MINH THÚY THÀNH NỘI – Khánh Thành Tượng Đài Việt Mỹ
Khánh Thành Tượng Đài Việt Mỹ
*
Thứ Bảy mừng vui ngày đại lễ
Khánh thành tượng lính Bắc Cali
Công lao người Việt từ lâu đã
Tranh đấu cùng nhau thỏa mãn kỳ
*
Nhớ bạn đồng minh đà chiến đấu
Hy sinh tham chiến chốn sa trường
Thân nhân người Mỹ buồn đau xé
Cám cảnh mẹ già thật quý thương
*
Anh lính miền Nam vì chính nghĩa
Bao nhiêu thương phế nhuốm điêu tàn
Bùi ngùi cảm xúc nhìn pho tượng
Chiến sĩ can trường chịu khổ mang
*
Tạc tượng ơn sâu tình bạn hữu
Lưu danh đôi bạn đẹp vô ngần
Bên nhau sát cánh vì non nước
Đứng giữa mây trời chí khí dâng
*
Đại lễ khánh thành mang biểu tưởng
Mừng vui hãnh diện mãn công trình
Biết ơn những tấm lòng chung hợp
Đẹp tượng muôn người đến đón nghinh
Minh Thúy Thành Nội Tháng 7/13/2024
Sent from my iPhone
SƯƠNG LAM Chuyển Tiếp: Youtube “Lời Phật Dạy”
Kính chuyển tiếp Youtube “Lời Phật Dạy” do anh Tiến TS thực hiện. Youtube ngắn gọn, rất hay để tu tập các hạnh lành. Anh Tiến là người bạn văn nghệ có tâm lành và hay giúp đỡ bạn hữu. SL có thiện duyên được quen biết anh Tiến TS Kính Chúc anh Tiến TS và quý bạn hữu sức khỏe và an lạc.
Sương Lam
THƠ CAO MỴ NHÂN: LỜI NGỢI CA HIỀN HOÀ
LỜI NGỢI CA HIỀN HOÀ . CAO MỴ NHÂN
Nữ sĩ Tuệ Nga cười vui
Thương Cao Mỵ Nhân ngậm ngùi
Toàn làm thơ tình ảo mộng
Từ bao nhiêu năm nay rồi
*
Chị với em trong Quỳnh Dao
Hơn nửa thế kỷ nao nao
Sáu mươi tư xuân ngà ngọc
Hai không hai bốn đẹp sao
*
Chúng mình không ở cạnh nhau
Chị là con Phật đã lâu
Còn em ta bà mộ đạo
Thượng Đế cao vời xưa sau
*
Chị hiền như bà Quan Âm
Chan hoà chân như thiện tâm
Em nặng lòng tin Đức Mẹ
Thủa này tới mãi xa xăm
*
Thời nào mình cũng yêu thơ
Những lời tình ảo mộng mơ
Đưa em tới gần cảm luỵ
Chị ơi, bát ngát mong chờ …
*
Hawthorne 13 – 7 – 2024
CAO MỴ NHÂN
Thăng Hoa Cuộc Đời – Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Thăng Hoa Cuộc Đời – Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 62 Nguyễn Huệ Lên Ngôi Hoàng Đế
Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ khởi binh từ Quy Nhơn ra Thăng Long tiêu trừ chúa Trịnh ngang qua vùng núi Nghệ an, Hà tĩnh nghe đại danh của một nhân vật đặc biệt đang ẩn cư trên núi Thiên nhẫn sau khi từ quan, người đó lại là một trung thần đầy đức độ từng can gián chúa Trịnh không được tiếm ngôi vua Lê, một nhân vật thuộc dòng dõi vọng tộc, con cháu Lưu Quận Công nhưng sớm liễu đạo muốn xa lánh mùi trần tục lụy. Người đó chính là La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp; vì thế mà Nguyễn Huệ rất cảm kích muốn thân hành tới nơi am thất để cầu hiền, thỉnh ý bậc thức giả đem tài trí hộ quốc an dân.
Lần thứ nhất khi đoàn binh đi vòng qua chân núi Thiên Nhẫn, Nguyễn Huệ cho dừng quân và thân hành theo mép rừng tiến về thiền thất nơi có những hàng liễu quanh năm rũ lá chơ vơ. Sau khi diện kiến và tâm sự những trăn trở của nước non, Nguyễn Huệ tha thiết mời tiên sinh hợp tác. Dù quý trọng sự nghiệp hưng binh của Bắc Bình Vương nhưng La Sơn nhất định từ chối vì tự cho là mình chính là thần tử của nhà Lê. Dù vậy khi nhìn tướng pháp của Nguyễn Huệ, trong lòng La Sơn phu tử đã thấy khác lạ của một bậc xuất chúng, vớiđặc điểm nổi trội nhất là tóc quăn, tiếng nói sang sảng như chuông ngân, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối là những thân tướng hiếm hoi của bậc phi phàm.
Lần thứ nhì khi rút quân về lại Phú Xuân thì Nguyễn Huệ cũng thân hành lên vấn an tiên sinh tại thảo lư vào buổi xế chiều. Đôi bên tương đắc kể cho nhau nghe những ưu tư về tiền đồ dân tộc, và rồi Nguyễn Huệ cũng mong được La Sơn phu tử hợp tác cho viên ngọc minh châu được dịp bừng sáng nhưng cũng bị sự khước từ.
-Đã hai lần diện kiến đối ẩm mà tiên sinh nhất mực chối từ việc khẩn khoản này, phải chăng ngài cho chúng tôi bình dân không đủ khả năng mưu đồ quốc gia đại nghiệp, dẹp loạn yên dân? Nguyễn Huệ khiêm cung hỏi.
La Sơn phu tử chậm chạp đáp:
-Bỉ nhân đâu lẽ nhận thức sai lầm đến thế. Xưa kia Lưu Bang Hán Cao tổ là người bình dân, Lưu Huyền Đức là người thợ giày, Bình Định vương Lê Lợi là nông dân áo vải đất Lam sơn mà đem lại thái bình cho trăm họ thì ngày nay tài đức và độ lượng của đại vương cũng sáng chói một phương. Ngặt nổi hiện thời bỉ nhân vốn thờ vua Lê nên đạo làm người khiến không đi hai hàng một lượt.
Ngậm ngùi chia tay vì không vời được Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân giúp nuớc, Nguyễn Huệ cầm tay La Sơn phu tử ân cần chúc phúc, uớc mong có duyên tao ngộ để cùng nhau đem tài trí hưng bang tế thế, giải cứu sơn hà. Nắng chiều vàng nhạt xuyên qua tàng lá đưa từng sợi tà dương in thành mảng cô liêu trên suốt dặm đường. Tiên sinh cũng cảm nhận được cái chí khai thiên phá thạch của con người nông dân áo vải này, nhưng cung cách nhà Nho vốn tôi trung chẳng thờ hai chúa, vì vậy mà dù tâm phục tới đâu cũng khó cho La Sơn phu tử, con nguời của cửa Khổng sân Trình dễ gì lay động được tâm can một khi người đã quyết.
*
Đại quân Tây Sơn đầy khí thế với một lòng quyết bảo vệ non sông, nhân dân nghe tin đoàn hùng binh tiến ra Bắc tiêu diệt bè lũ xâm lăng, bán nước nên ai nấy đều tự nguyện đóng góp lương thực, thuốc men và khuyến khích trai làng tòng quân giết giặc.
Tờ mờ sáng đầu tháng chạp năm Mậu Thân, đại binh đóng quân ở núi Bàn Sơn để lập kế hoạch hành quân thì bỗng nhiên có một lão ông trông hình thái tiên phong đạo cốt chống gậy đòi gặp cho được Bắc Bình Vương.
Nghe quân báo, Nguyễn Huệ biết có hiền tài giúp sức nên vội vã y áo chỉnh tề bước ra nghênh tiếp. Ai ngờ, vừa thoáng thấy tiên sinh, vương vui mừng quên cả giữ lễ nên tiến gần cầm tay lão trượng, hoan hỷ cất lời chào mừng:
-Ối chà, thế nào ta cũng ghé thăm tiên sinh khi ngang qua Nghệ Tĩnh, ai ngờ chưa đến Thiên Nhẫn mà người tri kỷ đã chống gậy đến đây, hay quá! hay quá!
Nét mặt còn dính bụi đường, La Sơn phu tử đáp lễ bằng sự nghiêm trang, chậm rãi:
-Hai lần trước, sở dĩ tôi từ khước lời Ngài vì vua Lê còn đó. Nay Lê Chiêu Thống rước voi về giày mả tổ là hành động của tên phản quốc thì bỉ nhân nhất định theo ngài để hưng quốc an dân, giúp ngài tiêu trừ giặc Mãn Thanh, đem an lạc cho cơ đồ dân Việt.
Nguyễn Huệ quá đỗi vui mừng liền mời tiên sinh ngồi vào ghế quân sư chẳng khác nào Lưu Bị đời hậu Hán mời được Khổng Minh Gia Cát Lượng (Gia Cát Lượng (181–234) là quân sư, đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả. Ong đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ, Liên nỏ, Mộc ngưu lưu mã, chế ra đèn trời [Khổng Minh đăng] và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa). Tiếp đó, La Sơn phu tử bày mưu:
-Cổ nhân có nói: “sư xuất vô danh, sự cố bất thành” nghĩa là xuất quân không có chính danh nên đại sự không thành; nay đại vương thân hành ra đất Bắc để đánh giặc Mãn Thanh cứu nước, vì thế để muôn dân quy về một mối thì đại vương phải hành động như một Hoàng đế danh chánh ngôn thuận, nhất hô bá ứng thì trăm họ mới hết lòng phò tá mà cùng nhau đuổi giặc, trừ nguy.
Mùa đông, sáng sớm và ban đêm đều có sương mù mờ mịt, mưa nhè nhẹ nhưng dai dẳng suốt ngày, cái lạnh pha chút ẩm thấp làm cho người ta thích tìm sự bình an, ấm áp nghỉ ngơi; nhưng ngày Mười hai Tháng Chạp năm Mậu Thân thì khác hẳn, vì đại sự cứu nguy dân tộc khỏi nạn xâm lăng, Nguyễn Huệ cho lập đàn ở núi Bàn Sơn tế cáo trời đất lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung thống lĩnh tất cả thủy bộ đại binh tiến nhanh ra Bắc.
Kế hoạch của quân sư đưa ra là đại binh phải “hành quân thần tốc” để kịp thời gian không cho địch trở tay. La Phu tử nghe báo cáo quân địch lên đến hai mươi vạn hùng hậu thì liền tâu với vua rằng: -Đại quân của Hoàng đế kéo từ Phú Xuân ra đây chưa đủ túc số để chống lại Mãn Thanh, giờ này về lại đàng trong chiêu binh thì mất đi thời gian tính, vậy ngay tức khắc xin Hoàng đế tuyển mộ trai tráng ở đất Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh vì nơi đây anh hùng hảo hớn cũng nhiều mà đất thượng võ xưa nay từng nổi tiếng. Thuở vua Trần đánh quân Nguyên Mông đã mộ binh chốn này nên có câu “hoan diễn do tồn thập vạn binh” (Năm 1285 Hưng Đạo Vương vâng mệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà để đánh quân Nguyên. Người theo rất đông. Vua khen qua câu thơ: Cối kê cựu sự quân tu ký, Hoan Diễn do tồn thập vạn binh là Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ, Hoan Diễn còn kia chục vạn quân) là vậy.
Nghe vậy, vua Quang Trung truyền ba quân nghỉ ngơi nửa tháng tại Nghệ An để tuyển mộ thêm binh sĩ và đúc bánh đa làm lương khô chuẩn bị chuyển quân. Khi trai tráng trong các xứ tuyển mộ khá dồi dào, La Sơn phu tử trình bày thêm chiến lược và chiến thuật hành quân như sau:
-Hai mươi vạn quân Thanh kéo sang nước ta quá dễ dàng, chúng đang kiêu căng, khinh địch và ngạo mạng, doanh trại chưa thiết lập xong, phong thủy đông giá trở trời cũng tác động đến cơ thể từng tên giặc. Vậy chiến lược và chiến thuật của ta là tốc chiến quyết tốc thắng.
Binh thư đã dạy: “Dĩ dật đãi lao giả thắng” ( Lấy khỏe để thắng mệt), do thế mà ta phải “công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý giả tất thắng” (Tấn công kẻ thù lúc chúng không phòng bị, hành động khi chúng không ngờ tới). Xưa nay chiến lược đánh phủ đầu cần phải “tiên phát giả chế nhân, hậu phát giả chế ư nhân” (Trước ra tay đánh gục kẻ thù. Sau đột nhập được vào trong thì có thể kiến cơ hành sự tiến hành đại kế).
Vua Quang Trung gật đầu cho là chí lý, bèn hỏi tiên sinh cách nào nhanh nhất để tiến quân ra Thăng Long thành.
-Tâu hoàng đế, theo dự liệu của giặc Mãn Thanh và bọn bán nước cầu vinh thì ít nhất đầu tháng Hai quân ta mới đến đất Bắc, hãy tạo bất ngờ cho chúng chẳng kịp trở tay, chỉ có chạy thật mau không ngừng nghỉ, hai người khiêng một thay đổi hàng giờ mà bảo đảm tốc độ liên hoàn không dừng lại.
Tuyệt vời! vua Quang Trung lần nữa gật đầu tán thưởng, liền đó Ngài cho binh lính chia mỗi tổ thành ba người, lấy tre bện thành những chiếc võng để hai người khiêng một đặng giảm đi sự mệt nhọc mà liên tục tiến quân ra Thăng Long.
Riêng tượng binh và kỵ binh thì vua Quang Trung phái nữ tướng Bùi Thị Xuân điều động một trăm thớt voi, hai trăm con chiến mã theo đường núi tiến ra Bắc suốt ngày đêm không nghỉ, bảo đảm rằng nữ tướng Bùi Thị Xuân cùng tượng binh đến được phía nam thành Thăng Long trước vài ngày đón chờ bộ binh đặng hợp lực cùng nhau phá thành.
Khí thế toàn dân đang chờ đợi một minh quân lãnh đạo non sông, vua Quang Trung bèn ban huấn dụ cho bá gia bá tánh cùng hưởng ứng chống ngoại xâm, đồng thời nhờ thế mà mộ được hơn mười vạn trai tráng tòng quân; cờ Tây Sơn phất phới hiên ngang theo đại lộ đến đèo Ba Dọi núi Tam Điệp là địa điểm giữa tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình thì gặp Đại tư đồ Ngô Văn Sở và Vũ Văn Nhậm cung đón.
Nh́n thấy nét lo âu trên khuôn mặt của các vị đại thần, vua Quang Trung bước tới khen Vũ Văn Nhậm là người đầy mưu trí, bảo tồn được tính mạng của binh sĩ, phải nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của chúng, chỉnh đốn hàng ngũ rút về nơi hiểm yếu, trong thì nâng lòng quân kích thích, ngoài thì khiến lũ giặc kiêu căng. Nhân gần đến ngày nguyên đán năm Kỷ Dậu, hoàng đế cho quân binh ăn tết trước, căn dặn binh sĩ cùng bá quan rằng:
-“Chúng nó sang phen nầy là mua lấy cái chết đấy thôi, ta ra đi chuyến nầy, thân coi việc quân, đánh giữ đã có định mẹo rồi, đuổi quân giặc về Tàu chẳng qua mười ngày là xong việc”.
Đoạn, ngài xoay qua phía Vũ Văn Nhậm và các quan văn, tướng võ vua nói tiếp.
-Chúng là nước lớn gấp mười lần nước ta, sau khi thua, thế nào cũng xấu hổ mà tìm cách báo thù, như thế thì đánh nhau mãi mãi không thôi, dân chúng lầm than ta đâu nỡ thế. Vậy đánh xong trận nầy ta phải cậy tài của tiên sinh Ngô Thời Nhậm dùng ngòi bút để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mười năm nữa nước Việt trở nên phú cường rồi, thì ta không cần phải kiêng dè chúng nó nữa!”
Nói xong, vua Quang Trung bố trí chiến thuật, chia quân ra làm năm đạo như sau:
– Đạo quân thứ nhất do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết thống lĩnh thủy quân với ba trăm chiến thuyền đi cánh hữu tiến vào sông Lục đầu đánh tan quân Lê Chiêu Thống đóng tại Hải Dương và hỗ trợ cho bộ binh đánh thẳng vào phía đông thành Thăng Long.
– Đạo quân thứ hai do đô đốc Nguyễn Văn Lộc dẫn bộ binh phía hữu tiếp ứng đội quân thứ nhất kiêm thống lĩnh hai trăm chiến thuyền vào sông Lục Nam rẽ ngược lên Phượng nhãn, Long giang qua Yên thế chận đường rút lui của giặc để thu khí giới, quân lương và giữ hướng bắc không cho địch tiếp tế.
-Đạo quân thứ ba do Đô đốc Nguyễn Văn Bảo chỉ huy đội tượng binh và kỵ binh hỗ trợ cho đạo quân chủ lực đánh thốc vào hướng tây nam đồn Ngọc Hồi, kế đó tiến binh theo đường Sơn Minh đánh bọc hậu dứt điểm đồn Ngọc Hồi tại làng Đại Áng , huyện Thanh Trì.
-Đạo quân thứ tư do Đô Đốc Nguyễn Khắc Long chỉ đạo theo cánh tả trực chỉ hướng tây bắc qua Chương Đắc đánh thẳng vào quân Điền Châu của Sầm Nghi Đống đang đóng tại gò Đống Đa mở đường tấn công Thăng Long thành.
– Đạo quân thứ năm là chủ lực quân do chính vua Quang Trung điều khiển có Đại tư mã Ngô Văn Sở và Nội hầu Phan Văn Lân làm tiên phong đánh hướng nam thành Thăng Long là mặt phòng thủ chính yếu của quân Mãn Thanh.
Sau khi phân bố các đạo quân xong, vua Quang Trung truyền hịch xuất binh:
“Quân Thanh kéo sang xâm lấn, các ngươi đã nghe tin ấy chăng? Trong vòng trời đất chia theo phận sao Dực, Chẩn; nam bắc vẫn riêng một non sông. Người nước Bắc không phải nòi giống ta thì tất phải khác dạ. Từ đời Hán về sau họ cướp đất đai ta, tịch thu cá thịt, vơ vét của cải, nông nổi ấy không sao chịu được; người nước Nam quyết nghĩ cách đánh đuổi chúng đi.
Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ vì không chịu bó tay ngồi nhìn quân xâm lăng tàn bạo nên phải thuận lòng người, dấy nghĩa quân đánh thắng rồi đuổi chúng về. Sau khi đó thì nam, bắc rõ lại phân ranh, bờ cõi yên ổn, vận nước lâu dài, nên từ nhà Đinh tới nay chúng ta không phải chịu cái khổ Bắc thuộc; việc chung muôn dân có lợi lộc, được thua chuyện cũ rành rành ra đó.
Nay nhà Thanh không coi gương Tống, Nguyên, Minh lại âm mưu chiếm nước Nam ta đặt làm quận huyện, vậy ta phải vùng lên mà khử trừ đi!”
Ba quân tuớng sĩ đồng thanh hô vang lừng:
-Quyết chiến! Quyết chiến.
================
Thăng Hoa Cuộc Đời – Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 63 Chiến Thắng Đống Đa
Vua Quang Trung hạ lịnh xuất binh vào đêm trừ tịch, nổi trống, đốt lửa khí thế hào hùng, tiến binh ào ạt. Lợi thế của tổ ba người thì kẻ nằm trên võng đọc to khẩu quyết võ công cho hai anh khiêng học theo khỏi mệt, nhờ thế mà chặng đường hành quân, các tân binh hiểu được các thế võ công cần thiết vừa thủ cho mình mà cũng có công năng diệt được quân Thanh mau chóng. Thấy khí thế hừng hừng rực cháy, vua Quang Trung phủ dụ quân sĩ rằng: “ngày mùng Bảy tết Kỷ Dậu chúng ta sẽ vào thành Thăng Long ăn tết.”
Sau ba ngày đêm theo đường bộ đến Giản thủy, quân Tây Sơn gặp quân lính của Lê Chiêu Thống và tiền binh Mãn Thanh đóng tại đồn Gián Khẩu cản trở, quân Tây Sơn thần tốc, táo bạo đánh một trận tan vỡ và đích thân vua Quang Trung gióng trống cho ba quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên thì bắt sống hết thảy chẳng sót một tên. Do đó, không có quân địch nào khả thể chạy về báo cho Mãn Thanh đang đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi biết được.
Nửa đêm ngày mùng Ba tết năm Kỷ Dậu, quân Tây Sơn vây kín đồn Hà Hồi rồi dùng chiến thuật phủ dụ, dùng loa kêu gọi giặc Thanh đầu hàng. Vì tiếng hò la pha lẫn tiếng trống trận, phèn la làm cho địch quân khiếp đảm phải mở cửa thành xin hàng, giao tất cả quân lương, vũ khí khiến ngày xuân nở hoa tại Hà Hồi không rơi một giọt máu.
Giờ Dần ngày mùng Năm, quân Tây Sơn đã tiến đến Ngọc Hồi thì bị quân Thanh bắn súng đại bát như mưa. Sau khi bao vây bốn hướng, vua Quang Trung duyệt xét tình hình chiến sự bèn sai ba người lính làm một tấm ván có bện thêm rơm rạ và nước tránh lửa rồi xung phong tiến vào theo sau là hai chục người cầm binh khí, giắt dao nhọn tiến theo. Thân hành vua Quang Trung lên bành voi, cho đánh trống thúc chiến liên hồi khiến ba quân hăng máu ào ạt như thát lũ tiến đến cửa đồn rồi ngả ván tràn vào xáp chiến. Quân Mãn Thanh tan vỡ, đạp lên nhau chạy trốn, xác nằm ngổn ngang, máu chảy lênh láng; đến giờ ngọ thì quân Tây Sơn chiếm được Ngọc Hồi.
Theo kế hoạch đã định, đô đốc Nguyễn Khắc Long đánh úp vào Khương Thượng ở đồn Đống Đa tiêu diệt đội quân của tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống khiến viên tri phủ nầy không biết làm sao hơn là phải treo cổ tự tử.
Đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thường Duy Thăng và một số tướng Mãn Thanh bị chém chết ngay tại doanh trại hoặc tự sát tại các đồn khi quân Tây Sơn bao bọc tứ phương.
Điều trớ trêu vô cùng tủi nhục là khi hay tin Tôn Sĩ Nghị đem binh vào Thăng Long, thì ở Nam hà Nguyễn Phúc Ánh mừng rỡ vô cùng liền cho tướng Phạm Văn Trọng và Lâm Đề mang thư sang triều đình Mãn Thanh tỏ lòng hoan nghênh thần phục, lại đem năm mươi vạn cân gạo giúp quân Thanh lưu trú Bắc hà, nhưng hởi ôi! thuyền ra đến cửa biển thì bị bão tố hoành hành làm đắm toàn bộ giấc mộng nô lệ của Nguyễn Phúc Ánh.
Trong khi đó, cung thành Thăng Long đèn hoa rực rỡ, Tôn Sĩ Nghị đang uống rượu thưởng xuân với đào non gái đẹp, ngày đêm bắt kỹ nữ múa hát âm vang, rượu bồ đào mỹ tửu hâm nóng hết bầu nọ, hủ kia và trâu bò cứ xẻ thịt nướng lên làm đại yến; Lê Chiêu Thống thì ra sức trả thù như trường hợp của Hoàng đệ Lê Duy Lưu và phò mã Dương Hành bị chặt chân quăng giữa chợ vì có liên hệ đến Tây Sơn. Từ các đời tiên đế chưa có một mùa xuân nào ô nhục, điêu tàn mà hương khói các đền đài cũng âm u lạnh lẽo.
Đêm mùng Năm tết Kỷ Dậu, ánh trăng lưỡi liềm nhỏ xíu không đủ tỏa ánh sáng huyền hoặc xuống nhân gian, nhưng chị Hằng vẫn lờ mờ chiếu rọi đủ đưa bước chân đoàn nghĩa quân Tây Sơn tiến đúng lộ trình để vây hãm kinh thành.
Nửa đêm hôm đó Tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị vẫn còn ngà ngà say, vị nồng của rượu, vị mặn của thực phẩm cùng với men tình choáng váng đã khiến cho thần trí của bổn quan xâm lược quay cuồng; hung tin báo về đồn Hà Hồi thất thủ, đồn Ngọc Hồi bị đại quân Tây Sơn tàn sát, Sầm Nghi Đống treo cổ tự tử, Hứa Thế Hanh và các tùy tướng bị giết không còn manh giáp khiến Tôn Sĩ Nghị khiếp đảm tinh thần, tay chân run rẩy, đại tiểu tiện bầy nhầy, không kịp thắng yên cương, chẳng còn giờ mặc giáp bào, bỏ quên cả ấn tín và mật chỉ của vua Càn Long, ôm lưng ngựa cùng vài tên kỵ sĩ chạy thoát thân qua sông Hồng Hà.
Quân Mãn Thanh nghe tin chủ soái bỏ trốn bèn vội vã tranh nhau vượt cầu phao bắc ngang hai bên bờ sông Hồng, quá tải nên cầu bị sập đổ, khiến hàng ngàn quân Thanh sụp xuống dòng nước đang cuồn cuộn trôi, số bị chết đuối, số còn lại bị bắt tính không kể xiết.
Hai đạo quân Vân Nam, Quí Châu của Mãn Thanh đóng tại Sơn Tây nghe hung tin về chủ soái Tôn Sĩ Nghị tháo chạy, các đại tướng đều tử trận nên vội vàng rút quân tháo lui. Không dễ dàng như vậy, Vua Quang Trung đã cho Đô đốc Nguyễn Văn Lộc phục kích hai bên đường rút binh, khi hai đạo quân xâm luợc hớt hãi tháo lui thì bị Tây Sơn đón đánh một trận tơi bời hoa lá làm cho hàng chục ngàn tên xâm lược đưa tay đầu thú, số còn lại lén núp trên rừng rồi mò về biên giới mà vẫn chưa hết sợ. Riêng Tôn Sĩ Nghị trốn chạy tới Quảng Tây mà vẫn còn hồn phi phách tán, chưa biết quân Tây Sơn tài tình ra sao và dùng lối thần tốc thế nào đánh một trận kinh thiên động địa như vậy?
Lê Chiêu Thống cũng bám sát Tôn Sĩ Nghị chạy theo về Tàu rồi phải sống cuộc đời ô nhục vì triều đình Mãn Thanh buộc phải ăn mặc theo phong tục Bắc phương, bị khinh rẻ vì nhu nhược và ngu muội nên ôm nỗi thống khổ nhục nhã mà băng hà ở Quế Lâm vào trung tuần tháng Mười năm Quí Sửu (1793) hưởng dương 28 tuổi.
Áo bào của vua Quang Trung đen cháy vì thuốc đạn, giày vớ đều bị rách tươm và cổ họng đắng chát bởi gào thét thúc ba quân hăng say tiến chiếm mục tiêu; các đại tướng Tây Sơn đang kiểm xem binh sĩ, băng bó nghĩa quân, thu hoạch chiến công chuẩn bị tập hợp toàn quân tiến vào nội thành Thăng Long kịp chính Ngọ ngày mùng Năm tết Kỷ Dậu đặng mở tiệc khao quân, ca khúc khải hoàn, phủ dụ toàn quân ăn mừng tết chiến thắng.
Dân chúng Hà thành vui mừng không kể xiết, đặt bàn hương án cung kính đón chào; từ ngày Lê Chiêu Thống rước giặc vào nhà thì dân lành đau nhói, cầu trời khẩn Phật ngày đêm cho có một Phù Đổng Thiên Vương xuất hiện. Giấc mơ đó đã thành hiện thực đang xảy ra với bao niềm hân hoan, ái mộ.
Đoàn quân vừa ngang qua cung điện Kính Thiên, những cành đào đỏ chói vẫn vô tình hé nhụy như chứng kiến cuộc rút chạy nhục nhã của vua Lê cùng bọn tùy tùng đuổi theo vó ngựa của kẻ xâm lăng, vua Quang Trung rút gươm chặt đứt một nhánh đào ươm nụ thật đẹp giao cho đô đốc Nguyễn Văn Tuyết cấp tốc mang về thành Phú Xuân trao tận tay Ngọc Hân công chúa để báo tin thắng trận huy hoàng.
Ngọc Hân công chúa nhận được cành đào còn chưa nở lộc đươm xuân liền reo mừng báo tin cùng bá quan trong thành niềm tự hào cảm động vô biên. Tin chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa loan truyền mau lẹ làm cho bá tánh Đại Việt cảm kích và hoan hỷ như chưa từng có niềm vui nào sánh bằng.
Dân chúng đất Thăng Long trở lại cảnh thanh bình, không còn một tên xâm lược cũng như bè lũ bán nước của Lê Chiêu Thống lẩn quẩn đâu đây. Trời đang độ ngày xuân nhưng tiết lạnh vẫn còn nhức nhối, binh sĩ hai bên thương tật khá nhiều mà gò Đống đa thì xương quân lính Mãn Thanh chất cao như núi, vua Quang Trung nghẹn ngào cho cuộc chiến xâm lăng bèn truyền lịnh sai quan Thị Lễ lo tổ chức đàn tràng kỳ siêu bạt độ các vong linh chết trận vừa rồi. Tiếng trống trầm hùng cùng hồi chuông gọi hồn dân tộc vang vọng cả bầu trời mới vừa giải phóng, nghi thức tế cáo chiêu hồn được tổ chức hết sức trang nghiêm dưới trướng điện Kính Thiên vào giờ Ngọ ngày mùng Năm, đích thân vua Quang Trung đọc bài văn tế để an ủi linh hồn của bao chiến sĩ vì chủ soái của mình mà hy sinh trận mạc, lời văn đầy cảm khái, ý đạo tràn nghĩa tình khiến lòng thành của bao quan quân sĩ tứ ngập niềm cảm xúc, bi ai.
Hoàng đế Quang Trung rảo bước trên những con đường đất đỏ Thăng Long không còn thâm u trầm mặc như xưa, nhà vua cảm nhận được sinh khí nhộn nhịp ngựa xe, chân người, và cây cối hữu tình dù bây giờ chỉ là khoảnh khắc lặng thinh. Không gian bao la và cao rộng mà tổ tiên Đại Việt đã đổ biết bao máu xương gầy dựng cơ nghiệp này. Niềm biết ơn dâng lên ngùn ngụt vì trong từng ngọn cỏ, cành cây, giọt nước sương mai hay âm ba vang động đều mang dáng dấp của bao triều đại đi qua mà sự lao tâm khổ nhọc của tiền nhân để phấn đấu từng phút giây gìn giữ quê hương là một chiến tích hào hùng in đậm nét trong mỗi hạt bụi, cành hoa. Vua Quang Trung đang nghĩ đến Lê triều đôi ba trăm năm rồi thương cho thân phận một vị vua chỉ vì quyền lợi cá nhân hay gia đình nhỏ nhặt mà quên đi cái di hại ngàn đời của dân tộc lớn lao.
Hoàng đế không ung dung bước vào Thăng Long như Lê Chiêu Thống mà phải hy sinh hàng vạn binh hùng tướng mạnh mới tự tại rảo bước chung quanh, quả thật một chiến công nào cũng xây trên xương máu hàng vạn lương dân, hành xử không khéo là mối nguy cho sơn hà xã tắc.
Hoàng đế còn đang thả hồn về nguồn cội các vua Hùng mở nước thì phía sau nghe tiếng hò hét của quân binh đang tuốt kiếm dẫn đoàn tù binh Mãn Thanh về nơi tập kết; nhìn vào đôi mắt thâm quầng và gương mặt lấm lét, khiếp sợ của đám quân xâm lăng trong những bộ áo quần lem luốt, vua Quang Trung chỉ thị cho đội cận vệ phải đối xử tử tế, xuất kho lấy áo quần tươm tất cho mặc, nhà bếp nấu cơm cho đám tàn quân ăn uống no đủ đặng chờ ngày dùng làm “địch vận” thả về cố quốc. Nhân đó vua cho loan truyền những lời phủ dụ đến các tầng lớp nhân dân để bớt sự hoang mang, đồng thời kêu gọi những binh sĩ Mãn Thanh còn trốn tránh đó đây nhớ mau mau ra hàng để được hưởng khoan hồng mà triều đình nước Nam sẽ đưa xuống thuyền hồi quy bổn quốc.
Lịnh truyền đã xong và quân Tây Sơn phục mệnh thi hành, nhà vua bước vào thư phòng, nhìn trên bàn giấy có vô số mật thư, ấn soái của Tôn Sĩ Nghị và một tờ mật dụ của vua Càn Long nhà Thanh viết cho Tôn Sĩ Nghị như sau:
“Nghe lời tâu của khanh, trẩm cho phép đem binh mã ra cửa ải nhưng phải từ từ đừng vội vã; trước phải truyền hịch ra oai, rồi cho các quan nhà Lê về nước để chiêu tập lực lượng và tìm ra Duy Kỳ đương đầu với Nguyễn Huệ. Theo dõi họ chọi nhau mà đoán chừng những phương cách để đối phó.
Nếu dân Nam còn mến vua Lê thì Nguyễn Huệ ắt phải thua và lui binh, bấy giờ cho Duy Kỳ tiến quân đuổi bắt còn khanh thì kéo quân theo sau hỗ trợ, thế là không khó nhọc mà lại sớm thành công.
Nhược bằng nước Nam nửa theo phe nầy, nửa vọng phía kia thì Nguyễn Huệ chắc không chịu lui thì Khanh nên đưa thư chỉ bảo họa phúc để xem Huệ xoay trở thế nào?
Khi nào thủy quân của ta từ Phúc Kiến và lưỡng Quảng kéo ra biển khơi, Khanh cứ đánh lấy Thuận hoá, Quảng ngãi trước rồi thúc quân tiến lên khiến Nguyễn Huệ thọ địch ở cả sau lưng lẫn trước bụng ắt phải đầu hàng. Lúc đó ta cứ nuôi sống cả hai; từ Thuận hóa vào nam thì cắt chia cho Huệ, còn từ Nghệ an ra Bắc thì chia cho Lê tự tôn. Ta đóng đại binh ở giữa, cai quản cả hai rồi sẽ tính kế về sau.”
Đọc xong tờ mật dụ, vua Quang Trung mỉm cười rồi quay sang Ngô Thời Nhiệm nói rằng:
“-Trẫm xem tờ chiếu Càn Long chẳng qua lấy cớ để chiếm nước ta. Nay đã bị đánh tan một trận tất phải xấu hổ, chẳng chịu yên thân. Trẫm nghĩ giá như hai nước cứ đánh nhau thì chỉ khổ cho muôn dân; vậy khanh nên dùng lời nói khéo để khiến cho can qua hết nạn binh đao. Việc nầy không có tay khanh thì chắc khó thành!”
Ngô Thời Nhiệm dâng kế nên dùng lối địch vận bằng cách trả tù binh Mãn Thanh về nước để gây uy thế cho Đại Việt và làm nhụt chí những quân sĩ muốn qua xâm lăng Đại Việt.
Do đó, vua Quang Trung liền cho tập hợp các hàng binh của Mãn Thanh và phủ dụ rằng:
“Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị của các ngươi, tài đong đấu rá, nghề mọn thêu may, không biết phép chủ yếu trong việc dùng binh, vô cớ đem ba mươi vạn quân ra ngoài quan ải, vượt núi, leo đèo, chui sâu hiểm địa, xô dân vô tội đưa các ngươi vào mũi tên, ngọn giáo, thảy đều là tội tên Tổng đốc của các ngươi. Trẫm một phen cờ lệnh vẫy lên, quét sạch lũ ngươi như quét đàn kiến, lũ ngươi thua tan, chết hại hàng vạn; những kẻ bị bắt tại trận buộc thế bức bách phải hàng; lẽ ra chiếu quân luật phải đem chém cả để răn đe phường bạo ngược. Thể đức hiếu sinh của trời đất, ta bao dung che chở, tha chết cho các ngươi!”
Bọn hàng binh này là khối lượng nhân chứng lớn để khi về nước sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực hoặc chủ hòa một khi binh Thanh có ý phục thù.
Vua Quang Trung đã đoán ý không sai tí nào, khi hay tin Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín chạy về đến Quảng Tây và toàn bộ đại binh tan rã, các đại tướng phần thì chết, phần thì tự sát nên vua Càn Long nổi giận lôi đình vì thua trận một cách nhục nhã, bèn cử ngay Phúc Khang An làm Lưỡng Quảng Tổng Ðốc, định đem 500 ngàn quân vào Đại Việt đánh trả thù.
Phúc Khang An nghe bọn tàn binh về tâu lại rằng uy vũ vua Quang Trung như vầng nhật nguyệt, chỉ huy ba quân như lấy trứng trong áo, giọng nói như sư tử hống, võ nghệ siêu quần quả là bậc anh hùng kiệt liệt.
Hoảng sợ uy danh của vua Quang Trung, lại nghe tàn binh diễn tả làm Phúc Khang An sợ hãi vô cùng, lòng không muốn cử binh trả thù rửa nhục nên tìm cách can ngăn Càn Long bải binh. Phúc Khang An qua đến Quảng Tây nghe tiếng quân Nam thế mạnh, nên sợ và có ý muốn hòa, bèn sai người đưa thư sang nói việc lợi hại và bảo phải làm biểu tạ tội để cho yên việc binh đao.
===========
Thăng Hoa Cuộc Đời – Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 64 Giả Vương Lừa Được Càn Long
Dân tộc Đại Việt có một nền văn hóa từ thuở vua Hùng, trải qua nhiều triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đến đời hậu Lê này là một tổng hợp về văn học và nghệ thuật được thoát thai từ dòng tri thức bao gồm cả phong tục, tập quán, đạo đức, pháp luật, tín ngưỡng và thói quen do công sức của từng cá nhân thu đạt được trong đời sống hàng ngày và lan dần ra xã hội. Nền văn hóa Việt tộc có một chiều sâu đủ chứng minh được rằng đất nước này có một lịch sử lâu đời, không phải chỉ quanh quẩn trong một dãi đất có một biên cương hình chữ S mà nó còn lan rộng và ảnh hưởng đến cả các dân tộc láng giềng như Chân Lạp, Chiêm Thành và Tàu nữa. Nền văn hóa này được kết tinh trong một chuỗi dài lịch sử biến động, phát triển tuần tự theo thời gian và diễn biến không ngừng…
Chính nền văn hóa đó đã khiến vua Quang Trung không dùng cái kiêu hãnh của kẻ chiến thắng mà sử dụng sự khiêm cung, hòa ái cốt tạo nên chốn thái bình, an lạc cho muôn dân. Vua Quang Trung ý thức rõ từng nỗi đau của binh sĩ đến nỗi nhục của vua Càn Long bèn sai Ngô Thời Nhậm thảo bức thư như bản án hạch tội Tôn Sĩ Nghị quá tàn ác với dân Nam và vuốt cái giận sỉ nhục của nước lớn mà hình ảnh Càn Long bị chế diễu như quân cướp nước xâm lăng tiểu quốc. Ngô Thời Nhậm vốn là bậc thức giả đất Bắc hà không cần đắng đo liền mài mực, đốt lò hương trầm thơm ngát rồi chấp bút viết một mạch như sau:
“…Những mong Sĩ Nghị nghĩ lại, họa may có thể lấy ngọc lụa thay nạn can qua, xoay binh xa làm hội xiêm áo. Không ngờ Sĩ Nghị nhắm mắt tiến binh nhưng vừa xảy ra giao tranh đã tan hàng rã ngũ, xô đè lẫn nhau mà chết. Binh đao là chuyện bất đắc dĩ của thánh nhân…những chuyện phạm đến cương thường, Tôn Sĩ Nghị không tâu rõ từng việc một. Hắn che lấp tai mắt nhà vua đến nổi làm cho sự việc rối ren đến thế!”. Ngoài những bức thư vừa hùng tráng, vừa trách móc, vừa nói cái đức của thánh nhân kết hợp với vận dụng bá quan trong triều đình Mãn Thanh can ngăn Càn Long bỏ ý định tiến binh; đồng thời Phúc Khang An cũng không dám động binh nên viết sớ tâu trình lên vua Càn Long để bãi chiến:
“Nam Bắc bớt được nạn can qua, rõ là phúc lớn cho sinh linh và cũng là vận may cho kẻ biên thần.” Rồi các quan Mãn Thanh đúc kết lịch sử tiền nhân nên quả quyết “-Từ xưa đến giờ, Trung Quốc chưa bao giờ đắc chí ở cõi nam phương. Chính các triều đại Tống, Nguyên, Minh rút cuộc cũng đều thua hỏng, gương ấy không xa, hãy còn trờ trờ ra đó nên dù Phúc Khang An có đem vài muôn binh sang Đại Việt cũng dễ tan tành manh giáp.”
Vua Càn Long nghe xong, lòng cũng rã rời, không ngờ đất Nam kia có kẻ siêu phàm nhập thánh đến như vậy? lại nữa, các quan nghị bàn nên hòa tốt hơn là chiến nên vua Càn Long đi đến quyết định bãi binh, lá cờ “Cửu Tỉnh Binh Mã” được hủy bỏ và Tôn Sĩ Nghị bị giáng chức làm thường dân. Sau khi dùng lối ngoại giao tuyệt kỹ để giảm tối đa khả năng đem binh qua Đại Việt, kết quả triều đình Mãn Thanh phải ngậm đắng, ôm hận chua cay trong mộng ước thôn tính phương nam. Mọi việc tạm ổn, vua Quang Trung giao lại đất Bắc hà cho Tư đồ Ngô Văn Sở, Phạm Văn Lân cử cắt việc binh và Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích lo chu toàn ngoại giao với phương bắc đặng giữ bờ cõi khỏi nạn can qua.
*
Từ ngàn năm nay nước Đại Việt dù có chiến thắng oanh liệt những đội quân hùng hậu bắc phương thì vẫn giữ cách khiêm tốn để cho người Tàu khỏi động lòng tham mà đem binh tràn qua biên ải. Các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đến hậu Lê thảy đều coi Trung Hoa như một cơn ác mộng, nhưng cũng ép mình cho khỏi xảy đao binh bằng cách xin phong vương và triều cống đặng Đại Việt được quốc thái dân an. Phát xuất từ ý niệm tích cực ấy nên vua Quang Trung chợt nghĩ đến chuyện bá tánh Đại Việt gánh chịu nạn đao binh triền miên, bèn tìm cách cho quốc gia thịnh trị khỏi nạn can qua nên sai Ngô Thời Nhậm làm ngoại giao để Thanh triều công nhận vua Quang Trung là Hoàng đế nước Đại Việt.
Trước hết, Ngô Thời Nhậm quan hệ mật thiết với Phúc Khang An đang làm Tổng đốc lưỡng Quảng và dùng vị tướng Tàu này cho mục đích hóa giải mộng báo thù của vua Càn Long, đồng thời tìm cách cho bọn Lê Chiêu Thống cùng đám tùy tùng bỏ đi mộng khôi phục ngai vàng Lê triều. Nguyễn Quang Hiển là cháu của vua Quang Trung đại diện nước Nam bàn chuyện hơn thiệt với Phúc Khang An về việc phong vương cho vua Quang Trung. Khang An viện các lý lẽ hiện thực để chứng minh rằng nước Nam là đất của người Nam, phương bắc không nên đụng đến làm chi; cuối cùng vua Càn Long phải nuốt giận mà thuận cho vua Quang Trung làm An Nam quốc vương, nhưng để giữ cái thể diện nhục nhã trong trận xâm lược vừa rồi, vua nhà Thanh đưa ra hai điều kiện:
Thứ nhất là lập đền thờ Đề đốc Hứa Thế Hanh tại nước Đại Việt để thờ cúng. Thứ hai là vua Quang Trung phải thân hành sang triều cống để được phong vương vào năm tới nhân dịp bát tuần khánh thọ của vua Càn Long. Dĩ nhiên nước Đại Việt phải tạm chấp nhận nhưng Ngô Thời Nhậm lại dùng mưu buộc Càn Long phải phong vương cho vua Quang Trung trước khi ngài qua chúc thọ bát tuần của thánh hoàng. “Quốc trưởng Quang Trung chưa được nhận phong mà sang năm cùng với Quốc trưởng các nước khác nhất tề cùng vào chúc mừng đại Hoàng đế thì không khỏi bất tiện.” Lời lẽ như vậy thì không cách nào chối từ nên vua Càn Long chịu lếp vế ban chỉ dụ phong vương cho Quang Trung hoàng đế rồi tự tay viết bảy chữ trong chiếc áo cẩm bào để dâng tặng ngài. Chiếc áo cẩm bào thật đẹp với dòng chữ “Xa tâm triết trục, đa điền thử” (Trục xe bị gãy, ngoài ruộng nhiều chuột đồng). Vua Càn Long đặc phái hai vị đại thần mang tờ sắc đến nước Nam tuyên phong. Vua Quang Trung thật lòng không cần vương tước của Thanh triều làm gì nhưng cốt để yên dân nên bèn cho con thứ là Nguyễn Quang Thùy ra Thăng Long nhận sắc phong vương. Tinh thần độc lâp, khí khái, kiêu hãnh của vua Quang Trung đã làm cho thần dân Đại Việt hãnh diện, bá quan văn võ kính nể tôn phò. Các quan triều đình có nhắc đến chuyện lập đền thờ Hứa Thế Hanh cho có chuyện rồi cũng lờ chuyện đó, vì Hứa tướng quân là kẻ xâm lăng Đại Việt không xứng đáng thờ phượng tại đất Nam. Đến mùa xuân năm Canh tuất là dịp bát tuần khánh thọ vua Càn Long, các Quốc trưởng được Thanh triều phong vương đều đến Trung Quốc để làm lễ chúc thọ. Lẽ ra vua Quang Trung phải thân chính đến tận triều đình Mãn Thanh theo nghi thức khánh chúc trường thọ nhưng ngài lại khước từ vì sĩ diện Đại Việt bèn dùng kế “du long chuyển phượng” (trộm rồng thay phượng, ý là thay đổi đối tượng) thực hiện việc ngoại giao nầy. Ngô Thời Nhậm ra sức tìm được một người có gương mặt đoan chính hao hao giống vua Quang Trung tên là Phạm Công Trị, cháu phía ngoại gọi Quang Trung bằng cậu. Sau khi huấn luyện nghi thức triều gia khá thuần thục, Phạm Công Trị thân hành cùng đoàn tùy tùng trên một trăm người gồm Hoàng tử Nguyễn Quang Thùy, Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn và một đoàn nhạc vũ công biểu diễn mười tiết mục độc đáo làm quà chúc thọ Càn Long theo phong tục dân Nam. Ngoài ra, phái đoàn còn mang theo hai thớt voi, một số quý vật và hải sản hiếm hoi để làm vui lòng Càn Long đặng kéo dài thời gian không cho ý nguyện phục thù của đám con cháu Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống xía vào trong những kỳ luyện binh rèn kiếm.
Sở dĩ hai thớt voi được mang đi triều cống là chủ ý của vua Quang Trung muốn phái đoàn vừa đi chậm rãi theo voi, vừa vẽ các mục tiêu, bản đồ, đồn trại của hai tỉnh giáp giới nước Đại Việt để sau này tiến hành công cuộc Bắc phạt một khi cơ hội chín muồi trong khoảng vài năm sắp đến.
Giả vương Phạm Công Trị được Phan Huy Ích soạn thảo văn thư thác danh Quang Trung gởi về cho thế tử Quang Toản căn dặn việc nước. Chính những văn từ không niêm theo lệ nhà Thanh đọc trước này đã làm cho Càn Long cùng triều đình Mãn Thanh khâm phục vô cùng.
Sự kính nể của triều đình Mãn Thanh khiến vua Càn Long tưởng lầm rằng Quang Thùy là con trưởng nên sắc phong Thế tử và tặng hà bào hương khí là loại đồ thơm gói ướp hương cùng lụa là gấm vóc thượng hạng. Khi giả vương cho biết là Quang Thùy chỉ là thứ nam, Thái tử Nguyễn Quang Toản mới là trưởng bối nên Càn Long thêm một phen tặng ngọc quý và phong cho Quang Toản là “An Nam Quốc Vương Thế tử”. Tài danh Phan Huy Ích dùng văn thơ đối đáp với Càn Long thật tuyệt vời, chữ viết như rồng bay mà ý tứ cao xa đầy huyền vi thâm diệu; do đó mà chuyến đi chúc thọ đạt được sự chí thành khiến Hoàng đế Thanh triều hứng chí tự tay rót rượu mời các quan Đại Việt cùng uống, bắt đội nhạc công Trung Quốc ăn mặc theo lối Đại Việt và học ngôn ngữ Việt để làm hài lòng phái bộ quan Nam, vì mến mộ như vậy nên vua Mãn Thanh ban tặng bao quà cáp để ghi nhớ cuộc tao phùng với người mộ điệu, thật là xưa nay chưa có một cuộc chúc thọ nào hưng phấn, trọng vọng, trí thức cho Càn Long bằng phái bộ Đại Việt đầy thông minh, tinh xảo.
Dù phái đoàn giả vương đã làm cho triều đình Mãn Thanh nể phục nhưng vua Quang Trung vẫn điềm nhiên toạ thị ở tại thành Phú Xuân đương kim hành xử của một vị Hoàng đế mưu lược, lập Ngọc Hân công chúa làm Bắc Cung Hoàng hậu, phong Quang Toản làm thái tử, lấy thành Nghệ An là nơi quê hương tổ phụ đặt làm kinh đô đại điện hay còn gọi là Phượng Hoàng Trung Đô vì ở giữa Thăng Long và Bắc thành, ngày đêm lo việc củng cố lực lượng, mở mang học thuật văn hóa, dùng chữ Nôm làm quốc ngữ, sắp đặt lại xã hội đương thời, khuyến khích chăn nuôi, canh nông trồng trọt và nhất là chiêu hiền đãi sĩ để chọn anh tài đứng ra giúp đời, giúp nước. Vua Quang Trung không mệt mỏi trong công tác tập luyện quân binh chuẩn bị một ngày tốt đẹp đem đại quân tràn qua biên giới phía bắc đặng tấn công lưỡng Quảng hầu sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt lớn hơn, rộng hơn. Đương lúc Quang Trung Hoàng đế lo việc mở rộng đất nước, khuyến khích canh tác cho trù phú, khai dụng học thật văn chương đến mọi giai tầng xã hội thì tại phía nam, Nguyễn Phúc Ánh đem binh tấn công Gia Định thành để lập lại triều nghi cơ ngơi nhà chúa. Số là sau khi vụ việc bất hòa giữa hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo dài mấy tháng đi đến xung khắc kịch liệt ở Quy Nhơn, nhưng rồi cũng đã được giải quyết xong, Chính Bình Vương phải trở lại Phú Xuân trấn giữ và không có cơ hội vào nam vì thế kẹt bởi Trung Ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc án ngữ ở giữa. Nguyễn Lữ là Đông Định Vương giữ đất Gia Định cùng với quan Thái phó Phạm Văn Tham ổn định nội trị, kiến thiết ngoại thành. Khi Nguyễn Ánh mộ được binh mã kéo về đánh thành Gia Định thì thế lực vô cùng hùng mạnh bởi sự trợ lực từ ngoại bang với vũ khí tinh xảo, Nguyễn Lữ phải lui về Lạng Phụ đất Biên Hòa trấn thủ để cho Thái phó Phạm Văn Tham cố thủ giữ thành. Nguyễn Phúc Ánh bèn dùng kế ly gián, giả bức thư của Hoàng đế Nguyễn Nhạc truyền lệnh cho Nguyễn Lữ phải tìm cách sát hại Phạm Văn Tham. Thơ lại đến tay Thái phó nên Phạm văn Tham kinh hãi liền kéo quân ra Lạng Phụ để giải bày lý lẽ thiệt hơn.
Nguyễn Lữ vốn ngại Nguyễn Phúc Ánh vì nhiều mưu mô lại được Linh mục Tây là Bá Đa Lộc ngày đêm giúp sức, liệu bề thắng không xong mà thấy Thái phó kéo quân binh có cờ trắng dẫn đầu tiến về phía mình, Đông Định Vương tưởng là Thái phó họ Phạm đã đầu hàng với Nguyễn Phúc Ánh, đem quân chống lại Tây Sơn nên Nguyễn Lữ vội bỏ thành Biên Hòa, xuống thuyền căng buồm chạy về Quy Nhơn. Thuở thiếu thời Nguyễn Lữ theo anh là Nguyễn Huệ thụ giáo với võ sư Nguyễn Văn Hiến, nhưng Nguyễn Lữ thể trạng mỏng manh nên được thầy Hiến chân truyền cho môn Miên quyền. Nhân dịp quan sát dân chúng thường đá gà giải trí nên Nguyễn Lữ đã nghiền ngẫm và sáng tạo ra Hùng Kê quyền từ gốc Miên quyền (Yếu có thể đánh mạnh, Thấp có thể đánh cao, Nhỏ có thể đánh lớn, Ít có thể đánh nhiều), một bài võ áp dụng việc đá gà như lấy yếu có thể đánh mạnh, lấy thấp có thể đánh cao, lấy nhỏ có thể đánh lớn và lấy ít có thể đánh nhiều, chủ yếu sử dụng cho phù hợp với thể tạng cũng như vừa vặn với thân hình bé nhỏ của người Việt.
Ngay sau khi sáng tạo Hùng Kê quyền lập tức được các nghĩa quân Tây Sơn tập luyện và ứng dụng rộng rãi bởi tính hiệu năng của nó. Vào trận, trường quyền như giông như bão liên tục phủ xuống nhưng Hùng Kê quyền vẫn cứ ung dung xuyên qua xuyên lại tựa chú gà con lanh lẹ trước một chàng gà tồ to lớn hung dữ nhưng chậm chạp, để rồi khi đối thủ lộ sơ hở thì chỉ cần một chiêu của Hùng Kê quyền đá gục đối phương. Đông Định vương Nguyễn Lữ xuống thuyền trở lại Quy Nhơn giữa mùa Vu Lan năm Đinh Mùi (1787) để chịu tội cùng anh, rồi lên ngựa trở về Kiên Mỹ thăm lại cố hương. Qua tiết Trung thu năm ấy, hai anh em Tây Sơn vương cúng giỗ tiên hiền rồi chia tay nhau, Hoàng đế Nguyễn Nhạc theo nghiệp bá để bành trướng thế lực đất Quy Nhơn, riêng Nguyễn Lữ một thân một ngựa ra đi nơi mây ngàn hạc nội, rồi mười năm sau đó một dịp tình cờ chuyển quân ngang qua đèo Hải Vân, Nguyễn Văn Dũng gặp được một thiền sư chống gậy trúc khoang thai du hành trên đỉnh non cao hao hao giống Đông Định Vương thuở nào; quân binh thừa hưởng bài võ Hùng Kê quyền truyền thụ từ vị tổ sư Nguyễn Lữ như di sản quý giá giúp Tây Sơn bao phen chiến thắng ngoại xâm cùng nhau nghiêng mình kính cẩn tiễn chân vị thiền sư bước vào chốn thanh tịnh chân như, rũ bỏ chuyện tranh bá đồ vương, hơn thua, được mất.
Như Ninh – Nguyễn Hồng Dũng
===========
Thăng Hoa Cuộc Đời – Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 65 Đại Mộng Lấy lại Lưỡng Quảng
Thái phó Phạm Văn Tham vào thành Biên Hòa thì vở lẽ mình bị xí gạt liền quay ngược, kéo binh đánh thốc vào bản doanh Nguyễn Phúc Ánh, dù mấy lần đại thắng nhưng không đủ quân lương, phần thì Đông Định Vương hồi quy bổn địa nên không đủ sức giữ lại Gia Định thành. Hơn nữa Nguyễn Phúc Ánh lại được nhiều tướng Tàu ra giúp đỡ, vì vậy đất Gia Định không bao lâu lại lọt vào tay Nguyễn Phúc Ánh, vương bèn lo chỉnh đốn lại thuế khoá, khuyến khích nông nghiệp, lập ra luật pháp rồi chuẩn bị binh mã tiến đánh Tây Sơn.
Thành Quy Nhơn tức Hoàng Đế thành do Trung Ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc cai quản cũng chỉ lấy việc thủ thành làm căn bản. Sau những chuyện bất hòa giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ được giải quyết xong thì đất Quy Nhơn đã không còn là nơi quy tụ nhân tài mà các anh hùng kiệt hiệt thì hầu hết đến với vua Quang Trung, hoặc vào Nam hợp tác với Nguyễn Phúc Ánh.
Nhạc càng ngày càng già và không có nhiều sáng kiến sửa đổi về phương diện quân binh, hành chánh, kinh tế, quốc phòng…trái lại hay có tính nhỏ nhen, tị hiềm cá nhân nên tự cô lập bản thân và triều thần. Sự cố thủ để hưởng nhàn tại thành Quy Nhơn đã giúp cho Nguyễn Phúc Ánh đem quân tấn công mấy lần khiến cho Đông Định Vương phải chạy về Hoàng Đế thành mà Nguyễn Nhạc cũng không tìm cách liệu bề chống đỡ.
Vua Quang Trung biết sự lợi hại ở Nam hà và Nguyễn Phúc Ánh đã khôn khéo lợi dụng ngoại bang để giành lại ngai vàng nên Vua đang chuẩn bị kế hoạch hợp tác ngoại giao với Lào và Chân Lạp để khỏi bị Nguyễn Phúc Ánh liên kết chống lại Đại Việt, mặc khác Vua còn cho chuyển quân bằng đường thủy từ Phú Xuân bọc ra cửa bể tiến vào Sài Gòn, Biên Hòa giúp Đông Định Vương chống lại Nguyễn Phúc Ánh, sự cấu kết giữa các nước phương tây với kỷ thuật khoa học ngoại bang mưu giúp Nguyễn Phúc Ánh lấy lại ngai vàng hòng trao đổi một phần lãnh thổ hoặc tự do truyền đạo Ki Tô khiến ngoại lai xả thân bằng mọi cách để đối chọi với Tây Sơn.
Chính những nỗi khắc khoải ưu tư cho cơ đồ Đại Việt, vua Quang Trung quyết ra sức tổ chức một đội quân hùng mạnh không những để đối phó với Nguyễn Phúc Ánh đàng trong, mà còn huấn luyện binh mã thật tinh nhuệ để tiến binh đánh chiếm Quảng Đông, Quảng Tây làm nền tảng độc lập, hùng cường, bất cần những sự phong vương định tuớc của triều đình Mãn Thanh, hẳn nhiên chính Đại Việt sẽ ngang hàng với các cường quốc lâng bang trong đó có Trung Hoa.
Vua Quang Trung đặc biệt chú trọng đến vấn đề tổ chức binh đội để dễ luyện tập, kiểm soát và sử dụng đúng chức năng từng toán, từng tổ. Ngài chia quân đội ra làm nhiều đạo quân như tiền hậu quân, tả quân, hữu quân, trung quân. Mỗi đạo quân gồm nhiều cơ, mỗi cơ chia làm nhiều đội với hàng ngũ chỉnh tề, kỷ luật hết sức nghiêm túc trong khi tập luyện hoặc xuất binh đánh giặc cũng vậy.
Vua Quang Trung đốc thúc các tướng luyện tập binh đội theo kinh nghiệm thực tiển dựa trên các trận đánh với Nguyễn Phúc Ánh hoặc với Mãn Thanh trong trận Đống Đa để lấy sở trường của từng đạo quân. Lối đánh thần tốc trong các trận địa mà chính vua Quang Trung chỉ huy đã áp dụng đều thành công và chiến thắng vinh quang.
Lối đánh theo pháp thủy quân được luyện tập cho những đạo quân chính quy nên tạo được uy thế cho vua Quang Trung mỗi lần xuất binh. Đặc biệt những lần kéo quân vào Nam hà diệt Nguyễn vương, vua Quang Trung đều dùng thủy binh tấn công một cách chớp nhoáng; vang dội chiến công đó khiến các nước lâng bang e ngại và kiêng nể uy danh vua và triều thần nước Đại Việt.
Lối đánh du kích cũng được vua Quang Trung nghiên cứu kỹ luỡng và tận dụng trong các địa thế hiểm hóc như trận tuyến Rạch Gầm, Xoài Mút, Đống Đa…nên đội quân đặc nhiệm này được huấn luyện xuất quỷ nhập thần về lối dàn dựng cách phục binh du kích đã góp phần không nhỏ trong sự chiến thuật đẩy lùi ngoại xâm, đem độc lập thật sụ cho non sông.
Ngoài ra tượng binh và kỵ binh là những đội hình được huấn luyện gay go, kiên nhẫn và linh hoạt nên đại sự hoàn thành và vinh quang vô cùng to lớn cho Quang Trung Hoàng đế đã là kết quả của những khổ nhọc tập luyện không ngừng dù mưa to gió lớn. Linh hồn của các đội kỵ và tượng binh chính là nữ tướng Bùi Thị Xuân, vị nữ tướng kiệt hiệt hùng anh đã dày công uốn nắn hàng trăm thớt voi và hàng vạn quân binh trong công tác chiến đấu phá công thành không mệt mỏi.
Pháp luật nghiêm minh trong quân ngũ đã giúp cho vua Quang Trung thành công to lớn trong bất cứ trận đánh nào, Việc quân lương lại là bộ phận tối cần thiết được vua Quang Trung luôn nhắc nhở như là sự quyết định của thắng bại trong chiến đấu, do đó, hỏa lực Tây Sơn được dồn vào đạo quân công phá các kho lương của địch để làm hậu thuẩn khi các đạo quân khác tấn công phá thành. Về khí cụ quân nhu, vũ khí đều do sự sáng kiến tân trang bởi các loại cổ truyền như gươm, đao, giáo, mác đến những cổ súng đại bát thần công và các loại thuốc súng tự chế hoặc tịch thu từ ngoại bang đang ủng hộ cho Nguyễn Phúc Ánh.
Thật ra, hỏa lực, vũ khí của Nguyễn Phúc Ánh hơn hẳn quân đội Tây Sơn nhờ sự giúp đỡ của Pháp, nhưng những lần xáp chiến thì quân Nguyễn vương đều thua chạy bởi sự khéo léo dụng binh của chư tướng soái Tây Sơn đầy can trường và tinh thần độc lập vì chính nghĩa của nhân dân hơn là sở cậy ngoại bang.
Mưu lược lỗi lạc và tính toán đúng chiến thuật của vua Quang Trung là yếu tố quyết định trong tất cả các trận chiến dẫn đến thành công lớn, một phần do các tướng chỉ huy Tây Sơn luyện tập võ nghệ phi thường, huấn luyện binh mã suốt những thời gian không chiến tranh, trau dồi tính kiên nhẫn, gan dạ cho ba quân tướng sĩ dưới điều kiện thời tiết khắc nghiệt và phong thủy của núi rừng ngăn trở từ Hoành Sơn chạy vào Quy Nhơn; phần còn lại và quan trọng hơn tất cả là yếu tố lòng dân qua sự vận chuyển lương thực trong nhiều trận đánh đã được toàn dân ủng hộ. Điểm son chói lòa của Nguyễn Huệ không chỉ là chuyện quân sự điều binh đánh giặc mà còn vận dụng khả năng chính trị, tâm lý và đạo đức để toàn dân tham gia đại cuộc.
Trong khoảng thời gian rất ngắn từ khi lên ngôi Hoàng đế, vua Quang Trung đã thiết lập được một xã hội trật tự, thống nhất và phú cường mà trước kia vốn là một xã hội thiếu tôn ti, ỷ lại, lợi dụng quyền uy của một nhóm người bất lương để buôn dân bán nước.
Ngai vàng mục nát của các trào vua Lê là cái cớ của bao nhiêu đám sứ quân trương cờ phù Lê mà hại dân hại nước. Đàng ngoài thì chúa Trịnh nắm toàn bộ quyền bính trong tay, thậm chí có quyền phế vua hay bức tử Hoàng đế; còn đàng trong các chúa Nguyễn cũng lợi dụng chiêu bài phò Lê mà kéo dài cuộc chiến trên mấy trăm năm. Các nhóm “sứ quân” khác cũng y như thế mà hùng bá một cõi khiến giang sơn đất tổ bao phen chấn động binh đao.
Vua Quang Trung lên ngôi Hoàng đế có nghĩa là cái ngai vàng Lê triều kia đã phải thu bóng để thời gian lặng lẽ trôi đi, vì chính nó là mấu chốt của sự cục bộ, tham lam, ngu ngốc và ích kỷ.
Nét nghệ thuật dưới sự lèo lái của vua Quang Trung là một thời kỳ vàng son cho văn học độc lập, vua Quang Trung bắt buộc toàn dân học chữ Nôm, một thứ chữ riêng của người Đại Việt, Các áng văn, thơ, thi, phú, sắc phong đến việc thi cử, học hành, quan kiện đều lấy chữ Nôm làm gốc.
Những bài hịch kể tội quân xâm lăng hoặc kêu gọi toàn dân tham gia đánh giặc là những áng văn Nôm biểu lộ ý chí bất khuất, độc lập của dân tộc Đại Việt, cũng trong quãng thời gian ngắn ngủi, đại đế Quang Trung đã đốc thúc xây dựng những công trình văn hóa khác như Phượng Hoàng, Trung Đô ở Nghệ An để biểu lộ sức sáng tạo thật sự của triều đại Tây Sơn. Sự kiện tập trung các đền miếu chùa chiền trong làng thành những tu viện lớn trong quận huyện cũng là sự cố gắng cải cách tôn giáo có ý nghĩa, để kiến tạo một xã hội lấy tín ngưỡng hướng thiện làm chỉ nam đạo đức nhân bản, không bị mê tín tà linh và lệ thuộc lối suy tư từ phương bắc là biểu trưng nét độc đáo thuần khiết của Đại Việt dưới triều đại Tây Sơn qua hình thái tôn giáo trong lòng dân tộc.
Đại đế Quang Trung xuất thân từ vị anh hùng áo vải đất Tây Sơn, tay trắng lập nên sự nghiệp lẫy lừng, đánh tan hai đầu quân xâm lược…tất cả công lao ấy là do sự tài tình trong nghệ thuật lãnh đạo anh minh vì mục đích tối hậu cho tổ quốc. Nhưng phần chính yếu là vua biết lấy nền tảng dân tộc làm trụ cột cho cuộc đấu tranh; do đó, vua Quang Trung lãnh đạo toàn dân chống ngoại xâm điển hình qua trận Xoài Mút đuổi Xiêm La và trận Đống Đa tiêu diệt Mãn Thanh, cả hai sự chiến thắng oanh liệt này quyết định vận mạng tồn vong của quốc gia do toàn dân quyết tâm chiến đấu và định hình sự độc lập bất khả phân.
Để đưa nước nhà đến chỗ hùng cường và trọn vẹn lãnh thổ không những về phía nam mà hướng bắc cũng cần phải phát triển. Do đó kế hoạch Bắc phạt đã xuất hiện rất sớm trong đầu vị anh hùng áo vải Tây Sơn từ khi vua Lê còn đang chễm chệ trên ngai vàng mục nát.
Trải qua bao triều đại thịnh suy giữa một giải giang sơn cẩm tú, nước Đại Việt luôn là mục tiêu mà nước Tàu thường xuyên đem binh đánh chiếm, những chứng tích lịch sử rành rành rằng triều đại các vương tộc thường thường thủ thế để giữ nước, bảo vệ chủ quyền hơn là phản công qua tận đất Trung Hoa hạch tội, ngoại trừ anh hùng Lý Thường Kiệt đời Lý đã làm cho nhà Tống thất điên bát đảo khi Ngài đem binh tấn chiếm các tỉnh phía nam Trung Hoa. Với tinh thần đó, vua Quang Trung không muốn Đại Việt bị xem thường do bởi thành kiến từ những triều đại trước kia mà Bắc phương thường đem binh lấn áp, ngay từ những buổi giao thời vua chịu tạm thời chấp nhận cho Càn Long phong vương để thăm dò lực lượng đối phương, kéo dài thời gian nghiên cứu địa hình và củng cố binh lực, khi yếu tố phục thù đầy đủ và lòng dân đã bao phen ủng hộ thì vua Quang Trung quyết định đánh chiếm lưỡng Quảng đặng mở mang bờ cõi.
Bá quan văn võ thấy vị Hoàng đế của mình có sáng kiến uy vũ đại nghiệp cho dân tộc nên hết lòng phò tá, bộ Lại xem xét số dân đinh đích thực để trong ba người dân chọn lấy một người lính, với cách vận dụng phép nhập ngũ thế này thì quân binh Tây Sơn đã lên đến mấy muôn chiến sĩ.
Triều đình cấp phát loại thẻ chứng minh thư tục gọi là “Thiên Hạ Đại Tín”(một loại căn cước với lý lịch rõ ràng ) ghi rõ tên tuổi, quê quán từng người để dễ kiểm soát một cách chính xác hầu chọn lựa dân quân luyện tập võ nghệ cho kế hoạch đánh Tàu. Các đạo quân được tuyển thì ngày đêm rèn luyện kiếm cung, người nông dân lo canh tác lúa gạo lương thực, kẻ già yếu ở nhà thì vót cung tên, tầm vông, cọc nhọn; ai nấy đều nao nức chuẩn bị cho một cuộc Bắc tiến hầu tỏa ánh sáng kiêu hùng làm rạng rỡ quốc dân Đại Việt.
Kế sách chuẩn bị trước khi chính thức tuyên chiến, vua Quang Trung khuyến dụ các doanh gia bành trướng thị trường đến Quảng Tây, Lạng Sơn rồi cho dân Đại Việt qua đường biên giới vào sâu nội địa nước Tàu buôn bán, hành nghề. Khi vua Quang Trung viết thư nhờ Phúc Khang An chuyển biểu đòi lại bảy châu trong đất lưỡng Quảng, buộc vua Càn Long phải chấp nhận lời biểu ghi rõ: “Chỉ vì phần đất cõi nam đang làm phên dậu, bốn bề giáp ranh với vùng đất mà sử sách đã minh định” đến một bước kế tiếp là “xin đất lưỡng Quảng làm kinh đô nước Nam”, cả hai đề nghị trên đều được Thanh triều chuẩn y thuận chấp.
Để thăm dò thêm sự phản ứng của vua Càn Long nhà Thanh, Hoàng đế Quang Trung đặc cử Tướng quân Võ Văn Dũng đi sứ cầu hôn công chúa đương triều để tìm hiểu ý nghĩ vua Mãn Thanh đồng thời đòi lại những đất đai đã mất dưới đời Lê Mạc, bãi việc cống người vàng là một quốc hận đáng kể cho dân Việt từ đời vua Lê Lợi…không ngờ sứ đoàn của Đại Việt đến kinh đô Trường An đã được vua Càn Long ân cần tiếp đãi trọng hậu và thuận y đề nghị hôn nhân chọn ngày lành gả công chúa Thanh triều cho An Nam Quốc vương đồng thời cắt đất Quảng Tây để làm kinh đô Đại Việt như sự đề nghị của Hoàng đế nước Nam.
Như Ninh – Nguyễn Hồng Dũng
================
KHÔNG QUÂN: KHÔNG BỎ ANH EM, KHÔNG BỎ BẠN BÈ – KIỀU MỸ DUYÊN
LÊ XUÂN NHUẬN: (Hồi kí Mùa Tháng 6) TH.TG. NGUYỄN KHẮC BÌNH VS – BIẾN-LOẠN MIỀN TRUNG
BIẾN-LOẠN MIỀN TRUNG – THIẾU-TƯỚNG NGUYỄN KHẮC BÌNH
Lê Xuân Nhuận và cựu Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình
VÀO một ngày không lâu sau Lễ Quốc-Khánh 1-11-1974, tôi lại nhận được lệnh khẩn vào gặp Đại-Tá (về sau là Chuẩn-Tướng) Huỳnh Thới Tây, Phụ-Tá Tư-Lệnh CSQG đặc-trách Ngành Ðặc-Biệt Trung-Ương, mà không được biết lý-do hay mục-đích gì, cũng y như lần gọi tôi vào trình-diện, cuối tháng 9 năm 1973, để đưa tôi về Miền Trung.
Tôi vừa bước vào văn-phòng là Đại-Tá Tây dẫn tôi đi ngay với ông, lên xe, qua bên tòa lầu của Chuẩn-Tướng (về sau là Thiếu-Tướng) Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia.
Lên tầng trên rồi, ông mới nói nhỏ với tôi:
− Chuẩn-Tướng Tư-Lệnh muốn gặp riêng anh.
*
Lúc đó, ngồi tại phòng-chờ ngay trước phòng-giấy của Tư-Lệnh CSQG đã có ba viên đại-tá đang bàn-cãi gì đó với nhau.
Đó là các Đại-Tá (về sau là Chuẩn-Tướng) Nguyễn Văn Giàu, Phụ-Tá An-Ninh của Tư-Lệnh, và Trương Bảy, Phụ Tá Điều-Hành của Tư-Lệnh; cùng Đại-Tá Phạm Kim Quy, Trưởng Khối Tư-Pháp.
Đại-Tá Giàu nổi tiếng trong giới viên-chức dân-sự tại Bộ Tư-Lệnh CSQG là một sĩ-quan quân-sự rất “dữ”. Nhưng tôi thấy ông là một vị tướng… không quân. Ông đảm-trách Kế-Hoạch “Cảnh-Sát-Hóa”, an-ninh tổng-quát, các việc bắt giam và các loại trại giam của CSQG trên toàn-quốc, v.v… song chỉ ngồi ở Trung-Ương, chứ không có một hệ-thống tổ-chức nào đi xuống địa-phương, nên không có phần-vụ hay nhân-viên nào đặc-trách để chấp-hành mệnh-lệnh của ông từ cấp Vùng trở xuống cấp Tỉnh+Thị, nói chi đến cấp Xã+Phường. Chỉ có riêng tôi ở Vùng II trước kia, và ở Vùng I hiện nay, là tự-nguyện thực-hiện (bên ngoài nhiệm-vụ Cảnh-Sát Đặc-Biệt của tôi) và làm trung-gian xuống các cấp dưới để thực-thi các chỉ-thị của ông. Trực-diện thì tôi đã có gặp ông trước rồi. Hồi mới từ Phủ Đặc-Ủy Trung-Ương Tình-Báo qua Cảnh-Sát Quốc-Gia, ra công-tác ở Vùng II, từ trên phi-cơ bước xuống sân-bay là ông liền bị xâm-xoàng; tôi, là người ra đón ông − hầu như lần nào có việc gì liên-quan đến Quân-Lực hay quân-nhân là cấp chỉ-huy CSQG tại Vùng II đều cử tôi đại-diện đi dự họp, tiếp-xúc, v.v… −tôi đã giúp đưa ông vào một phòng-ngủ trong khách-sạn Nha-Trang để ông nằm tạm nghỉ-ngơi.
Đại-Tá Tây giới-thiệu tôi với họ:
− Đây là Thiếu-Tá Lê Xuân Nhuận, Phụ-Tá Đặc-Biệt Khu I.
Sau khi các ông bắt tay tôi xong, Đại-Tá Bảy tóm-tắt cho Đại-Tá Tây biết sự hiện-diện của họ tại đây, đại-ý là họ phải vào báo-cáo ngay cho Tư-Lệnh biết về cái Thông-TưLiên-Bộ quy-định thể-thức giải-tán biểu-tình, vì Tư-Lệnh muốn đọc cho biết nội-dung, trong lúc cần phải có quyết-định gấp về trường-hợp của Thiếu-Tá Liên Thành, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Thừa-Thiên‒Huế, là người vừa mới đàn-áp một cuộc xuống đường do chính Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Chánh Xứ Phú-Cam (Huế), dẫn đầu.
Đại-Tá Quy nói rằng mình mới nhậm-chức, nên không biết về cái Thông-Tư ấy, bảo các phần-hành tìm thì tìm không ra.
Đại-Tá Giàu nói là vấn-đề cần phải được giải-quyết ngay, vì phía Hội-Đồng Giám-Mục, Tòa Tổng-Giám-Mục, nhất là “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, thì đang gây áp-lực nặng-nề lên Chính-Quyền.
Các vấn-đề tín-ngưỡng/giáo-hội (cũng như chính-trị/đảng-phái, v.v…) đều thuộc quyền kiểm-soát của Ngành Đặc-Biệt, và các biến-cố/tình-huống liên-hệ ở Thừa-Thiên/Huế đều do tôi ở Vùng I thay mặt Trung-Ương theo-dõi/điều-tra. Cho nên tin-tức của tôi có giá-trị bổ-túc cho tài-liệu của Bộ Tư-Lệnh CSQG.
Nhân cơ-hội này, tôi thấy cần-thiết nên đã nói với Đại-Tá Giàu:
− Thưa đại-tá, trong vụ vừa rồi ở Huế, Thiếu-Tá Liên Thành đã làm đúng thủ-tục quy-định trong Thông-Tư Liên-Bộ.
Đại-Tá Giàu nhìn các Đại-Tá Bảy, Quy và Tây, nhún vai. Tôi cảm thấy, dù có làm đúng hay không làm đúng thì Thiếu-Tá Liên Thành cũng khó lòng vượt qua vụ này.
Tôi quay qua nói với Đại-Tá Tây rằng bức Thông-Tư Liên-Bộ ấy (Bộ Nội-Vụ, Bộ Tư-Pháp, và Bộ Quốc-Phòng) hiện có tại Ngành Đặc-Biệt của mình. Ông hỏi lại tôi có chắc hay không, ở đâu; tôi đáp là tại E2 (Nha Phản-Tình-Báo/Nội-Chính) của Trung-Tá Phạm Văn Ca; vì tại cấp Vùng tôi đã nhận được một bản sao từ nơi đó gửi ra.
Đại-Tá Giàu liền nhờ Đại-Tá Tây đi lấy giùm.
Đại-Tá Tây bảo tôi ngồi chờ, rồi cả bốn ông cùng rời phòng-chờ, xuống lầu…
*
Ngồi một mình, tôi vẩn-vơ suy-nghĩ xem những gì có thể sẽ xảy ra cho tôi.
Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình là một người rất “khó”, có thể nói là “độc-tài”.
Trước khi ông qua Cảnh-Sát Quốc-Gia, Trung-Ương cũng như các Địa-Phương đều được tự-do báo-chí.
Nhiều cấp Vùng, Tỉnh, đã có ấn-hành những đặc-san, nội-san, thư tin, v.v… Nhưng ông ra lệnh từ nay cấm hết.
Tại Bộ Tư-Lệnh CSQG có tờ báo “Bạn Dân”, ra đời từ thời Đệ-Nhất Cộng-Hòa. Dưới thời Đại-Tá Tổng-Giám-Đốc Nguyễn Văn Y, Chánh Văn Phòng [thay vì Phó Tổng-Giám-Đốc] Nguyễn Văn Hay, chính tôi cũng đã có nhiều bài được nhận đăng trên đó, kể cả mấy bài có vẻ… chướng tai. Bây giờ thì “Bạn Dân” là tờ báo duy-nhất được tồn-tại, nhưng số đặc-biệt Xuân 1973 thì mãi đến Xuân 1974 mới được phát-hành.
Các vị soạn-thảo bản văn cải-tổ Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia, hẳn không rành về nguyên-tắc hành-chánh, nên trong Sắc-Lệnh số 17A/TT/SL ngày 1-3-1971, biến Tổng-Nha CSQG thành một Bộ Tư-Lệnh, ngang hàng các Bộ khác trong Nội-Các, tức là tách rời khỏi Bộ Nội-Vụ, nhưng đã không có một khoản nào nói về ngân-sách, cho nên ngân-sách của Bộ Tư-Lệnh CSQG vẫn còn nằm trong ngân-sách của Bộ Nội-Vụ. Tết năm 1974, các vị bên Bộ Nội-Vụ giở lý, bắt bí, đòi phía CSQG phải nhượng bớt cho họ một phần, nếu không thì họ không chịu ký chuẩn-chi cho. Các cấp liên-hệ bên CSQG thì sợ, không dám trình nội-vụ lên Tư-Lệnh Nguyễn Khắc Bình. Báo hại, suốt cả tháng trời Cảnh-Sát Quốc-Gia cấp dưới không có xăng cho xe chạy; các Bộ Chỉ-Huy địa-phương phải dàn-xếp với các nhà thầu để mua chịu xăng cho cảnh-xa…
Ông ở trên cao, có những sự việc cấp dưới không dám trình lên nên ông đâu hay… .
*
Khi ba viên đại-tá ấy từ văn-phòng Tư-Lệnh bước ra, Đại-Tá Tây ra hiệu cho tôi cùng đứng dậy để chuẩn-bị đến phiên mình vào.
Đại-Tá Bảy chỉ vào cái cặp hồ-sơ đang cầm trên tay (tôi đoán là vụ Thiếu-Tá Liên Thành đàn-áp cuộc biểu-tình của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” của LM Trần Hữu Thanh do LM Nguyễn Kim Bính dẫn đầu ở Huế vừa rồi), nhìn Đại-Tá Tây, lắc đầu… .
Ngưng một lát, Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình chuyển sang vấn-đề khác:
– Anh nói tóm-tắt tình-hình ở Huế hiện nay ra sao?
Tình-hình ở Huế nói riêng, và những nơi khác liên-quan đến Huế nói chung, thì tôi đã có báo-cáo lên đầy-đủ rồi.
Tôi chỉ nhấn mạnh vài điểm nổi bật mà thôi:
– Về phần cộng-sản thì quả trước đây chúng đã nắm được đa-số các tay “lãnh-tụ” tập-thể sinh-viên, nhất là qua vụ vu-khống “Chính-Quyền bắt cóc Sinh-Viên” vừa rồi, chúng đã tạo được ảnh-hưởng trong giới phụ-huynh sinh-viên & học-sinh, giáo-chức, và cả quần-chúng nói chung.
“Nhưng tôi đã lập kế-hoạch, đích-thân chỉ-đạo và yểm-trợ cho Sở Đặc-Cảnh Thừa-Thiên/Huế sử-dụng một số biện-pháp tình-báo chuyên-môn để lật ngược lại thế cờ, làm chủ tình-hình. Hiện nay, chúng ta đã chiếm được thế thượng-phong đối với cộng-sản trong giới giáo-chức, sinh-viên & học-sinh ở nội-thành rồi”*.
——-
*Xem các trang 269 và 279.
– Về phần nội-chính?
– Tuy không có những tổ-chức nhỏ và nhiều như từ Đà-Nẵng trở vào, nhưng hai tổ-chức lớn thì rất đáng được Chính-Quyền quan-tâm: đó là “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” và “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”, mà cấp-thiết nhất là “Phong-Trào” này.
– Anh nói về Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc trước.
– “Lực-Lượng” ấy quy-tụ được hầu hết Phật-Tử là thành-phần đại-đa-số trong dân-chúng, kể cả công-chức và quân-nhân. Ngoài Khối Ấn-Quang xuất-phát từ Miền Trung và kiểm-soát hầu hết Phật-Giáo-Đồ khắp nơi, Đại-Tướng Dương Văn Minh đã thu-phục được hầu hết giới tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Nam, và Giáo-Sư Vũ Văn Mẫu đã lôi-cuốn được hầu hết khối tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Bắc di-cư. Đối với quốc-tế thì đó là thành-phần thứ ba; đối với quốc-nội thì đó là tập-hợp dân-sự lớn mạnh nhất, bao gồm nhiều chính-đảng nhất; các cấp lãnh-đạo lại là nhân-vật dân-cử có quyền bất-khả xâm-phạm.
“Điều đáng nói là cộng-sản đã len-lỏi vào, và chính-quyền địa-phương thì không dám dòm-ngó đến, phó mặc cho Trung-Ương lo.
“Tuy thế, tôi đã có người bên trong, cho nên biết trước chương-trình & nội-dung sinh-hoạt của họ, khắp Vùng.
“Trên hết, chính tôi đã gặp, trực-tiếp nói chuyện với Thượng-Nghị-Sĩ Vũ Văn Mẫu, Giáo-Sư Võ Đình Cường, và các tay cầm đầu, nên biết ý-đồ của họ, và tôi đã có trình lên thiếu-tướng rồi.”
– Anh có chắc-chắn là không có gì đáng lo?
– Vâng, nếu họ vẫn cứ tổ-chức mít-tinh tại các sân chùa, chứ không xuống đường gây xáo-trộn trật-tự chung, như họ đã cam-kết với tôi, và nếu họ không xúi-giục quân-đội gây binh-n gì, mà chỉ chờ-đợi đến ngày bầu-cử Tổng-Thống, vào cuối năm tới, như họ đã nói rõ với tôi. Tính đến hôm nay, và riêng Miền Trung thì thế; còn về tương-lai, và các nơi khác thì tôi không dám đoán trước…
– Còn về “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”?
Tôi tin là Thiếu-Tướng Bình, tuy là tín-đồ Đạo Chúa, nhưng ông “sống đời công-chính theo lời Chúa dạy”, sẽ “rất công-bình chứ không thiên-vị Đạo nào”, không bao che cho người nào, nên tôi nói thẳng cảm+nghĩ của tôi:
– Chủ-đề chống tham-nhũng thì hấp-dẫn đối với mọi người, kể cả một số người mà bản-thân cũng không trong-sạch gì; nhưng tham-gia vào “Phong-Trào” thì hầu như là chỉ có tín-đồ Kitô-Giáo*; còn xuống đường thì là những phần-tử mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn liền với cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và gia-đình.
——-
*Một số nhân-vật chính-đảng và tổ-chức khác có tham-gia vào, nhưng không đáng kể so với đại-khối hơn 301 linh-mục.
“Dù sao, cuộc biểu-tình của họ mà bị Cảnh-Sát [do Thiếu-Tá Liên Thành chỉ-huy] đàn-áp vừa rồi cũng đã gây được một tiếng vang, có lợi cho “Phong-Trào”, tức là có hại cho Chính-Quyền. Đó là một bước dò đường. Tin-tức mới nhất cho biết là “Phong-Trào” sẽ tổ-chức xuống đường khắp nước. Từ Huế, Quảng-Trị vào các Tỉnh Vùng II thì do Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, cha xứ Phú Cam ở Huế khởi-xướng.
“Tại Thủ-Đô Sài-Gòn và các Tỉnh Vùng III, Vùng IV thì do Linh-Mục Trần Hữu Thanh phát-động.
“Khi đó thì tình-hình khắp nước sẽ rối beng; Chính-Quyền khó kiểm-soát được dân-chúng, ngay cả các Ban Tổ-Chức biểu-tình cũng không nắm vững thành-phần tham-gia. Và không ai đối-phó nổi với phản-ứng của các thành-phần bị họ chống, trong khi các phương-tiện truyền-thông trong và ngoài nước tha-hồ đổ thêm dầu vào.
“Tóm lại, ‘Phong-Trào’ không chờ đến ngày bầu-cử sang năm; họ muốn Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ-chức ngay; họ muốn có một Tổng-Thống là tín-đồ Đạo Kitô.”
Chuẩn-Tướng Bình nhắc tôi:
– Tổng-Thống [Nguyễn Văn Thiệu] cũng là…
Tôi thấy ông có vẻ thực tình muốn biết Sự Thật nên tôi trình-bày:
– Nhưng có một số phần-tử phân-biệt “đạo dòng” với “đạo theo”*. Vả lại, vấn-đề không ngừng ở đó, mà là nhắm vào vai trò giáo-dân của người lãnh-đạo quốc-gia. Họ muốn có một Tổng-Thống rập khuôn cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm. Tống-Thống hiện nay không hề đối-xử phân-biệt với các tín-đồ đạo khác, không chịu lợi-dụng Chính-Quyền để tạo ưu-thế cho Đạo Kitô – tỷ như gia-tăng tín-đồ – mà lại lập một đảng riêng là Đảng Dân-Chủ, nên họ bất-mãn. Họ đồn miệng rằng Đức Tổng-Giám-Mục Nguyễn Văn Bình đã “cảnh-cáo” Tổng-Thống về khoản này.
——-
*Trong quan-điểm đó, mãi đến thế-kỷ 21, nhà văn Nguyễn Văn Lục còn phát-biểu về Cựu-Hoàng Bảo-Đại như sau:
“Bản thân Bảo Đại là người gốc Phật giáo, cái nhãn hiệu Thiên Chúa giáo bất quá chỉ là ‘đạo theo’ cho có lệ, và chính thức ông chưa hề bao giờ là người Thiên Chúa giáo.”
“Nổi bật nhất là nội-dung những lời thuyết-giáo của Linh-Mục Nguyễn Kim Bính tại nhà thờ Phú-Cam, Huế, mà tôi đã cho thu băng gửi trình thiếu-tướng, trong đó đã có hai đoạn tiêu-biểu cho hai phương-diện của một vấn-đề: một đoạn Linh-Mục Bính hằn-học khích-động đồng-đạo, đại-ý “người ta đã ám-hại một tổng-thống anh-minh…”, và một đoạn ông cay-đắng phân bua, đại-ý “như tôi là một Cha Xứ ở Phú Cam này, có ai mà không biết tôi; thế mà cái “ngài” Đại-Tá Tôn Thất Khiên ấy, cái “đấng” Tỉnh-Trưởng TônThất Khiên ấy, đến nhậm-chức ở đây đã bao lâu rồi, mà vẫn chưa hề đến thăm hỏi tôi lấy một lần…”
Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình gật đầu:
– Tôi đã có nghe cuốn băng ấy rồi.
Ông hỏi tiếp tôi:
– Theo anh thì những việc gì cụ-thể có thể xảy ra trong tương-lai gần, hậu-quả thế nào?
– Cộng-sản Bắc-Việt ồ-ạt chuyển quân và chiến-cụ vào. Quân-Lực của ta thì bị bó tay vì bản Hiệp-Định Paris; nếu có đụng-độ quân-sự thì điều đó thuộc thẩm-quyền của cấp Trung-Ương. Riêng về phương-diện chính-trị nội-bộ thì tình-hình chung ngày càng xấu thêm: các cấp Chính-Quyền địa-phương không biết thu-phục dân-tâm; nhất là ở vùng ven-ô, nói chi ở vùng tranh-chấp. Đồng-bào chán ghét tham-nhũng, mà lại khao-khát hòa-bình. Tổ-chức của nhóm các Linh-Mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Kim Bính là “Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng để Cứu Nước và Kiến Tạo Hòa Bình”. Một số tín-đồ Kitô-Giáo sẽ đồng-loạt xuống đường khắp nơi. Nếu không ngăn-chận thì có thể có bạo-động. Giả-dụ một số quá-khích (Việt-Cộng xúi-giục) tấn-công những người mà họ cho là đã tham-gia tích-cực vào cuộc Cách-Mạng 1-11-1963 lật đổ chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa, mà những người ấy thì nằm bên phía “Lực-Lượng”, và tất-nhiên là những phần-tử này sẽ phải tự-vệ, biến thành xung-đột tôn-giáo, ít nhất cũng như biến-cố Thanh-Bồ Đức-Lợi tại Đà-Nẵng trước đây. “Phong-Trào” mà “làm mạnh” được thì phía “Lực-Lượng” hẳn cũng sẽ không chịu thua. Ngăn-chận thì bị gán cho là đàn-áp tôn-giáo; giả-dụ có kẻ bắt chước nữ-Dân-Biểu Kiều-Mộng-Thu, nằm lăn giữa đường để cho phóng-viên chụp ảnh, quay phim, dùng làm bằng-chứng là ả đã bị cảnh-sát bạo-hành, xong kéo đồng-bọn vào nhà-hàng lớn ăn khao, trong lúc phản-ứng của dư-luận chung, cả trong nước lẫn ngoài nước, nhất là tại Hoa-Kỳ, chỉ nhìn vào tấm ảnh “dân-biểu mà cũng còn bị đánh ngã giữa đường” thì rất bất-lợi cho ta.
“Hơn nữa, làm sao có đủ lực-lượng để giúp vãn-hồi an-ninh: kinh-nghiệm các vụ lộn-xộn ở Quận Hoài-Nhơn của Tỉnh Bình-Định*, Thị-Xã Tuy-Hòa của Tỉnh Phú-Yên*, vừa qua, cho thấy là Chính-Quyền Tỉnh bất-lực khi chính Cảnh-Sát của địa-phương mình bị đám lộng-hành bao vây, tấn-công. Trung-Ương cũng khó tiếp tay: chỉ nội một vụ ở Chùa Linh-Sơn, Đà-Lạt, mà phải cần có phi-cơ quân-sự di-chuyển Cảnh-Sát Dã-Chiến từ Sài-Gòn lên; nếu có biến-động nhiều nơi một lần thì làm sao mà giải-nguy?
“Quan-trọng hơn hết là bọn Việt-Cộng đã xâm-nhập vào “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Chúng đã hiểu rõ là tổ-chức này thù-hận chế-độ hiện-thời hơn hết (vì Sư-Đoàn của Tổng-Thống là lực-lượng chủ-yếu tấn-công Dinh Gia-Long), nên chúng lợi-dụng để có thêm những đồng-minh chung sức chống phá Việt-Nam Cộng-Hòa.
“Trong lúc đó, ‘Phong-Trào’ đã bắt đầu lôi kéo thêm các tổ-chức khác nữa, từ bên ngoài Kitô-Giáo – thí-dụ Đảng Đại-Việt – để cùng hưởng-ứng ‘Phong-Trào’.
“Việt-Cộng thấy rõ ‘Phong-Trào’ là hình-thức đối-lập hợp-pháp, nấp được vào đó là hoạt-động dễ vô cùng.
“Chúng sẽ có thể trà-trộn xúi-giục chiếm giữ công-sở, đột-nhập đồn bót, khủng-bố, phá-hoại, ít nhất là cũng thành-công về mặt chính-trị, thông-tin tuyên-truyền…”
– Theo anh thì Chính-Quyền nên đối-phó cách nào?
Tôi nghĩ đến mối ác-cảm của Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Cam, đối với Đại-Tá Tỉnh/Thị-Trưởng Tôn Thất Khiên, vì đã “chưa hề đến thăm hỏi” ông lần nào, và mối căm-thù của ông đối với Thiếu-Tá Liên Thành, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG địa-phương, vì đã “đàn áp cuộc xuống đường” do chính ông dẫn đầu, và chương-trình hành-sự của tôi.
– Tôi xin đề-nghị Trung-Ương tạm-thời nhượng-bộ “Phong-Trào” một bước đầu tiên, để tiện cấp-thời vô-hiệu-hóa mọi kế-hoạch hoạt-động của họ hiện nay, bằng cách cử hai tín-đồ Kitô-Giáo, gốc-gác Đệ-Nhất Cộng-Hòa và thân-cận với giới cựu Cần-Lao, ra làm Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Sát Quốc-Gia tại Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế…
Thiếu-tướng Bình và Đại-Tá Tây nhìn nhau.
Tôi nói tiếp liền:
– Như thế là chỉ mới giải-quyết được bước đầu, chứ chưa xong trọn vấn-đề.
“Nếu tôi còn ở Vùng I thì tôi, chính tôi, sẽ ngăn-chận được mọi sự xáo-trộn tiếp theo, cho Vùng I, và do đó, cho toàn Miền Nam…” (Xem thêm)
*
Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia Việt-Nam Cộng-Hòa, đứng dậy, đưa tay bắt tay cám ơn tôi, và kết-thúc cuộc tiếp-xúc bằng lời khuyến-khích tôi và hứa-hẹn sẽ thăng cấp cho tôi vào “Ngày Cảnh-Lực” 1-6-1975.
Tôi cùng Đại-Tá Hùynh Thới Tây trở về văn-phòng Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, lần này thì cùng đi bộ.
Tôi muốn nói lên một lời cám ơn ông đã đề-bạt tôi, đã dành cho tôi rất nhiều đặc-quyền, đặc-ân, mà các viên-chức khác, ngang tôi, kể cả cao cấp hơn tôi, cũng không có được – đương-nhiên là trong công-vụ mà thôi. Ít nhất thì ông cũng đã bắt cả các cấp Giám-Đốc phụ-tá của ông tại Trung-Ương phải đích-thân đáp-ứng ngay mọi đề-nghị của tôi; và, thay vì, như với nhiều giới-chức khác – cấp dưới dâng nạp quà cáp lên cho cấp trên – thì ông ngược lại đã cho riêng tôi mỗi tháng 20,000 đồng, tương-đương gần nửa tháng lương của tôi, để thuê nhà ở, vì tôi phải rời gia-đình mà ra Miền Trung – tất-nhiên với sự tán-đồng của Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình.
Nhưng tôi không nói ra được lời cám ơn đó, vì nó có vẻ nịnh-hót thế nào ấy – một việc mà tôi không bao giờ làm, cho nên đã bị thiệt-thòi từ hai mươi bảy năm nay.
Chúng tôi lặng-lẽ bước bên cạnh nhau, trước những cặp mắt ngạc-nhiên của nhiều sĩ-quan gặp trên đường đi.
Cuối cùng, như để đánh tan bầu không-khí lạt-lẽo ấy, và lấy lại thế chủ-động, Đại-Tá Tây nói với tôi:
– Qua Sắc-Phục thì có tiền…
Câu nói ngắn-ngủi mà tôi nghe như nói lên tâm-tư của một số đông viên-chức chỉ-huy Ngành Đặc-Cảnh thời bấy giờ.
Sau đó, ông không quên trao tiền thuê nhà cho tôi, và nhắc tôi cần gì thì giải-quyết gấp với các Giám-Đốc hữu-quan, để còn rời Sài-Gòn sớm mà ghé thăm gia-đình hiện ở Nha-Trang… .
*
Tôi vừa về đến Nha-Trang thì nhận được tin Trung-Ương đã cử hai nhân-vật khác đến thay Đại-Tá Tôn Thất Khiên và Thiếu-Tá Liên Thành trong chức-vụ Tỉnh/Thị-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế.
Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, nhắn tôi ra Đà-Nẵng gấp, để cùng ông ra Huế chủ-tọa lễ giao-nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, giữa Thiếu-Tá Liên-Thành và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh.*
——-
*Xem “Trung-Tá Hoàng Thế Khanh”, trang 367.
Những lần trước, tôi có thể ở lại với gia-đình vài ngày; vì tuy ở xa nhiệm-sở, dù ở Tỉnh/Thị/Quận nào khác, kể cả những ngày ở Sài-Gòn và ở Nha-Trang, nhưng qua một hệ-thống liên-lạc đặc-biệt mà tôi đã tự mình sắp-xếp và đặt trong tình-trạng thường-trực 24/7, tôi vẫn liên-tục trực-tiếp điều-khiển và giải-quyết mọi việc ở cơ-quan.
Lần nầy thì tôi phải gọi Hãng Hàng-Không Air Vietnam yêu-cầu dành chỗ ưu-tiên để sáng hôm sau tôi ra Đà-Nẵng ngay**.
——-
**Bản gốc Chương này đã được in trong cuốn hồi-ký “Về Vùng Chiến-Tuyến” do Nhà “Văn Nghệ” ở Nam California, USA, xuất-bản năm 1996, nay được in lại, giữ nguyên tất cả các sự-kiện và nội-dung cốt-yếu – chỉ thêm vào một số hiệu-đính, phụ-chú, giải-thích cho đầy-đủ và rõ-ràng hơn mà thôi.
Đại-Tá Huỳnh Thới Tây đưa tôi vào gặp Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình.
Trong cuộc gặp mặt này, Đại-Tá Tây chỉ đóng vai trò dự-thính và quan-sát-viên, từ đầu đến cuối không hề nói một tiếng nào.
Sau khi bắt tay, mời ngồi, hỏi qua về sức khỏe và gia-đình tôi, xong Tướng Bình nói:
– Tôi định đưa anh ra làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Sát Quốc-Gia Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế [thay Thiếu-Tá Liên Thành], anh nghĩ sao?
Tôi không nghĩ sao hết.
Trong một thời-buổi mà giấc mơ của không biết bao nhiêu sĩ-quan cấp tá, dù là đã được biệt-phái từ Quân-Lực qua Cảnh-Lực rồi, hay là vẫn còn ở bên quân-ngũ, là được cử làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Tỉnh, một Thị-Xã, hoặc một Quận ở Thủ-Đô Sài-Gòn, thì tôi đã thấy chán ngán từ lâu cái chức-vụ mà giá-trị công-chính của nó đã bị nhiều người dẹp bỏ, để chỉ mong đợi cái hệ-quả tư-tà của nó mà thôi. Có thể nói đó là một cương-vị để làm tiền; trừ một số ít chỉ tự bằng lòng với những lợi-lộc vừa-phải tự-nhiên-mà-có, còn thì đua nhau đổi trắng thay đen vơ-vét cho đầy túi tham, mà điều tệ-hại hơn hết là do đó mà dung-dưỡng tệ-nạn xã-hội, làm suy-yếu đội-ngũ Quốc-Gia, tạo kẽ hở cho đối-phương xông lên.
Tôi nghĩ đến bản-thân tôi, mà gia-đình còn ở Nha-Trang: nếu làm việc ở Đà-Nẵng như hiện nay thì tôi còn có thể ít nhất mỗi tháng một lần về Trung-Ương và nhân đó ghé thăm gia-đình, chứ đi làm việc ở các Tỉnh khác thì khó mà về Nha-Trang vì trái ngả đường; còn nếu đưa vợ+con theo thì cứ mỗi lần dời-đổi chỗ ở là một lần hao-tốn, xáo-trộn, mà đã chắc gì ở được tại một Tỉnh nào lâu đâu.
Riêng đối với Huế, sau mười lăm năm dâu-bể −kể từ ngày tôi bị đày đi khỏi nó, vì chống độc-tài Nhà Ngô, vào năm 1960− bộ mặt đã khác hẳn rồi, tấm lòng cũng chẳng còn nguyên; bây giờ nếu tôi vẫn ở xa Huế mà giúp-đỡ Huế thì dễ, chứ ở ngay Huế thì e tôi sẽ khó lòng mà tự giúp-đỡ được ngay chính mình.
Tôi thấy rõ là các cấp chỉ-huy của tôi hiện nay, Chuẩn-Tướng Bình và Đại-Tá Tây, đã dành cho tôi một lòng ưu-ái đặc-biệt, cả một đặc-ân lớn-lao. Đáng lẽ tôi nên nói một câu gì khéo-léo, để vừa chối-từ vừa tỏ lòng cám ơn.
Biết bao nhiêu lần tôi đã nghe rõ các người xung quanh, dù là ở cấp Xã Ấp, ở cấp Toán Tổ, nói đến “cất-nhắc”, nói đến “chức-phận”, nào là “tri-ân”, nào là “trung-thành”. Nhưng tôi không thể sử-dụng miệng lưỡi mình trong trường-hợp này, mặc dù biết rằng một lời nói ngọt sẽ gây được nhiều thiện-cảm nơi người nghe hơn.
Tôi đáp:
– Xin thiếu-tướng cho tôi ở lại Đà-Nẵng.
Cả Chuẩn-Tướng Bình lẫn Đại-Tá Tây đều giữ vẻ mặt điềm-nhiên, nhưng tôi nghĩ là họ hẳn không khỏi ngạc-nhiên.
Tướng Bình hỏi tôi:
– Tại sao anh không thích ra Huế?
Tôi nghĩ ngay đến trách-vụ ổn-định tình-hình nội-chính ở Miền Trung mà Trung-Ương đã giao cho tôi, nhất là ở Huế, mà cụ-thể là chồng đơn/hồ-sơ khiếu+tố dày thịch từ Huế mà tôi đã tế-nhị xin giao qua cho phía An-Ninh Cảnh-Lực nhận-hành năm ngoái(nhưng thực ra các vụ-việc vẫn chưa được ai giải-quyết trôi tròn – mà nếu giải-quyết thì kẻ chủ-trách sẽ bị danh-bại thân-liệt tức-thời) .
Tôi thực tình trả lời Chuẩn-Tướng Bình:
– Vì tôi bị đổi đi xa, nay được trở về; gặp những kẻ đáng bị trừng-trị mà dung-thứ thì không được, nhưng ra tay thì sẽ bị xem là trả thù hoặc trở mặt, e không trọn tiếng với đời…
Phóng-ảnh trang 229 “Về Vùng Chiến-Tuyến” (1996)
Tướng Bình hỏi tiếp:
– Anh thấy nếu ở nơi khác thì dễ làm việc hơn ở Huế sao?
Tôi sợ là ông hiểu lầm rằng tôi tránh né những nơi khó-khăn. Tôi không tránh né khó-khăn mà tôi chỉ muốn tránh né những nơi mà mình có thể bị dùng làm vật hy-sinh. Tự-nhiên tôi thấy muốn nói, công-khai và trực-diện, vì đây quả là cơ-hội hiếm có, rằng: “Các ông đừng đánh giá tôi ngang hàng với đa-số cùng mang cấp-bậc và/hoặc cùng giữ chức-vụ như tôi!” – ý tôi định nói là vì tôi không gặp thời, chứ thực ra thì… Tôi bỗng kịp tự kiềm-chế, và chỉ trình-bày một cách mà tôi cho là… khiêm-tốn:
– Tôi có khả-năng làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại bất-cứ một Tỉnh nào trên toàn-quốc, mà không thua kém bất-cứ một người nào.
Nói xong, tôi tự thấy là mình đã lỡ lời.
Nhưng Tướng Bình gật đầu. Hẳn ông hiểu rõ là tôi nói thật.
Nhưng có lẽ ông tưởng tôi muốn xin đi làm Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực tại một Tỉnh nào không có người cũ quen tôi, để dễ trừng-trị những kẻ phạm-pháp hơn chăng, nên ông hỏi tôi:
– Anh nghĩ thế nào về Tỉnh Quảng-Nam?
Thừa-Thiên là quê mẹ tôi; tôi đã lớn lên ở đó, tôi có ở đó rất nhiều kỷ-niệm trọn đời khôn quên, thế mà tôi đã chối-từ, huống gì Quảng-Nam. Tôi thấy thật khó nói lên ý-kiến của mình. Tuy thế, nhìn thấy nét mặt của tôi là ông biết ngay tôi không nhận lời.
Ông liền nói tiếp:
– Tôi cho anh chọn Tỉnh nào anh thích.
Đến tận nước này thì thật quá lắm. Một vị Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát toàn-quốc, đồng-thời cũng là Đặc-Ủy-Trưởng Phủ Đặc-Ủy Trung-Ương Tình-Báo, thứ-bậc gấp đôi Bộ-Trưởng, hiện có đầy-đủ quyền-hành cũng như dư-thừa thuộc-viên thân-tín để chọn bổ-nhiệm vào các chức-vụ chỉ-huy, từ ở Trung-Ương xuống đến Xã Phường, mà lại chấp-nhận cho tôi tự chọn địa-phương công-tác theo ý muốn riêng của mình!
Tôi thật xúc-động trước thái-độ đó, cùng lúc cảm thấy thỏa-mãn, vì tự-ái được vuốt-ve.
Phải chăng Cấp Trên cần tôi tập-trung nỗ-lực đảm-trách an-ninh trật-tự riêng cho một Tỉnh quan-trọng, như Tỉnh Thừa-Thiên, mà tỉnh-lỵ là Thị-Xã Huế, nơi xuất-phát liên-tục của những phong-trào chống-đối Chính-Quyền Trung-Ương, và hiện nay vẫn là nơi sôi-sục chính-tình, nên cần có tôi có mặt thường-trực tại chỗ để chuyên-chú lo ổn-định nội-an; hoặc Tỉnh Quảng-Nam, là nơi bám trụ của các cơ-quan đầu-não của cả Đảng-Ủy Liên-Khu V lẫn Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu V của đối-phương, cũng là hậu-cứ tiếp-nhận lực-lượng cộng-sản từ Bắc-Việt xâm-nhập vào, bàn-đạp để chúng vừa cầm chân Quân-Đoàn I của ta, vừa tiến sâu hơn vào các tỉnh ở phía Nam, kể từ vùng đất địa-đầu chiến-lược này bên trong phòng-tuyến A-Sau và Đèo Hải-Vân, nên cần có tôi chú-tâm bảo-vệ số đông đồng-bào bị kẹt tại các Xã Ấp thuộc vùng tranh-chấp ở giữa hai bên? Nếu thế thì tại sao ông lại bảo tôi chọn Tỉnh nào khác hơn? Hay là ông định đưa người nào khác đến thay-thế tôi ở trách-vụ và hoạt-hạt hiện-thời? Trong trường-hợp đó, tôi nên chọn một Tỉnh nào tiện đường cho tôi để dễ đi+về chăm-sóc gia-đình hiện ở Nha-Trang.
Tôi bèn hỏi lại:
– Thưa thiếu-tướng, bất-cứ ở Vùng nào?
Tướng Bình mỉm cười, nhận thấy tôi đã lợi-dụng câu nói của ông, trả lời:
– Cứ tạm chọn ở Vùng I trước đã!
Quảng-Trị, Quảng-Tín, Quảng-Ngãi, đều càng bất-tiện hơn Thừa-Thiên và Quảng-Nam. Tôi suy-nghĩ nhanh trong đầu: nếu lại từ-chối thì có thể làm cấp trên bực mình, nên tôi dựa theo câu nói của ông mà trả lời ông, vì tôi biết chắc là sẽ bị từ-chối ngay:
– Nếu thiếu-tướng cho tôi đảm-trách Thị-Xã Đà-Nẵng…
Và, để mở một lối thoát cho cả ông lẫn tôi, hầu chấm dứt vụ cử-nhiệm này, tôi nói thêm:
– Tôi có thể kiêm-nhiệm cả Đặc-Cảnh Vùng I lẫn Cảnh-Lực Thị-Xã Đà-Nẵng, để nâng phía Sắc-Phục ở đó lên… .
*
Chuẩn-Tướng Bình im-lặng một lát rồi chuyển câu chuyện qua đề-tài khác. Ông hỏi tôi:
– Anh có tham-gia đảng-phái nào không?
Tôi đáp:
– Tôi là người không đảng-phái.
Có lẽ ông muốn hỏi xem, ngoài các đảng-phái chính-trị ra, còn có hội-đoàn, phe-nhóm hoặc nhân-vật hữu-danh hữu-quyền nào khác đỡ đầu cho tôi hay không, nên ông khéo-léo:
– Hồi đó, ai giới-thiệu anh qua Phủ Đặc-Ủy?
Sự-việc thật là đơn-giản, nhưng ông không nghĩ đơn-giản, và tôi cũng khó trình-bày đơn-giản.
Cả một quá-trình chuyển-biến của Ngành Cảnh-Sát Công-An Quốc-Gia qua suốt gần ba thập-niên hiện lên trong đầu-óc tôi; nhưng các viên-chức dù cao cấp nhất, dù lớn chức nhất, và già nghề nhất, cũng có mấy ai nắm vững vấn-đề?
Tôi đành trả lời ngắn gọn:
– Tôi được chỉ-định dự thi khả-năng chuyên-môn, trắc-nghiệm bằng máy polygraph dò-sự-nói-dối, học Khóa đầu tiên Tình-Báo Đặc-Biệt Cao-Cấp của Mỹ, rồi được biệt-phái qua Phủ Đặc-Ủy, chứ không do sự giới-thiệu của một nhân-vật hay đoàn-thể nào.
Tướng Bình lại đổi đề-tài. Ông hỏi tôi:
– Anh với Lê Văn Hảo liên-hệ thế nào?
Thì ra Cấp Trên vẫn chưa biết rõ sự liên-hệ ấy.
Tôi đáp:
– Lê Văn Hảo là em-khác-mẹ của vợ tôi.
Ông hỏi thêm:
– Sau vụ cộng-sản tổng-tấn-công Tết Mậu-Thân 1968 thì sao?
Tôi trình-bày:
– Hảo theo Việt-Cộng; tôi có báo-cáo lên Trung-Tá Nguyễn Mâu, hồi đó là Phụ-Tá Tư-Lệnh/Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương; Trung-Tá Mâu nói rằng: “Trong một gia-đình, có thể có người này bên này, kẻ kia bên kia; nếu anh không dính-dáng gì với y thì thôi!” Đương-nhiên Trung-Tá Mâu và CSĐB Trung-Ương đã cho mật theo-dõi vụ này. Thực-tế, tôi, và vợ tôi, không hề liên-lạc với anh-ta.
Tôi rất ngạc-nhiên tại sao mãi đến giờ này Chuẩn-Tướng Tư-Lệnh Cảnh-Lực mới nêu vấn-đề đó ra với tôi.
Phải chăng Trung-Ương không biết chuyện đó trước khi cử tôi ra Miền Trung?
Còn nếu có biết và có nghi tôi thì đâu có bổ-nhiệm tôi?
Ngược lại, tuy biết mà vẫn tin tôi thì còn nhắc lại làm gì?
Hay là mãi đến gần đây mới biết?
Tôi nhớ, trước đó không lâu, trong một buổi họp tại phòng-giấy của Thiếu-Tướng Hoàng Văn Lạc, Phó Tư-Lệnh Quân-Khu I, nhân khi Đại-Tá Lê Quang Nhơn, Chánh-Sở I An-Ninh Quân-Đội, thuyết-trình về công-tác theo-dõi các quân-nhân có liên-hệ gia-đình với Việt-Cộng– các quân-nhân này có tên trong một loại hồ-sơ đặc-biệt gọi là “Hồ-Sơ Z”; cách phân-loại này về sau cũng được áp-dụng đối với cảnh-nhân –Đại-Tá Nhơn đã nói: “Ngay trong năm anh+em chúng tôi ngồi họp ở đây, cũng có người có hồ-sơ Z”.
Năm người hiện-diện là Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I; Đại-Tá Phạm Văn Phô, Trưởng Phòng 2 Quân-Đoàn và Quân-Khu I; Trung-Tá Phạm Xuân Bách, Phụ-Tá Trung-Tâm-Trưởng Phụng-Hoàng Vùng I; Đại-Tá Nhơn, và tôi.
Họ có ám-chỉ gì tôi hay không?
Hẳn là Tướng Bình có được “Người Bạn Đồng-Minh” [tên gọi mới của cố-vấn CIA] cho biết, vì chính tôi đã đích-thân kể rõ mối liên-hệ ấy với “Người Bạn Đồng-Minh” của tôi ― rồi NBĐM Vùng I báo-cáo lên NBĐM Trung-Ương, rồi vị này báo lại cho Tướng Bình, nên ông đích-thân hỏi tôi để ông trực-tiếp nghe cho rõ hơn?
Nguyên Bộ Tư-Lệnh CSQG/Ngành Ðặc-Biệt Trung-Ương có khám-phá ra được một Cụm Tình-Báo Chiến-Lược của Cộng-Sản Bắc-Việt hoạt-động tại Miền Nam. Cũng như Vũ Ngọc Nhạ của cố Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, Huỳnh Văn Trọng, là Phụ-Tá của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, bị lột mặt nạ là cán-bộ nội-tuyến của đối-phương. Trong việc lùng bắt đồng-bọn tại địa-phương, Trưởng Ngành Ðặc-Cảnh hồi đó tại Vùng I là Chủ-Sự Phòng Cảnh-Sát Đặc-Biệt Lê Đình Khôi – nguyên là một cán-bộ VC hồi-chánh – vì đã “sơ-xuất để cho cán-bộ của địch tại địa-phương lọt lưới” nên bị nghi là Việt-Cộng nằm vùng. Khôi bị Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia cất chức, tạm giữ để điều-tra suốt nhiều tháng, xong cho trở về tiếp-tục làm việc tại cơ-quan cũ, là Ngành Đặc-Biệt Vùng I, bây giờ ở dưới quyền tôi*.
——-
*Sự Thật là Lê Đình Khôi phải trả tự-do cho một nữ cán-bộ VC theo lệnh của cấp chỉ-huy trực-tiếp, hồi đó là Kiểm-Tra Võ Lương, Giám-Đốc Nha CSQG Vùng I (mà theo dư-luận thì ông này đã có quan-hệ riêng-tư với ả-ta). Sau vụ đó thì chính Ô. Võ-Lương cũng đã rời khỏi Vùng I, về Sài-Gòn.
Lê Đình Khôi hồi đó tạm-trú tại nhà của Ô. Lê-Văn Tập, một phú-gia tên-tuổi của Thành-Phố Ðà-Nẵng, bạn thân của thân-phụ Khôi. Ô. Tập, có ba bà vợ, có mấy người con-gái trẻ tuổi cùng ở tại đây. Do đó, nhân-viên điều-tra tưởng rằng Khôi là con-rể trong nhà này. Nay tôi mới đến, vì chưa có chỗ ở, nên cũng tạm-trú tại đó, là nhà của nhạc-phụ tôi. Vì thế, khi Người Bạn Ðồng-Minh muốn tìm hiểu tôi, mà cách hay nhất là nhờ chính các nhân-viên Đặc-Cảnh bí-mật điều-tra giùm, thì kết-quả là tôi trở thành anh-em-cột-chèo với Khôi, người đang bị theo-dõi vì bị nghi là nội-tuyến của đối-phương.
Tôi được thân-tình-viên trong nội-bộ cơ-quan CIA và Tòa Tổng-Lãnh-Sự Hoa-Kỳ tại Đà-Nẵng cho biết, rằng Người Bạn Đồng-Minh Vùng I của tôi, là Đại-Tá Kenneth Ferguson, cũng có giao cho Người Bạn Đồng-Minh Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế đảm-trách việc điều-tra này, vì ngại nhân-viên Đặc-Cảnh trong này [Đà-Nẵng] thiên-vị về tôi, và vì trước kia tôi và vợ tôi ở Huế, mà gia-đình Ô. Lê Văn Tập cũng như Lê Đình Khôi cũng đều gốc Huế.
Người Bạn Đồng-Minh ngoài đó đương-nhiên phải nhờ Ngành Đặc-Biệt đồng-cấp [cấp tỉnh/thị] của mình; như thế thì hẳn nhân-viên của Sở Đặc-Cảnh Thừa-Thiên/Huế đã vào Đà-Nẵng mò-mẫm dò-la.
Tôi biết được điều đó, nên đặt thẳng vấn-đề với Ferguson.
Các cô em của vợ tôi hồi đó còn đi học, mà nhà Ô. Lê-Văn Tập là nhà lớn, có lầu, có sân, ở giữa thành-phố, nên vào buổi chiều, nhất là vào các ngày cuối tuần, có khá nhiều bạn học đến chơi, người ngoài không phân-biệt được ai là con, ai là bạn của con ông. Lê Đình Khôi – là con của Ô. Hường [Hồng Lô Tự Khanh] Loan (bạn của Ô. Tập) – đã cưới một cô trong số các cô nữ-sinh ấy, không phải là con của Ô. Tập, nên Khôi không phải là rể của Ô. Tập, tức Khôi không phải là anh-em-cột-chèo của tôi.
Tôi cho Ferguson xem hồ-sơ của Khôi, với giấy giá-thú, tờ khai lý-lịch, chứng-minh là vợ đương-nhân không có họ-hàng gì với gia-đình vợ tôi. Ferguson vừa mừng-rỡ cám ơn tôi, vừa luống-cuống ghi-chép những điểm cần; tôi đoán là anh đang lựa lời để biện-minh cho việc-làm của mình, mà suýt nữa là phạm phải lỗi-lầm. Cuối-cùng, không thể dối lòng, anh thú-nhận:
– Tôi tưởng là anh lọt vào lưới tôi, nhưng chính là tôi lọt vào lưới anh!
Ðó là câu nói chống-chế xã-giao, nhưng nó bộc-lộ đức-tính sòng-phẳng của Người Bạn Đồng-Minh của tôi.
Tiếp theo, tôi cho Ferguson biết thêm về một mối liên-hệ khác trong gia-đình vợ tôi, quan-trọng hơn cái mẩu tin dởm về anh-em-cột-chèo.
Ô. Lê Văn Tập, cha của vợ tôi (đã qua đời vào năm 1968), là thân-phụ của Tiến-Sĩ Lê Văn Hảo, Chủ-Tịch “Ủy-Ban Nhân-Dân Cách-Mạng Tỉnh Thừa-Thiên / Thành-Phố Huế” vào vụ Tết Mậu-Thân.
Vợ tôi là chị-khác-mẹ của Hảo, chứ không phải là một trong số các cô em.
Lê Văn Hảo đi du-học Pháp từ nhỏ, tốt-nghiệp năm 1965, về nước dạy tại các Viện Ðại-Học Sài-Gòn, Đà-Lạt, và Huế, rồi vào trước vụ VC tổng-công-kích Tết Mậu-Thân 1968 tại Huế thì vào rừng với đối-phương.
Trước kia, vợ tôi ở với mẹ ruột tại Huế, còn Hảo thì ở Châu Âu.
Sau ngày Lê Văn Hảo* hồi-hương thì Hảo chỉ ở Sài-Gòn và Huế, còn tôi [cùng với vợ tôi] thì bị cầm chân trên Cao-Nguyên (Darlac, Quảng-Đức, Pleiku) từ năm 1960.
——-
*Đã bỏ VC qua tị-nạn chính-trị tại Pháp từ năm 1989 và đã chết rồi.
Tóm lại, vì biết em mình hoạt-động cho VC nên vợ tôi không liên-lạc hỏi-han gì, còn tôi thì chưa hề gặp mặt Hảo cho đến tận ngày hôm nay.
Ðó là tin-tức sốt dẻo – anh-rể thật-sự của một nhân-vật cộng-sản quan-trọng hiện-thời – có giá-trị gấp bội phần so với trường-hợp của Lê Đình Khôi – chỉ là một viên-chức bị nghi, mà mấy tên gà-mờ gán cho là “anh-em-cột-chèo” với tôi.
Tất-nhiên Ferguson đã cho tái-kiểm-chứng, và đã có được sự thật một cách đơn-giản, nhanh-chóng, dễ-dàng.
Từ đó, anh cởi-mở và tận-tụy với tôi hơn bao giờ.
Nhưng cũng từ đó tôi phải khổ nhọc với công-vụ hơn bao giờ, vì phải đương-đầu nhiều hơn với cả khách ngoài ngành cũng như bạn trong nghề, trong lúc còn phải đối-phó với quân thù cả đằng trước mặt lẫn đằng sau lưng*.
——-
*Sự-việc này đã được kể lại trong cuốn “Về Vùng Chiến-Tuyến” do Nhà “Văn Nghệ” ở miền nam California xuất-bản năm 1996 (trang 302-03).
Bỗng-nhiên, trên diễn-đàn vô-tuyến “PalTalk” vào ngày 23-8-2010, cựu Thiếu-Tá Liên Thành, cựu CHT/CSQG Thừa-Thiên–
KIỀU MỸ DUYÊN: TÁC GIẢ CHINH NGUYÊN RA MẮT SÁCH
TÁC GIẢ CHINH NGUYÊN RA MẮT SÁCH
Thứ bảy, ngày 10 tháng 8/2024
KIỀU MỸ DUYÊN
TRẦN CÔNG/LÃO MÃ SƠN Sưu Tầm: “Thật không Ngờ Chữ “Đức” Lại Bao Hàm Thiên Cơ Lớn Đến Như Vậy!” Tác giả: Trạch Lâm.
Đức là gì, Đạo đức là gì? Người xưa và người nay hiểu về Đức khác nhau như thế nào?
Trạch Lâm
Chữ “德” (Đức) được tạo thành từ các bộ: “彳” (bộ Xích) , “十” (bộ Thập), “目” (bộ Mục), “一” (bộ Nhất), và “心” (bộ Tâm). Trong cuốn “Thuyết văn giải tự” giải thích rằng: “Đức, thăng dã. Tùng xích thanh” (Tạm dịch là: “Đức, là cảnh giới thăng hoa”. Do đó, “Đức” có thể được hiểu là đạo đức, là sự thăng hoa của “tâm tính” con người. Chữ “Đức” mang ý nghĩa là vươn lên tầng cao hơn, cũng là chỉ sự tinh tấn của người tu luyện, nên chữ “Đức” có mang theo bộ “彳” (bộ Xích).
Theo “Thuyết văn giải tự”: “Xích, tiểu bộ dã, tượng nhân hĩnh tam chúc tương liên dã”, tạm dịch là: Xích, là bước nhỏ, giống như ba phần liên kết của chân người.
Bộ Xích giống như ba khớp của chân người, có ý nghĩa là bước một bước nhỏ. Tuy nhiên bước nhỏ của chữ “Đức” này không phải là chạy, nhảy hay đi bộ trên mặt đất phẳng, cũng không phải là dậm chân tại chỗ, mà là từng bước một vươn lên cao.
Đối với một người bình thường, “Đức” nhiều hay sẽ quyết định năng lực của người đó lớn hay nhỏ, mức độ hạnh phúc cũng như tầng thứ và hướng đi trong luân hồi. Vì vậy, muốn “có được” (Đắc) thì phải có “Đức”, muốn “có được” (Đắc) thì phải “mất đi” (Thất), muốn “có được” (Đắc) thì phải “xả bỏ” (Xả), muốn “có được” thì phải nỗ lực.
Đối với người tu luyện, “Đức” nhiều hay ít sẽ quyết định mức độ khó khăn khi tu luyện, sự cao thấp của “Công” cũng như tầng thứ và quả vị có thể đạt đến.
Bên phải chữ “Đức” là “十目一心” (thập mục nhất tâm).
Trước hết, chúng ta hãy nói về chữ “一” (Nhất). Hiện tại chúng ta đều cho rằng “一” (Nhất) đơn giản chỉ là một con số. Thế nhưng thực ra, con số này rất phức tạp. Trong “Thuyết văn giải tự” có rất nhiều cách giải thích về chữ này. Nội hàm của chữ “一” này là gì?
“Duy sơ thái cực, Đạo lập ư nhất, tạo phân thiên địa, hóa thành vạn vật” (Tạm dịch là: Thái cực, Đạo tối nguyên sơ là được sinh ta từ “nhất”, sau đó tạo nên trời đất, sinh thành vạn vật).
Vì vậy, chữ “一” là tổ của vạn vật, là tổ tiên và nguồn gốc của tất cả mọi thứ. Từ “一” sinh ra âm dương, sinh ra trời đất. Nét ngang trong chữ này đã chia ra trời và đất. Ở phía trên là trời, phía dưới là đất.
Còn chữ “十” (Thập) ở đây có nghĩa là “thập phương thế giới, tứ diện bát phương” (mười phương thế giới, bốn phương tám hướng).
Thế nên mọi người sẽ thấy chữ “Đức” này rất thú vị. Trên chữ “一” là “十目” chính là chỉ rằng khắp trời đều là con mắt. Chữ tâm dưới chữ “一” là chỉ lòng người. Vì vậy mắt của Ông Trời đang nhìn vào lòng người.
Trước đây còn có những câu như: “Trên đầu ba thước có Thần linh”, “Làm chuyện trái với lương tâm ở trong phòng tối, mắt Thần lại thấy rõ như ánh điện”
Nghĩa là mắt của Ông Trời ở khắp mọi nơi, những con mắt đầy trời đang nhìn xuống mặt đất. Điều này cho thấy người xưa hiểu “Đức” là gì. Đó chính là dù có ai nhìn thấy hay bạn hay không, bạn có bị pháp luật truy xét hay không, thì hành vi của bạn đều phải tuân theo Thiên lý mới thực sự là “Đức”.
Lão Tử viết rằng: “Vạn vật mạc bất tôn Đạo nhi quý Đức“ (Tạm dịch là: muôn vật đều tôn trọng Đạo, quý trọng Đức).
Vạn vật nếu không có Đạo thì không thể sinh ra, nếu không có Đức thì không thể thành được. Vì vậy vạn sự vạn vật, trời đất và con người có thể tồn tại, phát triển đều nhờ với sự nuôi dưỡng của Đạo Đức.
Đức là một loại vật chất cao năng lượng, không nhìn thấy, không sờ được nhưng lại thực sự tồn tại. Có thể nói rằng chữ “Đức” quyết định tất cả mọi thứ của con người. Đức hạnh nhiều ít sâu cạn sẽ quyết định phúc phận và vận mệnh của con người, giống như người xưa nói rằng: “Hữu đức giả đắc” (Người có đức thì có được); “Thất đức giả thất” (Người không có đức thì mất đi).
Phúc hay họa của con người đều có liên quan mật thiết đến đức. Có đức là có phúc, không có đức thì sẽ gặp họa. Đó chính ý nghĩa thực sự của câu “Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân” (Tạm dịch là: Trời không thiên vị, thường giúp người lành).
Trong sách cổ “Thượng thư – Cao đào mô” có miêu tả có tổng cộng chín loại đức, cũng là chín tiêu chuẩn về hành vi:
Tạm dịch là: Khoan dung đại lượng nhưng cũng nghiêm túc cung kính, tính tình ôn hòa nhưng lại có chủ kiến, cẩn thận tỉ mỉ nhưng cũng trang trọng nghiêm túc, có tài trị quốc nhưng cũng thận trọng, giỏi lắng nghe ý kiến của người khác nhưng cũng cương nghị quyết đoán, hành vi chính trực nhưng thái độ ôn hòa, khoáng đạt giản dị nhưng cũng chú trọng cả những việc nhỏ, cương trực nhưng cũng vẹn toàn, kiên cường dũng cảm nhưng cũng phù hợp đạo nghĩa.
Trong sách “Thượng thư – Hồng phạm” có nói về ba loại đức khác: “Nhất viết chính trực, nhị viết cương khắc, tam viết nhu khắc”.
Tạm dịch: Một là cương trực thẳng thắn, hai là lấy cứng rắn giành thắng lợi, ba là lấy mềm dẻo giành thắng lợi.
Trong quyển “Chu Lễ – Địa Quan” lại có giảng về sáu loại đức: “Tri, nhân, thánh, nghĩa, trung, hòa”.
Tri: tri thức, hiểu biết; nhân: nhân nghĩa; thánh: sáng suốt: nghĩa: chính nghĩa; trung: chính trực; hòa: khiêm hòa.
Trong sách “Luận ngữ”, Khổng Tử đã giảng đến năm loại đức: “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”.
Người xưa rất kính trọng trời đất và Thần linh, có thể tuân theo Đạo và giữ gìn đức nên có đức hạnh tốt, có nhiều phúc phận.
Nhiều người hiện nay thường xem đạo đức là hư vô, nhìn nhận một cách nông cạn, cho rằng đạo đức chỉ là lý thuyết suông, chứ không có nội hàm thực sự, chỉ nói đạo đức trên miệng, chứ không thực tâm tin tưởng, không biết được nội hàm sâu sắc của đạo đức cũng như năng lượng vật chất và tinh thần to lớn của đạo đức. Do đó, người thời nay đã rời xa đạo đức, ít đức, phúc phần cũng nông cạn, gặp phải nhiều tai họa.
Đức Nhân biên dịch
(Memoir of the June Season) MIC OF THE I CORPS AND THE I MILITARY REGION by LE XUAN NHUAN)
HEADQUARTERS –MILITARY REGION I AND MILITARY REGION I
SINCE the abolition of the Regional Government Representative Courts (an administrative organization under the “First Republic” of President Ngo Dinh Diem, replacing the Prime Minister’s Offices) /General of the Part/State level under the “Vietnamese Nation” of State Chief Bao-Dai), the “Region Generals” (Commanders of Corps and Tactical Regions) have obviously become The Prime Minister or Representative of the Government in his/her Region.
After abolishing the position of Administrative Assistant next to the Commander of the Tactical Region, the “Region Generals (now Military Region)” have even more authority over agencies. Regional (Regional) level civil service whose tasks are considered the main efforts of the Pacification & Development Program, through the Standing Center of the Regional Council for Pacification & Development, belongs to the Military Region Command, whose staff are all military personnel, under the command of the Deputy Commander of the Military Region.
As for the Police Force, it operates closer to the Military Force, so the Commander of the Regional/Area Police Force, as Head of an Agency under the Military Region, directly receives instructions. from the Military Region Commander.
In general, it is the Police Force, but in reality, only the Special Police have the majority of responsibilities related to the Military Forces, through the two branches of Military Intelligence (Second Department) and Military Security (Second Department). Military Security). In addition, the Special Scene is also responsible for implementing one of the main goals of the Binh Dinh & Development Program: rural security.
According to the Government Decree reforming the Special Police into a Special Branch in 1970, one year before the reform of the Special Police, my position was classified as a The Director of a Department has many Departments, and is responsible for directly reporting the situation to the Military Region Commander, which means I am also a Military Region-level Agency Head.
After the seminar that I organized at the National Police Command of Region I, and after my inspections in each Province+Town and District in the Region, I realized that the Special Landscape of Region I has a great potential. – has great potential and needs to be exploited to the fullest.
However, in the context of war and with the military’s obvious superiority, I first need to gain the affection and trust of the military.
In that spirit, to start the Sector’s foreign affairs activities, I must soon come and introduce myself to the leaders and executives of the Military Region here.
Lieutenant-General Ngo Quang Truong
In Military Region I, I rarely met Lieutenant General Ngo Quang Truong , compared to Lieutenant Generals Vinh Loc , Lu Lan , Ngo Du, and Nguyen Van Toan, like when I was still working. in Military Region II. General Truong spent most of his time on outside inspections, rarely in the office.
However, in my mind I feel that I meet and get close to him often. That lieutenant general, as I heard many people praise in Saigon as well as in Region II, is truly an ideal physical figure of contemporary society. The status of a soldier has been raised to the top of the four worlds – Military, Public, Officer, Government – and that soldier is at the pinnacle of his position (“Regional General” is “leader of the Region”. -lord” of the Region). He was promoted to a higher position at the Central Government but he refused and volunteered to stay and guard this dangerous area of the Homeland; who devoted all his mind, effort and time to the anti-Communist work right at the front, rarely enjoying himself in the city; who was invited by the Southeast Asia Inter-Occupation Organization (SEATO= South East Asia Treaty Organization) to come to Thailand every month to give presentations on Vietnam’s efforts and battlefield experiences; He has no political ambitions, so he is trusted and loved by President Nguyen Van Thieu, assured that he will never break away from the Central Committee as planned by former Lieutenant General Nguyen Chanh Thi in the past. …
One day, while waiting to gather documents and bring them to the first meeting with the I Corps at the office of Colonel Hoang Manh Dang, Chief of Staff of the Corps and Military Region, some A high-ranking officer happened to mention to me about Lieutenant General Truong: that he had severely punished a General of the Division Commander for being jointly responsible for the case of a single-command. who is in charge of driving the people’s cows; that he punished a colonel Head of the Agency for corruption in the Rural Development budget; He used helicopters to fly throughout the Military Region, personally controlling the situation in all aspects and places, including supervising the disciplinary behavior of soldiers along the way as well as at stations. remote camps, on the most unexpected days and hours; What’s more, he only wore a battle uniform with armor and helmet, ready to go into battle at any time… Public opinion also rumored that he once slapped the ear of a proud Minister at the airport. -school…
General Truong’s countless exemplary deeds were recounted to me with words and attitudes full of admiration, causing a strong emotion and deep impression in me, so much so that later, when I Halfway up the stairs leading to his office and that of Colonel Dang, I suddenly saw him coming down and I suddenly stopped. Standing tall before me was the great image of a “hero” wearing armor and a helmet, realistic yet as mythical as in ancient legends. He asked me what I came for. I was speechless, causing Colonel Le Quang Nhon, Chief of Department I of Military Security, who was accompanying me, to answer for me.
So I have a trustworthy anti-Communist leader for this entire boiling War Zone .
Major-General Hoang Van Lac
Lieutenant General Ngo Quang Truong has agreed to let us – as Commander of National Police Region I, Head of Division 2 of Army Corps I & Military Region I, Chief of Department I of Military Security – The team, and I, the Director of Special Sector I, and my ” Allied Friend ” MEET weekly at the office of Colonel Hoang Manh Dang, his Chief of Staff.
That is an effort to coordinate intelligence and operations.
As for territorial security/internal affairs, we met at the office of Major General Hoang Van Lac, Deputy Commander of the Military Region.
Attending here were the Assistant Commander/National Police of Region I in charge of Phung Hoang, that is, the Assistant General Secretary of the Standing Center of the ” Phung Hoang ” Committee of Military Region I, but there is no “Ally”.
Right in the meeting that included me for the first time, General Lac emphasized the general security situation, especially in and around Da Nang Town, where Army Corps I and Military Region I were headquartered. -headquarters, where is now the capital of the Central region.
Typical issues raised:
The largest gas depot of Military Region I in Lien-Chieu, next to the foot of Hai-Van Pass, was attacked several times by the Viet Cong; Other important gasoline reserve tanks in the inner city of Da Nang were also half-cut by Viet Cong special forces with barbed wire fences (last year, bombs were set to destroy a large amount of gasoline); Trains from Hue, entering the Hai-Van Pass tunnel, were mined regularly by the Viet Cong; Especially in the south of Ngu Hanh Son Mountain, Lieutenant General Ngo Quang Truong ‘s helicopters were often shot by snipers from the Viet Cong, so he had to avoid that area by flying away…
I don’t need to wonder why the Commands of Army Corps I & Military Region I and the National Police Command of Region I are located there, but the agencies/units of the Army and Police Department are located there. – because these chronic ulcers have not been eliminated.
I immediately volunteered to take on the responsibility of restoring and ensuring long-term security for the above mentioned places.
I also propose that the Police Force in general and the Special Branch in particular, with me personally participating, take on the leading role in both covert and surface operations to eliminate communists. -produce and maintain territorial security, in any land where civilians reside and live, starting from towns and district capitals, throughout the Military Region.
I only ask for a signature from the Commander of the Army Corps and the Military Region, to notify this to all military agencies and units throughout the Region for compliance.
Lieutenant General Ngo Quang Truong , Commander of Army Corps I and Military Region I, approved my proposal.
Second Department and Military Security
In general, military people do not like police people; In particular, in the field of intelligence, there is disagreement, if not a struggle for influence, between Military Intelligence, Military Security, and the National Police [Special Forces]. -Scene]. Although in later times, there were a large number of military personnel at all levels seconded to the Police Force, and hybrid military officers held the majority of command positions in the French Army, so the Communication between the two sides at high levels and on the surface has improved quite a lot; But in daily interactions, even in work coordination, the inferior part is often reserved for the human side.
Everyone knows that in the field of military intelligence, military experts are naturally more proficient; What’s more, in wartime, Military Intelligence is equipped with state-of-the-art machinery, tools and techniques through military aid which is the main budget of the United States; supported by the sky; given priority in exploiting documents captured on the battlefield; Priority is given to interrogate all sources of information, including police officers, criminals and prisoners of war captured by the Special Police. The Special Police’s weakness is that it also collects military information, but lacks confirmation circumstances and is wary of being blamed, so any information it receives is forwarded to the Second Division. ; In the end, there are many reports from high levels that have only low value, or even no value at all. (The Special Police leaders at the Central level hardly pay attention to this.)
For me, the issue is more clear-cut. It’s even better if the Special Canh is also knowledgeable about the military. For example, to achieve that, for many years, I have fasted every day without breakfast to attend early morning presentations at II Corps Command, when I was still stationed in Pleiku. , and the Military Region II Command, moved to Nha Trang, to closely follow the situation and grasp military issues throughout the Region, mingling with the commanders of the regions. In the military world, when involved in an incident, one is respected and therefore public affairs are sincerely coordinated.
However, each agency has its own function and each part has its own responsibility. Security and intelligence are not just limited to the military, even though the country is in a state of war.
Communism is not just military units or armed forces that ambush or attack. If there are no regular forces to create storms, the enemy’s political and civil organizations will still be hidden nests and cradles for termites and pests. the power to hollow out, erode, and collapse the foundation of the Nation.
That is the People’s Revolutionary Party (Labour Party in disguise); National Liberation Front; Provisional Government of the Southern Republic; people’s associations such as Trade Unions, Agricultural Associations, Women’s, Youth, Students, and Pupils; with Party Committees, Front Committees, state agencies, association branches, from the central government down to communes and villages; espionage, special operations, propaganda, enemy operations, intelligence operations, religious operations, finance, supply, communications…
All are objects of Special Scenes; but they are enemies that transcend borders and are omnipresent.
Agreeing with that perception of mine, Colonel Pham Van Pho, Head of Division 2, Army Corps I and Military Region I, agreed to inform and transfer to me all the information. and any documents related to the politics and civil affairs of the Viet Cong that the Military Newspaper has.
As for me, I only provide the Second Department with information and documents that I have personally selected, verified, and are of high value.
Up to now, all intelligence agencies as well as military units across the country have relied on the document ” The Viet Cong Battle ” drafted by the Second Division, as a set of documents. – a comprehensive dictionary of the enemy’s organization and personnel, to search for, detect, and determine the background and position of each communist element found before or during hand.
However, realizing that on the political and civil side, my Special Police Branch has more complete data, so I proposed that the Command of Army Corps I and Military Region I approved, from now on, the ” Viet Cong Battle ” is divided into two parts: the Second Department only sets up the Military Battle, and the Political Battle, I am responsible for the Special Police Department of the Department. I implemented, were circulated and used throughout the Military Region, as well as disseminated to the Central Committee (General Staff, Central Intelligence Special Committee Office, Ministry of Intelligence). Hoi, National Police Command, etc.) and into Military Region II which is border territory, so that all agencies and units can refer to it for all things related to Vietnam. -Communist in the Central region.
During the time of Major General Nguyen Cao Ky as Chairman of the Central Law Enforcement Committee, Colonel (later Major General) Nguyen Ngoc Loan , Director of Military Security, was appointed concurrently. The Director General of the National Police has ordered the Police to provide all information and documents to the Military Security. From then on, it became a routine…
But I refuse to limit the coordination between the two branches to such a simple level as above. For example, for a long time, the Military Police only needed to rely on the results of the Police’s archive collection to approve the political activities of Vietnamese candidates. Apply to work at US offices, military bases, and private companies. I have noticed that in the Police Archives (Sac-Fitness) departments, there are always quite a few personal files on communist activities stagnant, not yet tabulated and classified for inclusion. storage system for use in retrieval. In addition, there are soldiers seconded to administrative agencies; soldiers elected to elected positions; and even soldiers who are not always in barracks: they enjoy military status, outside the jurisdiction of the Police, but at the same time they are beyond the reach of control. by Quan-An.
I raised the issue with Colonel Le Quang Nhon, Chief of Department I of Military Security, and he agreed with my opinion and submitted his favorable opinion to the Superiors, so that the two branches could coordinate. with each other more closely and widely, both in terms of supervision and monitoring, as well as in investigation and handling, including detention and interrogation, especially is in terms of counter-intelligence, against the enemy’s in-line elements and hidden bases in the military ranks…
Binh-Dinh Standing Center and Military Development Zone I
If a Government has to do both jobs at once, preserving the country and building the country, then the Council for Pacification and Development is the organization that builds the country.
Although the Program has a goal of “neutralizing the Viet Cong’s infrastructure and restoring security to rural Hamlets”, that task has been contracted out. , in name, for the Royal Service Commission, and in reality, for the Armed Forces and the National Police, whose means of operation were originally supplied from abroad. It’s Central. There are other remaining goals, such as helping farmers increase rice production, fighting illiteracy and improving the education level of rural people, examining and treating diseases and protecting people. health for the people, building bridges and roads to meet transportation needs, expanding the information network to disseminate current and official news infrastructure. The Government’s rules and regulations, etc. are accompanied by a budget to buy fertilizers, build more schools, clinics, bridges, roads, information stations, etc., so they are attractive to investors. contractors and attract officials at all levels to call for tenders and bid more.
The first time I came to the Binh Dinh Standing and Development Center of Military Region I, I met the Ministry of Trade and Industry and the Command of Military Region I to consider a problem. A number of overseas Chinese merchants applied to exploit cinnamon in Que Son District (Quang Tin Province) which is a semi-secure area.
Cinnamon is a great source of profit, the Viet Cong also took it.
Before that, Major-General (later Lieutenant-General) Nguyen Van Toan “took advantage” in such a way that the press dubbed him “Que Tuong Cong”. I stand on the security, intelligence, political, economic and civil aspects, and give my opinions to the Center, because we are afraid that military leaders are having to deal with the minds of the people. tycoon of the wealthy business class. I propose that Colonel Nguyen Xuan Loc, Commander of the Police Region I, join the Military Region delegation to study the site thoroughly.
Suddenly there was an order banning Colonel Loc from entering Quang Tin Province.
I persuaded Loc, and he listened to me: just go, because it is your right; I go about my business. I’m going with you.
I once discovered that the Center for Binh-Dinh and Military Development of Region I used two policemen, a captain and a sergeant, who were distinguished by the Region I Police Command. -sent to “coordinate work”, to boil water for tea, and serve the officers and non-commissioned officers serving at this Center!
I reported this matter to Colonel Loc and he withdrew the other staff members.
Coordination of Activities Between
Security & Political & Military Counter-Intelligence in the Central Region
Some time later, after establishing closeness, trust and mutual respect between the National Police (Special Branch), Second Division, and Military Security agencies -The team, at the Military Region/Region level, I have gone further, proposed, and received approval from Lieutenant General Ngo Quang Truong, for the Military Region I Command to organize a meeting between the Commanders of the National Police and the Heads of Military Security Departments/Departments of the Provinces/Towns and with the Heads of the Second Departments of Sub/Special Zones throughout the Central Region, to formalize and concretize the coordination of work between the three branches of security, intelligence, counter-intelligence and the military mentioned above, at the provincial/municipal level.
That special meeting took place at the meeting hall of the Command of Army Corps I & Military Region I, under the chairmanship of Major General Hoang Van Lac, Deputy Commander of Military Region I, General -representing Lieutenant General Ngo Quang Truong, Commander of the Army Corps & Military Region.
Because the Headquarters of the I Corps Command & I Military Region strictly control entry/exit, I personally guided the convoy of the National Police Commanders. Province/Town in Zone I from the Regional Police Command to the Camp gate, all the way to the Military Zone’s synagogue.
Just like in other cases, I both initiated, organized, and acted as a commander and executive officer.
*
In addition, Lieutenant General Ngo Quang Truong also approved for me to use a Special Police officer, even if only a non-commissioned officer, to play the role of Army captain to join the Army Detachment. -The work of the Republic of Vietnam, in the 4-Party Joint Military Commission (later there were only 2 Parties), to carry out espionage work targeting the two communist groups of Poland and Hungary. Gia-Loi , planning to hide as secretary of Lieutenant Colonel Vinh, Deputy Head of the Delegation of the Republic of Vietnam in Military Region I – that is, Region II according to the 1973 Paris Agreement.
(The installation of Special Police officers in the Military Delegation of the Republic of Vietnam was proposed by me when I was still in control of the Special Police Branch in Region II, typically with the case of Major Tran Van Tha, Chief of the Special Police Department of Binh Thuan Province [with the support of Provincial Governor and Sub-Region Chief Ngo Tan Nghia], brought in a Special Police sergeant to pretend to be a colonel. Lieutenant of the Army of the Republic of Vietnam to approach a target as a member of the “Provisional Revolutionary Government of South Vietnam” in the “Four-Party Joint Military Commission” stationed in Phan -Thiet.)
Department I of Military Security has also permanently seconded a major to lead 5 officers and non-commissioned officers to work with the ” Thach Ma ” Team (supervisor & follow-up). following the members of the Polish and Hungarian Communist Delegations in the above-mentioned International Committee) of my Special Sector I.
The Second Division of Army Corps I also permanently seconded a lieutenant, to accompany my local police officer to operate day/night in Quang Nghia Province, next to the Sub-Region Command. , the Regiment Commands, the Branch Commands, the Chieu Hoi Department, the Social Department, the Health Department, etc. so that the Military Region level can coordinate with localities in time. -time to exploit news & access all sources of information on the spot (VCs were killed, captured, returned to justice; civilians in distress, refugees, liberated by us; etc. .), for the purpose of recruiting, building and using as intelligence agents to infiltrate, or within-line, within the enemy’s ranks ― because Quang-Nghia is where there are the most opportunities to search for these clues…
*
These initiatives and efforts of mine, aimed at tightening the relationship and coordination of activities between the above-mentioned agencies, have created a more favorable atmosphere and circumstances for work of the National Police/Special Police levels throughout Region/ Military Region I from then on.
KIỀU MỸ DUYÊN – ĐẠI HỘI ĐOÀN KẾT VÕ BỊ TOÀN CẦU 2024 – DỰNG LẠI NIỀM TIN
DỰNG LẠI NIỀM TIN KIỀU MỸ DUYÊN
Chúc Mừng Đại Hội Liên Khóa Không Quân 72-73 Kỳ 9. VTLV LÊ VĂN HẢI và THI THÂN HỮU
Chúc Mừng Đại Hội Liên Khóa Không Quân 72-73 Kỳ 9, Thành Công Trên Cả Mong Đợi! Hàng Trăm Cánh Chim Khắp Nơi Trên Thế Giới, Vui Chơi Gặp Gỡ Nhau Trên 3 Ngày Tại San Jose.
Hôm qua là buổi tiệc “Chánh Phi” mở rộng cho các Hội Đoàn Quân Đội khác tham dự, khách chật kín đầy cả nhà hàng! Buổi tiệc huy hoàng, với nhiều tiết mục ý nghĩa, hay lạ. Nói chung, ít có tiệc nào, thành công như thế! Cuộc chiến đã qua gần nửa thế kỷ, qua hơn 50 năm kể từ ngày nhập ngũ, mà vẫn tìm đến nhau, chỉ có KQ “không bỏ anh em, không bỏ bạn bè!” Chúng mừng BTC.
Nhân ngày sinh nhật Không Quân VNCH 1-7, thân kính mời quý thân hữu thưởng lãm bài thơ xướng họa sau:
LÝ TƯỞNG KHÔNG GIAN
-Thân tặng quý chiến hữu KQVNCH
Lý tưởng Không Gian thật tuyệt vời!
Chúc mừng sinh nhật khắp muôn nơi
Á, Âu náo nức mừng khai hội
Mỹ, Úc hân hoan chúc thiệp mời
Ta ở bên này thương chiến hữu
Bạn nơi chốn cũ nhớ mây trời
Bao nhiêu kỷ niệm thời chinh chiến
Hoài niệm đong đầy vương vấn thôi !!!
Lâm Hoài Vũ
Ngày 01-7-2024
Họa
Sinh Nhật Không Quân VNCH
Tháng bảy ngày đầu khắp các nơi
Không Quân đại hội họp vui vời
Đồng môn tay bắt thương cùng hỡi
Chiến hữu mặt mừng quý quá ơi
Thủa ấy hiên ngang bay núi biển
Khi xưa dũng cảm lượn bầu trời
Mình ôn kỷ niệm đùa thần tử
Sinh nhật hàng năm tổ chức mời
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 7/1/2024
Quý thân hữu thân kính !
Ngày 01/7 /1955, là ngày thành lập Không Quân VNCH .
-Ngày 1 tháng 7, 1955, lá cờ Tam Tài của nước Pháp bị hạ xuống và thượng cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của VN, phất phới bay trên kỳ đài tại căn cứ Không Quân Nha Trang. Thì từ ngày đó, được đánh dấu là Ngày Không Lực VNCH.
Từ giây phút lịch sử hào hùng đó, KQ VNCH hơn 20 năm, ca vang hành khúc: “Giờ từng đoàn người vượt qua biên giới quyết chiến thắng / Đi không ai tìm xác rơi / Lúc đất nước muốn / Bao người con thân yêu ra đi, hối tiếc tấm thân làm chi!…”
Không Quân VNCH, là một binh chủng được thành lập từ ngày 25 tháng 6, 1951, thời Vua Bảo Đại. Lúc đầu chỉ có một Bộ Chỉ Huy, một Tiểu Đoàn Không Quân với quân số 40 sĩ quan, 120 Hạ Sĩ Quan và 500 binh sĩ. Đến ngày 1 tháng 7, 1955, lá cờ Tam Tài của nước Pháp bị hạ xuống và để thượng cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của VN lên kỳ đài tại căn cứ Không Quân Nha Trang. Thì từ ngày đó, được coi là Ngày Li6ch Sử! Ngày Không Lực VNCH!
Trong cuộc chiến Quốc Cộng trước 75, Quân chủng Không Quân phát triển rất nhanh, lớn mạnh như… “Phù Đổng Thiên Vương!” Chỉ sau 19 năm, Không Quân VNCH đã có 2071 phi cơ đủ loại, có 6 Phi Đoàn KQ đặt căn cứ tại Đà Nẵng (SĐ.1), tại Nha Trang (SĐ 2), tại Biên Hòa (SĐ 3) tại Bình Thủy Cần Thơ (SĐ 4) tại Tân Sơn Nhất (SĐ 5) và tại Pleiku (SĐ 6) với hàng trăm phi công được huấn luyện tại Hoa Kỳ và VN có thể điều khiển các loại phi cơ phản lực tối tân được trang bị trong cuộc chiến. Các phi công VNCH từng được các nước trên thế giới nể phục, về tài ba và sự can đảm, cũng như tinh thần yêu nước quên mình, đặc biệt, trong các quân chủng QLVNCH, thì KQ là quân chủng lạ lùng, có nhiều sĩ quan hy sinh nhất! Lính thì lại an toàn hơn!
Ngoài các phi công gan dạ, Quân chủng KQ/VNCH, còn có hàng ngàn chuyên viên được đào tạo tại các trường huấn luyện kỹ thuật, để bảo trì và sửa chữa các phi cơ, cũng như các thiết bị quân đội. Tất cả các Chiến Hữu Không Quân dù hoạt động trên trời hay dưới đất, đều mang một phù hiệu chung: “Tổ Quốc – Không Gian”. Bảo vệ bầu trời Quê Hương Miền Nam tự do dân chủ trên 20 năm!
Kỷ niệm Ngày Không Lực VNCH 2024, xin dành một phút tưởng niệm hàng trăm cánh chim đã bay vĩnh viễn tan vào bầu trời Quê Mẹ, bảo vệ trời xanh, mây trắng, của một thời chiến chinh. Mãi mãi Tổ Quốc Ghi Ơn!
Nguồn gốc và truyền thống Lễ Độc lập Mỹ: Những điều cần biết
Pháo hoa nhân ngày Lễ Độc lập Hoa Kỳ tại Washington.
-Người Mỹ ăn mừng Lễ Độc lập Hoa Kỳ ngày 4 tháng 7 với các cuộc diễu hành, nấu ăn ngoài trời, uống bia lạnh, và tất nhiên là phải có pháo hoa.
Pháo hoa cũng khiến cho ngày lễ này trở thành một ngày lễ đặc biệt nguy hiểm, thường dẫn đến hơn 10.000 chuyến cấp cứu. Tuy nhiên, pháo hoa vẫn là trung tâm của Ngày Độc lập, một ngày lễ đã hình thành 247 năm.
Nguồn gốc của Ngày Độc lập
Ngày này kỷ niệm việc Quốc hội Lục địa thứ Hai nhất trí thông qua Tuyên ngôn Độc lập hôm 4 tháng 7 năm 1776, một văn bản tuyên bố tách các thuộc địa ra khỏi Vương quốc Anh.
Một năm sau, theo Thư viện Quốc hội, một lễ kỷ niệm tự phát ở Philadelphia đánh dấu kỷ niệm ngày độc lập của Hoa Kỳ.
Nhưng trên khắp quốc gia, việc tôn trọng ngày này không trở nên phổ biến cho đến sau Chiến tranh năm 1812. Nó nhanh chóng lan rộng: Thư viện Quốc hội lưu ý rằng các sự kiện lịch sử quan trọng trong thế kỷ 19, chẳng hạn như lễ khởi công xây dựng Kênh đào Erie và Baltimore và Đường sắt Ohio, đã được lên kế hoạch trùng với lễ hội ngày 4 tháng 7.
Làm thế nào mà pháo hoa trở thành một truyền thống trong ngày 4/7?
Màn trình diễn pháo hoa đã là một phần quan trọng của Ngày Độc lập ngay từ đầu. Tổ phụ sáng lập John Adams đã thấy trước điều đó.
Lễ kỷ niệm nền độc lập của Hoa Kỳ “nên được tổ chức long trọng với Sự lộng lẫy và Diễn hành, với Các màn trình diễn, Trò chơi, Thể thao, Súng, Chuông, Lửa trại và Treo đèn Kết hoa từ đầu này của lục địa tới đầu kia của lục địa, từ nay cho tới mãi mãi về sau,” ông Adams viết trong một lá thư cho vợ, bà Abigail, ngày 3 tháng 7 năm 1776.
Pháo hoa đã có từ nhiều thế kỷ trước khi Mỹ trở thành một quốc gia. Hiệp hội Pháo hoa Hoa Kỳ cho biết nhiều nhà sử học tin rằng pháo hoa được phát triển lần đầu tiên vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên ở Trung Quốc cổ đại bằng cách ném thân tre vào lửa, gây tiếng nổ khi các túi khí rỗng bị nóng quá độ.
Đến thế kỷ 15, pháo hoa được sử dụng rộng rãi cho các lễ hội tôn giáo và các sự kiện giải trí công cộng ở châu Âu và những người định cư đầu tiên ở Hoa Kỳ đã tiếp tục những truyền thống đó, Hiệp hội cho biết.
Có tổng thống nào không chịu ăn mừng ngày 4/7?
Các tổng thống từ George Washington đến Joe Biden đã tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của quốc gia vào ngày 4 tháng 7, với một ngoại lệ: Tổng thống Adams.
Ông Adams từ chối tổ chức ngày lễ vào ngày 4 tháng 7 vì ông cảm thấy ngày 2 tháng 7 mới là Ngày Độc lập thực sự. Tại sao? Ngày 2 tháng 7 năm 1776, Quốc hội Lục địa đã bỏ phiếu ủng hộ nghị quyết giành độc lập, mặc dù Tuyên ngôn Độc lập mãi hai ngày sau mới chính thức được thông qua.
Ông Adams kiên quyết đến mức từ chối lời mời tham dự các lễ hội và các sự kiện khác, ngay cả khi đang giữ chức vụ tổng thống thứ nhì của quốc gia. Cả ông Adams và ông Thomas Jefferson, tác giả chính của Tuyên ngôn Độc lập, đều qua đời vào ngày kỷ niệm 50 năm ngày văn kiện này chính thức được thông qua, ngày 4 tháng 7 năm 1826.
Pháo hoa phổ biến ra sao?
Doanh số bán pháo hoa đã tăng nhanh trong hai thập niên qua.
Thống kê từ Hiệp hội Pháo hoa Hoa Kỳ cho thấy trong năm 2000, người tiêu dùng Mỹ đã chi 407 triệu đô la cho pháo hoa. Đến năm 2022, con số đó tăng lên 2,3 tỷ đô la. Bước nhảy vọt lớn nhất diễn ra trong đại dịch COVID, khi các màn bắn pháo hoa công cộng bị ngừng hoạt động. Doanh số tiêu dùng đã tăng từ 1 tỷ đô la năm 2019 lên thành 1,9 tỷ đô la vào năm 2020.
Bà Julie Heckman, giám đốc điều hành của Hiệp hội Pháo hoa Hoa Kỳ, nói: “Mọi người mua sắm pháo bông từ lễ Chiến sĩ Trận vong [tức cuối tháng 5].”
“Họ đã bắn pháo hoa suốt cả năm 2020.”
Hiệp hội cho biết doanh thu dự kiến sẽ tăng thêm 100 triệu đô la trong năm nay. Thật hữu ích khi ngày 4 tháng 7 năm nay rơi vào thứ Ba, về cơ bản tạo ra một cuối tuần kéo dài bốn hôm.
Pháo hoa có nguy hiểm không?
Bất chấp những nỗ lực giáo dục rộng rãi, hàng ngàn người Mỹ bị thương nặng do pháo hoa mỗi năm. Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Hoa Kỳ báo cáo rằng vào năm 2022, có 10.200 người được điều trị tại các phòng cấp cứu và 11 người chết được cho là do pháo hoa. Khoảng 3/4 số vụ thương tích xảy ra vào khoảng ngày 4 tháng 7.
Khoảng một phần ba các vết thương là ở đầu, mặt, tai hoặc mắt. Các vết thương ở ngón tay, bàn tay và chân cũng rất phổ biến.
Tiến sĩ Tiffany Osborn, bác sĩ phòng cấp cứu tại Bệnh viện Barnes-Jewish ở St. Louis, nói: “Tôi đã từng chứng kiến những người bị đứt lìa ngón tay.” “Tôi đã thấy những người bị mù mắt. Tôi đã thấy những người bị thương nặng trên mặt.”
Trẻ em dưới 15 tuổi chiếm gần 1/3 số người bị thương do pháo hoa. Người ta cho rằng pháo sáng thường gây bỏng cho trẻ em dưới 5 tuổi.
Đối với những người dự định bắn pháo hoa, bà Heckman khuyến khích tìm một bề mặt bằng phẳng, cứng, cách xa các công trình và những thứ khác có thể bắt lửa. Người chịu trách nhiệm về pháo hoa nên tránh uống rượu. Trẻ em không bao giờ nên đốt pháo hoa.
Bác sĩ Osborn khuyến khích có một cái xô hoặc vòi nước gần đó trong trường hợp cháy hoặc nổ. Bà nói, bắn từng quả một và nhanh chóng bỏ đi sau khi đốt, và không bao giờ châm lại hoặc xử lý pháo hoa bị hỏng. Khi hoàn tất, xúc xác pháo rồi ngâm nước trước khi đổ bỏ.
(Theo AP)
KIỀU MỸ DUYÊN – TỘI PHẠM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊA ỐC
LÊ XUÂN NHUẬN – Hồi Kí Mùa Hè: Tháng 6 BIẾN-LOẠN MIỀN TRUNG
Ngưng một lát, Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình chuyển sang vấn-đề khác:
– Anh nói tóm-tắt tình-hình ở Huế hiện nay ra sao?
Tình-hình ở Huế nói riêng, và những nơi khác liên-quan đến Huế nói chung, thì tôi đã có báo-cáo lên đầy-đủ rồi.
Tôi chỉ nhấn mạnh vài điểm nổi bật mà thôi:
– Về phần cộng-sản thì quả trước đây chúng đã nắm được đa-số các tay “lãnh-tụ” tập-thể sinh-viên, nhất là qua vụ vu-khống “Chính-Quyền bắt cóc Sinh-Viên” vừa rồi, chúng đã tạo được ảnh-hưởng trong giới phụ-huynh sinh-viên & học-sinh, giáo-chức, và cả quần-chúng nói chung.
“Nhưng tôi đã lập kế-hoạch, đích-thân chỉ-đạo và yểm-trợ cho Sở Đặc-Cảnh Thừa-Thiên/Huế sử-dụng một số biện-pháp tình-báo chuyên-môn để lật ngược lại thế cờ, làm chủ tình-hình. Hiện nay, chúng ta đã chiếm được thế thượng-phong đối với cộng-sản trong giới giáo-chức, sinh-viên & học-sinh ở nội-thành rồi”*.
——-
*Xem các trang 269 và 279.
– Về phần nội-chính?
– Tuy không có những tổ-chức nhỏ và nhiều như từ Đà-Nẵng trở vào, nhưng hai tổ-chức lớn thì rất đáng được Chính-Quyền quan-tâm: đó là “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” và “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”, mà cấp-thiết nhất là “Phong-Trào” này.
– Anh nói về Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc trước.
– “Lực-Lượng” ấy quy-tụ được hầu hết Phật-Tử là thành-phần đại-đa-số trong dân-chúng, kể cả công-chức và quân-nhân. Ngoài Khối Ấn-Quang xuất-phát từ Miền Trung và kiểm-soát hầu hết Phật-Giáo-Đồ khắp nơi, Đại-Tướng Dương Văn Minh đã thu-phục được hầu hết giới tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Nam, và Giáo-Sư Vũ Văn Mẫu đã lôi-cuốn được hầu hết khối tín-đồ Phật-Giáo gốc Miền Bắc di-cư. Đối với quốc-tế thì đó là thành-phần thứ ba; đối với quốc-nội thì đó là tập-hợp dân-sự lớn mạnh nhất, bao gồm nhiều chính-đảng nhất; các cấp lãnh-đạo lại là nhân-vật dân-cử có quyền bất-khả xâm-phạm.
“Điều đáng nói là cộng-sản đã len-lỏi vào, và chính-quyền địa-phương thì không dám dòm-ngó đến, phó mặc cho Trung-Ương lo.
“Tuy thế, tôi đã có người bên trong, cho nên biết trước chương-trình & nội-dung sinh-hoạt của họ, khắp Vùng.
“Trên hết, chính tôi đã gặp, trực-tiếp nói chuyện với Thượng-Nghị-Sĩ Vũ Văn Mẫu, Giáo-Sư Võ Đình Cường, và các tay cầm đầu, nên biết ý-đồ của họ, và tôi đã có trình lên thiếu-tướng rồi.”
– Anh có chắc-chắn là không có gì đáng lo?
– Vâng, nếu họ vẫn cứ tổ-chức mít-tinh tại các sân chùa, chứ không xuống đường gây xáo-trộn trật-tự chung, như họ đã cam-kết với tôi, và nếu họ không xúi-giục quân-đội gây binh-n gì, mà chỉ chờ-đợi đến ngày bầu-cử Tổng-Thống, vào cuối năm tới, như họ đã nói rõ với tôi. Tính đến hôm nay, và riêng Miền Trung thì thế; còn về tương-lai, và các nơi khác thì tôi không dám đoán trước…
– Còn về “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”?
Tôi tin là Thiếu-Tướng Bình, tuy là tín-đồ Đạo Chúa, nhưng ông “sống đời công-chính theo lời Chúa dạy”, sẽ “rất công-bình chứ không thiên-vị Đạo nào”, không bao che cho người nào, nên tôi nói thẳng cảm+nghĩ của tôi:
– Chủ-đề chống tham-nhũng thì hấp-dẫn đối với mọi người, kể cả một số người mà bản-thân cũng không trong-sạch gì; nhưng tham-gia vào “Phong-Trào” thì hầu như là chỉ có tín-đồ Kitô-Giáo*; còn xuống đường thì là những phần-tử mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn liền với cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và gia-đình.
——-
*Một số nhân-vật chính-đảng và tổ-chức khác có tham-gia vào, nhưng không đáng kể so với đại-khối hơn 301 linh-mục.
“Dù sao, cuộc biểu-tình của họ mà bị Cảnh-Sát [do Thiếu-Tá Liên Thành chỉ-huy] đàn-áp vừa rồi cũng đã gây được một tiếng vang, có lợi cho “Phong-Trào”, tức là có hại cho Chính-Quyền. Đó là một bước dò đường. Tin-tức mới nhất cho biết là “Phong-Trào” sẽ tổ-chức xuống đường khắp nước. Từ Huế, Quảng-Trị vào các Tỉnh Vùng II thì do Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, cha xứ Phú Cam ở Huế khởi-xướng.
“Tại Thủ-Đô Sài-Gòn và các Tỉnh Vùng III, Vùng IV thì do Linh-Mục Trần Hữu Thanh phát-động.
“Khi đó thì tình-hình khắp nước sẽ rối beng; Chính-Quyền khó kiểm-soát được dân-chúng, ngay cả các Ban Tổ-Chức biểu-tình cũng không nắm vững thành-phần tham-gia. Và không ai đối-phó nổi với phản-ứng của các thành-phần bị họ chống, trong khi các phương-tiện truyền-thông trong và ngoài nước tha-hồ đổ thêm dầu vào.
“Tóm lại, ‘Phong-Trào’ không chờ đến ngày bầu-cử sang năm; họ muốn Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ-chức ngay; họ muốn có một Tổng-Thống là tín-đồ Đạo Kitô.”
Chuẩn-Tướng Bình nhắc tôi:
– Tổng-Thống [Nguyễn Văn Thiệu] cũng là…
Tôi thấy ông có vẻ thực tình muốn biết Sự Thật nên tôi trình-bày:
– Nhưng có một số phần-tử phân-biệt “đạo dòng” với “đạo theo”*. Vả lại, vấn-đề không ngừng ở đó, mà là nhắm vào vai trò giáo-dân của người lãnh-đạo quốc-gia. Họ muốn có một Tổng-Thống rập khuôn cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm. Tống-Thống hiện nay không hề đối-xử phân-biệt với các tín-đồ đạo khác, không chịu lợi-dụng Chính-Quyền để tạo ưu-thế cho Đạo Kitô – tỷ như gia-tăng tín-đồ – mà lại lập một đảng riêng là Đảng Dân-Chủ, nên họ bất-mãn. Họ đồn miệng rằng Đức Tổng-Giám-Mục Nguyễn Văn Bình đã “cảnh-cáo” Tổng-Thống về khoản này.
——-
*Trong quan-điểm đó, mãi đến thế-kỷ 21, nhà văn Nguyễn Văn Lục còn phát-biểu về Cựu-Hoàng Bảo-Đại như sau:
“Bản thân Bảo Đại là người gốc Phật giáo, cái nhãn hiệu Thiên Chúa giáo bất quá chỉ là ‘đạo theo’ cho có lệ, và chính thức ông chưa hề bao giờ là người Thiên Chúa giáo.”
“Nổi bật nhất là nội-dung những lời thuyết-giáo của Linh-Mục Nguyễn Kim Bính tại nhà thờ Phú-Cam, Huế, mà tôi đã cho thu băng gửi trình thiếu-tướng, trong đó đã có hai đoạn tiêu-biểu cho hai phương-diện của một vấn-đề: một đoạn Linh-Mục Bính hằn-học khích-động đồng-đạo, đại-ý “người ta đã ám-hại một tổng-thống anh-minh…”, và một đoạn ông cay-đắng phân bua, đại-ý “như tôi là một Cha Xứ ở Phú Cam này, có ai mà không biết tôi; thế mà cái “ngài” Đại-Tá Tôn Thất Khiên ấy, cái “đấng” Tỉnh-Trưởng TônThất Khiên ấy, đến nhậm-chức ở đây đã bao lâu rồi, mà vẫn chưa hề đến thăm hỏi tôi lấy một lần…”
Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình gật đầu:
– Tôi đã có nghe cuốn băng ấy rồi.
Ông hỏi tiếp tôi:
– Theo anh thì những việc gì cụ-thể có thể xảy ra trong tương-lai gần, hậu-quả thế nào?
– Cộng-sản Bắc-Việt ồ-ạt chuyển quân và chiến-cụ vào. Quân-Lực của ta thì bị bó tay vì bản Hiệp-Định Paris; nếu có đụng-độ quân-sự thì điều đó thuộc thẩm-quyền của cấp Trung-Ương. Riêng về phương-diện chính-trị nội-bộ thì tình-hình chung ngày càng xấu thêm: các cấp Chính-Quyền địa-phương không biết thu-phục dân-tâm; nhất là ở vùng ven-ô, nói chi ở vùng tranh-chấp. Đồng-bào chán ghét tham-nhũng, mà lại khao-khát hòa-bình. Tổ-chức của nhóm các Linh-Mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Kim Bính là “Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng để Cứu Nước và Kiến Tạo Hòa Bình”. Một số tín-đồ Kitô-Giáo sẽ đồng-loạt xuống đường khắp nơi. Nếu không ngăn-chận thì có thể có bạo-động. Giả-dụ một số quá-khích (Việt-Cộng xúi-giục) tấn-công những người mà họ cho là đã tham-gia tích-cực vào cuộc Cách-Mạng 1-11-1963 lật đổ chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa, mà những người ấy thì nằm bên phía “Lực-Lượng”, và tất-nhiên là những phần-tử này sẽ phải tự-vệ, biến thành xung-đột tôn-giáo, ít nhất cũng như biến-cố Thanh-Bồ Đức-Lợi tại Đà-Nẵng trước đây. “Phong-Trào” mà “làm mạnh” được thì phía “Lực-Lượng” hẳn cũng sẽ không chịu thua. Ngăn-chận thì bị gán cho là đàn-áp tôn-giáo; giả-dụ có kẻ bắt chước nữ-Dân-Biểu Kiều-Mộng-Thu, nằm lăn giữa đường để cho phóng-viên chụp ảnh, quay phim, dùng làm bằng-chứng là ả đã bị cảnh-sát bạo-hành, xong kéo đồng-bọn vào nhà-hàng lớn ăn khao, trong lúc phản-ứng của dư-luận chung, cả trong nước lẫn ngoài nước, nhất là tại Hoa-Kỳ, chỉ nhìn vào tấm ảnh “dân-biểu mà cũng còn bị đánh ngã giữa đường” thì rất bất-lợi cho ta.
“Hơn nữa, làm sao có đủ lực-lượng để giúp vãn-hồi an-ninh: kinh-nghiệm các vụ lộn-xộn ở Quận Hoài-Nhơn của Tỉnh Bình-Định*, Thị-Xã Tuy-Hòa của Tỉnh Phú-Yên*, vừa qua, cho thấy là Chính-Quyền Tỉnh bất-lực khi chính Cảnh-Sát của địa-phương mình bị đám lộng-hành bao vây, tấn-công. Trung-Ương cũng khó tiếp tay: chỉ nội một vụ ở Chùa Linh-Sơn, Đà-Lạt, mà phải cần có phi-cơ quân-sự di-chuyển Cảnh-Sát Dã-Chiến từ Sài-Gòn lên; nếu có biến-động nhiều nơi một lần thì làm sao mà giải-nguy?
“Quan-trọng hơn hết là bọn Việt-Cộng đã xâm-nhập vào “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Chúng đã hiểu rõ là tổ-chức này thù-hận chế-độ hiện-thời hơn hết (vì Sư-Đoàn của Tổng-Thống là lực-lượng chủ-yếu tấn-công Dinh Gia-Long), nên chúng lợi-dụng để có thêm những đồng-minh chung sức chống phá Việt-Nam Cộng-Hòa.
“Trong lúc đó, ‘Phong-Trào’ đã bắt đầu lôi kéo thêm các tổ-chức khác nữa, từ bên ngoài Kitô-Giáo – thí-dụ Đảng Đại-Việt – để cùng hưởng-ứng ‘Phong-Trào’.
“Việt-Cộng thấy rõ ‘Phong-Trào’ là hình-thức đối-lập hợp-pháp, nấp được vào đó là hoạt-động dễ vô cùng.
“Chúng sẽ có thể trà-trộn xúi-giục chiếm giữ công-sở, đột-nhập đồn bót, khủng-bố, phá-hoại, ít nhất là cũng thành-công về mặt chính-trị, thông-tin tuyên-truyền…”
– Theo anh thì Chính-Quyền nên đối-phó cách nào?
Tôi nghĩ đến mối ác-cảm của Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Cam, đối với Đại-Tá Tỉnh/Thị-Trưởng Tôn Thất Khiên, vì đã “chưa hề đến thăm hỏi” ông lần nào, và mối căm-thù của ông đối với Thiếu-Tá Liên Thành, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG địa-phương, vì đã “đàn áp cuộc xuống đường” do chính ông dẫn đầu, và chương-trình hành-sự của tôi.
– Tôi xin đề-nghị Trung-Ương tạm-thời nhượng-bộ “Phong-Trào” một bước đầu tiên, để tiện cấp-thời vô-hiệu-hóa mọi kế-hoạch hoạt-động của họ hiện nay, bằng cách cử hai tín-đồ Kitô-Giáo, gốc-gác Đệ-Nhất Cộng-Hòa và thân-cận với giới cựu Cần-Lao, ra làm Tỉnh-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Sát Quốc-Gia tại Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế…
Thiếu-tướng Bình và Đại-Tá Tây nhìn nhau.
Tôi nói tiếp liền:
– Như thế là chỉ mới giải-quyết được bước đầu, chứ chưa xong trọn vấn-đề.
“Nếu tôi còn ở Vùng I thì tôi, chính tôi, sẽ ngăn-chận được mọi sự xáo-trộn tiếp theo, cho Vùng I, và do đó, cho toàn Miền Nam…” (Xem thêm)
*
Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia Việt-Nam Cộng-Hòa, đứng dậy, đưa tay bắt tay cám ơn tôi, và kết-thúc cuộc tiếp-xúc bằng lời khuyến-khích tôi và hứa-hẹn sẽ thăng cấp cho tôi vào “Ngày Cảnh-Lực” 1-6-1975.
Tôi cùng Đại-Tá Hùynh Thới Tây trở về văn-phòng Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, lần này thì cùng đi bộ.
Tôi muốn nói lên một lời cám ơn ông đã đề-bạt tôi, đã dành cho tôi rất nhiều đặc-quyền, đặc-ân, mà các viên-chức khác, ngang tôi, kể cả cao cấp hơn tôi, cũng không có được – đương-nhiên là trong công-vụ mà thôi. Ít nhất thì ông cũng đã bắt cả các cấp Giám-Đốc phụ-tá của ông tại Trung-Ương phải đích-thân đáp-ứng ngay mọi đề-nghị của tôi; và, thay vì, như với nhiều giới-chức khác – cấp dưới dâng nạp quà cáp lên cho cấp trên – thì ông ngược lại đã cho riêng tôi mỗi tháng 20,000 đồng, tương-đương gần nửa tháng lương của tôi, để thuê nhà ở, vì tôi phải rời gia-đình mà ra Miền Trung – tất-nhiên với sự tán-đồng của Chuẩn-Tướng Nguyễn Khắc Bình.
Nhưng tôi không nói ra được lời cám ơn đó, vì nó có vẻ nịnh-hót thế nào ấy – một việc mà tôi không bao giờ làm, cho nên đã bị thiệt-thòi từ hai mươi bảy năm nay.
Chúng tôi lặng-lẽ bước bên cạnh nhau, trước những cặp mắt ngạc-nhiên của nhiều sĩ-quan gặp trên đường đi.
Cuối cùng, như để đánh tan bầu không-khí lạt-lẽo ấy, và lấy lại thế chủ-động, Đại-Tá Tây nói với tôi:
– Qua Sắc-Phục thì có tiền…
Câu nói ngắn-ngủi mà tôi nghe như nói lên tâm-tư của một số đông viên-chức chỉ-huy Ngành Đặc-Cảnh thời bấy giờ.
Sau đó, ông không quên trao tiền thuê nhà cho tôi, và nhắc tôi cần gì thì giải-quyết gấp với các Giám-Đốc hữu-quan, để còn rời Sài-Gòn sớm mà ghé thăm gia-đình hiện ở Nha-Trang… .
*
Tôi vừa về đến Nha-Trang thì nhận được tin Trung-Ương đã cử hai nhân-vật khác đến thay Đại-Tá Tôn Thất Khiên và Thiếu-Tá Liên Thành trong chức-vụ Tỉnh/Thị-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế.
Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, nhắn tôi ra Đà-Nẵng gấp, để cùng ông ra Huế chủ-tọa lễ giao-nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế, giữa Thiếu-Tá Liên-Thành và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh.*
——-
*Xem “Trung-Tá Hoàng Thế Khanh”, trang 367.
Những lần trước, tôi có thể ở lại với gia-đình vài ngày; vì tuy ở xa nhiệm-sở, dù ở Tỉnh/Thị/Quận nào khác, kể cả những ngày ở Sài-Gòn và ở Nha-Trang, nhưng qua một hệ-thống liên-lạc đặc-biệt mà tôi đã tự mình sắp-xếp và đặt trong tình-trạng thường-trực 24/7, tôi vẫn liên-tục trực-tiếp điều-khiển và giải-quyết mọi việc ở cơ-quan.
Lần nầy thì tôi phải gọi Hãng Hàng-Không Air Vietnam yêu-cầu dành chỗ ưu-tiên để sáng hôm sau tôi ra Đà-Nẵng ngay**.
——-
**Bản gốc Chương này đã được in trong cuốn hồi-ký “Về Vùng Chiến-Tuyến” do Nhà “Văn Nghệ” ở Nam California, USA, xuất-bản năm 1996, nay được in lại, giữ nguyên tất cả các sự-kiện và nội-dung cốt-yếu – chỉ thêm vào một số hiệu-đính, phụ-chú, giải-thích cho đầy-đủ và rõ-ràng hơn mà thôi.
GIAO CHỈ VŨ VĂN LỘC: IRCC SAN JOSE Ta Biết Làm Gì Cho Hết Nửa Đời Sau.
Ta biết làm gi cho hết nửa đời sau. Kính thưa quý bằng hữu. Cơ quan IRCC định cư di dân tỵ nạn tại Bắc CA từ cuối năm 1975 nhưng đến tháng 8 năm 1980 mới chính thức do người Việt Nam phụ trách. Chúng tôi ở tuổi 45 nhận trách nhiệm xây dựng lại tổ chức này mà người Mỹ gọi là từ đống tro tàn.
Năm nay 2024 chúng tôi sẽ dùng hết tháng 7 để sửa chữa và kiện toàn Việt Museum với trên 10 tượng đài lịch sử để chuẩn bị cho chương trình sinh nhật bảo tàng tháng 8/2024 gọi là ngày Thank You America và lượng giá nửa thế kỷ người Việt Hội Nhập vào quê hương Hoa Kỳ..
Sau cùng sẽ chuẩn bị chu đáo cho ngày 30 tháng tư năm 2025 ghi dấu nửa thế kỷ trầm luân của người Việt tại hải ngoại. Cá nhân chúng tôi làm giám đốc cơ quan trong giai đoạn đầu lo việc định cư và công tác tình nguyện cộng đồng. Tất cả cũng chỉ là sinh kế như mọi người. Nhưng danh sách 35 năm hoạt động trong bản liệt kê đính kèm xin trình diễn gọi là khoe thành tích của một đời người
Sau 35 năm đầu chúng tôi về hưu tiếp tục sống hoàn toàn là thiện nguyện qua giai đoạn hiện tại cho đến nay đã ngoài 90. Năm nay 2024 chúng tôi mất một chiến hữu là anh Phạm Phú Nam như mất một cánh tay. Xin xem qua đoạn phim anh Nam làm về công tác tình nguyện IRCC. Hình ảnh anh Nam phóng sự tại Nghĩa trang quân đội Biên Hòa. Sau cùng xin viết lời cảm ơn nhà thơ Cao Tần (Lê tất Điều) mới gửi cho tôi đôi lời khích lệ. Năm tỵ nạn đầu tiên Cao Tần phát hành tạp chí Bút Lửa viết lời ai oán như sau: Hỡi người chiến binh một đời anh dũng. Anh lang thang đất lạ đến bao giờ?
Rồi đến câu thơ cay đắng như dành cho riêng ta.
Biết làm gì cho hết nửa đời sau.
Bây giờ đã hết nửa đời sau, bằng hữu đi xa từ lâu. Biết ai tâm sự. Xin nhờ bài viết và cuốn phim của anh Nam gửi quý vị bản thành tích của chúng tôi…
Cáo Phó và Chương Trình Tang Lễ (Thứ Sáu, Thứ Bảy Tuần Này!)Chút Lời Tiễn Biệt Niên Trưởng Trần Đào. Trong Tình Gia Đình Là Ba Vợ, Trong Tình Lính, Là…Chiến Hữu!
(Trong giây phút Phủ Cờ, vào lúc 5 giờ chiều, Thứ Sáu tuần này! ngày 10 tháng 5, năm 2024, tại Oak Hill. Do Lực Lượng Sĩ Quan Thủ Đức Bắc Cali đảm trách.)
-Có lẽ, khó có ai có một Ông Cha Vợ, đặc biệt như tôi cả. Chỉ có Trời thương mới có, con người thì khó có thể sắp đặt.
*Một Chút Về Tôi
Từ nhỏ, tôi đã khám phá bản tính “Nghệ sĩ…lăn lóc gió sương!” trong máu của tôi. Chỉ thích chơi, không thích học, hay chịu khó, chăm chỉ làm lụng như người khác gì cả.
Lên lớp Ba, tôi đã có khả năng “cúp cua”, không đến lớp học, đi chơi, cả tháng trời, mà không ai biết!
Từ trung học trở đi, học thì luôn luôn đứng chót, nhưng môn nào, dính dáng đến chơi, thì lại được bầu làm Trưởng Nhóm! như thực hiện bích báo, tạp chí, cắm trại, tất niên…vv…Vào quân đội cũng thế, khóa tôi đã tặng cho tôi biệt danh là “H.Phè”
Sau 75, là Thuyền Nhân đến Mỹ, tính tình “hại bạn, cà chớn” này, vẫn không thay đổi, làm hết hãng này, đến hãng kia, thay đổi cả gần 10 hãng! Vì không chịu nổi phải đóng khung thời giờ, nguyên tắc bó buộc của một công nhân.
Đành kiếm cách mở thương mại, tự mình làm chủ, thích hợp với bản tính hơn.
Nhưng hoàn toàn sai lầm, với bản tính “lè phè” như thế, làm gì cũng…thất bại!…thê thảm!
Bản tính cà chớn, cà chua như thế, nên không bao giờ có ý nghĩ lập gia đình cả, thân mình chưa lo xong, kéo chi thêm người khác, chung khổ! ai chịu!
*Duyên Nợ Tới!
Cuối thập niên 90, vừa thất bại trong một dịch vụ thương mại làm ăn khá lớn, nợ nần ngập đầu! trong giây phút chán nản, được gặp lại người bạn thân lâu năm khuyên: “Già cái đầu, trên 40 rồi, nên lập gia đình đi, có thể đổi số thì sao!”
Chán quá, đồng ý liền! nhưng kiếm ở đâu? Lúc đó người bạn mới mách bảo: “Tôi vừa bảo lãnh gia đình Ông Cậu, qua Mỹ diện HO, có 6 đứa con gái, nhưng 3 đứa đầu có gia đình, nên không đi theo được, chỉ mang được theo 3 đứa. Đến làm quen đi, nhỡ may có duyên nợ thì sao!”
*Gặp Người Cha Vợ Đặc Biệt!
Trong giây phút chán mớ đời, kiếm mục vui, ai ngờ thành vợ chồng thiệt! Có lẽ mọi việc mau lẹ, tốt đẹp là nhờ Ông cha vợ tương lai của tôi. Không có tuần nào, Ông không mời tới nhà ăn cơm, rồi đi cà phê hỏi thăm, có ý định tiến tới chưa? Lái cái gì mà…chậm rì!
Tôi có tâm sự “bản tính tôi như thế, khó mà thay đổi!” Thích hợp không khí sinh hoạt xã hội, hơn là đời sống gia đình!
Nhưng Ông hứa chắc chắn, không cần thay đổi gì cả, vẫn thích hợp như thường! Tình Chiến Hữu Cư An Tư Nguy mà! (Ông và tôi tuy khác thời gian, nhưng cùng học trong quân trường Thủ Đức) Ông còn tâm sự, đám con rể, đứa nào cũng là dân sự, chỉ có tôi là gốc Lính, nên thấy là hợp liền! OK đi, để cùng…chung lưng chiến đấu!
*Vừa Là Tình Cha Vợ, Vừa Là Tình Chiến Hữu.
Mới đầu tôi không tin lời hứa lắm, chắc chỉ muốn đẩy con gái ra khỏi nhà thôi, nhưng sống càng lâu, mới thấy trên cả những gì tôi mong đợi! Ông đúng là mẫu người Lính đậm tình “Huynh đệ chi binh. Vì dân mà chiến đấu, vì nước (là tôi!) mà hy sinh!”
Đầu tiên Ông về sống với tôi, từ chối chương trình thuê nhà cho người có lợi tức thấp. Vì Ông mà tôi thành người chồng, người cha khá thiếu trách nhiệm, chuyện gì của tôi, Ông cũng nhảy ra lãnh nhận, tôi có 2 đứa con nhỏ, cả thời gian từ tiểu học, đến trung học, đều do Ông đưa đón. Gần 30 năm, chưa bao giờ tôi phải vào bếp, nấu cơm, rửa chén cả, giặt giũ quần áo cũng thế! Ông luôn luôn khuyến khích người trong nhà: “Giúp nó, để nó có thời giờ ra giúp xã hội!” Thật ra giúp xã hội thì ít, nhậu nhẹt, cà phê cà pháo với bạn hữu thì nhiều!
*Cả Đời Là Người Lính “Âm Thầm Không Tên Tuổi!”
Tính Ông hiền lành, ít nói, nhưng tình cảm thì lại đậm sâu, chân tình ít ai có.
Nhóm tù An Điền Tiên Lãnh của Ông, đã giúp tôi tổ chức Đại Nhạc Hội “Tôi Không Quên Anh Người Thương Phế Binh VNCH” ngoài trời, khu Grand Century Mall, vào cuối thập 90, rất là thành công. (Trước các chương trình Cám Ơn Anh, của Bà Hạnh Nhơn, Trúc Hồ), thu được trên 120 ngàn, (thời điểm đó lớn lắm) giúp các Hội TPB đang hoạt động.
Từ đó Nhóm Tù này, còn có Chú Liên, phụ trách mục “Mỗi tuần một hồ sơ giúp TPB” trên báo TM, kéo dài gần 20 năm nay. Đây là công việc cần thiện chí bền bỉ, rất tốn thời giờ. Nhận được hồ sơ, coi lại, liên lạc với VN, đúng sự thật, viết lại, đánh máy, rồi mới cho đăng báo. Tính ra hàng ngàn hồ sơ TPB đã được độc giả, quý ân nhân giúp đỡ trực tiếp! Nhiều hồ sơ thông báo đã đủ, nhường cho các anh em khác!
*Xin Nhận Cái Chào Tiễn Biệt!
Biết nói gì đây! Với Người Cha Vợ, Người Niên Trưởng, Chiến Hữu mà tôi thương mến. Mà tôi lại có cơ hội sống kề cận. Cả đời chỉ cố làm tròn bổn phận Người Lính, cho dù đã tan hàng! gần…nửa thế kỷ!
Khi Ông còn tại ngũ, nhiều lần bị thương trên chiến trường, mảnh đạn vẫn còn ghim trong đầu, bác sĩ bảo, cứ để yên như thế, giải phẫu, có thể nguy hiểm đến tính mạng!
Dù đủ điều kiện giải ngũ, nhưng Ông vẫn xin biệt phái qua Chiến Dịch Phượng Hoàng, tìm kiếm, tiêu diệt cơ sở hạ tầng của địch.
Chính vì thế, sau 75, được dán nhãn hiệu “an ninh, tình báo” cực kỳ nguy hiểm, CS giam trên hàng chục năm trong ngục tù cải tạo, đánh đập đến lạc trí nhớ, thả ra, không còn có khả năng làm việc như người bình thường!
Nhưng vẫn lấy hết sức mình còn lại, lo cho các Đồng Đội, Thương Phế Binh, một thời đã chiến đấu bên nhau, cho đến hơi thở cuối cùng! Còn chọn ra đi, đúng vào…Tháng Tư Đen!
*Lời Khẩn Cầu
Xin Mẹ Việt Nam nhận thân xác này, Người Lính tên Trần Đào, đã được gói trọn trong Lá Quốc Kỳ Ba Sọc Đỏ, đứa con của Mẹ, dù cố gắng hết sức, đã vẫn không làm tròn bổn phận, gìn giữ Quê Hương Đất Mẹ Miền Nam!
Tất cả mất hết, bên “thua cuộc chiến” mà! chỉ còn tấm lòng trung trinh dâng Mẹ! Nhưng con tim còn nguyên vẹn, tình yêu thương Đồng Đội và Quê Hương!
Kính xin Mẹ VN nhận cho!
San Jose, ngày 7 tháng 5 năm 2024
Người Lính LVHải
Các Bài Viết của Nv KIỀU MỸ DUYÊN và Nv PHẠM GIA ĐẠI