KIỀU MỸ DUYÊN – CHA ƠI, CON THƯƠNG CHA LẮM!




YÊN SƠN – GIỚI THIỆU TRANG VĂN HỌC THƠ NHẠC YÊN SƠN (VietLife TV, June 06th. 2025)




THƯ ĐÔNG KINH THÁNG 6 – ĐỖ THÔNG MINH




CAO MỴ NHÂN – VĂN: HUYỀN THOẠI 12 – 6. Đóa Hoa Vô Ưu- Và Chùm THƠ Cao Mỵ Nhân.

HUYỀN THOẠI 12 Tháng 6

Cao Mỵ Nhân

Giai thoại thơ Tố của Hoàng ơi có hai bài chính:

Mười Hai Tháng Sáu

Tố Của Hoàng Ơi

Tìm một ý có vẻ giới thiệu cuộc tình thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, cứ như là giận lắm mối duyên gãy đổ của mình, nhà thơ viết:

Năm mười hai tháng, ai không biết

Đã tháng nào không tháng sáu chưa?

Đây là hai câu trong một đoạn thơ ở bài sau, Tố của Hoàng ơi, tác giả viết năm 1972, còn khẳng định thời gian đã trên 30 năm không có Tố, tức là khởi sự Tố với Hoàng kết thân khoảng từ 1950 đến 1952.

Bây giờ đi vào chi tiết.

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương (5/5/1916 – 6/9/1976) vừa xong hoa giáp thì ra đi vào cõi mịt mù, sau cũng cả năm trời bị nhốt trong khám Chí Hoà vì là một nhà thơ trí thức tiểu tư sản, lẽ nào bạo quyền duy vật để cụ yên.

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương cùng với thi sĩ Đinh Hùng (1920 – 1967) em cụ bà Vũ là hai nhà thơ lãng mạn nổi tiếng một lượt với các thi sĩ tiền chiến Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, nhưng nhị vị đương nêu không theo cộng sản mà đã di cư vào Nam năm 1954.

Vô Nam, thi sĩ Đinh Hùng thành lập ban Tao Đàn, tiếng nói thơ văn miền tự do cùng với quý ông Thanh Nam, Văn Quang, Thái Thuỷ, v.v.. Thi si Vũ Hoàng Chương thì đi dạy học ở Sài Gòn.

Song có điều lạ là các thi sĩ lớn ở đâu cũng vậy, người ta tức là đông đảo độc giả, thính giả thường ưa nghe huyền thoại của nhà thơ hơn là theo dõi hành trình thơ đã tiến tới đâu.

Có khi những đoạn đời sau cũng có những điều riêng tư đáng ngợi ca nhưng độc giả vẫn cứ quen thuộc huyền thoại, đến không quên một chi tiết nhỏ.

Thí dụ nhắc tới thi sĩ Cung Trầm Tưởng là lập tức khách thơ nói ngay: Lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế… Nhắc tới thi sĩ Đinh Hùng thì cứ đánh thức hồn mà dậy…

Và ngay với cụ Vũ Hoàng Chương thì Chúng ta mất hết chỉ còn nhau, cũng khuôn vàng thước ngọc, nhưng xem ra thua kém Tố của Hoàng ơi hẳn.

Do đó huyền thoại này là bất biến với nhà thơ. Tố của Hoàng ơi cứ lừng lững năm này qua năm khác đi vào những khúc quanh thơ ca Vũ Hoàng Chương.

Mười hai tháng sáu

Mở màn cho thiên hạ thấy tình sử, bốn khổ thơ đầu khổ nào cũng có Tố của Hoàng ơi theo thứ tự:

Tố của Hoàng ơi, hỡi nhớ thương…

Tố của Hoàng ơi, Tố của anh…

Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi…

Tố của Hoàng nay, Tố của ai…

Tiếp tới bốn đoạn sau của bài thơ tám khổ ấy chỉ toàn hò, xừ, xang, xế với danh tính Kiều Thu.

Vậy Kiều Thu là nhân vật nào nữa đây?

Xin thưa Kiều Thu lẫn lộn trong hò, xừ, xang, xế mà thôi. Kiều Thu hề Tố em ơi có nghĩa Kiều Thu chính là Tố vậy.

Kiều Thu hề Tố em ơi

Ta đang lửa đốt tơi bời mái Tây

Hàm ca nhịp gõ khói bay

Hò, xừ, xang, xế, bàn tay điên cuồng…

Nếu huyền thoại chỉ bấy nhiêu thì thật quả câu chuyện chỉ là trách móc, rồi dùng hò, xừ, xang, xế… xênh phách cho quên đời.

Nhưng có một đoạn thơ như bật cái điều bí mật ra, thi sĩ Vũ Hoàng Chương nói thẳng cho những ai muốn biết:

Huyền thoại Tố của Hoàng ơi chỉ là một cuộc tình cuồng, tình si không hơn không kém. Không vì một lý do to lớn nào hay một chuyện tình lồng trong một sứ mệnh gì của sơn hà xã tắc chẳng hạn. Chỉ là tình buồn, mãi mãi tình buồn…

Men khói đêm nay sầu dựng mộ

Bia đề tháng sáu, ghi mười hai

Tình ta ta tiếc, cuồng ta khóc

Tố của Hoàng nay Tố của ai?

Tố của Hoàng ơi

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương với hơn 30 năm nỗi oan hờn, ẩn ức không thể một mình ấp ủ được mãi.

Không lý chuyện tình cảm riêng mà bắt vợ con gia đình chia sẻ? Nỗi đau trở thành mối thù ma quái vì sự thực Tố đó không chết mà vẫn sống trong dằn vặt, oan khiên, cay đắng của một nhà thơ lớn mà cứ phải lụy tình một người…

Nên tới năm 1972, đúng ngày 12 tháng 6, cụ làm một bài thơ bảy khổ tứ tuyệt lấy hẳn tựa đề Tố của Hoàng ơi.

Bài thơ này gần như bạch hoá mối tình cuồng si, mê loạn trong hơn 30 năm.

Có thể trên cương vị một người làm thơ, dù mê đắm tới đâu, tôi nghĩ với thời gian dài dằng dặc hơn 30 năm bao tang thương đó, tình cảm cũng đứng lại. Dù Tố của Hoàng đẹp tới thế nào cũng không là tiên, là Phật trong tranh để trẻ mãi không già.

Một dịp hội thơ đầu thập niên 80 thế kỷ trước tại Uyển Đình, tư thất của nữ sĩ Uyển Hương, cũng vào một ngày tháng 6 năm 1982, tình cờ tôi lại ngồi cạnh nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh, phu nhân của thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã quá cố, đồng thời là hiền tỷ cố thi sĩ Đinh Hùng…

Nhị vị thi sĩ lớn quá, dễ gây ấn tượng.

Bất giác tôi ngó nữ sĩ Thục Oanh, mỉm cười: Tố của Hoàng ơi đâu rồi chị?

Nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh cũng hài không kém, bèn đổi giọng nói kiểu… thơ:

Tố của Hoàng xưa, Tố đã già… rồi.

Mừng quá, tự dưng biết tin Tố của huyền thoại cụ Vũ, tôi ỡm ờ: Biết rồi, nhưng Tố ở đâu xa?

Tất nhiên, nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh cũng đẩy xa câu chuyện vào huyền thoại cho đẹp mãi tình phu, nghĩa phụ cụ Vũ cùng Đinh nữ sĩ trong văn chương lẫn ngoài cuộc sống bình thường vậy.

Hoá cho nên, yêu đây là yêu cái dĩ vãng thôi, phải xoá trắng cái dĩ vãng mới gọi là không còn dính líu tới nhau:

Tháng có 30 ngày để giết

Ngày 12 vẫn sống như xưa

Hay:

Còn đó 12, còn tháng 6

30 năm lẻ vẫn chưa vừa…

Đã đến lúc tình yêu thương trở nên nghiệt ngã, hằn học, cực đoan… Thi sĩ Vũ Hoàng Chương trở thành độc đoán, dằn vặt giai nhân Tố:

Ngày mai, ngày mốt, anh nằm xuống

Ngọc đọng cơn sầu nửa kiếp thơ

Đập nát ra cho trời đất uống

Thì em sẽ rụng khỏi đêm mờ…

Đoạn trên mới chỉ khai vị, chưa uống được cái cơn say tàn nhẫn hơn nữa bởi vì bị khựng lại do trong tâm khảm người bị thất tình vẫn còn lại chút gì để tiếc nhớ.

Tới giai đoạn những gì quý giá, ân tình nhất đã bị gạt đi, chỉ còn lại hai sự kiện để chọn lựa là hy sinh hay thù hận, mới quên được người tình hay cuộc tình.

Thi vương Vũ Hoàng Chương có lẽ vì mất mát tình cảm nhiều quá nên không thể cho thêm, hay mất thêm:

Mười hai tháng sáu, cung Hồ, Xế

Một mối tình si, một mối thù

Giây phút cũng tan thành suối lệ

Trả cho cát bụi nhé Kiều Thu.

Độc giả, thính giả tưởng rằng mối tình si đã biến thành mối tình thù không sao gỡ được.

Nhưng như tôi đã trình bày ở trên, sau 30 năm nhà thơ vẫn có thể viết tiếp những vần điệu cũ để tô điểm thêm cho huyền thoại, tưởng như thất thoát, mà cũng được đền bù.

Huyền thoại Tố của Hoàng ơi âm hưởng phảng phất những chuyện tình buồn trong cổ tích, ngoài dân gian ở bất cứ nơi đâu và thời gian nào…

CAO MỴ NHÂN

**

Không biết cây vô ưu cao thấp to nhỏ thế nào, nên cành vô ưu cũng là trong tưởng tượng đối với tôi, xin quý vị tha lỗi cho một kẻ tò mò, ham hố, nhưng đầy thiện chí. 

Nhưng hoa vô ưu thì hình như tôi có vài lần thấy thấp thoáng trong tâm tưởng…

Đóa hoa ấy không rõ nét, lại càng không thấy mầu sắc rõ ràng…nó mơ hồ thoắt ẩn, thoắt hiện, trên trang giấy khói hương, hay là ở một không gian nào huyền ảo khó nhận ra được nơi đâu trên thế gian này…

Tôi cứ bâng khuâng, rồi lại băn khoăn tự hỏi: ” Hay là mình hệ lụy quá, nên không được hưởng phút giây thanh thoát cao vời, thưởng lãm hương vô ưu đang ngạt ngào tỏa khắp đó đây …

Nhưng phải năng đến chùa, có đến chùa không mà đòi thấy hoa vô ưu chứ. 

Cũng đến nhưng không thường xuyên. 

Hôm xưa về Già Lam, bạn đạo dắt tới một gốc cây thật to, lối cổng đi vào Chùa, bên tay phải, bảo rằng đó là cây bồ đề. 

Mình nhìn kỹ cây bồ đề, tưởng tượng Phật tổ ngôi ngay ngắn, thẳng thớm dưới gốc cây bồ đề, ở xứ Phật xa xôi…

Mình lén hỏi: ” Còn cây vô ưu chỗ nào, xin chỉ cho tôi biết với” 

Người bạn đạo chợt nghĩ chắc tôi không phải Phật Tử mới hỏi dớ dẩn thế, bèn nhìn tôi từ đầu xuống chân, ăn mặc tầm xoàng, hỏi sao tới chùa mà không mặc áo tràng, còn ngơ ngẩn thăm hỏi …tào lao . 

Làm gì có cây vô ưu, đóa hay hoa vô ưu thôi chớ, sao hỏi lôi thôi vậy, may mà không gặp thầy, đóa hay hoa vô ưu luôn nở trên tay Phật. 

Hoa vô ưu từ lòng Phật, tâm Phật mà ra …

Phải tu tâm, dưỡng tính, ngay lành, từ bi hỉ xả…nghĩa là phải tôn trọng, thanh tịnh ghê lắm mới thấy được hoa vô ưu ấy. 

Thế thì …lâu quá, làm sao thấy được ngay …

Ô hay, nội cái tính nôn nóng của chị, đã cho mọi người thấy, và cả bản thân chị cũng thấy không có hoa vô ưu trong tâm hồn, trong tư tưởng chị rồi. 

Thế phải làm sao ? 

Phải chấm dứt ngay sự việc nôn nóng, vội vã, tồn tại trăm thứ suy nghĩ trong đầu óc chị, mới …vô ưu được chớ, phải không, thử nghĩ xem…

Bạn đạo cười: ” Tự mình sẽ tìm thấy hoa vô ưu đó, xưa tôi cũng vậy, nhưng bây giờ thì đóa vô ưu đó luôn tươi tốt trong lòng tôi đấy “.

Bạn đạo lẻn đi mất, còn mình tiếp tục hoang tưởng, giữ mãi cái trạng thái đó lênh đênh về nhà. 

Vô ưu ? Là không ưu tư, không suy nghĩ, không buông mình theo những tạp niệm vô cớ, vô tình …mà xả bỏ hết, đạt tới tuyệt đỉnh của chữ vô: vô ưu. 

Chắc cũng…khó lắm, nhưng phải kiên trì, phải nhìn tấm đại gương, coi mức chiếu sáng tới đâu, để phẩm chất tiến tới, không quá lố, vì tính chất vô ưu trước nhất phải tự nhiên. 

Anh mỉm cười lửng lơ, một chút khôi hài, vì anh biết mình đã từng nhận một vài ” công tác ” với đám đông, trong sinh hoạt xả bỏ, nhưng phải hỉ xả, nghĩa là cho đi, vứt đi một cách vui vẻ …chớ đừng chấp nhận như bắt buộc.

Nhưng chính mình cũng thoáng chút nghi ngờ, sự cố gắng làm việc thiện, lại không phải cho đối tượng tha nhân cần thiết, mà là cho bản thân người muốn đi ban phát. 

Tôi có thể chứng minh với quý vị, một nhà thơ nữ bậc chị của tôi về tuổi tác, đã bất bình câu nói …trung thực mà tôi không cảm thấy hối hận, rằng : ” Từ bi chỉ có ở trong chùa ” .

Tại sao tôi lại nhận định vậy ? Vì quả thực tôi đã chứng kiến nỗi giận, hay phải nói là cuộc giận của bà chị nêu trên.

Bà đã gạt phứt những lý luận của mọi người đóng góp về danh xưng và danh nghĩa ” từ bi hỉ xả “, cứ cho là mình đúng vì mình, là họ không phải tôi, đã ở chùa suốt thời gian 24/24 giờ, 7/7 ngày một tuần, chỉ vì muốn xả hết, nhưng cứ gây cho người khác ấn tượng sân khiếp đảm của bậc …chân tu. 

Thành ra áo không mặc qua khỏi đầu là đúng, các cụ cố dân tộc ta, ít có dịp đánh giá sai con người: 

Thứ nhất là tu tại gia

Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa . 

Bây giờ đã nhiều nhân vật tiếng tăm một thời qua đời rồi, nhưng quả ” ngựa chết để da, người chết để tiếng “, tôi có thời quen thân với quý phu nhân của các thi sĩ nổi tiếng như nữ sĩ Đinh Thị Thục Oanh hiền thê của thi sĩ Vũ Hoàng Chương, rồi phu nhân của thi sĩ Đinh Hùng. 

Quý bà nêu trên thực sự ” từ bi hỉ xả ” đến nỗi hàng chục ( tôi không dám nói hàng trăm ) giai thoại tình trường của nhị vị thi gia lớn, mà có gây điều tiếng gì trong gia đình quý vị đó đâu, nếu không phải quý phu nhân ” từ bi hỉ xả ” à ? 

Nhưng có một nghĩa cử cao đẹp, mà chúng ta cũng nên biết về tấm lòng” từ ” cùng với nghĩa ” xả ” mà người nghệ sĩ diễn ngâm hàng đầu của Tao Đàn, Tiếng nói thơ văn miền nam tự do, đó là nghệ sĩ Hồ Điệp, một lần chị rủ tôi đến cuối đường Trương Tấn Bửu nối dài, Phú Nhuận, để thăm xã giao cụ thi sĩ Đường luật Như Ý. 

Tôi thấy chị Hồ Điệp ôm khư khư một gói giấy báo trước ngực. Tôi hỏi chị mang gì vậy ? Chị bảo: ” Đó là mấy cái áo tuy cũ nhưng bà hai cụ thi sĩ Như Ý thích lắm, chị đem biếu bà ấy” 

Sau 30-4-1975, dẫu cho ở Saigon xa hoa, sang giàu, nhưng nhà nào cũng kiệt quệ vì chủ nghĩa vô sản đó, 2 con trai nữ nghệ sĩ Hồ Điệp over sea tới Mỹ, chưa có tin tức, chị vẫn chia cho bạn gái niềm vui, dù thiếu thốn. 

Chị kể là, thi sĩ tài tử Như Ý, 

Đã phải làm thơ vì hoàn cảnh 2 bà của cụ: 

Bà lớn cóc cóc, coong coong ( gõ chuông niệm Phật) 

Bà bé lịch kịch chùi soong dưới nhà ( rửa chén, nồi niêu …) Tất nhiên chị tặng bà bé của cụ thi sĩ nêu trên . 

Tôi chẳng có ý tán rộng danh tính ” vô ưu” qua sự việc tầm thường nhất . Song, để đạt tới tiến trình “vô ưu” đôi khi dễ mà khó, hay ngược lại . 

Cái tâm là chính, nếu vô tâm, vô tính, vô lý, vô lễ …thì cũng gian nan mới tới được bờ giác . Phải ở bờ giác mới đạt được 2 chữ ” vô ưu”. 

Đồng thời theo thiển ý của tôi, có mon men tới được bờ giác cũng mệt nghỉ…

Thế nên, với tôi thôi, tràn đầy say đắm, mê si…để làm thơ, thì chắc chẳng thấy được đóa vô ưu nở hoa trên tay Đức Phật, Đấng chủ thuyết ” từ bi hỉ xả ” cho đời bớt chuyện khổ tâm , xây dựng hành trình ” vô ưu” để tự cứu mình ra khỏi …bản ngã phức tạp, mê lầm suốt kiếp …

         CAO MỴ NHÂN 

==

**

HOA QUỲNH MÙA HẠ.     CAO MỴ NHÂN

Hoa quỳnh nở mùa hạ

Lạt tựa nụ hôn phai

Em tô mầu phấn má

Cho tươi thắm lòng ai

*

Nhưng hương quỳnh đã tan

Chậu cây xanh héo tàn

Đoá quỳnh buồn rũ cánh

Anh về chở nắng sang

*

Chẳng còn gì cho em

Đoá quỳnh không thức giấc

Mầu hoa vàng võ thêm

Anh buồn se ánh mắt

*

Lệ em cũng vừa rơi

Gọi sầu trong tiếng hát

Tình thoáng vụt chơi vơi

Có gì như mất mát …

   CAO MỴ NHÂN

**

SẦU M.     CAO MỴ NHÂN

Ta về gom hết vần thơ cũ

Đọc lại, xem buồn lên tới đâu

Tình vẫn đầy vì chưa rạn vỡ

Ý còn vui hẳn chẳng hờn đau

*

Nhưng sao khói toả phai hàng chữ

Để mãi sương bao đậm cõi sầu

Có viết ngàn chương, thì cũng vậy

Từ xưa và tất cả … thời sau …

*

 Hawthorne – Đại hạn Utah.

         CAO MỴ NHÂN 

**

SẮC HẠ.      CAO MỴ NHÂN

Ngó nghiêng thấy được bầu trời

Cũng nghiêng như thủa để rơi mất cờ

Từ phen chất ngất đỉnh thơ

Ánh vàng chiếu rực rỡ bờ đại dương

*

Chiều hoang nắng chiếu tơ vương

Đưa tay kéo áo khói sương che buồn

Núi sông sắc hạ đọng hồn

Bâng khuâng thấp thoáng mộng còn đây kia

*

Làm sao tình cạn mộ bia

Cuối đời lệ đổ sầu chia đôi hàng

Rằng ta vẫn khách quan san

Em ơi, nán gọi hạ mang nắng về …

*

Lẽ nào tình muộn sơn khê

Cờ bay khắp chốn nắng thề vàng hoa

Trở mình, trời đất bao la

Hình non, bóng nước vỡ oà hạ ơi…

         CAO MỴ NHÂN

**

CƠN MƯA MÙA HẠ.     CAO MỴ NHÂN

Cơn mưa mùa hạ thật buồn

Như khi thu tới, hay còn tiếc xuân

Bởi vì mưa hạ bâng khuâng

Như khi anh bỏ tình nhân xa rời

*

Một khung kỷ niệm thiếu thời

Chúng mình ngồi đếm mưa rơi bạt ngàn

Ôi mưa mùa hạ lỡ làng

Giơ tay che mặt hai hàng lệ tuôn

*

Mấy mươi năm ướt át hồn

Hong khô từ độ anh còn cạnh em

Bây giờ mùa hạ buồn thêm

Vì mưa mang cả nỗi niềm sầu đau

*

Mưa làm nát ngọc, tan châu

Đêm đi càng nhớ lời nhau giã từ

Mưa ơi, mưa đến bao giờ

Xoá xong hình ảnh trong thơ mê cuồng…

      CAO MỴ NHÂN   

**

THĂM MỘ LÍNH XƯA .     CAO MỴ NHÂN

Em về giữa buổi bình minh

Tươi như máu đổ trên hình người xưa

Cả không gian bỗng tiễn đưa

Hồn chinh phu trải gió mưa nơi này

*

Chiến trường cạn chén riêng tây

Tình yêu nước đã khô bay mộ chàng 

Trao anh nguyên sắc cờ vàng

Này đây, tất cả lỡ làng quê ta

*

Em về câm nín xót xa

Sau lưng lạnh toát hồn ma tượng đài

Bó nhang chợt tắt u hoài

Nắng hong nỗi nhớ ngang trời Tiếc Thương

*

Thôi anh, tóc rối tơ vương

Vòng tay buông lỏng nghe hương khói tàn

Một mình thương tủi vô vàn

Buồn ơi mộng mị quan san bái từ …

            CAO MỴ NHÂN




THẾ HỮU VĂN ĐÀN – Firmament JULY 2025.

Lời Giới thiệu:

Dear Friend and Reader,

Long-term memory clings like a barnacle to the mind, consciousness, or brain, I don’t know which, but gustation and olfaction appear to  cling just as tenaciously to long-term memory as barnacles, and allow this French novelist to produce 1.5 million words of adorable reminiscences of the past, and the humanist Nguyễn  Bảo  Hưng to comment with profound thoughts of his own, having benefited as student from his professor at Sorbonne, who happened to be an expert on this writer. The Vietnamese language sure is a curious invention. It takes a lowly number such as one or three, and combine it with other words to form everyday idiomatic expressions of incomparable color and wit. We owe it to this one-of-a-kind researcher Nguyễn Ngoc Hà and her unbounded scholarship to bring them to light. You know Hoàng-Tâm Hilton as a Zen meditation guru, but did you read her collection of actionable tips and applicable quotations for those in their golden years? You’ll be glad to heed what she brought to you. What’s seven years compared to 50? A fraction, but to Yên Sơn it’s might as well be a lifetime. His comparatively short stint of the former VN Air Force is an obsession he can’t live down. This time he describes the Apocalypse.  Engineers are such a protean category of beings! Take Nguyễn Giụ Hùng, for instance. He delves into the minute detail of the classical examination regime of old Vietnam (a sequel),  travels to the must-see Perfume temple (another sequel), and fools around with a literally tongue-in-saliva licking stamp society. Or the intrepid philologist Nguyễn Văn Ưu who eats language theoretic controversy for lunch every time. However, this time he approaches etymology in a noncontroversial way. Or Phí Minh Tâm–you have to gently slap him on the wrist before he admits it–is a dyed-in-the-wool lover of Chinese poetry, particularly that in the famed Tang period.  If a picture is  a thousand words, then what is a graph? It’s mouthwatering frosting on a scrumptious cake. Physicist turned computer application developer in chief Trương Thiệu Hùng proposes to train you in the art and science of developing graphs for all purposes. So hurry, no, fly to his tutorial before somebody beats you to it.

The ecologist Thái Công Tụng worries about pollution in air, water and soil as well as sustainable development. He shows that development and ecology are intertwined. He digs deep into the river system in North Vietnam to point out environmental issues to address before it is too late. Scholar Nguyễn Cẩm Xuyên depicts the resurgence of the game of Zen parallel sentences written in Chinese characters on paper, which offer endless entertainment value, all depending on brush strokes. This time the topic is “bamboo.”

 Move over Dean Koontz, Steven King, Dan Brown. Here comes Nguyễn Tuấn Huy. Our newly-minted suspense writer is offering the second episode of Black Society involving a female character. It’s quite compelling read.    Cao My Nhân is being mysterious in claiming somebody she knew was over 100 years old  and sand in the desert is indecipherable ! The master psychodrama Linh Vang is back to mystify us with a trip back to the old home. Sigh! As an incorrigible romantic, Kim Oanh‘s life is a string of Valentines. Out West Phương Hoa was having a ball with an award event for the Overseas Youth, which is quite a spectacle to behold. And from Melbourne, Võ Thị Như Mai sent a cornucopia of short gems of bite-sized prose, each with its own irresistible charm.

Up in Parnassus, Nguyễn Ngọc Hà reminds me of Verlaine. Both wrote in French. I love the rains in both. Verlaine’s rain is hauntingly melancholy without an iota of relief while Hà’s is unabashedly philosophical. Hers is a deep sense of rejection, of life’s treachery and  indifference while her heart aches with compassion for lonely souls. Võ Thị Như Mai lavishes us with rich poems from The Rhythm of Vietnam. Kim Oanh is nothing but unrelenting love, all-season love, crazily tender love.  Cao My Nhân is lost in lost love and inconsolable. Return to Phan Khâm is a journey of futility.  The spirit of Valentine has made Phương Hoa a captive with a heart full of compassion. The long-absent Khuất Duy Tường did it again, this time with translation into polished French of two of the most beloved poems of a late poet-philosopher who was also his teacher. I am speechless in witnessing so much beauty in such a confined space.

Moliere’s comedy-ballet The Middle-Class Gentleman, Le Bourgeois gentilhomme is sympathetic with this incorrigible social climber who meant no harm. No doubt the ballet would be a relief though invisible to the reader. The play ends with this installment.
In Letters from Vincennes space, Thomas Le is a lost soul in the maze which is the infamous triad of mind, consciousness, and brain. As a stroke survivor. he will never give up pursuing an understanding of the trio.  In the Critical Thinking section he tries to understand human stupidity, by way of persuasion, manipulation and propaganda.

Firmament thrives when widely read and shared with pride. It’s your brainchild, contributors and readers alike. So, spread it far and wide. Good reading! ■                       
Thomas D. Le, Editor, April 2025




KIỀU MỸ DUYÊN – BINH CHỦNG BIỆT ĐỘNG QUÂN MỘT THỜI HÀO HÙNG.




CHÙM THƠ CAO MỴ NHÂN

THỦA BAN ĐẦU –  CAO MỴ NHÂN

 *

Trời không nắng, không mưa

Ngày không mới, không xưa

Chỉ có tình thay đổi

Ta đã chán nhau chưa

 *

Sao anh lại lặng thinh

Biết em khổ vì tình

Suốt đời thương với nhớ

Suốt đời hờn giận anh

 *

Mong manh một nỗi buồn

Bình minh tới hoàng hôn

Mắt xanh tràn sóng biếc

Lệ chảy ngập đại dương

 *

Em vô thay áo vàng

Sắc áo đẹp cao sang

Hồn mang sầu vời vợi

Lòng sao phủ tóc tang

*

Lênh đênh tàu trở về

Biển mây thả đam mê

Vòng tay anh xiết chặt

Nối ngàn dặm sơn khê

 *

Vẫn còn thiết tha nhau

Từ kiếp trước, đời sau

Vẫn bao la tình mộng

Yêu dấu thủa ban đầu…

Rancho Palos Verdes  24 – 5 – 2025

CAO MỴ NHÂN

==

TRONG MƯA SÀI GÒN.      CAO MỴ NHÂN

*

Tàn dư một cuộc tỉnh say

Xếp vô hành lý đã đầy tình em

Sao không đón giấc êm đềm

Mà như xóa vội nỗi niềm dở dang

Ta về đứng giữa tan hoang

Ưu tư vừa cạn lại mang nỗi buồn

Đêm qua chợt thấy trong hồn

Không còn hình ảnh trăng tròn ngày xưa

*

Sáng ra vuốt tóc nàng thơ

Bụi hoàng kim đọng bơ thờ niềm riêng

Thầm mong một chút thần tiên

Cho ta có lại lòng tin thủa nào

*

Trời mưa ơi hỡi nguồn đau

Bỗng tan thành lũ dâng trào tâm tư

Mai sau  chỗ đợi, nơi chờ

Sẽ phai mờ dấu hẹn hò hôm nay …

         CAO MỴ NHÂN 

    24 – 5 – 2025

==

NÚI MÙA XUÂN VÀO HẠ.       CAO MỴ NHÂN

*

Trên rặng  “Núi mùa xuân “

Có người tình trăm năm

Đưa thơ về Thiên cổ

Cùng nỗi buồn xa xăm

*

Người tình luôn dấu mặt

Nhưng  nhân dáng tuyệt vời

Khiến ta mang nỗi khổ

Đi tít tắp mù khơi

*

Núi mùa xuân vào hạ

Nồng nàn nhớ thương mây

Ngó tri âm như lạ

Nghe thao thức  đêm  ngày

*

Tháng năm buồn tuổi  mộng

Nguội dần khí phách  xưa

Sông hồ tan ước  vọng

Ta đợi người đã trưa

*

“Núi  mùa xuân”  che chở

Mộng mị  gởi  gió  sương

Từ đây và mãi mãi

Ủ tình  ấm …một  phương  …

   CAO MỴ NHÂN

==

CON CHIM BAY LẠC.     CAO MỴ NHÂN

*

Tiếng hót buồn của con chim bay lạc

Ảo não, bi thương

Tiếng súng buồn của người thua trận mạc

ở cuối sa trường

*

Chim nhớ rừng

Người nhớ bạn

Nắng võ vàng xao xác trên đường

Thê lương, buồn nản

*

Những con quạ hoang thì thào trong tổ

Trên cành cao rầm rì lá thở

Con chim lạc xếp cánh lặng yên

Trong lùm cây sương khói phủ im

*

Nhói buốt trong tim

Giờ đã vào đêm

Đón giấc cô miên

Tiếng hót con chim lạc nghẹn ngào, tắt lịm…

*

  CAO MỴ NHÂN

==

ĐOÁ HOA SEN.    CAO MỴ NHÂN

*

Bông sen hổ thẹn vì bùn

Làm tanh gốc rễ, lại còn bủa vây

Dù cho sóng nước dâng đầy

Sen vươn xa khỏi tháng ngày tù câm

*

Nhìn hoa tươi mát dáng thân

Sắc hoa trắng,đỏ, vàng, tâm ngọc ngà

Sen từ bùn đọng vượt  ra

Đời ưu ái đắp kiêu sa cho người

*

Hoa từ cùng cực lên ngôi

Người từ quý phái vào đời khổ đau

Thế nhân vương nỗi muộn sầu

Hương chan chứa tỏa ngát màu kệ kinh

*

Sen hoa che phủ ảnh hình

Xếp trong hành lý u  tình nước non

Mai sau sương lấp nẻo mòn

Đăng cao mây khói lượn vờn cõi tiên…

        CAO MỴ NHÂN 

==

BÂY GIỜ.     CAO MỴ NHÂN

*

Bây giờ đứng trước gương soi

Tay vun tình tự trên môi hẹn hò

Không gian thầm lặng vô bờ

Khói sương nơi ấy, là thơ chốn này

*

Ngôi nhà giữa núi sông đây

Mái trăng, nền cỏ vương đầy châu thân

Lệ mừng hạnh ngộ trăm năm

Còn chi lầm lạc để thần thoại đâu

*

Anh về tình đậm nghĩa sâu

Bỏ trang cổ tích nát nhàu lưu vong

Nửa đời đã gởi hư không

Giờ hoang liêu tóc bềnh bồng sắc mây

*

Ố ô, thì vẫn đắm say

Bật cười đôi chút heo may nhớ người

Dẫu đang cuối  biển chân trời

Cứ xin dệt mộng cho đời điểm trang…

       CAO MỴ NHÂN  




HOÀNG MAI NHẤT -LỄ MEMORIAL DAY  HOA  KỲ  (26/5/2025)  tại  WAR  MEMORIAL  PARK  IN  TACOMA,  WASHINGTON  STATE.

LỄ MEMORIAL DAY  HOA  KỲ  ( 26/5/2025 )  tại  WAR  MEMORIAL  PARK  IN  TACOMA,  WASHINGTON  STATE.

Sau buổi Lễ Tưởng Niệm 50 Năm Quốc Hận (30/4/1975 – 30/4/2025) tổ chức tại Tổ Đình Việt Nam  TP Seattle, TB WA.  Có sự tham dự của  vị Đại Tá Hải Quân HK và các cựu chiến binh Hoa Kỳ ở chiến trường VN. 

Ông John Mc Elroy(Đại Tá Navy Mỹ tham dự chiến tranh VN) đã trân trọng gởi lời mời TổĐình VN và Toán ThủKỳ (Color Guard)

đến tham dự Lễ Memorial DAY được tổ chức vào ngày  5/26/2025 tại War Memorial Park in Tacoma, Washington State.

Đúng 8:00am ngày 26/5/25, tất cả tập họp ở Shop May của anh Sơn trên đường số 1 và rồi cùng đi chung hai xe xuống dịa diểm làm Lễ ở Tacoma. Trời vẫn còn lạnh, mây đen lại giăng đầy trời báo hiệu một cơn mưa sẽ đến không biết lúc nào.

Khoảng 10:00am, quan khách lần lượt đến. Mưa bắt đầu rơi, tuy không lớn nhưng cũng đủ làm ướt áo  và gieo thêm cái lạnh vào lòng người. Mọi người vẫn giữ trật tự, ngồi tại chổ  mà không bỏ chạy  tìm chổ  núp mưa; các chị vợ  cựu QN  đi theo chồng cũng cùng chia sẻ, chiụ đựng cơn mưa  như người Mỹ  và  còn nhường dù mình mang theo  đến đưa cho quan khách Mỹ, làm họ cảm động và cảm ơn rối rít.

Anh HQ Chi ra xe lấy bốn cây dù mang theo có sẵn trong xe, đem vô  đưa cho Toán Thủ Kỳ chúng tôi  để che mưa, tôi nói: “mình là Lính dạn dày sương gió, đâu thể  nào  dùng dù  che mưa  lúc này được, mình phải chấp nhận  đội mưa thôi.  Anh đem dù đi đưa cho quan khách để họ thấy cái giá trị và tư cách của quân nhân VNCH mình”.
Anh Chi bèn  đem dù  đưa  cho mấy người Mỹ,  làm họ thêm cảm động, cảm ơn với tất cả lòng thiện cảm, trân quý dành cho người Việt mình..

Chuyện này làm tôi nhớ  đến hôm  Lễ  30/4/2025  được tổ chức ở Auburn. Khi đọc bài Diễn Từ tiếng Việt do tôi viết ( con gái Thiên Thanh của tôi dịch và đọc phần tiếng Anh),đến câu:“để tưởng nhớ đến 58.000  quân nhân Hoa kỳ  đã  hy sinh  trên chiến trường VN.
Dứt câu này, tôi bước lui một chút  và cúi đầu  để bày tỏ sự tưởng tiếc thật sự của mình. Quan khách Mỹ vổ tay cảm ơn hành động này ”.  

Sau khi chấm dứt tôi bước ra,đi về phía cuối hàng ghế quan khách ngồi; bất chợt một cựu quân nhân Mỹ  mặc thường phục bước lại, chập chân rồi đưa tay lên ngang trán chào tôi và nói cảm ơn đồng thời đưa tay ra để bắt tay tôi; làm tôi cũng chập chân chào lại và cũng nói cảm ơn anh. Chúng tôi bắt tay nhau trong niềm vui kính trọng của những người lính chung chiến tuyến.

Sau buổi Lễ, tôi  có mời anh  chụp hình với gia đình tôi, nhưng tôi lại quên hỏi tên anh(dù anh có giới thiệu tên anh,hỏi tên tôi nhưng lúc đó ồn ào quá nên không nhớ được).

Đúng 11:00am,  buổi lễ bắt đầu  sau phần giới thiệu chương trình buổi lễ, Ông mời mọi người đứng lên làm lễ rước  Quốc Kỳ Việt Mỹ do Toán Thủ Kỳ của Tổ Đình VN phụ trách.
 
  
                @ WAR MEMORIAL PARK . TACOMA, WASHINGTON

– BB Lê Anh Thượng( Cầm Súng Hộ Kỳ )         
– HQ Phạm Ngọc Anh ( Cờ VNCH )- HQ Trương Văn Chi ( Cờ Hoa Kỳ )
– BB Nguyễn Lam Sơn ( Cầm Súng Hộ Kỳ )
– HQ Bùi Đức Ly ( Trưởng Toán )    TrưởngBan TổChức: ĐạiTá Andy Leneweaver (Ret) (người 
   đứng bên bục diễn thuyết)

Khi Toán Thủ Kỳ chúng tôi đã rời lễ đài, Ông Đại Tá đã mời mọi người cùng đứng lên vổ tay khen ngợi, chúc mừng, cảm ơn Toán Thủ Kỳ chúng tôi.

Tiếng vỗ tay  với lời chúc mừng nồng nhiệt  và cái quay đầu nhìn về phía chúng tôi  trong lúc vỗ tay tán thưởng  đã làm cho chúng tôi thấy hãnh diện cùng vui sướng vì  được chào đón, tán thưởng và nhất là  đã không để có sai sót gì làm mất đi nét đẹp hào hùng của QLVNCH.

                                    “ Gian nguy thử thách đời trai trẻ
                                       Dẫu bước cạn cùng vẫn ngẩn cao”
                                                (thơ Hoàng Mai Nhất)

Seattle, WA   Mùa Quốc Hận
    H.O.26 Lê Anh Thượng
           (May 27/2025)




BÀI SƯU TẦM -HẬU DUỆ VIỆT NAM CỘNG HÒA. A SENSE OF DUTY: MỘT HỒI KÝ, HAI CUỘC ĐỜI. – NGUYỄN MẠNH TRINH

Cuốn sách mở đầu bằng: “Tôi mở mắt chào đời ở Việt Nam tại một Nhà thương Pháp cổ xưa sáu tháng trước khi tổng thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson ra lịnh cho hàng ngàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ lên đất nước chúng tôi..”. Đó là một thiên hồi ký của một cậu bé hồi nhỏ sống ở Phi Cảng Tân Sơn Nhứt với ước mơ thành một hoa tiêu vùng vẫy trời cao. Và cũng là những hồi tưởng từ hai đời người, một cha một con, cùng theo nghiệp bay bổng nhưng phục vụ đất nước khác nhau và trong những hoàn cảnh cá nhân khác nhau.

<!>

Người cha luôn luôn là hình bóng đi bên cạnh đời người con với nét hào hùng của một người chiến đấu vì tự do và hiểu được ý nghĩa của tự do. Khi chiến đấu cho đất nước, trung tá Phạm văn Hòa bay chiến đấu cơ A1 sau là hoa tiêu vận tải C130, đã mang cả một thời tuổi trẻ của mình trong ước vọng thực hiện được lý tưởng của mình. Cũng như khi chiến đấu cho đất nước Hoa Kỳ, đại úy Phạm Xuân Quang, một hoa tiêu trực thăng của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, cũng hiểu được giá trị của tự do và nghĩ rằng đã được hưởng ân huệ của đất nước định cư thì cũng phải có nhiệm vụ phải bảo vệ đất nước ấy.

Cầm tập hồi ký “A Sense of Duty: My Father, My American Journey” của Quang X. Pham, tự nhiên tôi lại nhớ đến câu hát “Hòn VọngPhu”. Ở đây, người cha, một phi công của Không Quân Việt nam, bay khu trục rồi chỉ huy một phi đoàn vận tải. Người con, tốt nghiệp đại học rồi gia nhập Thủy Quân lục Chiến Hoa Kỳ thành một phi công trực thăng. Chuyện ấy cũng có thể bình thường. Nhưng người con viết hồi ký về cuộc đời của cha mình và cũng là dịp để nhìn lại một cuộc chiến đã chấm dứt từ ba mươi năm nay, chuyện ấy mới là đáng nói. Qua bóng dáng của người cha, một thời lửa khói được kể lại. Và, tiếp nối, là người con của thế hệ tiếp theo. Không gian bao la nhưng vẫn nằm trong bàn tay người phi công. Tác phẩm, là hồi ký của một người con nhưng đa phần là hình bóng của người cha và những người đồng đội cũ. Cuộc chiến dù đã ba mươi năm qua, nhưng vẫn còn dư âm, tưởng như mới ngày nào…

Cuốn sách mới xuất bản mà đã được sự chú ý rất nhiều. Nhựt báo Los Angeles Times và Orange County Register đều có bài điểm sách. Tuần báo Publishers Weekly và tạp chí Orange Coast Magazine cũng giới thiệu đầy cảm tình và trang trọng. Nhiều tác giả nổi tiếng có nhiều hiểu biết về Việt Nam như Richard Pyle, như Larry Engelmann, như Robert Olen Butler, như James R. Reckner… cũng có những nhận xét xác đáng về tầm vóc cũng như giá trị của tác phẩm. Và, với người Việt Nam, những chính khách như Bùi Diễm, Đỗ Ngọc Yến, Hoàng Đức Nhã,… cũng đã cho nhiều ý kiến đồng tình chia sẻ…

Với riêng cá nhân tôi, tôi đọc “A Sense OF Duty” không phải vì những bài giới thiệu hoặc điểm sách như thế. Bản tâm tôi đã rất thích đọc những cuốn sách viết về chiến tranh Việt Nam. Trong tủ sách của tôi cũng có hàng trăm cuốn Anh ngữ, Pháp ngữ và Việt ngữ về đề tài này. Và, càng đọc nhiều tôi lại có một điều làm tôi ấm ức và cảm thấy bất công. Hầu như những cuốn ngoại ngữ đều chung một luận điệu. Chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt, người lính Nam Việt Nam chỉ là vai trò phụ thuộc. Hiếm có cuốn sách nào có cái nhìn chính xác hơn. Khi học môn sử ở chương trình cử nhân, tôi đã nhiều lần nói lên cái tâm trạng và suy nghĩ của mình trong lớp học, của một người lính đã tham dự cuộc chiến. 

Thú thực tôi có cảm giác là người cô đơn, một mình phải thuyết phục đám đông đã sẵn ấn tượng từ sách vở. Mà tôi biết, trong dư luận Hoa Kỳ, những người phản chiến nắm phần chủ động. Ngay, một người như John Steinbeck, là một nhà văn nổi tiếng đoạt giải Nobel văn chương năm 1962, tác giả của “The Grapes of Wrath” hay “Of Mice and Men” nổi tiếng nhân bản, mà khi viết những bài ủng hộ chiến tranh Việt Nam như hàng ngày viết “Letters from Việt nam” cho nhựt báo “News Day” hay tranh luận với nhà thơ Liên Xô Evgueni Evtusensko, cũng bị chê là hiếu chiến.

Thành ra, đọc một cuốn sách có nhiều điểm đồng tình với mình, cũng là một điều thích thú. Dù không thích chiến tranh, nhưng chúng tôi vẫn vì bổn phận và chiến đấu hết mình vì bổn phận ấy. Tôi sẽ mang cuốn sách cho những người bạn bản xứ và khoe như tôi đã làm với cuốn sách mới tinh còn thơm mùi mực của nhà văn Ngô Thế Vinh. Có cuốn sách của người Việt Nam viết về chiến tranh Việt Nam tại sao không phổ biến? Để nói thêm một tiếng nói cho những người đáng được nhắc đến.

Ngoài lý do kể trên, còn một lý do khác, kể ra thì cũng hơi riêng tư. Tôi đọc cuốn sách này vì người viết là một Không Quân viết về một người cha Không Quân, niên trưởng của chúng tôi. Và ở đó, tôi tìm được không khí của những phi trường mà tôi quen thuộc. Đời sống ấy, dù đã ba mươi năm qua, nhưng còn phảng phất đâu đây. Mỗi lần nhắc lại là bồi hồi trong tâm. Bạn bè chúng tôi, bao nhiêu người gục ngã. Những chiếc trực thăng nổ tung trên trời, những chiếc khu trục cháy đỏ vỡ toang tầng không, những cái chết hào hùng. Lạ kỳ, khi tôi đọc những trang sách viết về một niên trưởng phi công kỳ cựu, tôi nghe bên tai mình văng vẳng những nốt nhạc của bài Không Quân Hành Khúc. Bài hát ấy, bạn bè chúng tôi thường hợp ca mỗi khi họp mặt như tiếng hát gọi đàn “Giờ đoàn người từng vượt bao biên giới đã chiến đấu. Đã chiếm chiến công ngang trời. Giờ đoàn người còn vượt qua biên giới, quyết chiến đấu. Đi không ai tìm xác rơi. Lúc đất nước muốn, bao người con thân yêu ra đi. Tiếc tấm thân làm gì…”.

Phạm Xuân Quang đã viết “A Sense of Duty” như một tác phẩm đầu tay của một người tỵ nạn đã trở thành một Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, từ những tác động ký ức liên quan đến số phận, niềm hy vọng cũng như những hậu quả phát khởi từ biến cố trong cuộc chiến Việt Nam. Là một người trẻ Việt thuộc thế hệ thứ hai trưởng thành ở Hoa Kỳ, anh biểu lộ tấm lòng tri ân với đất nước đã bảo bọc anh và đã tự mình tình nguyện gia nhập quân đội và trở thành một phi công trực thăng nối nghiệp người cha là một phi công khu trục của Không Quân Việt Nam. Cuộc trùng phùng giữa hai cha con sau một thời gian dài chia cách cũng là một yếu tố để anh có quyết định trên.

Năm 1964, người cha, phi công Phạm Văn Hòa của phi đoàn khu trục 514 bị phòng không Việt Cộng bắn trong khi đang yểm trợ tiếp cận cho bộ binh dưới đất. Được trực thăng Hoa Kỳ cứu cấp sau khi bị đáp ép buộc, ông trở về nhà đúng vào ngày sanh của đứa con trai ông, tên Quang. Sau đó ông lại tiếp tục những phi vụ oanh kích, thi hành bổn phận của một quân nhân trong thời binh lửa. Thâm tâm ông không muốn làm hành động của một anh hùng, nhưng ông hiểu nhiệm vụ của mình để hoàn tất những công việc ấy.

Trước khi Saigon bị quân cộng sản xâm chiếm, Trung tá Hòa chắc chắn rằng vợ con mình đã được di tản. Ông gởi vợ và mấy đứa con lên một chiếc C130 di tản đến Hoa Kỳ. Riêng ông ta không được may mắn. Ông bị ở lại và bị tù ngục hơn mười năm. Những trại khổ hình mà ông đã trải qua như Long Giao, Suối Máu, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, toàn những nơi nổi tiếng là rừng thiêng nước độc. Sau khi gần được phóng thích, Cộng Sản chuyển ông về trại Z0D ở Rừng Lá. Năm 1987, ông được thả về và năm năm sau ông được sang Hoa Kỳ gặp gỡ lại vợ con sau một thời gian sống nghẹt thở vì sự canh chừng của hệ thống công an khắc nghiệt và đa nghi.

Quang Phạm đến Hoa Kỳ lúc chỉ mới mười tuổi và biết vỏn vẹn vài ba chữ Anh Ngữ. Anh bắt đầu vào trường học. Mẹ anh cũng rất cố gắng hội nhập vào xã hội mới và sau đó đã hành nghề kế toán để nuôi cả gia đình. Quang sống trong một gia đình vắng mặt người cha và người mẹ đóng vai trò chủ gia đình. Tất cả đều chung một cố gắng sống sao cho có ý nghĩa trong cuộc đời mới. Bà mẹ muốn Quang học những nghành như y khoa hay dược khoa rất bất ngờ khi nghe Quang nói muốn gia nhập Thủy Quân Lục Chiến sau khi tốt nghiệp cử nhân. Bà không thể nào vui với một ý định như thế. Rồi, rốt cuộc Quang cũng thành một phi công như ước muốn của anh thời niên thiếu.

Năm 1992, gia đình Quang đoàn tụ ở về thành phố Oxnard, California. Quang tốt nghiệp cử nhân và sau đó tình nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến thành một phi công đầu tiên của thế hệ Việt Nam thứ hai. Khi Quang vừa tốt nghiệp sĩ quan thì người cha được rời khỏi trại tù Việt Cộng và trở về sống vất vưởng ở Sài Gòn chờ ngày sang Hoa Kỳ định cư. Trong khi đó thì Quang thi hành những phi vụ trong cuộc chiến Bão Sa Mạc tấn công quân Iraq của Saddam Hussein. Hai năm sau, người cha được định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO và đoàn tụ với cả gia đình. Nhưng hai ngày sau Quang phải lên đường trên chiến hạm USS Tarawa từ San Diego trên hải trình ở Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, vùng Vịnh Trung Đông, biển Somalia. Sau đó Quang lên bờ làm sĩ quan tùy viên cho Tư lệnh Không Đoàn Ba TQLC. Lúc này, cha con mới có dịp nói chuyện với nhau cũng như gặp gỡ lại những người là chiến hữu Không Quân Việt Nam Cộng Hòa cũ cùng với nghiệp bay bổng.

Trung tá Phạm Văn Hòa đã có dịp kể lại tất cả những chi tiết của cuộc đời nhiều thăng trầm của mình với con và tìm ở đó như một chiến hữu có cùng những giấc mộng thời thơ ấu dù lớn lên và trưởng thành từ thời gian không gian khác nhau.

Khi gặp gỡ lại thân phụ mình, Quang vì những ấn tượng sâu sắc về cuộc đời người cha nên có ý định viết một cuốn sách kể lại những ngày tháng trải qua. Anh ghi chép lại tất cả chi tiết để thành một hồi ký. Năm 2000, ông cựu trung tá Không Quân Việt Nam Phạm Văn Hòa bị xuất huyết não và từ trần. Như thế chỉ còn một mình Quang thực hành chương trình đã định từ trước.

Hành trình của ngươì cha dường như được nối tiếp từ người con. Phi công Phạm Văn Hòa, tức Hòa Điên, một biệt danh mà bạn bè ông thường gọi, chiến đấu để bảo vệ cho tự do của đất nước ông. Là phi công khu trục và vận tải, ông có cái hãnh diện của một chiến sĩ làm nhiệm vụ. Con ông, Phạm Xuân Quang, tình nguyện vào lính để trở thành một phi công trực thăng cũng với ý nguyện phục vụ đất nước đã bảo bọc anh và gia đình và cũng để thỏa mãn cái mộng ước đã có khi còn nhỏ ở phi trường Tân Sơn Nhứt.

“A Sense of Duty: My Father, My American Journey” là một chuyện kể cảm động của những người đến Hoa Kỳ định cư từ những xứ sở xa lạ và đã thành công khi nhập được vào dòng chính. Một độc giả Hoa Kỳ đã viết rằng đã cảm được nỗi đau, nỗi buồn của người kể chuyện khi đọc cuốn hồi ký này. Hoa Kỳ là một xứ sở có rất nhiều những câu chuyện như thế, của những người làm lại cuộc đời từ bàn tay trắng.

Hồi ký này là câu chuyện của gia đình Quang với những người làm trọn nhiệm vụ của mình. Người cha, làm tròn bổn phận với đất nước mình. Người mẹ, làm tròn nhiệm vụ hiền mẫu của mình. Người con, làm tròn nhiệm vụ với đất nước đã nuôi dưỡng bảo bọc mình. Tất cả, là những nỗ lực của những người hiểu được cái giá của tự do.

Bút pháp của Quang là một cách viết tự nhiên có pha lẫn chút trào lộng cay đắng nhưng tràn đầy sức sống của một người hiểu được mình phải bắt đầu từ đâu và đi trên những con đường nào. Trong nhiều chương sách, ít nhất là hơn một nửa trong tổng số 24 chương, tác giả đã nhắc lại thời nhỏ của mình trong khu cư xá trong phi trường Tân Sơn Nhứt, nhìn những phi cơ cất cánh để mơ mộng nối gót hành trình của cha. Cũng như, khi sang định cư ở mỹ, phải phấn đấu thế nào, và hội nhập vào dòng chính ra sao cũng như phải chịu những sự kỳ thị bất công dành cho một cậu bé Mỹ gốc Việt. Quang có nhiều kinh nghiệm từ những va chạm ấy và rút ra một kết luận muốn thành công trong xã hội Mỹ phải làm việc gấp hai và suy nghĩ gấp bốn một đứa bé da trắng bản xứ.

Hình như, Quang cũng có những ngoái nhìn về phía cuộc chiến đã qua. Hành trình của anh, khởi đầu một cách gián tiếp từ thân phụ, qua chiến tranh Việt Nam đến chiến tranh vùng Vịnh, từ một cậu bé con của nguồn gốc quê hương đến một người lính bảo vệ đất nước mà mình trưởng thành. Anh không có mục đích nhìn lại quá khứ mà chỉ muốn nhìn lại những gì mà chúng ta nhớ lại từ quá khứ ấy. Có nhiều câu hỏi được đặt ra với Quang, từ lúc thơ ấu đến lúc trưởng thành.

Những câu hỏi bao quanh cuộc chiến đã tàn lụi và những hệ quả của nó cho toàn dân Việt Nam nói chung và gia đình Quang nói riêng. Những suy nghĩ về tự do và cái giá phải trả của nó. Chính vì suy nghĩ trên nên Quang đã nhập cuộc, như phản ứng của một người trẻ hiểu biết được trách nhiệm của mình.

Cho nên, có một độc giả đã viết “Trước đây, không bao giờ tôi hỏi cha tôi về những chuyện đã xẩy ra từ hồi chiến tranh Việt Nam. Bây giờ, đọc xong cuốn sách này, tôi sẽ hỏi…”

Phải rồi, chiến tranh Việt Nam có những bí ẩn kể như phi lý. Hàng triệu người lính của cả hai bên Nam Bắc và 58 ngàn chiến sĩ Hoa Kỳ bị tử trận. Không chỉ thế, còn hàng triệu nạn nhân chiến cuộc với những biến cố kinh hoàng. Chiến tranh chấm dứt, hơn hai trăm ngàn sĩ quan viên chức Nam Việt Nam vào tù Cộng sản. Hàng triệu người vùi thân biển cả. Tất cả, là trả giá cho tự do. Cái giá khá mắc cho một dân tộc vốn thông minh cần cù…

In một cuốn sách như tác phẩm này có nhiều trạng huống tế nhị mà tác giả phải vượt qua. Rất nhiều nhà xuất bản đòi hỏi phải theo những ý hướng đã định và đề tài chiến tranh Việt Nam không phải là đề tài có nhiều hấp dẫn. Khi nhà xuất bản Random House đồng ý xuất bản thì lại gặp nhiều vấn đề như hình bìa có bản đồ Việt nam với tên thành phố được Cộng sản cải danh lại mà không phải là Sài Gòn. Nhưng rốt cuộc, nhà xuất bản phải nhượng bộ và hình bìa là ảnh hai cha con với bản đồ Việt nam làm nền phía sau với tên của thành phố Sài Gòn. Cũng như trong giai đoạn “edit” có rất nhiều đoạn bị cắt bỏ bởi chủ quan của nhà xuất bản. Dẫu sao, đó cũng là chuyện thông thường khi xuất bản một tác phẩm ở Hoa Kỳ.

Tác giả đã mang sự thành thực cũng như tôn trọng sự thực để làm thành sự quyến rũ cho tác phẩm. Ông không cao giọng rao giảng cũng như muốn làm người phê phán. Ông chỉ mang cuộc đời của mình và của cha mình để tôn vinh tự do và biết phải chiến đấu để có sự cao quý ấy.

Tác giả “A Sense of Duty”, Phạm Xuân Quang, đã phục vụ như một phi công của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đã tham gia chiến dịch vùng Vịnh và Somalia. Anh cũng là người điều hành công ty QTC Medical Services và CEO của Lathian Systems, công ty mà anh là người sáng lập. Anh cũng là một khuôn mặt quen thuộc của giới truyền thông Hoa Kỳ, đã góp mặt trên nhiều shows vô tuyến truyền hình và truyền thanh. Viết “A Sense of Duty “, anh muốn làm tròn bổn phận của một người với cha anh mình, đất nước mình. Chúng ta hãnh diện có những khuôn mẫu Việt Nam thành công như thế: trung hậu trong gia đình, dũng cảm trong chiến trường và nhạy bén hiệu quả trên thương trường…

Nguyễn Mạnh Trinh




KIỀU MỸ DUYÊN – Chương Trình CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA.




VTLV TRANG ĐẶC BIỆT TƯỞNG NIỆM CHIẾN SĨ VÕ ĐẠI TÔN/HOÀNG PHONG LINH.

VĂN THƠ LẠC VIỆT rất đau buồn

Kính tiễn anh hùng VÕ ĐẠI TÔN

Suốt cả một đời yêu Tổ Quốc

Và tròn hết kiếp giữ quê hương

Giờ trong bệnh viện còn thơ gửi

Phút cuối dương trần vẫn phát ngôn

“Nhớ nước thương nhà” – nhờ Lạc Việt

Lưu giùm sáng tác PHONG LINH – TÔN

*

PHONG LINH – TÔN, chiến sĩ kiêu hùng

Đất nước hòa bình trách nhiệm chung

Chàng bước dấn thân vào chết chóc

Người đi chiến đấu với gông cùm

Tuổi già sức tận kêu lời chính

Phận lão thân tàn vắt máu trung

Nhắn gửi hậu nhân gìn Tổ Quốc

ĐẠI TÔN quả đúng bậc anh hùng!

Văn Thơ Lạc Việt – Kính Viếng – MAY 25/2025

**

Tưởng Nhớ Nhà Tranh Đấu cho Tự do Võ Đại Tôn
 *

Một đời yêu Tổ Quốc,
Trọn kiếp giữ quê hương.
Dấn thân vào trận tuyến,
Không quản chốn nhiễu nhương.

*

Chống chủ nghĩa vay mượn
Vượt khổ để tìm đường
Tuổi già vẫn gắng gượng
Đối Cộng chẳng hề nương

*

Giữa phút giây vô thường
 Viết vần thơ.tưởng tượng
“Nhớ nước, nhà tình thương”
Gửi vào vườn văn học

*

Hoàng Phong Linh thi sĩ,
Bút thép quá gan lì
Gió lộng hồn thi vị
Lửa cháy chí nam nhi!

*

Anh hùng danh đích thị
Truyền lửa Việt quang huy
Sử xanh mãi còn ghi,
Võ Đại Tôn bất nhị !!!🙏🙏🙏

Nguyễn Hồng Dũng

**

Tiễn Chú Võ Đại Tôn 

*
Con yêu Tổ Quốc đã xa rời 
Võ Đại Tôn giờ được nghỉ ngơi 
Sứ mệnh ươm nòi dù xác bỏ
Vai trò giữ nước dẫu xương rơi
Anh hùng tiếng đẹp lưu nhân thế 
Dũng sĩ danh thơm để cuộc đời 
Chiến hữu Cộng Hoà an thỏa mộng 
Chèo thuyền Bát Nhã trí nhàn chơi 

Minh Thúy Thành Nội 
Tháng 5/23/2025

**

TIỄN ÔNG VÕ ĐẠI TÔN

*

Chiều rơi mây vắng lặng,
Tiễn người về cõi xa.
Lòng chan hòa lệ trắng,
Nén hương gửi phương xa.

*

Một đời son sắt chí,
Đấu tranh chẳng ngại ngần.
Mười năm nơi lao lý,
Tâm vẫn giữ chân tâm.

*

Ngục tù không khuất phục,
Dẫu bóng tối bủa vây.
Lời thơ còn lay động,
Mẹ Việt vẫn nơi đây.

*

Cánh chim trời đã khuất,
Tổ quốc mãi ghi công.
Người đi như trăng lặng,
Sáng mãi giữa lòng dân.

*

Xin nguyện mười phương Phật,
Tiếp dẫn bậc anh hùng.
Về nơi miền Cực Lạc,
Thoát khổ, được an dung.

*

PhamPhanLang

25/5/2025

**




TRANG THƠ NHẠC LÊ TUẤN

Trên Đỉnh Mây Bay

Là bài thơ tự do tôi viết để thực hiện tình khúc Trên Đỉnh Mây Bay 

theo giai điệu dân ca Quan Họ Bắc Ninh kết hợp với Ca Trù.

Giọng ca thánh thót, êm dịu hòa cùng âm thanh Stero, hình ảnh sống động, 

tất cả đã tạo thánh một tác phẩm nghệ thuật độc đáo.

Xin mời thưởng thức.

Lê Tuấn

Trên Đỉnh Mây Bay

Mênh mông mênh mông nhạt nhòa mưa thu

Vi vu, vi vu, gió thổi sương mù

Nỗi nhớ hiện về thương kẻ si tình

Lối vắng thầm thì nhớ người trong mộng.

Trên đỉnh núi cao mây trời lồng lộng

Xuống tìm thung lũng thảm cỏ hoa vàng

Hồn anh lang thang

Vào thăm nhà cỏ, nhớ em tình muộn

Ta hỏi thăm một câu

Tình từ đâu che giấu.

Khi nào hết vấn vương?

Cao tận mây trời phiêu bạc chim bay

Chốn trần gian hão huyền như cõi mộng

Tình ở nơi đâu, nơi đâu

Đi đâu . . . về đâu?


Gãy cánh chim bằng giữa trời lồng lộng

Chạm mối tình si, người ôm trọn nỗi sầu

Một thời dấu yêu vét cạn dòng sông sâu.

Ta hỏi em một câu

Bao giờ ta hết tơ vương?

Tình tan theo lẽ vô thường?

Tế Luân

05-25-25

Mênh Mông Sương Khói

Mênh mông sương khói nhẹ bay

Em xòe tay bắt chùm mây sương mù

Tưởng rằng nắm cả thiên thu

Nào ngờ một nhúm phù du hão huyền.

Một làn khói chợt thôi miên

Vào thăm ký ức lụy phiền trăm năm

Lụa vàng óng ánh tơ tằm

Khoác lên tấm áo hương trầm vấn vương.

Đêm trăng huyền ảo mù sương

Ngày mai tiếp bước bụi đường phong vân

Buồn thương nỗi nhớ xa gần

Để cho lệ ấy tần ngần vết đau.

Người đi tình vội theo sau

Phố xưa trời rộng đổi màu hoàng hôn

Hoa sen chớm nở bên cồn

Sương khuya thấm ướt cõi hồn thi nhân.

Hoa vàng sương khói phù vân

Mây bay phủ bóng đường trần tha phương

Lang thang khắp nẻo đoạn trường

Đời trôi ngày tháng vô thường mai sau

Tế Luân

====

Nỗi Buồn Volume 1&2 – Thơ Louis Tuấn Lê – Hòa Âm AI

Nỗi Buồn

Có nỗi buồn bay chạm nhánh cây

Chiều nghiêng thấp thoáng tím chân mây

Men theo kỷ niệm ngày tháng cũ

Nghe gió vui đùa ngọn cỏ may.

Hoa lá xanh mùa đã hóa thân

Như còn tiếp nối tuổi thanh xuân

Sao nghe nức nở hồn viên mãn

Nối nhịp cầu đưa tình đến gần.

Tiếng nhịp đêm thâu khóc tiếng đời

Nhấn chìm mộng ước lòng chơi vơi

Đèn đêm vụt tắt trong đêm tối

Để mất tương lai mất nụ cười.

Cuộc sống còn vương bao khốn khó

Bàn tay giữ lấy những đường tơ

Đông về áo mỏng che đêm lạnh

Lạnh cóng tay buồn viết ý thơ.

Tế Luân




ĐỖ THÔNG MINH – THƯ ĐÔNG KINH -15/5/2025




SƯƠNG LAM – Về Miền Đất Phật – Nơi Phật Đản Sinh.

****

***




Tiếng Hát Ngọc Huyền Mtl: Ca Khúc Lettre à Elise (Cho Tình Yêu). 2) Toi Jamais – (Anh Thì Không).

**




Ca Khúc NHỚ SÀI GÒN – Thơ Tuyết Vân – Music Created By Phương Hoa – Trình Bày: SunoSinger




KIỀU MỸ DUYÊN – NÊN MUA NHÀ MÙA NÀO? – ĐỪNG ĐỢI MÙA HÈ! – NGƯỜI CÙI SAO NHIỀU QUÁ? và Chương Trình CÁI NHÀ LÀ NHÀ CỦA TA!




CA KHÚC MỚI: MỘNG TƯỞNG và NIỀM QUÊ. Thơ: Phạm Phan Lang – Nhạc: Trần Đại Bản và Mộc Thiêng. Ca sĩ: Anka Ngọc Thúy & Đông Nguyễn.

==




BÀI SƯU TẦM – THẰNG NGỤY CON

Khi bị chuyển về khám đường Bà Rịa, tôi bị nhốt vào một căn phòng rất nhỏ. Trong phòng ấy đã có sẵn một người: ông Đoàn. Cửa phòng là một bửng sắt khá dày, bị sét rỉ toàn bộ, chứng tỏ nó đã khá lâu đời. Sét rỉ đã xoi tấm cửa này thủng nhiều lỗ cỡ đầu ngón tay. Đặc biệt có một lỗ dưới cùng rộng có thể thò lọt cả bàn tay. Những lỗ đó đã cho chúng tôi chút ánh sáng trong căn phòng ít khi được mở này.

Một hôm, tôi đang rầu rĩ bỗng nghe nhiều giọng nữ xôn xao bên ngoài. Tôi chạy lại cửa dán mắt vào mấy lỗ thủng. Thì ra phòng tù nữ ở gần phòng tôi được cho ra tắm giặt. Thật là một cảnh sinh hoạt rộn ràng.

Tiếng gàu thau chạm nhau rổn rảng, tiếng người thúc giục nhau, chen lấn cãi cọ nhau ỏm tỏi. Họ giặt đồ, tắm rửa, chải tóc, phơi quần áo…. trông ai cũng làm việc với vẻ gấp rút. Người quá đông mà chỉ có hai cái giếng, thì giờ cho phép lại giới hạn, nên họ sợ hết phần …

Tôi bỗng giật mình khi thấy một thằng nhỏ từ trong hiên nhảy ra. Nó chạy vụt lại phía hai con vịt xiêm đang rỉa lông cho nhau trước cửa phòng tôi làm chúng hoảng hốt bay xa một đoạn. Một người đàn bà gọi với:

-Không được nghịch, mẹ đánh đấy!

Thằng nhỏ đứng lại. Qua giây phút hoảng hốt, đôi vịt lại tiếp tục rỉa lông cho nhau. Thằng nhỏ khoảng chừng ba bốn tuổi, trắng trẻo, kháu khỉnh làm sao! Tại sao nó lại lọt vào chốn tù ngục này? Nó làm sao chịu được cảnh thiếu ăn, thiếu bạn bè, thèm khát đủ thứ, ngày ngày ru rú trong một căn phòng chật hẹp với không khí ngột ngạt, hôi hám ấy? Tâm tính nó sẽ ra sao về sau? (Sài Gòn trong tôi/ Ngô Viết Trọng)

Thằng nhỏ có vẻ khoái đôi vịt xiêm lắm. Nó đang say sưa ngắm chúng thì mẹ nó gọi trở về phòng. Nó vừa đi vừa ngoái cổ nhìn lui làm mẹ nó phải giục mấy lần. Tôi quay lại hỏi ông Đoàn:

-Bên phòng nữ có một thằng nhỏ dễ thương quá! Vì sao nó phải vô trong này ông biết không?

Ông Đoàn nói:

-Nghe đâu cha nó là một viên thiếu tá đã đi Mỹ còn mẹ nó là một nhân viên Thiên Nga. Khi tôi vô đây đã thấy có nó rồi! Lúc đó nó mới biết đi lẫm đẫm.

Tôi tức cười thốt lên:

-Sau này có thể nó phải ghi vào lý lịch: Mới một tuổi tôi đã phải sống trong lao tù khổ sai của bọn cộng phỉ man rợ …

Mấy hôm nay tôi chỉ được phát mỗi ngày hai vắt nhỏ bột sắn xay chia làm hai bữa với một ít canh cải bẹ xanh mặn chát. Không hiểu thằng nhỏ có được phát tiêu chuẩn khẩu phần không hay phải ăn vào phần của mẹ nó? Tôi nói:

-Thằng nhỏ mặc sức mà thèm đường thèm sữa!

Ông Đoàn cười:

-Ông khỏi lo! Mấy ngày thăm nuôi nó được cán bộ thả đi lung tung, người ta cho nhiều quà lắm. Ngay tại phòng nó lại có rất nhiều người đã từng làm mẹ, làm chị, chẳng ai nỡ để một đứa nhỏ dễ thương như thế đói đâu! Tôi đã từng thấy một con chó mẹ nằm cho mấy con mèo con bị mất mẹ bú. Thiên tính thương trẻ của các bà làm mẹ hẳn còn cao hơn nhiều!

Tôi cảm thán:

-Vậy sao? Hoá ra nó lại sướng hơn lũ con tôi! Tôi có ba thằng con, thằng út có lẽ cũng cỡ tuổi nó. Khi tôi đi tù nó mới vừa đúng một tuổi, chưa biết đứng. Trước kia mình đâu biết dành dụm lo xa, khi vào tù tôi chẳng có chút gì để lại cho vợ con cả. Nghĩ đến cảnh một người đàn bà chân yếu tay mềm phải chạy vạy để nuôi sống ba đứa con giữa lúc này tôi đau ruột lắm Nhưng ăn năn cũng muộn mất rồi!

Mấy hôm sau phòng tù nữ lại được mở cho ra tắm giặt. Thằng nhỏ sau khi tắm rửa xong lại chạy sang trước phòng tôi. Không thấy đôi vịt, nó ngồi vào bậc thềm lưng dựa vào cửa phòng. Tôi thò ngón tay ra lỗ thủng chọt vào lưng nó một cái. Nó giật mình nhỏm dậy quay lại:

-Hết hồn!

Tôi lấy làm thú vị khi nghe một thằng tí hon lại dùng cái tiếng “hết hồn” có vẻ người lớn đó. Biết tôi đùa, thằng nhỏ lại ngồi xuống chỗ cũ. Tôi hỏi:

-Cháu tên gỉ?

-”Ngụy con”!

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

-Chú hỏi cháu tên là gì?

-”Ngụy con”!

-Ai đặt tên ấy cho cháu?

-Mấy chú cán bộ!

-Thế mẹ cháu không đặt tên cho cháu à?

-Có, mẹ cháu đặt tên “con”, mấy chú cán bộ thì kêu “ngụy con” rồi các cô dì trong phòng cũng kêu cháu là ”ngụy con”!

Trời đất ơi! Cái tên này có thể tạo một ấn tượng khó đoán khi thằng nhỏ khôn lớn! Tôi định hỏi vài câu nữa nhưng nó đã bị mẹ nó gọi về phòng

Rồi ngày thăm nuôi đến – ngày đó coi như ngày Tết của khám đường. Các phòng giam đông người đều được mở cửa suốt thời gian cho thăm để người ta tiện đưa đồ thăm cũng như dẫn dắt những người được gặp mặt người thân ra vào.

Những người được ra gặp người thân phải mặc đồ lành sạch. Ai không có phải đi mượn đồ của người khác. Vì vậy, ngày thăm nuôi tù vẫn ăn mặc sáng sủa khác hẳn ngày thường. Các tên cán bộ cũng giả dối dẹp bớt cái vẻ nghiêm khắc hàng ngày để hồ hởi thưởng thức những hơi khói thơm…

Những người không được thăm cũng vui hơn vì ít nhất cửa phòng mở họ cũng hưởng được chút ánh sáng và không khí dễ thở. Họ cũng có thể hưởng ké được chút quà tươi hoặc sớt được phần ăn tiêu chuẩn của những người được thăm không dùng tới. Những phòng ít người phần nhiều đang bị kỷ luật, ít được thăm, cửa đóng im ỉm, nhưng ít nhất ngày đó họ cũng yên trí không bị cán bộ quấy rầy.

Nói chung, trong ngày thăm nuôi, bất cứ ai đang sống tại khám đường cũng chia được ít nhiều niềm vui, dù chỉ là niềm vui tạm bợ giữa một hoàn cảnh bất hạnh. Kẻ hưởng được hạnh phúc thật sự hoạ chăng chỉ có một người: “thằng ngụy con”!(Sài Gòn trong tôi – Ngô Viết Trọng)

Trong lúc cán bộ và tù trật tự bận rộn mang đồ thăm hoặc dẫn tù đi gặp người thân thì thằng nhỏ tung tăng chạy hết phòng này đến phòng khác. Nó rất khôn, cứ gặp cán bộ lại cất giọng lảnh lót “chào cán bộ” thật dễ thương. Vì thế không ai la rầy, cản trở nó cả.

Tôi nghĩ chính thằng nhỏ là một nhân tố làm giảm bớt vẻ ngăn cách giữa cán bộ và tù. Đến đâu nó cũng được tiếp đón nồng hậu, quà cứ nườm nượp vào tay nó. Bao nhiêu lần nó sung sướng ôm đầy quà trên tay: bánh tráng, cốm bắp, kẹo…về giao cho mẹ nó. Trông nét mặt hớn hở của nó vào những lúc ấy ai mà chẳng vui lây!

Rồi một tháng trôi qua, lại đến kỳ thăm nuôi. Hôm ấy trời mưa lâm râm và có gió hiu hắt. Tôi lại dán mắt trước cửa hưởng ké niềm vui của mọi người. Thằng nhỏ lại thả sức tung tăng đi nhận quà.

Thấy trời hơi lạnh, lại sợ con bị ướt nên mẹ nó đã cẩn thận bận thêm cho nó một cái áo mưa bằng nylon khá gọn. (Sài Gòn trong tôi/ Ngô Viết Trọng)

Lần ấy, có lẽ vì quà tặng hơi nhiều, thằng nhỏ lại không biết sợ lạnh, nó cởi cái áo mưa làm đồ đựng. Khi nó đang ôm bọc quà hí hửng chạy về phòng thì gặp Sơn, một tên cán bộ hung ác, nghiêm khắc nhất khám đường. Gã tươi cười một cách đểu cáng, mất dạy, đón nó lại:

-”Ngụy con” có nhiều quà quá, chia cho chú với nào!

Thằng nhỏ lính quýnh giẫm vào chỗ đất trơn, té oạch một cái làm quà văng lung tung. Tên Sơn cúi xuống lượm giùm. Xong, gã vờ bốc lấy một gói giấy, bảo:

-Gói này cho chú xin nghe!

Thằng nhỏ tưởng thật hoảng hốt:

-Không được đâu! Gói này không được đưa cho cán bộ coi!

Nghe thằng nhỏ nói hơi lạ tai, tên Sơn nghi ngờ mở cái gói ra xem. Gã bỗng trừng mắt đạp vào ngực thằng nhỏ một cái làm thằng bé ngã bật ngửa. Thằng nhỏ nằm lặng đi một hồi rồi mới khóc nấc ra tiếng. Ai nấy chới với chưa hiểu chuyện gì thì nghe tiếng tên Sơn nạt lớn:

– Đ.M. đồ cái giống nguỵ ra khác, chưa ráo máu đầu đã học phản động!

Quay lại phía tù trật tự, tên Sơn hét:

-Bắt nó quỳ dưới cột lưới bóng rổ!

Lập tức thằng nhỏ bị lôi dậy, kéo đi. Liền đó tên Sơn dẫn một anh tù trật tự khác đến phòng B5. Gã đứng trước cửa hoạnh hoẹ hỏi chuyện. Lát sau một anh tù vừa mới được thăm nuôi hồi sáng bước ra khỏi phòng. Tên Sơn bắt anh tù đứng nghiêm rồi tha hồ đấm đá người tù khốn khổ, tội nghiệp. Anh tù nhiều lần bị ngã nhưng tên Sơn lại bắt đứng lên để đấm đá tiếp hết sức tàn bạo.

Trong chốc lát anh tù đã xác xơ, rục rã. Nhưng tên Sơn ác ôn vẫn chưa tha, gã còng cắp cánh tay anh ta lại rồi sai người đưa vào phòng kỷ luật.

Trời vẫn mưa lâm râm, gió vẫn hiu hắt. Thằng nhỏ vẫn quỳ dưới chân cột lướí bóng rổ. Tên Sơn vẫn tiếp tục ra vào kiểm soát việc thăm nuôi. (Sài Gòn trong tôi/ Ngô Viết Trọng)

Quá nóng ruột, người mẹ phải liều vói mặt ra khỏi phòng van xin chéo véo. Nhưng tên Sơn cứ phớt lờ, cả giờ sau gã mới chịu cho thằng nhỏ tội nghiệp về phòng. Người nó lạnh như cục nước đá, run lập cập, nói không thành tiếng….

Buổi tối, khi đưa cơm vào phòng tôi, tên Sơn còn ác độc cảnh cáo:

-Các anh coi chừng, chớ lợi dụng “thằng ngụy con” để thông tin tức với nhau! Dù là chỉ hỏi thăm sức khoẻ tôi cũng trị trắng máu ra!

Giờ thì tôi đã hiểu là anh bạn tù ở phòng B5 đã phạm nội quy của khám đường. Về sau tôi được biết rõ hơn là anh này đã gởi quà với mấy lời nhắn cho một người quen ở phòng tù nữ. Vụ trừng phạt ấy cứ lởn vởn ở trong đầu tôi suốt đêm. Tội nghiệp thằng nhỏ đã bị đòn lại phải chịu đựng ướt lạnh suốt mấy giờ.

Sáng sơm hôm sau, tôi đã phải thức giấc bởi tiếng kêu cứu từ phòng tù nữ:

-Báo cáo cán bộ A5 có người bệnh nặng!

Tôi giật mình: biết đâu lại là thằng nhỏ? Tiếng từ phòng trực hỏi lại:

-Nặng bao nhiêu ký?

Tiếng kêu cứu từ phòng nữ có vẻ khẩn thiết hơn:

-Báo cáo cán bộ, phòng A5 có người sắp chết!

-Nghe rồi, đợi đó giải quyết!

Chừng nửa giờ sau tôi nghe có người nói chuyện ồn ào trước sân. Có lẽ cán bộ y tế đã đến.

Rồi cả khám đường yên ắng trở lại. Gần sáng tôi lại bị ông Đoàn đánh thức:

-Ông nghe gì không?

Tôi lắng tai để nghe. Trời ơi, rõ là tiếng kêu khóc thảm thiết của một người đàn bà:

-Con ơi con, sao nỡ bỏ mẹ mà đi như thế con ơi! Con tôi chưa đầy ba tuổi đã biết gì đâu mà phản động, đau đớn lắm trời ơi!…

Tôi giật mình thở dài: Trời ơi, thằng nguỵ con!!!

Liền đó, tôi nghe có tiếng nạt nộ của tên cán bộ Sơn mọi rợ ngu dốt, vô giáo dục:

-Để con bị sưng phổi không chiụ lo báo cáo sớm, bây giờ không để người ta chôn cất còn khóc gào đổ thừa cho ai?

Tiếp đó, tôi lại nghe nhiều tiếng khóc nấc nghẹn ngào, đau khổ, uất hờn của người đàn bà tội nghiệp…

(Sài Gòn )




THƠ BẢO TRÂM: Nửa Thế Kỷ & Cứu Nước.




VTLV TRANG ĐẶC BIỆT NGÀY CỦA MẸ. Thành Viên VTLV và Thân Hữu.

BÀI THƠ TẶNG MẸ.     CAO MỴ NHÂN

Tặng Mẹ bài thơ viết dở dang

Đèn trời thắp sáng cửa thiên đàng

Mẹ đi khi đó con ngơ ngác

Bà khóc lúc nào lệ chứa chan

Hơn nửa trăm năm rời đất Bắc

Đôi phần nhật nguyệt sống trong Nam

Chẳng bao giờ nghĩ về quê cũ 

Đốt nén hương xa thấy bẽ bàng

Ngày Lễ Mẹ  danh vang xứ người

Hoan ca phụ nữ đón hoa tươi

Bạch hồng đài các thơm vòng cổ

Hoàng cúc hồn nhiên thắm nụ cười

Không một niềm vui thêm kỷ niệm

Tròn nguyên nỗi khổ mãi trùng khơi

Kiếp sau hạnh ngộ làm con Mẹ 

Mẫu tử tình thâm suốt cuộc đời …

Rancho Palos Verdes  8 – 5 – 2025

           CAO MỴ NHÂN 

   11 -5 – 2025

NHỚ MẸ HIỀN – THƠ Trần Công/Tiền Giang Tử

Nhớ thương Mẹ lắm, Mẹ hiền ơi!

Mẹ đã xa con mãi mãi rồi

Đã mấy mươi năm con mất Mẹ

Mà lòng thương nhớ vẫn không nguôi.

       Mẹ đã đưa con đến với đời

       Khổ công dưỡng dục con nên người

       Đến ngày ly loạn con xa Mẹ

       Không gặp mẫu thân thưa mấy lời.

Ngày Mẹ bước lên tàu thiên cổ

Con đang lưu lạc ở quê người

Không về gặp Mẹ giờ phút cuối

Đau lòng con lắm, Mẹ hiền ơi!

   Nuôi con nhờ lúc tuổi về già

       Đến lúc Mẹ già, con bỏ đi

       Tích cốc phòng cơ, cơ bất cốc

       Dưỡng nhi đãi lão, lão vô nhi.

Hương lòng bốc khói tận trời xanh

Tưởng nhớ công ơn đấng sanh thành

Đã lỡ kiếp này con bất hiếu

Xin nguyền đáp nghĩa kiếp lai sanh.

                      Hoa Đô(Lockwood House)

                      Trần Công/Tiền Giang Tử.

CHÙM THƠ VỀ MẸ – ĐÔNG RY NGUYỄN

BÁNH XÈO CỦA MẸ NGÀY MƯA

*
Hôm nay được đãi bánh xèo
Mực cơm tôm thẻ nước lèo rau xanh
Ngồi ăn trong dạ chẳng đành
Bâng khuâng chống đũa nhớ hình ảnh xưa
Bánh xèo Mẹ đúc ngày mưa
Bột không với chút dầu dừa mà ngon!

*
Nhớ thuở xưa những ngày mưa lạnh lẽo
Cha thường kêu mẹ đúc bánh xèo
Thấy đàn con háo hức hò reo
Mẹ vui vẻ liền đi ngâm gạo
Sang hàng xóm xay nhờ bột nhão
Lục măng-rê tìm lại chén dầu dừa
Rau ngoài vườn đủ thứ chẳng cần mua
Thế là đủ cho khuôn tròn lên bếp nóng:

Củi riu riu
…lửa hồng lan sức ấm
Dầu dừa thơm
…réo gọi vị con tì
Tiếng xèo xèo
…bột chín nổ văng đi


  • Bánh nóng hổi
    …mẹ hớt vào lá chuối
    Chén mắm cái
    …đỏ au màu ớt tỏi
    Chấm vào nhai
    …tay quẹt mũi hít hà!
    Nhìn con ăn
    …ngấu nghiến mẹ cười xoà
    Niềm hạnh phúc
    …bừng lên bên ánh lửa
    Cuộc sống nghèo
    …nhưng nghĩa tình chan chứa
    Quên sao đành
    ….hình ảnh mẹ thân thương!

  • Xa rồi tổ ấm quê hương
    Giờ con chén đắng viễn phương một mình
    Chiều nay mưa bất thình lình
    Ngồi trong quán lạ nhớ hình ảnh xưa…

  • Bánh xèo mẹ đúc ngày mưa
    Bột không với chút dầu dừa mà ngon!

  • –Chàng Đông Ry Nguyễn.

Mẹ Ơi…!

Kiều My

Tháng Năm lại về, mang theo nắng nhẹ và hương thơm của những cành hoa mẫu đơn – loài hoa tượng trưng cho tình mẹ. Giữa cuộc sống nơi xứ người, lòng con luôn hướng về Mẹ – người đã âm thầm nuôi con khôn lớn bằng cả một đời hy sinh. Dù Mẹ còn hay đã khuất, Mẹ vẫn là hình ảnh thiêng liêng không gì sánh bằng, hình bóng Mẹ vẫn luôn là nơi bình yên nhất trong trái tim con.

“Tình Mẹ” thật thiêng liêng và sâu lắng! Có lẽ trên đời này, không có tình cảm nào dịu dàng, bền bỉ và bao la như tình mẹ. Dù ta lớn lên, đi xa hay trải qua bao sóng gió, thì vòng tay và trái tim của mẹ vẫn luôn là nơi chốn bình yên nhất.

Khi con lớn khôn rời xa vòng tay Mẹ, đi đến những chân trời xa lạ rộng mở, con cảm thấy thấm thía nỗi nhớ mỗi lần nghe giọng Mẹ qua điện thoại, mỗi lần thấy bóng dáng ai đó giống Mẹ giữa chợ đông người. Những lời Mẹ dặn con năm nào, giờ đây vang vọng mãi trong tâm hồn con, như ngọn hải đăng soi lối giữa giông tố cuộc đời. Mẹ ơi, nếu có điều gì con luôn muốn nói – ấy là: Con thương Mẹ và con biết ơn từng phút giây được làm con của Mẹ. Dù Mẹ đã ra đi, con vẫn tin rằng tình yêu của Mẹ  luôn dõi bước con đi trên đường đời đầy chông gai này và chở che con như thuở nào. Ngày Mother’s Day, con thầm nói: “Mẹ ơi… con thương Mẹ và nhớ Mẹ thật nhiều!”

Ngày Hiền Mẫu, để nhớ về người Mẹ đã ra đi trong nỗi ngậm ngùi– Người đã để lại trongcon một khoảng trống không gì lấp đầy; nhưng cũng là suối nguồn thương yêu bất tận, sống mãi trong tim con. Con nhận ra: Mẹ đã không còn nữa, Mẹ đã về cõi vĩnh hằng; nhưng tình yêu Mẹ để lại vẫn còn nguyên vẹn trong con như ngày nào. Con nhớ Mẹ  từng khoảnh khắc sống trong đời, là khi con nấu món canh chua Mẹ từng ưa thích, nghe bài hát Mẹ hay hát không trọn vẹn, hay những câu nói ví von của Mẹ… Những điều nhỏ bé ấy cứ âm thầm nhắc con về Mẹ – về một hình bóng dịu dàng, thân thương mà vĩnh viễn con không thể gặp lại lần nữa.

Có những nỗi nhớ không thể gọi thành tên, chỉ biết rằng từ thẳm sâu trong tâm hồn, con luôn có một chỗ dành cho Mẹ – không ai có thể thay thế. Và con tin, ở một nơi nào đó thật bình yên và thanh thản, Mẹ vẫn dõi theo con. Mỗi lần con vấp ngã, con vẫn cảm nhận được bàn tay Mẹ vô hình đỡ con dậy. Mỗi lần con làm được điều tốt, dường như có nụ cười của Mẹ thoáng hiện trên nền trời mây trắng.

Ngày Mother’s Day, con không thể tặng Mẹ một bó hoa, không thể ôm Mẹ thật chặt; nhưng con có thể thắp lên một ngọn nến, một nén nhang và thì thầm với trời xanh: Mẹ ơi, con nhớ Mẹ vô cùng… và con sẽ sống sao cho xứng đáng với tình yêu Mẹ dành cho con cả một đời.

Ngày Hiền Mẫu, tôi nhớ lại ngày tôi rời nhà, Mẹ không khóc trước mặt tôi, đôi mắt Mẹ đỏ hoe và Mẹ nắm chặt tay tôi hơn thường lệ. Mẹ dặn dò đủ thứ –“Qua đó nhớ giữ gìn sức khỏe và cẩn thận mọi sự việc nơi xứ lạ quê người, nghe con…”; rồi Mẹ gói ghém từ cái áo ấm đến thuốc cảm cúm đặt trong giỏ xách cho tôi.  Biết Mẹ lo, nhưng cũng biết Mẹ tự dặn lòng phải mạnh mẽ, để không làm tôi chùn bước. Mẹ tôi không biết nói những lời triết lý cao siêu, không giỏi thể hiện bằng những câu thơ văn, Mẹ chỉ lặng lẽ yêu thương bằng những chăm sóc chu đáo cho tôi. Tình Mẹ tưởng như giản dị mà hóa ra thiêng liêng vô cùng. Nhưng những ngày ấy đã lùi xa vào ký ức. Dù vậy, tôi biết tình mẹ chưa bao giờ xa tôi. Nó vẫn ở đây, trong từng nhịp thở, từng dòng chữ tôi viết, từng đêm trăn trở nhớ mẹ giữa mùa đông lạnh.

Ngày mẹ ngã bệnh, tôi đang ở xứ người và phải lo toan nhiều việc. Mẹ nói: “Đừng về vội, con à. Mẹ còn chịu được.” Tôi nghe mà nhói lòng, vì biết Mẹ  sợ tôi lo lắng và bận tâm. Tôi cứ ngỡ còn thời gian một tháng nữa, hai tháng nữa, hay lâu hơn nữa… Rồi bỗng một ngày điện thoại reo giữa đêm khuya… Tôi lặng người! Thời gian không chờ ai, và Mẹ tôi… đã không chờ đợi được nữa!

Chuyến bay trở về nhà  hôm ấy là chuyến đi dài nhất trong đời tôi. Không phải vì khoảng cách địa lý, mà vì lòng tôi nặng trĩu. Tôi không dám khóc giữa sân bay đông người, nhưng trong tim tôi, nước mắt đã chảy từ lâu – chảy từ khoảnh khắc tôi biết mình đã không kịp trở về, để nhìn Mẹ lần cuối và nghe Mẹ trối trăn!

Tôi đứng trước bàn thờ Mẹ, gục đầu, thì thầm: “Mẹ ơi, con về rồi đây… Nhưng muộn quá phảikhông Mẹ?” Mẹ lặng thinh! Chỉ có khói nhang bay lên di ảnh của Mẹ làm nhạt nhòe mắt Mẹ như ánh mắt Mẹ ngày tôi xa lìa gia đình. Từ ngày ấy, tôi sống với một vết thương không thể lành – vết thương của sự xa cách cuối cùng. Nhưng cũng từ đó, tôi hiểu sâu hơn về “tình mẹ”: đó là tình yêu không cần sự có mặt, vẫn âm thầm nâng đỡ tôi mỗi ngày, dù Mẹ đã đi xa. Giờ đây, mỗi khi nhìn lên bầu trời, tôi lại khẽ nói: “Mẹ ơi, con nhớ mẹ nhiều lắm.”Và tôi tin đâu đó, Mẹ vẫn mỉm cười nhẹ nhàng như những năm tháng xưa – khi Mẹ đứng trước cửa chờ tôi về, mái tóc bạc lấp lánh trong nắng chiều.

Mẹ –là hình dáng của tình yêu vĩnh cửu. Trong dòng đời hối hả, có một điều luôn âm ỉ cháy không tàn, đó là “ tình yêu của mẹ.” Tình yêu ấy không cần lý do để bắt đầu, cũng không chờ điều kiện để tồn tại. Mẹ là tiếng gọi đầu tiên ta thốt lên, là bóng hình cuối cùng ta giữ mãi trong tim. Có nhiều đại văn hào trên thế giới cũng đã từng ca ngợi “Tình Mẹ” như Victor Hugo viết: “A mother’s arms are made of tenderness and children sleep soundly in them.”

 (Vòng tay mẹ được dệt bằng sự dịu dàng, và trong đó con trẻ ngủ giấc bình an.)

Mẹ không chỉ là người sinh ra ta — mà còn là người chắp cánh cho ước mơ, dạy ta biết yêu thương, biết vươn lên giữa giông bão. Dù thời gian có đưa Mẹ đi xa, thì tiếng gọi “Mẹ ơi” vẫn mãi là lời thì thầm thiêng liêng nhất đời người.

Plato đã từng nói: “There is no greater love than that of a mother.”

(Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của một người mẹ.)

Trong mắt Mẹ, ta luôn là đứa trẻ nhỏ cần được vỗ về, dù ta đã là người trưởng thành giữa cuộc đời. Mẹ âm thầm lo lắng khi ta đi xa, thầm lặng vui mừng mỗi lần ta trở về. Mẹ cười sau lưng những thành công của ta, và khóc lặng lẽ cho những tổn thương mà ta chẳng hay biết.

Có một câu nói khuyết danh, nhưng hàm chứa một chân lý sâu xa:

“God could not be everywhere, and therefore he made mothers.”

(Thượng đế không thể có mặt ở khắp nơi, vì thế Ngài đã tạo ra người mẹ.)

 Mother’s Day không chỉ là dịp để tặng hoa, gửi quà, mà là một khoảnh khắc để ta lắng động tâm hồn, gởi đến Mẹ một lời cảm tạ từ trái tim. Dù Mẹ còn trên đời hay đã về bên kia thế giới, tình mẹ vẫn là nơi ta hướng về, mỗi khi đời bão giông.

Abraham Lincoln đã nói:

“All that I am, or hope to be, I owe to my angel mother.”

(Tất cả những gì tôi có được, hay hy vọng đạt tới, tôi đều nhờ người mẹ thiên thần của tôi.)

Cùng một nỗi niềm chung về “Tình Mẹ”, ngay trong thế giới âm nhạc mênh mông không biên giới, cũng vẫn có chỗ cho những bài hát ca tụng “Tình Mẹ”. Như hai ca khúc tiêu biểu: Maman oh MamanLòng Mẹ – hai bản nhạc cảm động đến tận cùng trái tim, tuy đến từ hai nền văn hóa, địa ly khác nhau; nhưng lại cùng chan chứa một tình yêu vĩ đại; đó là: tình mẫu tử.

“MAMAN OH MAMAN” – LỜI GỌI TỪ TRÁI TIM

Maman oh Maman là một ca khúc Pháp nổi tiếng, một bản tình ca dành cho Mẹ với tất cả yêu thương và biết ơn. Giai điệu của bài hát mộc mạc, dịu dàng như lời thủ thỉ của một đứa con nói với mẹ, nhưng lại chứa đựng cả một trời yêu thương và khát khao. Ca khúc này vượt thời gian và biên giới vì nó chạm đến sợi dây thiêng liêng nhất của con người – đó là tình mẹ. Mỗi lần nghe, người ta như được trở về thuở ấu thơ, được nép vào vòng tay yêu thương nhất, nơi không có lo toan, chỉ có hơi ấm và tiếng ru ngọt ngào.

Maman oh Maman, toi qui m’as donné. Tant de tendresse depuis tant d’années

Tu le sais bien, quand je serai grand. Je penserai à toi, Maman

Maman oh Maman, le jour et la nuit. Je veillerai toujours sur ta vie

Je serai là à tout les instants. Pour te protéger, Maman…

LÒNG MẸ” – BẢN THÁNH CA CỦA TÌNH MẸ

Nếu Maman oh Maman là lời hát của đứa con dành cho mẹ, thì Lòng Mẹ – một ca khúc bất hủ của nhạc sĩ Y Vân – là khúc ngợi ca cao nhất tình mẹ Việt Nam: sâu như biển Thái Bình, bao la như trời lồng lộng. Với những hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp:

“Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào

Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…

“Lòng Mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa thu

Tình Mẹ âu yếm như làn gió đùa mặt hồ…”

Bản nhạc Lòng Mẹ rất tha thiết, mỗi khi âm điệu của bản nhạc cất lên làm rung động cả con tim và giọt lệ chợt ứa trong khóe mắt. Tình Mẹ sao quá đỗi ngọt ngào, Mẹ hy sinh cả một đời cho con, Mẹ luôn là người duy nhất không bao giờ bỏ rơi con, dù con thành công hay thất bại, giàu sang hay nghèo khó. Giai điệu ca khúc nhẹ nhàng, da diết, tràn đầy cảm xúc như lời ru vọng lại từ ký ức; khiến không ít người khi cất lên bài hát này đã không thể cầm được nước mắt.

Dù khác ngôn ngữ, khác văn hóa, nhưng Maman oh MamanLòng Mẹ đều chạm đến sâu thẳm trái tim người nghe. Mama oh Maman – như tiếng con trẻ nói với  Mẹ với tất cả yêu thương hồn nhiên; Lòng Mẹ là tiếng hát thành kính, dạt dào như khúc thánh ca dâng lên người Mẹ hiền đã hy sinh cả cuộc đời cho con.

Hai ca khúc – hai thế giới – nhưng chung một tình yêu: – đó là Tình Mẹ vĩnh cửu.

Happy Mother’s Day
DẤU CHÂN MẸ

Kiều My

      (Kính tặng những người Mẹ – còn đó hay đã xa…)

Trên đường đời con bước
Có dấu chân ai quen
Âm thầm như hơi thở
Nhưng ấm từng bước lên.

Có Mẹ là có nắng
Chợt một ngày đông tan
Có Mẹ  là tiếng hát
Ru con suốt tháng năm.

Mẹ xa rồi trăng khuyết
Hương bếp cũ mơ hồ
Bóng Mẹ như trong gió
Về bên cửa đợi chờ…

Con ngồi nghe mưa rớt
Trên mái nhớ ngày xưa
Từng bữa ăn đạm bạc
Mẹ nhường con hơn thừa.

Dẫu Mẹ còn hay khuất
Trong tim con vẫn đầy
Một vầng trăng không tắt
Dẫn con suốt tháng ngày…

Trong cuộc đời viễn xứ, đôi khi chúng ta không ngờ rằng giây phút chia xa cuối cùng với Mẹ lại đến quá đột ngột. Những dòng hồi tưởng này chan chứa nỗi ngậm ngùi của một người con sống xa quê nhà, mang trong tim nỗi ray rứt không thể ở cạnh Mẹ trong những ngày cuối đời của Mẹ. Nhưng cũng từ đó, ta nhận ra rằng tình mẹ vẫn luôn hiện hữu – âm thầm, bao la, và vĩnh viễn không rời xa. Dù Mẹ còn trên đời hay đã đi xa, tình mẹ vẫn luôn là ánh sáng dịu dàng dẫn lối  trong suốt hành trình của đời ta.

Kiều My

California, Mother’s Day 2025

Buồng chuối chín sau vườn
Lá vàng rụng con mương ngoài ngõ
Văng vẳng tiếng ầu ơ

Con chinh chiến chưa về
Đêm nghe gió đường quê mơ màng

Thấy Mẹ trong giấc mơ
Áo hoa con biếu Mẹ ngày nào
Che phủ tấm lưng cong

Ngày xưa một đóa hồng
Nay áo đẹp má hồng Mẹ phai

Vườn sau xanh bông cải
Mẹ thương con tháng ngày dầu dãi
Trông con đầu bạc trắng

Dạ con tấc lòng son
Đêm nhớ Mẹ mỏi mòn từng đêm

Hoa sứ nở đầy cành
Dây trầu xanh lá vẫn vấn quanh
Con ơi, sắp về chưa?

Dù đường đời trắc trở
Con sẽ về têm miếng trầu xanh

phamphanlang

Bài thơ mộc mạc ấy đã được hai nhạc sĩ tài hoa ưu ái phổ thành hai ca khúc sâu lắng và cảm động:

Nhân dịp Lễ Mẹ, PL xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến hai nhạc sĩ Vĩnh Điện, Mộc Thiêng và hai ca sĩ Diệu Hiền, Đông Nguyễn – những người đã thổi hồn vào bài thơ bằng giai điệu và giọng ca tuyệt vời, giúp bài thơ nhỏ bé này lan tỏa và chạm đến trái tim người nghe.

Xin kính mời quý vị cùng lắng nghe và tưởng nhớ những người Mẹ thân yêu trong mỗi chúng ta.

Kính chúc quý vị một mùa Lễ Mẹ an vui và tràn đầy yêu thương.

PLang

==

BÀI HÁT “NGÀY MẪU TỪ NHỚ MẸ

NGÀY MẪU TỪ NHỚ MẸ

*

Từ xa con nhớ Mẹ nhiều

Mơ về cố quốc mỗi chiều quắt quay

Hoàng hôn bảng lảng vầng mây

Hạc vàng xoải cánh chở đầy yêu thương

*

Ngày con từ biệt quê hương

Mẹ già tóc bạc sầu vương chập chùng

Đông Tây sương khói mịt mùng

Bao năm chờ đợi tương phùng vấn an

*

Nhà đưa tin đến bàng hoàng

Đất trời chao đảo hoang mang vô bờ

Từng mong từng ước từng giờ

Ước mong gặp Mẹ cơn mơ ngập sầu

*

Ai làm biển cả ruộng dâu

Mẫu Từ vĩnh biệt lòng đau nghẹn ngào

Mộ phần hương khói ra sao

Đông tàn Xuân đến biết bao nỗi niềm

*

Chiều nay con nhớ Mẹ hiền

Từng cơn gió lượn ngoài hiên não nề

Gian nan đời Mẹ trăm bề

Vì con vất vả không hề trách than

*

Mẹ đà vĩnh biệt trần gian

Bước chân con vẫn lang thang cõi nào

Hoàng hôn thắm trải xôn xao

Nhưng lòng con trẻ dạt dào nhớ thương

*

Chiều về giọt nắng buồn vương

Cầu nơi Cực Lạc Mẹ nương phật đà

Thân con, bốn biển là nhà

Ngày Mẫu Từ, con nhớ Mẹ già…Mẹ ơi….

*

Phương Hoa – Ngày Mother’s Day, MAY 2025

===

MẸ TÔI

Năm lên sáu
Tôi đã thích đá banh
Một bó giẻ tròn
Mẹ tôi khâu kết
Một trái bưởi xanh
Mẹ hái sau vườn
Tôi mê chơi
Tới tắt mặt trời
Quên cả giờ cơm
Mẹ la, mẹ rầy

Năm mười sáu
Tôi đã biết hẹn hò
Ðèn sách biếng lười
Mẹ buồn, mẹ lo
Tương lai con
Không được bằng người

Năm hai mươi
Tôi lên đường
Ðáp lời sông núi
Mẹ không mấy vui
Sợ mình sẽ mất
Ðứa con trai
Ðộc nhất trên đời

Ðơn vị đóng đồn xa
Cả năm không về
Lòng mẹ xót xa
Từng ngày từng giờ
Thương con mình vất vả
Mũi tên hòn đạn
Biết đâu ngờ

Những ngày về phép
Ít khi gần gũi mẹ
Quen tính lang bạt
Tôi tìm lại bạn bè
Ðàn ca xướng hát
Nửa đêm mới về
Mẹ hỏi
Sao con không ở nhà với mẹ?
Tôi hôn trán mẹ, mỉm cười

Vận nước nổi trôi
Chí trai không tròn
Tôi đi tù
Mẹ già không ai nương tựa
Thương con – Nỗi nhớ – Hao mòn
Mẹ tôi mất
Sáu tháng mới nghe tin
Không cầm được nước mắt
Hồn đau – Vỡ nát con tim

Trong trại tù
Con thèm một tiếng rầy la
Con thèm một lời hờn dỗi
Con thèm một bàn tay trìu mến
Con thèm một điệu ru hời
Cuả mẹ ngày xưa
Ðưa con vào đời
Nhưng, nay còn đâu nữa
Mẹ ơi!

                               NHƯ HOA

ANH NGỮ

MY MOTHER

When I was just a six-year-old boy
Iá began playing soccer to enjoỵ
A ball of rags my mother sewed around
A green pomelo picked from the rear ground.
I indulged in the matches forgetting to eat
Causing my mother to chide, nearly to beat.

When coming to the age of sixteen
I already became on dates keen.
I neglected my lessons to learn
Leading my mother to sadness and concern
That my future would be inferior to my peers’.

When I reached of age twenty years,
My country got in danger, I joined the army.
This position was not deemed balmy
But dangerous and made my mother fear
The loss of her only begotten son so dear.

My unit was stationed all year far away.
I had no home leave even for half a day.
It pained my mother again and again to regard
My trying conditions as too hard:
Exposed to arrows and bullets, who knows?

After surviving many deadly blows,
I obtained permission.  But, used to roaming,
I went with friends on carousing and foaming,
And only came home late at night
Allowing myself little time within her sight.
My mother asked why.  Fearing she got riled,
I kissed her on the forehead, and smiled.

The fortune of the country turned ill
From bad to worse against my he-man’s will.
I became a POW.
                           My mother had no help.
She loved me, missed me, but did not yelp.
I heard the sad news six months late
After she had pined away to fate.
I could not hold back and burst into tears;
I felt my heart broken for all my life’s years.
                             *
                          *    *
During my days  in the enemy’s jail,
How I wished I could hear at me you rail!
How I craved for your against-me grudge,
Your hand to move my mind hard-to-budge,
Your lullaby to raise my good-natured soul
Leading me into life, guiding me toward a goal:
But now I can’t about those myself bother
— Oh my dear mother!                                 

                       THANH-THANH

Hôm Nay Ngày Lễ Mẹ

Tôi muốn viết những vần thơ tặng Mẹ
Gửi lên trời nhờ mây gió mang đi
Mẹ ở trên cao ngàn thu cách biệt
Ngày lễ Mẹ, giọt lệ ướt trên mi.
Dâng lên Mẹ những vần thơ sầu muộn
Cách biệt thiên thu, hoài niệm quay về
Trên Thiên quốc nhìn về nơi trần thế
Hồn ca dao vang vọng gió hương quê.
Chiếc nôi êm ru con ngủ trưa hè
Lời Mẹ ru giọt mật thấm trong mê
Mẹ là dòng sông êm đềm xuôi bến
Tắm ướt hồn con soi sáng đường về.

Dòng sông ơi! Sóng vỗ về lưu luyến
Nhớ về Mẹ hồn đau nhói lệ rơi
Con ôm cả bó hồng dâng tặng Mẹ
Thắp nén nhang buồn khói toả chơi vơi.
Tế Luân

Tưởng nhớ đến Mẹ tôi

người đã yên nghỉ trên Thiên Đàng

Bó Hồng Tặng Mẹ

Con cung kính. Bó hồng riêng tặng mẹ

Cả tình thương, sâu thẳm của tâm hồn

Mẹ là suối nguồn, dòng chảy tinh khiết

Nuôi con một đời, đến tuổi lớn khôn.

Dâng lên Mẹ ngàn đóa hồng thắm đỏ

Dòng máu hồng. Mẹ trao tặng cho con

Ngày lễ Mẹ, bồi hồi thêm nỗi nhớ

Nhớ ơn người, nuôi nấng thuở măng non.

Tình yêu mẹ, dạt dào như sóng vỗ

Vỗ giấc bình yên, chăm sóc đời con

Viết về Mẹ, lời thơ đầy nước mắt

Vào nỗi buồn, tuổi xuân đã hao mòn.

Công ơn Mẹ, sánh núi cao, biển cả

Thấu trời xanh. Thượng Đế phải ngậm ngùi

Mẹ là thảo nguyên bao la bát ngát

Dòng suối nguồn, tuôn chảy những ngọt bùi.

Mẹ trên cao, như sao sáng trên trời

Mẹ hiền từ, ôm con cả một đời

Lời nguyện cầu, con ước mơ về mẹ

Tiếng mẹ dịu dàng, nhớ mãi không ngơi.

Tình yêu của mẹ bao la biết mấy

Sáng như mặt trời, đẹp như mây bay

Ai! Còn Mẹ, đừng làm Mẹ bật khóc

Đừng để buồn, giọt lệ ướt trên tay.

Xin gửi đến Mẹ, ngàn đóa hoa hồng

Thắm sương long lanh, ướt cả nỗi lòng

Lời nghẹn ngào, bài thơ ngày lễ mẹ

Buộc vào hoa, gửi mẹ những hoài mong.

Lê Tuấn

Vần thơ tưởng nhớ đến Mẹ.

Gửi đến Mẹ ngàn đóa hoa hồng,

Thấm ướt trên nhánh lá những giọt nước mắt long lanh

thương nhớ Mẹ hiền.

4 Ca Khúc Thơ & Nhạc Lê Tuấn – Hòa Âm & Trình Bày AI

https://cuocsongthica.blogspot.com/2025/05/ca-khuc-do-ai-hoa-am-va-trinh-bay-hen.html

===

Lịch Sử Ngày Lễ Hiền Mẫu, Mother’s Day!

-Ngày của Mẹ (Mother‘s Day) ấn định mừng vào ngày Chủ Nhật thứ nhì của tháng 5 hằng năm. Đây là ngày để tôn vinh các bà mẹ, bà nội, bà ngoại, vì những đóng góp to lớn của họ cho gia đình, cộng đồng và xã hội

Nguồn gốc ngày của Mẹ có từ rất lâu, vào thời kỳ cổ Hy Lạp và La Mã. Nhưng cái gốc lịch sử Ngày Của Mẹ, có thể tìm thấy ở Anh Quốc, nơi đó Chủ Nhật Ngày của Mẹ, đã được tổ chức tưng bừng, trước khi lễ mừng này được “di cư” thành hình, bên Hoa Kỳ.

Dầu vậy, việc ăn mừng liên quan của ngày này, lại được coi là một hiện tượng, chỉ mới gần đây, mới hơn một trăm năm.

Thật ra, phải cảm tạ công khó của những phụ nữ tiền phong, như Julia Ward Howe và Anna Jarvis, mà “ngày này” mới được chính thức thành hình.

Ngày nay, việc tổ chức, tiệc mừng cho Ngày của Mẹ, đã được trên 50 quốc gia của thế giới công nhận. (Mặc dầu vào những ngày khác nhau) Trở thành những Ngày Lễ ý nghĩa, mà mọi người yêu thích nhất! Hàng triệu người trên khắp thế giới, dùng cơ hội này để nhớ đến, kiếm cách trả ơn bà mẹ của mình, tri ân họ về việc sanh thành, dưỡng dục, để họ thành người.

Ngày của Mẹ, được tổ chức tưng bừng nhất ở những quốc gia như: Mỹ, Nga, Anh Quốc, Ấn Độ, Đan Mạch, Phần Lan, Ý, Thổ Nhỉ Kỳ, Úc Đại Lợi, Mễ Tây Cơ, Gia Nã Đại, Trung Hoa, Nhật Bản, và Bỉ. Người ta dùng cơ hội của ngày này, để tỏ lòng tôn kính mẹ của mình và tri ân họ về tình yêu thương, sự nâng đỡ của Mẹ trong đời sống.

Nhưng ngày này, càng ngày càng phai mờ ý nghĩa, vì bị thương mại hóa. Đường dây điện thoại thì bận rộn, kẹt cứng nhất trong năm. Tiêu thụ hoa, quà, card, nhiều nhất! Nhà hàng cũng có khách đông nhất vào ngày lễ này. Ngày của Mẹ trở thành ngày làm ăn hốt bạc, cho những tiệm cắm hoa, những nhà làm thiệp và người bán quà tặng, cho cả dịch vu du lịch. Cơ hội hiếm có để kiếm tiền trong ngày này. Bằng chứng qua những cuộc quảng cáo quy mô, trước đó vài ba tháng, để thu hút khách hàng.

Thật là tiếc để ghi nhận rằng, bà Anna Jarvis đã bỏ hết cuộc đời, cho việc vinh danh ý nghĩa cao đẹp ngày của Mẹ. Giờ chỉ còn là dịp để vui chơi, quà cáp, ăn uống, trong ngày lễ. Những bà mẹ già, vẫn cô đơn mừng ngày này, trong các viện dưỡng lão. Trong khi các con của mình, tưng bừng hội hè ăn chơi phía ngoài, chẳng còn nhớ gì đến Mẹ của mình cả. Thật chua xót về tính cách thương mại hóa của ngày này. Mà đâu phải một lễ này đâu, lễ nào trên đất Mỹ này cũng thế!

 y89hy8ohiohipjhopjhopjo.jpg

Những câu danh ngôn về Mẹ nổi tiếng và ý nghĩa nhất

1. Với mẹ, dù lớn bao nhiêu, con mãi là một đứa trẻ! trong trái tim mình.

(Khuyết danh)

2. Chúa không thể ở khắp mọi nơi, để ban tình thương, ơn lành, nên Ngài sinh, tạo ra người mẹ!

(Proverbe Yiddish)

3. Khi bạn nhìn vào mắt của một người mẹ, bạn sẽ nhận biết được, tình yêu tinh khiết nhất, tuyệt vời nhất, mà bạn có thể tìm thấy trên trái đất.

(Mitch Albom)

4. Mẹ là người có thể thay thế bất kỳ ai khác, nhưng không ai có thể thay thế được mẹ.

(Gaspard Mermillod)

5. Tương lai của đứa con, luôn là công trình, tuyệt phẩm! hãnh diện nhất của người mẹ.

(Napoleon)

6. Tình thương của người mẹ, không bao giờ bị già nua, khi năm tháng trôi qua.

(Tục ngữ Đức)

7. Vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt diệu, quý báu nhất, là trái tim người mẹ!

(Bernard Shaw)

8. Không tình yêu nào vĩ đại, như tình yêu của người mẹ, dành cho đứa con của mình.

(Khuyết danh)

9. Người mẹ thật sự chẳng bao giờ rảnh rỗi, hình bóng con, luôn luôn hiện diện trong đầu và trái tim của Bà suốt cả đời!

(Balzac)

10. Tình yêu của người mẹ là yên bình, bình đẳng. Nó không cần bạn phải thông minh, đẹp đẽ, giỏi giang. Nó không cần bạn phải xứng đáng hay không! Nhiều khi khuyết tật, bạn còn nhận được nhiều hơn nữa!

(Erich Fromm)

11. Mẹ hiền sinh con ngoan, cây tốt sinh trái ngọt, lúa tốt cho gạo ngon.

(Ngạn ngữ Trung Quốc)

12. Người ta không bao giờ hiểu hết, nói hết về Thượng Đế, cũng như nói hết về người Mẹ.

(Ngạn ngữ Ấn Độ)

13. Mẹ nuôi con biển bờ lai láng, con nuôi mẹ kể tháng kể ngày.

(Tục ngữ Việt Nam)

14. Con đi ngàn dặm mẹ lo âu, Mẹ đi ngàn dặm con chẳng sầu.

(Ngạn ngữ Trung Quốc)

15. Khi bạn là một người mẹ, bạn không bao giờ thực sự cô độc trong suy nghĩ của mình. Một người mẹ luôn phải nghĩ hai lần, một lần cho bản thân và một lần cho con cái.

(Sophia Loren)

16. Một người mẹ vẫn mãi là một người mẹ, luôn luôn quan tâm đến những đứa con. Cho dù những đứa con đó đã lớn lên, vẫn là những đứa trẻ của riêng mình.

(Khuyết danh)

17. Trái tim của người mẹ là vực sâu muôn trượng, mà ở dưới đáy, bạn sẽ luôn tìm thấy sự tha thứ.

(Balzac)

18. Làm mẹ là một thái độ sống, thiêng liêng, không chỉ là mối liên hệ về sinh học.

(Robert A Heinlein)

 jkmjopjopookkokk.jpg

Phong tục “Happy Mother’s Day!” tại các nước trên thế giới

-Đa số các quốc gia trên thế giới ngày nay, ăn mừng Ngày của Mẹ, với các phong tục bắt nguồn từ Bắc Mỹ và Châu Âu. Khi được phổ biến tại các nước khác, ngày của mẹ đôi khi được thay đổi đôi chút, để phản ảnh nền văn hóa từng nơi. Một số nước để hợp nhất ngày lễ này, với những sự kiện quan trọng của nhiều phong tục bản xứ (ví dụ như tôn giáo, lịch sử, và truyền thuyết)hh8hhiohijhijhiji.jpg

*Ngày của mẹ ở Anh

Ngày của mẹ ở Anh cũng trùng vào ngày Chủ Nhật, bởi vậy mọi người thường tới nhà thờ làm lễ, sau đó mới trở về nhà của mình. Các thành viên trong gia đình, dù ở xa cũng sẽ cố gắng họp mặt đông đủ trong ngôi nhà của cha mẹ. Họ thường tổ chức một buổi tiệc có thiệp mừng, bánh gato, hoa quả, rượu và tặng quà cho những người mẹ.hhjh9j9j9pjopjopjo.jpg

*Ngày của mẹ ở Mỹ

Ngày của mẹ được khởi xướng trở lại sau thế chiến thứ hai tại Mỹ, do bà Anna Marie Jarvis đấu tranh xác lập, tại phố Grafton, tiểu bang Tây Virginia, Hoa Kỳ. Bà Anna Marie Jarvis quyết tâm thực hiện di nguyện của người mẹ quá cố. Người mẹ của bà Anna khi còn sống là một nhân viên an sinh, luôn đấu tranh không ngừng để làm rạng danh các bà mẹ, tri ân công sức của họ trong đời sống và vì hòa bình. Sau khi người mẹ mất, cộng thêm thái độ thờ ơ lãnh đạm của người dân Hoa Kỳ với thân mẫu của mình, càng thôi thúc quyết tâm của bà. Sau nhiều năm đấu tranh quyết liệt, vào năm 1911, Ngày Của Mẹ được tổ chức ở hầu hết các tiểu bang ở Mỹ. Vào ngày 8/5/1914, tổng thống Mỹ đã ký quyết định ấn định ngày Chủ nhật thứ hai của tháng Năm hàng năm là Ngày của Mẹ. Dần dần trở thành, một trong những ngày lễ được yêu thích nhất. Tiệc tùng cũng linh đình nhất!hioh8h8ohhiohiohio.jpg

*Ngày của mẹ ở Ấn Độ

Người Ấn Độ gọi ngày của mẹ là Durga Puja, trong đó “Durga” là tên của một nữ thần bảo vệ cho người dân Ấn Độ, khỏi mọi nguy hiểm trong cuộc sống. Họ tổ chức Ngày của mẹ như một lễ hội lớn vào tháng Mười, trong vòng… mười ngày! Đồng thời, với những người mẹ thật sự trong cuộc sống, mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày, cũng sẽ được người con vào bếp trổ tài nấu ăn và tặng quà cho mẹ.pvfyyffgyggugugu.jpg

*Ngày của mẹ ở Tây Ban Nha

Ngày của Mẹ được tổ chức vào ngày Chủ Nhật đầu tiên của tháng năm ở Tây Ban Nha. Người lớn thường tặng mẹ sôcôla, thiệp chúc mừng hay một số món quà ý nghĩa khác. Còn trẻ em thì tự tay làm tặng mẹ những tấm thiệp, hoặc làm món quà đơn giản.i0-jjjipjpjopjkopjph8.jpg

*Ngày của mẹ ở Nhật Bản

Trong ngày của mẹ, trẻ em sẽ vẽ những bức tranh dành tặng cho mẹ của mình và tập hợp những bức ảnh đó thành một cuộc triển lãm nhỏ, với chủ đề tình cảm mẹ con và sự hi sinh thầm lặng của các bà mẹ Nhật.ik0jopjopjopjopjopjkop.jpg

*Ngày của mẹ ở Úc

Hoa cẩm chướng là loài hoa biểu trưng cho ngày của mẹ ở Úc. Bông hoa cẩm chướng vàng dùng để tặng người mẹ đang còn sống. Còn hoa cẩm chướng trắng được dành tặng một người mẹ đã quá cố. Vào ngày này, trẻ em thường dậy sớm, làm tặng mẹ đồ ăn sáng và mang đến bên giường ngủ, để mẹ thức dậy và thưởng thức.

 

jojjjpjopjojojj.jpg

Con Xin Hôn Mẹ!

(Thơ Trần Quốc Bảo)hiojhiojiopjojojkok[kp[.jpg

-Con quí trọng vết nhăn trên mặt Mẹ,

Lớp da chập chùng như sóng đại dương!

Ấp ủ muôn trùng, lòng Mẹ yêu thương,

Muôn trùng hi sinh! – Muôn trùng đau đớn!

Để con sinh ra, để con khôn lớn.

Để hôm nay, con hiện diện giữa đời.

Me dạy con sống trọn đạo với Trời!

Và yêu người, như chính mình ta vậy.

Con không bao giờ quên lời Mẹ dạy,

Yêu Quê hương, yêu Tổ Quốc, giống nòi.

Mẹ đã dạy con: Thất bại mỉm cười…

Vịn lời Mẹ mà đứng lên can đảm!

         Lời Mẹ dạy con: Thành công điềm đạm,       

Mở rộng vòng tay giúp đỡ tha nhân.

Mẹ đã về Trời, xa cõi trầm luân…

Con vẫn yêu Mẹ như xưa còn bé.

Vì trong tim con, đậm hình bóng Mẹ!

Kỷ niệm tràn đầy như sóng đại dương.

Lòng Mẹ dạt dào, biển cả yêu thương.

Con xin hôn lớp nhăn trên mặt Mẹ!




Nỗi Buồn – Ca Khúc Mới Thơ Tế Luân – Hòa Âm AI