THĂNG HOA CUỘC ĐỜI – Kỳ 55: Nguyễn Ánh Xưng Vương

Thăng Hoa Cuộc ĐờiNhư Ninh Nguyễn Hồng Dũng

Kỳ 55 Nguyễn Ánh Xưng Vương Ngoại Bang Phò Tá

Nói đến tôn thất nhà Nguyễn bị càn quét sau khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ giăng bủa khắp nơi, nhiều người trong dòng tộc bị sát hại hoặc đổi họ để làm thứ dân cho an thân; duy chỉ sót người thanh niên mười bảy tuổi của dòng dõi chúa Nguyễn còn sống sót, đó chính là Nguyễn Phúc Ánh, nhờ trốn xuống tàu thủy của giám mục Bá Đa Lộc đang neo thuyền ở sông rạch Cần Thơ. Mấy tháng sau tình thế lắng đọng, các quan tướng đất Nam hà tìm được Nguyễn Phúc Ánh cử làm Đại nguyên soái Nhiếp quốc chính để hội tụ quần thần khanh tướng triều chúa Nguyễn trong mục đích phục hoạt cơ đồ, chống Tây Sơn, nối ngôi nghiệp chúa.

 Từ thành Hoàng Đế vua Tây Sơn đã nghe được tin Nguyễn Phúc Ánh gom góp tất cả binh tàn tướng bại nổi lên tại miệt Long Xuyên, Cần Thơ làm cho đất Nam hà lắm phen can qua (can là cái mộc làm bằng da để che thân; qua là cái giáo, ý của can qua là chiến tranh) chinh chiến, vì vậy Thái Đức hoàng đế sai Tổng đốc Chu, Phạm Ngạn và Tư khấu Uy dẫn hơn ngàn lính thiện chiến đem quân tiễu trừ.

Quân binh của Nguyễn Phúc Ánh chỉ mới kết hợp được vài tháng nên lực lượng còn khá lỏng lẻo, tuy nhiên cánh quân của Đỗ Thành Nhân lại rất hùng hậu nên sau đó tái chiếm lại thành Gia Định và ra sức phò tá đắc lực cho Nguyễn Phúc Ánh nhằm khôi phục giang sơn nhà chúa Nguyễn.

Kế hoạch không được ăn khớp khi quân Tây Sơn do các tướng Chu, Ngạn, Uy đưa quân vào bằng ba ngã Phiên Trấn, Sài Gòn và Trấn Biên không đồng bộ để thực hiện chiến lược nhất thời ba mặt giáp công, do điểm yếu đó mà phía quân Tây Sơn không đánh thủng phòng tuyến của Nguyễn Phúc Ánh. Trái lại, quân binh của Nguyễn Phúc Ánh do cai đội Lê Văn Câu, Nguyễn Văn Hoàng, Tống Phước Khuông phản công mãnh liệt giết chết Tư khấu Uy, đồng thời đẩy lui quân Tây Sơn ngược ra Quy Nhơn; nhân đó Tống Phước Khuông phối hợp với quân binh của Tống Phước Lương thừa cơ đem binh lấy thành Bình Thuận và thành Diên Khánh.

Nguyễn Phúc Ánh khôi phục được đất Gia định, củng cố binh lực rồi sai sứ sang nước Xiêm La thông giao, đồng thời sai Đỗ Thành Nhân và Hồ Văn Lân đem quân chinh phạt nước Chân Lạp nhằm bảo hộ đặng làm hậu thuẩn, đưa Nặc In là con của Nặc Tân lên làm vua xứ này rồi đặc cử Hồ Văn Lân ở lại coi sóc việc triều chính với Tân vương Chân Lạp.

Việc Nam hà đang phát triển một cách thuận lợi cho chúa Nguyễn đã không làm cho triều đình Tây Sơn nao núng, thực lực của Nguyễn Phúc Ánh như thế nào thì điệp báo của Tây Sơn đã nắm rõ nhưng Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ không nở để dân tình khốn khổ với chuyện chiến tranh triền miên, do vậy mà quân binh Tây Sơn nhân đấy lo tập luyện tượng mã đợi thời thế thuận tiện xuất binh hòng tiêu diệt toàn bộ triều thần Nguyễn Phúc Ánh.

Năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc Ánh xưng vương hiệu đặt triều nghi và chiêu dụ bá tính hợp lực gầy dựng nghiệp chúa, phong cho Đỗ Thành Nhân làm chức Ngoại Hữu Phụ Chính Thượng Tướng Công cùng ban phát tiền bạc để khen thưởng binh lính.

               Trong khoảng năm tháng ấy vua Xiêm La là Trịnh Quốc Anh có hiềm khích với tướng Chất Tri (Chakhri) và Sô Si nên muốn đẩy họ xa khỏi triều đình bèn cách sai hai anh em Chất Tri và Sô Si dẫn binh mã đánh chiếm nước Chân Lạp. Như đã nói ở trên, lúc này Chân Lạp đang được bảo hộ bởi Hồ Văn Lân nên chúa  Nguyễn  Phúc  Ánh  cử  Nguyễn Hữu Thoại đem binh trợ giúp Chân Lạp.

Đang khi hai anh em Chất Tri và Sô Si kéo quân qua Chân Lạp thì tại quê nhà, vua Xiêm La là Trịnh Quốc Anh bắt vợ con của Chất Tri và Sô Si giam vào ngục tối để làm con tin với ý đồ thúc ép Chất Tri quyết lấy đất Chân Lạp cho kỳ được.

Vừa nghe hung tin bay từ đất Xiêm, anh em Chất Tri và Sô Si liền giao kết với Nguyễn Hữu Thoại để đem quân ngược lại phía nam đánh Trịnh Quốc Anh hầu cứu vợ con. Chưa tới thủ đô Vọng Các thì nghe Trịnh Quốc Anh đã bị tướng Phan Nha Văn Sản nổi lên đánh chiếm triều đình và cướp ngôi vua. Chất Tri và Sô Si liền cho quân bao vây Vọng Các tiến vào thành giết chết Phan Nha Văn Sản, đồng thời sát hại luôn Quốc vương Trịnh Quốc Anh rồi Chát Tri tự lên ngôi hoàng đế xưng là Phật Vương, phong cho Sô Si là Đệ nhị Quốc vương.  Do đó mối giao hòa, thân tín giữa vua Xiêm La Phật Vương và triều đình Nguyễn Phúc Ánh rất ư mặn nồng

Khi gặp hoạn nạn, Nguyễn Phúc Ánh đã được sự trợ giúp của Giám mục Bá Đa Lộc nên Nguyễn Vương nghĩ ngay đến việc cầu cứu giúp sức từ phương tây mà vai trò Bá Đa Lộc có thể làm được. Nghe tin chẳng tốt lành từ phương nam khi chúa Nguyễn có ý đồ cậy nhờ người ngoại quốc can thiệp vào nội tình đất nước, Thái Đức Hoàng đế vội hạ chiếu truyền Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ vào nam một phen nữa để tiêu diệt Nguyễn Phúc Ánh. Sau gần ba mùa đông yên tịnh, giờ đây chinh chiến lại bắt đầu khởi động dưới sự chỉ huy trực tiếp từ vị tướng trẻ vang lừng Nguyễn Huệ.

Nói về Đỗ Thành Nhân sau khi được phong chức Ngoại Hữu Phụ Chính Thượng Quốc Công thì oai danh vang lừng đất Gia Định, bản chất của cái ngã quá lớn đã khiến vị tướng tài ba này tỏ ra tự phụ, chuyên quyền, áp bức và không nể trọng đến chúa Nguyễn, vì thế mà Nguyễn Phúc Ánh đã tìm cách giết chết Đỗ Thành Nhân trước khi quân Tây Sơn  kéo vào Gia Định thành.

Đại thần Tây Sơn là Bùi Đắc Tuyên người thôn An Khương, xã Xuân Hòa, huyện Tuy Viễn có người con gái khá sắc sảo đã đến tuổi trăng tròn tên là Bùi Thị Loan. Để thêm vây cánh với hoàng gia, Thái Đức Hoàng đế tứ hôn cho Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ cùng Bùi Thị Loan nên nghĩa vợ chồng. Cuộc sống hôn nhân hạnh phúc chưa qua những ngày trăng mật nhưng việc quân binh hệ trọng đã buộc Nguyễn Huệ dồn nổ lực luyện tập võ nghệ cho binh sĩ và tìm thời gian rảnh để nghiền ngẫm binh thư Tôn Tử, phối hợp với loại võ công đặc biệt phát xuất từ vùng An Lão, Tam Quan, một môn võ thuật kết hợp giữa Thiếu Lâm Tự và võ Ta cùng sáng tạo những quyền cước độc đáo hầu thích nghi với chốn sơn lâm vốn nhiều thú dữ như cọp, báo, hùm, beo.

Để nâng cao những kỹ năng tuyệt công trong binh pháp và củng cố lực lượng thật tinh nhuệ, Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ thân hành cung kính mời các ẩn sĩ, mưu thuật chính trị cũng như những tay cao thủ võ lâm cùng nhau hợp tác và huấn luyện. Biết bao nhiêu anh tài, tuấn kiệt thấy cảnh đất nước tan hoang vì xâu xé, nạn tai sứ quân từng vùng lại nổi lên, ngai vua của triều Lê thì quá mục nát được dựng trên hư vị như một biểu tượng bù nhìn làm nơi mượn danh của nhiều phe phái chia chác quyền uy mà điển hình là hai chúa Trịnh-Nguyễn vẫn tranh giành thế lực cả bao nhiêu năm ròng, điều này đã khiến cho các danh sĩ tìm cách theo về với Tây Sơn rất đông qua ý hướng thống nhất sơn hà.

Trong đoàn quân của Long Nhượng tướng quân có nữ tướng Bùi Thị Xuân là một anh hoa nhi nữ, sức mạnh phi thường, tinh thông võ nghệ, mưu trí dũng lược và thường dùng đội chiến tượng với hơn một trăm thớt voi đã từng làm cho Nguyễn Phúc Ánh nghe danh bà đã vỡ mật khớp hồn.

Bùi Thị Xuân là vợ của tướng quân Trần Quang Diệu, một hổ tướng Tây Sơn đã có công đánh nam dẹp bắc, hạng mã công lao phi thường. Thân phụ của Bùi Thị Xuân là Bùi Đắc Kế, bào huynh của Bùi Đắc Tuyên, như vậy Bùi nữ tướng là vai chị vợ của Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ.

Cứ mỗi chiều nắng nhạt nơi thôn Xuân Hòa, trên gò đình rộng lớn và phẳng phiu ước chừng hơn mươi lăm mẫu, dân làng thường thấy vị nữ tướng đầu chít khăn đen, vai mang cung tiễn, áo quần gọn gàng trong bộ giáp trận thật uy nghi đã tập dượt trên trăm thớt voi để chờ ngày khởi binh xung trận.

Hoàng Đế thành được bao bọc bởi bờ lũy khá vững chắc, có đường hào chạy quanh như cách biệt nội ngoại cung đình với hàng trăm thớt voi sẵn sàng bảo vệ hoàng thành. Vòng ngoài cũng khá kiên cố, những bờ cây chắn gió thẳng tắp và xanh um cùng các đội vệ binh canh giữ nghiêm mật khiến cho vua Tây Sơn cảm thấy vững vàng với cơ đồ đang bắt đầu gây dựng.

Năm Tân Sửu (1781) khoảng tháng tư âm lịch khi gió nồm thổi từ hướng nam ra bắc thì Nguyễn Phúc Ánh vận động tàu chiến Bồ Đào Nha, đưa các tướng Châu Văn Tiếp, Nguyễn Hữu Thụy cùng quan tiết chế Bình Thuận là Tôn Thất Dụ, Tống Phúc Thiêm điều khiển ba vạn quân, hơn trăm thuyền bè, ba đại chiến thuyền có trang bị súng thần công, thêm ba tàu chiến Tây Ban Nha yểm trợ tấn công Bình thuận, Bình khang và Phú yên. Nhờ hỏa lực quá mạnh của tây phương thêm thời cơ lúc sức gió thuận lợi cho thuyền buồm căng chạy, quân Nguyễn vương thắng lợi khi vừa vào đất liền tiến đánh thành Phú Yên.

Hoàng đế Nguyễn Nhạc được cấp báo vội vã họp các tướng, cử Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ cùng nữ tướng Bùi Thị Xuân thống lĩnh bảy ngàn bộ binh, năm mươi thớt voi trực chỉ hướng Phú Yên nghinh địch. Đại quân Tây Sơn vừa tới mạn bắc bờ sông Đà Rằng đã gặp quân binh của chúa Nguyễn ngồi trên thuyền buồm kéo đến, Nguyễn Huệ truyền cho nữ tướng Bùi Thị Xuân cắt đặt năm mươi thớt voi xếp thành hình chữ nhất bao vây hai bên bờ sông đặng yểm trợ cho bộ binh tấn công thuyền Nguyễn Vương. Tờ mờ sáng Long Nhượng tướng quân đã đốc thúc toàn bộ lực lượng giao chiến, cung tiễn trên bờ bắn ra như mưa, đội cảm tử quân lặn xuống nước đục thuyền, đôi bên giao chiến ác liệt cho đến lúc chiều tà thì các chiến thuyền của Nguyễn Vương tan tác, số còn lại phải mở đường máu rút chạy ra biển để về lại đất Gia định.

Đêm hôm đó Nguyễn Huệ cho đốt đuốc khao quân chiến thắng và sáng hôm sau sai quân lính vớt hơn ngàn xác của cả đôi bên đem lên gò Nống để chôn cất tử tế và đốt huơng làm lễ chiêu hồn hết sức trang nghiêm. Dịp này Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ nói với ba quân rằng:

“-Ta không muốn việc đao binh kéo dài chỉ làm khổ dân lành vốn là người anh em một nhà. Nguyễn Phúc Ánh muốn khôi phục giang sơn trên cơ đồ đổ nát mà mượn tay ngoại bang thì qua mùa gió bấc sang năm ta sẽ quyết  tiễu trừ một đợt nữa rồi an bang cho dân lành làm ăn sinh sống”.

Đầu năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Huệ chuẩn bị binh mã, tu bổ chiến thuyền, rèn thêm giáo mác, chế thuốc súng, luyện tập những thế võ bí truyền cho đội quân cảm tử xáp lá cà, vót thêm cung tên chờ ngày xuất binh.

Tháng ba năm ấy thì đứa con đầu lòng của Nguyễn Huệ ra đời đặt tên là Nguyễn Quang Toản có khuôn mặt phương phi phúc tướng dáng vẽ hào hùng. Nguyễn Huệ vừa đặt tên con xong thì nghe tin Nguyễn Phúc Ánh chuẩn bị binh mã tấn công quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ liền dùng kế “tiên hạ thủ vi cường” (Ra tay trước để giành thắng lợi) nên dốc toàn lực để hộ giá Thái Đức hoàng đế cùng hai trăm chiến thuyền giương cờ tiến quân vào nam. Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ làm hậu tập dẫn theo đội binh cảm tử và một số hổ tướng tài ba vừa hộ giá, vừa bao vây phía sau.

Như đã nói ở trên, Nguyễn Phúc Ánh nhờ Giám mục Bá Đa Lộc can thiệp nên một số nước phương tây lợi dụng việc giúp đỡ để tạo đầu cầu bước vào các nước phương đông cho việc truyền đạo, làm ăn và chiếm đất nên phái các chiến thuyền, súng đạn và những vũ khí tinh xảo dưới sự dẫn dắt của giám mục này. Đội thủy quân của Nguyễn Phúc Ánh tương đối khá hùng hậu, dàn trận trên sông nước có nghiên cứu hẳn hoi để chờ các chiến thuyền Tây Sơn vào trận đặng xáp chiến.

Mùa Hè năm Nhâm Dần (1782) thì hai trăm chiến thuyền của Tây Sơn đã vào cửa Cần giờ. Nguyễn Vương phối hợp với Tống Phúc Thiêm mang gần bốn trăm chiến thuyền dang theo hình chữ bát [/ \] đến khúc sông ngã bảy nghênh chiến.

Hơn nữa, lợi thế của chúa Nguyễn là nhờ vào sự yểm trợ của gần một trăm thuyền buồm chở người Trung quốc và một chiến thuyền của Manvel người Bồ Đào Nha điều khiển đi sau hỗ trợ về hỏa lực. Long Nhượng tướng quân lên mũi tàu quan sát tình hình và nghe báo cáo lại số quân binh cùng thuyền bè đối phương, dù gấp đôi số lượng chiến thuyền và hỏa công vững vàng của chúa Nguyễn, Long Nhượng tướng quân Nguyễn Huệ vẫn không nao núng, đầy tự tin với sự điều binh vô cùng siêu phàm, Nguyễn Huệ động viên binh sĩ trước lúc xuất binh và truyền lịnh nghiêm minh cho từng người chiến sĩ, những người lính vốn đã gan dạ và có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trên bộ và trên sông càng thêm tin tưởng.

Thủy binh Tây Sơn tuy yếu về hỏa lực và số lượng nhưng từ lúc khai hỏa, Nguyễn Huệ đã thúc dục binh tướng gan dạ xông thẳng vào thuyền đối phương xáp trận theo các bí kiếp tập luyện hàng ngày; phía hỏa công của Nguyễn Phúc Ánh không phát huy nỗi vì sợ hãi uy danh của Tây Sơn, phần chưa tập luyện thành thục trên sông nước nên binh lính thật lúng túng với những kỹ thuật tây phương đầy tinh xảo.

Qua ba tiếng đồng hồ xông trận trên sông, Tống Phúc Thiêm liệu bề chống không nỗi vội truyền khẩu lịnh kéo hết chiến thuyền rút lui. Thừa thắng xông lên, Nguyễn Huệ thúc ba quân lướt thuyền con tới chận đầu, hai bên hỗn chiến khoảng nửa giờ thì chiến thuyền của Manvel có trang bị đại bát và lựu đạn tiếp cứu chống trả kịch liệt.

Dù bị chướng ngại vật ngăn trở, quân Tây Sơn vốn có tiếng biến hóa lẹ làng, đội cảm tử quân lặng xuống sông rồi đồng loạt leo lên thuyền của người Bồ Đào Nha. Sự gan dạ, quả cảm và yếu tố quyết thắng ngoại bang đã khiến cho binh sĩ bất chấp thần công bắn ra như mưa, lớp này ngả xuống đã có lớp khác hăng say tiến lên, chẳng mấy chốc đội cảm tử đã vào được cabin, chém những địch quân đang hốt hoảng khiến Manvel không kịp trở tay bèn quyết định cho nổ tàu rồi tự sát.

Lửa cháy trên sông đã lan vào bờ làm cho những bụi cây dừa nước bén lửa. Thế trận càng ngày càng trở nên thuận lợi, quân Tây Sơn xông trận như bay nhảy trên đất liền, tiếng chỉ huy của các tổng binh la hét để tìm bắt cho được soái tướng Nguyễn Vương trên cùng một khúc sông đã làm cho binh sĩ Tây Sơn nức lòng, gom thu được thêm một trăm chiến thuyền rồi tốc lực đuổi bắt Nguyễn Phúc Ánh.

Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng




NGẪU HỒ – Siêu Chiều Không Gian

Siêu Chiều – Chiều Chung Kết Của Khoa Học Phi Hữu &

11 Chiều Không Gian Của Khoa Học Hiện Đại.

Kính thưa đọc giả của diễn đàn thật nghĩa

Sau khi nghe sự giải thích của Lý Thuyết Siêu Dây, về Lý Thuyết Dây và 11 chiều không gian, Khoa Học Phi Hữu quyết định công bố Siêu Chiều hay còn gọi là Chiều Chung Kết, một thành quả rất đáng phấn khởi cho Khoa Học Hiện Đại, rất mong sự góp ý và sửa chữa từ các đọc giả của diễn đàn thật nghĩa, xin cám ơn.

Kính thư

Ngẫu Hồ.

Siêu Chiều – Chiều Chung Kết Của Khoa Học Phi Hữu &

11 Chiều Không Gian Của Khoa Học Hiện Đại.

Trần Ngẫu Hồ

Lời giới thiệu từ tác giả:

Lời đầu tiên, xin được cám ơn Giáo Sư, Tiến Sĩ Michio Kaku là một trong những tác giả của Lý Thuyết Siêu Dây, một thuyết khoa học mới nhất, mà qua đó có thể giải thích nhũng bí ẩn của chiều, của dây, của hạt, để từ đó đọc giả chúng ta hiểu vì sao chúng ta lại không nhìn thấy được những thực thể khác chiều của chúng ta, và những hành hoạt của họ.

Lý Thuyết Siêu Dây, sau khi được giải thích rõ ra, không ngờ nó lại dễ hiểu như vậy, nhưng trên hết, nhờ Lý Thuyết Siêu Dây này, mà Đồ Hình Liên Thông, Xa Lộ Thiền Định, Tân Trường Thống Nhất lại trở nên thực tế và hữu dụng, ba lý thuyết hèn mọn này của Khoa Học Phi Hữu ngày xưa là mơ hồ bao nhiêu, nay trở thành rõ nét bấy nhiêu, và nó sẽ giúp cho Khoa Học Hiện Đại đi tới cái rốt ráo sau cùng, mà không cần qua những kết luận phỏng đoán mông lung nữa.

Sau này có thể có nhiều chiều khác được tìm ra, mà phần nhiều là sẽ tìm được, kể cả các cõi Ma, nhưng nó sẽ không còn mông lung, khi chúng nối kết được với Siêu Chiều – Chiều Chung Kết của Khoa Học Phi Hữu. Thật là sự mở đầu đại phấn khởi cho thời đại của chúng ta.

Bài này xin được giới thiệu lại trên trang chính của Facebook, vì lần này có đính kèm Đồ Hình Liên Thông, mà vì lý do kỹ thuật lần trước đã không xuất hiện được, đồng thời cũng xin sửa một và chỗ. Xin thành thật cám ơn tất cả các đọc giả của diễn đàn thật nghĩa.

*       *                                                                           

Tôi hết mơ hoa, mộng bướm rồi

Bây giờ ngồi kể chuyện lòng thôi

Phòng tôi, chỉ một căn phòng nhỏ

Ẩn hiện Dòng Thơ, những Huyền Thơ

Ôi đẹp sao, những giấc mộng ban chiều.

Tôi lấy bút, vẽ con đường Vũ Trụ… bắt đầu.

Hai câu đầu xin mượn thơ, của nhà thơ Đinh Hùng, một nhà thơ mà tôi quý mến và ngưỡng mộ, thi sĩ Đinh Hùng đã tạo ra những vầng thơ vô cùng diễm tuyệt cho thời đại của chúng ta. Nhân đó giới thiệu những giải thích về Siêu Chiều Không – Thời Gian – Chiều chung kết của Khoa Học Phi Hữu. Đồng thời thí dụ, giải thích tóm tắt về Lý Thuyết Dây (LTD)

Đồ Hình Liên Thông (ĐHLT), trong đó, dung chứa các cõi giới trừu tượng và những thế giới khác chiều với thế giới 3 chiều của chúng ta. ĐHLT cũng hàm chứa thế giới 11 chiều, có thể chỉ ra và giải thích bởi Khoa Học Hiện Đại. Các thế giới khác chiều này và những thế giới khuất mặt, quay cuồng, biến đổi xung quanh Xa Lộ Thiền Định, là chiều chung kết.

Đồ Hình Liên Thông trên đồ họa (Xem hình ở trang cuối), chứa Xa Lộ Thiền Định, Xa Lộ Thiền Định dung chứa Tân Trường Thống Nhất, Tân Trường Thống Nhất dung chứa những giá trị lớn, vĩnh cửu, có thể hiểu và giải thích, nhưng không thể chứng minh là sai. Ba lý thuyết Đồ Hinh Liên Thông, Xa Lộ Thiền Định, Tân Truờng Thống Nhất chính là 3 dòng thơ Huyền Mỹ sẽ được tác giả hân hạnh giải thích sau đây.

Theo đồ họa diễn tả của Đồ Hình Liên Thông (ĐHLT: Connecting Diagram), thì chiều chung kết cũng là Xa Lộ Thiền Định (XLTĐ: Highway Of Meditation) nằm trong ĐHLT, là trung tâm của các chiều trong vũ trụ biến đổi mênh mông. Hãy tưởng tượng, chiều chung kết tức XLTĐ là một hình trụ ở giữa, chung quanh nó là những thế giới song song, biến đổi, quay cuồng xung quanh.

Trong chiều chung kết này, không có dây nào đang quay, vì thế nên không hạt cơ bản nào của nó tạo ra, cũng không có thời gian, không có chiều và độ mỏng, dù rất, rất mỏng, nên nó có thể, thể nhập vào bất cứ chiều không gian nào. Chiều của Xa Lộ Thiền Định thì vô hình, rỗng lặng, chỉ có năng lượng và trí tuệ của hành giả và những trầm bổng của Lạc (Bliss). Nhưng nó hiện thực, nó ở ngay đây, mọi chiều đều quay chung quanh nó, có thể thể nhập vào nó, và ngược lại.

Điều quan trọng là, mọi chúng sinh trong mọi chiều, đều có thể, thể nhập vào chiều chung kết, vô hình, rỗng lặng, vĩnh cửu, bằng chính công phu thiền định của mình. Xin xem chi tiết, giải thích bên dưới. Nhưng trước tiên, xin trở lại sự giải thích không gian 11 chiều của Ms Ruby.

Trong không gian 11 chiều, thì 9 chiều được tìm ra, được giải thích, và chứng minh bởi nhà vật lý, lý thuyết Michio Kaku, là một trong những người sáng tạo ra Lý Thuyết Dây (LTD). Lý thuyết M (M-theory) tiếp nối, tích hợp 9 chiều của Michio Kaku, thành chiều thứ 10, cộng với chiều thời gian, thành 11 chiều thời – không

Phần trích sau đây, từ bài nói chuyện từ youtube clip mang tựa:

“Có phải Thần đang ở siêu không gian 11 chiều” Của người đọc tên là Ms Ruby: https://www.youtube.com/watch?v=0oW4Iz1chvI&ab_channel=Ms.Ruby. Qua sự giải thích, của Ms Ruby chúng ta sẽ hiểu, các chiều không gian được thành lập như thế nào?

Nhưng tương lai sau này, dù Khoa Học Hiện Đại có thể tìm ra những chiều khác – Mà phần nhiều là sẽ tìm được – chiều thứ 12, 13, 14…26 hoặc chiều thứ… n+1, thì cũng không thể bỏ qua chiều chung kết của ĐHLT được, vì qua chiều chung kết chúng ta có thể dẽ dàng nối kết với các chiều, như sự giải thích chi tiết dưới đây.

Trích:

Trong thế chiến thứ 1, một nước nọ muốn dùng khoa học, để tuyên truyền cho thuyết vô thần, họ mong muốn cả dân tộc thoát ly khỏi tôn giáo, tín ngưỡng, vì thế đã mời 3 vị tiến sĩ, lên thuyết giảng giữa công chúng ở một quảng trường, vị thứ nhất là một tiến sĩ thiên văn nói: “Tôi đã dùng kính viễn vọng quan sát vũ trụ hơn 20 năm, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy thần. Vì thế, chắc chắn không có thần thánh.” Vị thứ 2 là tiến sĩ y học nói: “Tôi từng giải phẫu hàng trăm thi thể, quan sát tỉ mỉ các cơ phận, nhưng không tìm thấy nơi nào, để có linh hồn gửi gắm.” Vị thứ 3 là một nữ tiến sĩ, một nhà lý luận học từ từ lên phát biểu: “Người chết như cái đèn bị tắt, chết là hết, tuyệt đối không có cài gọi là thiên đàng, hay địa ngục để phán xét, tôi từng đọc qua các sách cổ kim, đông tây, nhưng không thấy ghi chép gì về chuyện này.”

Sau khi 3 vị tiến sĩ này nói xong, thì đều nhận được những tràng pháo tay vang dội. Vậy thần có tồn tại hay không? Tại sao chúng ta không nhìn thấy thần? Là do không có thần thật, hay chúng ta chưa đủ khả năng, nhận biết được ngài? Trong suốt thời gian qua, khoa học không ngừng tiến bộ, phát triển, nhận thức của con người đối với vũ trụ và siêu nhiên, ngày càng rõ nét hơn. Liệu khoa học mà chúng ta đang có hiện nay, đã đủ để chứng minh sự tồn tại của thần hay chưa? Một nhà vậy lý, lý thuyết người Mỹ, cuối cùng đã dùng vật lý siêu dây, để chứng minh sự tồn tại của thần, bạn có tin không? Hôm nay, chúng ta hãy thông qua khoa học, để tìm hiểu nguyên nhân: Tại sao chúng ta không nhìn thấy thần?

Michio Kaku, là một nhà vật lý lý thuyết, đồng thời cũng là một nhà tương lai học, và chuyên gia giáo dục phổ cập khoa học, hiện ông đang là giáo sư dậy vật lý lý thuyết tại đại học thành phố Newyork (University City of Newyork), những người học vật lý cơ bản đều biết đến ông. Năm Michio Kaku lên 8 tuổi, một nhà khoa học vĩ đại đã qua đời!

Một ngày nọ, thầy giáo bước vào lớp, buồn bã nói với các em học sinh của mình rằng: “Mới vừa rồi thôi, nhà khoa học vĩ đại nhất của thời đại chúng ta, vừa mới qua đời rồi”. Ngày hôm đó, tất cả mọi tờ báo đều đăng hình ảnh một chiếc bàn, trên bàn có những bản thảo đang còn chưa hoàn tất ở đó. Chủ nhân của chiếc bàn này, chính là nhà khoa học mà thầy giáo nói đến: Albert Einstein, tiêu đề tờ báo viết như thế này: “Tôi sẽ không bao giờ quên, người thảo, bản thảo vĩ đại nhất thời đại của chúng ta, đã qua đời rồi!”

Lúc đó cậu bé 8 tuổi Michio Kaku, đã tự hỏi trong đầu. Tại sao ông ấy không thể hoàn thành bản thảo chứ? Là gì mà lại khó như vậy? Là một bài toán mang về nhà, đúng không? Vậy tại sao ông ấy không hỏi mẹ của mình chứ? Tại sao lại không giải quyết được vấn đề này? Và thế là Micho 8 tuổi, lập tức đưa ra một quyết định, nhất định phải tìm ra vấn đề nan giải này, rốt cuộc là gì? Kể từ đó, Michio bèn yêu thích môn vật lý, và quyết định đi theo bước chân của Einstein.

Sau đó Michio mê mẩn một bộ phim truyền hình, có tên “Flash Gordon”. Mỗi thứ 7 hàng tuần, Michio ngồi trước Tivi, và chưa bỏ lỡ một tập nào cả, và cậu ngưỡng mộ vô cùng, những nhân vật trong phim, như Flash Gordon, tiến sỹ Zarkop Daladen. Và còn cả những thiết bị tương lai, khiến cho người ta phải mê đắm, như tầu tên lửa, lá chắn vô hình, súng Laser, còn cả thành phố trên không nữa.

Cũng chính do “hiệp sĩ bay Gordon, tức Flash Gordon, đã mở ra một tương lai hoàn toàn mới cho Michio, đầu óc nhỏ bé chủa Michio luôn có ý tưuởng bay bổng, liệu có một ngày, chúng ta cũng có thể đi xuyên tường, có thể chê tạo những con tầu vũ trụ, có thể bay nhanh hơn tốc độ của ánh sáng, cũng có thể đọc được suy nghĩ của người khác, trở nên vô hình, di chuyển đồ vật bằng tâm trí, thậm chí trong nháy mắt, có thể di chuyển cơ thể của chúng ta lên không gian, vũ trụ hay không nhỉ?

Liệu có thể thực hiện du hành thời gian, súng laze, trường lực (Force Field), vũ trụ song song. Những vấn đề này, đã thu hút Michio một cách sâu sắc, khiến cậu rất thích thú, cùng với việc săn film, Michio vẫn chưa quên bản thảo, chưa hoàn thành đó của Einstein. Khi học trung học, và để hoàn thành bài tập tham gia triển lãm khoa học, Michio đã chạy tới công Ty Westinghouse, thu thập hơn 400 pound, khoảng hơn 180 kg máy biến thể áp phế liệu và lắp một cỗ máy, nhân lượng tử gia tốc, trong gara của mẹ mình.

Trong dịp giáng sinh, Michio đã quấn 22 dặm dây đồng, trong sân bóng rổ của trường trung học, để chế tạo ra một máy gia tốc Electron, có công suất 2, 3 triệu electron volts, nó cần tiêu thụ 6000watt điện, tương đương tổng công xuất điện căn nhà của cậu ta, và có thể tạo ra từ trường tương đương 20 nghìn lần từ trường trái đất. Mục tiêu của Michio là tạo ra sức mạnh đủ lớn có thể tạo ra tia gamma phản vật chất, bài tập tham gia này của Michio cuối cùng đã lọt vào triển lãm khoa học quốc gia, đã giúp cho Michio nhận được học bổng từ Havard, thực hiện ước mơ, trở thành nhà vật lý học của mình và có thể tiếp tục theo bước chân của Einstein.

Nhiều năm sau, Michio mới nhận ra rằng, bài toàn khó năm xưa mà Einstein để lại, chính là thuyết vạn vật trong vật lý học, phương trình tổng hợp tất cả các lực vật lý trong vũ trụ, lý thuyết Trường Thống Nhất, lý thuyết này giống như phương trình E = mc2 của Einstein, có thể giải quyết nhiều bài toán khó về vật lý thiên văn, thí dụ tại sao các ngôi sao lại phát sáng? Tại sao ngân hà lại có thể phát sáng? Tại sao trên trái đất lại có năng lượng?

Hiện tại thì Michio Kaku là một trong những người phát minh ra vật lý siêu dây, trong vật lý lý thuyết và vật lý cao, năng lượng ngày nay, đồng thời là một học giả môi trường và một nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng quốc tế, ông luôn giữ vững tình thần của Einstein, không ngừng khám phá vạn vật. Lý thuyết siêu dây mà ông đề xuất, thật ra chỉ là một phương trình dài 1 in, thế nhưng phương trình dài 1 in này, có lẽ chính là chiếc chìa khóa mở ra những bí ẩn của vũ trụ.

Vậy thì Michio Kaku làm thế nào để giải thích vũ trụ, thông qua lý thuyết siêu dây? Ngay đây, những nhà khoa học vĩ đại luôn luôn gặp cái khó của vấn đề triết học, thí dụ Einstein nói, thuợng đế không chơi trò xúc xắc, Michio cũng vậy, mặc dù ông sinh ra tại Mỹ, nhưng có trải nghiệm lớn lên tại Mỹ và cả Nhật Bản. Trong khi mê mẩn với vật lý, ông còn đọc các loại sách đa dạng khác nhau nữa.

Các truyền thống thần thoại của Đông, Tây phương đã phá vỡ góc nhìn vấn đề một chiều của ông, khiến ông có thể từ góc độ đa chiều, không chỉ đứng trên góc độ của khoa học, mà còn đứng trên góc độ của tôn giáo để nhận định thế giới và vũ trụ, mà chúng ta chưa hiểu hết. Ông phát hiện trong thần thoại cổ Hy Lạp thần Zeus, vị vương của các vị thần có thể dùng suy nghĩ thuần tuý để điều khiển các vật thể chung quanh mình, chỉ cần một ý nghĩ, là có thể biến các hạt, trong hư không xung quanh mình thành vật thể. Nữ thần Venus thì có một cơ thể hoàn hảo vĩnh cửu, còn thần Apollo có một cỗ xe, có thể di chuyển trên bầu trới.

Vậy nếu các thần trong truyện cổ Hy Lạp là có thật, vậy tại sao chúng ta không thấy họ cơ chứ? Từ đó Michio nhận ra rằng, thế giới là đa chiều và vũ trụ cũng nên là đa chiều, chỉ vì con người sống trong thời không 3 chiều, không thể nào nhìn thấy sinh mệnh của các thời không cao hơn khác, vậy thì tại sao con người không thể nhìn thấy, mà lại càng khó mang theo cơ thể vật chất để tới các thời không khác. Vậy làm thế nào để chứng minh được điểm này? Mới có thể làm cho mọi người dễ hiểu hơn đây?

Quãng thời gian sinh sống ở Nhật đó, một chuyến tham quan, ngắm cảnh tình cờ, đã mang đến linh cảm cho ông. Tại Nhật Bản, ngày 5/5 là ngày bé trai, những gia đình có con trai, thì vào ngày này, thì đều có treo cờ cá chép, cầu mong con trai trong mỗi gia đình sớm thành tài, phong tục này, bắt đầu từ thời Edo, cũng có liên can đến “Cá chép vượt long môn” của Trung Hoa. Học giả từ thời nhà Tống là Lục Điền, đã để lại một cuốn sách lưu truyền, từ thế hệ này, sang thế hệ khác “Bỉ Ngã, Thích Ngư” trong đó có ghi chép lại.

“Tục thuyết Ngư dược long môn, quá nhi vi long, duy lý hoặc nhiên” Có nghĩa là, tục ngữ nói: Cá vượt long môn, vượt qua được thì hoá thành rồng. Chỉ có cá chép mới có được cơ duyên làm được điều này. Rồng có 81 vẩy, mang tính cửu dương, cá chép có 36 vẩy, mang tính lục âm, tuổi thọ có thể đến nghìn năm. Tương truyền từ xa xưa đến nay, các vị thần, tiên đều cưỡi rồng, hoặc cá chép bay qua núi, qua hồ, có thể thấy cá chép là giống rồng nhất, cá chép thông qua cải tạo giống thì thành cá Koi, và các loại cá vàng mà chúng ta nhìn thấy, là cải tạo tư cá diếc mà thành. Cho nên tại Nhật Bản rất thịnh hành văn hóa cá koi.

Là một loại cá cảnh, koi có một đặc điểm rất khác biệt, đó chính là người ta thích ngắm lưng của nó, cho nên thường được nuôi trong bể nước, để mọi người có thể chiêm ngưỡng hoa văn trên lưng, và tư thế bơi lội của nó, một ngày nọ, ông Michio cùng phu nhân đi ngắm cá, ngắm thì cứ ngắm, thì đột nhiên, dáng vẻ cá coi đang bơi lội trong tâm trí ông dần dần biến thành cảnh tượng từ 2 chiều, biến thành 3 chiều, nếu bản thân mình là chú cá này, đang bơi trong bể, sống cuộc sống 2 chiều, chắc chắn không nhận ra rằng, ở thế giới bên trên, đang có sinh mệnh cao cấp hơn đang theo dõi mình.

Rồi một ngày nọ, cá koi nhẩy lên khỏi mặt nước, tiến vào một thế giới 3 chiều hoàn toàn mới, một thế giới tầng cao hơn, từ góc nhìn của cá koi, trong thế giới cao tầng này, có thể nhìn thấy người đi lại ở tứ phía, thì đối với cá koi mà nói, thì cũng giống như con nguời ở hành tinh khác vậy. Thế giới này không có nước, không cần vây cá, lại có thể tự do di chuyển và tồn tại, đây hoàn toàn là một thế giới mà cá koi không thể nào lý giải nổi.

Sau khi trải nghiệm nâng chiều, nhìn thế giới với những quy luật vật lý hoàn toàn mới, lúc này cá koi quay trở về bể nước, và nói với các bạn của mình rằng: “Này, tôi vừa mới rời khỏi bể nước, nhìn thấy loài động vật có 2 chân, 2 tay, không có vây đấy” Mọi người thử đoán xem, những chú cá koi khác, sẽ nói gì đây? Chúng chắc chắn sẽ nói: Bạn điên rồi đúng không?” Vậy cũng tương tự, nếu con người nhẩy ra khỏi thời không 3 chiều, liệu có phải bước vào thế giới hoàn toàn mới, thế giới cao tầng, nơi thần tồn tại, mà con người không thể lý giải được.

Ba chiều với nhiều chiều, nếu đơn thuần từ góc độ vật lý học, lý thuyết mà nói, đúng là không dễ mà hiểu cho được, nhưng nếu nhìn từ thời không mà cá koi sinh sống, có phải là rất đơn giản đúng không?

Một chiều chỉ có chiều dài, 2 chiều là một thế giới phẳng, ba chiều là không gian lập thể, gồm chiều dài, chiều rộng, và chiều cao tạo thành, bốn chiều là không gian 3 chiều, cộng thêm chiều thời gian tạo thành. Cho nên, chiều thời gian cũng không phải, cũng không tương đương vói thời không, nói một cách khác, cho dù là cá koi hay con người, do chỉ đều do sinh mệnh đặc trưng của bản thân mình, nên bị giới hạn trong thời không mà mình đang tồn tại, sự thật vượt quá thời không này, là không nhìn thấy rồi, đương nhiên cũng không tin nữa, nhưng không nhìn thấy, không có nghĩa là không tồn tại mà.

Cho nên Michio Kaku đã theo bước Einstein, nhất định phải tim ra cho được, chứng cứ chứng minh, sự tồn tại của không tồn tại. Chính là đám cá koi này, khiến ông tìm ra lý thuyết siêu dây. Vậy thì lý thuyết siêu dây là gì?

Trong vật lý hiện đại để giải thích vũ trụ, có 2 lý thuyết lớn, một là thuyết tương đối rộng, hai là thuyết cơ học lượng tử. Thuyết tương đối rộng mô tả cấu trúc của vũ trụ hoành quan vĩ mô, còn cơ học lượng tử lại mô tả thế giới vi quan vi mô. Về lý mà nói, lý thuyết mô tả thế giới hoành quan và vi quan nên phối hợp nhịp nhàng với nhau, thế nhưng các nhà khoa học, khi thảo luận về vụ nổ lớn vũ trụ thì thấy, hiện tượng điểm kỳ dị và khoảnh khắc vụ nổ lớn, thì vừa thuộc thế giới vi quan, lại cũng thuộc thế giới hoành quan.

Vì thế nên tại đây, mâu thuẫn giữa cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng đã xuất hiện, bởi vì sự mô tả của chúng về 4 lực cơ bản, dường như mâu thuẫn với nhau, vậy thì 4 lực cơ bản là gì? Trong cuộc sống, chúng ta có thể quan sát thấy lực nổi của nước biển đối với thuyền, lực kết dính của keo, lực hút và lực đẩy giữa nam châm.

Trong thế giới vi quan, giữa phân tử với các nguyên tử, giữa nguyên tử electron và hạt nhân nguyên tử, giữa các hạt trong hạt nhân nguyên tử, cũng đều tồn tại lực hấp dẫn, hoặc lực đẩy, các nhà khoa học, đã tổng hợp các lực này thành bốn loại, chính là lực cơ bản trong giới tự nhiên, lực hấp dẫn, lực điện từ, lực mạnh và lực yếu.

Khi các khoa học gia phát hiện mô tả của cơ học lượng tử và thuyết tương đối rộng về 4 lực cơ bản này có mâu thuẫn, thì cần có một lý thuyết mới để hợp nhất 2 lý thuyết rời rạc này lại, để chúng trở nên hài hòa với nhau.

Thông qua nghiên cứu, gần một trăm năm nay, các nhà khoa học phát hiện, quả thật có sự thống nhất nào đó giữa thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử và chúng không ngừng tiếp cận nhau, rất nhiều công thức vật lý vì thế mà biến mất, đương nhiên không phải không tồn tại nữa, mà được thay thế bằng công thức đơn giản hơn. Cho đến bước cuối cùng sắp đạt được sư tích hợp thống nhất hoàn toàn, lý thuyết siêu dây đã xuất hiện. Và ông Michio Kaku là một trong những người sáng lập ra lý thuyết siêu dây này. Lý thuyết siêu dây cố gắng giải quyết mâu thuẫn giữa 2 lý thuyết không tương hợp nhau này, tạo ra lý thuyết vạn vật, có thể miêu tả toàn thể vũ trụ, bao gồm cả thế giới hoành quan và vi quan.

Lý thuyết siêu dây có một giả thuyết nổi tiếng nhất đó là, mọi lạp tử đều không phải dạng hạt điểm, mà là những giải năng lương cực nhỏ, không thể nhận thấy, chúng ta có thể gọi là các “dây” rung động theo nhiều cách khác nhau, cũng giống như dây đàn violon, nếu chúng rung động theo cách khác nhau, thì cũng tạo ra những âm cao, thấp, trầm, bổng khác nhau vậy. Các hạt cơ bản hình thành thông qua các trạng thái giao động khác nhau của dây.

Phương trình toán học của lý thuyết siêu dây, yêu cầu không gian 9 chiều, cộng thêm một chiều thời gian, chính là thời không 10 chiều. Mọi người nghe có đôi chút trừu tượng đúng không? Không gian 10 chiều đến từ đâu vậy? Nếu chúng ta đứng trên trái đất nhin mặt trăng, thì thấy mặt trăng là chuyển động tròn, tức là chuyển động 2 chiều. Nếu chúng ta đứng trên mặt trời nhìn, thì trái đất là chuyển động tròn, còn mặt trăng là chuyển động lò xo tròn, cũng tức là chuyển động 3 chiều rồi.

Nếu chúng ta đứng ở trung tâm giải ngân hà nhìn, thì mặt trời đang là chyển động tròn, còn trái đất là đang chuyển động tròn, theo dạng lò xo. Phương thức chuyển động cũng giống như ở mặt trời mà nhìn mô thức chuyển động ở mặt trăng vậy. Và trong chuyển động tròn lò xo của mặt trăng, còn bao gồm một chuyển động tròn lò xo của hệ trái đất, mặt trăng. Lúc này thì đã trở thành một chuyển động 6 chiều rồi.

Nếu chúng ta đứng ở trung tâm vũ trụ nhìn, thì lỗ đen ở trung tâm của giải ngân hà đang chuyển động tròn, trong khi mặt trời thì đang chuyển động theo chuyển động tròn như lò xo. Trái đất lúc này đã trở thành, đã trở thành quỹ đạo mầu xanh trong ảnh, còn mặt trăng thì trở thành quỹ đạo chuyển động mầu đỏ. Chuyển động tròn lò xo của mặt trăng, bao gồm 2 lớp chuyển động tròn lò xo, trở thành chuyển động 9 chiều, cộng với 1 chiều thời gian, không gian 10 chiều được thành lập như vậy.

Năm 1995, tại hội nghị vật lý thuyết dây, được tổ chức tại đại học nam California, nhà vật lý toán học người Mỹ Edward Witlen, lần đầu tiên đề xuất rằng, tất cả các lý thuyết dây, đều có cùng một gốc, và vì vậy lý thuyết M đã ra đời (M – theory) đã thống nhất mọi phiên bản lý thuyết dây, cho nên lý thuyết này được lên cấp. Lý thuyết M cho rằng, chiều lớn nhất của vũ trụ là 11 chiều, cũng là 9 chiều không gian của lý thuyết siêu dây, sau khi được tích hợp bởi lý thuyết M trở thành 10 chiều, cộng với chiều thời gian, trở thành 11 chiều. Vũ trụ 11 chiều không gian được hình thành như vậy.

Nếu chúng ta thu nhỏ không gian 11 chiều kích thước bằng một nguyên tử, rồi nhin lại chuyển động của các thiên thể hoành quan, thì thứ mà chúng ta nhìn thấy thì chính là rung động dây qui mô rồi. Sự chuyển động của lỗ đen và sao neutron, trở thành 2 loại rung động dây mở, còn sự chuyển động của mặt trời, trái đất và mặt trăng, thi trở thành chuyển động dây kín.

Nói tóm lại, lý thuyết siêu dây cho rằng trên thế giới vốn không tồn tại hạt, chỉ có các dây đang chuyển động trong không gian, các loại hạt khác nhau, là các dạng rung động khác nhau của dây mà thôi. Mọi tương tác xảy ra trong tự nhiên, mọi vật chất và năng lượng, đều có thể dùng sự tách và nối các dây để giải thích.

Suy cho cùng, thì những thế giới đa chiều này, chính là đang ở ngay xung quanh chúng ta, cũng giống như cá Koi không rời được bể nước được vậy, chúng ta cũng không thể tách rời khỏi môi trường mình đang sống tại đây. Dù chúng ta có rời khỏi bể nuớc, thì bên ngoài không gian, phía bên trên càng có thời không, càng cao hơn bên trên nó nữa, và tập hợp của mọi thế giới, giống như một tập hợp thời không hợp nhất.

Nói đến đây, có phải mọi người có thấy rất quen thuộc hay không? Đúng vậy, dường như trong kinh Phật cũng có cách nói tương tự như vậy. Mọi nguời xem, thời không gồm các chiều không gian, cộng vói chiều thời gian, có phải rất giống trong các tầng trời, nói trong kinh Phật đúng không? Trong kinh Lăng Nghiêm cuốn thứ 4 có ghi chép lại như thế này: “Thế vi phương lưu, giới vi phương vị

Đông, Tây, Nam, Bắc

Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc

Thượng hạ vi giới, quá khứ, tương lai, hiện tại vi thế.”

Có thể nói thế giới mà đức Phật nói thì đã bao gồm chiều thời gian, chiều không gian trong đó rồi. Trong Hoa Nghiêm Kinh, Khởi Thế Kinh và Phạm Võng Kinh, cũng đều có nói sự cấu thành nên thế giới, thế giới Tu Di nói trong kinh Phật tương đương với hệ mặt trời, và cõi Diêm Phù Đề nói trong kinh Phật chính là trái đất.

Trong Khởi Thế Kinh có nói đến học thuyết tam thiên đại thiên thế giới, tập hợp 1000 thế giới là tiểu thiên thế giới, tập hợp 1000 tiểu thiên thế giới là trung thiên thế giới, tập hợp 1000 trung thiên thế giới là đại thiên thế giới. Tiểu thiên, trung thiên, đại thiên hợp lại, gọi chung là tam thiên đại thiên thế giới. Đây chính là thế giới của một vị Phật, tương đương với quy mô của giải ngân hà.

Trong vũ trụ tồn tại có vô số tam thiên, đại thiên thế giới, trong kinh Phật gọi là Thập Phương Hoành Sa thế giới, Thập Phương Vi Trần thé giới, xem đến đây có phải mọi người đã hiểu thời không khác nhau tồn tại khách quan như thế nào rồi chứ? Do chiều thời gian và thời không khác nhau, nên sinh mệnh sống trong đó cũng khác nhau, do chiều thời gian và thời không khác nhau, nên sinh mệnh sống trong đó cũng khác nhau, quy luật vật lý cũng sẽ không giống nhau. Đây cũng chính có lẽ là cảnh tượng phồn vinh trong tam thiên, đại thiên thế giới mà đức Phật nói đây sao?

Cho nên ông Michio Kaku đã nói: “Tất cả các sách vật lý hiện nay đều là sai, mọi sách giáo khoa vật lý trên trái đất đều nói vũ trụ chủ yếu đều cấu thành từ những hạt nguyên tử – Sai – Trong 10 năm qua, chúng tôi dần phát hiện ra, phần lớn vũ trụ đều là bóng tối. Các bạn trẻ cần phải khám phá, đi tìm ra những bí mật của vật chất tối và năng lượng tối đó” Ông Michio phát hiện, việc Einstein cuối đời, cuối cùng đã bước vào tôn giáo, đồng thời nhận thức về thượng đế trong khoa học tôn giáo, mới là khoa học cao nhất.

Điều này hoàn toàn hợp lý, bởi vì bản thân ông ấy, trong quá trình nghiên cứu dây và lý thuyết siêu dây, cũng đã nhận xét sâu sắc được rằng, có một sức mạnh mãn liệt đằng sau, tạo ra sự rung động dây, là thứ mà con người cho đến nay vẫn chưa thể hiểu và chạm tới được, vì vậy ông đã đưa ra lý thuyết Tachyons (primity semi radius Tachyons). Đây là một hạt hạ nguyên tử vượt tốc độ ánh sáng, được suy đoán trên lý thuyết, là một hạt giả tưởng, bắt nguồn từ thuyết tương đối, di chuyển với tốc độ vượt ánh sáng, nhanh hơn cả ánh sáng.

Có thể bóc tách không gian chân không, giữa các hạt vật chất trong vũ trụ, khiến cho vạn vật không chịu tác động bởi vũ trụ chung quanh, sau khi tiến hành thử nghiệm vớI những hạt này, ông Michio Kaku đã đưa ra một kết luận vô cùng thu hút, chứng minh sự tồn tại của thượng đế, ông nói: “Chúng ta tồn tại, trong một kế hoạch, được điều hành bới các quy tắc hình thành bởi trí tuệ phổ quát, chứ không phải sự sáng tạo ngẫu nhiên. Và trí tuệ phổ quát, chi phối hết thảy này là gì? Chỉ có thuợng đế mới đưa ra lời giải thích”.

Ông Michio Kaku cho rằng thượng đế chính là một nhà toán học, bởi vì không gian 10 chiều, không gian 11 chiều, rút ra từ lý thuyết siêu dây, không chỉ là siêu không gian, mà còn là siêu đối xứng, cho nên từ đó sinh ra lý thuyết siêu dây, rồi từ đó sinh ra siêu toán học, siêu hình học vi phân, lý thuyết siêu đối xứng và tất cả những thứ này, đã thay đổi toán học một cách triệt để, bởi vì mọi lý thuyết trong lý thuyết siêu dây đều có thể dùng toán học để mô tả

Ông Michio còn nói, thượng đế cũng là một nhạc sĩ, khi bạn đọc hiểu được suy nghĩ của thương đế thì cũng phát hiện được suy nghĩ của ngài giống như vô số các tần số dây khác nhau đang giao động, tạo ra vô số các hạt khác nhau, tạo nên vũ trụ, những sợi dây đàn vang lên, thông qua không gian 11 chiều, sinh ra cộng hưởng, từ đó tạo ra một bài vũ trụ tráng lệ, đó chính là nơi bắt nguồn sự sống của chúng ta, đây chính là hình dáng của vũ trụ, đây chính là suy nghĩ của thượng đế . <Hếttrích>.

Video Clip của Ms Ruby, cho chúng ta đã hiểu tại sao lại có tới 11 chiều, và thế giới 3 chiều của chúng ta vì sao lại không thể thấy các chiều khác? Thế giới 11 chiều của ông Michio chỉ nằm trong cái hột đậu phộng tròn tròn, vàng vàng của Đồ Hinh Liên Thông đó mà thôi. Và tương lai, những chiều 12, 13, 14…26 hoặc chiều… n+1 đưọc tìm ra, thì cũng chỉ quyẫy lộn, quay cuồng chung quanh chiều chung kết, Xa Lộ Thiền Định mà thôi. (Xin xem Đồ Hình Liên Thông ở dưới)

Tôi cũng không tin lời kết luận của Lý thuyết gia Michio Kaku, vì nó khá tuỳ tiện, khi cho rằng cần phải có vai trò của thượng đế đứng sau, để thúc đẩy hài hòa cuộc sống của chúng ta. Khiì sự giải thích tối hậu của Khoa Học Phi Hữu, và lý trùng trùng duyên khởi, đã nói rõ là không cần vai trò trung gian nào. Nhưng trước tiên, chúng ta sau đây giải thích hợp lý 11 chiều cùa Khoa Học Hiện Đại đã.

Các hành tinh đều đang quay theo quỹ đạo riêng, trọng trường riêng, vì sự quay này, mà tạo ra dây đang quay. Dây quay, tạo ra các hạt cơ bản, các hạt cơ bản tạo ra vật chất cho riêng nó, vì khác dây, khác hạt cơ bản nên chúng sinh ở chiều này không thể thể nhập vào chiều khác được,

Thí dụ chiều 0, chiều 1, chiều 2 đang cùng ở với nhau trên một sàn quay (Thường thấy ở các gánh xiệc) Anh A tượng trưng cho chiều 0, ngồi cố định trong ghế, được cột dây cẩn thận, anh A không thể đi lên, xuống, dọc ngang, nên có thể xem anh A đại diện cho chiều 0. Anh B, chỉ đi theo 1 đường thẳng trong sàn quay, anh B tượng trưng cho chiều 1. Anh C đi trên đường thẳng trong sàn quay, đồng thời có thể đi ngang được, nên anh C tượng trưng cho chiều 2.

Kế tiếp, chúng ta cho sàn quay, quay tròn, chúng ta đang đứng ở chiều 3, chúng ta có thể bước vào vòng quay tròn được không? Không thể, vì bước vào là ta sẽ bị văng ra ngay (Thí dụ cho sự khác chiều, khác dây, khác hạt). Muốn bước vào sàn quay, chúng ta phải quay cùng tốc độ, cấp độ với sàn quay. Thí dụ này, khiến chúng ta hiểu vì sao chúng ta không thấy, và không thể nhập vào được các chiều khác dây, khác chiều với chúng ta. Khi chúng ta quay cùng chiều với các chiều 0, 1, và 2, thì những chúng sinh trong đó thấy chúng ta, nhưng nếu chúng ta quay thụt xuống 1 bậc, thì chúng ta sẽ biến mất khỏi chiều của họ. Sự kiện này giải thích các UFO xuất hiện trên bầu trời, nhưng biến mất ngay trước mắt chúng ta.

Muốn thể nhập vào chiều khác chúng ta phải dùng giá trị tương đương, chúng ta không thể thể nhập nguyên điều kiện của ta vào sàn đang quay, nhưng nếu chúng ta thả vào sàn một khối không khí thì được chăng? Được, vì không khí nhỏ nhiệm tương đương, giải thích này, cho thấy nếu chúng ta nhập vào Xa Lộ Thiền Định, thì chúng ta có thể thể nhập vào bất cứ chiều không gian nào. Vì như đã giải thích, cơ chế của thiền định, không có dây, không có hạt, không có độ dầy, nên có thể thể nhập vào bất cứ thời – không nào. Xa lộ Thiền Định chính là siêu chiều, mọi chiều đều phải dựa vào nó

Và như tôi đã thưa, chiều chung kết, Xa Lộ Thiền Định, không có dây nào đang quay, nên không có hạt nào tạo ra, nên nó không có thời gian không có biến đổi. Chứng minh sự không biến đổi là nhục thân các vị thiền sư Huệ Năng (Hui Nan 713 – 2024) Hám Sơn, Đơn Điền (1623 – 2023) (trung quốc) Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường, Việt Nam (tồn tại 400 năm). Khoa Học Hiện Đại không thể giải thích những hiện tượng này, nếu không hiểu siêu chiều, Xa Lộ Thiền Định.

Muốn thể nhập Xa Lộ Thiền Định, thì phải thể nhập Tân Trường Thống Nhất, gồm 4 giá trị:

Tân Trường Thống Nhất 1: Là sự thống nhất giữa Tâm và Thức, để vào thực tại, vào thực tại quen thuộc là vào XLTĐ

Tân Trường Thống Nhất 2: Là sự thống nhất thời gian và phi thời gian, trong thiền định vì không còn biến đổi trong Tâm, nên không có thời gian.

Tân Trường Thống Nhất 3: Là sự thể nhập các thế giới khác chiều mà không bị ngăn ngạ

Tân Trường Thống Nhất 4: Là sự thống nhất giữa thuờng hằng bất hủy diệt và sự hủy diệt.

Khi Tâm và Thức muốn thống nhất, là khi Thức đối diện với ngoại cảnh, không chạy theo ngoại cảnh, tạo nên sân, si, tham luyến buồn vui với ngoại cảnh, mà Thức bình lặng trước nó. Sau khi giải quyết ngoại cảnh, Thức lại bình lặng, nên Tâm cũng bình lặng. Khi Tâm và Thức luôn luôn bình lặng ấy là Thực Tại, là cửa ngõ của Thiền Định, vào trạng thái thiền định quen thuộc, chúng ta vào Đại Định, vào Đại Định quen thuộc là vào Xa Lộ Thiền Định. Là Tân Trường Thống Nhất 1 thể Hiện. Chúng ta cũng có thể thực hiện thiền sự (Tức là ngồi thiền) để vào Xa Lộ Thiền Định.

Khi thường xuyên trong Đại Định không còn biến đổi, sinh diệt của Tâm, thời gian sẽ không còn, không có thời gian trong Tâm, bỏ mặc sự biến đổi thời gian chung quanh, chúng ta đã thực hiện Tân Trường Thống Nhất thứ 2. Là sự thống nhất giữa thời gian và phi thời gian. Tất cả 10 chiều của Khoa Học Hiện Đại đều phải có chiều thời gian, thêm vào, nhưng chiều thời gian của Khoa Học Hiện Đại luôn luôn trong sự biến đổi. Còn chiều phi thời gian của Khoa Học Phi Hữu thì không bao giờ có biến đổi.

Khi Tâm, Thức không biến đổi sẽ không có thời gian, chúng ta thường xuyên trong Xa Lộ Thiền Định, nơi không có dây và hạt biến đổi, ngay cả không có sự nhỏ nhiệm, nên chúng ta có thể thể nhập vào các cõi, các thế giới khác một cách không ngăn ngại, Tân Trường Thống Nhất thứ 3 được thể hiện, là sự thể nhập vào ra các thế giới, các cõi, các chiều không gian khác nhau.

Thường xuyên trong Xa Lộ Thiền Định, cũng là chiều chung kết, cũng là Tân Trường Thống Nhất thứ 4 được thể hiện, trong đó không có Không Gian, không có thời gian, không có biến đổi sinh diệt, chỉ có năng lượng vô hình của chúng ta biến hiện, nhưng không tạo ra hạt cơ bản nào, không có các dây đang rung, quay nên cũng không tạo ra các hạt cơ bản nào.

Vì vậy, nên khi năng lượng của người ấy, rời vùng Xa Lộ Thiền Định (Khi này, gọi là Thu Thần nhập diệt, hay nhập Niết Bàn Tịch Tĩnh, hay vào vùng Vũ Trụ Tiền Big Bang bất sinh diệt) Cơ thể vật lý của họ ở lại Xa Lộ Thiền Định, nơi không có dây, hạt nào biến đổi, cũng không thời gian biến đổi, nên tồn tại mãi mãi. Đây là sự giải thích cho các nhục thân của các vị như Lục Tổ Huệ Năng tồn tại trên 1310 năm (713 – 2024); Các thiền sư Hám Sơn; Đơn Điền (Trung Quốc) tồn tại trên 400 năm; Vũ Khắc Minh; Vũ Khắc Trường (Việt Nam) đã tồn tại trên 400 năm. Với nguyên óc, não, nội tạng, là những tế bào dạng mềm, ướt và xốp, rất khó bảo quản lâu quá 1 tuần.

Sau này, nếu Khoa Học Hiện Đại tìm ra được những chiều không gian khác, như chiều thứ 12, 13, 14, 15… hoặc tới chiều thứ… n+1, thì vẫn cần phải vào Xa Lộ Thiền Định, chiều chung kết, để câu thông liên hệ với các chiều không gian khác, nên chiều chung kết mới đúng là chiều cơ bản.

Chính chúng ta cũng sẽ là những vị Thần, khi chúng ta thống nhất được Tâm và Thức (Sự thống nhất thứ 1) Sau khi thống nhất giữa Tâm và Thức, chúng ta thường xuyên trong thực tại, cũng là thường xuyên trong thiền định. Tức là, chúng ta vào và ra Xa Lộ Thiền Định từ không gian 3 chiều của chúng ta, sự thể hiện đó dễ dàng như thế nào, thì chúng ta vào các chiều khác, từ Xa Lộ Thiền Định cũng dễ dàng như vậy.

Đồ Hình Liên Thông




THĂNG HOA CUỘC ĐỜI – Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng | Kỳ 54: Ba Anh Em Tây Sơn Vương

THĂNG HOA CUỘC ĐỜI

Như Ninh Nguyn Hng Dũng

Kỳ 54 Ba Anh Em Tây Sơn Vương

Nói về Nguyễn Nhạc xử dụng Đông cung Nguyễn Phúc Dương với ý đồ tóm thâu đất Phú Yên khi quân chúa Nguyễn đánh lấn ra, ngoài phía Bắc lại bị Hoàng Ngũ Phúc ép vào, với tình thế lưỡng đầu thọ địch ấy, Nhạc cốt ý gã Thọ Hương cho Đông Cung để an bề chống đỡ phía nam và Nguyễn Nhạc đóng vai cha vợ hòng dụ lòng tin của Tống Phúc Hợp đang khai chiến; nhưng giờ đây sau khi thắng trận và lấy được đất Phú Yên, Nguyễn Phúc Dương mới biết mình bị lợi dụng và định trốn thoát vào Nam đặng mưu đồ nghiệp bá.

Biết được ý định như vậy, Nguyễn Nhạc lập tức cho quân lính bắt giam Nguyễn Phúc Dương tại chùa Thập Tháp gần thành Đồ Bàn rồi chọn ngày lành tháng tốt đặt hương án cáo yết thiên địa tự xưng là Tây Sơn vương nhằm vào năm Bính Thân (1776).
                Nguyên chùa Thập Tháp Di Đà được một vị Hòa Thượng họ Tạ húy là Nguyên Thiều từ xứ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung quốc đến lưu trú và xây dựng vào năm Quý hợi (1683) đời vua Lê niên hiệu là Chánh Hòa trên gò đất có mười ngôi tháp Chàm. Đây là ngôi chùa cổ nhất thuộc dòng Lâm Tế, với tổng thể hài hòa, tôn nghiêm, cổ kính. Chùa tọa lạc trong vườn cây cổ thụ; quanh năm đắm chìm trong mầu xanh của ao đầm, cây cỏ sum suê, chim muôn cầm thú ríu rít bốn mùa; phía bắc có con sông Kôn uốn lượn qua dòng nước chảy trong veo. Thành Đồ Bàn của Chiêm Thành ngày xưa nằm ở phương nam đã xây nên mười ngôi tháp án ngữ phía bắc, vì vậy khi Hoà Thượng Nguyên Thiều xây dựng ngôi tam bảo nơi đây thì tên chùa gắn liền với danh lam Thập Tháp.

Nguyễn Nhạc cũng không nỡ giết con rễ của mình, vua chỉ giam lỏng ở khuôn viên chùa Thập Tháp đặng chờ ngày bành trướng thế lực. Tây Sơn vương cần mở mang thanh thế bèn sai bào đệ của mình là Nguyễn Lữ cầm binh tiến chiếm đất Gia Định. Vâng lịnh vương huynh, Nguyễn Lữ đem theo bốn chục thớt voi, một đội kỵ mã, bốn chục chiến thuyền và tám ngàn quân tinh nhuệ tiến binh vào phương nam.

Đường sá gập ghềnh lên đồi xuống thác cheo leo, tới Diên Khánh quân binh của Nguyễn Lữ không thể tiến thêm được nữa, ông ra lệnh hạ trại nghỉ tạm một vài đêm rồi nhân đó dân địa phương tại Diên Khánh hiến kế bán ngựa mua thuyền đi đường thủy vào Gia Định thì tiện lợi hơn.

Nghe xong, Nguyễn Lữ cho là hữu lý bèn mướn tất cả ghe thuyền của dân địa phương làm chiến thuyền xuôi gió tiến vào nam. Đường thủy lách vào các sông ngòi nơi đất mới thật chằng chịt, nhiêu khê nên phải mất mười lăm ngày đêm thuyền bè mới đến chân thành Gia Định. Lúc bấy giờ quan quân đang phò Định Vương Nguyễn Phúc Thuần tức là Duệ Tân nhà chúa Nguyễn rất lơ là, do đó Nguyễn Lữ đã đem quân vây hãm thành Gia Định suốt trong năm ngày đêm rồi dùng cảm tử quân phá thành tấn công.

Uy danh của quân Tây Sơn bắt đầu vang dội khắp nơi qua trận chiến giữa Nguyễn Huệ thắng Tống Phúc Hợp lấy đất Phú Yên, nên khi thúc thủ trong thành, quân binh của Nguyễn Phúc Thuần đã hoảng sợ với chiến công đó cộng thêm sự hò hét, thuyết phục và hù dọa của quân lính Nguyễn Lữ, rốt cuộc thành Gia Định đã dễ dàng thất thủ và lọt vào tay của nhà Tây Sơn.

Chiếm xong Gia Định thành, Nguyễn Lữ cho quân binh gom góp tất cả của cải, châu báu, chiến lợi phẩm, đồng thời bổ sung binh mã đầy đủ rồi giương buồm trở về  mà lại không cắt cử quan quân ở lại giữ thành. Nguyễn Huệ được tin chiến thắng từ đội quân của em trai mình nhưng lại không giữ thành liền nảy ra một ý nhằm phân hóa thế lực của chúa Nguyễn bèn cách bày mưu cho Đông cung Nguyễn Phúc Dương trốn thoát vào Gia Định thành.

Tướng Lý Tài trước kia theo giúp Nguyễn Nhạc nhưng sau đó phản phúc theo hàng quân chúa Nguyễn, phò tá cho Đông Cung vào Gia Định để gây áp lực với Duệ Tông Hiếu Định đặng lập ngôi chúa mà Nguyễn Phúc Dương trở thành tân chính vương, tướng Lý Tài nắm giữ binh quyền. Trong khi đó, Duệ Tông bị áp lực trở thành Thái Thượng vương có Đỗ Thành Nhân theo phò, Nguyễn Phúc Ánh bấy giờ còn nhỏ tuổi nhưng vẫn được tham dự quốc sự ở dưới trướng.

Đỗ Thành Nhân thấy Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương bèn tự phong cho mình là Đông Sơn vương để làm thế đối kháng. Quân binh Chúa Nguyễn tự nhiên phân hóa ra thành hai khối, một của tân chính vương Nguyễn Phúc Dương, một của thái thượng vương Duệ Tông.

Với những chiến công thắng lợi dồn dập từ Phú Yên đến Gia định, Nguyễn Nhạc thấy cần thiết phải tạo thêm chính danh để an bang thiên hạ qua việc tự xưng là Tây Sơn vương, lấy thành Đồ Bàn làm kinh đô, phong cho bào đệ Nguyễn Huệ làm Phụ Chính đại thần coi việc đối nội, đối ngoại; phong cho bào đệ Nguyễn Lữ làm Thiếu Phó Tổng Quản Binh Bị.

Mặc dù tự xưng vương nhưng phía bắc uy danh của chúa Trịnh vẫn còn nể phục, Nguyễn Nhạc rất dè dặt chưa dám thiết triều nghi và mở mang thành quách Đồ Bàn rộng rãi. Trong giai đoạn này, Nguyễn Nhạc đang ra sức củng cố quyền lực, chiêu dụ binh sĩ ngày đêm luyện tập thủy, bộ và chuẩn bị mở cuộc tấn công đại quy mô ra cả hai miền Nam và Bắc hà. 

Tình hình Gia Định thành phân hóa trầm trọng giữa Lý Tài và Đỗ Thành Nhân, hai vương chúa Nguyễn cũng không thuận lòng nhau khiến cho đất Việt từ Bắc chí Nam đều trở thành những vùng đất với các thủ lãnh sứ quân. Riêng Bắc hà thì chúa Trịnh thống lãnh đến tận Quảng Nam; Tây Sơn vương ở Quy Nhơn, Phú Yên và Diên Khánh. Miền Nam thì đang lình xình tùy lúc chúa Nguyễn kéo đến thì đất Gia Định thuộc về chúa Nguyễn, nhưng khi quân Tây Sơn kéo đến thì thuộc Tây Sơn vương. Người dân ba miền Nam Trung Bắc giờ đây sống trong hoàn cảnh loạn lạc mà các vương chúa tranh nhau giành giật ảnh hưởng. Cuộc sống trở nên khó khăn hơn vì lương thực một phần lớn phải cung ứng cho nhu cầu binh mã.

Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc xuất thân từ nông dân nên thấu hiểu nổi khổ của dân, vả lại thành Đồ Bàn cũng là vựa lúa lớn nên vương đốc thúc quân binh tăng gia sản xuất nông phẩm bên cạnh việc luyện cung, tập kiếm hàng ngày. Mặc khác, dù xưng vương, Nguyễn Nhạc vẫn muốn dựa lưng vào chúa Trịnh để khôi phục uy danh cho vững chãi, vì vậy mà năm Đinh Dậu (1777) Tây Sơn vương dâng sớ xin chúa Trịnh Sâm cho trấn thủ đất Quảng Nam.

Thấy Nguyễn Nhạc có ý tùng phục mình, hơn nữa muốn tiêu diệt Tây Sơn cũng chưa chắc đánh thắng chi bằng nhất cử lưỡng tiện, vừa được thêm đồng minh lại vừa được sáng cái đức minh quân của Bắc hà, Trịnh Sâm liền phong cho Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam Trấn Thủ, Tuyên Uý Đại Sứ Cung Quận Công.

Mặt Bắc tạm yên không cần phòng ngự, Tây Sơn vương triệu tập binh tướng bàn việc quốc sự lập kế hoạch hành quân tấn công phía Nam. Nguyên, năm ngoái khi chiếm được Gia Định thành, Nguyễn Lữ không áp dụng chính sách an dân hoặc chiêu dụ binh tướng ở lại giữ thành mà chỉ cốt dương oai diệu võ, thu vén của cải, tài nguyên trong kho rồi kéo quân trở về. Thành Gia Định bỏ ngõ cho nên Lý Tài lại hộ tống Tân chính vương chiếm thủ lại đụng đầu với Đỗ Thành Nhân đang hộ giá Thái thượng vương Duệ Tông quay về thành quách cũ.

Thấy thời cơ vô cùng thuận tiện cho việc thống nhất một nửa cơ đồ, Nguyễn Nhạc bàn định kế sách thật chu đáo rồi sai bào đệ Nguyễn Huệ trực tiếp điều khiển thủy binh đi vào Gia Định thành, Nguyễn Lữ dẫn kỵ binh xa mã đi đường bộ yểm trợ cho thủy quân đổ bộ ở Trấn Biên. Quân của Lý Tài đóng trên sông Sài côn (nay là Sài Gòn) bị thủy quân của Nguyễn Huệ tấn công đột ngột làm tan rã hàng trăm chiến thuyền, Lý Tài chống đỡ mãnh liệt nhưng không đủ sức và bị chết trong đám loạn quân. Nguyễn Lữ đem bộ binh  tấn công đất liền giáp giới thành Gia Định làm binh sĩ của chúa Nguyễn tan rã mau lẹ, một phần vì thiếu sự tập luyện và tổ chức binh bị, một phần vì nể trọng uy danh của anh em nhà Tây Sơn nên quân binh chúa Nguyễn hầu như buông khí giới đầu hàng. 

Khi bàn định kế hoạch trước lúc tấn binh, quan thần nhà Tây Sơn đều đưa ra quyết nghị phải tận diệt mầm móng còn sót lại của chúa Nguyễn để trừ hậu họa, do đó quân binh Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đuổi theo rất gắt để bắt cho được Tân chính vương và Thái thượng vương.

Bị truy đuổi quá gấp, Tân chánh vương Nguyễn Phúc Dương phải chạy về Rạch Chanh rẽ qua Trà Tân vòng qua Ba Vác để chuẩn bị xuống thuyền trốn ra Bình Thuận, tuy nhiên kế hoạch bất thành thì Tân chính vương bị bắt giết cùng một số tùy tướng vào mùa thu năm ấy.

Thái thượng vương Duệ Tông từ Rạch Chanh chạy đến Tài Phụ rồi qua Cần Thơ, Long Xuyên thì cũng bị bắt cùng một số tôn thất nhà Nguyễn. Tháng mười năm Đinh Mùi thì Duệ Tông bị giết chết. Người cháu là Nguyễn Phúc Ánh nhờ giám mục người Pháp là Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) giấu kín dưới mạn thuyền cho đến cuối năm Đinh Mùi mới dám cho lên đất liền, nhờ vậy mà Nguyễn Phúc Ánh mới thoát chết. Lấy xong đất Gia Định Nguyễn Huệ kéo quân vào thành vỗ về dân chúng, sắp đặt kế hoạch trị dân đưa Tổng đốc Chu lên coi sóc nhân dân tức quan trấn thủ Gia Định thành.

Mùa Đông năm ấy có bão lớn và gió chướng chuyển hướng quá sớm, thuyền binh của Nguyễn Huệ phải đợi đến tiết trọng đông mới kéo binh về lại Quy Nhơn. Nguyễn Lữ đi đường bộ để chuyển quân về từ tiết mạnh đông năm ấy có mang về một số thổ sản và hạt giống để trồng tỉa tại thành Đồ Bàn; đó là loại mãn cầu xiêm và măng cụt của đất Long Xuyên.

Tin thắng trận quá dồn dập đưa về cho Tây Sơn vương khiến thế lực Nguyễn Nhạc càng ngày càng mạnh mẽ, điều này làm cho các quan  của chúa Trịnh  lo ngại ngày đêm về mối nguy Bắc tiến của anh em nhà Tây Sơn. Vua Lê Hiển Tông được các quan tâu trình mọi việc trong nước nên đâm ra hoang mang về ngai vàng đang đặt trên nền móng không lấy gì làm vững chắc cho lắm. Mãi suy nghĩ nên vua Hiển Tông lâm trọng bịnh mà triều đình thì quá mục nát, không có những chính sách cụ thể để phát triển quốc gia mà các quan phần nhiều chỉ biết mối lợi riêng tư thiếu người nhiệt tâm lo lắng cho sự hưng vong của xã tắc.

Qua những chiến công vang lừng từ Phú Yên đến Gia Định đã khẳng định lực lượng Tây Sơn thật sự lớn mạnh từ tổ chức hành quân, điều khiển binh mã và kế hoạch chiến đấu già dặn kinh nghiệm, và nhất là Nguyễn Huệ đã chỉ huy những trận xung kích quyết liệt, mưu thuật binh bị xuất quỷ nhập thần làm cho đối phương khiếp đảm uy danh của anh em nhà Tây Sơn. Nhận thấy thời cơ vô cùng thuận lợi cả về chính trị, quân sự và kinh tế nên Tây Sơn vương thị oai, quyết định không thèm thần phục chúa Trịnh như xưa nữa mà chuẩn bị sự nghiệp đồ vương cho riêng mình.

Gió nồm vừa chấm dứt thì quân báo về cho Tây Sơn vương biết tin vui, hai lộ quân của các bào đệ Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ chiến thắng những trận đánh lớn ở đất Gia Định, vỗ về dân chúng trong thành, cắt cử các quan cai trị dân chúng, đặt ra luật lệ nghiêm minh để thi hành. Bờ cõi dưới sự kiểm soát của Tây Sơn vương kéo dài từ Quảng Nam đến tận Long Xuyên, Cần Thơ, một dãy đất hứa hẹn nhiều phước lộc do thiên thời, địa lợi và nhân hòa nên Nguyễn Nhạc tự cáo yết đất trời rồi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, đổi thủ phủ Đồ Bàn của đất Chiêm Thành ngày trước ra Hoàng Đế thành vào năm Mậu Tuất (1778), sắc phong cho Nguyễn Huệ làm Long Nhượng Tướng Quân trông coi việc an dân đối nội, đối ngoại. Đồng thời, hoàng đế cũng sắc phong cho bào đệ Nguyễn Lữ làm Tiết Chế kiểm soát binh mã, quân lương.

Từ đây ba anh em nhà Tây Sơn gồm Nguyễn Nhạc là anh cả, Nguyễn Huệ là thứ giữa và Nguyễn Lữ là em út mở ra trang sách mới trong dòng lịch sử Lạc Hồng cuối thế kỷ thứ XVIII sang đầu thế kỷ thứ XIX lưu danh thiên cổ.

Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng




Tháng Ngày Tìm Tự Do | Ca Khúc THÚY ƠI! THÚY À! Lời Minh Thúy & Lê Hữu Nghĩa

Tháng Ngày Tìm Tự Do ( flipbook)

https://heyzine.com/flip-book/32b250b936.html#page/2




ĐẠI HỘI SUY TÔN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT KỲ 24 DÒNG CHÚA CỨU THẾ




THĂNG HOA CUỘC ĐỜI – Kỳ 52: Tây Sơn Khởi Nghĩa – Kỳ 53: Nguyễn Huệ Xuất Chiêu.

Kỳ 52: Tây Sơn Khởi Nghĩa

Hồi đầu thế kỷ thứ mười lăm (1400) Hồ Quý Ly cướp ngôi vua của Trần Thiếu Đế lập ra nhà Hồ đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Cuộc cách mạng canh tân đất nước với nhiều sáng kiến trong việc trị quốc, mở mang văn hóa nghệ thuật và khai hóa dân trí đang bắt đầu khởi sắc thì nước Tàu ở phương bắc do nhà Minh thống trị đem quân xâm lăng Đại Ngu.

Lên ngôi vỏn vẹn một năm thì Hồ Quý Ly nhường lại cho con là Hồ Hán Thương cai quản để tự làm Thái Thượng Hoàng, mặc dù vậy nhưng nhà Hồ cũng đã kịp trổ tài mưu lược, dùng binh pháp trong quân sự, đặt các phép toán cho các khoa thi, làm ra giấy bạc đầu tiên trên thế giới, sửa sang những hình luật để trị dân thật hợp lý, cách mạng canh tân đất nước với nhiều sáng kiến nâng cao dân trí và khai hóa dân tình. Nước nhà đang trên đà khởi sắc thì nhà Minh bên Tàu đem quân xâm lấn. Tiếc thay, đại nghiệp cai quản sơn hà của họ Hồ chỉ được bảy năm thiếu thời gian cho những công trình tu tạo cơ đồ thì bá quyền bắc phương đầy dã tâm giở trò cướp đất phương nam.

Người tài ba và đảm lược như Hồ Quý Ly mà hết lòng phò trì nhà Lê thì sợ gì nước không mạnh, quốc gia không phú cường mà tiếng tốt lưu danh ngàn thu, nhưng làm vua mà hôn quân vô đạo thì kẻ trượng phu phải có tráchnhiệm truất phế để mưu tìm nền thịnh trị cho nước nhà, âu đó cũng là lẽ đương nhiên trong lịch sử xưa nay mà thôi.

Con cháu của Hồ Quý Ly mấy đời sống tại đất Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An vẫn thừa hưởng những tinh anh của tiên tổ nên lắm kẻ thành danh đỗ phận. Hậu bán thế kỷ thứ mười sáu, Chúa Nguyễn chủ trương đưa dân chúng vào phương nam ở vùng đất mới chiếm được của Chiêm Thành để khẩn hoang, lập nghiệp. Trong nhiều tộc họ ra đi đợt đầu tiên có con cháu Hồ Quý Ly cũng theo đoàn người di cư vào đất phương nam.

Phía trong dãy Hoành sơn thật hoang vu và hiểm trở, hành trình đằng đẵng nhiêu khê, với phương tiện thô sơ bằng đôi chân trần và cặp bò, cây cuốc, cuối cùng nhiều gia đình ở vùng Nghệ An khô cằn đã tìm được đất lành, trù phú để định cư, lấy nông nghiệp làm kế sinh nhai trên mảnh đất màu mỡ nơi làng Tây Sơn, huyện Phù Ly, tỉnh

Bình Định. Phong cảnh hữu tình, cây cao bóng mát, muôn chim ca hót như mừng đón những bước chân khai mở núi rừng, người cháu ba đời của Hồ Quý Ly là Hồ Phi Phúc quyết định dừng chân nơi sơn thủy hữu tình này để khai sơn phá thạch. Định cư an ổn xong thì Hồ Phi Phúc kết hôn cùng Nguyễn Thị Dõng sinh hạ được ba người con trai khôi ngô tuấn tú liền đặt tên con trưởng là Nhạc, con thứ là Thơm và con út là Lữ.

Đất Tây Sơn vốn là vùng núi thoai thoải như gò nẩm ăn thông với dãy Trường Sơn trùng trùng điệp điệp, cách biển ước chừng sáu mươi lăm cây số đường chim bay. Gia trang của Hồ Phi Phúc nằm sâu trong vùng dừa quanh

năm rợp bóng, dù không nghe tiếng sóng vỗ rì rầm nhưng đối diện hàng ngày với rừng thiêng thú dữ, Hồ Phi Phúc đã sớm thúc người con trưởng lên đường tầm sư học đạo ngõ hầu về làng giúp đỡ dân lành sinh sống an ninh. Riêng Thơm và Lữ được cha truyền thụ võ công gia truyền của giòng họ Hồ gồm đủ kiếm pháp, thương đao, chưởng thủ, quyền cước.

Ngọn núi Thiên sơn phía tây nam có một đạo sĩ đa mưu túc trí, võ nghệ tinh tường, một mình hạ cọp mà lòng chẳng nôn nao. Nhạc đã thọ giáo với vị đạo sĩ này khi lên mười tuổi. Trong thời gian năm năm miệt mài tập luyện, những tuyệt kỹ võ công của tôn sư đã truyền thụ cho đứa đệ tử thông minh không sót một pho nên quyền cước trò Nhạc linh hoạt lạ thường.

Sáng mai hôm ấy, một buổi sáng tinh khôi của tiết trời xuân phong nhưng gió lạnh và sương mù phủ quanh tịnh cốc của thầy trò ẩn sĩ. Người đệ tử tinh tấn vẫn dậy sớm pha trà và tập luyện dưới mé suối để gân cốt mạnh hơn và đường quyền chính xác. Sau vài tuần trà thì đạo sĩ chống gậy bước đến bên người đệ tử âm thầm theo dõi rồi buộc miệng khen ngợi :

– Được lắm, được lắm, đường mãn xà phục trận (Thế võ uốn cong như con rắn để đánh vào hạ bộ đối phương) đã khá nhuần nhuyễn nhưng đôi mắt của con vẫn còn tán loạn, tâm ý chưa nhất thống, dễ cho đối phương phá chiêu sát thủ; con gắng sức hít thở điều hòa, luyện chân khí cho thông thì mới kết tụ nội công ngoại tướng đặng biến thành tuyệt chiêu. Ngày hôm nay sắc mặt của con có điều chẳng lành, con nên trở về nhà xem thử có chuyện gì xảy ra hay không. Sau đó trở lại đây luyện thêm vài thế quyền nữa là hoàn tất bộ thần công quyền pháp.

– Dạ! đa tạ sư phụ. Chẳng hay điềm chẳng lành cho đệ tử đó kiết hung thế nào, xin sư phụ nói rõ cho con thông hiểu không ạ! tiếng Nhạc lo âu đầy khẩn khoản.

– À, ta không biết, chỉ thấy sắc diện của con đổi khác nên nói thế thôi, hãy chuẩn bị lên đường cho kịp. Đệ tử sống với thầy như cha con suốt năm sáu năm, Nhạc biết tính ý sư phụ thế nào rồi, ít nói nhưng đã phán ra thì chuyện gì cũng đúng như thần giáng hạ.

Không còn kịp thời gian suy tư mông lung, Nhạc từ tạ ân sư, ven theo mé núi bước trở lại làng Tây Sơn mà lòng xao xuyến bồi hồi như lửa đốt. Xuyên qua bao dãy núi trùng điệp, mặt trời gần ngã xuống cây sào thì cũng là lúc vừa đặt chân đến đầu ngõ, từ trong nhà Lữ hớt hải chạy ra:

– Thưa anh, may quá anh về vừa tới, cha đang trong cơn hấp hối muốn gặp anh để dặn dò điều gì, anh chạy gấp vào trong đi.

Như một tin sét đánh, Nhạc bần thần mấy giây rồi nhanh nhẩu buớc vô. Cái chạng vạng mờ ảo của khoảnh khắc giao thoa giữa hoàng hôn và đêm tối như chuẩn bị ập xuống màu tang thương trùm khắp đó đây. Trong căn nhà cũ, ánh đèn mù u vàng nhạt chiếu chiếc bóng chú Thơm đứng bất động nhìn cha. Hồ Phi Phúc thều thào những lời yếu ớt như đủ cho Nhạc nghe được thinh âm dặn dò nhân nghĩa với xác thân bất động trên giường.

Nửa đêm hôm đó, Hồ Phi Phúc trút hơi thở cuối cùng dưới mái nhà tự xây ở làng Tây Sơn trong bàn tay thân

yêu của ba người con trai. Nhạc cùng hai em chẻ tre bó chiếu thi hài của cha rồi cùng nhau khiêng lên ngọn Thiên Sơn an táng.

Vượt qua hai triền đồi, băng ngang dòng suối chảy xiết, lách qua những hàng tre dày đặt, ba anh em khiêng cha lên tới rừng cây bằng lăng thì trời sắp sáng. Đặt thi hài của cha lên một hòn đá phẳng lì để nghỉ ngơi chốc lát trước khi leo dốc, ba anh em chưa kịp xả hơi và quay lại để tiếp tục lên đường thì ô kìa, hàng triệu con mối đã lẹ làng đùn đất phủ kín thi thể của cha. Dưới ánh trăng mờ đục của nửa đêm hừng sáng, Nhạc thấy chuyện lạ ít có liền bàn với hai em rằng:

– Đây có lẽ là điềm đại kiết. Thôi chúng ta cứ thuận theo ý trời mà để Người nằm lại nơi đây. Bên phía Tây có ngọn Thiên Sơn sừng sững, hai bên có suối róc rách quanh năm, nhất định chốn này phải là nơi có địa linh long mạch. Chúng ta hãy lấy thêm đất đắp cao ngôi mộ cho cha.

Quả thật vậy, trong chốc lát mà những con mối đã đắp xong ngôi mộ như ngọn tháp của Lý Thiên Vương. Ba anh em đắp thêm phía dưới một cái nền to và cao vòng quanh ngôi mô vừa xong thì trời sáng tỏ. Ba anh em quỳ lạy khấn vái một hồi, tự hái những bông hoa rừng tung lên trời như tiễn biệt ngàn thu, tự hứa với cha làm điều nhân nghĩa.

Sắp xếp việc nhà xong, Nhạc lại lên đường thẳng tiến ngọn Thiên Sơn theo thầy học tập. Đi cả một ngày đường, mé suối quen thuộc với giòng nước trong veo tung toé y nguyên nhưng lều cỏ đã san bằng và dấu tích sư phụ biệt vô âm tín. Nhạc bùi ngùi nhìn lại hàng cây sừng sững che mát quanh năm vốn là nơi tập luyện võ công sau bao năm tháng. Chàng men theo dòng nước tiến bước về hướng thượng nguồn với hy vọng gặp được dấu chân của ân sư nhưng màn đêm đã cản bước trước tấm lòng tri ân của người thiếu niên trung nghĩa ấy.

Trở về mái nhà xưa cùng hai em ngày đêm luyện võ, có sở học chính thống truyền thụ từ thầy tổ nghiêm minh, Nhạc dốc lòng huấn luyện Thơm, Lữ tinh thông thủ, cước. Năm mười sáu tuổi, Nhạc thấy cảnh bất công của quan quân chúa Nguyễn càng ngày càng lộng hành trong xóm làng đến tỉnh thành, Nhạc bèn cải đổi từ họ Hồ ra

Nguyễn tức họ mẹ để dễ thu phục nhân tâm, vả lại chúa Nguyễn không dòm ngó để chờ ngày “dấy binh khởi nghĩa”. Riêng Hồ Thơm cũng tự đổi họ tên ra thành Nguyễn Huệ để bày tỏ trí thông minh và lòng vượt thắng của mình ở bất cứ nơi đâu.

Chẳng mấy chốc mà danh tiếng của Nguyễn Nhạc đã được mọi người ca ngợi, võ công cái thế, văn học chân truyền nên vị tri huyện của Tuy Viễn đích thân mời Nhạc giữ chức vụ Biện lại ở Vân Đồn. Vốn tính tình phóng khoáng, lại nhiều mưu mẹo kinh luân, Nguyễn Nhạc quy tụ anh em bạn hữu rất đông tổ chức đàn hát rượu chè, đánh bạc thâu đêm để tìm người kết hợp. Bao nhiêu tiền thuế của cả huyện ông tiêu pha hết vào việc này rồi bỏ nhiệm sở, vào rừng chiêu nạp binh sĩ khởi nghiệp.

Năm Tân Mão (1771) ông lập một đồn điền rộng lớn thuộc đất Tây Sơn, địa thế tương đối hiểm trở đường sá khó đi lại để cho binh sĩ tập luyện cung tên, múa đao, khoa kiếm. Bấy giờ quân binh chúa Nguyễn nghe báo cáo việc tụ nghĩa ở đất Tây Sơn nên đem quân triệt hạ. Vì thế Nguyễn Nhạc tuyên chiến hẳn với quân binh nhà Chúa, dù binh lực và lương thảo đầy đủ nhưng quân chúa Nguyễn khó lòng vào trong doanh trại của Tây Sơn, ngược lại càng ngày thì uy danh Nguyễn Nhạc càng lớn khiến cho quân chúa Nguyễn sợ hãi, e dè rồi bao phen thua chạy để lại biết bao chiến lợi phẩm cho quân Tây Sơn. Cứ mỗi lần quân chúa Nguyễn lui binh thì Nguyễn Nhạc được nhân dân ủng hộ rất đông, vì vậy quân số theo ông càng ngày càng trở nên phát triển mạnh bạo. Ông cũng thường kéo những toán quân quả cảm xuống thành Quy

Nhơn đánh vào các nhà giàu có, quan chức lạm quyền, hà khắc nhân dân để lấy tiền của phân phát lại những người dân nghèo khổ.

Cử chỉ cao thượng này là tiếng đồn tốt cho Nguyễn Nhạc bay rất xa, chính điều đó mà đội quân binh của Nguyễn Nhạc càng ngày càng phải cần có đồn trại lớn hơn, khí giới phải tinh xảo hơn và tổ chức chặt chẽ hơn để chuẩn bị nghiệp lớn!.

Triều đình chúa Nguyễn phía nam thì đến thời tàn lụi, kinh tế quá ư kiệt quệ, loạn thần nổi lên như nấm, kỷ cương giềng mối xã tắc bị đảo lộn ; tham nhũng và hối lộ lan rộng và quan quân chỉ biết hà hiếp dân chúng trong khi chúa Nguyễn Anh Vương thì vô tài, bất tuớng, thế lực suy vi. Trong tình thế như vậy mà quyền thần Trương Phúc

Loan ỷ thân quan mấy đời chúa Nguyễn nên lộng quyền chuyên chính làm nhiều điều tàn ác, bè phái như tìm cách sát hại trung thần, nghe lời sàm tấu nịnh nọt khiến nhân dân đồ thán, còn những ai là trung nghĩa thì tìm cách từ quan trở về ẩn dật. Do đó mà lũ nịnh thần lấn lướt lộng quyền tha hồ hãm nước hại dân.

Trước cảnh đen tối của xã tắc, Nguyễn Nhạc triệu tập anh em nghĩa quân bàn định khởi nghĩa để tiêu diệt lũ dòi mọt đục khoét quốc gia, khai trương tổng hành dinh để điều động binh mã, dựng cờ tía viền vàng thuộc hành hỏa tượng trưng cho uy quyền và sức mạnh của nghĩa quân, khai thác mối bất đồng giữa dân chúng và triều đình, ly gián bọn nịnh thần và khơi dậy mối hiềm khích giữa trung thần với quốc phó Trương Phúc Loan.

Đại hào phú Huyền Khê ở Tuy Viễn thấy hành động hào hiệp của Nguyễn Nhạc bèn dốc tất cả tài sản để nuôi nghĩa binh, bên cạnh đó một võ tướng miền sơn cước tên là Nguyễn Thung cũng kéo quân về giúp sức nên thanh thế binh đội Tây Sơn bành trướng mau lẹ vô cùng. Trận đầu tiên ra quân tiến đánh vùng đồng bằng, chiếm ấp Kiến

Thành xưng là Tây Sơn trại chủ, dồn binh lực kiểm soát hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn phong cho Nguyễn Thung làm đệ nhị trại chủ cai quản huyện Tuy Viễn và phong Huyền Khê làm đệ tam trại chủ lo việc quân lương. Với binh khí thô sơ như dáo mác, nhưng nghĩa quân của Tây Sơn được huấn luyện chu đáo, xuất phát từ lòng dân nên rất hăng say trận mạc để tiêu diệt những quan lại tham nhũng, hà khắc; bên cạnh đó thì chủ soái Nguyễn Nhạc là người mưu trí, táo bạo, dám làm việc lớn bất chấp đến sự an nguy của tính mạng.

Vài năm sau vào khoảng mùa thu năm Quý Tỵ (1773) thì uy danh của Nguyễn Nhạc đã vang dội, triều đình chúa Nguyễn đã bắt đầu lo lắng, quan quân thành Quy Nhơn tìm mọi cách triệt hạ nhưng chưa biết phương nào; tương kế ấy, Nguyễn Nhạc dùng binh pháp theo kế “ban trư ngật hổ” (Một thế trận giả bị bắt để dụ địch) giả làm con

heo trong rọ để dụ con cọp đói tới nhằm xuất kỳ bất ý mà hạ cọp tại chỗ. Nguyễn Nhạc mật báo cho các trại phó Nguyễn Thung và Huyền Khê chuẩn bị binh mã mai phục ngoài thành Quy Nhơn chờ đợi nửa đêm có pháo lệnh và lửa cháy thì xông vào cướp thành, còn chính ông thì tự cho quân lính trói hờ, bỏ vào cũi mang đến dâng nộp cho quan tuần vũ Nguyễn Khắc Tuyên.

Quá mừng rỡ vì cây gai trước mắt đã được trừ khử, Nguyễn Khắc Tuyên lập tức tống giam vào ngục chờ sáng ngày xét xử. Nửa đêm hôm ấy, Nguyễn Nhạc phá cũi, xông ra giết chết lính canh, mở cửa thành, đốt lửa làm hiệu cho hai đạo quân của Nguyễn Thung và Huyền Khê tiến vào. Quan tuần vũ Nguyễn Khắc Tuyên nửa đêm nghe cấp báo, giật mình bỏ cả ấn tín vợ con chạy thoát thân, quân lính trong thành một phần tử trận, một phần trốn thoát, phần thì đầu hàng quân Tây Sơn nên chẳng mấy chốc mà thành Quy Nhơn trở thành đại bản doanh của Nguyễn Nhạc.

===================

Kỳ 53: Nguyễn Huệ Xuất Chiêu

Thừa cơ hội chiến thắng một cách chớp nhoáng bằng mưu kế, Nguyễn Nhạc cử binh tiến đánh đất Quảng Nghĩa và Quảng Nam, nhưng vũ khí nghĩa quân Tây Sơn còn thô sơ không sánh được với đại bát thần công của Chúa Nguyễn Định Vương nã ra dồn dập, buộc lòng Nguyễn Nhạc phải lui binh về cố thủ thành Quy Nhơn.

Qua chiến thắng vang dội tại Bình Định khiến hai tướng Tàu là Tập Đình và Lý Tài cũng chiêu mộ binh mã người Tàu theo giúp Nguyễn Nhạc. Với đạo quân khá đông, Nguyễn Nhạc chia nghĩa quân ra làm năm đạo là trung, tiền, tả, hữu, hậu quân để chuẩn bị tiến đánh những yếu điểm của Chúa Nguyễn phía bắc thành Quy Nhơn.

Nhận thấy Quốc phó Trương Phúc Loan vẫn không lo chống đỡ, ung dung làm nhiều điều tàn ác trong triều chúa Nguyễn, phía nam lại có  quân của Tây Sơn đứng lên khởi nghĩa nên chúa Trịnh Sâm nhân cơ hội này sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc đem ba vạn quân cùng với Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Hoàng Đình Bảo đi đường thủy và đường bộ vào đất Bố Chánh đánh chúa Nguyễn.

Khai thác lòng dân đang than oán và bất mãn, Hoàng Ngũ Phúc tiến quân đến Quảng Trị cho loan truyền rằng, quân đội của chúa Trịnh vào nam chỉ để tiêu diệt Quốc Phó Trương Phúc Loan mà thôi. Nghe như thế các quan nhà chúa Nguyễn mưu kế bắt Trương Phúc Loan giao nộp cho Hoàng Ngũ Phúc.

Dù bắt được họ Trương, Hoàng Ngũ Phúc vẫn tiến quân vào Nam với lý do tiêu diệt phiến loạn Tây Sơn. Chúa Nguyễn Định Vương biết mưu kế của họ Trịnh muốn lợi dụng thời cơ tấn công Phú Xuân nên sai Tôn Thất Tiệp và Nguyễn Văn Chính đem thủy và bộ quân án tại sông Bái Đáp chờ lệnh.

Hoàng Đình Thể đem quân dọc đường núi đánh úp vào kinh thành Phú Xuân làm cho Chúa Nguyễn và triều đình bỏ chạy vào Quảng Nam ẩn náu. Trong lúc nguy ngập mà chưa có con nối dõi, Chúa Nguyễn lập cháu là Nguyễn Phúc Dương làm Đông cung để lo giữ Quảng Nam, hành dinh tạm thời đóng tại đồn Hòa Vinh thuộc huyện Hà Vinh.

Nguyễn Nhạc thừa cơ hội chúa Nguyễn ẩn náu ở đất Quảng Nam bèn dốc toàn lực gồm năm đạo quân tiến đánh. Thế trận như vũ bão làm cho chúa Nguyễn chống cự không nổi bèn cùng người cháu là Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào nam, trú tại đất Gia Định, để Nguyễn Phúc Dương ở lại Quảng Nam chống đỡ.

Nguyễn Nhạc lợi dụng Đông cung Nguyễn Phúc Dương thế cô sức yếu, cho người rước về đóng ở Hội An như một con tin chờ ngày sử dụng. Để được chính nghĩa giúp Chúa Nguyễn giữ lại cơ ngơi, Nguyễn Nhạc sắp đặt công việc rồi cử đại binh đánh Hoàng Ngũ Phúc, giao cho tướng Tập Đình làm tiên phong và Lý Tài làm trung quân còn chính Nguyễn Nhạc đi tập hậu đánh với quân chúa Trịnh.

Trận chiến diễn ra suốt một tháng bất phân thắng bại, phần vì lương thực thiếu thốn, bịnh hoạn cho binh lính nên Hoàng Ngũ Phúc sai Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ quyết xử dụng kỵ binh xông trận ác chiến một phen. Bị bất ngờ, Nguyễn Nhạc cùng Lý Tài tạm lui binh về Quảng Nghĩa, chuyển Đông cung vào Quy Nhơn lưu trú. Riêng tuớng Tập Đình vì thất trận nên chạy về Quảng Đông bị quan nhà Thanh bắt giết vì lý do hợp tác với Tây Sơn.

Nguyễn Nhạc thấy tình thế nguy khốn, trong Nam thì có Tống Phúc Hợp là quan lưu thủ đất Long Hồ hợp đại binh đánh ép quân của Tây Sơn. Nguyễn Nhạc liệu thế không chống nổi bèn cho người đem vàng bạc và thư từ đến hòa đàm với Hoàng Ngũ Phúc xin giao đất Quảng Nghĩa, Quy Nhơn và Phú Yên và chỉ xin làm tiền khu dẹp giặc của chúa Nguyễn mà thôi.

Không đánh mà thắng là điều mà ai làm tướng cũng muốn, đương đốc thúc binh mã chuẩn bị tấn công thì đối phương lại dâng thành, Hoàng Ngũ Phúc đắc ý làm biểu xin chúa Trịnh phong cho Nguyễn Nhạc làm Tiên phong tướng quân, Tây Sơn Hiệu trưởng. Nguyễn Hữu Chỉnh phụng mệnh chúa Trịnh vào tận đất Quy Nhơn sắc phong cho Nguyễn Nhạc với đủ triều nghi như mão, cờ, ấn và kiếm.

Như vậy, phía bắc có quân binh chúa Trịnh làm hậu thuẩn không phải sợ bị đánh úp, rảnh tay nghĩ đến chuyện bành lấn phía nam, Nguyễn Nhạc bèn dùng nước cờ tình ái là gã con gái Thọ Hương cho đông cung Nguyễn Phúc Dương. Với tư cách là cha vợ, Nguyễn Nhạc cho người đến bàn định với Tống Phúc Hợp, thuộc tướng chúa Nguyễn đang điều binh đánh thắng Bình Thuận, Diên Khánh,  Bình Khánh và một nửa đất Phú Yên.

Tống Phúc Hợp nghe tin Nguyễn Nhạc có ý về hàng với chúa Nguyễn nên bán tín bán nghi bèn sai sứ tiếp xúc thăm dò. Được tin này, Nhạc đưa con rể là Đông Cung Nguyễn Phúc Dương lấy lễ tiếp giao, hai bên ý hiệp tâm đầu nên sứ giả của Tống Phúc Hợp đinh ninh rằng Nguyễn Nhạc muốn phò Đông cung hầu gây nghiệp chúa.

Thấy như vậy, Tống Phúc Hợp định ngày giờ kéo quân ra Quy nhơn hợp với Nguyễn Nhạc đưa Nguyễn Phúc Dương lên ngôi chúa, an bang thiên hạ. Đã được mật báo, Nguyễn Nhạc âm thầm sai em là Nguyễn Huệ đem quân đánh úp Tống Phúc Hợp.

Lần xuất binh đầu tiên, Nguyễn Huệ đã làm tất cả tướng sĩ kinh ngạc bởi thiên tài chỉ huy trận mạc của người tướng trẻ chưa đủ hai mươi hai tuổi đời nhưng quá ư xuất chúng.

Cũng từ ngày đó, lịch sử Việt Nam xuất hiện một nông dân áo vải đặc biệt góp phần cho dân tộc chiến thắng đội quân phương bắc dã tâm xâm lược quê cha, dẹp tan những kẻ vong nô cầu cạnh ngoại bang dày xéo đất tổ, một nhân vật nêu cao tinh thần độc lập của tổ tiên như Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn năm xưa, chiến thắng quân Nguyên liên tục ba lần với ý đồ sát nhập mảnh đất phương Nam thành lãnh địa của Thành Cát Tư Hản; hay theo chí anh hùng Lê Lợi, dù kiên trì mười năm khổ ải cũng đuổi được giặc Minh khỏi bờ cõi giang sơn.

Nhà Lê hưng suy cũng bởi sự thạnh suy đất nước, các chúa Trịnh, Nguyễn đều đưa ra chiêu bài phò Lê để giương cao ngọn cờ chính nghĩa, nhưng lòng dân mới là tối thượng, dù dưới danh nghĩa gì mà phản dân, hại nước thì cũng chỉ nhất thời. Dù bất phân thắng bại trên hai trăm năm tưởng như năm tháng lặng lờ trôi dần dà biến thành hai đất nước; nhưng hồn thiêng sông núi dễ gì để phân ly mà khiến xui cho hương đồng lúa nội vun thành cờ đại nghĩa, một con người, một nông dân, một công dân, một bước chân trong cuộc đời nhưng đi trên cuộc đời để mưu tìm cách nào thống nhất giang sơn, quy về một mối

Trong khuôn viên ngôi nhà trồng dừa và cây ăn trái sum sê có người thanh niên khôi ngô tuấn tú, ít nói, ít cười nhưng lúc nào cũng sẵn sàng tập luyện khí giới, nghiên cứu binh thư và chiêm nghiệm thời tiết như một thói quen không thể thiếu trong tuổi ấu niên. Người thanh niên ấy chính là  Hồ Thơm, sau lấy họ của mẹ là Nguyễn và đặt lại danh tánh là Huệ, nhưng về sau đổi lại lần nữa là Nguyễn Quang Bình, sinh năm Nhâm Thân (1752) tại ấp Tây Sơn, thôn An Cư, phủ Hòa Nhơn, tỉnh Bình Định. Trong khoảng thời gian với bối cảnh lịch sử của đất nước bị phân hóa giữa hai lực lượng đối kháng kịch liệt bởi đàng Trong chúa Nguyễn và đàng Ngoài chúa Trịnh.

Đàng Trong thì triều đình chúa Nguyễn đã bị mục nát do đám quần thần quan lại tham ô, Quốc phó Trương Phúc Loan cậy quyền ỷ thế nên sinh ra lắm điều ngang ngược, muôn dân đồ thán. Chính những bất công nhiễu nhương của thời buổi loạn lạc, Nguyễn Huệ ý thức được nhiệm vụ của tuổi trẻ cần phải có võ nghệ, mưu lược và lòng quả quyết để giúp đời, cứu  nước. Sở học được cha truyền thụ và anh hướng dẫn cũng chưa thỏa mãn những ước muốn tuyệt kỹ công năng, Nguyễn Huệ tự tìm thầy giỏi để lãnh hội thêm phần uyên bác.

Nghĩ thế Huệ tìm đến vị giáo thụ Nguyễn văn Hiến đầy đức độ và cao cường. Giáo thụ Hiến đã mở trường dạy học, nhất định không ra làm quan với triều đình mục nát. Những môn đệ của vị giáo thụ này gồm những thiếu niên trong vùng Tây Sơn và phụ cận, tất cả đều có năng khiếu về võ lực mà lại thêm tính chuyên cần trong cách học từ chương. Dù vậy nhưng chỉ có Nguyễn Huệ là được thầy Hiến quan tâm đặc biệt bởi nhân cách khiêm tốn, đằm thắm nhu hòa mà học hành thì ưu hạng, tinh thông cả văn lẫn võ; dĩ nhiên là bọn đồng môn đâm ra nể phục, tung hô và sở cậy. 

Nguyễn Huệ quả có tư chất tuyệt trần và thông minh, làm việc gì cũng lanh lẹ, vóc dáng cao ráo, đĩnh đạc, nên thầy Hiến quyết định truyền tất cả bí kiếp võ công cho người học trò năng động nhưng ít nói để sau này giúp đời, giúp nguời. Vì thế mà những tuyệt chiêu của mình, những sở trường sở đoản từ mấy đời gia truyền trong giòng họ đều được sư phụ truyền trao tận lực.

Vốn thông minh, siêng năng, bao nhiêu tuyệt kỹ về văn võ của thầy giáo Hiến đều được Nguyễn Huệ thụ học một cách tường tận tới nơi tới chốn.

Khi anh cả là Nguyễn Nhạc dấy binh khởi nghiệp để diệt trừ bạn tham quyền cố vị thì Nguyễn Huệ đã được mười tám tuổi. Với sức khỏe phi thường, tài trí linh hoạt, Ông đã giúp cho anh khá đắc lực trong việc xuất quân đánh chiếm thành Quy Nhơn làm đại bản doanh đầu tiên cho quân Tây Sơn.

Đôi mắt quắt thước, gò má cao, cặp chân mày rậm khít với cái trán cao rộng khá dĩnh ngộ đã toát lên sự dứt khoát, táo bạo và cương quyết. Miệng rộng hình cánh cung, mũi cao và thẳng tắp, Ấn đường sâu ẩn dưới bộ râu đen vừa mọc lún phún, đặc biệt hai đường pháp lệnh của Nguyễn Huệ chạy từ cánh mũi tỏa xuống địa cát tăng thêm nét hào hùng của kẻ quân tử tài hoa. Tiếng nói của chàng trong và nhu nhuyến khiến người nghe được cảm tình và dễ bị chinh phục. Hai vành tai to rộng với gương mặt vuông chữ điền là tướng cách đại nhân phúc hậu khiến cho ba quân tướng sĩ dưới trướng đều tỏ lòng kính nể đấng hùng anh tuổi trẻ này. Tướng của chúa Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc kéo quân tiến vào nam diệt trừ được Quốc phó Trương Phúc Loan, lại nhân đà này muốn tiến sâu vào nam để chiếm đất của chúa Nguyễn và Tây Sơn. Được lợi điểm vì vừa thắng trận nên thế quân của Hoàng ngũ Phúc mạnh bạo, hung hăng thừa thắng xông lên. Thấy như vậy nên Nguyễn Nhạc đã họp bàn cùng các cận tướng, dùng kế ‘Dục cầm cố tung’ (Muốn bắt mà lại thả ra) để nới lõng bước đầu rồi thu lợi sau này chẳng muộn. Nghĩ thế nên Nhạc sở cậy hiền sĩ Phan văn Tuế, một nhân vật có khoa ăn nói chẳng khác Trương Nghi, Tô Tần đời xưa mang phẩm vật, thư từ cung kính đến doanh trại của Hoàng Ngũ Phúc thương thuyết với nhã ý xin giao nộp đất Quảng ngãi, Bình định, Phú yên cho chúa Trịnh. Quân binh của họ Hoàng đã thấm mệt, xa gia đình, thời tiết oi bức sanh ra bao bịnh tật, một phần vì phong thổ khác biệt, rừng thiêng u ám, đối đầu cuộc chiến vô nghĩa giữa đồng bào ruột thịt với nhau lâu dài; nay không đánh nhau mà lại được tất cả thì còn gì sánh bằng.

Lão tướng Hoàng Ngũ Phúc không cần suy nghĩ, chấp nhận sự dâng nộp đất đai và dùng Nguyễn Nhạc thay mình trong việc tận thu thiên hạ, đồng thời cho ba quân nghỉ ngơi dưỡng binh.

Tạm yên phía bắc, Nguyễn Nhạc sắp đặt cuộc bàn thảo giữa sứ giả của Tống Phúc Hợp và Đông cung như nguyện vọng chung của ý chí nhà Tây Sơn. Dĩ nhiên Tống Phúc Hợp chưa hẳn tin tưởng nhưng cũng không lấy đó làm mối lo lớn, ung dung dưỡng sức, đợi thời cơ đem quân ra Quy Nhơn phò Đông cung Nguyễn Phúc Dương lên ngôi chúa Nguyễn.

Lợi dụng kẽ hở của đối phương, Nguyễn Nhạc lập tức sai em là Nguyễn Huệ chỉ huy hai vạn quân cấp tốc tấn công thành Phú Yên. Lần đầu tiên thống lĩnh hai vạn tinh binh với nhiệm vụ đánh thắng chiếm thành, Nguyễn Huệ hết sức tin tưởng ở khả năng và tấm lòng đồng nhất của binh sĩ.

Tháng bảy năm Ất Mùi (1775) thành Phú yên đã đón những trận mưa giông. Vựa lúa Phú yên vừa gặt xong nên cánh đồng nhô lên toàn gốc rạ. Huệ chỉnh đốn binh mã, vỗ về quân lính, tập lại cách giao chiến xáp lá cà theo quyền cước, ban khen kẻ xuất sắc và cùng tướng sĩ nhất tề thệ nguyện để chiến thắng đợt này nên ba quân tướng sĩ nức lòng chiến đấu. Thượng tuần tháng Bảy năm Ất mùi, khi chàng Ngưu Lang gặp nàng Chức Nữ trên cầu Ô Thước để thỏa mãn lòng nhớ thương thì cũng là lúc Nguyễn Huệ thắp nhang đèn khấn vái trời đất rồi cho đốt ba viên pháo đại trước khi xuất binh. Ngồi trên lưng ngựa uy nghiêm, dõng dạt, Nguyễn Huệ ra lịnh cho đoàn quân trực chỉ phương nam.

Nửa đêm trung tuần tháng Bảy trăng tròn lĩnh, trời mưa giông càng thêm nặng hạt, nước đọng hai bên vệ đường như những ngấn bạc trắng xóa phủ dấu ngựa xe, đoàn quân của Nguyễn Huệ đã đến vùng núi Bạc Đầu Sơn thì gà vừa gáy sáng, Huệ hạ lịnh cho binh mã dừng lại, nổi lửa thổi cơm và dưỡng sức kỵ mã.

Trăng trung tuần chênh chếch sườn Tây, Nguyễn Huệ dắt tiểu kiếm vào lưng rồi một mình trèo lên chót đỉnh ngọn Bạc Đầu Sơn thăm dò địa thế. Xa xa về phía đông nam, khuất tầm mắt phát ra những tia sáng mờ nhạt của những trụ đuốc tuần canh ẩn hiện lẫn với ánh trăng khuya làm lấp lánh trong bóng đêm những kỳ ảo khá u huyền trầm tịch.

Vị tướng trẻ đứng trên phiến đá trước miếu hoang đão mắt nhìn quanh rồi thầm thì trách cứ, chiến trận sẽ xảy ra nội nhật ngày mai mà binh tướng Tống Phúc Hợp chẳng hề hay biết!. Lần đầu tiên chỉ huy hai vạn tinh binh, dù can đảm đến đâu cũng thấm chút hoang mang, tự vấn. Một làn gió ban mai từ biển đông thổi đến mang theo hơi nước mát mẻ của cơn mưa giông pha chút mằn mặn của biển cả bao la phía đông bắc làm cho thần trí Nguyễn Huệ tỉnh táo, mạnh bạo hơn; thật nhanh chóng Huệ nhẫm tính và ra quyết định: ‘nếu phải đi vòng qua Bạc Đầu Sơn thì quân binh lương thảo vận chuyển ít nhất một ngày, chi bằng theo hướng tây nam qua lối rẽ mòn của người đốn củi, vừa rút ngắn  phân nửa thời gian vừa bảo mật được tính nguyên vẹn, an toàn cho quân đội’.

Tính xong, Huệ tức tốc về tổng hành dinh cắt hai ngàn quân mặc áo đỏ, dựng cờ “Trịnh Vương” tiến về phía Bạc Đầu Sơn do Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy. Nguyễn Huệ đang muốn bắt chước Hàn Tín áp dụng kế «Minh tu san đạo, Ám độ trần thương», (Kế dụ địch làm cho lầm tưởng thật.) để tất chiến thắng Tống Phúc Hợp một cách thần kỳ.

Đích thân Nguyễn Huệ thống lĩnh binh tướng còn lại, bọc ngõ hậu theo đường mòn để “xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bỉ” (thình lình đánh úp) tiến sâu vào đại bản doanh của thành Phú Yên. Lối “hợp đồng tác chiến” giữa đoàn quân của Nguyễn Văn Tuyết giả làm quân binh cờ xí của chúa Trịnh khiến cho binh sĩ phía Tống Phúc Hợp hoang mang, phân tán đặng dồn mọi nỗ lực án binh phía ngọ môn.

Đằng sau thành Phú yên, Nguyễn Huệ đốc thúc quân sĩ trong đội cảm tử quân phóng lên thành chặt cầu tre cho quân binh Nguyễn Huệ tràn vào thành.

Trận đánh chớp nhoáng đầy mưu lược vừa kết hợp hai mặt giáp công làm cho Tống Phúc Hợp đại bại. Quân Nam hà phải bỏ chạy về giữ đất Vân Phong, một số tàn quân thu binh về hòn Khói, Nguyễn Huệ lấy được thành Phú Yên không khó nhọc bao nhiêu.

Khi hay tin đại thắng tại Phú yên, Nguyễn Nhạc liền cho sứ báo tin đến Hoàng Ngũ Phúc biết rõ sự tình. Để vỗ về dân Nam và  lợi  dụng  sau này những trận  đánh với chúa Nguyễn mà mình khỏi nhọc sức, Hoàng Ngũ Phúc dâng sớ xin chúa Trịnh sắc phong cho Nguyễn Huệ nhằm thâu phục lòng hoang mang của dân cư phía nam. Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm tiếp sớ liền sắc phong cho Nguyễn Huệ chức Tây Sơn hiệu Tiên phong tướng quân.

Binh lính Hoàng Ngũ Phúc đóng ở đất Châu Ổ giáp giới Quảng Nam, lúc bấy giờ đất Quảng Nghĩa bị phong thổ bất hòa sinh ra bịnh dịch, phần quân lính từ bắc chưa hợp thổ nhưỡng, rừng thiêng nước độc, phần thì lương thực khan hiếm, do đó, Hoàng tướng quân phải rút binh về giữ Phú Xuân trấn thủ, giao Quảng Nam lại cho anh em Tây Sơn cai quản. Vài tháng sau Hoàng Ngũ Phúc về tới Thuận Hóa thì mất, Bùi Thế Đạt được lệnh Trịnh Sâm vào thay thế cùng Lê Quý Đôn làm Tham Thị giữ đất Thuận Hóa trở ra.

Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng




“Ra mắt” Bộ DVDs Sử Liệu VNCH tại Westminster, California & Houston, Texas

Chương Trình văn nghệ “ra mắt” Bộ DVDs Sử Liệu đầu tiên về Việt Nam Nam Cộng Hòa tại Thủ Đô tị nạn Westminster & Houston.

Lần đầu tiên, một Bộ DVD sử liệu về Việt Nam Cộng và Chữ Quốc Ngữ đã được thực hiện. Chế Độ VNCH và Quân Lực VNCH chỉ tồn tại hơn 20 năm, nhưng tất cả đã lưu lại trong dòng lịch sử Dân Tộc Việt những dấu ấn không thể phai mờ đối với ngày nay và các thế hệ tương lai. Bởi vì Chế Độ VNCH khởi đầu từ năm 1954 bắt đầu xuất hiện nền “Tự Do, Dân Chủ, Hạnh Phúc, Âm No” cho toàn dân Miền Nam VN, sau hàng ngàn năm dân chúng bị thống trị dưới các chế độ Quân Chủ, Độc Tài & Cộng Sản. Giống như Đài Loan là nước hiện nay sống “Tự Do-Đân Chủ” sau 5 ngàn năm bị áp chế dưới ách thống trị của các chế độ Quân Chủ & Cộng Sản.

Bộ DVDs sử liệu “Đại hội Tôn vinh Chữ Quốc Ngữ & Vinh danh QLVNCH” xuất hiện 2 Nhân Chứng Sống Việt-Mỹ giá trị nhất của VNCH là cố Đại Tá Trần Ngọc Thống (Tác Giả tác phẩm đồ sộ “Lược sử QLVNCH”, Trưởng Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH cạnh Đại Tướng Cao Văn Viên) đã tạ thế lúc 98 tuổi – Và Cố Đại Tá/Bác Sĩ Sterling Mutz (Vào cuối thập niên 1960 Bác sĩ là Y Sĩ Đạt Tá Chỉ Huy Trưởng Bệnh Viện 3 Dã Chiến của Quân Đội Hoa Kỳ tại VN) đã tạ thế lúc 96 tuổi.

Bộ DVDs sử liệu cũng ghi nhận Dân Tộc Việt được dùng Chữ Quốc Ngữ hạn chế từ Thế Kỷ 17; nhưng mãi đên Thế Kỷ 19 Chữ Nước Ta mới được phổ biến rộng rãi khắp 3 miền Nam-Trung-Bắc, bởi công lao của Cố Học Giả Phao-Lô Huỳnh Tịnh Của và Nhà bác học ngôn ngữ Phê-Rô Trương Vĩnh Ký.

Quý Vị hãy ủng hộ Bộ DVDs sử liệu này cho các bạn trẻ trong nhiều thế hệ hàng trăm năm sau còn biết được “Hình Mẫu VNCH Mơ Ước” đã bắt đầu từ thập niên 1950. Mỗi Bộ DVDs 2 đĩa dài hơn 3 giờ giá 30 Mỹ-kim.

Bộ DVDs sử liệu nêu trên sẽ “ra mắt” long trọng với chương trình văn nghệ đặc sắc, tại 2 địa điểm & ngày/giờ sau đây:

  • Thủ đô tị nạn Westminster Thứ bảy ngày 18/5/2024 từ 1PM – 6PM: Hội Trường The Church of Jesus, 10322 Bolsa Ave, Westminster, CA 92683.

  • Thành phố Houston Thứ bảy ngày 25/8/2024 từ 4PM – 10PM: Nhà hàng Diamond 6292 Willcest St, Suite 106, Houston, TX 92683.

Đa tạ – Kính Mời.

Ban tổ chức: Đông-Phương Foundation (since 1976)

Email Address: tuongvang@gmail.com




VĂN: MỘT HỒN SẦU NHỎ. CAO MỴ NHÂN

MỘT HỒN SẦU NHỎ.    CAO MỴ NHÂN

” Chúng tôi ” quen khá đông, có thể nói rất đông nữa, nhưng là để cho biết nhau thôi, chứ thân mật thì không đều khắp, ai có nhóm bạn nào hoặc rải rác vài ba ” vị “, thì tuỳ cách giao hảo của mỗi người .

Thế thì, nhân chuyện cô bạn PHƯƠNG HOA tôi mới hạnh ngộ mấy năm gần đây, nói rằng : ” Chị, là tôi, có nhiều mối tương giao thú vị quá …” khi tôi nhờ Phương Hoa ( PH ) đăng dùm tôi mấy bài thơ trong tập thơ ” NHỮNG VẦN THƠ MA ” của tôi điếu nhà văn bạn tên HỒ LINH vừa mãn phần.

Tôi có dịp trở lại một mối tương giao khác nữa, với 2 nhà thơ tên tuổi một thời trước năm 1975, kéo dài tiếng tăm trong giới thi ca trẻ, hồi đó, cho tới bây giờ .

Hôm nay tôi muốn nhắc tới tên tuổi 2 nhà thơ, mà thủa lớn lên ở Saigon cuối thập niên 50 & đầu thập niên 60 thế kỷ trước, nhị vị ấy là bạn thân của tôi :

VIÊN LINH , và TRẦN DẠ TỪ .

Trước hết, tôi xin khẳng định là tôi chỉ viết lại những kỷ niệm thơ thủa còn đi học, hay đúng ra thủa chúng tôi ở tuổi thiếu niên thôi.

VIÊN LINH tên thật NGUYỄN NAM, TRẦN DẠ TỪ tên thật LÊ HÀ VĨNH , những ngày mới từ miền Bắc di cư vô Nam, Trần Dạ Từ lấy bút hiệu HOÀI NAM .

Hai bạn thơ tôi bấy giờ sớm nghỉ học để đi làm báo cho thoả thích tính ” văn nghệ ” làm thơ, Viên Linh có viết thêm một số tác phẩm văn xuôi.

Ở số tuổi còn chưa 20 bấy giờ, Viên Linh, Trần Dạ Từ rất ngoan hiền trong cách viết, rất tiềm ẩn trong tình cảm phong phú, và thực sự ” tài hoa ” .

Ai trong quý vị và chúng tôi, khi thể hiện tác phẩm văn chương, nghệ thuật không … tài hoa chứ .

Nhưng sớm biểu lộ tài hoa văn chương, nghệ thuật, thì hình như không chú trọng đến chuyện lập thân trên đường khoa cử, hay nghề nghiệp chuyên ngành thực tế.

Tôi vẫn chỉ kể về bạn văn thơ Viên Linh, Trần Dạ Từ thôi, không nghĩ thêm về quý vị văn nghệ sĩ cùng thời khác, để tránh ngộ nhận hoặc hiểu lầm .

Ngay khi Viên Linh và Trần Dạ Từ quyết định làm văn thơ, làm báo, thì 2 bạn ấy thành công ngay .

Thoạt Viên Linh, Trần Dạ Từ là những cây bút tài tử cộng tác với các nhật báo, tuần báo, đặc san vv… ở Saigon đầu thập niên 60 thế kỷ trước, vì còn rất trẻ.

Sau Viên Linh, Trần Dạ Từ đã mau chóng giữ các chức vụ chủ bút, tổng thư ký, thi sĩ Viên Linh còn làm chủ báo nữa .

Khoảng đầu thập niên 60 đó, TRẦN DẠ TỪ còn dám lên tàu lửa xuyên việt ra Huế, đón Trần Thị Thu Vân vô Saigon lập nghiệp, với 2 bàn tay trắng, nhưng từ đó, Trần Thị Thu Vân đã trở thành NHÃ CA, nữ văn sĩ trẻ tuổi và thành công nhất giữa số đông bạn văn thơ còn mất thời gian lâu sau, mới nổi danh được, như quý vị

NGUYỄN THỊ THUỴ VŨ, TUÝ HỒNG, NGUYỄN THỊ HOÀNG vv…

   Khả năng và tài nghệ văn thơ NHÃ CA đã đành là thiên phú rồi, nhưng cũng phải công nhận là việc thúc đẩy và hỗ trợ thiết thực vẫn do TRẦN DẠ TỪ mong muốn như cái tên NHÃ CA, Từ đặt cho Thu Vân vậy .

Họ , Trần Dạ Từ & Nhã Ca mặc nhiên trở thành đôi uyên ương văn chương cho tới ngày nay, Trần Dạ Từ & Nhã Ca đã có với nhau nửa tá con, và riêng Nhã Ca đã có hàng chục tiểu thuyết ăn khách nhất thủa đó, đông thời tác phẩm ” GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ ” của NHÃ CA đã vô hình chung đi vào văn học sử , thời đại Việt Cộng tổng công kích Tết Mậu Thân Huế 1968.

Trở lại VIÊN LINH ( VL ) TRẦN DẠ TỪ ( TDT ) , tôi vẫn nói về thủa thanh thiếu niên, ấy là Thơ của nhị vị này , và đây cũng không phải bài nhận định về Thơ kiểu ĐỌC THƠ , BÌNH THƠ như quý vị cầm bút viết báo đâu. Đó chỉ là những dấu tích một thời nào đó, ai muốn biết cho …vui đúng nghĩa.

Các nhà phê bình Thơ hay cảm nhận của bạn đọc thơ, thường nhận định làm THƠ LỤC BÁT không phải là dễ, thể thơ dễ với những vần điệu chuyên thơ của Thi Sĩ , nó không từa lưa như vè, đôi khi vè còn đúng vần điệu hay hơn thơ ghép 6 x 8 của các vị viết cho có viết thôi chẳng hạn.

Thời gian sơ khai với những cây viết mới, thường khiến một số ” Tiền Bối nghề nghiệp ” ngại ngùng lời thơ và ý tưởng.

Thí dụ có bài rất hay về lời lẽ, vần điệu, nhưng tìm ra ý, thì không  có gì đặc sắc hay ngược lại.

Thủa đó, Đại Thi Sĩ VŨ HOÀNG CHƯƠNG đã có biệt danh Thi Bá rồi, nghĩa là gần như nhất trên trời thơ ca, nhưng nghe một bạn văn thơ nào đó, đề cập tới Nhà Thơ trẻ Viên Linh, 

cụ VŨ còn như lững lờ, chưa niềm nở đón chào.

Tôi nhớ bài lục bát VIÊN LINH thế này :

            ( Tựa hình như là NGOẠI Ô )

Người đi phiến động chân trời

Nghe heo may lạnh lùa khơi chiếu nằm

Một hồn sầu nhỏ phân vân

Trời âm u thấp mời thân buồn phiền

Nửa đời đi kiếm bình yên

Thương yêu bỏ lại đôi miền tịch liêu

Bạn bè còn được bấy nhiêu

Người đi quên lãng thêm nhiều ưu tư

Rời vào thành phố phiêu du

Nỗi bao la đã ngoại ô dồn về…

            VIÊN LINH

VL tác giả nhiều tập văn, tập thơ đã phát hành trước 30 – 4 – 1975.

Sau này di tản qua Hoa Kỳ , Nhà Thơ VIÊN LINH có thời giữ chức vụ CHỦ TỊCH TRUNG TÂM VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI khoảng đầu và giữa thập niên 90 Thế kỷ trước, 1993- 1995.

Ông cũng là Trưởng Đoàn Văn Bút VNHN đi dự đại hội VĂN BÚT THẾ GIỚI KỲ THỨ 61 ở PRAHA TIỆP KHẮC 11/ 1994,  với các thành viên sau :

 Thi Sĩ Viên Linh. Chủ tịch , trưởng đoàn.

 Thi sĩ Giáo Sư Nguyễn Sỹ Tế, phụ tá.

 Nhà báo Giáo Sư Phạm Việt Tuyền

Thi sĩ Cung Trầm Tưởng.  ( phát ngôn viên Pháp ngữ )

Nhà văn Trần Ngọc Nhuận ( phát ngôn viên Anh ngữ )

Thi sĩ Tô Thuỳ Yên

Cao Mỵ Nhân ( nhà thơ )

Theo danh sách nêu trên, thì quý Thi Văn sĩ, Giáo sư : Nguyễn Sỹ Tế, Phạm Việt Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Trần Ngọc Nhuận, Tô Thuỳ Yên đã chung cuộc, hiện còn Viên Linh và Cao Mỵ Nhân tại thế .

Đôi bạn uyên ương văn thơ NHÃ CA & TRẦN DẠ TỪ , qua những cơn sóng gió thời đại, sau này , cho tới bây giờ vẫn đang xuất bản nhật báo ” VIỆT BÁO ” ở Hoa Kỳ , và đặc biệt là tổ chức được hằng năm các giải thưởng văn chương, văn hoá VN một chương trình lâu dài : Viết VỀ NƯỚC MỸ , dành cho tất cả quý vị đã tới nước Mỹ tị nạn, lưu vong, tha hương, đã và đang SỐNG TRÊN ĐẤT MỸ .

Thấm thoắt đã cả nửa thế kỷ trôi qua, nhớ lại hồi tôi còn  chưa có bằng trung học đệ nhất cấp, với áo dài trắng, tóc đuôi gà, đi xe đạp đến thăm VIÊN LINH trọ học ở chùa Phú Thạnh Phú Nhuận, TRẦN DẠ TỪ thuê nhà gần chùa Vĩnh Nghiêm để bạn ta được chung vui với các bạn khác cùng thích văn thơ, như ĐỖ QUÝ TOÀN ( nay còn tên NGÔ NHÂN DỤNG, PHẠM HOÁN ( em hoạ sĩ PHẠM TĂNG ) vv…

Còn tôi vẫn ở với cha mẹ nơi cư xá HÀNG KHÔNG TÂN SƠN NHẤT, và cũng là nơi 2 bạn thơ quý VIÊN LINH , TRẦN DẠ TỪ năng lui tới thăm chơi cùng ” thông tin văn hoá …học sinh “

trong sáng tuổi 15  hân hoan, tươi trẻ…

Thời gian trôi qua, đã già nửa thế kỷ, VIÊN LINH, TRẦN DẠ TỪ

vẫn sinh hoạt bình thường trong văn giới, dù thay đổi không gian ( từ VN ra hải ngoại ) kể từ sau chính biến 1975.

VIÊN LINH không bỏ nghề cầm bút, VIÊN LINH vẫn tiếp tục xuất bản báo Thời Tập thân quen, đã có từ trước 1975 lưu hành ở miền nam Việt Nam .

Bên cạnh đó, là điều hành một cơ sở in ấn, cộng tác báo bạn ,

xuất bản sách cho bạn bè văn chương … đang tị nạn, tha hương ở các nơi tái định cư, đa phần ở Hoa Kỳ.

Với hành trình thơ văn không tách rời ” thân phận “, và thân thế cũng không vượt được những mùa xuân miên viễn ở thế gian khi bước vào lão tuế, VIÊN LINH hay ai chăng nữa, cũng ra đi về chốn vô cùng thôi.

Được tin ngày 28 tháng 3 năm 2024, Thi Sĩ VIÊN LINH đã giã từ cõi nhân sinh ở miền đông Hoa Kỳ, sau 86 năm rong chơi nơi trần gian đầy hương sắc vui buồn, nhưng lúc nào ông cũng an nhiên, thanh thản .

Mong hồn thơ ông sớm phiêu diêu miền cực lạc, để vỗ về chữ nghĩa còn để lại cho con cháu, bạn bè thân thiết xưa nay.

         Rancho Palos Verdes   1 – 4 – 2024

                    CAO MỴ NHÂN




TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN 2024

VTLV TRANG THƠ VĂN NHẠC – TƯỞNG NIỆM THÁNG TƯ ĐEN – CAO MỴ NHÂN – ĐỖ DUNG – TUYẾT PHAN – VÕ ĐẠI TÔN – MINH THÚY – PHƯƠNG HOA – LÊ XUÂN NHUẬN – Và NHIỀU VĂN THI NHẠC SĨ VTLV Cùng Thân Hữu.

RETURN THE TRUTH ABOUT THE AIRCRAFT CASE ON SATURDAY AFTERNOON, APRIL 20, 1974 AT PHU BAI AIRPORT, HUE,

49 YEARS…APRIL IS AGAIN

Air Hijacking in April 1974 in Hue – Nguyen Phuc Lien Thanh

Le Xuan Nhuan would like to temporarily answer 2 points:

1–             At that time, throughout the Republic of Vietnam, it was difficult to find a North Vietnamese Communist flag (red flag with yellow star, of the Democratic Republic of Vietnam) because the Communist Party thoroughly implemented present the guise that “national forces in the South automatically stood up against the Republic of Vietnam regime, but the Communist Party of Vietnam did not intervene in South Vietnam”; Therefore, Lien Thanh and the National Police of Thua-Thien/Hue could not find a single communist flag. When the plane drove slowly into Phu Bai airport headquarters, the hijacker clearly saw that there was no communist flag, meaning that Dong-Hoi airport did not belong to the Communist North, so he detonated the bomb. grenades.

2-             The Air Vietnam aircraft in this case is a Douglas C-54A (XV-NUM), 4-pinner, or DC-4, with a height of 27ft 6in (8.38 meters), from the ground to the doorstep. Getting into the plane is very high. The plane stops but there are no stairs up/down, making it difficult to easily jump into the plane like in a movie.

DC-4.JPG

Very high view of Douglas R5D-2.jpg

Footnote: In the evening of the same day, Air Vietnam took another plane to Phu Bai, with 2 passengers, Lieutenant Colonel Trinh Van Ca (Head of E-2, aka Director of Counter-Intelligence and Internal Affairs, directly under Colonel Huynh Thoi Tay, Head of the Central Special Branch); together with Lieutenant Colonel Tran Phuoc Thanh (formerly Director of the Central-Nguyen Trung-Phan National Police Department, now Chief of Security Department of the Vietnam Civil Aviation Department.

3-             I briefly presented everything I had done, then together with Major Ngo Phi Dam (Chief F, Chief of Operations of my E-6) boarded the Allied Friend’s helicopter to fly back. Da-Nang because it was already dark.

4-             A few days later, while working at the Central Special Police Branch, I met and talked privately with Lieutenant Colonel Trinh Van Ca. He told me that Major Truong Cong An (Chief F, Chief of the Thua-Thien/Hue Special Police Department, privately confessed to him that in the recent “no shortage” incident, the Police outside That time, we could not find a single North-Vietnamese Communist flag to use in the plan to disguise Phu-Bai as Dong-Hoi.

5-             Returning to my assignment, I went to Hue to meet Major An privately, and An also confessed the same to me.

6-             As for the difference between Gia-Lam airport and Dong-Hoi airport, about a month later, Lieutenant Colonel Tran Phuoc Thanh, on a trip passing by my house, stopped by to visit me and tell me- It was revealed that Chief Pilot Duong Van Em decided on his own initiative that if he had to fly far, he would choose Dong-Hoi airport which is closer and smaller to avoid confusion because Gia-Lam is too big. The name Dong-Hoi thus entered the records of the astronaut world (although April was mistaken for February: February 20, 1974): https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_accidents_and_incidents_involving_the_Douglas_DC-4

As for Gia-Lam, the flight attendant named Hong, who from beginning to end walked closely and talked to the hijacker, answered my interview questions.

LE XUAN NHUAN

If you want to know more details, please read the memoir “The Central Region’s Chaos

LỜI DÂNG LÊN MẸ VIỆT NAM
(49 NĂM – LƯU VONG)

VÕ ĐẠI TÔN (Hoàng Phong Linh)
MẸ VIỆT NAM ơi
49 năm rồi
Áo con đã rách.
Còn sợi chỉ nào, từ nguồn thiêng huyết mạch
Cho con xin, vá lại áo Đời.
Con đã đi, đường gai góc mòn hơi
Xuyên rừng núi, mồ hôi pha trộn máu.
Về quê hương, nguyện lòng son chiến đấu
Nửa đường đi thành đêm tối lao tù.
Mười năm ôm hận nghìn thu
Lênh đênh chìm theo vận Nước.
Và hôm nay, vạn nẻo đường xuôi ngược
Con vẫn còn tiếp bước Cha Ông.
*
Bao nhiêu năm – Mẹ đã đau lòng
Nghe con khóc từ trùng dương sóng chuyển.
Huyền sử xưa năm mươi con theo Cha về biển
Giống Rồng Thiêng mở rộng cõi bờ.
Còn hôm nay vì hai tiếng Tự Do
Trăm ngàn thây vùi tan nơi vực thẳm.
Năm mươi con vượt rừng sâu muôn dặm
Theo Mẹ hiền – thơm nửa máu dòng Tiên.
Dựng quê hương hùng sử khắp ba miền
Nay Văn Hiến cằn khô cùng sỏi đá.
Những địa danh chôn xương tù gục ngã
Tên kinh hoàng, tủi nhục đến nghìn năm.
Hoàng Liên Sơn không nấm mộ con nằm
Cổng Trời nghe máu khóc.
Dã thú vờn quanh, xiềng gông, tang tóc,
Nghĩa “Con Người” thua chữ sắn khoai.
*
Bao nhiêu năm – em bán hình hài
Tìm miếng cơm manh áo.

Đại Hàn, Đài Loan, xông xáo
Mua em về làm món đồ chơi.
Năm nghìn năm dù nước lửa dầu sôi
Chưa bao giờ mẹ bán con vì đói.
Bầy trẻ thơ còm cõi
Bươi rác nghèo, rách rưới lang thang.
Nghe quanh mình loa vẫn thét “vinh quang”
Đường Tương Lai đá cũng tan thành lệ.
*
Bao nhiêu năm tưởng chào vui thế hệ
Ngẩng cao đầu, tay vói đến năm Châu.
Nhưng cội nguồn và đạo lý chìm sâu
Lo sáng tạo những đua đòi vật chất.
Mùi kim tiền thơm hơn bánh mật
Giấc mơ vàng : – mong thoát khỏi quê hương.
Thúy Kiều xưa, rơi sóng nước Tiền Đường
Nay viết lại thành Tiền Giang, phản động ! () Lũy tre xanh, cánh tay thần Phù Đổng Bao anh hùng dựng Nước thuở ban khai Còn lại đây hoang phế cả đền đài Tên Hùng Vương đành thua tên Bill Gates. ().
Túi càn khôn đã nghèo, thêm rỗng tuếch,
Văn Hóa này còn lại tiếng “bia ôm” !
*
Bao nhiêu năm – răng hổ đói đỏ ngòm
Luôn gầm thét, xé tươi hồn Dân Tộc.
Từ địa đạo ùn lên bao cơn lốc
Thành “đại gia” chễm chệ một phương trời.
Miệng “vô sản” toàn men rượu nồng hơi,
Tay “chuyên chính” ôm bao đầy châu báu.
Dinh thự nguy nga, dựng lên từ máu
Của nhân dân khổ hạnh một đời.
Người thương binh ngẩng mặt nhìn trời
Nghe tiếng khóc trong tiếng cười vang vọng.
Chiếc xe lăn bánh mòn, gãy gọng
Lê thân tàn về cuối hẻm đơn côi.
*

MẸ VIỆT NAM ơi
49 năm rồi, niềm đau quặn thắt.
Đã có bao người lửa lòng nguội tắt
Dĩ vãng quên rồi, hiu hắt tình Quê ?.
Lớp già nua mơ ước nẻo về
Không nhắm mắt, cuối đời lên tiếng nấc.
Còn tuổi trẻ hồn nhiên hoa mật
Nơi xứ người chấp nhận quê hương.
*
Nhưng một ngày mai :
Đường hoa nở hướng dương
Hành trình thôi cúi mặt.
Sẽ có những đàn con vòng tay siết chặt
Kéo mặt trời về lại phương Đông.
Tổ Quốc sẽ tươi hồng
Giữa hào quang Dân Tộc.
Cây Tự Do sẽ đâm chồi nẩy lộc
Lửa Nhân Quyền bừng sáng nẻo thâm u.
Mái trường vui thay thế chốn lao tù
Cho con học từ cội nguồn Nhân Bản.
Không kẻ nào được quyền mua bán\
Thịt da em, nguồn sống của Rồng Tiên.
Hồn Tổ Quốc linh thiêng
Đài cao về chiếm ngự.
Cuộc hành trình từ quê hương – viễn xứ –
Chuyển xoay thành trẩy hội hoa đăng.
Từ phương Nam tung vút cánh chim Bằng
Thành Rồng thiêng Đông Á.
Từ núi cao nghiêng mình ra biển cả
Rạng ngời soi hai chữ : VIỆT NAM.
*
Lời trần tình bao nhiêu năm
Con viết bằng tim máu.
Từ nỗi đau âm thầm chôn giấu
Kính dâng lên TỔ QUỐC hằng yêu.
Mỗi chữ-vần mong gói trọn một điều :
Từ Tâm Thức xin góp chung Hành Động.
Đại cuộc Toàn Dân ban con Lẽ Sống
Hiến dâng đời cho trọn nghĩa Quê Hương.

MẸ VIỆT NAM ơi
Dù gian lao xin tiếp máu Lên Đường
Cho con về với Mẹ.
Vững chân đi, qua trăm ngàn dâu bể
Được quỳ ôm từng mảnh đất quê Cha.
Phút cuối đời xin biến lệ thành hoa
Giữa triều vui Dân Tộc.
Trong lòng con : – Vĩnh hằng TỔ QUỐC
Huy hoàng Văn Hiến – Tự Do !.
VÕ ĐẠI TÔN. (Hoàng Phong Linh)
Ghi chú :

THƠ  XƯỚNG – HỌA

KHÓC SAIGON

Hốt hoảng chìm trong lửa bạo tàn

Sài Gòn run rẩy chít khăn tang

Người đi cách biệt, sầu câm nín

Kẻ ở chia tay tiếng khóc than

Rừng thẳm chiều buông,  cải tạo

Mồ hoang vạn nấm lệ dâng tràn

Bắc Nam cùng giống, sao thù hận?

Trách nhiệm về ai hỏi thế gian ?

Mặc Khách (1975)

THÁNG TƯ NĂM ẤY (Bài Họa)

Tháng Tư năm ấy bởi tham tàn

Hòn Ngọc Viễn Đông đau đớn tang

Kẻ bước hồn thương còn bịn rịn

Người ngồi tim thảm vẫn sầu than

Thân nhân dương thế bặt tin tới

Cải tạo cõi âm khiến lệ tràn

Cộng sản chủ trương gieo độc ác

Giặc Hồ qủy đỏ chốn dân gian

Doãn Thường, 22-4-2019

KHÓC SÀI GÒN (Bài Họa)

Cứ nghĩ rằng sau cuộc chiến tàn

Nỗi đau cả nước được phi tang

Sái Gòn hướng tới xây hưng thịnh

Hà Nội vươn lên xóa oán than

Từng bước thực thi dân chủ khắp

Mỗi nơi bày tỏ ấm no tràn.

Chằng ngờ rặt thấy trò man rợ,

Chú phỉnh mà thôi, toàn dối gian !

Thái Huy

CUỘC CHIẾN TÀN (Bài Họa)

Giặc đến thành đô cuộc chiến tàn

Trời Nam ảm đạm một màu tang

Lìa cha lạc mẹ lời ta thán

Nát cửa tan nhà tiếng oán than

Phụ tử chia ly dòng thảm đượm

Phu thê cách biệt giọt sầu tràn

Quân dân cán chính đời cay đắng

Bởi lũ cai tù quá ác gian

Đinh Tường

HẬN TIẾC THÀNH DÔ (Bài Họa)

ĐỌC XUÔI:

Đô thành tiếc hận khóc canh tàn,

Việt tộc cùng chia lệ tóc tang.

Mồ mả tỏ tiên đành xới bỏ,

Vợ chồng con trẻ khóc buồn than !

Nô vong* tủi nhục thân dầu dãi,

Khổ luỵ thương đau máu chảy tràn !

Bờ cõi nước non sầu rẽ bán…

Hồ quân rõ ác tặc tà gian !

ĐỌC NGƯỢC:

Gian tà tặc ác rõ quân hồ,

Bán rẽ sầu non nước cõi bờ.

Tràn chảy máu đau thương luỵ khổ,

Dãi dầu thân nhục tủi vong nô.

Than buồn khóc trẻ con chồng vợ,

Bỏ xới đành tiên tổ mả mồ !

Tang tóc lệ chia cùng tộc Việt…

Tàn canh khóc hận tiếc thành đô !

Liêu Xuyên

TẠ TỪ MẸ

 Đêm vẫn vô tình cơn gió lạnh

Gió mang rét buốt buổi tàn đông

Men theo khe cửa lùa vào Mẹ

Làm buốt tim con xót xa lòng

Đêm vắng lặng mơ hồ thăm Mẹ

Đôi tay khô hốc cánh tay gầy

Bước đi nghiêng ngã thân tàn tạ

Con sợ Mẹ buổn chẳng dám lay

Con bất hiếu không ngày phụng dưỡng

Bao năm xa Mẹ tuổi còn thơ

Hồn nỗi trôi bên bờ sinh tử

Đời trai chinh chiến chẳng được nhờ

Căn nhà nhỏ từ đây trống vắng

Con mãi rừng sâu khuất tuổi xanh

Đã bao năm mỏi mòn lao khổ

Sống qua ngày hơi thở mong manh

Đêm dần tàn gịó mùa rét mướt

Giấc mơ buồn nhớ Mẹ lệ tuôn

Thăm Mẹ lần cuối con từ tạ .

Nếu không còn gặp, Mẹ đừng buồn !

Mặc Khách

         (  Đêm trong tù 1982 )

MỒ CHÔN TUẤN KIỆT

(Chiến tranh_Ngục tù)

Áo rách thay hòm chôn xác bạn

Nghìn năm còn mãi lệ xót xa

Lòng dân run sợ hồn ta thán

Gió hú oan hồn tiễn thây ma

Hồn dật dờ nương theo làn gió

Chập chờn bay về cõi hư vô

Rừng âm u cất lời ma quái

Giữa đêm khuya xào xạc đáy mồ

Rừng sâu vùi chôn bao tuấn kiệt

Nơi đọa đày Cải Tạo cùm gông

Họ, những Anh hùng Thế hệ trẻ

Xếp bút nghiên trên dưới đôi mươi

Vì Giang sơn Tổ Quốc Miền Nam

Xông pha trận chiến giữ lòng trung

Giờ vùi thây rừng sâu nước độc

Cho người đào tẩu sống yên vui

Những hình ảnh bi hùng còn mãi

Từng thây người cản bước xâm lặng

Người giàu sang quyền cao chức trọng

Cùng nhau trốn chạy mặc tàn quân

Tôi ước mong trái tim ngưng đập

Cho hồn nhẹ bước muôn nơi

Bay theo mây hòa cùng với gió

Quên, quên đi thống khổ kiếp người !

Mặc Khách

(U.Minh 1981)

Theo Dòng Nước Xoáy

Đỗ Dung

1-Mưa xối xả như giận dữ trút nước xuống thành phố, thỉnh thoảng sấm sét đì đùng và những lằn chớp ngoằn ngoèo trên không. Cu Chou nép mình trong lòng mẹ ngủ ngon lành. Ngọc ôm chặt thằng bé như cố gắng che chở con, mắt mông lung nhìn qua cửa sổ. Những chùm bông giấy tím trên bờ tường rào run rẩy và cây bông sứ như đứng oằn mình chịu đựng cơn dông. Nhìn khuôn mặt ngây thơ của con, hai dòng lệ ứa ra rồi nàng dụi mặt vào người con, thút thít khóc. 

Chiều hôm ấy, khi đi làm về, Khương buồn bã, chẳng nói năng gì, cất cặp sách, thay quần áo rồi ngồi thừ ra suy nghĩ, chẳng thiết đến bữa ăn. Thấy không khí nghiêm trọng Ngọc không dám lên tiếng, đợi đến tối sẽ gạn hỏi cho ra nhẽ. 

Buổi tối, sau khi cơm nước, dọn dẹp xong, hai vợ chồng đang sửa soạn cho con đi ngủ thì tiếng chuông cửa reo. Mở cửa ra, sáu người trong quân phục với súng ống lăm lăm, đứng ngay trước cổng. Ngọc hoảng hốt, sợ hãi không biết tai ương nào sắp giáng xuống gia đình nàng đây. Khương ra mở cổng, sáu người bộ đội tràn vào, dàn trận như đang hành quân bố ráp, bốn người súng AK cặp nách, hai người súng ngắn trên tay. 

Mấy người mang súng AK ngừng lại ngoài sân.  Hai người bộ đội có vẻ như cấp chỉ huy bước vào phòng khách cùng vợ chồng Khương, hỏi tên và một số chi tiết về cá nhân chàng rồi nói như ra lệnh: 

– Mời anh theo chúng tôi về Ủy Ban Quân Quản làm việc. 

Ngọc cuống quýt: 

– Thưa các anh, các anh cho địa chỉ để sáng nhà tôi lên trình diện các anh được không? 

Người ấy lạnh lùng: 

– Chúng tôi được lệnh đưa anh đi ngay. Khẩn trương lên! 

Trong khi Khương vào thay quần áo, Ngọc lấy một túi vải sắp một bộ đồ mặc nhà, một áo lạnh và một số vật dụng vệ sinh như bàn chải đánh răng, khăn mặt … cho chồng.  Nàng nghĩ nhỡ Khương phải ở lại qua đêm. 

Nhìn chồng đi giữa những người bộ đội, bước lên chiếc xe bít bùng, dù không bị còng tay nhưng cũng bị áp giải như tội phạm, Ngọc bàng hoàng, thảng thốt. Đang đêm khuya, nhà không có phương tiện để liên lạc với bên ngoài, Ngọc điếng người vì sợ hãi.  Cả đêm nàng không ngủ, nằm ôm con, miệng lâm râm niệm Phật và mong trời mau sáng để chạy về nhà mẹ hay nhà chị Lan, để rúc vào lòng mẹ hay lòng chị mà khóc, mà kể lể, mà tìm sự chở che. 

2-Sáng sớm tinh mơ, chị Lan đang đảo đều nếp với khoai mì trong chõ, sửa soạn cho mỗi người một chén đầy xôi khoai mì trộn chút muối mè-đậu phộng cho chắc bụng trước khi người đi học, kẻ đi làm. Nhìn chõ xôi chị bất giác thở dài, trưa hôm qua sau khi được gọi ra xếp hàng ở tổ dân phố để mua thực phẩm, chị vác về một bao khoai mì, khoai lang mà ngán ngẩm. Khoai lang đã nhiều chỗ bị sùng, khoai mì sắp chạy chỉ. Chị phải bỏ nguyên buổi tối ngồi gọt vứt những chỗ hư, chừa lại một ít nấu ăn ngay ngày sau, chỗ còn lại sắp vào cái mẹt lớn, định phơi khô để sẽ độn với gạo nấu ăn dần. Anh Luận, chồng chị, sĩ quan cấp tá đã đi trình diện học tập, tưởng một tháng thì về mà đến nay đã hơn một tháng vẫn bặt vô âm tín. Nhìn đàn con dại, bốn đứa từ 10 đến 16 tuổi, đang sức lớn, cơm chẳng đủ mà ăn, tương lai mờ mịt, biết sẽ về đâu. 

Bỗng tiếng đập cưả rồi tiếng Ngọc như rên rỉ: 

– Chị Lan! Chị Lan ơi…! 

Thằng Chương, con trai lớn nghe tiếng dì, chạy vội ra đỡ chiếc xe đạp mini của Ngọc, bế cu Chou đang phụng phịu vì còn ngái ngủ vào nhà. Ngọc như đổ ập vào người chị, tiếng nói đứt quãng qua tiếng nấc uất hận, nghẹn ngào: 

– Đêm hôm qua… người ta… đến nhà em… bắt anh Khương đi rồi… chị ơi… 

Nói xong nước mắt Ngọc tuôn ra như suối, ướt đẫm vai áo chị Lan. 

– Cả đêm qua em không ngủ được phải không? Thôi vào đây nằm nghỉ, chị pha cho em ly sữa nóng, uống cho khỏe, em hãy ngủ một giấc cho lại sức. Ốm đau lại khổ! Từ từ… ta tính! 

Nói để vỗ về, an ủi em nhưng hai dòng lệ cũng chảy dài qua khoé mắt chị Lan. 

Một đêm thức trắng vì sợ hãi, qúa mệt mỏi nên sau khi uống ly sữa nóng, Ngọc nằm ngay xuống chiếc đi văng trong phòng khách nhà chị ngủ thiếp đi. Nhìn nét mặt mệt mỏi của cô em út, chị Lan thở dài.  Con bé được cưng chiều từ nhỏ, cả nhà yêu thương vì Ngọc xinh xắn, học giỏi và ngoan ngoãn. Khi lập gia đình lại gặp nơi tử tế, chồng quý, chồng cưng… Thế mà giờ đây gặp cơn bão tố thế này. Thật tội cho em. 

Hôm nay không có giờ dạy, Lan rút một tờ giấy trắng viết đơn cáo bịnh xin nghỉ hai ngày để ở nhà giúp Ngọc. Chị đưa lá đơn cho Chương, dặn con khi đi học nhớ ghé qua trường của mẹ nộp cho mẹ. Đợi Ngọc thức dậy Lan sẽ cùng em sang báo tin cho bố mẹ nàng, báo cho bên nội thằng cu Chou. 

3-Cụ Tham Minh đang cầm cây chổi lông gà phủi bụi trên những khung ảnh Ông Bà bầy trên bàn thờ bằng gỗ cẩm lai vẫn còn được đặt trang trọng trong phòng khách.  Nghe tiếng bi bô của thằng bé con, cụ quay lại, hai cô con gái đang dắt tay thằng bé bước lên thềm. 

– Bố ạ! 
– Hai chị em có việc gì mà rủ nhau sang đây sớm thế? 

Lan ngập ngừng: 

– Thưa bố… Chú Khương bị bắt đêm hôm qua. 

Cây chổi lông gà rơi tuột khỏi tay, cụ bước vội đến chiếc tràng kỷ ngồi phịch xuống: 

– Kể cho bố nghe, sự việc thế nào? 

Lan thay Ngọc kể lại những diễn biến xảy ra tại nhà Ngọc hôm qua trong khi Ngọc ngồi bên tủi thân ôm con rấm rứt khóc. 

Mặt cụ ông như sạm lại, cụ không biết nói sao. Năm nay cụ đã hơn bảy chục tuổi, suốt đời hai cụ đã lo nuôi dạy bầy con sáu đứa đến lớn khôn, học hành thành đạt. Tưởng rằng hai cụ sẽ được hưởng những ngày tháng bình yên tuổi già, vui với mấy chậu kiểng ngoài sân, thỉnh thoảng con cháu về thăm hay có nhớ con nhớ cháu thì cụ chỉ cần ra đường vẫy chiếc xích lô là có thể đến với chúng nó. 

Bây giờ hai người con trai của cụ nhà bị niêm phong từ 30/4 đến nay.  Chưa biết hai gia đình đó sống chết thế nào, có đi được đến nơi, đến chốn hay không. Hai cô con gái kẹt lại, cô lớn chồng đi cải tạo không biết ngày về, cô út chồng bị áp giải đi thế này. Đúng là tai trời ách nước. Vận mệnh con người phải nổi trôi theo vận mệnh chung. 

Cụ nghĩ đến Khương, anh con rể út hợp tính, hợp nết với cụ, một thanh niên cương trực, thẳng thắn, trong sạch, nặng lòng với quê hương. Những lúc giỗ tết, trong khi đàn bà con gái lo việc cỗ bàn dưới bếp Khương hay ngồi tiếp chuyện cụ, thân tình như con trai. Anh kể cho cụ về những ngày anh mới chân ướt chân ráo đến Paris, kinh thành ánh sáng, còn ngơ ngác hoang mang đã bị những cán bộ CSBV níu kéo mua chuộc bằng những phương pháp rất tinh vi. Những thành phần quốc gia nhưng thiên tả cũng có rất nhiều, họ thu phục đám thanh niên nhẹ dạ, dời quê hương khá lâu và không am tường về hiện tình đất nước.  Trong khi nhân viên của toà Đại Sứ VNCH lại quá lơ là, không để ý đến cuộc sống, đến sinh hoạt của sinh viên du học. Khương còn kể với cụ rằng có lần anh đã cùng nhóm sinh viên thuộc phe VNCH chính thức đối đầu với nhóm cán bộ Cộng Sản. Sau đó phe Quốc Gia cũng mời anh vào hoạt động chính trị với họ nhưng anh đã từ chối. 

Mới đây, một anh bạn học cùng thời với Khương, về giảng dạy tại Trường Y khoa, đang âm thầm thành lập Mặt Trận Phục Quốc, có liên lạc và thuyết phục anh hợp tác. Anh đang phân vân giữa trách nhiệm với đất nước và trách nhiệm với gia đình. Bây giờ nghe tin này, cụ chưa biết mức độ nghiêm trọng cỡ nào. Khương bị bắt oan hay anh đã nhúng tay, hợp tác với tổ chức mà anh đã có lần kể với cụ. Nghĩ thương chàng rể lại xót xa cho con gái mình. Cụ chẳng biết nói sao, nhìn lên trần nhà, một con thạch sùng giương đôi mắt nhỏ, đen láy nhìn cụ như chia sẻ rồi tặc lưỡi, quẫy đuôi bò đi. 

Lan và Ngọc sửa soạn ra về thì cụ bà tay xách giỏ chợ bằng nilon có bó rau muống thò ra khỏi miệng giỏ, đẩy cửa bước vào đon đả: 

– Hai chị em sang chơi hả? Các con đến lâu chưa? 

Cụ như khựng lại: 

– Sao hai đứa mắt đỏ hoe thế này? Có chuyện gì vậy con? 

Như được khơi nguồn, Ngọc khóc nức nở, cụ bà chạy vội đến ôm cô con út. Ngọc được thể gục vào lòng mẹ tức tưởi. Cu Chou giương đôi mắt tròn xoe nhìn mọi người rồi cũng bật lên khóc oà. Sau khi nghe con kể rõ nguồn cơn cụ bà thở dài: 

– Hai chị em ở lại ăn cơm với bố mẹ, mẹ mới mua được miếng thịt thăn ngon tính làm ruốc, thôi để mẹ rim lên cả nhà ăn với rau muống luộc, nhà cũng còn lọ dưa muối. Từ từ ta tính. 

Cụ lập lại y như những lời Lan đã an ủi em, từ từ ta tính. 

Cơm nước dọn dẹp xong xuôi, con cháu ra về hết, hai cụ ngồi nhìn nhau buồn bã. Buổi sáng, sau khi ghé khu chợ trời bán bớt một mớ quần áo cũ của Quân và Nga, hai người con bên Pháp, cụ bà đi ngang qua nhà Vinh, anh con trưởng. Căn nhà đã được trưng dụng, mặt tiền nhà đã là cửa hàng hợp tác xã của phường chứa đầy cá khô. Đã gần ba tháng mà chưa có tin tức chính thức nào của con, hai cụ cũng rất nóng ruột. Cụ thương anh con trưởng hiền lành như đất, chọn nghề giáo, làm tròn bổn phận giảng dậy, uốn nắn thế hệ tương lai. Chị Vinh con nhà tử tế, bạn học với Lan, cũng nhà giáo nhưng lanh lợi hơn chồng, sanh được hai thằng con khỏe mạnh, đẹp trai, thằng lớn đã vào đại học, thằng em cũng sắp xong trung học. Cụ mừng lắm, sau khi gả chồng cho Ngọc, cô gái út cụ đã định bụng khi già yếu sẽ thu xếp về với nhà anh cả nhưng nay cớ sự thế này! Nghĩ đến Khanh, con trai Út, cụ lại thương, lấy vợ mấy năm trời, vợ còn đi học nên chả dám sanh đẻ, cô vợ vừa ra trường, mới mừng rỡ báo tin với cha mẹ là sắp được làm cha thì lại trời đất tai ương thế này, cho đến nay vẫn chưa tin tức. Cuộc sống của cụ từ ngày về nhà chồng êm ả, sanh sáu người con cứ đổi đầu, một trai rồi một gái, Vinh-Lan-Quân-Nga-Khanh-Ngọc. Nghĩ đến Ngọc cụ không ngăn được dòng nước mắt xót xa.  Một thân một mình với đứa con nhỏ chưa đầy hai tuổi, Ngọc làm sao chống chọi với đời. Cụ bàn với cụ ông sang bảo mẹ con Ngọc thu xếp về nhà bố mẹ mà ở, mà nương tựa với nhau.

 4-Lan là cô giáo của một trường Nữ Trung Học lớn tại Saigon.  Sau ngày 30/4 chị đến trường trình diện ngay và ghi tên xin đi dạy lại, mong được là công nhân viên, có công việc ở thành phố để gia đình khỏi bị đi kinh tế mới.

Sau những lớp học tập chính trị cho thông suốt chủ trương đường lốí cách mạng, chị được lưu dung nhưng phải đổi sang một trường Trung Tiểu Học nhỏ tại Quận Mười Một.  Hàng ngày phải gò lưng đạp xe từ Tân Định sang tuốt khu Chợ Lớn với đồng lương chết đói không nuôi nổi một miệng ăn. Vì sự thay đổi cả một ý thức hệ nên mọi sinh hoạt trong trường cũng đảo lộn. Đứng trên bục giảng nhìn lũ học trò lẫn lộn trai gái; áo quần luộm thuộm, nhơm nhếch; mặt mũi ngơ ngáo, bơ phờ.  Xuống phòng giáo viên những khuôn mặt đồng nghiệp xa lạ, lạnh lùng.  Chẳng biết tư tưởng người khác như thế nào nên mọi người đều lặng thinh.  Ai cũng phập phồng lo lắng và chẳng biết tin ai mà tâm sự. 

Anh Luận, chồng chị, đi học tập qúa một tháng vẫn chẳng có tin tức gì. Nhìn bốn đứa con còn nhỏ dại, Chương 16, Văn 14, Nhu 12, bé Út Hiền mới hơn 9 tuổi, không biết tương lai chúng ra sao, cuộc đời mấy mẹ con chị trôi về đâu. Làm sao một mình chị có thể cáng đáng công việc vừa làm mẹ vừa làm cha, vừa phải kiếm tiền nuôi con, vừa phải có thì giờ theo dõi, dạy dỗ, giáo dục con trong thời buổi nhiễu nhương này.  Nhất là trẻ con ở lứa tuổi mới lớn, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh như bầy con của chị.

Đồng lương không đủ sống, Lan phải gom góp đồ đạc trong nhà, bán đi những thứ không cần thiết để lo tiền chợ. Ngày nay đi dạy học không mặc áo dài nữa, chị soạn mấy chiếc áo dài cũ và một số quần áo đã chật của các con bỏ vào chiếc giỏ cói đem ra chợ trời.

–     Cô ạ!

Giọng nói quen thuộc khiến Lan quay lại.

–     Cô, em không thấy cô lên trường …em tưởng…Cô khoẻ không?

Nhìn con bé Liên, học trò cưng ở trường cũ rưng rưng nhận cô giáo, Lan cũng nghẹn ngào.

–     Cô chuyển trường khác.  Trường mình hồi này ra sao hả em?

Liên kéo Lan vào quán cà phê nhỏ gần đó

–     Em mới nghỉ học rồi cô ạ.

–     Em đang học Lớp Mười Một mà, còn chưa đầy hai năm nữa là hết bậc Trung học sao em không cố gắng cho xong?

–     Thưa cô, ba em đi học tập, chị em xong Tú Tài có được vào Đại học đâu cô, chị xin dạy lớp mẫu giáo ở gần nhà, không biết được bao lâu. Hai thằng em trai em chắc đến tuổi cũng phải đi nghĩa vụ.  Mẹ em cực quá, em quyết định ở nhà buôn bán kiếm tiền giúp mẹ em.

Lan thở dài:

–     Em là học sinh giỏi, bỏ ngang như thế này uổng qúa.

–     Học làm gì hả cô? Vào trường chỉ lo phấn đấu để được là đối tượng đoàn. Bọn học trò ngoài Bắc vào phần nhiều hỗn xược.  Thày cô cũng lo trăm thứ việc bên ngoài, tối ngày lo họp, lại còn phải vào những tổ sản xuất, thi đua lao động tốt để lập thành tích… học gì cô?

Rồi cô bé hạ giọng:

–     Em lo kiếm tiền, kiếm đường đi cô ạ.  Em không thể sống dưới chế độ này.

Nhìn Liên, Lan nhớ cô học trò giỏi, ngoan, hiền mà chị thương mến, nhớ hình ảnh cô học trò mắt sáng long lanh nhìn lên bục giảng. Bây giờ em mặc bộ bà ba đen, gầy gò, phờ phạc. Một nỗi xót thương dâng trào.  Chị nghĩ đến thân phận mình và chạnh nghĩ đến bầy con.  Không biết trong những tâm hồn non trẻ đó, chúng suy nghĩ những gì.

–     Cô muốn bán những thứ gì hả cô?

Liên hỏi, Lan hé chiếc giỏ cói cho Liên xem.

–     Cô đưa em, cô ngồi đây đợi em một chút em đem bán hộ cô.  Cô lạ mặt họ ép giá.

Nhìn con bé xách chiếc giỏ thoăn thoắt bước đi, ruột Lan như quặn thắt. Chỉ một thoáng, Liên cầm chiếc giỏ không về, dúi một nắm tiền vào tay Lan cười ngỏn ngoẻn:

–     Em đứng luẩn quẩn ở đây, ai bán gì em mua, ai mua gì em bán cô ạ.  Em không có hàng quán nào hết, chạy hàng thôi.

–     Sao em giỏi thế?

Lan rút vài tờ giấy bạc đưa Liên:

–     Cám ơn em, cho cô gửi.

Liên ngậm ngùi:

–     Cô ơi, cô cầm lấy, nhìn cô mặc áo bà ba, đội nón lá, đạp xe đạp, phải đi bán cả quần áo cũ là em xót xa lòng dạ lắm rồi.  Cô về đi, khi nào cần gì cô cứ ra khu này là có em.

Thày trò nắm chặt tay nhau cùng ngăn dòng nước mắt chỉ trực tuôn trào.

Chia tay Lan, hòa mình vào dòng người xuôi ngược trong khu chợ trời, Liên không cầm được nước mắt. Hình ảnh cô giáo Lan mà Liên đã tôn thờ, yêu qúy thay đổi đến thế sao. Cô giáo Lan dịu dàng, áo quần luôn tươm tất, giảng bài rất rõ ràng, dễ hiểu. Cô luôn để ý, ân cần với tất cả học trò, uốn nắn từ lời ăn, tiếng nói, cách cư xử ở đời… Cô là thần tượng của biết bao thế hệ nữ sinh.  Cô ơi, chúng em vất vả, lam lũ thì được nhưng nhìn cô như thế này em không chịu được, đau lòng lắm, cô ơi.

Đạp xe đi giữa lòng phố Sài Gòn nắng gắt nhưng lòng Lan như tê buốt. Hôm nay gặp cô học trò cũ ở hoàn cảnh này khiến Lan nhớ lại bao sự việc đau lòng mà chị đã chứng kiến.  Một hôm nhìn thấy một thày giáo dạy cùng trường đang cong lưng đạp chiếc xich lô chở khách ngược chiều gió, Lan phải lảng ngay, tránh cảnh gặp gỡ bẽ bàng của hai nhà giáo. Chị biết ông thày đó có năm đứa con thơ mà đứa bé nhất chưa đầy một tuổi.  Chỉ có lương giáo chức không thôi thì làm sao nuôi nổi từng ấy miệng ăn, thương làm sao! Rồi một lần chị gặp một cô bé trạc tuổi thằng Chương đứng thút thít ở gần cầu xa lộ.  Cô bé nhìn thấy chị thì oà lên khóc gọi tên cô Lan.  Hoá ra cô cũng là học trò nơi trường cũ chị dạy. Hỏi chuyện mới biết cô đi buôn than từ Long Thành về, bị cảnh sát kinh tế bắt được nên tịch thu hết hàng hóa, may là không bị bắt giam. Khổ quá, đúng là tính quẩn tính quanh, buôn bán lời lãí bao nhiêu với một nhúm than nếu đi chót lọt! Tuổi các em phải đang ngồi trong lớp học, bồi đắp kiến thức để sửa soạn cho tương lai. Lan lại nghĩ đến học sinh nơi trường mới.  Chị dạy đệ nhị cấp nhưng trường này chỉ có tới lớp Chín nên chị được xếp dạy hai lớp Tám và Chín.  Ngày nào loa nhà trường cũng phát động chương trình “Kế hoạch nhỏ”.  Các em phải từng nhóm, mỗi đứa một cái túi và một đôi que tre, đi bới gắp từng mẩu giấy vụn, từng mảnh bao ni lông rách dưới đường, trong bãi rác, trong khe rãnh… Em nào muốn đạt danh hiệu “Dũng sĩ kế hoạch nhỏ” thì về nhà vét hết sách báo cũ, thậm chí ngay cả những cuốn sách giáo khoa còn tốt nguyên đem nộp. Đầu óc đâu để học, lúc nào cũng nghĩ đến việc thi đua để làm dũng sĩ, để làm anh hùng lao động… Phận giáo chức cũng thê lương không kém, thiên chức nhà giáo bây giờ không phải là uốn nắn, dạy dỗ, vun trồng những đứa trẻ trở thành những người hữu dụng sau này.  Những khóa học chính trị nhồi nhét như vẹt để rồi thày cô lại lập lại như vẹt với học sinh, dù chính trong thâm tâm nhà giáo cũng biết đó là những điều dối trá. Dưới mắt học trò thày cô cũng eo sèo khi chia nhau từng miếng thịt, từng xâu cá lúc có loa gọi xuống nhận nhu yếu phẩm. Rồi vì sinh kế thày cũng phải chạy xe ôm, ngồi đầu đường làm nghề vá lốp xe, sửa đồng hồ, bơm bút bi. Cô lo bán qùa ở cưả trường hay đi bán quần áo cũ như Lan hôm nay. Thì giờ đâu, tâm trí đâu lo chuyện giáo dục, dạy dỗ. Còn đâu hình ảnh tốt đẹp của thày cô cho học trò chiêm ngưỡng, noi theo.

Lan nhớ đến số tiền mới có mà chị đã cẩn thận bỏ vào túi aó trong.  Nghĩ đến các con, chị tự nhủ, chị sẽ trích ra một chút, vào chợ mua một miếng thịt quay và ít rau.  Chị sẽ luộc mớ mì sợi do chị mới đổi túi bột mì được mua phân phối hôm qua.  Đãi các con một bữa ăn cho tươm tất. Tội nghiệp hai thằng con trai đang sức lớn phải bóp mồm bóp miệng, ăn như chẳng đủ no vì chúng nó cũng ý tứ nhìn trước nhìn sau. Không có bánh hỏi thịt quay như ngày xưa nhưng các con chị cũng sẽ có mì sợi luộc thay cho bánh hỏi.  Chị sẽ pha một tô nước mắm thật ngon với rau sống đủ thứ,  các con chị có một bữa ăn cải thiện, mì luộc thịt quay ngon lành.

Đỗ Dung

THƠ ĐẦU THÁNG TƯ. – CAO MỴ NHĂN

Thơ ươm tuyết nguyệt phong hoa

Tình sầu diễm tuyệt như là núi sông

Yêu hơn mưa lũ ngập đồng

Anh trong huyễn mộng đầy lòng em thôi

*

Vẫn anh bẻ kiếm bên trời

Mây trôi đáy nước tuyệt vời nhớ em

Mùa xuân mang hết thần tiên

Về nhân gian để cho em tặng mình

*

Khói rừng lại ngỡ lửa binh

Quan san ngay thủa chiến chinh lụn tàn 

” Mai ta đi dọc Việt Nam

Tìm tên chiến hữu viết tràn non cao  

*”

Xa đưa tiếng trúc tiêu dao

Áo xanh xẻ đá làm đau hồn vàng  

Quyên ca khản giọng cuối đường

Tháng tư bao nét sầu thương vỡ nguồn …

CAO MỴ NHÂN (HNPD)
    1 – 4 – 2024

GIAO CHỈ SAN JOSE

Bài số 1, Quốc Hận 2014

Xem tiếp bài số 2  (The heroes next door)

Tháng 4 và bia đá tưởng niệm.

Bài viết năm 2014 của Giao Chỉ. San Jose.

Lễ khánh thành bức tường tưởng niệm bảy vị anh hùng tuẫn tiết 30 tháng tư 1975 tổ chức 10 giờ sáng thứ bảy ngày 5 tháng 4-2014. Tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose CA 95112. Lối vào chính số 633 trên đường Phelan San Jose. Tôi riêng nghĩ rằng dù gọi là bức tường nhưng ý nghĩa như một mộ bia tập thể cho 7 vị anh hùng. Gọi là khánh thành nhưng mang hình thức một ngày tang lễ muộn màng gần nửa thế kỷ. Tôi viết bài này tặng cho các bạn trẻ đã hoàn tất một công tác ý nghĩa từ cả hai cõi âm dương. Người góp công đầu là cô Hoàng Mộng Thu.

Tháng tư 75, năm cùng tháng tận.

Tháng 4 năm 2014 tại Hoa Kỳ tôi ghi lại chuyện 39 năm về trước. Cuối tháng 12 năm 1974  Bắc quân dốc toàn lực tổng tấn công miền Nam. Trận mở đầu thăm dò đánh Phước Long. Địch vừa đánh vừa nhìn qua Hoa Thịnh Đốn. Hoa Kỳ án binh bất động. Sau Paris, tù binh đã trở về, quốc hội Mỹ quay lưng nhìn về hướng khác. Khi Sông Bé, thị trấn đầu tiên của Nam Việt Nam kêu cứu. Saigon chỉ còn trong tay một phần của liên đoàn 81 để gửi lên tiếp viện. Những người lính biệt kích anh hùng mỏi mệt vừa từ mặt trận Phước Thành được kéo về tưởng chừng sau 3 tháng hành quân nay tạm nghỉ. Nào ngờ lại được trực thăng vận xuống giữa vùng lửa đạn để đánh trận tuyệt vọng tại Phước Long. Ngày 6 tháng 1 năm 1975 Phước Long hoàn toàn thất thủ. Đây là trận mở đầu cho cuộc chiến tranh kết thúc. Kể từ Genève 54 chia đôi đất nước, sau 21 năm từ chiến tranh chính trị đến chiến tranh quân sự, miền Nam lại thua trận chỉ trong 3 tháng mở đầu của năm 1975.

Sau Phước Long, Saigon trải qua cái tết 75 buồn bã rồi cùng một lượt các chiến trường nổ súng. Ngoại trừ miền Tây tạm yên, các mặt trận đều bị tấn công. Từ miền Đông, lên cao nguyên, xuống duyên hải và ra miền Trung. Năm sư đoàn cộng sản tấn công Ban Mê Thuộc ngày 1 tháng 3-1975. Ngày 8 tháng 3-1975 thêm 5 sư đoàn cộng sản tấn công Huế, cùng 1 lượt 3 sư đoàn đánh vào Quảng Ngãi.

Riêng Ban Mê Thuộc hoàn toàn do cộng sản kiểm soát ngày 14 tháng 3-1975. Qua ngày hôm sau tổng thống Nguyễn văn Thiệu ra Cam Ranh đưa quyết định bất hạnh nhất của đời binh nghiệp khi ra lệnh rút quân đoàn II. Tiếp theo là một loạt các lệnh bất thường cho quân đoàn I.

Hà Nội vừa đánh vừa thăm dò Hoa Thịnh Đốn. Saigon vừa rút lui cũng vừa thăm dò Hoa Thịnh Đốn.

Mọi việc không còn như xưa. Ngân khoản viện trợ cuối cùng của Hoa Kỳ chỉ đủ dành để cất lều và dự trù nuôi ăn cho hàng ngàn người tỵ nạn đến Mỹ. Qua tháng 4 phòng tuyến cuối cùng của Saigon tan vỡ tại Xuân Lộc. Sau khi ban hành những quyết định sai lầm tai hại khôn cùng, tổng thống Thiệu từ chức với bài diễn văn oán trách đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng ông cũng vẫn được đồng minh chở đi kịp thời ra khỏi nước. Phó tổng thống Trần văn Hương lên cầm quyền cố giữ cho đủ 1 tuần rồi thể theo yêu cầu của quốc hội giao quyền cho đại tướng Dương văn Minh.

Lúc đó nước đã đến chân, không còn giải pháp nào để lựa chọn. Hải quân VNCH trước khi ra khơi lần cuối đã cử đề đốc tham mưu trưởng Diệp Quang Thủy lên gặp ông Minh để mời xuống tàu. Đại tướng Minh với chút khí phách Nam Kỳ đã từ chối để ở lại nhận ngàn cân tủi nhục. Lúc đó là chiều 29 tháng 4-1975.

Cũng vào chiều 29 tháng 4-1975 được tin vợ con đã vào Tân Sơn Nhất để di tản, tướng Phạm văn Phú, tư lệnh quân đoàn II uống thuốc tự vận tại nhà. Trên đường vào phi trường, được tin chồng tự vẫn, bà Phú và con quay trở về đưa chồng vào nhà thương Đồn Đất (Grall).

Sáng 30 tháng 4 khi tướng Minh còn đang soạn bài kêu gọi buông súng, tướng Phú đã qua đời. Ông chết trước khi có lệnh đầu hàng. Tướng tư lệnh quân đoàn II tự vẫn để trả món nợ của riêng ông về trách nhiệm mặt trận cao nguyên.Tướng Phạm văn Phú, nguyên là tù binh trận Điện Biên Phủ, quê Hà Đông, khi chết ông 47 tuổi. Ông ra đi trước khi chiến tranh chấm dứt được vài giờ. Gia đình đã trở lại chôn cất ông và sau đó kẹt lại tại Việt Nam.

Bia đá tưởng niệm.

Những cái chết anh hùng.

Trong lịch sử kháng Pháp của dân tộc Việt đã có biết bao nhiêu anh hùng tuẫn quốc. Năm 1867 trong Nam có cụ Phan thanh Giản tự vẫn để nhận tội làm mất 3 tỉnh miền Tây. Năm 1873 cụ Nguyễn Tri Phương tự vẫn ở ngoài Bắc, tiếp theo năm 1882 tổng đốc Hà Nội, cụ Hoàng Diệu tự vẫn vì không giữ được thành.

Chuyện bây giờ ở thời cận đại là cái chết của các anh hùng Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 4-1975. Trong cái tháng 4 oan nghiệt đó hàng trăm quân cán chính đã tự vẫn. Tuy nhiên để ghi nhận vào bảng vàng, bia đá, chúng ta cần có đủ hình ảnh, nhân chứng, tài liệu thật chính xác.

* Cái chết mở đầu trước giờ cuối cùng của cuộc chiến là của thiếu tướng Phạm văn Phú. Tiếp theo ngay sau khi đại tướng Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng trưa 30 tháng 4-75 thì người tự vẫn công khai và đầu tiên là trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long, quê ở Huế 56 tuổi. Ông tự tử bằng súng lục lúc 11:30 ngay trước tượng thủy quân lục chiến Việt Nam, ngó qua quốc hội. Những người vô danh và anh nhà báo Pháp chở xác ông vào nhà thương Đồn Đất của Pháp. Tình cờ tướng Phú cũng chết tại nhà thương này vào buổi sáng cùng ngày.

Trong khi tại Saigon có 2 chiến binh tự sát thì trung tá Đỗ Đình Vượng dẫn trung đoàn về bộ tư lệnh sư đoàn 5 tại Bến Cát. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ tư lệnh sư đoàn mời các sĩ quan tập trung về ăn cơm trưa. Mọi người không còn ai bình tĩnh mà ăn uống. Riêng ông Vỹ ăn đủ 3 bát cơm thường lệ rồi cho lệnh các đơn vị trưởng tùy nghi. Ông lui vào phòng riêng dùng súng tự vẫn. Ông là người thứ ba.

Tướng Lê Nguyên Vỹ quê Sơn Tây chết năm 42 tuổi. Vợ con di tản qua Mỹ mấy tháng sau mới biết tin. Gia đình sau này bốc mộ đem về quê cũ tại Sơn Tây, Bắc Việt. Bàn thờ ông để trong đình làng ghi rõ là Lê tướng công, tư lệnh sư đoàn số 5 quân đội Saigon.

Người thứ tư tuẫn tiết bằng thuốc độc là chuẩn tướng Trần văn Hai tư lệnh sư đoàn 7 tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Trước khi ra đi vào chiều 30 tháng 4-1975 tướng Hai có điện thoại từ giã tướng Hoàng văn Lạc tư lệnh sư đoàn 9. Ông Hai quê Gò Công, qua đời năm 50 tuổi.

Người thứ năm là tướng Lê văn Hưng, tư lệnh phó quân đoàn 4, tự vẫn bằng súng vào buổi tối 30 tháng 4-1975. Ông Hưng lúc qua đời có đông đủ vợ con và các sĩ quan cận vệ. Lúc đó khoảng 9 giờ tối. Ông quê ở Gia Định và ra đi năm 42 tuổi.

Vị tư lệnh quân đoàn 4, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam đã sống 1 ngày 30 tháng 4 rất dài. Riêng ngày 29 ông đã nhận lệnh đón phái đoàn chính phủ VNCH từ Saigon xuống, nhưng rồi lệnh hủy bỏ. Suốt ngày 30 tháng 4, ngay sau lệnh đầu hàng ông đã có dịp gặp phái đoàn cộng sản 2 lần nhưng rồi lại cho biết chưa sẵn sàng. Chiều 30 tháng 4 ông còn đi thăm thương binh tại quân y viện Phan thanh Giản. Qua đêm không ngủ, sau khi thắp hương thỉnh chuông lạy Phật, tướng Nguyễn Khoa Nam lấy súng lục tự tử vào sáng 1 tháng 5-1975. Ông Nam sinh quán Thừa Thiên, chết độc thân năm 48 tuổi.

Người sau cùng ghi danh trên bảng tưởng niệm là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông Cẩn chiến đấu đến giờ phút cuối trong ngày 30 tháng 4-1975 và bị bắt tại Chương Thiện. Ông là một trong các sĩ quan đã tiếp tục chiến đấu. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị bắt giam, bị tra tấn hành hạ suốt 4 tháng. Ông bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 4 tháng 8-1975. Ông Cẩn quê Rạch Giá, khi qua đời trẻ nhất 37 tuổi. Cùng bị xử bắn có 4 vị quận trưởng Chương Thiện và các trưởng ty. Tiểu khu Chương Thiện quyết chiến đến giây phút cuối nên bị xử bắn nhiều nhất.

Bia đá tưởng niệm.

Bia Đá ngàn thu.

Trong chiến sử thế giới, hai bên tử sĩ hy sinh là chuyện thường tình. Khi nước Nhật bại trận, các sĩ quan theo tinh thần võ sĩ đạo truyền thống, nhiều người tự vận. Chuyện này đã được thế giới biết đến.

Tuy nhiên, sau chiến tranh Việt Nam, con số sỹ quan, và chiến binh tự vẫn hàng trăm người, quả thực là điều đáng kính phục. Đặc biệt là cái chết của cấp chỉ huy. Xúc động vì những hy sinh cao cả đó, biệt đoàn văn nghệ Lam Sơn tại San Jose đã vận động gây quỹ và lập bức tường tưởng niệm để hình ảnh các anh hùng QLVNCH được lưu lại với bia đá ngàn thu. Nguyên khối đá chính nặng 8 ngàn pounds. Tất cả 3 khối đá, bệ đá và khối cement chân bệ tổng cộng trên 30 ngàn tấn. Trên bia đá khắc hình ảnh 7 vị anh hùng. Hai bên là lời tri ân bằng Anh ngữ và Việt Ngữ. Khối đá quý như là 1 loại cẩm thạch vĩ đại từ Ấn Độ được cắt sẵn theo kích thước và chở qua California. Tại xưởng làm mộ bia có máy tạo hình. Lại thêm chuyên viên từ Phi Luật Tân làm bằng tay hình ảnh 7 vị anh hùng VNCH. Phía sau là hình bóng các chiến binh Việt Nam.

Bia đá tưởng niệm.

Lễ khánh thành

Buổi lễ khánh thành là 1 ngày hết sức đặc biệt với sự tham dự của các quan khách Việt Mỹ. Ban tổ chức đã phổ biến thư trên báo chí, radio, TV và trên internet. Địa điểm tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose- CA 95112. Lối vào trên đường Phelan từ 10 giờ sáng thứ bảy ngày 5 tháng 4-2014. Quý bà, quý cô mặc áo dài, quý vị cựu quân nhân mặc quân phục. Chương trình  thực hiện bằng Anh và Việt ngữ.

Mở đầu nghi lễ chào cờ mặc niệm do toán quốc quân kỳ của US Army. Ban quân nhạc Hoa Kỳ hòa tấu quốc ca Hoa Kỳ và quốc ca Việt Nam Việt Nam Cộng Hòa. Phần nghi lễ quan trọng nhất là việc mở các tấm vải phủ trên bức tường. Ban tổ chức thực hiện 7 bóng bay lớn có viết chữ thảo danh tánh các vị anh hùng.Theo thứ tự ngày giờ hy sinh từng trái bóng và hương linh anh hùng sẽ bay lên trời xanh.

Mỗi bóng bay lên là có súng nổ. Khởi đầu là tướng Phạm văn Phú và sau cùng là đại tá Hồ ngọc Cẩn. Phần ý nghĩa nhất cần ghi nhận là lần đầu tiên ban tổ chức mời được tất cả đại diện các gia đình của 7 vị anh hùng từ bốn phương về tham dự. 7 vị tướng lãnh và cấp chỉ huy có danh trên bảng tưởng niệm đã trở thành các anh hùng bất tử tượng trưng cho cả QLVNCH. Đặc biệt các cựu chiến binh của quân đoàn 4, của sư đoàn 7, của tiểu khu Chương Thiện, của sư đoàn 5 BB, của cảnh sát quốc gia đều có thể tìm thấy ý nghĩa thiêng liêng, một chút riêng tư trong tình huynh đệ chi binh.

Bài báo này xin gửi đến các bạn như là 1 bản báo cáo và 1 lời ân tình.Bên cạnh bức tường tưởng niệm, còn có 1 biểu tượng hết sức ý nghĩa. Có thêm phần triển lãm một mộ bia lấy từ nghĩa trang quân đội đem về năm 2004.

Nếu chưa từng về thăm nghĩa trang quân đội, các bạn sẽ có dịp ghé đến đây thắp 1 nén hương cho người anh hùng tử sĩ vô danh. Một bia mộ đặt ngay tại Việt Museum nhân dịp khánh thành bức tường tưởng niệm. Đây là lễ giỗ 30 tháng 4 dành cho các anh hùng tuẫn tiết. Lễ giỗ muộn màng mà cộng đồng làm chung với gia đình tang gia 39 năm sau. Mọi người đến 1 lần với buổi lễ và sẽ nhớ suốt đời vì đã mang ý nghĩa thiêng liêng nối kết mối liên hệ giữa người ra đi trong lòng đất quê hương và người ở lại hải ngoại đến giây phút này. Bia đá đợi chờ, 39 năm sau.

I SỐ 2,

NHỮNG NGƯỜI HÀNG XÓM ANH HÙNG (The heroes next door)                                                                                            Giao Chỉ, San Jose.    

Lang thang đất lạ đến bao giờ? Trong trách nhiệm hoàn tất Viện bảo tàng thuyền nhân và Việt Nam Cộng Hoà chúng tôi đã xây tượng đài tưởng niệm và có bài viết về những tướng lãnh anh hùng tuẫn tiết 50 năm trước. Lại thêm có một danh sách do quý vị công phu ghi nhận các chiến binh tự vẫn mới nhận được. Bây giờ xin tâm sự chuyện riêng.Tháng tư năm 2024, chỉ còn một năm nữa là nửa thế kỷ. Anh chị em chúng ta, đã cùng trải qua biết bao hoàn cảnh. Nhưng nhà nào mà không mất mát. Riêng phần tôi đã nghĩ rằng m ình trải qua nửa thế kỷ trầm luân. Bây giờ ngồi viết Tâm Sự Vụn. Thời gian cuối năm 1975 gia đình tôi trôi dạt về xứ Springfield của tiểu bang Illinois, ông Giao Chỉ đi làm thợ sơn gầm xe tải để chống rỉ sét. Bên Cali có ông thi sĩ Cao Tần xuất bản tờ Bút Lửa. Ông viết ra những lời thơ bất hủ nói đến những chiến binh Việt Nam Cộng Hoà độc thân lạc đường vào đất Mỹ. Các chàng trai chiến binh tuổi 20 chưa vợ hay bỏ vợ ở quê nhà. Các anh nhớ về binh chủng , nhớ thời chinh chiến và nhớ gia đình nên đã được thi sĩ tặng cho câu thơ bất hủ: Hỡi người chiến binh một đời anh dũng, anh lang thang đất lạ đến bao giờ? Câu thơ cay đắng nghìn trùng . Câu thơ vô cùng nghiệt ngã trở thành tiếng chim gọi đàn đem ông Giao Chỉ 40 tuổi về đất San Jose. Rồi những anh lính già gặp nhau cùng họp đoàn với những anh lính trẻ. Sống bên nhau trên đất mới hầu hết những quân nhân một thời binh lửa đều vui vẻ lễ độ và hiền lành. Bỏ lại sau lưng tiếng đại bác và những đêm hỏa châu rực lửa. Biết bao lần họp mặt vẫn nhớ về tình chiến hữu. Kẻ lưu vong, người tù đầy. Bước chân đi, mặt còn nhìn lại. Nơi quê nhà xiềng xích trông theo..Chúng tôi họp mặt và cùng nhau xây dựng cộng đồng. Gặp ông Bùi đức Lạc thành lập Gia đình Mũ Đỏ. Nguyễn quan Vĩnh và Lê văn Thặng là có hội Không quân. Rồi đến hội Hải Quân. Hội cựu quân nhân, hội phụ huynh. Hướng đạo.Chúng tôi thành lập cộng đồng Việt tại San Jose. Hết sức hãnh diện nêu cao lý tưởng Xây dựng Cộng đồng và Giải phóng quê hương.

Bạn bè hàng xóm mới. Thời kỳ cuối thập niên 70 chúng tôi ở tuổi 40, bạn bè nào cũng toàn là bạn mới. Chỉ có vài ông bạn cùng khóa ở tuổi trung niên. San Jose trở thành một xóm làng mới mẻ và anh em chưa biết rõ về quá khứ của nhau.. Phải đến thập niên 90 mới có dịp tìm hiểu thêm nên ghi nhận biết bao nhiêu bạn bè đã trải qua những thời binh lửa đoạn trường. Bác trung tá Đỗ Hữu Nhơn đã từng nhảy vào chiến khu của cha Hóa lúc còn là trung úy.Trung tá phi công Nguyễn Quan Vĩnh đã bao phen đánh trận Bình Giả Đồng Xoài không yểm cho cả Nhảy Dù cùng Thủy quân Lục chiến. Anh cũng chính là anh hùng không quân được tuyên dương và dẫn phái đoàn đi du ngoạn Đài Loan. Còn bác pháo binh dù Bùi đức Lạc đã từng được ông bạn lữ đoàn trưởng hết lòng khen ngợi đã bao phen đi sát với lữ đoàn Mũ Đỏ trên khắp chiến trường. Chúng tôi sống với nhau trong xóm làng San Jose mà phải lâu năm mới biết đây chính là các người anh hùng hàng xóm. Kiểu Hoa Kỳ vẫn gọi The heroes next door. Những anh hùng ở nhà bên cạnh. Ở miền đất điện tử hiền lành trong tiểu bang CA, chúng tôi có may mắn đóng vai thân hữu với các giới chức dân cử địa phương. Cũng chẳng phải ảnh hưởng nhiều về đóng góp tài chánh hay vận động cử tri thân hữu. Chính thức chỉ là tình nghĩa lâu dài.

Tình thân dân cử địa phương

Ngày mới đến gặp cô Zoe Lofgren là sinh viên luật trẻ tuổi làm tình nguyện cho vị dân cử địa phương. Quen biết lâu dài trên 30 năm cho đến khi người đã thành bà dân biểu lão thành và kỳ cựu trong nghị trường. Trường hợp ông Dave thượng nghị sĩ CA và bà giám sát viên Cindy của County cũng là cánh quen biết từ khi quý vị mới bước chân vào các chức vụ học khu không lương.  Nhờ sự quen biết trên nhiều thập niên nên Tết năm nay Giáp Thìn 2024 chúng tôi lập được thành tích đầy hãnh diện. Nhân danh cơ quan dịch vụ di dân tị nạn tại địa phương trên 48 năm chúng tôi đã yêu cầu chức quyền dân cử tuyên dương 11 nhân vật cộng đồng.IMG_2484[1].JPG

San Jose City:

Thị trưởng thành phố San Jose tuyên dương 2 nhân vật.Bà Nguyễn Thị Đào và mục sư Hà Cẩm Đường.Thành tích phi thường có một không hai là người nữ quân nhân yêu thương Tượng Lính nhân dịp về tảo mộ ngh ĩa trang Biên Hòa đã tìm cách dựng lại bức tượng Tiếc Thương và đem được qua Mỹ. Tượng được đặt tại Việt Museum. Phần mục sư Hà Cẩm Đường vốn là cựu quân nhân vượt biển tốt nghiệp mỹ thuật đã đem cống hiến tất cả các tác phẩm hội họa về thuyền nhân cho viện bảo tàng.

Santa Clara County

Tiếp theo bà Giám sát viên Cindy của Santa Clara County đã tuyên dương hai gia đình các anh Lại Đức Hùng và Phạm Phú Nam. Cả hai ở tuổi trung niên đã đóng góp trên 30 năm công tác cộng đồng cho thung lũng điện tử San Jose. Hai anh ra đi đã để lại rất nhiều thương tiếc cho bà con ở lại.

State of California

Lên đến phần tưởng lệ từ thủ đô CA tại Sacramento, thượng nghị sĩ Dave Cortese trao danh dự cho 3 vị trung tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trung tá lực lượng đặc biệt Đỗ Hữu Nhơn, trung tá pháo binh nhảy dù Bùi Đức Lạc và trung tá phi công Nguyễn Quan Vĩnh. Đây là lần đầu tiên từ quốc hội tiểu bang vàng CA có ngoại lệ tuyên dương những người anh hùng trong chiến tranh Việt Nam mà vẫn còn tiếp tục hoạt động cho cộng đồng Việt tại Hoa Kỳ.

Quốc Hội Hoa Kỳ

Sau cùng đến phần tuyên dương kỳ diệu do bà dân biểu niên trưởng của chính trường Hoa Kỳ lần đầu tiên tuyên dương trường hợp anh hùng đã ra đi và anh hùng còn ở lại. Bản tuyên dương Việt Dzũng và vợ là Nguyễn Hoàng Anh với thành tích tuyệt vời. Các bạn trẻ này đã để lại cho người Việt hải ngoại những món quà tinh thần để gửi về quê hương. Đôi nạng của Việt Dzũng đã được người vợ Hoàng Anh và tổ chức Hưng Ca Huỳnh Lương Thiện San Fran đem về đặt tại Việt Museum. Bản tuyên dương thứ hai dành cho một nhân vật rất đặc biệt. Sĩ quan QLVNCH Huỳnh Công Ánh đã từng được mang danh chiến sĩ anh hùng và trở thành người tù bất khuất trong trại tù cộng sản. Thành tích đáng kể là ông đã vượt ngục và vượt biển thành công sau bao nhiêu gian khổ.

Qua đất Mỹ ông trở thành người thành công xây dựng sự nghiệp và thành tích đáng kể khi ông trở thành nhà tranh đấu bằng văn hóa qua tổ chức Hưng ca. Người thứ ba được quốc hội Hoa Kỳ tuyên dương là đại úy Nguyễn Hữu Luyện, gia nhập quân đội năm 1954 tại trường võ bị Đà Lạt và về phục vụ binh chủng nhảy dù. Năm 1966 đang là huấn luyện viên biệt kích nhảy Bắc, ông tình nguyện hướng dẫn các học viện cảm tử nhảy toán ra Bắc. Cũng như nhiều toán viên thử thách trắc nghiệm, toán của ông không thành công và đại úy Luyện trở thành người tù biệt giam suốt 21 năm. Ngay sau khi được qua Mỹ ông đã trở thành sinh viên cao học của đại học Hoa Kỳ tốt nghiệp ở tuổi cao niên. Ông năm nay đã 91 tuổi được bà dân biểu cao niên tuyên dương. Người sau cùng được tuyên dương cũng là nhân vật không còn nữa. Bản tuyên dương được bà dân biểu chính thức đọc trước cử tọa nguyên văn như sau. Certificate of special congressional recognition presented on Feb. 17-2024 to admiral Hoàng Cơ Minh for his nobility bravery and endurance commitment to his country in the pursuit of freedom.

Giấy chứng minh việc công nhận đặc biệt của Quốc hội trao vào ngày 17 tháng 2-2024 dành cho đề đốc Hoàng Cơ Minh vì lòng dũng cảm cao cả và sự cam kết bền bỉ với đất nước trong việc theo đuổi Tự Do.   Ký tên Zoe Lofgren, thành viên quốc hội Hoa Kỳ  

   Bà Zoe Lofgren đã từng được mệnh danh là nhà đấu tranh số một cho dân sinh Hoa Kỳ và dân quyền tại Việt Nam. Rất nhiều các chiến sĩ dân quyền Việt Nam đã được bà can thiệp và đưa qua Mỹ cũng như bước ra khỏi nhà tù tại Việt Nam.Tuy nhiên bà không thể biết ông Minh là ai. Với tình thân cá nhân và nhân danh Viet Museum, chúng tôi không nói chuyện với bà dân biểu hôm nay. Xin trở lại thời xưa, tôi nói với cô sinh viên luật khi cô còn đang tập sự và nghiên cứu cả đống hồ sơ quốc hội muốn tiễn đưa tổng thống Nixon. Xin kể rằng ngày quốc hận 2023 bà đích thân đọc tiểu sử các tướng lãnh Việt Nam tuẫn tiết tổng cộng 5 người. Có biết bao tướng lãnh Việt Nam bị tù đầy và bao nhiêu người khác di tản kịp thời tại Hoa Kỳ. Nhưng trước sau chỉ có 5 người tuẫn tiết.Tôi muốn có thêm hình ảnh của đề đốc Hoàng Cơ Minh là người thứ sáu trong Việt Museum. Khi loan tin chuyện ông Minh, không thấy tiếng dèm pha hay tán thưởng. Duy chỉ có bác Hoàng Cơ Lân bên Pháp tỏ ý vui mừng vì ông Minh lại là bà con bề trên của ông bác sĩ Lân.  

Trường hợp Hoàng cơ Minh

434864358_7987828237913717_6205863428082247246_n.jpg

                              Ông là người duy nhất tự vẫn trên đường trở về. Thưa quý vị chúng tôi sống đến ngày hôm nay để trả nợ ân tình giữa anh em hàng xóm láng giềng. Đất nước biết bảo anh hùng, thôi thì ghi danh được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ông tướng Nguyễn Khoa Nam đến tối 30 tháng tư năm 1975 đã được tin tướng Phú quê Hà Đông 47 tuổi đã ra đi tại Sài Gòn vào buổi sáng, tướng Lê Nguyên Vỹ 42 tuổi quê Sơn Tây miền Bắc chết vào buổi trưa ở Lai Khê. Tướng Trần văn Hai 50 tuổi quê Gò Công tự vẫn tại Đồng Tâm và tướng Lê văn Hưng 42 tuổi quê Gia Định chết vào buổi tối ngày oan nghiệt tháng tư 49 năm xưa. Vị tư lệnh Nguyễn Khoa Nam quê Thừa Thiên đất Huế đã trải qua một đêm không ngủ với câu hỏi lại chính mình.  Đi để làm gì? Thắp một nén hương, thỉnh một hồi chuông trên bàn thờ Phật.Một phát súng nổ.Ông Nam là vị tướng thứ 5 sau cùng ra đi vào sáng 1 tháng 5-1975. Bây giờ tôi muốn xin đại diện quốc hội Hoa Kỳ tuyên dương vị tướng thứ 6. Đề đốc Hoàng cơ Minh, người đã gián tiếp làm MC cho bản trường ca về chuyến hải trình cuối cùng cứu đồng bào vượt biển và đem trọn vẹn đoàn tàu trả lại cho đồng minh Hoa Kỳ. Với khẩu hiệu Kháng chiến hay là chết. Ông là vị tướng duy nhất tự tử trên đường trở về. Hoàng cơ Minh quê Hà Nội chết bên Hạ Lào nhưng sau cùng kẻ thù đã đem xác ông về lại quê hương. Ông là vị tướng duy nhất được nước Mỹ tuyên dương sau nửa thế kỷ di cư tị nạn trầm luân

Nhân ngày cảm ơn nước Mỹ năm 2024 chúng tôi có được 11 bản tuyên dương thân hữu, 10 bản để tại Việt Museum. Các phó bản đều gửi cho các hàng xóm anh hùng. Chỉ riêng bản của đề đốc Hoàng Cơ Minh chưa biết làm sao gửi cho phu nhân.

Xin trân trọng báo cáo: Chúng tôi đã giải xong món nợ ân tình nửa đời người lưu vong. Tuyên dương 11 người thay cho cả ngàn anh hùng chung quanh chúng ta. Cuộc sống thừa không vô ích. Hỏi anh lính già một đời vất vả, mày lang thang đất lạ đến bao giờ. Mai này về thăm quê vợ sẽ gặp ông Nam ở Cần Thơ. Ông hỏi Đi để làm gì ? Sẽ có sẵn câu trả lời. Đâu có phải ra đi mà không biết làm gì cho hết nửa đời sau…

 Xin trân trọng báo cáo. Giao Chỉ San Jose.–

Giao Chi San Jose.   giaochi12@gmail.com  (408) 316 8393




April Poem for My Homeland, Vietnam / Bài Thơ Tháng Tư Cho Quê Hương – THƠ Trường Thiên -Song Ngữ Anh Việt – Thi Sĩ, Dịch Giả VƯƠNG THANH

Hình minh họa: nguồn internet

April Poem For My Homeland, Vietnam / Bài Thơ Tháng Tư Cho Quê Hương
by Vương Thanh

April has come round again
Bringing blooming flowers
And lush green across the land.
This morning, sunny blue sky
With soft patches of white clouds
To relax the wandering mind…

*
Quay vòng lại tháng tư rồi
Muôn hoa nở rộ, đất trời thắm xanh
Sáng nay trời đẹp, nắng hanh
Kia làn mây trắng nhẹ nhàng bay bay

*
Somewhere amidst the tall fir trees,
Birds are tweeting to each other,
A music concert of harmony in nature
Providing a delightful aural feast
To lighten one’s heavy spirit.

*
Tiếng chim lảnh lót rừng cây
Đây dòng suối nhạc hòa hài thiên nhiên
Nhẹ nhàng âm hưởng triền miên
Nghe lòng êm dịu nỗi niềm đầy vơi …

*
Willow branches sway gently by the lake
Magnolia petals dreamy white and delicate
Cherry blossoms, a cheerful pink, greet the wind
A perfect day and setting for poetic dreams.

*

Mơ màng liễu rũ hồ soi
Mộc lan trắng mịn, hồng tươi anh đào
Đón xuân, hoa mỉm cười chào
Một ngày tuyệt đẹp … đưa hồn vào …cõi thơ

*

Enchanted Spring is here in April
The earth vibrantly alive with verdant growth
Nature smiles brightly with flowers
Scent of poetry in the air

Yet, my heart’s filled with sadness
This month, it was, many years ago,
From our beloved homeland, we fled.

*
Nàng Xuân diễm ảo đến rồi
Tháng tư, mặt đất nảy chồi mầm non
Thiên nhiên rạng rỡ lục, hồng
Hương Thơ man mác khắp cùng không gian…
Sao lòng ta vẫn buồn mênh mang
Năm xưa cũng tháng tư này,
Quê hương yêu dấu một ngày rời xa !…

*

Our homeland,

A land of peace-loving and enduring people,
A land of poets, of heroes and heroines,
A land rich with four thousand years of history
With a culture deeply rich in mythology and poetry,

But ravaged by wars, 

And the obsessive greed of our northern neighbor,
Who sought to rob us of our freedom and the fruits of our labor!

*

Quê Hương chúng ta,

Vùng đất của dân tộc kiên cường, yêu chuộng hòa bình
Vùng đất của thi nhân, anh hùng, liệt nữ
Với hơn bốn ngàn năm lịch sử trải dài
Với nền văn hóa ngát hương thi ca và huyền thọai
Nhưng bị cảnh tàn khốc của chiến tranh
từ lòng tham không đáy của láng giềng phương bắc

Họ muốn bóc lột sức lao động
Họ muốn cướp đi Tự Do của người Việt !

*

Vietnam, O Vietnam!

For centuries you had borne the chains of foreign domination
For centuries you have risen and fought against Chinese invasions

*

Việt Nam, Hỡi Việt Nam
Bao nhiêu thế kỷ chịu gông cùm ngoại tộc
Bao nhiêu thế kỷ vùng lên kháng chiến chống giặc Tàu

*

I can still hear
The echoes of Mê-Linh drums,

The calls to arms for men and women to fight for Freedom,
The thunderous stomp of white elephants, bearing women generals,
Chasing unwelcome invaders back to their borders.

*

Ta còn nghe
tiếng vọng trống Mê Linh,

kêu gọi người dân giành độc lập cho quê hương
Tiếng chân đàn voi như sấm sét hung cuồng
Trên lưng chúng những nữ anh hùng dân tộc
Rượt đuổi giặc xâm lăng trở về biên giới.

*

I can still see
In the waves of Bạch-Đằng river
The fire and smoke of many battles;
The river a dark red with blood of Mongol invaders,
The Mongol hordes that conquered China,
Were severely beaten time after time
By the Vietnamese people
United in Fighting Spirit As One Man!

*

Ta còn thấy,
trong sóng nước Bạch Đằng
Khói lửa chiến tranh
Dòng sông đỏ thẫm máu giặc Mông Cổ
Giặc Mông đó từng chinh phục Trung Hoa
đã nếm mùi thảm bại bao lần
dưới sự đoàn kết
Triệu Triệu Người, Lòng Như Một
Của giòng giống Lạc Hồng …

*
Vietnam, O Vietnam,

The land of elegant, modest, and brave women.
In peaceful time, she takes care of the family
During wartime, she’ll put on soldier clothes 

To fight the enemies.

Self-sacrificing is she, the Vietnamese mother
Always providing her children the best she can offer

Beautiful is the Vietnamese lady,
In her traditional ao-dai dress,

Showing her lovely figure in world fashion’s best.
Elegant and charming is the Vietnamese beauty

With voice sweet as music
and playful manners to heart-tease…

*

Việt Nam, Hỡi Việt Nam

Vùng đất của những người phụ nữ thanh lịch,

khiêm tốn và can đảm
Thời bình, họ chăm sóc gia đình
Thời ly loạn, khoác áo lính chống quân thù
Họ chăm lo và hy sinh cho con cái,
được những điều tốt đẹp nhất mà họ có thể làm

Ôi, người mẹ Việt Nam …

Tà áo dài tha thướt góp sắc hương cùng thời trang thế giới
Nét thanh lịch, vẻ kiều mỵ là giai nhân xứ Việt

Giọng êm như suối nhạc,
lời nói đoan trang, dịu dàng….

*
Vietnam, O Vietnam,

The land blessed with many beautiful sceneries.

In the North:

World-famous Ha Long bay and “Return Sword” lake,
Must-see sights for the world travelers to enjoy during their stay.

In the Central:

History becomes alive in a visit to the Hue palaces,
And from the boats on the Perfume River
With“opera-folk” singing carried by the wind,

Bring forth nostalgic memories and love for our fellow Vietnamese.

In the South:

The capital city Saigon bustles with vibrant life,
From early morning to past midnight,

With sidewalk food carts and small shops along the streets.
The lively sounds and sights of a city that never sleeps.
Nearby, the cities of NhaTrang and VungTau:
Destinations for the world’s most beautiful beaches…

*

Việt Nam, Hỡi Việt Nam
Vùng đất của danh lam, thắng cảnh

Miền Bắc:

vịnh Hạ Long tiếng tăm hoàn vũ

Hồ Hoàn Kiếm thắng cảnh “phải xem” cho du khách phương xa

Miền Trung:
Lịch sử như sống lại
khi viếng thăm cung điện Huế xưa
Từ những chiếc thuyền trên giòng sông Hương
Điệu hò Huế thoảng trong làn gió
Chở hoài niệm và tình yêu quê hương

Miền Nam:

Thủ đô Sài Gòn tràn sức sống
Từ sáng sớm đến quá nửa khuya

Những quán hàng rong, những tiệm hàng dọc theo phố xá
Náo nhiệt, sống động của thành phố không bao giờ ngủ
Gần đó, thành phố Nha Trang, Vũng Tàu

Nơi dừng chân khách du lịch đến những bãi biển tuyệt vời….

*

VietNam and Vietnamese,
The land and language of poetry,

Where musical intonation is inherent in the language,
Where the phrase “beautiful like a poem” is fairly common,
Where almost anyone you meet on the street,
May have written a few love poems
Or can easily recite many lines of popular folk verses.
It’s often said that every Vietnamese has the heart of a poet.

*

Việt Nam và tiếng Việt
Vùng đất và ngôn ngữ của thi ca
Trong ngôn ngữ đã chứa luôn nhạc điệu
“Đẹp như thơ” là câu nói phổ thông
Khi Bạn gặp một người Việt ngòai đường phố
Có lẽ người đó đã từng làm thơ
Hoặc thuộc lòng nhiều vần thơ nổi tiếng
Có câu nói là “mỗi người việt đều có hồn thi sĩ”

*

VietNam, O VietNam,

Homeland of poets, of self-sacrificing ancestors.
Throughout history, you had fought off all foreign invasions.

But now,

Our lands are no longer protected through battles,

But either sold or leased for decades to our millennial-old northern aggressor.

Until when, 

Will the Vietnamese people stand up and be united
To help the Motherland survive on the world’s map,
To protect our mother tongue and cultural heritage, 
For the future generations of the Vietnamese race.

*

Việt Nam, hỡi Vịệt Nam
Vùng đất của thi nhân, anh hùng liệt nữ
Mấy ngàn năm chống đuổi giặc xâm lăng

Nhưng bây giờ,

đất đai của chúng ta không còn được bảo vệ bằng binh lực
Mà lại đem cho thuê, bán cho bọn giặc xâm lăng

Biết đến bao giờ

người Việt cùng đứng dậy đồng lòng đoàn kết
giúp quê hương tồn tại mảnh dư đồ,
bảo vệ tiếng Mẹ  và di sản văn hóa thân thương
cho những thế hệ sau của giòng giống Lạc Hồng

*

Vương Thanh

04. 2013, English & Viet translation




Tác Phẩm Song Ngữ Chinh Phụ Ngâm & Vườn Hoa Thơ Nhạc Lạc Hồng – Thi Sĩ, Dịch Giả, VƯƠNG THANH (Bản Tặng Phương Hoa)




NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ -Giới Thiệu Sách Của Nhà Văn Phạm Gia Đại – KIỀU MỸ DUYÊN




THĂNG HOA CUỘC ĐỜI – Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng. Kỳ 48: Hoành Sơn Nhất Đới, Vạn Đại Dung Thân. Kỳ 49: Mở Nước Phương Nam. Kỳ 50: Rồng Bay Về Nam. Kỳ 51:Trịnh Nguyễn Phân Tranh

THĂNG HOA CUỘC ĐỜI

Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng

K 48 Hoành Sơn Nht Đi, Vn Đi Dung Thân

 Núi Yên Tử xanh ngát, từng cụm mây trắng, hồng lãng đãng phủ trên đầu theo gió xuân tan dần khi ánh sớm mai chiếu rọi. Những cụm tùng già nua với các nhánh gãy bởi thời gian còn vương vấn níu kéo tạo biết bao khúc khuỷu đu đưa giữa trời mây lơ lửng nửa chừng. Từng bầy sơn ca túa về từ khắp nẻo như chào đón ánh thái dương vừa chớm bừng lên.

Bến sông Tuyết giang rẽ giữa mạn trung du đã có kẻ đợi đò từ lúc chưa hừng sáng. Họ là những cư dân trong vùng hoặc vài kẻ lãng du đây đó trong chốn hồng trần. Hôm ấy là tiết Thanh minh, khí trời dìu dịu làm ngây ngất lòng người, lại càng se se lâng lâng những tâm hồn thoát tục đang muốn tìm một nơi ẩn dật, tiêu dao thú sơn thủy hữu tình.

Trên bờ sông, ánh thái dương chiếu tia nắng vàng nhạt xuyên qua từng bước chân lữ hành tạo chiếc bóng ngả dài di động về phương tây cùng nhịp nhàng, đều đặn dìu dặt với đôi chân lão đạo sĩ đang tiến đến dãy núi Ngọa sơn. Con đường đất vốn phủ một lớp bụi vàng bị sương khuya rơi hạt làm ướt dẻo mặt lộ tạo những dấu chân in đậm nét khoang dung của lão đạo sĩ như triện ấn vừa đóng xuống chưa kịp ráo mực nơi chốn đương quyền.

Đạo sĩ, vâng, đúng là một đạo sĩ, người lão cao vừa tầm thước, vóc dáng còn sót nét lẫm liệt của thời hùng anh cái thế, nhưng đôi mắt không dấu sự phúc hậu nhân từ của bậc đức hạnh cứu nhân độ thế. Đầu tóc lão búi theo hình trái tim buộc bởi miếng vải điều vắt vẻo ngang vai trong tư thế đường bệ. Chiếc áo đỏ ngả sang màu nâu nhạt đã nói lên dấu tích của kẻ từ quan chán mùi trần tục. Đôi mắt lão đạo sĩ chợt nhìn lên bầu trời, ngừng một giây qua cách suy tư rồi như bừng sáng lên trong ý nghĩ, lão quay sang thúc giục chú tiểu đồng đang lửng thửng bước sau:

-Nào nhanh lên, có khách đang đợi ta ở am Long Vân sơn môn đấy!.

Dứt lời thì lão đạo sĩ đã cận kề bến đò, chiếc ghe cắm sào xôn xao rước khách thương hồ, chờ kẻ cuối cùng lên khoan, thầy trò lão đạo sĩ mới tiếp tục bước xuống ngồi sát mũi ghe. Dòng nước êm ả đưa đẩy chiếc thuyền xuôi chiều dưới nắng ban mai hòa nhịp với đôi bàn tay rắn chắc của cô lái đò duyên dáng khua động cặp chèo lướt nhẹ trên sông.

Giữa sông nước hữu tình đón nhận buổi bình minh rạng rỡ, lão đạo sĩ ngồi yên trong chốc lát chợt như bất thần nhìn nước chảy rồi khe khẽ than rằng: “Lại một trận tranh bá đồ vương!!!”.

Đò cập bến nãy giờ, khách lên bờ đã hết mà đạo sĩ vẫn còn ngồi đấy đăm chiêu. Chú tiểu đồng xớ rớ một hồi rồi lên tiếng:

-Lão trượng! lão trượng! đã đến bờ rồi.

Tâm thần Tuyết Giang Phu Tử như đắm chìm trong nỗi suy tư về thế sự, đạo sĩ buông tiếng thở dài rồi ung dung đứng dậy trả tiền đò, trở bước khỏi khoan cùng tiểu đồng hướng về cửa núi.

Mặt trời bỗng chốc lên cao, nắng xuân bắt đầu đẩy đưa những tia nóng xuống chốn trần thế khiến bộ hành có vẻ khó chịu. Thầy trò đạo sĩ đi ngang qua làng dương liễu theo hướng ngược lên xóm Tràng Xuân, nơi am thất của lão; hai bên vệ đường, những ngôi mộ cổ xưa cùng mả mồ hoang liêu đã được dân quê giẫy cỏ, sửa sang hương khói nhân tiết Thanh Minh khiến quang cảnh chung quanh đượm chút hữu tình  “âm dương đồng nhất lý”.

Trúc vàng lên măng sau mùa đông dài năm ngoái đã xanh tốt đến nỗi tàng lá phủ kín lối đi trước am Long Vân sơn môn. Cây bàng phía trái cổng ra vào vươn nhành lộc ôm ấp hàng hiên cùng nửa góc ao bên hòn giả sơn bốn mùa bất động. Cảnh vật xung quanh thật yên lặng, bình an!

Khách là một đại nhân trung niên mặt mày thông thiên bát cổ nhưng cách ăn bận, phục sức thì quả như một sĩ phu ẩn danh. Áo trắng ngả màu vàng nhạt, trên đầu quấn chiếc khăn nâu trong tư thế vóc người khanh khảnh cao cao. Đôi hài đen phủ một lớp bụi đường chứng tỏ khách là một kẻ phương xa mới đến. Bên cột nhà ngoài hiên, chiếc yên ngựa và roi da nằm sờ sờ một góc nói thêm rằng khách phải đi ngựa từ vạn dặm đến đây tìm chủ nhân có chuyện cậy nhờ.

         Vừa thấy đạo sĩ bước vào dưới tàng diệp trúc vòng qua mé hiên, người khách mặt mày hớn hở chấp tay vái chào rồi tự xưng danh tánh:

-Tôi đây họ Nguyễn tự là Hoàng xin bái kiến Trình Tuyền Hầu Thái Phó Trình Quốc Công.

-Không dám, không dám! hóa ra ngài là Đoan Quận Công đấy à. Bấy lâu lão phu chỉ được nghe danh tướng công mà chưa hân hạnh gặp mặt. Chẳng hay tướng công quang lâm tệ xá của lão phu có điều chi chăng?

…Nguyên, Mạc Đăng Dung soán đoạt ngôi vua, giết chết Lê Chiêu Tông, tự lên ngôi hoàng đế lập ra triều đại nhà Mạc. Biết bao kẻ bất bình và phẩn uất trước sự soán đoạt của họ Mạc, trong đó có con trai của Nguyễn Hoằng Dụ là Nguyễn Kim làm chức Hữu Vệ Điện Tiền Tướng Công An Thành Hầu dựng cờ khởi nghĩa chống lại Mạc Đăng Dung. Tướng Công An Thành Hầu Nguyễn Kim tìm được người con của Lê Chiêu Tông là Hoàng tử  Lê Duy Ninh lập lên làm vua tức là Hoàng đế Lê Trang Tông.

Thế lực nhà Mạc đang hồi thạnh phát, quyền bính tập hợp trong tay Mạc Đăng Dung nên lòng dân càng khiếp sợ. Để đối chọi với họ Mạc một cách hữu hiệu, Nguyễn Kim tập hợp toàn lực binh mã giao cho con rễ là Trịnh Kiểm và con trai trưởng là Nguyễn Uông ngày đêm tập dượt. Nguyễn Kim còn ra sức chiêu nạp binh lương, sai con thứ là Nguyễn Hoàng dò la tung tích các vị quan, tướng bất mãn với nhà Mạc đặng gây thành một thế lực, chung tay góp sức lấy lại cơ đồ nhà Lê từ Mạc Đăng Dung.

Cờ chính nghĩa dựng lên được muôn dân nhất tề ủng hộ. Binh sĩ có kỷ cương, quân lương có trật tự, tinh thần hưng chấn quy phục Lê triều càng ngày càng đông, mà lý tưởng trừ gian diệt ác lại càng ngày càng được hỗ trợ, nên đoàn quân của Nguyễn Kim trở thành thế lực vững chải đủ sức chống lại quan quân nhà Mạc. Được tin động trời như vậy, Mạc Đăng Dung mua chuộc Dương Chấp Nhất tìm cách đánh thuốc độc sát hại Nguyễn Kim.

Trịnh Kiểm điều khiển toàn bộ binh quyền sau khi Nguyễn Kim bị sát hại nên được vua Lê Trang Tông sở cậy đại nghiệp khôi phục cơ đồ. Trịnh Kiểm khởi binh tiến đánh nhà Mạc, đi đến đâu nhân dân hưởng ứng đến đó nên chẳng mấy chốc mà Trịnh Kiểm đã lấy được thành Thanh Hóa, dựng Lê triều đại kỳ chạy từ  Thanh Hóa vào đến cực nam.

Trịnh Kiểm là kẻ thời cơ chủ nghĩa, lòng dạ gian manh, thao túng tất cả quyền hành Lê triều, một tay sanh sát trên dưới, tự tung lèo lái non sông. Thoạt đầu, Nguyễn Uông cũng ở vị trí ngang quyền với Trịnh Kiểm, nhưng dần dà Trịnh Kiểm tiêu diệt tay chân thân tín của Nguyễn Uông khiến vị tướng khai quốc công thần này phải lên tiếng phản đối. Họ Trịnh biết mình khó bề thao túng hoàng cung nếu Lạng quận Công Nguyễn Uông còn là vị trụ tướng Lê triều, Trịnh Kiểm tìm cách ám hại họ Nguyễn và sát hại hàng tuỳ tướng của Nguyễn Uông làm cho những kẻ phản đối Trịnh Kiểm cũng không dám một phen hó hé.

Trước tình cảnh chém giết để tranh giành thế lực xảy ra trong cùng một đại gia đình của đệ nhất công thần Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm càng ngày càng tỏ ra hống hách và biết bao công, hầu, khanh, tướng tận trung với nhà Lê đều phải chết dưới gươm họ Trịnh.  Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng trở nên cô đơn, sống trong triều Lê mà như ngủ dưới lưỡi hái của tử thần, ăn trong bát vàng mà tưởng chừng như nuốt từng liều độc dược. Muốn báo thù cho anh mà trong tay chỉ còn lại trơ trọi những lằng chỉ chi chít vô tình, Nguyễn Hoàng như kẻ sầu đời cho qua những ngày đèn treo trước gió. Trịnh Kiểm càng ngày càng áp đảo vua Lê mà bá quan văn, võ không có ai đủ bản lĩnh lên tiếng can ngăn. Hoặc giã nhiều kẻ sợ liên lụy đến gia quyến mà rũ áo từ quan vui thú điền viên thơi thảnh. Hoặc có kẻ điêu ngoa xảo quyệt được một phen hùa với lũ gian thần đặng kiếm chút quyền hành, bổng lộc. Nói tóm lại, trong triều Lê chỉ còn lại bọn chó săn cho Trịnh, hoặc những kẻ cơ cầu đui, điếc, bất tri. Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng sực nhớ đến vị lý số tài ba nơi am Long Vân sơn môn bên giòng Tuyết giang mà bao đêm họ Nguyễn  nghĩ rằng người này có thể hóa giải cơ trời, giúp ta khôi phục uy quyền của vua Lê cùng báo thù luôn cái hận giết anh để nắm trọn quyền bính trong tay. Vì vậy Nguyễn Hoàng giả cách đi săn đặng lặn lội xa xôi gặp cho bằng được Thái phó Trình Quốc Công tức Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên sinh.

Là đệ tử chân truyền của cụ Bảng nhãn Lương Đắc Bắc, một lý số gia tinh thông Thái Ất Thần Kinh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm được thọ giáo tất cả những nẻo huyền cơ chi mật từ người thầy quán thông kim, cổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm  nổi tiếng là bậc nhân hậu, pháp thuật cao cường, đây đó chu du mà dùng phép mầu diệu dụng đặng giúp ích thế nhân. Năm Đại Chánh thứ sáu triều đại Mạc Đăng Doanh, Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đỗ trạng nguyên, phong tới chức Tả Thị Lang, rồi thăng hàm lên Đông Các Đại Học Sĩ .

Mặc dù có chức tước cao trọng như thế, nhưng kẻ sĩ thà “ngày ba bửa vỗ bụng rau bình bịch” còn hơn là phò vua không anh minh, soán đoạt cơ đồ của Lê triều như Mạc Đăng Dung; thì dù được phong tới chức Tể tướng, lão cũng không màn. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhất định từ quan, về ẩn dật nơi am thất cửa núi Long Vân, cạnh giòng Tuyết giang để hằng ngày ngao du sơn thủy.

Biết Trình Quốc Công trú ngụ nơi làng quê hẻo lánh này, Nguyễn Hoàng cỡi ngựa thân hành trực chỉ nam phương đặng bái yết tiên sinh thỉnh ý. Nghe câu hỏi vừa dứt, Nguyễn Hoàng nhập đề không chút do dự:

-Thưa lão trượng! Tôi đây có miệng như câm, có tai như điếc, thấy bào huynh bị giết mà chẳng dám nhỏ giọt lệ xót thương. Riêng bổn mạng của tôi chẳng khác nào sợi chỉ treo cả ngàn cân, càng để lâu lại càng nguy đốn. Xin Tiên sinh vì lòng hào hiệp chỉ bảo cho tôi được mở mắt nhìn đời.

Vẫn đứng yên trong tư thế ung dung tự tại, Trình Quốc Công nhìn thẳng vào mắt Nguyễn Hoàng rồi nhết mép cười, đáp:

-Bấy lâu nay lão phu xa lánh việc đời, chuyện trần tục gác bỏ ngoài tai nên thế sự xoay vần mà lão nào có để ý.

Nguyễn Hoàng hạ thấp giọng năn nỉ:

-Thật là khó khăn vô cùng mới tìm được đến nơi tiên sinh, nếu tiên sinh không chỉ bảo đôi điều thì Hoàng này trở về cũng chết.

         Ngẫm nghĩ một đỗi lâu, Trình Quốc Công gật gù rồi bảo:

-Nếu Quận công có lòng chí thành muốn biết kiết hung về đường bổn mạng thì phải ăn chay ba ngày, chí thành khẩn nguyện âm dương. Đúng giờ Tý ngày Mậu thìn lão phu sẽ xủ quẻ Tiên Thiên để đoán xem vận hậu Quận công thế nào.

-Đa tạ tiên sinh.

         Khách vừa bước ra, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiễn tận cổng núi Long Vân cho đến khi Nguyễn Hoàng lên ngựa ra roi. Mặt trời đã gần chính ngọ, nắng tháng Ba bắt đầu oi bức mà Trình Quốc Công cảm thấy tê dại trong lòng. Trở gót bước vào thư phòng, vừa đi, Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa như nói với chính mình: “Quốc gia loạn lạc đến kỳ, rồi đây muôn dân còn thêm đồ thán, âu cũng là định mệnh thiên cơ muốn đất nước chia thành hai nẻo.” 

         Đêm xuống thật sâu, bóng trăng mờ nhạt khó khăn tỏa ánh chiếu đục ngầu qua làn sương khuya, vầng trăng không còn rõ nét như một vệt lân tinh chênh chếch chân đồi. Dưới tàng trúc, ánh trăng xuyên qua kẽ lá vẽ lên mặt đất những hình thù kỳ quái, loang lổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm tựa lưng vào mỏm đá cạnh hòn giả sơn, mặt quay về núi Yên Tử tìm một phút an nhiên trong thiền định. Trớ trêu thay, càng tập trung tư tưởng bao nhiêu, những hình thù loang lổ dưới chân như múa may quay cuồng bấy nhiêu để đùa giỡn với nỗi niềm dâu bể mà chính tiên sinh chưa dám nghĩ đến. Một làn gió lạnh thổi qua, chiếc áo choàng không còn dịp phần phật rung rinh vì sương khuya như nhuộm ướt cả y trang và thấm sâu vào tâm khảm của người.

         Gà rừng cất giọng đầu canh, tiếng gáy mang chút hoang dã, cô đơn bỗng trở thành tiếng kêu vô vọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm bừng mắt, vươn vai như trải qua một cơn mộng ảo. Tiên sinh vừa đi mà tâm trí vẫn còn vướng mắc một nỗi xốn xang chưa hề ngưng đọng: cái hậu quả khốc liệt mà quốc dân phải gánh chịu lâu dài khi mình không cải được ý trời. Thật ra, từ khi sang xuân, tiết Nguyên đán nhân ngày chánh nhật, Tiên sinh đã thu đạt cơ trời nhân xủ quẻ đầu năm khai bút. Chuyện gì đến sẽ đến là lẽ mầu nhiệm của đất trời, một con người như hột cát mỏng manh múa may quay cuồng theo hướng gió, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm ta đây cũng chỉ là hạt bụi mong manh dùng thiên cơ để tiết lộ uyên nguyên của vô thường. Vừa suy nghĩ như vậy, tiên sinh như nhận ra chân lý đích thực của hồng trần bèn khe khẽ ngâm nga:

  “Non sông nào phải buổi bình thời,

  Thù đánh nhau chi khéo nực cười.

   Cá vực chim rừng ai khiến đuổi,

   Núi xương, sông huyết thảm đầy vơi…” 

            Tiếng ngâm vừa dứt, Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng bước ra trước mặt Trình Quốc Công rồi cúi rạp người vái chào tiên sinh, nhân tiện cất tiếng hỏi:

         -Chẳng hay lão trượng vừa ngâm bài thơ ý tứ súc tích, lời lẽ trầm hồn, đấy có phải là lời chỉ bảo cho Hoàng đây không?

 Nguyễn Bỉnh Khiêm trầm ngâm giây lát rồi gật đầu nhè nhẹ:

-Cơ trời hiển hiện, nhân gian nào ai chống đỡ được đâu! Thôi, giờ tý đã đến, chúng ta vào trong, Quận công chí thành lễ tổ để lão phu chuẩn bị xủ quẻ âm dương.

Ánh sáng tờ mờ của ngọn đèn mù u chỉ đủ rọi một khoảnh nhỏ chiếu lên chiếc đĩa bạc nạm rồng. Khói trầm tỏa ra từ chiếc lư đồng xông ngát chung quanh phảng phất bầu không gian thật trầm mịch, u linh. Nguyễn Hoàng quỳ trước điện tiền, hai tay chấp hình búp sen bất động. Sau một hồi khấn vái trang nghiêm qua những câu thần phù bí hiểm, tiên sinh nâng tráp gỗ ngang vầng trán rồi xá xá mấy lần đặng mở hộp lấy ra sáu đồng tiền đúc. Không gian chìm đắm trong sự tín thành, Nguyễn tiên sinh kính cẩn gieo từng đồng vào đĩa bạc, tiếng kêu canh cách vang lên một cách khô khan. Mỗi lượt gieo đủ sáu lần tiền, Trình Quốc Công dùng bút lông gạch xuống tấm vải điều theo hình bát quái một lằn rồi đọc to cho cả Nguyễn Hoàng cùng nghe:

-“Càn tam liên tây bắc Tuất Hợi: Triệt” = (Cung Càn trong bát quái đồ hình gồm ba gạch liên tục nằm về hướng Tây bắc thuộc cung Tuất và Hợi, không tốt)

Nguyễn Bỉnh Khiêm gieo đến lần thứ tám thì mồ hôi toát ra từ gáy đến tận trung khu thần kinh khi Nguyễn Hoàng nghe tiếp câu:

          -“Ly trung hư chánh nam đương Ngọ: Vượng” = (Cung Ly trong bát quái đồ hình gồm gạch trên liền, gạch giữa chia hai và gạch dưới liền thuộc hướng Nam, cung Ngọ, thuận lợi).

Nguyễn tiên sinh nhắm mắt bất động. Thân thể và tâm ý ông như theo làn khói nhan trên bàn thờ tổ bay bổng lên hư không. Đoan Quận Công vẫn trong tư thế kính cẩn chí thành quỳ trước điện tiền. Họ không nói với nhau nửa lời vì sợ sự di động nào đó sẽ tan biến đi cái huyền diệu u tịch vô cùng trọng đại này. Cuối cùng Nguyễn Bỉnh Khiêm mở mắt ra nhìn thẳng vào mặt Nguyễn Hoàng rồi chậm rãi nói:

              -“Hoành Sơn Nhất Đới, Vạn Đại Dung Thân” = (Một dãy hoành sơn chia cắt, hãy vào phía nam xây dựng cơ đồ thì an ổn nghìn năm).

                 Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng nghe xong, toát mồ hôi hột rồi đứng lên vái chào Trình Quốc Công và lập tức phóng lên yên ngựa trực chỉ phương Nam.

Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng

***********

THĂNG HOA CUỘC ĐỜI

Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng

Kỳ 49 Mở Nước Phương Nam

Chủ khách từ giã xong, đợi cho Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng phi ngựa ra khỏi thảo am, Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh thức tiểu đồng pha trà và đốt thêm một tuần trầm để xông cõi trần thế ô trược này. Lòng tiên sinh cứ bồn chồn khó chịu vì áy náy với chính mình: đành rằng thiên cơ đã định nhưng mình lý giải ra thì chẳng khác nào như vạch đường cho cơ đồ phân ly chia cách. Một chung trà nóng ngát thơm khiến tiên sinh giảm bớt tạp niệm. Gà rừng gáy thêm chặp nữa, ánh sáng tờ mờ khởi chút vừng hồng tỏa rạng ở phương đông. Giờ Dần đã đến, Tiên sinh ngồi kiết già tỉnh tọa trước điện thờ chư vị Thánh Hiền, nửa canh giờ trôi qua như thế cuộc diễn nhanh trong tâm tưởng, tiên sinh sụp lạy rồi khấn vái thật chí thành để tự mình xủ quẻ Tiên Thiên bói đại vận:

“Xem Thái Ất thần kinh ứng chỉ, đất nước này sẽ chia cắt đến vài trăm năm. Phải có một đại nhân xuất hiện, thống nhất sơn hà thành một mối”. Ta tiếc cho già này không còn sống để chiêm ngưỡng vị minh quân ra đời.

Bình minh trên sườn đồi đã thức giấc. Nguyễn Bỉnh Khiêm đứng dậy nắm những đồng tiền xủ quẻ trong tay, tiên sinh trực chỉ hướng đông nam nơi giòng Tuyết giang bốn mùa trôi chảy. Gió sông gờn lạnh hắt hiu quạt vào mặt như một sự trừng phạt vô hình. Nguyễn tiên sinh nói với chính mình như mượn làn gió sớm làm chứng nhân cho lời thệ nguyện: “Thiên cơ bất khả lậu, ta xin chấm dứt từ đây những lý số ứng linh cho can qua khổ nạn”. Nói xong, những đồng tiền xủ quẻ vụt bay vèo xuống dòng nước không một chút ngân vang để gợn tròn lăn tăn đây đó.

Trình Quốc Công gật đầu ra chiều thỏa mãn, nhìn về hướng tây bắc, ngọn núi Yên Tử của phái Trúc Lâm đang thỉnh chuông cho thời công phu sáng ngân nga tận cõi lòng dẫn tiên sinh vào cảnh u hoài  tịch tịnh. Kể từ đấy thế nhân hết dịp gặp lại Nguyễn Bỉnh Khiêm, Long Vân sơn môn quán chỉ còn chú tiểu đồng ngày nọ qua tháng kia đợi tiên sinh trở về dùng bữa cơm chiều trong tuyệt vọng. 

Ngọc Ninh phủ hôm nay treo đèn kết hoa vô cùng lộng lẫy, gia nhân tất bật nhộn nhịp, lăng xăng sửa sọan cho thật nghiêm trang từ những cành hoa tươi trên bàn đến các chậu kiểng ngoài hàng hiên, đâu đâu cũng hết sức chu đáo, mỹ lệ. Quân lính bên ngoài  được lệnh canh phòng vô cùng cẩn mật vì Trịnh Kiểm chuẩn bị đón rước vua Lê Trang Tông ngự tiệc nhân tiết Đoan ngọ mùng Năm tháng Năm. Từ cổng tam quan sặc sỡ đèn hoa, hai hàng cung nữ như những nàng tiên hạ giới đang nghiêm chỉnh trong xiêm y lộng lẫy để rước thiên tử ngự tiệc chí đến sân Ngọc Ninh phủ vốn đã uy nghi từ trước nay lại còn tăng thêm vẻ trang trọng ác liệt. 

Ngọc Bảo Quận Chúa ngồi trong chánh thất, lộng lẫy với trang phục diễm kiều có một không hai. Vài tỳ nữ  lúc nào cũng chầu chực để được sai khiến bên trong tấm rèm hoa, thị vệ tả hữu túc trực phía ngoài với khí thế đằng đằng, trên tay lăm lăm đốc kiếm.

-“Bẩm quận chúa, Đoan Quận Công phía ngoài xin được vào yết kiến quận chúa”. Một tỳ nữ khúm núm đang tấu trình. Đã bấy lâu, lòng Ngọc Bảo luôn thương tưởng đến người em tài hoa này mà không sao tìm được dịp ghé thăm. Kể từ ngày Lạng Quận Công Nguyễn Uông bị chồng ám hại, tình gia quyến trở nên tương tàn. Nguyễn Hoàng tìm cách xa lánh những hội hè đình đám, một mình giam hãm trong nhà đôi lúc cả năm trời không tham gia một lần giỗ chạp. Ngọc Bảo đang phân vân, chẳng hay ngọn gió tường vân nào đưa đẩy người em thân yêu của ta đến thăm đúng vào dịp thượng hoàng ngự tiệc?

Nguyễn Kim sinh được một gái hai trai đều là tướng của Lê triều. Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng được sắc phong Quận Công. Ngọc Bảo là chánh thất của Trịnh Kiểm nên cả nhà Nguyễn Kim được trọng vọng vào bậc nhất hoàng triều. Tính tình Trịnh Kiểm thì khó lường trước được, lúc nóng giận như hỏa diệm sơn, lúc lạnh tiền như băng tuyết, khi ngọt ngào như từ mẫu âu yếm con cầu, khi điêu ngoa gian hùng chẳng khác nào Tào Tháo khiến quần thần sĩ tốt chẳng biết hư thật thế nào, ngay cả Ngọc Bảo cũng khó lòng đoán biết được chân tướng của lang quân mưa nắng mấy hồi. Nghĩ như vậy rồi lại nhớ đến sự an vui dĩ vãng của gia tộc, bỗng dưng quận chúa xúc động vô độ đến cái chết tức tưởi của Lạng bào huynh dưới gươm của chồng mình, bà vội vàng bước xuống thềm và giục tỳ nữ lập tức mời Đoan Quận Công vào trong phủ để chị em được dịp vấn an.

Vừa thấy bóng em bước vào đầy vẻ khắc khổ phong sương như một người ẩn dật, bộ võ bào trên thân đã sờn cũ, đôi hia mốc thếch bụi đường như kẻ tha phương vừa đến. Quận chúa lộ vẻ xúc động trước tình cảnh thương tâm của gia tộc, nụ cười như chiếu lệ không nở nỗi giữa mặt ủ mày ê. Ngọc Bảo ngồi trên chiếc đôn có nét hoa văn với hình thù kỳ lân sặc sỡ mà tưởng chừng như ngồi trên sự tủi nhục oán hờn. Nguyễn Hoàng liếc nhìn xung quanh, mừng mừng, tủi tủi thăm hỏi qua loa. Biết không có Trịnh Kiểm gần đây nên Đoan Quận Công lựa lời nhờ vả:

-Bấy lâu nay phía Nam không người cai quản, Chiêm Thành ngày đêm rục rịch tiến đánh nước ta, phía ngoài thì họ Mạc hăm he gây hấn, nếu ta không chuẩn bị trước, có lúc trở tay không kịp. Từ ngày thân phụ chúng ta ngộ độc, em vẫn theo phò Lê vương báo đền ơn đức nhưng chưa lập nên công trạng gì để báo bổ non sông. Hôm nay nhân đại yến linh đình, chị cố gắng trình lên Điện hạ chiếu chỉ cho em vào đất Thuận Hóa trấn thủ, như vậy vừa có tướng ở chốn biên thùy án ngữ quân Chiêm, vừa là cách chiêu dân cho triều đình đó. Từ xưa giờ ta vẫn lấy câu “cẩn tắc vô ưu” để phòng hoạn nạn là lẽ thường tình.

-Chuyện em muốn thì cũng không khó, ngặt nỗi sơn lam chướng khí vùng Thuận Hóa kinh hoàng, chị e rằng em vào trấn nhậm chưa tới đâu thì chị lại phải nghe tin buồn em vùi thây nơi rừng thiêng nước độc. Ngọc Bảo có ý cản ngăn.

-Cám ơn chị đã đoái thương cho đứa em máu mủ này. Nhưng thiết nghĩ, làm thân trai ngàn dặm da ngựa bọc thây, sá gì chốn sơn lam cùng cực. Ngặt chỉ mỗi một điều là lâu ngày mới trở về vấn an tôn nhan chị được.

Biết tính khí Nguyễn Hoàng từ thuở ấu thời, một khi lòng đã quyết thì dù có cản ngăn trăm phương ngàn kế chi đi nữa, họ Nguyễn này nhất định phải tìm cách  làm cho bằng được. Thôi thì cũng hợp lẽ người mà an ninh cho cả triều đình thì có gì phải từ chối lời thỉnh cầu của cậu em trai. Nghĩ như thế, Ngọc Bảo quận chúa hứa lời:

-Thôi cũng được, chuyện này để chị tấu trình qua lang huynh của em, thế nào cũng thuận. Còn hơn nửa khắc nữa đại yến cung nghinh hoàng thượng giá lâm ngự tiệc sẽ khai mạc, em hãy nán lại chung vui với phủ Ngọc Ninh rồi vái chào lang huynh của em một thể.

-Cám ơn sự săn sóc chu đáo của chị. Em phải về ngay Long Vân quán, ngày mai là húy nhật, kỵ giỗ Lạng Quận Công đại huynh, chị chẳng nhớ sao ?

-À! em không nhắc chị nào có nhớ. Ngặt một nỗi, đức lang quân của chị lúc nào cũng muốn chị quên phức chuyện cũ ấy đi, nên mấy lần huý kỵ mà lang huynh em không thuận cho chị trở về Long Vân quán để đốt hương tưởng niệm huynh đài. Thôi tiện đây chị gởi chút đỉnh trầm hương, ngày mai em đốt hộ thay chị để Lạng Quận Công bào huynh chứng tri cho.

Nguyễn Hoàng bước tới đở lấy gói trầm. Nghe tiếng thở dài mang bao nỗi sầu lụy bi ai của chị thoát ra, Nguyễn Hoàng cảm động vô cùng rồi rưng rưng như xoa dịu sự đớn đau chảy tràn vào hồn cả hai:

-Chị đừng bi lụy mà héo hắt ngọc diệp kim chi, chuyện sinh tử trong thế gian đều theo duyên nghiệp sanh sanh hoại hoại. Kìa các vị tướng quốc đã tấp nập đến rồi; ngày mốt vào giờ Dậu em trở lại nhận ấn chỉ vào Nam. Chị cố lo cho, em xin đa tạ chị muôn vàng.

Màn đêm khó phủ xuống cung thành khi ánh hoa đăng rực rỡ hắt thứ ánh sáng chói ngời lên ngọ môn nơi bức hoành khắc ba chử “Ngọc Ninh Phủ” lồ lộ, oai phong như lưỡi kiếm sẵn sàng chém xuống đầu những kẻ nghịch mạng lai vãng chốn công quyền đầy uy phong bạo lực.

Tiệc tàn lúc canh hai, khách khứa say tuý lúy. Lê Trang Tông ngà ngà nhưng cố giữ nét oai phong của bậc vương gia. Vài ba quan văn, dăm ông quan võ sợ uy của Trịnh Kiểm nên chen nhau chúc tụng chủ nhân không tiếc lời. Nào Trịnh Kiểm đại nhân đại đức, nào Trịnh Kiểm văn võ song toàn, nào chúa Trịnh  quán thông kim, cổ…làm cho vua Lê cũng áy náy không cùng.  Quan văn Phùng Khắc Khoan nhìn Đỗ Uông và Nguyễn Nhân Thiện lắc đầu ra chiều chán nản cái cảnh cúc cung của bọn gia nô. Những vị quan văn này nể lời của Trịnh Kiểm nên phải tới dự, song họ không dùng rượu như đám gian thần vô tài bất tướng. Võ quan Hoàng Đình Ái và Nguyễn Hữu Liêu ngồi tận góc đại sảnh, uống lấy lệ từng ngụm rượu hoa đào mà ngao ngán nhìn thiên hạ kiêu ngạo chúc phúc cho nhau. Không mấy kẻ chú ý đến nhà vua khi hoàng đế Lê Trang Tông có ý ra về, Phùng Khắc Khoan kéo tay Hoàng Đình Ái, hai người đứng lên như hộ giá cho vua Lê rời Ngọc Ninh phủ vào cuối giờ Hợi. Đoàn kiệu giá đưa hoàng thượng hơi quá nửa sân, Trịnh Kiểm giả vờ  chạy ra có ý luyến tiếc tiệc tàn hơi sớm kèm vài lời cám tạ ân đức Lê triều.

Sự chuyên chế của Trịnh Kiểm càng ngày càng lộ rõ, lấn áp quyền hành của Lê Trang Tông, tiền trảm hậu tấu khiến quần thần nhiều kẻ khiếp đảo, nhu nhược. Sau khi giết chết Lạng Quận Công Nguyễn Uông, ít ai còn dịp lên tiếng phản đối hành động bạo ngược của họ Trịnh. Nhiều kẻ thấy vậy a dua theo, nhưng cũng không ít người khinh khi, bất phục.   

Đợi cho gia nhân dọn dẹp xong xuôi, đèn đuốc được hạ xuống và cổng ngọ môn đã đóng chặt, quân lính ngoại thành đánh cồng báo hiệu sang canh thì quận chúa Ngọc Bảo rón rén tới cạnh phu quân thỏ thẻ:

-Đại yến hôm nay thật là sung mãn. Hoàng thượng và quần thần hết sức hoan hỷ. Thiếp nghe hoàng thượng ban khen cho phu quân tới sáu tuần mỹ tửu lận đấy.

-Đúng vậy! đúng vậy! nhưng hoàng thượng ban khen cho lấy lệ chứ đáng ra ta ban khen cho nhà vua mới phải lẽ!!! Sau một tràng cười khoái chí ra chiều đạt đến trạng thái thống khoái nhất trần gian, bỗng dưng Trịnh Kiểm ngưng ngang, nghiêm sắc mặt, nhìn thẳng vào mắt Ngọc Bảo, hất hàm hạch hỏi:

-Lúc chạng vạng có người báo cho ta biết Nguyễn Hoàng đến đây gặp nàng với dụng ý gì?

Bị hỏi quá sức bất ngờ, hồn vía quận chúa hồn phi thất đảm, nhưng vốn là một bậc nữ lưu có tiếng thông minh hữu hạng ở kinh thành, Ngọc Bảo định thần trong chớp nhoáng rồi bình thản trả lời như thể không có gì xảy ra:

-Đoan Quận Công ghé đây thăm thiếp và lang quân. Thiếp cố mời cậu ấy nán lại để dự đại yến nhưng cậu ấy không thể ở lâu. Dạo này bị bịnh đau gan, vàng ửng cả mắt lẫn da nên phải cần thuốc thang hàng ngày. Thật là tội nghiệp! Cậu ấy than rằng phương Nam triều đình ít chú ý, phòng thủ; nếu Chiêm Thành cử đại binh Bắc tiến thì thật là nguy cập, lúc ra về cậu ấy thưa rằng nếu tướng công rảnh rỗi thì bẩm báo với tướng công định đoạt.    

-À ra thế, ta cũng có nghĩ thoáng qua nhưng công việc chống đỡ nhà Mạc phương Bắc đã mất hết thời gian. Hay là, này quận chúa! Ta thấy Đoan Quận Công ở triều ca cũng chẳng làm gì, chi bằng sắc phong cho cậu ấy trấn nhậm vùng Thuận Hóa thì hay biết mấy.  Trịnh Kiểm nhìn vợ thăm dò, Ngọc bảo nghe như vậy thì lòng mừng thầm vì dẫu sao cũng giúp em toại ý, nhưng nàng giả bộ giẫy nẩy:

-Trời ơi! vùng Thuận Hóa đầy sơn lam chướng khí, đất rộng, người thưa vô cùng hiểm độc. Tướng công sai khiến cậu ấy vào nam thì chắc gì có dịp hàng năm trở về thăm thiếp.   

Trịnh Kiểm đưa tay gãi đầu ra chiều ngại ngùng: 

-À! đừng nghĩ vậy mà oan cho ta. Trịnh Kiểm giải thích: 

-Đoan Quận Công là người có tài, có trí, lanh lẹ khôn ngoan. Người như vậy không dễ gì bó tay trước những trở lực của sơn lam chướng khí. Quận chúa  nghĩ thử ý ta có đúng không?

Sợ phu quân bất ngờ thay đổi ý kiến thì hỏng công việc của em, Ngọc Bảo thở dài một tiếng ra điều khổ não rồi đến bên chồng âu yếm thưa rằng:

-Dòng họ của thiếp chỉ còn Đoan Quận Công, được tướng công đoái hoài thì cũng là phước báu. Thôi thì, chuyện quốc gia bảo vệ biên thùy là việc đại sự không nên chần chừ. Nếu lòng đã quyết, sáng mai thiếp triệu Đoan Quận Công diện kiến cho phu quân sai bảo.

Thật ra, từ khi sát hại Lạng Quận Công Nguyễn Uông thì tâm ý của Trịnh Kiểm ngày đêm lo ngại Nguyễn Hoàng phục hận. Do đó, Trịnh Kiểm nhiều lần mưu hại Nguyễn Hoàng cho bớt nỗi lo canh cánh bên lòng. Ngặt một điều, Đoan Quận Công là người thông minh dĩnh ngộ, nhân hậu khiêm cung,  được lòng các tướng bề trên, không một lỗi nhỏ nên kẻ dưới luôn kính yêu, ngưỡng mộ. Vua Lê Trang Tôn tỏ ra quý mến người tài mà sợ Trịnh Kiểm can ngăn nên mấy lần định sắc phong phẩm trật thì lại hủy bỏ. Nguyễn Hoàng thừa biết chuyện ấy nhưng lúc nào cũng tỏ ra bất cần danh vọng, lại ăn nói lễ độ, khôn ngoan nên Trịnh Kiểm khó lòng trừ khử. Cây gai trước mắt xốn xan con ngươi chưa biết cách nào nhổ bỏ, hơn nữa chuyện sát hại Nguyễn Uông vẫn còn âm ỉ khiến hàng Văn, Võ có kẻ không phục thì Nguyễn Hoàng dù có gì đi nữa cũng phải hạ hồi phân giải. Mặt khác, Ngọc Bảo lúc nào cũng lấy lời lẽ dịu ngọt mà che chở cho em nên khiến Trịnh Kiểm chưa nỡ ra tay sát hại. Trịnh Kiểm như kẻ chết đuối vớt được chiếc phao, bỗng dưng có lời đề nghị cao minh như vậy thì quý hóa vô ngần. Giết không được thì nên đày đi cho đỡ lo lắng, đó là kế hoạch nảy nở trong đầu họ Trịnh.

-Ta đã nghe cấp báo nhiều lần về việc Chiêm Thành động binh quấy phá mạn Nam. Chuyện này như cứu hỏa, trễ nải một ngày thì an nguy bá tánh khôn lường. Ngày mai ta sẽ tâu trình hoàng thượng để xin chiếu chỉ cho Đoan Quận Công trấn nhậm Nam phương. Trịnh Kiểm nở nụ cười khoái chí như vừa trút được gánh nặng ngàn cân.

Trống đã điểm canh hai, gia nhân dọn dẹp xong cũng vừa đi ngủ. Toán thị vệ tuần tra phía Thiên Bửu phủ nghe bước chân  rầm rập vang vọng trong đêm vắng. Ngọc Bảo sửa soạn chăn mùng mời chồng an giấc, Trịnh Kiểm vẫn còn men rượu nên vừa nằm xuống thì tiếng ngáy vang như sấm bắt đầu trổi lên pha với mùi mai quế tửu nồng nặc gian phòng.

Khác với chồng, Ngọc Bảo không tài nào ngủ được. Quận chúa cố dỗ giấc ngủ bằng sự tỉnh tâm nhưng rồi trống đã sang canh mà thân bồ liễu vẫn còn trăn trở. Càng định tâm chừng nào thì hình bóng của Lạng Quận Công càng vởn vơ trong đầu chừng nấy. Quận chúa ngồi dậy uống nước, lần bước ra tự đường đốt một nén nhang rồi quay trở lại. Vừa chợp mắt một xíu, quận chúa thấy một điềm mộng rất đỗi kinh hoàng. Ngọc Bảo ú ớ không thành lời rồi cuối cùng hét lên thất thanh.

-Cái gì vậy quận chúa? tỉnh lại!  tỉnh lại!  giọng Trịnh Kiểm vẫn còn ngái ngủ.

-Ái dào! thiếp vừa trải qua một điềm chiêm bao rùng rợn hãi hùng. Thôi tướng công ngủ tiếp đi rồi ngày mai thiếp kể cho nghe.

Trịnh Kiểm ngồi dậy, vươn vai, vỗ trán lấy lại sự tỉnh táo sau một giấc mê mệt.

-Ta cũng hết buồn ngủ rồi. Hãy kể cho ta nghe thử nào, không khéo ngày mai lại quên mất.

Quận chúa ngồi dậy, mắt vẫn nhìn đăm chiêu ra cửa, hai bàn tay úp trên ngực rồi kể giấc chiêm bao cho chồng nghe trong hơi thở hồi hộp:

-Thiếp thấy một con rồng vàng bay trên Ngọc Ninh phủ bảy vòng rồi hạ xuống trước đỉnh đồng ngoài sân. Nó đi thẳng vào tự đường, dùng chân đá thốc vào chính giữa cửa rồi nhảy lên bàn thờ quậy phá lung tung. Cuối cùng con rồng gắp chiếc bài vị của phụ thân thiếp bay lên cao hướng về phương Nam. Thấy như vậy nên thiếp đuổi theo và rơi vào hang đá bên vực thẳm thiên nhai.                

    Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng.                                                                                        

******************

Kỳ 50 Rồng Bay Về Nam

Nguyên năm Đinh Mão (1567) Quận chúa Ngọc Bảo đang thọ thai được tròn ba tháng, mưa thuận gió hòa và dân chúng làm ăn có phần dễ chịu hơn mấy năm trước. Nhiều nơi trong nhân gian đã làm cối xay gạo hầu sắp đặt gặt hái xong thì lúa sẵn sàng được xay. Để chuẩn bị cho đứa con ra đời với cái tên gắn liền đến sự phát triển của muôn dân, Trịnh Kiểm đã ngẫm nghĩ đặt danh tánh cho đứa bé này phải là cái cối xay cho trăm họ nhờ vả, vì vậy mà sau này cái bào thai đó ra đời mang tên ngộ nghĩnh: Trịnh Cối.  Nghe vợ vừa kể điềm chiêm bao rằng, thiếp thấy một con rồng vàng bay trên Ngọc Ninh phủ bảy vòng rồi hạ xuống trước đỉnh đồng ngoài sân. Nó đi thẳng vào tự đường gắp chiếc bài vị của phụ thân thiếp bay lên cao hướng về phương Nam. Thấy như vậy nên thiếp đuổi theo và rơi vào hang đá bên vực thẳm thiên nhai. Dứt câu chuyện, Trịnh Kiểm khoái chí đứng dậy cười vang vang ra chiều đắc thắng. Tiếng cười ha hả vang vọng trong thinh không khiến đội tuần tra phải mấy lần dừng lại kiểm soát. 

-Như ý của ta, như ý của ta! Trịnh Kiểm tự thốt lên lời.

Từ khi sát hại Nguyễn Uông để tóm thâu quyền lực trong tay, Trịnh Kiểm lấn áp triều đình, coi thường hoàng đế, một mình  chuyên quyền định liệu mọi việc hưng suy của quốc gia. Mộng của họ Trịnh là phải lên ngôi thiên tử như nhà Mạc đương thời đóng đô ở phía bắc. Ngặt một nỗi từ trên các đại thần quan tước, đến dưới muôn vạn nhân dân đều tỏ ra không ưa nhà Trịnh mà chuyện soán ngôi thì thiên hạ phỉ khinh. Từ năm Mậu Thân (Tây lịch 1548) khi vua Trang Tông băng hà thì ý niệm soán ngôi đã hình thành trong đầu Trịnh Kiểm. Thái tử Duy Huyến được bá quan văn võ trong triều tung hô vạn tuế để kế thừa ngôi báu đã làm hỏng kế hoạch của họ Trịnh. Thái tử Huyến lấy hiệu là Lê Trung Tôn lại là người hiền từ nhưng không có con cái để nối dõi tông đường. Sau tám năm trị vì, nhà vua đột nhiên băng hà là cơ hội vô cùng quý giá cho họ Trịnh một lần nữa. Trịnh Kiểm họp bàn cùng chư tướng và quần thần thì trăm người như một là muốn tìm lại con cháu Lê triều để kế thừa đại nghiệp. Tính tới, tính lui  phân vân trăm kế ngàn phương, bổng Trịnh Kiểm nhớ đến một người mà nhân gian tôn sùng như vị thánh sống “thượng thông thiên đường, hạ triệt địa phủ. (Trên thì thông hiểu thiên văn, tinh tú, dưới thì thấu biết địa lý, âm ty). Vì vậy Trịnh Kiểm sai một người thân tín đi tìm Trình Quốc Công lý giải.

Trình Quốc Công không còn ở trong Sơn môn quán, kẻ dò tìm phải mất nhiều ngày đêm vượt núi băng ngàn, đến tận núi Yên Tử, qua Thanh Hóa, đến Hải Dương với nhiều lụa là gấm vóc tưởng cầu thỉnh ý tiên sinh. Nào ngờ đi mãi theo lời đồn đãi của thiên hạ mà  chả thấy tăm hơi. Hơn mười ngày đêm gian truân tìm kiếm khắp chốn, kẻ thân tín định bụng quay về thì vừa đi ngang qua đò trên giòng sông Tuyết Giang, bỗng dưng Trình Quốc Công đứng đó chờ đợi. Kẻ thân tín của Trịnh Kiểm mừng rỡ vô cùng vội vàng dâng lụa là, gấm vóc xin thỉnh ý của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tiên sinh nghe xong thì châu mày rồi nói như thét vào tai kẻ đối diện:

“-Tìm giống cũ mà gieo mạ thì mùa màng hưng thịnh, bằng trái ý tìm lúa mới thì chẳng những thất thu mà còn bị nạn đói hoành hành suốt kiếp”. (Lời khuyên rằng hãy giữ vai trò nguyên trạng, không nên soán nghịch, nếu không thì sẽ bị tai ương).

Được kể lại tỉ mỉ về câu nói ẩn ý của Trình Quốc Công, Trịnh Kiểm ngẫm nghĩ  suốt mấy đêm trường rồi bỏ ý đồ cướp ngôi và thân hành đi tìm cháu, chắt của nhà Lê lập đại nghiệp cho chính danh.  Hành trình truy tìm hậu duệ nhà Lê cũng không mấy vất vả. Nguyên, bào huynh của vua Lê Thái Tổ là Lê Trử có một người cháu huyền tôn là Lê Duy Bang. Trịnh Kiểm bất đắc dĩ mới lập vị tân vương này với danh hiệu là Lê Anh Tông trị vì. Quyền bính lúc này hầu hết vào tay Trịnh Kiểm, mọi định đoạt tối thượng đều phải có sự đồng ý của họ Trịnh, việc đối nội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng kể cả binh mã đều tóm gọn trong tay một người nên Vua Lê Anh Tông như thể một loại trang sức cho họ Trịnh thao túng.

Mặc dù tin lời tiên tri của Trình Quốc Công nhưng ý đồ soán đoạt ngôi thiêntử chưa hẳn đã dứt, Trịnh Kiểm ngày đêm tìm cách tốt nhất để đưa con cháu của họ Trịnh thay thế họ Lê cai trị bá tánh. Do vậy, khi nghe Quận chúa Ngọc Bảo kể câu chuyện chiêm bao vừa xong, Trịnh Kiểm nghĩ ngay đến uớc nguyện của mình và cho đó là điềm cát tường. Rồi đây cái bào thai trong bụng Ngọc Bảo sẽ trở thành Hoàng đế vì rồng vàng lượn ở trời nam đã báo hiệu cho họ Trịnh ngày mai vô cùng hiển hách.

Vừa tản sáng, Trịnh Kiểm thay đổi xiêm y đặng vào cung yết kiến Lê Trang Tông. Mục đích của cuộc yết kiến này là xin được chiếu chỉ cho Nguyễn Hoàng đặng vào Nam trấn ải Thuận Hoá. Vừa nghe tấu trình xong, vua Trang Tông cau mày tỏ vẻ không ưng thuận vì dù sao Đoan quận Công Nguyễn Hoàng cũng là một trụ tướng của triều ca. Hơn nữa, Nguyễn Hoàng không những là người hiền đức mà còn là nơi thân tình của nhà Lê thì khó mà vua đồng ý với Trịnh Kiểm.  Họ Trịnh là người hiểu tâm lý, giỏi thuyết phục, nhưng vua Lê cũng không phải là người vô trí nên vương gia đành bình tâm nghe Trịnh Kiểm phân bày:

-Phía Bắc hiện thời họ Mạc ngày đêm chiêu tập binh mã, lăm le lấy đất Lê vương. Phía Nam Chiêm thành rục rịch lấn sang biên cương lãnh địa. Bắc không phòng, Nam không thủ, thử hỏi bệ hạ ngồi đây thù tạc với kẻ tâm huyết được bao lâu? Ngai vàng là của bệ hạ, xã tắc là của hoàng triều, nếu bệ hạ không nghe những gì tấu trình thì ngày mai chớ xin hờn trách.

Nghe xong, Lê Trang Tông vội vã đứng dậy rồi cười cười nói vớt Trịnh Kiểm: -Khoan khoan! đừng nóng quá, trẫm không nghĩ như vậy. Bấy lâu nay khôi phục giang sơn họ Lê này cũng nhờ vào một tay khanh lèo lái, chuyện phòng thủ phải lưu tâm đúng mức là diệu kế xưa nay. Thôi để ta bảo Phùng Khắc Khoan soạn chiếu chỉ đặng kịp ngày Thìn giờ Thân tiến chỉ.

…Nguyễn Hoàng lăng xăng tiếp khách từ bốn phương về Long Vân quán huý kỵ Lạng Quận Công Nguyễn Uông. Vốn ăn nói hoạt bát, thông văn, thuộc sử lại nghiên cứu kỹ lưỡng về binh thư, đồ trận nên Nguyễn Hoàng rất được nể trọng, từ hàng phẩm trật cung triều cho đến kẻ ngao du sơn thủy, ai ai cũng thích cùng tướng quân đàm đạo kiếm cung. Khách đến đây không những với tấm lòng tưởng nhớ Lạng quận công Nguyễn Uông một thời hưng chấn triều đình, đốt nén hương cầu siêu cho người oan trái, nhưng  cũng là dịp mà khách tứ phương đối ẩm với Nguyễn Hoàng bàn luận kim cổ, đông tây. Chính vì vậy mà hừng đông chưa tỏ đã có kẻ lữ hành lò dò thăm hỏi Long Vân toạ lạc nơi nào.

         Long Vân quán không nguy nga đồ sộ như Ngọc Ninh Phủ, cũng không hẳn tôn nghiêm như cổ tự Linh Sơn mà ngược lại, nó khiêm tốn ẩn mình dưới hàng tre dày đặc về phía nam cung thành Lê triều vài ba mươi dặm. Long vân quán dựa lưng vào ngọn đồi thoai thoải nhìn ra giòng nước chảy về đông của con sông không tên không tuổi. Từ xa nhìn hướng tây nam, ngọn đồi nhấp nhô trên giòng sông khiến người khéo tưởng tượng thấy con rồng uốn khúc trên mây nên chẳng mấy chốc, chiếc am nhỏ của Nguyễn Hoàng thờ tự bào huynh lại mang tên Long Vân quán.

         Tục truyền, ông Nguyễn Hoằng Dụ sinh thời thích uống rượu, ngâm thơ. Vào một đêm trăng sáng, ông vào trong một cái quán ven đường với bầu rượu trên vai. Chủ quán là một ông lão châm thêm rượu cho khách đến nỗi Nguyễn Hoằng Dụ say túy lúy rồi ngủ trên chiếc chõng tre có đến mấy ngày đêm. Tỉnh ra ông thấy mình tọa vị trên phiến đá bằng phẳng, có tàng cây bao phủ như nóc nhà với cảnh trí thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ. Từ đó ông quyết định lập nên một thư quán để kẻ mặc khách tao nhân xa gần quy tụ lại chuyện trò thế sự, uống rượu ngâm thơ. Long Vân quán ra đời thật là tự nhiên như hàng tre xanh tốt tự nguyện chở che và Nguyễn Hoàng dùng nơi ấy như một chỗ an vị hương khói bào huynh.

Sau khi Trịnh Kiểm sát hại Lạng quận công xong, thi hài của Nguyễn Uông được mai táng ở núi Ngũ Châu và thờ tự tại quán Long Vân vì Lạng quận công Nguyễn Uông chính là đích tôn của Nguyễn Hoằng Dụ.

Nguyễn Hoàng nhìn mặt trời đang xế về tây, lòng bồn chồn muốn tiễn biệt khách khứa hầu kịp đến Ngọc Ninh phủ theo lời hẹn của bào tỷ đặng dò la quyết định của Trịnh Kiểm hư thực thế nào. Ngặt nỗi, cả năm mới kỵ một lần, tứ xứ anh hùng hào kiệt sum vầy luận đàm thế thái nhân tình cùng những chuyện thiên địa phong vũ cả hồi lâu mới từ tạ ra về.

Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vừa giáp mặt chị đã thấy Ngọc Bảo tươi tỉnh  kể công: -Hoàng thượng đã hạ chỉ nội trong vòng ba ngày em phải vào trấn thủ Thuận Hoá. Rồi hạ giọng vừa đủ cho hai người nghe câu tâm sự như một thành tích lớn lao: -Chị phải thúc lang huynh em cả mấy lần mới được đó.

-Dạ vâng, xin cám ơn chị. Chuyện gì nan giải đến tay chị cũng thành dễ dàng.  Nguyễn Hoàng cười nụ như đáp lại tấm lòng của chị mà cũng là sự đắc ý khi thấy kế hoạch tẩu thoát của mình được chấp nhận để ra khỏi lãnh địa triều ca, nơi mà Nguyễn Hoàng hằng ngày bị dòm ngó theo dõi kỹ càng.

Ngoài trời chỉ còn bóng mờ của cái chạng vạng giao hòa giữa âm dương sáng tối. Nói chuyện một đổi về ngày giỗ Lạng Quận Công năm nay đông đủ thế nào, Ngọc Bảo cúi đầu như một phút mặc niệm đến người anh  tài hoa bị bức hại đặng an lòng nơi chín suối.  Nguyễn Hoàng vội vã cám ơn rồi từ giả bà chị thân yêu với mớ suy tư lộn xộn trong đầu. Viễn ảnh lờ mờ trước mặt mà chính Hoàng sẽ phải đối diện không dễ dàng như bước lên bực đá cheo leo. Nó sẽ khó ngàn vạn lần hơn vì thử thách của gan dạ cùng ý chí đối diện với thực tế hoang sơ man rợ.

-“Hoặc tối, hoặc sáng, đừng tạo cảnh lờ mờ để bóng đêm tràn lan nhận chìm tất cả vào khoảng không vô tận”. Hoàng vừa đi vừa nghĩ mông lung mà bước chân vô tình đã dẫn đến Tây cung hồi nào không biết. Tây cung là nơi thờ tự những vị tiền hiền, anh hùng liệt nữ cũng như những bậc khai quốc công thần, bên cạnh phía hữu là tự đường nơi thiết trí cung nghinh những long vị, bài vị, linh vị của Nguyễn tự đường. Nguyễn Hoàng đứng đó, trước bức hoành phi khảm xa cừ có 4 chữ “Trung Nghĩa Liêm Tiết” với sự thề nguyền phải làm tỏ mặt các đấng tiên liệt, và quyết chí mở rộng bờ cõi thẳng tiến nam phương. Nguyễn Hoàng chấp tay đảnh lễ rồi vội vàng lách mình ra dãy hành lang phía tây để hướng về nam phương trực chỉ.

Rằm tháng Ba khí trời lành lạnh, những bông lê trắng xóa nở rộ chốn hoàng cung thì Ngọc Ninh Phủ cũng bắt đầu việc tế tự Thanh Minh và đại lễ kỵ giỗ Trịnh đường tiên hiền phái. Đây cũng là nơi đặt linh vị của các bậc khai quốc công thần triều Lê đương đại. Gia nhân đang lăng xăng quét dọn trong ngoài, giẫy cỏ ngoài sân, tỉa gọn những cành quất đang trĩu trái trên các chậu sành đời Tống, kê ghế, lau bàn, chưng bình đơm quả. Người quản gia cẩn thận lấy tay quẹt vào đỉnh đồng để chứng tỏ sự sạch sẽ đến độ tuyệt đối trước khi cung nghinh chư vị thượng khách cùng quần thần Lê triều.

Trịnh Kiểm vận thanh bào có thêu những chữ Thọ tròn trĩnh từ cổ xuống chân, chiếc đai nịt màu hồng nhung có điểm vài hạt dạ châu, đôi hài tía cong vút mới thêu hình con bạch hổ trông thật oai nghiêm. Ông chấp tay sau lưng qua lại vài lần trước đại sảnh đường để kiểm tra những gì thiếu sót. Vừa bước tới trước sạp gụ cẩn xa cừ nơi làm bình phong trước bàn hương áng, họ Trịnh chợt nhớ lại điềm chiêm bao của Ngọc Bảo đã nói tuần qua, nên ông tiến thêm vài bước nữa vào trong điện thờ các vị khai quốc công thần. Nhìn qua rồi nhìn lại, dường như không thấy một cái gì, Trịnh Kiểm trầm ngâm rồi tự vấn một mình :

-Ủa, cái long vị thờ Hữu Vệ Điện Tiền Tướng Quân An Thành Hầu đặt đâu rồi nhỉ ?

-Ủa, sao lạ vậy à ? Trịnh Kiểm rướn mình nhìn sâu bên trong, cả cái lư hương cũng biến đi mất !. Như một linh tính thoáng trong đầu óc hoài nghi, Trịnh Kiểm vội vã quay ngược lại rồi nghĩ sao lại tiến thẳng vào nội cung khi vua Trang Tông chuẩn bị yết triều.

Nghe bước chân có vẻ khẩn cấp, vua Lê vừa nhìn ra thì đã nghe cao giọng của họ Trịnh :

-Khải bẩm hoàng thượng, hạ thần vừa suy nghĩ lại, rằng không nên tiến chỉ Nguyễn Hoàng trấn thủ phương nam. Xin bệ hạ thu hồi chiếu chỉ, bắt Nguyễn Hoàng trở lại triều ca gấp gấp. Trịnh Kiểm đang nghi ngờ những hành động ám muội của Nguyễn Hoàng nên mới hồ đồ, bốp chác như vậy, chứ bình nhật thì họ Trịnh một mặt ra chiều cung cúc nhà vua rất phải phép. Nghe xong thì Lê Trang Tông hơi nhíu mày, khó hiểu bèn nêu thắc mắc :

-Tướng công mới vừa đề nghị rồi nay cũng tướng công  khẩn khoảng triệu hồi. Việc trấn giữ phương nam cũng vô cùng quan trọng, nếu không đưa Nguyễn Hoàng cai quản thì ai xứng đáng để trông nom thay thế ?

Bị hỏi đột ngột, Trịnh Kiểm chưa chuẩn bị nhân sự trong đầu thì từ ngọ môn, võ quan Hoàng Đình Ái xăm xăm bước tới, Trịnh Kiểm như mở cờ trong bụng liền ứng đáp lập tức:

-Phía nam có tả tướng quân Hoàng Đình Ái thì hợp cách vô cùng !

Vua Trang Tông dường như cũng hiểu ra một điều bất tường nào đó cho Đoan quận công Nguyễn Hoàng mà cái chết tức tử của Lạng quận công Nguyễn Uông cũng chưa phôi pha. Đang tìm cách cứu nguy Nguyễn Hoàng thì Hoàng Đình Ái không kịp chờ đến buổi yết triều mà quỳ trước long đường tấu trình :

-Khải tấu hoàng thượng! hạ thần vừa được cấp báo, phía bắc Mạc Đăng Doanh vận chuyển binh mã đang tấn công vào vùng đất giáp giới kinh thành. Xin bệ hạ thiết triều thảo luận phương pháp đối địch ngay tức khắc.

Thật ra từ ngày Lê Duy Ninh lên ngôi hiệu là Lê Trang Tông thì đêm đêm quân nhà Mạc phía bắc tìm mọi cách tiêu diệt nhà Lê. Dù đến đời Mạc Đăng Doanh thay cha trị quốc nhưng nhân tâm và hàng sĩ phu vẫn hướng vọng về tôn thất nhà Lê. Vì vậy mà họ Mạc đã bao phen đánh úp đều bị nhân dân tình báo khai trình nên nhà Lê đã kịp thời cảnh giác, canh phòng. Vừa nghe Hoàng Đình Ái tâu trình như thế, và vị vương đang lo đến an nguy của Nguyễn Hoàng nên dùng kế hoảng binh mà Vua liền phán :

-Lổ rò phải đắp gấp để giữ ruộng nước nuôi lúa. Chuyện phương nam tạm thời để cho Nguyễn Hoàng lo liệu, sau khi ổn định xong thì triệu hồi cũng chưa muộn. Theo ta thì phương bắc cần kíp hơn, sẳn đây ta hạ lịnh cho võ tướng Hoàng Đình Ái chuẩn bị binh lương nội nhật hôm nay tấn binh trừ khử bọn giặc Mạc. Xoay qua Trịnh Kiểm đang phân vân suy nghĩ, nhà vua vặn hỏi :

-Tướng quân, ý ta như vậy có hợp với binh thư đại pháp hay không, tướng công có thiện ý nào nữa chăng ? Trịnh Kiểm cũng hơi ngần ngại nhưng vì chưa tìm ra lý lẽ minh bạch nên cũng du di :

-Tâu bệ hạ, tạm thời như vậy cũng được nhưng đồng thời tìm nhân tuyển thay thế để triệu hồi Nguyễn Hoàng về cung càng sớm càng tốt.

Nhà vua mĩm cười lấp lững : -Hay lắm, thôi để cho Hoàng Đình Ái dẹp xong bọn giặc họ Mạc rồi công cử vào Nam thay thế cũng chẳng muộn màng…

Cực chẳng đã, Trịnh Kiểm gục đầu hài lòng mà tâm tư vẫn còn ấm ức. Giờ này thì Trịnh Kiểm mới tự trách sự sai lầm của mình để cho hổ về rừng mọc cánh. Buổi thiết triều hôm đó chẳng có sự hiện diện của Trịnh Kiểm nên không khí khá hòa nhã, thân thiện, vua tôi luận bàn thế sự mà vui vẻ như đêm ba mươi tết.

 Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng.   

*****

THĂNG HOA CUỘC ĐỜI

Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng

Kỳ 51: Trịnh Nguyễn Phân Tranh

Thoát khỏi sự kiềm chế của Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng dẫn gia nhân tùy tùng và một ít binh lính già nua yếu đuối vào trấn nhậm đất Thuận Hóa. Nghe danh Nguyễn Hoàng là người nhân đức, hiền lương và khiêm tốn, nhân dân cũng gồng gánh xuôi nam nên buổi ban sơ khai khẩn đất đai chừng hơn trăm người ôm nhau sinh sống nơi sơn lam chướng khí.

Vốn thông minh, cần cù Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng xem dân như anh em ruột thịt, đối đãi nhau dùng lễ làm đầu nên buổi bình minh của vùng Thuận Hoá lần lần được khai khẩn cho hoa màu và cây trái xanh tươi. Dù thân làm tướng nhưng Nguyễn Hoàng vẫn còn ôm hận vì họ Trịnh giết anh thì ít mà mưu đồ soán đoạt ngôi vua và lấn áp triều đình thì vô cùng to lớn. Biết rằng đại nghịch bất đạo cần phải khử trừ nhưng binh lực họ Trịnh quá mạnh và triều ca lúc này thường phò thịnh chứ chẳng ai buồn ngó đến phò suy. Khi tiến về  nam phương lập nghiệp, Nguyễn Hoàng đã vào từ đường thỉnh bát nhang và bài vị phụ thân theo cùng; như y lời của Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sự nghiệp ra đi hết mong ngày trở lại nơi chôn nhau cắt rốn.

Năm Ất Dậu (1558) thiên mệnh như dành sẵn xứ Thuận Hóa cho Tiên Chúa Nguyễn Hoàng, thuộc giòng họ Nguyễn làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa. Thúc dục Tiên Chúa dùng Thuận Hóa làm bàn đạp, tiếp bước cha ông, dẫn người Việt đi tiếp đoạn đường trường chinh về phương nam mở rộng cõi bờ.Đất Thuận Hóa hoang sơ như thời tiền sử, không người canh tác, khai khẩn nên sơn lam chướng khí bao quanh càng khiến lòng người mới định cư hoang mang, xao xuyến. Nhưng sự quyết chí của Nguyễn Hoàng, cộng thêm tình người yêu thương gắn bó buổi ban sơ đã xây dựng nên những xóm làng yêu thương, trù phú. Dãy trường sơn trùng trùng điệp điệp như cái xương sống trên vùng đất phía tây đã nẻ ra một dãy Hoành sơn ăn ra tận biển đông chưa có dấu chân người lai vãng. Thú dữ hùm, beo, cọp, sói đã là những chướng ngại nguy nàn khiến không biết bao nhiêu sinh linh mất mạng. Đoàn người đi suốt ngày đêm, cái hừng khí ban đầu tiêu tan thay cho sự chán nản, muốn quay lại kinh thành đô hội, Nguyễn Hoàng an ủi vỗ về và quyết định hạ trại bên giòng sông Hương nơi đất Phú Xuân với bình nguyên bát ngát.

Tấm lòng rộng mở đón chào những hùng anh kiệt hiệt tứ phương của một người đầy đức độ như Nguyễn Hoàng thì chẳng mấy chốc đất Thuận Hóa tràn ngập nhân sĩ; lại nữa đất mới đãi người cần cù nên sau một vụ mùa mà lúa thóc kê đậu dư dả đến nỗi kho độn chất đầy. Dù làm tới tước Quận công nhưng Nguyễn Hoàng ăn bận giản dị, năng nổ cùng người dân cày sâu cuốc bẫm nên danh lừng bốn bể khiến sĩ phu Bắc Hà bất mãn với họ Mạc và chán ghét họ Trịnh chuyên quyền vội tìm vào nam theo Nguyễn Hoàng càng ngày càng đông đúc.

Nhân dân được vỗ về an ủi trong cảnh thái bình với đất rộng, người thưa; thêm vào đó thì sự khai thác về nông nghiệp, lâm nghiệp và hải sản quá ư ưu đãi bởi thiên nhiên nên chẳng mấy chốc mà Thuận Hóa thành khu trù mật khiến Trịnh Kiểm lo ngại khôn nguôi. Lê triều đã có đôi phen triệu hồi mà Nguyễn Hoàng xem chừng như không cần đá động trong khi đất phương Nam cứ thế tiến sâu đầy hoa màu mà bờ cõi cũng một phen mở rộng.

Về phương bắc thì lòng người chán nản sự thoán đạt ngôi vị của nhà Mạc, phần vì sĩ phu, danh tướng của Lê triều cám cảnh nhân tình bị nhà Trịnh bắt nạt chèn ép, kinh tế suy vi, chiến tranh dai dẳng nên càng ngày càng có nhiều nhân tài tìm cách vào Thuận Hóa theo Nguyễn Hoàng lập nghiệp, góp ý xây dựng giang sơn. Những tay anh chị hoàn lương cũng vào nam lập nghiệp mà chẳng mấy chốc đất Thuận Hóa nổi tiếng là trù phú sung túc, hấp dẫn bao thế hệ làm cuộc nam tiến để đổi đời.

Trịnh Kiểm ngồi ở phủ chúa mà lửa đốt tâm can, phần vì chống đở giặc phương bắc do Mạc Đăng Doanh đánh úp, quan quân bất phục rã rời, lòng người than oán tột độ mà vua Lê Trang Tông cũng không mấy can trường, quá nhu nhược nên dân chúng bất mãn dẫy đầy. Tin tức về Nguyễn Hoàng chiêu dụ nhân tài, tích lương luyện mã nên Trịnh Kiểm hối thúc vua Lê triệu Nguyễn Hoàng hồi cung thay thế, nhưng tin đi mà chẳng hồi âm, Nguyễn Hoàng cứ phớt lờ lo củng cố binh lực chống trả.

Sông Linh Giang (còn gọi là sông Gianh thuộc địa phận đèo ngang tỉnh Quảng Bình) cứ lặng lờ trôi nhưng giang sơn nước Việt không dễ thông thương giữa đôi bờ ranh giới. Họ Nguyễn đã ra mặt chống đối họ Trịnh, Trịnh Kiểm xưng chúa thì họ Nguyễn cũng được nhân dân tôn lên làm chúa. Chúa Trịnh đàng ngoài và chúa Nguyễn đàng trong. Một nước có một vì vua: Lê triều; đôi bên cũng giương cờ nhân danh phò Lê diệt kẻ tham tàn.

Năm 1527 Mạc Đăng Dung giết vua Lê Chiêu Tông để tự lên làm vua truyền được năm đời (Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp, Mạc Toàn) thì sự trung hưng của nhà Lê khởi sắc. Nhà Mạc tuy cũng xưng vua nhưng phải bỏ kinh thành Thăng Long mà chạy về Hải Dương rồi tiến lên Lạng Sơn, Cao Bằng nương náu. Đất nước một phen tan hoang, dân chúng ở vùng nào thì bị những kẻ thao túng quyền hành tự tung hành xử như những con cờ trong tay kẻ mạnh. Chiến tranh như lò sát sanh, con cờ ấy được quăng ra chiến trường để sống chết vì một giòng họ mà đất nước tức tưởi cưu mang.

Ai cũng trải qua con đường sanh tử, Trịnh Kiểm có gian hùng hay lương thiện thì cũng chỉ hết một kiếp nhân sanh, năm 1570 thì Trịnh Kiểm qua đời và con trai tên là Trịnh Cối lên thay. Cối là người chất phát, ít mưu lược, không có lập trường nên ai nói gì tin nấy, thích ngâm thơ đọc văn mà chán ghét việc luyện cung tập kiếm nên chẳng bao lâu quyền hành binh lực dần dần về tay Trịnh Tùng, một con người đầy mưu mô xảo quyệt, lập bè lập đảng, lấn áp triều ca, hại kẻ trung thần tiến cử người xu nịnh nên ai ai cũng oán ghét. Lúc bấy giờ vua Lê Anh Tôn đang trị vì thấy kẻ nịnh thần hùa theo Trịnh Tùng, ức hiếp hoàng cung nên lo ngại vô cùng, vương bèn tìm cách họp bàn tính kế với các trung thần còn ít ỏi trong triều, nào dè Trịnh Tùng biết được bèn áp dụng kế sách “tiên hạ thủ vi cường”, ngang nhiên vào cung giết chết Anh Tông rồi lập hoàng tử Duy Đàn lên ngôi vua lấy hiệu là Lê Thế Tôn.

Lòng dân đang hoang mang vì sự việc phế đế làm cho sơn hà cứ thay ngôi đổi chủ, thấy vậy họ Mạc đang ở phương bắc định khởi binh diệt Lê, trừ Trịnh. Trịnh Tùng được mật báo nên vội vã kéo toàn lực binh mã, giương cờ chính nghĩa “phù Lê trung hưng” nên sau mấy ngày đêm Bắc tiến, Trịnh Tùng đã tiêu diệt được toàn bộ binh lực họ Mạc. Dĩ nhiên nhà Mạc phải suy vi vì nhân quả báo ứng, nhưng cũng vì thế mà binh lực của Trịnh Tùng lại quá sức kiêu căng, càng ngày càng làm cho dân chúng muôn phần căm phẩn. Vua Lê Thế Tôn đang ở trong ngôi vị mà nhất cử nhất động đều bị sự giám sát của Trịnh Tùng, quyền hành đối nội, đối ngoại đều phải được thông qua bởi thủ hạ của họ Trịnh nên ngày qua ngày, kẻ trung thần tìm cách ẩn thân mặc cho phe dua nịnh cúc cung tâng bốc, vì vậy mà Tùng tự xưng ngôi vị Chúa Trịnh, vai vế hàng thứ hai, nhưng thực tế thì Trịnh Tùng soán đoạt tất cả quyền hành.                              

            Được tin bất tường như vậy thì phía nam dãy Hoành Sơn, đêm hôm ấy, Nguyễn Hoàng bí mật cùng người hầu cận tìm gặp ẩn sĩ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tham vấn, khí trời tiết thanh minh dìu dịu trong ánh trăng mờ mờ khuất dưới hàng dương liễu, Trạng Trình ngắt một đóa phù dung còn đọng sương khuya rồi nhìn vào đó mà ngâm bài kệ:

“-Hà thời biện lại vi vương.

Thử thời bắc trận, nam trường xuất bôn.

Chim bằng cất cánh về đâu?

Chết tại trên đầu hai chữ quận công.

Bao giờ trúc mọc sang sông.

Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non tây.

Đoài cung một sớm đổi thay.

Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.

Đầu cha lộn xuống chân con.

Mười bốn năm tròn hết số thời thôi.!” (Khi nào có biện lại làm vua thì Bắc Lê Trịnh phải dứt mà Nam Chúa Nguyễn cũng phải tìm đường mà chạy. Nguyễn Hữu Chỉnh ví mình với chim Bằng tức Bằng Trung Công bị giết. Tôn Sĩ Nghị bắc một cái cầu nổi bằng tre vào Thăng Long nên  Nguyễn Huệ mới xưng Quang Trung Hoàng đế (1788), dẫn quân ra Bắc để đánh đuổi quân Tàu. Ðoài cung là phương tây, ám chỉ Nguyễn Huệ thình lình bị chứng huyết vận chết vào năm (1792). Và chữ Quang có chữ Tiểu trên thì vua Quang Toản có chữ tiểu phía dưới, tất cả làm vua được 14 năm)

Làn gió mang hơi lạnh từ núi Yên Tử hắt vào tấm áo bào mỏng manh của Nguyễn Hoàng, ông vội vă bái chào từ tạ người ẩn sĩ, âm thầm nhẫm đọc những lời ngâm nga của tiên sinh rồi cùng kẻ hầu cận quất ngựa về chốn thành đô trước khi mặt trời ló dạng. Vừa ngồi vào bàn viết, ông đã dùng bút lông viết vào tờ giấy đỏ những lời sấm ký để lúc rảnh rỗi mà suy gẫm ý nghĩa nhiệm mầu ứng hiện ra sao trong những ngày sắp tới.

Mặt trời đỏ rực phản chiếu ánh sáng hừng đông trên mặt nước sông Linh Giang ngày đêm êm đềm trôi chảy. Sáng hôm đó nhân ngày rằm tháng Ba, Nguyễn Hoàng lập tức đăng đàn bái tướng, xưng là chúa phương nam, trấn đóng Thuận Hóa, giương cờ chính nghĩa “diệt Trịnh phù Lê”. Con cháu Lạc Long Quân và Âu Cơ giữa hai bờ sông Linh Giang tự dưng trở thành  đối nghịch bởi từ đây đôi ngả phân ly, kẻ Bắc thuộc cơ ngơi Chúa Trịnh cũng treo cờ dóng trống phù Lê, người Nam thuộc biên cương chúa Nguyễn tự nhận mình có trách nhiệm diệt Trịnh phù Lê, tưởng rằng ngày một ngày hai non sông sẽ thu về một mối, nào ngờ đâu thù hận sâu dày, sông Linh Giang làm mốc ngăn tường để hai họ Trịnh Nguyễn phân tranh, lôi cuốn cả dân tộc vào vòng tranh chấp, muôn dân đồ thán, kinh tế eo xèo, tình người nghi kỵ và nền văn hóa bể thành những mảnh vụn của cục bộ, ly khai.

Trong tình thế đối đầu sống chết, cả hai họ đều tìm cách củng cố quyền hành, khai khẩn đất hoang, chiêu hiền đãi sĩ, chuẩn bị binh lực, cầu cạnh thông thương cùng lâng bang kể cả việc chiếm đất những quốc gia phương nam như sách lược bành trướng lãnh thổ. Phía bắc, sau khi diệt được họ Mạc, chúa Trịnh tìm cách lân la với nhà Minh bên Tàu để làm chỗ dựa vững chắc cho công cuộc chống Nguyễn phía đàng trong. Nguyễn Hoàng cho đắp lũy Trường Dực tại Phong Lộc trên dòng sông Nhật Lệ, Đồng Hới còn được gọi là lũy Thầy để chận đứng cuộc tiến quân từ bắc phương, song song với sự chuẩn bị quốc phòng đầy nghiêm mật, các chúa Nguyễn kế tiếp lấy nước Chiêm Thành và Chân Lạp để mở rộng bờ cõi về phuơng nam. Suốt cuộc phân kỳ có đến bảy lần giao chiến giữa nam và bắc, vẫn không chiến thắng và chiến bại giành cho chúa nào ở đàng ngoài lẫn đàng trong nhưng chắc chắn một điều đớn đau cho cả dân tộc với cuộc nội chiến đầy phi lý chỉ vì cái bản ngã quá to đầy tham vọng, vị kỷ và thù hận của hai họ Trịnh Nguyễn gây ra.

Dòng sông Linh Giang cứ thế lặng lờ trôi trên hai trăm năm, người dân Việt hai miền nam, bắc tưởng chừng như hai quốc gia biệt lập đối đầu. Những sĩ phu ưu thời mẫn thế chỉ biết đốt hương khấn nguyện đất trời cho một vị minh vương xuất hiện, niềm tin về vua Lê không còn giá trị mà đối với chúa Trịnh, chúa Nguyễn cũng chỉ là những kẻ thời cơ, hồn dân tộc như âm dương cách trở; nghĩa đồng bào như sớm nắng, chiều mưa. Triều Lê hưng suy bởi sự thạnh suy của đất nước, chiêu bài phò Lê lạc lẽo như nước ốc lạnh tanh… May thay, dù vật đổi sao dời trên hai thế kỷ mà ngôn ngữ trần gian của dân tộc Lạc Hồng vẫn còn nguyên vẹn, du dương huyền nhiệm như thuở khai thiên, và rồi lời khấn nguyện linh thiêng cũng có lần ứng hiện, ban mai đây khi ánh dương tưng bừng khắp chốn thì biết đâu xuất hiện những bậc kiệt hiệt hùng anh vì đại nghĩa dân tộc mà xông pha trận mạc quyết một lòng thống nhất giang sơn hầu nam bắc quy về một mối.

 Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng




VĂN: THƯ GỬI CHỊ- NGỌC HẠNH




NHẠC TRẦN ĐẠI BẢN – 2 CA KHÚC: MẢNH VỠ TRÁI TIM Thơ Đăng Nguyên & HUẾ ƠI! Thơ Trần Quốc Bảo.

Mảnh Vỡ Trái Tim – Thơ Đăng Nguyên – Nhạc Trần Đại Bản – Ca sĩ Kana Ngọc Thúy

Huế Ơi – Thơ Trần Quốc Bảo _ Nhạc Trần Đại Bản – Ca Sĩ Vân Khánh




CA KHÚC CUỐI ĐƯỜNG MẸ ĐI -Thơ Võ Đại Tôn (1975) – Nhạc Võ Tá Hân (2020) – Tiếng hát Lâm Dung

CUỐI ĐƯỜNG MẸ ĐI -Thơ Võ Đại Tôn (1975) – Nhạc Võ Tá Hân (2020) – Tiếng hát Lâm Dung




THƠ MẶC KHÁCH: TÌNH CHIẾN HỮU & THƠ HỌA


TÌNH CHIẾN HỮU

*

Tóc đã sương pha, Kính bạn già

Chút tình tỵ nạn chớ phôi pha

Văn chương thi phú luôn gìn giữ

Nghệ thuật Tranh Thơ vẫn thiết tha

Quân sử ghi ơn hồn tuấn kiệt

Cờ vàng thấm máu khúc quân ca

Sử xanh còn đó đời nô lệ

Thức tỉnh lòng dân giữ nước nhà

Mặc Khách 

*

MỘT KIẾP CHINH NHÂN

 (Bài họa )

Quê người tỵ nạn khổ thân già,

Mái tóc giờ đây đã muối pha.

Khổ luỵ quê hương luôn mãi nghĩ,

Hận thù đất mẹ chẳng hề tha.

Quân hành vẫn nhớ hùng câu hát,

Chính khí còn nghe rộn tiếng ca !

Một kiếp chinh nhân tình chiến hữu…

Lòng son tưởng niệm mãi quê nhà !

Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân

*

TÌNH ĐỒNG ĐỘI 

(Bài họa)

Ôi tình chiến hữu mãi không già !!!!

Nhớ thuở nâng ly rượu máu pha.

Đồng đội, thề nguyền – nên gắn bó;

Kẻ thù, nhất quyết – chớ dung tha.

Cam tâm cuốn vó, quân Nam tủi;

Khoái chí vung cờ, giặc Bắc ca.

Nước mất, nhà tan, thân “cải tạo”;

Lưu vong đất khách nhớ quê nhà.

Thảo Chương Trần Quốc Việt




MỜI NGHE 2 CA KHÚC: 1)-Mảnh Vỡ Trái Tim – Thơ Đăng Nguyên – Nhạc Trần Đại Bản – Ca sĩ Kana Ngọc Thúy – 2)- Huế Ơi – Thơ Trần Quốc Bảo – Nhạc Trần Đại Bản – Ca Sĩ Vân Khánh.

Mảnh Vỡ Trái Tim Thơ Đăng Nguyên – Nhạc Trần Đại Bản Ca sĩ Kana Ngọc Thúy

Huế Ơi – Thơ Trần Quốc Bảo – Nhạc Trần Đại Bản – Ca Sĩ Vân Khánh.




KÍNH MỜI NGHE 3 CA KHÚC: 1)- TÓC RỐI – Thơ: Phạm Phan Lang – Nhạc NguyễnTâmHàn – Ca sĩ: Hương Giang. 2)- THĂM ANH NGÀY CUỐI NĂM – Thơ: PhamPhanLang – Nhạc: Mai Hoài Thu – Ca sĩ: Lan Phương. 3)- QUÊ HƯƠNG ƠI TA NHỚ – Thơ phamphanlang – Nhạc Mộc Thiêng – Ca sĩ Thụy Long.

TÓC RỐI – Thơ: Phạm Phan Lang – Nhạc NguyễnTâmHàn – Ca sĩ: Hương Giang.

THĂM ANH NGÀY CUỐI NĂM – Thơ: PhamPhanLang – Nhạc: Mai Hoài Thu – Ca sĩ: Lan Phương.

QUÊ HƯƠNG ƠI TA NHỚ – Thơ phamphanlang – Nhạc Mộc Thiêng – Ca sĩ Thụy Long.




TÓC RỐI – THƠ Phạm Phan Lang * Nhạc NguyễnTâmHàn * Hương Giang




Thơ Song Ngữ: BẢN ÁN của HOÀNG HƯƠNG TRANG & THANH-THANH




Bước Ngoặt – Turning Point – MAI THANH TRUYẾT

Bước ngoặt – Turning point

Nếu bạn vào Google tra chữ “Turning point” của Cambridge Advanced Learner’s Dictionary & Thesaurus © Cambridge University Press sẽ thấy định nghĩa như dưới đây:

Thời điểm mà một tình huống bắt đầu thay đổi một cách quan trọng, thông thường là tích cực) – The time at which a situation starts to change in an important way, esp. positive, way.

Trong lãnh vực văn chương nếu nói đến “bước ngoặt” có thể có định nghĩa như sau:

Bước ngoặt trong một tác phẩm văn học là thời điểm hay một chương sách (mô tả) khi hành động bắt đầu tiến tới đoạn gay cấn (phần quan trọng hoặc kích hoạt nhất) – The turning point in a work of literature is the moment or section when the action begins to move toward the climax (the most important or exciting part).

Bước ngoặt xảy ra khi một điều gì đó đổi hướng và khiến bạn phải đưa ra lựa chọn. Đó là thời điểm bạn quyết định rằng mình cần thay đổi và phản ứng khác đi. Có thể những gì đã xảy ra trước đây không còn là điều bạn muốn xảy ra trong tương lai nữa.

Trong cuộc sống của mỗi người có nhiều bước ngoặt trong nhiều giai đoạn của đời người như:

  • Các mốc thời gian từ nhỏ cho đến trưởng thành, có vợ con, công ăn việc làm, tuổi già…v.v…
  • Học cách nói chuyện với người lạ.
  • Thay đổi cơ thể của tôi áp dụng cho cả nam lẫn nữ.
  • Học cách yêu thích đọc sách.
  • Thực hiện bước nhảy vọt – Taking the leap.
  • Nhận được lời khuyên có ảnh hưởng lớn từ người khác.
  • Tiến về phía trước từ những tổn thương đã vấp phải.
  • Giai đoạn bảy và tám bó:  Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc có Tầm nhìn Cá nhân trong những năm này có thể tạo nên sự khác biệt giữa sự sống và cái chết, cả về mặt cảm xúc lẫn thể chất.
  • Đặc biệt nhứt đối với người Việt, có hai bước ngoặt lớn nhứt trong thế kỷ 20 là năm 1954 với cuộc di cư từ Bắc vào Nam, và ngày 30/4/1975, cuộc di tản trước và sau ngày kể trên. Có thể nói đây không những là một bước ngoặt lớn có thể được xem như là một cuộc đổi đời của nhiều triệu người Việt trong hai thời điểm trên.

Có hai câu hỏi căn bản thường thấy cho mỗi chúng ta là:

Bước ngoặt có ý nghĩa gì trong mối quan hệ giữa người và người?

Các bước ngoặt thường được định nghĩa là các sự kiện làm biến đổi hoặc thay đổi mối quan hệ theo một cách nào đó (Baxter, 2001; Baxter & Bullis, 1986).

Bạn có định nghĩa nào về bước ngoặt trong cuộc đời mình?

Như trong cột mốc quan trọng, một điểm trong chuỗi sự kiện mà tại đó xảy ra một sự thay đổi quan trọng (chẳng hạn như vận may hay rủi của một người), bước ngoặt đến khi mà cuối cùng rồi cũng thừa nhận mình vừa trải qua một bước ngoặt lớn hay một cuộc đổi đời, hoặc chuyển qua một hướng khác hoàn toàn ngược lại với cuộc sống đã và đang nếm phải!

Nhưng dù sao đi nữa, những bước ngoặt trong cuộc đời có thể tạo ra một mớ bòng bong (mess) hoặc một điều kỳ diệu (miracle) tùy theo bạn chọn lựa.

Bạn có thể nghĩ rằng tất cả những bước ngoặt trong cuộc đời đều phải là những khoảnh khắc huy hoàng làm đảo lộn thế giới quan của bạn và khiến bạn hoảng sợ. Nhưng tất cả các sự kiện trong cuộc sống không được tạo ra giống như nhau.

  • Bạn có thể nhận thấy rằng có những lúc bạn đang đi trên con đường vui vẻ của mình và dần dần nhận ra rằng mình đã đến một ngã tư. Đó có thể là sự nghiệp mà bạn từng yêu thích, mà giờ đây bạn cảm thấy khó khăn hơn khi thức dậy vào buổi sáng.
  • Rồi một ngày nào đó, bạn có thể trằn trọc và tự hỏi mình đã từng nhìn thấy điều gì ở người đang ngủ bên cạnh mình. Bạn có thể cảm thấy như thể nó đã đột ngột xuất hiện và bạn chưa chuẩn bị sẵn sàng.
  • Bạn thậm chí có thể tự hỏi mình, “Tại sao tôi phải lâm vào hoàn cảnh nầy?” Hoặc, “Tôi phải làm gì bây giờ?”

Trong mọi trường hợp, đó là khoảnh khắc của sự thật mà bạn mà chính bạn tự khám phá sau một thời gian dài, và vì không thể bỏ qua được nữa, bạn sẽ tạo ra một bước ngoặt trong tâm thức và trong vô thức. Bước ngoặt trong trường hợp nầy có thể gọi là…một ngã rẽ trong cuộc đời.

Câu hỏi tiếp được đặt ra là, khi bạn nhìn thấy một bước ngoặt cho bạn, và bạn phải hành động như thế nào để thích ứng với b gìước ngoặt mà bạn tự vạch ra?

Bước ngoặt xảy ra khi một điều gì, một sự việc đó đổi hướng và khiến cho bạn phải đưa ra lựa chọn. Đó là thời điểm bạn quyết định rằng mình cần thay đổi và phản ứng khác đi. Có thể những gì đã xảy ra trước đây không còn là điều bạn muốn xảy ra trong tương lai nữa.

Đó là những điều thú vị, hoặc có thể là những u uẩn về những bước ngoặt bạn có thể quyết định thay đổi điều gì đó. Và khi bạn làm vậy, có thể một tương lai bất ổn có thể xảy ra khi bạn chọn bước ngoặt đó!

Tóm lại,

Những bước ngoặt thường đáng sợ. Thành thật mà nói, chúng có thể khiến bạn sợ hãi – đặc biệt là khi chúng bất ngờ xuất hiện. Nhưng ngay cả khi bạn mong đợi một sự thay đổi đáng kể trong cuộc sống của mình thì vẫn có thể có rất nhiều điều không chắc chắn đi kèm với nó như bạn đã hoạch định.

Giống như bất kỳ quá trình chuyển đổi quan trọng nào trong cuộc sống, nó có thể chứa đầy sức mạnh với mọi thứ từ sợ hãi đến lo lắng, đau đớn và đau buồn, choáng ngợp và thiếu tự tin; từ đó có thể đưa đến trầm cảm.

Nếu không có tầm nhìn cá nhân, khi đến một bước ngoặt, bạn có thể mắc một trong hai sai lầm lớn: không làm gì hoặc có những hành động đột ngột, thảm khốc và thiếu cân nhắc sẽ khiến cuộc sống của bạn bị đảo lộn. Việc có tầm nhìn cá nhân mang lại cho bạn một công cụ để xử dụng hiện tại và trong tương lai khi bạn điều hướng sự thay đổi trong tiến trình … chuyển hóa của bạn.

Xin nhớ, mỗi khi một bước ngoặt mới đòi hỏi bạn phải xoay trở và chuyển dịch, bạn có thể lấy những kỷ niệm trước đó làm hành trang hay bỏ lại sau lưng. Tùy bạn thôi!

Một tương lai vô định khi bạn chọn một bước ngoặt, hay một chuyển hướng trong một trạng thái tâm hồn không ổn định và nhứt là quỹ thời gian của bạn không còn nhiều.

BƯỚC NGOẶT đáng sợ là vậy đó!

Riêng đối với người viết, vì đã qua tuổi 80, có nhiều câu hỏi What if? cũng có thể là những bước ngoặt cho chuỗi ngày còn lại của cuộc đời:

  • Tôi cảm thấy thế nào về cuộc sống hàng ngày của mình?
  • Tôi có thể làm gì để giữ cho mình khỏe mạnh và hạnh phúc?
  • Tôi có thể thêm gì vào cuộc sống của mình và người bên cạnh để khiến nó thú vị và có ý nghĩa hơn?
  • Tôi có thể cống hiến gì cho những người chung quanh, những người cùng khổ ở quê nhà? Làm thế nào tôi có thể làm điều đó?

  • Ai sẽ được hưởng lợi từ kiến thức và kinh nghiệm của tôi?
  • Tôi đang phải đối mặt với những tổn thất nào khi quyết định lấy những bước ngoặt đầy bất trắc?
  • Tôi muốn thực hiện những thay đổi nào để có được sự cân bằng và kết nối hơn?
  • Và mơ màng (vì đang ở trên mây) hơn nữa, ước gì có một phép “thần thông” cho tôi trẻ lại 20 tuổi để… thực hiện nhữn ước mơ còn đang dang dở!

​Xin kết thúc một đoản văn tản mạn đúc kết từ những góp nhặt cát đá trên mạng cùng với vài suy nghĩ vụng của một ông già…

Xin Quý Bạn cố tránh chọn lựa những quyết định bước ngoặt trọng đại khi quỷ thời không cho phép.

Mai Thanh Truyết

Houston, 2/29/2024