MINH THÚY Thành Nội – TẾT RƯỢT CON CHẠY, MẠ ƠI!

CHU LYNH – VIETNAM FILM CLUB
Các Video mới nhất của Vietnam Film CLub:
Văn Hoá và Ngôn Ngữ Việt tại Hải Ngoại
Thông Điệp 50 – A Message for 50 Years
Theo Giòng Sử Việt
My South Vietnam Part 7 – Nền Kinh Tế VNCH
Vietnam Film mClub
Bút Ký PHƯƠNG HOA – Tết Tây Và Tết Ta – Người Mỹ Không Nhà Vui Quà Tết – Chuyện Người Việt Ở Hoa Kỳ.
THƠ THANH THANH – LÊ XUÂN NHUẬN.
LỆ-CHÂU
Đã mấy xuân rồi, hả bể dâu ?
Những hình bóng cũ nay về đâu ?
Có ai đốt lại lò hương ấy
Mà nhớ vô cùng, hỡi Lệ-Châu !
Ta nhớ em như nhớ tháng ba*:
Ngày giờ có đó, nghĩ không ra!
Chính ta chẳng hiểu mơ hay tỉnh;
Ta ở đây mà nhớ chính ta!
(*) 29/03/1975: Đà Nẵng (thủ-phủ Miền Trung) thất-thủ.
Ta nhớ ta là một tiếng im,
Con thuyền không bến, máu không tim,
Không hoa cho một làn hương quyện,
Không tổ nương nhờ một cánh chim!
Ta có đầu ta – một thánh-thư:
Biết đường, đâu ngại ngã ba, tư!
Lòng ta có lửa mà không bếp,
Như thiếu trùng-dương cho hải-ngư!
Thiếu một thần-giao, một cảm-thông;
Đời không tri-kỷ, không tâm-đồng;
Bơ-vơ như trận kình+nghê-chiến:
Biển cả tung-hoành một lão-ông!
Rồi bỗng đâu đây giữa gió khơi
Có em bỗng gọi, có ta “ơi!”
Thuyền như nhắm bến, chim tìm tổ,
Đêm muốn hừng đông, hận muốn vơi …
Em đến – gần mà như muôn trùng,
Không tên, không lấy cả hình-dung…
Nhưng em đã đến, bằng xương thịt,
Đã sưởi lòng ta … ấm lạ-lùng!
Em có là tiên… hay là… ma
Thì em cũng đã có yêu ta!
Tình em là một nguồn thi-hứng:
Bút rỉ mười năm… lại nở hoa!
Em đã theo ta mỗi bước chân,
Hòa trong hơi thở, nhập trong gân!
Có em là bạn… nên từ đó
Ta có niềm vui tự bản-thân…
Nhưng, bỗng tư bề nổi bão đêm:
Kình-ngư còn lại bộ xương lem!
Đất thành hoang đảo! dân thành rợ!
Ngư-phủ vào tù, lạc dấu em..
.
Nỗi nước khôn khuây, lại nỗi nhà,
Nỗi mình khắc-khoải một mình ta!
Bao nhiêu kỷ-niệm vào tro bụi
Như những kê vàng, quá-khứ xa …
Ôi! Những ngày xanh, những ước mơ
Tan như ảo-ảnh mống trời mưa!
Thời-gian liệm lấp vào quên-lãng
Những mộng vàng son hóa mộng hờ!
Rồi có hôm nào như hôm nay:
Gió nào gợn sóng, lá nào bay …
Cho ta gợi lại trong tâm-tưởng
Một thoáng ân-tình, thoáng rượu say …
Trại Kho Đạn (Đà Nẵng), 1980-81
THANH-THANH
CA KHÚC VÌ SAO – THƠ PHẠM PHAN LANG – Nhạc NguyễnTâmHàn Giang -Ca Sĩ Hương Giang
VÌ SAO – MỘT KHÚC NHẠC CỦA KÝ ỨC VÀ TÌNH YÊU
Hôm nay, một ngày đẹp trời ở Hawaii. Từ khung cửa kính, tôi lặng ngắm vịnh Kaneohe xanh biếc, nơi những đám mây lững lờ phản chiếu trên mặt nước lung linh như một bức tranh huyền ảo. Trong không gian yên bình ấy, những giai điệu xưa vang lên, mang theo bao ký ức ùa về. Bất chợt, nhạc phẩm Vì Sao do nhạc sĩ Nguyễn Tâm Hàn phổ từ thơ của tôi, với giọng ca đầy cảm xúc của Hương Giang, vang lên, khiến lòng tôi nghẹn ngào xúc động.
Ngược dòng thời gian, khoảng mười năm trước, vào dịp giỗ 30 năm của người chồng vắn số, tôi đã viết hai bài thơ Vì Sao và Mộng Tưởng để tưởng nhớ anh – một người đã ra đi quá sớm nhưng tình yêu và ký ức về anh vẫn mãi khắc sâu trong tim. Trong những dòng thơ ấy là nỗi nhớ khôn nguôi, là những câu hỏi không lời đáp, là niềm tiếc thương day dứt theo năm tháng.
Sau đó, tôi đã chia sẻ những bài thơ cùng hình ảnh buổi giỗ đến một số người bạn Hải Quân cùng khóa 14 với chồng. Không ngờ, trong số đó, nhạc sĩ Nguyễn Tâm Hàn đã đón nhận những vần thơ ấy bằng cả trái tim. Anh kể lại rằng, khi đọc thơ, anh xúc động đến mức không sao chợp mắt. Suốt đêm hôm ấy, anh lặng lẽ chắp nối những cảm xúc của hai bài thơ, để rồi từ đó, Vì Sao ra đời – một bản nhạc trầm buồn nhưng tha thiết, như một lời tự sự từ sâu thẳm tâm hồn.
Hôm nay, giữa khung cảnh thanh bình của biển trời Hawaii, khi giai điệu ấy vang lên một lần nữa, tôi như thấy mình quay về những năm tháng cũ. Nỗi nhớ vẫn vẹn nguyên, tình yêu vẫn đong đầy, và câu hỏi “Vì sao?” vẫn mãi ngân vang trong lòng.
Xin được chia sẻ cùng mọi người nhạc phẩm Vì Sao cùng hai bài thơ đã khơi nguồn cảm xúc cho ca khúc này.
Vì sao -Hương Giang – Thơ Phạm Phan Lang – Nhạc NguyễnTâmHàn
VÌ SAO
Ba mươi năm rồi sao?
Nghe như mới hôm nào
Một buổi mai nắng nhạt
Sóng nộ cuồng vì sao?
Anh đi rồi thật sao?
Thời gian trôi như vèo
Sao lòng còn sầu nhớ
Vẫn thẫn thờ vì sao?
Vắng anh, đời lao đao
Môi nhạt, má bớt đào
Miệng cười, mắt rưng lệ
Lòng hỏi lòng, vì sao?
Anh về trong chiêm bao
Nhìn em như thuở nào
Vòng tay ôm thắm thiết
Tỉnh mộng hỏi, vì sao?
Ba mươi năm rồi sao?
Nỗi nhớ vẫn dạt dào
Vẫn thương về người cũ
Xin đừng hỏi, vì sao?
phamphanlang
MỘNG TƯỞNG
Anh đi, đi mãi không về
Phòng khuê lẻ bóng, não nề thâu canh
Trăng khuya rọi bóng bên mành
Lung linh trên gối, tưởng anh nằm kề
Mùi hương ngày cũ chợt về
Vòng tay ôm bóng, cơn mê vội tàn
Ngẩn ngơ giấc mộng bẽ bàng
Ôm hồn cứ tưởng như chàng còn đây…
phamphanlang
LỜI CUỐI
Thời gian có thể trôi đi, nhưng có những nỗi nhớ chẳng bao giờ nhạt phai. Cảm ơn nhạc sĩ Nguyễn Tâm Hàn đã thổi hồn vào thơ, để những cảm xúc này trở thành giai điệu, lan tỏa đến những tâm hồn đồng điệu. Và cảm ơn những ai đã lắng nghe, đã cùng tôi chia sẻ những phút giây hoài niệm này.
Kính chúc an lành và hạnh phúc.
Pham Phan Lang
KIỀU MỸ DUYÊN – CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA.
GS/TS MAI THANH TRUYẾT –
SƯƠNG LAM – Bạn Có Yêu Tuyết Không?
Bạn Có Yêu Tuyết Không?
(Nguồn:Hình tuyết Portland sưu tầm trên internet)
Đây là bài số bảy trăm bốn mươi chín (749) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ ORTB.
Bây giờ là mùa Đông xứ Mỹ, thời tiết rất lạnh, đặc biệt ở tiểu bang xứ lạnh như Portland, OR của chúng tôi thường có những ngày tuyết rơi.
Thứ Năm 2-13-25 và Thứ Sáu 2-14-25, Portland có 2 tuyết rơi trắng xóa đầy đường.
Những ngày đầu tiên mới đến ở Portland vào tháng 1 mùa Đông, tôi hăm hở đón chào tuyết vì thấy tuyết rơi đẹp quá. Tôi mặc áo khoác lạnh, đội mũ, choàng khăn rồi chịu khó chạy ra ngoài sân trước nhà, cười duyên dáng, kêu ông xã ơi ới ra chụp cho tôi vài pô hình với tuyết để gửi về cho ba má, thân nhân, bạn hữu của tôi ở Việt Nam xem cho vui.
Rồi thời gian trôi qua, niềm vui chào mừng tuyết bớt dần theo tuổi đời, theo sức khoẻ, tôi không dám chạy ra chụp hình với tuyết nữa vì sợ té, sợ lạnh, chỉ biết đứng qua khung cửa sổ chụp hình, quay cảnh tuyết rơi, rồi làm thơ về tuyết để làm kỷ niệm mà thôi.
Mời bạn đọc bài thơ dưới đây:
Bên Song Cửa Nhìn Tuyết Đổ
Bên song cửa nhìn tuyết rơi nhè nhẹ
Từ trên trời bông tuyết trắng bay bay
Chẳng bao lâu bông tuyết trắng phủ đầy
Trên vườn cỏ, trên khóm hoa, khu phố
Nghe đâu đây lời kinh buồn phổ độ
Cho kiếp người nay hợp lại mai tan
Như tuyết kia, như hoa nở sẽ tàn
Khi nắng đến, khi mưa về! Tan tác!
Con người vốn có sẵn mầm thiện ác
Tùy cơ duyên hiển lộ cái Thiện Tâm
Như hoa kia vẫn trẩy nụ âm thầm
Trong Đông lạnh chờ Xuân về hé nụ
Dưới tuyết trắng cỏ non kia im ngủ
Tuyết tan rồi cỏ sẽ hiện liền ra
Như vô minh ở nơi cõi ta bà
Trí Tuệ đến Tâm Phật kia hiển lộ
Sẽ hướng dẫn người thoát ly biển khổ
Bằng từ bi, bằng nhân ái, thương yêu
Bằng bớt tham, sân, hận, dục lạc nhiều
Biết tri túc, thân tâm ta an lạc
Bát Chánh Đạo! Hãy làm lành lánh ác
Lục Hòa cùng tăng chúng với tha nhân
Dẫu lạ quen, tôi, bạn cũng vẫn cần
Lời thân ái trao nhau khi gặp gỡ
Nơi trần thế cửa thiên đường rộng mở
Đón chào người nhân ái có thiện tâm
Biết ăn năn, biết sửa đổi lỗi lầm
Tuyết Đông lạnh nhưng Tình Người vẫn ấm
Sương Lam
Tôi cũng mới thực hiện một youtube về 2 ngày tuyết trong tháng 2 năm 2025 vừa qua, mời quý bạn cùng vui đón tuyết năm nay với gia đình chúng tôi qua youtube dưới đây:
Tuyết ở Portland 2 -13 -25 và 2- 14- 25 – MSL Youtube
Mời bạn đi xa hơn nữa để ngắm tuyết ở nơi giáp ranh Trung Nga trong chuyến du lịch của FAHOKA (Xê Dịch Khắp Thế Gian) mà tôi vừa tìm được trên internet qua youtube dưới đây:
Nơi giáp ranh Trung Nga trông thế nào? Băng tuyết cực mê
FAHOKA (Xê Dịch Khắp Thế Gian)
Hôm nay người viết vừa mới nghe xong bài thuyết giảng của Hòa Thượng Tịnh Không trên internet về đề tài “Thay đổi cách sống”, xin được chia sẻ cùng các bạn.
Hòa Thượng đã nêu lên quan niệm giáo dục đạo đức đời sống của Đông Phương Trung Quốc và Tây Phương Âu Mỹ.
Đông Phương cho rằng đời người có bốn giai đoạn như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông của đất trời.
1. Dưới 20 tuổi như Mùa Xuân con người cần phải được giáo dục đạo đức.
2. Từ 20 – 40 tuổi như mùa Hạ con người cần phục vụ xã hội.
3. Từ 40 – 60 tuổi như mùa Thu con người cần truyền trao kinh nghiệm cho người kế thừa.
4. Sau 60 tuổi như mùa Đông con người cần về hưu để hưởng phước.
Trong khi đó Tây Phương lại quan niệm:
1. Tuổi trẻ là tuổi để hưởng thụ cho nên tuổi thơ được ví như đang sống trong thiên đàng.
2. Tuổi trung niên sống trong chiến trường tranh đua danh lợi
3. Tuổi già sống buồn thảm đi vào phần mộ.
Theo lời trình bày kể trên chúng ta cần phải chọn lựa và thay đổi cách sống như thế nào để có thể sống một cuộc đời an vui hạnh phúc, bạn nhỉ?
Mùa Đông tuyết lạnh mà bạn nhận được nụ cười dưới đây của mẹ Teresa , chắc chắn bạn sẽ thấy vui lên một chút mà quên đi cái giá lạnh của mùa Đông. Mời bạn đọc cho vui nhé.
Bạn và tôi chắc chắn cũng đã từng gặp nhiều người cho ra thì ít mà muốn nhận lại thì nhiều. Những người này tiết kiệm từng nụ cười, từng lời nói ngọt ngào không chịu trao cho bạn bè thân hữu, thân nhân quyến thuộc mà lại đòi hỏi người khác phải đối xử tốt với mình, phải ngọt ngào với mình. Dĩ nhiên, nếu là một người có lương tâm trong sáng, bạn sẽ cho đấy là không công bằng (unfair) rồi đấy nhỉ?
Nói theo kiểu bình dân thông thường là “tiền trao cháo múc”, ít ra bạn phải đưa ra một số tiền nào đó thì mới nhận được tô cháo kia, chứ tại sao lại muốn nhận vào mà không chịu đưa ra. Lạ thật!
Cũng vậy, muốn nhận nụ cười, tình thương mến nơi người khác thì chúng ta phải trao cho họ nụ cười và tình thương mến trước chứ đừng đòi hỏi họ phải trao cho mình nụ cười, tình thương mến trước rồi mình sẽ trao lại sau hoặc là không trao lại gì cả. Hãy cho đi rồi bạn sẽ được nhận lại thì đời sống sẽ tốt đẹp hơn như câu chuyện của Mẹ Teresa dưới đây:
Hãy cho nhau nụ cười
Có lần mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại câu chuyện như sau:
Nhiều người đến thăm tôi tại Calcutta và trước khi ra về thường ngỏ ý với tôi: “Xin cho chúng tôi một lời khuyên để chúng tôi sống tốt đẹp hơn”.
Tôi liền bảo họ: “Quý vị hãy về và hãy ban tặng cho nhau những nụ cười. Một nụ cười cho vợ của ông. Một nụ cười cho chồng của bà. Một nụ cười cho con cái của ông bà. Hãy cười tươi với tất cả mọi người, bất luận người đó là ai. Với những nụ cười tươi như thế quý vị sẽ lớn lên trong tình yêu hỗ tương”.
Nghe vậy một người trong nhóm hỏi tôi:
– Bà có lập gia đình không?
Tôi gật đầu và nói:
– Ðôi khi tôi cũng cảm thấy khó nở một nụ cười với vị hôn phu của tôi.
Và mẹ Têrêsa kết luận:
– Ðúng thế, Chúa Giêsu có thể đòi hỏi rất nhiều. Và chính khi Ngài đòi hỏi như thế thì không gì đẹp cho bằng nở một nụ cười thật tươi với Ngài
Lạy Chúa! Nụ cười không mất tiền mua, không phải vất vả cực nhọc để đi xa mang về… Nụ cười thật dễ dàng để xuất hiện trên môi miệng và trên khuôn mặt nhưng sao con lại thấy thật khó khăn vất vả để trao tặng nụ cười trên khuôn mặt của con cho những người xung quanh… Con đã thay thế nụ cười bằng những cái nhăn mặt méo mó, bằng những ánh mắt giận dữ, bằng những cái lắc đầu xua tay và đôi khi bằng những lời nói làm đau lòng người khác. Xin cho con luôn ý thức rằng: mỗi khi con mang nụ cười đến cho những người xung quanh chính là lúc con dâng lên Thiên Chúa tình yêu và nụ cười, sức sống và hy vọng của đời con. Amen.
(Nguồn: Sưu tầm trên internet)
Mời Bạn xem Youtube dưới đây để làm kết luận cho bài tâm tình hôm nay của người viết nhé.
Youtube Một Cõi Thiền Nhàn Suong Lam – Mùa Đông Portland
Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 749- ORTB 1180-2-19-25)
Sương Lam
Website: www.suonglamportland.wordpress.com
http://www.youtube.com/user/suonglam
SA CHI LỆ: MỜI QUÝ THÂN HỮU CHIA SẺ CHANNEL NHỮNG DẤU ẤN LỊC SỬ: Đổ bộ vào Thanh Hoá – Hồi ức chiến tranh – Tác giả: Nguyễn Văn Kha (RESPECTFULLY INVITE FRIENDS TO SHARE THE CHANNEL OF HISTORICAL IMPRESSIONS: Landing in Thanh Hoa – Memories of war – Author: Nguyen Van Kha)
THƠ LÊ TUẤN – TẾ LUÂN – Tôi Nợ Em – Bài thơ tình
Thêm một chút lãng mạn cho đời sống thăng hoa. Chúc mọi người một tuần lễ tràn đầy niềm vui.
Chia sẻ bài thơ tôi mới viết.
Lê Tuấn
Tôi Nợ Em
Tôi nợ tình em thời nữ sinh
Nợ thời áo trắng gái đoan trinh
Nợ em nụ tím cài trên tóc
Nở cả trời thơ những đoạn tình.
*
Nợ em thuở ấy còn trong trắng
Cả nét ngây thơ chiếm cõi hồn
Nợ trái tim hồng hay loạn nhịp
Nợ tình chiếm hết cõi lòng son.
*
Tôi nợ tình em cả giấc mơ
Nợ thời con gái cả hồn thơ
Ngôn tình hoa bướm đầy trang giấy
Nắn nót thêu hoa những đợi chờ.
Tế Luân
Đồng Cảm Yêu Thương
Nâng ly cạn chén rượu đầy
Thanh âm vang động tình này riêng em
Đôi môi khát vọng cơn thèm
Áo em tơ lụa rũ mềm vấn vương.
*
Hồn thơ uốn lượn mười thương
Men say tình ái miên trường chơi vơi
Em cùng ta cả một đời
Bên nhau cùng bước rong chơi tháng ngày.
*
Nhánh hoa xuân nở trên tay
Đem thân hiến trọn tình này trăm năm
Lắng nghe tiếng gọi xa xăm
Từ nơi sâu thẳm mù tăm phận người.
*
Buồn vui theo tiếng khóc cười
Thời gian điểm hóa bước dời tuổi xuân
Sợ gì một đóa phù vân
Tình thôi ngấn lệ còn ngần dáng hương.
*
Ta tìm trong cõi vô thường
Lật trang thánh sử hiến chương huy hoàng
Chữ yêu chạm khắc dát vàng
Đem vào cung điện bảo tàng tình nhân.
*
Trăm năm theo bước đường trần
Ngẩn ngơ quên mất mang thân phận người
Vàng phai gió núi mây trời
Ngẫm ra mới biết cuộc đời hoang sơ.
Tế Luân
Nhớ Ngày Xuân
Nỗi buồn
níu bước chân ai
hư vô bỏ trống
nối dài mộng du
hồn đi xuyên thấu sương mù
qua thu gió thổi
lạnh từ đông sang.
một mình
vẫn bước lang thang
nhờ em săn sóc
mùa màng nở hoa
lửa cuồng nhiệt muốn bôn ba
đường chiều xa tít
mù sa ngại ngần
dính vào nhau hết mùa xuân
theo cơn đồng thiếp
bước chân nhịp nhàng
trời xuân vàng cội gốc xanh
môi son đỏ thắmmột vành đôi mươi.
nhớ về em
mím môi cười
da thơm lụa mỏng
bước dời gót xuân.
Tế Luân
KIỀU MỸ DUYÊN: NGƯỜI ĐẾN TỪ RỪNG NÚI KONTUM: LINH MỤC PHAN TỰ CƯỜNG – BIẾT NGƯỜI BIẾT TA, TRĂM TRẬN TRĂM THẮNG – LẠC QUAN, YÊU NGƯỜI, YÊU ĐỜI MÀ SỐNG. GIỚI THIỆU VỀ VIỆC CHA PHAN TỰ CƯỜNG SẼ GHÉ SAN JOSE & gặp gỡ đồng hương.
VĂN THƠ LẠC VIỆT- ĐẶC SAN XUÂN ẤT TỴ-2025

CÁCH TÌM MỤC LỤC TRONG SÁCH LẬT ĐẶC SAN XUÂN ẤT TỴ 2025:
Sau khi mở sách ra: Bấm vào hình CÓ 4 Ô VUÔNG BÊN PHẢI NHƯ TRONG HÌNH BÊN DƯỚI. Bạn sẽ thấy một dãy TÊN TỰA ĐỀ CÁC BÀI VIẾT.
KÉO XUỐNG tìm và BẤM VÀO TỰA ĐỀ BÀI VIẾT CỦA MÌNH HAY CỦA TÁC GIẢ NÀO MÌNH MUỐN ĐỌC.

***
CÁCH THỨ 2 – Xem hướng dẫn bằng YouTube video
***

**
THƠ NGUYÊN PHƯƠNG
Tưởng Em Còn Đang Ở Huế
**
Vẫn cứ tưởng em đang còn ở Huế
Nên anh về tìm lại chút hương xưa
Để đứng chờ bến Thừa phủ chiều mưa
Và lóng ngóng bên cổng trường Đồng Khánh
*
Mưa vẫn mưa chẳng bao giờ thấy tạnh
Em vẫn lạnh lùng muôn thuở trời đông
Anh đã đi và quay lại chốn lọt lòng
Vẫn không thấy nơi em duyên tình cũ
*
Vẫn cứ tưởng Huế còn em Tôn nữ
Bến đò xưa hai chuyến đến và đi
Áo trắng dài mang bao mối tình si
Anh tinh khiết đợi chờ và vỡ mộng
*
Vẫn cứ tưởng Huế trời cao đất rộng
Chốn dung thân không nỡ bỏ mà đi
Tưởng là em khép kín tuổi xuân thì
Ôm chặt Huế cho muôn đời còn Huế
*
Vẫn cứ tưởng nên trở về (dù trễ)
Còn may ra tìm lại chút dung nhan
Của riêng em và của Huế muộn màng
Cho mình thấy được mình còn hạnh phúc
*
Em còn ở Huế sao vẫn buồn ly hận
Nét ưu tư chìm đắm cả mày ngài
Em ở đó còn có chút ngày mai ?
Hay đã mất thiên thu trời phố thị
*
Nếu còn ở Huế, xin đừng trách anh tệ
Nắng vàng phai, anh cũng lắm vàng phai
Quay trở về tìm qúa khứ dông dài
Xin em cứ thay anh gìn giữ Huế
*
Em vẫn còn ở Huế thì tim anh không bi lụy
Không pha màu ngang trái chuyện chia ly
Để bên này bên nớ chẳng hề chi
Có em ở huế sông xưa xanh mát mãi
*
Tưởng em còn ở Huế nên năm chờ tháng đợi
Vẫn tìm ra dấu vết bước thăng hoa
Trong khóe mắt dầu pha trộn nhạt nhòa
Vẫn tìm thấy bạt ngàn màu sắc Huế
Nếu em còn ở Huế. Anh về. Sẽ ghé
Con đường xưa áo trắng bóng em qua
Núi Ngự kia. Sông Hương nọ. Hẹn hò
Dành cho Huế (và em) đời miên viễn
*
Dẫu em còn ở Huế (hay không) . Anh vẫn đến
Để biết mình còn máu Huế trong tim
Để đất trời dù mưa gió ngã nghiêng
Về với Huế trong nghĩa tình hoài vọng
*
Xin em đừng bỏ Huế với mùa Xuân bất tận
Để anh về còn hoa nở tối ba mươi
Để nhìn em trong lòng Huế rạng môi cười
Cho Huế mãi ngàn thu là Huế cũ
*
NGUYÊN PHƯƠNG
Chợt Nghĩ
Môt chiếc lá vàng rơi
Một mùa đông băng tuyết
Một tuổi đời nổi trôi
Một đời người cạn kiệt
Tháng ngày qua kẽo kẹt
Mưa nắng buổi hoàng hôn
Tối trời trời tối sớm
Nhăn nhó nước da mòn
Hong tuổi già chờ đợi
Gió lùa nhẹ chơi vơi
Liu riu đêm chờ sáng
Ngày đến rồi vội trôi
Xoa tay còn mười ngón
Ngón cái hãy còn suông
Sao không tìm ngón út
Để nắm lại vuông tròn
Nay còn nhìn nhau nói
Mai chẳng nói chẳng nhìn
Chiếc lá vàng cỏn rụng
Chợt nghĩ đến niềm tin
NGUYÊN PHƯƠNG
Xuân 2023


Chiến Thắng Đống Đa, Mồng 5 Tết, Xuân Kỷ Dậu!

Vui lòng bấm vào sách để đọc
Họp Khóa trên trời
Giao Chỉ báo cáo họp khóa quân trường
Cương Quyết Đà Lạt 1954.



Chúng tôi đã báo cáo bằng hữu quá nhiều lần. Có thể đây là lần cuối. Thứ bảy vừa qua anh em chúng tôi hợp khóa 3 người. Bác Lộc, bác Đôn và thêm bác Đạt. Vũ Văn Lộc, Vũ Thượng Đôn và Phạm Mạnh Đạt nhập ngũ khóa trừ bị tại trại Ngọc Hà, Hà Nội tháng 3 năm 1954. Cùng tuổi trên dưới 20. Bây giờ ngoài 9 chục. Thêm bác Trịnh Tùng không quân đã lên đường trước 2 năm. Bác Tùng là niên trưởng đã 95. Vào Đà Lạt chỉ có tôi và bác Đôn. Bác Đạt bị bệnh nên được trả về Hà Nội để làm nghề nhạc sĩ. Tay chơi hạ uy cầm nổi tiếng một thời, nay lưu lạc về San Jose gặp lại anh em bèn tham dự ngày họp khóa cao niên. Con gái bác Đôn tổ chức họp bạn đầu xuân để tuổi 60 toàn áo dài chúc thọ các ông già 9 chục. Giữa thế giới chiến tranh và nước Mỹ chính trị điên đảo, chúng tôi tạm quên thế sự để vui xuân Ất Tỵ bước vào năm 2025 vừa tròn nửa thế kỷ lưu vong. Dù tạm vui với tuổi cao niên nhưng mãi mãi không quên nhiệm vụ. Bác Giao Chỉ xin nhắc lại các mẩu chuyện đáng ghi nhớ của cả khóa một đời.
Ba trăm anh em chúng tôi trong tuổi động viên trình diện tại Ngọc Hà, Hà Nội. Phần lớn tuổi 20 và một số nhỏ có cả vợ con. Máy bay Tây chở anh em ta vào Sài Gòn nhưng trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức hết chỗ nên GMC đưa khóa sinh Cường Quyết động viên vào học trường hiện dịch Đà Lạt. Xin nói lại một lần cho đúng, Khóa Cương Quyết Thủ Đức vốn là khóa 4 của ông trung tướng Ngô Quang Trường và ông trung tá Nguyễn Mộng Hùng tức Hùng sùi. Khóa 4 phụ Cương Quyết Thủ Đức vào sau 4 tháng là khóa của đại tá Lê Khắc Lý và trung tá Đỗ Hữu Nhơn. Riêng khóa chúng tôi có thể gọi là khóa tư phụ trừ bị Cương Quyết học tại Đà Lạt. Sau này thì chiến tranh kéo dài nên chẳng còn phân biệt trừ bị hay hiện dịch.
Điểm danh Cương Quyết tại San Jose. Như vậy vào đầu năm 2025 điểm danh Cương Quyết trước sau tôi được biết có anh Hùng Sùi khóa tư chính. Khóa Cương Quyết Đà Lạt còn anh Đạt, anh Đôn, anh Bùi Quý Chiến và Giao Chỉ. Đặc biệt tôi đã có dịp đi thăm 3 anh rất đáng ghi lại. Anh Lê Văn Bang nằm trong trại cao niên của bác sĩ Ngãi. Cả hai vợ chồng đều ở trong này. Hôm nay vào thăm không thấy chị Bang. Tôi hỏi vợ đâu. Bang cố trả lời. Về rồi. Tôi hỏi về đâu. Bang nằm im lặng. Không còn nói năng chi. Tôi buồn bã bắt tay anh rồi từ giã.

Bước qua khu bên cạnh tìm lối vào thăm Ngô Văn Định, đại tá lữ đoàn trưởng một thời mũ xanh đánh trận Quảng Trị. Tôi hỏi có nhận ra ai không? Định nói Lộc. Và hỏi tiếp. Ngoài đó còn tay nào không? Tôi nói. Cũng chẳng còn ai. Tôi đọc tên các bạn. Có người anh biết. Có người cũng không biết. Tôi nhắc chuyện các bạn ra đi. Định có nhớ Nghiêm Kể. Trung tá Công Bình Nghiêm Kể bị địch bắt trận Tân Cảnh năm 72. Qua năm 73 được thả về ở Quảng Trị. Trung tá nhảy dù Nguyễn Thế Nhã đi đón tù binh Nghiêm Kể trở về đã nói rằng: Kế ơi, sao đời mày khốn nạn thế này. Kế nói. Chúng nó hô: Hàng sống chống chết. Hôm nay chúng mày thấy tao còn sống chưa chết. Chỉ 2 tháng sau trung đoàn trưởng Nguyễn Thế Nhã của Sư đoàn 1 bị đại bác nổ mất đầu. Đám ma chôn tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Sài Gòn. Tôi làm cho đại tá Nhã vòng hoa cườm Thương tiếc Nguyễn Thế Nhã Anh hùng. Nghiêm Kế khóc bạn nói rằng Nhã ơi Nhã, sao đời mày khốn nạn thế này. Tôi chia tay với Đồ Sơn, Ngô Văn Định sau khi nhắc lại 3 anh bạn cùng khóa đánh trận Quảng Trị đều là SVSQ của đại đội 6 Đà Lạt.
Đại tá Phạm Văn Chung mũ xanh và đại tá mũ đỏ Trần Quốc Lịch. Anh em đi cả rồi. Ngay cả trung tá Đỗ Đình Vương trước làm phó cho Định rồi về làm trung đoàn trưởng cho Sư đoàn 5 cũng đi rồi. Sau cùng chúng tôi nhắc đến Nguyễn Hữu Luyện, đại uý nhảy Bắc từ 1966. Tôi cho Định biết Luyện hiện nay vừa yếu vừa mơ màng chẳng còn biết gì nữa. Trong số anh em tôi biết chỉ còn Bùi Quý Chiến cũng ở San Jose vẫn tinh tường tuy điếc nặng, Tôi bắt tay Định rồi ra về. Hẹn sẽ gặp lại vào 30 tháng tư. Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Tuổi này thời gian không tính năm tính tháng. Chỉ tính bằng ngày. Nào biết có còn đến tháng tư hay không. Sợ thì ông đếch sợ. Nhưng buồn thật là buồn. Bạn bè chẳng còn ai cũng trang lứa. Bèn gọi cho cô Hồng Phượng bàn giao chức hội trưởng Cương quyết Đà Lạt cho người phụ nữ trường đầm. Phu nhân của trung tá Lê Xuân Định nguyên giám đốc USCC LA. Giao Chỉ sẽ lên hợp khóa trên trời.
Bài thơ họp khóa 20 năm trước
Giao Chỉ San Jose.
Thôi rồi. Lại thêm 1 đêm mất ngủ. Tôi không bao giờ là thi sĩ. Nhưng 20 năm trước có làm một bài thơ. Tháng 3 năm 2004 tôi tổ chức họp khóa 50 năm tại quận Cam. Cái khóa lạ lùng của chúng tôi có 300 thanh niên 20 tuổi Bắc Kỳ động viên vào khóa Tư Phụ trừ bị nhưng Thủ Đức hết chỗ nên đưa lên học Đà Lạt. Kỳ đó tập hợp được 70 người. Tất cả 8 trung đội, mỗi trung đội cũng còn khoảng dưới 10 người. Tuổi trung bình trên 70. Còn phong độ và còn hào hứng. Tôi viết một bài thơ kể cuộc đời của cả khóa. Rất hãnh diện và tự cho là bài thơ rất hay. Nhưng mấy năm nay lạc mất tiêu. Đêm nay lục trong hồ sơ Việt Báo đã tìm thấy. Nếu còn nước mắt là khóc đấy. Cả khóa 300 sau 50 năm về họp 7 chục. Chỉ có 20 năm qua mà tôi viết lời phân ưu quá trời. Tưởng mình trở thành nhân viên nhà đòn hay thuộc đơn vị Chung Sự. Trong bài thơ này có một câu tôi viết tự cho là xuất sắc nhất. Hỏi rằng Chết nhiều như vậy có sợ không. Đáp rằng: Sợ thì ông đếch sợ nhưng buồn thật là buồn. Lại hỏi rằng: anh em còn ít quá hội hè làm sao. Lại đáp rằng: Còn thằng nào chơi thằng đó. Năm vừa qua họp mặt lèo tèo chẳng bao nhiêu. Chỉ còn toàn quý bà quả phụ. Ông hội trưởng mời quý phu nhân ra chụp hình hàng ngang. Một bà nói rằng anh có lấy hết được không. Tôi đáp chụp hết thì được, lấy hết không được. Một vài người thôi. Mời các bạn vui lòng đọc bài thơ họp khóa của tôi. Một lần làm thi sĩ. Thơ rằng:
Thưa chư liệt vị.
Khóa chúng tôi đây. Dở giăng , dở đèn. Môn chẳng ra môn, khoai chẳng ra khoai. Cầm giấy khai sinh Thủ Đức, chẳng phải đấng sinh thành. Công ơn dưỡng dục mẹ nuôi, đàn con nhớ về Đà Lạt.
Năm hai mươi tuổi, anh đi quân đội. Ngày vào trường, năm Năm Mươi bốn. Tổ quốc còn đủ hai đầu Sài Gòn-Hà Nội. Khi mãn khóa ngày Một Tháng Mười. Genève cưa đôi đất nước, chia ra hai mảnh Bắc Nam. Đang thụ huấn, Điện Biên Phủ, Tây kéo cờ hàng. Trong quân trường, điểm trung bình, đôn lên hai nấc. Lúc quỳ xuống, vẫn còn là sinh viên sĩ quan. Khi đứng lên, có anh chỉ còn cặp lon trung sĩ. Chân dậm đất, tay đấm ngực, miệng kêu trời. Rồi sau cùng, Dù lính dù quan, cũng chia nhau mà về đủ các vùng chiến thuật. .
Anh đội mũ đỏ nhảy dù, tôi về mũ xanh lính thủy. Đi tới đi lui cũng quanh quẩn Cà Mau-Bến Hải. Sáu mươi phần trăm lấy vợ Nam Kỳ…Bỏ lại nửa mối tình đầu Hà Nội.
Hai mươi mốt năm, chinh chiến ngược xuôi. Anh đi tàu suốt, tôi ốm yếu xanh xao…Nhận sổ quân y ba mươi ngày tái khám. . Người lên lon lá huy hoàng, ngực đỏ huân chương cứu quốc. Có cậu lả lướt dăm bảy mảnh tình. Có anh hiền lành, giữ mãi tơ duyên một chỗ.
. Vào cuộc chiến, tôi đánh Bình Xuyên. Xuống miền Tây, ông vây Hòa Hảo. Vào trận Mậu Thân, bị đánh phủ đầu, Quân ta đã huy hoàng đứng dậy. Mùa Hè đỏ lửa, bị địch quân đập trúng ngang lưng. Mà sao lính Cộng Hòa vẫn còn gân mạnh mẽ phi thường.
. Từ Bình Long anh dũng, Nguyễn Kiếm Diệm gan lỳ ngồi trên nóc hầm, đội pháo, ăn cơm. Cho đến khi vào Hạ Lào gian khổ, Ngô Lê Tĩnh đái một bãi trên đất Tchepone, theo đúng lệnh quân hành ông Thiệu.
. Nhưng chiến tranh đâu phải chuyện đùa. Nhất tướng công thành vạn cốt khô.Giữa chốn sa trường Quảng Trị, Xuân Phan đền xong nợ nước. Trong hầm hành quân Hạ Lào, Văn Hiền tự sát hiển linh.
. Rồi có lệnh hạ thành Quảng Trị. Nhảy dù Quốc Lịch thay quân cho mũ xanh Ngô Định lên phiên. Hào khí ngất trời.
. Cho đến ngày trời sầu đất thảm tháng Tư Đen. Đỗ Đình Vượng dẫn trung đoàn về đồn trại thân yêu. Ngước nhìn trời Lai Khê thấy cay cay khóe mắt. Người ngậm tăm, súng đeo vai buồn bã. Ăn trưa với ông Tư Lệnh cơm nuốt không vô. Miếng vải trắng ai đã treo trên nóc ngọn cờ. Lê Nguyên Vỹ đi một đường tự sát. Đình Vượng cho quân lính tan hàng để sĩ quan Cương Quyết xếp hàng, vào tù cải tạo. Riêng Nguyễn Đình Duy tự kết liễu cuộc đời cùng với thành Sài Gòn sụp đổ.
Kính thưa chư liệt vị, Khóa chúng tôi đây, Khóa di cư chạy loạn, từ Bắc vào Nam cùng nhân dân đã kiến tạo hai nền Cộng Hòa… và hai mươi mốt năm xây nhà, dựng nước.
Paris ký Hiệp Ước Hòa Bình, Nguyễn Thế Nhã đón tù binh Nghiêm Kế trở về bến sông Thạch Hãn. Tưởng rằng phen này trong ấm ngoài êm.Chẳng hiểu vì sao, chỉ một tháng trời oan nghiệt, quân cán chánh chạy dài từ dọc xuống ngang… để anh em chúng tôi cũng phải chia phần, làm tan đàn sẩy gánh.
Đám nhanh chân chạy thoát khá nhiều, người ở lại chịu đọa đày cũng lắm. Bước chân đi mặt còn ngoảnh lại, phía chân trời xiềng xích trông theo.
. HO qua Mỹ, tổn thất quá phần ba. Gặp lại anh em vừa yếu lại vừa già. Hai mươi mốt năm chinh chiến đã trôi qua. Thêm hai mươi chín năm cải tạo cộng với lưu đày. Là vừa đủ năm chục năm tròn gian khổ.
. Vì vậy nên mới có hôm nay, tháng Ba năm Lẻ Bốn. Chúng tôi về đây, dành lại một ngày cho Năm Mươi Năm Họp Khóa Ngậm Ngùi. Để đếm đầu người, xem anh em, ai còn, ai mất.
. Ba trăm chàng trai đất Bắc, giờ đây chỉ còn lại bảy chục bác cao niên. Già thật là già. Lão ơi là lão. Nước mắt đã khô rồi. Gặp nhau chỉ cười thôi. Đây là lần đầu nhưng biết đâu đây sẽ là lần cuối. Sợ thì ông đếch sợ, nhưng buồn thật là buồn.
Thưa quý vị.
Bầy ong thợ về già sẽ bay đi bốn phương trời trong cuộc hành trình vĩnh biệt. Nhưng con cá Hồi suốt đời vùng vẫy biển khơi vẫn phải trở về họp bạn ở nơi nguồn gốc. Khóa chúng tôi không phải lũ ong chơi xong rồi bỏ cuộc. Chúng tôi là những con cá Hồi lương thiện, năm mươi năm trở về tìm lại anh em.
Vì vậy nên có thơ rằng:
Hai mươi năm tuổi trẻ, hai mươi năm chiến chinh.
Hai mươi năm tù ngục.
Hai mươi năm điêu linh.
Năm bảy lăm tiền kiếp.
Tháng tư đuổi sau lưng.
Mang tuổi đời chồng chất,
cùng vượt thác băng ngàn.
Tuổi hoa niên cắt ngắn. mái tóc bạc dài thêm.
Tay nắm tay cằn cỗi.
Lòng mở rộng tấm lòng.
Năm mươi năm hội ngộ.
Một thế kỷ vừa qua.
Hoa mai vàng nở sớm.
Gặp nhau những muộn màng
(Giao Chỉ, tháng 3-2004.)
Từ Việt Museum San Jose đến Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tại Hà Nội.
Bài của Giao Chỉ:
Tâm thư trong năm lưu vong thứ 50 tại Hoa Kỳ
Thân gửi các chiến hữu VNCH

Sau đây là tài liệu trích dẫn nguyên văn báo chí và hình ảnh tại Hà Nội:
Chia sẻ :”Từ ngày 01/11/2024, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam chính thức mở cửa đón, phục vụ khách tham quan và miễn phí tham quan đến hết tháng 12/2024.
Bảo tàng mới được xây dựng với thiết kế hiện đại, tạo một không gian chung để khách tham quan tương tác và trải nghiệm
Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam được Bộ Quốc phòng đầu tư xây dựng mới trên địa bàn hai phường Tây Mỗ và Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội từ năm 2019, trên diện tích 386.600m2.
Bảo tàng hiện đang lưu giữ hơn 150.000 hiện vật, trong đó có 4 bảo vật quốc gia và nhiều hiện vật quý.
Diện mạo mới của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam: Khu nhà bảo tàng nổi bật với sân trước và tòa tháp Chiến thắng cao 45m, cùng với đó là khối nhà bảo tàng gồm 4 tầng nổi và 1 tầng trệt, diện tích xây dựng 23.198m2. Tổng diện tích sàn tòa nhà chính rộng 64.640m2, tổng chiều cao 35,8m.
Cánh bên phải, trái là khu trưng bày các hiện vật ngoài trời. Phía bên trái, trưng bày những vũ khí, trang bị của Quân đội và nhân dân Việt Nam sử dụng trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ xâm lược và sử dụng trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phần nhận định của Giao Chỉ
Với tư cách là người đơn phương sưu tầm và xây dựng Việt Museum tại San Jose, chúng tôi rất quan tâm đến dự án Bảo tàng của quân sự Hà Nội. Đã xem qua các đoạn phim triển lãm và xin ghi nhận như sau.
Hà Nội đã dành rất nhiều công phu, tiền bạc và tài liệu để hoàn tất một công trình tuyên truyền vĩ đại về cuộc chiến tranh Việt Nam. Trên khu đất mênh mông, các kiến trúc sư đã xây dựng một bảo tàng viện tuyên truyền, và ngày khai mạc đã có hàng ngàn dân chúng đến thăm viếng. Hà Nội đã sử dụng tối đa các chiến lợi phẩm do Hoa Kỳ và VNCH bỏ lại trên chiến trường để phô trương các chiến thắng trong chiến tranh. Không phải bảo tàng viện lịch sử.
Trong ngôi nhà bảo tàng kiến trúc theo kiểu Tây phương nhưng nội dung rất nặng về tuyên truyền một chiều. Không phản ánh thực sự cuộc chiến tranh, dù là đứng về phe cộng sản, từ ngày nổi dậy sau Đệ nhị Thế chiến (1939-1945) cho đến 1954 bắt đầu chiến tranh Nam – Bắc. Điều rất đáng tiếc là với biết bao nhiêu tiền bạc và công phu, nhưng Việt Nam không đủ sức vượt qua nhu cầu gian dối để bỏ qua những đau thương thực sự của cuộc chiến tương tàn tại Việt Nam.
Ngay từ những ngày đầu, người quốc gia Việt Nam đã phải lựa chọn giữa hai con đường: theo Pháp đánh cộng sản hay theo cộng sản đánh Pháp. Tiếp theo sau Hiệp định Genève 1954, cả miền Nam xây dựng trong 21 năm vừa chiến đấu vừa bảo vệ tự do không có mặt trong chiến sử. Các trận đánh từ Mậu Thân 1968 đến mùa hè 1972 với Kontum, Bình Long và Quảng Trị hoàn toàn bị chôn vùi trong quân sử cộng sản. Trong chiến tranh, Hà Nội qua thời kỳ đấu tố và bao cấp. Không hề có dấu vết về những sự hy sinh to lớn của cả thế hệ thanh niên miền Bắc và dân quê của phong trào Giải phóng miền Nam.
Sau chiến tranh, không hề có tài liệu về hậu chiến. Không hề thấy tài liệu về hàng ngàn trại tù và trăm ngàn tù nhân “Học tập cải tạo” từ 3 năm cho đến 17 năm gian khổ oan khuất. Tuyệt nhiên không hề có tin tức về hậu quả của công cuộc “giải phóng miền Nam” của quân đội cộng sản miền Bắc.
Tất cả đều thể hiện bằng một chiếc xe Jeep cộng sản cướp được từ miền Trung và chạy theo đoàn quân tiến về Sài Gòn, được sơn phết cải lương xanh đỏ, được xưng tụng là di vật anh hùng của trận chiến thắng sau cùng. Và thực sự, chuyện sau cùng là quân sử chiến tranh của cộng sản không thể đề cập đến hàng triệu người dân Việt đã bỏ nước ra đi sau khi được “giải phóng”. 300 ngàn người đã hy sinh trên đường tìm tự do, và ngày nay đã gửi về quê hương hàng tỷ Mỹ kim để nuôi đất nước giàu mạnh tiếp tục gian dối với lịch sử dân tộc.
Quân sử cộng sản Việt Nam đã hoàn tất một viện bảo tàng vĩ đại và gian dối với lịch sử. Các anh đã bỏ quên hàng trăm ngàn lính trẻ sinh Bắc tử Nam vẫn còn nằm mãi mãi ở dãy Trường Sơn, ở cả hai bên từ Đông sang Tây.
Điều khác biệt là tại Việt Museum nhỏ bé ở San Jose vẫn còn vĩnh viễn mô hình của Nghĩa trang Quân đội VNCH tại Biên Hòa với bia mộ 16 ngàn tử sĩ.
Để đối trọng với Bảo tàng Viện vĩ đại của quân đội cộng sản Hà Nội, chúng ta có một Việt Museum nhỏ bé tại San Jose nhưng hết sức ý nghĩa, thể hiện sự can trường trong chiến bại của anh em ta. Tại đây tuyệt đối không có đại bác, tàu bay hay chiến xa. Chỉ có hình ảnh của người chiến binh và cây súng trường. Bản đồ và thống kê con đường vượt biển tìm tự do. Các tượng đài trận đánh và chiến thắng từ 1968 đến 1973. Những cái chết anh hùng tự sát tháng Tư năm 1975.
Di sản anh hùng của bảo tàng miền Bắc là xác chiếc máy bay B52 của Mỹ nằm lại tại Hà Nội. Di sản nhỏ bé của Việt Museum là chiếc gạt tàn thuốc tầm thường của tướng Lê Văn Hưng – người anh hùng tự thủ thành công trận Bình Long vào chiều 30 tháng Tư tại Cần Thơ. Ông đã hút điếu thuốc lá cuối cùng, gạt tàn thuốc và dặn vợ nuôi con rồi tự vẫn bằng cây súng lục. Chiếc gạt tàn thuốc được đặt cạnh những ngôi sao cấp tướng Hoa Kỳ đầu tiên của cậu bé thuyền nhân Lương Xuân Việt.
Bên cạnh đó là chiếc đồng hồ của phi công VNCH Bùi Đại Giang, chỉ đúng một giờ khi anh và máy bay đâm đầu xuống đồng ruộng quê hương tại Hồ Bò, Hậu Nghĩa. Chúng tôi đã tảo mộ tìm xác anh phi công trẻ Bắc Kỳ di cư với toàn bộ quân phục và tài liệu. Hình ảnh còn lại của anh phi công miền Nam trẻ đẹp tuyệt vời đã làm rung động cả làng cộng sản đi đưa đám ma chôn lại trên khu đất phi cơ đâm đầu xuống.
Vâng, thưa các chiến hữu, tại Việt Museum của chúng tôi đã có các tượng đài bên ngoài và 200 di vật, tác phẩm nhỏ bé bên trong. Các họa phẩm về thuyền nhân do chính các thuyền nhân đã hy sinh sáng tác. Những bức hình thuyền nhân vào được gần bờ phải tự mình đánh đắm thuyền để được cứu vớt. Câu chuyện phải kể lại: anh chồng đục thuyền chìm rồi quay lại thấy vợ con đã trôi theo con thuyền tự mình đánh đắm.
Di sản của Việt Museum bao gồm những chiếc thùng chứa đồ thật lớn của HO, đem theo các đồ làm ruộng và nhà bếp. Bên ngoài ghi rõ là HO 15. Chúng tôi không đem theo được cái cột đèn mà mỗi đêm các cháu vẫn ra ngồi học bài.
Việt Museum nhỏ bé không hề tuyên truyền. Tất cả đều là sự thực đầy ý nghĩa của cuộc chiến, nhưng không tránh được thất bại cuối cùng. Viện bảo tàng thuyền nhân và Việt Nam Cộng Hòa không phải là nơi tuyên truyền dối trá suốt nửa thế kỷ thời hậu chiến.
Bức tường với một ngày trong đời người tù binh Cộng Hòa trong ngục tù cộng sản. Những tấm giấy của người tù ra trại với tội “Y tá” hay “Thầy giáo” trở thành tấm vé cho cả gia đình qua Mỹ tìm tự do, được đưa vào khung ảnh tấm áo ra trường của con em tốt nghiệp.
Một khu trưng bày đơn sơ nhưng thực sự là bao gồm các di sản của thuyền nhân dưới đáy Biển Đông. Qua thực tế với những di sản sưu tầm được, gồm 200 món hàng, đã làm Việt Museum xứng đáng là nơi ghi dấu lịch sử duy nhất trên thế giới của Người Việt Tự Do.
Trang Thơ Lê Tuấn – 50 Năm Xa Xứ 11975-2025
KIỀU MỸ DUYÊN – VĂN: NHỮNG NGƯỜI ĐÃ RA ĐI. VÀ CHƯƠNG TRÌNH “CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA” (Cập Nhật Mới Nhất)- VỚI NHIỀU THÔNG TIN CỘNG ĐỒNG RẤT THÚ VỊ.
KIỀU MỸ DUYÊN: NHỮNG ĐIỀU ĐỂ NHỚ TRONG MỖI CHUYẾN ĐI – Và YOUTUBE Xin Chung Tay Góp Phần Xây Dựng Nhà Thờ Sa Loong.
NHỮNG ĐIỀU ĐỂ NHỚ TRONG MỖI CHUYẾN ĐI KIỀU MỸ DUYÊN
KIỀU MỸ DUYÊN – NHỮNG SHOWS CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA.
THƠ SONG NGỮ – THANH THANH -HOÀNG LONG HẢI
Một Cõi Xa Người
Em đi mang nỗi buồn thiên cổ
Ta đứng nơi này ngọn lửa than
Buồn trôi theo gió đi biền biệt
Lửa ngấm thời gian cũng lạnh tràn
Một thân nơi ấy, em nhìn lại
Tự thấy hồn em khóc biệt ly?
Hỡi ơi mây trắng trôi về núi
Còn lại trong ta chút ngậm ngùi
Ngàn năm với một ngàn năm nữa
Nát đá phai vàng cõi tử sinh
Nghe như nhân thế còn hơi thở
Ai vẫn trông ai mắt mỏi nhìn
Ở đây thăm thằm đời mưa gió
Gió gọi em về, ta đợi đây
Ngoảnh lại quê làng tre quạnh quẽ
Con sông thơ ấu nước vơi đầy
Nửa đêm chợt thức hồn phiêu lãng
Một nửa đời ta lỗi hẹn người
Vẫn cứ tiếc hoài sao lỗi hẹn
Đời như con nước chẳng buồn trôi
Mai mốt giong buồm ra biển rộng
Chân mây ai đứng gọi hồn ta
Có phải ngàn năm em đứng đó
Ôm nàng Tô Thị ngó trăng tà
Về đâu? Ta sẽ về đâu nhỉ
Có đứng cùng em bạc mái đầu
Bao lâu trời đất còn dâu bể
Vọng hồn cố quốc tiếng thương đau
Khóc chi? Ta vẫn còn khóc mãi
Dòng lệ tuôn ngoài chốn viễn khơi
Đời vẫn trôi xa ngàn dặm thẳm
Mượn “be” Phạm Thái để quên đời
Ta vẫn cố quên, mà quên được?
Làm “con ngựa đá lội qua sông”
Tiếc một đời trai sông đã cạn
Bao nhiêu xương máu đã khơi dòng
Ừ nhỉ! Ta mê đời vọng ngữ
Một cõi hư huyền tiếc mãi chi
Ta lại nhìn ta lòng chợt tỉnh
Trăm năm “thân thế lỡ qua thì”!
HOÀNG LONG HẢI
A World Away
You have left taking with you the eternal dole
And I remain here with the kiln of charcoal.
Sadness has gone with the wind to vanish forever;
Fire extinguished, time also grown cold however.
Alone in that domain you look back in frustration,
Feel for yourself your soul weeping separation?
Oh clouds, white clouds that drift to mounts ashen,
There still is in myself such a bit of compassion.
A thousand years and one more thousand a year
Rocks crumple, gold dissolves in this earthly sphere
But as long as there still is breath in this existence,
One is continuing to expect another at no distance.
Life here is rain and wind in a profound state;
That wind calls you back here where I am to wait.
Bach around is the native village bamboo desolate,
The childhood’s river water up and down at its fate.
Suddenly waking at midnight from a certain dream:
Half of my life I have broken my promise – I deem.
Always regretting that I failed by my word to abide,
So life is like the stagnant spring not to stir its tide.
I imagine someday I unfurl the sails to the sea wide,
Someone at the horizon calls my soul to her side.
Is that you stand there a thousand years through
Embracing in the moon the husband-waiting statue?
Where to go? Shall I go to what direction, gateway?
Shall I stand together with you until hair turns grey?
As long as vicissitudes still exist in this worldly life,
Tragic echoes of our old country’s soul will grow rife.
Weep? I will always cry out of my deep emotion,
The stream of tears will effuse in the distant ocean.
Life is still elapsing thousand miles far-off in brine;
Frustrated, to forget things one has recourse to wine.
I have tried to forget, but how could I forget?
Even stone war-horses did cross rivers to pay the debt.
So to regret such youth, watercourses have gone dry;
How much blood and bones did the influx come by!
Oh well! I have used to admire illusory, alluring lies:
Nothing too repent – of wild dreams under the guise.
Looking back to myself suddenly wakes up my mind:
My human condition in life has ruefully fallen behind.
Translation by THANH-THANH
THƠ XUÂN MẶC KHÁCH

HẠNH NGỘ
Mừng bạn tha hương lại gặp nhau
Xuân về viễn xứ nỗi niềm đau
Trà đàm LẠC VIÊT vui thanh nhã
Hạnh Ngộ VĂN THƠ thú vị cao
Tâm mở lòng thành ơn đức gửi
Ý cầu phúc thọ nghĩa tình trao
Lời ca lay nhẹ hồn xao xuyến
Chạm đến Quê xa lệ nghẹn ngào!
Mặc Khách
TRẦN CÔNG/LÃO MÃ SƠN – TIỄN TÁO QUÂN
CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN –
NỤ HÔN CỦA MẶT TRỜI. CAO MỴ NHÂN
Em mãi còn say đắm
Cuộc tình thơ hôm nay
Dưới mặt trời tươi thắm
Cánh hoa nở ngất ngây
*
Khi vườn tình một thủa
Đã khép mùa xuân đầy
Cửa thiên đường vội mở
Chờ em trong vòng tay
*
Lời thánh ca tha thiết
Anh có biết mốt mai
Chúng mình về cõi chết
Nhưng sống ở thiên thai
*
Em lịm dần hơi thở
Anh hôn mặt trời chiều
Đưa em vào quá khứ
Trọn vẹn với thương yêu…
CAO MỴ NHÂN
**
NỤ HÔN VÀ MẶT TRỜI. CAO MỴ NHÂN
Buổi sáng nếu anh hôn em
Mặt trời sẽ lên từ sớm
Rộn ràng đánh thức trái tim
Bằng lời chim khuyên chào đón
*
Buổi trưa nếu anh hôn em
Mặt trời chưa xa thành phố
Vội vàng đến trước công viên
Mở từng cánh hoa rực rỡ
*
Buổi chiều nếu anh hôn em
Mặt trời âm thầm từ giã
Trả lại cho mình bóng đêm
Với bao nhiêu điều kỳ lạ …
CAO MỴ NHÂN
**
GA CUỐI TÀU ĐỜI. CAO MỴ NHÂN
Đường qua cố lý thủy chung
Nối không gian lại, vượt trùng quan xa
Anh về sống với người ta
Bỏ em giữa chốn sơn hà quạnh hiu
*
Hồn sầu chiu chắt thương yêu
Sương pha từng sợi tóc chiều trắng mây
Mai kia tiếc đất trời này
Thả nguyên tâm sự trải đầy mộng mơ
*
Núi mùa xuân biếc trong thơ
Nhớ anh nhện thả màn tơ chập chờn
Gió thì thào gọi van lơn
Quê hương buồn tủi, em hờn giận anh
*
Tàu đi cuối tỉnh đầu thành
Qua bao phố thị đồng xanh mịt mù
Tàu dừng ga cuối thiên thu
Mai sau còn lại lời ru biệt đời …
Rancho Palos Verdes 10 – 11 – 2024
CAO MỴ NHÂN
CAO MỴ NHÂN. VĂN – KHÓI TƯƠNG TƯ
KHÓI TƯƠNG TƯ . CAO MỴ NHÂN
Mấy hôm nay cố tìm một bài hát mà mình rất thích …
Nhưng bài gì và của ai, thì thật quả không nhớ, tại khi nghe, là lúc ca sĩ đã hát được nửa bài rồi, mà tôi thì cũng chẳng cần nghe tới kết thúc .
Nhưng cái nghề đời, càng dở dang sự việc, càng khiến mình phải tìm tòi cho ra cái chân lý lu mờ đó.
Đành chịu sắp xếp …cơ sở lý luận .
Tuy không có năng khiếu thiên bẩm về ca nhạc, nhưng vẫn biết được dòng nhạc đó thuộc về ai chứ, chẳng lẽ i tờ quá, huống chi còn thỉnh thoảng lai rai vài câu “ cò lả “ tân thời, tức là nhạc sến theo ý tôi đấy .
Tôi bèn nghi ngờ bài hát mình đi tìm trong số tâm ca của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, vì cái ” e ” nghe nó cứ vời vợi u buồn, như lời của người đứng trên bờ sinh hoá, một bên trắng xoá, một bên tối đen mờ mịt .
Nhạc của cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng thì đã mấy lần tôi kể lể quý vị nghe cái bài thật kinh điển đối với tôi, là ” Bài tình ca mùa đông “, và bài đó, tôi thuộc lòng như cháo chảy, còn phải tìm chi nữa .
Bài khác cơ, giọng điệu như của một người hấp hối đang chờ người khách thân tình, không phải là bạn thiết, nhưng cảm thấy không thể thiếu nhân diện này, nếu người đó chết đi, trong lòng họ sẽ trống vắng khủng khiếp …
Thì thôi cứ xem như bài : ” Tưởng niệm ” .
Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng viết tưởng niệm gì, tưởng niệm ai ?
Xin mời nghe :
Ta nghiêng tai nghe lại cuộc đời
Thì hãi hùng, hoàng hôn chợt tới …
Hoàng hôn tức là chiều tà, chiều sắp tắt, có sao đâu .những buổi tiệc chiều bắt qua đến nửa đêm, là rất thường đối với một văn nghệ sĩ chứ .
Không phải, đây là cuộc đời, đâu phải sân khấu, để diễn xong, thì về nhà ngủ, hay tiếp tục đi chơi khuya …
Với cuộc đời đã chiều rồi, là hoặc phải vội vã lên, làm nốt những công việc lỡ dở …hoặc buông suôi thôi …
Nhạc sĩ soi thêm tình người, để tránh nghi ngờ, thì ôi thôi, bóng chiều đổ ập xuống …đường cái, hay phố xa ? Không , thưa quý vị, bóng chiều đó đổ xuống đôi môi . Nhưng không phải đôi môi mê đắm, mà đôi môi …lịm bặt, bàng hoàng, vì tới giờ trăn trối …xót xa…
Đang nâng niu cuộc tình lộng lẫy
Bỗng ngỡ ngàng vụt mất trong tay …
Chẳng có cái buồn nào hơn nỗi buồn bị mất một vật quý trong tay, ngay trước mắt mình chẳng hạn .
Tôi bị lây nỗi buồn tưởng là nhẹ nhàng, đâu ngờ nó bi thảm quá :
.
.. Ta khổ đau một thời
Để mất nhau vài giờ …
Vẫn phải dùng chữ ” không ” để khẳng định, ấy là không phải cái cuộc tình lộng lẫy nêu trên, chỉ tạm mất vài giờ …
Mà trước đó, đã một thời khổ đau rồi , không níu kéo được, đôi khi chỉ vì một lý do khách quan, khiến vài giờ sau là mất …trắng.
Nói kiểu như tôi thì chẳng còn gì thơ mộng, mất trắng luôn, mới diễn tả được cái không còn lại với mình chứ . Tuy đau khổ thế, trong ” Tưởng niệm “, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng vẫn …đằm thắm, thiết tha :
…Mang ơn em đau khổ thật đầy
Là nắng vàng dù trốn trong mây …
Vâng, đau khổ nào rồi cũng được Thượng Đế cất cho thôi , người đau thương ấy, nhạc sĩ viết nhạc, tôi không dám liệt cái nỗi khổ trầm kha từ nãy giờ, vào danh phận nhạc sĩ, e võ đoán , nhưng nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã ngậm ngùi trước ” con người ” ông, như tất cả mọi người thế gian :
Mang ơn trên cho cuộc đời ta
Vài vạn ngày gió cuồng, mưa lũ …
Thượng Đế khi sinh ra nhân loại, không nhất thiết ai cũng được nằm trong chăn ấm, nệm êm …mà cuộc sống trăm năm, hay ba vạn sáu ngàn ngày ( là mấy ) này chỉ thấy gió cuồng, mưa lũ …Nên:
” Trong cơn đau, một vùng nhang khói …”
Ông đã rõ đoạn kết, nhang khói sẽ kéo ông về , về cõi …hư vô …để chấm dứt bài ca ” Tưởng niệm ” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng :
Trong cơn đau, một vùng nhang khói
Kéo ta về, về cõi hư vô …
Tới đây thì tôi lại nhớ hình như
Ngày giỗ của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng ( 1 -10 – 1937. / 25- 1- 2000 ) .
Như vậy nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đã tự tưởng niệm ông từ thủa sinh thời .
Bài ” Tưởng niệm ” nghe hay quá, ý nghĩa quá, tôi tạm không đi kiếm bản nhạc nữa, tôi chỉ còn nhớ mài mại cái giọng của nó thôi …một giọng buồn khó tả lẩn khuất trong khói bay …
Ôi sao tôi đang giận …người ta mà, đã mấy ngày cây thị sau nhà, không rơi một quả, hay cái điện thoại không reng …
Đã thế còn im re suốt ngày nay…cho tới khi chiều xuống …
” Ta nghiêng vai soi lại tình người …
Thì bóng chiều chìm xuống đôi môi …”
Ngày nào cũng không reng, chắc điện thoại hư, chứ không phải tại lời ” Tưởng niệm ” của cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng đâu …
Người ta đã ” hăm ” rồi, đừng soi ( mói ), thì hoạ may lộng lẫy tình người, chứ cứ chốc chốc lại đem kính viễn vọng ra… rà soát ” khối tình Trương Chi ” như rà …mìn ngày xưa , thì, coi chừng mất trắng …nơi cây thị sau nhà đấy .
Bởi lẽ ở đời, khi đã phân tâm, phân tán hình ảnh vào hàng trăm quả thị, thì còn đâu ý nghĩa mộng mơ để tôn thờ … thật buồn …
CAO MỴ NHÂN
KIỀU MỸ DUYÊN – SỨC MẠNH NIỀM TIN TÔN GIÁO.
SỨC MẠNH NIỀM TIN TÔN GIÁO