Hoa ở khu Uptown muốn biến khu thương mại ở đây thành một Chinatown mới, vì Chicago đã có một Chinatown lâu đời cả trăm năm ở phía nam.
– Theo chú, họ làm được không?
– Chú nghĩ họ muốn lấn người Việt, vì họ làm ăn lớn và đoàn kết theo kiểu Tàu với bang hội, còn người Việt chỉ làn ăn nhỏ. Về tương lai xa, vài chục năm thì chưa biết thế nào, còn tương lai gần thì khó thành vì người Việt ở Uptown chiếm đa số mà đơn vị thương mại và dịch vụ cũng nhiều hơn.
– Từ ngày định cư ở Mỹ đến nay chú đã về Việt Nam lần nào chưa?
Ông Bình lắc đầu:
– Chưa, chỉ biết đời sống Việt Nam qua báo chí và thấy rằng Việt Nam bây giờ quá khác với Việt Nam thập niên 1980. Phồn thịnh hơn do bỏ chế độ kinh tế tập sản trở về với tư nhân và mở cửa làm ăn với các nước tư bản, nhưng xã hội cũng xuống cấp ghê gớm hơn với tham nhũng, bất nhân và bạo lợi. Cái khác đó chẳng có gì vinh quang, trái lại đã đưa xã hội tới chỗ tan rã tinh thần, tàn phá con người khi áp chế, lợi và tiền đã ác hóa con người và xã hội.
– Đúng vậy chú ạ. Lan thấy rõ là dối trá, hung hãn và tội ác đã trở thành phổ biến ở Việt Nam. Người ta quan niệm không biết nói dối, lừa đảo là ngu, không dám hung hãn là nhát. Còn tội ác thì rộng khắp, báo chí đầy ắp những tin tức cướp giật, hãm hiếp, giết người tàn bạo, con giết cha, cháu giết bà, chồng giết vợ, vợ giết chồng. Riêng Lan đã biết rõ một chuyện, có lẽ chỉ xảy ra ở Việt Nam, là 2 vợ chồng trẻ tổ chức sinh nhật tại nhà với bạn bè thân. Đến cuối tiệc, mấy người đàn ông chủ mưu đã chuốc rượu cho chồng thật say, rồi lừa cho vợ uống thuốc kích dục để thay nhau cưỡng hiếp. Bạn bè gọi là thân mà chó má với nhau như thế thì sao còn tin được chữ bạn ở trên đời – Lan ngừng một lát, nhìn ông: Từ ngày biết được chuyện này, ngoài đám cưới họ hàng hay bạn quá thân phải đi, còn Lan không dám bén mảng đến mấy vụ sinh nhật, ăn giỗ ở mấy nhà bạn đồng nghiệp. Lan không còn dám tin vào người khác.
Ông Bình trầm ngâm một lúc:
– Chú theo dõi một số báo mạng để biết về Việt Nam, nhưng rất khó hình dung về sự thay đổi của người dân, xã hội và chính quyền. Là người sinh trưởng trong một giai đoạn có nhiều thay đổi, Lan cảm thấy gì dưới xã hội đó?
– Chú hỏi đột ngột một vấn đề quá phức tạp, khó có thể thu tóm để nói trong một thời gian ngắn.
– Cứ nghĩ đến những điều mình phải đối mặt hàng ngày thì Lan sẽ thấy vấn đề. Chẳng hạn ở Mỹ chú cảm thấy sự yên ổn trong việc làm, và nếu thất nghiệp thì sẽ có trợ cấp thất nghiệp, rồi mình sẽ tìm việc khác. Chú có niềm tin vào chế độ dân chủ, vì chú có thể hoạt động chính trị, văn hóa và nhiều việc khác theo khả năng của mình. Chú có niềm tin vào chính quyền, vì chính quyền đó do dân bầu lên từ cấp Liên bang, Tiểu bang đến thành phố. Và những người được bầu sẽ cố gắng thực hiện chương trình họ công bố khi tranh cử, còn nếu làm không ra chi thì hết nhiệm kỳ, dân sẽ bầu người khác. Như thế, Chính trị ở Mỹ là cạnh tranh chương trình hành động và khả năng thực hiện chương trình. Nói tóm, ở Mỹ có tự do trong đời sống, yên ổn trong việc làm và niềm tin vào cơ chế dân chủ và luật pháp.
Lan ngước nhìn ông với nét vui:
– Nghe chú nói, Lan nhận ra những gì ở Việt Nam rồi.
Ông Bình cười:
– Là những gì?
– Là mất niềm tin vào con người và xã hội, là sống bất an và khinh thường những ông lãnh đạo từ thấp đến cao.
Ông gật đầu:
– Đó là những tổng kết hay, nhưng Lan có thể nói rõ hơn là tại sao?
Lan đáp:
– Thưa chú, mất niềm tin vào con người và xã hội, vì người Việt ngày càng xấu với dối trá, lừa đảo và hung bạo, còn xã hội thì quá nhiều tệ nạn, cạm bẫy do con người xấu tạo ra. Sao tin người khác được như chuyện sinh nhật Lan vừa nói. Tin sao được khi có những tên đàn ông lừa người yêu đem lên biên giới Tàu rồi bán người yêu cho bọn buôn người, và khủng khiếp hơn nữa là có thằng, vì tham chiếc xe và ít tư trang đã đang tâm đập chết người yêu rồi chặt thành mấy khúc cho phi tang – Lan nói như muốn khóc.
Chờ cho cơn xúc động của Lan dịu xuống, ông Bình nói:
– Dối trá, lừa đảo như thế là đã đến chỗ cùng. Mỗi con người Việt Nam ngày nay lại trở thành một pháo đài tự thủ. Thế còn sống bất an là sao?
– Dạ, ở miền quê Lan không rõ, nhưng ở những thành phố lớn như Sài Gòn thì ai cũng cảm thấy bất an. Vì ra đường thì sợ cướp, cướp thành băng đảng và rất tàn bạo, chém người ta rồi mới cướp. Cảnh sát đầy đường, đầy ngõ, nhưng cướp vẫn lộng hành rình rập ở khắp nơi. Ăn uống thì sợ thực phẩm chứa những chất độc hại.
– Từ hàng hóa, thực phẩm của Tàu?
Lan lắc đầu:
– Không phải chỉ của Tàu mà chính người Việt vì lợi đã dùng hóa chất của Tàu, học Tàu tẩm độc vào thịt, trái cây và rau… để hại người Việt. Thịt thối ngâm hóa chất thành thịt tươi, bơm hóa chất vào trái cây cho mau chín và tươi lâu, rau thì thì dùng thuốc trừ sâu quá độ. Cái gì cũng hóa chất và mấy tiếng hóa chất đã thành mối đe dọa ám ảnh. Người ta thường chép miệng nói với nhau: Biết sao đây, ăn gì cũng chết! – Lan ngừng một lúc rồi tiếp: Còn công việc làm ăn thì bất an, vì dân đã hết niềm tin vào chính sách, lời nói của nhà nước. Tham nhũng quá nên làm ăn lớn nhỏ gì cũng phải có tiền bôi trơn. Đến như bà Nguyễn thị Doan, phó chủ tịch nước cũng phải lên tiếng than ở Quốc Hội: Người ta ăn không từ một thứ gì của dân.
– Biết rõ như thế, sao không có những biện pháp để giảm tệ tham nhũng?
Lan cười:
– Theo Lan nghĩ thì chẳng có biện pháp gì hết. Vì họ đã công khai nói tham nhũng là quốc nạn, tham nhũng là nội xâm và nói chuyện diệt trừ tham nhũng hết năm này đến năm khác. Còn dân thì hiểu rằng tham nhũng đã trở thành một chính sách dung dưỡng cho cán bộ làm ăn, lớn ăn theo lớn, nhỏ ăn theo nhỏ, nên không có chuyện diệt trừ mà là nuôi dưỡng. Vì thế tham nhũng thành rộng khắp và tàn nhẫn hơn. Chẳng hạn đến chỗ nằm trong bệnh viện, chỗ nằm trong nhà tù cũng phải chạy thì dịch tham nhũng đã lan đến tận đáy xã hội. Khi đã nhận rõ một sự thực như thế thì dân phải biết hối lộ để sống, còn quan thì tìm đủ mọi biện pháp sách nhiễu dân để nhận được nhiều hối lộ hơn.
– Trước thực trạng đó, người dân nghĩ thế nào về nhà nước, về những ông quan vô sản?
– Người dân coi họ là một tổ chức côn đồ, mafia, chớ không phải là nhà nước lãnh đạo theo luật pháp như họ tự xưng là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Họ đặt ra quá nhiều luật, nhưng không cai trị theo luật mà tùy tiện muốn làm gì thì làm. Vì thế những tên cảnh sát đứng đường hay những tên công an ở phường thường vỗ ngực nạt nộ “luật là tao” khi muốn đánh đập hay bắt ai. Chiến tranh đã chấm dứt gần 40 năm, nhưng dân sống không yên với chế độ cai trị hành dân, cướp bóc của họ và chế độ này đã tạo ra sự bất an trong tâm trí người dân.
Nhìn môi ông Bình mấp máy, Lan ngừng lại, nhưng thấy ông vẫn yên lặng nên đứng dậy tới tủ lạnh, lấy bình nước cam rót ra hai ly, đem đến đặt trước ông một ly: Chú uống nước.
Lan về chỗ, nâng ly nước cam uống mấy hớp, nhưng lúc uống đã vô tình ngồi ở thế mở hai chân, chiếc váy ngủ ngắn co lên hớ hênh, ông Bình chợt nhìn suốt cả một bên đùi trong nên ông vội cúi xuống, cầm ly nước đưa lên miệng. Khi ngước lên, thấy Lan đã sửa lại thế ngồi với hai đùi chéo nhau, ông để ly nước xuống:
– Ngày còn ở Việt Nam, chú thường nghe mấy ông cán bộ trên bàn nhậu phê phán chế độ xã hội chủ nghĩa đã làm tình làm tội người dân. Đến nay sau 40 năm, chú lại nghe Lan tổng kết một thực trạng y như trước. Vậy là sau 40 năm thống nhất, người dân chỉ bị hành chớ không an cư lạc nghiệp.
– Thưa chú, an cư lạc nghiệp sao được khi đời sống luôn bị đủ thứ đe doạ bao quanh như Lan đã nói. Nhưng còn một vấn đề rất lạ là hơn chục năm trở lại đây gia đình những ông lãnh đạo cao, thấp và những người giàu đã tìm cách cho gia đình con cái họ qua Mỹ theo diện đầu tư, du học, kết hôn để ở lại Mỹ. Họ muốn gia đình họ tránh xã hội bất an ở Việt Nam, nhưng lại nhất quyết duy trì chế độ mà họ muốn con cái họ từ bỏ.
Ông Bình cười:
– Họ duy trì chế độ để giữ quyền lực và kiếm thêm tiền, duy trì chế độ để giữ đảng Cộng Sản. Vì làm quan dưới chế độ độc tài đảng trị dễ và làm giàu cũng dễ. Lòng tham quyền lực và tham tiền vô đáy đã che mờ dân và nước. Cả chục năm nay chú nghe gia đình họ qua Mỹ mua nhà mấy triệu bằng tiền mặt mà họ gọi là tiền tươi và còn biết là một số người đã đưa con cái qua Mỹ từ cấp tiểu học hay trung học để thoát tình trạng giáo dục xuống cấp của Việt Nam, mà một số bài trên báo mạng đã gọi đó là đi “tỵ nạn giáo dục xã hội chủ nghĩa” cũng như 40 năm trước, dân miền Nam đã vượt biên tỵ nạn cộng sản. Như vậy là sau hơn nửa thế kỷ tranh đấu chống chế độ tư bản bằng núi xương sông máu để giải phóng con người, giải phóng đất nước, đảng cộng Sản đã đưa nước đến một mối hận: Nước tan, dân tán – Nhìn đồng hồ đã 12 giờ, ông Bình nói: Khuya rồi, Lan đi ngủ đi. Ngày mai chú sẽ đưa đi shopping.
– Chú cũng đi ngủ chứ ạ – Lan cầm hai cái ly, đứng dậy nói rồi bước ra phía bếp.
Ông Bình bâng quơ nhìn theo Lan, cảm được cái eo thon mềm với đôi mông thuôn nở ẩn hiện theo bước đi dưới lớp vải mỏng và mỉm cười nghĩ đến anh chàng John, chỉ qua giới thiệu mà may mắn gặp được cô vợ đẹp, khéo léo và thông minh. Ông đứng dậy đi đến đứng bên chiếc piano một lúc, rồi bước về phòng.
3
Ông Bình đậu xe trong một khu sân rộng gần bờ hồ Michigan, rồi chỉ quanh:
– Đây là công viên bờ hồ, có mấy sân để tập lái xe. Lan muốn lái thử nên chú đưa ra đây.
Lan nói:
– Cám ơn chú, Lan nôn nóng vì muốn thử kết quả của khóa học lái xe ở Việt Nam. Có bằng nhưng vì không có xe nên lái vẫn lạng quạng.
– Đúng rồi. Có bằng mà không có xe để lái thường thì cũng như không, chỉ ít tháng sau là quên hết. Bây giờ Lan coi lại những động tác, những việc phải làm. Ông Bình mở máy rồi nói: Trước hết đạp thắng, kéo cần số xuống chữ D. Rồi bỏ thắng đưa chân qua bàn gas, đạp nhẹ cho xe đi. Ông lái quanh sân ba vòng, rồi dừng lại.
– Lan nhớ những động tác khi cho xe đi và khi dừng lại chớ?
– Dạ.
– Bây giờ mình đổi chỗ, đến phiên cô làm tài xế.
Khi đã ngồi yên trên ghế, thấy Lan vẫn loay hoay đưa chân lên đạp vào bàn thắng, ông hỏi:
– Ngồi như thế chân có vừa với bàn thắng không?
– Dạ, hơi xa chú a.
– Vậy kéo ghế lên một chút.
Lan quay lại hỏi:
– Làm sao kéo lên được chú?
– Cô không biết làm ư? Luồn tay xuống phía dưới ghế, có cái cần sắt. Nâng người lên, rồi kéo cần về phía trước, ghế sẽ đi theo.
Lan loay hoay kéo mấy lần không được, quay nhìn ông:
– Có cái gì vướng chú ạ.
– Chắc để nấc đó lâu quá thành sét gỉ – Ông nói, rồi cúi nghiêng sang bên, luồn tay dưới chân Lan kéo cần, nhưng cần bất động. Ông rút tay về, nghiêng hẳn người qua Lan, đưa tay xuống ghế, cầm cần lay mạnh, rồi kéo lên. Cái cần theo tay ông đi lên quá đà làm cánh tay đè lên đùi Lan. Ông vội nâng cánh tay lên một chút, rồi đẩy thanh sắt xuống một nấc.
– Chắc vừa tầm rồi đấy, Lan thử đạp thắng xem sao?
Lan ngồi thẳng, đưa chân đạp thắng:
– Vừa rồi, chú ạ.
– Vậy seatbelt, rồi đi thôi. Trời lạnh ít người, ít xe vào đây, nhưng cứ giữ tốc độ từ 15 đế 20 miles là vừa.
Lan mở máy, lái xe đi mấy vòng quanh sân, rồi đi ra đường, lên sân ở phía trên. Sau mấy vòng, Lan ra đường vòng qua những con đường quanh công viên. Cứ thế, Lan đi vòng quanh mấy đường trong công viên khoảng trên nửa tiếng.
Ông Bình theo dõi cách lái của Lan và thấy Lan có vẻ thành thạo trong những động tác và bình tĩnh tự nhiên khi gặp xe đối diện hoặc đi qua một nhóm người. Hơn tháng nay có Lan, ông thấy ngôi nhà như thay đổi với mái tóc, tiếng phụ nữ và những bữa ăn ngon. Chiều nào bước vào nhà là nghe tiếng: Chú đã về với nụ cười trên khuôn mặt rạng rỡ của Lan. Và sau đó Lan đem lên cho ông bình trà, ngồi với ông một lúc, rồi mới xuống bếp. Ông chợt nhận ra một nguồn vui khi trong nhà có tiếng nói, tiếng cười của phụ nữ, nên quay nhìn Lan và hình dung lại dáng dấp Lan vào buổi sáng hôm qua, khi alarm báo cháy vang lên inh ỏi do ông rang mè bị cháy và Lan đã bước vội từ phòng tắm ra hốt hoảng: Sao vậy chú? Ông quay lại đáp: Không sao đâu. Chú rang mè bị cháy nên alarm báo động vậy thôi. Vậy mà Lan hết hồn – vừa nói Lan vừa bước trở vào phòng tắm và lúc ấy ông thấy Lan với chiếc khăn tắm choàng hờ hững trên người như một bức tranh. Bức tranh biến nhanh, nhưng chiếc khăn tắm choàng một bên vai xuống nửa thân đã trở thành một tác phẩm mà một thoáng nhìn ông đã chụp được vài giây sinh động của cô gái, chỉ phút hốt hoảng ấy, cô mới tỏ lộ được sự tự nhiên của thân thể dưới tấm khăn choàng. Ông mỉm cười kéo bức tranh choàng khăn tắm lại gần cô gái đang nhìn thẳng trong chiếc áo len xanh dương.
– Lan trở lại sân để tập parking.
– Dạ.
Lan vào sân, đậu xe, rồi nói:
– Ở Việt Nam, Lan đã tập park, nhưng chỉ để thi. Bây giờ chắc phải tập lại nhiều.
– Park có 3 trường hợp: park song song và 2 cách park sát lề đường. Song song thì dễ, chỉ cần ước lượng. Park bên lề đường thì khó hơn. Nếu khoảng lề đường rộng, mình có thể vào thẳng, rồi đậu cách lề chừng hơn gang tay là đẹp. Trường hợp lề đường có nhiều xe đậu, chỉ còn một khoảng hẹp cho một xe, vào thẳng không được, phải vào bằng cách lui thì khó, phải tập nhiều – Ông chỉ những viên gạch lớn ở gần lề sân:
– Khi đậu bằng cách lui, Lan tới chỗ 2 hàng gạch kia và đậu vào giữa 2 hàng gạch đó. Bây giờ Lan đi quanh sân, cứ mỗi vòng đậu môt kiểu: đậu song song, đậu bên lề vào thẳng và đậu bên lề bằng cách lui – Nói rồi ông mở cửa xe bước xuống.
Lan đi mấy vòng, rồi tới chỗ ông đậu lại. Cả hai lần đậu song song và đậu bên lề vào thẳng, ông đều cười gật đầu theo nụ cười của Lan, nhưng đến khi đậu bên lề bằng cách lui thì Lan lúng túng, phải cho xe ra vào nhiều lần và đậu cách lề quá xa.
Ông Bình đến mở cửa xe:
– Lan về chỗ đi. Hôm nay tập thế đủ rồi.
– Đậu lui khó quá chú ạ.
– Phải tập nhiều lần, rồi sẽ quen – Ông cười nói, cho xe đi dọc theo công viên, rồi đậu bên bờ hồ.
– Chú thấy Lan lái thế nào?
– Lái như thế là vững rồi. Sau khi có giấy tờ, chỉ tập thêm ít ngày là có thể đi thi. Thấy Lan nôn nóng nên chú cho lái thử, chớ tập lái kiểu này, cảnh sát chặn hỏi thì sẽ bị phạt. Theo luật, Lan phải có thẻ an sinh xã hội, có bằng thi viết, mới được phép tập lái.
– Sao chú không cho Lan biết?
Ông cười:
– Tại cô muốn thử nên chú không cản. Nói thế thôi chớ cảnh sát ít khi hỏi, nhất là khi thấy mình tập bài bản như thế.
– Chú thấy John thế nào?
– Phải quen biết lâu mới có thể nhận xét, còn chỉ gặp vài lần với ít câu chào hỏi thì biết gì mà nói. Nhưng anh ta dáng dấp ngon lành, vẻ mặt nghiêm mà hiền. Nhìn bề ngoài thì hai người đẹp đôi. Chỉ qua giới thiệu mà gặp được một người như thế là qúi lắm rồi.
Với giọng buồn Lan nói:
– Cần thoát khỏi Việt Nam nên Lan liều. Chẳng biết ngày mai ra sao.
– Cứ ở lại Mỹ hợp pháp cái đã, còn ngày mai ai biết.
Lan nhìn ông, rồi nhìn ra hồ:
– Hồ gì mà chỉ thấy mây và nước. Nếu chú không nói thì Lan lại nghĩ Chicago ở cạnh biển.
– Đây là hồ Michigan, một trong 5 hồ lớn ở Bắc Mỹ, gồm các hồ Superior, Huron, Erie và Ontario. Cả 4 hồ này, Mỹ và Canada, mỗi nước được một nửa hồ, vì hồ ở giữa biên giới hai nước. Hồ Michigan chạy dài lên tới gần tới biên giới Canada và đi vòng theo 4 tiểu bang là Illinois, Wisconsin, Indiana và Michigan. Theo hướng Lan nhìn về phía đông qua bên kia hồ là tiểu bang Michigan.
– Hồ Michigan làm tăng vẻ đẹp bát ngát của Chicago. John đã đưa Lan lên tòa building cao nhất nước Mỹ, Sears Tower, và Lan đã thấy được cái đẹp này.
Ông Bình gật đầu:
– Lan dùng chữ bát ngát thật đúng. Vào những ngày lộng gió mà Chicago là thành phố gió, Windy city, đứng đây sẽ thấy hồ mênh mông đầy sự đe dọa với sóng cuồn cuộn bất tận như sóng đại dương. Còn vào mùa hè, dọc bờ hồ, người đông như kiến, theo ước lượng có ngày lên tới cả triệu người. Mình đang ở mùa đông, nhưng hôm nay nắng, ít lạnh, nên chú đưa Lan xuống thăm khu vực người Tàu lập nghiệp ở Chicago cả trăm năm trước, Chinatown cũ, ở phía nam Chicago. Ông mở máy, cho xe ra đường Foster, rồi đi vào đường bờ hồ.
– Đường này đẹp chú ạ. Một bên building cao ngất, đủ màu sắc, một bên hồ trong xanh – Lan chỉ ra phía bãi cát dọc theo hồ: Chắc giải cát kia vào mùa hè sẽ đầy người.
– Đường này tên là Lakeshore Drive, chạy dọc bên ngoài Downtown và hồ. Bờ hồ ở đây không cao như như chỗ mình tập lái xe, lại có bãi cát thoai thoải chạy ra xa như bãi biển, nên mùa hè là nơi vui thú của dân Chicago: Tắm, phơi nắng và đi dạo.
– Chú có thường tới đây không?
Ông lắc đầu:
– Chú không thích chỗ đông người mà cũng chưa bao giờ tắm ở hồ. Hè và thu, có đi dạo là đi ở chỗ mình tập xe. Khu đó, công viên rộng, hồ sâu, đường bờ hồ cao. Có khi chú ngồi cả giờ nghe sóng ào ào đập vào vách đá dưới chân mình… Tiếng hát của hồ hay tiếng than của biển – Môi ông mấp máy nói nhỏ, rồi im lặng chú ý đoạn đường hay lầm lẫn mỗi lần vào Chinatown.
Đi thêm trên một mile, ông rẽ phải mấy lần ở những đoạn đường ngắn. Khi rẽ trái vào được Cermark, ông thở phào:
– Quãng đường phía ngoài phức tạp nên hay quên, vì mỗi năm chú cũng chỉ xuống đây vài lần mua trà. Bây giờ thì tới rồi. Chừng 15 phút sau, ông rẽ phải vào một đường ít xe, và Lan thấy tấm biển “Welcome to Chinatown”.
Ra khỏi sân đậu xe, Lan hỏi:
– Trên mấy đường quanh đây không còn chỗ đậu xe hở chú?
– Giờ này thì khó lắm, đường nào cũng đầy xe. Công đi tìm và tránh xe trên mấy con đường nhỏ còn mệt hơn là tốn mấy đồng vào bãi đậu – Ông cười nói, rồi hỏi: Lan thích ăn dim sum hay ăn mì?
– Ăn mì, chú ạ. Dim sum béo quá.
– Dim sum và mì ở đây nổi tiếng, nhất là dim sum. Chú có mấy người bạn ở ngoại ô, cách Chicago 6, 7 chục miles mà mỗi Weekend đều vào đây ăn rồi mới xuống chợ Argyle.
– Khu Argyle cũng có mì và dim sum. Vậy là họ chê dim sum của Chinatown mới.
– Có thể họ quen vị ở dưới này hơn. Còn chú thì thấy chỗ nào cũng vậy – Ông nói rồi cầm tay Lan theo đoàn người băng qua lộ để vào đường Wentworth.
Bước lên lề đường, Lan nói:
– Bước lên đây là thấy chất Tàu: Chữ Tàu, tiếng Tàu và màu sắc chói chang.
– Đây là con đường chính của Chinatown, cũng như đường Argyle, khu thương mại Việt Nam ở Uptown. Đi thêm chừng 200 mét, ông cầm tay Lan đi vào một tiệm rộng đầy khách. Hai người đi tới chiếc bàn vuông ở góc phòng.
– Ở đây có đủ loại mì: mì vằn thắn, mì vịt quay, mì xá xíu, mì sào dòn, mì thập cẩm…
– Mì vằn thắn, chú ạ.
Vừa lúc cô tiếp viên đến, ông cầm tấm menu, chỉ vào hàng chữ Wonton Noodle Soup:
– Please give me two bowls and hot tea.
Khi cô tiếp viên bước đi, Lan nói:
– Vào đây lại tưởng là vào mấy tiệm mì của Tàu ở Sài Gòn, toàn màu đỏ với kim tuyến vàng và sự ồn ào.
– Tiệm mì này mở cửa suốt ngày đêm. Cách đây 2 năm, chú từ thành phố Detroit tiểu bang Michigan về trong đêm nên ghé đây ăn mì. Hai giờ đêm mà vẫn đầy người với tiếng nói cười – Ông chỉ ra ngoài, đường Wentworth, đoạn này dài chừng 7, 800 mét. Tất cả hai bên đường là cơ sở kinh doanh, buôn bán, tiệm sách, nhà in, báo chí, tiệm ăn, siêu thị… Vào đây là thấy mình lạc vào một khu Tàu, từ cửa hàng cho đến khu cư dân – Ông chỉ ra phía cửa: Lan coi, bàn thờ ông thần tài.
– Tiệm mì Hon Kee và chợ Mỹ Á ở khu Argyle cũng vậy – Lan ngừng lại khi người tiếp viên đặt cái khay xuống bàn, rồi bưng 2 tô mì để trước hai người và nói nhanh: Thanks for your coming.
– Thank you – Lan đáp lại.
Ông Bình nhìn hai tô mì bốc hơi thơm:
– Vậy là hôm nay mình đi trên 40 miles để ăn mì Thất Bảo.
4
Từng đoàn người lũ lượt đi về hướng nhà hàng Furama trong tiếng nói, Lan nghe những lời chào: Năm mới, năm mới với tiếng cười.
Lan nắm tay ông Bình:
– Năm nào Hội Tết cũng tổ chức ở Furama, hở chú?
– Cả chục năm rồi. Hội Tết được tổ chức ở lầu 2. Hội trường sang trọng có thể chứa được cả trên ngàn người.
Ra khỏi thang máy, Lan thấy một rừng người. Giữa hội trường, những hàng ghế mấy trăm cái đã kín người. Người ta đi lại, chen nhau ở vòng ngoài và vây quanh những gian hàng bán đồ ăn. Lan dừng lại trước chiếc bàn có mấy hàng chữ: Mời quí vị ghi tên thi trình diễn áo dài và thi hát, hỏi ông:
– Năm nay có thi trình diễn áo dài và thi hát hở chú?
– Năm nào cũng có hai mục này mà là tiết mục ăn khách nhất.
Ông Bình dẫn Lan đi quanh một vòng, rồi dừng lại khu triển lãm hình ảnh những hoạt động của Cộng Đồng trong năm, khu giới thiệu những người đấu tranh cho dân chủ trong nước, những tù nhân lương tâm. Lan nhặt một sấp tài liệu nói về Trần Huỳnh Duy Thức, Đỗ thị Minh Hạnh, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần…, rồi tới khu thi cờ tướng, khu thư pháp và vẽ truyền thần. Tới khu có mấy vị cao niên đang uống trà, ông Bình nói: Chỗ này là chỗ của các vị bô lão, tiên, thứ chỉ ở đình làng Việt Nam ngày xưa. Ngày xưa, các cụ chủ trì lễ đình, bây giờ các cụ ở đây ngồi tiếp khách cao niên đi Hội Tết. Nghe ông nói, Lan mới để ý đến bình trà, rượu và hộp mứt trên mấy cái bàn vuông với ghế dựa.
Ở cạnh khu cao niên là một hội trường lớn thứ nhì. Qua chiếc cửa lớn, thấy bên trong đầy người, Lan kéo tay ông Bình tới gần cửa để nhìn vào thì thấy người ta chen nhau tụ quanh những cái bàn dài. Ông Bình cười: Phòng bầu, cua, cá, cọp để khách thử thời vận đen đỏ đầu năm. Tết đi liền với truyền thống cờ bạc.
Khi đến ngồi vào ghế ở phía trước sân khấu, Lan nói với ông là ra ngoài một lúc và khi trở lại Lan đi cùng vợ chồng người bạn với đứa con gái khoảng 7, 8 tuổi và John, hôn phu của Lan mà ông đã gặp mấy lần tại nhà khi anh ta đến đưa Lan đi chơi. Ông đứng dậy chào bắt tay John: Welcome to the Việt Nam Tết Festival, bắt tay Định, chồng của bạn Lan: Chúc anh chị và cháu gái một năm mới an lành, thịnh vượng.
Định đáp lại: Vợ chồng Định cũng xin chúc chú như vậy.
Ông Bình lấy trong túi ra một xấp bao bì đỏ, đưa cho mỗi người một bao: Ở Việt Nam thì chỉ mừng tuổi cho trẻ nhỏ, ở Mỹ thì xin mừng tuổi cả người lớn – Khi đưa bao lì xì cho Lan và John, ông nói: Cầu chúc Lan và John năm mới đạt được điều mong ước với niềm vui lớn. Ông xếp cho Lan ngồi cạnh John, đến bạn Lan, cháu gái, và Định ngồi cạnh ông.
Bỗng tiếng pháo nổ chát chúa trên sân khấu làm mọi người giật mình. Lan nhìn lên, băng pháo treo ở cây mai lớn ở trước sân khấu đang lóe sáng với những tiếng nổ liên tục… Khi tiếng pháo dứt, một người trẻ điều khiển chương trình ra đứng trước micro:
– Xin quí vị đứng dậy nghiêm chỉnh làm lễ chào quốc kỳ Mỹ, Việt. Đoàn ca lên sân khấu.
Từ phía sau, 5 thanh niên quần đen, áo trắng và 5 thanh nữ quần trắng áo dài vàng đi theo hàng một ra đứng trước sân khấu, ở giữa hai giá quốc kỳ Mỹ và cờ vàng ba sọc đỏ.
– Nghiêm. Quốc kỳ Mỹ… Quốc ca… Âm thanh The Star Spangled Banner vang lên từ chiếc máy CD.
– Quốc kỳ Việt Nam…. Quốc ca… Người điều khiển chương trình bắt giọng: Này công dân ơi… và 10 người trẻ trên sân khấu cất cao giọng kéo toàn thể hội trường hát theo…
Lan nhìn lên hàng cờ trên sân khấu, người nổi gai ốc theo với tiếng hát của cả ngàn người. Chưa bao giờ nàng trải qua sự xúc cảm như bây giờ.
Khi tiếng hát dứt, tiếng người điều khiển lại vang lên:
– Phút mặc niệm để tưởng nhớ anh hùng, tử sĩ đã vì nước vong thân, tưởng nhớ đồng bào đã bỏ mình trên rừng biên giới, trên biển cả trên đường đi tìm tự do. Phút mặc niệm bắt đầu.
Lan cúi xuống khi âm thanh bản Chiêu Hồn Tử Sĩ vang lên và người nàng lại nổi gai ốc.
– Phút mặc niệm chấm dứt. Xin mời qúy vị an toạ.
Sau làn sóng rào rào khắp hội trường, tiếng người điều khiển lại vang lên:
– Xin giới thiệu qúy vị, bà Trần Lương Ngọc, chủ tịch Hội Đồng Đại Diện Cộng Đồng Người Việt Tự Do Illinois, đọc diễn văn khai mạc Hội Tết Nhâm Thìn, 2012. Xin mời bà Trần Lương Ngọc.
Bà chủ tịch cộng đồng người cao thuôn thả, áo dài vàng nhạt, lên sân khấu cúi đầu chào với tiếng vỗ tay của cả hội trường. Sau lời chúc năm mới quí vị quan khách và đồng hương, bà tường trình ngắn về những sinh hoạt chính trị, văn hóa, y tế và kinh tế của cộng đồng trong năm. Cuối cùng bà tuyên bố khai mạc Hội Tết năm Nhâm Thìn. Sau lời tuyên bố khai mạc Hội Tết, tiếng pháo trên cây mai lại nổ. Những tia lửa với xác pháo tung bay trên sân khấu.
Tiếng người điều khiển chương trình lại vang lên:
– Tới giờ lễ tổ. Xin mời bác Phạm Thanh.
Ông Thanh mặc áo dài đỏ, đội khăn xếp đỏ, lên sân khấu với một thanh niên. Anh thanh niên giúp ông đốt nhang, rót rượu, rót trà, rồi đứng sang bên, trong khi ông vái, cắm nhang vào bát nhang, rồi quỳ lạy trước bàn thờ tổ.
Ngồi cạnh John nên mỗi tiết mục Lan đều nói ít điều về ý nghĩa cho John hiểu. John nói là sống ở gần Chicago và chơi thân với gia đình Định, nhưng John không biết những sinh hoạt văn hóa của cộng đồng người Việt ở đây. Chỉ biết tết Việt Nam khi gia đình Định mời đến với một bữa ăn gồm nhiều món như chả giò, thịt heo kho trứng, giò lụa, thịt đông và bánh chưng. Theo John thì những món đó ngon, nhưng làm mất nhiều công và thì giờ. Lan cho biết là trong đó có thứ tự nấu, có thứ mua và nói thêm, việc nấu ăn cũng là niềm vui của đa số phụ nữ Việt, nếu họ có thì giờ. Lan đùa là sau này về sống với John, nàng chưa biết là sẽ bị Mỹ hóa hay John sẽ bị Việt hóa. John cười nói: Lan không nên Mỹ hóa, vì John xin tình nguyện để được Việt hóa.
Lan đưa tay bịt miệng để tiếng cười khỏi bật ra, khi nghe tiếng:
– Xin thông báo qúi vị, sau đây là chương trình thi trình diễn áo dài. Xin quí vị trong Ban Giám Khảo lên hàng ghế trước sân khấu.
Cùng lúc ấy hàng chục thanh niên đã lên sân khấu khiêng bàn thờ để xuống phía sau và hai giá cờ Mỹ, Việt để xuống phía dưới sân khấu. Ông Bình đứng dậy nói: Bây giờ tới việc của tôi. Rồi đi lên ngồi vào chiếc piano ở góc cuối sân khấu. Nhìn xuống Ban Giám Khảo, gồm 5 vị, 2 nữ, 3 nam, người nào trên tay cũng 1 xấp giấy với cây bút, ông mỉm cười khi thấy vẻ mặt trịnh trọng của cả 5 người. Đã 4 năm, ông làm việc đệm đàn cho chương trình trình diễn áo dài và năm nào Ban Giám Khảo cũng không thống nhất được với nhau về số điểm và thứ hạng của mấy người trúng giải. Cuối cùng phải dùng đến giải pháp tương nhượng.
Tiếng của người điều khiển vang lên:
– Ban Giám Khảo xin công bố 3 tiêu chuẩn với 3 loại điểm: Thứ nhất là dáng người, thứ nhì là dáng đi và thứ ba là nghệ thuật phô diễn những nét đẹp, quyến rũ của áo dài… Chương trình thi trình diễn áo dài bắt đầu… Xin mời cô Nguyễn thị Thu Thủy, sinh viên đại học Northern Illinois.
Những tiếng vỗ tay theo Thu Thủy lên sân khấu. Thu Thủy dáng thanh, mặc áo dài xanh dương, tóc xõa lưng, vào giữa sân khấu cúi chào, rồi xoay một vòng cho 2 cánh áo dài vờn lên. Thủy đi vòng quanh sân khấu, tới mỗi góc, cô đứng lại, rồi mới xoay nhanh về phải hay trái để đi tiếp, và mỗi bước xoay đều cuốn tà áo bay lên. Đi hết 3 vòng, cô đi vào giữa sân khấu cúi chào với tiếng vỗ tay của cả hội trường.
– Xin mời cô Cao Thị Thu Cúc, sinh viên đại học Loyola. Thu Cúc dáng thuôn thả đài các, tóc buông xõa, quần áo lụa trắng. Cúc đi tự nhiên, đôi khi ngừng lại, ngước nhìn lên, vươn tay lên cao như với một cành hoa. Vòng đầu, Cúc đi thong thả, đến vòng thứ 2 và 3 đi nhanh và cánh áo dài vờn lên theo những bước chân. Rồi bất ngờ, cô vòng ra giữa sân khấu, bước chậm lại, cúi chào với khuôn mặt phúc hậu nhu mì.
Trong tiếng vỗ tay có tiếng nói lớn: Đi thêm vài vòng nữa, đẹp lắm.
– Xin mời cô Lê thị Tâm, nhân viên nhà băng Chase, Chicago. Tâm người tầm thước đầy đặn, tóc uốn cuộn vào gáy, mặc áo dài huyết dụ, quần trắng. Cô làm dáng nhiều trong bước đi, nên quên mất những động tác phô diễn hai cánh áo dài. Sau Tâm là 2 cô nữa, nhưng cả hai đều thiếu sự linh động trong việc tạo ra những động tác của riêng mình. Các cô chỉ biết đi quanh, xoay người, lập lại một số động tác của mấy lần trước nên thiếu tự nhiên.
Ông Bình đã xúc động nhìn theo những bước đi. Vì bước đi nào hai cánh áo dài cũng tạo dáng tha thướt như giải lụa. Và theo từng bước đi, thân thể của các cô đã bộc lộ sự khêu gợi từ cánh áo phất phơ và chiếc quần hờ hững. Theo dòng những bước chân với hai cánh áo vờn lên, hạ xuống, ông đã biểu lộ sự xúc động qua những ngón tay trên phím dương cầm. Ông bỗng giật mình khi nghe tiếng: Xin mời cô Trần Quỳnh Lan.
Lan bước lên sân khấu, nhìn ông mỉm cười, rồi bước ra giữa sân khấu cúi chào và xoay một vòng cho cánh áo dài cuốn lên. Chiếc áo xanh dương và hai ống quần trắng quyện vào tà áo và đôi chân theo những bước đi. Lan đi vòng sân khấu với những động tác bất chợt đứng lại và xoay nhanh làm tà áo cuốn lên để lộ cả một bên đùi lên đến mông, hiển lộ nét quyến rũ và lẳng của tà áo dài khi đi trên đường lộng gió. Tự trong góc, Lan bước ra giữa sân khấu, cúi xuống như cúi nhặt một vật gì, với tay nâng tà áo, hiển lộ nét khêu gợi của thân áo ở chỗ xẻ tà tam giác với khuôn ngực vươn cao. Rồi Lan đứng dậy bước nhanh, tay đỡ tà áo vờn lên…
Bàn tay ông Bình đã chạy trên bàn phím để theo kịp những bước đi, chợt nhanh, chợt chậm, chợt dừng của Lan. Ông ngạc nhiên trước những động tác rất tự nhiên qua bước đi, Lan đã đưa được những nét đẹp và quyến rũ nửa kín, nửa hở của hai tà áo lên sân khấu. Và khi Lan bước xuống với những tiếng vỗ tay và huýt gió, bàn tay ông vẫn lướt trên những hòa âm của Tà Áo Cưới.
Khoảng 20 phút sau, người điều khiển chương trình đến trước micro:
Kính thưa quí vị, Ban Tổ Chức xin công bố 3 người đoạt giải của cuộc thi trình diễn áo dài:
– Thứ nhất, cô Cao thị thu Cúc, giải 3 với 500 đô la.
– Thứ nhì, cô Nguyễn thị Thu Thủy, giải nhì với 700 đô la.
– Thứ ba, cô Trần Quỳnh Lan, giải nhất với 1000 đô la.
Cả hội trường như bùng vỡ với tiếng vỗ tay cùng những tiếng hú.
Nhìn xuống hội trường, ông Bình thấy John và vợ chồng Định đứng dậy bắt tay Lan.
Sau khi 3 cô trúng giải lên sân khấu nhận giải từ tay bà chủ tịch cộng đồng, tiếng người điều khiển lại vang lên:
– Kính thưa quí vị, tiếp sau đây là chương trình thi hát. Xin mời quý vị trong Ban Giám Khảo lên hàng ghế trước sân khấu.
Nhìn xuống Ban Giám Khảo, ông Bình nhận ra 5 người quen, gồm nhạc sĩ Vũ An, 4 ca sĩ – 1 nam, 3 nữ ở Chicago, hàng năm vẫn làm giám khảo cho chương trình thi hát.
– Thưa quí vị, chương trình thi hát bắt đầu. Xin mời anh Lê Nghĩa, sinh viên đại học Devry. Anh Nghĩa sẽ hát bản Phiên Gác Đêm Xuân của Trần Thiện Thanh.
Nghĩa lên sân khấu cúi chào, bước mấy bước theo nhạc dạo, rồi cất tiếng: Đón giao thừa một phiên gác đêm, chào xuân đến súng xa vang rền… chỉ hai câu đầu, ông Bình đã thấy sự điêu luyện và truyền cảm của giọng hát. Và ông nhìn Nghĩa, ngạc nhiên là một sinh viên hơn 20 thì chắc phải sinh trưởng ở Mỹ mà sao lại có giọng hát như một ca sĩ Việt Nam. Nghĩa đi lại say sưa theo tiếng hát qua dáng điệu và đôi tay – Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh mà nhớ chiếc bánh ngày xuân… Ông Bình đã kết bản nhạc từ thời còn ở Việt Nam. Rồi những năm ở Mỹ, ông thường nghe Hà Thanh và Thanh Tuyền hát. Bây giờ lại gặp một giọng ca mới, ông hát nhỏ theo bạn ca sĩ sinh viên: Thì đừng đến xuân ơi… Tiếng “ơi” được dương cầm đưa đi xa, trong khi Nghĩa cúi chào trong tiếng vỗ tay vang dội.
Sau Lê Nghĩa là cô Trần Thu Vân hát bản Anh Cho Em Mùa Xuân, cô Tô Thị Oanh hát bản Nếu Xuân Này Vắng Anh, và anh Trương Thìn hát bản Xuân Và Tuổi Trẻ. Cả ba giọng không có gì đặc sắc, nhưng ông chăm chú vào cách diễn tả và dùng tiếng đàn để che lấp những chỗ yếu kém của giọng hát.
Người thứ năm là cô Lê Ngọc Trân, sinh viên đại học Chicago, ca bản Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa của Tô Vũ. Với áo dài màu tím hoa cà và áo len tím thẫm, Ngọc Trân đã làm dịu khung cảnh náo nhiệt trong hội trường, khi cô bước mấy bước theo tiếng đàn, rồi dịu dàng: Em đến thăm anh một chiều đông. Em đến thăm anh một chiều mưa, mưa dầm dề, đường trơn ướt tiêu điều… Giọng ngọt ngào như màu áo, ông Bình nghĩ và ngạc nhiên là Ngọc Trân, ở lứa tuổi 18, đôi mươi, sinh trưởng ở Mỹ mà lại tìm đến bản nhạc của lớp người mấy thế hệ trước. Nhìn Ngọc Trân bước đi với tiếng hát, ông như đang nghe Mộc Lan, Châu Hà, và cảm nhận là Ngọc Trân đã nhập được vào tình ý của bản nhạc: Có hay lúc em về, gót chân bước reo âm thầm, trên đường một mình ngoài mưa, mưa như mưa trong lòng anh, lòng bồi hồi nhìn theo chân em chìm trong ngàn xanh… Ngọc Trân đứng lại, nhìn xuống hội trường: Ta ước mơ một chiều thêu nắng, em đến chơi quên niềm cay đắng và quên đường về… Ông Bình bỏ phím đàn, vỗ tay theo tiếng vỗ tay vang dội trong hội trường.
Tiếp sau Ngọc Trân là Vũ Bản, một ông trung niên, ca bản Nỗi Lòng Người Đi của Anh Bằng. Ông Bản cúi chào khán giả, rồi theo nhạc cất tiếng: Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu. Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều… Ông Bình thầm nghĩ: Lại gặp một giọng truyền cảm điêu luyện. Vũ Bản nhìn ra hội trường: Hà Nội ơi, nào biết ra sao bây giờ. Ai đứng trông ai ven hồ khua nước như ngày xưa… Ông Bình đã nghe nhiều ca sĩ ca bản Nỗi Lòng Người Đi và bây giờ tưởng như mình gặp lại tiếng hát Sĩ Phú… Những ngón tay trên bàn phím đi theo xúc cảm của Vũ Bản: Sài Gòn ơi, Mộng với tay cao hơn trời, tôi hái hoa tiên cho đời để ước mơ nên đẹp đôi – Vũ Bản cúi chào trong tiếng vỗ tay vang dội.
Ông Bình sửng sốt khi nghe: Kế tiếp là cô Trần Quỳnh Lan. Quỳnh Lan sẽ ca bản Bài Thơ Hoa Đào của Hoàng Nguyên. Sau lời giới thiệu, người điều khiển chương trình bước đến bên piano: Quỳnh Lan vừa mới ghi tên nên Ban Tổ Chức không có bản Bài Thơ Hoa Đào. Ông Bình cười nói: Không sao, bản này tôi biết.
Quỳnh Lan tới bên ông Bình nói nhỏ: Thấy vui nên Lan liều, rồi mới ra giữa sân khấu cúi chào. Cô bước một vòng theo tiếng nhạc, tay phe phẩy như đánh nhịp: Ngày nào dừng chân phiêu lãng khách tới đây khi hoa đào vương lối đi, mầu hoa in dáng trời, tình hoa lưu luyến người, bồi hồi lòng lữ khách thấy chơi vơi… Ông Bình ngạc nhiên, Mấy tháng qua ông chưa từng nghe Lan hát một câu hay nói về nhạc, chỉ ngồi nghe ông đàn. Sao hôm nay bỗng dưng lên thi hát và giọng Lan như giọng của một ca sĩ chuyên nghiệp… Tay ông lướt trên bàn phím theo tiếng hát: Ôi, Đà Lạt là mơ, giấc mơ tiên nữ giáng xuống trần, tóc mây buông lơi tha thướt bên hồ, đợi tình quân đến trong giấc mơ… Giọng đầy tiềm lực, lên cao, xuống thấp rất ngọt và tự nhiên. Ông đã nghe hầu hết những ca sĩ thế hệ cũ cũng như mới hát bản này. Nay nghe Lan, ông gặp lại giọng của Lệ Thanh với thuật luyến láy và nũng nịu. Lan bước một vòng với cánh áo dài quấn quít hai ống quần, rồi ngừng lại giữa sân khấu: Nhưng rồi mùa hoa tàn, người hoa sao vắng mãi, sao chiều lòng mong chờ, đường hoa sao hững hờ để lòng lữ khách cất bước đi nhớ hoa nở trên má ai, mầu hoa in trên má làm lữ khách lưu luyến mãi Đà Lạt ơi...Quỳnh Lan cúi xuống trong tiếng nhạc và tiếng vỗ tay vang dội hội trường.
Trước khi xuống sân khấu, Lan đến bên piano: Cám ơn chú. Ông Bình đứng dậy bắt tay Lan: Đã lâu lắm chú mới được nghe Bài Thơ Hoa Đào với nghệ thuật luyến láy điêu luyện.
Khoảng 20 phút sau, người điều khiển chương trình lên tiếng:
– Kính thưa quí vị, Ban Tổ Chức xin công bố kết quả cuộc thi hát với ba giải:
– Thứ nhất, ông Vũ Bản, giải ba với 300 đô la.
– Thứ nhì, cô Ngọc Trân, giải nhì với 500 đô la.
– Thứ ba, cô Trần Quỳnh Lan, giải nhất với 700 đô la.
Hội trường như vỡ tung với tiếng vỗ tay và tiếng hú.
– Xin mời ông Vũ Bản, cô Ngọc Trân và Quỳnh Lan lên sân khấu nhận giải.
Ông Bình và Lan vừa trở về chỗ thì bà Lương Ngọc, chủ tịch cộng đồng, đến tươi cười:
– Năm mới chúc anh mạnh khỏe, nhiều may mắn. Xin cám ơn anh đã đàn cho 2 cuộc thi.
– Tôi cũng xin chúc chị cùng gia đình một năm mới an lành và thăng tiến. Nhân tiện xin giới thiệu chị, Quỳnh Lan là cháu tôi mới ở Việt Nam qua.
– Vui vậy ư – Bà Lương Ngọc cầm tay Lan – Cô cháu anh thật tuyệt vời. Tôi chưa nghe ai hát Bài Thơ Hoa Đào truyền cảm như cô. Rồi nghệ thuật trình diễn áo dài nữa, phá cách, không đi vào khuôn nếp cũ, sinh động và biểu lộ được những nét đẹp ẩn tàng của chiếc áo dài. Cám ơn Quỳnh Lan đã đem lại cái đẹp cho Hội Tết.
Lan đáp:
– Cám ơn bà quá khen. Thấy hội tết vui nên Lan liều, không ngờ lại được giải.
Bà Lương Ngọc nhìn ông:
– Cũng như mọi năm, 8 giờ tối nay, xin mời anh và Quỳnh Lan đến nhà ăn tết. Có điều xin báo trước là tôi muốn được nghe Quỳnh Lan hát thêm.
Ông Bình đáp:
– Cám ơn chị, chúng tôi sẽ đến.
Khi bà Lương Ngọc bước đi, ông Bình nói với vợ chồng Định: Hội Tết sẽ kéo dài tới 6 giờ với một số chương trình như Lotto, trình diễn võ thuật Vovinam và chương trình ca nhạc của một số ca sĩ ở Chicago và vùng phụ cận, cả mấy tiểu bang gần Chicago như Iowa, Michigan và Indiana. Bây giờ xin mời anh chị và John đi ăn phở. Rồi sau đó về hay ở lại, tùy quí vị. Cả toán đứng dậy theo ông ra cầu thang. Ông Bình mỉm cười nhìn Lan khi nghe tiếng người chủ trì Lotto ngân nga:
– Chồng chê thì mặc chồng chê,
Ăn đồng kẹo kéo chồng mê đến già… Nó là con số… con số mười ba.
– Cả hội trường chơi Lotto hở chú?
– Cả hội trường. Lotto sẽ kéo dài tới 6 giờ. Xen kẽ vào đó có một số chương trình khác, nhưng chính yếu là ca nhạc.
Định lên tiếng:
– Vậy Hội Tết ở đây là đánh bạc và ca nhạc.
– Chỉ có thế mà hội trường lúc nào cũng đầy người. Toán này xuống thì toán khác lên – Ông cười nói, rồi chỉ vào một toán cả mười mấy người vừa bước lên lề đường: Anh thấy đó, chúng ta đi thì lại có toán khác tới.
5
Quỳnh Lan rót trà ra 2 tách, rồi nhìn ông Bình:
– Thưa chú, sáng mai Lan sẽ đi với John xuống Springfield để John giới thiệu với cha mẹ và tiện thể thăm mấy di tích lịch sử của tổng thống Lincoln.
– Vậy là việc của Lan sắp xong, chú mừng cho Lan. Một ca sĩ Việt Nam về làm dâu miền đất dựng nghiệp của Lincoln, vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ. Thật đẹp.
Lan cúi xuống cười che dấu sự e thẹn, rồi hỏi:
– Ông ấy vĩ đại vì cái gì chú?
– Lincoln vĩ đại về hai việc. Thứ nhất là ông đã hủy bỏ chế độ nô lệ người da đen của nước Mỹ. Một việc rất khó, vì tới giữa thế kỷ 19, thời Lincoln, số nô lệ da đen ở những tiểu bang miền Nam đã lên tới 3 triệu trong khi người da trắng chỉ có 6 triệu và chế độ nô lệ đã được ghi trong Hiến Pháp. Thứ nhì là đã cứu được chế độ Liên Bang thống nhất (Union) của Mỹ. Vì sau khi ông đắc cử tổng thống năm 1860, 11 tiểu bang miền Nam muốn duy trì chế độ nô lệ nên đã ly khai, tách ra thành lập một Liên Bang mới gọi là Confederacy. Lincoln cương quyết duy trì sự thống nhất của Liên Bang Union. Từ đó tạo thành cuộc nội chiến giữa Miền Bắc, gồm những tiểu bang tự do không có nô lệ và Miền Nam. Cuộc nội chiến kéo dài 4 năm, từ 1861 đến 1864 với sự chiến thắng của quân đội Miền Bắc – Ông ngừng lại một lúc rồi tiếp: Nhân chuyện này chú nói thêm một điều là chính quyền đảng trị của Việt Nam thường tự xưng là nhà nước của dân, do dân, và vì dân. Tất nhiên chúng ta hiểu là họ đã làm ngược lại với chữ đảng, nhưng cần biết thêm là mấy ông nhà nước Việt Nam đã lấy những chữ đó từ câu kết trong bài diễn văn của Lincoln đọc trong lễ khánh thành nghĩa trang Quân Đội Gettyburg, vùng đất đẫm máu nhất trong trận chiến kết thúc cuộc nội chiến – Ông tới kệ sách lấy một cuốn, nhìn qua mục lục, rồi giở tới một trang: Đây, Lan nghe câu đó như sau: And that this nation, under God, shall have a new birth of freedom and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth.
– Government of the people, by the people, for the people…Nhà nước của dân, do dân, vì dân…, Lincoln hủy bỏ chế độ nô lệ da đen và giữ được sự thống nhất của nước Mỹ – Lan lẩm bẩm như học bài, rồi hỏi: Chú đã tới Springfield lần nào chưa?
Ông gật đầu:
– Chú đã xuống đó một lần để thăm mấy di tích lịch sử của Lincoln, gồm ngôi mộ và ngôi nhà. Ngôi nhà 2 tầng khá lớn với nhiều đồ đạc được giữ nguyên vẹn như giường, bàn ghế và nhiều đồ dùng khác. Springfield là thủ phủ của tiểu bang Illinois, nhưng là thành phố nhỏ. Trên mấy con đường quanh ngôi nhà của Lincoln, ngoài mấy nhà hàng fastfood của Mỹ như Mcdonald, Kentucky, duy nhất có một tiệm ăn Tàu – Ông ngừng lại một lát: Về làm dâu miền đất của Lincoln thì rồi sẽ thành thổ công của Springfield. Nhưng có một điều chú muốn nói là trong vài năm nữa quen đồ ăn Mỹ, Lan sẽ quên nghệ thuật nấu món ăn Việt Nam.
Lan cười:
– Hôm ở hội tết nói chuyện về ăn uống, John bảo là muốn được Việt hóa. Như thế Lan sẽ không biết nấu đồ ăn Mỹ thì đúng hơn.
Ông lắc đầu:
– Đó là nói cho vui, chớ người Mỹ không ăn được những món ăn truyền thống Việt Nam. Chẳng hạn mấy món như canh chua cá catfish, đậu hũ chiên chấm tương bần, cá kho tộ, rau muống sào tỏi mà Lan thường nấu thì ít người đạt được, nhưng về với John thì hết. Vì thế chú tiếc.
Lan cúi xuống có vẻ thẹn:
– Chú quá khen, chớ Lan chỉ nấu bình thường thôi.
– Bình thường được như cô mà mở tiệm ăn thì sẽ hốt hết khách của mấy nhà hàng ở Argyle. Chú thường ăn canh chua ở nhà hàng Thái bình và Ba Miền và chỉ thấy chua chớ không có mùi thơm của canh chua ở Việt Nam. Còn rau muống sào thì dươn và dai chớ không thơm và mềm.
Ông Bình nâng tách trà uống cạn, rồi nói:
– Chú cũng thường nấu canh chua với đủ thứ như me, cà chua, đậu bắp, nhưng chỉ chua chớ không có mùi thơm như canh chua Lan nấu. Bí quyết ở đâu, để lại cho chú rồi hãy về Springfield.
– Chú nói như Lan có bí kíp như truyện Kim Dung… Thật ra thì hơn 20 sống với cha mẹ, Lan đi học, rồi đi làm, đôi lúc phụ mẹ chớ không nấu. Tới khi sắp lấy chồng mẹ mới chỉ cho một số món. Nhưng chưa có ai khen, chỉ có chú, nên Lan sẽ ghi lại cho chú những điều mẹ dạy.
Ông nhìn Lan:
– Chú muốn nói thêm một điều nữa là John không thể quen với nước mắm, tương bần, cá kho và rau muống, nhưng có thể quen với tiếng Việt. Vì thế Lan nên khuyến khích John học tiếng Việt, vợ dạy chồng thì mau thành thạo, để John có thể nghe và biết tiếng hát của vợ mình ra sao. Món ăn Việt rồi sẽ quên, nhưng đừng để mất tiếng hát.
– Cám ơn chú. Không biết nấu ăn và hát có được như chú khen không, nhưng chú đừng lo, vì Elgin về đây có hơn tiếng lái xe, mỗi tháng Lan sẽ về nấu ăn và hát chú nghe – Lan cười nói, rồi đứng dậy đi về phòng.
Ông Bình nhìn lên bức ảnh Biển Động, trầm ngâm về sự hứa hẹn của Lan. Ông không mong Lan thực hiện lời hứa, vì bao nhiêu năm nay ông đã giảm trừ đời sống tới gần số không, sống đơn giản và không giao du để giữ sự yên lặng. Quỳnh Lan đến đã phá vỡ mất sự yên lặng đó. Vì thế ông mong việc kết hôn của Lan mau thành để ông trở về với đời sống cũ. Vô tình qua một lời khen mà Lan lại nói lên một điều ông sợ. Không thể nói ra điều này, nhưng ông hy vọng chỉ trong vài tháng sau kết hôn, việc làm, việc nhà và shopping sẽ nuốt hết thời gian của Lan và lúc đó ông có thể giúp Lan cởi bỏ lời hứa. Ông đứng dậy đi đến chiếc dương cầm… Bàn tay lướt trên bàn phím tìm âm thanh của Ta Với Trời Bơ Vơ, Lá Đổ Muôn Chiều, Chiều Trên Phá Tam Giang, Giọt Nắng Bên Thềm, Có Một Niềm Riêng… Dừng lại trầm ngâm một lúc, rồi trở về Đà Lạt với Đà Lạt Hoàng Hôn… thì Lan ra phòng khách trong chiếc robe ngủ màu hồng, đến bên piano, lấy tay đập nhịp rồi cất tiếng: Đứng trên triền dốc nhìn xuống đồi thông, hàng cây thắm màu đèn lên phố phường. Giờ đây hơi sương giá buốt, biết ai thương bước cô liêu, một người đi trong sương rơi… Ông Bình ngạc nhiên, vì từ sau tết Lan chỉ ra phòng khách nghe ông đàn, thế mà đêm nay lại hát theo đàn. A! lời hứa, ông mỉm cười… Đà Lạt ơi, có nghe chăng Cam Ly khóc tình đầu dang dở. Đêm xuống Than Thở vang cung hờn, người đi trong bóng cô đơn… Lan bước đến cạnh ông… Gần nhau xa nhau mấy nỗi, hỡi quê hương xứ sương rơi, Đà Lạt ơi, Đà Lạt ơi…
Ông Bình cầm tay Lan cảm động:
– Chưa về Springfield mà đã thực hiện lời hứa rồi. Cám ơn Lan.
6
Ông Bình để ly rượu Martell trên cửa sổ, đứng nhìn sân đầy tuyết. Qua ánh đèn đường, tuyết rơi phơi phới như mưa rào. Những cơn gió thổi tuyết cuộn lên bay ngang như một tấm màn trắng. Tuyết đi với gió và gió hú từng cơn qua đầu hồi nhà.
Lan ra phòng khách, đến bên ông:
– Bão tuyết cả đêm như thế này thì ngày mai tuyết sẽ ngập tới đâu chú?
– Theo dự báo thì trận bão sẽ kéo dài qua đêm và tuyết sẽ dày khoảng 1 feet. Công sở, trường học đóng cửa. Xe rải muối đã chạy suốt từ chiều, nhưng tuyết xuống nhiều quá không biết có kịp tan – Ông chỉ ra sân: Bây giờ tối, chỉ nhìn thấy sân và cây đèn đường, chớ ngày mai Lan sẽ thấy tuyết phủ đầy mái nhà, hè đường, cây cối. Toàn thành phố là một màu trắng. Đẹp thì có đẹp, nhưng đi làm thì rất cực và thành phố tốn rất nhiều tiền, hàng trăm triệu, để xe xúc tuyết chở tuyết ra ngoại ô đổ xuống cánh đồng.
– Xe xúc tuyết cả thành phố, hở chú?
– Xúc tuyết ở những con đường chính và ở những khu quan trọng, còn ở những con đường nhỏ thì có loại xe đẩy tuyết vào hai bên đường. Và nhà hai bên đường có bổn phận xúc tuyết trên lề trong phạm vi nhà mình thành một con đường để người có thể đi lại. Ngày mai khi tuyết ngừng rơi, chú sẽ xúc từ cửa ra tới cổng thành một đường rộng khoảng 1 mét, rồi sẽ xúc một đường phía trước nhà nối với nhà bên phải và bên trái. Con đường giữa hai bờ tuyết cao này sẽ kéo dài một, hai tuần hay lâu hơn cho tới khi có mưa. Được trận mưa lớn chừng 2, 3 tiếng là thành phố sạch như lau, vì tuyết tan chảy sẽ kéo theo rác xuống sông, xuống cống.
– Thế nắng không làm tuyết tan hở chú?
Ông lắc đầu:
– Sau khi tuyết rơi, trời thường rất lạnh nên dù nắng tuyết vẫn đóng băng. Đi phải rất cẩn thận vì dễ té. Theo thống kê, mỗi mùa đông, số người chết vì té rất cao. Dân xứ tuyết mà vẫn chết vì tuyết. Chúng ta là dân xứ nóng lại càng phải cẩn thận. Đi chậm và nhìn kỹ, chỗ nào có băng bóng loáng thì tránh. Mấy trận tuyết trước nhẹ, chỉ kéo dài mấy tiếng, rồi sau đó một, hai ngày là có mưa, tuyết tan nhanh nên cô không thấy tuyết đóng băng trên đường, trên sân nhà. Qua trận bão tuyết này cô sẽ biết rõ xứ tuyết hơn.
Lan nhìn ra sân một lúc, rồi quay lại nói:
– Sân và đường đầy tuyết rồi chú ạ. Ngày mai Lan sẽ ra xúc tuyết với chú.
– Gái mười bảy bẻ gẫy sừng trâu. Mặc ấm rồi thử xúc cho biết – Ông cười rồi cầm ly rượu trở lại ghế salon. Lan xuống bếp uống nước, rồi lên phòng khách ngồi đối diện với ông:
– Đêm nay chú không đàn?
– Đàn chứ. Những đêm bão tuyết như thế này, chú đàn nhiều để khỏa lấp sự trống vắng. Vì những ngày bão tuyết hay mưa bão thì chú cảm thấy ngôi nhà này trống vắng nhiều hơn. Chỉ có tiếng đàn vang vọng, tràn đầy là có thể khỏa lấp sự trống vắng ấy. Có nhiều lần chú đã đàn cho tới khi ngủ gục trên phím đàn. Năm nay có Lan nên đêm tuyết này mới có tiếng người thay cho tiếng đàn – Ông nhìn lên bức ảnh Biển Động, nói nhỏ: Đã bao nhiêu năm…
Lan nhìn ông rồi cúi xuống che dấu sự xúc động, khi ngước lên vẫn thấy ông nhìn bức ảnh, mãi một lúc sau mới cất tiếng:
– Thưa chú.
Ông Bình nhìn Lan, lắng nghe.
– Thưa chú, John đã quyết định làm giấy kết hôn vào thứ hai tuần tới. Và sau đó John sẽ đưa Lan ra Hawai một tuần. Chiều thứ hai hôm đó John sẽ tổ chức một bữa tiệc mời một số bạn thân bên John, còn Lan thì chỉ có chú và gia đình chị Nhung.
– Chú mừng là Lan sẽ có đời sống ổn định sớm ở Mỹ. Còn bữa tiệc thì thì xin miễn cho chú. Vì từ bao lâu nay chú đã tránh tới chỗ tiệc tùng đông người.
Lan nhìn ông một lúc:
– Chú không muốn tới, Lan không dám ép, nhưng Lan xin được phép thưa hai điều: Trước hết là cám ơn chú đã giúp Lan, coi Lan là người thân và thứ nhì là muốn biết về cuộc đời cô độc của chú và bức ảnh Biển Động. Từ chiều đến giờ, nhìn tuyết rơi và nghe từng cơn gió hú, Lan lại nghĩ về đời sống âm thầm của chú trong ngôi nhà này. Trước đây chú nói là rồi sẽ hiểu, nhưng cứ nhìn hai bức ảnh, Lan lại đặt ra những giả thuyết và băn khoăn với nó. Nếu chuyện chẳng có gì bí mật thì xin chú giải sự băn khoăn này cho Lan.
Ông Bình trầm ngâm một lúc:
– Ai cũng có chuyện riêng tư khó nói hay không cần nói, nhưng chúng ta thì có thể nói cho nhau nghe được. Cám ơn Lan đã quan tâm đến đời sống của chú – Ông ngừng lại uống một hớp rượu rồi hỏi:
– Trước kia Lan có lên Đà Lạt vào mùa hoa anh đào bao giờ không?
– Dạ có. Vì làm ở công ty du lịch nên Lan thường lên Đà Lạt, nhưng đáng tiếc là do việc làm lại các hồ lớn, nhỏ như Xuân Hương, Than Thở…, rồi do việc khai phá để xây dựng nhà cửa, nên anh đào trong thành phố còn rất ít. Vì thế hoa anh đào không còn là một cảnh sắc đặc biệt của Đà Lạt. Bây giờ người ta bán ảnh hoa anh đào nhiều hơn. Cái danh “anh đào Đà lạt” đã thành dĩ vãng. Nhưng do thích hát nên Lan biết nhiều bản nhạc viết về Đà Lạt, nhất là hai bản Bài thơ Hoa Đào và Ai Lên Xứ Hoa Đào.
Ông gật đầu:
– Như thế thì tiếc thật. Thời chú sau 75, Đà Lạt tiêu điều đi nhiều, nhưng cảnh sắc thiên nhiên chưa bị phá, nên anh đào vẫn nở tung vào mấy tháng mùa đông trên khắp thành phố, ven hồ và thung lũng. Bản nhạc và ảnh chỉ ghi lại được một số nét nào đó thôi. Còn khi mình đi dưới một rặng anh đào hay nhìn màu hồng anh đào nở tung trên một dốc đồi thì mới thấy và cảm được sự quyến rũ của anh đào trong cái lạnh buổi sáng, buổi chiều của Đà Lạt. Gia đình chú ở Đà Lạt, lại ở trên đường Pasteur, con đường vòng dốc thoai thoải có nhiều biệt thự và anh đào, nên vào cuối đông và đầu xuân, lúc nào hoa anh đào cũng vây bọc quanh mình.
Lan hỏi:
– Sao trong dịp tết người ta không chơi anh đào như mai, như đào thiên thai?
Ông cười:
– Nếu chơi anh đào như mai, như đào thiên thai thì anh đào đâu còn kịp nở. Nhà nào cũng chặt ít cành thì anh đào thành trơ trụi. Có điều nhân câu hỏi, chú mới nghĩ thêm là người ta không chơi hoa anh đào vì đó là hoa ngoài đường, hoa chung của thành phố. Nhưng chú đã dùng hoa anh đào trong đám cưới của chú. Lan thử tưởng tượng khung cảnh từ cổng vào đến hiên nhà đầy màu hồng và lá xanh của mấy chục cành anh đào cao hơn 2 mét.
Lan nói nhanh:
– Đường lên thiên thai, chú ạ.
Ông Bình cười:
– Chú không nghĩ được như Lan mà chỉ nghĩ là cho khách đi qua một vườn anh đào khi vào nhà. Tại sao chú lại nghĩ đến việc dùng anh đào thì sẽ nói sau, còn trước hết chú nói về cô Như Mai – Ông chỉ lên bức ảnh treo trên tường: Gia đình chú và gia đình Như Mai không phải nguyên gốc Đà Lạt mà ở nơi khác đến. Gia đình chú là dân Bắc di cư vào Nam năm 1954, còn gia đình Như Mai gốc Nha Trang, lên Đà Lạt sau gia đình chú vài năm. Nhưng đều là gia đình ngụy quân, ngụy quyền theo ngôn ngữ đánh tráo của đảng cộng Sản Việt Nam, nên chú và Như Mai đã bị chận cửa vào đại học, sau khi học xong trung học. Do đó, mới 18, đôi mươi đã phải nhập vào đời tìm sinh kế. Như Mai có một gian hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ ở chợ Đà Lạt, còn chú được trời phú cho sự khéo tay, nên đã tự vẽ kiểu và tự sản xuất đồ mỹ nghệ bằng gỗ go, loại thông 3 lá Đà Lạt, rồi đem bỏ mối cho những gian hàng bán đồ mỹ nghệ. Từ việc bỏ mối này mà chú quen biết Như Mai. Có lẽ do nhan sắc, lịch thiệp và khéo nói nên gian hàng của Như Mai rất đông khách và trở thành một trung tâm cung cấp đồ mỹ nghệ cho khách hàng từ Sài Gòn, Nha Trang, Phan Rang… Ông cười: Người làm, người bán, cuối cùng thành người yêu rồi thành vợ chồng – Ông ngừng lại uống mấy hớp rượu, rồi tiếp: Như Mai có giọng ca thiên phú thường hay hát mấy bản Ai Lên Xứ Hoa Đào, Bài Thơ Hoa Đào và Tà Áo Tím, gần giống Lệ Thanh với thuật luyến láy nũng nịu điêu luyện, còn chú biết đàn guitare nên từ khi thân nhau đến thành vợ chồng chú đã đệm đàn cho Như Mai hát ở mấy đám cưới người thân hay bạn bè. Từ đó Lan biết vì sao chú đã dùng hoa anh đào trong ngày cưới.
Lan cười:
– Chú giàu tưởng tượng, nên Như Mai đã lên thiên thai ở trần thế.
Ông Bình uống hết ly rượu, rồi đi pha ly khác. Trở lại ghế, giọng ông trầm xuống:
– Sau 2 năm kết hôn, chú và Như Mai kiếm được một số vàng kha khá, nên đến năm 84 thì tìm đường vượt biên. Chú và cô đã lên tàu ở một làng cù lao thuộc Cần Thơ. Tàu đi được hơn một ngày thì gặp tàu hải tặc. Chuyện tàu vượt biên đụng tàu hải tặc Thái Lan thì chắc Lan đã đọc hay đã nghe dù sanh sau và khi trưởng thành thì thảm kịch vượt biên đã kết thúc. Bây giờ chú chỉ có thể nói là trên con tàu nhỏ mình hy vọng đưa mình tới một chân trời mới thì lúc đó đã trở thành một thế giới không thể đặt tên. Người ta có thể dùng mấy chữ thế giới súc vật để chỉ cho thế giới ấy, nhưng không trúng, vì con người chưa bao giờ thấy súc vật cười man rợ trước những dòng máu bắn tung tóe và trước những thân người chưa chết bị hất xuống biển. Khoảng ba, bốn chục người đàn ông phải nằm cúi đầu trước vợ, con, em mình trần truồng giữa một bầy thú người tay búa, tay dao. Chúng đập chết người nữ nào dám chống lại chúng. Chúng chém chết người nam nào dám lao lên liều thân – Ông cúi xuống nhắm mắt lại, mấy dòng nước mắt chảy dài xuống hai bên má.
Lan chạy vào phòng lấy chiếc khăn đưa cho ông:
– Lan hiểu chuyện rồi, đừng kể nữa chú ạ.
– Kể hay không thì cũng thế thôi – Ông lau nước mắt, rồi nhìn lên bức ảnh Biển Động – Buổi chiều đó với bầu trời đỏ ối như thế kia, sau khi cướp đoạt vàng, phá máy tàu, chúng bắt theo khoảng hơn chục phụ nữ, trong đó có Như Mai. Khi chúng kéo Như Mai qua gần chỗ chú, Mai nhìn chú với vẻ mặt bình thản lạnh lùng. Sự bình thản tới rợn người. Chú cảm được đó là cái nhìn tuyệt vọng trước sự bất động của chú, trước cái hèn của chú. Khi hải tặc cắt dây tàu, mở máy lướt đi thì chú mới chợt tỉnh là đã quá trễ để ân hận. Tại sao chú không dám liều mạng để chết như những người đã chết? Tại sao khi Như Mai đi ngang trước mặt, chú đã không lao ra kéo Mai nhảy xuống biển? Chú hèn để tìm cái sống, nhưng sống như thế để làm gì? Trên 20 năm qua, câu hỏi “Sống để làm gì” đã là một chứng nhân luôn nói với chú về cái hèn khiếp nhược của mình và chú đã xấu hổ, ân hận về cái hèn này. Từ đó, chú đã không dám nghĩ đến tình ái, đến những cái đẹp, vì nghĩ đến làm gì nữa khi mình không dám sống với nó – Ông nhìn lên bức ảnh Biển Động: Ngày đó, chú đã không dám chết để lỡ một cơ hội cùng chết với Như Mai. Cơ hội đó không còn nữa, nên chú coi như mình đã chết… Như Mai đã đi vào chân trời kia… Chú cầu mong nàng đã chết để thoát nợ đời, nợ nhan sắc và xin nàng tha thứ cho một người đàn ông hèn, chỉ biết nói mà không biết sống…, Biết chết đúng lúc cũng là biết sống.
Ông ngừng lại, uống cạn ly rượu, rồi nói:
– Đó là câu chuyện Lan muốn biết. Thôi khuya rồi, đi ngủ đi.
Nhìn lên bức ảnh Biển Động một lúc, rồi ông đi lại chiếc piano. Hai bàn tay lướt nhẹ tìm âm thanh của Serenata. Nhưng khi âm thanh lên tới độ cao nhất thì ông đập tay vào bàn phím, đứng dậy đi về phòng.
oOo
Lan đứng nhìn qua cửa sổ. Tấm thảm tuyết phản chiếu ánh đèn đường thành một màu sáng lấp lánh, soi tỏ màn tuyết mờ mịt trong sân. Ngoài phòng khách, dương cầm vang lên khúc Serenata. Nàng đang nhập vào âm thanh để cho lòng dịu lại thì một hợp âm bùng lên phá vỡ âm thanh rồi im bặt. Lan sao động trước vết thương của ông Bình. Từ tuần sau thì nàng sẽ không còn thấy ông ngồi với ly rượu hay ngồi trước chiếc dương cầm. Nghĩ đến thảm kịch của ông nàng ứa nước mắt. Một mình trong ngôi nhà cổ, bên một nghĩa địa, sống với 2 bức ảnh và chiếc dương cầm cho tới chết. Bốn tháng sống chung, nàng thương và sợ sự cô độc của ông, nhưng ông giữ nguyên một cung cách coi nàng như cháu, đôi lúc quá xa cách tới độ nàng cảm thấy như ông không nhìn thấy nàng trong ngôi nhà này. Mấy lần hát cho ông nghe, đứng bên ông, mong ông ngước lên để nhìn mắt nàng lúc đó, nhưng chỉ thấy hai bàn tay ông nhanh, chậm chạy trên bàn phím, và cuối cùng ngước lên cười, cầm tay Lan với mấy lời: Cám ơn Lan. Đã bao lần nàng đã biểu lộ bằng mắt và bằng phục sức cho ông thấy là nàng thương ông và muốn cho ông hết trước khi đi, nhưng ông thản nhiên xa cách với ly rượu hay tiếng đàn. Nàng không hiểu tại sao như thế, vì ông với nàng đâu có bức thành luân lý đạo đức gì để phân cách giữa hai người. Đến đêm nay thì nàng hiểu, thảm kịch nội tâm của ông đã là bức thành ngăn cách ấy. Từ đó, Lan có một ước muốn kéo ông ra khỏi tấn thảm kịch.
Lan ngồi xuống chiếc ghế bành ở cạnh tường, suy nghĩ một lúc rồi đứng dậy đi sang phòng ông. Khi Lan đẩy cửa bước vào, ông nằm trên giường nhìn ra, rồi ngồi dậy:
– Lan còn muốn hỏi điều gì nữa?
Lan đến bên giường, ngồi xuống trước ông:
– Lan không hỏi chú điều gì nữa mà muốn gánh bớt tấn thảm kịch của chú bằng hồn và thân thể của Lan. Đời người ngắn lắm, mươi, mười lăm năm nữa chú thành ông già và Lan cũng bắt đầu đi vào tuổi già. Đã không chết được thì phải sống. Tại sao để phí thời gian của nguồn sống ngắn ngủi ấy – Nàng nhìn vào mắt ông trong ánh đèn ngủ: Chú sống cô độc với 2 bức ảnh và đàn Bài Thơ Hoa Đào để gọi hồn Như Mai chừng đó thời gian là đã quá đủ. Lan sẽ thay Như Mai hát chú nghe, đưa tay đón chú về và khoác tay chú đi trên bờ hồ những ngày lộng gió – Nàng vuốt hai bàn tay vào hai má ông – Những ngày mưa bão, những đêm bão tuyết chú sẽ nghe tiếng Lan hát chớ không chỉ có tiếng dương cầm, sẽ thấy Lan đi lại với tiếng cười chớ không còn sự cô tịch của ngôi nhà cổ với tuyết lạnh bên ngoài, sẽ thấy Lan là người thật với mái tóc dài đứng bên dương cầm chớ không phải là bức ảnh hong tóc vô tri bất động đã chiếm hết cuộc đời của chú – Nàng vòng tay ôm cổ ông – Người ta nói: Thời gian hàn gắn mọi vết thương, nhưng thời gian đã bất lực với chú, vì thế Lan sẽ thay thời gian xóa mờ vết thương cho chú. Lan kính trọng và thương chú – nàng buông cổ ông, nằm bật ra trên nệm trắng – Sao lại phải sống khổ như thế, tỉnh lại đi, thân thể Lan đây – Cùng với lời nói, nàng dướn người kéo váy lên đến tận cổ.
Dưới ánh đèn ngủ, ông Bình nhìn hai đùi trắng mở rộng… mắt mờ dần theo cơn bão đang nổi lên… và Như Mai trong chiếc áo tả tơi vừa bước vừa nhìn ông dưới bầu trời đỏ ối… Ông mở mắt lớn nhìn lên rồi xuống giường, nhìn hai mắt Lan, môi run run: Cám ơn Lan, cám ơn chân tình của Lan, nhưng đã bao nhiêu năm… Không nói được hết lời, ông bước ra khỏi phòng. Chừng 10 phút sau, Lan nghe tiếng dương cầm với Serenata, Clair de Lune, rồi Bài Thơ Hoa Đào, Ai Lên Xứ Hoa Đào… Nàng ngồi dậy nhìn hai đùi mình, rồi để nguyên chiếc váy mỏng quấn quanh cổ, nằm sấp lại, vùi mặt vào gối và cảm được là tiếng đàn đang đưa nàng về một nơi bình an.
oOo
Ông Bình đang uống trà thì Lan trong chiếc robe màu xanh lợt, tóc xõa phủ vai từ trong phòng bước ra, đến ngồi bên ông:
– Chú, Lan vừa gọi điện thoại báo cho John biết là Lan xin hủy vụ làm giấy tờ kết hôn ngày mai.
Bỏ tách trà xuống bàn, ông Bình ngạc nhiên:
– Tại sao vậy? Mất bao nhiêu thời gian vất vả, rồi bỗng chốc bỏ đi.
Lan nhìn vào mắt ông:
– Lan không thể xa chú, không thể để chú sống một mình trong ngôi nhà này.
– Cám ơn Lan. Còn John nói sao?
– Anh ấy nói là không hiểu tại sao vì trên một năm tìm hiểu, hứa hẹn, rồi tới ngày cuối cùng thì bỏ. Lan trả lời là cám ơn John đã đáp ứng việc Lan đi tìm chồng với tình cảm chân thật. Nhưng sau những đêm tra vấn lại mình, Lan mới nhận rõ là Lan cần một người chồng Việt Nam, và xin John tha thứ cho việc đã làm xúc phạm tình cảm của John – Lan chờ ông lên tiếng, nhưng ông vẫn trầm ngâm, nên nói: Tại sao Lan lại ngớ ngẩn như vậy. Đã tới được một nơi yên ấm để trú ẩn lại còn muốn đi đâu. Lan ở lại đây với tiếng đàn để phá vỡ sự yên lặng của ngôi nhà này. Không đi đâu nữa.
Ông Bình đặt tay vào má Lan:
– Không muốn đi thì ở đây với chú.
Lan choàng tay, gục mặt vào lòng ông, khóc oà. Ông yên lặng nhìn hai bờ vai Lan rung lên từng hồi, rồi nước mắt trào ra, từng giọt nhỏ xuống mái tóc dài phủ kín đôi vai. Khi bờ vai Lan bớt rung, ông lấy tay áo chùi mặt, nhìn ra ngoài trời. Tuyết vẫn đang rơi
* Chu Tấn.
===================
CHỦ ĐẠO VĂN HÓA VIỆT NAM (CHU TẤN)
Tháng 11 26, 2019
Lượt xem: 1230
‘…Đạo Sống Nhân chủ đặt trọng tâm hoàn thành cuộc Cách mạng tâm thức con người, làm nền tảng cho mọi cuộc Cách mạng Dân tộc và Xã hội…’

Vì thế tuy chống cộng, nhưng vì thiếu chủ đạo nên mắc đầy mâu thuẫn giết người: Chống cộng được một thì nuôi cộng đến tám chín. Vì thiếu chủ Đạo nên không hướng dẫn đời sống hiện nay để nó trôi dạt, như con tầu mới nhổ neo
“Đạo Sốngcũng là “Minh Triết Đạo”, và cũng chính là “Nhân Chủ Đạo”_Chủ dạo Văn hóa Việt Nam là “chìa khóa vàng” cho phép chúng ta mở tung các cánh cửa, các kho tàng vô giá vô biên vô tận của Văn hóa Việt Nam và Văn hóa nhân loại“
I. Lời mở:
Nhằm phát huy văn hóa Việt Nam, trong thời đại “Toàn Cầu Hóa Văn Hóa”, nhiều người trong chúng ta có thể dễ dàng đồng ý với nhau là theo nhu cầu thời đại, cần phải có một một Chủ Đạo Văn Hóa, nhưng Đạo là gì? Khái lược về Đạo Sống Việt Nam ra sao? Sự hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam trên nền tảng nào? Thành quả và giá trị của Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam như thế nào?
Để trả lời các câu hỏi trên, trong bài tham luận này, chúng tôi xin tuần tự đề cập tới:
* Đạo là gì?
* Khái Lược về Đạo Sống Việt Nam
* Quan Niệm và phương pháp hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam
* Những cột trụ hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam
* Tác năng Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam:
(“Nguyên Động Lực”, “Vũ Trụ Quan”, “Nhân Sinh Quan, “Văn Hóa Xã Hội Quan” hay “Nhân Thế Quan, của Chủ Đạo Sống như thế nào? “)
II. Đạo là gi?
Đạo, theo chữ Nho nghĩa đen là con đường hay đường đi, nghĩa bóng mang khái niệm trừu tượng về con đường, phương hướng, đường lối dẫn dắt con người đi đến mục tiêu hay lý tưởng nào đó. Có rất nhiều lý tưởng, phương hướng và nguyên tắc khác nhau về Đạo. Thí dụ: Thiên đạo, Nhân đạo, Trí đạo, Tâm đạo. Tuy vậy, tất cả những con đường Đạo khác nhau đó cùng chung một nền tảng cơ bản là dựa trên cái Lành, cái Thiện, cái Đẹp, tự nhiên trong sáng, lành mạnh và chân chính để mưu cầu Hạnh Phúc và An Bình cho con người. Khi nói đến Đạo, người ta thường cho rằng đó là vấn đề thuộc tôn giáo như nói đến đạo Phật, đạo Thiên Chúa hay những đạo giáo khác đang lưu truyền hiện nay. Thật sự, đạo giáo hay tôn giáo chỉ là một trong nhiều Đạo khác nhau nhưng chủ yếu về tâm linh dựa vào lòng tin hay đức tin của người theo đạo giáo để khuyên con người làm lành tránh dữ. Những đường Đạo khác cũng thế, đều dẫn dạy con người cách sống, cách hành xử, cách yêu thương “cho và nhận” thể hiện Từ bi, Công Bình, Bác Ái.
Tóm lại Đạo có 3 nghĩa:
1- Đạo là con đường (nhân đạo thiên đạo) Phàm là con đường thì có tốt, xấu, thiện ác… Theo Đạo Phật, hễ còn trong vòng đối đãi thì không thể hoàn toàn rốt ráo được
2- Đạo là bổn phận: (đạo vua tôi, đạo cha con, đạo thầy trò, đạo vợ chồng…) Phàm là bổn phận thì chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập quán. Phong tục, tập quán thì mỗi vùng khác nhau. Do vậy chữ Đạo là bổn phận cũng chưa đúng với nghĩa chữ Đạo theo ngôn ngữ Phật giáo.
3- Đạo là tính tuyệt đối, là bản thể, nó lìa nói năng, không thể nghĩ bàn. Theo Nho giáo, Đạo là “Thiên Lý” (Thiên lý tại nhân tâm= Đạo trời ngay trong lòng mỗi con người chúng ta) Phật giáo quan niệm: Đạo là “tính giác” hay Phật tính (Ta là Phật đã thành, Chúng sinh là Phật sẽ thành) Đạo cũng là “Chân Như” “Niết Bàn”. Chữ Đạo của nhà Phật chính là đồng nghĩa với bản thể vậy (1*).
III. Khái niệm về đạo sống văn hóa Việt Nam
Thực ra khi nói riêng về chữ “Đạo” như trên, dĩ nhiên là không được đầy đủ vì Đạo bao giờ cũng là “Đạo của con người” vì lẽ nếu không có con người thì cũng không có “Đạo”; hoặc “có Đạo” mà “không có con người” thì Đạo dẫu có đó, và cho dù Đạo có “linh diệu” đến đâu cũng không “liên quan gì đến con người”, nếu con người “vắng mặt” trên trái đất hay trên liên hành tinh. Do trên “Thiên Đạo” luôn gắn liền với “Nhân Đạo” (Đạo Trời” và “Đạo người” luôn gắn bó với nhau.) Tiến sâu hơn,“Đạo của con người” cũng chính là Đạo của “Sự Sống Con Người” vì “Con người” và “Sư Sống Con Người” cũng chỉ là một và luôn luôn là “Một”, trở thành “Sinh Mênh Con Người”
Chúng tôi gọi là “Đạo Sự Sống” hay nói đầy đủ là ‘Đạo Sống Con người” hay “Đạo Sống Dân Tộc Việt Nam” hay “Đạo Sống Nhân Loại” “Đạo Sống Vũ Trụ”. Vậy Sự Sống là gì? Và có thể định nghĩa Sự Sống được không?
Xin thưa ngay danh từ “‘Đạo” hay danh từ “Sự Sống” vượt lên ngôn ngữ , vượt lên trên mọi khái niệm nên không thể định nghĩa được, chúng ta chỉ có thể hiểu hay đúng hơn “cảm ứng với Đạo”, cảm ứng với “Tinh hoa Chân lý Sự Sống” bằng phương pháp “ Hội thông”….
Lão Tử nói:”Đạo khả đạo phi thường Đạo” nghĩa là: “Đạo mà nói ra được, không phải là Đạo thường“Lão Tử cũng không biết gọi tên gì cho đúng, chỉ “cưỡng danh” gọi là “Đạo”.
Kinh Dịch, cho rằng: “Đạo là do 2 sức mạnh của Vũ Trụ có đặc tính đối kháng mâu thuẫn nhau là “Âm” và “Dương” đun đẩy, phối kết, bổ sung lẫn nhau mà thành “Nhất âm nhất Dương chi vị đạo” (Hệ Từ Thượng)
Theo sự khám phá, chứng nghiệm của chúng tôi, sở dĩ gọi là Đạo Sống Việt Nam hay Đạo Sống nhân loại – vì Đạo luôn tiềm ẩn trong “Nền Tảng Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống Con Người”
Cũng có người đặt câu hỏi: Phải chăng “Tinh hoa Chân Lý Sự Sống “đặt nền tảng trên triết lý “Duy Sinh”chăng? Xin thưa:
Sự Sống vốn vô duy – Không có duy – Cho dù các triết lý “Duy Tâm”, “Duy Vật”, “Duy Lý”, “Duy thần”, “Duy Nghiệm”, “Duy Sinh” hay “Duy Linh” đều là cái nhìn phiến điện về cuộc đời hay “Tinh hoa Chân lý Sự Sống Con Người”.
Sự Sống là vô duy – không có duy – không những thế, “Tinh Hoa Sự Sống Con người” còn mang các yếu tính căn bản sau đây: “Sống Động”, “Biến Hóa” “Thường hằng”, “Vĩnh lạc”, “Toàn thẩm”, “Bao dung”, “Tương tức”, “Tương nhập”, “Thành Toàn”, “Vượt thoát”, “Giải thoát”, “Hiện hóa” “Dung hóa”, “Sáng hóa”, “Sống Hóa”…)
Xuất phát từ các yếu tính căn bản trên nên Đạo Sự Sống đã được hiện thực hóa trong xã hội nhân loại qua các dạng thức hay Sống năng: (Nói theo triết lý “Tri-Hành hợp Nhất”của Triết Gia Vương Dương Minh):
· Vô cực – Thái Cực – Sống hợp nhất
· Âm – Dương – Sống hợp nhất
· Tinh Thần – Vật Chất – Sống hợp nhất
· Tri- hành- Sống hợp nhất (2*)
· Chân –Thiện- Mỹ- Sống hợp nhất.(3*)
· Chân- Minh- Hoan- Sống hợp nhất(4*)
· Chân- Thiện- Nhẫn –Sống hợp nhất (5*)
IV. Quan niệm và phương pháp hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam
A. Danh Từ Chủ Đạo và Quan Niệm Chủ Đạo:
A-1. Danh từ “Chủ Đạo”:
Danh từ này do Linh Mục Triết Gia Kim Định đặt ra để phân biệt giữa “Chủ Đạo” và “Chủ Thuyết” hay “Chủ Nghĩa”….
A-2: Quan niệm về Chủ Đạo Văn Hóa:
“Trước hết Linh mục Triết Gia Kim Định công nhận sự giải thích về Đạo theo kinh Dịch “Nhất âm nhất dương chi vị Đạo” = Đạo là một âm một dương. Theo câu này thì Đạo phải có cả âm và dương tức phải hội nhập được cả hai đầu đối lập. Đó là điều con mắt thường thấy không thể làm được: không thể nước lửa ở với nhau hay vuông hoặc tròn, hoặc chẵn lẻ cùng nhau một trật. Vì thế cho tới nay Đạo toàn được định nghĩa theo một chiều nên kể là không có Đạo, chỉ có chủ thuyết, mà người ta gọi đại là “chủ đạo”. Đấy là cái lầm giết người. Giết thực sự chứ không nói bóng bẩy chi cả …
Hỏi tại sao thế?
Thưa là một sự tế vi ít được nhận ra, đó là khi người ta dùng có tai mắt thì chỉ thấy có vòng ngoài hiện tượng là cái vốn không thể ở cùng với nhau trong một nơi. Muốn hội nhập cần phải đi bước Tâm Tư nữa mới thấu được vào vòng trong, mới tới phần Vô của sự vật, mà có Vô thì hai chiều trái ngược mới gặp được nhau.
Nói kiểu thông thường thì phải vượt qua giai đoạn duy lý để đi vào tâm tư mới có thể đi thẳng đến đúng sự vật mà không qua ý niệm hay chủ thuyết nào, lúc ấy sẽ thấy như Kinh Dịch là muôn vật đều mang trong mình một trật cả Không lẫn Có, cả Hữu lẫn Vô.Và chính ở chỗ Vô, mẫu số chung của muôn loài mà hai luồng khí trái ngược gặp gỡ. Đó gọi là Đạo. Đạo là thấy cả 2 phần Hữu và Vô trong sự vật. Như vậy Đạo chẳng qua là Cơ Cấu toàn diện của sự vật gồm cả hiện tượng lẫn ẩn tượng – là chiều kích vô biên vi tế. Trang Tử định nghĩa Đạo trong ý đó khi nói câu Đạo Vật chi Cực. Đạo là đi tới cùng triệt sự vật. Nếu đi đến tận cùng thì thấy muôn vật đều thành bởi hai luồng khí ngược chiều. Đó là điều ngày nay khoa học bắt đầu thấy như vậy: đó chính là bản tính muôn loài, khoa học kiện chứng cho lời kinh Dịch. Ta phải công nhận như thế. Và phải nhận rằng không thấy được là vì tin trọn vẹn vào tai mắt, nên con người đã không đạt Đạo.
Mà Có đạt Đạo mới có hạnh phúc:
Vì thế mà Đạo cũng có tên Minh Triết, vì Minh Triết là nghệ thuật rất cao xếp đặt việc nước việc nhà sao cho mọi người đều được hạnh phúc. Vậy theo kinh nghiệm lịch sử thì cho tới nay loài người không đạt được những điều đó. Xưa kia phần lớn dân chúng bị nô lệ. Ngày nay cũng đến phân nửa bị áp bức hết sức dã man. Đến khi nghiên cứu về triết học, ta phải giật mình nhận ra rằng căn do sâu xa, nằm trong chỗ toàn bộ triết học đều dựa trên tai mắt nên chỉ thấy có vòng ngoài. Do đó triết cũng định nghĩa sự vật theo vòng ngoài, chỉ có một chiều, bỏ mất chiều kia coi như đối kháng. Trong triết học, quen gọi đó là nhị nguyên đối kháng, bắt chọn một bỏ một. Chọn vuông bỏ tròn, chọn lẻ bỏ chẵn, chọn có bỏ không. Từ đấy xẩy ra hiện tượng này là triết học, dùng toàn những nguyên lý sự vật cho người, như nguyên lý đồng nhất: Một là một, hai là hai, không thể có trường hợp thứ ba (gọi là triệt tam) như hai mà một, một mà hai. Đó là nguyên lý dùng cho sự vật có tính cách bất động, nên cũng theo cung cách sự vật là đưa ra chủ thuyết dựa trên sức mạnh: mạnh được yếu thua. Kẻ mạnh chiếm hết tài sản, người yếu không còn chi, ngoài quyền làm nô lệ cho người có, kẻ có làm chủ, kẻ không làm nô, gây nên xã hội đầy tranh đấu. Vì chút quyền lợi vật chất mà đến nỗi coi người cùng nước như quân thù cần phải phân thây uống máu.
Đó là căn nguyên nô lệ và bất công:
Nó nằm ngay trong chủ thuyết, nhưng không một ai thấy nên số phận nô cứ bị kéo dài từ nô lệ thời Hy Lạp, La Mã, chuyển sang nông nô Trung cổ, dẫn tới Cách mạng Pháp 1789
Từ đấy cuộc tranh đấu mở ra công khai, tức có thêm trí thức nhập cuộc lại nhờ những tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, nên Tây Âu dần dần phá bỏ được chế độ nô lệ và đi vào được nền dân chủ. Nhưng đó không là công của Triết, cho bằng của lương tri. Triết vẫn theo con đường một chiều như trước nên chỉ là chủ thuyết vốn dựa trên ý niệm một chiều (ý niệm bao giờ cũng một chiều) thiếu khả năng hội nhập hai đối cực nghĩa là không đạt Đạo, nên cũng không thấy căn nguyên nô lệ con người ở đâu.Thật là đi đến kết quả trái ngược hẳn với dự phóng ban đầu là phá bỏ chế độ nô lệ thì thực tế chỉ là dịch nô: Gỡ nô lệ từ Âu châu chuyển sang đầu các dân khác , sau khi đã làm cho ách đó trở thành thảm khốc hơn nhiều.
Chứng cớ là các nước Tây Âu chỉ phồn thịnh bên ngoài mà thiếu chủ Đạo nên đời sống vẫn vô hướng vô hồn.
Nước chỉ đến Hiến Pháp là cao nhất bên trên không có đạo nghĩa gì. Trong văn học không có nền triết lý nào gọi được là ưu thắng. Các đảng phái thì quanh quẩn ở tầng cương lĩnh với chủ thuyết nên cũng chỉ biết theo đường chính trị mưu mẹo trí xảo, đó là những cái biết vụn vặt mà Trang Tử bảo nếu không bỏ đi được, thì không trông có được cái khôn lớn cỡ luận đạo kinh bang tế thế, tức không đạt chủ Đạo.
Vì thế không có cách ngăn cản cộng sản đem gieo rắc ra khắp thế giới cái chủ thuyết nhị nguyên đối kháng đã được đẩy đến chỗ thái thậm, dìm non nửa nhân loại vào vòng nô lệ khổ nghèo như chưa bao giờ cơ cực đến thế.
Vậy mà chưa thấy đâu là Chủ Đạo chỉ lối thoát ra ngoài hai gọng kìm nhị nguyên đối kháng. Một là theo cộng sản thì có hướng, nhưng là hướng giết người, giết mọi tự do. Hai là theo thế giới tự do thì có tự do, nhưng lại vô hướng vô hồn.
Vì thiếu Thái Hòa nên không tìm ra được lối kiêm cả tự do lẫn có hướng có hồn.
Các nước Tây Âu tuy xưng mình là thế giới tư do nhưng thực ra mới được tự do hàng ngang xã hội, mà chưa đạt tư do hàng dọc, là đối với Trời cùng Đất: Mới có tự do tiêu cực, mà chưa đạt tự do hàng dọc tâm linh, vẫn còn nô lệ cho địa lợi một cục. Tâm lý nói đó là: freedom from, not yet freedom to
Vì thế tuy chống cộng, nhưng vì thiếu chủ đạo nên mắc đầy mâu thuẫn giết người: Chống cộng được một thì nuôi cộng đến tám chín. Vì thiếu chủ Đạo nên không hướng dẫn đời sống hiện nay để nó trôi dạt, như con tầu mới nhổ neo, nhưng đâu là bến là bờ, đâu là đường hướng thì chưa tìm ra câu đáp”
Tại Sao?
Thưa vì Triết đã không triệt, là không đi tới tận cùng triệt để. Triết Tây mới tới bờ Có, bờ Hữu, chưa hỏi bên kia Hữu có còn chi nữa chăng? Ấn Độ mới tới bờ Vô, chưa hề đặt câu hỏi bên kia bờ Vô còn chi nữa. Thế là cả hai tự giam mình trong tư duy Hữu Hay Vô thì làm chi thấy được bờ bên kia mà thiết lập nên Thái Hòa.
Mà không đạt lý Thái Hòa thì không thông đạt được cái lý nhỏ khác, như châm ngôn nói: “Nhất lý minh, vạn lý thông”. Có minh được Lý Thái Cực, thì vạn lý khác mới hanh thông. Khi lý Thái Cực không thông thì tất nại tới ảo thuật: ”Thất Lý nhi nhập ư thuật” Thuật đây là các thứ chủ thuyết, các tôn giáo bái vật, các phù thủy pháp môn.
Tóm lại tất cả các phép do lý trí nhỏ hẹp bầy bịa ra đều chỉ là thuyết với lý. Đó không là Chủ Đạo mà chỉ là Chủ thuyết một chiều đầy mâu thuẫn giết người. Hiện nước ta đang chiếm giải quán quân: Bên nhà thì nghèo hèn nhất thế giới, ở hải ngoại thì tan rã nhất hoàn cầu. Ấy chỉ vì Chủ thuyết.Vì Việt Cộng đã rước voi về dầy mộ tổ, gây nên thiên sầu địa thảm dường ấy, chỉ vì nó là chủ thuyết mà không là Chủ Đạo. Nói rộng ra, cả thế giới này, đang khủng hoảng là vì chỉ toàn chủ thuyết mà không có một Chủ Đạo nào cả.
B. Phương Pháp Hình Thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt:
Có 2 phương pháp hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam:
Một là: Căn cứ trên “Biện chứng pháp” hay đúng hơn là “Dịch hóa Pháp” của Kinh Dịchđể hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam. Đây là Phương pháp mà Linh Mục Triết Gia Kim Định đã đề nghị: Trong tập sách mỏng: “Thử đề nghị một Chủ Đạo cho Người Việt Lưu Vong” Linh Mục Triết Gia Kim Định dẫn giải như sau:
“Muốn hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam phải hội đủ bốn đức tính: “Văn, Lý, Mật, Sát”…Muốn là Chủ Đạo đủ khả năng hướng dẫn thế giới thì phải có đủ bốn đức tính đó. Triết lý Tây thiếu Mật (= thấu vào vòng trong, nói vắn tắt là thâm sâu) tức thiếu Tâm linh.
Còn Nho thì xưa kia có đủ cả “Mật” lẫn “Sát”. Thế nghĩa là Nho đã hội nhập được cả âm lẫn dương. Vậy là đã có chủ Đạo. Nhưng không còn đủ cho ngày nay: Lý trí con người đã phát triển hơn xưa rất nhiều. Nho muốn còn tác động được như xưa tất phải thêm phần “Sát” là phân tích lý luận, nhưng lại thiếu “Mật” (tâm linh) nên không đạt Đạo mà chỉ là chủ thuyết hay ý hệ. Nay nếu đưa được cái “Sát” của triết Tây áp dụng vào cái “Mật” của Nho ta sẽ có một chủ Đạo hợp với tâm trạng ngày nay; lần đầu tiên trong nhân loại sẽ có một chủ Đạo như trên. Vậy mà Thái Nho đã thử tiến hành trong chiều hướng đó “Nói tóm lại vẫn theo Linh Mục Triết Gia Kim Định; “Chủ Đạo văn hóa gồm 3 yếu tố “Thái Hòa Nhân Chủ Tâm Linh”. (*6)
Hai là: Hình thành Chủ Đạo Văn Hóa theo phương pháp “Chân Nguyên Sống Tính luận” ngõ hầu theo đúng lộ trình miên viễn của“Đạo Sống” đồng thời nhịp theo trình độ tiến hóa của “Con Người Thời Đại Hôm Nay Ngày Mai”.
Phương pháp mới này của chúng tôi không hề mâu thuẫn với phương pháp “Dịch Hóa Pháp” của Linh Mục triết gia Kim Định mà là tiếp nối, sự chỉ hướng của của Linh Mục Triết Gia Kim Định, Phát Huy Đạo Sống ,Mở rộng và đi sâu hơn.
Chúng tôi quan niệm rất rõ: Đạo Sự Sống, không có ai là tác giả, và tất nhiên không có ai là Giáo Chủ, mà Đạo Sống là Đạo của Trời Đất của Vũ Trụ, mà con người có trách nhiệm, có sứ mệnh phát huy Đạo Sống, kinh dương Đạo Sống, Hiện Hóa Đạo Sống vào nhân quần xã hội sao cho Quốc Gia được vinh quang, phú cường, toàn dân được hưởng Quyền Sống, Quyền Bình Đẳng, Dân Chủ, Tư Do và Quyền mưu cầu Hạnh Phúc, nhân loại được thái hòa.
V. Ba cột trụ hình thành chủ đạo Văn Hóa Việt Nam
Ba cột trụ hình thành “Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam”. Đó là:
· Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống
· Triết Lý Nhân Chủ.
· Thực Thể Quần chúng Chính Trị
1- Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống:
1a: Tại sao gọi“Chân Lý tinh hoa sự Sống”?
Xin thưa vì muôn loại chúng sinh từ con vi khuẩn, lên các loài động vật đều có sự Sống, nhưng chỉ có Sự Sống nơi con người mới đạt đến độ Tinh Hoa, khiến cho con người trở thành thượng đẳng trong muôn vật. Thực vậy con vật dù khỏe mạnh đến đâu hay thông minh đến đâu chăng nữa, cũng không có khả năng suy tư và sáng tạo là 2 động năng chính hình thành Văn hóa. Do trên chỉ có con người mới có Văn hóa, còn con vật không bao giờ có khả năng sáng tạo Ngôn ngữ, Triết học, Văn hóa và Văn minh.
Từ cơ sở nhận thức trên, chúng ta có thể đi đến kết luận mà không sơ sai lầm là “Chính Chân Lý Tinh Hoa Sư Sống là bản chất của Văn Hóa “ Chính Tinh Hoa chân Lý sự Sống là Bản chất con người”. Có nhìn từ góc độ chân lý này, chúng ta mới khám phá ra nhiều điều hay lạ và kỳ diệu.
1b: Sự Sống con người là điều quí giá nhất:
Không đứng trên phương diên tâm linh tôn giáo, mà đứng trên phương diện tâm lý thông thường của mọi người trên thế gian, ai ai cũng phải công nhận rằng “Không có gí quí bằng Sư Sống con người” hay “Sự Sống con người là điều quí giá nhất”. Giá trị của “Tinh Hoa Sự Sống con người “là chân lý vượt thời gian không gian”.
Thực vậy, người Đông Phương cho rằng “cái Tâm” con người là điểm tinh hoa nhất của con người … Thi hào Nguyễn Du cũng nói:
“Thiện căn ở tại lòng ta
“Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”
(Truyện Kiều)
Có điều chúng ta phải phân biệt rõ: Chữ Tâm có 2 nghĩa: Chân Tâm (là điểm Tinh Hoa cao quí nhất của con người) và Vọng Tâm (Là ý thức, ý niệm, tư tưởng và dục vọng…) là những rung động xấu như những đám mây mù che mất Chân Tâm hay làm loạn Chân tâm, che mất “mầm thiêng”, làm loạn “Tính Giác ngô. Khoa tu Thiền gọi “Vọng Tâm” là “Tâm Viên Ý Mã” (tâm như con vượn truyền cành; ý như con ngựa không cương chạy lung tung …) còn Chân Tâm hay Bản Tâm là “Bản Lai Diện Mục” (Tức bản mặt thật, con người thật, trước khi chúng ta sinh ra đời).
Nói tóm lại điểm tinh hoa nhất của con người chúng tôi gọi là Chân lý Sự Sống, danh từ Đông Phương gọi là Chân Tâm, Phật Giáo gọi là Bồ đề tâm,(“tâm giác ngộ hay “Tính Giác,” Tuệ Giác” “Trí huệ Bát nhã” Duy Thức học hay Tâm Lý học Phật Giáo gọi phần tinh hoa của con người là A lại Gia thức ( (Àlaya-Vunanana) tức thức thứ 8. Duy Thức học Tây Tạng còn khám phá ra thức thứ 9 gọi là À-Mana hay Àmana Thức (Àmana-Vunanana). Kinh Dịch gọi là Thái Cực, Thái hòa, Thiên địa chi đức hay Thần vô Phương(Thần Vô Phương Dịch vô thể- Hệ Từ Thượng)Nho giáo gọi là “Thiên Lý ” … Manh Tử gọi là “Xích tử chi tâm”(Tâm của đứa trẻ mới sinh) hay “Khí Hạo Nhiên”. Vương Dương Minh gọi là “Chí Lương tri” Lê Quí Đôn gọi là “Nhất điểm linh thông” “Danh” tuy có nhiều nhưng “Chân lý” chỉ có một .
1c: Phát huy Đạo Sống và Diệu dụng Chân Lý Tinh hoa Sự Sống Con Người:
Như trên đã trình bầy: Điểm tinh hoa nhất của con người có nhiều tên gọi khác nhau: Người Đông Phương quan niệm: “Con người quí ở “Chữ Tâm”, “An Tâm”, “Chân tâm”, chúng tôi gọi là Chân lý tinh hoa Sư Sống”.Sở dĩ có tên gọi mới như trên, vì qua công phu “thiền quán,” khi con người thể nghiệm trong tịch lặng hay sống thiền… sẽ ngộ ra rằng chân tâm, tính giác, hay tinh hoa sự sống , cũng chỉ là một. Khi con người bặt tưởng, vượt lên “đối đãi nhị nguyên” thì thấy ngay sự sống trong ta và sự sống vũ trụ cũng chỉ là một Đúng như câu nói thời danh của triết gia Lục Tượng Sơn đời Tống: “Ngô Tâm tiện thị vũ trụ, vũ trụ tiện thị ngô Tâm”= Tâm ta hòa vào vũ trụ, vũ trụ ở trong tâm ta) hay triết lý “Nhất tức nhất thiết, Nhất thiết tức nhất” = “Một là tất cả, tất cả là một”. Khi ngộ ra chân lý này chúng ta sẽ hiểu ngay thế nào là “Kinh vô tự” hay “Kinh vô lượng nghĩa”. Khi khám phá ra Chân Lý này, con người mới thực sự hiểu đạo, sống đạo và không còn chấp vào “ngôn từ”, “không còn chấp “Ngã tướng” “Nhân tướng” “Chúng sinh tướng” hay “Thọ giả tuớng”.. như lời Phật dạy trong Kinh Kim Cang (7*) Khi khám phá ra chân lý tinh hoa sự sống là tìm ra điểm nhất quán giúp cho con người có khả năng “Diệu dụng” được chân Lý… đưa chân Lý vào “Đời Sống Dân Tộc” và “Nhân loại”, hay nói khác đi “Đưa Đạo vào Đời” Khi con người biết phát huy Chân tâm đồng nghĩa với Phát huy Đạo Sống, sẽ giúp cho con người hiểu thế nào là “tình huynh đệ đại đồng” và hóa giải được sự ngăn cách và kỳ thị giữa các tôn giáo. Khi con người biết tôn vinh “Đạo Sống” thì chúng ta không chỉ “Đưa Đạo vào Đời” mà kỳ diệu thay “Đạo đã nở hoa trong Đời’….
2- Triết Lý Nhân Chủ:
2a: Nguồn Gốc Danh từ Nhân Chủ:
Hiện nay Tây Phương chỉ có Danh Từ Dân Chủ (Democracy) chứ chưa có Danh từ hay Triết lý Nhân Chủ (Humanocracy). Vậy Danh từ Nhân Chủ bắt nguồn từ đâu và xuất hiện vào thời điểm nào tại Việt Nam? Xin thưa Danh từ Nhân Chủ xuất hiện tại Việt nam từ thời Nhà Lý thời Vua Lý Thái Tông. Ngài là vị Hoàng Đế thứ hai của triều Đại Nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Cai trị trong 26 năm (1028-1054) Ngài được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi, uy dũng hơn người, bách chiến bách thắng, thời đại của ngài được xem là khởi đầu sự thịnh vượng của nhà Lý. Nhà Vua đã thân chinh đi đánh giặc để trị an xã tắc, lại là vị Vua rất nhân từ. Năm 1049, một hôm vua Thái Tông nằm mộng thấy Phật Bà Quan Âm hiện ra đưa nhà vua đến một tòa sen rạng ngời ánh sáng. Sau khi tỉnh dậy Vua thuật lại câu chuyện chiêm bao cho quần thần hay. Các vị cao tăng và Đại Thần đã khuyên nhà Vua dựng một ngôi chùa lấy hình tượng một bông sen để nhớ ơn Đức Quan Âm. Chùa này có tên là chùa ĐỘC TRỤ hay chùa MỘT CỘT trở thành một trong những thắng cảnh tiêu biểu cho Văn Hóa Việt Nam. (8*)

Nhà Vua ngoài danh hiệu HOÀNG ĐẾ (như tất cả các vị Vua thời quân chủ phong kiến) Song ngài còn được tôn xưng là bậc NHÂN CHỦ. Danh từ Nhân Chủ xuất hiện đầu tiên tại Việt Nam kể từ đó… (Thế kỷ thứ 12) Sau này lý thuyết gia Lý Đông A lập ra chủ nghĩa Duy Dân (1940-1946) Lý Đông A đưa ra học thuyết “Tam Nhân” gồm “Nhân Bản, Nhân Chủ và Nhân Tính”.Tới thời điểm này chính Lý Thuyết Gia Lý Đông A là người đầu tiên tại Việt Nam đưa Nhân Chủ lên thành chủ nghĩa hay học thuyết. Tiếp theo Lý Thuyết Gia Lý Đông A, Linh mục triết gia Kim Định, và Nhà Văn Hóa Lý Đại Nguyên đều đã viết sách tôn vinh triết lý Nhân Chủ hay Nhân Chủ Đạo.
2b: Nội dung Triết Lý Nhân Chủ:
– Xác minh địa vị và giá trị cao cả, của con người trong tương quan Tam Tài: Trời Đất Người. (Thiên Địa Nhân).
– Xây dựng và phát huy Chủ Thể Con người: Con người là chủ thể trên mọi lãnh vực Văn hóa, Chính trị, kinh tế, xã hội, nhất là giúp con người được an nhiên tự tại, không bị làm nô lệ cho bất cứ một thế lực nào.
– Giá trị của Triết Lý Nhân Chủ…
– Sống triết Nhân Chủ có khả năng Tập Đại Thành Triết Lý Đông Phương và Tây Phương (Đây là một đề tài lớn, rất lớn, vượt ra ngoài khuôn khổ của Tuyển Tập này)
– Triết lý Nhân chủ phục vụ Quốc Dân và xây dựng Thái Hòa Nhân loại.
2b.1.. Xác Minh địa vị và giá trị cao cả của con người:
Bàn về địa vị và giá trị cao cả của con người, chúng ta không thể không đề cập đến Bài thơ Vịnh Tam Tài của nhà Văn Hóa Trung Thiên Dịch Trần Cao Vân mà Linh mục Triết gia Kim Định đã góp lời phẩm bình như sau:
Bài Vinh Tam Tài
Trời đất sinh Ta có ý không?
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh
Trời Đất in Ta một chữ đồng
Đất nứt Ta ra Trời chuyển động
Ta thay Trời chuyển Đất mênh mông Trời che Đất chở Ta thong thả
Trời Đất Ta đây đủ hóa công.
(Trần Cao Vân)

Nhà Cách Mạng, Nhà Dịch Học TRẦN CAO VÂN (1866- 1916 )
Quả là một bài thơ triết lý có tầm kích mênh mông như vũ trụ. Cái tài tình của bài là từ đầu chí cuối Trời Đất Người luôn cùng xuất hiện “ba mặt một lời” xoắn xuýt trong Nhất thể uy linh. Ta hãy thưởng thức từng câu
Trời Đất sinh Ta có ý không?
Thưa không có ý nào hết, vì có ý về một cái gì thì dễ biến cái đó thành phương tiện… Đã là phương tiện thì phải qui chiếu vào mục đích mới có túc lý tồn tại. Đàng này con người là một cùng đích tự thân (fin en soi). Vì thế nói thật chính xác thì phải kể là vượt tới đợt có với không, để đi lên bình diện “Hữu nhược vô. Thực nhược hư”: Có mà như không, đầy mà rỗng. Đây mới là bình diện chân thực của con người Đại ngã tâm linh, tức bao la không gì bao quát, không còn gì ở ngoài nữa để mà đối tượng đáng cho con người phải quy chiếu tới để tìm lý do tồn tại. Vì thế nói “có ý” thì dễ sa vào “Thiện Chí” của Mặc Địch, tức dễ biến con người ra dụng cụ cho ý Trời. Hoặc nói “không có ý” thì dễ rơi vào thuyết “cơ giam” của Lão Tử “Thiên địa bất nhân” vô tình như cái máy (cơ giam) lù lù quay một cách vô tình. Vì thế khi ta nói không có ý nào hết là phải hiểu vượt ra khỏi có không thường nghiệm để vươn đến đợt “Xuất hoạt sơ nguyên” theo đó thì thiên địa với ta cùng sinh “Thiên địa dữ ngã tịnh sinh” (Trang Tử). Tuy nhiên nếu cưỡng lý mà nói theo trước với sau thì Ta ỡ giữa Trời Đất hoặc như sản phẩm của cuộc linh phối (hieroganie) Đất Trời, hoặc như trung gian cho hai bên giao thiệp thông hội. Đó là sứ mạng trao cho người cũng như cho Trời cho Đất do Đạo mà ta hay gọi là Tiên Thiên Tiềm Thể nghĩa là trước cuộc đại tạo đất trời. Thực ra nói trước sau, tiên thiên, hậu thiên, là lối biểu diễn của con người trong cõi hiện tượng bị lệ thuộc vào thời gian sau trước với không gian ở đây ở kia, như ở đợt Tiềm thể chỉ có một hiện tại miên trường không có sau trước gì cả.
Chưa sinh Trời Đất có Ta Trong.
Ta đây phải viết hoa, tức chính là Đại ngã tâm linh nằm trong Nhất thể mà thần thoại gọi là Bàn Cổ, không lệ thuộc Trời hay Đất nhưng là tính bản nhiên con người muôn thủa. Vậy chớ hiểu là ta bé mọn hiện tượng nhưng là Ta cao cả như câu ba:
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh.
Sánh là sánh bằng vai, không ai hơn ai kém, chẳng qua cũng là đồng xuất hoạt như nhau, kiểu này kiểu nọ đều là sức huyền vi phong phú vô biên, nhưng quy vào ba mối là Thiên Địa Nhân.
Trời Đất in Ta một chữ Đồng
In Ta là y như Ta nghĩa là cùng tham dự vào nguồn sinh lực bao la như vũ trụ, cùng một Thể u linh siêu hình, siêu tượng, vô thanh vô xú, không thể đem lý trí suy luận vào đây mà ngo ngoe tìm hiểu: đó sẽ chỉ là trò trẻ lấy vỏ sò đòi tát cạn Trùng Dương, sinh ra những thuyết phiếm thần ứ đọng. Ứ đọng vì đánh mất “lưỡng nghi tính” nên giản lược Thực thể vô biên vào những phạm trù nhân vi (antificiel) hời hợt giả tạo làm nghẹt thở con người.
Đất nứt Ta ra Trời chuyển động
Hãy chừa thói xấu nhị nguyên, chỗ nào cũng muốn đối tượng hóa. Ở dây là bầu khí tương giao mãi từ trên cấp vương giả không có đối tượng nào hết chỉ có chủ thể và xuất hoạt: ba chủ thể, ba xuất hoạt, ba động từ. Vậy đừng hiểu đất nứt ra Ta theo lối Đất là chủ thể đẻ ra đối tượng: hạ tầng cơ sở đẻ ra thượng tầng kiến trúc, đó không phải là Truyền Thống Tam Tài. Nhưng phải hiểu: Đất nứt Ta ra, trời chuyển động.
Ta thay Trời mở Đất mênh mông
Trong Tam tài không có mối tương quan lệ thuộc như đã nói ở câu trên, vì cả ba hội thông nơi Tiềm thể. Tuy nhiên câu này như biểu thị một sự trội hơn của Tài Nhân bao giờ cũng chiếm hai nét, còn Thiên một Địa một. Vì chúng ta đang ở trong đất của Nhân hoàng nên có thể “Thay trời để mở đất”. Đất chỉ những giới hạn mà Đại Ngã cần phải vỡ bằng tâm linh để cho con người lớn lên dần bằng tầm mức vũ trụ. Như vậy mở đất là đi sâu mãi vào tiềm thức bản năng để mở rộng vòng tâm thức bao trùm được cả vũ trụ.
Trờ che Đất chở Ta thong thả
Ta an nhiên tự tại “quân tử thản đãng đãng” việc chi phải sợ. Có đáng kể chăng là Trời với Đất. Thế nhưng Trời Đất có chống ta đâu, bố cả mà lị, trời thì che, đất thì chở, còn chi hơn nữa, nên chỉ việc ung dung phó thác: “nhân giả bất ưu, bất cụ” người giữ được đạo nhân không lo sợ, không ưu tư. “Quân tử vô nhập nhi bất tự đắc yên” người quân tử ở vào cảnh nào cũng có thể an vui. Đó là tâm thức tự nhiên đến với những ai đã hiện thực được chiều kích tâm linh nơi mình: một thứ an nhiên tràn ngập khắp thân tâm.
Trời Đất Ta đây đủ hóa công
Khả năng hóa công đó được tóm vào câu: “Khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục”. Trong cõi nhân sinh có hai việc quan trọng nhất là nuôi sống (ăn uống) và giáo hóa. Hai điều đó chỉ có con người hiện thực được chiều kích tâm linh mới đủ khả năng bao dung và tạo dựng một cách hữu hiệu: vừa liệu cho dân có ăn có mặc, mà đồng thời biết giáo hóa tức biết cải hóa để con người vươn lên đợt Đại ngã vô biên vậy (9*)
2b.2: Xây dựng và phát huy Chủ Thể Con người
Hiện nay nhân loại bị đe dọa và trấn áp bởi 2 “Quốc tế nạn”: Đó là nạn độc tài ( “độc tài đỏ CS” và “độc tài trắng” do nạn “quân phiệt “ “tài phiệt “ hay “giáo phiệt”) và nạn “Khủng bố”. Chính hai ách nạn này đã trà đạp nhân quyền và phẩm giá con người, nô lệ hóa con người, đã cướp đi Quyền Chủ Thể của con người. Do trên Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam và Nhân loại có sứ mệnh, chống lại cái ác, hiện thực chế độ Tư Do Dân Chủ không những trên đất nước Việt Nam mà trên qui mô toàn cầu. Rồi từ chế độ Tư do Dân chủ, nhân loại sẽ tiến tới Thể Chế Nhân Chủ Quốc Gia và Nhân Chủ Toàn cầu. Nhằm thực hiện tiến trình trên, Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam có sứ mạng lớn và quan trọng hơn cả, là thực hiện cuộc Cách mạng Tâm thức Nhân Chủ trong phạm vi Quốc gia lan tỏa trên toàn thế giới…. Hơn thế nữa Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam có sứ mệnh giúp con người tu dưỡng bản thân, “tự Vượt mình”, “tự thắng chính mình” để đạt tới tâm hồn “Tự Chủ Tự Tại” phát huy chiều kích vô biên của con người hòa đồng vào vũ trụ, vạn hữu….
2b.3: Giá trị nền tảng của Triết Lý Nhân Chủ
Nhà nghiên cứu Văn Hóa Đông Lan đã có những nhận xét rất xác đáng khi nhận định: “Các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đầu thế kỷ 20, đã dẫn đến sự tranh giành ảnh hưởng thị trường và quyền lợi của các nước, hậu quả là 2 cuộc đại thế chiến tiêu diệt hàng triệu nhân mạng chỉ cách nhau chưa đầy nửa thế kỷ. Tây Phương sợ hãi vội vàng đưa ra Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948. Từ đó con người bắt đầu có lối nói kiểu Nhân Quyền của Tây phương.
Nhưng thực ra Á Đông mới là quê hương của Nhân Quyền.
Theo tinh thần Nhân Chủ của Minh triết Việt, các triều Lý, Trần đã thực hiện được thái bình, an lạc. Điển hình thời Vua Lê Thánh Tôn đã để lại một Bộ luật Hồng Đức năm 1483. (Quốc Triều Hình Luật) mà ngày nay thế giới ca ngợi, vì các khoản về Nhân quyền về phụ nữ, giáo dục, chủng tộc, đã đi trước cả Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc những gần 500 năm. Thật thế, Nhân Quyền chỉ là hệ luận tất nhiên của Nhân Chủ. Con người chỉ có Nhân Quyền một khi được làm chủ, được tôn trọng hơn bất cứ điều gì, kể cả thần linh hay vật chất. Chưa có Nhân Chủ tính làm nền tảng trong tư tưởng, triết lý chính trị thì nói chuyện Nhân Quyền chỉ là hời hợt mị dân, hoặc để làm khó, đặt điều kiện trả giá, đổi chác các mối lợi giữa các cường quốc kinh tế, chính trị, quân sự… chứ hoàn toàn không liên quan thật sự gì tới con người, quyền làm người của ai cả! Còn Dân Chủ cũng thế. Con người là một NHÂN DÂN. Có nghĩa là ngoài việc là dân, con người trước hết phải là Nhân, là con người. Nhân được làm chủ, được tôn qúy, thì cái vai trò làm Dân mới được tôn trọng theo. Vì Nhân đi trước Dân. Nhân quan trọng hơn Dân. Chưa có triết lý Chính Trị đạt tới mức Nhân Chủ thì Dân Chủ chỉ là một từ ngữ rỗng, giả hiệu, một trò chơi của tư bản, đảng phái và các chính trị gia mà thôi.
Hay nói cách khác NHÂN CHỦ là Xương Sống của Nhân Quyền và Dân Chủ. Không có Triết lý Chính trị Nhân Chủthì Nhân quyền chỉ là “Mị dân”, Dân chủ chỉ là “Hình thức”, con người vẫn nô lệ dưới nhiều dạng thức, vẫn bị vong thân, vẫn cần chờ được giải phóng.
Chúng ta đang sống trong sự giả trá của ngôn từ, đang quay cuồng theo một thế giới của các suy tư hời hợt, chưa ngay chính, các lý thuyết èo uột, các sinh hoạt thoái hóa, vì thiếu cái xương sống của chính trị, đó là Triết Lý Nhân Chủ (10*)
2b.4: Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam phục vụ con người xây dựng và giữ gìn nền Thái Hòa Nhân Loại.
Khi Văn Hóa chưa có Chủ Đạo thì nền văn hóa còn mông lung, nếu không nói là vô hướng vô hồn… Còn khi chúng ta đã xác định được Chủ Đạo Văn Hóa Việt thì hiển nhiên Văn Hóa Việt không còn tính cách “mông lung”, hay “vô hướng vô hồn” nữa mà đã hình thành “con Đường Sáng” và “con đường Sống” cho Dân Tộc, đạt tới mục tiêu phục vụ con người xây dựng và giữ gìn nền Thái Hòa Nhân Loại.
Ngoài hai cột trụ hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam là Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống , và triết lý Nhân Chủ, giờ đây chúng ta đề cập đến trụ cột thứ Ba là Thực Thể Quần chúng Chính Trị.
3. Thực Thể Quần Chúng Chính Trị:
3.a: Thân phận người dân qua các thể chế chính trị:
Con người hơn hẳn các sinh vật khác là biết sáng tạo ra Ngôn ngữ, Văn hóa, Chính trị và Pháp luật… Theo nguyên nghĩa Văn hóa bao gồm chính trị và có vai trò chỉ đạo cho chính trị. Song rất ít khi Văn hóa đóng nổi vai trò chỉ đạo chính trị mà thường ngược lại chính trị lấn át văn hóa, lợi dụng văn hóa phục vụ cho chính trị. Trải qua các thời đại, bài học lịch sử còn cho chúng ta biết rằng: Quyền lực Chính trị bao giờ cũng nằm trong tay của một thiểu số người : Thời Quân Chủ Phong kiến, chính trị là đặc quyền của Vua Quan:
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa”
Thời Dân chủ, trên danh nghĩa chính trị thuộc về toàn dân. Nhưng thực tế Chính trị vẫn nằm trong tay những kẻ có quyền và có tiền, hay nói chung nằm trong tay thế lực tư bản. (Như câu nói của Tổng Thống Kennedy: “Muốn ứng cử Tổng Thống Hoa Kỳ phải có 3 điều kiện: Điều kiện thứ nhất là “Tiền”, điều kiện thứ hai là “Tiền” và điều kiện thứ ba cũng là Tiền” – Có phải bất cứ người dân nghèo nào dù theo nguyên tắc – cứ trên 35 tuổi sinh quán tại Hoa Kỳ là đều có thể ra ứng cử Tổng thống Hoa kỳ” được cả dâu?! Nguyên tắc thì được, nhưng dân nghèo thì phải biết thân biết phận, làm sao có thể ra tranh cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ cho được??) Còn dưới chế độ cộng sản, chính trị hoàn toàn do Đảng CS quyết định: Người dân sống dưới chế độ độc tài toàn trị CS bị ngăn cấm, bị tước đoạt mọi quyền Tự do Dân chủ, Nhân quyền hay nếu được hưởng một chút quyền nào đó là do chế dộ “Xin- Cho” (Người dân phải xin, và chế độ CS chỉ cho phép những gì xét ra vô hại đến sư an nguy, tồn tại của chế độ mới ban phát cho mà thôi)
3.b: Sự Giác ngộ và trưởng thành của Ý thức Quần Chúng Chính Trị:
Có 5 yếu tố lớn hay 5 sự kiện lịch sử đưa đến sự giác ngộ, trưởng thành của Ý thức Quần chúng Chính trị mà chúng ta cần đề cập đến sau đây:
Yếu tố thứ nhất: Sức Mạnh của Quần Chúng:
Từng người dân đứng riêng lẻ rời rạc thì không có sức mạnh nào đáng kể, nhưng khi có một biến cố lịch sử, người dân biết tập họp lại thành đám đông- tạo nên các cuộc đình công bãi thị – hay các cuộc biểu tình thì có sức mạnh vô địch. Ngay từ thời quân chủ người ta đã nhận ra sức mạnh của quần chúng quốc dân, chứng tỏ trong câu nói: “Chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Người dân ví như “Nước, chính quyền ví như “Thuyền”. Nước chở thuyền, nhưng nước cũng có thể lật được thuyền. Có điều muốn tập họp quần chúng thì bao giờ cũng phải do một vị “hào kiệt”, một “lãnh tụ” hay một đảng phái nào đó đứng ra kêu gọi mọi người tập hợp quanh mình để đấu tranh chống bất công, chống cường quyền đàn áp bóc lột dân chúng hay chống thế lực ngoại bang xâm lăng đất nước v…v… mới làm nên đại sự cứu nước cứu dân.
Yếu tố thứ hai: Từ năm 1948 bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền do Liên Hiệp Quốc ban hành và tiếp theo năm 1966 ban hành hai công ước: Công Ước Quốc Tế về những Quyền Dân Sự và Chính trị-, Công Ước Quốc Tế về những Quyền Kinh tế, Xã Hội và văn Hóa. (11*) Cả ba văn kiện lịch sử này đã tạo ra CHÍNH NGHĨA cho các cuộc đấu tranh đòi Nhân Quyền Dân Chủ Tư Do cho các tầng lớp dân chúng của các quốc gia đang bị các chế độ độc tài thống trị, đàn áp nô lệ hóa con người.
Yếu tố thứ ba: Cuộc cách mạng 1917 tại nước Nga thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản đầu tiên trên thế giới.
Khởi đầu cuộc cách mạng, chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn xây dựng một thiên đàng trên trái đất. Nhưng kết quả là Chủ nghĩa CS đã làm cho nước nghèo dân kiệt, gieo tai họa kinh hoàng khủng khiếp nhất cho nhân loại. Phê bình về chế độ và chủ nghĩa cộng sản Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã nói:
“Anh có thể xây ngai vàng bằng lưỡi lê, nhưng anh không thể ngồi trên đó”.
“Chế độ cộng sản không thể nào sửa chữa được mà cần đào thải nó đi”.
Và Mikhail Gorbachev Tổng Bí Thư Xô Viết đã cay đắng nhận xét:
“Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.
Chế độ CS là chế độ tuyên truyền dối trá nhất, bạo lực nhất, tàn ác nhất, cai trị dân bằng thủ đoạn tinh vi nhất, xảo quyệt nhất, thâm hiểm nhất! Tất cả những cái nhất đau đớn này đã làm cho người dân tỉnh ngộ là mình đã bị mắc lừa, quả lừa lớn nhất thế kỷ, và cũng do đấy ý thức chính trị của quần chúng quốc dân đã được tôi luyện và thực sự trưởng thành. Trong các xã hội bị chế độ Cs độc tài toàn trị đương nhiên trở thành những “kho thuốc súng”, những “quả bom nổ chậm” chực chờ bùng nổ khi thời cơ chin muồi sẽ tới và phải tới ….như biến cố lịch sử đã xẩy ra tại Đông Âu và Liên xô làm sụp đổ Đế quốc CS và cáo chung chủ nghĩa CS vào năm 1989 .
Yếu tố thứ tư: Cuối Thế kỷ 20 bùng nổ cuộc cách mạng Truyền Thông
Đây là một thành quả khoa học Kỹ thuật lớn làm thay đổi gần như toàn bộ hoạt động xã hội nhân loại! Từ ngày máy điện toán Computer và điện thoại cầm tay (Cell phone) ra đời, các phong trào các lực lượng đấu tranh của Quần chúng nhân dân đã có trong tay một thứ khí giới truyền thông mới, có khả năng rút ngắn thời gian và thu hẹp không gian và có sức công phá các “bức màn sắt” “màn tre” của các chế độ độc tài toàn trị ( Dù là “độc tài trắng” hay “độc tài đỏ”) đều không thể nào bưng bít sự thật, mang bộ mặt giả nhân giả nghĩa được nữa !
Yếu tố thứ năm: Cuộc cách mạng Hoa lài Tại Tunisia:
Cách mạng Tunisia còn gọi là cách mạng hoa lài gồm những cuộc biểu tình đã diễn ra tại Tunisia, trong đó người dân xuống đường biểu tình để phản đối chính quyền Tunisia. Các cuộc biểu tình, đình công và bạo loạn được loan truyền rộng rãi mà nguyên nhân cuộc cách mạng bùng nổ do nạn thất nghiệp, giá cả thực phẩm tăng, chính quyền tham nhũng, tự do ngôn luận bị cấm đoán và mức sống của người dân thấp. Các cuộc biểu tình lên tới đỉnh điểm bằng sự lật đổ tổng thống Zine Fl Abidine Ben Ali, người đã từ bỏ chức tổng thống và bỏ chạy khỏi Tunisia ngày 14 tháng 1 năm 2011 sau 23 năm cầm quyền (12*)
Khác với các cuộc cách mạng trước đây hoặc do một lãnh tụ hay một tổ chức đảng phái đứng ra kêu gọi các cuộc biểu tình hoặc hô hào quần chúng đứng lên làm cach mạng. Cuộc cách mạng tại Tunisia là do Quần chúng tự phát. Đây là điểm đặc biệt nhất của cuộc cách mạng Hoa Lài đánh dấu bước tiến bộ vượt bực của ý thức chính trị quần chúng quốc dân.
Tóm lại, qua việc duyệt xét 5 yếu tố kể trên, chúng ta có thể nói thời đại hiện nay (thế kỷ 21) là thời đại của Quần chúng Quốc dân. Ý thức Quần Chúng Chính trị đã được tôi luyện và trưởng thành trong máu và nước mắt. Không một công việc lớn lao nào không có quần chúng tham dự mà có thể thành công! Do trên Thực thể Quần Chúng Chính Trị là trụ cột tư tưởng thứ ba không thể thiếu trong việc hình thành Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam.
VI. TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ ĐẠO VĂN HÓA VIỆT NAM
(“Nguyên Động Lực”,” “Vũ Trụ Quan”, “Nhân Sinh Quan, “Văn Hóa Xã Hội Quan” hay “Nhân Thế Quan, của Chủ Đạo Sống như thế nào? )
A. Lý Nhất Quán hay Nguyên Động Lực Diệu Dụng chân lý, Vũ Trụ Quan, Nhân Sinh quan….
Nội dung (nội hàm) Văn hóa quá bao la, nên việc vận dụng phát huy văn hóa là công việc vô cùng khó khăn nếu chúng ta không tìm ra Chủ Đạo Văn Hóa là gì như thế nào? Khi đã khám phá ra Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam là trước hết chúng ta đã tìm lra “lý nhất quán” của văn hóa , điều mà Đức Khổng Tử gọi là “Nhất dĩ quán chi”. Nói cách khác chúng ta đã tìm ra “Nguyên động lực “ hay Chìa khóa vàng ” để “diệu dụng và phát huy” Văn hóa Việt Nam. Chủ Đạo Văn hóa Việt Nam còn giúp chúng ta tìm ra Vũ Trụ Quan, Nhân Sinh Quan, Văn hóa, Xã hội quan hay Nhân thế Quan để phụng sự nhân sinh, giúp con người tìm được hạnh phúc, nhất là dẫn đưa con người tới Chân Thiện Mỹ.
B. Trước hết chúng ta đề cập đến Vũ Trụ Quan của Kinh Dịch:
Kinh Dịch (xuất hiện khoảng 2852- 2738 TCN) Kinh Dịch bắt đầu từ Thái Cực, sau Chu Liêm Khê (1017-1073) viết thiên Thái Cực Đồ Thuyết, khởi đầu bằng một câu bất hủ “Vô Cực nhi Thái Cực” Như vậy Vô Cực hay Thái Cực điều cùng là Bản Thể của Vũ trụ, có khác chăng là ở hai thể ẩn hiện. Vô Cực là nguyên thể bất khả tư nghị, chưa đi vào Hữu Thể sinh hóa. Thái cực là toàn thể chưa phân chia của trạng thái sơ nguyên hàm chứa tiềm năng vô tận.Thái Cực sinh Lượng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng Sinh Bát Quái, Bát Quái sinh Lục Thập Tứ Quẻ (64 quẻ) Dịch cũng là Đạo Sống của Vũ trụ (Sinh Sinh chi vị Dịch) Dịch có 3 nghĩa: “Biến dịch” (thay đổi) “Giao dịch” (âm dương ngũ hành trao đổi, tương khắc, tương sinh,tương tác tương thành) và “Bất dịch”(Sự biến hóa theo một quy luật không thay đổi)
Yếu chỉ của Kinh Dịch: Dịch có 2 chiều; Chiều ra đi và chiều trở về:
– Chiều ra đi: Từ Thái Cực (1) sinh lưỡng nghi âm dương (2) sinh tứ tượng (4) sinh bát quái (8) sinh 64 quẻ, từ 64 quẻ sinh ra vạn hữu….(nhiều vô kể)
– Chiều trở về: (Nguyên thủy phản chung) Từ vạn hữu (vô số kể) trở về 64 quẻ, từ 64 trở về 8; 8 trở về 4; 4 trở về 2; 2 trở về 1
“Nếu Dịch chỉ chủ trương một chiều biến hóa, từ Thái Cực đến Vạn Hữu, từ nhất đến vạn, từ giản đến đa tạp, thì chẳng có gì là cao đẹp, vì nó chỉ mới là chiều sa đọa, phá tán, tử vong của trời đất, chưa nói lên được chiều hòa hợp, đoàn tụ, siêu thăng, sinh tồn của vạn vật, chưa nói lên được nỗ lực, của vạn hữu, luôn luôn muốn vươn lên để trở về với Thái Cực.
Nhưng thực ra, Dịch không quan niệm biến hóa một chiều, và cho rằng khi vũ trụ đã biến hóa, đã phân tán đến cực độ, sẽ xoay chiều, đổi hướng bước dần lên những nấc thang tinh thần, để cuối cùng lại phục hồi Nguyên Bản.
Nói cách khác, vũ trụ biến thiên không phải theo một đường thẳng vô cùng tận, nhưng theo hai chiều Âm Dương, vật chất và tinh thần, để cuối cùng lại phục hồi Nguyên Bản.
Lưu Nhất Minh viết: Dịch nói Nguyên Thủy phản chung. Thế là biết lẽ tử sinh. Mạnh Tử nói: Bậc trí giả, để ý suy cứu đắn đo, còn Thánh nhân để ý tìm cho ra cùng đích của cuộc đời. Cho nên Đạo cả của Thánh Hiền có đầu có đuôi, có gốc có ngọn. Biết được đầu, hay được cuối, khảo được gốc, cùng được ngọn, mới có thể thông suốt tòng đầu tuyệt vĩ, quán triệt đại giác, đại ngộ… Giả sử còn có điều mịt mờ, thì ắt hành động sẽ mò mẫm, biết đã không đúng, thì làm sẽ ngắc ngứ không thông. Học giả phải cùng kỳ lý rồi mới có thể đem ra mà thi hành áp dụng. Biết đến kỳ cùng, làm tới hoàn mỹ, đó là hai phương diện cần yếu không thể nào không có được. Mà lý ấy chẳng qua là đạo của trời đất tạo hóa… Đạo của Tạo hóa có thể có dụng, có đầu có đuôi, là môi trường cho Âm Dương đắp đổi vận hành đổi thay tiêu trưởng, biến hóa ở bên trong, nhưng mà chốt then quan hệ nhất, tâm điểm của tất cả mọi biến thiên, vẫn là Chân Nguyên nhất khí, vẫn là Thái Cực hư vô, vô hình, vô tượng. Hiểu được điều này, lập tức sẽ lên tới bậc Thánh Hiền, không hiểu được điều này, sẽ phải trầm luân muôn kiếp. Cùng lý tức là hiểu biết thấu đáo căn bản này vậy” (13*).
C. Vũ trụ Quan theo Lão Tử:
Tại Trung Hoa, trước Lão Tử chưa triết gia nào khởi xướng vũ trụ luận. Học thuyết trung tâm của Lão Tử là Đạo và Đức. “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”. Lão Tử đếm vài con số rồi phán như thế, và ta hiểu ý của ông cho rằng không thể định nghĩa Đạo, nhưng Đạo có trước vũ trụ và Đạo là nguồn gốc của vũ trụ. Theo Lão Tử, trời đất muôn vật do Đạo mà sinh thành. Đạo là cái hỗn mang chưa phân, là cái nguyên thủy và là sự vận động hằng cửu mà ta không thể cảm, không thể biết. Đạo vô danh, vô hình là căn nguyên và cốt lõi của muôn vật, muôn vật đều khởi từ Đạo, đi theo Đạo, và quay về Đạo. Còn Đức? Chữ Đức ở đây không phải là đức hạnh, hiểu theo lối luân lý thông thường, mà ta phải hiểu theo nghĩa của Lão Tử. Đức là “mầm sống ngấm ngầm” trong vạn vật. Đạo thì sinh ra còn Đức thì nuôi nấng. Người sống có Đức là sống theo Đạo. “Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước Tự nhiên”… Tới đây, ta chớm hiểu. Cái Đạo “phi thường Đạo” được Lão Tử nói đến là thiên nhiên, năng lượng sống và sự vận hành của tự nhiên… Cũng có thể gọi tự nhiên hoặc thiên lý. Và Đức là cứ theo tự nhiên mà sống, thuận theo thiên lý mà lưu hành: trong cái Đạo của vũ trụ ấy, thiên nhiên và những qui luật của chúng tập hợp thành cái trụ cột, cái bản thể, còn đất trời và sinh linh…v.v. là những thực thể có vị trí thích hợp và chức năng thích hợp, thao tác theo một thể thức tự nhiên… Đạo ấy chỉ biết được bằng trực quan, không bằng lý trí. Lão Tử không lập luận về Đạo vì ông chống lý trí. Theo ông, lý trí khiến ta nhìn cuộc đời với con mắt nhị nguyên, phân chia thế giới nội tâm và ngoại cảnh, con người với thiên nhiên, thế gian với vũ trụ, thiện và ác vinh và nhục, đúng và sai, cao và thấp… làm ta xa lìa đạo. Lão Tử không mất công giảng giải về Đạo, ông chống trí thức và trí năng. Ông cho rằng trí thức không giúp cho người ta sống theo Đạo và Đức. Nó chỉ làm cuộc sống thêm phức tạp: nó tạo “cơ khí” khiến sinh ra “cơ tâm”, nó bày ra lý thuyết này, nọ khiến đưa tới xung khắc,… trí năng khiến người ta phân biệt cái hay cái dở nên sinh ra ham muốn. Ông chủ trương bỏ trí năng, bỏ văn tự, bỏ việc dạy dỗ dân, để dân chúng sống mộc mạc, tự nhiên. Lão Tử không chịu nói nhiều về Đạo vì ông hiểu rõ giới hạn truyền đạt của ngôn ngữ. Tóm lại Đạo, cái lý tự nhiên trong con người và vũ trụ, thì hư vô mênh mông, sâu thẳm và ngập tràn tới độ nằm ngoài tầm nắm bắt của lý rtrí, nhận biệt của trí thức và diễn đạt của ngôn từ. Lão Tử nhìn sự vật thường xuyên biến đổi và nhận ra luật mâu thuẫn nơi vẻ ngoài của vạn vật. “Cái yên tĩnh là chủ của cái xáo động. Cái quí lấy cái tiện làm gốc, cái cao lấy cái thấp làm gốc, cái thật đầy thì giống như trống không, con người thật khéo thì trông giống như vụng về…” Ông còn nhận ra luật phản phục ở bên trong vũ trụ, “vật gì phát tới cực điểm thì phải hao giảm- Trăng tròn rồi khuyết, hết mùa đông rồi mùa xuân… “Cùng tắc biến, biến tắc thông”.
Trong cùng một lúc, bị chi phối bởi luật mâu thuẫn và luật phản phục, vũ trụ vận hành với Đạo, vạn vật đều nương tựa vào nhau “có và không cùng sinh, khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng hình, cao và thấp cùng nghiêng, thanh và âm cùng họa, trước và sau cùng theo”. Tuy Đạo không thể hiểu, không thể bàn, không thể nói, nhưng Lão Tử cho rằng loài người chỉ tự mình phục vụ mình tốt nhất bằng việc đi trên con đường Đạo. Để xoay xở trong tình cảnh nghịch lý đó thì có Đức. Sống có Đức tức là sống không khiên cưỡng, sống tự nhiên, vì vô vi- làm một cách tự nhiên– và đi đúng con đường vận hành của đạo”(14*).
D. Vũ Trụ Quan theo chủ nghĩa Duy Tâm
Chủ Nghĩa Duy Tâm chủ trương tinh thần có trước, vật chất có sau, tinh thần độc lập với vật chất và làm chủ vật chất. Chủ nghĩa Duy tâm đưa đến sự nhìn nhận có Đấng Thượng Đế sáng tạo ra vũ trụ con người và vạn vật. Nói một cách khái quát, chủ nghĩa Duy Tâm chia làm 2 khuynh hướng: Chủ nghĩa Duy Tâm Chủ quan và Chủ nghĩa Duy Tâm khách quan…
E. Vũ trụ Quan Chủ Nghĩa Duy Vật.
Chủ nghĩa Duy Vật chủ trương vật chất có trước tinh thần, có vật chất rồi mới có tinh thần, tinh thần là sản phẩm của vật chất Chủ nghĩa Duy vật đưa đến phủ nhận linh hồn, phủ nhận Thượng Đế và các Thần linh, nên còn gọi là chủ nghĩa Vô Thần (15*).
F. Cả hai chủ nghĩa Duy Tâm và Duy Vật đều phiến diện và bất cập – Khoa học hiện đại còn giới hạn, nếu không nói là bất lực trước câu hỏi về nguồn gốc đầu tiên của vũ trụ:
Ngày nay nguồn gốc loài người đang là nơi tranh chấp ác liệt giữa duy vật và duy tâm. Duy tâm cho rằng trời sinh ra con người, duy vật cho rằng do tiến hóa từ Vượn lên Người mà có con người. Xét cả hai quan niệm trên thì cả hai quan niệm đều có lý, chính cái có lý nên nó mới tồn tại. Duy vật sử dụng “duy vật biện chứng” và “duy vật lịch sử” để chứng minh nguồn gốc loài người, khai thác khảo cổ, sinh vật học, phôi sinh vật học… và tôn chỉ vật chất có trước ý thức, để chỉ ra con người có nguồn gốc từ Vượn. Duy tâm sử dụng: “biện chứng siêu hình” chỉ ra nguồn gốc ban đầu của muôn vật, tuy không được chứng minh như duy vật, nhưng sự thiếu hụt của duy vật giúp cho sự đứng vững của duy tâm. Duy tâm luôn đứng vững ở đoạn cuối của duy vật khi duy vật chưa đi tới, tuy nhiên duy tâm chủ quan khi cho con người sinh ra từ đất – nước – gió – lửa – từ cát bụi hay đất sét thì chưa thuyết phục vì thiếu cơ sở khoa học.
Duy tâm dựa vào thế giới chưa có để lý giải cho nó, vì thế cho rằng con người phải được sinh ra từ vai trò của lực lượng siêu nhiên. Theo cách lý giải này thì con người là con của Thượng Đế hay Đấng nào đó tương tự như vậy.
Duy vật dựa vào thế giới hiện tại để lý giải cho nó, vì thế cho rằng con người sinh ra từ tiến hóa mà gần nhất là tiến hóa từ Vượn lên Người. Theo cách lý giải này thì con người là con của Vượn người, vấn đề này còn được lý giải là chỉ có một loài Vượn được tiến hóa theo chiều hướng thành người, còn những nhánh khác vẫn phát triển thành Vượn. Quan niệm này đứng khá vững vì người ta tìm được những nét tương đồng của Vượn tới Người cổ, nhưng cũng còn nhiều hoài nghi vì con người là con người, con vượn vẫn là con vượn từ nhiều năm vẫn như vây. Thế thì lý gì mà vượn lại biến hóa lên người? Cái khó của duy vật là phải chứng minh được vượn biến thành người do lao động trong khi người ta bắt con khỉ làm xiệc mãi mà nó vẫn là khỉ…? Hơn nữa chẳng mấy ai muốn tổ tiên mình lại là vượn và có muốn thì vượn vẫn là vượn và người vẫn là người không thể là tổ tiên của nhau. Tự nó không thể chứng minh cho nó, vì thế duy vật cứ chứng minh mãi cũng chưa biết con người là ai.
Chúng ta đã thấy sự phiến diện và bất cập của duy vật và duy tâm vì thế chúng ta vẫn chưa thể biết được con người đích thực là ai nều cứ theo duy vật hoặc cứ theo duy tâm….
Bằng các nghiên cứu về lịch sử tiến hóa vũ trụ, các nhà khoa học đã phát hiện được tiến trình hình thành thế giới, nơi duy tâm vẫn cho là “bất khả xâm phạm”. Có thể nói cuộc tranh chấp về nguồn gốc vũ trụ cũng như sự sống của những người duy tâm với những người duy vật đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Tính ác liệt của sự tranh chấp này không phải là đấu tranh mà là “Thượng Đế” thuộc về ai, có nghĩa “Thượng Đế” được vật chất hóa để trả cho duy vật hay trừu tượng hóa của duy tâm.
Các nhà khoa học gần đây đã nói về những phút đầu tiên của sự hình thành vũ trụ. Theo thuyết vũ trụ học, hiện đại nhất hiện nay, được gọi là thuyết “mô hình chuẩn”, trong tương lai thì chưa thể biết được mô hình chuẩn có còn “chuẩn” không, nhưng hiện tại đây là lý thuyết cao nhất, về nguồn gốc vũ trụ, giải thích về hình thành vũ trụ. Xuất phát từ thuyết “vụ nổ lớn” gọi là “Big Bang” của các nhà bác học Mỹ Penzias và Wilson, được giải thưởng Nobel 1978, về sự khám phá quan trọng này. Có thể nói thuyết vũ trụ học “Vụ nổ lớn” có được dạng chuẩn như ngày nay được nhiều người công nhận là thành tựu khoa học lớn nhất, trong thế kỷ 20 và là cơ sở để các nhà duy vật xây dựng thêm vào nấc thang tiến hóa vật chất.
Khám phá nguồn gốc vũ trụ là ước mơ của nhiều nhà khoa học, có gì hấp dẫn hơn là vấn đề “phát sinh trời đất” Steven Berg, nhà vật lý chuyên về những cái rất bé nhỏ, lý thuyết hạt cơ bản đã viết “Ba phút đầu tiên” một lý thuyết chi tiết về quá trình diễn biến của các sự kiện trong vũ trụ sơ khai đã được công nhận rộng rãi dưới tên “mô hình chuẩn”. Ông đã khám phá chi tiết của buổi ban đầu hình thành vũ trụ cùng những tiên đoán về “số phận” vũ trụ hiện nay nhưng không thể giải thích được trước “ba phút đầu tiên” vũ trụ là gì?
Bởi không thể tìm được trước phút đầu tiên của vũ trụ cho nên các nhà khoa học thường phải giải thích “lòng vòng” trong muôn vàn cái “có thể” và “nếu” để chứng minh nguồn gốc vũ trụ. Các nhà khoa học có đủ sức thay “trời” tạo dựng “trời đất” được hay không, hay ít ra cũng hiểu được “trời sáng tạo vũ trụ” như thế nào là một thách đố cuối cùng để con người có chịu khuất phục về một “Thượng Đế” hay không?
Duy vật giải thích thế nào về nguồn gốc vũ trụ cũng không vượt qua được “nguồn gốc vũ trụ” mà phải chấp nhận mệnh đề “tự nó” được coi như một “tiền đề “Cái “tự nó“đó được xác lập bởi các qui luật, trong khi nguồn gốc qui luật “tối thượng” từ đâu mà có thì duy vật không giải thích mà chấp nhận như định chế. Định chế đó chính là duy lý vật chất, duy lý với duy tâm cũng là một nhưng khác định hướng mà thôi. Nếu duy tâm cho rằng có “Thượng Đế”nhưng không thể thấy được bằng cảm giác, mà phải thấy bằng đức tin, thì duy vật cho rằng chỉ có vật chất không có “Thượng đế” và vật chất đó cũng không thể thấy bằng cảm giác mà thấy theo” tiền đề”, nghĩa là phải chấp nhận vật chất bằng tiền đề niềm tin để trở thành chân lý. Người ta không thể định nghĩa cái mà người ta chưa biết nó là cái gì. Khoa học đã chỉ ra cho con người thấy vật chất là các hạt mà loài người chưa hiểu, vậy định nghĩa vật chất của triết học có chủ quan và quá sớm không? Nếu trước kia “Thái Cực” là cái không thể giải thích thì ngày nay “tiến hóa vật chất” cũng không thể giải thích, đó là những nét tương đồng của hai nền triết học duy vật cổ và duy vật hiện đại. Duy vật ngày nay khác với duy vật ngày xưa ở chỗ xác định những tính chất và thuộc tính vật chất cụ thể hơn. Hay nói cách khác duy vật biện chứng là một hệ thống khoa học giải thích về thế giới ban đầu hay nguồn gốc thế giới bằng phương pháp biện chứng giúp cho loài người hiểu rõ hơn về thế giới hiện tại. Còn thế giới trong quá khứ hay nguồn gốc thế giới thì duy vật biện chứng phải bó tay và đưa nhân thức chung chung thiếu cụ thể, bởi thế duy vật biện chứng không thỏa mãn được nhận thức con người. Con người muốn biết “cái gì đã sinh ra vật chất” chứ không phải là “vật chất vô hạn”
Nếu các nhà khoa học, không bằng lòng với cách giải thích của tôn giáo về thế giới hiện tại, thì những người có đức tin hoặc hiểu về thế giới theo tình cảm cũng không đồng ý với cách giải thích của duy vật biện chứng. Bởi vì duy vật không giải thích được nguồn gốc thế giới mà đưa ra định đề vật chất làm “khuôn mẫu” trong khi nguồn gốc thế giới là cái gì thì chưa biết.Ngày nay khoa học tìm được “mô hình chuẩn” là những giây phút của vụ nổ Big Bang, nhưng con người muốn biết trước Big Bang là cái gì? Một câu hỏi được đặt ra, nhưng chưa có câu trả lời, nếu tìm được cơ sở hình thành Big Bang thì trước cơ sở đó là cái gì?? Cứ như thế khoa học không thể chứng minh nguồn gốc tận cùng của vũ trụ, nơi tận cùng đó là chân lý của tình cảm và mãi mãi là như vậy. Tính trường tồn của thế giới ban đầu càng vững bền chứ không như nhiều người cho rằng khoa học phát triển thì duy tâm không còn chỗ đứng (16*).
G. Vũ Trụ Quan Đạo Sống Việt Nam:
Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam nhận thức rằng:
·Vũ Trụ Quan Đạo Sống là NHƯ NHIÊN.(Tự Nhiên và Như Nhiên )
·Năng Lượng Sống Vũ Trụ hay nguồn Sống Vũ trụ là “bất khả tri” hay “bất khả tư nghị “
·Năng Lượng Sống là Căn Nguyên Hình Thành Vũ trụ và Con Người.
·Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống con người, chính là bản chất con người. Do công phu tu dưỡng con người có khả năng hòa đồng cùng Năng Lượng Sống Vũ Trụ.
·Tinh Thần và Vật Chất là hai mặt ẩn và hiện của Năng Lượng Sống Vũ Trụ.
·Vô Thể, Sống Thể, HữuThể vừa là Chân Nguyên, Đồng Nguyên của Sống Thể, Sống Năng Thái Hòa.
·Năng Lượng Sống Vũ trụ và Chân Lý Tinh Hoa Sự Sống con người có các đặc Tính,khả tính sau đây:
1- Quang Minh, Chân Thực, Sống Động& Vĩnh Hằng
2- Linh thông,Toàn thẩm,Tiềm di & mặc hóa
3- Tương Tức, Tương Nhập, Tùy Duyên Hằng Hóa & Bất Nhị
4- Liên tục Bổ sung, Phân Hóa,& Điều Hợp
5- Bảo tồn, Phát triển, Tiến Hóa &Thăng Hóa
6- Tư Do, Tư Chủ, Tư Tạo & Tư Thắng
7- Vượt Thoát, Dung Hóa, Sáng Hóa & Sống Hóa
H. Nhân Sinh Quan
H. Phát hiện quy luật sống
Trong cuốn “Nhân Loại Mới” do Mekong xuất bản năm 1991 hai tác giả Nguyễn Thùy và Trần Minh Xuân trong khi suy tư về các phạm trù mâu thuẫn cặp đôi như “Bản Chất và Hiện Tượng”, “Đạo và Đời”, “Hữu Thần và Vô Thần”, “Tất Định và Tư Do”, “Tư Do và Bình Đẳng” v.v… Hai tác giả đã phát hiện ra hai qui luật của đời sống. Đó là “Tất Định Như Nhiên” và “Tất Định Qui luật” Hai qui luật này mới đọc qua, chúng ta không thấy điều gì mới lạ, hay không mới lạ lắm … Nhưng suy gẫm, suy tư và trầm tư sâu sắc, chúng ta mới thấy hai qui luật này vô cùng cấp thiết và quan trọng giúp cho con người “an thân lập mạng” thuận theo “lẽ Đạo” và “tiến xa trên đường Đạo”…
Trước hết chúng ta hãy nói về “Tất Định Như nhiên” (Déterminisme-Nature):
“Tự do được đề cập nhiều trong triết lý, chính trị và kinh tế và cả trong khoa học, nhưng trong Đạo học lại ít hoặc không đề cập đến. Các kinh Phật Giáo , Ki Tô giáo hầu như không nhắc đến , trong lúc các vấn đề Bình đẳng, Từ Bi, Bác ái … lại được xiển dương. Có lẽ trong Đạo học, Tư do được xem như là bản nhiên, một vấn đề của bản chất con người, không do một cấu trúc nào tạo nên, hoặc Tư do đã nằm trong cái lẽ Đạo rồi.
Đạo như đã nói, không chỉ dành riêng cho chủng loại người mà cho tất cả mọi giới loại thì Đạo là một tất định, vì tất cả đều ở trong Đạo, chi phối bởi Đạo. Hiểu Đạo là lý vận hành biến dịch chung của vạn hữu thì Đạo là một thứ “Tất định Như Nhiên” (Déterminisme – Nature) bao giờ cũng thế.
Xin được giải thích sơ lược về từ “Như Nhiên” ”Như Nhiên” có nghĩa “là vậy, là thế” bao giờ cũng thế, không hiểu do đâu, không hiểu tại sao. Dù có giải thích được, dù có tìm ra nguyên nhân, diễn tiến,dù có biện pháp sửa đổi thế nào thì sự việc vẫn thế , vẫn cứ là như thế. “Như Nhiên” bao gồm cả tự nhiên và có tính cách khẳng định hơn là “Tự Nhiên” vì cái tự nhiên có thể sửa đổi, có thể thay thế, , như có thể đào núi, lấp sông, ghép cây, thay tim…Nhưng cái Như nhiên thì không thể nào cải đổi, sửa chữa hủy diệt.
Đức Phật nói đến cái khổ đầu tiên của con người là “Sinh, Lão, Bênh, Tử” (có lẽ chung cho cả mọi giới loại) đấy là bốn cái “Như Nhiên”. Cho dù ngày nay, y học dùng lối cấy tinh trùng để tạo nên một bào thai không cần đến sự giao hợp giữa nam và nữ, theo cách tự nhiên, nhưng như thế sự sự sinh cũng đã có rồi. Cái chết cũng vậy. Điều kiện dinh dưỡng và y dược có thể kéo dài tuổi thọ, nhưng thế nào rồi con người cũng chết; cho dù chết vì già yếu, bị bịnh tật hay bị sát hại, bị tai nạn…mà qua đời thì sự chết cũng đã đến, cũng đã xảy ra… Người Phật Tử gọi đức Phật là “Như Lai” có nghĩa là như nhiên đến, không do ai, không do gì. Điều đó có nghĩa đức Phật không còn là Tất Đạt Đa, không còn là Thích Ca mà là biểu tượng của Tâm Chân Như là một thứ “Như nhiên”. Hiểu như thế Thượng Đế là như nhiên, cuộc sống, cuộc đời là Như nhiên.
Nhiều người theo Phật giáo ngày nay bỏ luôn từ “Như” chỉ dùng từ “Nhiên” không thôi, trong dụng ý kết hợp cả cái “tự nhiên” và cái “là vậy” vào một. Đạo là Như nhiên vì Đạo là tự nhiên và bao giờ cũng là thế, cũng là vậy, không sinh sôi, không phát triển, không hư hoại, không hủy diệt, không trương nở, không giản lược, không tăng, không giảm, không tiến, không lùi, không xấu, không tốt, không mà có, có mà không, không hữu, không vô, Hữu vô là một. Con người sống trong Đạo là sống theo “Tất định Như Nhiên” trong khi con người sống trong xã hội là sống theo: “Tất Định Qui Luật”
“Tất Định Quy Luật” (Déterminisme –Loi)
Bên cạnh Đạo, bên cạnh cái “Tất định Như hiên” này, cuộc sống mỗi người cũng như của mỗi chủng loại cũng tuân theo một cái tất định khác, vì tuân theo những qui luật của tự nhiên, tự nhiên nơi đây bao gồm khung cảnh thiên nhiên cùng môi trường sinh hoạt của cá thể, và chủng loại trong cộng đồng hiện thể của mình.
Mỗi chủng loại cũng như mỗi cá thể trong chủng loại, từ tự thân, muốn tồn tại, tiếp nối và phát triển phải thỏa mãn một số thiết yếu bản nhiên mà ta gọi là bản năng sinh tồn. Rồi do “hiện thể trong toàn thể” (kết hợp thành xã hội) các thiết yếu ban sơ đó dần dần phức tạp hóa, đa diện hóa, tạo nên vô số nhu cầu và sở thích.
Tất cả nhũng thiết yếu ban sơ cùng nhu cầu và sở thích là nguyên nhân và động cơ phát sinh tư hữu và chiếm hữu đó .Vì thế cuộc sống có tính cách cơ năng (tuân theo những đòi hỏi của sinh vật lý). Lịch sử tại thế chính là dòng diễn biến của tính cơ năng. Tính cơ năng là một “Tất định qui luật” (Déterminisme –Loi)
Những qui luật đó phát sinh từ trường tương tác của vạn pháp, những mối quan hệ hầu như bất biến giữa mọi sự, mọi vật mà khoa học thực nghiệm đã tìm và tìm mãi cùng với những qui điều trong các khoa học nhân văn phát sinh từ nhu cầu của đời sống thực tiễn của xã hội. Những qui luật và qui điều có thể thay đổi do nhận thức của con người, do diễn biến sinh hóa của nhân sinh qua lịch sử và được hướng dẫn vận hành của cái “Tất Định Như Nhiên”
Cái “Tất định Như Nhiên” là lẽ Đạo, là Ý chí của Thượng Đế và là nền tảng của Định mệnh thuyết siêu hình. Cái “Tất định Qui luật”là lịch sử hay cuộc sống của từng chủng loại, của từng cá thể trong chủng loại, nghĩa là vũ trụ hiện tượng của cõi sắc giới, và là nền tảng của Định mênh thuyết tự nhiên ( hay Định mênh tuyết khoa học, Định mênh thuyết lịch sử). Hai cái “Tất định”này không chống đối phủ nhận nhau.
Cái Tất định qui luật nằm trong cái Tất định Như nhiên và thể hiện cái Tất định như nhiên ra mặt hiện thể. Trong ý nghĩ này, ta có thể hiểu lời nói của Gaston Bachelard: “Tất định thuyết đã từ cõi trời đến với cõi đất” mặc dù chủ ý của ông chỉ mới nói về mặt khoa học.
Vì tất cả để trở về trong Đạo, khởi đi từ cái Một, nên cái Tất định Qui luật diễn biến qua muôn hình vạn trạng hình thái, cách thế cuối cùng sẽ hội nhập, tan hóa vào trong cái Tất định Như nhiên để chấm dứt một chu kỳ biến dịch, tức là một kỷ nguyên sinh hóa của chủng loại. Làm thế nào và vào lúc nào đấy là phần vụ của Ý chí Tự do của con người. Con người cuộc sống con người bơi lội giữa hai dòng tất định đó, bị tác động bị chi phối bởi cái “Tất định Qui luật”, nhưng lại được hướng dẫn bởi cái “Tất định Như nhiên”.
Tư do con người thể hiện ở ý thức và hành động giải trừ vượt thoát vòng chi phối, tác động của cái Tất định Qui luật để hướng về cái Tất định Như nhiên. Đấy là ý nghĩa của giải thoát, Cứu rỗi trên mặt cá nhân. Định mệnh thuyết siêu hình hướng con người đến cứu rỗi, giải thoát trong lúc Định mênh thuyết tự nhiên tác động vào cuộc sống chung để con người và chủng loại dần dà qua hành động đấu tranh chống cơ năng để loại dần cơ năng (hoặc giảm thiểu chế hóa cơ năng, hoặc bành trướng cơ năng để loại dần cơ năng) mà tiến tới Đạo, đến cái Tất định Như Nhiên.
Trong ý nghĩa hướng đi đó, Tự do con người, của mỗi người, chính là cái khuynh hướng, cái hướng vọng dẫn về trong cái Tất định Như Nhiên và thể hiện nơi ý chí đấu tranh trước tiên với bản thân mình( có nghĩa không để tính động vật chi phối nặng nề ) và đấu tranh với xã hội, để mọi mặt đòi hỏi xã hội thỏa mãn những yếu tính của tồn tại về mặt cơ năng (thỏa mãn nơi đây có nghĩa là cung cấp mọi điều kiện thuận tiện do từ cơ cấu tổ chức xã hội) mặt khác dần dà giải trừ tính cách cơ năng của xã hội đối với cuộc sống , để rút ngắn cái quá trình diễn biến của cơ năng hầu sớm đưa chủng loại vào trong cái Tất định Như nhiên.
Trong chiều hướng đó, Tự do không phải là thứ của cải được ban cấp bởi xã hội mà là một yếu tính từ bản chất con người, và là động lực để cải biến con người và cải biến xã hội. Hiểu Tư do là cái quyền được sống theo ý mình, không bị cản ngăn; Hiểu Tư do là cái Ý chí, cái Năng lực quyết định, chọn lựa giữa bao nhiêu trường hợp, bao nhiêu khả năng, không hẳn là sai, nhưng đấy chỉ là những thể hiện từng lúc trong cuộc sống theo cái Tất định Qui luật mà thôi, và như thế, Tư Do không có một ý nghĩa, một tác dụng nào cao quý về mặt chủng loại. Cũng chính vì thế mà Tự Do đòi hỏi và liên hệ mật thiết với Cảm thông, Yêu thương,Độc lập, Bình đẳng, Hòa bình, Đoàn kết, Hy sinh, Sáng tạo (17*)
H.2: Nhân sinh quan, thể hiện trong nếp sống, cách sống của con người “Biết Sống sự sống mình”:
·Sống Vui
·Sống Hùng
· Sống Mạnh
· Sống Đẹp
· Sống Tỉnh Thức
· Sống Hướng Thượng, Hướng Tha
· Sống Tranh Đấu, Cầu Tiến
· Sống Đạo Nghĩa Hiếu Trung
· Sống Tôn Sư Trọng Đạo
· Sống Tự Tin,Tự Chủ
· Sống Chết theo Lẽ Đạo
· Sống không hờn giận oán trách
·Sống Bao Dung Tha Thứ
· Sống Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm
· Sống Thực dụng, Thực Tiễn
· Sống Thử Thách, Kiên Nhẫn
· Sống Lý Tưởng, Sáng Tạo.
· Sống Từ Bi Bác Ái.
·Sống Bình Đẳng, Hòa Đồng
· Sống Yêu Dân Yêu Nước.
· Sống Kết Đoàn, Đoàn Kết
·Sống Dân Chủ Tự Do,
· Sống Tự vượt, Tự thắng
· Sống Thiền, Sống Vi…
· Sống Nhân Chủ Thái Hòa (18*)
Trên đây chúng ta đã đề cập đến những cách sống đặc biệt, như những bông hoa tươi thắm muôn hồng ngàn tía tiêu biểu cho hàng trăm cách sống khác nhau, tạo thành cá tính hay nếp sống con người và nếp sống của mỗi dân tộc… tùy theo ý thích, sở trường, khả năng và ý chí mỗi người kể cả hoàn cảnh gia đình và xã hội ảnh hưởng lên sự chọn lựa và quyết định của mỗi cá nhân như người ta thường nói “Anh hùng tạo thời thế” hay “Thời thế tạo Anh hung”. Điều đặc biệt đáng ghi nhận hơn là: Nhịp theo đà tiến của nhân loại, thế kỷ 21, đã mở ra những chân trời mới: Đạo Sống không còn là đặc quyền của một thiểu số giành cho những “Tao nhân mặc khách” “hay “những người có căn cơ tu Đạo” mà Đạo luôn luôn mở ra cho tất cả mọi người. Nhiều người nói: thời đại ngày nay chúng ta phải “Đem Đạo vào Đời”, “Hiện đại hóa Đạo Phật”, “Hiện đại hóa Tôn giáo”, v.v. Những cách nói này không phải sai, nhưng chưa đúng lắm, chưa thật hay …vì chúng ta chưa khởi đi từ gốc, chưa khởi đi từ chính mỗi người chúng ta … Vấn đề quan trọng nhất của “Thời đại hiện nay” là khai mở ĐẠO SỐNG trước hết cho chính mình (cho mỗi cá nhân) trước khi phổ biến, thức động “quảng đại Quần chúng Quốc dân”. Làm công việc này chúng ta không những giúp ích cho tất cả mọi tôn giáo, và cho cả những người không theo một tôn giáo nào… hay ngay cả những người “vô thần” nói chung, đều biết sống sự sống mình, tư chọn cách sống nào hay đẹp thích hợp nhất với mình… Khi con người biết sống sự sống mình thì chúng ta không cần “Đem Đạo vào Đời” mà kỳ diệu thay “ Đạo đã nở hoa trong Đời”. Hoa Sư Sống sẽ tưng bừng nở trên khắp mọi miền đất nước Việt Nam và trên toàn thế giới. Kỷ nguyên Đạo Sống Nhân Chủ đã từng bước hình thành tại Việt Nam, tự nhiên như sự chiếu sáng của mặt trời mặt trăng, tự nhiên như hoa nở …
I. Văn Hóa Quan:
Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam chủ trương:
– Văn Hóa có sứ mạng “Giáo hóa con người , Phụng sự Quần chúng Quốc dân” và có khả năng “chỉ đạo” cho Chính trị, Kinh tế, Giáo dục, Xã hội…
– Muốn thực hiện được sứ mệnh lớn lao trên, Văn hóa phải có “sức mạnh tự thân” và biết phát huy Sức mạnh vô biên, vô tận của Văn hóa. Nếu Văn hóa không biết phát huy sức mạnh tự thân và sức mạnh của Văn hóa Dân tộc, thì Văn hóa luôn luôn bị các thế lực chính trị đôc tài (độc tài đỏ và đô tài trắng) biến Văn hóa trở thành “những cây cảnh, những chậu cảnh” trang trí cho chế độc đôc tài, nhất là chế độc độc tài toàn trị CS, chuyên lợi dụng văn hóa, biến văn hóa trở thành “công cụ cho các chế độ độc tài” mang danh Xã hội Chủ nghĩa .
– Không chỉ nêu ra cứu cánh “Chân, Thiện Mỹ”, mà phải thực hiện ,thực hành Chân Thiện Mỹ, hiện thực Chân Thiện Mỹ, quan trọng hơn nữa là “Sống hóa Chân Thiên Mỹ” chính là phương cách tuyệt diệu nhất để “phát huy sức mạnh tự thân của Văn hóa”.
– Biết phát huy “sức mạnh tự thân của văn hóa”, mới là “điều kiện cần”, chưa phải là điều kiện đủ. Mà còn phải biết, “vận dụng”, “diệu dụng chân lý Sự Sống” vào tổ chức “hình thành Văn hóa Tổ chức”. Tiếp đến là “vận dụng văn hóa tổ chức” vào mục tiêu “Giáo dưỡng, Hướng đạo sinh hoạt Quốc Dân” hình thành “kỷ nguyên Văn hóa Quốc dân”. Cao hơn nữa là “Vận dụng Văn hóa Tổ chức” vào việc không ngừng nâng cao mực sống Quốc dân” “Thăng hoa và Thăng hóa hay Thành toàn sự sống Quốc dân”
– Khởi đi từ việc phát huy “Sức mạnh Tự thân của Văn hóa” hình thành “Văn hóa Tổ chức”, “Văn hóa Giáo dưỡng, Hướng đạo Sinh hoạt Quốc dân”, “Văn hóa Phụng sự Quốc dân, không ngừng nâng cao Mức Sống Quốc dân”, “Văn Hóa Thăng hoa, Thành toàn Sự Sống Quốc Dân”.
J. Chính trị Quan:
Trong các chế độ Dân Chủ Tự Do chân chính tại Tây Phương cũng như Đông phương bao giờ cũng hình thành 2 trận tuyến: Đó là
– Trận tuyến Cầm Quyền
– Trận Tuyến Đối Lập
Nay Chủ Đạo Văn Hóa Việt Nam chủ trương thành hình:
– Trận Tuyến Quần chúng Chính trị Quốc Dân làm trung gian giữa 2 trận tuyến Cầm quyền và trận tuyến Đối lập để tạo thế “Quân Bình Động” trong Sinh hoạt Chính trị Quốc gia.
– Trận tuyến Quần chúng Chính trị Quốc dân còn là Mặt Trận Gốc của Quốc gia Dân tộc Việt Nam đóng vai trò Chủ Lực Cách mạng trong giai đoạn Cứu Quốc hiện nay cũng như giữ vai trò chủ lực Kiến quốc và Hưng quốc sau hâu kỳ cs (Khi chế độc độc tài toàn trị cs bị lật đổ cáo chung)
– Trận tuyến Quần chúng Chính trị Quốc dân (TT/QCCTQD) không chủ trương tranh giành quyền lực với chinh tuyến cầm quyền, không chủ trương cướp chính quyền, cũng không chủ trương đưa người ra tranh cử vào các cơ quan Công quyền như Quốc hội hay các cơ quan hành chánh của Chính phủ từ trung ương đến địa phương, hầu bảo đảm tính chất trong suốt (transparent) của tổ chức Quần chúng Chính trị Quốc dân. Hơn thế nữa, Trận tuyến QCCTQD còn sẵn sàng hậu thuẫn hợp tác với Chính tuyến cầm quyền trong các công tác ích quốc lợi dân. Ngược lại khi Chính tuyến cầm quyền làm điều gì sai trái với Hiến pháp, vi phạm quyền lợi của Quốc dân thì Chính tuyến Quần chúng Chính trị Quốc dân sẽ lên tiếng chống đối hay hợp tác với Chính tuyến đối lập để phản biện hay đối thoại với Chính Quyền hầu “sửa sai và xây dựng Chính tuyến cầm quyền” ngày một tốt đẹp hơn.
– Cho dù “hậu thuẫn, hợp tác với chính quyền” hay “lên tiếng chống đối chính quyền”, Chính tuyến Quần chúng Chính trị Quốc dân không coi đó là công tác chính yếu mà chỉ là những công tác cần thiết trong từng giai đoạn lịch sử mà thôi. Nhiệm vụ hay sứ mạng chính yếu nhất của Chính tuyến QCCTQD là Khai mở Đạo Sống Dân tộc Việt, khai mở dân trí Quốc dân, không ngừng phát triển tổ chức, duỗi dài tổ chức vào khắp mặt sinh hoạt từ Văn Hóa,Kinh tế, Chính trị, Giáo dục, Truyền thông, Luật pháp. Y tế, Quản trị học, Thương mại, Khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến v.v….
– Trận tuyến Quần chúng Chính trị Quốc Dân còn tạo môi trường cho nhà trí thức, Kẻ sĩ, Sĩ phu thời đại đem tài năng ra giúp nước giúp dân bằng phương thức dấn thân hòa đồng với Dân chúng theo tiêu ngữ “Hòa Quang Đồng Trần “ (Hòa kỳ Quang, đồng kỳ trần = Hòa cùng Ánh sáng, đồng cùng bụi bặm-( trích Lão Tử Đạo Đức Kinh)
– Trận tuyến Quần chúng Chính trị Quốc dân còn tạo môi trường cho giới trẻ (Thanh niên, sinh viên, học sinh) có cơ hội, học tập và thi thố tài năng trên mọi lãnh vực, học tập và phát huy Văn hóa,Nghệ thuật. Âm nhạc, Võ học….theo đúng nguyện vọng và hoài bão của tuổi trẻ, nối gót cha ông.
– Trận tuyến Quần chúng Chính trị Quốc dân song hành với trận tuyến Quần Chúng Văn hóa Quốc dân còn có sứ mệnh quan trọng và cao đẹp nhất là “Đào Tạo Nhân tài ưu tú, cho Quốc gia Dân tộc Việt và xa hơn cho Nhân loại.
K. Xã Hội Quan:
Chủ đạo Văn hóa Việt nam quan niệm: Một xã hội thực sự tốt đẹp có tính chất điển mẫu là một xã hội:
– Đạo Đức, hiền thiện, công bằng, tư do dân chủ, pháp trị, khai phóng và tân tiến.
– Hài hòa, “cộng đồng đồng tiến”, tôn trọng sáng kiến cá nhân, “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cộng đồng” và “sức mạnh tổng hợp của Dân tộc”.
– Theo thể chế, Dân chủ Đa nguyên, tập trung quyền hành tối thiểu tại trung ương và Tản quyền tối đa tại địa phương.
– Giảm thiểu khoảng cách giầu nghèo giữa các cộng đồng khu vực,song hành với việc giảm thiểu khoảng cách giầu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân (Quốc Dân)
– Tạo ý thức Sống, khai mở tinh hoa Chân lý sư Sống bảo vệ môi trường Sống trong sạch làm bừng lên Sức Sống Quốc dân.
L. “Nhân Thế Quan” hay “Nhân Chủ quan”
Chủ đạo Văn hóa Việt nam chủ trương:
– “Kết Sinh toàn dân-, xây dựng Lực lượng Gốc “ nhằm hát huy : Văn Kinh, Chính Giáo, Đạo, Khoa, Truyền, y, Luật, Quản ( tức Văn hóa, Kinh tế, Chính trị, Giáo dục, Đạo học, Khoa học, Truyền thông, Y tế, Luật pháp, Quản trị )
– Tôn Vinh và Tri ân Quốc Tổ Hùng Vương.
– Tôn Vinh Đạo Sống Nhân Chủ
– Bảo vệ Sư Sống Quốc dân.
– Phát huy Sự Sống Quốc Dân,
– Không ngừng nâng cao mức Sống Quốc dân
– Thăng Hoa sự Sống Quốc Dân,
– Thành toàn Sự Sống Quốc dân.
VII. KẾT LUẬN
Trong thời đại chúng ta mọi người đều công nhận trận tuyến hay Mặt trận Văn Hóa rất quan trọng. Nhưng muốn phát huy sức mạnh Văn Hóa phải làm thế nào và phải khởi đi từ đâu? Và đi tới đích điểm nào? Những câu hỏi được nêu lên: “Triết học Tây phương đi về đâu”? Triết học Đông phương đi về đâu? Văn hóa đi về đâu? Thì mọi người đều lúng túng không tìm ra lời giải đáp. Do đó văn hóa rơi vào tình trạng mà Linh Mục triết gia Kim Định gọi là “Vô hướng vô hồn”. Giờ đây chúng ta đã khám phá Chủ Đạo Văn hóa Việt Nam có nghĩa là chúng ta đã vượt lên màn lưới của ngôn từ, màn lưới của Ý thức hệ đang che phủ thực tại và phát hiện ra Chân Lý tinh hoa Sự Sống ở ngay trong mỗi con người chúng ta. Chúng ta giác ngộ ra rằng “Không có Ý thức hệ nào quí bằng Sư Sống”. Chúng ta không còn mắc kẹt trong ý thức hệ (bất cứ ý thức hệ nào, dù là duy tâm, duy vật, duy nghiệm, hay duy linh….) Tất cả mọi thứ “Duy” đều chỉ là phiến diện và bất cập… Chúng ta phải vươn tới Đạo mới đem lại hạnh phúc cho con người, đem lại ơn ích, phúc lợi cho Dân Tộc
Đạo Sốngcũng là “Minh Triết Đạo”, và cũng chính là “Nhân Chủ Đạo”– Chủ dạo Văn hóa Việt Nam là “chìa khóa vàng” cho phép chúng ta mở tung các cánh cửa, các kho tàng vô giá vô biên vô tận của Văn hóa Việt Nam và Văn hóa nhân loại. Đạo Sống Nhân chủ không cần kêu gọi ai, không o ép ai, mà chủ trương, tự thức tỉnh, tự vượt và tự thắng chính mình. Đạo Sống Nhân chủ đặt trọng tâm hoàn thành cuộc Cách mạng tâm thức con người, làm nền tảng cho mọi cuộc Cách mạng Dân tộc và Xã hội.
Từ ngày lập quốc, Dân tộc Việt Nam với 5 ngàn năm Văn Hiến… từ các bậc tiền nhân Anh Thư, Anh hùng, đến những người thường dân đều đã có những giấc mơ Việt Nam. Các giấc mơ của Cha Rồng Mẹ Tiên thể hiện trong các câu chuyện huyền thoại, mà nay trở thành Bô Kinh Việt lưu truyền hậu thế như Kinh Tiên Rồng, Kinh Chử Đồng ; Kinh Trầu cau; Kinh Tiết liêu; kinh Phù Đổng v.v..(19*)
Giấc mơ Việt Nam cũng đã được gửi gắm trong “Sứ Điệp Trống Đồng”… trong “Gậy Thần Sách Ước…” Chúng ta không thể không đề cập đến các Giấc mơ của Đức Nguyễn Trãi, giấc mơ của Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm, giấc mơ của Lý thuyết gia Lý Đông A, giấc mơ của học giả Hồ Hữu Tường (20*) và gần đây nhất là “Ước mơ của Thủy (Lệ Việt Kỳ Nhi)
“Mượn lời một nhân vật tên Thủy, tác giả Lê Việt Kỳ Nhi chia sẻ những kiến thức hiểu biết, suy nghĩ “to gan” của mình về một đất Việt đầy truyền thống hào hùng mà bị khỏa lấp, che đậy yếu hèn bởi một thứ chủ nghĩa ngoại lai, không phù hợp.
Nhi với cái nhìn tỉnh táo, đã nhận định những sự việc đang xẩy ra trên đất nước Việt trong mối quan hệ hữu cơ biện chứng với tình hình thế giới .
Nhi với chủ trương “Nhân bản” thuần Việt đã mạnh dạn vứt bỏ chủ nghĩa cộng sản vào sọt rác, xem chủ nghĩ Tư Bản cũng không ra gì …
Với Nhi, duy tâm hay thuần duy vật cũng không hay, dễ đi tới cực đoan, mà cái chính phải là “duy nhân” xem con người làm trọng, phục vụ cho lợi ích con người trong sự tổng hòa với các mối quan hệ xã hội khác.
Nhi viết trong sách về cái cảm giác chung của dân Việt trước sự đổi mới, hòa chung xu thế thế giới “bỏ cái cũ thì cảm thấy như bị cắt thịt da, tiếp nhận cái mới thì bị tự ái dân tộc cản trở …” Tôi tin rằng, với vài người những gì đề cập đến trong “Ước mơ của Thủy” sẽ rất mới mẻ, cứ như lần đầu tiên nghe thấy điều đó! Tuy nhiên mong rằng đó chỉ là những cú “sốc phản vệ’ rất nhỏ để bạn đọc tiếp tục tìm hiểu đọc kỹ hơn, tìm ra con đường mình muốn đi khi đang trong trạng thái hoang mang, đằng sau những câu chữ đầy tâm huyết này” (Trích lới Bạt của Huỳnh Lê Nam cuối tác phẩm (21*).
Ước mơ chính đáng và tha thiết của Thủy cũng là ước mơ của đa số Quốc dân Việt Nam, muốn quay về Nguồn cội với những giá trị nhân bản, nhân chủ cao quí của truyền thống dân tộc Việt, để chối bỏ tất cả những chủ thuyết ngoại lai không phù hợp với tỳ vị dân tộc, nhất là tranh đấu giải thể chế độ cs, vất bỏ chủ nghĩa CS vào sọt rác để đất nước Việt sớm được thoát Trung , dẫn đưa dân Tộc Việt Nam đến cường thịnh và vinh quang.
Muốn hiện thực “Ươc mơ của Thủy “còn đòi hỏi nhiều thách thức với toàn dân Việt tại quốc nội cũng như hải ngoại. Tuy nhiên “Ước mơ của Thủy” là con đường thoát là lối ra tất yếu của Dân Tộc Việt Nam. Chúng tôi tin tưởng rằng quốc dân Việt Nam sẽ nhất tề vùng dậy lật đổ chế độ Cs trong một ngày không xa nữa.
Sau khi chế độ Cs đã bị sụp đổ, bị cáo chung, quốc dân Việt sẽ phải cùng nhau thực hiện sách lược và chương trình Kiến Quốc và Hưng Quốc như thế nào? Giấc mơ của Đức Nguyễn Trãi là mong sao “Trong thôn cùng xóm vắng không có tiếng thở dài, không còn tiếng hờn giận oán sầu” (22*) Giấc mơcủa Đức Nguyễn Trãi rất chính đáng cao cả nhưng khó khăn thực hiện biết bao! Đây là một thử thách vô cùng lớn, không những dành cho các đại chính trị gia, cho các Hiền Nhân Thánh Triết mà là thử thách cho toàn thể Quốc Dân Việt trong suốt mấy thế kỷ qua nhất là sau hậu kỳ cộng sản. Nếu trước đây chúng ta chưa khám phá ra “Chủ Đạo Văn hóa Việt Nam” thì giấc mơ của Đức Nguyễn Trãi hoàn toàn có tính cách ước lệ lý tưởng. Nhưng bước sang thế kỷ 21, Quốc dân Việt đã khám phá và hình thành “Chủ Đạo Văn hóa Việt Nam “ thì giấc mơ của Đức Nguyễn Trãi, vị đại Anh hùng Dân tộc, Danh nhân Văn hóa Thế giới tuy vẫn là thử thách lớn đối với Quốc dân Việt, nhưng không phải là Không thể thực hiện được….
“Vang Vang Trời vào Xuân”…..
San Jose Thung lũng Hoa Vàng
Năm 2017
Chu Tấn
Tài liệu Tham Khảo:
” Trich trong Tuyển Tập Văn Hóa Chính Trị TẤC LÒNG NON NƯỚC Tập I của Chu Tấn)
(1*) Đạo là gì?
(2*) Xem Triết lý Tri- Hành-Sống Hợp Nhất của Chu Tấn cũng trong Tuyển Tập này.
(3*) Cứu cánh hay cùng đích của Văn Hóa Chính Trị theo quan niệm của Tây Phương là đạt tới CHÂN- THIỆN- MỸ
(4*) Theo triết lý Ấn Độ cứu cánh của Văn Hóa, Chính Trị là đạt tới CHÂN- MINH- HOAN.
(5*) Theo Thày Lý Hống Chí giáo chủ Pháp Luân Công CHÂN- THIỆN – NHẪN là 3 đặc tình của vũ trụ .falundafa.org/
(6*) “Thử đề nghị một Chủ Đạo cho người Việt lưu vong” tác giả Lương Kim Định – Tủ sách Việt Linh xuất bản -L/L Vương Kỳ Sơn P.O box 29683 NewOrleans LA 70189 ( 504) 254-0497 .
(7*) Kinh Kim Cang: Hán dịch Cưu Ma La Thập –Việt dịch: Thích Trí Tịnh (https://thuvienhoasen.org/a758/kinh-kim-cang-bat-nha-ba-la-mat)
(8*) Lý Thái Tông (https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_Th%C3%A1i_T%C3%B4ng)
(9*) Nhân Chủ – Kim Định (http://www.vietnamvanhien.net/NhanChu.pdf)
(10*) Nhân Chủ Tính trong Huyền sử Việt – Đông Lan (http://minhtrietviet.net/nhan-chu-tinh-trong-huyen-su-viet/)
(11*) Luật Quốc Tế Nhân Quyền – Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
Phiên dịch và dẫn giải – Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam ấn hành .
(12*) Cuộc Cách Mạng Tunisia (http://search.myway.com/search/GGmain.jhtml?p2=%5ECPX%5Exdm113%5ETTAB02)
(13*) Kinh Dịch Đai Toàn Quyển 1-trang 41 – Tác giả B.S Nguyễn Văn Tho và Huyền Minh Yến Lê. Tác giả tự xuất bản.
(15*) http://www.tailieuontap.com/2012/12/chu-nghia-duy-vat-va-chu-nghia-duy-tam.html
(16*) Lương Duyên Ngọc – Sự Sống- Chương I trang 7, 8, 16. 17. Tác giả tự xuất bản.
(17*) Nhân Loại Mới tập 1- Tác giả Nguyễn Thùy & Trần Minh Xuân Mekong tỵ nạn xuất bản 1991 trang 192, 193,194, 195
(18) Xin xem bài Sống Hoa- Những đóa hoahương sắc ngàn đời của Chu Tấn cũng trong tuyển tập này.
(19*) Kinh Việt tác giả Nam Thiên –Hoa Tiên Rồng xb
(20*) Xin xem bài“Sứ mênh Văn hóa trong Thời đại Toàn cầu hóa của Chu Tấn cũng trong tuyển tập này.
(21*) Ước mơ của Thủy tác phẩm của Lê Việt Kỳ Nhi do Bước chân Lạc Hồng phát hành- Xem lời bạt của Huỳnh Lê Nam
(22*) Nguyễn Trãi toàn tập NXB Khoa học xã hội in lần thứ 2 Hà Nội 1976 trang 410, 420
SÁU NĂM Sau Thượng Đỉnh COP21 Paris – TS Mai Thanh Truyết
Sáu năm sau Thượng đỉnh COP21 Paris

Hàng năm đến ngày 5 tháng 6 là Ngày Môi Trường Thế Giới. Năm nay sẽ tổ chức tại Pakistan.
Đây là ngày do Chương trình Môi trường LHQ – UNEP khởi xướng nhằm thúc đẩy nhận thức và hành động vì môi trường trên toàn thế giới.
Đưa ra thông báo bên lề Hội đồng Môi trường LHQ lần thứ năm – Fifth UN Environment Assembly (UNEA-5), Cố vấn Thủ tướng Pakistan, kiêm Bộ trưởng Biến đổi khí hậu, Malik Amin Aslam, đã cùng Giám đốc điều hành UNEP Inger Andersen thừa nhận tính cấp thiết của việc ngăn chặn, ngăn chặn và đảo ngược sự suy thoái của các hệ sinh thái trên toàn thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Imran Khan, Chính phủ Pakistan – trong một trong những nỗ lực trồng rừng tham vọng nhất thế giới – có kế hoạch mở rộng và khôi phục các khu rừng của đất nước 10 tỷ cây trong 5 năm. Chiến dịch bao gồm việc khôi phục rừng ngập mặn và rừng, cũng như trồng cây trong môi trường đô thị, bao gồm trường học, cao đẳng, công viên công cộng và vành đai xanh. Pakistan đã thành lập Quỹ Phục hồi Hệ sinh thái để hỗ trợ các giải pháp dựa vào thiên nhiên đối với biến đổi khí hậu và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi sang các sáng kiến phục hồi môi trường, có mục tiêu sinh thái bao gồm trồng rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.
Thập kỷ LHQ kéo dài từ năm 2021 đến năm 2030, đây cũng là thời hạn cuối

cùng của các Mục tiêu Phát triển Bền vững và mốc thời gian mà các nhà khoa học đã xác định là rất quan trọng để tránh những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Kế hoạch trên nhằm mở rộng quy mô phục hồi hàng loạt các hệ sinh thái bị suy thoái và bị phá hủy để chống lại cuộc khủng hoảng khí hậu, ngăn chặn sự mất mát của một triệu loài và tăng cường an ninh lương thực, cung cấp nước và sinh kế.
Việc hồi sinh các vùng chứa carbon tự nhiên – chẳng hạn như rừng và đất than bùn – có thể giúp thu hẹp khoảng cách phát thải khí hậu 25% vào năm 2030 so với khí phát thải năm 1997 (Protocol Kyoto). Việc trồng lại các loài cây địa phương cũng có thể giúp giảm bớt một số tác động tàn phá dự kiến của một hành tinh đang ấm lên, chẳng hạn như tăng nguy cơ cháy rừng. Hiện tại có 3,2 tỷ người – 40% dân số thế giới – phải chịu đựng sự suy thoái liên tục của các hệ sinh thái, chẳng hạn như mất khả năng tiếp cận với đất màu mỡ hoặc nước uống an toàn.
Trên đây là những tin tức về Ngày Môi trường năm nay. Trong hơn 15 năm qua, người viết đều có bài nhận định về Ngày Môi Trường Thế giới, nhưng kể từ năm 2020, công việc “tường trình” nầy đã chấm dứt vì một lý do duy nhứt:”Thế giới cứ kêu gọi – Các quốc gia tiếp tục “nói” tuân thủ – Và mọi chuyện “vũ như cẩn””!
Năm nay, người viết nhân cơ hội nầy để nêu lên vài nhận định về những ký kết quốc tế trong Thượng đỉnh COP15 tại Paris vào đầu tháng 12 năm 2015. Những ký kết và lời hứa đã gây ra biết bao tranh cãi từ đó đến nay…2021, nghĩa là gần sáu năm qua.
- Những lời hứa và ký kết sau COP21 Paris

Năm nay, 2021 United Nations Climate Change Conference (COP26) sẽ diễn ra từ ngày 1 – 12 Tháng 11 tại Glasgow, Scotland, UK.
Theo ước tính của IPCC – Intergovernmental Panel on Climate Change, từ nay cho đến năm 2038, toàn cầu chỉ có thể phát thải tối đa 1.000 tỷ tấn khí Carbonic vào khí quyển mà thôi. Trong quá khứ 140 năm về trước, có 1.900 tỷ tấn CO2 đã bao phủ bầu khí quyển của chúng ta rồi, căn cứ vào nghiên cứu của Khoa Vật lý, Đại học Oxford, Anh.

Thỏa thuận được coi là mang tính bước ngoặt đầu tiên về khí hậu toàn cầu đã ràng buộc cả quốc gia giàu có lẫn nghèo khó phải cam kết hạn chế sự phát thải khí CO2 nguyên nhân của sự hâm nóng toàn cầu cũng như đặt ra một mục tiêu dài hạn về việc phải xóa bỏ khí nhà kính (greenhouse effect) do con người gây ra trong thế kỷ này.

Ngoài ra, thỏa thuận cũng khuyến khích các nước tăng cường các nỗ lực tự nguyện ở trong nước nhằm ngăn chặn khí thải cũng như cung cấp thêm hàng tỷ Mỹ kim để giúp các nước nghèo tiến tới một nền kinh tế phát triển thân thiện với môi trường hơn.
Tính đến ngày cuối cùng của Thượng đỉnh (12/12), hiện có 187 quốc gia đã đệ trình các kế hoạch chi tiết của nước mình về những biện pháp nhằm khống chế việc phát thải khí nhà kính, được coi là trọng tâm của thỏa thuận đạt được ở Paris. Văn kiện nầy sẽ có tính chất ràng buộc pháp lý và quy định những cuộc duyệt xét 5 năm một lần đối với các kế hoạch quốc gia nhằm ngăn chặn tình trạng tăng nhiệt toàn cầu. Mức duyệt xét lần đầu tiên là năm 2020.
- Nghi vấn trong “cam kết có tính chất ràng buộc pháp lý”:
- Cản ngại thứ nhất là tính toán chính trị, mỗi quốc gia vì quyền lợi của riêng mình có thể đưa ra cam kết, nhưng chưa chắc gì có quyết tâm thực hiện;
- Trở ngại thứ hai là kinh tế, các quốc gia đang phát triển có chấp nhận thay đổi mô hình phát triển hay chăng? Một khi đã cam kết chống biến đổi khí hậu cũng có nghĩa là phải đầu tư công nghệ mới để thay đổi công nghệ sản xuất “sạch”, ít phóng thích khí thải nhà kính, hoặc phải chịu chịu giảm tỷ lệ tăng trưởng. Cả hai phương cách đều làm giảm sự tăng trưởng cho chính quốc.
- Khó khăn thứ ba là tài chính: Liệu các nước giàu ở Bắc bán cầu có chịu đóng góp mỗi năm 100 tỷ đô la vào Quỹ Khí hậu Xanh để giúp các nước nghèo ở Nam bán cầu chống biến đổi khí hậu hay không?
Vì vậy, để áp dụng “tính ràng buộc”, cần phải có những biện pháp cứng rắn hơn nữa để ép các quốc gia đã phát triển đóng góp vào Quỹ Khí hậu Xanh hầu đạt được mục tiêu 100 Tỷ hàng năm cho toàn cầu từ 2015 cho đến 2020. Làm thế nào để có những những biện pháp “cứng rắn” một khi LHQ qua Chương trình Môi trường đã bị nhiều thế lực quốc tế khuynh đảo. Có thể nói thẳng ra là Trung Cộng.
Như vậy, mức duyệt xét của LHQ sau 5 năm (2020) đã có kết quả như thế nào?
- Trung Cộng phát thải CO2 và xây dựng thêm nhiều nhà máy nhiệt điện so với trước Thượng đỉnh. Điều nầu đã không xảy ra và ngược lại, tính đến năm 2020, TC đã phát thải khí CO2 tăng 20% so với mức 2015;
- Mọi đóng góp trong số 100 tỷ Mỹ kim cho Quỹ Khí hậu Xanh hầu như hầu hết các quốc gia “đã hứa” nhưng không tuân thủ!
- Chỉ có một số quốc gia như Hoa Kỳ, Pháp, Anh, Đức, Nhựt…đã giảm phát thải khí Carbonic, nhưng với số lượng không đáng kể so với định mức như đã…hứa.
- Tuyệt đại đa số các quốc gia đang phát triển đều không tuân thủ và giảm sự phát thải từ năm 2020. Làm sao họ có thể đáp ứng những lời hứa và ký kết cho những năm… 2025, 2030, 2040, 2050, và 2100!
- Hình ảnh thế giới năm 2030
Với tính lạc quan về tương lai năm 2030, hình dung chúng ta đang sống trong một nền kinh tế tuần hoàn toàn cầu. Tất cả cánh cửa khoa học đã “mở” ra khắp nơi trên thế giới và đã trở thành cố ý minh bạch (intentionally transparent). Chính nét suy nghĩ mở này đã tạo ra sự gia tăng niềm tin trong dây chuyền cung ứng thế giới và làm cho dây chuyền nầy có trách nhiệm hơn lên.
Các tiến bộ trong cuộc cách mạng công nghiệp như: – Trí tuệ nhân tạo, – “Mạng toàn cầu vạn vật” (Internet of Things -IoT), – và Công nghệ nano đã tạo thuận lợi cho việc theo dõi các kim loại và khoáng chất quan trọng từ mỏ đến người tiêu dùng. Sự minh bạch này đã báo trước một ‘tiêu chuẩn mới” (new Norm), trong đó các nguyên liệu thô mà chúng ta sử dụng để sản xuất và xây dựng có thể được truy nguyên từ khi chúng được chiết xuất cho đến lần đầu tiên sử dụng, tái sản xuất và tái cấu trúc

và tái sử dụng cuối cùng.
Bước vào năm 2030, không ai nói về nền kinh tế tuần hoàn; nó chỉ là nền kinh tế đích thực. Các “sân chơi cứng” (hard playground) trong sự thịnh vượng xã hội ngày càng tăng, đồng thời giảm sự phụ thuộc vào vật liệu và năng lượng chính, đã được thực hiện. Chúng ta từng khổ sở khi nhìn thấy nhiều năm tháng ảm đạm trong những năm 2010, khi hàng tỷ tấn nguyên liệu được khai thác hàng năm để đáp ứng nhu cầu cần thiết của xã hội – nhưng trong đó, chỉ một phần nhỏ được tái chế cho việc sản xuất trở lại.
Mọi người bước vào năm 2030 sẽ chứng kiến kỷ nguyên các sáng kiến đã được đưa ra để thúc đẩy hành động hướng tới lượng khí thải carbon trở về số không (net-zero) từ ngành công nghiệp nặng và ngành vận tải nặng. Những cải tiến trong chuỗi cung ứng pin bền vững đã cho phép các ngành công nghiệp vận tải và năng lượng giảm 30% lượng khí thải, mang các nền kinh tế về đúng hướng để đáp ứng các mục tiêu của Thỏa ước Paris COP21. Để rồi, khi nhìn lại, chỉ còn rất ít danh mục được hưởng lợi nhiều hơn từ tầm nhìn của các chính trị gia và doanh nhân của chúng ta so với ngành công nghiệp pin. Cuộc cách mạng tế bào năng lượng (cell-powered) đã tạo ra 10 triệu việc làm, thêm 150 tỷ đô la cung cho nền kinh tế toàn cầu và cung cấp điện cho 600 triệu người.
Với giá thành công nghệ giảm nhanh tạo ra cơ hội lớn để giảm chất thải. Mạng lưới thế giới bắt đầu theo dõi các sản phẩm và vật liệu càng làm cho giá cả rẻ hơn nhiều so với trước đây, tăng cơ hội để phục hồi và tái chế trở lại.
Từ đó, chúng ta tập trung vào việc nắm bắt thêm nhiều giá trị hơn từ các cơ sở hạ tầng hiện có nhằm kết hợp hành động trong việc chế ngự những tác động của ô nhiễm, biến đổi khí hậu, và các tai ương khác của hành tinh chúng ta đang sống.
Với tầm nhìn về thế giới lạc quan và có tính khả thi cao như trên, hành tinh chúng ta đang sống sẽ diễn ra như thế nào trong năm 2030?
Đời sống cá nhân sau năm 2030

Trong chiều hướng suy nghĩ trên, hình dung đến năm 2030, lượng khí thải CO2 của bạn sẽ giảm xuống rất xa. Không khí bạn thở sạch hơn. Thiên nhiên đang hồi phục. Thay đổi sự biến đổi khí hậu trong chiều hướng sẽ làm cho chúng ta có một môi trường sống lành mạnh hơn.
Đó là những gì sẽ xảy ra cho năm 2030 nếu chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.
Hình dung khi bạn bước ra khỏi cửa vào buổi sáng ở một thành phố xanh và đáng sống. Bạn có thể chọn gọi xe Taxi/Uber. Máy điện toán trong cell phone của bạn đã tính toán tuyến đường thông minh nhất cho chiếc xe đến đón bạn và đón một vài người khác trên đường đi. Vì hội đồng thành phố đã cấm xe hơi tư nhân trong thành phố, hàng loạt dịch vụ di chuyển mới đã có sẵn. Nó rẻ hơn khi bạn không sở hữu chiếc xe riêng của mình, và nó làm giảm tắc nghẽn; vì vậy bạn đến đích nhanh hơn và không phải mất thời gian tìm chỗ đậu xe. Sẽ có rất ít xe trên đường phố và phần còn lại là xe điện vì tất cả điện trong thành phố do năng lượng “xanh” cung cấp.

Các dụng cụ bằng nhựa (plastic) xử dụng một lần đã trở thành…huyền thoại. Khi bạn mua một dụng cụ, bạn mua một cái gì đó có thể dùng trong dài hạn. Nhưng bởi vì bạn mua ít thứ hơn rất nhiều so với trước đây, bạn thực sự có thể mua những sản phẩm có phẩm chất tốt hơn. Từ chối (rác không tái chế được) – Tái sử dụng – Giảm thiểu – Tái chế – Refuse, Reuse, Reduce, Recycle… là lối nhìn mới về sự vật. Mọi công dân giờ đây sẽ có nhiều tiền hơn để chi cho các dịch vụ: dọn dẹp, làm vườn, giúp giặt giũ, bữa ăn lành mạnh dễ nấu, giải trí, trải nghiệm kinh nghiệm sống… Tất cả đều mang lại cho “con người” hiện đại trung bình nhiều lựa chọn hơn và nhiều thời gian dành cho những sinh hoạt hàng ngày hơn, từ đó, có thêm thì giờ cho những sinh hoạt tinh thần và tâm linh hơn…như đọc sách, cầu nguyện, sám hối chẳng hạn!
Tóm lại, giải quyết được các hệ lụy của sự biến đổi khí hậu làm cho đời sống con người thăng hoa hơn trong năm 2030 sắp tới.
Chế ngự được một số hình thức tội lỗi xã hội
Bước đầu tiên để giảm bạo lực vào năm 2030 là ý thức rõ ràng về vị trí, không gian, và thời gian bạo lực xảy ra trên thế giới. Chúng ta thử xét xem trường hợp bạo lực gây chết người. Có một quan niệm sai lầm rằng nhiều người chết trong các khu vực chiến tranh nhiều hơn là trong các quốc gia hòa bình.
Xin thưa, sau khi xét bạo lực xảy ra trên thế giới trong một thời gian dài, Liên Hiệp Quốc cho thấy thống kê ghi ngược lại. Văn phòng LHQ về Ma túy và Tội phạm ước tính tỷ lệ này là khoảng 5:1, có nghĩa là có nhiều người chết do các nhóm tội phạm có tổ chức hoặc do cá nhân ở các quốc gia như Brazil, Colombia và Mexico gấp 5 lần hơn so với các cuộc xung đột nội bộ ở các quốc gia như Afghanistan, Syria và Yemen.

Từ đó, chúng ta cần phải chú ý đến việc nghiên cứu và đầu tư nhiều biện pháp trong việc giảm thiểu nguyên nhân tạo ra bạo lực và cải thiện việc bảo vệ các khu vực và dân số bị ảnh hưởng. Chẳng hạn ở Mỹ, nghiên cứu cho thấy rằng việc tập trung vào việc giảm bạo lực gây chết người ở 40 thành phố có tỷ lệ giết người cao nhất có thể cứu sống hơn 12.000 người mỗi năm. Ở Mỹ La-tinh, sự việc giảm giết người chỉ trong bảy quốc gia bạo lực nhất trong 10 năm tới sẽ cứu sống hơn 365.000 người.

Hưởng không khí sạch là một quyền trong Hiến chương Nhân quyền LHQ
Sau 10 năm can thiệp, các nhà hoạt động và các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ đã song hành bên nhau, không khí sạch được công nhận là quyền cơ bản của con người và các thành phố như New Delhi, Peking … sẽ quang đảng hơn và người dân sẽ nhìn thấy bầu trời xanh trong suốt cả năm.

Điều thay đổi từ những ngày đen tối ở năm 2020 đến ngày hôm nay, 2030 là sự thừa nhận sớm các tác động lên sức khỏe do sự ô nhiễm không khí của các chính phủ, thúc đẩy đến hành động trên toàn cầu.
Một thành phố cung ứng mọi phương tiện xanh cho bạn
hông thường, các nhà thiết kế và chỉnh trang thành phố hiện tại thường phát họa những thành phố lớn với các cơ sở hạ tầng phức tạp. Thưc sự chúng ta có cần những thứ đó không? Rõ ràng là chúng ta cần những cơ sở hạ tầng mới để mở rộng các thành phố là quan trọng, nhưng có lẽ có một câu hỏi quan trọng hơn là chúng ta sử dụng và hưởng thụ những cơ sở hạ tầng hiện tại của mình đến mức nào?
Vào thập niên 1980, khi thế hệ “bùng nổ trẻ em” (baby boomers) đến với số lượng lớn tại các trường đại học trên khắp thế giới, hầu hết các trường chỉ đơn giản là nới rộng trường ốc với chi phí rất cao. Một ngoại lệ quan trọng ở Đại học Cape Town là vì không thể mở rộng được, cho nên Ban Điều hành đại học đã tự hỏi là cơ sở của trường đã dung chứa hết 100% diện tích xây dựng chưa?

Câu trả lời sau khi nghiên cứu là: – Trường chỉ xử dụng 17% số giờ giảng trong các lớp học, phòng thí nghiệm mà thôi! Và trong 30 năm tiếp theo, Đại học Cape Town đã tăng số lượng sinh viên gấp đôi trong khuôn viên trường mà không có bất kỳ chương trình xây dựng lớn nào, chỉ đơn giản bằng cách chấn chỉnh lại các thời khoa biểu hợp lý hơn cho việc giảng dạy và phân phối lớp học hợp lý hơn.
Phần lớn cơ sở hạ tầng ở các thành phố của chúng ta ở cũng không được sử dụng nhiều. Đường cao tốc được thiết kế cho giờ cao điểm; các trường học chỉ có học một buổi mỗi ngày, thường là vào buổi sáng, buổi chiều và buổi tối rảnh rỗi. Một nghiên cứu mang tên “Biến đổi các thành phố ở Úc” (Transforming Australian Cities) đã đề ra rằng nếu tất cả sự phát triển trong tương lai nằm gần ranh giới tàu điện ngầm hiện tại, các thành phố sẽ tiết kiệm được 110 tỷ Đô la chi phí cơ sở hạ tầng trong hơn 50 năm cho mỗi 1 triệu người cư ngụ thêm vào thành phố.

Tầm nhìn cho năm 2030 là một thế giới nơi các thành phố tận dụng tốt hơn cơ sở hạ tầng hiện có, trước khi xây dựng các dự án mới với chi phí tài chính và môi trường lớn. Điều này sẽ thấy những người sống gần hơn với khả năng tiếp cận tốt với cơ sở hạ tầng thiết yếu như giao thông công cộng, dịch vụ xã hội và không gian công cộng có phẩm chất tốt hơn, người dân có nơi đi bộ hợp lý là hình thức giao thông chính yếu.
Qua những phát họa trên đây, chúng ta thấy rằng thế giới năm 2030 sẽ là một khung trời đáng sống cho mọi công dân toàn cầu. Từ đó, tham vọng chính trị, tham vọng chiếm đoạt trên cương vị con người hay quốc gia lần lần sẽ giảm xuống vì tốc độ và sức ép của cuốc sống không còn đè nặng nữa.
Phải chăng thời điểm 2030 sẽ là một dấu ấn mới trên hành tinh chúng ta đang sống cho một …Thiên Đàng Hạ Giới mà mỗi người trong chúng ta đang cố gắng truy tìm?
Chúng ta chờ xem tương lai sẽ trả lời như thế nào?

- Thay lời kết
Qua nội dung những tin tức và các thông điệp của xã hội dân sự trong suốt gần sáu năm qua, chúng ta thấy gì?
- Phải chăng, có một cái gì không ổn trong vấn đề ràng buộc và tính áp đặt trong Thỏa thuận COP21?
- Phải chăng, trong tâm khảm của 196 đại diện cho 196 quốc gia đi phó hội Thượng đỉnh COP21 có lấn cấn một “cái gì” (cho tình trạng riêng của mỗi nước), để rồi, khi Thỏa thuận được đúc kết trong “gượng ép” mà vẫn phải gọi là “Thỏa thuận lịch sử” hay “Thỏa thuận bước ngoặt”?
Có phải 196 đại diện tuy đồng sàng nhưng dị mộng?
Theo thống kê, chúng ta đều biết, trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010, sự tăng trưởng của khí thải nhà kính tăng nhanh hơn trong giai đoạn 1980 đến 1990. Và hiện tượng trái đất nóng nhứt so với quá khứ xảy ra vào năm 2014, và nhiệt độ không khí tăng lên trung bình ở mặt đất cho thập niên nầy là 0,90C, cao hơn sự tăng nhiệt độ từ thập niên 1880 trở đi.
Vì vậy, với điều kiện công nghệ hiện có và văn minh hiện tại, cũng như suy nghĩ của những nhà hoạch định chính sách trên toàn cầu, thiết nghĩ, cần phải chuyển hướng và sáng tạo một phương cách mới trong việc hạn chế sự hâm nóng toàn cầu, mà ngày hôm nay, được định nghĩa lại là “Sự biến đổi khí hậu – The climate change”.

Phải chăng lãnh đạo các quốc gia trên thế giới đã đồng ý trên những kết ước không thực tế trên phương diện thực hiện, thiếu nhiều căn bản pháp lý cũng như khoa học trong việc kết luận về vấn đề thay đổi khí hậu, và chịu ảnh hưởng và áp lực chính trị của nhiều hệ thống quyền lực hữu hình như Trung Cộng và vô hình đang khuynh đảo thế giới, nhứt là ở Hoa Kỳ hiện tại

Trên thế giới hiện nay có hai khuynh hướng khoa học có tỷ lệ ngang ngửa, hoàn toàn trái ngược trong việc giải trình hiện tượng “thay đổi khí hậu toàn cầu” nầy:
- Khuynh hướng thứ nhứt cho rằng: Trái đất chuyển vận theo chu kỳ Ấm – Lạnh tự nhiên. Khi dân Viking bắt đầu di cư về hướng Nam và định cư ở các quốc gia Bắc Âu, và Ireland cuối thế kỷ thứ 8 vì…chu kỳ Lạnh đã bắt đầu vì đất đã bị đóng băng không còn thích hợp cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Và thế kỷ 20, phải chăng thời điểm nầy là buổi bình minh của chu kỳ Ấm?
- Khuynh hướng thứ hai nhứt định: Trái đất nóng lên là do sự phát thải khí Carbonic do kỹ nghệ và nhu cầu phát triển của nhân loại. Hạn chế bớt việc phát thải khí CO2 tức là hạn chế được sự hâm nóng toàn cầu. Theo ước tính của IPCC, từ nay cho đến năm 2038, toàn cầu chỉ có thể phát thải tối đa 1.000 tỷ tấn khí Carbonic vào khí quyển mà thôi. Trong quá khứ 140 năm về trước, có 1.900 tỷ tấn CO2 đã bao phủ bầu khí quyển của chúng ta rồi, căn cứ vào nghiên cứu của Khoa Vật lý, Đại học Oxford, Anh.
Nhưng dù sao đi nữa, dù có khuynh hướng nào đi nữa, chúng ta vẫn nhận thấy việc phát thải khí CO2 vào không khí là một trong nhiều nguyên nhân khác nữa làm cho bầu khí quyển “nóng” lên trong hiện tại, và mỗi quốc gia (và chúng ta) đều có trách nhiệm liên đới.
Vì vậy, cần phải động não nhiều hơn nữa về những phương pháp hạn chế (vì không thể nào chấm dứt được) việc phát thải trên:
- Tiền: Thay đổi công nghệ sạch, cần đầu tư nguồn vốn vào nghiên cứu cũng như chấp nhận chậm phát triển trong giai đoạn chuyển tiếp;
- Chấm dứt hẳn việc xử dụng năng lượng hóa thạch. Điều nầy không dễ vì, nếu lấy Hoa Kỳ làm thí dụ, lượng than đá của xứ nầy còn đủ dùng cho 250 năm nữa, Mỹ không thể chấm dứt việc dùng than trong một sớm một chiều được, nhưng kỹ nghệ nầy đã được thay thế bằng phương pháp “hóa khí” – “gasification” than đá trước khi biến thành điện năng, giảm hơn 90% việc phát thải khí CO2 so với phương pháp cổ điển bằng cách đốt than đá trực tiếp;
- Việc áp dụng các loại năng lượng tái tạo (renewable energies) cũng cần phải cân nhắc lại vì, năng lượng tái tạo như thủy điện sẽ không phát thải khí nhà kính, nhưng lại hủy hoại hệ sinh thái toàn vùng. Chính vì vậy mà Ngày Môi trường Thế giới năm nay 2021 cổ súy cho việc phục hoạt hệ sinh thái toàn cầu;
- VIệc cải tiến công nghệ thực phẩm và lương thực để thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt hơn nữa trong tương lai nhằm giảm thiểu nguồn nước tiêu thụ cũng như phân bón và các hóa chất bảo vệ thực vật. Cân bằng nguồn lương thực động vật và thực vật sẽ là một tác động không nhỏ trong việc giảm thiểu việc phát thải khí Carbonic;
- Phải chăng, đã đến lúc chúng ta cần phải xét lại thói quen và cung cách ăn uống của chúng ta nhứt là đối với những người sống trong những quốc gia có nguồn lương thực dồi dào và ăn quá nhiều “thịt” như ở Hoa Kỳ?
- Một gợi ý khác nữa là, nếu chúng ta không giảm thiểu được nguồn phát thải khí CO2 vào bầu khí quyển do điều kiện đặc thù của từng quốc gia, một giải pháp khác được nêu ra là “làm nguội trái đất bằng cách đưa vào bầu khí quyển một lớp mây tinh thể – Salt crystal clouds…để ngăn chận bớt tia sáng mặt trời do hiện tượng phản chiếu gây ra. Đây là một ý tưởng độc đáo của một số khoa học gia nghiên cứu về neo-energie (năng lượng mới). Từ đó, trái đất sẽ bớt…nóng lên!
Chừng ấy suy nghĩ thiết nghĩ cũng quá đủ cho các lãnh đạo toàn cầu và những nhà khoa học có viễn kiến của nhân loại suy gẫm.
Còn riêng đối với mỗi người trong chúng ta, với tư cách của một người dân toàn cầu, ý thức bảo vệ môi trường cần phải phát xuất từ trong TIM và hành động do Ý CHÍ, chứ không qua …LỜI NÓI!
Mai Thanh Truyết
Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam – VAST
Chuẩn bị cho COP 26 – 11- 2021
Desire – Lý Thuyết Ham Muốn -Mai Thanh Truyết
Desire – Lý Thuyết Ham Muốn
de·sire

dəˈzī(ə)r
Danh từ: Một cảm giác mạnh mẽ “muốn có” một cái gì đó hoặc “mong muốn” một cái gì đó xảy ra.
Động từ: Ham muốn mạnh mẽ trong việc “cho” hoặc “muốn’ một cái gì đó.
Lý thuyết ham muốn

cho rằng việc thực hiện một ham muốn đóng góp cho hạnh phúc của một người bất kể lượng niềm vui (hay sự không hài lòng). Một lợi thế rõ ràng của lý thuyết Desire là nó có thể hiểu theo cung cách diễn đạt của Wittgenstein. Ludwig Wittgenstein là một triết gia bị ám ảnh bởi những khó khăn về cách diễn đạt ngôn ngữ, muốn giúp chúng ta tìm cách thoát khỏi một số vũng bùn mà chúng ta gặp phải trong giao tế, trong diễn đạt, và ngay cả trong suy tư…
Cung cách đó được hiểu theo “Meaning of Language” dưới đây:

Từ đó, chúng ta thấy từ ngữ DESIRE được hiểu theo từng tâm cảm, từng thể trạng của mỗi con người.
Và bài viết chỉ mong trình bày một số suy nghĩ góp nhặt cát đá, suy diễn theo suy nghĩ chủ quan của người viết nhằm mục đích chia xẻ cùng bạn đọc về một khía cạnh của tư tưởng và tâm ý.
- Desire – Ham muốn là gì?
Ham muốn – Desire, Thèm muốn – Craving, Khao khát – Longing. Những từ trên gợi ra cho chúng ta cái cảm giác thúc đẩy con người đạt được hoặc sở hữu một cái gì đó. Ham muốn là một cảm giác mạnh mẽ, xứng đáng hoặc không xứng đáng, đúng đắn hoặc không đúng đắn, thúc đẩy sự chiếm đoạt được hoặc sở hữu một cái gì đó (trong thực tế hoặc trí tưởng tượng).

Ham muốn là ở trong một trạng thái đặc biệt của tâm lý. Đó là một trạng thái tâm lý quen thuộc với tất cả những người đã từng muốn uống nước, muốn ăn một món ăn… hoặc muốn biết những sự kiện gì đã xảy ra cho một người bạn cũ. Nhưng từ sự quen thuộc đó không làm cho chúng ta dễ dàng đưa ra một lý thuyết về ham muốn. Mặc dù có sự tranh chấp trong chính mỗi ham muốn của bản thân, nhưng dù sao chúng ta cũng có thể tự khắc phục ham muốn của chính mình.
Ham muốn là một trạng thái của tâm – ý (heartily spirit) (người viết tự nghĩ ra từ ngữ nầy, không biết có đúng không, xin nhờ chỉ giáo) thường liên quan đến một số hiệu ứng khác nhau: một người ham muốn có xu hướng hành động theo những cách nhất định, cảm nhận theo những cách nhất định và suy nghĩ theo những cách nhất định.
Nếu tôi mong muốn uống trà chẳng hạn, thì tôi thường sẽ tự pha cho mình một tách trà; và nếu tôi không tự cảm thấy mình cần uống trà ngay lập tức, tôi sẽ không cảm thấy cái thôi thúc phải nấu nước sôi để pha trà… Tôi, lúc ấy sẽ thấy ý nghĩ về trà rất dễ chịu (vì không phải làm gì cả!). Từ đó, tôi sẽ thấy suy nghĩ của mình liên tục chuyển sang ý tưởng về trà. Từ đây, tôi sẽ đánh giá rằng trà có vẻ như là một ý tưởng tốt. Và như thế, như thế tiếp tục. Những hiệu ứng khác nhau này đã là trọng tâm trong tâm-ý của tôi về những nỗ lực để phát triển các lý thuyết; và đó chính là lý thuyết của ham muốn.
- Triết lý về sự ham muốn
Hiểu được ham muốn đòi hỏi ít nhất hai điều kiện:
- Thứ nhất, có một lý thuyết về bản thân ham muốn – desire itself;
- Thứ hai, có một số quen thuộc với các loại ham muốn có được – desire that there are.
Một khi nắm được một sự hiểu biết về ham muốn, chính ta có thể làm sáng tỏ một số tranh cãi chung quanh những điều ham muốn.

Lý thuyết thỏa mãn ham muốn là một dạng chủ nghĩa chủ quan về hạnh phúc theo nghĩa thông thường, theo đó, để có được một cuộc sống tốt (tốt theo suy nghĩ riêng của từng cá nhân) phải làm với thái độ của một người tạo dựng ra một cuộc sống theo lòng ham muốn của mình hơn là bản chất thực sự của cuộc sống.
Có nhiều hình thức khác của chủ nghĩa “chủ quan” (subjectivism):
- Lý thuyết mục tiêu thành tựu – Aim-achievement theories;
- Lý thuyết hiện thực hóa giá trị – Value-realization theories;
- Lý thuyết hạnh phúc – Happiness theories;
- Và một số hình thức của chủ nghĩa khoái lạc – Hedonism.
Nhưng thực sự, tựu trung tất cả những lý thuyết trên chỉ nhằm thực hiện mục tiêu của lý thuyết “hoàn tất ham muốn” – desire-fulfillment mà thôi.
Còn đối với chủ nghĩa khách quan (objectivism) thì sao?
Các lý thuyết khách quan về hạnh phúc – well-being gồm:

- Lý thuyết cầu toàn – perfectionism;
- Và lý thuyết “danh sách khách quan” – objective- list theories.
Hai quan điểm trên trái ngược với chủ nghĩa chủ quan là: – Ít nhất một số điều liên quan đến bản chất tốt hay xấu (pro/con – attitudes) đối với chúng ta về căn bản nhưng không liên quan đến thái độ của chúng ta. Sự “hoàn tất ham muốn” cũng đóng một vai trò trung tâm trong một số lý thuyết về hạnh phúc, trong đó kết hợp lại các yếu tố chủ quan và khách quan.
Vì vậy, lý thuyết thực hiện ham muốn ngày nay chắc chắn là một trong những lý thuyết hàng đầu về hạnh phúc.
Một số nhà triết học coi “lý thuyết hoàn tất ham muốn” là lý thuyết hàng đầu.
Nếu đó là lý thuyết ngự trị của thế kỷ 20 và 21, lý thuyết nầy không mang lại sự chú ý thời trước đó. Một số nhà triết học cổ đại và trung cổ hàng đầu đã đưa ra quan điểm để từ chối nó. Ví dụ, trong Plato’s Gorgias (C. 380 BCE), chính Callicles, một đệ tử của Socrates đã khẳng quyết rằng:”Ông, người thực sự muốn sống nhằm cho phép những ham muốn của mình được đánh bóng tối đa (he who would truly live ought to allow his desires to wax to the uttermost).
Trong De Trinitate (C. 416 C.E.), Thánh Augustine đã thảo luận ngắn gọn về ý tưởng “tất cả đều được ban phước, bất cứ ai cùng sống như nhau” (all are blessed, whoever live as they will). Augustine tiếp tục khẳng quyết, tuy nhiên, lòng ham muốn (hoặc ý chí) đó là điều tối thiểu của sự cần thiết cho hạnh phúc.
- Các căn bản trong việc/sự ham muốn
- Như vậy, thực sự ra, lòng ham muốn có căn bản nơi đâu và là gì?

• Sự chấp nhận, nhu cầu cần được chuẩn duyệt – Acceptance, the need for approval.
• Sự tò mò, nhu cầu học hỏi – Curiosity, the need to learn.
• Nét ăn uống, nhu cầu thực phẩm – Eating, the need for food.
• Gia đình, nhu cầu nuôi con – Family, the need to raise children.
• Danh dự, sự cần thiết phải trung thành với các giá trị truyền thống – Honor, the need to be loyal to the tradition values.
• Chủ nghĩa lý tưởng, sự cần thiết của công bằng xã hội – Idealism, the need for social justice.
• Độc lập, nhu cần cần thiết cho mọi cá thể – Independence, the need for individuality.
• Đặt hàng, nhu cầu cho (mọi việc) có tổ chức và ổn định – Order, the need for organized, stable,
- Và một số ham muốn nguyên thủy (primal desire) của con người là gì?
- “Sống còn”: Sống một cuộc sống bền lâu và khỏe mạnh – Survival: Live a long and healthy life.
- Bảo vệ: An toàn, chăm sóc và bảo vệ cho chính bạn và những người thân yêu – Protection: Safety, care and protection for yourself and loved ones.
- Tự do: Tự do khỏi sự nguy hiểm, sợ hãi và đau đớn – Freedom: Freedom from danger, fear and pain.
- Tiện nghi: Điều kiện sống thoải mái – Comfort: Comfortable living conditions.
- Niềm vui: Thưởng thức đồ ăn, đồ uống và trải nghiệm – Pleasure: Enjoy food, beverages and experiences.
- Ham muốn thâm sâu nhứt của con người là gì?

Ham muốn thâm sâu nhất (deepest desire) của bất kỳ con người nào là được Yêu Thương và được Trân Trọng.
Không có ai trên thế giới này không muốn được xem là đẹp đẻ hay tài giỏi hết.
Sẽ không có ai phải nhăn mặt (frown) khi được nghe “I love you” đến từ của miệng của người mình thương hết!
- Ham muốn mạnh nhứt (strongest) của con người là gì?
TS Erica Goodstone nhận định rằng:”Ham muốn tình dục là thứ ham muốn mạnh mẽ nhứt của con người. Khi được thúc đẩy bởi năng lực của ham muốn này, quý ông và quý bà phát triển một số phẩm chất đáng kinh ngạc, bao gồm nhãn quan và trí tưởng tượng, lòng can đảm và ý chí cùng khả năng kiên nhẫn liên tục bất chấp mọi trở ngại và khó khăn” (visualization and imagination, courage and willpower and ability to persist in spite of all obstacles and difficulties).
e- Như vậy, có phải ham muốn có nghĩa là tình yêu?

Tình yêu là ham muốn, không có định nghĩa nào khác hơn nữa… Đối với một số người, đó là sự đáp lại tình cảm của họ, một số người khao khát được gần gũi với người yêu. hoặc người mình yêu. Nhưng cũng có vài ngoại lệ, là ai đó nghĩ rằng “có thể chỉ muốn người mình yêu hạnh phúc mà thôi, không cần thiết để được đáp lại” (tình yêu đơn côi chăng?)
Chỉ có những người dối lòng là những người nói
rằng tình yêu đích thực không có ham muốn!
- Ham muốn có ý nghĩa gì trong Phật giáo?

Trong Phật giáo, dục vọng, vô minh, và chấp ngã nằm ở gốc rễ của mọi đau khổ. Theo dục vọng, Phật tử đề cập đến tham ái, vật chất và bất tử, tất cả đều là những ham muốn không bao giờ có thể được thỏa mãn cho mỗi con người.
Làm thế nào để một Phật tử thoát khỏi phải “chấp ngã”?
Có vài thực tiễn dưới đây để cho mỗi chúng ta cùng suy nghiệm nhằm “bớt đi” tính chấp ngã của chính mình:
* Thiền – Meditation: Thiền chỉ đơn giản là ngồi yên và cố gắng chú ý đến thời điểm hiện tại cho dù đó là hơi thở của bạn, cơ thể bạn hay những gì đang xảy ra xung quanh bạn ngay bây giờ;
* Từ bi – Compassion;
* Sự phụ thuộc lẫn nhau – Inter-independence;
* Chấp nhận – Accepting;
* Mở rộng – Expansiveness.
5-Tam giác vàng
Điều gì là tuyệt vời về tam giác này?
Thực sự nó có ý nghĩa gì?
Một số người thành công nhứt đã theo hướng nầy và họ thành công vì “Năng lực của một tư duy tuyệt vời”.

Cuộc hành trình đến tam giác vàng bắt đầu với Ham muốn – Desire. Đó là sân ga từ nơi con tàu vận mạng bắt đầu lăn bánh. Con tàu sẽ dừng lại sau mỗi trạm và những người không có đủ kiên nhẫn sẽ rời khỏi tàu. Còn những người ở lại là người có đức tin (tùy theo suy nghĩ của bạn, có thể là đức tin (faith) mà cũng có thể là niềm tin (believe). Đây là một thuộc tính quan trọng thứ hai để thành công.
Trong sự so sánh nầy, Đức tin kiên định – Consistent Faith và Khát vọng – Desire vững chắc chuyển Tâm Ý thành Hành động – Action.

Hành động giúp chúng ta tăng thêm ham muốn. Kết quả của Hành động làm cho Đức tin mạnh mẽ hơn và thêm một lần nữa, Hành động được tăng thêm, và từ đó tiếp tục mãi mãi Hành động.
Phản ứng dây chuyền không kiểm soát của hành động này sẽ đưa chúng ta đến nơi chúng ta thực sự thuộc về… (actually belong).
- Thay lời kết
Quý bạn vừa thả lòng với những định nghĩa, nhận đình cùng suy diễn hết sức trừu tượng về một danh từ hay động từ “Desire” tạm dịch là “Ham muốn” từ những suy nghĩ của các triết gia cho đến suy nghĩ của đời thường trong cõi ta bà nầy.
Để rồi bạn chuyển qua một vài suy diễn trong tinh thần Phật giáo…
Người viết không dám nói thêm nhiều nữa, chỉ mong mỗi người trong chúng ta nhìn về, nghĩ về “Ham muốn” trong chiều hướng nào?
Và dù trong chiều hướng nào đi nữa chỉ mong Quý Bạn vẫn còn tỉnh táo để biết chính mình:
- Đang nghĩ gì?
- Đang làm gì?
- Và suy nghĩ gì, làm gì đó có thích hợp với đạo lý của “Đời thường” không?
Xin chia xẻ vài suy nghĩ cùng Bạn trong mùa chay tịnh của Thiên Chúa giáo và mùa “cách ly tự nguyện” vì cô Coronavirus.
Và đây cũng là những suy nghĩ mà chính người viết cũng cần suy gẫm!
Phổ Lập Mai Thanh Truyết
An Nhiên Tự Tại
Houston, 26/3/2020
Phụ chú:
Kính Thưa Anh Truyết và các Anh Chi Em,

Bài viết anh phân tách về sự Ham Muốn rất hay. Tôi xin góp một chút ý kiến. Sau khi tất cả diễn biến về những thể loại ham muốn, thì chính ta nhìn lại chính mình, những ham muốn đó có đạt hiệu quả hay không, có khi được, nếu sự ham muốn đó trong tầm tay, có khi xa vời vì quá to lớn viển vong, có khi vì cái ta muốn thắng vì tự ái cá nhân.
Nói chung tất cả ham muốn đó do ta tự vẽ ra để trở thành một mục đích mà ta phải thực hiện dù tốt hay xấu.
Vậy làm sao sống cho có những mục tiêu tốt, chính là ta phải tự nhìn lại trong ta, vì ta muốn cái này, muốn cái kia, nói chung muốn đủ thứ trên đời, khi không đạt được thì phiền muộn, bất bình, hoặc đau khổ.
Như lời Phật dạy đó là Tham, Sân, Si. Những thứ đó chỉ là trừu tượng và viễn vong, nhưng nếu không có Ý muốn đó, chúng ta sẽ đứng giữa ngã ba đường, mà ta phải chọn một con đường để đi.
Vậy ta phải vạch ra con đường, sao cho dung hòa . Đó là một con đường chính giữa không có dính mắc hai bên.. Phải luôn nhìn lại chính mình, cảnh giác cái ham muốn thắng, mà phải quên mình nghĩ đến cái chung trong hiện tai.
Tôi đã luôn suy nghĩ ( đó cũng là cái ta xấu xí) tai sao ta có mặt trong đời này, tai sao ta không là cây cỏ, con chim, cái kiến , hoặc là, người giàu có, hoặc nữ hoàng hay là những người nổi tiếng. Vậy thì cuộc sống này phải có lý do, mổi người mổi nhiệm vu, có trách nhiệm phải chu toàn đối với cha me sinh ra ta, với gia đình ta đang có mặt, lo cho con cái cháu chắt trong tương lai. Và với xã hội ta đang sống. Tai sao mình không sanh trong một nước khác mà mình sanh trong nước Việt Nam, vậy ta cũng có trách nhiệm đối với tổ quốc,
Ta phải làm tất cả những gì trong đời này với tất cả lòng biết ơn, đã cho ta có cuộc sống có ý nghĩa, dù có phong ba bão táp, và vui sống. Nếu những ai đã từng đi vượt biên, sẽ hiểu được cái chết trong tích tắc giữa đai dương mênh mông không bến bờ. Hoặc đi máy bay nhìn xuống thấy con người mất hút trong quả đất.Trời đất bao la , ta chỉ là một sinh vật nhỏ bé trong vũ trụ .
Chúng ta cũng may mắn là sanh ra được toàn vẹn, không tật nguyền, còn biết suy nghĩ phải trái, nếu không may sanh ra mà bị chứng bệnh vô não ngẩn ngơ thiếu hiểu biết, thì chúng ta sẽ ra sao. Chúng ta lai được các đấng vĩ nhân hướng dẫn tâm linh biết nhân quả nghiệp báo, giống con rùa mù mà gặp bọng cây, đã mù làm sao thấy được bọng cây, Quả là may mắn. Chúng ta sanh ra không tự chọn, chúng ta chết đi cũng không biết được ngày.
Vậy chúng ta hôm nay gặp nhau đây là một cái duyên hanh ngộ thật đáng vui mừng, nên chúng ta phải quý trọng lẫn nhau.
MAI THANH TRUYẾT
CÓ NÊN KẾT ÁN TỬ HÌNH NHỮNG TRỌNG TỘI KHÔNG??? – Cựu GS LÊ THỊ NGUYỆT ÁNH

LUẬT PHÁP đặt ra là để bảo vệ AN NINH, giữ gìn TRẬT TỰ, bảo vệ QUYỀN LỢI Con Người với Con Người, bảo vệ MẠNG SỐNG và TÀI SẢN của cá nhân và cộng đồng Gia Đình, Quốc gia và Quốc tế.
Những người đứng ra cầm cán cân Công Lý, là Đại Diện Công Lý, là nhân danh Công lý, bao giờ cũng nên Nghiêm minh, Chính trực, Công Bằng, Vô tư phán xét những ai vi phạm luật lệ Nhà Nước đặt ra, cũng chính là để hướng dẫn, giáo dục Con Người cả nước đến với CHÂN THIỆN MỸ.
Theo hình luật, ngoài những tội do từng quốcgia qui định còn có những tội sau đây mà không quốc gia nào dung chế, tha thứ cho được, mà còn kịch liệt bài trừ với hình phạt nặng nề gắt gao. Đó là: ‘Tội Giết Người’ (Sát Nhân), ‘Tội Hiếp Dâm’ và ‘Tội Buôn Bán Ma Túy’, ‘Hẻroine’, vì nó giết chết mạng sống, giết chết cả tương lai, cuộc đời của Con Người, nên không một quốc gia nào trên trái đất này chấp nhận được!
Tất cả, ai ai cũng đều ‘Muốn Sống’, Không-Ai-Muốn-Chết, nhất là Bị-Giết-Chết, Bị-Tước-Đoạt-Mạng-Sống, Bị-Sát-Hại!!!
Vậy tại sao chính ta Muốn Sống, Không-Muốn-Bị-Giết-Hại mà lại đi ‘Bức Tử’, Tàn Sát Người khác?!
“Điều gì ta không muốn người khác làm cho ta thì ta không nên làm cho người khác”! Thế mà:
1/ Ai ai cũng vui thích đồng ý đón nhận châm ngôn này, nhưng, trên thực tế, hình như có ít người thực hiện ĐÚNG theo, mà đa số thì lại thản nhiên gây-tạo-cho-người-khác-những-gì-chính-bản-thân-không-muốn-người-khác-làm-cho-ta!
2/ Đến như cả các vị phán quan, các quan chánh án cầm cân nẩy mực, ngồi ghế xét xử, khi luận tội những trường hợp như ‘Giết Người’, ‘Hiếp Dâm’, ‘Buôn Bán Ma Túy’ là những ‘Trọng Tội Khó Tha Thứ’ được mà lại như vô tình thản nhiên tuyên “Án Tử Hình” họ!!! Có những trường hợp Giết Người, hay Buôn Bán Ma Túy, cảnh ngộ rất thương Tâm mà các quan không lý tới!
Sao lạ vậy, khi mà theo Luật pháp: “Dù dưới hình thức nào, dù bất kỳ nguyên nhân gì, cũng không ai được quyền tước đoạt sinh mệnh của bất kỳ ai!”
3/ “Khó thể tha thứ được” đâu có nghĩa là phải ‘Giết Chết Kẻ Phạm Tội’, như họ đã giết chết ai đó?!
Chẳng lẽ không có hình phạt nào dành cho những kẻ ‘Trọng Tội’ khó thể tha thứ được, khiến họ phải đau đớn thống khổ, bi ai, thê thảm nhứt là sự dày vò, ân hận về tinh thần vì tội ác họ đã gây tạo cho người khác, và làm liên lụy đến nhiều người phải khốn khổ theo, là gia đình ‘bị cáo’ và gia đình nạn nhân ‘nguyên cáo’, khiến cho họ, có người phải Sống-Không-Bằng-Chết’ hay sao?! Hình phạt đó không đáng sợ gấp trăm ngàn lần hơn hình phạt họ hải sợ chỉ có mấy ngày, mấy tháng, hay mấy năm, nhất là chỉ một thoáng mấy phút trước giờ ‘Hành Hình’ thôi sao?!
4/ Vả chăng, có thể đó là án OAN!!! Nếu xử tử rồi, về sau có cơ hội nhắc đến, thẩm tra lại, biết họ đã ‘Bị OAN’ thì làm sao cứu chữa ‘SAI LẦM’ vì đã giết họ chết rồi ?!
5/ Và, nếu kẻ có tội chí tình ‘Ăn năn, Sám hối’ tội lỗi họ đã gây tạo, và họ có thể ‘Đới Công Chuộc Tội’ xứng đáng, thì không phải là đáng tiếc lắm sao?!
Con Người có ai mà không từng phạm những điều Sai Trái, Lỗi Lầm, dù nhẹ dù nặng?!
Điều quan trọng là họ Biết-Nhận-Lỗi-Tội của họ, nhận sự ‘Sai Lầm’, và Biết-Ăn-Năn, Hối cải Lỗi Tội của họ! Đó không phải là điều dễ dàng mà ai cũng dũng cảm làm được!!!
Và một khi họ đã không hèn nhát mà can đảm nhận Tội, không trốn tránh, thì sao lại không-giúp-họ-có-thời-gian, cho-họ-có-cơ-hội-để-Ăn-Năn-Cải-Hối-Sữa-Đổi, Đoạn trừ Dứt Lỗi Tội?!
6/ Thưa rằng:’Nếu Giết họ Chết Đi rồi, thì chủng tử Xấu Xa, Độc Ác, Hung Dữ, Nguy Hại đến thế nào đó, sẽ chấm dứt , chứ không phải sẽ vẫn đeo đẳng theo họ suốt từ kiếp này đến kiếp khác sao?! Họ sẽ mãi mãi vẫn còn là người cùng hung cực ác, họ vẫn còn cứ gây bao tai họa cho biết bao người, cứ gây tạo thảm kịch triền miền, biết bao giờ mới chấm dứt, nếu không tạo cho họ có cơ hội để họ thắm thía nỗi thống khổ do ‘Tội Ác’ của họ, để Giúp Họ Tĩnh Thức để Ăn Năn , Sữa Đổi, Đoạn trừ Lỗi Tội ?!
“Nhứt nhựt VÔ THƯỜNG tại,
“Phương tri mộng lý nhân.
“Vạn bang đô bất khứ,
“Duy chỉ “NGHIỆP” tùy Thân!”
Một mai Tử Thần đến,
Mơ màng biết về đâu?!
Vạn nơi khó thể cầu!
Họa Phước mãi dính “Thân”!
7/ Đã nhân danh Công Lý, là đại diện cho Công Lý trừng phạt, ngăn ngừa những kẻ ‘PhạmTội’, dù là những tội nặng đến thế nào, như ‘Tội Sát Hại Người’, thì nên chí công và ‘vô tư’ xét xử. Cho điều tra chu đáo: vị tất, không một trường hợp nào mà Kẻ Bị-Hại (‘nguyên cáo’) không có Lỗi, kèm bên ‘Tội’ của kẻ phạm Tội (‘bị cáo’)! Nếu đúng vậy thì cả hai đều phải bị thẩm xét, bị bị ‘luận tội’ và phải bị ‘trừng phạt’, nếu có thể được thì cũng nên giảm án cho phạm nhân, Không nên ‘Bức Tử’?!
8/ Những ‘Tội về Chính trị’, thuộc An Ninh Quốc gia: Người Phạm tội nặng, nhẹ thế nào đó, thì do họ có lập trường, có chánh kiến, có hoài bão, ước vọng, lý tưởng của họ, hoặc có thể do họ bị quyến rủ, bị ép buộc, bị khống chế…!
Trên đời, “Không Ai Hoàn Toàn” (“Nul n’est parfait ici-bas”) thì “cũng Không Có Tư Tưởng nào, Lập Trường, Chủ trương, Quan niệm, Chánh kiến, Chế độ, luật lệ nào v.v…’Hoàn Hảo’ hết! Có phải vậy không?! Tốt có, thì Xấu cũng có; Đúng có, Sai Lầm cũng không tránh khỏi; có ích lợi cũng có tai hại; có ưu điểm thì bên cạnh cũng có khuyết điểm. Hể có ‘quân tử thì cũng có ‘Tiểu nhân’ một bên! Cũng như có “Dương” thì cũng có “Âm”, không bao giờ thiếu mất một trong hai.
Vậy thì tại sao chúng ta bắt buộc người khác phải chấp nhận theo chủ trương, lý tưởng v.v..của ta mà không được thực hiện lý tưởng của họ, cho là họ SAI, họ LẦM ?!
Tại sao ta cho rằng ta ĐÚNG, người khác SAI? Cũng như “5 người Mù xem VOI”! Mỗi người chỉ rờ vào để quan sát một phần nơi cơ thể Con Voi mà thôi! Thế rồi người nào cũng quả quyết cho rằng mình diễn tả hình dáng Con Voi Rất Đúng, rất chính xác, còn tất cả những người khác đều SAI bét?!
Hóa ra Ai cũng Đúng, theo sự nhận xét, hay theo kinh nghiệm cá nhân mỗi người, nhưng mà là SAI theo tổng thể, theo nhiều phương diện, nhiều khía cạnh, nhiều mặt, mà vì chưa rõ biết, chưa thấy, chưa từng trãi?!
Nếu thấy họ quá-nguy-hiểm-cho-chế-độ của mình, cho sự lãnh đạo, cai trị, lèo lái Con Thuyền Quốc gia mà mình đang đảm trách, thì tại sao không-Giam-Cầm-Họ lại mà lại ‘sát hại’?!
Và kiên nhẫn dùng chính sách NHÂN ĐẠO, để cảm kích, để lôi cuốn, để họ tâm phục khẩu phục ?!
Nếu không thành công đi nữa, thì cũng Nên-Tôn-Trọng-Ý-Chí, Quyền-Tự-Do-Của-Con-Người, Sự Dũng Cảm của họ.
Vậy thì cứ Giam-Cầm-Họ-lại, đối xử tử tế, nhân đạo, để cảm hóa, cho đến khi nào có thể trả lại Tự Do cho họ, không được sao?! Lại còn sẽ gây ảnh hưởng Tốt Đẹp sâu sắc cho Chế độ. Tiếng đồn Lành sẽ vang xa, và sẽ không vô tình ‘Làm Hư Hỏng Chế Độ !
Dù cho có Thất Bại , không thu phục được họ thì vẫn lưu được ‘Tiếng Thơm Tiếng Tốt’ muôn thuở trong sách sử! Có vậy mới đúng là có Chánh Nghĩa!
Và Chánh Nghĩa, Công lý bao giờ cũng thắng!
9/Huống chi, Công Lý, là cái lý công bằng, là phải Chí Công, Vô Tư.
Chí là hết sức, là rất, Công là công bằng, công minh, công chính, không thiên vị, không nghiêng lệch bên nào! Chí Công là Rất-Rất-Công-Bằng, không thiên vị một ai.
Vô là không, tư là tư lự, là tư tưởng, nghĩ ngợi. Vô Tư là không tư tưởng lung tung, không nghĩ ngợi đủ điều lợi hại, là hồn nhiên, trong sáng, không có điều gì vẫn đục, mờ ám, khuất lấp …..
Một khi đã Bất Bình, Không Thể Chấp Nhận Cái Việc Tước Đoạt Sinh Mệnh của Bất Kỳ người nào, thế thì vị Thẩm Phán nếu tỉnh bơ tuyên bố ‘Xử Tử’cái người đang bị xét xứ, ‘Dứt Bỏ Mạng Sống’ của họ thì không phải là mâu thuẩn hay sao???!!!
Vì một khi đã Phẩn nộ, đã hết sức bất bình hành vi cùng hung cực ác của Kẻ Sát Hại Nhân Mạng người khác, họ đã nhúng Tay vào Máu, tước Đoạt Mạng Sống của Người khác, thì vị Quan Tòa phải hành động khác họ: Nếu “Xử Tử Hình” người tội nhân ấy, thì không phải đã ‘Ra Tay’ giống y tội nhân đã làm rồi?! Thì chẳng khác nào một người cha thường hay rầy la phản đối kịch liệt người con chớ có “cờ bạc”, rượu chè, mất hết tư cách Con Người, mà người cha thì ngày nào cũng ‘Ghi Số Đề”, và hay được bạn bè mời đi “nhậu lai rai” giải sầu là sao? Thế thì có dạy răn được người con hay không?!
Vậy thì, hóa ra “Chẳng có ai được phép, được quyền “Giết Chết” ai, mà chỉ có Quan Tòa, nhà lập pháp, và nhà lãnh đạo Nước MỚI CÓ QUYỀN “XỬ TỬ” người này người nọ thôi?!
Luật Pháp đặt ra là để giữ gìn an ninh trật tự trong nước, là để giáo dục toàn dân, dù chức vị lớn cở nào thì cũng phải xử tội, nếu có tội, để ‘Làm Gương” mà không bỏ qua, không tha thứ Lỗi Tội.
Đó cũng là bổn phận, là trách nhiệm và cũng là quyền lực của Nhà Lãnh đạo Nước, người quyết định cuối cùng ( là Vua, là Tổng Thống, là Chủ tịch Nước).
Cho nên, ‘Nhà Cầm Quyền’ tức ‘Chánh phủ’, nói chung, nhà Lập Pháp và Quan tòa, nói riêng, ‘Không-Kết Án-Tử-Hình dù ai có ‘Trọng Tội’ nào, thì có nghĩa là Tha-Tội-Chết , mà Bắt-Tội-Sống, là “Giam Cầm lại”! Đó là một sự trừng phạt nặng nề, đau khổ nhứt!
“Nhứt nhựt tại ‘Tù’, thiên thu tại ngoại!”
THA CHẾT là THA-KHÔNG-GIẾT-CHẾT, chứ không phải THA-KHÔNG-BẮT-TỘI mà phải Xử TỘI đã làm! Và tùy theo cách gây tội mà ra hình phạt.
Chỉ trừ trường họp “BỊ CÁO” không có LỖI TỘI , hoàn toàn do nguyên cáo. hay rủi ro thế nào đó, thì bị cáo mới được TRẮNG-ÁN.
10/Đã là NGƯỜI thì AI cũng có QUYỀN SỐNG! Và tất cả ai ai cũng đều CÓ-QUYỀN- TỰ-DO! Vì TỰ DO là cái QUYỀN THIÊNG LIÊNG CAO QUÝ NHẤT CỦA CON NGƯỜI !
Con Người mà MẤT ĐI QUYỀN TỰ DO rồi, tức là BỊ TƯỚC ĐOẠT “QUYỀN ĐƯỢC SỐNG” theo Ý Muốn của mỗi người, không-Được-Tự-Mình-Làm-Chủ-Lấy-Mình, Bị khống chế , bị câu thúc, bị bắt buộc nhất nhất phải làm theo lệnh, theo ý người khác, là-bị-tước-đoạt-QUYỀN-LÀM-NGƯỜI, thì còn gì đau đớn, thống khổ, bi ai, cực nhục cho bằng !
Thì Con Người đó chẳng khác gì một ‘CON VẬT”, thì không phải là đáng thương tâm lắm lắm sao?! Họ làm sao sống có Ý Nghĩa, Sống Đẹp, Sống Vui, Sống Hiên Ngang, Hùng Dũng ?!
Không-một-ai-có-quyền-Tước-Đoạt ‘Quyền TỰ DO’ thiêng liêng cao quý của bất kỳ ai! Phải vậy không?! Không ai có quyền Bắt-Buộc-Ai-Phải-Sống-Theo-Ý-Của-Ai! Chỉ trừ khi nào:LÀ KẺ CÓ TỘI, Nặng, Nhẹ, tùy theo đó mà Giam Cầm, lâu hay mau! Huống hồ họ còn bị hành hạ khổ sở thế nào đó về thể xác cũng như tinh thần, thì há không phải là họ sẽ Sống-Đau-Thương, Thống-Khổ, Tũi-Nhục, Sống-Không-Bằng-Chết hay sao?! Cần gì phải “Giết Chết”!
Nếu suy gẫm cho cùng, chính những kẻ sát nhân, hại người tàn ác thì chính những kẻ đó mới là những Con Người khốn khổ đáng thương. Vì họ còn quá Mê Muội nên mới Thấp Kém, mới Hung Ác. Để rồi, họ sẽ phải ‘Đền Tội’, phải chịu ‘ Quả Báo’ cho việc tàn ác họ đã làm! Và họ sẽ còn thê thảm hơn những người đã bị họ làm khổ! “Ác nhân Ác Báo” không tránh đâu cho khỏi, dù họ có được tha thứ cở nào, họ cũng không tránh được luật “NHÂN QUẢ”, nói nôm na là “Lưới Trời”. Người thế gian dù có xử phạt thế nào vị tất cân xứng với hình phạt của họ phải thọ lãnh!
11/ Có điều, tôi cứ lấy làm lạ và thấy thật đáng tiếc! Vì nghĩ, quý giới chức lãnh đạo quốc gia, đại diện nhân dân, cầm quyền, lèo lái con thuyền quốc gia, và các vị Chánh án, các quan tà, là người đại diện Công Lý, là những người có quý tướng, có địa vị cao sang quyền quý trong xã hội, được mọi người trọng vọng nể kính, thế mà chỉ vì những kẻ ‘Có Tội’ mà lại vô tình khiến tự bản thân bị lôi cuốn theo ‘Kẻ Ác Dữ’, và điềm nhiên tọa thị một cách vô tư vô lự ‘tự Chiêu Lấy Tội Ác’ khi bất bình mà lên ‘án Tử Hình’, buộc kẻ Có Tội Phải Chết (!) là vô tình tự chiêu lấy Sự Nghiệt Ngã cho chính bản thân mình! Một khi ‘Tuyên Án TỬ’, tức là ra lệnh ‘GIẾT CHẾT’, ‘BỨC TỬ’, để rồi phải mang TỘI BÁO thảm hại về sau, thì chẳng phải là đáng tiếc lắm sao?!
Sao lại để phải đến nỗi như vậy?!
Là người-Vô-Can, sao lại đi Gánh-Lấy-Cái-GÔNG-Vào-Cổ, ôm lấy nỗi đoạn trường cho tự thân về sau này?!
Họ GIẾT NGƯỜI, quan tòa đứng ra xét xử, để đem lại ‘An ninh’, ‘Trật tự’ cho xã hội, đem lại sự Bình An cho người người, và hướng Con Người về với CHÂN THIỆN MỸ, mà sao Ra-cái-Lệnh “PHẢI GIẾT CHẾT”, là “Tước Đoạt Mạng Sống của Một Người”, chứ đâu phải bảo giết con heo, con gà, con chó, con dê…cũng có ‘Tội báo’ nữa mà!
Vậy thì không phải chính’Quan Tòa’, hay Chủ Tịch Nước, hay Tổng Thống, bị cuốn hút theo kẻ-có-tội nên tỉnh bơ phạm đúng y theo vào cái ‘sự-Giết-Người’, và vô hình chung trở thành là “Người-Sát-Nhân” kế-tiếp theo sau kẻ ác dữ đó hay sao?!
Không phải vậy sao?!
Sao lại thế hỡi quý quan tòa, hỡi quý vị lãnh đạo quốc gia các nước?!
12/ Không ai phản đối các nhà lãnh đạo nước (Vua, Nữ hoàng, Thổng Thống, Chủ tịch Nước) , thế nhưng mà, theo như Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni đã từng khuyên nhủ chúng sinh rằng: “Trồng Dưa được Dưa. Trồng Đậu được Đậu” . Nếu làm điều lành, tốt, thiện hảo đem lại an vui sung sướng, hạnh phúc cho người khác, thì sẽ được hưởng PHƯỚC BÁO. Còn nếu trái lại, gieo rắc đau thương khổ não cho ai, thì rồi, dù vì bất kỳ lý do gì, một ngày nào đó, sẽ phải hứng lấy TAI HỌA, tức là phải chịu TỘI BÁO, phải ‘đền Tội’ đã gây tạo mà thôi!
“Không nên “BẤT MUỘI NHÂN QUẢ!”
Đó là LUẬT BÁO ỨNG, là LUẬT NHÂN QUẢ, là gieo ‘Nhân’ nào thì gặt ‘Quả’ đó!
Có ai gieo hạt xoài Cát Chu mà lại gặt hái được trái Xoài Cát Hòa Lộc không?! Và một khi một hạt xoài, mít, xoài riêng …chi chi đó, gieo xuống rồi ( gieo ‘hạt’ là gieo‘NHÂN’ ) thì có bao giờ vài ngày hay vài tháng sau là thu hái được quả mít, trái xoài v.v…để ăn được liền không, mà không phải chờ đợi đủ ngày tháng, tùy loại, mới ra hoa, rồi mới kết trái , rồi lại phải chờ thời gian để trái già, chín, mới thu hoạch được sao ( hái ‘trái’ là được‘QUẢ’ )?!
Cũng vậy, một khi làm việc Thiện Lành, hay điều Ác Dữ, thì cũng phải chờ một thời gian, tùy việc, phải hội đủ nhân duyên mới được thọ hưởng ‘Phước báo’ (việc Lương thiện ) đã làm, hay gặp khốn khổ thế nào đó (Tai ách, Hoạn họa) phải chịu ‘Tội Báo’ để đền lỗi tội đã làm! Nếu chưa thấy được thọ hưởng ‘Phước’ chi, hay chưa bị trừng phạt, bị ‘Họa, Tai’ chi, nên cho rằng là không có ‘Phước Báo’ hay ‘Tội Báo’ chi hết, nên không hãi sợ, nên cứ điềm nhiên tác ác túa xua, thì không phải là MÊ LẦM lắm sao?!
“Trước khi làm việc gì thì phải nghĩ đến kết quả của nó”. Đức Phật đã dẫn dắt Con Người nên dùng lòng Từ Bi Nhân Thiện đối với nhau, để người người được Sung Sướng, An Vui. Ta đem sự sung sướng vui vẻ bình an đến cho người thì người cũng đối lại với ta như vậy, tức là ta cũng sẽ được An Lành, được HƯỞNG PHƯỚC! Làm trái ngược lại, chỉ gieo đau khổ, tạo nhiều nỗi đoạn trường cho ai thì sẽ bị ĐỀN TỘI đã gây tạo, phải KHỐN KHỔ, gặp lắm HỌA TAI, còn khổ hơn họ nhiều. “Gieo Gió thì gặt Bảo!”
Như đức Chúa JÉSUS CHRIST đạo Công giáo, đã từng khuyên, từng dẫn dắt các ‘Con Chiên’, tín đồ của Đức CHÚA rằng: “Hãy tra gươm vào vỏ, Những kẻ ‘Dùng Gươm’ thì sẽ phải CHẾT ‘Vì Gươm’!”.
Thế thì không phải Đức Chúa đã khuyên răn Con Người nên có lòng ‘Bác ái’ đối với nhau sao? Là ‘Không nên tàn sát nhau, giết hại nhau sao? Vì ‘Giết Người’ thì sẽ bị ‘ Người Giết’ lại!
ĐỨC KHỔNG TỬ cũng đã khẳng định : “SÁT NHÂN GIẢ TỬ!”” Đạo TIN LÀNH, cũng là Đạo tôn thờ kính ngưỡng Đức CHÚA JÉSUS CHRIST. Đặc biệt đã cho thành lập “Thành Trú Ẩn”! Đấy là nơi dành cho những người phạm TỘI NẶNG như “GIẾT NGƯỜI”, thì phải mau mau chạy đến ẩn trú nơi ‘cái Thành’ đó, để khỏi-bị-GIẾT-CHẾT! Chả lẽ Đức Chúa Trời lại đi che chở, bảo vệ ‘kẻ Ác dữ’?!
Thế nhưng, nơi đây có các vị mục sư hằng ngày chí thành giáo dục về Tâm Linh, khiến cho người tội phạm ý thức được TỘI LỖI của mình mà ĂN NĂN, mà thành tâm SÁM HỐI, SỮA ĐỔI, CHỪA BỎ những thói hư tật xấu, biết Kềm Chế lòng Tham Sân, chịu XẢ BỎ nỗi ai oán, mà dứt trừ sự hung ác v.v… và là để “CHỜ-GIỜ-PHÁN-XÉT”, khỏi nhọc công tìm kiếm truy bắt ! ,là để họ chờ đợi nhận lãnh hình phạt theo tội lỗi họ đã gây ra, chứ không phải là Đức Chúa bao che kẻ có tội,’THA TỘI’ họ!). Thành Trú Ẩn này có mục đích cao cả như vậy là do noi gương ‘Bác Ái’ cao cả của Đức CHÚA JÉSUS, là người vì lòng thương xót Con Người, muốn CỨU CHUỘC TỘI LỖI cho nhân gian nên đã dũng cảm nhận chịu cực hình “ĐÓNG ĐINH TRÊN THẬP TỰ GIÁ”, để phải CHẾT Đi SỐNG Lại bao phen! Và cuối cùng NGÀI đã được PHỤC SINH! Đó là kết quả của TÂM THÁNH THIỆN của Đức Chúa!
Đức PHẬT Thích ca Mâu Ni, cùng Chư PHẬT Chư BỒ TÁT đã dẫn dắt chúng sinh hãy nên dùng lòng TỪ BI ban rải. “BI thể giới Lôi chấn”! Lòng TỪ BI (ban rải Tình THƯƠNG, KHÔNG HẬN THÙ ) có thể hóa giải mọi NGUY NAN!
Cho nên nếu kính ngưỡng ĐỨC PHẬT, ĐỨC CHÚA… thì nên y giáo phụng hành, nên đem lòng TỪ BI, BÁC Ái đối xử với nhau, Không-Nên-Làm-Khổ-nhau, Tàn-Sát nhau!
“TỪ BI và BÁC ÁI” là sự mềm dẽo của Tình Thương, của sự Nhẫn Nại, của sự HIỂU BIẾT.
13/ Những người xấu ác, không thể làm được những điều Lành Thiện, tốt đẹp, cao quý là vì họ chưa Tiến hóa được cao, tâm linh họ còn mê muội, còn ấu trỉ, không phải sao ?!
Ví như một đứa trẻ con còn ấu trỉ thể xác, mới lên 4, lên 5 tuổi. Nếu người lớn để món đồ chi trên cao, hơn vóc dáng đứa trẻ (như để trên bàn, trên kệ, trên đầu tủ) và bắt buộc đứa trẻ phải lấy cho kỳ được món đồ đó! Vậy xin hỏi đứa trẻ con ấy có vói lấy được món đồ ấy hay không, dù có nhón gót cở nào, một khi quá tầm-tay-vói của trẻ con?!
Cũng thế, một người còn ấu trỉ tâm linh, thì họ còn u tối, còn thấp kém, nên còn hèn hạ, xấu ác, còn Tham Sân, còn gian xảo, quỷ quyệt, bất nhân, bất nghĩa thế nào đó v.v…tức là tâm họ còn ‘ấu trỉ’ nên còn ‘mê muội’, chưa thanh cao tốt đẹp được!
Vì thế cho nên, họ rất cần phải được học hỏi, cần phải được rèn luyện, được un đúc, uốn nắn! Họ rất cần phải được ‘giáo dục’ để Tiến hóa lên, để trở nên ngày một tốt lành hơn; ‘Xả Bỏ’ Tâm Ác, ‘Phát’ Tâm Lành, thì họ mới được là người ngày càng thánh thiện, có nhân, có nghĩa, ít phạm Sai Trái, Sái Quấy, Lỗi Lầm, ít tạo Tội tạo Nghiệp Xấu, Ác, rổi sẽ dứt hẳn tác ác, mới làm được Người tốt đẹp, lương hảo, thanh cao.
Những ai được Tiến Hóa cao hơn, ví như người đứng trên cao, kẻ xấu, ác phải ở dưới thấp! Vậy thì người đứng trên cao (tức người Tiền hóa hơn) có nên phun nước bọt xuống người đứng dưới thấp hơn , có nên khinh khi , ghét bỏ, tức giận, phẩn nộ, có nên nhục mạ, hành hạ, người đứng dưới thấp (kém Tiền hóa!) hay không, thì nói gì đến việc “BỨC TỬ” họ, “TƯỚC ĐOẠT MẠNG SỐNG” của họ?!
Vậy có nên Từ Bỏ họ, Khử Trừ họ, Giết Chết họ không?!
Một khi người đứng trên cao (đã Tiến hóa) mà phun nước bọt, tức khinh thị nhục mạ người đứng dưới thấp thì người đứng dưới thấp (hèn hạ, xấu xa, độc ác v.v..) sẽ phải lãnh đủ sự nhục nhã, xấu xa, họ phải gục mặt tủi hổ, ai cũng chê bai khinh ngạo! Làm sao né tránh cho được?!
Và trái lại, nếu người đứng ở dưới thấp hơn mà ngửa mặt phun nước bọt lên người đứng ở trên cao hơn (tức là người có nhân, có đức), thì người càng đứng trên cao chừng nào, tức phẩm hạnh càng lớn, càng cao, thì liệu người đứng dưới thấp có phun trúng tới được người đứng trên cao hơn không ? Và ‘nước bọt ấy’ sẽ phải rơi xuống ngay từ chỗ nó đã xuất phát, phải vậy không?! Tức lả cuối cùng thì kẻ xấu xa, tồi tệ. bạc ác chừng nào thì chính họ sẽ phải lãnh đủ sự nhục nhả, sẽ phải bị khinh chê nhiều chừng ấy.
Họ sẽ phải KHỐN KHỔ thôi, theo luật ‘NHÂN QUẢ’. Đó chính là ‘LUẬT BÙ TRỪ’ (‘La Loi de Compensation’) đấy mà thôi!!!
Vậy thì, chẳng phải là:Làm điều gì thì sẽ nhận y chang điều đó hay sao, dù THIỆN dù ÁC? Vậy thì, nếu Luật Người Không-Xử thì Luật Hóa Công trong Tạo vật, cũng sẽ xử! “THIÊN VÕNG KHÔI KHÔI, SƠ NHI BẤT LẬU!” Lưới Người có thể Thoát được, nhưng Lưới Trời lồng lộng, không một ai tránh né, thoát đi đâu cho khỏi được!
Bao giờ một vật chi, như cục đá, nếu ném vào khoảng trống không thì nó sẽ mất hút, không còn thấy tâm dạng. Còn nếu ném vào vật gì, người nào, ở ngay trước mặt, trúng vào đó, lực càng mạnh, thì nó sẽ ‘Dội Trở Lại’ không sai, và càng mãnh liệt hơn, từ chỗ nó đã xuất phát !
Cho nên, đối với Những KẺ CÓ LỖI, CÓ TỘI, thì nên làm thế nào để họ thấy, biết , hiểu là họ CÓ LỖI, CÓ TỘI!
Không phải là để NHỤC MẠ, PHỈ BÁNG, HÀNH HẠ HỌ , mà là để DẪN DẮT, để giúp họ Ý Thức “LỖI TỘI chỉ đem lại bao ĐAU THƯƠNG THỐNG KHỔ, nhứt là cho chính bản thân, hơn ai hết, khi GÂY ĐAU KHỔ CHO AI!
Một khi họ ý thức được rồi, thì họ sẽ tự động XẢ BỎ, ĐOẠN TRỪ LÀM VIỆC ÁC HẠI NGƯỜI, sẽ KHÔNG TÁI PHẠM nữa!
Vậy cần có biện pháp, phương cách tốt để hướng dẫn, giáo dục sao cho có hiệu quả!
Nếu GIẾT CHẾT KẺ CÓ TỘI, mà không DẪN DẮT, KHÔNG CHỈ BÀY, KHÔNG CHO HỌ CÓ CƠ HỘI để cho họ THẤY, BIẾT, HIỂU, để HỌ nhận chân được rằng: những gị họ đã GÂY TẠO Cho Người Khác thì là chính họ sẽ PHẢI NHẬN, PHẢI RƯỚC LẤY, sẽ PHẢI LÃNH ĐỦ những gì họ đã làm, đã gây tạo!
Và một khi giúp họ nhận chân được điều đó thì xin thưa rằng: Họ có còn DÁM LÀM VIỆC BẤT PHẢI, CÒN DÁM GÂY TỘI ÁC nữa không, nếu KHÔNG Giải Bày thấu đáo, KHÔNG DẪN DẮT được, và « Không Cho họ Có Cơ Hội » nhận chân “ Triết lý” ấy thì không phải là tàn nhẫn lắm sao, là vô tình lắm sao , là thiếu HIỂU BIẾT, là thiếu lòng TÙ BI THƯƠNG XÓT giữa CON NGƯỜI với CON NGƯỜI lắm lắm hay sao?!
14/ Đó là nói những người phạm tội trong mọi thành phần trong một quốc gia và quốc tế.
Còn đặc biệt với người lãnh đạo một nước, nếu là Tổng Thống, hay Chủ Tịch Nước, hay vua chúa, nếu có PHẠM TỘI TRỌNG gì, thì trong lúc họ còn tại vị, nếu có quyết định chi mà nhân dân thấy có nguy hại cho người dân, cho đất nước thì, tại sao người người trong cả nước không cùng đứng lên, họp lại dũng cảm can gián, khuyên ngăn chí tình, lại cuối đầu tuân phục lệnh ban ra ?! Rồi đợi đến khi họ mãn nhiệm kỳ, hết Chức hết Quyền, người dân mới nổi lên phản đối, xử TÀN NHẪN, TỆ BẠC, ĐỘC ÁC, công khai Luận Tội Nặng và KẾT ÁN TỬ HÌNH, dù dưới bất kỳ hình thức nào!!! Họ nếu Có TỘI, thì người DÂN KHÔNG CÓ LỖI sao?!
Dù họ đã mãn nhiệm kỳ, trở lại làm người bình thường trong Nước, nhưng đó cũng là một người đã từng lãnh đạo nước bao nhiêu năm, không có công lao gì với quốc gia dân tộc hay sao mà lại nở đem ra XỬ TỬ một người đã từng được Tiền-Hô-Hậu-Ủng, bao người phải kính cẩn nghiêng mình chào đón, rước đưa rần rộ, uy nghiêm, hiển hách ?!!!
Nếu không-khép-chặt-cửa-lòng, mở rộng lòng Từ Bi Bác Ái Nhân Thiện cho những người phạm tội một ‘Con Đường Sống’ để họ TỈNH THỨC, để ĂN NĂN, HỐI NGỘ, SÁM HỐI LỖI TỘI thì không đáng thương tâm lắm sao!
Đối với loài động vật hạ đẳng như con Khỉ, con Ngựa, con kiki, con ột ệt, con Trâu, con Cọp, con Beo, con Voi v.v…mà còn huấn luyện được thay, thì với Con Người có Trái Tim Biết Cảm, có Khối Ốc Biết Nghĩ Suy, thì làm sao Không-Cảm-Hóa được, không rèn luyện, giáo dục được sao?! Và đối với người bình dân còn nên như vậy, huồng hồ từng là một vị nguyên thủ quốc gia của cả nước ?!
Nếu có TRỌNG TỘI chi Không-Thể-Tha-Thứ được, thì sao không cho LƯU ĐÀI NGƯỜI ĐI BIỆT XỨ, mà CHẲNG NÊN KHỬ TRỪ, DỨT TUYỆT MẠNG SỐNG để họ có-thì-giờ-rộng-rãi BÌNH TÂM Nghĩ Suy mọi lẽ?! Chắc chắn họ sẽ Ân Hận sâu sắc và sẽ SÁM HỐI !
15/ Một điều nữa, nếu cho rằng là ‘tâm linh kẻ Xấu Ác còn Thấp Kém’, cũng không hẳn có nghĩa là họ đều là những Con Người ngu dốt, khờ khạo, hạ tiện, u tối, mà có thể đó là những người cực kỳ thông minh, tài giỏi, cũng chưa biết chừng! Nếu họ Tỉnh Thức ‘quay đầu lại’, quyết chịu dứt trừ xả bỏ tập nhiễm xấu ác độc dữ, tham lam, tàn nhẫn v.v…, thì họ lại là những người rất đặc sắc, tuyệt vời, là người đắc dụng, xã hội rất nhờ cậy!
Có giống cây ăn trái, hay bông hoa chi đó, hể đó là một loại cây trái quý hiếm, rất ngon , rất bổ dưỡng, hay là một loại bông hoa vừa đẹp vừa thơm kỳ lạ thì thường rất khó trồng, hay có nhiều sâu bọ! Nếu ‘nhà làm vườn’ biết kiên nhẫn, chịu khó chăm sóc, cắt tỉa lá sâu cành hư, bón phân tưới nước cẩn thận mà-không-nhổ-quăng-vứt-đi, thì rồi sẽ gặt hái được những trái thơm ngon, những đóa hoa tươi đẹp, rất quý hiếm !
Con Người cũng vậy. Không ai là người đáng-phải-BỎ-ĐI, đáng phải Giết, phải Chết! Đến như sạn, sỏi, cát, đá, cây cỏ nhỏ nhoi trên trái đất mà cũng còn hữu ích, huống hồ là một Con Người!
Nếu biết cảm hóa, biết hướng dẫn người xấu ác dữ, biết cách ‘chuyển tâm họ’ để họ ‘quay đầu lại’, xả bỏ TÂM ÁC PHÁT TÂM LÀNH thì họ lại là những Người rất năng nổ, đa tài, đắc dụng. Họ dù cùng hung cực ác thế nào cũng có vài đức tính đáng ngưỡng mộ, có ích cho nhân quần, một khi được cảm hóa. “Sắt’ mà ‘được toi’ trong lò luyện với ‘lửa cao độ’ thì sẽ trở nên là “THÉP” rất đắc dụng!
‘Không ai hoàn toàn TỐT LÀNH, THIỆN HẢO!’ Cũng không ai hoàn toàn XẤU ÁC , BẤT NHÂN BẤT THIỆN’!
Vậy thì có nên phát tâm TỪ BI, BÁC ÁI, THƯƠNG XÓT, những người còn thấp kém, xấu xa, hèn hạ, nham hiểm, độc dữ , cùng hung cực ác thế nào đó không???
“CÓ HIỂU BIẾT MỚI THƯƠNG YÊU”, MỚI XÓT XA! Đức PHẬT đã dạy khuyên như vậy.
Nói tóm lại, CÔNG LÝ thì phải Nghiêm Minh, Công Bằng, Vô Tư, nhưng cần phải có TỪ BI, BÁC ÁI kèm theo, thì mới tạo được AN VUI HẠNH PHÚC cho người người, giúp nhau TIẾN HÓA!
Một triết gia, trong quyển “Zen và Ý Thức về Ăn Chay’, tr. 220-222 đã than rằng “Kiếp nhân sinh sở dĩ lắm ĐAU THƯƠNG là vì CON NGƯỜI ‘THIẾU LÒNG TỪ BI’ đối với nhau: Con Người khép chặt cửa lòng. Cam tâm ‘nô lệ’ cho SI, THAM, SÂN, ÁI (ái dục và Chấp trước), kiếm đủ cớ để chia rẻ nhau, lửa bịp nhau, lung lạc nhau, ngược đãi nhau, khống chế nhau, hận thù nhau, tranh đoạt nhau, tàn hại nhau, gieo rắc biết bao đau thương thống khổ cho nhau! Nào hay tự mình là người Khổ Trước, trên hết và nhiều hơn hết.”
Ni sư AYYA KHÉMA Ấn Độ cũng nhận xét chí lý rằng:” Tất cả chúng ta đều là KHÁCH trên trái đất này! Không ai sở hữu được thứ gì, dù là những gì thân, yêu, quý, nhất của ta!”
Đức ĐẠT LAI LẠT MA Tây Tạng đã than thở và có ý khuyên răn, nhắn nhủ người đời rằng:
“Chào Đời hai bàn tay trắng!
“Lìa Đời trắng hai bàn tay!
“Sao mãi nhặt cho đầy?
“Túi Đời như Mây bay?!”
Vậy thì tại sao Con Người không ý thức điều chí lý ấy để HIỂU BIẾT, để kềm chế thất tình lục dục, để cảm thông nhau, để cố gắng ban rải TÌNH THƯƠNG cho nhau, để rồi tha thứ cho nhau, xóa bỏ tất cả ‘oan trái’, ‘hận thù’, không ai làm ‘Đao Phủ’ của ai nữa, thì lo gì khi chết đi phải sa ‘ĐỊA NGỤC’, khi chinh Con Người đã tạo lấy biết bao cảnh Địa Ngục thê thảm nơi trần gian này rồi! Rất nhiều người đã vô tình đóng vai những kẻ ‘Đầu Trâu, Mặt Ngựa’ tay-thước-tay-đao, và biến nhau thành những kẻ “Tội Đồ”, những kẻ “Bị lưu Đày” thê lương, thống khổ?!
Hỡi quý giới chức Lãnh đạo các Nước, hỡi các nhà Lập pháp, hỡi quý vị quan tòa nước VIỆT NAM và trên toàn thế giới, hãy suy gẫm lại xem:“CÓ NÊN LÊN ÁN TỬ HÌNH NHỮNG TRỌNG TỘI KHÔNG???”, dù là Trọng Tội gì, dưới bất kỳ hình thức nào ???
Và các vị lãnh đạo Nước nếu có phạm lỗi chi nặng, thay vi LUẬN TỘI và Lên ÁN XỬ TỬ HÌNH thì người dân có nên chỉ cho « LƯU ĐÀY ĐI BIỆT XỨ », THA TỘI CHẾT mà KHÔNG THA TỘI SỐNG vậy?! CÓ ĐƯỢC KHÔNG???
16/ Và sau đây, xin lạm bàn thêm về vấn đề ‘HẠN CHẾ SINH SẢN’ để bảo vệ SỨC KHỎE CHO NGƯỜI MẸ, là bảo vệ Hạnh Phúc Gia Đình, tức bảo vệ An Vui, Cường Thịnh cho xã hội, cho quốc gia! Nếu-Sanh-Con-Quá-Nhiều thì Nuôi Dạy Cực Khổ và Khó Chu Toàn Cho Tất Cả Các Con, nhất là các trẻ sanh sau chót! Và gây khổ nhọc, thương đau nhất cho người “LÀM MẸ”, người phụ nữ.
Nhưng, thay vi Chỉ-Sanh “HAI-CON” mà thôi, thì CÓ-NÊN-CHO-SANH “BA-CON”???
Vì rằng:
1/ Tài nguyên thiên nhiên tối yếu trong vũ trụ là có BA: THIÊN–ĐỊA–NHÂN. Đó là “TAM TÀI”:Trên là TRỜI, Dười là ĐẤT, ở giữa là CON NGƯỜI!
TRỜI CHE TA, ĐẤT CHỞ TA.
Có BẦU TRỜI CON NGƯỜI mới có Không khí để thở để Sống Còn, có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, Con Người mới có sinh khí để Sinh Tồn.
Và CÓ ĐẤT thì CON NGƯỜI mới có nơi ăn chốn ở, mới tạo dựng được nhà cửa để cư trú. CÓ ĐẤT mới trồng trọt, mới có được ruộng vườn, cây trái, hoa mầu; mới có sông, hồ, ao, rạch ; mới có núi đồi, rừng cây, biển cả; mới có các loài động vật, thực vật!
Thì, CON NGUÒI mới có gạo, có thức ăn , mới có muông thú v.v.. thì CON NGƯỜI MỚI CÓ THỂ SINH TỒN được!
2/ Đứa Con Thứ Ba thường lại là‘Kinh Nghiệm’ của 2 người ‘Cha và Mẹ’ (Nam-Nữ) chung sống với nhau, có kinh nghiệm trong sự hòa hợp thể xác và tinh thần, về đời sống kinh tế, lịch lãm hơn, vững chải hơn, thoải mái, nhẹ nhàng hơn, về vật chất cũng như tinh thần. Và có sự thương yêu quí mến, trân trọng nhau, hạnh phúc bên nhau hơn, nên khi bào thai được kết tụ sẽ được hưởng nhiều lợi lạc về nhiều phương diện hơn hai lần đầu. Cho nên, các vĩ nhân, những thiên tài, những người con ưu tú về tài đức, thì có thể thường thấy xuất hiện ở người con thứ 3e! Phải vậy chăng?
Vậy, “NẾU CẢN” ‘KHÔNG-CHO-SINH-ĐỨA-CON-THỨ-BA’ thì gia đình cũng như xã hội, quốc gia, Đất Nước sẽ Mất-Đi-Biết-Bao-Nhân-Tài, có thể đó là nhà bác học, là bác sĩ, lương y đại tài, là nhạc sĩ, văn sĩ, thi sĩ, hiền triết nổi tiếng, là vĩ nhân, cũng chưa biết chừng v.v… Đó là những Con Người Ưu Tú!
3/a- Vả lại, có thể nói không quá đáng chăng: Nếu không-cho-sanh-đứa-Con-Thứ 3e thì, nếu lở đã kết thành Bào Thai, dù chưa tượng hình hay đã thành hình, người Cha và người Mẹ vì Sợ-Phạm-Luật sẽ bị phạt, nên phải uống thuốc PHÁ-THAI, hay dùng phẩu thuật thì, chẳng khác nào như là XỬ-TỬ-một-Người-đang-còn-trong-Bụng-Mẹ vậy !!! Trẻ đó có TỘI gì mà phải
BỊ XỬ TỬ ?!
3/b- Hoặc, Để-Ngừa ĐẬU THAI, thì người đàn bà Phải-Uống-Thuốc-Ngừa-Thai, RẤT -RẤT-NGUY BIẾN! Đó là cả một Tai-Họa!
Vì, Nếu Rủi Đậu Thai thì chắc chắn Đứa-Trẻ-Sanh-ra-Thường-Bị-Dị-TẬT, đủ mọi loại; hoăc Trí Suất IQ RẤT-THẤP-KÉM (!), có khi chẳng khác nào một-loài-động-vật-hạ-đẳng, chỉ biết ĂN UỐNG NGỦ mà thôi ! Ngoài ra không biết sinh hoạt chi hết, ngay như tắm rửa, mặc áo quần, cầm đủa muỗng v.v..cũng không biết làm, có người lại không thể nói năng được, không biết thương yêu giận ghét v.v…thì làm-sao-Làm-Một-Con-Người để Tiến Hóa lên?!!! Đó là một CON NGƯỜI BẤT HẠNH, và là gánh nặng cho gia đình và xã hội!!!
3/c- Hoặc, Nếu đặt-Vòng-Xoắn để TRÁNH ĐẬU THAI’ thì, đó là một vật bằng kim loại, đặt vào bộ phận sinh dục người đàn bà! Đặt vào trong mình lâu ngày có thể sanh bệnh KHÓ-TRỊ (cancer) thì đáng thương biết bao! Một khi người đàn bà trong gia đình BỆNH HOẠN thi biết bao vấn đề bi thảm sẽ đến với gia đình đó!
3/d- Nếu theo luật ÂM DƯƠNG thì ‘HAI’ là ĐÚNG! Nhưng trong vũ trụ có Tài Nguyên Thiên Nhiên là “TAM TÀI”, là 3 BẢO BỐI RẤT QUÝ, thì thiếu mất một rồi vậy!!!
Nếu chỉ có BẦU TRỜI và TRÁI ĐẤT mà Không-Có-CON-NGƯỜI, thì đó chỉ là tình trạng sơ khai thuở Tạo-Thiên-Lập-Địa mà thôi!!!
Vậy thì “Chẳng-nên-chỉ-cho-sanh-Hai-Trẻ” mà là “NÊN-CHO-SANH “ĐỨA-CON-THỨ-BA”, phải vậy không???!!!
Vì đức HIẾU SINH xin có đôi lời trăn trở, xin quý vị Nguyên thủ quốc gia và các Nhà Lập pháp, trong nước và trên thế giới suy gẫm minh triết.
23/02/2020
GIÁC ĐẠO-LÊ THỊ NGUYỆT ÁNH
Một Cựu Giáo Chức VĨNH LONG
(Cựu Chuyên viên Nghiên cứu Giáo Dục SAIGON trước 1975)