TRẦN NGẪU HỒ – Nguồn Gốc Của Vũ Trụ Trong Giải Thích Vĩ Mô & Vi Mô
Nguồn Gốc Của Vũ Trụ Trong Giải Thích Vĩ Mô & Vi Mô
Trần Ngẫu Hồ
Bắt đầu từ những năm 1995 – 2000 khi mạng internet còn đang phôi pha, phó tổng thống Al Gore, thuộc đảng Dân Chủ, lúc đó đã tiên đoán: “Rồi đây mạng internet sẽ thành World Wide Web (WWW), nhân loại sẽ nối kết được với nhau trên khắp thế giới, nhờ đó mà kinh tế toàn cầu sẽ tăng gấp bội, các quốc gia, con người sẽ gần gũi, nối kết với nhau dễ dàng với mọi hình thức”.
Bây giờ, là năm thứ 24 của thế kỷ thứ 21, chuyện bùng nổ kinh tế và sự nối kết giữa con người với nhau đã thành sự thật và ngày càng nới rộng. Những siêu máy tính, với những trí tuệ thông minh, với những kỹ thuật mới đã tạo được những robot siêu thông minh, có thể đảm nhiệm nhiều lãnh vực của xã hội đời thuờng, robot thầy giáo, robot y tá, bác sĩ, robot giúp việc vv…rồi cũng sẽ xuất hiện cùng khắp. Con người ở khắp các nơi trên thế giới, có thể nhìn thấy mặt nhau, chỉ bằng vài động tác click… click, tiện lợi vô song.
Trong lãnh vực vật lý, Lý Thuyết Dây (LTD) cũng đang dần hoàn thiện trọn vẹn, dẫn đến sự liên kết 4 tương tác: Tương Tác Mạnh, Tương Tác Yếu, Tương Tác Điện Từ, và Tuơng Tác Hấp Dẫn. Cũng sẽ nối kết được với nhau. Và như vậy sự hiểu các thế giới trong sóng hạ âm (dưới < 18 hz) sẽ dễ dàng. Nói như vậy, có nghĩa là KHHĐ có thể chứng minh các cõi giới khác chung quanh chúng ta. Thế giới khác mà LTD gọi là các chiều không gian, khác không gian 3 chiều của chúng ta
Trong hiện tại LTD đã giải thích và chứng minh, ngoài thế giới 3 chiều của chúng ta, còn có 10 chiều không gian khác, tức 10 thế giới cùng với chúng ta, cùng với 1 chiều thời gian, dựa vào chiều quay của các thiên thể, trọng trường và những yếu tố riêng, mà đã tạo ra các hạt cơ bản riêng, những nguyên tử riêng, rồi từ đó tạo ra những sinh vật, chúng sinh, cơ cấu riêng của từng thế giới khác nhau.
Thí dụ, mặt trăng có chiều quay riêng, cũng là 3 chiều, nhưng là 3 chiều theo dạng lò xo tròn, nên chiều của mặt trăng khác chiều trái đất của chúng ta. Khám phá này sẽ tạo ra chiều không gian thứ 5, do đó mặt trăng có đời sống, thế giới riêng. Như chúng ta đang nhìn thấy rõ ràng hình ảnh của mặt trăng, nhưng lại chẳng thấy sinh hoạt, vật thể, chúng sinh nào trên mặt trăng, chuyện này được Khoa Học Phi Hữu giải thích như sau:
Chiều quay lò xo tròn của mặt trăng, đã tạo ra chiều không gian thứ năm riêng cho mặt trăng. Bây giờ chiều không gian thứ 5 đó, thí dụ đang là trong một vòng quay tròn thật nhanh (Chỉ là thí dụ nhé). Và chúng ta, loài người đang ở chiều không gian thứ 3, chỉ thấy một vệt loang loáng trước mắt, mà không thể nhìn thấy gì trong đó cả. Chúng ta cũng không thể nhập vào vòng quay đó, vì chúng ta sẽ bị văng ra ngay.
Nhưng nếu chúng ta lên một cái vòng quay lớn hơn vòng quay của mặt trăng, và quay cùng chiều, với mặt trăng, đến khi khi tốc độ của chúng ta đuổi kịp và bằng tốc độ của vòng quay với chiều không gian mặt trăng, thì tất cả thế giới, sinh vật, sinh hoạt của mặt trăng hiện rõ trước mắt chúng ta, và chúng ta có thể bước từ vòng quay của chúng ta, sang vòng quay của mặt trăng một cách dễ dàng. Nếu tốc độ của chúng ta quay khác đi hay thụt xuống một nấc, mọi cảnh vật trên mặt trăng lại biến mất ngay trước mắt chúng ta.
Những thí dụ trên, giải thích vì sao khi khác chiều không gian, chúng ta không thể nhìn thấy và thể nhập vào những chiều không gian khác đó. Tất cả những chiều không gian 5, 6, 7, 8…26… hoặc tới chiều n+1 đối với chúng ta đều như thế cả. Nếu Lý Thuyết Dây của Khoa Học Hiện Đại (KHHĐ) còn khó hiểu, thì 5 Lý Thuyết Mới của Khoa Học Phi Hữu, giải thích những thắc mắc này một cách trọn vẹn.
Trong 5 lý thuyết mới gồm: Khoa Học Phi Hữu, Đồ Hình Liên Thông, Xa lộ Thiền Định, Tân Trường Thống Nhất và Tân Triết Học. thì 3 lý thuyết trong 5 lý thuyết mới (NLTM) là Đồ Hình Liên Thông (ĐHLT: Connecting Diagrams) Xa Lộ Thiền Định (XLTĐ: HighWay Of Meditation) Tân Trường Thống Nhất (TTTN: New General Field), góp phần làm sáng tỏ những thế giới xung quanh chúng ta.
Bằng cách nào, chúng ta làm sáng tỏ những thế giới xung quanh chúng ta? Thưa, bằng cách nâng chiều của chúng ta, muốn nâng chiều của chúng ta, chúng ta phải nhập vào XLTĐ, mà muốn nhập vào XLTĐ thì chúng ta phải thường xuyên trong thiền định. Mà muốn thường xuyên trong thiền định, chúng ta phải: “Ngoài lìa các cảnh duyên, trong bặt nghĩ tưởng, tâm như tường vách, thì ấy là thiền định: Lời Lục Tổ Huệ Năng” Thường xuyên trong cảnh giới này thì ấy là đại định. Xuất nhập trong đại định là ra, vào trong XLTĐ.
Xa Lộ Thiền Định là cụm từ mới, để cụ thể hóa và hình tượng hóa những hình thức thiền, đưa tới sự liên kết các chiều không gian khác, xin xem Đồ Hình Liên Thông (ĐHLT), qua hình minh họa và sự giải thích của ĐHLT, XLTĐ, TTTN phối hợp với Lý Thuyết Dây sẽ giải thích cùng với sự thể nhập được vào các chiều không gian khác chung quanh chúng ta. XLTĐ là sự nhập vào thiền sâu, khi xuất, khi nhập được dễ dàng thì gọi là trong XLTĐ.
Xin hãy xem XLTĐ như một thế giới thiền định, cũng là cách nâng chiều thực tế và đơn giản để thể nhập vào các chiều không gian khác, xin hãy xem những chiều không gian khác như những lối vào, lối ra, bắt nguồn từ Xa Lộ Thiền Định, những chiều. 5. 6, 7, 8, 9 cũng là những lối vào, lối ra (Exit 5, 6, 7, 8, 9…) trên XLTĐ.
Sự cụ thể hoá các cách thiền thành một hình tượng là Xa Lộ Thiền Định (XLTĐ) là để nối kết với các chiều không gian khác và cũng để dễ dàng giải thích sự nối kết đó, và như vậy XLTĐ liên hệ mật thiết với Khoa Học Hiện Đại (KHHĐ), nói cách khác thiền đạo có liên hệ tuyến tính với KHHĐ, là ngành Khoa Học Thiền Định. Thiền tông nêu một sự giải thích, một giá trị và liên kết khác như: Thiền là Đạo, Đạo là Tâm (Tâm rỗng lặng trong thiền), Tâm là Phật (Phật là sự rốt ráo sau cùng, thấu triệt toàn thể và cũng là vĩnh cửu). Tất cả đều có sự liên hệ.
Trạng thái trong XLTĐ là không có thời gian trôi trong đó, không có độ dầy của vật chất, mà chỉ có năng lượng (tức sự hiện hữu còn gọi là Ngã) và những lạc thọ, tức những dây lạc (tức những bliss strings). Với những giá trị này, chúng ta có thể thể nhập vào bất cứ chiều không gian nào, khi chúng ta ở sâu trong định. Bài trước chúng ta đã nhắc tới Thiền Ni Satomi Myodo, với 2 lần vào định sâu để thể nhập vào thế giới cõi âm và nói chuyện được vói những hồn ma trong đó.
Chưa bao giờ thế giới lại gần gũi nhau đến thế, với những chiều không gian, với Lý Thuyết Dây, Đồ Hinh Liên Thông và Xa Lộ Thiền Định, qua sự thống nhất giữa Tâm và Thức của từng con người. Xin đính kèm ĐHLT và clip youtube
#316 Thông Não Lý Thuyết Dây – Đi Tìm Bản Chất Của Vũ Trụ! | Vũ Trụ #53
.
ĐỒ HÌNH LIÊN THÔNG:
Nguồn gốc của vũ trụ trong trạng thái vĩ mô và vi mô:
Vĩ mô của vũ trụ hữu vi, bắt đầu bằng vụ nổ lớn rồi lan tỏa, gọi là Big Bang (BB), ngày nay BB đã đuợc xác định, chứng minh rõ rệt với bằng chứng qua những bức xạ nền của vũ trụ để lại, sự giải thích và sự chứng minh của Khoa Học Hiện Đại (KHHĐ) về BB, cho thấy BB là một thực tế, khởi đầu bằng một dị điểm vô cùng nặng, vô cùng nóng. Nhưng câu hỏi sự nổ và lan tỏa của BB, đến từ đâu và trên khung cảnh nào? Là những tra vấn này, cho tới nay vẫn còn đang bị bỏ ngỏ.
Từ những năm 1981 Lý Thuyết Dây(LTD) đã tìm ra cái nhỏ nhiệm nhất của vật chất, trong đó có con người, đã bắt đầu bằng những dây (Gọi là String theory), có nghĩa là nếu truớc kia, trong tận cùng nhỏ nhiệm của của tất cả vật chất, và DNA của con người, là những hạt nguyên tử, những hạt khác nữa, nhưng nay trong những hạt đó là những sự quẫy lộn của những dây vô cùng nhỏ, xin tóm tắt sự giải thích của lý thuyết dây:
<Trích>… “Có thể nói không ngoa, việc nghiên cứu bản chất của vũ trụ, nó nằm trong bản chất DNA của con người rồi, bạn cứ nhìn bọn con nít là biết, chúng có xu hướng là luôn muốn tháo tung mọi thứ, và thường là không lắp lại được, hoặc là nếu lắp lại được, cơ mà, lại thừa vài con ốc. Khám phá bản chất vũ trụ thực chất chính là tìm ra thứ nhỏ nhất, đã tạo ra vũ trụ, hãy bắt đầu với một quả cam, hoặc bạn thích thứ gì đó kích thích hơn, hãy bắt đầu bằng một quả bưởi, thậm chí, hoặc một quả dưa hấu.
Để biết, quả dưa hấu được tạo ra bởi cái gì? Bạn chỉ cần không ngừng zoom vào nó, và đến một lúc nào đó, bạn sẽ nhìn thấy các nguyên tử, nguyên tử là một từ có nguồn gốc là atoms, trong tiếng Hy Lạp cổ đại, có nghĩa là không thể cắt nhỏ, không thể chia nhỏ được nữa, nó được xử dụng lần đầu, bởi triết gia Hy Lạp cổ đại Dymocritoc, vào khoảng năm 400 trước công nguyên. Dymocritoc cho rằng, vạn vật trong vũ trụ đều có cấu tạo bằng nguyên tử, một loại hạt quá nhỏ để có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
Thế nhưng, mãi đến năm 1981, con người lần đầu tiên mới được diện kiến các nguyên tử, nhờ sự ra đời kính hiển vi điện tử, một loại kính hiển vi có thể chụp các bề mặt ở cấp độ điện tử, cơ mà, chúng ta đều biết rằng nguyên tử thì có thể được cắt nhỏ, và chúng được cấu thành electron và các hạt nhân nguyên tử, mà hạt nhân nguyên tử gồm một nắm hạt hạ nguyên tử gồm protron và neutron, tiếp tục zoom vào protron và neutron, ta sẽ thấy chúng được cấu thành từ 2 hạt cơ bản là up quark mang điện tích dương và down quark mang điện tích âm, hạt quark là hạt cơ bản, vì chúng là giới hạn nhỏ nhất mà con người có thể zoom vào ở thời điểm hiện tại.
Nói cách khác, hạt quark cùng với electron và một tá các loại hạt cơ bản khác mà con người đã tìm ra trong vài thập kỷ qua, chính là những thứ nhỏ nhất, cấu thành vạn vật trong vũ trụ, Cơ mà, không phải ai cũng nghĩ như vậy, một nhóm các nhà khoa học đã cùng nghiên cứu và phát triển một cơ sở lý thuyết có tên là lý thuyết dây (String theory) nhằm giải thích bản chất của vũ trụ.
Lý thuyết dây giả thuyết rằng protron, electron, quark và tất cả các hạt cơ bản khác, chưa phải là những thứ nhỏ nhất và không thể chia nhỏ được, cơ học hiện đại cho rằng, nếu bạn phóng to một electron, một protron một quark lên bạn sẽ không nhìn thấy gì ở bên trong cả, vì chúng chính là những thứ nhỏ nhất, không thể chia được nữa. Lý thuyết dây lại cho rằng nếu phóng to những hạt cơ bản lên, bất cứ loại nào bạn cũng sẽ đều nhìn thấy một loại năng lượng nhỏ, dạng như một dây đàn ghi ta, đàn violon, đàn bầu, đàn cò, đang rung động, đang nhẩy múa với một tần số nhất định.
Và nếu như các tần số, rung động khác nhau, của mỗi sợi dây đàn, tạo ra một nốt nhạc khác nhau, tần số của các dây năng lượng, tạo ra các hạt cơ bản khác nhau, với khối lượng, năng lượng và hành vi khác nhau. Nói cách khác, lý thuyết dây giả thuyết rằng, vũ trụ và vạn vật trong vũ trụ là tổng hòa vô vàn các sợi dây năng lượng rung động ở các tần số khác nhau, tớ là một số các sợi dây rung động, bạn là một số các sợi dây rung động, trái đất là một mả các sợi dây năng lượng đang rung động, không hơn không kém.
Và vì giải thích được bản chất tồn tại của vạn vật trong vũ trụ, và bản thân vũ trụ, thông qua rung động của một đối tượng duy nhất là những sợi dây, lý thuyết dây được kỳ vọng là lý thuyết thống nhất đại diện cho toàn bộ vũ trụ. Nói đi, thì cũng phải nói lại, lý thuyết dây không tồn tại. Và nhấn mạnh, lý thuyết dây không tồn tại trong một vũ trụ chỉ 3 chiều không gian và 1 chiều thời gian, như những gì mà tớ và bạn đang cảm nhận.
Nó cũng không tồn tại trong một vũ trụ 4, 5, 6, 7 chiều không gian, thay vào đó nó cần tới 10 chiều không gian và 1 chiều thời gian để tồn tại, vì vậy các nhà vật lý, đứng sau lý thuyết dây, có niềm tin mạnh mẽ rằng vũ trụ của chúng ta, thực sự có 10 chiều không gian và 1 chiều thời gian, tuy nhiên, 7 chiều còn thiếu là bởi chúng quá nhỏ để nhìn thấy, cảm nhận và thậm chí là đo đạc bởi những thiết bị tinh vi nhất của con người ở thời điểm hiện tại.
Tin vui là, họ đang tìm cách, để kiểm tra sự tồn tại của chúng và thiết bị dùng để test 7 chiều không gian còn thiếu và sự tồn tại của chúng có lẽ không còn quá xa với khán giả yêu sách khoa học, chính là máy gia tốc hạt lớn (Large Hardon Collider viết tắt là LHC, của tổ chức hạt nhân Châu Âu CERN) Siêu thiết bị này được đặt trong một đường hầm hình tròn, chu vi gần 27Km, nằm giữa độ sâu từ 50 đến 175m, dưới biên giới Pháp, Thụy Sĩ.
Bằng cách cho các hạt protron bay dọc đường hầm với vận tốc lên tới 0, 999. 999. 990 so với vận tốc ánh sáng, tức là chỉ chậm hơn giới hạn của vũ trụ 3,1 mét/ giây hay 11km/giờ. Các nhà khoa học kỳ vọng là sẽ tạo ra sự va chạm mạnh tới mức, là nó sẽ bắn ra vài mảnh vỡ protron, từ không gian 3 chiều của chúng ta, vào các chiều không gian còn lại, các nhà khoa học, sau đó đo tổng năng lượng trước và sau vụ va chạm, nếu năng lượng sau va chạm, nhỏ hơn năng lượng trước va chạm, chứng tỏ đã có một lượng nhất định năng lượng chui qua các chiều không gian khác, và rằng lý thuyết dây đã được củng cố một cách mạnh mẽ về mặt khoa học, và đáng tiếc là ngày đó vẫn chưa đến, tóm lại, con người ở thời điểm hiện tại, có thể vẫn chưa hiểu rõ về sự tồn tại của mình. Tuy nhiên có một điều chắc chắn rằng chúng ta sẽ không ngừng tò mò. <Hếttrích>
Như vậy, sự giới hạn của KHHĐ ở 2 đầu, một đầu là vĩ mô với thuyết vụ nổ lớn, lan tỏa. Một đầu là vi mô là những dây cực nhỏ đang chuyển động không ngừng. Gọi là giới hạn vì KHHĐ không trả lời đươc trước BB thì vũ trụ ở trang thái nào, cái gì đã tạo ra BB. Và ở đầu vi mô kia là những dây (Strings) từ đâu mà phát sinh, và làm bằng chất liệu gì?
Nhưng những bế tắc này, sẽ được giải thích ngọn ngành bởi Khoa Học Phi Hữu với Đồ Hình Liên Thông, Xa Lộ Thiền Định và Tân Trường Thống Nhất như sau đây.
Những bài trước, đã cho chúng ta đã biết, ngài Stephen Hawking đã từng tuyên bố: “Trước Big Bang (BB) là không có gì cả”. Từ đó cho tới nay, Khoa Học Hiện Đại đã dựa theo lời tuyên bố đó để cho rằng trước Big Bang là KHÔNG. Và mọi người, Khoa Học Gia (KHG) hay không phải KHG đều BIẾT trước BB là KHÔNG, mà đã là KHÔNG thì không ai cần thắc mắc cái KHÔNG này từ đâu mà ra? Và ai đã làm ra cái KHÔNG đó?
Sự BIẾT KHÔNG của trước BB là chính do TÂM của chúng ta, BIẾT là TÂM và TÂM là BIẾT, TÂM và BIẾT là một, đều ở trong TÂM của mọi người. Biết và Tâm sẽ nhập thành 1 Đại Lượng.
Và muốn nhìn thấy cái KHÔNG trước BB, chúng ta phải vào TÂM KHÔNG của chúng ta, cách vào TÂM KHÔNG chính là THIỀN ĐỊNH, vì khi trong THIỀN ĐỊNH thì tâm của chúng ta không có biến đổi gì trong đó cả, nhưng chúng ta vẫn BIẾT. Khi nhập vào THIỀN ĐỊNH sự thấy cái KHÔNG như thế nào, thì cái tướng dạng của vũ trụ trước BB là như thế đó. Nó sẽ là cái KHÔNG, không ngằn mé bao la. Và tất cả chúng ta đều có thể thực hiện TÂM KHÔNG này, để có thể thể nhập vào nó.
Bằng những sự chỉ dẫn căn bản của các phương pháp THIỀN, của các tông phái của Phật Giáo, tất cả chúng ta đều có thể thực tập và thể nhập TÂM KHÔNG rồi vào THIỀN ĐỊNH, vào thường xuyên và quen thuộc, xuất nhập trong THIỀN ĐỊNH, thì là ta đã quen thuộc vào trong Xa Lộ Thiền Định (XLTĐ).
Qua sự giải thích này, chúng ta tư duy rằng, trước Big Bang vũ trụ ở thể TÂM KHÔNG (Còn gọi là Vô), tướng dạng của nó là một ĐẠI ĐỊNH. Có thể thấu hiểu và thực hiện bởi từng con người chúng ta.
Vũ trụ ở thể TÂM KHÔNG này có 4 giá trị thực tế là: THƯỜNG, LẠC, NGÃ, TỊNH. Thường là mãi mãi như vậy, không bao giờ thay đổi, là trạng thái luôn luôn ở trong THIỀN. LẠC còn gọi là ĐẠI LẠC là trạng thái lúc nào cũng sung sướng, hạnh phúc trong thanh nhẹ, ví như TÂM đang nghe một bản đại hòa tấu với những cung bậc tuyệt hay. NGÃ là sự hiện hữu, nhưng không chạy theo, không biến đổi theo bất cứ điều gì cả, còn gọi là NGÃ VÔ SANH. TỊNH là sự bình lặng với lòng yêu thương tất cả, còn gọi là Đại Bi.
Bốn giá trị này của vũ trụ thể TÂM KHÔNG, thì 3 giá trị là thường, ngã và tịnh đã cân bằng, riêng Đại Lạc có sự chuyển đổi cung bậc hầu tạo ra sự thoải mái cho LẠC, sự thay đổi này khiến tạo ra nhiều cung (dây) lạc, những dây lạc này thải ra từ đại lạc trong vũ trụ thể KHÔNG (Vô), tìm chặp vào nhau, những cung lạc cao tìm tới những cung thấp, những cung vui tìm chặp vào cung trầm, đó là những tiến trình tự nhiên, do sự khác nhau của bản chất.
Tợ như 2 viên nước đá, khi cho vô 1 ly nước nóng, nhiệt lượng vùng ngoại biên tan nhanh hơn bình thường, khiến nhiệt lượng ở trung tâm chạy nhanh ra ngoài để bù đắp nhiệt lượng mất đi, tạo sự chênh lệch nhiệt ở vùng ngoại biên, nên chúng hút chặt vào nhau, 2 cung lạc trong vũ trụ thể không tìm chặp vào nhau do sự khác biệt, cũng chặp vào nhau như vậy, nhưng ở vũ trụ thể không, những hằng số vũ trụ chưa thành lập, nên chúng sụp đổ vào trong, sự sụp đổ này, gọi là sự sụp đổ nhỏ (Small Crunch)
Từ sự sụp đổ này, chúng quyến rũ những sự sụp đổ của những cặp lạc khác xung quanh, để đi tới sự sụp đổ lớn hơn, khi tới chân trời biến cố, vì những yếu tố: Càng lúc càng quyến rũ những sự sụp đổ khác xung quanh do ái lực, chúng cũng không thể thoát ra ngoài, càng lúc càng gần tới một dị điểm. Khi càng lúc càng gần một dị điểm, để đi tới một sự sụp đổ lớn, chúng sẽ trở thành là Big Bang lan tỏa, như thực tế giải thích của Khoa Học Hiện Đại.
Thời gian bắt đầu từ sự biến đổi từ Big Crunch sang Big Bang, như vậy biến đổi và thời gian sẽ nhập thành một đại lượng “Biến Đổi & Thời Gian”, là một hỗn hợp thực tế, có tuổi đời già là 13, 7 tỷ năm. Nhưng với một Tâm Thiền thì thời gian đó chỉ là ảo ảnh, vì trong Thiền sẽ không có thời gian nào trôi đi cả.
Hai Dây (cung) Lạc thoát ra từ Vũ Trụ Thể Tâm Không, tìm chặp vào nhau vì sự khác biệt và cô đơn, có phải là một nhận định tùy tiện, hư cấu không? Thưa không, đó là nhận định dựa trên sự kiện thực tế. Hai con người ngày nay, tìm chặp vào nhau (vì nhu cầu yêu đương, làm tình với nhau) rồi sụp đổ vào trong trước tiên (small crunch), kế tiếp trong tiến trình tiến tới bùng nổ khoái cảm xuất tinh đạt kích ngất (Big Bang), cũng chỉ là lặp lại phiên bản đầu tiên, khi 2 cung lạc chặp vào nhau ở Vũ Trụ Thể Tâm, từ lúc khởi đầu để thành Vũ Trụ biến đổi, sinh diệt Big Bang mà thôi. Không có sự liên kết nào rõ ràng hơn thế nữa?
Vã lại, Khoa Học Hiện Đại cũng đã có nhận định tương tự, có điều là Khoa Học không đẩy nhận định đi tới rốt ráo, sau cùng mà thôi.
Heisenberg: Werner Heisenberg won the 1932 Nobel Price in physics đã tuyên bố:
“Thế Giới giống như một chuỗi phức tạp sự kiện, trong đó những mối liên hệ sự kiện đan xen vào nhau, chúng chập lên nhau và kết hợp với nhau, qua đó quyết định nền tảng tổng thể”].
Những Dây Lạc có đầy trong từng con người, đã thôi thúc con người tim đến nhau, rồi chặp vào nhau, đúng như sự nhận xét của Khoa Học Hiện Đại và sự kết luận của Khoa Học Phi Hữu. Nếu không có sự chặp vào nhau, thì không có thế giới, cũng như không có Big Crunch thì không có Big Bang, đó là một thực tế.
Thưc tế này, dắt tới kết luận thực tế khác: Thế giới và con người ngày nay, thúc đẩy thế giới tiếp tục đi tới bằng tình yêu và dục lạc, thì ở giai đoạn Vũ Trụ khởi đầu cũng bắt đầu bằng 2 dây (cung) Lạc chặp vào nhau, chung quy cũng vì khuynh hướng dục và ái lực (tình yêu) mà thôi. Kết luận trước Big Bang là một Big Crunch là một thực tế. Và Big Crunch chính là Vũ Trụ Phi Hữu. Như vậy Vũ Trụ Vô, Vũ Trụ Phi Hữu, Vũ Trụ Hữu Vi và các Thế Giới khác trong đó đã được giải thích rõ.
Như vậy, vĩ mô của vũ trụ là Big Bang, đã được hình thành từ những vi mô là những dây lạc thoát ra từ Đại Lạc của vũ trụ thể TÂM với 4 giá trị là THƯỜNG, LẠC, NGÃ, TỊNH, những dây lạc chính là những LẠC THỌ đã có mặt ở mọi nơi, tất cả mọi vật chất, con người, sinh vật và các hạt nhỏ nhiệm cùa các hành tinh, thiên thể và ở cả trong XLTĐ. Trong XLTĐ chúng cũng chính là những lạc thọ. Khoa Học Hiện Đại với Lý Thuyết Dây cho rằng: (Diễn giải thêm từ tác giả)
<Trích và sửa đổi một tiểu đoạn>…“Nói cách khác, lý thuyết dây giả thuyết rằng, vũ trụ và vạn vật trong vũ trụ là tổng hòa vô vàn các sợi dây năng lượng rung động ở các tần số khác nhau, con người và vạn vật là một số các sợi dây rung động, vật chất là một số các sợi dây rung động, trái đất là một mả các sợi dây năng lượng đang rung động, tất cả các thiên thể trong vũ trụ cũng là những sợi dây đang rung động, không hơn không kém, các thiên thể sẽ không có những sợi dây đang rung động, nếu chúng không tạo bởi các hạt…” <Hếttrích>
Từ năm 2016 trang 122 của Tuyên Ngôn Về Thể Trạng Vũ Trụ Tiền Big Bang (TNVTTVTTBB) & Năm Lý Thuyết Mới (NLTM) đã viết: Tóm lại, sự thành lập vũ trụ Big Bang theo lập trình như sau:
…Vũ Trụ Đại Định, thể Tâm gồm thường, Lạc, Ngã, Tịnh với Đại Lạc đào thải những cung bậc cũ ra è Hai Cung Lạc (các dây theo lối gọi mới) chặp vào nhau, co cụm, xẩy ra è Ái lực tạo ra từ 2 cung Lạc quyến rũ những sự co cụm khác tạo raè Big Crunch, khi tới chân trời biến cố, sẽ tạo ra vô cùng nặng, vô cùng nóng è Big Bang nổ bùng, lan tỏa, sinh è …
Đối với Lý Thuyết Dây, thì con người và vạn vật là tổng hòa những sợi dây năng lượng luôn luôn nhẩy múa với tần số khác nhau, rồi tạo ra những hạt cơ bản khác nhau. Trong khi TNVTTVTTBB kết luận Vũ Trụ thể Tâm Không đầy rẫy những cung (Dây Lạc) lạc trầm bổng, đã đào thải khỏi Đại Lạc vì sự thay đổi cung bậc của chính Đại Lạc. Những Dây đang quẫy lộn, quay cuồng trong vạn vật chính là những Lạc Thọ, là 1 trong 4 giá trị của Vũ Trụ Thể Tâm
Khi hành giả trong trạng thái thiền định miên mật, thì hành giả trong Xa Lộ Thiền Định, sẽ cảm nhận những Lạc Thọ, tức những dây Lạc (Bliss String). Như vậy Bliss String (Dây Lạc) ở khắp mọi nơi, chúng ở trong Vũ Trụ Thể Tâm Không, trong Xa Lộ Thiền Định (Tức siêu chiều, chiều chung kết), trong vạn vật, trong mỗi con người (Chúng ta sẽ thấy rõ, cảm thọ Lạc này khi trong thiền định), trong các hạt, và trong các chiều không gian khác.
Kết luận: Dây Lạc (Bliss String) hay còn gọi là Lý Thuyết Dây chính là thành phần cơ bản, nối kết giữa Khoa Học Hiện Đại và Khoa Học Phi Hữu (Có thiền định, là có Lạc Thọ) Tức những Dây Lạc (Bliss Strings), những Lạc Thọ cũng chính là cuốn sổ thông hành để chúng ta có thể câu thông với các chiều không gian khác, còn gọi là các thế giới khác, các cõi giới khác, qua các exit 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6… hay exit (n+1), bằng Xa Lộ Thiền Định tức các cách thiền căn bản đã được chỉ dẫn từ các giảng sư Phật Giáo.
Tới đây, chúng ta đã thấy, tất cả những bí ẩn của Vũ Trụ Vô, Phi Hữu, Hữu đã được giải thích trọn vẹn và rõ ràng. Tuy là tóm tắt, nhưng thật sự câu trả lời cho nguồn gốc của Vũ Trụ, và những liên hệ tuyến tính của chúng cũng chỉ đơn giản như thế thôi. Tôi gọi tư duy này là những tư duy phi hữu, lý thuyết từ phi hữu, lý thuyết này cần hợp tác với một tư duy toán học để biến nó thành sự giải thích thực tế và khoa học. Từ sự giải thích cơ bản như sau:
Tạm đặt vũ trụ nguyên thủy là Y, vũ trụ hiện hữu là Y’. Big Bang là X, tạo thành bởi những sự sụp đổ nhỏ là Small Crunch, gọi là x, nhiều x tụ tập với nhau, để thành Big Crunch, nên chúng ta viết X = x n+1, thời gian t0 bắt đầu vào giữa lúc chuyển đổi từ Big Crunch sang Big Bang (BB), sau đó BB liên tục trương nở, nên xin gợi ý bằng công thức như sau: Y = Y’ (x n+1 + t0 + Xn+1).
Mong có một cao nhân nào giỏi toán, giải thích, triển khai công thức này chi tiết, xin cám ơn.
Để hiểu thêm về Vũ Trụ Vô, và về sự thành lập nên Vũ Trụ Phi Hữu, Vũ Trụ Big Bang hay Vũ Trụ Hữu Vi chi tiết hơn, tác giả xin hân hạnh giới thiệu Tuyên Ngôn Về Thể Trạng Vũ Trụ Tiền Big Bang (Bản 2) hiện đang có mặt trên Amazon.com.
Xin cám ơn và xin chào đoàn kết cùng các đọc giả của Diễn Đàn Thật Nghĩa.
SƯƠNG LAM: MỘT CÕI THIỀN NHÀN -Tâm Tình Của Người Con Trong Ngày Vu Lan
Tâm Tình Của Người Con Trong Ngày Vu Lan
Đây là bài số bảy trăm hai mươi lăm (725) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ Oregon Thời Báo.
Nhân Mùa Vu Lan năm nay, để mở đầu cho bài tâm tình hôm nay, mời Bạn xem youtube Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát do anh Tiến TS ở Thụy Sĩ thực hiện để tặng người viết.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát – Tiến TS,
Xin cảm ơn anh Tiến TS, người bạn văn nghệ tài hoa và có lòng tốt với bạn hữu, dù ở phương trời xa xôi vẫn có tâm thành hướng về chư Phật và bạn hữu nhân dịp Lễ Vu Lan.
Đã bao lần tôi nghe bài hát Bông Hồng Cài Áo mỗi độ Vu Lan về là đã bao lần tôi lại thấy rưng rưng xúc động với lời nhạc êm ả, trữ tình đầy tình thương yêu trìu mến của Thầy Nhất Hạnh và nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ:
“Một bông hồng cho em Một bông hồng cho anh Và một bông hồng cho những ai Cho những ai đang còn Mẹ Đang còn Mẹ để lòng vui sướng hơn Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi Như đóa hoa không mặt trời Như trẻ thơ không nụ cười
Ngỡ đời mình không lớn khôn thêm Như bầu trời thiếu ánh sao đêm….
Mẹ, Mẹ là dòng suối dịu hiền Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên Là bóng mát trên cao Là mắt sáng trăng sao Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối
Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau Là tiếng dế đêm thâu Là nắng ấm nương dâu Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời ”
Khi nhận được đoá hoa hồng màu đỏ hay màu hồng cài trên ve áo bạn hãy vui sướng đi:
“Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó anh Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó em Thì xin anh, thì xin em Hãy cùng tôi vui sướng đi.”
Hình như khi còn trẻ, chúng ta không biết hay chưa biết thương yêu cha mẹ vì chúng ta còn bận lo những chuyện khác mà ta cho rằng đó là quan trọng đối với chúng ta hơn như học hành, yêu đương, rong chơi với bè bạn, theo đuổi lý tưởng hay sự nghiệp v…v…
Bởi thế có đôi lúc ta đã: “Có đôi lúc ta quên nhìn trán Mẹ Còn bao nhớ thương dù ta lớn khôn rồi
Có đôi lúc ta quên thời gian qua Đường ta càng xa, vòng tay Mẹ ngắn lại”
Năm nay tôi lại nghẹn ngào khi xem 2 youtube về Mẹ được phổ nhạc chỉ mấy vần thơ ngắn ngủi cũng đủ nói lên niềm thương nhớ mẹ hiền của tác giả BS Đỗ Hồng Ngọc và nhà thơ Đỗ Trung Quân.
Mời bạn cùng cảm thông tâm sự của 2 tác giả này nhé.
1-BÔNG HỒNG CHO MẸ – Nhạc Võ Tá Hân – Thơ Đỗ Hồng Ngọc – Ca sĩ Diệu Hiền
Con cài bông hoa trắng Dành cho mẹ đóa hồng Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông
(Bông hồng cho Mẹ, 2012, Đỗ Hồng Ngọc)
2- MẸ TA TRẢ NHỚ VỀ KHÔNG | LÊ VỸ
Là sáng tác của Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh (3T) phổ thơ Đỗ Trung Quân. Lê Vỹ trình bày.2019
Ngày xưa chào mẹ, ta đi
Mẹ ta thì khóc, ta đi thì cười
Mười năm rồi lại thêm mười
Ta về thì khóc, mẹ cười lạ không
Ông ai thế? Tôi chào ông
Mẹ ta trí nhớ về mênh mông rồi
Ông có gặp thằng con tôi hao hao…
Tôi nhớ… Nó …người …như ông.
Mẹ ta trả nhớ về không Trả trăm năm lại bụi hồng…
rồi…
đi…
Mừng cho bạn nhận được cánh hoa màu hồng cài trên ve áo và cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền biết quy ngưỡng Tam Bảo, thân an trí lạc, phước huệ song tu.
Cũng xin được chia sẻ nỗi buồn đau của những người đã không còn cơ hội để nói lên những lời yêu thương hay tạ tội này vì cha mẹ đã qua đời
“Nay mất mẹ, bây giờ tôi mới hiểu Thế nào là tình mẫu tử thiêng liêng Ngôn từ nào định nghĩa chữ Mẹ hiền: Là Đức Mẹ, là Quan Âm, thị hiện”
(Thơ Sương Lam)
Xin mượn lời của thi sĩ Đỗ Trung Quân nói lên lời tâm tình của người con nhân ngày Vu Lan và cầu nguyện cho mọi người con trong trần thế hãy kính yêu Cha Mẹ khi còn tại thế để:
“Con sẽ không đợi một ngày kia, Khi Mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ? Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt Chạy điên cuồng qua tuổi Mẹ già nua … “
Và bạn sẽ đau buồn khi nhận trên tay cánh hoa hồng màu trắng:
Ôi! Buồn lắm! Hoa hồng màu trắng đó!
Trên áo tôi! Tôi mất Mẹ lẫn Cha
Mùa Vu Lan khi nghe đến bài ca
Bông Hồng Cài Áo! Lệ nhòa đôi mắt!
(Trích trong bài thơ Màu Hoa Hồng Cài Áo của Sương Lam)
Xin cầu nguyện cho Cha Mẹ đã quá vãng sớm siêu thoát nơi miền lạc cảnh.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát
Chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi-MCTN 725-ORTB 1156-8-21-24)
CA KHÚC Nhớ Anh | Thơ: Phạm Phan Lang | Nhạc: Thái Phạm | Ca sĩ: Diệu Hiền
Ca khúc: Nhớ Anh Thơ: PhamPhanLang Nhạc: Thái Phạm Ca sĩ: Diệu Hiền Hòa âm: Quang Đạt Video: Thái Pham thực hiên với hình ảnh PL, vườn nhà, núi Ko’OLau và Vịnh Kaneohe trước mặt nhà PL ở Hawaii.
Nhớ anh
Đêm qua anh không viết Em thấy giận anh rồi Cả ngày nay mong ngóng Về đọc thư anh thôi
Nhớ vòng tay âu yếm Nhớ tia mắt nồng nàn Nhớ nụ cười trìu mến Nhớ anh nhớ miên man
Ngày mai anh phải viết Thư dài hơn gấp đôi Nếu không em sẽ giận Sẽ hờn anh chết thôi….
PhamPhan Lang
KIỀU MỸ DUYÊN -THI SĨ CHINH NGUYÊN RA MẮT SÁCH RẤT THÀNH CÔNG.
GS/TS MAI THANH TRUYẾT – Trả Lại Thiên Nhiên Cho Thiên Nhiên! & Bài Chuyển Dịch Từ YouTube Của Andrew Millison.
KIỀU MỸ DUYÊN: ĐẠI LỄ VU LAN Ở CHÙA PHỔ ĐÀ
THÁI NỮ LAN SƯU TẦM: NHỮNG NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI SÁCH CŨ SÀI GÒN
NHỮNG NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI SÁCH CŨ SÀI GÒN
Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả. Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hoá phẩm ấy là nhờ vào một số lớn nhà xuất bản có công với Văn Học. Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hoá Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối, An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.
1.- Ông Khai Trí :
Chẳng mấy ai biết tên thật của ông, thành ra thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hoá vào tên ông. Thật ra tên ông là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên soạn khoảng 15 cuốn sách như Thơ tình Việt Nam và thế giới chọn lọc, Chánh tả cho người miền Nam… và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến.
Sau 1975 , nhà sách KT là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường. Tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bị trưng thâu. Hằng vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng.
Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng.
Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp tục làm Văn hoá. Sách bị tịch thâu với lý do : in trước 75. Theo Nguyễn Thụy Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội : Tội đã in trước 1975. Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt. Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu.
Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày TQ nhận xét : Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu.
Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3, linh cữu hiện quàn tại nhà riêng (237 Điện Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện thành phố.
Cụ Toan Ánh, năm nay 91 tuổi, trong bữa đưa đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới có 80 tuổi.
2- Nhà Lá Bối :
nhà Lá Bối do nguyên Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có Lá Bối, những Chiến tranh và Hoà Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã Thiên, Kiếp người của Sommerset Maugham, Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay và Lối thoát cuối cùng của V. Georghiu sẽ nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn đọc. Nhất là bộ Chiến tranh và Hoà Bình của Léon Tolstoi. Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở Hải ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một vinh danh gì cho 20 năm Văn học dịch nói riêng và Văn học nói chung, có cần nên nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam
3.- An Tiêm Thanh Tuệ.
Tôi chỉ xin trích dẫn ba bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào.
* Thái Kim Lan về Thanh Tuệ:
Hình như dưới tay anh tác phẩm được in nào cũng mang một chút lòng trân trọng của anh như thế đối với tác giả và độc giả, một nét cười bao dung mời gọi, vừa cảm khái liên tài vừa khuyến khích thúc dục, một nhịp nối uyển chuyển tài hoa giữa giãi bày tâm sự và tìm kiếm tri âm trong chữ nghĩa và tri thức, giữa người và người… An Tiêm đã khai phá, mở cửa khu vườn văn học của các nghệ sĩ trẻ miền nam trong khung cảnh sôi động của thập niên 60…
* Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị Lai Hồng.
Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc thương. Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà nỗi tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng.
Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi giáng, Sao Trên Rừng, Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu bảo trọng chữ nghĩa như đã từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt.. Đêm Nguyệt Động, Cái chuồng khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực hiện được.
* Với nhà văn Lê Thị Huệ:
Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm trước rủ đi uống cà phê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục. Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.
4.- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn.
Có lẽ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thường, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó. Tôi có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là anh Vũ Quang Trình, trợ lý TGĐ trong bữa ăn trưa đó. Gốc gác các anh đều là dân Quảng Nam, Quảng ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hoà Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng tư, Họ, những người dân miền ấy có mặt khắp nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v. đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Lang, Sài gòn time có Võ như Lanh, Kinh tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh..
Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với cái vốn liếng ấy đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có tý vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến thời mở cửa, 1986.. Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm. Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp. Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm.
Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra hàng trăm cửa hàng bán sách với hàng ngàn nhân viên. Hỏi sao có nhiều nhân viên như thế. Trả lời là để trông chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách.
Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại. Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ mẫn nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có *Loan mắt Nhung* nữa.
Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại. NVL
Nguyễn Văn Lục
Nguồn fb Xuyên Sơn
GIAO CHỈ SAN JOSE – Tháng Bảy 1954: 70 Năm Sau, Từ Khi Đất Nước Chia Đôi.
Tháng Bảy 1954: 70 năm sau,từ khi đất nước chia đôi
Giao Chỉ San Jose
(Viết cho bằng hữu tháng tư 1954. Chúng tôi 300 thanh niên trình diện trại Ngọc Hà động viên vào Đà Lạt cùng hát bài ca Hà Nội ơi, năm 20 tuổi chưa từng biết yêu. Sau 21 năm chinh chiến, tháng tư 75 khóa Cương Quyết hát tiếp. Bao nhiêu mộng đẹp, tan ra thành khói, bay theo mây chiều.
Ngày nay, tháng 7-2024 vào nursing home thăm bạn cùng khóa. Ba anh bạn đại tá lữ đoàn trưởng mũ xanh mũ đỏ cùng đại đội võ bị ra đánh trận Quảng Trị chỉ còn Ngô Văn Định. Ghé lại bên tai nghe Định hỏi nhỏ:
– Bên ngoài còn mấy thằng?
– Còn liên lạc được 4 thằng. Ngoài 90 cả rồi. Tôi báo cáo. Thằng Luyện mới đến thăm.
– Định nói. Luyện nhảy Bắc 21 năm biệt giam mà còn sống. Hay thật.
– Tôi nói. Bạn yên tâm. Ngoài này còn thằng nào chơi thằng đó.
– OK, bạn còn sống lo cho anh em.)
***************
Ngày 20 tháng 7 năm 2014 ghi dấu 60 năm hiệp định Geneve chia đôi đất nước, chúng tôi tổ chức kỷ niệm đêm giã từ Hà Nội. Có các chiến binh Việt Nam trong quân đội Mỹ về tham dự. Ca sĩ Ý Lan trình diễn những bài ca quê hương. Chúng tôi có dịp nhắc lại kỷ niệm từ ngày rất xa, khi còn là thiếu niên trong thời kháng chiến đứng sau cột đình làng Bình Hải, huyện Yên Mô nghe cô Thái Thanh rất nhỏ bé hát bài ca cho chương trình Bình Dân Học vụ. Lời ca thánh thót của thời thơ ấu mà vẫn còn nghe vang vọng tuổi hoa niên. Ai về chợ huyện Thanh Vân, hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa,,,?.Trải qua biết bao dâu bể. Ngày nay vẫn còn may mắn ngồi nghe con gái của cô Thái hát rằng: Quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn.
Hôm nay, ngồi đọc lại bài viết cũ về chuyện còn sông Bến Hải đã trở thành câu chuyện 70 năm.
Tuổi cao niên già thêm 10 năm, nhưng lịch sử đất nước chia đôi trên căn bản vẫn không thay đổi. Xin soạn lại gửi đến bằng hữu độc giả như sau.
Viết cho ngày 20 tháng 7-1954
Đất nước bị chia cắt 54 quả thực là thảm họa, nhưng thống nhất 75 là còn khốn nạn hơn. Để hoàn thành công cuộc gọi là “Giải phóng miền Nam”, Việt Cộng đang phải trả nợ bằng cả núi sông. Vì câu chuyện thời sự hôm nay, chúng ta cùng nhớ lại chuyện hôm qua. 70 năm trước cũng vào ngày tháng này, người Việt di cư lần thứ nhất.
Tháng 7 năm 2024 có gợi nhớ cho người Việt tỵ nạn chúng ta một chút kỷ niệm nào không? Cách đây 70 năm vào tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Hôm nay, từ hơn nửa thế kỷ và một đại dương xa cách, xin có đôi lời ghi lại. Trước hết là một số sử liệu, nhắc lại một lần vào cuối cuộc đời. Tháng 9-1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh, Thế chiến thứ II chấm dứt chính thức trên mặt trận Thái Bình Dương. Hồ Chí Minh lãnh đạo đảng cộng sản tuyên bố Việt Nam độc lập. Người Pháp trở lại Đông Dương. Ngày 19 tháng 12-1946, toàn quốc kháng chiến. Vào những ngày của mùa Thu khói lửa năm xưa, tất cả thanh niên Việt Nam đều đứng lên đáp lời sông núi. Phạm Duy đã viết lời ca như sau: Một mùa Thu năm qua, cách mạng tiến ra đất Việt, cùng ngàn vạn thanh niên vung gươm phá xiềng. Bài ca này miền Nam đã dùng mở đầu cho cuốn phim Chúng tôi muốn sống. Vào những ngày đầu kháng chiến tôi mới hơn 14 tuổi. Tuổi măng non thơ dại và hào hứng biết chừng nào. Vào thời gian này, không ai biết gì về Quốc Cộng. Người ta nói rằng: Khi cách mạng mùa Thu, anh 20 tuổi, anh không theo kháng chiến, anh không phải là người yêu nước. Và tôi là cậu bé con của trường Cửa Bắc, Nam Định tản cư về Yên Mô, Ninh Bình cũng bắt đầu bài học yêu nước nồng nàn.
Sau này mới học được những danh ngôn thần diệu khác. Khi chủ nghĩa cộng sản ra đời, anh 20 tuổi, không theo cộng sản, anh không có trái tim. Hai mươi năm sau, anh chưa bỏ cộng sản. Anh không có khối óc.
Hà Nội và Nam Định tản cư, sinh viên học sinh gia nhập tự vệ thành mang dấu hiệu sao vàng tham dự vào trung đoàn thủ đô. Trong Nam các thanh niên tiền phong Sài Gòn cầm gậy tầm vông hợp đoàn chống Pháp.
Cho đến ngày nay, tất cả các vị cao niên 80 tuổi trở lên chắc hẳn còn nhớ về mùa Thu khói lửa năm xưa của thời kỳ 1946. Rồi tiêu thổ kháng chiến, rồi tản cư, rồi về Tề, còn nhớ biết bao nhiêu ngôn ngữ đặc thù của cả một thời thơ ấu.
Ba năm sau, tháng 3-1949, vua Bảo Đại từ Hương Cảng trở về. Bình minh của phe quốc gia mới bắt đầu nở hoa cay đắng trong vòng tay của quân đội Liên Hiệp Pháp.
1950: Cuộc chiến vẫn tiếp tục trên toàn thể đất nước cho đến năm 1950. Một năm nhiều dữ kiện. Tháng giêng, Trung Cộng công nhận cộng sản Việt Nam. Tháng 2, Hoa Kỳ công nhận Việt Nam Quốc Gia. Tháng 3, Mỹ bắt đầu viện trợ cho Pháp tại Đông Dương. Tháng 6, toán cố vấn Mỹ đầu tiên đến Việt Nam.
Rồi đến năm 1954 định mệnh. Tháng 5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ, trong số binh sĩ tham chiến có phân nửa là lính quốc gia Việt Nam cùng chịu chung phần số hy sinh và thân phận tù binh.Trong số này có trung úy mũ đỏ Phạm văn Phú. Hội nghị Genève về Đông Dương khai mạc. Tháng 6-1954, ông Ngô Đình Diệm từ Mỹ về nước nhận chức thủ tướng. Tháng 7-1954, Geneva quyết định chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17, trên con sông Bến Hải giữa nhịp cầu Hiền Lương. Và cái ngày định mệnh của cả dân tộc là ngày 20 tháng 7-1954. Anh, Pháp, Tàu v.v… ký vào hiệp ước cùng với phía cộng sản Việt Nam. Hoa Kỳ và Việt Nam quốc gia không ký. Thủ tướng Pháp đương thời hứa với quốc dân là hiệp định phải ký xong nội ngày 20 tháng 7-1954. Họp bàn đến nửa đêm chưa xong. Đồng hồ phòng nghị hội cho đứng chết lúc 12 giờ khuya. Tiếp tục họp đến sáng hôm sau. Ký xong rồi cho đồng hồ chạy lại. Ngoại trưởng Việt Nam là cụ Trần Văn Đỗ khóc vì đất nước chia đôi ngay tại hội nghị. Lê Duẩn chỉ huy cộng sản tại miền Nam, đang trên đường ra Bắc chợt nghe tin đình chiến bèn quay trở lại để tiếp tục lãnh đạo công cuộc giải phóng về sau. Từ Hà Nội một số sĩ quan Quốc Gia Việt Nam cùng sĩ quan Pháp tham dự hội nghị Trung Giá để quy định việc đình chiến. Các đơn vị Pháp và tiểu đoàn khinh quân Việt Nam âm thầm rút khỏi Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hóa, Nam Định để lại sự hoảng loạn đau thương cho nhiều giáo khu Việt Nam tự trị. Tại miền Bắc, Pháp và phe quốc gia có thời hạn tập trung 80 ngày tại Hà Nội, 100 ngày ở Hải Dương và 300 ngày tại Hải Phòng. Tại miền Nam, bộ đội tập kết tại Hàm Tân 80 ngày, Bình Định 100 ngày và Cà Mau 300 ngày. Ngày nay bao nhiêu người trong chúng ta còn nhớ đến thời kỳ tập kết ở miền Nam và di cư của miền Bắc. Bộ đội miền Nam trước khi ra đi đã phát động chiến dịch gài người ở lại nằm vùng và phong trào lập gia đình ồ ạt để hẹn ngày trở lại hai năm sau hiệp thương và tuyển cử. Trung úy Giao Chỉ tham dự hành quân Tự Do tiếp thu Cà Mau thấy người cộng sản tập kết chào nhau với bàn tay xòe hai ngón hẹn gặp lại sau hai năm, kèm theo khẩu hiệu: Ra đi là chiến thắng, ở lại là vinh quang. Kháng chiến miền Nam ra Bắc để lại những người đàn bà mang bầu trong thôn xóm và súng đạn chôn sau vườn. Trong khi đó ở miền Bắc cộng sản cố sức cản đường không cho lính quốc gia di tản và ngăn chặn cuộc di cư vĩ đại từ tháng 8-1954. Nhưng phe Quốc Gia vẫn có đủ một triệu người ra đi. Trung úy Vũ Đức Nghiêm, tốt nghiệp khóa 1 Nam Định đã di cư vào Nam cùng đơn vị và gia đình lúc ông hơn 20 tuổi. Từ Phát Diệm, ông đi cùng Tiểu đoàn Khinh quân 711 về Hải Dương rồi rút về miền Nam. Đại úy Lê Kim Ngô di tản trường Công Binh từ Bắc vào Nha Trang và tham dự hành quân tiếp thu Bình Định. Cả hai ông Vũ Đức Nghiêm và Lê Kim Ngô về sau đều có dịp trở về đất Bắc trong lao tù cộng sản trước khi HO qua định cư tại Hoa Kỳ. Cũng trong đợt di cư theo gia đình công giáo, thanh niên Phạm Huấn 17 tuổi còn nhớ mãi về Hà Nội của tuổi hoa niên. Sau khi ký hiệp ước Paris, thiếu tá VNCH Phạm Huấn có dịp trở về trong phái đoàn chính thức để viết nên tác phẩm “Một ngày tại Hà Nội” vào năm 1973. Sau đó ông Phạm Huấn lại một lần nữa từ biệt Sài Gòn năm 1975. Ngày 7 tháng 7-2004, tôi và đại tá thiết giáp Hà Mai Việt vào thăm Phạm Huấn tại Nursing Home của bác sĩ Ngãi ở khu Tully, San Jose. Sinh năm 1937, người thiếu niên Hà Nội trở thành sĩ quan trẻ trung của Sài Gòn vẫn còn là vị cao niên trẻ nhất của Nursing Home. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm.” Phạm Huấn nói rằng nếu có ngày các ông lấy lại được Sài Gòn thì tôi cũng sẽ chơi một chuyến xe lăn về quê cũ. Ông qua đời tại San Jose và chưa một lần trở lại Việt Nam. Nhưng từ tháng 7-1954 cho đến tháng 7-2019 ngày tháng cũng xa rồi mà mộng ước cũng xa rồi. Phạm Huấn và nhà thơ Hoàng Anh Tuấn đều lần lượt ra đi từ San Jose bỏ cả mưa Sài gòn lẫn mưa Hà Nội.
Cuối tháng 5-2014, Hà Mai Việt trở lại San Jose ra mắt tác phẩm Cội rễ cuộc chiến Việt Nam, khởi sự từ miền Bắc. Chẳng biết còn ai nhớ được nguồn cơn.
Năm 1954, có cô bé 16 tuổi lên máy bay một mình đi theo gia đình người bạn để vào Nam tìm tự do. Mồ côi mẹ, cha ở lại đi tìm con trai rồi kẹt luôn. Cô bé tên là Nguyễn Thị Chinh và sau này chuyến đi đã đem đến cho miền Nam một đệ nhất minh tinh gọi là Kiều Chinh. Chuyến đi của Kiều Chinh 1954 từ biệt Hà Nội đầy nước mắt chia ly trong tình phụ tử. Năm 1975, Kiều Chinh lại một lần nữa từ biệt Sài Gòn trong một chuyến bay trắc trở vòng thế giới giữa lúc thủ đô miền Nam hấp hối.
Và cũng vào năm 1954, một cô bé 9 tuổi Nguyễn Thị Lệ Mai xuống tàu di cư vào Nam. Sau này cô trở thành ca sĩ tiêu biểu của cuộc chiến lầm than, một đời lưu vong trong một kiếp trầm luân. Tên của người ca sĩ 50 năm hát rong trên khắp địa cầu là Khánh Ly. Năm vừa qua cô về hát lần đầu trên sân khấu Hà Nội. Trải qua 50 năm là biểu tượng chống Cộng bằng ca từ hải ngoại, ngày nay cô đứng hát tình ca cho những khán giả chưa từng quen biết nhưng hết mực yêu thương. Và cùng với Vũ Đức Nghiêm, Lê Kim Ngô, Phạm Huấn, Kiều Chinh, Lệ Mai còn có Bùi Đức Lạc cũng là thành phần Bắc Kỳ di cư đến tạm trú ở khu Phú Thọ Lều để đến 75 thì trở thành người di tản mang màu áo pháo binh Dù. Năm 1972 trong nước mắt Hạ Lào, Bùi Đức Lạc nghe Khánh Ly nức nở, đã nói rằng trận liệt mất đường về không phải vì Mỹ bỏ mà tại vì nhạc Trịnh Công Sơn. Một người khác gốc Phát Diệm đã sớm trở thành dân di cư Hố Nai rồi chuyển qua vượt biên với một vợ 9 con tiếp tục bình tĩnh làm báo hàng ngày tại San Jose. Đó là Ký Còm – Vũ Bình Nghi. Tại sao miền Bắc lại di cư tị nạn? Tại sao miền Nam lại di tản vượt biên? Truyền thống của dân Việt là muôn đời sống với lũy tre xanh, với mồ mả tổ tiên, với làng xóm. Vạn bất đắc dĩ phải ra đi mang tiếng tha hương cầu thực nhưng rồi vài năm lại trở về. Quốc văn giáo khoa thư thuở nhỏ đã ghi rằng chỉ có chốn quê hương là đẹp hơn cả. Trung úy Phan Lạc Tuyên khi tham dự hành quân tiếp thu tại Bình Định đã viết nên bài nhạc bất hủ. Anh về qua xóm nhỏ, em chờ dưới bóng dừa. Nắng chiều lên mái tóc, tình quê hương đơn sơ. Nhưng chính tại miền quê đơn sơ ở Bồng Sơn này suốt 20 năm chưa bao giờ yên tiếng súng. Khi người cộng sản nổi dậy với một cuộc chiến toàn diện khốc liệt và quá độ đã triệt tiêu hoàn toàn mọi sự hòa giải trong tình tự dân tộc. Đầu tiên là các dân thành thị, trí thức, tiểu tư sản và tôn giáo phải bỏ Kháng Chiến về thành. Tiếp theo là bỏ miền Bắc di cư vào miền Nam. Năm 1954, người Bắc vào Nam đã đánh thức con rồng Sài Gòn tỉnh giấc. Qua những khác biệt ban đầu rồi chuyển đến thời gian hòa hợp. Miền Nam bắt đầu khởi sắc từ ẩm thực đến văn chương báo chí. Từ văn nghệ đến kinh doanh. Và sự hòa hợp không hề có biên giới. Đại úy Lê Công Danh, gốc công tử Cần Thơ đứng đón di cư ở bến nhà Rồng đã bế luôn cô Bắc Kỳ nho nhỏ tóc demi garcon về làm áp trại phu nhân. Trung úy công binh Nghiêm Kế, dân chơi Hà Nội phải lên tận Biên Hòa xứ Bưởi cưới cô Bé về làm chính thất, sống 20 năm ở các trại gia binh với 8 đứa con lần lượt ra đời. Trung úy Giao Chỉ đi chiến dịch Đinh Tiên Hoàng phải xuống tận Rạch Giá để rước về người đẹp xứ Kiên Giang. Sau hơn 60 năm tình cũ, chàng mới nhận ra rằng không phải chỉ Đà Lạt mới có hồ than thở, mà ở miền Hậu Giang cũng có khá nhiều. Những ông sĩ quan trẻ Bắc Kỳ xấp ngửa vào Sài Gòn đều đem về mỗi ông một cái hồ than thở. Qua đến Hoa Kỳ nàng vẫn còn than thở qua Cell Phone…
Sau những đoạn trường 1954, thì tiếp đến câu chuyện tình Bắc duyên Nam trên mọi lãnh vực. Tất cả cùng nhau xây dựng xong 2 nền Cộng Hòa với một đạo quân đẹp đẽ biết chừng nào. Cho đến năm 1975 và rồi đến tận ngày nay là 2024, người Việt vẫn tiếp tục bỏ nước ra đi. Từ di tản đến vượt biên, vượt biển, đoàn tụ, HO, con lai. Tại sao chúng ta lại rời bỏ quê hương? Một lần đi là một lần vĩnh biệt. Một lần đi là hết lối quay về. Năm 1954, khi ra đi dân Bắc Kỳ di cư ít có hy vọng trở về chốn cũ. Bài ca Hướng về Hà Nội được hát nỉ non suốt ngày đêm trên Radio. Cho đến khi chính phủ sốt ruột phải ra lệnh cấm. Những cánh bưu thiếp liên lạc Bắc Nam rời rạc được một vài tháng rồi cắt đứt sau hai năm xa cách. Qua thập niên 60, Hà Nội mở đường dây Ông Cụ, đưa cán bộ vào Nam xây dựng hạ tầng cơ sở và dựng nên cuộc chiến mà ngày nay chính cựu đảng viên cộng sản Dương Thu Hương cũng nhận xét là một cuộc chiến sai lầm, hy sinh quá nhiều sinh mạng và tiềm lực của cả hai miền đất nước.
Hôm nay, nhân dịp ghi dấu 65 năm cuộc hiệp định Genève chia đôi đất nước, chúng ta cùng suy ngẫm về dòng sinh mệnh đã đưa đẩy người Việt lưu vong. Sẽ không thể có được câu trả lời coi như là chân lý cho một vấn nạn lịch sử. Trong cuộc sống hàng ngày, biết bao nhiêu là điều bí ẩn không hề có đáp số. Tại sao có người hạnh phúc và có người đau khổ? Tại sao có người bị hy sinh và có người tồn tại? Tại sao có người thành công và có người thất bại? Những ngày tháng lịch sử như 20 tháng 7, như 30 tháng 4 chỉ là những dấu ấn trong dòng sinh mệnh của một dân tộc, của một cộng đồng. Đó là ngày của cay đắng nở hoa. Mới đây các quốc gia văn minh nhất của nhân loại Tây phương kể cả Nga, Đức, Anh, Pháp, Canada, Úc, Mỹ và nhiều nước khác cùng dự lễ kỷ niệm 70 năm đổ bộ Normandie. Bây giờ chúng ta cũng là công dân của một xứ sở văn minh là Hoa Kỳ, hãy cùng nhau nhớ về ngày lịch sử 20 tháng 7 của 70 năm về trước, ghi dấu lịch sử là một cách hành xử của con người văn minh. Một lần nữa xin nhắc lại 20 tháng 7-1954, 70 năm về trước hiệp định Genève chia đôi đất nước. Một triệu người miền Bắc di cư vào Nam. Tại sao người Việt lại rời bỏ quê hương? Câu hỏi đó dành cho quý vị. Tiếp theo từ 30 tháng 4-1975 cho đến nay, trên hai triệu người Việt lần lượt ra đi. Tại sao người Việt lại rời bỏ quê hương? Câu hỏi đó cũng dành cho quý vị. Tại sao quý vị lại ra đi? Tại sao lại trở về? Tại sao lại không trở về? Trở về quê hương. Câu hỏi cho cả đời người. Câu hỏi cho cả một thế hệ. Điều này có đúng với người Việt lưu vong hay không? Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết: Quê hương, mỗi người có một Như là chỉ một mẹ thôi… Điều này có đúng với người Việt lưu vong hay không? Hay là như Vũ Hoàng Chương đã than thở: Chúng ta là đám người đầu thai nhầm thế kỷ Quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh. Có thực sự đau thương như vậy không? Chúng ta ra đi đem theo quê hương, hay là chúng ta ra đi bỏ lại quê hương? Với con đường an cư lạc nghiệp ở xứ này, phải chăng chúng ta đang sống hạnh phúc với quê hương mới? Giáo sư Elie Wiesel, người Mỹ gốc Do Thái sinh trưởng ở Romania, nạn nhân của nạn diệt chủng Holocaust được cứu sống lúc 16 tuổi. Nhập tịch Hoa Kỳ năm 1963. Đoạt giải Nobel về Hòa Bình năm 1986, Ông đã nói rằng: Nơi nào tôi sống có tự do và hạnh phúc, nơi đó chính là quê hương.
Nhưng ai đã nói rằng chống Cộng không phải là chống cả quê hương. Dù quê hương cũ hay mới. Giao Chỉ.
20 tháng bảy năm 2014 tôi tổ chức 60 năm đêm giã từ Hà Nội có nhạc sĩ Vũ đức Nghiêm và nhiều bạn Hà Nội tham dự. Năm 2019 tôi tổ chức 65 năm ngày Nhớ về Hà Nội. Các bạn Hà Nội chẳng còn bao nhiêu người. Thay vì nhớ thương thành phố cũ ban đêm thứ bảy, chúng tôi tổ chức 11 giờ trưa ngày chủ nhật 21 tháng 7 năm 2019 tại nhà hàng Phú Lâm. Không phải chỉ dành riêng cho dân Bắc Kỳ di cư chẳng còn bao nhiêu. Xin mời bằng hữu Trung Nam Bắc một nhà cùng đến với nhau cả thế hệ thứ hai và thứ ba. Nếu ngày quốc hận 30 tháng tư năm 75 còn nhiều thương đau thì ngày quốc hận 20 tháng 7 năm 54 chỉ còn là những kỷ niệm êm đềm của tình Bắc duyên Nam.. Cùng ôn lại chuyện cũ giữa thế kỷ 20 đem qua thế kỷ 21. Chương trình hết sức đơn giản. Nhưng vô cùng ý nghĩa và chan hòa tình cảm. Chúng ta cùng ôn lại những câu trả lời muôn thuở trên đất Hoa Kỳ. Người Việt là ai, tại sao lại đến đây và đã đến vào thời gian nào. Trên báo San Jose Mercury News tuần qua đăng hình hai ông Nhật già danh tiếng của Hoa Kỳ gặp nhau cũng nhắc lại chuyện hai cậu bé cùng gia đình bị giam vào trại tập trung thời kỳ đệ nhị thế chiến. Về sau một ông trở thành thị trưởng San Jose rồi lên bộ trưởng giao thông thời tổng thống Bush. Một ông trở thành dân biểu liên bang. Để trả lời cho tuổi trẻ của thế hệ tương lai, cả hai ông Nhật đều nói rằng. Làm gì thì làm các bạn phải luôn luôn biết mình là ai? Như vậy là sau bao nhiêu năm tung hoành trên chính trường Hoa Kỳ, lúc về già ông bộ trưởng Mineta và ông dân biểu Honda mới chợt nhớ mình là Nhật Bản. Với 70 năm nhớ về cuộc di cư 1954. Với 49 năm nhớ về cuộc đổi đời 1975. Chúng ta dù đã trở thành người Mỹ nhưng luôn luôn phải nhớ mình thực sự là ai.
Giao Chỉ San Jose
Bài này viết tặng nhà tôi, cô nữ sinh Kiên Giang có đủ can đảm đi theo anh trung úy Bắc Kỳ đồn trú tại Cà Mau và trên khắp chiến trường miền Đông và miền Tây Nam Bộ.
Thế giới biết bao người mà sao anh chỉ thấy có mình em. Bà già 87 tuổi còn thắp hương tháng Tư
và nhỏ lệ tháng 7.
Hãy đem đình làng Đình Bảng Hà Nội đến cạnh Việt Museum tại San Jose USA
Trung úy Bắc Kỳ di cư gặp cô học sinh Kiên Giang,nay đã thành phụ nữ thắp hương cho tháng Tư và nhỏ lệ khóc tháng 7 di cư
Nam Bắc Cali Lại Kết Hợp Tổ Chức Cho Buổi Ra Mắt Sách 4 Tác Phẩm của Nhà Văn, Nhà Thơ Chinh Nguyên – LÊ VĂN HẢI.
Tin Sinh Hoạt Văn Học Nghệ Thuật Độc Đáo: Văn Thơ Lạc Việt (Bắc Cali) Lại “Mang Chuông Đi Đánh Xứ Người!” Xuôi Về “Nắng Ấm Miền Nam!”
*Một Lần Nữa, Nam Bắc Cali Lại Kết Hợp Tổ Chức Cho Buổi Ra Mắt Sách 4 Tác Phẩm của Nhà Văn, Nhà Thơ Chinh Nguyên. Lúc 1 giờ chiều Thứ Bảy, ngày 10 tháng 8 năm 2024, (Tuần tới) Tại Thư Viện Việt Nam, 10872 Westminster, Carden Grover, CA 92843
*Nhiều lần Cơ Sở Thi Văn Lạc Việt đã cộng tác với Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian, Nam Cali, trong những Sinh Hoạt Văn Học Nghệ Thuật Ra Mắt Sách, rất là thành công. Năm ngoái, tại Bắc Cali cho Ký Giả Chiến Trường Kiều Mỹ Duyên, KQ Phan Đình Minh…giờ VTLV thì xuôi Nam! Hy vọng lại có buổi RMS thành công mỹ mãn, nhiều điều ý nghĩa, thú vị!
*Chuyện gì thì không biết, nhưng chuyện ý nghĩa, thì chắc chắn100%! Vì tất cả số tiền bán sách, sẽ được chuyển về hở trợ thuốc men, cho Linh Mục Nguyễn Văn Lý, (Hình ảnh một vị Lãnh Đạo Tông Giáo, bền bỉ đấu tranh cho Tự Do Tôn Giáo, Dân Chủ) trải qua 4 lần trong ngục tù CS, nay đã có tuổi, mang nhiều bịnh tật, cần nhiều phương tiện chữa trị.
Mới quảng bá mục đích này, mà các Thân Hữu, Độc Giả, Nam Bắc Cali, hứa mua sách ủng hộ, trong buổi RMS, đã trên…3 ngàn đô la! thật là khích lệ hứng thú cho BTC.
*Trong mục đích: “Tiếng Việt còn, Nước Việt còn!” Kính mong Quý Vị bớt chút thời giờ tham dự. Có phụ diễn văn nghệ, nhiều giọng ca đặc sắc, thức ăn nhẹ, giải khát, Vào Cửa Tự Do!
Cơ Sở Thi Văn Lạc Việt San Jose và Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian Nam Cali Kính Mời.
Nhân đây, xin mời đọc thêm, lời giới thiệu BRMS của Nữ Ký Giả Chiến Trường Kiều Mỹ Duyên và Bài giới thiệu chút về Văn Thơ Lạc Việt của Minh Thúy Thành Nội.
KÍNH GIỚI THIỆU NHÀ VĂN CHINH NGUYÊN RA MẮT SÁCH
(KIỀU MỸ DUYÊN)
-Chinh Nguyên là một tác giả đa tài, ông viết văn, làm thơ và viết báo. Dù ở lãnh vực nào, tác giả Chinh Nguyên đều có năng lực thiên phú. Thơ Chinh Nguyên được các nhạc sĩ Luynh Phương, Hoàng Khiêm, Khôi Nguyên, Phan Ni Tấn phổ nhạc.
Nỗi niềm của tác giả Chinh Nguyên nơi xứ lạ vẫn dõi về quê nhà:
“Ba mấy năm trời nơi xứ lạ
Tóc mầu tuyết trắng điểm sương pha
Tơ lòng vẫn rối tình như bão
Nghiêng ngả đôi vai nợ nghiệp nhà.”
“Quê hương hỡi! Biển sâu ngăn cách trở
Sao lòng người sâu thẳm lắm nghiệt oan
Đẩy tôi đi mỗi ngày thêm xa mãi
Cho mẹ buồn đêm trắng tủi khóc than.”
(Niềm riêng- Chinh Nguyên)
RA MẮT SÁCH
Tác giả CHINH NGUYÊN
Thứ bảy, ngày 10 tháng 8/2024
Từ 1pm đến 4pm
Tại Thư Viện Việt Nam, 10872 Westminster Ave, Suites 214 & 215, Garden Grove, CA 92843
Tác giả Chinh Nguyên sẽ đặc biệt giới thiệu về 4 quyển sách song ngữ:
1/ Thorn In the Heart: Xuất bản 2019. Truyện dài 12 chương nói về cuộc sống không có ngày mai của thanh niên Việt Nam trong chiến tranh.
2/ Please Come In. “VÀO ĐI”: Truyện dài song ngữ- xuất bản 2023: Một sự thức tỉnh già trẻ từ nhà tù Cộng Sản
3/ ANTI-AUTHORITARIAN HANDBOOK (CẨM NANG CHỐNG ĐỘC TÀI): Truyện ngắn song ngữ- Xuất bản 2023 với 8 chủ đề dùng làm kim chỉ nam chống Cộng Sản
4/ My Life: Truyện dài 19 chương – Xuất bản năm 2024: Kể về cuộc đời thật của nhà thơ Đông Anh- Nguyễn Đình Tạo (1954- 2013).
Tất cả tiền bán sách và ủng hộ của quý đồng hương sẽ được chuyển về hỗ trợ thuốc men cho Linh Mục Nguyễn Văn Lý (linh mục xứ An Truyền, thành phố Huế). Linh mục Nguyễn Văn Lý đã trải qua 4 lần bị giam cầm trong lao tù Cộng Sản.
Linh mục Nguyễn Văn Lý được phóng thích từ nhà tù về Tòa Tổng Giám mục Huế ngày 20/5/2016. Ảnh: Website Tòa Tổng Giám Mục Huế.
Linh mục Nguyễn Văn Lý từng được đề cử nhận Giải Nobel Hòa Bình năm 2013 và Giải Nhân quyền Sakharov năm 2010 vì tinh thần bất khuất tranh đấu cho nhân quyền, bất chấp sự đàn áp thường xuyên từ nhà chức trách. Trong suốt gần 20 năm, linh mục Nguyễn Văn Lý bị cầm tù hoặc bị quản chế tại gia vì các hoạt động kiên định tranh đấu đòi tự do dân chủ cho người dân Việt Nam
Linh mục Lý được nhiều người biết đến qua các bài viết kêu gọi tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, đa đảng tại Việt Nam, qua các cuộc tuyệt thực trong trại giam, qua tinh thần tranh đấu kiên định, và đặc biệt là qua bức ảnh ông bị bịt miệng trước tòa hồi năm 2007.
Linh mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng trước tòa năm 2007
Vài hàng về tác giả CHINH NGUYÊN
Tên thật: Nguyễn Trung Chính
Bút danh: Chinh Nguyên, bút danh khác Hà Nguyên Trung (trước năm 1975)
Sinh ngày 13 tháng 10 năm 1943
Quê quán Thành Lập, Hà Đông Bắc Việt
– 1950-1954: Theo gia đình trốn Cộng Sản vào Hà Nội.
– 1954-1958: Di cư vào Nam sống tại Nha Trang và Ban Mê Thuột.
– 1958-1967: Học tại trung học Ban Mê Thuột, Dòng La San Nha Trang, đại học Văn Khoa Sài Gòn
– 1968-1975: Phục vụ trong quân chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Cộng tác nguyệt san Lý Tưởng Không Quân, Báo Đức Mẹ (Linh Mục Chân Tín)
– 1975: Tị nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ, nghề nghiệp kỹ sư kiểm tra kỹ thuật (F/A characterization test Engineering).
Về hưu sau hơn 28 năm làm cho IBM.
– Chủ tịch cơ sở Văn Thơ Lạc Việt, Chủ Nhiệm website văn thơ Lạc Việt.
– Cộng tác với Ý Dân Nam California và Denver Colorado, Tuyển tập văn học nghệ thuật, Văn Đàn Đồng Tâm, Điện báo Đất Quê, Thời Nay Online và diễn đàn Network.
Các tác phẩm của CHINH NGUYÊN: thơ LỜI TÌNH BUỒN, tuyển tập truyện ngắn MẸ TÔI, tuyển tập truyện ngắn NỢ EM MỘT ĐỜI, thơ ĐÔI MẮT BIỂN, DÒNG THƠ KỶ NIỆM, tuyển tập thơ BƠ VƠ, tuyển tập thơ KHẮC KHOẢI, thơ NỖI ĐAU DÀI, Thorn In The Heart, Cẩm Nang Đấu Tranh, Please Come In, My Life, v.v.
Mời quý đồng hương, bạn bè, thân hữu gần xa, đến tham dự buổi ra mắt sách của tác giả Chinh Nguyên, một đời tranh đấu vì lý tưởng chống Cộng Sản. Với mục đích thiện nguyện, giúp linh mục Nguyễn Văn Lý, mong quý độc giả yêu thơ, yêu văn của tác giả Chinh Nguyên chung tay, góp sức để tác giả thực hiện được ước nguyện của mình.
Chúc buổi ra mắt sách của tác giả Chinh Nguyên sẽ thành công tốt đẹp và được quý đồng hương tham dự đông đủ và đem về những quyển sách có giá trị và nhân văn.
Buổi ra mắt sách của tác giả CHINH NGUYÊN vào thứ bảy, ngày 10 tháng 8/2024, từ 1pm đến 4pm. Có phụ diễn văn nghệ đặc sắc và giải khát, thức ăn nhẹ, vào cửa tự do. Xin liên lạc ban tổ chức: Trần Mạnh Chi (310- 628- 7499) và Thụy Lan (626- 371- 6843).
-Tôi gia nhập làm hội viên của Văn Thơ Lạc Việt từ cuối năm 2016.
Được biết Văn Thơ Lạc Việt thành lập năm 1992 do các nhà văn, thi sĩ: Hoàng Anh Tuấn, Hà Thượng Nhân, Dương Huệ Anh, Thượng Quân và Chu Toàn Chung. Ban cố vấn gồm có: nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm, nhà văn Vũ Văn Lộc, Bình luận Gia Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, nhà thơ Ngô đình Chương và nữ sĩ Trùng Quang.
Có bốn thời gian thay đổi chức vụ chủ tịch, bao gồm:
•Nhà văn Dương Huệ Anh 1992_ 2000 (Tổng Thư Ký: Thi sĩ Song Linh).
•Nhà thơ Đông Anh 2001_ 2008 (Tổng thư ký: Chinh Nguyên)
•Nhà văn Chinh Nguyên 2009_ 2019 (Tổng thư ký: văn thi sĩ Thanh Xuân)
•Nhà báo Lê văn Hải 2020 (Tổng thư ký: VTS Thanh Xuân)
Khi tôi bắt đầu tham gia thì nhà thơ Chinh Nguyên là Chủ tịch của cơ sở Thơ Văn Lạc Việt. Thời điểm này có tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng (phó ban ngoại vụ), nhà báo Lê văn Hải (phó ban nội vụ), thầy Phạm Thái (lo kỹ thuật phụ trách mục in ấn sách), nhà thơ Lê Tuấn (trưởng ban Media) quay phim làm video, anh Đom Đóm phụ thêm phần chụp hình, nhà thơ Mạc Phương Đình hổ trợ gom hình, quay phim làm phóng sự, anh có trang nhà Mây Bốn Phương cũng như Suối Nguồn Tươi Trẻ giới thiệu thơ văn thêm rộng rãi. Cô Thanh Xuân (tổng thư ký) bàn góp ý tưởng rất hay nhằm tạo sự thân mật trong hội, tổ chức sinh nhật mỗi quý (3 tháng) cho hội viên. Chị Thuý Nga trưởng ban văn nghệ tìm kiếm ca sĩ địa phương giúp phần ca nhạc trong các buổi ra mắt sách hoặc các buổi họp mặt sinh nhật. Anh Hoàng Thưởng lo phần nghi lễ chào cờ Việt Mỹ và tưởng niệm, chưa kể đến cô Tina thường đi vận động tài chánh từ những mạnh thường quân có cơ sở thương mại.
Kể về anh Nguyễn Hồng Dũng là người tài giỏi, thường hướng dẫn chương trình với lối ăn nói khéo léo tài tình, anh ăn chay trường tâm Phật, ý Phật nên từng lời nói luôn hoà nhã, hiền hoà đầy thiền đạo, bên cạnh đó cô MC Hạnh Thảo tươi đẹp duyên dáng phụ phần giới thiệu.
Hội trưởng Chính Nguyên có nét mặt rất hiền hậu luôn sáng tạo những điều tốt đẹp cho hội viên, cũng như sốt sắng giới thiệu các tác phẩm của văn nhân thi hữu…Làm sao quên được những đêm mùa đông lạnh lẽo, anh Chinh Nguyên đã nhờ Thầy Thái mở lớp dạy Computer cho hội viên, lúc mượn địa điểm nơi này, khi mượn nơi khác. Trời giá lạnh bên ngoài, tuy thầy Thái đi dạy nhiều nơi mệt nhọc, đến giờ cơm tối cũng chưa về nhà, vẫn cố gắng đến chỉ vẽ hướng dẫn cách làm sách và in ấn. Anh Chinh Nguyên luôn có mặt kèm nụ cười thân thiện khuyến khích hội viên. Sau buổi học (9 giờ PM) anh CN mời thầy Thái đi dùng cơm tối vì lo lắng bao tử Thầy đang gào đói, thầy Thái xua tay và cả hai cùng cười trong niềm hân hoan ngầm rằng đã làm điều bổ ích cho đời. Thời gian sau anh Chinh Nguyên đích thân sang sửa lớp học tại nhà, kể thêm nhà thơ Lê Tuấn cũng đem tài năng làm video, quay phim của mình muốn truyền đạt cho hội viên kèm sau giờ học của thầy Thái.
Cựu Hội Trưởng Chinh Nguyên và phu nhân
Những buổi hội họp, anh Thái NC và chị Thanh (phu nhân hội trưởng Chinh Nguyên) nhận nhiệm vụ đi đưa đón các bậc tiền bối đến dự như bác Trường Giang, bác Dương Huệ Anh, bác Diệu Tần nay đã lớn tuổi. Đối với tôi đây là những người góp công với tấm lòng đầy nhân hậu đáng quý, và cảm kích hơn nữa là hội trưởng Chinh Nguyên luôn quý trọng “ôn cố tri tân” những bậc trưởng bối đi trước.
Tôi thầm phục thêm tài tổ chức của hội trưởng Chinh Nguyên, ngoài các ban còn có ban xã hội do chị Lê Diễm làm trưởng, rất tình nghĩa đẹp mắt khi thấy ban điều hành gởi vòng hoa cũng như thăm đám nhà Quàn, hay quà bánh trái cây thăm người bệnh lớn tuổi.
Chưa hết… anh Chinh Nguyên còn tìm kiếm xã giao với đài VNA (Vietnamese America Tivi) được đài cho free nửa tiếng vào thứ ba, thứ bảy lúc 9 giờ tối (channel Nam Cali 57.3, Las Vegas 26.9 và San Jose 16.10), mục đích đưa những hình ảnh sinh hoạt của Văn Thơ Lạc Việt, hoặc những buổi phỏng vấn tác giả & tác phẩm thơ văn đến quý độc giả, mọi điều thật may mắn và hữu ích đối với VTLV.
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dũng, Tân Hội Trưởng Lê Văn Hải, cựu Hội Trưởng Chinh Nguyên nhận bằng khen từ Dân Biểu Tiểu Bang David Cortese
Đầu năm 2021 nhà báo Lê văn Hải (phó ban nội vụ) theo sự bầu bán lên nhận trách nhiệm làm hội trưởng cơ sở Văn Thơ Lạc Việt, vì anh Chinh Nguyên trải qua cơn bệnh không thể điều hành tiếp, dù anh đã lái con thuyền gần 10 năm, nhưng không vì vậy anh lui vào bóng tối, mà anh còn cố vấn cũng như giúp đỡ nhiều mặt sau lưng hội trưởng mới.
Biết anh Hải từ lâu trong cộng đồng tỵ nạn tại miền thung lũng hoa vàng, qua những lần anh tổ chức ngày Thương Phế Binh và ngày Lễ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 6, cũng như tổ chức phát quà, phát thức ăn mỗi tuần hai lần cho homeless. Tâm anh rất rộng rãi và tình cảm đầy ắp, anh làm ra tiền nhưng muốn cả làng đều hưởng ké, nên mỗi quý sinh nhật (3 tháng) tổ chức cho hội viên, anh bao thầu đãi nhà hàng, cùng quà cáp tặng thành viên có ngày sinh nhật. Mùa Lễ Giáng Sinh anh làm ông già Noel đứng phát quà và chơi sổ xố. Lúc ra mắt sách anh vẫn muốn tiếp tục đãi nhà hàng nhưng các anh chị cản ngăn thì anh lại tổ chức tại quán cà phê Lover bao nước uống và bánh ngọt. Mùa hè vừa qua anh thấy nhớ hội viên vì Covid ngăn cản đã lâu gần một năm rưỡi, nên muốn họp mặt và đã đãi tiệc trịnh trọng như tiệc cưới tại nhà hàng Phú Lâm.
QUÂN TỬ
(Trân kính tặng vị Mạnh Thường Quân ẩn danh của Văn Thơ Lạc Việt)
Thung Lũng Hoa Vàng, chốn địa linh
Cali Miền Bắc, đất ân tình
VĂN THƠ hải ngoại phò thăng tiến
LẠC VIỆT nhà Nam giúp trưởng sinh
Quân tử hùng tâm bừng rỡ rỡ
Hiền tài tráng chí tỏa minh minh
Thi ân danh nặc, rời khen tụng
Làm nghĩa không tên, né hiển vinh
Phương Hoa
Họa
Văn Thơ Lạc Việt
Hoa vàng thung lũng đẹp huyền linh
Buổi tiệc trao nhau đậm nghĩa tình
Lạc Việt ra công gìn sống tốt
Thi đàn cố sức giữ tồn sinh
Văn chương khỏa bút tràn mây rực
Điệu phú đua ngòi ngập ánh minh
Hai chín năm tròn mùa kỷ niệm
Người hùng hổ trở chẳng cầu vinh
Minh Thuý Thành Nội
Nghĩ nghĩa cử hào phóng rộng rãi của anh Hải làm tôi nhớ thêm nhiều chuyện… Có đêm đi dự tiệc chay tại nhà hàng Phú Lâm do Chùa Thiên Trúc tổ chức gây quỹ, ngồi bàn trong tôi thấy anh đội chiếc mũ lụp xụp đứng nơi quầy, tưởng anh cũng dự tiệc chung, ai dè tôi phải về sớm nhà anh Chinh Nguyên dự họp thì thấy một giàn thức ăn bày trên bàn, mới hiểu anh lo dùm bao tử của hội viên. Chưa hết, một lần trong màn cuối buổi lễ QLVNCH lúc người tham dự còn ở lại đông, anh Hải nhảy lên his đài mời bà con đến phở Bằng dùng trưa free. Kể thêm chuyện Cộng Đồng…tuy anh Hải yêu cầu giấu tên, nhưng rồi ai ai cũng biết anh là “mạnh thường quân” luôn ủng hộ nhiều hội đoàn hay những nhóm hoạt động thiện nguyện hoặc việc ý nghĩa như thời gian vừa qua.
Tánh tình anh rất khiêm nhường và hoà nhã, đôi khi có tiếng chày tiếng bấc từ đâu đem đến nhưng anh luôn im lặng không muốn hơn thua ai, ngoại trừ nhắc đến Việt Cộng mới nghe anh phát âm hơi mạnh.
Thời gian anh Chinh Nguyên làm hội trưởng và anh Hải hội phó, cơ sở VTLV đã cho ra đời mỗi năm một tuyển tập thơ văn gồm:
•Tuyển Tập “Đoàn Kết Và Xây Dựng” (năm 2017)
•Tuyển Tập “Bảo Tồn Việt Tộc” (năm 2018)
•Tuyển Tập “Văn Thơ Lạc Việt” chủ đề “Áo Dài” (năm 2019)
•Tuyển Tập “Quê Hương Và Nỗi Nhớ” (năm 2020)
Gồm bài vở từ những nhà thơ nhà văn tiền bối nổi tiếng cũng như các thân hữu, hội viên của cơ sở Thi Đàn tham gia đóng góp thành tâm thành ý liên tục. Hơn nữa là công lao của ban điều hành tiếp tay góp ý và năng nổ hoạt động cũng như sự hy sinh công sức, hổ trợ về mặt tài chánh để đạt thành quả tốt đẹp.
Điều đặc biệt khi anh Hải lên làm hội trưởng thì cô Tracy Trần giữ chức vụ thủ quỹ, và được sự trợ duyên lớn là thầy Thái làm trưởng Ban Biên Tập cùng chị Phương Hoa làm Phó Ban Biên Tập. Thầy Thái hiền lành ít nói chỉ bày tỏ chân tình qua công việc. Chị Phương Hoa tài năng xuất chúng, thơ một kho và văn một núi, đã từng đoạt nhiều giải nhất từ Văn Thơ Lạc Việt và Việt Báo mục “Viết Về Nước Mỹ”. Đối với người càng già trí óc chất xám càng giảm, nhưng chị Phương Hoa càng lớn tuổi càng thông minh sáng láng, đó là phước báu trời cho dễ mấy ai có được. Thầy trò hợp lực nhanh chóng kêu gọi bạn bè hội viên đóng góp bài vở về chủ đề Xuân, cố công đêm ngày trong thời gian ngắn cho ra đời Đặc San Xuân Tân Sửu 2021 được in bìa và trình bày rất mỹ thuật cùng nội dung phong phú.
Thầy Phạm Thái và Văn Thi Sĩ Phương Hoa
Giữa năm theo gợi ý thầy Tuấn về đề tài Thiền, ban Biên Tập cũng như Ban Điều Hành và hội viên, nhất là hội trưởng Lê Văn Hải đã ủng hộ hết mình về tài chánh, cổ võ tinh thần mọi người đóng góp bài vở. Anh theo đạo Công Giáo nhưng rất tôn kính về đề tài này …Khi cuộc sống đang gặp nạn Covid hoành hành khắp thế gian, bao nhiêu tai họa đổ ập xuống loài người, mọi sinh hoạt gần như ngưng hoạt động, tâm tư con người đầy lo âu rối loạn, thì đề tài về “Thiền” như dòng suối mát cho ta được ngâm mình dịu vợi theo những áng thơ, những câu văn xoa dịu tinh thần biết bao nhiêu, há chẳng phải là điều lợi lạc hay sao?!!!
Cho nên tuyển tập “Sống Với Tâm Nhàn” được thành hình ra mắt chiều Chủ Nhật ngày 26 tháng 9 năm 2021 tại quán Cà phê Lovers nằm trên đường Aborn thuộc thành phố San Jose, được nhiều văn nhân thi sĩ đóng góp bài vở. Điều biết ơn sâu sắc là nhờ thầy Thái, thầy Tuấn, chị Phương Hoa đã ngày đêm gom bài vở từ mọi nơi, edit và trang trí hình ảnh trang nhã trông thật mát mắt và phẩm lượng đầy giá trị.
Tại đây tôi tìm được thật nhiều niềm vui, được trao đổi thơ văn, được đọc những bài giá trị mở mang kiến thức và học hỏi thêm về thi phú từ các tiền bối. Cuộc sống nơi xứ người trong những ngày tháng lo toan cơm áo gạo tiền, giờ tìm được ngôi nhà đầy ánh nắng ấm áp che chở, những tâm hồn đồng điệu về thi phú cũng như chung chí hướng chống Cộng và giữ gìn nâng niu chữ quốc ngữ thân yêu. Một cơ sở văn học bảo tồn tiếng Việt trên xứ người nhưng đồng thời cũng là một mái ấm tình thương mà các hội viên được đối xử thân tình như trong gia đình.
Có Những Niềm Vui
Có những niềm vui mát mộng đời
Lan vào tim mạch khó nhoà vơi
Ân tình một sớm tràn chim hót
Vạt nắng thu phai đẹp cuối trời
*
Có những niềm vui dệt nụ hồng
Hương lùa gió quyện thả mênh mông
Hạt nhân hạnh phúc đường hoa nở
Kết nối yêu thương nghĩa phủ lồng
*
Có những niềm vui thật nhẹ nhàng
Như cung nhạc trỗi dậy đàn vang
Chung lòng gắn bó câu đoàn kết
Hợp sức tài văn bút phú tràn
*
Có những niềm vui chứa ảnh hình
Sách, quà sổ số thật xinh xinh
Màu Lan sắc thắm nồng chan chứa
Hội ngộ tương giao quý mến tình
*
Có những niềm vui trọn vẹn đầy
Văn Thơ Lạc Việt lắm trò, Thầy
Cùng nhau sát cánh gìn ngôn ngữ
Tiếng mẹ quê mình quyết bảo xây
Minh Thuý Thành Nội
***
LẠC VIỆT VĂN THƠ
(Góp vui cùng MT)
LẠC VIỆT VĂN THƠ giúp đẹp đời
Cho dù năm tháng thể nào vơi
Trời thu man mác tình ngan ngát
Họp mặt niềm vui rực đất trời
*
LẠC VIỆT VĂN THƠ đẹp sắc hồng
Ảnh hình ghi nắng trải mông mông
Nâng ly ta chúc lời thân ái
Chào đón PHAN LANG gió quyện lồng
*
LẠC VIỆT VĂN THƠ bước nhịp nhàng
Thi văn nhạc họa tiếng lành vang
Bốn mùa muôn sắc hoa đua nở
Năm tháng niềm vui tỏa ngập tràn
*
LẠC VIỆT VĂN THƠ chốn điển hình
Kỳ hoa dị thảo ngập vườn xinh
Cùng nhau vun bón luôn tươi thắm
Huynh đệ đối nhau rất trọn tình
*
LẠC VIỆT VĂN THƠ hợp đủ đầy
Thi nhân, văn sĩ, đến cô, thầy
Bảo tồn Quốc Ngữ dân Hồng Lạc
Hải ngoại tình người kết nối xây.
Phương Hoa
Từ trái: Anh Chinh Nguyên, chị Thuý Nga (trưởng Ban văn nghệ), nhà thơ Mạc Phương Đình, cô Tina (Vận động Tài Chánh), anh Hồng Dũng và anh Hải.
Từ trái Cựu Chủ Tịch Chinh Nguyên và Phu Nhân, Cô Tổng Thư Ký Thành Xuân và Phu Quân, cô MC Hạnh Thảo và Cô Tuyết Nhung (nhiếp ảnh gia)
Xuân Hạ Thu Đông lần lượt đi qua theo bước thời gian, phút rộn ràng buổi ra mắt sách, phút hân hoan lãnh quà sinh nhật, những buổi chung hưởng niềm vui dự lễ kỷ niệm 28 năm thành lập Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt, những năm dự buổi phát giải thưởng sáng tác thi văn tràn hãnh diện, cảm giác luôn đọng mãi, lâng lâng niềm an ủi của đứa con xa quê hương, mồ côi cha mẹ, nhưng tìm được bóng mát nương tựa đầy ấm áp nơi tha phương, tôi chỉ biết nói lời chân thành
Cám ơn Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt
Hội Viên
Minh Thuý Thành Nội
THIÊN KÝ SỰ HÀNH TRÌNH TỊ NẠN CON ĐƯỜNG SINH TỬ TẬP 12 – Sa Chi Lệ.
CHUYẾN VƯỢT BIỂN KINH HOÀNG SỐNG SÓT NHỜ PHÉP LẠ- CON ĐƯỜNG SINH TỬ TẬP 12-HÀ NGỌC
KIỀU MỸ DUYÊN: ĐẠI NHẠC HỘI VINH DANH QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ TÔN VINH CHỮ QUỐC NGỮ
Như Ninh NGUYỄN HỒNG DŨNG: Thăng Hoa Cuộc Đời Kỳ 62, 63, 64, 65.
Thăng Hoa Cuộc Đời
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 62 Nguyễn Huệ Lên Ngôi Hoàng Đế
Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ khởi binh từ Quy Nhơn ra Thăng Long tiêu trừ chúa Trịnh ngang qua vùng núi Nghệ an, Hà tĩnh nghe đại danh của một nhân vật đặc biệt đang ẩn cư trên núi Thiên nhẫn sau khi từ quan, người đó lại là một trung thần đầy đức độ từng can gián chúa Trịnh không được tiếm ngôi vua Lê, một nhân vật thuộc dòng dõi vọng tộc, con cháu Lưu Quận Công nhưng sớm liễu đạo muốn xa lánh mùi trần tục lụy. Người đó chính là La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp; vì thế mà Nguyễn Huệ rất cảm kích muốn thân hành tới nơi am thất để cầu hiền, thỉnh ý bậc thức giả đem tài trí hộ quốc an dân.
Lần thứ nhất khi đoàn binh đi vòng qua chân núi Thiên Nhẫn, Nguyễn Huệ cho dừng quân và thân hành theo mép rừng tiến về thiền thất nơi có những hàng liễu quanh năm rũ lá chơ vơ. Sau khi diện kiến và tâm sự những trăn trở của nước non, Nguyễn Huệ tha thiết mời tiên sinh hợp tác. Dù quý trọng sự nghiệp hưng binh của Bắc Bình Vương nhưng La Sơn nhất định từ chối vì tự cho là mình chính là thần tử của nhà Lê. Dù vậy khi nhìn tướng pháp của Nguyễn Huệ, trong lòng La Sơn phu tử đã thấy khác lạ của một bậc xuất chúng, vớiđặc điểm nổi trội nhất là tóc quăn, tiếng nói sang sảng như chuông ngân, cặp mắt sáng như chớp, có thể nhìn rõ mọi vật trong đêm tối là những thân tướng hiếm hoi của bậc phi phàm.
Lần thứ nhì khi rút quân về lại Phú Xuân thì Nguyễn Huệ cũng thân hành lên vấn an tiên sinh tại thảo lư vào buổi xế chiều. Đôi bên tương đắc kể cho nhau nghe những ưu tư về tiền đồ dân tộc, và rồi Nguyễn Huệ cũng mong được La Sơn phu tử hợp tác cho viên ngọc minh châu được dịp bừng sáng nhưng cũng bị sự khước từ.
-Đã hai lần diện kiến đối ẩm mà tiên sinh nhất mực chối từ việc khẩn khoản này, phải chăng ngài cho chúng tôi bình dân không đủ khả năng mưu đồ quốc gia đại nghiệp, dẹp loạn yên dân? Nguyễn Huệ khiêm cung hỏi.
La Sơn phu tử chậm chạp đáp:
-Bỉ nhân đâu lẽ nhận thức sai lầm đến thế. Xưa kia Lưu Bang Hán Cao tổ là người bình dân, Lưu Huyền Đức là người thợ giày, Bình Định vương Lê Lợi là nông dân áo vải đất Lam sơn mà đem lại thái bình cho trăm họ thì ngày nay tài đức và độ lượng của đại vương cũng sáng chói một phương. Ngặt nổi hiện thời bỉ nhân vốn thờ vua Lê nên đạo làm người khiến không đi hai hàng một lượt.
Ngậm ngùi chia tay vì không vời được Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân giúp nuớc, Nguyễn Huệ cầm tay La Sơn phu tử ân cần chúc phúc, uớc mong có duyên tao ngộ để cùng nhau đem tài trí hưng bang tế thế, giải cứu sơn hà. Nắng chiều vàng nhạt xuyên qua tàng lá đưa từng sợi tà dương in thành mảng cô liêu trên suốt dặm đường. Tiên sinh cũng cảm nhận được cái chí khai thiên phá thạch của con người nông dân áo vải này, nhưng cung cách nhà Nho vốn tôi trung chẳng thờ hai chúa, vì vậy mà dù tâm phục tới đâu cũng khó cho La Sơn phu tử, con nguời của cửa Khổng sân Trình dễ gì lay động được tâm can một khi người đã quyết.
*
Đại quân Tây Sơn đầy khí thế với một lòng quyết bảo vệ non sông, nhân dân nghe tin đoàn hùng binh tiến ra Bắc tiêu diệt bè lũ xâm lăng, bán nước nên ai nấy đều tự nguyện đóng góp lương thực, thuốc men và khuyến khích trai làng tòng quân giết giặc.
Tờ mờ sáng đầu tháng chạp năm Mậu Thân, đại binh đóng quân ở núi Bàn Sơn để lập kế hoạch hành quân thì bỗng nhiên có một lão ông trông hình thái tiên phong đạo cốt chống gậy đòi gặp cho được Bắc Bình Vương.
Nghe quân báo, Nguyễn Huệ biết có hiền tài giúp sức nên vội vã y áo chỉnh tề bước ra nghênh tiếp. Ai ngờ, vừa thoáng thấy tiên sinh, vương vui mừng quên cả giữ lễ nên tiến gần cầm tay lão trượng, hoan hỷ cất lời chào mừng:
-Ối chà, thế nào ta cũng ghé thăm tiên sinh khi ngang qua Nghệ Tĩnh, ai ngờ chưa đến Thiên Nhẫn mà người tri kỷ đã chống gậy đến đây, hay quá! hay quá!
Nét mặt còn dính bụi đường, La Sơn phu tử đáp lễ bằng sự nghiêm trang, chậm rãi:
-Hai lần trước, sở dĩ tôi từ khước lời Ngài vì vua Lê còn đó. Nay Lê Chiêu Thống rước voi về giày mả tổ là hành động của tên phản quốc thì bỉ nhân nhất định theo ngài để hưng quốc an dân, giúp ngài tiêu trừ giặc Mãn Thanh, đem an lạc cho cơ đồ dân Việt.
Nguyễn Huệ quá đỗi vui mừng liền mời tiên sinh ngồi vào ghế quân sư chẳng khác nào Lưu Bị đời hậu Hán mời được Khổng Minh Gia Cát Lượng (Gia Cát Lượng (181–234) là quân sư, đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả. Ong đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ, Liên nỏ, Mộc ngưu lưu mã, chế ra đèn trời [Khổng Minh đăng] và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa). Tiếp đó, La Sơn phu tử bày mưu:
-Cổ nhân có nói: “sư xuất vô danh, sự cố bất thành” nghĩa là xuất quân không có chính danh nên đại sự không thành; nay đại vương thân hành ra đất Bắc để đánh giặc Mãn Thanh cứu nước, vì thế để muôn dân quy về một mối thì đại vương phải hành động như một Hoàng đế danh chánh ngôn thuận, nhất hô bá ứng thì trăm họ mới hết lòng phò tá mà cùng nhau đuổi giặc, trừ nguy.
Mùa đông, sáng sớm và ban đêm đều có sương mù mờ mịt, mưa nhè nhẹ nhưng dai dẳng suốt ngày, cái lạnh pha chút ẩm thấp làm cho người ta thích tìm sự bình an, ấm áp nghỉ ngơi; nhưng ngày Mười hai Tháng Chạp năm Mậu Thân thì khác hẳn, vì đại sự cứu nguy dân tộc khỏi nạn xâm lăng, Nguyễn Huệ cho lập đàn ở núi Bàn Sơn tế cáo trời đất lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung thống lĩnh tất cả thủy bộ đại binh tiến nhanh ra Bắc.
Kế hoạch của quân sư đưa ra là đại binh phải “hành quân thần tốc” để kịp thời gian không cho địch trở tay. La Phu tử nghe báo cáo quân địch lên đến hai mươi vạn hùng hậu thì liền tâu với vua rằng: -Đại quân của Hoàng đế kéo từ Phú Xuân ra đây chưa đủ túc số để chống lại Mãn Thanh, giờ này về lại đàng trong chiêu binh thì mất đi thời gian tính, vậy ngay tức khắc xin Hoàng đế tuyển mộ trai tráng ở đất Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh vì nơi đây anh hùng hảo hớn cũng nhiều mà đất thượng võ xưa nay từng nổi tiếng. Thuở vua Trần đánh quân Nguyên Mông đã mộ binh chốn này nên có câu “hoan diễn do tồn thập vạn binh” (Năm 1285 Hưng Đạo Vương vâng mệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà để đánh quân Nguyên. Người theo rất đông. Vua khen qua câu thơ: Cối kê cựu sự quân tu ký, Hoan Diễn do tồn thập vạn binh là Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ, Hoan Diễn còn kia chục vạn quân) là vậy.
Nghe vậy, vua Quang Trung truyền ba quân nghỉ ngơi nửa tháng tại Nghệ An để tuyển mộ thêm binh sĩ và đúc bánh đa làm lương khô chuẩn bị chuyển quân. Khi trai tráng trong các xứ tuyển mộ khá dồi dào, La Sơn phu tử trình bày thêm chiến lược và chiến thuật hành quân như sau:
-Hai mươi vạn quân Thanh kéo sang nước ta quá dễ dàng, chúng đang kiêu căng, khinh địch và ngạo mạng, doanh trại chưa thiết lập xong, phong thủy đông giá trở trời cũng tác động đến cơ thể từng tên giặc. Vậy chiến lược và chiến thuật của ta là tốc chiến quyết tốc thắng.
Binh thư đã dạy: “Dĩ dật đãi lao giả thắng” ( Lấy khỏe để thắng mệt), do thế mà ta phải “công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý giả tất thắng” (Tấn công kẻ thù lúc chúng không phòng bị, hành động khi chúng không ngờ tới). Xưa nay chiến lược đánh phủ đầu cần phải “tiên phát giả chế nhân, hậu phát giả chế ư nhân” (Trước ra tay đánh gục kẻ thù. Sau đột nhập được vào trong thì có thể kiến cơ hành sự tiến hành đại kế).
Vua Quang Trung gật đầu cho là chí lý, bèn hỏi tiên sinh cách nào nhanh nhất để tiến quân ra Thăng Long thành.
-Tâu hoàng đế, theo dự liệu của giặc Mãn Thanh và bọn bán nước cầu vinh thì ít nhất đầu tháng Hai quân ta mới đến đất Bắc, hãy tạo bất ngờ cho chúng chẳng kịp trở tay, chỉ có chạy thật mau không ngừng nghỉ, hai người khiêng một thay đổi hàng giờ mà bảo đảm tốc độ liên hoàn không dừng lại.
Tuyệt vời! vua Quang Trung lần nữa gật đầu tán thưởng, liền đó Ngài cho binh lính chia mỗi tổ thành ba người, lấy tre bện thành những chiếc võng để hai người khiêng một đặng giảm đi sự mệt nhọc mà liên tục tiến quân ra Thăng Long.
Riêng tượng binh và kỵ binh thì vua Quang Trung phái nữ tướng Bùi Thị Xuân điều động một trăm thớt voi, hai trăm con chiến mã theo đường núi tiến ra Bắc suốt ngày đêm không nghỉ, bảo đảm rằng nữ tướng Bùi Thị Xuân cùng tượng binh đến được phía nam thành Thăng Long trước vài ngày đón chờ bộ binh đặng hợp lực cùng nhau phá thành.
Khí thế toàn dân đang chờ đợi một minh quân lãnh đạo non sông, vua Quang Trung bèn ban huấn dụ cho bá gia bá tánh cùng hưởng ứng chống ngoại xâm, đồng thời nhờ thế mà mộ được hơn mười vạn trai tráng tòng quân; cờ Tây Sơn phất phới hiên ngang theo đại lộ đến đèo Ba Dọi núi Tam Điệp là địa điểm giữa tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình thì gặp Đại tư đồ Ngô Văn Sở và Vũ Văn Nhậm cung đón.
Nh́n thấy nét lo âu trên khuôn mặt của các vị đại thần, vua Quang Trung bước tới khen Vũ Văn Nhậm là người đầy mưu trí, bảo tồn được tính mạng của binh sĩ, phải nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của chúng, chỉnh đốn hàng ngũ rút về nơi hiểm yếu, trong thì nâng lòng quân kích thích, ngoài thì khiến lũ giặc kiêu căng. Nhân gần đến ngày nguyên đán năm Kỷ Dậu, hoàng đế cho quân binh ăn tết trước, căn dặn binh sĩ cùng bá quan rằng:
-“Chúng nó sang phen nầy là mua lấy cái chết đấy thôi, ta ra đi chuyến nầy, thân coi việc quân, đánh giữ đã có định mẹo rồi, đuổi quân giặc về Tàu chẳng qua mười ngày là xong việc”.
Đoạn, ngài xoay qua phía Vũ Văn Nhậm và các quan văn, tướng võ vua nói tiếp.
-Chúng là nước lớn gấp mười lần nước ta, sau khi thua, thế nào cũng xấu hổ mà tìm cách báo thù, như thế thì đánh nhau mãi mãi không thôi, dân chúng lầm than ta đâu nỡ thế. Vậy đánh xong trận nầy ta phải cậy tài của tiên sinh Ngô Thời Nhậm dùng ngòi bút để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mười năm nữa nước Việt trở nên phú cường rồi, thì ta không cần phải kiêng dè chúng nó nữa!”
Nói xong, vua Quang Trung bố trí chiến thuật, chia quân ra làm năm đạo như sau:
– Đạo quân thứ nhất do đô đốc Nguyễn Văn Tuyết thống lĩnh thủy quân với ba trăm chiến thuyền đi cánh hữu tiến vào sông Lục đầu đánh tan quân Lê Chiêu Thống đóng tại Hải Dương và hỗ trợ cho bộ binh đánh thẳng vào phía đông thành Thăng Long.
– Đạo quân thứ hai do đô đốc Nguyễn Văn Lộc dẫn bộ binh phía hữu tiếp ứng đội quân thứ nhất kiêm thống lĩnh hai trăm chiến thuyền vào sông Lục Nam rẽ ngược lên Phượng nhãn, Long giang qua Yên thế chận đường rút lui của giặc để thu khí giới, quân lương và giữ hướng bắc không cho địch tiếp tế.
-Đạo quân thứ ba do Đô đốc Nguyễn Văn Bảo chỉ huy đội tượng binh và kỵ binh hỗ trợ cho đạo quân chủ lực đánh thốc vào hướng tây nam đồn Ngọc Hồi, kế đó tiến binh theo đường Sơn Minh đánh bọc hậu dứt điểm đồn Ngọc Hồi tại làng Đại Áng , huyện Thanh Trì.
-Đạo quân thứ tư do Đô Đốc Nguyễn Khắc Long chỉ đạo theo cánh tả trực chỉ hướng tây bắc qua Chương Đắc đánh thẳng vào quân Điền Châu của Sầm Nghi Đống đang đóng tại gò Đống Đa mở đường tấn công Thăng Long thành.
– Đạo quân thứ năm là chủ lực quân do chính vua Quang Trung điều khiển có Đại tư mã Ngô Văn Sở và Nội hầu Phan Văn Lân làm tiên phong đánh hướng nam thành Thăng Long là mặt phòng thủ chính yếu của quân Mãn Thanh.
Sau khi phân bố các đạo quân xong, vua Quang Trung truyền hịch xuất binh:
“Quân Thanh kéo sang xâm lấn, các ngươi đã nghe tin ấy chăng? Trong vòng trời đất chia theo phận sao Dực, Chẩn; nam bắc vẫn riêng một non sông. Người nước Bắc không phải nòi giống ta thì tất phải khác dạ. Từ đời Hán về sau họ cướp đất đai ta, tịch thu cá thịt, vơ vét của cải, nông nổi ấy không sao chịu được; người nước Nam quyết nghĩ cách đánh đuổi chúng đi.
Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ vì không chịu bó tay ngồi nhìn quân xâm lăng tàn bạo nên phải thuận lòng người, dấy nghĩa quân đánh thắng rồi đuổi chúng về. Sau khi đó thì nam, bắc rõ lại phân ranh, bờ cõi yên ổn, vận nước lâu dài, nên từ nhà Đinh tới nay chúng ta không phải chịu cái khổ Bắc thuộc; việc chung muôn dân có lợi lộc, được thua chuyện cũ rành rành ra đó.
Nay nhà Thanh không coi gương Tống, Nguyên, Minh lại âm mưu chiếm nước Nam ta đặt làm quận huyện, vậy ta phải vùng lên mà khử trừ đi!”
Ba quân tuớng sĩ đồng thanh hô vang lừng:
-Quyết chiến! Quyết chiến.
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
========
Thăng Hoa Cuộc Đời
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 63 Chiến Thắng Đống Đa
Vua Quang Trung hạ lịnh xuất binh vào đêm trừ tịch, nổi trống, đốt lửa khí thế hào hùng, tiến binh ào ạt. Lợi thế của tổ ba người thì kẻ nằm trên võng đọc to khẩu quyết võ công cho hai anh khiêng học theo khỏi mệt, nhờ thế mà chặng đường hành quân, các tân binh hiểu được các thế võ công cần thiết vừa thủ cho mình mà cũng có công năng diệt được quân Thanh mau chóng. Thấy khí thế hừng hừng rực cháy, vua Quang Trung phủ dụ quân sĩ rằng: “ngày mùng Bảy tết Kỷ Dậu chúng ta sẽ vào thành Thăng Long ăn tết.”
Sau ba ngày đêm theo đường bộ đến Giản thủy, quân Tây Sơn gặp quân lính của Lê Chiêu Thống và tiền binh Mãn Thanh đóng tại đồn Gián Khẩu cản trở, quân Tây Sơn thần tốc, táo bạo đánh một trận tan vỡ và đích thân vua Quang Trung gióng trống cho ba quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên thì bắt sống hết thảy chẳng sót một tên. Do đó, không có quân địch nào khả thể chạy về báo cho Mãn Thanh đang đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi biết được.
Nửa đêm ngày mùng Ba tết năm Kỷ Dậu, quân Tây Sơn vây kín đồn Hà Hồi rồi dùng chiến thuật phủ dụ, dùng loa kêu gọi giặc Thanh đầu hàng. Vì tiếng hò la pha lẫn tiếng trống trận, phèn la làm cho địch quân khiếp đảm phải mở cửa thành xin hàng, giao tất cả quân lương, vũ khí khiến ngày xuân nở hoa tại Hà Hồi không rơi một giọt máu.
Giờ Dần ngày mùng Năm, quân Tây Sơn đã tiến đến Ngọc Hồi thì bị quân Thanh bắn súng đại bát như mưa. Sau khi bao vây bốn hướng, vua Quang Trung duyệt xét tình hình chiến sự bèn sai ba người lính làm một tấm ván có bện thêm rơm rạ và nước tránh lửa rồi xung phong tiến vào theo sau là hai chục người cầm binh khí, giắt dao nhọn tiến theo. Thân hành vua Quang Trung lên bành voi, cho đánh trống thúc chiến liên hồi khiến ba quân hăng máu ào ạt như thát lũ tiến đến cửa đồn rồi ngả ván tràn vào xáp chiến. Quân Mãn Thanh tan vỡ, đạp lên nhau chạy trốn, xác nằm ngổn ngang, máu chảy lênh láng; đến giờ ngọ thì quân Tây Sơn chiếm được Ngọc Hồi.
Theo kế hoạch đã định, đô đốc Nguyễn Khắc Long đánh úp vào Khương Thượng ở đồn Đống Đa tiêu diệt đội quân của tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống khiến viên tri phủ nầy không biết làm sao hơn là phải treo cổ tự tử.
Đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thường Duy Thăng và một số tướng Mãn Thanh bị chém chết ngay tại doanh trại hoặc tự sát tại các đồn khi quân Tây Sơn bao bọc tứ phương.
Điều trớ trêu vô cùng tủi nhục là khi hay tin Tôn Sĩ Nghị đem binh vào Thăng Long, thì ở Nam hà Nguyễn Phúc Ánh mừng rỡ vô cùng liền cho tướng Phạm Văn Trọng và Lâm Đề mang thư sang triều đình Mãn Thanh tỏ lòng hoan nghênh thần phục, lại đem năm mươi vạn cân gạo giúp quân Thanh lưu trú Bắc hà, nhưng hởi ôi! thuyền ra đến cửa biển thì bị bão tố hoành hành làm đắm toàn bộ giấc mộng nô lệ của Nguyễn Phúc Ánh.
Trong khi đó, cung thành Thăng Long đèn hoa rực rỡ, Tôn Sĩ Nghị đang uống rượu thưởng xuân với đào non gái đẹp, ngày đêm bắt kỹ nữ múa hát âm vang, rượu bồ đào mỹ tửu hâm nóng hết bầu nọ, hủ kia và trâu bò cứ xẻ thịt nướng lên làm đại yến; Lê Chiêu Thống thì ra sức trả thù như trường hợp của Hoàng đệ Lê Duy Lưu và phò mã Dương Hành bị chặt chân quăng giữa chợ vì có liên hệ đến Tây Sơn. Từ các đời tiên đế chưa có một mùa xuân nào ô nhục, điêu tàn mà hương khói các đền đài cũng âm u lạnh lẽo.
Đêm mùng Năm tết Kỷ Dậu, ánh trăng lưỡi liềm nhỏ xíu không đủ tỏa ánh sáng huyền hoặc xuống nhân gian, nhưng chị Hằng vẫn lờ mờ chiếu rọi đủ đưa bước chân đoàn nghĩa quân Tây Sơn tiến đúng lộ trình để vây hãm kinh thành.
Nửa đêm hôm đó Tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị vẫn còn ngà ngà say, vị nồng của rượu, vị mặn của thực phẩm cùng với men tình choáng váng đã khiến cho thần trí của bổn quan xâm lược quay cuồng; hung tin báo về đồn Hà Hồi thất thủ, đồn Ngọc Hồi bị đại quân Tây Sơn tàn sát, Sầm Nghi Đống treo cổ tự tử, Hứa Thế Hanh và các tùy tướng bị giết không còn manh giáp khiến Tôn Sĩ Nghị khiếp đảm tinh thần, tay chân run rẩy, đại tiểu tiện bầy nhầy, không kịp thắng yên cương, chẳng còn giờ mặc giáp bào, bỏ quên cả ấn tín và mật chỉ của vua Càn Long, ôm lưng ngựa cùng vài tên kỵ sĩ chạy thoát thân qua sông Hồng Hà.
Quân Mãn Thanh nghe tin chủ soái bỏ trốn bèn vội vã tranh nhau vượt cầu phao bắc ngang hai bên bờ sông Hồng, quá tải nên cầu bị sập đổ, khiến hàng ngàn quân Thanh sụp xuống dòng nước đang cuồn cuộn trôi, số bị chết đuối, số còn lại bị bắt tính không kể xiết.
Hai đạo quân Vân Nam, Quí Châu của Mãn Thanh đóng tại Sơn Tây nghe hung tin về chủ soái Tôn Sĩ Nghị tháo chạy, các đại tướng đều tử trận nên vội vàng rút quân tháo lui. Không dễ dàng như vậy, Vua Quang Trung đã cho Đô đốc Nguyễn Văn Lộc phục kích hai bên đường rút binh, khi hai đạo quân xâm luợc hớt hãi tháo lui thì bị Tây Sơn đón đánh một trận tơi bời hoa lá làm cho hàng chục ngàn tên xâm lược đưa tay đầu thú, số còn lại lén núp trên rừng rồi mò về biên giới mà vẫn chưa hết sợ. Riêng Tôn Sĩ Nghị trốn chạy tới Quảng Tây mà vẫn còn hồn phi phách tán, chưa biết quân Tây Sơn tài tình ra sao và dùng lối thần tốc thế nào đánh một trận kinh thiên động địa như vậy?
Lê Chiêu Thống cũng bám sát Tôn Sĩ Nghị chạy theo về Tàu rồi phải sống cuộc đời ô nhục vì triều đình Mãn Thanh buộc phải ăn mặc theo phong tục Bắc phương, bị khinh rẻ vì nhu nhược và ngu muội nên ôm nỗi thống khổ nhục nhã mà băng hà ở Quế Lâm vào trung tuần tháng Mười năm Quí Sửu (1793) hưởng dương 28 tuổi.
Áo bào của vua Quang Trung đen cháy vì thuốc đạn, giày vớ đều bị rách tươm và cổ họng đắng chát bởi gào thét thúc ba quân hăng say tiến chiếm mục tiêu; các đại tướng Tây Sơn đang kiểm xem binh sĩ, băng bó nghĩa quân, thu hoạch chiến công chuẩn bị tập hợp toàn quân tiến vào nội thành Thăng Long kịp chính Ngọ ngày mùng Năm tết Kỷ Dậu đặng mở tiệc khao quân, ca khúc khải hoàn, phủ dụ toàn quân ăn mừng tết chiến thắng.
Dân chúng Hà thành vui mừng không kể xiết, đặt bàn hương án cung kính đón chào; từ ngày Lê Chiêu Thống rước giặc vào nhà thì dân lành đau nhói, cầu trời khẩn Phật ngày đêm cho có một Phù Đổng Thiên Vương xuất hiện. Giấc mơ đó đã thành hiện thực đang xảy ra với bao niềm hân hoan, ái mộ.
Đoàn quân vừa ngang qua cung điện Kính Thiên, những cành đào đỏ chói vẫn vô tình hé nhụy như chứng kiến cuộc rút chạy nhục nhã của vua Lê cùng bọn tùy tùng đuổi theo vó ngựa của kẻ xâm lăng, vua Quang Trung rút gươm chặt đứt một nhánh đào ươm nụ thật đẹp giao cho đô đốc Nguyễn Văn Tuyết cấp tốc mang về thành Phú Xuân trao tận tay Ngọc Hân công chúa để báo tin thắng trận huy hoàng.
Ngọc Hân công chúa nhận được cành đào còn chưa nở lộc đươm xuân liền reo mừng báo tin cùng bá quan trong thành niềm tự hào cảm động vô biên. Tin chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa loan truyền mau lẹ làm cho bá tánh Đại Việt cảm kích và hoan hỷ như chưa từng có niềm vui nào sánh bằng.
Dân chúng đất Thăng Long trở lại cảnh thanh bình, không còn một tên xâm lược cũng như bè lũ bán nước của Lê Chiêu Thống lẩn quẩn đâu đây. Trời đang độ ngày xuân nhưng tiết lạnh vẫn còn nhức nhối, binh sĩ hai bên thương tật khá nhiều mà gò Đống đa thì xương quân lính Mãn Thanh chất cao như núi, vua Quang Trung nghẹn ngào cho cuộc chiến xâm lăng bèn truyền lịnh sai quan Thị Lễ lo tổ chức đàn tràng kỳ siêu bạt độ các vong linh chết trận vừa rồi. Tiếng trống trầm hùng cùng hồi chuông gọi hồn dân tộc vang vọng cả bầu trời mới vừa giải phóng, nghi thức tế cáo chiêu hồn được tổ chức hết sức trang nghiêm dưới trướng điện Kính Thiên vào giờ Ngọ ngày mùng Năm, đích thân vua Quang Trung đọc bài văn tế để an ủi linh hồn của bao chiến sĩ vì chủ soái của mình mà hy sinh trận mạc, lời văn đầy cảm khái, ý đạo tràn nghĩa tình khiến lòng thành của bao quan quân sĩ tứ ngập niềm cảm xúc, bi ai.
Hoàng đế Quang Trung rảo bước trên những con đường đất đỏ Thăng Long không còn thâm u trầm mặc như xưa, nhà vua cảm nhận được sinh khí nhộn nhịp ngựa xe, chân người, và cây cối hữu tình dù bây giờ chỉ là khoảnh khắc lặng thinh. Không gian bao la và cao rộng mà tổ tiên Đại Việt đã đổ biết bao máu xương gầy dựng cơ nghiệp này. Niềm biết ơn dâng lên ngùn ngụt vì trong từng ngọn cỏ, cành cây, giọt nước sương mai hay âm ba vang động đều mang dáng dấp của bao triều đại đi qua mà sự lao tâm khổ nhọc của tiền nhân để phấn đấu từng phút giây gìn giữ quê hương là một chiến tích hào hùng in đậm nét trong mỗi hạt bụi, cành hoa. Vua Quang Trung đang nghĩ đến Lê triều đôi ba trăm năm rồi thương cho thân phận một vị vua chỉ vì quyền lợi cá nhân hay gia đình nhỏ nhặt mà quên đi cái di hại ngàn đời của dân tộc lớn lao.
Hoàng đế không ung dung bước vào Thăng Long như Lê Chiêu Thống mà phải hy sinh hàng vạn binh hùng tướng mạnh mới tự tại rảo bước chung quanh, quả thật một chiến công nào cũng xây trên xương máu hàng vạn lương dân, hành xử không khéo là mối nguy cho sơn hà xã tắc.
Hoàng đế còn đang thả hồn về nguồn cội các vua Hùng mở nước thì phía sau nghe tiếng hò hét của quân binh đang tuốt kiếm dẫn đoàn tù binh Mãn Thanh về nơi tập kết; nhìn vào đôi mắt thâm quầng và gương mặt lấm lét, khiếp sợ của đám quân xâm lăng trong những bộ áo quần lem luốt, vua Quang Trung chỉ thị cho đội cận vệ phải đối xử tử tế, xuất kho lấy áo quần tươm tất cho mặc, nhà bếp nấu cơm cho đám tàn quân ăn uống no đủ đặng chờ ngày dùng làm “địch vận” thả về cố quốc. Nhân đó vua cho loan truyền những lời phủ dụ đến các tầng lớp nhân dân để bớt sự hoang mang, đồng thời kêu gọi những binh sĩ Mãn Thanh còn trốn tránh đó đây nhớ mau mau ra hàng để được hưởng khoan hồng mà triều đình nước Nam sẽ đưa xuống thuyền hồi quy bổn quốc.
Lịnh truyền đã xong và quân Tây Sơn phục mệnh thi hành, nhà vua bước vào thư phòng, nhìn trên bàn giấy có vô số mật thư, ấn soái của Tôn Sĩ Nghị và một tờ mật dụ của vua Càn Long nhà Thanh viết cho Tôn Sĩ Nghị như sau:
“Nghe lời tâu của khanh, trẩm cho phép đem binh mã ra cửa ải nhưng phải từ từ đừng vội vã; trước phải truyền hịch ra oai, rồi cho các quan nhà Lê về nước để chiêu tập lực lượng và tìm ra Duy Kỳ đương đầu với Nguyễn Huệ. Theo dõi họ chọi nhau mà đoán chừng những phương cách để đối phó.
Nếu dân Nam còn mến vua Lê thì Nguyễn Huệ ắt phải thua và lui binh, bấy giờ cho Duy Kỳ tiến quân đuổi bắt còn khanh thì kéo quân theo sau hỗ trợ, thế là không khó nhọc mà lại sớm thành công.
Nhược bằng nước Nam nửa theo phe nầy, nửa vọng phía kia thì Nguyễn Huệ chắc không chịu lui thì Khanh nên đưa thư chỉ bảo họa phúc để xem Huệ xoay trở thế nào?
Khi nào thủy quân của ta từ Phúc Kiến và lưỡng Quảng kéo ra biển khơi, Khanh cứ đánh lấy Thuận hoá, Quảng ngãi trước rồi thúc quân tiến lên khiến Nguyễn Huệ thọ địch ở cả sau lưng lẫn trước bụng ắt phải đầu hàng. Lúc đó ta cứ nuôi sống cả hai; từ Thuận hóa vào nam thì cắt chia cho Huệ, còn từ Nghệ an ra Bắc thì chia cho Lê tự tôn. Ta đóng đại binh ở giữa, cai quản cả hai rồi sẽ tính kế về sau.”
Đọc xong tờ mật dụ, vua Quang Trung mỉm cười rồi quay sang Ngô Thời Nhiệm nói rằng:
“-Trẫm xem tờ chiếu Càn Long chẳng qua lấy cớ để chiếm nước ta. Nay đã bị đánh tan một trận tất phải xấu hổ, chẳng chịu yên thân. Trẫm nghĩ giá như hai nước cứ đánh nhau thì chỉ khổ cho muôn dân; vậy khanh nên dùng lời nói khéo để khiến cho can qua hết nạn binh đao. Việc nầy không có tay khanh thì chắc khó thành!”
Ngô Thời Nhiệm dâng kế nên dùng lối địch vận bằng cách trả tù binh Mãn Thanh về nước để gây uy thế cho Đại Việt và làm nhụt chí những quân sĩ muốn qua xâm lăng Đại Việt.
Do đó, vua Quang Trung liền cho tập hợp các hàng binh của Mãn Thanh và phủ dụ rằng:
“Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị của các ngươi, tài đong đấu rá, nghề mọn thêu may, không biết phép chủ yếu trong việc dùng binh, vô cớ đem ba mươi vạn quân ra ngoài quan ải, vượt núi, leo đèo, chui sâu hiểm địa, xô dân vô tội đưa các ngươi vào mũi tên, ngọn giáo, thảy đều là tội tên Tổng đốc của các ngươi. Trẫm một phen cờ lệnh vẫy lên, quét sạch lũ ngươi như quét đàn kiến, lũ ngươi thua tan, chết hại hàng vạn; những kẻ bị bắt tại trận buộc thế bức bách phải hàng; lẽ ra chiếu quân luật phải đem chém cả để răn đe phường bạo ngược. Thể đức hiếu sinh của trời đất, ta bao dung che chở, tha chết cho các ngươi!”
Bọn hàng binh này là khối lượng nhân chứng lớn để khi về nước sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực hoặc chủ hòa một khi binh Thanh có ý phục thù.
Vua Quang Trung đã đoán ý không sai tí nào, khi hay tin Tôn Sĩ Nghị bỏ cả ấn tín chạy về đến Quảng Tây và toàn bộ đại binh tan rã, các đại tướng phần thì chết, phần thì tự sát nên vua Càn Long nổi giận lôi đình vì thua trận một cách nhục nhã, bèn cử ngay Phúc Khang An làm Lưỡng Quảng Tổng Ðốc, định đem 500 ngàn quân vào Đại Việt đánh trả thù.
Phúc Khang An nghe bọn tàn binh về tâu lại rằng uy vũ vua Quang Trung như vầng nhật nguyệt, chỉ huy ba quân như lấy trứng trong áo, giọng nói như sư tử hống, võ nghệ siêu quần quả là bậc anh hùng kiệt liệt.
Hoảng sợ uy danh của vua Quang Trung, lại nghe tàn binh diễn tả làm Phúc Khang An sợ hãi vô cùng, lòng không muốn cử binh trả thù rửa nhục nên tìm cách can ngăn Càn Long bải binh. Phúc Khang An qua đến Quảng Tây nghe tiếng quân Nam thế mạnh, nên sợ và có ý muốn hòa, bèn sai người đưa thư sang nói việc lợi hại và bảo phải làm biểu tạ tội để cho yên việc binh đao.
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
============
Thăng Hoa Cuộc Đời
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 64 Giả Vương Lừa Được Càn Long
Dân tộc Đại Việt có một nền văn hóa từ thuở vua Hùng, trải qua nhiều triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đến đời hậu Lê này là một tổng hợp về văn học và nghệ thuật được thoát thai từ dòng tri thức bao gồm cả phong tục, tập quán, đạo đức, pháp luật, tín ngưỡng và thói quen do công sức của từng cá nhân thu đạt được trong đời sống hàng ngày và lan dần ra xã hội. Nền văn hóa Việt tộc có một chiều sâu đủ chứng minh được rằng đất nước này có một lịch sử lâu đời, không phải chỉ quanh quẩn trong một dãi đất có một biên cương hình chữ S mà nó còn lan rộng và ảnh hưởng đến cả các dân tộc láng giềng như Chân Lạp, Chiêm Thành và Tàu nữa. Nền văn hóa này được kết tinh trong một chuỗi dài lịch sử biến động, phát triển tuần tự theo thời gian và diễn biến không ngừng…Chính nền văn hóa đó đã khiến vua Quang Trung không dùng cái kiêu hãnh của kẻ chiến thắng mà sử dụng sự khiêm cung, hòa ái cốt tạo nên chốn thái bình, an lạc cho muôn dân. Vua Quang Trung ý thức rõ từng nỗi đau của binh sĩ đến nỗi nhục của vua Càn Long bèn sai Ngô Thời Nhậm thảo bức thư như bản án hạch tội Tôn Sĩ Nghị quá tàn ác với dân Nam và vuốt cái giận sỉ nhục của nước lớn mà hình ảnh Càn Long bị chế diễu như quân cướp nước xâm lăng tiểu quốc. Ngô Thời Nhậm vốn là bậc thức giả đất Bắc hà không cần đắng đo liền mài mực, đốt lò hương trầm thơm ngát rồi chấp bút viết một mạch như sau:
“…Những mong Sĩ Nghị nghĩ lại, họa may có thể lấy ngọc lụa thay nạn can qua, xoay binh xa làm hội xiêm áo. Không ngờ Sĩ Nghị nhắm mắt tiến binh nhưng vừa xảy ra giao tranh đã tan hàng rã ngũ, xô đè lẫn nhau mà chết. Binh đao là chuyện bất đắc dĩ của thánh nhân…những chuyện phạm đến cương thường, Tôn Sĩ Nghị không tâu rõ từng việc một. Hắn che lấp tai mắt nhà vua đến nổi làm cho sự việc rối ren đến thế!”.
Ngoài những bức thư vừa hùng tráng, vừa trách móc, vừa nói cái đức của thánh nhân kết hợp với vận dụng bá quan trong triều đình Mãn Thanh can ngăn Càn Long bỏ ý định tiến binh; đồng thời Phúc Khang An cũng không dám động binh nên viết sớ tâu trình lên vua Càn Long để bãi chiến:
“Nam Bắc bớt được nạn can qua, rõ là phúc lớn cho sinh linh và cũng là vận may cho kẻ biên thần.”
Rồi các quan Mãn Thanh đúc kết lịch sử tiền nhân nên quả quyết “-Từ xưa đến giờ, Trung Quốc chưa bao giờ đắc chí ở cõi nam phương. Chính các triều đại Tống, Nguyên, Minh rút cuộc cũng đều thua hỏng, gương ấy không xa, hãy còn trờ trờ ra đó nên dù Phúc Khang An có đem vài muôn binh sang Đại Việt cũng dễ tan tành manh giáp.”
Vua Càn Long nghe xong, lòng cũng rã rời, không ngờ đất Nam kia có kẻ siêu phàm nhập thánh đến như vậy? lại nữa, các quan nghị bàn nên hòa tốt hơn là chiến nên vua Càn Long đi đến quyết định bãi binh, lá cờ “Cửu Tỉnh Binh Mã” được hủy bỏ và Tôn Sĩ Nghị bị giáng chức làm thường dân.
Sau khi dùng lối ngoại giao tuyệt kỹ để giảm tối đa khả năng đem binh qua Đại Việt, kết quả triều đình Mãn Thanh phải ngậm đắng, ôm hận chua cay trong mộng ước thôn tính phương nam.
Mọi việc tạm ổn, vua Quang Trung giao lại đất Bắc hà cho Tư đồ Ngô Văn Sở, Phạm Văn Lân cử cắt việc binh và Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích lo chu toàn ngoại giao với phương bắc đặng giữ bờ cõi khỏi nạn can qua.
*
Từ ngàn năm nay nước Đại Việt dù có chiến thắng oanh liệt những đội quân hùng hậu bắc phương thì vẫn giữ cách khiêm tốn để cho người Tàu khỏi động lòng tham mà đem binh tràn qua biên ải. Các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đến hậu Lê thảy đều coi Trung Hoa như một cơn ác mộng, nhưng cũng ép mình cho khỏi xảy đao binh bằng cách xin phong vương và triều cống đặng Đại Việt được quốc thái dân an.
Phát xuất từ ý niệm tích cực ấy nên vua Quang Trung chợt nghĩ đến chuyện bá tánh Đại Việt gánh chịu nạn đao binh triền miên, bèn tìm cách cho quốc gia thịnh trị khỏi nạn can qua nên sai Ngô Thời Nhậm làm ngoại giao để Thanh triều công nhận vua Quang Trung là Hoàng đế nước Đại Việt.
Trước hết, Ngô Thời Nhậm quan hệ mật thiết với Phúc Khang An đang làm Tổng đốc lưỡng Quảng và dùng vị tướng Tàu này cho mục đích hóa giải mộng báo thù của vua Càn Long, đồng thời tìm cách cho bọn Lê Chiêu Thống cùng đám tùy tùng bỏ đi mộng khôi phục ngai vàng Lê triều. Nguyễn Quang Hiển là cháu của vua Quang Trung đại diện nước Nam bàn chuyện hơn thiệt với Phúc Khang An về việc phong vương cho vua Quang Trung. Khang An viện các lý lẽ hiện thực để chứng minh rằng nước Nam là đất của người Nam, phương bắc không nên đụng đến làm chi; cuối cùng vua Càn Long phải nuốt giận mà thuận cho vua Quang Trung làm An Nam quốc vương, nhưng để giữ cái thể diện nhục nhã trong trận xâm lược vừa rồi, vua nhà Thanh đưa ra hai điều kiện:
Thứ nhất là lập đền thờ Đề đốc Hứa Thế Hanh tại nước Đại Việt để thờ cúng.
Thứ hai là vua Quang Trung phải thân hành sang triều cống để được phong vương vào năm tới nhân dịp bát tuần khánh thọ của vua Càn Long.
Dĩ nhiên nước Đại Việt phải tạm chấp nhận nhưng Ngô Thời Nhậm lại dùng mưu buộc Càn Long phải phong vương cho vua Quang Trung trước khi ngài qua chúc thọ bát tuần của thánh hoàng.
“Quốc trưởng Quang Trung chưa được nhận phong mà sang năm cùng với Quốc trưởng các nước khác nhất tề cùng vào chúc mừng đại Hoàng đế thì không khỏi bất tiện.”
Lời lẽ như vậy thì không cách nào chối từ nên vua Càn Long chịu lếp vế ban chỉ dụ phong vương cho Quang Trung hoàng đế rồi tự tay viết bảy chữ trong chiếc áo cẩm bào để dâng tặng ngài. Chiếc áo cẩm bào thật đẹp với dòng chữ “Xa tâm triết trục, đa điền thử” (Trục xe bị gãy, ngoài ruộng nhiều chuột đồng). Vua Càn Long đặc phái hai vị đại thần mang tờ sắc đến nước Nam tuyên phong.
Vua Quang Trung thật lòng không cần vương tước của Thanh triều làm gì nhưng cốt để yên dân nên bèn cho con thứ là Nguyễn Quang Thùy ra Thăng Long nhận sắc phong vương.
Tinh thần độc lâp, khí khái, kiêu hãnh của vua Quang Trung đã làm cho thần dân Đại Việt hãnh diện, bá quan văn võ kính nể tôn phò. Các quan triều đình có nhắc đến chuyện lập đền thờ Hứa Thế Hanh cho có chuyện rồi cũng lờ chuyện đó, vì Hứa tướng quân là kẻ xâm lăng Đại Việt không xứng đáng thờ phượng tại đất Nam.
Đến mùa xuân năm Canh tuất là dịp bát tuần khánh thọ vua Càn Long, các Quốc trưởng được Thanh triều phong vương đều đến Trung Quốc để làm lễ chúc thọ.
Lẽ ra vua Quang Trung phải thân chính đến tận triều đình Mãn Thanh theo nghi thức khánh chúc trường thọ nhưng ngài lại khước từ vì sĩ diện Đại Việt bèn dùng kế “du long chuyển phượng” (trộm rồng thay phượng, ý là thay đổi đối tượng) thực hiện việc ngoại giao nầy.
Ngô Thời Nhậm ra sức tìm được một người có gương mặt đoan chính hao hao giống vua Quang Trung tên là Phạm Công Trị, cháu phía ngoại gọi Quang Trung bằng cậu. Sau khi huấn luyện nghi thức triều gia khá thuần thục, Phạm Công Trị thân hành cùng đoàn tùy tùng trên một trăm người gồm Hoàng tử Nguyễn Quang Thùy, Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn và một đoàn nhạc vũ công biểu diễn mười tiết mục độc đáo làm quà chúc thọ Càn Long theo phong tục dân Nam. Ngoài ra, phái đoàn còn mang theo hai thớt voi, một số quý vật và hải sản hiếm hoi để làm vui lòng Càn Long đặng kéo dài thời gian không cho ý nguyện phục thù của đám con cháu Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống xía vào trong những kỳ luyện binh rèn kiếm.
Sở dĩ hai thớt voi được mang đi triều cống là chủ ý của vua Quang Trung muốn phái đoàn vừa đi chậm rãi theo voi, vừa vẽ các mục tiêu, bản đồ, đồn trại của hai tỉnh giáp giới nước Đại Việt để sau này tiến hành công cuộc Bắc phạt một khi cơ hội chín muồi trong khoảng vài năm sắp đến.
Giả vương Phạm Công Trị được Phan Huy Ích soạn thảo văn thư thác danh Quang Trung gởi về cho thế tử Quang Toản căn dặn việc nước. Chính những văn từ không niêm theo lệ nhà Thanh đọc trước này đã làm cho Càn Long cùng triều đình Mãn Thanh khâm phục vô cùng.
Sự kính nể của triều đình Mãn Thanh khiến vua Càn Long tưởng lầm rằng Quang Thùy là con trưởng nên sắc phong Thế tử và tặng hà bào hương khí là loại đồ thơm gói ướp hương cùng lụa là gấm vóc thượng hạng. Khi giả vương cho biết là Quang Thùy chỉ là thứ nam, Thái tử Nguyễn Quang Toản mới là trưởng bối nên Càn Long thêm một phen tặng ngọc quý và phong cho Quang Toản là “An Nam Quốc Vương Thế tử”.
Tài danh Phan Huy Ích dùng văn thơ đối đáp với Càn Long thật tuyệt vời, chữ viết như rồng bay mà ý tứ cao xa đầy huyền vi thâm diệu; do đó mà chuyến đi chúc thọ đạt được sự chí thành khiến Hoàng đế Thanh triều hứng chí tự tay rót rượu mời các quan Đại Việt cùng uống, bắt đội nhạc công Trung Quốc ăn mặc theo lối Đại Việt và học ngôn ngữ Việt để làm hài lòng phái bộ quan Nam, vì mến mộ như vậy nên vua Mãn Thanh ban tặng bao quà cáp để ghi nhớ cuộc tao phùng với người mộ điệu, thật là xưa nay chưa có một cuộc chúc thọ nào hưng phấn, trọng vọng, trí thức cho Càn Long bằng phái bộ Đại Việt đầy thông minh, tinh xảo.
Dù phái đoàn giả vương đã làm cho triều đình Mãn Thanh nể phục nhưng vua Quang Trung vẫn điềm nhiên toạ thị ở tại thành Phú Xuân đương kim hành xử của một vị Hoàng đế mưu lược, lập Ngọc Hân công chúa làm Bắc Cung Hoàng hậu, phong Quang Toản làm thái tử, lấy thành Nghệ An là nơi quê hương tổ phụ đặt làm kinh đô đại điện hay còn gọi là Phượng Hoàng Trung Đô vì ở giữa Thăng Long và Bắc thành, ngày đêm lo việc củng cố lực lượng, mở mang học thuật văn hóa, dùng chữ Nôm làm quốc ngữ, sắp đặt lại xã hội đương thời, khuyến khích chăn nuôi, canh nông trồng trọt và nhất là chiêu hiền đãi sĩ để chọn anh tài đứng ra giúp đời, giúp nước. Vua Quang Trung không mệt mỏi trong công tác tập luyện quân binh chuẩn bị một ngày tốt đẹp đem đại quân tràn qua biên giới phía bắc đặng tấn công lưỡng Quảng hầu sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt lớn hơn, rộng hơn.
Đương lúc Quang Trung Hoàng đế lo việc mở rộng đất nước, khuyến khích canh tác cho trù phú, khai dụng học thật văn chương đến mọi giai tầng xã hội thì tại phía nam, Nguyễn Phúc Ánh đem binh tấn công Gia Định thành để lập lại triều nghi cơ ngơi nhà chúa.
Số là sau khi vụ việc bất hòa giữa hai anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo dài mấy tháng đi đến xung khắc kịch liệt ở Quy Nhơn, nhưng rồi cũng đã được giải quyết xong, Chính Bình Vương phải trở lại Phú Xuân trấn giữ và không có cơ hội vào nam vì thế kẹt bởi Trung Ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc án ngữ ở giữa.
Nguyễn Lữ là Đông Định Vương giữ đất Gia Định cùng với quan Thái phó Phạm Văn Tham ổn định nội trị, kiến thiết ngoại thành. Khi Nguyễn Ánh mộ được binh mã kéo về đánh thành Gia Định thì thế lực vô cùng hùng mạnh bởi sự trợ lực từ ngoại bang với vũ khí tinh xảo, Nguyễn Lữ phải lui về Lạng Phụ đất Biên Hòa trấn thủ để cho Thái phó Phạm Văn Tham cố thủ giữ thành.
Nguyễn Phúc Ánh bèn dùng kế ly gián, giả bức thư của Hoàng đế Nguyễn Nhạc truyền lệnh cho Nguyễn Lữ phải tìm cách sát hại Phạm Văn Tham. Thơ lại đến tay Thái phó nên Phạm văn Tham kinh hãi liền kéo quân ra Lạng Phụ để giải bày lý lẽ thiệt hơn.
Nguyễn Lữ vốn ngại Nguyễn Phúc Ánh vì nhiều mưu mô lại được Linh mục Tây là Bá Đa Lộc ngày đêm giúp sức, liệu bề thắng không xong mà thấy Thái phó kéo quân binh có cờ trắng dẫn đầu tiến về phía mình, Đông Định Vương tưởng là Thái phó họ Phạm đã đầu hàng với Nguyễn Phúc Ánh, đem quân chống lại Tây Sơn nên Nguyễn Lữ vội bỏ thành Biên Hòa, xuống thuyền căng buồm chạy về Quy Nhơn.
Thuở thiếu thời Nguyễn Lữ theo anh là Nguyễn Huệ thụ giáo với võ sư Nguyễn Văn Hiến, nhưng Nguyễn Lữ thể trạng mỏng manh nên được thầy Hiến chân truyền cho môn Miên quyền. Nhân dịp quan sát dân chúng thường đá gà giải trí nên Nguyễn Lữ đã nghiền ngẫm và sáng tạo ra Hùng Kê quyền từ gốc Miên quyền (Yếu có thể đánh mạnh, Thấp có thể đánh cao, Nhỏ có thể đánh lớn, Ít có thể đánh nhiều), một bài võ áp dụng việc đá gà như lấy yếu có thể đánh mạnh, lấy thấp có thể đánh cao, lấy nhỏ có thể đánh lớn và lấy ít có thể đánh nhiều, chủ yếu sử dụng cho phù hợp với thể tạng cũng như vừa vặn với thân hình bé nhỏ của người Việt.
Ngay sau khi sáng tạo Hùng Kê quyền lập tức được các nghĩa quân Tây Sơn tập luyện và ứng dụng rộng rãi bởi tính hiệu năng của nó. Vào trận, trường quyền như giông như bão liên tục phủ xuống nhưng Hùng Kê quyền vẫn cứ ung dung xuyên qua xuyên lại tựa chú gà con lanh lẹ trước một chàng gà tồ to lớn hung dữ nhưng chậm chạp, để rồi khi đối thủ lộ sơ hở thì chỉ cần một chiêu của Hùng Kê quyền đá gục đối phương.
Đông Định vương Nguyễn Lữ xuống thuyền trở lại Quy Nhơn giữa mùa Vu Lan năm Đinh Mùi (1787) để chịu tội cùng anh, rồi lên ngựa trở về Kiên Mỹ thăm lại cố hương. Qua tiết Trung thu năm ấy, hai anh em Tây Sơn vương cúng giỗ tiên hiền rồi chia tay nhau, Hoàng đế Nguyễn Nhạc theo nghiệp bá để bành trướng thế lực đất Quy Nhơn, riêng Nguyễn Lữ một thân một ngựa ra đi nơi mây ngàn hạc nội, rồi mười năm sau đó một dịp tình cờ chuyển quân ngang qua đèo Hải Vân, Nguyễn Văn Dũng gặp được một thiền sư chống gậy trúc khoang thai du hành trên đỉnh non cao hao hao giống Đông Định Vương thuở nào; quân binh thừa hưởng bài võ Hùng Kê quyền truyền thụ từ vị tổ sư Nguyễn Lữ như di sản quý giá giúp Tây Sơn bao phen chiến thắng ngoại xâm cùng nhau nghiêng mình kính cẩn tiễn chân vị thiền sư bước vào chốn thanh tịnh chân như, rũ bỏ chuyện tranh bá đồ vương, hơn thua, được mất.
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
=Thăng Hoa Cuộc Đời
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 65 Đại Mộng Lấy lại Lưỡng Quảng
Thái phó Phạm Văn Tham vào thành Biên Hòa thì vở lẽ mình bị xí gạt liền quay ngược, kéo binh đánh thốc vào bản doanh Nguyễn Phúc Ánh, dù mấy lần đại thắng nhưng không đủ quân lương, phần thì Đông Định Vương hồi quy bổn địa nên không đủ sức giữ lại Gia Định thành. Hơn nữa Nguyễn Phúc Ánh lại được nhiều tướng Tàu ra giúp đỡ, vì vậy đất Gia Định không bao lâu lại lọt vào tay Nguyễn Phúc Ánh, vương bèn lo chỉnh đốn lại thuế khoá, khuyến khích nông nghiệp, lập ra luật pháp rồi chuẩn bị binh mã tiến đánh Tây Sơn.
Thành Quy Nhơn tức Hoàng Đế thành do Trung Ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc cai quản cũng chỉ lấy việc thủ thành làm căn bản. Sau những chuyện bất hòa giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ được giải quyết xong thì đất Quy Nhơn đã không còn là nơi quy tụ nhân tài mà các anh hùng kiệt hiệt thì hầu hết đến với vua Quang Trung, hoặc vào Nam hợp tác với Nguyễn Phúc Ánh.
Nhạc càng ngày càng già và không có nhiều sáng kiến sửa đổi về phương diện quân binh, hành chánh, kinh tế, quốc phòng…trái lại hay có tính nhỏ nhen, tị hiềm cá nhân nên tự cô lập bản thân và triều thần. Sự cố thủ để hưởng nhàn tại thành Quy Nhơn đã giúp cho Nguyễn Phúc Ánh đem quân tấn công mấy lần khiến cho Đông Định Vương phải chạy về Hoàng Đế thành mà Nguyễn Nhạc cũng không tìm cách liệu bề chống đỡ.
Vua Quang Trung biết sự lợi hại ở Nam hà và Nguyễn Phúc Ánh đã khôn khéo lợi dụng ngoại bang để giành lại ngai vàng nên Vua đang chuẩn bị kế hoạch hợp tác ngoại giao với Lào và Chân Lạp để khỏi bị Nguyễn Phúc Ánh liên kết chống lại Đại Việt, mặc khác Vua còn cho chuyển quân bằng đường thủy từ Phú Xuân bọc ra cửa bể tiến vào Sài Gòn, Biên Hòa giúp Đông Định Vương chống lại Nguyễn Phúc Ánh, sự cấu kết giữa các nước phương tây với kỷ thuật khoa học ngoại bang mưu giúp Nguyễn Phúc Ánh lấy lại ngai vàng hòng trao đổi một phần lãnh thổ hoặc tự do truyền đạo Ki Tô khiến ngoại lai xả thân bằng mọi cách để đối chọi với Tây Sơn.
Chính những nỗi khắc khoải ưu tư cho cơ đồ Đại Việt, vua Quang Trung quyết ra sức tổ chức một đội quân hùng mạnh không những để đối phó với Nguyễn Phúc Ánh đàng trong, mà còn huấn luyện binh mã thật tinh nhuệ để tiến binh đánh chiếm Quảng Đông, Quảng Tây làm nền tảng độc lập, hùng cường, bất cần những sự phong vương định tuớc của triều đình Mãn Thanh, hẳn nhiên chính Đại Việt sẽ ngang hàng với các cường quốc lâng bang trong đó có Trung Hoa.
Vua Quang Trung đặc biệt chú trọng đến vấn đề tổ chức binh đội để dễ luyện tập, kiểm soát và sử dụng đúng chức năng từng toán, từng tổ. Ngài chia quân đội ra làm nhiều đạo quân như tiền hậu quân, tả quân, hữu quân, trung quân. Mỗi đạo quân gồm nhiều cơ, mỗi cơ chia làm nhiều đội với hàng ngũ chỉnh tề, kỷ luật hết sức nghiêm túc trong khi tập luyện hoặc xuất binh đánh giặc cũng vậy.
Vua Quang Trung đốc thúc các tướng luyện tập binh đội theo kinh nghiệm thực tiển dựa trên các trận đánh với Nguyễn Phúc Ánh hoặc với Mãn Thanh trong trận Đống Đa để lấy sở trường của từng đạo quân. Lối đánh thần tốc trong các trận địa mà chính vua Quang Trung chỉ huy đã áp dụng đều thành công và chiến thắng vinh quang.
Lối đánh theo pháp thủy quân được luyện tập cho những đạo quân chính quy nên tạo được uy thế cho vua Quang Trung mỗi lần xuất binh. Đặc biệt những lần kéo quân vào Nam hà diệt Nguyễn vương, vua Quang Trung đều dùng thủy binh tấn công một cách chớp nhoáng; vang dội chiến công đó khiến các nước lâng bang e ngại và kiêng nể uy danh vua và triều thần nước Đại Việt.
Lối đánh du kích cũng được vua Quang Trung nghiên cứu kỹ luỡng và tận dụng trong các địa thế hiểm hóc như trận tuyến Rạch Gầm, Xoài Mút, Đống Đa…nên đội quân đặc nhiệm này được huấn luyện xuất quỷ nhập thần về lối dàn dựng cách phục binh du kích đã góp phần không nhỏ trong sự chiến thuật đẩy lùi ngoại xâm, đem độc lập thật sụ cho non sông.
Ngoài ra tượng binh và kỵ binh là những đội hình được huấn luyện gay go, kiên nhẫn và linh hoạt nên đại sự hoàn thành và vinh quang vô cùng to lớn cho Quang Trung Hoàng đế đã là kết quả của những khổ nhọc tập luyện không ngừng dù mưa to gió lớn. Linh hồn của các đội kỵ và tượng binh chính là nữ tướng Bùi Thị Xuân, vị nữ tướng kiệt hiệt hùng anh đã dày công uốn nắn hàng trăm thớt voi và hàng vạn quân binh trong công tác chiến đấu phá công thành không mệt mỏi.
Pháp luật nghiêm minh trong quân ngũ đã giúp cho vua Quang Trung thành công to lớn trong bất cứ trận đánh nào, Việc quân lương lại là bộ phận tối cần thiết được vua Quang Trung luôn nhắc nhở như là sự quyết định của thắng bại trong chiến đấu, do đó, hỏa lực Tây Sơn được dồn vào đạo quân công phá các kho lương của địch để làm hậu thuẩn khi các đạo quân khác tấn công phá thành. Về khí cụ quân nhu, vũ khí đều do sự sáng kiến tân trang bởi các loại cổ truyền như gươm, đao, giáo, mác đến những cổ súng đại bát thần công và các loại thuốc súng tự chế hoặc tịch thu từ ngoại bang đang ủng hộ cho Nguyễn Phúc Ánh.
Thật ra, hỏa lực, vũ khí của Nguyễn Phúc Ánh hơn hẳn quân đội Tây Sơn nhờ sự giúp đỡ của Pháp, nhưng những lần xáp chiến thì quân Nguyễn vương đều thua chạy bởi sự khéo léo dụng binh của chư tướng soái Tây Sơn đầy can trường và tinh thần độc lập vì chính nghĩa của nhân dân hơn là sở cậy ngoại bang.
Mưu lược lỗi lạc và tính toán đúng chiến thuật của vua Quang Trung là yếu tố quyết định trong tất cả các trận chiến dẫn đến thành công lớn, một phần do các tướng chỉ huy Tây Sơn luyện tập võ nghệ phi thường, huấn luyện binh mã suốt những thời gian không chiến tranh, trau dồi tính kiên nhẫn, gan dạ cho ba quân tướng sĩ dưới điều kiện thời tiết khắc nghiệt và phong thủy của núi rừng ngăn trở từ Hoành Sơn chạy vào Quy Nhơn; phần còn lại và quan trọng hơn tất cả là yếu tố lòng dân qua sự vận chuyển lương thực trong nhiều trận đánh đã được toàn dân ủng hộ. Điểm son chói lòa của Nguyễn Huệ không chỉ là chuyện quân sự điều binh đánh giặc mà còn vận dụng khả năng chính trị, tâm lý và đạo đức để toàn dân tham gia đại cuộc.
Trong khoảng thời gian rất ngắn từ khi lên ngôi Hoàng đế, vua Quang Trung đã thiết lập được một xã hội trật tự, thống nhất và phú cường mà trước kia vốn là một xã hội thiếu tôn ti, ỷ lại, lợi dụng quyền uy của một nhóm người bất lương để buôn dân bán nước.
Ngai vàng mục nát của các trào vua Lê là cái cớ của bao nhiêu đám sứ quân trương cờ phù Lê mà hại dân hại nước. Đàng ngoài thì chúa Trịnh nắm toàn bộ quyền bính trong tay, thậm chí có quyền phế vua hay bức tử Hoàng đế; còn đàng trong các chúa Nguyễn cũng lợi dụng chiêu bài phò Lê mà kéo dài cuộc chiến trên mấy trăm năm. Các nhóm “sứ quân” khác cũng y như thế mà hùng bá một cõi khiến giang sơn đất tổ bao phen chấn động binh đao.
Vua Quang Trung lên ngôi Hoàng đế có nghĩa là cái ngai vàng Lê triều kia đã phải thu bóng để thời gian lặng lẽ trôi đi, vì chính nó là mấu chốt của sự cục bộ, tham lam, ngu ngốc và ích kỷ.
Nét nghệ thuật dưới sự lèo lái của vua Quang Trung là một thời kỳ vàng son cho văn học độc lập, vua Quang Trung bắt buộc toàn dân học chữ Nôm, một thứ chữ riêng của người Đại Việt, Các áng văn, thơ, thi, phú, sắc phong đến việc thi cử, học hành, quan kiện đều lấy chữ Nôm làm gốc.
Những bài hịch kể tội quân xâm lăng hoặc kêu gọi toàn dân tham gia đánh giặc là những áng văn Nôm biểu lộ ý chí bất khuất, độc lập của dân tộc Đại Việt, cũng trong quãng thời gian ngắn ngủi, đại đế Quang Trung đã đốc thúc xây dựng những công trình văn hóa khác như Phượng Hoàng, Trung Đô ở Nghệ An để biểu lộ sức sáng tạo thật sự của triều đại Tây Sơn. Sự kiện tập trung các đền miếu chùa chiền trong làng thành những tu viện lớn trong quận huyện cũng là sự cố gắng cải cách tôn giáo có ý nghĩa, để kiến tạo một xã hội lấy tín ngưỡng hướng thiện làm chỉ nam đạo đức nhân bản, không bị mê tín tà linh và lệ thuộc lối suy tư từ phương bắc là biểu trưng nét độc đáo thuần khiết của Đại Việt dưới triều đại Tây Sơn qua hình thái tôn giáo trong lòng dân tộc.
Đại đế Quang Trung xuất thân từ vị anh hùng áo vải đất Tây Sơn, tay trắng lập nên sự nghiệp lẫy lừng, đánh tan hai đầu quân xâm lược…tất cả công lao ấy là do sự tài tình trong nghệ thuật lãnh đạo anh minh vì mục đích tối hậu cho tổ quốc. Nhưng phần chính yếu là vua biết lấy nền tảng dân tộc làm trụ cột cho cuộc đấu tranh; do đó, vua Quang Trung lãnh đạo toàn dân chống ngoại xâm điển hình qua trận Xoài Mút đuổi Xiêm La và trận Đống Đa tiêu diệt Mãn Thanh, cả hai sự chiến thắng oanh liệt này quyết định vận mạng tồn vong của quốc gia do toàn dân quyết tâm chiến đấu và định hình sự độc lập bất khả phân.
Để đưa nước nhà đến chỗ hùng cường và trọn vẹn lãnh thổ không những về phía nam mà hướng bắc cũng cần phải phát triển. Do đó kế hoạch Bắc phạt đã xuất hiện rất sớm trong đầu vị anh hùng áo vải Tây Sơn từ khi vua Lê còn đang chễm chệ trên ngai vàng mục nát.
Trải qua bao triều đại thịnh suy giữa một giải giang sơn cẩm tú, nước Đại Việt luôn là mục tiêu mà nước Tàu thường xuyên đem binh đánh chiếm, những chứng tích lịch sử rành rành rằng triều đại các vương tộc thường thường thủ thế để giữ nước, bảo vệ chủ quyền hơn là phản công qua tận đất Trung Hoa hạch tội, ngoại trừ anh hùng Lý Thường Kiệt đời Lý đã làm cho nhà Tống thất điên bát đảo khi Ngài đem binh tấn chiếm các tỉnh phía nam Trung Hoa. Với tinh thần đó, vua Quang Trung không muốn Đại Việt bị xem thường do bởi thành kiến từ những triều đại trước kia mà Bắc phương thường đem binh lấn áp, ngay từ những buổi giao thời vua chịu tạm thời chấp nhận cho Càn Long phong vương để thăm dò lực lượng đối phương, kéo dài thời gian nghiên cứu địa hình và củng cố binh lực, khi yếu tố phục thù đầy đủ và lòng dân đã bao phen ủng hộ thì vua Quang Trung quyết định đánh chiếm lưỡng Quảng đặng mở mang bờ cõi.
Bá quan văn võ thấy vị Hoàng đế của mình có sáng kiến uy vũ đại nghiệp cho dân tộc nên hết lòng phò tá, bộ Lại xem xét số dân đinh đích thực để trong ba người dân chọn lấy một người lính, với cách vận dụng phép nhập ngũ thế này thì quân binh Tây Sơn đã lên đến mấy muôn chiến sĩ.
Triều đình cấp phát loại thẻ chứng minh thư tục gọi là “Thiên Hạ Đại Tín”(một loại căn cước với lý lịch rõ ràng ) ghi rõ tên tuổi, quê quán từng người để dễ kiểm soát một cách chính xác hầu chọn lựa dân quân luyện tập võ nghệ cho kế hoạch đánh Tàu. Các đạo quân được tuyển thì ngày đêm rèn luyện kiếm cung, người nông dân lo canh tác lúa gạo lương thực, kẻ già yếu ở nhà thì vót cung tên, tầm vông, cọc nhọn; ai nấy đều nao nức chuẩn bị cho một cuộc Bắc tiến hầu tỏa ánh sáng kiêu hùng làm rạng rỡ quốc dân Đại Việt.
Kế sách chuẩn bị trước khi chính thức tuyên chiến, vua Quang Trung khuyến dụ các doanh gia bành trướng thị trường đến Quảng Tây, Lạng Sơn rồi cho dân Đại Việt qua đường biên giới vào sâu nội địa nước Tàu buôn bán, hành nghề. Khi vua Quang Trung viết thư nhờ Phúc Khang An chuyển biểu đòi lại bảy châu trong đất lưỡng Quảng, buộc vua Càn Long phải chấp nhận lời biểu ghi rõ: “Chỉ vì phần đất cõi nam đang làm phên dậu, bốn bề giáp ranh với vùng đất mà sử sách đã minh định” đến một bước kế tiếp là “xin đất lưỡng Quảng làm kinh đô nước Nam”, cả hai đề nghị trên đều được Thanh triều chuẩn y thuận chấp.
Để thăm dò thêm sự phản ứng của vua Càn Long nhà Thanh, Hoàng đế Quang Trung đặc cử Tướng quân Võ Văn Dũng đi sứ cầu hôn công chúa đương triều để tìm hiểu ý nghĩ vua Mãn Thanh đồng thời đòi lại những đất đai đã mất dưới đời Lê Mạc, bãi việc cống người vàng là một quốc hận đáng kể cho dân Việt từ đời vua Lê Lợi…không ngờ sứ đoàn của Đại Việt đến kinh đô Trường An đã được vua Càn Long ân cần tiếp đãi trọng hậu và thuận y đề nghị hôn nhân chọn ngày lành gả công chúa Thanh triều cho An Nam Quốc vương đồng thời cắt đất Quảng Tây để làm kinh đô Đại Việt như sự đề nghị của Hoàng đế nước Nam.=========
GIAO CHỈ SAN JOSE: July 1954: 70 years later – since the country was divided
July 1954: 70 years later,
since the country was divided
Giao Chi San Jose
(Written to friends in April 1954. We, 300 young men, presented ourselves at Ngoc Ha camp to mobilize and go to Da Lat to sing the song ” Oh Hanoi”. At the age of 20, we had never known love. After 21 years of fighting, in April 1975, the course Cuong Quyet continued singing . How many beautiful dreams, melted into smoke, flew away with the afternoon clouds.
Today, July 2024, I went to the nursing home to visit my classmates. The three colonels, the green and red beret brigade commanders, and the military company that went to fight in Quang Tri were all gone, only Ngo Van Dinh remained. I leaned over to listen to Dinh ask small:
– How many guys are outside?
– Still in contact with 4 guys. All over 90. I report. Luyen just came to visit.
– I was going to say. Practicing Northern Jump for 21 years in solitary confinement and still alive. Amazing.
– I said. Don’t worry. There’s someone out there who’ll play with you.
– OK, you live to take care of your brothers.)
***************
July 20, 2014 marked the 60th anniversary of the Geneva Accords that divided the country. We celebrated the farewell night to Hanoi. Vietnamese soldiers from the US Army attended. Singer Ý Lan performed. songs of the homeland. We had the opportunity to recall memories from a very long time ago, when we were teenagers during the resistance war, standing behind the pillar of the communal house of Binh Hai village, Yen Mo district, listening to the very small Thai Thanh sing songs for Popular Education Program. The melodious lyrics of childhood still echo in youth. Anyone who goes to Thanh Van district market, ask Ms. Tu if she can spell yet,,,?. Through so many ups and downs Today, I am still fortunate to sit and listen to Ms. Thai’s daughter sing: My homeland has a beautiful canal.
Today, I sat down to re-read an old article about the Ben Hai River, which has become a 70-year-old story.
The old age has increased by 10 years, but the history of the country divided in two fundamentally remains unchanged. I would like to re-edit and send to my readers as follows.
Written for July 20, 1954
The country being divided in 1954 was indeed a disaster, but the unification in 1975 was even more miserable. To complete the so-called “Liberation of the South”, the Viet Cong had to pay off their debt with mountains and rivers. Because of the story Today’s news, let’s remember yesterday’s story. 70 years ago, on this day, the Vietnamese people migrated for the first time.
Does July 2024 remind us Vietnamese refugees of any memories? Seventy years ago, in July 1954, the Geneva Accords divided the country in two. Today, more than half a century and a great Far away, I would like to write a few words. First of all, some historical data, mentioned once at the end of my life. In September 1945, Japan surrendered to the Allies, and World War II officially ended on the Pacific front. Ho Chi Minh led the Communist Party to declare Vietnam’s independence. The French returned to Indochina. On December 19, 1946, the whole country was at war. In the days of the fiery Autumn of the past, all Vietnamese youth stood up to answer the call of the country. Pham Duy wrote the following lyrics : An Autumn of the year past, the revolution marched to Vietnam, with thousands of young people brandishing swords to break their chains. The South used this song to open the film We Want to Live. In the early days of the resistance, I was just over 14 years old. The age of bamboo shoots How naive and enthusiastic. At this time, no one knew anything about the Nationalists. People said: When the Autumn Revolution happened, he was 20 years old, he did not join the resistance, he was not a lover And I was a boy from Cua Bac school, Nam Dinh evacuated to Yen Mo, Ninh Binh also began the lesson of passionate patriotism.
Later I learned other magical quotes. When communism was born, he was 20 years old, if he did not follow communism, he had no heart. Twenty years later, he has not abandoned communism. He has no mass. brain.
Hanoi and Nam Dinh evacuated, students joined the self-defense force with the yellow star insignia and joined the capital regiment. In the South, Saigon’s young pioneers held bamboo sticks and joined forces to fight the French.
To this day, all the seniors 80 years old and above must still remember the fiery Autumn of 1946. Then the scorched earth resistance, then the evacuation, then the return to Qi, how many memories do they have? the distinctive language of an entire childhood.
Three years later, in March 1949, King Bao Dai returned from Hong Kong. The dawn of the new nationalist faction began to bloom bitterly in the arms of the French Union army.
1950: The war continued throughout the country until 1950. A year of many events. January, Communist China recognized communist Vietnam. February, the United States recognized the State of Vietnam. March, The United States began to aid France in Indochina. In June, the first group of American advisors arrived in Vietnam.
Then came the fateful year of 1954. In May 1954, Dien Bien Phu fell, and half of the soldiers who participated in the battle were Vietnamese national soldiers who shared the same fate of sacrifice and the fate of prisoners of war. Among them were Lieutenant Pham Van Phu. The Geneva Conference on Indochina opened. In June 1954, Ngo Dinh Diem returned from the United States to take office as prime minister. In July 1954, Geneva decided to divide the country at the parallel 17, on the Ben Hai River between the Hien Luong Bridge. And the fateful day of the entire nation was July 20, 1954. England, France, China, etc. signed the treaty with the Vietnamese communist side. The United States Ky and the national Vietnam did not sign. The then French Prime Minister promised the nation that the agreement must be signed by July 20, 1954. The meeting was held until midnight and it was not finished. The clock in the conference room stopped at 12. late hour The meeting continued until the next morning. After signing, the clock was restarted. The Vietnamese Foreign Minister, Mr. Tran Van Do, cried because the country was divided right at the conference. Le Duan, the communist commander in the South, was on his way. When he heard the news of the ceasefire in the North, he returned to continue leading the liberation effort. From Hanoi, a number of National Vietnamese officers and French officers attended the Trung Gia conference to decide on the ceasefire. . French units and Vietnamese light infantry battalions quietly withdrew from Bui Chu, Phat Diem, Thanh Hoa, and Nam Dinh, leaving behind painful panic in many autonomous Vietnamese dioceses. In the North, the French and the nationalists were given a time limit of 80 days to gather in Hanoi, 100 days in Hai Duong and 300 days in Hai Phong. In the South, troops were gathered in Ham Tan for 80 days and Binh Dinh for 100 days. and Ca Mau 300 days. Today, how many of us still remember the period of regrouping in the South and the migration of the North? Before leaving, the Southern army launched a campaign to plant people to stay behind and establish families. en masse to make an appointment to return two years after the negotiations and elections. Lieutenant Giao Chi participated in the Freedom Operation to Take Over Ca Mau and saw the communists gather to greet each other with two fingers spread out, promising to meet again after two years. , with the slogan: Leaving is victory, staying is glory. The Southern resistance to the North left pregnant women in the village and guns and ammunition buried in the backyard. Meanwhile, in the North, the communists tried their best to block the nationalist troops from evacuating and to stop the great migration from August 1954. But the Nationalists still had enough one million people to leave. Lieutenant Vu Duc Nghiem , graduated from class 1 of Nam Dinh, migrated to the South with his unit and family when he was over 20 years old. From Phat Diem, he went with the 711th Light Infantry Battalion to Hai Duong and then withdrew to the South. Captain Le Kim Ngo evacuated the Engineering School from the North to Nha Trang and participated in the operation to take over Binh Dinh. Both Vu Duc Nghiem and Le Kim Ngo later had the opportunity to return to the North in communist prisons before the HO came to settle down. residing in the United States. Also during the migration with his Catholic family, 17-year-old Pham Huan still remembers the Hanoi of his youth. After signing the Paris Agreement, Major of the Republic of Vietnam Pham Huan had the opportunity to return in an official delegation to wrote the work “One Day in Hanoi” in 1973. After that, Mr. Pham Huan once again said goodbye to Saigon in 1975. On July 7, 2004, Colonel Ha Mai Viet and I visited Pham Coach at Dr. Ngai’s Nursing Home in the Tully area of San Jose. Born in 1937, the Hanoi teenager who became a young officer in Saigon is still the youngest senior at the Nursing Home. “Eyes wide open, sending dreams across the border, at night I dream of Hanoi, Kieu’s fragrant figure.” Pham Huan said that if one day you take back Saigon, I will also take a wheelchair trip back to my hometown. He passed away in San Jose and never once back to Vietnam. But from July 1954 to July 2019, the days and months are long gone and the dream is far away. Pham Huan and poet Hoang Anh Tuan both left San Jose, leaving both the rain of Saigon and the rain of Hanoi.
At the end of May 2014, Ha Mai Viet returned to San Jose to launch his work The Roots of the Vietnam War, which began in the North. I wonder if anyone still remembers the origin.
In 1954, a 16-year-old girl boarded a plane alone with her friend’s family to go to the South to seek freedom. Her mother was orphaned, her father stayed behind to look for his son and then got stuck. The girl’s name was Nguyen Thi Chinh and later This trip brought to the South a first star named Kieu Chinh. Kieu Chinh’s trip in 1954 to say goodbye to Hanoi was filled with tears of fatherly separation. In 1975, Kieu Chinh once again said goodbye to her father. Saigon on a troubled flight around the world as the southern capital was dying.
And also in 1954, a 9-year-old girl Nguyen Thi Le Mai boarded a ship to migrate to the South. Later, she became a typical singer of the miserable war, a life of exile in a miserable life. The name of the person Singer Khanh Ly has been busking all over the world for 50 years. Last year she returned to sing for the first time on the Hanoi stage. After 50 years of being an anti-communist symbol with overseas lyrics, today she stands and sings love songs. for the audience who have never met but love very much. And along with Vu Duc Nghiem, Le Kim Ngo, Pham Huan, Kieu Chinh, Le Mai, there was also Bui Duc Lac , a member of the Northern migration who temporarily resided in Phu Tho Leu area and by 1975 became an evacuee. color of the artillery uniform of the Airborne. In 1972, in tears in Laos, Bui Duc Lac heard Khanh Ly sobbing and said that the loss of the way home was not because the US abandoned her but because of Trinh Cong Son’s music. Another person from Phat Diem who soon became a Ho Nai immigrant then crossed the border with a wife and nine children and continued to calmly work as a daily journalist in San Jose. That was Ky Com – Vu Binh Nghi. Why did the North Why did the South migrate and flee across the border? The tradition of the Vietnamese people is to live forever with green bamboo hedges, with ancestral graves, with villages. Having to leave without any other choice is a shameful act. I went to the countryside to make a living but then returned after a few years. My childhood national literature textbook stated that only my hometown is the most beautiful place. Lieutenant Phan Lac Tuyen, while participating in the reception operation in Binh Dinh, wrote an immortal song. I came back through the small hamlet, you waited under the coconut trees. The afternoon sun on my hair, the simple love of my homeland. But it was precisely at This simple countryside in Bong Son has never been quiet for 20 years. When the communists rose up with a fierce and excessive total war, they completely destroyed all reconciliation in national sentiment. First, the urban people, intellectuals, petty bourgeoisie and religious people had to Abandon the Resistance and return to the city. Next, leave the North and migrate to the South. In 1954, the Northerners came to the South and awakened the Saigon dragon. After the initial differences, they moved to a time of harmony. The South began to flourish from cuisine to literature and journalism. From literature to business. And harmony knows no borders. Captain Le Cong Danh, a Can Tho nobleman, stood at Nha Rong wharf to welcome migrants and took the petite Northern girl with demi-garcon hair to be his wife. Engineer Lieutenant Nghiem Ke, a playboy from Hanoi, had to go all the way to Bien Hoa, Buoi region, to marry Be and make her his main wife. He lived for 20 years in military camps with 8 children born one after another. Lieutenant Giao Chi, who went to the Dinh Tien Hoang campaign, had to go all the way to Rach Gia to bring home a beauty from Kien Giang. After more than 60 years of old love, he realized that it was not only Da Lat that had Than Tho Lake, but also in the North. Hau Giang also has quite a few. The young Northern officers who went to Saigon each brought back a lake of complaints. When she arrived in the United States, she was still complaining through her cell phone…
After the tragic 1954, the story of North-South love continued in all fields. Together, they built two Republics with a beautiful army. Until 1975 and then until today, 2024, Vietnamese people continued to leave the country. From evacuation to border crossing, sea crossing, reunification, HO, mixed-race. Why do we leave our homeland? One go is one goodbye. Once gone, there is no turning back. In 1954, when the Northern migrants left, they had little hope of returning to their old place. The song “Towards Hanoi” was sung day and night on the radio. Until the impatient government had to issue a ban. The wings North-South communication postcards were intermittent for a few months and then cut off after two years of separation. During the 1960s, Hanoi opened the Ong Cu line, sending cadres to the South to build infrastructure and create a war that even former communist party member Duong Thu Huong today considers to be a wrong war. , sacrificing too many lives and potential of both sides of the country.
Today, on the occasion of the 65th anniversary of the Geneva Accords that divided the country, let us reflect on the life that has led the Vietnamese into exile. There will be no answer that can be considered the truth for a historical problem In everyday life, there are so many mysteries that have no answers. Why are some people happy and some people miserable? Why are some people sacrificed and some people survive? Why are some people successful? and who fails? Historical dates like July 20th, April 30th are just marks in the life of a nation, of a community. Those are the days of bitterness blossoming. Recently the most civilized nations of the Western world including Russia, Germany, England, France, Canada, Australia, America and many others attended the 70th anniversary of the Normandy landings. Now we are also citizens. Citizens of a civilized country like the United States, let’s remember the historic day of July 20th 70 years ago, marking history is a way of behaving of civilized people. Once again, let me remind you that July 20, 1954, 70 years ago, the Geneva Accords divided the country in two. One million people from the North migrated to the South. Why did the Vietnamese leave their homeland? That question is for you. taste. Since April 30, 1975, over two million Vietnamese have left their homeland. Why did the Vietnamese leave their homeland? That question is also for you. Why are you leaving? Why return? Why not return? Return to the homeland. A question for a lifetime. A question for a generation. Is this true for Vietnamese exiles? Poet Do Trung Quan wrote: Homeland, each person has one Like just one mother… Is this true for Vietnamese exiles? Or as Vu Hoang Chuong lamented: We are the people who were born in the wrong century. Homeland abandoned, race despised. Is it really that painful? Do we take our homeland with us when we leave, or do we leave it behind? With the path of settling down and making a living in this land, are we living happily in our new homeland? Professor Elie Wiesel, a Romanian-born Jewish American, Holocaust survivor who was saved at age 16. Naturalized as a US citizen in 1963. Winner of the Nobel Peace Prize in 1986. He said: Wherever I live with freedom and happiness, that is my home.
Butwhosaidthat anti-Communism is not anti-the whole homeland. Whetherold or new homeland. Giao Chi.
On July 20, 2014, I organized the 60th anniversary of farewell night to Hanoi with the participation of musician Vu Duc Nghiem and many friends from Hanoi. In 2019, I organized the 65th anniversary of Remembering Hanoi. There are not many friends from Hanoi left. people. Instead of missing the old city on Saturday night, we organized 11:00 am on Sunday, July 21, 2019 at Phu Lam restaurant. Not only for the Northern migrants who are not many left . I would like to invite friends from the Central, South and North to come together, both the second and third generations. If the national day of hatred on April 30, 1975 is still full of pain, then the national day of hatred on July 20, 1954 is only a memory. peaceful memories of North-South love.. Let’s review old stories from the mid-20th century to the 21st century. The program is very simple. But extremely meaningful and full of emotions. Let’s review the eternal answers in the United States. Who are the Vietnamese, why did they come here and when did they come? Last week’s San Jose Mercury News published pictures of two famous old Japanese men. of the United States also recalled the story of two boys and their families being imprisoned in a concentration camp during World War II. One later became mayor of San Jose and then Secretary of Transportation under President Bush. He became a federal representative. In response to the youth of the future generation, both Japanese men said: Whatever you do, you must always know who you are. So after so many years of dominating the American political arena, when they were old, Minister Mineta and Congressman Honda suddenly remembered that they were Japanese. With 70 years of remembering the 1954 migration. With 49 years of remembering the life-changing event of 1975. We, though Became an American but always remember who you really are.
Giao Chi San Jose
This article is dedicated to my wife, a female student from Kien Giang who had the courage to follow a Northern lieutenant stationed in Ca Mau and throughout the battlefields of the Eastern and Western regions of the South.
There are so many people in the world, but why do I only see you? The 87-year-old woman still burns incense in Apriland
sheds tears in July.
Bring Dinh Bang communal house in Hanoi to the Viet Museum in San Jose USA
Lieutenant of Northern Vietnam migrated and met a student in Kien Giang,Now she has become a woman, burning incense for April and shedding tears for July migration.
LÊ XUÂN NHUẬN – THƠ SONG NGỮ DƯỚI GIÀN HOA GIẤY TÍM
Như Ninh NGUYỄN HỒNG DŨNG: Thăng Hoa Cuộc Đời – Kỳ 48, 49, 50, 51
THĂNG HOA CUỘC ĐỜI
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 48 Hoành Sơn Nhất Đới, Vạn Đại Dung Thân
Núi Yên Tử xanh ngát, từng cụm mây trắng, hồng lãng đãng phủ trên đầu theo gió xuân tan dần khi ánh sớm mai chiếu rọi. Những cụm tùng già nua với các nhánh gãy bởi thời gian còn vương vấn níu kéo tạo biết bao khúc khuỷu đu đưa giữa trời mây lơ lửng nửa chừng. Từng bầy sơn ca túa về từ khắp nẻo như chào đón ánh thái dương vừa chớm bừng lên.
Bến sông Tuyết giang rẽ giữa mạn trung du đã có kẻ đợi đò từ lúc chưa hừng sáng. Họ là những cư dân trong vùng hoặc vài kẻ lãng du đây đó trong chốn hồng trần. Hôm ấy là tiết Thanh minh, khí trời dìu dịu làm ngây ngất lòng người, lại càng se se lâng lâng những tâm hồn thoát tục đang muốn tìm một nơi ẩn dật, tiêu dao thú sơn thủy hữu tình.
Trên bờ sông, ánh thái dương chiếu tia nắng vàng nhạt xuyên qua từng bước chân lữ hành tạo chiếc bóng ngả dài di động về phương tây cùng nhịp nhàng, đều đặn dìu dặt với đôi chân lão đạo sĩ đang tiến đến dãy núi Ngọa sơn. Con đường đất vốn phủ một lớp bụi vàng bị sương khuya rơi hạt làm ướt dẻo mặt lộ tạo những dấu chân in đậm nét khoang dung của lão đạo sĩ như triện ấn vừa đóng xuống chưa kịp ráo mực nơi chốn đương quyền.
Đạo sĩ, vâng, đúng là một đạo sĩ, người lão cao vừa tầm thước, vóc dáng còn sót nét lẫm liệt của thời hùng anh cái thế, nhưng đôi mắt không dấu sự phúc hậu nhân từ của bậc đức hạnh cứu nhân độ thế. Đầu tóc lão búi theo hình trái tim buộc bởi miếng vải điều vắt vẻo ngang vai trong tư thế đường bệ. Chiếc áo đỏ ngả sang màu nâu nhạt đã nói lên dấu tích của kẻ từ quan chán mùi trần tục. Đôi mắt lão đạo sĩ chợt nhìn lên bầu trời, ngừng một giây qua cách suy tư rồi như bừng sáng lên trong ý nghĩ, lão quay sang thúc giục chú tiểu đồng đang lửng thửng bước sau:
-Nào nhanh lên, có khách đang đợi ta ở am Long Vân sơn môn đấy!.
Dứt lời thì lão đạo sĩ đã cận kề bến đò, chiếc ghe cắm sào xôn xao rước khách thương hồ, chờ kẻ cuối cùng lên khoan, thầy trò lão đạo sĩ mới tiếp tục bước xuống ngồi sát mũi ghe. Dòng nước êm ả đưa đẩy chiếc thuyền xuôi chiều dưới nắng ban mai hòa nhịp với đôi bàn tay rắn chắc của cô lái đò duyên dáng khua động cặp chèo lướt nhẹ trên sông.
Giữa sông nước hữu tình đón nhận buổi bình minh rạng rỡ, lão đạo sĩ ngồi yên trong chốc lát chợt như bất thần nhìn nước chảy rồi khe khẽ than rằng: “Lại một trận tranh bá đồ vương!!!”.
Đò cập bến nãy giờ, khách lên bờ đã hết mà đạo sĩ vẫn còn ngồi đấy đăm chiêu. Chú tiểu đồng xớ rớ một hồi rồi lên tiếng:
-Lão trượng! lão trượng! đã đến bờ rồi.
Tâm thần Tuyết Giang Phu Tử như đắm chìm trong nỗi suy tư về thế sự, đạo sĩ buông tiếng thở dài rồi ung dung đứng dậy trả tiền đò, trở bước khỏi khoan cùng tiểu đồng hướng về cửa núi.
Mặt trời bỗng chốc lên cao, nắng xuân bắt đầu đẩy đưa những tia nóng xuống chốn trần thế khiến bộ hành có vẻ khó chịu. Thầy trò đạo sĩ đi ngang qua làng dương liễu theo hướng ngược lên xóm Tràng Xuân, nơi am thất của lão; hai bên vệ đường, những ngôi mộ cổ xưa cùng mả mồ hoang liêu đã được dân quê giẫy cỏ, sửa sang hương khói nhân tiết Thanh Minh khiến quang cảnh chung quanh đượm chút hữu tình “âm dương đồng nhất lý”.
Trúc vàng lên măng sau mùa đông dài năm ngoái đã xanh tốt đến nỗi tàng lá phủ kín lối đi trước am Long Vân sơn môn. Cây bàng phía trái cổng ra vào vươn nhành lộc ôm ấp hàng hiên cùng nửa góc ao bên hòn giả sơn bốn mùa bất động. Cảnh vật xung quanh thật yên lặng, bình an!
Khách là một đại nhân trung niên mặt mày thông thiên bát cổ nhưng cách ăn bận, phục sức thì quả như một sĩ phu ẩn danh. Áo trắng ngả màu vàng nhạt, trên đầu quấn chiếc khăn nâu trong tư thế vóc người khanh khảnh cao cao. Đôi hài đen phủ một lớp bụi đường chứng tỏ khách là một kẻ phương xa mới đến. Bên cột nhà ngoài hiên, chiếc yên ngựa và roi da nằm sờ sờ một góc nói thêm rằng khách phải đi ngựa từ vạn dặm đến đây tìm chủ nhân có chuyện cậy nhờ.
Vừa thấy đạo sĩ bước vào dưới tàng diệp trúc vòng qua mé hiên, người khách mặt mày hớn hở chấp tay vái chào rồi tự xưng danh tánh:
-Tôi đây họ Nguyễn tự là Hoàng xin bái kiến Trình Tuyền Hầu Thái Phó Trình Quốc Công.
-Không dám, không dám! hóa ra ngài là Đoan Quận Công đấy à. Bấy lâu lão phu chỉ được nghe danh tướng công mà chưa hân hạnh gặp mặt. Chẳng hay tướng công quang lâm tệ xá của lão phu có điều chi chăng?
…Nguyên, Mạc Đăng Dung soán đoạt ngôi vua, giết chết Lê Chiêu Tông, tự lên ngôi hoàng đế lập ra triều đại nhà Mạc. Biết bao kẻ bất bình và phẩn uất trước sự soán đoạt của họ Mạc, trong đó có con trai của Nguyễn Hoằng Dụ là Nguyễn Kim làm chức Hữu Vệ Điện Tiền Tướng Công An Thành Hầu dựng cờ khởi nghĩa chống lại Mạc Đăng Dung. Tướng Công An Thành Hầu Nguyễn Kim tìm được người con của Lê Chiêu Tông là Hoàng tử Lê Duy Ninh lập lên làm vua tức là Hoàng đế Lê Trang Tông.
Thế lực nhà Mạc đang hồi thạnh phát, quyền bính tập hợp trong tay Mạc Đăng Dung nên lòng dân càng khiếp sợ. Để đối chọi với họ Mạc một cách hữu hiệu, Nguyễn Kim tập hợp toàn lực binh mã giao cho con rễ là Trịnh Kiểm và con trai trưởng là Nguyễn Uông ngày đêm tập dượt. Nguyễn Kim còn ra sức chiêu nạp binh lương, sai con thứ là Nguyễn Hoàng dò la tung tích các vị quan, tướng bất mãn với nhà Mạc đặng gây thành một thế lực, chung tay góp sức lấy lại cơ đồ nhà Lê từ Mạc Đăng Dung.
Cờ chính nghĩa dựng lên được muôn dân nhất tề ủng hộ. Binh sĩ có kỷ cương, quân lương có trật tự, tinh thần hưng chấn quy phục Lê triều càng ngày càng đông, mà lý tưởng trừ gian diệt ác lại càng ngày càng được hỗ trợ, nên đoàn quân của Nguyễn Kim trở thành thế lực vững chải đủ sức chống lại quan quân nhà Mạc. Được tin động trời như vậy, Mạc Đăng Dung mua chuộc Dương Chấp Nhất tìm cách đánh thuốc độc sát hại Nguyễn Kim.
Trịnh Kiểm điều khiển toàn bộ binh quyền sau khi Nguyễn Kim bị sát hại nên được vua Lê Trang Tông sở cậy đại nghiệp khôi phục cơ đồ. Trịnh Kiểm khởi binh tiến đánh nhà Mạc, đi đến đâu nhân dân hưởng ứng đến đó nên chẳng mấy chốc mà Trịnh Kiểm đã lấy được thành Thanh Hóa, dựng Lê triều đại kỳ chạy từ Thanh Hóa vào đến cực nam.
Trịnh Kiểm là kẻ thời cơ chủ nghĩa, lòng dạ gian manh, thao túng tất cả quyền hành Lê triều, một tay sanh sát trên dưới, tự tung lèo lái non sông. Thoạt đầu, Nguyễn Uông cũng ở vị trí ngang quyền với Trịnh Kiểm, nhưng dần dà Trịnh Kiểm tiêu diệt tay chân thân tín của Nguyễn Uông khiến vị tướng khai quốc công thần này phải lên tiếng phản đối. Họ Trịnh biết mình khó bề thao túng hoàng cung nếu Lạng quận Công Nguyễn Uông còn là vị trụ tướng Lê triều, Trịnh Kiểm tìm cách ám hại họ Nguyễn và sát hại hàng tuỳ tướng của Nguyễn Uông làm cho những kẻ phản đối Trịnh Kiểm cũng không dám một phen hó hé.
Trước tình cảnh chém giết để tranh giành thế lực xảy ra trong cùng một đại gia đình của đệ nhất công thần Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm càng ngày càng tỏ ra hống hách và biết bao công, hầu, khanh, tướng tận trung với nhà Lê đều phải chết dưới gươm họ Trịnh. Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng trở nên cô đơn, sống trong triều Lê mà như ngủ dưới lưỡi hái của tử thần, ăn trong bát vàng mà tưởng chừng như nuốt từng liều độc dược. Muốn báo thù cho anh mà trong tay chỉ còn lại trơ trọi những lằng chỉ chi chít vô tình, Nguyễn Hoàng như kẻ sầu đời cho qua những ngày đèn treo trước gió. Trịnh Kiểm càng ngày càng áp đảo vua Lê mà bá quan văn, võ không có ai đủ bản lĩnh lên tiếng can ngăn. Hoặc giã nhiều kẻ sợ liên lụy đến gia quyến mà rũ áo từ quan vui thú điền viên thơi thảnh. Hoặc có kẻ điêu ngoa xảo quyệt được một phen hùa với lũ gian thần đặng kiếm chút quyền hành, bổng lộc. Nói tóm lại, trong triều Lê chỉ còn lại bọn chó săn cho Trịnh, hoặc những kẻ cơ cầu đui, điếc, bất tri. Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng sực nhớ đến vị lý số tài ba nơi am Long Vân sơn môn bên giòng Tuyết giang mà bao đêm họ Nguyễn nghĩ rằng người này có thể hóa giải cơ trời, giúp ta khôi phục uy quyền của vua Lê cùng báo thù luôn cái hận giết anh để nắm trọn quyền bính trong tay. Vì vậy Nguyễn Hoàng giả cách đi săn đặng lặn lội xa xôi gặp cho bằng được Thái phó Trình Quốc Công tức Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên sinh.
Là đệ tử chân truyền của cụ Bảng nhãn Lương Đắc Bắc, một lý số gia tinh thông Thái Ất Thần Kinh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm được thọ giáo tất cả những nẻo huyền cơ chi mật từ người thầy quán thông kim, cổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng là bậc nhân hậu, pháp thuật cao cường, đây đó chu du mà dùng phép mầu diệu dụng đặng giúp ích thế nhân. Năm Đại Chánh thứ sáu triều đại Mạc Đăng Doanh, Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đỗ trạng nguyên, phong tới chức Tả Thị Lang, rồi thăng hàm lên Đông Các Đại Học Sĩ .
Mặc dù có chức tước cao trọng như thế, nhưng kẻ sĩ thà “ngày ba bửa vỗ bụng rau bình bịch” còn hơn là phò vua không anh minh, soán đoạt cơ đồ của Lê triều như Mạc Đăng Dung; thì dù được phong tới chức Tể tướng, lão cũng không màn. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhất định từ quan, về ẩn dật nơi am thất cửa núi Long Vân, cạnh giòng Tuyết giang để hằng ngày ngao du sơn thủy.
Biết Trình Quốc Công trú ngụ nơi làng quê hẻo lánh này, Nguyễn Hoàng cỡi ngựa thân hành trực chỉ nam phương đặng bái yết tiên sinh thỉnh ý. Nghe câu hỏi vừa dứt, Nguyễn Hoàng nhập đề không chút do dự:
-Thưa lão trượng! Tôi đây có miệng như câm, có tai như điếc, thấy bào huynh bị giết mà chẳng dám nhỏ giọt lệ xót thương. Riêng bổn mạng của tôi chẳng khác nào sợi chỉ treo cả ngàn cân, càng để lâu lại càng nguy đốn. Xin Tiên sinh vì lòng hào hiệp chỉ bảo cho tôi được mở mắt nhìn đời.
Vẫn đứng yên trong tư thế ung dung tự tại, Trình Quốc Công nhìn thẳng vào mắt Nguyễn Hoàng rồi nhết mép cười, đáp:
-Bấy lâu nay lão phu xa lánh việc đời, chuyện trần tục gác bỏ ngoài tai nên thế sự xoay vần mà lão nào có để ý.
Nguyễn Hoàng hạ thấp giọng năn nỉ:
-Thật là khó khăn vô cùng mới tìm được đến nơi tiên sinh, nếu tiên sinh không chỉ bảo đôi điều thì Hoàng này trở về cũng chết.
Ngẫm nghĩ một đỗi lâu, Trình Quốc Công gật gù rồi bảo:
-Nếu Quận công có lòng chí thành muốn biết kiết hung về đường bổn mạng thì phải ăn chay ba ngày, chí thành khẩn nguyện âm dương. Đúng giờ Tý ngày Mậu thìn lão phu sẽ xủ quẻ Tiên Thiên để đoán xem vận hậu Quận công thế nào.
-Đa tạ tiên sinh.
Khách vừa bước ra, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiễn tận cổng núi Long Vân cho đến khi Nguyễn Hoàng lên ngựa ra roi. Mặt trời đã gần chính ngọ, nắng tháng Ba bắt đầu oi bức mà Trình Quốc Công cảm thấy tê dại trong lòng. Trở gót bước vào thư phòng, vừa đi, Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa như nói với chính mình: “Quốc gia loạn lạc đến kỳ, rồi đây muôn dân còn thêm đồ thán, âu cũng là định mệnh thiên cơ muốn đất nước chia thành hai nẻo.”
Đêm xuống thật sâu, bóng trăng mờ nhạt khó khăn tỏa ánh chiếu đục ngầu qua làn sương khuya, vầng trăng không còn rõ nét như một vệt lân tinh chênh chếch chân đồi. Dưới tàng trúc, ánh trăng xuyên qua kẽ lá vẽ lên mặt đất những hình thù kỳ quái, loang lổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm tựa lưng vào mỏm đá cạnh hòn giả sơn, mặt quay về núi Yên Tử tìm một phút an nhiên trong thiền định. Trớ trêu thay, càng tập trung tư tưởng bao nhiêu, những hình thù loang lổ dưới chân như múa may quay cuồng bấy nhiêu để đùa giỡn với nỗi niềm dâu bể mà chính tiên sinh chưa dám nghĩ đến. Một làn gió lạnh thổi qua, chiếc áo choàng không còn dịp phần phật rung rinh vì sương khuya như nhuộm ướt cả y trang và thấm sâu vào tâm khảm của người.
Gà rừng cất giọng đầu canh, tiếng gáy mang chút hoang dã, cô đơn bỗng trở thành tiếng kêu vô vọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm bừng mắt, vươn vai như trải qua một cơn mộng ảo. Tiên sinh vừa đi mà tâm trí vẫn còn vướng mắc một nỗi xốn xang chưa hề ngưng đọng: cái hậu quả khốc liệt mà quốc dân phải gánh chịu lâu dài khi mình không cải được ý trời. Thật ra, từ khi sang xuân, tiết Nguyên đán nhân ngày chánh nhật, Tiên sinh đã thu đạt cơ trời nhân xủ quẻ đầu năm khai bút. Chuyện gì đến sẽ đến là lẽ mầu nhiệm của đất trời, một con người như hột cát mỏng manh múa may quay cuồng theo hướng gió, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm ta đây cũng chỉ là hạt bụi mong manh dùng thiên cơ để tiết lộ uyên nguyên của vô thường. Vừa suy nghĩ như vậy, tiên sinh như nhận ra chân lý đích thực của hồng trần bèn khe khẽ ngâm nga:
“Non sông nào phải buổi bình thời,
Thù đánh nhau chi khéo nực cười.
Cá vực chim rừng ai khiến đuổi,
Núi xương, sông huyết thảm đầy vơi…”
Tiếng ngâm vừa dứt, Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng bước ra trước mặt Trình Quốc Công rồi cúi rạp người vái chào tiên sinh, nhân tiện cất tiếng hỏi:
-Chẳng hay lão trượng vừa ngâm bài thơ ý tứ súc tích, lời lẽ trầm hồn, đấy có phải là lời chỉ bảo cho Hoàng đây không?
-Cơ trời hiển hiện, nhân gian nào ai chống đỡ được đâu! Thôi, giờ tý đã đến, chúng ta vào trong, Quận công chí thành lễ tổ để lão phu chuẩn bị xủ quẻ âm dương.
Ánh sáng tờ mờ của ngọn đèn mù u chỉ đủ rọi một khoảnh nhỏ chiếu lên chiếc đĩa bạc nạm rồng. Khói trầm tỏa ra từ chiếc lư đồng xông ngát chung quanh phảng phất bầu không gian thật trầm mịch, u linh. Nguyễn Hoàng quỳ trước điện tiền, hai tay chấp hình búp sen bất động. Sau một hồi khấn vái trang nghiêm qua những câu thần phù bí hiểm, tiên sinh nâng tráp gỗ ngang vầng trán rồi xá xá mấy lần đặng mở hộp lấy ra sáu đồng tiền đúc. Không gian chìm đắm trong sự tín thành, Nguyễn tiên sinh kính cẩn gieo từng đồng vào đĩa bạc, tiếng kêu canh cách vang lên một cách khô khan. Mỗi lượt gieo đủ sáu lần tiền, Trình Quốc Công dùng bút lông gạch xuống tấm vải điều theo hình bát quái một lằn rồi đọc to cho cả Nguyễn Hoàng cùng nghe:
-“Càn tam liên tây bắc Tuất Hợi: Triệt” = (Cung Càn trong bát quái đồ hình gồm ba gạch liên tục nằm về hướng Tây bắc thuộc cung Tuất và Hợi, không tốt)
Nguyễn Bỉnh Khiêm gieo đến lần thứ tám thì mồ hôi toát ra từ gáy đến tận trung khu thần kinh khi Nguyễn Hoàng nghe tiếp câu:
-“Ly trung hư chánh nam đương Ngọ: Vượng” = (Cung Ly trong bát quái đồ hình gồm gạch trên liền, gạch giữa chia hai vàgạch dưới liền thuộc hướng Nam, cung Ngọ, thuận lợi).
Nguyễn tiên sinh nhắm mắt bất động. Thân thể và tâm ý ông như theo làn khói nhan trên bàn thờ tổ bay bổng lên hư không. Đoan Quận Công vẫn trong tư thế kính cẩn chí thành quỳ trước điện tiền. Họ không nói với nhau nửa lời vì sợ sự di động nào đó sẽ tan biến đi cái huyền diệu u tịch vô cùng trọng đại này. Cuối cùng Nguyễn Bỉnh Khiêm mở mắt ra nhìn thẳng vào mặt Nguyễn Hoàng rồi chậm rãi nói:
-“Hoành Sơn Nhất Đới, Vạn Đại Dung Thân” = (Một dãy hoành sơn chia cắt, hãy vào phía nam xây dựng cơ đồ thì an ổn nghìn năm).
Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng nghe xong, toát mồ hôi hột rồi đứng lên vái chào Trình Quốc Công và lập tức phóng lên yên ngựa trực chỉ phương Nam.
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
==============
THĂNG HOA CUỘC ĐỜI
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 49 Mở Nước Phương Nam
Chủ khách từ giã xong, đợi cho Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng phi ngựa ra khỏi thảo am, Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh thức tiểu đồng pha trà và đốt thêm một tuần trầm để xông cõi trần thế ô trược này. Lòng tiên sinh cứ bồn chồn khó chịu vì áy náy với chính mình: đành rằng thiên cơ đã định nhưng mình lý giải ra thì chẳng khác nào như vạch đường cho cơ đồ phân ly chia cách. Một chung trà nóng ngát thơm khiến tiên sinh giảm bớt tạp niệm. Gà rừng gáy thêm chặp nữa, ánh sáng tờ mờ khởi chút vừng hồng tỏa rạng ở phương đông. Giờ Dần đã đến, Tiên sinh ngồi kiết già tỉnh tọa trước điện thờ chư vị Thánh Hiền, nửa canh giờ trôi qua như thế cuộc diễn nhanh trong tâm tưởng, tiên sinh sụp lạy rồi khấn vái thật chí thành để tự mình xủ quẻ Tiên Thiên bói đại vận:
“Xem Thái Ất thần kinh ứng chỉ, đất nước này sẽ chia cắt đến vài trăm năm. Phải có một đại nhân xuất hiện, thống nhất sơn hà thành một mối”. Ta tiếc cho già này không còn sống để chiêm ngưỡng vị minh quân ra đời.
Bình minh trên sườn đồi đã thức giấc. Nguyễn Bỉnh Khiêm đứng dậy nắm những đồng tiền xủ quẻ trong tay, tiên sinh trực chỉ hướng đông nam nơi giòng Tuyết giang bốn mùa trôi chảy. Gió sông gờn lạnh hắt hiu quạt vào mặt như một sự trừng phạt vô hình. Nguyễn tiên sinh nói với chính mình như mượn làn gió sớm làm chứng nhân cho lời thệ nguyện: “Thiên cơ bất khả lậu, ta xin chấm dứt từ đây những lý số ứng linh cho can qua khổ nạn”. Nói xong, những đồng tiền xủ quẻ vụt bay vèo xuống dòng nước không một chút ngân vang để gợn tròn lăn tăn đây đó.
Trình Quốc Công gật đầu ra chiều thỏa mãn, nhìn về hướng tây bắc, ngọn núi Yên Tử của phái Trúc Lâm đang thỉnh chuông cho thời công phu sáng ngân nga tận cõi lòng dẫn tiên sinh vào cảnh u hoài tịch tịnh. Kể từ đấy thế nhân hết dịp gặp lại Nguyễn Bỉnh Khiêm, Long Vân sơn môn quán chỉ còn chú tiểu đồng ngày nọ qua tháng kia đợi tiên sinh trở về dùng bữa cơm chiều trong tuyệt vọng.
Ngọc Ninh phủ hôm nay treo đèn kết hoa vô cùng lộng lẫy, gia nhân tất bật nhộn nhịp, lăng xăng sửa sọan cho thật nghiêm trang từ những cành hoa tươi trên bàn đến các chậu kiểng ngoài hàng hiên, đâu đâu cũng hết sức chu đáo, mỹ lệ. Quân lính bên ngoài được lệnh canh phòng vô cùng cẩn mật vì Trịnh Kiểm chuẩn bị đón rước vua Lê Trang Tông ngự tiệc nhân tiết Đoan ngọ mùng Năm tháng Năm. Từ cổng tam quan sặc sỡ đèn hoa, hai hàng cung nữ như những nàng tiên hạ giới đang nghiêm chỉnh trong xiêm y lộng lẫy để rước thiên tử ngự tiệc chí đến sân Ngọc Ninh phủ vốn đã uy nghi từ trước nay lại còn tăng thêm vẻ trang trọng ác liệt.
Ngọc Bảo Quận Chúa ngồi trong chánh thất, lộng lẫy với trang phục diễm kiều có một không hai. Vài tỳ nữ lúc nào cũng chầu chực để được sai khiến bên trong tấm rèm hoa, thị vệ tả hữu túc trực phía ngoài với khí thế đằng đằng, trên tay lăm lăm đốc kiếm.
-“Bẩm quận chúa, Đoan Quận Công phía ngoài xin được vào yết kiến quận chúa”. Một tỳ nữ khúm núm đang tấu trình. Đã bấy lâu, lòng Ngọc Bảo luôn thương tưởng đến người em tài hoa này mà không sao tìm được dịp ghé thăm. Kể từ ngày Lạng Quận Công Nguyễn Uông bị chồng ám hại, tình gia quyến trở nên tương tàn. Nguyễn Hoàng tìm cách xa lánh những hội hè đình đám, một mình giam hãm trong nhà đôi lúc cả năm trời không tham gia một lần giỗ chạp. Ngọc Bảo đang phân vân, chẳng hay ngọn gió tường vân nào đưa đẩy người em thân yêu của ta đến thăm đúng vào dịp thượng hoàng ngự tiệc?
Nguyễn Kim sinh được một gái hai trai đều là tướng của Lê triều. Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng được sắc phong Quận Công. Ngọc Bảo là chánh thất của Trịnh Kiểm nên cả nhà Nguyễn Kim được trọng vọng vào bậc nhất hoàng triều. Tính tình Trịnh Kiểm thì khó lường trước được, lúc nóng giận như hỏa diệm sơn, lúc lạnh tiền như băng tuyết, khi ngọt ngào như từ mẫu âu yếm con cầu, khi điêu ngoa gian hùng chẳng khác nào Tào Tháo khiến quần thần sĩ tốt chẳng biết hư thật thế nào, ngay cả Ngọc Bảo cũng khó lòng đoán biết được chân tướng của lang quân mưa nắng mấy hồi. Nghĩ như vậy rồi lại nhớ đến sự an vui dĩ vãng của gia tộc, bỗng dưng quận chúa xúc động vô độ đến cái chết tức tưởi của Lạng bào huynh dưới gươm của chồng mình, bà vội vàng bước xuống thềm và giục tỳ nữ lập tức mời Đoan Quận Công vào trong phủ để chị em được dịp vấn an.
Vừa thấy bóng em bước vào đầy vẻ khắc khổ phong sương như một người ẩn dật, bộ võ bào trên thân đã sờn cũ, đôi hia mốc thếch bụi đường như kẻ tha phương vừa đến. Quận chúa lộ vẻ xúc động trước tình cảnh thương tâm của gia tộc, nụ cười như chiếu lệ không nở nỗi giữa mặt ủ mày ê. Ngọc Bảo ngồi trên chiếc đôn có nét hoa văn với hình thù kỳ lân sặc sỡ mà tưởng chừng như ngồi trên sự tủi nhục oán hờn. Nguyễn Hoàng liếc nhìn xung quanh, mừng mừng, tủi tủi thăm hỏi qua loa. Biết không có Trịnh Kiểm gần đây nên Đoan Quận Công lựa lời nhờ vả:
-Bấy lâu nay phía Nam không người cai quản, Chiêm Thành ngày đêm rục rịch tiến đánh nước ta, phía ngoài thì họ Mạc hăm he gây hấn, nếu ta không chuẩn bị trước, có lúc trở tay không kịp. Từ ngày thân phụ chúng ta ngộ độc, em vẫn theo phò Lê vương báo đền ơn đức nhưng chưa lập nên công trạng gì để báo bổ non sông. Hôm nay nhân đại yến linh đình, chị cố gắng trình lên Điện hạ chiếu chỉ cho em vào đất Thuận Hóa trấn thủ, như vậy vừa có tướng ở chốn biên thùy án ngữ quân Chiêm, vừa là cách chiêu dân cho triều đình đó. Từ xưa giờ ta vẫn lấy câu “cẩn tắc vô ưu” để phòng hoạn nạn là lẽ thường tình.
-Chuyện em muốn thì cũng không khó, ngặt nỗi sơn lam chướng khí vùng Thuận Hóa kinh hoàng, chị e rằng em vào trấn nhậm chưa tới đâu thì chị lại phải nghe tin buồn em vùi thây nơi rừng thiêng nước độc. Ngọc Bảo có ý cản ngăn.
-Cám ơn chị đã đoái thương cho đứa em máu mủ này. Nhưng thiết nghĩ, làm thân trai ngàn dặm da ngựa bọc thây, sá gì chốn sơn lam cùng cực. Ngặt chỉ mỗi một điều là lâu ngày mới trở về vấn an tôn nhan chị được.
Biết tính khí Nguyễn Hoàng từ thuở ấu thời, một khi lòng đã quyết thì dù có cản ngăn trăm phương ngàn kế chi đi nữa, họ Nguyễn này nhất định phải tìm cách làm cho bằng được. Thôi thì cũng hợp lẽ người mà an ninh cho cả triều đình thì có gì phải từ chối lời thỉnh cầu của cậu em trai. Nghĩ như thế, Ngọc Bảo quận chúa hứa lời:
-Thôi cũng được, chuyện này để chị tấu trình qua lang huynh của em, thế nào cũng thuận. Còn hơn nửa khắc nữa đại yến cung nghinh hoàng thượng giá lâm ngự tiệc sẽ khai mạc, em hãy nán lại chung vui với phủ Ngọc Ninh rồi vái chào lang huynh của em một thể.
-Cám ơn sự săn sóc chu đáo của chị. Em phải về ngay Long Vân quán, ngày mai là húy nhật, kỵ giỗ Lạng Quận Công đại huynh, chị chẳng nhớ sao ?
-À! em không nhắc chị nào có nhớ. Ngặt một nỗi, đức lang quân của chị lúc nào cũng muốn chị quên phức chuyện cũ ấy đi, nên mấy lần huý kỵ mà lang huynh em không thuận cho chị trở về Long Vân quán để đốt hương tưởng niệm huynh đài. Thôi tiện đây chị gởi chút đỉnh trầm hương, ngày mai em đốt hộ thay chị để Lạng Quận Công bào huynh chứng tri cho.
Nguyễn Hoàng bước tới đở lấy gói trầm. Nghe tiếng thở dài mang bao nỗi sầu lụy bi ai của chị thoát ra, Nguyễn Hoàng cảm động vô cùng rồi rưng rưng như xoa dịu sự đớn đau chảy tràn vào hồn cả hai:
-Chị đừng bi lụy mà héo hắt ngọc diệp kim chi, chuyện sinh tử trong thế gian đều theo duyên nghiệp sanh sanh hoại hoại. Kìa các vị tướng quốc đã tấp nập đến rồi; ngày mốt vào giờ Dậu em trở lại nhận ấn chỉ vào Nam. Chị cố lo cho, em xin đa tạ chị muôn vàng.
Màn đêm khó phủ xuống cung thành khi ánh hoa đăng rực rỡ hắt thứ ánh sáng chói ngời lên ngọ môn nơi bức hoành khắc ba chử “Ngọc Ninh Phủ” lồ lộ, oai phong như lưỡi kiếm sẵn sàng chém xuống đầu những kẻ nghịch mạng lai vãng chốn công quyền đầy uy phong bạo lực.
Tiệc tàn lúc canh hai, khách khứa say tuý lúy. Lê Trang Tông ngà ngà nhưng cố giữ nét oai phong của bậc vương gia. Vài ba quan văn, dăm ông quan võ sợ uy của Trịnh Kiểm nên chen nhau chúc tụng chủ nhân không tiếc lời. Nào Trịnh Kiểm đại nhân đại đức, nào Trịnh Kiểm văn võ song toàn, nào chúa Trịnh quán thông kim, cổ…làm cho vua Lê cũng áy náy không cùng. Quan văn Phùng Khắc Khoan nhìn Đỗ Uông và Nguyễn Nhân Thiện lắc đầu ra chiều chán nản cái cảnh cúc cung của bọn gia nô. Những vị quan văn này nể lời của Trịnh Kiểm nên phải tới dự, song họ không dùng rượu như đám gian thần vô tài bất tướng. Võ quan Hoàng Đình Ái và Nguyễn Hữu Liêu ngồi tận góc đại sảnh, uống lấy lệ từng ngụm rượu hoa đào mà ngao ngán nhìn thiên hạ kiêu ngạo chúc phúc cho nhau. Không mấy kẻ chú ý đến nhà vua khi hoàng đế Lê Trang Tông có ý ra về, Phùng Khắc Khoan kéo tay Hoàng Đình Ái, hai người đứng lên như hộ giá cho vua Lê rời Ngọc Ninh phủ vào cuối giờ Hợi. Đoàn kiệu giá đưa hoàng thượng hơi quá nửa sân, Trịnh Kiểm giả vờ chạy ra có ý luyến tiếc tiệc tàn hơi sớm kèm vài lời cám tạ ân đức Lê triều.
Sự chuyên chế của Trịnh Kiểm càng ngày càng lộ rõ, lấn áp quyền hành của Lê Trang Tông, tiền trảm hậu tấu khiến quần thần nhiều kẻ khiếp đảo, nhu nhược. Sau khi giết chết Lạng Quận Công Nguyễn Uông, ít ai còn dịp lên tiếng phản đối hành động bạo ngược của họ Trịnh. Nhiều kẻ thấy vậy a dua theo, nhưng cũng không ít người khinh khi, bất phục.
Đợi cho gia nhân dọn dẹp xong xuôi, đèn đuốc được hạ xuống và cổng ngọ môn đã đóng chặt, quân lính ngoại thành đánh cồng báo hiệu sang canh thì quận chúa Ngọc Bảo rón rén tới cạnh phu quân thỏ thẻ:
-Đại yến hôm nay thật là sung mãn. Hoàng thượng và quần thần hết sức hoan hỷ. Thiếp nghe hoàng thượng ban khen cho phu quân tới sáu tuần mỹ tửu lận đấy.
-Đúng vậy! đúng vậy! nhưng hoàng thượng ban khen cho lấy lệ chứ đáng ra ta ban khen cho nhà vua mới phải lẽ!!! Sau một tràng cười khoái chí ra chiều đạt đến trạng thái thống khoái nhất trần gian, bỗng dưng Trịnh Kiểm ngưng ngang, nghiêm sắc mặt, nhìn thẳng vào mắt Ngọc Bảo, hất hàm hạch hỏi:
-Lúc chạng vạng có người báo cho ta biết Nguyễn Hoàng đến đây gặp nàng với dụng ý gì?
Bị hỏi quá sức bất ngờ, hồn vía quận chúa hồn phi thất đảm, nhưng vốn là một bậc nữ lưu có tiếng thông minh hữu hạng ở kinh thành, Ngọc Bảo định thần trong chớp nhoáng rồi bình thản trả lời như thể không có gì xảy ra:
-Đoan Quận Công ghé đây thăm thiếp và lang quân. Thiếp cố mời cậu ấy nán lại để dự đại yến nhưng cậu ấy không thể ở lâu. Dạo này bị bịnh đau gan, vàng ửng cả mắt lẫn da nên phải cần thuốc thang hàng ngày. Thật là tội nghiệp! Cậu ấy than rằng phương Nam triều đình ít chú ý, phòng thủ; nếu Chiêm Thành cử đại binh Bắc tiến thì thật là nguy cập, lúc ra về cậu ấy thưa rằng nếu tướng công rảnh rỗi thì bẩm báo với tướng công định đoạt.
-À ra thế, ta cũng có nghĩ thoáng qua nhưng công việc chống đỡ nhà Mạc phương Bắc đã mất hết thời gian. Hay là, này quận chúa! Ta thấy Đoan Quận Công ở triều ca cũng chẳng làm gì, chi bằng sắc phong cho cậu ấy trấn nhậm vùng Thuận Hóa thì hay biết mấy. Trịnh Kiểm nhìn vợ thăm dò, Ngọc bảo nghe như vậy thì lòng mừng thầm vì dẫu sao cũng giúp em toại ý, nhưng nàng giả bộ giẫy nẩy:
-Trời ơi! vùng Thuận Hóa đầy sơn lam chướng khí, đất rộng, người thưa vô cùng hiểm độc. Tướng công sai khiến cậu ấy vào nam thì chắc gì có dịp hàng năm trở về thăm thiếp.
Trịnh Kiểm đưa tay gãi đầu ra chiều ngại ngùng:
-À! đừng nghĩ vậy mà oan cho ta. Trịnh Kiểm giải thích:
-Đoan Quận Công là người có tài, có trí, lanh lẹ khôn ngoan. Người như vậy không dễ gì bó tay trước những trở lực của sơn lam chướng khí. Quận chúa nghĩ thử ý ta có đúng không?
Sợ phu quân bất ngờ thay đổi ý kiến thì hỏng công việc của em, Ngọc Bảo thở dài một tiếng ra điều khổ não rồi đến bên chồng âu yếm thưa rằng:
-Dòng họ của thiếp chỉ còn Đoan Quận Công, được tướng công đoái hoài thì cũng là phước báu. Thôi thì, chuyện quốc gia bảo vệ biên thùy là việc đại sự không nên chần chừ. Nếu lòng đã quyết, sáng mai thiếp triệu Đoan Quận Công diện kiến cho phu quân sai bảo.
Thật ra, từ khi sát hại Lạng Quận Công Nguyễn Uông thì tâm ý của Trịnh Kiểm ngày đêm lo ngại Nguyễn Hoàng phục hận. Do đó, Trịnh Kiểm nhiều lần mưu hại Nguyễn Hoàng cho bớt nỗi lo canh cánh bên lòng. Ngặt một điều, Đoan Quận Công là người thông minh dĩnh ngộ, nhân hậu khiêm cung, được lòng các tướng bề trên, không một lỗi nhỏ nên kẻ dưới luôn kính yêu, ngưỡng mộ. Vua Lê Trang Tôn tỏ ra quý mến người tài mà sợ Trịnh Kiểm can ngăn nên mấy lần định sắc phong phẩm trật thì lại hủy bỏ. Nguyễn Hoàng thừa biết chuyện ấy nhưng lúc nào cũng tỏ ra bất cần danh vọng, lại ăn nói lễ độ, khôn ngoan nên Trịnh Kiểm khó lòng trừ khử. Cây gai trước mắt xốn xan con ngươi chưa biết cách nào nhổ bỏ, hơn nữa chuyện sát hại Nguyễn Uông vẫn còn âm ỉ khiến hàng Văn, Võ có kẻ không phục thì Nguyễn Hoàng dù có gì đi nữa cũng phải hạ hồi phân giải. Mặt khác, Ngọc Bảo lúc nào cũng lấy lời lẽ dịu ngọt mà che chở cho em nên khiến Trịnh Kiểm chưa nỡ ra tay sát hại. Trịnh Kiểm như kẻ chết đuối vớt được chiếc phao, bỗng dưng có lời đề nghị cao minh như vậy thì quý hóa vô ngần. Giết không được thì nên đày đi cho đỡ lo lắng, đó là kế hoạch nảy nở trong đầu họ Trịnh.
-Ta đã nghe cấp báo nhiều lần về việc Chiêm Thành động binh quấy phá mạn Nam. Chuyện này như cứu hỏa, trễ nải một ngày thì an nguy bá tánh khôn lường. Ngày mai ta sẽ tâu trình hoàng thượng để xin chiếu chỉ cho Đoan Quận Công trấn nhậm Nam phương. Trịnh Kiểm nở nụ cười khoái chí như vừa trút được gánh nặng ngàn cân.
Trống đã điểm canh hai, gia nhân dọn dẹp xong cũng vừa đi ngủ. Toán thị vệ tuần tra phía Thiên Bửu phủ nghe bước chân rầm rập vang vọng trong đêm vắng. Ngọc Bảo sửa soạn chăn mùng mời chồng an giấc, Trịnh Kiểm vẫn còn men rượu nên vừa nằm xuống thì tiếng ngáy vang như sấm bắt đầu trổi lên pha với mùi mai quế tửu nồng nặc gian phòng.
Khác với chồng, Ngọc Bảo không tài nào ngủ được. Quận chúa cố dỗ giấc ngủ bằng sự tỉnh tâm nhưng rồi trống đã sang canh mà thân bồ liễu vẫn còn trăn trở. Càng định tâm chừng nào thì hình bóng của Lạng Quận Công càng vởn vơ trong đầu chừng nấy. Quận chúa ngồi dậy uống nước, lần bước ra tự đường đốt một nén nhang rồi quay trở lại. Vừa chợp mắt một xíu, quận chúa thấy một điềm mộng rất đỗi kinh hoàng. Ngọc Bảo ú ớ không thành lời rồi cuối cùng hét lên thất thanh.
-Cái gì vậy quận chúa? tỉnh lại! tỉnh lại! giọng Trịnh Kiểm vẫn còn ngái ngủ.
-Ái dào! thiếp vừa trải qua một điềm chiêm bao rùng rợn hãi hùng. Thôi tướng công ngủ tiếp đi rồi ngày mai thiếp kể cho nghe.
Trịnh Kiểm ngồi dậy, vươn vai, vỗ trán lấy lại sự tỉnh táo sau một giấc mê mệt.
-Ta cũng hết buồn ngủ rồi. Hãy kể cho ta nghe thử nào, không khéo ngày mai lại quên mất.
Quận chúa ngồi dậy, mắt vẫn nhìn đăm chiêu ra cửa, hai bàn tay úp trên ngực rồi kể giấc chiêm bao cho chồng nghe trong hơi thở hồi hộp:
-Thiếp thấy một con rồng vàng bay trên Ngọc Ninh phủ bảy vòng rồi hạ xuống trước đỉnh đồng ngoài sân. Nó đi thẳng vào tự đường, dùng chân đá thốc vào chính giữa cửa rồi nhảy lên bàn thờ quậy phá lung tung. Cuối cùng con rồng gắp chiếc bài vị của phụ thân thiếp bay lên cao hướng về phương Nam. Thấy như vậy nên thiếp đuổi theo và rơi vào hang đá bên vực thẳm thiên nhai.
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
===========
THĂNG HOA CUỘC ĐỜI
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 50 Rồng Bay Về Nam
Nguyên năm Đinh Mão (1567) Quận chúa Ngọc Bảo đang thọ thai được tròn ba tháng, mưa thuận gió hòa và dân chúng làm ăn có phần dễ chịu hơn mấy năm trước. Nhiều nơi trong nhân gian đã làm cối xay gạo hầu sắp đặt gặt hái xong thì lúa sẵn sàng được xay. Để chuẩn bị cho đứa con ra đời với cái tên gắn liền đến sự phát triển của muôn dân, Trịnh Kiểm đã ngẫm nghĩ đặt danh tánh cho đứa bé này phải là cái cối xay cho trăm họ nhờ vả, vì vậy mà sau này cái bào thai đó ra đời mang tên ngộ nghĩnh: Trịnh Cối. Nghe vợ vừa kể điềm chiêm bao rằng, thiếp thấy một con rồng vàng bay trên Ngọc Ninh phủ bảy vòng rồi hạ xuống trước đỉnh đồng ngoài sân. Nó đi thẳng vào tự đường gắp chiếc bài vị của phụ thân thiếp bay lên cao hướng về phương Nam. Thấy như vậy nên thiếp đuổi theo và rơi vào hang đá bên vực thẳm thiên nhai. Dứt câu chuyện, Trịnh Kiểm khoái chí đứng dậy cười vang vang ra chiều đắc thắng. Tiếng cười ha hả vang vọng trong thinh không khiến đội tuần tra phải mấy lần dừng lại kiểm soát.
-Như ý của ta, như ý của ta! Trịnh Kiểm tự thốt lên lời.
Từ khi sát hại Nguyễn Uông để tóm thâu quyền lực trong tay, Trịnh Kiểm lấn áp triều đình, coi thường hoàng đế, một mình chuyên quyền định liệu mọi việc hưng suy của quốc gia. Mộng của họ Trịnh là phải lên ngôi thiên tử như nhà Mạc đương thời đóng đô ở phía bắc. Ngặt một nỗi từ trên các đại thần quan tước, đến dưới muôn vạn nhân dân đều tỏ ra không ưa nhà Trịnh mà chuyện soán ngôi thì thiên hạ phỉ khinh. Từ năm Mậu Thân (Tây lịch 1548) khi vua Trang Tông băng hà thì ý niệm soán ngôi đã hình thành trong đầu Trịnh Kiểm. Thái tử Duy Huyến được bá quan văn võ trong triều tung hô vạn tuế để kế thừa ngôi báu đã làm hỏng kế hoạch của họ Trịnh. Thái tử Huyến lấy hiệu là Lê Trung Tôn lại là người hiền từ nhưng không có con cái để nối dõi tông đường. Sau tám năm trị vì, nhà vua đột nhiên băng hà là cơ hội vô cùng quý giá cho họ Trịnh một lần nữa. Trịnh Kiểm họp bàn cùng chư tướng và quần thần thì trăm người như một là muốn tìm lại con cháu Lê triều để kế thừa đại nghiệp. Tính tới, tính lui phân vân trăm kế ngàn phương, bổng Trịnh Kiểm nhớ đến một người mà nhân gian tôn sùng như vị thánh sống “thượng thông thiên đường, hạ triệt địa phủ. (Trên thì thông hiểu thiên văn, tinh tú, dưới thì thấu biết địa lý, âm ty). Vì vậy Trịnh Kiểm sai một người thân tín đi tìm Trình Quốc Công lý giải.
Trình Quốc Công không còn ở trong Sơn môn quán, kẻ dò tìm phải mất nhiều ngày đêm vượt núi băng ngàn, đến tận núi Yên Tử, qua Thanh Hóa, đến Hải Dương với nhiều lụa là gấm vóc tưởng cầu thỉnh ý tiên sinh. Nào ngờ đi mãi theo lời đồn đãi của thiên hạ mà chả thấy tăm hơi. Hơn mười ngày đêm gian truân tìm kiếm khắp chốn, kẻ thân tín định bụng quay về thì vừa đi ngang qua đò trên giòng sông Tuyết Giang, bỗng dưng Trình Quốc Công đứng đó chờ đợi. Kẻ thân tín của Trịnh Kiểm mừng rỡ vô cùng vội vàng dâng lụa là, gấm vóc xin thỉnh ý của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tiên sinh nghe xong thì châu mày rồi nói như thét vào tai kẻ đối diện:
“-Tìm giống cũ mà gieo mạ thì mùa màng hưng thịnh, bằng trái ý tìm lúa mới thì chẳng những thất thu mà còn bị nạn đói hoành hành suốt kiếp”. (Lời khuyên rằng hãy giữ vai trò nguyên trạng, không nên soán nghịch, nếu không thì sẽ bị tai ương).
Được kể lại tỉ mỉ về câu nói ẩn ý của Trình Quốc Công, Trịnh Kiểm ngẫm nghĩ suốt mấy đêm trường rồi bỏ ý đồ cướp ngôi và thân hành đi tìm cháu, chắt của nhà Lê lập đại nghiệp cho chính danh. Hành trình truy tìm hậu duệ nhà Lê cũng không mấy vất vả. Nguyên, bào huynh của vua Lê Thái Tổ là Lê Trử có một người cháu huyền tôn là Lê Duy Bang. Trịnh Kiểm bất đắc dĩ mới lập vị tân vương này với danh hiệu là Lê Anh Tông trị vì. Quyền bính lúc này hầu hết vào tay Trịnh Kiểm, mọi định đoạt tối thượng đều phải có sự đồng ý của họ Trịnh, việc đối nội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng kể cả binh mã đều tóm gọn trong tay một người nên Vua Lê Anh Tông như thể một loại trang sức cho họ Trịnh thao túng.
Mặc dù tin lời tiên tri của Trình Quốc Công nhưng ý đồ soán đoạt ngôi thiêntử chưa hẳn đã dứt, Trịnh Kiểm ngày đêm tìm cách tốt nhất để đưa con cháu của họ Trịnh thay thế họ Lê cai trị bá tánh. Do vậy, khi nghe Quận chúa Ngọc Bảo kể câu chuyện chiêm bao vừa xong, Trịnh Kiểm nghĩ ngay đến uớc nguyện của mình và cho đó là điềm cát tường. Rồi đây cái bào thai trong bụng Ngọc Bảo sẽ trở thành Hoàng đế vì rồng vàng lượn ở trời nam đã báo hiệu cho họ Trịnh ngày mai vô cùng hiển hách.
Vừa tản sáng, Trịnh Kiểm thay đổi xiêm y đặng vào cung yết kiến Lê Trang Tông. Mục đích của cuộc yết kiến này là xin được chiếu chỉ cho Nguyễn Hoàng đặng vào Nam trấn ải Thuận Hoá. Vừa nghe tấu trình xong, vua Trang Tông cau mày tỏ vẻ không ưng thuận vì dù sao Đoan quận Công Nguyễn Hoàng cũng là một trụ tướng của triều ca. Hơn nữa, Nguyễn Hoàng không những là người hiền đức mà còn là nơi thân tình của nhà Lê thì khó mà vua đồng ý với Trịnh Kiểm. Họ Trịnh là người hiểu tâm lý, giỏi thuyết phục, nhưng vua Lê cũng không phải là người vô trí nên vương gia đành bình tâm nghe Trịnh Kiểm phân bày:
-Phía Bắc hiện thời họ Mạc ngày đêm chiêu tập binh mã, lăm le lấy đất Lê vương. Phía Nam Chiêm thành rục rịch lấn sang biên cương lãnh địa. Bắc không phòng, Nam không thủ, thử hỏi bệ hạ ngồi đây thù tạc với kẻ tâm huyết được bao lâu? Ngai vàng là của bệ hạ, xã tắc là của hoàng triều, nếu bệ hạ không nghe những gì tấu trình thì ngày mai chớ xin hờn trách.
Nghe xong, Lê Trang Tông vội vã đứng dậy rồi cười cười nói vớt Trịnh Kiểm: -Khoan khoan! đừng nóng quá, trẫm không nghĩ như vậy. Bấy lâu nay khôi phục giang sơn họ Lê này cũng nhờ vào một tay khanh lèo lái, chuyện phòng thủ phải lưu tâm đúng mức là diệu kế xưa nay. Thôi để ta bảo Phùng Khắc Khoan soạn chiếu chỉ đặng kịp ngày Thìn giờ Thân tiến chỉ.
…Nguyễn Hoàng lăng xăng tiếp khách từ bốn phương về Long Vân quán huý kỵ Lạng Quận Công Nguyễn Uông. Vốn ăn nói hoạt bát, thông văn, thuộc sử lại nghiên cứu kỹ lưỡng về binh thư, đồ trận nên Nguyễn Hoàng rất được nể trọng, từ hàng phẩm trật cung triều cho đến kẻ ngao du sơn thủy, ai ai cũng thích cùng tướng quân đàm đạo kiếm cung. Khách đến đây không những với tấm lòng tưởng nhớ Lạng quận công Nguyễn Uông một thời hưng chấn triều đình, đốt nén hương cầu siêu cho người oan trái, nhưng cũng là dịp mà khách tứ phương đối ẩm với Nguyễn Hoàng bàn luận kim cổ, đông tây. Chính vì vậy mà hừng đông chưa tỏ đã có kẻ lữ hành lò dò thăm hỏi Long Vân toạ lạc nơi nào.
Long Vân quán không nguy nga đồ sộ như Ngọc Ninh Phủ, cũng không hẳn tôn nghiêm như cổ tự Linh Sơn mà ngược lại, nó khiêm tốn ẩn mình dưới hàng tre dày đặc về phía nam cung thành Lê triều vài ba mươi dặm. Long vân quán dựa lưng vào ngọn đồi thoai thoải nhìn ra giòng nước chảy về đông của con sông không tên không tuổi. Từ xa nhìn hướng tây nam, ngọn đồi nhấp nhô trên giòng sông khiến người khéo tưởng tượng thấy con rồng uốn khúc trên mây nên chẳng mấy chốc, chiếc am nhỏ của Nguyễn Hoàng thờ tự bào huynh lại mang tên Long Vân quán.
Tục truyền, ông Nguyễn Hoằng Dụ sinh thời thích uống rượu, ngâm thơ. Vào một đêm trăng sáng, ông vào trong một cái quán ven đường với bầu rượu trên vai. Chủ quán là một ông lão châm thêm rượu cho khách đến nỗi Nguyễn Hoằng Dụ say túy lúy rồi ngủ trên chiếc chõng tre có đến mấy ngày đêm. Tỉnh ra ông thấy mình tọa vị trên phiến đá bằng phẳng, có tàng cây bao phủ như nóc nhà với cảnh trí thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ. Từ đó ông quyết định lập nên một thư quán để kẻ mặc khách tao nhân xa gần quy tụ lại chuyện trò thế sự, uống rượu ngâm thơ. Long Vân quán ra đời thật là tự nhiên như hàng tre xanh tốt tự nguyện chở che và Nguyễn Hoàng dùng nơi ấy như một chỗ an vị hương khói bào huynh.
Sau khi Trịnh Kiểm sát hại Lạng quận công xong, thi hài của Nguyễn Uông được mai táng ở núi Ngũ Châu và thờ tự tại quán Long Vân vì Lạng quận công Nguyễn Uông chính là đích tôn của Nguyễn Hoằng Dụ.
Nguyễn Hoàng nhìn mặt trời đang xế về tây, lòng bồn chồn muốn tiễn biệt khách khứa hầu kịp đến Ngọc Ninh phủ theo lời hẹn của bào tỷ đặng dò la quyết định của Trịnh Kiểm hư thực thế nào. Ngặt nỗi, cả năm mới kỵ một lần, tứ xứ anh hùng hào kiệt sum vầy luận đàm thế thái nhân tình cùng những chuyện thiên địa phong vũ cả hồi lâu mới từ tạ ra về.
Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vừa giáp mặt chị đã thấy Ngọc Bảo tươi tỉnh kể công: -Hoàng thượng đã hạ chỉ nội trong vòng ba ngày em phải vào trấn thủ Thuận Hoá. Rồi hạ giọng vừa đủ cho hai người nghe câu tâm sự như một thành tích lớn lao: -Chị phải thúc lang huynh em cả mấy lần mới được đó.
-Dạ vâng, xin cám ơn chị. Chuyện gì nan giải đến tay chị cũng thành dễ dàng. Nguyễn Hoàng cười nụ như đáp lại tấm lòng của chị mà cũng là sự đắc ý khi thấy kế hoạch tẩu thoát của mình được chấp nhận để ra khỏi lãnh địa triều ca, nơi mà Nguyễn Hoàng hằng ngày bị dòm ngó theo dõi kỹ càng.
Ngoài trời chỉ còn bóng mờ của cái chạng vạng giao hòa giữa âm dương sáng tối. Nói chuyện một đổi về ngày giỗ Lạng Quận Công năm nay đông đủ thế nào, Ngọc Bảo cúi đầu như một phút mặc niệm đến người anh tài hoa bị bức hại đặng an lòng nơi chín suối. Nguyễn Hoàng vội vã cám ơn rồi từ giả bà chị thân yêu với mớ suy tư lộn xộn trong đầu. Viễn ảnh lờ mờ trước mặt mà chính Hoàng sẽ phải đối diện không dễ dàng như bước lên bực đá cheo leo. Nó sẽ khó ngàn vạn lần hơn vì thử thách của gan dạ cùng ý chí đối diện với thực tế hoang sơ man rợ.
-“Hoặc tối, hoặc sáng, đừng tạo cảnh lờ mờ để bóng đêm tràn lan nhận chìm tất cả vào khoảng không vô tận”. Hoàng vừa đi vừa nghĩ mông lung mà bước chân vô tình đã dẫn đến Tây cung hồi nào không biết. Tây cung là nơi thờ tự những vị tiền hiền, anh hùng liệt nữ cũng như những bậc khai quốc công thần, bên cạnh phía hữu là tự đường nơi thiết trí cung nghinh những long vị, bài vị, linh vị của Nguyễn tự đường. Nguyễn Hoàng đứng đó, trước bức hoành phi khảm xa cừ có 4 chữ “Trung Nghĩa Liêm Tiết” với sự thề nguyền phải làm tỏ mặt các đấng tiên liệt, và quyết chí mở rộng bờ cõi thẳng tiến nam phương. Nguyễn Hoàng chấp tay đảnh lễ rồi vội vàng lách mình ra dãy hành lang phía tây để hướng về nam phương trực chỉ.
Rằm tháng Ba khí trời lành lạnh, những bông lê trắng xóa nở rộ chốn hoàng cung thì Ngọc Ninh Phủ cũng bắt đầu việc tế tự Thanh Minh và đại lễ kỵ giỗ Trịnh đường tiên hiền phái. Đây cũng là nơi đặt linh vị của các bậc khai quốc công thần triều Lê đương đại. Gia nhân đang lăng xăng quét dọn trong ngoài, giẫy cỏ ngoài sân, tỉa gọn những cành quất đang trĩu trái trên các chậu sành đời Tống, kê ghế, lau bàn, chưng bình đơm quả. Người quản gia cẩn thận lấy tay quẹt vào đỉnh đồng để chứng tỏ sự sạch sẽ đến độ tuyệt đối trước khi cung nghinh chư vị thượng khách cùng quần thần Lê triều.
Trịnh Kiểm vận thanh bào có thêu những chữ Thọ tròn trĩnh từ cổ xuống chân, chiếc đai nịt màu hồng nhung có điểm vài hạt dạ châu, đôi hài tía cong vút mới thêu hình con bạch hổ trông thật oai nghiêm. Ông chấp tay sau lưng qua lại vài lần trước đại sảnh đường để kiểm tra những gì thiếu sót. Vừa bước tới trước sạp gụ cẩn xa cừ nơi làm bình phong trước bàn hương áng, họ Trịnh chợt nhớ lại điềm chiêm bao của Ngọc Bảo đã nói tuần qua, nên ông tiến thêm vài bước nữa vào trong điện thờ các vị khai quốc công thần. Nhìn qua rồi nhìn lại, dường như không thấy một cái gì, Trịnh Kiểm trầm ngâm rồi tự vấn một mình :
-Ủa, cái long vị thờ Hữu Vệ Điện Tiền Tướng Quân An Thành Hầu đặt đâu rồi nhỉ ?
-Ủa, sao lạ vậy à ? Trịnh Kiểm rướn mình nhìn sâu bên trong, cả cái lư hương cũng biến đi mất !. Như một linh tính thoáng trong đầu óc hoài nghi, Trịnh Kiểm vội vã quay ngược lại rồi nghĩ sao lại tiến thẳng vào nội cung khi vua Trang Tông chuẩn bị yết triều.
Nghe bước chân có vẻ khẩn cấp, vua Lê vừa nhìn ra thì đã nghe cao giọng của họ Trịnh :
-Khải bẩm hoàng thượng, hạ thần vừa suy nghĩ lại, rằng không nên tiến chỉ Nguyễn Hoàng trấn thủ phương nam. Xin bệ hạ thu hồi chiếu chỉ, bắt Nguyễn Hoàng trở lại triều ca gấp gấp. Trịnh Kiểm đang nghi ngờ những hành động ám muội của Nguyễn Hoàng nên mới hồ đồ, bốp chác như vậy, chứ bình nhật thì họ Trịnh một mặt ra chiều cung cúc nhà vua rất phải phép. Nghe xong thì Lê Trang Tông hơi nhíu mày, khó hiểu bèn nêu thắc mắc :
-Tướng công mới vừa đề nghị rồi nay cũng tướng công khẩn khoảng triệu hồi. Việc trấn giữ phương nam cũng vô cùng quan trọng, nếu không đưa Nguyễn Hoàng cai quản thì ai xứng đáng để trông nom thay thế ?
Bị hỏi đột ngột, Trịnh Kiểm chưa chuẩn bị nhân sự trong đầu thì từ ngọ môn, võ quan Hoàng Đình Ái xăm xăm bước tới, Trịnh Kiểm như mở cờ trong bụng liền ứng đáp lập tức:
-Phía nam có tả tướng quân Hoàng Đình Ái thì hợp cách vô cùng !
Vua Trang Tông dường như cũng hiểu ra một điều bất tường nào đó cho Đoan quận công Nguyễn Hoàng mà cái chết tức tử của Lạng quận công Nguyễn Uông cũng chưa phôi pha. Đang tìm cách cứu nguy Nguyễn Hoàng thì Hoàng Đình Ái không kịp chờ đến buổi yết triều mà quỳ trước long đường tấu trình :
-Khải tấu hoàng thượng! hạ thần vừa được cấp báo, phía bắc Mạc Đăng Doanh vận chuyển binh mã đang tấn công vào vùng đất giáp giới kinh thành. Xin bệ hạ thiết triều thảo luận phương pháp đối địch ngay tức khắc.
Thật ra từ ngày Lê Duy Ninh lên ngôi hiệu là Lê Trang Tông thì đêm đêm quân nhà Mạc phía bắc tìm mọi cách tiêu diệt nhà Lê. Dù đến đời Mạc Đăng Doanh thay cha trị quốc nhưng nhân tâm và hàng sĩ phu vẫn hướng vọng về tôn thất nhà Lê. Vì vậy mà họ Mạc đã bao phen đánh úp đều bị nhân dân tình báo khai trình nên nhà Lê đã kịp thời cảnh giác, canh phòng. Vừa nghe Hoàng Đình Ái tâu trình như thế, và vị vương đang lo đến an nguy của Nguyễn Hoàng nên dùng kế hoảng binh mà Vua liền phán :
-Lổ rò phải đắp gấp để giữ ruộng nước nuôi lúa. Chuyện phương nam tạm thời để cho Nguyễn Hoàng lo liệu, sau khi ổn định xong thì triệu hồi cũng chưa muộn. Theo ta thì phương bắc cần kíp hơn, sẳn đây ta hạ lịnh cho võ tướng Hoàng Đình Ái chuẩn bị binh lương nội nhật hôm nay tấn binh trừ khử bọn giặc Mạc. Xoay qua Trịnh Kiểm đang phân vân suy nghĩ, nhà vua vặn hỏi :
-Tướng quân, ý ta như vậy có hợp với binh thư đại pháp hay không, tướng công có thiện ý nào nữa chăng ? Trịnh Kiểm cũng hơi ngần ngại nhưng vì chưa tìm ra lý lẽ minh bạch nên cũng du di :
-Tâu bệ hạ, tạm thời như vậy cũng được nhưng đồng thời tìm nhân tuyển thay thế để triệu hồi Nguyễn Hoàng về cung càng sớm càng tốt.
Nhà vua mĩm cười lấp lững : -Hay lắm, thôi để cho Hoàng Đình Ái dẹp xong bọn giặc họ Mạc rồi công cử vào Nam thay thế cũng chẳng muộn màng…
Cực chẳng đã, Trịnh Kiểm gục đầu hài lòng mà tâm tư vẫn còn ấm ức. Giờ này thì Trịnh Kiểm mới tự trách sự sai lầm của mình để cho hổ về rừng mọc cánh. Buổi thiết triều hôm đó chẳng có sự hiện diện của Trịnh Kiểm nên không khí khá hòa nhã, thân thiện, vua tôi luận bàn thế sự mà vui vẻ như đêm ba mươi tết.
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
=====
THĂNG HOA CUỘC ĐỜI
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
Kỳ 51 Trịnh Nguyễn Phân Tranh
Thoát khỏi sự kiềm chế của Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng dẫn gia nhân tùy tùng và một ít binh lính già nua yếu đuối vào trấn nhậm đất Thuận Hóa. Nghe danh Nguyễn Hoàng là người nhân đức, hiền lương và khiêm tốn, nhân dân cũng gồng gánh xuôi nam nên buổi ban sơ khai khẩn đất đai chừng hơn trăm người ôm nhau sinh sống nơi sơn lam chướng khí.
Vốn thông minh, cần cù Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng xem dân như anh em ruột thịt, đối đãi nhau dùng lễ làm đầu nên buổi bình minh của vùng Thuận Hoá lần lần được khai khẩn cho hoa màu và cây trái xanh tươi. Dù thân làm tướng nhưng Nguyễn Hoàng vẫn còn ôm hận vì họ Trịnh giết anh thì ít mà mưu đồ soán đoạt ngôi vua và lấn áp triều đình thì vô cùng to lớn. Biết rằng đại nghịch bất đạo cần phải khử trừ nhưng binh lực họ Trịnh quá mạnh và triều ca lúc này thường phò thịnh chứ chẳng ai buồn ngó đến phò suy. Khi tiến về nam phương lập nghiệp, Nguyễn Hoàng đã vào từ đường thỉnh bát nhang và bài vị phụ thân theo cùng; như y lời của Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sự nghiệp ra đi hết mong ngày trở lại nơi chôn nhau cắt rốn.
Năm Ất Dậu (1558) thiên mệnh như dành sẵn xứ Thuận Hóa cho Tiên Chúa Nguyễn Hoàng, thuộc giòng họ Nguyễn làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa. Thúc dục Tiên Chúa dùng Thuận Hóa làm bàn đạp, tiếp bước cha ông, dẫn người Việt đi tiếp đoạn đường trường chinh về phương nam mở rộng cõi bờ.Đất Thuận Hóa hoang sơ như thời tiền sử, không người canh tác, khai khẩn nên sơn lam chướng khí bao quanh càng khiến lòng người mới định cư hoang mang, xao xuyến. Nhưng sự quyết chí của Nguyễn Hoàng, cộng thêm tình người yêu thương gắn bó buổi ban sơ đã xây dựng nên những xóm làng yêu thương, trù phú. Dãy trường sơn trùng trùng điệp điệp như cái xương sống trên vùng đất phía tây đã nẻ ra một dãy Hoành sơn ăn ra tận biển đông chưa có dấu chân người lai vãng. Thú dữ hùm, beo, cọp, sói đã là những chướng ngại nguy nàn khiến không biết bao nhiêu sinh linh mất mạng. Đoàn người đi suốt ngày đêm, cái hừng khí ban đầu tiêu tan thay cho sự chán nản, muốn quay lại kinh thành đô hội, Nguyễn Hoàng an ủi vỗ về và quyết định hạ trại bên giòng sông Hương nơi đất Phú Xuân với bình nguyên bát ngát.
Tấm lòng rộng mở đón chào những hùng anh kiệt hiệt tứ phương của một người đầy đức độ như Nguyễn Hoàng thì chẳng mấy chốc đất Thuận Hóa tràn ngập nhân sĩ; lại nữa đất mới đãi người cần cù nên sau một vụ mùa mà lúa thóc kê đậu dư dả đến nỗi kho độn chất đầy. Dù làm tới tước Quận công nhưng Nguyễn Hoàng ăn bận giản dị, năng nổ cùng người dân cày sâu cuốc bẫm nên danh lừng bốn bể khiến sĩ phu Bắc Hà bất mãn với họ Mạc và chán ghét họ Trịnh chuyên quyền vội tìm vào nam theo Nguyễn Hoàng càng ngày càng đông đúc.
Nhân dân được vỗ về an ủi trong cảnh thái bình với đất rộng, người thưa; thêm vào đó thì sự khai thác về nông nghiệp, lâm nghiệp và hải sản quá ư ưu đãi bởi thiên nhiên nên chẳng mấy chốc mà Thuận Hóa thành khu trù mật khiến Trịnh Kiểm lo ngại khôn nguôi. Lê triều đã có đôi phen triệu hồi mà Nguyễn Hoàng xem chừng như không cần đá động trong khi đất phương Nam cứ thế tiến sâu đầy hoa màu mà bờ cõi cũng một phen mở rộng.
Về phương bắc thì lòng người chán nản sự thoán đạt ngôi vị của nhà Mạc, phần vì sĩ phu, danh tướng của Lê triều cám cảnh nhân tình bị nhà Trịnh bắt nạt chèn ép, kinh tế suy vi, chiến tranh dai dẳng nên càng ngày càng có nhiều nhân tài tìm cách vào Thuận Hóa theo Nguyễn Hoàng lập nghiệp, góp ý xây dựng giang sơn. Những tay anh chị hoàn lương cũng vào nam lập nghiệp mà chẳng mấy chốc đất Thuận Hóa nổi tiếng là trù phú sung túc, hấp dẫn bao thế hệ làm cuộc nam tiến để đổi đời.
Trịnh Kiểm ngồi ở phủ chúa mà lửa đốt tâm can, phần vì chống đở giặc phương bắc do Mạc Đăng Doanh đánh úp, quan quân bất phục rã rời, lòng người than oán tột độ mà vua Lê Trang Tông cũng không mấy can trường, quá nhu nhược nên dân chúng bất mãn dẫy đầy. Tin tức về Nguyễn Hoàng chiêu dụ nhân tài, tích lương luyện mã nên Trịnh Kiểm hối thúc vua Lê triệu Nguyễn Hoàng hồi cung thay thế, nhưng tin đi mà chẳng hồi âm, Nguyễn Hoàng cứ phớt lờ lo củng cố binh lực chống trả.
Sông Linh Giang (còn gọi là sông Gianh thuộc địa phận đèo ngang tỉnh Quảng Bình) cứ lặng lờ trôi nhưng giang sơn nước Việt không dễ thông thương giữa đôi bờ ranh giới. Họ Nguyễn đã ra mặt chống đối họ Trịnh, Trịnh Kiểm xưng chúa thì họ Nguyễn cũng được nhân dân tôn lên làm chúa. Chúa Trịnh đàng ngoài và chúa Nguyễn đàng trong. Một nước có một vì vua: Lê triều; đôi bên cũng giương cờ nhân danh phò Lê diệt kẻ tham tàn.
Năm 1527 Mạc Đăng Dung giết vua Lê Chiêu Tông để tự lên làm vua truyền được năm đời (Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải, Mạc Phúc Nguyên, Mạc Mậu Hợp, Mạc Toàn) thì sự trung hưng của nhà Lê khởi sắc. Nhà Mạc tuy cũng xưng vua nhưng phải bỏ kinh thành Thăng Long mà chạy về Hải Dương rồi tiến lên Lạng Sơn, Cao Bằng nương náu. Đất nước một phen tan hoang, dân chúng ở vùng nào thì bị những kẻ thao túng quyền hành tự tung hành xử như những con cờ trong tay kẻ mạnh. Chiến tranh như lò sát sanh, con cờ ấy được quăng ra chiến trường để sống chết vì một giòng họ mà đất nước tức tưởi cưu mang.
Ai cũng trải qua con đường sanh tử, Trịnh Kiểm có gian hùng hay lương thiện thì cũng chỉ hết một kiếp nhân sanh, năm 1570 thì Trịnh Kiểm qua đời và con trai tên là Trịnh Cối lên thay. Cối là người chất phát, ít mưu lược, không có lập trường nên ai nói gì tin nấy, thích ngâm thơ đọc văn mà chán ghét việc luyện cung tập kiếm nên chẳng bao lâu quyền hành binh lực dần dần về tay Trịnh Tùng, một con người đầy mưu mô xảo quyệt, lập bè lập đảng, lấn áp triều ca, hại kẻ trung thần tiến cử người xu nịnh nên ai ai cũng oán ghét. Lúc bấy giờ vua Lê Anh Tôn đang trị vì thấy kẻ nịnh thần hùa theo Trịnh Tùng, ức hiếp hoàng cung nên lo ngại vô cùng, vương bèn tìm cách họp bàn tính kế với các trung thần còn ít ỏi trong triều, nào dè Trịnh Tùng biết được bèn áp dụng kế sách “tiên hạ thủ vi cường”, ngang nhiên vào cung giết chết Anh Tông rồi lập hoàng tử Duy Đàn lên ngôi vua lấy hiệu là Lê Thế Tôn.
Lòng dân đang hoang mang vì sự việc phế đế làm cho sơn hà cứ thay ngôi đổi chủ, thấy vậy họ Mạc đang ở phương bắc định khởi binh diệt Lê, trừ Trịnh. Trịnh Tùng được mật báo nên vội vã kéo toàn lực binh mã, giương cờ chính nghĩa “phù Lê trung hưng” nên sau mấy ngày đêm Bắc tiến, Trịnh Tùng đã tiêu diệt được toàn bộ binh lực họ Mạc. Dĩ nhiên nhà Mạc phải suy vi vì nhân quả báo ứng, nhưng cũng vì thế mà binh lực của Trịnh Tùng lại quá sức kiêu căng, càng ngày càng làm cho dân chúng muôn phần căm phẩn. Vua Lê Thế Tôn đang ở trong ngôi vị mà nhất cử nhất động đều bị sự giám sát của Trịnh Tùng, quyền hành đối nội, đối ngoại đều phải được thông qua bởi thủ hạ của họ Trịnh nên ngày qua ngày, kẻ trung thần tìm cách ẩn thân mặc cho phe dua nịnh cúc cung tâng bốc, vì vậy mà Tùng tự xưng ngôi vị Chúa Trịnh, vai vế hàng thứ hai, nhưng thực tế thì Trịnh Tùng soán đoạt tất cả quyền hành.
Được tin bất tường như vậy thì phía nam dãy Hoành Sơn, đêm hôm ấy, Nguyễn Hoàng bí mật cùng người hầu cận tìm gặp ẩn sĩ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tham vấn, khí trời tiết thanh minh dìu dịu trong ánh trăng mờ mờ khuất dưới hàng dương liễu, Trạng Trình ngắt một đóa phù dung còn đọng sương khuya rồi nhìn vào đó mà ngâm bài kệ:
“-Hà thời biện lại vi vương.
Thử thời bắc trận, nam trường xuất bôn.
Chim bằng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ quận công.
Bao giờ trúc mọc sang sông.
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non tây.
Đoài cung một sớm đổi thay.
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Đầu cha lộn xuống chân con.
Mười bốn năm tròn hết số thời thôi.!” (Khi nào có biện lại làm vua thì Bắc Lê Trịnh phải dứt mà Nam Chúa Nguyễn cũng phải tìm đường mà chạy. Nguyễn Hữu Chỉnh ví mình với chim Bằng tức Bằng Trung Công bị giết. Tôn Sĩ Nghị bắc một cái cầu nổi bằng tre vào Thăng Long nên Nguyễn Huệ mới xưng Quang Trung Hoàng đế (1788), dẫn quân ra Bắc để đánh đuổi quân Tàu. Ðoài cung là phương tây, ám chỉ Nguyễn Huệ thình lình bị chứng huyết vận chết vào năm (1792). Và chữ Quang có chữ Tiểu trên thì vua Quang Toản có chữ tiểu phía dưới, tất cả làm vua được 14 năm)
Làn gió mang hơi lạnh từ núi Yên Tử hắt vào tấm áo bào mỏng manh của Nguyễn Hoàng, ông vội vă bái chào từ tạ người ẩn sĩ, âm thầm nhẫm đọc những lời ngâm nga của tiên sinh rồi cùng kẻ hầu cận quất ngựa về chốn thành đô trước khi mặt trời ló dạng. Vừa ngồi vào bàn viết, ông đã dùng bút lông viết vào tờ giấy đỏ những lời sấm ký để lúc rảnh rỗi mà suy gẫm ý nghĩa nhiệm mầu ứng hiện ra sao trong những ngày sắp tới.
Mặt trời đỏ rực phản chiếu ánh sáng hừng đông trên mặt nước sông Linh Giang ngày đêm êm đềm trôi chảy. Sáng hôm đó nhân ngày rằm tháng Ba, Nguyễn Hoàng lập tức đăng đàn bái tướng, xưng là chúa phương nam, trấn đóng Thuận Hóa, giương cờ chính nghĩa “diệt Trịnh phù Lê”. Con cháu Lạc Long Quân và Âu Cơ giữa hai bờ sông Linh Giang tự dưng trở thành đối nghịch bởi từ đây đôi ngả phân ly, kẻ Bắc thuộc cơ ngơi Chúa Trịnh cũng treo cờ dóng trống phù Lê, người Nam thuộc biên cương chúa Nguyễn tự nhận mình có trách nhiệm diệt Trịnh phù Lê, tưởng rằng ngày một ngày hai non sông sẽ thu về một mối, nào ngờ đâu thù hận sâu dày, sông Linh Giang làm mốc ngăn tường để hai họ Trịnh Nguyễn phân tranh, lôi cuốn cả dân tộc vào vòng tranh chấp, muôn dân đồ thán, kinh tế eo xèo, tình người nghi kỵ và nền văn hóa bể thành những mảnh vụn của cục bộ, ly khai.
Trong tình thế đối đầu sống chết, cả hai họ đều tìm cách củng cố quyền hành, khai khẩn đất hoang, chiêu hiền đãi sĩ, chuẩn bị binh lực, cầu cạnh thông thương cùng lâng bang kể cả việc chiếm đất những quốc gia phương nam như sách lược bành trướng lãnh thổ. Phía bắc, sau khi diệt được họ Mạc, chúa Trịnh tìm cách lân la với nhà Minh bên Tàu để làm chỗ dựa vững chắc cho công cuộc chống Nguyễn phía đàng trong. Nguyễn Hoàng cho đắp lũy Trường Dực tại Phong Lộc trên dòng sông Nhật Lệ, Đồng Hới còn được gọi là lũy Thầy để chận đứng cuộc tiến quân từ bắc phương, song song với sự chuẩn bị quốc phòng đầy nghiêm mật, các chúa Nguyễn kế tiếp lấy nước Chiêm Thành và Chân Lạp để mở rộng bờ cõi về phuơng nam. Suốt cuộc phân kỳ có đến bảy lần giao chiến giữa nam và bắc, vẫn không chiến thắng và chiến bại giành cho chúa nào ở đàng ngoài lẫn đàng trong nhưng chắc chắn một điều đớn đau cho cả dân tộc với cuộc nội chiến đầy phi lý chỉ vì cái bản ngã quá to đầy tham vọng, vị kỷ và thù hận của hai họ Trịnh Nguyễn gây ra.
Dòng sông Linh Giang cứ thế lặng lờ trôi trên hai trăm năm, người dân Việt hai miền nam, bắc tưởng chừng như hai quốc gia biệt lập đối đầu. Những sĩ phu ưu thời mẫn thế chỉ biết đốt hương khấn nguyện đất trời cho một vị minh vương xuất hiện, niềm tin về vua Lê không còn giá trị mà đối với chúa Trịnh, chúa Nguyễn cũng chỉ là những kẻ thời cơ, hồn dân tộc như âm dương cách trở; nghĩa đồng bào như sớm nắng, chiều mưa. Triều Lê hưng suy bởi sự thạnh suy của đất nước, chiêu bài phò Lê lạc lẽo như nước ốc lạnh tanh… May thay, dù vật đổi sao dời trên hai thế kỷ mà ngôn ngữ trần gian của dân tộc Lạc Hồng vẫn còn nguyên vẹn, du dương huyền nhiệm như thuở khai thiên, và rồi lời khấn nguyện linh thiêng cũng có lần ứng hiện, ban mai đây khi ánh dương tưng bừng khắp chốn thì biết đâu xuất hiện những bậc kiệt hiệt hùng anh vì đại nghĩa dân tộc mà xông pha trận mạc quyết một lòng thống nhất giang sơn hầu nam bắc quy về một mối.
Như Ninh Nguyễn Hồng Dũng
============
KIỀU MỸ DUYÊN: DIỄM PHÚC CHO NHỮNG AI CÒN MẸ
DIỄM PHÚC CHO NHỮNG AI CÒN MẸ
LỄ VU LAN 2024 KIỀU MỸ DUYÊN
DỊCH GIẢ THÁI NỮ LAN: PHÍA TÂY, CÓ PHẢI LÀ VƯỜN EDEN*1/- KHÔNG? — Tuyển Tập THƯƠNG QUÁ VIỆT NAM.
PHÍA TÂY, CÓ PHẢI LÀ VƯỜN EDEN*1/- KHÔNG?- Emsie – 1193 chữ –
tháilan dịch
Berlin, ngày 26 tháng 12, 1964
Trước ngày ấy, tôi chưa bao giờ biết sợ. Là nỗi hãi hùng thật sự. Vào buổi sáng lạnh buốt của tháng mười hai này, trong khi chúng tôi đang chạy xe lên đường dốc Filderstrasse, nỗi lo sợ thấm vào từng mảng thịt của thân thể tôi, đã bị bầm tím vì những miếng gạch được cho là để tránh đạn, khi tôi đang co rúm dưới cái vỏ bọc bằng tôn. Một nỗi lo sợ mạnh hơn cả nỗi buồn vì đã rời xa cha mẹ, anh tôi, bạn bè tôi, mà không được ôm lấy họ, cũng không thể nói rằng tôi yêu họ đến chừng nào. Nói cho họ biết về dự định điên rồ này ư? Đó là điều không thể, họ sẽ tìm bất kỳ phương cách nào để ngăn cản tôi. Nỗi lo sợ ấy vượt qua cả tình yêu tôi dành cho Rolf hơn ba năm nay rồi. Nỗi đam mê choáng ngợp, chuyên nhất, dung hợp, đã chịu đựng sự chia ly không cưỡng lại được bởi Bức tường đã được xây đúng vào đêm 12 rạng ngày 13 tháng 8,
Chỉ gần một tháng kể từ khi tôi gặp anh chàng xuất sắc kia, hăng máu mà cũng hơi gàn, làm lu mờ tất cả những kẻ khác. Nhưng khi chúng tôi đã chọn giải pháp bỏ trốn, nỗi lo sợ hầu như đã chiếm hết tất cả những việc khác, tôi đã không chịu phần thua và quyết định hồi tưởng lại bằng tất cả những tế bào trong cơ thể mình. Bị kẹt cứng trong cái cốp xe hôi hám này, tôi hồi tưởng lại từng hình ảnh những lúc bên nhau, lắng nghe lại từng lời nói, sống lại từng sự vuốt ve, từng hơi thở, từng nụ hôn, để nỗi kinh hoàng qua một bên và chỉ nghĩ đến thời cơ thuận lợi này do định mệnh mang đến. Thật vậy, từ một năm nay, những cư dân thành phố Berlin phía Tây được phép đến thăm gia đình họ ở khu vực phía Đông vào dịp các lễ lạc cuối năm. Thế nên Rolf qua mừng lễ Giáng Sinh với ông bà ngoại của anh, và nhà họ thì gần nhà gia đình tôi. Nhờ vậy mà anh và tôi đã quên nhau, khi anh ở lại bên nhà họ. Anh ấy hai mươi tuổi, còn tôi thì mười tám. Chúng tôi biết ngay mối liên hệ này sẽ kéo dài suốt đời. Hai ngày trước, khi anh mới đến, Rolf đã kéo tôi ra riêng để nói rằng anh sẽ tranh thủ cơ hội do ý trời xếp đặt này để mang tôi đi xa, ra khỏi thành phố ngục tù của tôi.
Anh thấy ngày càng thật khổ sở, Anna ạ, anh không thể nào tiếp tục sống như thế nữa. Anh rất cần em. Ngay bây giờ.
Kế hoạch của anh ấy thật là hợp lý: anh ấy sẽ giấu tôi phía sau cốp xe Austin- Healey, một chiếc xe dạng rất thấp mà anh vừa mới mua bên Áo và đã tháo kính
che gió ra. Chúng tôi chỉ cần đi qua bên dưới rào chắn, trong khi mấy tên cảnh sát nhân dân Vopo*2/ thì bận lo kiểm tra giấy tờ như thường lệ. Rolf đã tính toán
nhiều lần, tính đi tính lại, anh lại còn xì bớt hơi các bánh xe: như thế cái xe sẽ không vượt quá 90 cms bề cao. Anh chỉ cần cúi đầu xuống, nhấn mạnh vào cần tăng tốc, thế là chúng tôi sẽ qua bên kia địa phận đất Mỹ! Một “bờ thành” nhỏ làm bằng gạch sẽ bảo vệ tôi khỏi những lằn đạn có thể xảy ra. Và rồi sau đó là tự do… Nếu như anh thất vọng khi thấy tôi có vẻ hoài nghi, người yêu của tôi không dễ dàng bị thua. Anh lặp đi lặp lại phương án của anh trong từng chi tiết thật nhỏ nhất, cho đến khi tôi chấp nhận thì mới ngừng.
Rồi gia đình của em thì sao nào? tôi cầu may anh sẽ đổi ý chăng.
Em cứ tin anh đi, anh ấy trấn an tôi. Cái bức tường ấy rồi sẽ không trụ được lâu đâu! Sự việc đã được quyết định: ngày khởi hành sẽ là ngày kia. Dĩ nhiên là tôi hôm trước đó tôi không hề chợp mắt được. Kế hoạch quá dễ dàng ấy đáng lý ra phải kích thích sự ngờ vực của tôi chứ. Đằng này là không! Tôi dẹp bỏ nghi ngờ và sự lo âu của mình, và lao tới trước. Cũng giống như chiếc xe mui trần yêng hùng đang vụt nhanh trên con đường lát đá này, rồi bao nhiêu lần xe bị lắc mạnh kêu vang trong cái thân chao đảo của tôi là bấy nhiều lần nhắc nhở cảnh cáo: ” Thật là điên rồ! “, “Các bạn sẽ bị chúng hạ sát mất thôi!” Từ gần mười lăm phút, chiếc xe đang tiến tới một cách kiên quyết đến Điểm Kiểm Tra Charlie. Hiện giờ có lẽ chúng tôi đang cách chỗ ấy khoảng chừng vài trăm thước, tôi cảm nhận được điều đó khi thấy Rolf hãm bớt vận tốc lại, như thể anh cố tập trung toàn bộ sức lực trước cuộc xung phong cuối cùng. Rồi chiếc Austin lại chạy với vận tốc bình thường, trước khi ngừng hẳn. Thế là xong. Chúng tôi đang ở đây, ở chỗ này, và không còn cách nào để trở lui được nữa. Từ chỗ đang ẩn nấp, tôi nghe tiếng vù vù của động cơ bị nghẹt và tiếng những người đàn ông đang nói. Giọng họ vang âm cao, như truyền lệnh. Mỗi giây trôi qua đối với tôi như vô tận. Tại sao chúng tôi không đi tiếp được vậy cà? ĐỨNG LẠI!
Bỗng dưng nỗi sợ hãi biến mất, chỉ còn sự sững sờ hoảng loạn, và toàn thân tôi dấy lên sự đau nhói đang tăng mạnh. Đầu tôi va vào những viên gạch và tôi bị bất tỉnh nhân sự. Khi tôi tỉnh lại, tôi đang nằm ở lề đường, bên ngoài không khí thoáng mát. Trên mình tôi là chiếc áo choàng bằng dạ thô đen Rolf đã cởi ra và đắp cho tôi, còn anh thì đang nắm tay tôi, đôi mắt đẫm lệ, trong khi nhiều người đàn ông mặc quân phục bao quanh chúng tôi. Ôi, thì ra đây là thiên đường ư? Đúng rồi, tạm gọi như thế: chúng tôi đã sang bên kia bức tường. Bình yên vô sự. Anh ấy đã thành công.
Việc trốn thoát của chúng tôi đã khiến nhiều người bàn tán. Mẹ tôi thì nói đến chuyện ấy trong vô số thư mà bà gởi cho tôi, nhiều tháng sau đó. Còn các con của tôi thì sau này chúng được biết rằng khi đã đến đất Mỹ rồi *3/, cuối cùng, ngay khi Rolf thắng xe lại, trên mặt đường còn in dấu bánh xe kéo dài cả hơn sáu thước!
Emsie – Bài ghi lại từ một câu chuyện thật- tháilan dịch- GHI CHÚ
*1/- Eden: vườn địa đàng- *2/- Volkspolizei : Cảnh sát nhân dân, Đông Đức (1945-1990) – Cảnh sát viên có biệt danh là Vopo. *3/-Theo Wiki: Checkpoint Charlie Điểm Kiểm Soát Charlie là một trong những cửa khẩu bắt buộc của Berlin , vào thời chiến tranh lạnh, để vượt bức tường chia thủ đó của Đức quốc, giữa Đông và Tây Đức. Điểm checkpoint này nằm trên đường Friedrichstraße (= đường Frédéric ), giữa quận Mitte ( lĩnh vực Xô viết ) và Kreuzberg ( lĩnh vực của Mỹ)- Có lẽ vậy nên phần cuối bài nói đến đất Mỹ.
PHÍA TÂY, CÓ PHẢI LÀ VƯỜN EDEN*1/- KHÔNG?–
tháilan dịch
Berlin, ngày 26 tháng 12, 1964
Trước ngày ấy, tôi chưa bao giờ biết sợ. Là nỗi hãi hùng thật sự. Vào buổi sáng lạnh buốt của tháng mười hai này, trong khi chúng tôi đang chạy xe lên đường dốc Filderstrasse, nỗi lo sợ thấm vào từng mảng thịt của thân thể tôi, đã bị bầm tím vì những miếng gạch được cho là để tránh đạn, khi tôi đang co rúm dưới cái vỏ bọc bằng tôn. Một nỗi lo sợ mạnh hơn cả nỗi buồn vì đã rời xa cha mẹ, anh tôi, bạn bè tôi, mà không được ôm lấy họ, cũng không thể nói rằng tôi yêu họ đến chừng nào. Nói cho họ biết về dự định điên rồ này ư? Đó là điều không thể, họ sẽ tìm bất kỳ phương cách nào để ngăn cản tôi. Nỗi lo sợ ấy vượt qua cả tình yêu tôi dành cho Rolf hơn ba năm nay rồi. Nỗi đam mê choáng ngợp, chuyên nhất, dung hợp, đã chịu đựng sự chia ly không cưỡng lại được bởi Bức tường đã được xây đúng vào đêm 12 rạng ngày 13 tháng 8,
Chỉ gần một tháng kể từ khi tôi gặp anh chàng xuất sắc kia, hăng máu mà cũng hơi gàn, làm lu mờ tất cả những kẻ khác. Nhưng khi chúng tôi đã chọn giải pháp bỏ trốn, nỗi lo sợ hầu như đã chiếm hết tất cả những việc khác, tôi đã không chịu phần thua và quyết định hồi tưởng lại bằng tất cả những tế bào trong cơ thể mình. Bị kẹt cứng trong cái cốp xe hôi hám này, tôi hồi tưởng lại từng hình ảnh những lúc bên nhau, lắng nghe lại từng lời nói, sống lại từng sự vuốt ve, từng hơi thở, từng nụ hôn, để nỗi kinh hoàng qua một bên và chỉ nghĩ đến thời cơ thuận lợi này do định mệnh mang đến. Thật vậy, từ một năm nay, những cư dân thành phố Berlin phía Tây được phép đến thăm gia đình họ ở khu vực phía Đông vào dịp các lễ lạc cuối năm. Thế nên Rolf qua mừng lễ Giáng Sinh với ông bà ngoại của anh, và nhà họ thì gần nhà gia đình tôi. Nhờ vậy mà anh và tôi đã quên nhau, khi anh ở lại bên nhà họ. Anh ấy hai mươi tuổi, còn tôi thì mười tám. Chúng tôi biết ngay mối liên hệ này sẽ kéo dài suốt đời. Hai ngày trước, khi anh mới đến, Rolf đã kéo tôi ra riêng để nói rằng anh sẽ tranh thủ cơ hội do ý trời xếp đặt này để mang tôi đi xa, ra khỏi thành phố ngục tù của tôi.
Anh thấy ngày càng thật khổ sở, Anna ạ, anh không thể nào tiếp tục sống như thế nữa. Anh rất cần em. Ngay bây giờ.
Kế hoạch của anh ấy thật là hợp lý: anh ấy sẽ giấu tôi phía sau cốp xe Austin- Healey, một chiếc xe dạng rất thấp mà anh vừa mới mua bên Áo và đã tháo kính che gió ra. Chúng tôi chỉ cần đi qua bên dưới rào chắn, trong khi mấy tên cảnh sát nhân dân Vopo*2/ thì bận lo kiểm tra giấy tờ như thường lệ. Rolf đã tính toán nhiều lần, tính đi tính lại, anh lại còn xì bớt hơi các bánh xe: như thế cái xe sẽ không vượt quá 90 cms bề cao. Anh chỉ cần cúi đầu xuống, nhấn mạnh vào cần tăng tốc, thế là chúng tôi sẽ qua bên kia địa phận đất Mỹ! Một “bờ thành” nhỏ làm bằng gạch sẽ bảo vệ tôi khỏi những lằn đạn có thể xảy ra. Và rồi sau đó là tự do… Nếu như anh thất vọng khi thấy tôi có vẻ hoài nghi, người yêu của tôi không dễ dàng bị thua. Anh lặp đi lặp lại phương án của anh trong từng chi tiết thật nhỏ nhất, cho đến khi tôi chấp nhận thì mới ngừng.
Rồi gia đình của em thì sao nào? tôi cầu may anh sẽ đổi ý chăng.
Em cứ tin anh đi, anh ấy trấn an tôi. Cái bức tường ấy rồi sẽ không trụ được lâu đâu! Sự việc đã được quyết định: ngày khởi hành sẽ là ngày kia. Dĩ nhiên là tôi hôm trước đó tôi không hề chợp mắt được. Kế hoạch quá dễ dàng ấy đáng lý ra phải kích thích sự ngờ vực của tôi chứ. Đằng này là không! Tôi dẹp bỏ nghi ngờ và sự lo âu của mình, và lao tới trước. Cũng giống như chiếc xe mui trần yêng hùng đang vụt nhanh trên con đường lát đá này, rồi bao nhiêu lần xe bị lắc mạnh kêu vang trong cái thân chao đảo của tôi là bấy nhiều lần nhắc nhở cảnh cáo: ” Thật là điên rồ! “, “Các bạn sẽ bị chúng hạ sát mất thôi!” Từ gần mười lăm phút, chiếc xe đang tiến tới một cách kiên quyết đến Điểm Kiểm Tra Charlie. Hiện giờ có lẽ chúng tôi đang cách chỗ ấy khoảng chừng vài trăm thước, tôi cảm nhận được điều đó khi thấy Rolf hãm bớt vận tốc lại, như thể anh cố tập trung toàn bộ sức lực trước cuộc xung phong cuối cùng. Rồi chiếc Austin lại chạy với vận tốc bình thường, trước khi ngừng hẳn. Thế là xong. Chúng tôi đang ở đây, ở chỗ này, và không còn cách nào để trở lui được nữa. Từ chỗ đang ẩn nấp, tôi nghe tiếng vù vù của động cơ bị nghẹt và tiếng những người đàn ông đang nói. Giọng họ vang âm cao, như truyền lệnh. Mỗi giây trôi qua đối với tôi như vô tận. Tại sao chúng tôi không đi tiếp được vậy cà? ĐỨNG LẠI!
Bỗng dưng nỗi sợ hãi biến mất, chỉ còn sự sững sờ hoảng loạn, và toàn thân tôi dấy lên sự đau nhói đang tăng mạnh. Đầu tôi va vào những viên gạch và tôi bị bất tỉnh nhân sự. Khi tôi tỉnh lại, tôi đang nằm ở lề đường, bên ngoài không khí thoáng mát. Trên mình tôi là chiếc áo choàng bằng dạ thô đen Rolf đã cởi ra và đắp cho tôi, còn anh thì đang nắm tay tôi, đôi mắt đẫm lệ, trong khi nhiều người đàn ông mặc quân phục bao quanh chúng tôi. Ôi, thì ra đây là thiên đường ư? Đúng rồi, tạm gọi như thế: chúng tôi đã sang bên kia bức tường. Bình yên vô sự. Anh ấy đã thành công.
Việc trốn thoát của chúng tôi đã khiến nhiều người bàn tán. Mẹ tôi thì nói đến chuyện ấy trong vô số thư mà bà gởi cho tôi, nhiều tháng sau đó. Còn các con của tôi thì sau này chúng được biết rằng khi đã đến đất Mỹ rồi *3/, cuối cùng, ngay khi Rolf thắng xe lại, trên mặt đường còn in dấu bánh xe kéo dài cả hơn sáu thước!
Emsie – Bài ghi lại từ một câu chuyện thật- tháilan dịch- GHI CHÚ
*1/- Eden: vườn địa đàng- *2/- Volkspolizei : Cảnh sát nhân dân, Đông Đức (1945-1990) – Cảnh sát viên có biệt danh là Vopo. *3/-Theo Wiki: Checkpoint Charlie Điểm Kiểm Soát Charlie là một trong những cửa khẩu bắt buộc của Berlin , vào thời chiến tranh lạnh, để vượt bức tường chia thủ đó của Đức quốc, giữa Đông và Tây Đức. Điểm checkpoint này nằm trên đường Friedrichstraße (= đường Frédéric ), giữa quận Mitte ( lĩnh vực Xô viết ) và Kreuzberg ( lĩnh vực của Mỹ)- Có lẽ vậy nên phần cuối bài nói đến đất Mỹ.
====================
(Hồi ký) NỮ-SĨ VI KHUÊ – ĐẠI-TÁ NGUYỄN HỮU DUỆ – LÊ XUÂN NHUẬN
NỮ-SĨ VI KHUÊ
TRỤ-SỞ Ðài Phát-Thanh Huế tọa-lạc ngay trên bờ Hữu-Ngạn của Sông Hương, cạnh mé Tây của đầu Cầu Trường-Tiền, đối-diện Đại-Khách-Sạn Morin bên kia Đường Lê-Lợi sát góc Đường Duy-Tân.
Thuở ấy, chưa có các Ðài cấp Tỉnh, Ðài Huế là Tiếng Nói chung của cả Miền Trung, nên máy phát rất mạnh, không thua Ðài Quốc-Gia và Ðài Pháp-Á (Radio France-Asie) của Pháp ở Sài-Gòn, nghe được cả ở Miền Bắc lẫn Miền Nam Việt-Nam.
Cả nước chưa có hệ-thống truyền-hình; cả Miền Trung chỉ có vài ba tờ nhật-báo ở Huế mà thời-sự thì dựa theo tin-tức đọc chậm của Ðài Sài-Gòn. Trong tình-hình đó, Ðài Huế là món ăn tinh-thần hằng ngày của đồng-bào Miền Trung, và của cả những người ở phiá ngoài Tỉnh Thanh-Hoá và ở phiá trong Tỉnh Bình-Thuận mà có gốc-gác hoặc liên-hệ đời sống ở Miền Trung.
Ngoài những tiếng hát của các nam+nữ ca-sĩ mà một số về sau vào Sài-Gòn thì trở thành danh-ca của toàn-dân, giọng bình và ngâm thơ của các thi+kịch-sĩ tên-tuổi một thời, tiếng hát của các danh-ca quốc-tế trong các chương-trình nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, và giọng đọc xì-xồ của mấy người Pháp trong chương-trình vô-tuyến của Service d’Information, những ai đã từng nghe Ðài Huế cũng đều xác-nhận rằng người nữ-xướng-ngôn chính của Ðài này có một giọng đọc truyền-cảm vô-cùng. Giọng đọc của người con gái Huế ấy chẳng những dịu-dàng, ngọt-ngào, ấm-cúng, hấp-dẫn, mà còn trí-thức, vì không bao giờ vấp phạm lỗi-lầm khiến thính-giả khó chịu hoặc làm sai lạc ý-nghiã của câu văn.
Những người hiếu-kỳ đi ngang qua Ðài Huế thường để ý thấy có một thiếu-nữ be-bé xinh-xinh, cư-ngụ trong một căn phòng khiêm-tốn ở tầng trên của một buồng-kho bên hông trụ-sở Ðài. Một cầu thang nhiều bậc xi-măng từ mặt đất bắc lên cửa phòng làm cho căn phòng có vẻ cao hơn, khiến các thanh-niên ái-mộ đặt cho người-đẹp và căn phòng ấy cái mỹ-danh “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”.
Ðó chính là cô xướng-ngôn nói trên.
Sau ngày hồi-cư vào đầu năm 1947, tôi thường đến Ðài Huế để góp phần vào các chương-trình kịch vô-tuyến hằng tuần, kể cả việc trình-bày một số kịch thơ dã-sử và xã-hội của tôi, trong đó nhạc-sĩ Trịnh Văn Ngân là một trong những cây ngâm tuyệt-vời.
Do đó, tôi quen biết “nàng bồ-câu trên chuồng bồ-câu”. Tên nàng là Trần Trinh Thuận, tức nữ-sĩ Vi Khuê, một biên-tập-viên chính-ngạch có giọng nói trời cho nên kiêm luôn phần-vụ xướng-ngôn.
Tuy Vi-Khuê làm việc ở một cơ-quan thông-tin tuyên-truyền đậm màu chính-trị, nhưng những bài thơ của nàng hồi đó chỉ là tâm-tình của bạn gái ở lứa tuổi hai mươi, dễ thương như “con nai vàng ngơ-ngác, đạp trên lá vàng khô”.
*
Tôi thì lăn xả vào giữa tình-hình rối-ren cuả Quê Hương.
Dù đã từng bị giặc Pháp tù đày, tôi vẫn giao-du tuy không đồng-ý với Hồng Quang, chủ-nhiệm báo “Ý Dân”, là người chỉ chọn vũ-lực để chống chủ-nghiã thực-dân; và vẫn cộng-tác tuy không thuận-tình với Phạm Bá Nguyên, chủ-nhiệm báo “Công Lý,” là kẻ nhận Ðệ-Tứ thay cho Ðệ-Tam. Tôi lui+tới với Duy Sinh nhưng chưa yên tâm vì huyền-thoại văn-hoá điệp-báo của Nguyễn Bách Khoa. Tôi rất đau lòng vì đồng-bào đói khổ, nhưng chỉ hiệu-chính giùm thi-pháp chứ không tán-thành nội-dung khích-động giai-cấp đấu-tranh trong thi-tập “Tiếng Nói của Dân Nghèo” cuả Vân Sơn PMT (Phan Mỹ Trúc). Tôi thân+thương Trụ Vũ và Quách Thoại nhưng không hợp tính với họ vì lối sống phóng-túng của hai nghệ-sĩ thân-nhân ấy của Vi Khuê. Tôi tiếp-xúc với tác-giả nhưng không khép mình trong triết-thuyết bi-quan trong “Con Thuyền Không Bến” cuả Nguyễn Vũ Ban. Tôi thả hồn lên cõi siêu-nhiên nhưng không bước vào nương nhờ Cửa Thiền trong “Không Bến Hạn” cuả Huyền Không.
Tôi ủng-hộ cả hai đường-lối phục-hồi độc-lập quốc-gia: công-nghiệp kháng-chiến vũ-trang chân-chính của người dân, và nỗ-lực ngoại-vận ôn-hoà của các chính-trị-gia không-cộng-sản trong lòng Thế-Giới Tự-Do.
Riêng ở phiá bên này lằn ranh, tôi nhận thấy Cựu-Hoàng Bảo Ðại thì quá yếu mềm mà Đế-Quốc Pháp thì còn luyến tiếc giấc mơ đô-hộ Việt Nam, nên viết cuốn truyện dã-sử “Trai Thời Loạn” để gửi gắm ý mình, và kết-quả là tôi bị cơ-quan An-Ninh Quốc-Gia bắt giam; sau nhờ có chính-khách Cao Văn Chiểu, Giám-Đốc Thông-Tin Lê Tảo, cùng nhiều nhân-sĩ khác, can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được thả ra.
Ðể tạo một thế đứng vững-vàng hơn, tôi thành-lập Thi+Văn Ðoàn “Xây-Dựng”, xuất-bản các tác-phẩm của mình và của các bạn từ Bắc chí Nam. Mới bắt đầu thì Nhất Hiên (Phan Nhật Hiến) bỏ theo Việt Minh, và nửa chừng thì Như Trị (Bùi Chánh Thời) cũng nhảy lên chiến-khu.
Tôi hướng về nền dân-chủ và lòng hào-hiệp cuả Hoa Kỳ như tia sáng ở cuối đường hầm.
*
Tháng 4 năm 1954, tôi vào phục-vụ tại Phòng 5 Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu với tư-cách văn-nghệ-sĩ & ký-giả bị/được động-viên chuyên-môn. Lê Ðình Thạch và Huy Vân thì kỳ-cựu, Tô Kiều Ngân gốc Nha Thông-Tin cũng đã thành quân-nhân. Tchya (Ðái Ðức Tuấn) và Nhất Lang thì được đồng-hoá sĩ-quan.
Ngoài việc viết bài cho báo “Tiếng Kèn”, cho các đơn-vị Võ-Trang Tuyên-Truyền ở tuyến đầu, và cho chính tôi đi vận-động trong dân-nhân, tôi còn là phóng-viên chiến-tranh và biên-tập-viên chính cuả Ðài “Tiếng Nói Quân Ðội” tại Miền Trung.
Do chương-trình phát-thanh này, mà tôi là giám-đốc, tôi mới đặt phòng-giấy ngay tại trụ-sở của Ðài Phát-Thanh Huế, và gặp mặt Vi Khuê thường-xuyên.
Thay chỗ nhạc-sĩ Anh Chương, tôi cử Lâm Tuyền làm Trưởng Ban Tân-Nhạc; nhưng rồi tôi làm lơ cho Lâm Tuyền đào-ngũ vì anh quá chán chuyện đời.
Tôi đưa Văn Giảng lên thay.
Hà Thanh mới bắt đầu vào nghề.
Những lần xe Jeep bị hư, tôi đạp xe-đạp qua chở Kim Tước từ cư-xá Nha Thông-Tin ở bên kia cầu Trường Tiền. Cặp Châu-Kỳ−Mộc-Lan của giới ca-nhạc, cũng như cặp Hoàng-Pha−Phương-Khanh của giới văn+thơ, cũng đã từng ở đây.
*
Rồi Thoả-Ước Geneva ra đời.
Trong hội-nghị quốc-tế ấy, có ba nhân-vật Việt-Nam đã được thế-giới chú ý hàng đầu: Cô Thiên-Hương, con gái của nhà văn Hồ Hữu Tường, là nữ ký-giả duy-nhất, nói được nhiều ngoại-ngữ và trẻ đẹp nhất trong giới truyền thông; Cụ Võ-Thành-Minh, một lão-thi-sĩ, từ Huế đến, đã bí-mật vượt hàng rào Cảnh-Sát Thụy-Sĩ vào cắm trại trên Bờ Hồ Leman trước hội-đường, tuyệt-thực thổi sáo nói lên nỗi lòng của người dân Việt-Nam mong-muốn Thống-Nhất và khao-khát Tự-Do; và Ông Nguyễn-Quốc-Ðịnh, Ngoại-Trưởng cầm đầu Phái-Ðoàn Quốc-Gia Việt-Nam của chính-phủ Bảo Ðại, đã từ-chức để khỏi ký tên vào văn-bản thừa-nhận việc đất nước bị qua-phân.
Thủ-Tướng Ngô Ðình Diệm cử Ông Trần-Văn-Ðỗ đến thay. Pháp và Việt-Minh thoả-thuận ngưng bắn, lấy vĩ-tuyến 17 ngang sông Bến Hai làm ranh-giới Bắc–Nam.
*
Ðại-Tá Trương Văn Xương, Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, thuộc cánh Tổng-Tham-Mưu-Trưởng là Trung-Tướng Nguyễn Văn Hinh (con của cựu Thủ-Tướng Nguyễn Văn Tâm, thân-Pháp), mở một chiến-dịch đưa quân từ Huế vào tiếp-thu các Tỉnh phiá trong. Theo chương-trình chính-thức thì Thủ-Tướng Diệm sẽ từ Sài-Gòn ra chủ-toạ lễ thiết-lập Chính-Quyền Quốc-Gia tại vùng đất mới lấy lại này. Theo kế-hoạch riêng của cặp Hinh+Xương thì Diệm, trên đường đi từ Huế vào Quảng-Ngãi, sẽ bị lính và dân dàn chào bằng tiếng hô “Đả Đảo” cùng với trứng thối và cà chua. Câu hỏi nổi bật là “Mười vé phi-cơ cho gia-đình họ Ngô, hay là mạng sống cuả cả trăm ngàn binh sĩ Quốc-Gia?” Các bức tường vẽ khẩu-hiệu đã được xây lên; và biểu-ngữ, bích-chương, cùng truyền-đơn liên-hệ đã được chuẩn-bị sẵn dọc đường rồi.
Thành-Phố Huế ngẫu-nhiên được chia thành hai trận-tuyến. Bộ Tư-Lệnh Quân-Khu thì đóng trong Ðại-Nội, phiá Bắc của Sông Hương; nhà Ông Ngô-Ðình-Cẩn, trung-tâm quy-tụ cuả gia-đình họ Ngô, thì nằm trên Xóm Phú-Cam, phiá Nam của Sông Hương. Bộ-phận “Tiếng Nói Quân-Ðội” của tôi lại đặt trụ-sở tại Ðài Huế, trên bờ phiá Nam. Ðể biểu-dương lực-lượng, Quân-Khu phái đến hai chiếc xe-tăng, án-ngữ hai bên sân, trước Ðài Phát-Thanh. Các chương-trình vô-tuyến dân-chính chỉ có nội-dung lập-lờ, thông-tin hàng-hai.
Ở Quảng-Ngãi, cán-bộ Việt Minh gài lại xúi giục dân-chúng phản-kháng lực-lượng tiếp-thu, vì thấy vẫn có Cố-Vấn Pháp trong hàng-ngũ Quốc-Gia; súng nổ, người chết; Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát xen vào.
Ðảng Cần-Lao, qua nhạc-sĩ Ngọc Linh, móc nối tôi.
Tôi không theo đảng-phái nào hết, nhưng quyết-định ủng-hộ Thủ-Tướng Diệm, với chủ-trương “Ðả Thực, Bài Phong, Diệt Cộng”, để được sự giúp-đỡ cuả Hoa-Kỳ. Quốc-gia giàu mạnh nhất thế-giới này đã dìu-dắt Tây-Ðức, nâng-nhấc Nhật-Bản, và cứu-vớt Ðại-Hàn. Trung-Tá Nguyễn Văn Bông, Tư-Lệnh Mặt Trận Nam–Ngãi, đã phát-biểu với Trung-Tá Nguyễn Văn Tố, Phó Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu, trong khi ổng lái xe ra đón Tố vào:
– Mình cộng-tác với thằng giàu thì hẳn sướng hơn phục-vụ cho thằng nghèo!
Tôi thảo truyền-đơn, tài-liệu, viết bài tuyên-truyền cho chí-sĩ họ Ngô.
Bộ Tham-Mưu của Xương không tin-tưởng ở tôi. Họ lập hẳn một Ðài Phát-Thanh riêng, trong Thành-Nội― dân-chúng gọi là “Đài bí-mật”―để tự mình phổ-biến lập-trường chống-Diệm và hô-hào dân-chúng nổi lên.
Không còn bị Cấp Trên ràng buộc, tôi công-khai dùng “Tiếng Nói Quân Ðội” để hậu-thuẫn cho Diệm và Hoa-Kỳ.
Hồi ấy, chỉ có một số trong giới Nho-học lớn-tuổi nghe danh Ông Ngô-Ðình-Khả, còn đa-số dân-chúng nói chung thì ít ai biết tên Ông Ngô-Ðình-Diệm, ngoại-trừ một nhóm trong giới Kitô-Giáo có đọc tờ báo “Tinh Thần” thời-gian gần đó.
Chương-trình phát-thanh của tôi có ảnh-hưởng rất lớn trong quần-chúng, vì làn sóng của Ðài Huế phát đi rất mạnh và xa, trong lúc “Ðài bí-mật” thì nhỏ và yếu, chỉ lẩn-quẩn vùng gần, lại khi-có khi-không.
Tôi đã lèo-lái để người dân xứ Huế, nghe Đài “của tôi” và trông thấy hai chiếc xe-tăng trấn đóng trước Ðài mà tưởng và tin là phe mạnh nhất trong Quân-Lực đã đứng hẳn qua phía Diệm, nên biệt-phái chiến-xa đến cho tôi để bảo-vệ Tiếng Nói của mình, chống lại phe yếu thế Hinh–Xương.
Toàn-quốc, nhất là Sài-Gòn, hướng về xứ Huế, gốc-gác của họ Ngô, lấy đó làm chỉ-dấu mà lên tinh-thần.
Từ đó, các phần-tử thân-Diệm mới dám đứng ra khỏi vòng giới-hạn của mình mà hoạt-động rộng-rãi trước mắt mọi người.
*
Trong những tháng ngày gay-cấn ấy, cứ mỗi lần từ các cuộc hành-quân hoặc từ các hoạt-vực bên ngoài trở về với phòng-giấy tại Ðài, tôi lại cảm thấy nhẹ-nhõm cả người, khi gặp mặt lại những nữ-nghệ-sĩ trẻ đẹp tươi vui, như bướm, như hoa, tô thắm cuộc đời. Trong vườn thanh+sắc ấy, Vi Khuê của giới thi+văn vẫn gần-gũi với tôi hơn các bạn bên giới cầm+ca. Nhưng “nàng bồ-câu” vẫn vô-tư-lự như mọi ngày, đâu biết đầu-óc tôi đã bỏng-rát những tính-toán mưu-mô, thân-xác tôi đã bầm-dập những gian-nan nguy-khốn, và chỉ trở về văn-phòng để thư-giãn cho những căng-thẳng thần-kinh.
*
Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm thắng phe Hinh+Xương.
Hoa-Kỳ mở Phòng Thông-Tin tại Đại-Khách-Sạn Morin. Giám-Ðốc Thompson A. Grunwald là viên-chức dân-sự Mỹ đầu tiên đặt chân đến Miền Trung. Tôi tổ-chức dạy tiếng Anh trên Ðài, có Tôn Thất Ðát phụ-lực; tham-gia thường xuyên là Thompson, và bất-thường là bất-cứ người ngoại-quốc nào nói tiếng Anh mà tôi gặp được, bắt đầu từ Đại-Tá Richardson, Trưởng Phái-Ðoàn quân-sự Hoa-Kỳ T.R.I.M.
Lớp dạy tiếng Anh của tôi là lớp đầu tiên trong lịch-sử dạy tiếng Anh qua làn sóng truyền-thanh cho thính-giả Việt-Nam.
Nguyễn Cửu Tú (Phó Giám-Đốc Đài), Thompson và Nhuận
Ðại-Tá Nguyễn Quang Hoành lên thay Trương Văn Xương, rồi vì bất-đồng chính-kiến nên lại nhường chỗ cho Thiếu-Tướng Lê Văn Nghiêm.
Ðại-Úy Ngô Văn Hùng thay thế nhạc-sĩ Ngọc Linh, làm Trưởng Phòng 5. Văn Giảng ra đi, tôi cử Lê Trọng Nguyễn lên thay. Nguyễn vừa dịch tài-liệu vừa sáng-tác nhạc; bên cạnh giai-phẩm “Nắng Chiều” là “Hoan-Hô Lê Thiếu-Tướng” theo lệnh của Hùng (bắt chước “Hoan Hô Ngô Thủ-Tướng”). Ðể giúp Tôn Thất Ðậu chọn nhạc ngoại-quốc do thính-giả yêu-cầu, tôi liên-lạc với hàng chục Toà Ðại-Sứ ở Sài-Gòn, viết lời mở đầu về nền âm-nhạc của mỗi nước, và đặc-tính của mỗi bản nhạc, để giới-thiệu trước khi trình-bày. Giáo-Sư Lê Hữu Mục có đến chơi đàn; nữ-sĩ Như Thu đến góp bài; thi-sĩ Hồ Ðình Phương đến ngâm thơ. Trình-bày “Mục Thi-Ca” của tôi là Trần Anh Tuấn, Ðinh Lợi, Lan Hương, và Tâm Thanh (Tôn Nữ Kim Ninh).
*
Ở các Tỉnh Cao-Nguyên và miền núi Tỉnh Quảng-Ngãi, phong-trào đòi tự-trị của người Thượng nổi lên.
Chính-Quyền Diệm gom các phần-tử chủ chốt “Thượng Tự-Trị” về tập-trung ở đầu Cầu Nam-Giao. Một Nha Chiến-Tranh Tâm-Lý được lập nên, đặt trụ-sở ở đầu Cầu Phú-Cam. Đại-Úy Hùng kiêm-nhiệm Nha này. Tôi cũng kiêm thêm một số phần-vụ ở cơ-quan này, nên dời bàn-giấy đến đây.
Bộ Tư-Lệnh Ðệ-Nhị Quân-Khu dời tổng-hành-dinh qua Hữu-Ngạn sông Hương.
Nước Việt-Nam Cộng-Hoà, với sự hậu-thuẫn của Hiệp-Chủng Quốc Hoa-Kỳ, được Thế-Giới Tự-Do nhìn-nhận.
*
Trong những năm trẻ-trung của Nền Ðệ-Nhất Cộng-Hòa ấy, Liên-Xô, Hoa-Cộng và Cộng-Sản Bắc-Việt, là những bên chủ-trương chia đôi đất nước Việt-Nam, chưa sẵn-sàng thực-hiện vũ-trang xâm-lược Miền Nam, mà Hoa-Kỳ thì viện-trợ tối-đa cả tinh-thần lẫn vật-chất cho con bài của mình và cái tiền-đồn mới lập này của họ ở Ðông Nam Á, nên tình-hình an-ninh khả-quan, chế-độ bắt đầu vững-vàng.
Thế là nhiều người liền tranh nhau mưu-quyền thủ-lợi riêng. Hầu hết chiến-công giữ nước, cũng như thành-tích dựng nước, được dùng để dâng lên Ngô Tổng-Thống, chỉ là những cử-chỉ qụy-lụy, những lời-lẽ tâng-bốc, những thái-độ tôn-thờ, dành cho toàn-thể gia-đình họ Ngô, được các tay chân thân-tín của Cụ xét thấy êm tai đẹp mắt nên tường-trình lên mà thôi.
Ông Ngô-Ðình-Khôi, bào-huynh của Diệm, từ-trần đâu cả chục năm trước kia, không ai biết đến; nay dời mộ-phần thì có cả tá cấp-cao chức-lớn gây lộn nhau để giành làm Trưởng Nam danh-dự hầu-cận bên quan-tài; nhiều năm về sau, hễ nhắc đến ông, nhiều kẻ còn khóc-lóc thảm-thương. Ông Ngô-Ðình-Luyện làm đại-sứ tận bên nước Anh, người dân không hề thấy mặt, thế mà khi nhắc đến ổng thì ai nấy đều vẽ-vời ra vô-vàn tài-cao đức-trọng, để ngợi-ca cho vừa lòng thế-gia. Huống chi các “Cố Vấn” hùng-cứ trong nước mà uy-quyền có khi lấn át cả ông anh. Dù không muốn nhập-cuộc, đa-số vẫn phải nhắc đi nhai lại, để được yên thân, những sáo-ngữ đã thành công-thức chót lưỡi đầu môi: “Nhờ ơn Ngô Tổng-Thống và các bào-huynh, bào-đệ cuả Người!” Thế là lắm kẻ được đặc-cách tiến-chức thăng-quan.
Trung-Tướng Thái Quang Hoàng thay thế Lê Văn Nghiêm.
Nhà văn Bùi Tuân trở thành Dân-Biểu, không còn viết thuê xã-luận cho Ðài của tôi, mà diện lễ-phục lái xe-hơi di diễu khắp phố-phường. Nhạc-sĩ Ngô Ganh không còn lập-dị, mặc bộ com-lê may bằng dạ chăn đi dưới nắng hè, bên trong là chiếc áo ngủ cổ kiềng mà mỗi lần đi đâu thì chỉ cần gài thêm vào đó một cái cổ áo trắng có đính sẵn ca-vát là khỏi phải tốn thêm nguyên cả chiếc áo sơ-mi; bây giờ ảnh làm Quản-Ðốc Ðài, kiêm Ðại-Diện Nhân-Dân Miền Trung, ngồi chung dãy ghế danh-dự với Ðại-Biểu Chính-Phủ, Tư-Lệnh Quân-Khu, v.v… trong những buổi lễ công-cộng trên khán-đài Phu Văn Lâu.
Trong lúc đó, tôi bị cơ quan An-Ninh Quân-Ðội thẩm-vấn tới, điều-tra lui. Họ vin vào cớ tôi đã là Trưởng Ðài Quân-Ðội từ khi còn Hinh+Xương.
Một hôm, Tổng-Thống Diệm ra Huế và ở lại đêm. Sáng sau, tôi nghe hàng-xóm kháo chuyện với nhau: “May mà bắt được, chứ không thì quân khủng-bố đã ám-hại Tổng Thống đêm qua rồi!” Ðến sở, tôi hỏi Đại-Úy Ngô Văn Hùng thực/hư thế nào; ổng liền gọi điện-thoại cho An-Ninh Quân-Đội, và cơ-quan này đến bắt tôi. Truy-cứu mới biết: chính-quyền sở-tại và thân-tộc có tổ-chức nhiều vòng đai an-ninh xung quanh nhà-thờ Phú Cam, nơi Diệm đến tiếp-xúc với giáo-dân; có một nhân-viên chìm, thuộc vòng-đai trong, vì đến trễ nên bị chận soát ở vòng-đai ngoài; thấy y có vũ-khí giấu trong người, đồng-bào tưởng lầm là Việt Minh. Chỉ có thế thôi, nhưng vì Diệm đã được thần-thánh-hoá, nên câu hỏi của tôi, dù là để phối-kiểm với mục-đích dùng Đài Quân-Đội mà trấn-an dư-luận đồng-bào, cũng đã bị xem là một sự xúc-phạm tày trời.
Ngày xưa, phần lớn văn-nghệ-sĩ đều phục-vụ trong ngành truyền-thông, nên tôi đã từng mong được chuyển nghề qua làm việc trong cơ-quan Thông Tin, để được quần-chúng độc-giả khán+thính-giả trọng-vọng hơn. Bây giờ đã ở trong ngành Tác Ðộng Tinh Thần, dù của Quân Lực nhưng cũng là thông-tin tuyên-truyền, tôi mới thấy mặt trái của tấm huy-chương.
Lần đó, nhà bác-học Bửu Hội, thân-thích của Cựu-Hoàng Bảo Đại, nhân dịp từ Pháp về thăm nhà, đến nói chuyện về y-học với đồng-bào Huế tại Rạp Chiếu Bóng Morin. Một số văn+thi-sĩ tùng-sự tại Nha Thông-Tin Trung-Phần đã nêu lên nhiều câu hỏi về thời-sự, mục-đích là để gài Hội phải phát-ngôn ủng-hộ Diệm, hoặc ngược lại thì có bằng-chứng để dễ ra tay. Mặc dù Hội đã nhấn mạnh rằng ông không về Việt Nam với mục-đích chính-trị, và xin miễn đề-cập đến các vấn-đề ngoài phạm-vi y-học, đồng-thời số đông trong cử-tọa cũng đã huýt gió phản-đối những câu hỏi lạc-đề, nhưng nhà văn Ðỗ Tấn vẫn trơ-tráo đứng dậy đặt thêm cho được vài câu hỏi nữa.
Bác-Sĩ Trần Văn Thọ, Tổng Giám-Ðốc Thông-Tin, mà còn tranh tài với Bác-Sĩ Trần Kim Tuyến, Giám-Ðốc Nha Nghiên-Cứu (tức cơ-quan Tình-Báo) thuộc Phủ Tổng-Thống; thảo nào mà nhà-văn này cũng không chịu lép vế các nhà-văn khác trong thành-tích bao vây những ai bị nghi là, bị cho là có thể đối-kháng chế-độ đương-quyền.
Một số nhà-thơ giành nhau chức-vụ lãnh-đạo ngành Thông-Tin, khởi đầu bằng địa-vị Chủ-Tịch Hội Văn-Nghệ-Sĩ & Ký-Giả Miền Trung.
Nhà-thơ Đỗ Tấn Xuân nhai lại cái bã Tố Hữu tán-tụng Staline, in hẳn cả một tập thơ―nhan đề “Mùa Hoa Sim Nở”―trong đó có câu “Tiếng đầu lòng con gọi: Cụ Ngô!”
Họ sợ vướng tôi nên tìm cách loại tôi, lùng thu thi-tập “Ánh Trời Mai” của tôi, v.v…
Thế nhưng hầu hết các nam+nữ tân+cổ+nhạc thi+ca+kịch-sĩ cộng-tác với tôi thì chỉ thấy tôi là một nhà thơ trẻ trai, hiền-lành, hòa-đồng với họ trong từng bộ-môn, chứ không biết gì về những khó-khăn của tôi.
Họ cũng không quan-tâm gì đến mục-đích chính-trị của Ðài, mà lại đinh-ninh rằng trọng-tâm hoạt-động và lý-do cùng ý-nghĩa của sự hiện-diện của Ðài chỉ là phần diễn-ngâm ca-tấu giải-trí văn-nghệ mà họ cống-hiến cho số thính-giả gần xa ái-mộ họ mà thôi.
Vi Khuê thì trầm-lặng hơn họ và có một thế đứng riêng. Nàng không ca hát nhưng số khán+thính-giả địa-phương hằng ngày háo-hức đến xúm dán mũi vào cửa kính để xem tận mắt các nữ-danh-ca hát thật cũng như dượt bài, đều không bỏ lỡ cơ hội nhìn ngắm cô biên-tập-viên duyên-dáng của Ðài. Các người-đẹp trình-diễn thì chỉ xuất-hiện vào giờ có chương-trình liên-quan, còn Vi Khuê thì có mặt ở đó suốt ngày, để những lúc trở về Ðài tôi nhìn thấy nàng mà dịu-vợi ưu-tư…
*
Thế rồi tôi giã-từ quân-ngũ, rời khỏi Ðài, ra ngoài hoạt-động văn-nghệ nhiều hơn trong một môi-trường rộng-lớn và khoảng-khoát hơn.
Ngoài các nỗ-lực tích-cực trong Quân-Ðội và sau đó là trong ngành Cảnh-Sát Công-An, tôi còn hăng say dùng hoạt-động văn-nghệ riêng tư để góp phần xây-dựng và củng-cố chế-độ Ðệ-Nhất Cộng-Hoà, thí-dụ: viết báo, đi thuyết-trình trong Cảnh-Sát & Công-An và ngoài dân-chúng; sáng-tác và trình-diễn khắp nhiều Tỉnh vở kịch thơ “Gươm Chính-Nghiã” của tôi đề-cao Tổng-Thống Ngô Ðình Diệm, kêu gọi sĩ-phu khắp nơi, đặc-biệt từ Miền Bắc, về với Chính-Nghiã Miền Nam; sáng-tác và xuất-bản tập thơ “Tuần Trăng Mật” vinh-danh tình yêu vợ+chồng, phù-hợp với nguồn cảm-hứng từ Luật Gia-Ðình của Bà Ngô-Ðình Nhu…
Tôi giữ Mục “Vườn Thơ” trên tuần-báo “Rạng Ðông” của Lê Hữu Mục, họp làm đặc-san với Tôn Thất Dương Tiềm, xuất-bản thơ của các bạn gần xa và của chính mình, kết-thân với các nhóm như Hồ Mộng Thiệp, Thanh Phượng, Anh Ðộ, Tô Như, Quốc Dân… ở Ðà-Nẵng; đồng nhóm Xây-Dựng là Xuân Huyền, Tường Vi, Huyền Chi, Hoài Minh, Bàng Bá Lân, v.v… ở Sài-Gòn. Trong đó, tôi giữ mục “Hội Thơ” (do Hồ Đình Phương trung-gian) trên tuần-báo Văn-Nghệ Tiền-Phong của Hồ Anh, và có nhạc-sĩ Lê Mộng Bảo giúp phần ấn-loát phát-hành sách và đặc-san.
Tôi tái-tổ-chức họp bạn hằng tuần; ngày xưa thì có Nhân Hậu, Vĩnh Thao, Hạnh Lang, Trúc Lang, Võ Ngọc Trác, Xuân Dưỡng, Giang Tuyền, Kiêm Minh, Lê Mộng Hoà, Nhân Nam, v.v…; bây giờ thì có Hoàng Hương Trang, Tuyết Lộc, Kim Lan, Nguyên Xuân Tứ, Hữu Ðỗ, Khang Lang, Hoài Tâm, Hương Thu, Xuân Nghị, Thanh Thuyền, Thế Viên, v.v…; có lần có cả Trần Minh Phú từ Hàng Me đến, Diên Nghị từ đơn-vị về, Hồ Ðình Phương từ Long-An ra…
Ðại-Hội Văn-Hoá Toàn-Quốc dưới thời Ðệ-Nhất Cộng-Hoà (khai-mạc ngày 11 tháng 1 năm 1957) đã đem lại cho tôi một phần thưởng tinh-thần: “Xây-Dựng” cuả tôi được nhìn-nhận là một cành của Cây Ða Văn-Hiến Việt-Nam.
Trong thời-gian đó, Vi Khuê lên xe hoa. Và đôi uyên-ương đưa nhau lên xây tổ ấm trên đồi núi Ðà-Lạt sương mù, bỏ lại “chuồng bồ câu” trống lạnh như nỗi thiếu vắng trong lòng của những ai ai…
*
Sau khi bản-thân tôi gặp nhiều khó-khăn vì không chịu cải-đạo; sau khi người ta giết chết cả hai vợ+chồng thầu-khoán Nguyễn Văn Yến; sau khi người ta dùng ngay phòng họp là nơi tôi hướng-dẫn học-tập “Ðạo-Ðức của Ngô Tổng-Thống” cho các cấp chỉ-huy Cảnh-Sát Huế trong các buổi học-tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục hằng tuần, để làm nơi tra khảo và giết chết thầu-khoán Nguyễn Ðắc Phương rồi ném xác xuống sân tri-hô là Phương nhảy lầu tự tử; sau khi nhận được vô-số bài-vở của anh+chị+em Cảnh-Sát Công-An gửi về tôi để xin đăng lên tờ nội-san “Phục Vụ” do tôi chủ-biên, nội-dung tố-cáo nhiều, quá nhiều, hành-động tham-lam, tàn-bạo, kể cả giết người, dựa quyền cuả ông Cố-Vấn Ngô Ðình Cẩn; v.v…
Do đó, tôi đã liều-lĩnh công-khai nêu lên một số khuyết-điểm của chế-độ họ Ngô, trong một buổi học-tập tại cơ-quan vào ngày Lễ Hai Bà Trưng (3-3-1960).
Biến-cố này đã gây chấn-động cả Miền Trung.
Kết-qủa là tôi bị quản-thúc điều-tra ba tháng, gây tranh-cãi giữa hai ông Cố-Vấn Cẩn và Nhu…
Rồi tôi bị đày lên Cao Nguyên “vùng nước độc và nguy-hiểm” với bụi đỏ mù trời.
Đời sống chính-trị tạo thi-hứng cho tôi sáng-tác và đăng báo rời-rạc các bài thơ mà sau Cách-Mạng 1-11-1963 mới được gom lại ấn-hành thành tập “Với Thượng-Ðế”, tập thơ thứ bảy cuả mình.
*
Qua đến Ðệ-Nhị Cộng-Hoà, tôi cũng lại gặp rắc-rối, vì tôi công-khai phản-đối những sai trái, nhất là chiều-hướng quân-phiệt trong chế-độ Nguyễn Văn Thiệu, bằng một bức thư trần-tình gửi lên Cấp Trên**.
Sau cùng tôi được (hay bị?) đưa về lại Miền Trung để giải-quyết giùm (và tôi đã giải-quyết được) những khó-khăn nội-bộ tại vùng đất này mà trước đó Trung-Ương hầu như bó tay…
Giờ đây, tôi trở về Huế lại.
Ngồi trên ghế đá công-viên trước Ðài Phát-Thanh Huế, tôi nhắm mắt mường-tượng những gì đã xảy ra tại đây vào buổi tối 8-5-1963―phản-ứng của giới Phật-Tử bị cấm treo cờ Phật-Giáo vào ngày lễ Phật, Phật-Giáo-Đồ tập-trung, chất nổ, người chết, sức mạnh quần-chúng…
Rồi lịch-sử đã sang trang…
Lắc đầu xua đi những ảnh-hình thế-sự, tôi thả hồn sống lại quãng đời thơ trẻ đã qua.
Những khuôn mặt cuả Huế một thời, mà tôi nhớ thêm: các nhà văn Bửu Kế, Phan Khoang…; các nhà thơ Phan Văn Dật, Nguyễn Anh, Tô Kiều Ngân…; nhà khảo-cứu Bửu Cầm; hoạ-sĩ Phi Hùng; nhà dựng kịch Lê Hữu Khải; các kịch-sĩ Vũ Ðức Duy, Vĩnh Phan, Minh Mão, Hà Nguyên Chi…; các nhạc-sĩ Nguyễn Hữu Ba, Lê Quang Nhạc, Ưng Lang, Hoàng Thi Thơ, Lê Tất Vịnh, Hoàng Nguyên…; các ca-sĩ Minh Trang, Thanh Nhạn, Tôn Thất Niệm, Ngọc Cẩm–Nguyễn Hữu Thiết, Bạch Yến, Thiện Nhân, Hương Việt, Diệu Hương…
Tôi không gặp lại Phương Như, Bằng Trình của Huế, Anh-Ðộ Ðỗ Cẩm Khê của Ðà-Nẵng, và mất liên-lạc với Huyền-Chi từ sau khi nàng lấy chồng. Trước đó, bóng người áo trắng Kiều-Ngọc đã vuột khỏi tầm tay tôi.
Nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ buổi hoàng-hôn ấy tôi lái xe Lambretta-2-bánh chở Trần Dạ Từ từ khách-sạn Khê-Ký lên Bến-Ngự để anh gặp Nhã Ca, và buổi sáng chủ-nhật kia Hy Văn Mộng đến nhà tôi chơi bị cháu nhỏ tè ướt cả quần khi anh bế nó lên hôn.
Có những bạn thân không còn, hoặc còn nhưng phai thân…
Nhưng Vi-Khuê thì vẫn còn là một người bạn thân. Cuả vợ+chồng chúng tôi.
Trong cuốn lưu-bút “Kỷ-Niệm Vàng” mà tôi giữ kỹ, bây giờ vẫn còn tờ giấy bạc “anh gánh dưa” một đồng mới toanh mà Vi-Khuê đã ký tặng mừng tuổi tôi vào dịp Tết năm nào.
Hình-ảnh ấy càng đậm nét khi nàng đưa Vân-Anh, cả hai phất-phơ tà áo màu qua cánh đồng An-Cựu vàng rực mùa lúa gie, đến thăm tôi vào thuở ban đầu, để rồi sau đó thì nàng làm chứng-nhân cho cuộc lễ thành-hôn của tôi với người bạn thân ấy của nàng.
*
Giờ đây Thành-Phố Huế đã bị giáng bậc xuống làm Thị-Xã, tước mất―ngoại-trừ về phần văn-hóa và lịch-sử― cái địa-vị thủ-phủ của Miền Trung; hoa-khôi Ðồng Khánh ngày càng hiếm-hoi; Ðài Huế xuống cấp làm Ðài Tỉnh nhỏ; các xướng-ngôn-viên và ca-sĩ chỉ gợi tiếc những giọng oanh vàng và hương sắc ngày xưa…
Ðệ-Nhất Cộng-Hoà thế kia, Ðệ-Nhị Cộng-Hoà thế này. Mỗi chế-độ có những vấn-đề khác nhau, nhưng đều giống nhau ở vận nước chông-chênh.
Liệu những biến-thiên của cuộc đời sẽ còn đem lại những đổi thay nào khác nữa cho Đồng-Bào, cho Quê-Hương?
Huế vẫn còn đây, Ðài Huế vẫn còn đây, và tôi trở về ngồi đây.
Nhưng tôi không còn tìm thấy lại được, sau mỗi chặng đường―cũng vẫn gian-nan một mình chống-chọi với ma-quỷ còn sót lại trong thời buổi mới―sự thanh-thản, dù trong chốc-lát, cho tâm-hồn mình, như những ngày nào xa xôi…
TÔI đã phát-biểu với Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, có cả Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương, cùng nghe, rằng nếu tôi còn đảm-trách an-ninh & phản-gián Vùng I ngày nào thì ngày đó tôi còn ngăn-chận được mọi cuộc biến-loạn, cho Vùng ấy, và, do đó, cho cả Miền Nam*.
Tôi nói như thế liền sau khi tôi đề-nghị bổ-nhiệm hai sĩ-quan tín-đồ Kitô-Giáo làm Tỉnh/Thị-Trưởng và Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị, là hai chức-vụ quan-trọng nhất trong chính-quyền tại Tỉnh Thừa-Thiên và Thị-Xã Huế. Như thế nghĩa là sau khi thay-đổi hai quan-chức ấy, mà nếu tình-hình ngoài đó vẫn còn bất-an, thì chính tôi mới là người có thể dẹp yên các mưu-đồ quấy rối nội-chính tại Huế và Thừa-Thiên.
Đề-nghị của tôi đã được Trung-Ương chuẩn-y ngay.
Thế rồi, mới dự lễ giao+nhận chức-vụ Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị giữa Thiếu-Tá Liên Thành và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh ở Huế xong, tôi đã phải ra ngoài đó lại để chủ-toạ lễ giao+nhận chức-vụ Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh/Thị: Trương Công Đảm thay-thế Trương Công Ân.
*
Nhớ hôm Trung-Tá Hoàng Thế Khanh nhậm-chức, ngay sau buổi lễ tôi đã đi vào một số văn-phòng thuộc Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực cũng như thuộc Sở Đặc-Cảnh Tỉnh/Thị sở-tại, để quan-sát và nghe-ngóng tình-hình chung. Ngoại-trừ số đông lâu nay vốn có thiện-cảm với tôi, có một số ít viên-chức sắc-phục cũng như dân-phục mà qua ánh mắt của họ nhìn nhau trước, trong và sau khi họ nói chuyện với tôi, tôi cảm thấy rõ-ràng rằng, dù Ngành Công-Lực ở cố-đô có do cá-nhân hay phe-nhóm nào đứng đầu đi nữa, thì bây giờ, đối với thiểu-số ấy, tôi vẫn chỉ là một người khách lạ, một người dưng, đáng nghi, đáng phòng.
Trước kia, Liên Thành tưởng tôi ăn-ý với Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, là Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, vốn có khuynh-hướng Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng, để chống phe-phái Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng mà trong đó anh cùng Trương Công Ân là đảng-viên cấp cao.
Giờ đây, cánh ấy lại tưởng tôi thoả-hiệp với lớp mới là những phần-tử cực-đoan của dư-Đảng Cần-Lao để chống phá Phật-Giáo.
Trong lúc đó, chính Hoàng Thế Khanh cũng lo đề-phòng tôi, vì tôi nguyên là nhân-vật đầu tiên công-khai đơn-độc chống chế-độ độc-tài nhà Ngô, bị mật-vụ triều Ngô gán cho là thành-viên quá-khích của Đảng Đại-Việt để phát-vãng tôi ra khỏi Miền Trung vào năm 1960…
Tôi thì xưa nay vẫn là một người độc-lập. Tôi coi nhẹ các cấp lãnh-đạo nhất-thời; tôi chỉ chú-trọng quảng-đại quần-chúng miên-viễn ngoài đời và đa-số công-chức & quân-nhân trung-chính trong Chính-Quyền mà thôi.
Tôi tách mình riêng ra khỏi các bộ-phận đón-tiếp và tháp-tùng, để tiện tiếp-xúc với một số cá-nhân bộc-trực, trong số này có Đại-Uý Trần Vĩnh Thuận tức “Thuận Xù”*. (*Xem “Ông Đồn Lợi”). Anh có một bộ tóc bù-xù nên bạn-bè đặt cho anh cái tên như trên.
Thuận là một trong số các bạn thân của tôi ngày xưa, nhất là giai-đoạn liền trước biến-cố 1960, là năm chúng tôi xa nhau. Bây giờ anh là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Quận ngoại-ô trong Tỉnh Thừa-Thiên.
Được tôi kéo ra để chuyện-trò riêng với nhau, câu nói đầu tiên của anh là trách-móc tôi:
– Tôi tưởng anh đã quên hết dĩ-vãng và bạn-bè!
Tôi chưa kịp nói gì thì Thuận đã nói tiếp, như để tăng phần khuấy-động tình-cảm trong lòng tôi:
– Anh Đặng Hữu Lợi đã chết, anh Trần Văn Cư đã mất, anh Phan Văn Trực đã qua đời, anh Lê Tấn Lực đã đi xa, anh Nguyễn Mầm đã thành phế-nhân, anh Nguyễn Duy Hát đã ra khỏi Ngành…
Những việc ấy, và cả nhiều việc khác nữa, tôi đã biết từ bao lâu rồi; nhưng khi nghe “Thuận Xù” nhắc lại tự-nhiên lòng tôi bỗng nhói đau như mới lần đầu tiên nhận được tin buồn về những người thân thương.
Chưa hết, “Thuận Xù” còn oái-oăm thò tay vào trong cổ áo tôi, nắn tìm xem tôi có mang một sợi dây chuyền nào không. Khi không thấy gì, anh mới ôm chầm lấy tôi mà hôn.
Ngày xưa, khi Ông Ngô-Đình Diệm mới về nước chấp-chánh, tôi là người đã ủng-hộ ông tận-tình, đơn-độc, liều-lĩnh ly-khai khỏi BTL Đệ-Nhị Quân-Khu, tức chống lại nhóm Hinh+Xương, dùng phương-tiện của Quân-Đội Quốc-Gia lúc ấy đang chống Diệm để phát-triển ảnh-hưởng ban sơ đang còn mong-manh của họ Ngô, mở đường cho thế-lực nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà sớm vững mạnh bắt đầu từ Miền Trung.
Do đó, sau khi chính-quyền Diệm đã ổn-định, giới-chức hữu-trách trong Quân-Đội đã đề-nghị Trung-Ương ban thưởng “Quân-Công Bội-Tinh” cho tôi. Các sĩ-quan lãnh-đạo Ngành Chiến-Tranh Tâm-Lý tại Đệ-Nhị Quân-Khu, lúc đó toàn là những phần-tử thân-tín của Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn, đã tặng tôi một sợi dây chuyền có treo một thập-tự-giá bằng vàng để làm kỷ-niệm khi quân-nhiệm của tôi đã mãn hạn-kỳ.
Thủa ấy, có nhiều công-chức và quân-nhân bỏ đạo của mình để theo Đạo Kitô. Số người cả trong lẫn ngoài chính-quyền tuy không phải là con chiên của Chúa mà cũng đeo thập-tự-giá dưới cổ thì khá đông. Không rõ do ai kể lại mà Thuận biết tôi cũng có một cái, nên anh cứ dòm chừng tôi, xem tôi có đeo hay không.
Ngày nay, “Thuận Xù” cố ý nhắc tôi nhớ lại cái vật trang-sức ấy, cái ý-nghĩa tượng-trưng của một phản-ứng người, trước một bối-cảnh đời.
Chỉ vừa mới thay-đổi cấp lãnh-đạo chính-viện Tỉnh có mấy hôm, và đến hôm nay thì mới thay-đổi cấp chỉ-huy Ngành An-Ninh (chưa động đến Ngành Phản-Gián) sở-quan, mà màu-sắc tín-ngưỡng của cá-nhân họ đã tác-động sâu-đậm lên tâm-lý của số đông viên-chức địa-phương như thế này sao?
Tôi cũng đã có linh-tính và ước-tính là sẽ có một cái gì đó xảy ra, nhưng tôi đã cắt đứt chiều-hướng xung-khắc của nhóm Linh-Mục Nguyễn Kim Bính ở Phú Cam đối với Chính-Quyền Tỉnh/Thị dưới thời Đại-Tá Tôn Thất Khiên rồi. Thế mà đường-lối đối-nghịch của họ lại nhắm sâu vào cả các chính-đảng và tôn-giáo khác, nhất là Phật-Giáo, mà tổ-chức quần-chúng là “Lực-Lượng Hoà-Hợp Hoà-Giải Dân-Tộc” thì cũng đang cùng đương-đầu với Chính-Quyền Trung-Ương.
Trong trường-hợp Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng bất-hòa với Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng, chắc “Thuận Xù” không cần nhắc-nhở gì tôi. Chỉ có trường-hợp Kitô-Giáo chèn ép Phật-Giáo, mới khiến anh phải bày-tỏ thái-độ như thế với tôi.
Thế mới biết, làm một người trung-lập không phải là việc dễ. Hầu như mọi người, nhất là trong Chính-Quyền, trong các giáo-hội và trong các chính-đảng, đều đinh-ninh rằng, người nào cũng phải là đảng-viên của một đảng nào đó, tín-đồ của một đạo nào đó, hay ít nhất cũng là đồ-đệ của một nhân-vật nào đó. Điều tệ-hại nhất là khi người ấy không thuộc cùng một cánh với mình thì người ta coi người ấy như kẻ phản-động, như kẻ thù.
Đáng lẽ tôi nói cho “Thuận Xù” biết về lập-trường của tôi; nhưng tôi lại ngại là anh sẽ kể lại với người khác, và người khác ấy lại tưởng rằng tôi cốt thanh-minh để mong cầu một chút ân-huệ gì của họ chăng.
Năm 1954, nếu tôi vượt qua những thủ-tục thông-thường trong các cơ-quan quân-sự và hành-chánh, nhất là vượt qua lòng tự-trọng của chính mình, như lắm kẻ đã làm, đến kể công với Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn, hoặc Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, hoặc chính Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm, thì chắc-chắn là tôi đã được ban cho nhiều đặc-quyền đặc-lợi rồi. Năm 1967, nếu tôi kể công với Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu rằng tôi đã bí-mật nhúng tay phá vỡ âm-mưu đảo-chính của Thiếu-Tướng Nguyễn Cao Kỳ để bảo-toàn kết-quả cuộc bầu-cử đem lại thắng-lợi cho ông ngồi vững trên ghế Nguyên-Thủ Quốc-Gia, thì cũng chắc-chắn là tôi đã được trọng-thưởng nhiều rồi.
Vì tự-trọng và tự-ái, tôi chấp-nhận im-lặng, chỉ mình tự biết lấy mình.
Và mình đã nghĩ đúng, nói phải, làm hay, là đủ rồi.
Tuy nhiên, về vấn-đề đối-nghịch giữa Kitô-Giáo với Phật-Giáo thì tôi phải nói, vì tôi là một chứng-nhân.
Xét chung thì chế-độ Ngô Đình Diệm đã tạo hoàn-cảnh cho một số tín-đồ Kitô-Giáo, và cả một số không phải là con chiên của Chúa, xúc-phạm đến các tôn-giáo khác, nhất là Phật-Giáo mà tổng-số tín-đồ lên đến trên chín mươi phần trăm dân-số, nên các lãnh-tụ Phật-Giáo phải đứng lên tranh-đấu đưa đến cuộc Cách-Mạng 1-11-1963.
Ngày xưa, dưới thời Pháp-thuộc, các quan cai-trị thực-dân Pháp và triều-đình Huế tay-sai đều nằm trong vòng ảnh-hưởng của các cha-cố thuộc Toà Thánh Vatican, nhưng việc lấn-át chỉ xảy ra trong một số lãnh-vực và nhắm vào một số đối-tượng nhất-định, chứ không chèn-ép tràn lan người dân nô-lệ Việt-Nam vốn đại-đa-số là đệ-tử Cửa Thiền.
Liền trước thời Diệm, khi đế-quốc Pháp trở lại với súng đạn viễn-chinh thì cụ Trần Văn Lý lên chấp-chánh ở Miền Trung. Dù là một nhân-sĩ Kitô-Giáo, được Pháp và giáo-hội hậu-thuẫn và nể-vì, nhưng cụ có ỷ vào chức quyền để rẻ-rúng người nào không cùng tín-ngưỡng với mình đâu.
Dù sao, nếu cho rằng mọi tín-đồ Đạo Kitô dưới thời Diệm đều muốn đè bẹp Đạo Phật thì cũng không hoàn-toàn đúng.
Năm 1960, tôi bị đày lên xứ Thượng và bị “mật theo-dõi hành-vi chính-trị”, nghĩa là tôi thuộc thành-phần “phản-loạn” (dưới chế-độ Diệm không có “đối-lập”). Trớ-trêu thay, tôi được Giám-Đốc Cảnh-Sát Công-An trên này cử làm Trưởng Ban Điều-Tra Đặc-Biệt của Nha, bất-chấp lệnh cấm của Tổng-Nha. Nhiệm-vụ và quyền-hạn của tôi là bắt giữ, thẩm-vấn và lập hồ-sơ truy-tố các vụ vi-phạm, cả hình-sự lẫn chính-trị, khắp các Tỉnh ở cựu-Hoàng-Triều Cương-Thổ này.
Tại thủ-phủ của Cao-Nguyên, tôi đã đối-diện với nhiều tín-đồ Kitô-Giáo, vừa là thanh-niên học-thức, vừa là chấp-sự thân-cận của các Cha Xứ ở các Địa-Điểm Dinh Điền và Khu Trù Mật nổi tiếng thịnh-vượng và an-ninh của đồng-bào Miền Bắc di-cư, như Châu Sơn, Kim Châu Phát, Khuê Ngọc Điền, v.v…
Về mặt chính-trị nội-bộ, các thành-viên Kitô-Giáo bị báo-cáo là có ngôn-ngữ và thái-độ chống-đối Chính-Quyền, mà tôi lần-lượt mời đến hỏi cung, đều mạnh-dạn vạch rõ sai-lầm của chế-độ Diệm trong vấn-đề tôn-giáo, và khẳng-định rằng họ phản-đối mọi âm-mưu và hành-động của những kẻ đàn-áp Phật-Giáo. Chính Linh-Mục Nguyễn Viết Khai, là cha đỡ-đầu của Diệm, mà cũng chống Diệm về vấn-đề này. Theo họ, Thánh-Kinh tức là Lời Chúa, có khuyến-khích con chiên mở rộng Hội Thánh, nhưng bằng rao-giảng chứ không phải bằng bạo-lực hay mồi-bả vật-chất của thế-gian.
Biên-Tập-Viên Nguyễn Hữu Liêm và Thẩm-Sát-Viên Nguyễn Giang, ngồi cùng phòng với tôi, vừa làm việc vừa liếc nhìn tôi mà cười. Mà buồn cười thật, chính tôi cũng tự cười mình: một viên-chức an-ninh bị chế-độ trừng-phạt vì chống-đối chế-độ mà lại nhân-danh chế-độ đứng ra bắt lỗi những phần-tử cũng chống-đối chế-độ như mình!
Không lâu trước ngày tôi bắt đầu điều-tra các đối-tượng này, ở Ban Mê Thuột đã xảy ra một cái chết gây sôi-nổi dư-luận gần xa. Nguyên dưới quyền của Biên-Tập-Viên Liêm có một Đội Biệt-Kích Công-An, chuyên đi lùng diệt Việt-Cộng tại khắp các tỉnh Cao-Nguyên. Một hôm, có một đội-viên tên Nguyễn Văn Nam, cùng với đồng-đội mới đi công-tác về, bị mót đại-tiện nên vừa từ trên xe nhảy xuống là đã vội-vàng chạy tuốt vào trong nhà tiêu. Vì gấp-rút và không có gì khác hơn nên anh đã dùng một mảnh giấy báo mà lau hậu-môn. Ngẫu-nhiên có một đội-viên khác, cũng vào cầu-tiêu, trông thấy mảnh giấy báo của Nam có in ảnh của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, nên lưu-ý anh về việc này. Người bị bắt gặp quả-tang “phạm-thượng” đã rút súng tự bắn vào đầu chết ngay tại chỗ―Anh sợ bị đưa ra “phê-bình” trong các buổi “Học-Tập Chính-Trị và Công-Dân Giáo-Dục”, và sau đó là những hậu-quả khôn lường.
Một số trong các tín-đồ Kitô-Giáo nói trên, trong lúc khai-cung, đã đề-cập với tôi về vụ đó, và một người đã chất-vấn tôi:
– Dưới thời Nho-Giáo cực-thịnh, mọi người đều phải tôn-trọng ngay cả bất-cứ một mảnh giấy nào trên đó có Chữ Nho, vì Chữ Nho là biểu-tượng của Đạo Nho, của Đức Khổng-Tử. Tuy thế, nếu có kẻ dùng sách giấy có Chữ Nho, hình-ảnh Đức Khổng-Tử, mà lau hậu-môn, thì kẻ ấy chỉ bị quở mắng, hoặc bị đánh đòn, một lần rồi thôi, chứ có ai vì cái lỗi ấy mà bị hành-hạ tàn-nhẫn đến độ thà tự-tử chết còn hơn để bị bắt giam? Qua cái chết của anh ấy, cũng là đồng-nghiệp Công-An với các anh, các anh nghĩ sao về chế-độ này?
Các anh Liêm và Giang đã đồng-ý với tôi, dẹp bỏ biên-bản chấp-cung, để cho các phần-tử “Công-Giáo công-chính” ấy tự tay viết các lời khai theo ý họ, xong để họ ra về tự-do, rồi đệ-trình hồ-sơ lên Cấp Trên “để tuỳ-nghi thẩm-định” với cái đề-nghị đã trở thành công-thức là “tiếp-tục mật theo-dõi hành-vi chính-trị” của các đương-nhân.
Tôi nhấn mạnh với “Thuận Xù” điều đó, và nhắc thêm về biến-cố 1960: cùng bị đày ra khỏi Huế và các tỉnh thành lớn, lên miền lam-sơn chướng-khí một lần với tôi, còn có các anh Trần Văn Liệu và Trần Tòng; họ cũng là tín-đồ Kitô-Giáo, cũng là dân Phú-Cam, trung-tâm ảnh-hưởng của gia-đình họ Ngô. Trước đó, nhân-sĩ Trần Điền mà tôi quen thân hồi ông còn làm Giám-Đốc Nha Thông-Tin và hầu hết đồng-bào gần xa đều biết tiếng, là thủ-lãnh Hướng-Đạo Việt-Nam, là một nhà trí-thức Kitô-Giáo lừng danh, mà cũng chống-đối Diệm và bị Diệm kết án tử-hình…
Thế thì đâu có phải là đồng-bào Kitô-Giáo nào cũng dễ-dàng đồng-minh với Quỷ Satan?
Thế mà hiện nay vẫn còn có một số thuộc cả hai bên chưa chịu làm lành với nhau.
Ở Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, người ta kháo chuyện với nhau về một chuyến đi thanh-tra Thừa-Thiên/Huế vừa rồi của Trung-Tá Trần Văn Hương.
Các cấp chỉ-huy ở đây bố-trí cho Hương ngủ ở khách-sạn, ăn ở nhà-hàng, và chi-tiêu linh-tinh gì đó. Khi anh về Trung-Ương rồi, Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực ngoài này, dưới thời Thiếu-Tá Liên Thành, liền gửi một xấp hoá-đơn vào Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, nơi đã phái Hương đi công-tác, để xin thanh-toán tiền phòng, tiền ăn, v.v… cho Hương!
Ngoài việc Hương bị xem như đã có đòi-hỏi địa-phương cung-phụng này kia, các viên-chức khác từ đó về sau đều ngán Miền Trung, nếu phải ra Huế là lo giữ mình đủ điều.
Nguyên-do là Hương nguyên là Cảnh-Sát-Trưởng ở Huế, dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà, và là tín-đồ Đạo Kitô.
Vấn-đề tôi đặt ra với anh+em, không phải chỉ là cá-nhân Trần Văn Hương thật ra là một người tương-đối không quá xấu, không đáng để bị chơi khăm cách đó, nhưng mà là đối với bất-cứ ai, dù trong quá-khứ đã làm việc gì không hay, mà sau đó tình-trạng đã được giải-quyết rồi, và trong hiện-tại họ là người mới, không phạm lỗi gì, thì mình không nên tiếp-tục oán thù vì chuyện đã qua.
Chúng ta ai nấy đều có rất nhiều bạn thân, kể cả thân-nhân, không cùng tôn-giáo với mình. Đừng để sự khác-biệt tín-ngưỡng xen vào làm sứt-mẻ mối gắn-bó trong đời sống giữa những con người với nhau.
*
Trong nội-bộ Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên, có hai Phòng quan-trọng, là Nghiên+Kế và Tác-Vụ; mà hai Chủ-Sự Phòng thì không hợp nhau vì tín-ngưỡng khác nhau.
Trước kia, tôi được cho biết là Trung-Uý Dương Đại Chung báo-cáo tình-hình chính-trị quốc-nội cho Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, ngay cả trước khi lập công-điện hay công-văn trình lên Cấp Trên. Đây là một vấn-đề phức-tạp và tế-nhị vô cùng. Đúng ra, trên nguyên-tắc thì công-chức và quân-nhân không được tham-gia hoạt-động cho một đảng-phái chính-trị nào; nhưng trên thực-tế thì, dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà, Đảng Cần-Lao Nhân-Vị đã rập khuôn đảng cộng-sản mà đặt nền-móng bên trong các cơ-quan chính-quyền và đơn-vị quân-lực; và, dưới thời Đệ-Nhị Cộng-Hoà, Đảng Dân-Chủ tuy ra đời sau nhưng cũng đã lan tràn bên trong các công-sở và quân-doanh; cho nên không ai nhớ đến cái nguyên-tắc ấy nữa. Trong lúc đó, không có văn-bản nào cấm các tín-đồ tiết-lộ việc công và việc quân cho các vị “lãnh-đạo tinh-thần”. Có thể là người ta tin rằng việc ấy sẽ không xảy ra; hoặc có thể là người ta cố ý tránh né vì sợ làm mếch lòng các giáo-phái; mà cũng có thể là người ta mặc-nhiên chấp-nhận và cho phép việc làm này? Và, lẽ tất-nhiên, một khi các chính-trị-gia đã có tai+mắt trong các công-đường và binh-trại rồi, thì các tu-sĩ cũng chẳng chịu thua-kém gì ai. Cho nên tôi không trách phạt gì Chung, vì thật ra có một số viên-chức thuộc các giáo-hội khác, các chính-đảng khác, ở khắp nơi, sau này cũng có bắt chước hành-động như Chung, mặc dù không nhất-loạt và tích-cực bằng. Bù lại, lần nào ra Huế tôi cũng tiếp-xúc với anh, để xoá cho anh cái mặc-cảm bị lạc-lõng vì khác phe, và để tận-dụng trong anh cái tinh-thần phục-vụ vốn tiềm-tàng của mỗi người.
Tôi đã lập lại cái thế thăng-bằng trong quan-hệ đối-nhân, và thấy được kết-quả tốt. Ít nhất thì anh cũng đã góp phần gỡ bí chung, khi Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây trực-tiếp gọi máy hỏi tôi về cuộc mít-tinh đang diễn ra. Buổi sáng củ-mật ấy, Linh-Mục Nguyễn Kim Bính triệu-tập giáo-dân trước sân và xung quanh nhà thờ Phú-Cam, chuẩn-bị khí-thế cho một cuộc xuống-đường mới, dự-trù hùng-hậu và quyết-liệt hơn lần rồi.
Tôi đã ra Huế, có mặt tại chỗ, nhưng phải nhờ đến Chung, là người trong cuộc, mới biết đủ những gì khuất kín bên trong giáo-đường, vì các nhân-viên khác tín-ngưỡng khó lòng mà len-lỏi vào được trong cái tập-thể chọn-lọc và có cảnh-giác cao ấy, để chụp ảnh, ghi-âm, nhận-diện thành-phần cực-đoan, thu-thập hành-tung những kẻ khả-nghi, và định-vị cái đài vô-tuyến phát-thanh mà nhà thờ này được phép sử-dụng từ thời Đệ-Nhất Cộng-Hoà―ngày xưa là để giúp các tín-đồ già-yếu bệnh-tật, không đến giáo-đường nổi, cũng có thể ở nhà mà nghe giáo-lễ do đồng-đạo cử-hành; ngày nay là để phổ-biến đến khắp ngõ hẻm hang cùng những lời hô-hào chính-trị phát-động các cuộc mít-tinh, xuống đường chống chính-quyền.
Ngày nay, có Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ và Trung-Tá Hoàng Thế Khanh, Chung và các bạn của anh đương-nhiên thoả-thích hơn.
Ngược lại, Trung-Uý Dương Văn Sỏ, Trưởng Phòng Tác-Vụ, trước các cấp chỉ-huy đều mới, thì không khỏi giao-động tinh-thần, vì không ai đoán được chữ ngờ.
Thượng-Sĩ Lê Văn Y, một Trưởng Lưới Tình-Báo xuất-sắc của Đặc-Cảnh Quận Ba, Đà-Nẵng, mà vì Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực địa-phương không ưa nên đã phải đổi vùng. Thiếu-Uý Nguyễn Ba, một điệp-trưởng hữu-công của Tỉnh Thừa-Thiên, lại là người của Đảng Đại-Việt lúc đương-quyền, mà vì không được lòng các cấp chỉ-huy cùng Đảng nên cũng đã bị đẩy đi xa. Thiếu-Uý Trương Quang Thanh năng-động của Tỉnh Quảng-Nghĩa, phải sống xa quê vì tuy là đảng-viên Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng mà không cùng hệ-phái với các cấp chỉ-huy.
Huống gì gốc-gác của Trung-Uý Sỏ thì rõ-ràng xa-cách với thế-lực cầm quyền hiện giờ.
Do đó, tôi phải duy-trì chỗ đứng của Sỏ, vì đó vừa là tai+mắt vừa là tay+chân của Ngành, không thể để lọt vào người khác phe, khi mà vấn-đề phe-phái đã được chính Trung-Tá Hoàng Thế Khanh không ngần-ngại công-khai nêu lên với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc và tôi.
Một mặt, tôi giao-tiếp với Sỏ nhiều hơn, để tỏ là đã có tôi đích-thân chăm-sóc khả-năng phục-vụ của anh; mặt khác, tôi đề-cao hai viên-chức khác, chủ ý là nếu phải thay-thế Sỏ thì hẳn là Khanh sẽ phải chấp-nhận một trong hai người này mà thôi. Tôi làm như thế là để vẫn giữ cái thế thăng-bằng trong nội-bộ cơ-quan; nếu không thì một mình Chánh Sở Đặc-Cảnh Trương Công Đảm bị kẹt ở giữa khó lòng mà hoàn-thành trách-vụ của mình.
*
Cũng như ở các Tỉnh khác, ngoài các viên-chức Đặc-Cảnh địa-phương, tôi đã có một số bạn-bè thân-tín, thuộc nhiều giới, ở Thị-Xã Huế và Tỉnh Thừa-Thiên.
Dù không phải là kẻ đa-nghi, song kinh-nghiệm bản-thân không cho phép tôi làm kẻ dễ tin. Thỉnh-thoảng tôi vẫn phải xét lại một vài vấn-đề, dù là bề ngoài không có gì bất-thường.
Tôi tin vào các cộng-sự-viên của mình; nhưng nếu chính các đương-nhân thật tình không nắm vững tình-hình hoặc bị đánh lừa, thì lẽ nào tôi chịu để cho mình cũng cùng bị thiếu-sót hay sai-lầm sao? Nhiều khi gặp phải những bài toán khó giải, tôi đã nhờ vào linh-tính, trực-giác hay “giác-quan thứ sáu”, nhất là thái-độ vô-tư của mình. Nhưng xác-thực nhất bao giờ cũng là tin-tức, tài-liệu, và sự hiểu-biết của các thân-tình-viên nói trên; nhờ họ, tôi đã nhiều lần biết được, và cả biết trước, những mưu-đồ ám-muội của một số nhân-vật này, phe-phái kia…
*
Sau cuộc họp báo của Ngành Đặc-Cảnh chúng tôi tố-cáo Tổng-Hội Sinh-Viên Huế và cả “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, qua Linh-Mục Nguyễn Kim Bính tại Phú-Cam, đều đã bị Việt-Cộng xâm-nhập và lợi-dụng, thì tình-hình nội-an ở Huế, và cả toàn-quốc, đã lắng dịu đi rất nhiều.
Sinh-viên ở Huế trở lại sinh-hoạt bình-thường, chăm lo trau dồi kiến-thức văn-hóa, không còn bung xung hò hét ồn-ào như thời-gian qua.
Sinh-viên ở Sài-Gòn, mà cái Tổng-Hội trong đó vốn cũng đã bị Cảnh-Lực Quốc-Gia tố-cáo là bị cộng-sản giật dây, nay thêm sáng mắt―chỉ trừ số ít phần-tử cơ-sở Việt-Cộng và thân-Cộng mà thôi.
Về phần “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, thì Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Cam, đã bị khựng lại, nên ngưng xuống đường; và Linh-Mục Trần Hữu Thanh trong Nam thì cũng, do đó, ngưng các mưu-tính biểu-tình.
Như thế là chúng tôi đã thành-công trong việc ngăn-chận và dập tắt các nỗ-lực xúi-giục toàn-quốc đồng-loạt tuần-hành, gây xáo-trộn trật-tự công-cộng, làm mất an-ninh chung trong mọi giới dân-nhân, tạo hoàn-cảnh và cơ-hội cho kẻ địch lèo-lái mà biến thành xung-đột đẫm máu, kể cả cơ nguy bị đối-phương xâm-chiếm từng cơ-quan, đơn-vị, hay khu-vực ly-khai hay tự-trị ngay trong nội-địa lãnh-thổ Quốc-Gia, mà ảnh-hưởng dây chuyền có thể là mất hẳn cả Miền Nam.
(Tuy nhiên, về mặt tinh-thần, “Phong Trào Chống Tham Nhũng” vẫn còn cố-thủ, tiếp-tục và gia-tăng các nỗ-lực sách-động cũ, trong các nhà thờ, trong các họ đạo, và cả trong giới giáo-dân quân-nhân, thậm chí kêu gọi làm binh-biến, dùng bạo-lực lật đổ Tổng-Thống Thiệu―tức là tuy không mở cổng cho địch vào đồn, mà lại mở lòng, mở ý, sẵn-sàng đón mời “đồng-minh”, vì cùng là kẻ thù của tổng-thống Việt-Nam Cộng-Hòa!)
Mục-đích của nhóm tu-sĩ Kitô-Giáo quá-khích không phải chỉ là lật đổ Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, mà là tái-lập một chế-độ kiểu Ngô Đình Diệm, nghĩa là dù cho sẽ không có một Tổng-Thống tín-đồ Đạo Chúa với một mạng lưới khủng-bố kiểu Đảng Cần-Lao―vì vào thời đó không có một nhân-vật nào có thể có đủ điều-kiện là một ứng-viên kiểu đó vào chức-vụ đó―thì họ cũng sẽ tìm đủ mọi cách đưa vào Chính-Quyền những nhân-vật và những chính-sách hoàn-toàn do họ giật dây, mục-đích là đàn-áp các giáo-hội khác, để phát-triển Đạo Kitô.
Bây giờ, kế-hoạch thứ nhất―toàn-quốc xuống đường xáo trộn an-ninh, tạo sức ép lớn cả trong lẫn ngoài đủ để lật Thiệu―vì tôi mà đã bất-thành, thì họ xoay qua kế-hoạch thứ hai.
Tôi đã cài-cấy tay-trong trong mọi tổ-chức, dù là chính-trị, kinh-tế, văn-hóa, xã-hội, kể cả tín-ngưỡng. Đặc-biệt trong vấn-đề này tôi càng theo sát ý-đồ và đường-lối của các mục-tiêu, bắt đầu từ Huế, từ xóm Phú-Cam mà ra.
Kế-hoạch thứ hai của họ là triệt-hạ dần các phần-tử nguyên là thành-viên hoặc có cảm-tình, hoặc bị nghi là liên-hệ gần+xa với phe “Phật-Tử Tranh-Đấu” vốn đã góp phần lật đổ Nền Đệ-Nhất Cộng-Hòa. Đối-tượng của họ nằm ở mọi nơi, dân cũng như quân, ở cả ba ngành lập-pháp, hành-pháp và tư-pháp trong Chính-Quyền Đệ-Nhị Cộng-Hòa.
Và họ bắt đầu ra tay.
Một hôm, không lâu trước ngày Thừa-Thiên triệt-thoái rồi Vùng I lui quân, một số đơn-vị Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa đi hành-quân trong hoạt-vực của Chi-Khu Phong-Điền, thuộc Tỉnh/Tiểu-Khu Thừa-Thiên, đã phá vỡ được một căn-cứ của Việt-Cộng, và tịch-thu được của chúng nhiều chiến-lợi-phẩm, trong đó có một số tài-liệu quan-trọng, kể cả một Nghị-Quyết của Đảng-Ủy Liên-Khu IV về Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế. Nghị-Quyết này đề-cập đến tình-hình các mặt của Việt-Nam Cộng-Hòa tại Tỉnh liên-quan, nhiệm-vụ của chúng, và kế-hoạch cho một cuộc tấn-công mới, nhằm chiếm-giữ thành-phố Huế lâu dài hơn, rút kinh-nghiệm từ cuộc tổng-công-kích vào mùa xuân năm 1968―Tết Mậu-Thân.
Như đã nói trên, nhiều tu-sĩ Kitô-Giáo đã tổ-chức cho tín-đồ mà là nhân-viên an-ninh & tình-báo của các cơ-quan & đơn-vị khắp nơi báo-cáo tình-hình, tin-tức mới nhất cho các linh-mục, ngay cả trước khi thực-hiện công-điện công-văn trình lên Cấp Trên của mình. Kết-quả hành-quân lần này cũng không ra ngoài lệ thường.
Cho nên người ta đọc thấy đoạn kết của bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ghi rõ: sau khi chiếm được Thành-Phố Huế, dứt điểm Tỉnh Thừa-Thiên, chúng sẽ dựng lên một chính-quyền mới, gồm toàn những “đồng-chí nằm vùng công-khai hợp-pháp” của chúng, đó là sáu Nghị-Viên đương-kim của guồng máy dân-cử sở-tại của Việt-Nam Cộng-Hòa, mà đứng đầu danh-sách là Ông Nguyễn-Khoa-Phẩm, Chủ-Tịch Hội-Đồng Tỉnh Thừa-Thiên, và Ông Nguyễn-Khắc-Thiệu, Chủ-Tịch Hội-Đồng Thị-Xã Huế, v.v…
Bộ Chỉ-Huy Tiểu-Khu Thừa-Thiên đã làm báo-cáo kèm với bản chụp sao các trang tài-liệu đánh máy của Đảng-Ủy Việt-Cộng nói trên, trình lên Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn I và Quân-Khu I, Bộ Tổng-Tham-Mưu, v.v…
Chánh Sở Đặc-Cảnh Thừa-Thiên/Huế trình lên tôi, tôi trình lên Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, rồi Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia (kiêm Đặc-Ủy-Trưởng Trung-Ương Tình-Báo) trình lên Tổng-Thống.
Kết-quả trông thấy trước mắt là các ông Nguyễn Khoa Phẩm, Nguyễn Khắc Thiệu, cùng bốn nhân-vật dân-cử nói trên, sẽ bị giải-nhiệm tức-thời.
Giải-nhiệm các Nghị-Viên Hội-Đồng Tỉnh+Thị-Xã không phải là một việc khó.
Trước đây, có một số Nghị-Viên Hội-Đồng Tỉnh Quảng-Nghĩa đã hành-sử tư-cách dân-cử của mình, xin Bộ Chỉ-Huy Tiểu-Khu sở-tại cấp phương-tiện phi-cơ trực-thăng cho họ chở thực-phẩm, thuốc-men, và nông-cụ lâm-cụ lên các Quận miền núi để cấp-phát cho đồng-bào vùng đó đang gặp khó-khăn. Đa-số các vật-phẩm ấy đã lọt vào tay những kẻ buôn lậu và tiếp-tế cho Việt-Cộng, thay vì đến tay người dân khó-nghèo. Thiếu-tá Đặc-Cảnh Hồ Anh Triết đã điều-tra ra sự thật, và kết-quả là Trung-Ương đã giải-nhiệm các Nghị-Viên liên-can.
Nhưng trong trường-hợp trên, các Nghị-Viên ấy chỉ phạm tội buôn lậu, chỉ bị biện-pháp hành-chánh hoặc bị phạt tiền. Đằng này, theo tài-liệu kể trên, thì nhóm Nguyễn Khoa Phẩm rõ-ràng là tay-sai của Việt-Cộng nằm vùng, lâu nay đã hoạt-động cho địch đắc-lực đến độ được chúng tín-nhiệm chọn cử cầm đầu bộ máy chính-quyền mà chúng sẽ dựng lên nay mai. Với bằng-chứng đó, các đương-nhân sẽ không những chỉ bị giải-nhiệm, mà chắc-chắn là sẽ còn bị câu-lưu truy-tố về tội phá rối trị-an, ở tù, và có vết-tích xấu về mặt chính-trị trong hồ-sơ lý-lịch cá-nhân, mất hết mọi cơ-hội để ra tham-gia chính-sự dù ở bên dân-cử hay bên công-quyền.
*
Ngay sau khi tài-liệu Việt-Cộng nói trên được Tiểu-Khu và chính-quyền Tỉnh Thừa-Thiên và Thị-Xã Huế làm bản sao gửi đi các nơi, tôi được nguồn tin tín-cẩn báo riêng cho biết: đoạn kết trong bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ấy là do một nhóm dư-đảng Cần-Lao quá-khích thông-đồng với nhau mà ngụy-tạo thêm.
Ông Nguyễn Khoa Phẩm, ông Nguyễn Khắc Thiệu, và tất cả các Nghị-Viên có tên trong đoạn kết của bản Nghị-Quyết Việt-Cộng ấy, đều là tín-đồ Phật-Giáo, có quan-hệ chặt-chẽ với Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất; họ đồng-thời cũng là đảng-viên quan-trọng của Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng.
Đạo Phật và Đảng Đại-Việt, cùng các giáo-phái và chính-đảng khác, đã bị chế-độ Ngô Đình Diệm đàn-áp, và đã góp phần tích-cực vào việc lật đổ chế-độ ấy.
Hiện nay, Đại-Việt và Phật-Giáo đang ngăn-chận dư-đảng Cần-Lao, là một nhóm tín-đồ Kitô-Giáo và giáo-phái khác mà quyền-lợi vật-chất hoặc tinh-thần đã quá gắn-bó với chế-độ Diệm, không để cho họ tái-lập quyền sinh-sát để trả thù cho gia-đình họ Ngô.
Từ nhiều năm qua, hầu như mọi quyền hành-pháp và lập-quy tại Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế đều nằm trong tay Đảng Đại-Việt, và hầu như lần bầu-cử nào các liên-danh Phật-Giáo cũng thắng phiếu vào Hội-Đồng Tỉnh và Thị-Xã địa-phương.
Bây giờ thì nhóm cựu Cần-Lao ấy, cái thiểu-số tác-yêu tác-quái đã là tác-nhân tác-hại cho chính cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và các anh+em của ông phải mất mạng, và cho Đảng ấy phải tự xóa tên của mình, nhóm ấy đã lại nắm được vị-thế cầm đầu cả quyền hành-pháp lẫn ngành công-lực của toàn Tỉnh & Thị rồi.
Theo kế-hoạch thứ hai của các Linh-Mục Trần Hữu Thanh và Nguyễn Kim Bính, họ muốn gấp-rút thanh-toán các phần-tử đối-nghịch hiện còn cầm đầu cơ-quan dân-cử của Tỉnh+Thị nầy.
*
Đồng-thời với tin-tức mật riêng của tôi, đích-thân Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế, Trương Công Đảm, trình-bày với tôi là thuộc-viên của anh bị giao-phó công-tác thực-hiện việc giả-mạo đoạn văn vu-khống các Nghị-Viên kia.
Anh là bạn thân của Trung-Tá Hoàng Thế Khanh, hiện là cấp chỉ-huy tại chỗ của anh; nhưng việc này là “một tệ-nạn rất nguy-hiểm, vì nó là mầm-mống gây thù-nghịch ngay trong hàng-ngũ của những người đang đứng chung cùng một chiến-tuyến”. Do đó, vì “trung-thực”, vì “chính-tâm”, anh đã chọn đặt chính-nghĩa lên trên tình-cảm hay quyền-lợi cá-nhân, nên anh liền báo-cáo Sự Thật lên tôi.
Tài-liệu ngụy-tạo của Nguyễn Hữu Duệ thì chỉ đi theo hệ-thống báo-cáo tình-hình, chứ không thông-qua kỹ-thuật kiểm-tra; vả lại vấn-đề Việt-Cộng chủ-trương tái-diễn biến-cố Tết Mậu-Thân ở Huế là điều hầu như mọi người đinh-ninh là chuyện đương-nhiên; nghĩa là các cấp nhận được báo-cáo đều đã tin chắc nội-dung là đúng 100%.
Tôi liền lấy bản chụp sao của Nghị-Quyết ấy ra xem lại, chú ý nhìn kỹ thì thấy, dù bằng mắt thường, quả thật đoạn cuối đã được đánh máy bằng một máy đánh chữ khác, khác hẳn với các trang trước và với đoạn trước cùng trang.
Tôi lặng người đi một lát, rồi nhắm mắt lại ôn lại lời dạy của Đức Phật Thích-Ca: “Oán-cừu nên cởi, không nên buộc!” Năm trăm năm sau, Đức Giê-Su cũng rao-giảng như trên: “Hãy hết sức mình sống hòa-thuận với mọi người… Đừng tự mình trả thù ai… Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện mà thắng điều ác!” (Romans 12:18,21). Tôi lại lật lui, đọc thêm trong sách Proverbs 10:12: “Tính ghen-ghét phát-sinh tranh-chấp; chỉ có lòng thương yêu mới lấp hết tội-khiên”. Trước hết, và trên tất cả là “Mười Điều Răn” đã có từ xưa, trong sách Exodus 20:16: “Các con không được làm chứng gian để hại người xung quanh!”…
Kể từ biến-cố 1-11-1963, đã mười hai năm trôi qua, Đệ-Nhất Cộng-Hòa không còn, mà một nhóm nhỏ phần-tử thân-Diệm còn rơi-rớt lại vẫn còn hiểm-độc như thế. Họ mới gặp dịp chó-ngáp-phải-ruồi ngóc đầu lên được một chút mà đã gian-manh bày mưu thâm, tính kế hiểm vu-oan giá-họa để hãm-hại người khác tín-ngưỡng ngay, huống gì khi cái chế-độ độc-tài độc-tôn bạo-ác ấy đang còn phủ trùm lên khắp quê-hương, mà họ lại nắm chính-quyền trong tay, thì họ đã tác-yêu tác-quái đến mức nào.
Nếu vụ ngụy-tạo tài-liệu Việt-Cộng ở Huế mà đạt kết-quả do họ mong muốn, rồi các nơi khác cũng sẽ noi theo―giống như kế-hoạch biểu-tình, Huế mà làm xong là các nơi khác cũng sẽ làm theo―không cần Tỉnh-Trưởng, Tư-Lệnh Hành-Quân; chỉ cần bất-cứ một cá-nhân nào có thể báo-cáo tin-tức, chuyển trình tài-liệu, là đã có thể thêm-thắt theo ý của nhóm chủ-trương: hậu-quả sẽ như thế nào trên khắp vùng đất gọi là Miền Nam Tự-Do?
Tôi không là người của bất-cứ một chính-đảng hay giáo-hội nào; mà Trương Công Đảm thì cũng không nặng tình đậm nghĩa với ai đến độ mù-quáng lý-trí và thui-chột lương-tâm mà bao che cho lũ gian-manh. Huống gì anh đã thấy rõ là chúng sẽ còn lợi-dụng anh thêm trong nhiều âm-mưu tiếp theo.
Trong vụ giả-mạo tài-liệu này, điều bí-mật đã được báo-cáo lên tôi cũng rất có thể sẽ được tiết-lộ cho người khác biết, và hậu-quả tất-nhiên sẽ là một phản-ứng mạnh của giới Phật-Tử, với mối liên-kết có sẵn với nhiều tổ-chức khác, thí-dụ Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng và Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng, mà ngoài Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc ra thì riêng Đại-Việt cũng đã là một chính-đảng có khối lượng đảng-viên đông nhất và mạnh nhất trên toàn cõi Việt-Nam Cộng-Hòa.
Việc làm bất-lương của vài ba con chiên ghẻ, làm chứng dối như thế, rất có thể sẽ châm ngòi cho một cuộc nội-chiến khốc-liệt giữa hai giới Phật-Tử và cựu Cần-Lao cực-đoan, sớm đẩy Việt-Nam Quốc-Gia đến bờ vực thẳm tương-tàn.
*
Hôm qua, tài-liệu bắt được của Việt-Cộng mà Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên/Thị-Xã Huế trình lên thì tôi đã giao cho Sở Nghiên+Kế Khu I làm Phiếu Chuyển đệ-trình lên Bộ Tư-Lệnh CSQG/Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương theo lệ thường rồi.
Nhưng hôm nay, về vấn-đề ngụy-tạo đoạn kết, có tầm quan-trọng lớn-lao đối với tình-hình an-ninh và nội-chính của Quốc-Gia, thì tôi đã tức-tốc vào báo-cáo riêng với Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, và tự tay đánh máy một Phiếu Trình mật, gửi riêng cho Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, bản sao gửi Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, và cử đại-diện thân-tín mang thẳng đến văn-phòng của hai vị ấy ở Sài-Gòn.
Tôi cũng báo-cáo thẳng lên Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư-Lệnh QĐI&QKI, tức Đại-Biểu Chính-Phủ tại Vùng I, theo đúng tinh-thần của Sắc-Lệnh của Chính-Phủ đã quy-định cho trách-vụ của tôi.
Tất-nhiên tôi đã nêu tên nguồn tin và giải-thích rõ trường-hợp nhận tin, đặc-biệt là Trương Công Đảm, để giúp Cấp Trên kiểm-chứng dễ-dàng. Ngoài ra, tôi còn tuyệt-đối giữ kín vụ này tại địa-phương mình, để tránh náo-loạn trong khi chờ-đợi quyết-định của Trung-Ương.
Nguồn tin của tôi nói rõ rằng chính Đại-Tá Nguyễn Hũu Duệ, Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Trưởng Thị-Xã Huế, là nhân-vật chủ-chốt trong việc thi-hành thủ-đoạn này, việc mà, nếu ông mà từ-chối―nhân-danh dân Chúa, làm theo lời Chúa hơn là lời Cha―thì hẳn chưa biết chờ đến bao giờ Linh-Mục Nguyễn Kim Bính mới kiếm ra cho được một con chiên ngoan đạo kiểu đó theo ý của mình.
Đại-tá Duệ mà lên làm Tỉnh-Trưởng ngoài đó là do đề-nghị đặc-biệt có tính-toán của tôi, chứ không phải là do “tài” hay “đức” gì của ổng.
Nhưng ổng đã để lộ ra “tài đức” thật-sự của ổng.
Ổng đã nuôi lòng trả thù từ ngót mười hai năm nay, đúng theo lời trối của cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm (“Tôi chết thì trả thù cho tôi!”), lạm-dụng Trung-Tá Hoàng Thế Khanh―tôi nghĩ là Khanh ở thế bị-động, vì Khanh bản-chất chính-trực―hiện là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Tỉnh/Thị ở dưới quyền mình, hành-động theo kế-hoạch của nhóm “lãnh-đạo tinh-thần” cực-đoan của mình―đứng đầu Miền Trung là Linh-Mục Nguyễn Kim Bính, Cha Xứ Phú-Cam―trong chương-trình chung là bứng-tỉa các nhân-sự mà họ cho là kẻ thù của phe Kitô-Giáo quá-khích và cựu-Cần-Lao ác-ôn, mà bước khởi đầu là ngụy-tạo đoạn kết vu-oan giá-họa tha-nhân trong bản Nghị-Quyết của Việt-Cộng nói trên.
Phóng-ảnh đoạn trích thư của Ô. Trương Công Đảm,
cựu Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên & Thị-Xã Huế:
Trương Công Đảm hiện ở Thành-Phố Denver, Colorado, USA.
*
Sau Quốc-Biến 30-4-1975, ra Hải-Ngoại, cựu Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ xuất-bản cuốn hồi-kí “Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng-Thống Ngô Đình Diệm”, được mời đi nhiều nơi thuyết-trình về “ước mơ chưa đạt” của dòng họ Ngô Đình.
Tôi gửi thư trực-tiếp hỏi vài điều để thấy trình-độ và khả-năng của đương-nhân “trả thù cho lãnh-tụ anh-minh”.
Phóng-ảnh thủ-bút của cựu Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ:
“Tôi đổi ra Huế năm 1973* làm Tỉnh Trưởng Thừa Thiên và Thị Trưởng Huế – Tôi không nhớ rõ ngày tháng chỉ nhớ là thời gian rất ngắn khi rút lui khỏi Huế*.
Ngoài ra tôi chưa hề phục vụ ở Huế bao giờ.
Xin kính chúc ông và gia quyến an khang.
Kính thư,
(Chữ ký)
Xin cáo lỗi vì già nên tay run khi viết thư.”
——-
*Làm Tỉnh/Thị-Trưởng Thừa-Thiên/Huế “năm 1973” rồi “rút lui khỏi Huế” vào tháng 3-1975 mà bảo [1973-75] là “thời-gian rất ngắn”!
Viết thư là có thì-giờ tra-cứu, chứ không phải là trả lời tức-thì trên máy điện-thoại, mà còn nhớ sai ngày làm Tỉnh-Trưởng (thực-sự là nhậm-chức vào tháng 11 năm 1974), thì làm sao mà viết nổi sách hồi-ký lịch-sử (cuốn “Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm”)?
Dân Sinh Media Sinh Hoạt Tháng 7-2024 (Bản thảo) – BÀI VIẾT: Đời Huấn Nhục – Giao Chỉ, San Jose.
Dân Sinh Media Sinh Hoạt Tháng 7-2024
Xin thông báo bà con
Dân Sinh Media sinh hoạt tháng 7-2024 lúc 1 giờ chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7-2024. Tại hội trường Santa Clara County. Chúng tôi chiếu cuốn phim trên nửa thế kỷ đợi chờ. Từ Sài Gòn đến Điện Biên Phủ. Vào cua tư do. Xin xem phim giới thiệu ở dưới. Vai chính tài tử Kiều Chinh có mặt. Ý Lan đại diện bố Lê Quỳnh. Phim của hãng Mỹ Vân do anh Phi Hà làm giám đốc hải ngoại. Phạm Phú Nam bảo trợ. Vo cưàCó mời các vị dân cử thân hữu 40 năm hiện diện. Có 1 phút tưởng niệm cuộc di cư tháng 7-1954. Có giây phút Chúng ta không quên Phạm Phú Nam. Có 1 bài ca bất hủ Người ơi nước Nam của người Việt Nam. Vì đâu oán tranh để lòng nát tan. Đây Bến Hải là nơi ngăn cắt đôi tình. Đứng lên tìm chốn yên vui thanh bình.Người về đây sống vui đời thắm tươi. Miền tự do đắp xây cho muôn đời. Nhịp cầu mến thương gieo vương ngàn nơi. Xuân thanh bình rộn ràng muôn lòng trai
Dân Sinh Media sinh hoạt tháng 7-2024 lúc 2 giờ chiều ngày thứ bẩy 27 tháng 7-2024. Tại hội trường County Trưởng ban tổ chức Phi Hà. MC Mỹ Linh. Minh Lê
Sau đây là các dự thảo do bác Lộc soạn. Sẽ còn nhiều chi tiết. Cháu Phi bổ túc. Soạn gấp thư mời sau khi ok….
1)Nhớ về cuộc di cư 1954. Lễ nghi khai mạc. Chào mừng quan khách Kiều Chinh.(Anh ngữ) Một bài ca đứt ruột. Nhạc sĩ Nguyễn Hiền và Nhật Bằng viết bản Về Đây Anh với nét nhạc dịu , lời ca đằm thắm:
Người ơi nước Nam của người Việt Nam. Vì đâu oán tranh để lòng nát tan. Đây Bến Hải là nơi ngăn cắt đôi tình. Đứng lên tìm chốn yên vui thanh bình.
Người về đây sống vui đời thắm tươi. Miền tự do đắp xây cho muôn đời. Nhịp cầu mến thương gieo vương ngàn nơi. Xuân thanh bình rộn ràng muôn lòng trai
Về đây anh.. Đồng Thảo.
3)40 năm tình nghĩa.(Anh Ngữ)Zoe Lofgren, Dave Cortese, Cindy Chaver,Peter McHugh. Mike Honda
4)Chúng tôi không quên anh : Phạm Phú Nam .Thái Hà, Mỹ linh, Ý Lan
5)Báo cáo chương trình hợp tác đại học San Francisco. Chi phí 40 ngàn, 200 tình nguyện viên tham dự. 6 tháng làm việc. Đi hỏi toàn thể đồng bào 100 câu hỏi về chuyện y tế và xã hội. Phi (anh ngu)Ms. Mai Phạm.
6)Cảm ơn
7)Chiếu phim. Từ Sài Gòn đến Điện biên Phủ. Kiều Chinh,……
Tất cả các phần trên sẽ làm rất nghiêm trang nhưng vắn tắt và hấp dẫn trong 1 giờ. Chiếu phim 1h30
Đêm 29 tháng tư 1975 những con tàu của giang đoàn quân vận chúng tôi ra khơi theo Hải Quân. Tàu của Tiếp vận chỉ chạy ven biển không theo được chiến hạm. Radio loan tin đầu hàng, có tàu quay lại gánh nỗi đoạn trường với cả đời vào huấn nhục. Chúng tôi ra đi nếu đầu óc còn biết nghĩ đã mang theo nỗi nhục nhỏ. Riêng phần tôi đi vào con đường nửa đời chịu khóa huấn nhục. Vì nghênh ngang đứng giữa đường nên luôn luôn bị ném đá. Xin xem 2 bản tổng kết 35 năm công tác cộng đồng để biết rõ làm chuyện gì cũng bị chửi. Xin nhắc l ại trận tấn công kinh hoàng của anh em ta. Giữa mùa giông bão giáng sinh hàng trăm người bỗng nổi điên biểu tình chống cơ quan IRCC. Sáu nhân vật vô danh tuyên bố tuyệt thức cho đến chết. Lý do hết sức vô duyên là phản đối ông giám đốc chống các anh hùng dân tộc. Sau nhiều tháng làm cảnh sát mệt mỏi đòi chứng cớ đấu tranh. Biểu tình cho biết cứ tiếp tục s ẽ ra chứng cớ. Rồi chuyện cũng qua đi. Nhân chứng xin lỗi, phát thanh đóng cửa v à tan hàng. Qua thế kỷ 20 nhờ duyên Trời chúng tôi đã tìm thấy con đường thành lập Museum. Cá nhân tôi chuyển qua công tác xây đền để làm ông Từ giữ lửa. Duyên may kỳ lạ đã đưa Viet Museum vào khu lịch sử San Jose dù lịch sử của di dân Việt Nam chưa từng tham dự vào lịch sử thành phố điện tử vốn là đất nhà nông có mặt từ 300 năm trước
Ngày nay, mình sống hết nửa đời người chắc chắn đã tốt nghiệp khóa 49 năm huấn nhục hải ngoại. Ông Từ trông nom đền thánh của các chiến binh tử sĩ và thuyền nhân bạc mệnh xin trình nội vụ để quý vị quan tâm. Xin xem các bản văn về lý do và con đường của Museum có hợp lý không. Có cần sửa chữa gì không. Dù quý vị ở góc bể chân trời xin quan tâm, xin thăm viếng, xin đóng góp tinh thần và vật chất. Một di vật trong tù, một tờ giấy ra trại, một tác phẩm và ghi danh hội viên. Nếu cư ngụ tại vùng San Jose xin ghi danh đến tình nguyện làm việc. Chúng tôi có tất cả mọi nhu cầu. Trong 20 năm qua cá nhân tôi có mặt mỗi ngày. Museum cần được nuôi dưỡng bằng sự quan tâm,bằng tình thương và bằng tấm lòng tưởng niệm. Viet Museum hiện là phòng tuyến duy nhất sẽ tồn tại chống chế độ cộng sản Việt Nam ngay khi kẻ viết và người đọc những dòng này không còn nữa. Hãy liên lạc với chúng tôi. Việt Museum cần quý vị. Xin xem những đoạn văn dài dòng sau đây và đáp ứng. Nếu gọi là đáp lời sông núi thì sông núi có chúng tôi đây. Đặc biệt tại V Museum đã có chỗ dành cho ông Từ khi nằm xuống. Còn h ình ảnh xin qu ý vị vào Google t ìm Viet Museum San Jose. Image sẽ thấy rất nhiều.
Trân trọng.
Bản công bố 3 đoạn này sẽ được nhật tu và sẽ phổ biến ngày 10 tháng 8-2024 ghi dấu kỷ niệm ngày người Việt ty nạn chính thức thành lập IRCC.
Tuyên Ngôn Bảo Tàng
1) Viet Museum tức Viện Bảo tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa do Cơ Quan định cư IRCC thành lập năm 1990 tại văn phòng dường Park San Jose. Chính thức tiếp nhận phương tiện nhà Victorira tọa lạc trong San Jose History Kelley Park năm 2004
2) Dân tộc Việt Nam xây dựng đất nước ngàn năm tại Đông Nam Á ven biển Thái Bình Dương. Trải qua 3 lần Bắc Thuộc và 80 năm Pháp quốc đô hộ nhưng vẫn kiên quyết một lòng đoàn kết bảo vệ quê hương
3) Ngay sau đệ nhị thế chiến 1945 thế giới hòa bình thì Việt Nam rơi vào hoàn cảnh chiến tranh Quốc Cộng kéo dài đến hiệp định Geneve 1954 với 1 triệu dân di cư từ Bắc Vào Nam.
4) Cuộc chiến Nam Bắc tiếp tục. Cộng sản Nga và Tàu yểm trợ miền Bắc tấn công miền Nam do Mỹ yểm trợ. Hiệp định Paris 1973, Hoa Kỳ rút quân và năm 1975 miền Nam thất thủ
5) Từ 1975 đến 2020 trải qua gần nửa thế kỷ người Việt bỏ nước ra đi trên 2 triệu người
6) Viet Museum hình thành để ghi lại tất cả mọi di sản, chứng tích của chiến tranh và công cuộc xây dựng hòa bình suốt chiều dài của lịch sử từ để nhị thế chiến cho đến nay
7) Đặc biệt ghi lại thành quả định cư của người Việt trên quê hương mới và không quên hoàn cảnh của dân Việt dưới sự cai trị cộng sản trong suốt 45 năm qua.
8) Mọi biến chuyện của lịch sử ghi nhận tại Việt Museum phải hoàn toàn xác thực và công bình dành cho thế hệ tương lai tham khảo.
9) Việt Museum cũng là nơi ghi nhận tất cả nỗi niềm đau thương mà người dân 2 miền phải trải qua từ 1945 đến 1975 và đặc biệt trong thời hậu chiến với 300 ngàn thuyền nhân tử nạn trên đường tìm tự do và toàn dân sống trong đất nước ngục tù cộng sản.
Lịch sử hình thành và sứ mạng Việt Museum
Lấy tro tàn lịch sử, ta xây dựng Bảo Tàng. Đem quá khứ huy hoàng, gửi tương lai vĩnh cửu.
A-LỊCH SỬ: Viện Bảo tàng Thuyền nhân và Việt Nam Cộng hòa với tên gọi là Việt Museum do cơ quan IRCC thành lập năm 1990 tại văn phòng đường Park, San Jose nhằm bảo tồn,và triển lãm thường trực các di sản lịch sử tài liệu về thuyền nhân và VNCH. Di sản gồm có hình ảnh, tác phẩm điêu khắc, họa phẩm, di tích, hiện vật và sách báo lịch sử dưới mọi hình thức. Đây là một bảo tàng nhân văn ghi nhận các di tích lịch sử của các thành phần quốc gia Việt Nam chống cộng sản kể từ năm 1945 qua cuộc di cư 1954 tiếp đến cuộc di tản ty nạn từ 1975. Sau cùng là công cuộc định cư và xây dựng cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ. Năm 2004 Viet Museum có cơ hội tiếp nhận ngôi nhà bỏ hoang Greenawalt House rất cũ, tọa lạc tại Công viên lịch sử San Jose. Từ khu triển lãm tạm thời trên đường Park, Việt Museum dọn vào San Jose History Park đã chính thức trở thành viện bảo tàng đầu tiên và duy nhất trên thế giới của di dân Việt Nam. Cơ quan IRCC đã gây quỹ sửa chữa toàn diện ngôi nhà Victoria và khu vực chung quanh. Việt Museum đã trở thành một bảo tàng của toàn khu lịch sử San Jose với hàng ngàn khách thăm viếng mỗi năm. Điều quan trọng của bảo tàng không phải chỉ sưu tầm mà phải sáng tạo tác phẩm. Bảo tàng không phải là văn khố.
B-TỔ CHỨC IRCC: Viet Museum tuy đóng vai trò quan trọng nhưng không phải là một cơ quan thiện nguyện độc lập. Tổ chức thiện nguyện Immigrand Resettlement and Cultural Center (IRCC) với thành tích nửa thế kỷ công tác di dân do ông Vũ văn Lộc làm giám đốc đã thành lập Viet Museum. IRCC là fiscal agent chính thức quản trị Việt Museum. Mặt khác IRCC ngoài công tác chính là di dân và xã hội cũng thành lập Dân Sinh Media do ông Phạm Phú Nam làm giám đốc đóng góp 30 năm tại San Jose và yểm trợ truyền thông cho Việt Museum. Cơ quan IRCC đã hiện diện v à đóng góp nửa thế kỷ xây dựng cộng đồng vịnh Cựu Kim Sơn. L ịch sử IRCC đã góp phần vào giai đoạn tài liệu định cư và hội nhập. C-MỤC TIÊU BẢO TÀNG: Việt Museum là bảo tàng Nhân văn thành lập với mục đích ghi nhận các di sản và chứng tích lịch sử sau đây: (1)Chiến tranh Việt Nam. 1950-1954. Hiệp định Geneve. Cuộc di cư 54. Chiến tranh 1962-1993. Hiệp định Paris và cuộc chiến sau cùng 1993-1995 (2) Lịch sử tìm Tự Do. Di t ản, thuyền nh ân, ODP, HO,Con Lai và đoàn tụ. (3) Định cư và Hội nhập. Nửa thế kỷ xây dựng cộng đồng. Dân sinh, văn hóa, chính trị. 4) Căn cước tỵ nạn: Tuyệt đối chống chủ nghĩa cộng sản. Di sản bảo tàng là quốc k ỳ và qu ốc ca VNCH. Tưởng niệm và tôn thờ quân dân chính đã hy sinh vì Tự Do. (5)Không quên quê hương. Nhân quyền cho Việt Nam. Quê hương bỏ lại. Đất nước mang theo. Yêu nước không phải là yêu xã hội chủ nghĩa. Chống Cộng không phải là chống cả quê huơng. .
Biết tỏ cùng ai
Trong lãnh vực sáng tạo IRCC /Museum/ Dân Sinh đã phổ biến hàng ngàn bài tham luận Giao Chỉ liên quan đến Mục tiêu bảo tàng. Hai tác phẩm quan trọng xin phác họa sẽ ấn hành hàng năm. Lịch bảo tàng song ngữ, song văn hóa, song lịch sử. Tạp chí song ngữ thường niên Nhân Văn Giai Phẩm hải ngoại. Lịch sử Chiến tranh Việt Nam song ngữ bằng hình ảnh. Trong lãnh vực hội nhập IRCC sẽ phát hành các tuyển tập song ngữ. Người Việt tại Santa Clara County, tại San Jose, v v
Tác giả Giao Chỉ Vũ văn Lộc 91 tuổi đã giãi bầy tất cả. Xin toàn thể bằng hữu và độc giả xa gần thông cảm và yểm trợ. Bạn thân cũng đi gần hết, kẻ thù hận vô duyên cũng chẳng còn ai. Xin nói chuyện sau cùng. Trong chiến tranh Việt Nam, giặc từ Bắc vào Nam như quân Rợ hung nô vào cung điện xứ văn minh. Nhà nào cũng chiếm, trại nào cũng đóng. Lính tầu bay lấy trại Không quân. Ngành y tế vào lấy nhà thương. Chỉ có một nơi đơn vị mai táng công sản không vào chiếm Nghĩa Trang quân đội Biên Hòa. Ngày nay dù hoang phế nhưng được gia đình và chiến hữu quan tâm nên sẽ còn tồn tại muôn đời. Tại hải ngoại chúng ta có Việt Museum. Việt bảo tàng duy nhất trên thế giới có hàng ngàn trẻ em Mỹ thăm viếng hàng năm. Chúng ta đến với nhau qua bao nhiêu lần sinh hoạt. Rất quan trọng, rất cần thiết nhưng rồi cũng phải qua đi. Từng thế hệ sẽ qua đi. Việt Museum sẽ ở lại. Museum của những người đã chết cho chúng ta sống. Trên đất công Hoa Kỳ được gọi là khu lịch sử San Jose. Có hàng rào chung quanh. Không có chuyện tiền nhà tiền điện tiền nước. Ranger canh gác ngày đêm. Ngày Việt Museum khánh thành các tác phẩm sáng tác và sưu tầm để ngoài sân nắng. Bên trong trống trơn. Không cần lễ nghi khai mạc. Không có diễn văn. Hơn 10 ông bà dân cử quan trọng từ thị trưởng đến giám sát đều có mặt. Hơn 30 năm ân tình quen biết không phải nhẹ. Ông Giao Chỉ yêu cầu các quan khách danh dự mỗi người vác một tác phẩm bê vào tòa nhà. Rồi ăn một bánh bao. Chấm hết. Từ ngày đó Việt Museum trở thành tiền đồn quốc gia VNCH duy nhất trên đất công sản Hoa Kỳ. Một bên thờ quân dân chính hy sinh, một bên thờ thuyền nhân mệnh bạc. Lời sau cùng. Xin đọc lại bản công bố kể trên và góp ý góp tình góp di sản góp mặt với chúng tôi ngay tại ngôi đền thánh chết vì tự do. giaochi12@gmail .com