NHỮNG CHUYỆN NHỨC ĐẦU
NHỮNG SỰ KIỆN XẢY RA TRONG THÁNG 8
Thái Nữ Lan sưu tầm & dịch
SINH-VIÊN HOÀNG KIM KHÁNH
Hoàng Kim Khánh là sinh-viên trường đại-học Luật-Khoa thuộc Viện Đại-Học Huế. Anh-ta là phần-tử có lý-lịch tốt: không có quyến-thuộc là cộng-sản mà chỉ có thân-nhân tham-gia chính-quyền Quốc-Gia; bản-thân anh-ta cũng chưa hề làm gì về phương-diện chính-trị cũng như hình-sự đáng để cơ-quan an-ninh lưu-tâm. Thế mà bây giờ anh-ta bị Ngành Đặc-Cảnh điều-tra.
Trong thực-tế, không có vấn-đề Chính-Quyền dò xét hành-tung của sinh-viên, ngoại-trừ trường-hợp cá-nhân nào có hành-vi bất-hợp-pháp, tỷ như trộm cướp, buôn bán cần-sa ma-túy, trốn quân-nhiệm, v.v… và, lẽ tất-nhiên, dính-líu tới tổ-chức hay hoạt-động của giặc thù. Khánh thuộc loại sau cùng.
Thành-phố Huế, cố-đô của Việt-Nam, và thủ-phủ của Miền Trung, sau bao nhiêu biến-cố và biến-thiên, vẫn còn sôi-sục những chống-đối, tranh-chấp, vì bất-mãn, tị-hiềm; và cộng-sản bao giờ cũng là kẻ thừa nước đục thả câu.
Tổng-Hội Sinh-Viên Huế liên-tiếp qua chục năm nay làm cái công việc gọi là “tranh-đấu chống chính-quyền”, trong một hoàn-cảnh thuận-lợi vô cùng. Chính-quyền gọi họ là tương-lai của dân-tộc, là rường-cột của quốc-gia. Họ là những người tự-hào có học, ít nhất thì cũng cao hơn trung-học; nếu vào quân-ngũ thì cầm chắc cấp-bậc sĩ-quan trong tay; và khi học xong thì họ sẽ là trí-thức, một giới được mọi người kính-trọng nể-vì. Họ được gia-đình nuôi ăn, có người được hưởng học-bổng, để tiếp-tục học-hành. Và họ sử-dụng trường-ốc cùng các tiện-nghi có sẵn trong trụ-sở Viện Đại-Học của chính-quyền để chống lại chính-quyền.
Viện Đại-Học Huế, hay nói đúng hơn là Tổng-Hội Sinh-Viên Huế, một tổ-chức mà chính-quyền cần có nhưng không kiểm-soát được, đã đào-tạo ra một số “lãnh-tụ sinh-viên tranh-đấu” được một số đông sinh-viên bầu vào các Ban Đại-Diện của tập-thể mình, và được hầu hết báo-chí, phương-tiện truyền-thông nằm trong tay tư-nhân hậu-thuẫn hết mình.
Lâu nay họ chỉ hội họp, hội-thảo, lập kiến-nghị, đưa yêu-sách, chống đối điều này, đòi-hỏi điều kia; cao lắm là treo biểu-ngữ, dán bích-chương trước cổng trường và trên đường phố, chiếm-cứ giảng-đường làm nơi cố-thủ, họp báo, tuyệt-thực, tố-cáo tham-nhũng, phản đối bắt-bớ, tẩy-chay Chương-Trình Huấn-Luyện Quân-Sự Học-Đường, kêu gọi thả tù chính-trị, hô-hào chấm dứt chiến-tranh, v.v… Sau Hiệp-Định Paris, một số “lãnh-tụ sinh-viên Huế” tương-đối có tên-tuổi đã rời môi-trường đại-học, vì lý-do này hay lý-do kia; số còn lại tuy vẫn có thể nuôi-dưỡng phong-trào, nhưng dân-chúng và ngay cả đa-số sinh-viên bạn cũng đã ý-thức được vấn-đề bị cộng-sản lồng người vào, giật dây, hoặc lợi-dụng, nhất là sau vụ Huỳnh Tấn Mẫm của Tổng-Hội Sinh-Viên Saigon bị Đặc-Cảnh trưng-dẫn bằng-chứng tố-cáo y là cơ-sở hoạt-động cho Việt-Cộng, nên các “lãnh-tụ” tay sai của địch tự cảm thấy bị hạn-chế cả trong phạm-vi địa-bàn sách-động lẫn trong nội-dung các đề-tài nêu lên. Họ bèn tìm cách để thoát ra khỏi ngõ bí; và khi có một sáng-kiến tuy bên trong ấn-giấu âm-mưu xảo-quyệt nhưng bên ngoài lộ vẻ chính-đáng vô-tư thì hầu như số đông liền chấp-nhận dễ-dàng.
Chỉ là một sự trùng-hợp ngẫu-nhiên, song “vụ sinh-viên Hoàng Kim Khánh” xảy ra vào thời-gian tôi mới đến Vùng I, từ cuối 1973, đã có ý-nghĩa như là một thách-đố đối với riêng tôi.
Một chiến-dịch rỉ tai đã được tung ra rằng tập-thể sinh-viên nên chọn bầu một cá-nhân không có thân-nhân dù gần dù xa là người ở phía cộng-sản, làm người đại-diện cho mình, để phía Quốc-Gia không có lý-do mà nghi-ngờ là dễ bị cộng-sản móc-nối hoặc thiên về bên kia. Khánh được nhiều sinh-viên đã có thành-tích “tranh-đấu” của Khoa mình cũng như các Khoa khác nhiệt-liệt ủng-hộ. Do đó, khi Khánh được giới-thiệu ứng-cử vào vai trò Chủ-Tịch Ban Đại-Diện trường Luật thì anh-ta chiếm được đa-số tuyệt-đối phiếu của Khoa mình. Liên-tiếp nhiều lần hội-họp trong nội-bộ Khoa cũng như trong hội-đồng Tổng-Hội, Khánh phát-biểu mạnh-dạn, được các sinh-viên có tiếng-nói ảnh-hưởng gợi ý là anh-ta xứng-đáng được đắc-cử, trong nhiệm-kỳ sắp tới, vào cương-vị Chủ-Tịch Tổng-Hội bao trùm mọi Khoa.
Đùng một cái, Khánh mất tích. Cứ theo những quyết-nghị, kiến-nghị, kháng-thư, biểu-ngữ, bích-chương, truyền-đơn, bài đăng báo, lời tuyên-bố, v.v… của Tổng-Hội Sinh-Viên Huế, liên-tiếp họp bất-thường nhiều ngày, nhiều đêm, thì chắc-chắn là anh-ta đã bị cơ-quan an-ninh tình-báo của Việt-Nam Cộng-Hòa bắt cóc. Vì thế, chủ-đề tranh-đấu là yêu-cầu Chính-Quyền trả tự-do ngay cho Hoàng Kim Khánh, và trong thời-gian chờ-đợi thì đổ cho Chính-Quyền chịu trách-nhiệm hoàn-toàn về tính-mệnh của sinh-viên này.
Tôi đã huy-động mọi nỗ-lực của Ngành Đặc-Cảnh toàn Vùng I, cũng như phối-hợp với tất cả các cơ-quan & đơn-vị an-ninh tình-báo bạn tại địa-phương, và báo-cáo lên Trung-Ương đồng-thời thông-báo các Vùng khác, để cùng lùng tìm tung-tích của Khánh. Suốt một tuần-lễ, tình-hình căng-thẳng tột cùng. Một bên thì phe sinh-viên gia-tăng cường-độ chống-đối Chính-Quyền; hơn nữa, trong mấy ngày sau thì lại có một giáo-gia trung-học “mất tích”, khiến một số đông giáo-gia và nam+nữ học-sinh trung-học tại Huế cũng cùng đứng lên sát cánh với sinh-viên Huế trong cuộc tranh-đấu có mục-tiêu gần-gũi và cụ-thể này. Một bên thì Chính-Quyền, mà đại-diện là các cơ-quan & đơn-vị an-ninh tình-báo Quốc-Gia, nhất là Ngành Đặc-Cảnh, bị dư-luận nghi-ngờ mà không làm sao thanh-minh được, vì công-chúng dễ-dàng tin theo tin đồn.
Thật-sự thì không có ai bắt Khánh. Nhưng tôi chỉ biết xác-nhận với Cấp Trên như thế trong nội-bộ mà thôi; chứ Chính-Quyền, từ Phủ Tổng-Thống, Phủ Thủ-Tướng, Bộ Nội-Vụ, Bộ Thông-Tin, xuống đến các “cơ-quan chính-quyền Tỉnh” – một danh-xưng con đẻ của cái gọi là “Cuộc Cách-Mạng Hành-Chánh của Việt-Nam Cộng-Hòa” – nhất là Tỉnh Thừa-Thiên trong đó có Thị-Xã Huế, thì không có nơi nào lên tiếng phủ-nhận lời rêu-rao của sinh-viên; hoặc giả đã có thông-cáo nhưng không thấy báo nào đăng, vì báo-chí hầu hết đứng về phía đối-lập với Chính-Quyền.
Một tuần-lễ sau, cuộc “tranh-đấu” ấy của Sinh-Viên Huế đã đạt đến kết-quả cao-độ của nó. Cũng vào một buổi sáng chủ-nhật, trong lúc sinh-viên các Khoa đang họp bàn sôi-nổi thì Hoàng Kim Khánh chạy xộc vào hội-đường, với bộ mặt hốc-hác, đầu tóc bù-xù, áo quần nhăn-nheo; bề ngoài cho thấy rõ-ràng là anh-ta vừa mới thoát ra từ một chốn giam-cầm khắt-khe.
Sau mấy phút reo mừng ôm hôn náo-nhiệt, Khánh được mời ngay lên máy vi-âm tường-thuật những gì đã xảy ra cho anh-ta trong những ngày qua.
Theo lời Khánh thì, vào sáng chủ-nhật tuần trước, Khánh rời nhà ở trong Thành-Nội để đi qua Viện Đại-Học Văn-Khoa dự họp như lệ thường lâu nay; lúc chưa ra đến Cửa Đông-Ba thì anh-ta bị hai người đàn-ông mặc dân-phục chận lại, chĩa súng lục vào người, bảo leo lên một chiếc xe Jeep sơn màu trắng-xám đậu sẵn bên đường. Anh-ta bị chở đến Trung-Tâm Thẩm-Vấn thuộc Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên, dọa-nạt, đánh-đập, liên-tiếp hai ngày hai đêm. Sau đó, anh-ta được giao cho hai người đàn-ông, cùng mặc dân-phục, chở bằng xe Jeep sơn màu trắng-vôi đến trụ-sở của Đội Quân-Báo Đặc-Biệt ở đường Trưng-Trắc, Huế; tại đây anh-ta cũng bị hăm-he, hành-hạ, một ngày một đêm. Tiếp theo, anh-ta được giao cho một người đàn-ông, cũng mặc dân-phục; người này còng tay, bịt mắt, nhét khăn vào miệng anh-ta, chở bằng xe-hơi dân-sự từ Huế vào Đà-Nẵng, vào khoảng hai ba giờ sáng, nhốt ở trụ-sở của Đội Khảo-Cứu Địa-Lý thuộc Phủ Đặc-Ủy Tình-Báo Trung-Ương, trên đường Trần Cao Vân; ở đây anh-ta cũng bị khủng-bố, ngược-đãi. Kế đến, anh-ta bị đưa đến giam ở một ngôi nhà bí-mật trên đường Lý Thường Kiệt, thuộc Sở Tác-Vụ của Ngành Đặc-Cảnh Vùng I (của tôi), hai ngày sau cùng; cơ-quan này cũng hù-nạt, trấn-áp anh-ta, cuối cùng đã dùng xe Jeep sơn màu trắng-xám chở anh-ta từ Đà-Nẵng ra Huế lại, thả anh-ta xuống ở đường Triệu-Ẩu sáng nay. Anh-ta liền chạy thẳng đến với Tổng-Hội Sinh-Viên, đúng lúc Ban Đại-Diện các Khoa đang hội-họp tại hội-đường này của Trường Đại-Học Văn-Khoa.
Cũng theo lời của Hoàng Kim Khánh thì mục-đích của việc Chính-Quyền bắt cóc anh-ta như thế là để trực-tiếp cảnh-cáo anh-ta đừng tham-gia hoạt-động với các phần-tử “tranh-đấu” đang cầm đầu Tổng-Hội Sinh-Viên Huế. Vì anh-ta là con+cháu của một số viên-chức khả-tín trong hàng-ngũ Quốc-Gia, tiếng nói của anh-ta sẽ có sức mạnh lớn hơn so với các “lãnh-tụ” sinh-viên đương-thời mà hoạt-động có hại cho an-ninh trật-tự chung. Mục-đích cũng là gián-tiếp báo trước cho các phần-tử “tranh-đấu” khác biết là họ cũng có thể bị bắt cóc, thậm-chí thủ-tiêu, bất-cứ lúc nào. Khánh kể lại là anh-ta đã xác-nhận với các giới-chức hữu-quyền rằng anh-ta chỉ đứng trên căn-bản của các nguyên-tắc tự-do, dân-chủ và nhân-quyền, cũng như Hiệp-Định Paris, để tranh-đấu, chứ không thiên về cộng-sản; và vì các cơ-quan an-ninh & tình-báo liên-hệ không thuyết-phục được anh-ta, mà cũng không tìm thấy bằng-chứng hoặc yếu-tố nào để buộc tội anh-ta, nên đành phải thả anh-ta ra mà thôi.
Sự tái-xuất-hiện cùng với câu chuyện kể lại của Khánh như trên, là một bình xăng ném vào đống lửa củi khô đã cháy sẵn. Tổng-Hội Sinh-Viên Huế, với sự hậu-thuẫn của Tổng-Hội Sinh-Viên Sài-Gòn và báo-chí trong nước, đã xuống đường, tuyệt-thực, gửi tối-hậu-thư đòi Chính-Quyền Việt-Nam Cộng-Hòa phải công-khai nhận lỗi, chịu bồi-thường thiệt-hại cho Khánh, và cam-kết từ nay chấm dứt mọi việc làm ám-muội tương-tự vụ này.
Tôi thật rối trí trước tình-hình gay-cấn tột cùng. Tôi đã phối-kiểm với các cơ-quan & đơn-vị bạn, đồng-thời soát-xét các bộ-phận hành-sự thuộc quyền mình, thì, lạ-lùng thay, từ màu sơn của các cảnh-xa, quân-xa mang bảng số ẩn-tế dân-sự, các địa-chỉ tọa-lạc của các Trung-Tâm, Đội, Nhà An-Toàn, cho đến hình-dáng, phục-sức, của một số viên-chức và sĩ-quan thuộc cả bốn tổ-chức – Đặc-Cảnh, Tình-Báo Trung-Ương, Quân-Báo, và Quân-An – ở cả hai Thành-Phố, Huế và Đà-Nẵng, mà Hoàng Kim Khành mô-tả lại, đều đúng với sự thật được che-giấu ngoài đời. Riêng việc bắt Khánh thì cả bốn ngành kể trên đều khẳng-định là không hề xảy ra. Tuy nhiên, Chính-Quyền thì đã bị tai-tiếng rõ-ràng. Biến-cố này ảnh-hưởng mạnh đến tinh-thần phục-vụ hăng say của Ngành Đặc-Cảnh, trong bối-cảnh Việt-Cộng đánh ngoài phá trong, hằng chục đoàn-thể dân-chúng lớn+nhỏ – từ các chính-hội, giáo-hội, hữu-hội, đến các Lực-Lượng, Mặt-Trận, Phong-Trào, Liên-Hiệp, Liên-Minh – đều dồn-dập nổi lên đả-kích Chính-Quyền, cùng với một số nhân-vật dân-cử như Thượng-Nghị-Sĩ, Dân-Biểu, hội-viên Hội-Đồng Tỉnh, Thành-Phố, cũng đối-lập kịch-liệt với Chính-Quyền, tạo nên một bầu không-khí sôi-sục, ngột-ngạt vô cùng.
Tôi họp bàn riêng với Thiếu-Tá Trương Công Ân, Chánh Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên, để tìm cách đối-phó, cứu-vãn tình-hình. Chúng tôi nhận định: câu chuyện “Hoàng Kim Khánh bị bắt cóc” là một câu chuyện hư-cấu ấu-trĩ, bởi lẽ chưa bao giờ có sự hợp-tác chặt-chẽ của bốn ngành hoạt-động nói trên, nhất là trong một âm-mưu bất-chính mà chỉ nhắm vào một cá-nhân chưa hề là đối-tượng chú ý đáng kể của riêng một ngành nào; hơn nữa, nếu muốn bắt cóc thật-sự thì chắc-chắn là không có ai khờ-khạo để lộ gốc-gác, hành-tung của mình cho đối-phương nhận biết dễ-dàng như trên. Nói chung, dư-luận đã bị đầu-độc, công-chúng không cần phán-đoán vô-tư, và Chính-Quyền đã bị chơi khăm một vố khá đau, trong đó Ngành Đặc-Cảnh bị thua oan-uổng một nước cờ gian. Do đó, Ngành Đặc-Cảnh phải chứng-minh, để tự biện-minh cho mình.
Tôi tính chỉ cần làm thế nào để Hoàng Kim Khánh nói cho chúng tôi biết sự thật về câu chuyện bịa-đặt kể trên, thì chúng tôi mới hành-động đúng cách được. Nhưng, chúng tôi không tiện bắt Khánh, mà cũng không tiện mời anh-ta đến công-đường, vì bây giờ thì không riêng gì giới sinh-viên mà có thể nói là mọi người xung quanh đều canh chừng giùm cho anh-ta, hễ nghe tin Đặc-Cảnh hỏi-han gì anh-ta là họ phản-ứng rùm-beng liền, chỉ có hại thêm cho chúng tôi mà thôi.
Và tôi đã chọn một phương-thức bắt-đắc-dĩ: dùng gậy ông đập lưng ông. Tôi thảo-luận kỹ-càng với Ân, để Ân trình-bày lại với Liên Thành (thiếu-tá, Chỉ-Huy-Trưởng CSQG Thừa-Thiên & Huế, và được Thành đồng-thuận) theo nguyên-tắc, rồi giao-phó và cho phép Ân đích-thân thi-hành kế-hoạch, một kế-hoạch mà nếu thất-bại thì cả hai chúng tôi sẽ thân-bại danh-liệt tức-thời: bắt cóc Khánh, bắt cóc thật-sự.
Vì Tổ-Quốc, vì Danh-Dự, vì Trách-Nhiệm, Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên đã hoàn-tất tốt đẹp cái công-tác không-tiền khoáng-hậu nói trên. Vào một đêm khuya kia, nhân lúc Khánh một mình ra vườn, do chúng tôi tạo động-cơ thúc-đẩy, trong lúc người nhà và hàng xóm đều đang ngủ say, chúng tôi đã chớp-nhoáng tê-liệt-hóa anh-ta và lặng-lẽ chở anh-ta về một căn phòng đặc-biệt, có bố-trí kín máy quay phim, máy ghi-âm, kính-một-chiều để bên trong anh-ta tưởng là gương soi mặt nhưng bên ngoài một số viên-chức có uy-tín được mời đến quan-sát thì thấy rõ, để phòng nếu cần thì sẽ làm chứng về sau. Khánh được cho xem những tài-liệu của Việt-Cộng, về tổ-chức và hoạt-động của Mũi Trí-Vận, Thành-Đoàn Thanh-Niên Sinh-Viên Học-Sinh, hồ-sơ các vụ Huỳnh Tấn Mẫm cùng Lê Văn Nuôi trong Nam và Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng Nguyễn Đắc Xuân ở Huế, v.v… cùng những tin-tức về kế-hoạch giật dây phong-trào tranh-đấu của Sinh-Viên Huế, và viễn-ảnh một cuộc tổng-nổi-dậy theo kiểu tổng-tấn-công ở Huế vào dịp Tết Mậu-Thân trong đó Việt-Cộng tàn-sát tập-thể nhiều nghìn người. Trong cuộc đấu trí, câu hỏi được đặt ra là trong trường-hợp đó liệu thân-nhân của Khánh có thoát khỏi bàn tay phi-nhân của cộng-sản hay không; và, là một thanh-niên có học-thức, Khánh nghĩ thế nào về chính-sách giết người tay không dã-man như thế.
Kết-hợp tác-động tâm-lý chính-trị với kỹ-thuật moi tin, Đặc-Cảnh đã đạt được kết-quả là Khánh thú-nhận đã bị sinh-viên Trần Văn Hội của Trường Đại-Học Y-Khoa tổ-chức, huấn-luyện, đạo-diễn, cốt để đưa Khánh lên làm Chủ-Tịch Tổng-Hội Sinh-Viên toàn Viện Đại-Học Huế.
Trong tuần-lễ vắng mặt, Khánh chỉ nằm lì trong buồng ngủ của Hội, được y bày-vẽ mọi lời ngụy-tạo để vu-cáo các cơ-quan an-ninh tình-báo Quốc-Gia. Khánh biết rõ Hội là cơ-sở nằm vùng của Việt-Cộng; có lần có một cán-bộ đến tiếp-xúc với Hội và thò đầu vào cửa buồng ngủ vừa quan-sát vừa cười chào như để khuyến-khích Khánh tiếp-tục làm con cừu ngoan.
Rốt cục, Khánh đã vui lòng ký tên vào tờ cam-kết cộng-tác với Ngành Đặc-Cảnh, chụp ảnh chung với sĩ-quan Biệt-Tác để lưu hồ-sơ, và được chỉ-dẫn về lề-lối thu-thập, báo-cáo tin-tức, cùng ngụy-thức, ám-hiệu tiếp-xúc với Trưởng Lưới của mình, v.v… Tất cả chỉ diễn ra trong vòng ba tiếng đồng-hồ. Khoảng bốn giờ sáng là anh-ta đã được đưa trở lại tiếp-tục nằm ngủ ở nhà rồi.
Từ đó, Sở Đặc-Cảnh Tỉnh Thừa-Thiên có thêm hai Mũi Biệt-Tác biệt-lập: một điệp-vụ của Hoàng Kim Khánh, và một thám-vụ nhắm vào Trần Văn Hội. Trước kia, Hội chỉ là một trong số những sinh-viên mà Đặc-Cảnh biết là thân-Cộng, nhưng chưa nắm được bằng-chứng về việc y tiếp-xúc, nhận lệnh của đối-phương. Nay thì Đặc-Cảnh đã nhờ Khánh mà giám-sát, theo-dõi sít-sao, và đã khám-phá ra được đường dây bí-mật của bọn y.
Có Hoàng Kim Khánh, tôi đã có thể rút về những nhân-viên lâu nay đội lốt sinh-viên, tiết-kiệm được một phần nhân-lực, thì-giờ và tiền-bạc vì tung lưới rộng hơn phạm-vi thật-sự cần. Bây giờ thì Khánh đã được toàn-thể sinh-viên tín-nhiệm, vì vụ “bị bắt-cóc ma” là một hào-quang sáng chói bao quanh anh-ta trước mắt và trong trí mọi phần-tử quá-khích đương-thời. Nhưng vụ “bị bắt-cóc thật” là một khởi-điểm để anh-ta tìm hiểu và báo-cáo cho Đặc-Cảnh mọi ý-đồ, hoạt-động, và đối-tượng liên-quan trong đường dây do Trần Văn Hội cầm đầu.
Cao hơn Hội, trước đó Đặc-Cảnh đã bí-mật phăng dò ra một số cán-bộ Việt-Cộng nằm vùng cũng như từ mật-khu về liên-lạc với cơ-sở nội-thành. Tổng-Hội Sinh-Viên Huế có làm gì đi nữa thì cũng chỉ thừa-hành chỉ-thị của Việt-Cộng, mà kế-hoạch của địch sử-dụng tập-thể sinh-viên như thế nào thì Đặc-Cảnh đã biết trước và liệu trước, chỉ cho phép chúng đạt được kết-quả ở một giới-hạn nào đó mà thôi, để nuôi-dưỡng tổ-chức và hoạt-động của địch, hầu kết-quả công-tác của Đặc-Cảnh đạt được phải to lớn gấp nhiều lần hơn.
Khi cần phá vỡ, bao giờ một điệp-vụ của Đặc-Cảnh cũng phải vô-hiệu-hóa cho được ít nhất là trọn một cơ-quan hay đơn-vị đầu-não của địch ở cấp cao hơn các nội-tuyến-viên trong đường dây liên-quan…
LÊ XUÂN NHUẬN
VỀ VÙNG CHIẾN-TUYẾN
Tôi bước vào phòng giấy của Chuẩn-Tướng* Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương, với phong-thái điềm-nhiên nhưng tâm-trạng bồn-chồn.
*Chuẩn-tướng: tướng một sao.
Tôi đang làm việc ở Ngành Đặc-Biệt Vùng II, mà trụ-sở đóng tại Thành-Phố Nha-Trang, thì nhận được một cú điện-thoại từ Văn-Phòng Trưởng Ngành, bảo tôi về gặp Chuẩn-Tướng Tây ngay.
Trong phạm-vi công-tác chuyên-môn, Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương trực-tiếp tiếp-xúc với tôi là một chuyện thường; nhưng, trong lĩnh-vực quản-trị nhân-viên, việc Trưởng Ngành gọi tôi, lúc ấy là một Phó Giám-Đốc cấp Vùng, mà ở Trung-Ương thì không qua Nha Tiếp-Trợ, và ở địa-phương thì không qua Trưởng Cơ-Quan, là một chuyện bất-thường. Dạo đó, nội-bộ Cảnh-Sát Quốc-Gia đang bị xáo-trộn vì nhiều đợt liên-tiếp thay bậc đổi ngôi, nên chuyện xuống chó hay lên voi, dù không xảy đến cho mình, cũng khiến mọi người bàn-tán xôn-xao. Từ lúc tôi nhận được lệnh ấy cho đến trước khi tôi bước vào phòng làm việc của Tướng Tây, nhiều người đã phỏng-đoán với tôi về mục-đích của cuộc gặp-gỡ này; tuy tất cả đều trấn-an tôi rằng đây là một việc vui, nhưng hầu hết đều không dám chắc rằng đây không phải là một điều xui.
Tôi đã thầm tự kiểm-điểm sinh-hoạt của mình trong thời-gian qua, xem thử có gì sai trái, hầu chuẩn-bị tinh-thần mà đón nhận, nếu có, mọi sự chẳng lành.
Chính-Sách Quân-Cách-Hóa*
Năm 1971, Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia của Việt-Nam Cộng-Hòa lại được cải-tổ; lần này rõ-ràng là để chuẩn-bị cho tình-hình hậu-chiến Việt-Nam.
*Không phải quân-sự-hóa hay quân-nhân-hóa.
Thêm nhiều sĩ-quan Quân-Lực được biệt-phái qua nắm giữ các chức-vụ chỉ-huy quan-trọng trong Ngành Áp-Pháp. Trừ một thiểu-số có khả-năng, còn thì đa-số đã không thạo việc mà không chịu học lại còn lợi-dụng cương-vị mới — có quyền-hành trực-tiếp đối với dân-nhân — để làm lợi riêng cho bản-thân, do đó, làm hại chung cho hoạt-động của cơ-quan trọng-yếu này của Chính-Quyền. Tôi thấy trước hậu-quả bất-lợi cho chế-độ nói chung, nhất là qua chính-sách quân-cách-hóa guồng máy này, nên đã gửi lên Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương, hồi đó là Trung-Tá Nguyễn Mâu, một bức thư điều-trần quan-điểm của mình.
Sự-việc xảy ra thì Trung-Ương cử trung-tá quân-nhân Nguyễn Văn Long đến Vùng II giữ chức-vụ Giám-Đốc Ngành Đặc-Biệt thay-thế tôi, và giáng-chức tôi từ Trưởng xuống Phó. .
Trung-Tá Nguyễn Mâu phải phái Đại-Tá Đặng Văn Minh, Phó Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương, ra Vùng II triệu-tập một cuộc họp nội-bộ các cấp chỉ-huy, để xoa dịu tình-hình.
Sau ngày Hiệp-Định Paris 27-1-1973 được ký-kết và có hiệu-lực, chiến-tranh Việt-Nam chấm dứt, đáng lẽ Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia phải là công-cụ đắc-lực cho chính-quyền và dân-chúng Miền Nam trong công-cuộc đấu-tranh chính-trị trực-diện với cộng-sản ở thời bình, thì Hành-Pháp Trung-Ương, trong tay các cấp nhà-binh, đã chỉ xây-đắp Cảnh-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa thành một “con cọp… lười”.
Tính đến nay, số lượng quân-nhân biệt-phái từ đại-tá xuống đến binh-nhì đã tràn ngập từ Trung-Ương xuống đến Xã Phường, nâng tổng-số nhân-số Cảnh-Lực Quốc-Gia từ mấy chục ngàn người lên đến khoảng mười tám vạn người. Thời-gian sau cùng, Thiếu-Tướng* Nguyễn Khắc Bình, Đặc-Ủy-Trưởng Tình-Báo Trung-Ương, đã qua kiêm-nhiệm Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, đem theo thêm nhiều sĩ-quan cao-cấp Quân-Lực thay-thế hầu hết các viên-chức Cảnh-Sát cao-cấp chuyên-ngành.
*Thiếu-tướng: tướng hai sao.
Giai-đoạn đầu của chiến-lược Việt-Nam-Hóa đã qua một cách giả-tạo, và giai-đoạn nhì đã đến trong tình-thế bấp-bênh.
Mỗi ngành nghề đều có những đặc-tính và quy-luật hoạt-động riêng của mình. Nhưng Cảnh-Lực mà tổ-chức sao y theo Quân-Lực thì dư phòng-giấy, thừa cạo-giấy, và thiếu việc-làm; và điều-hành rập khuôn theo Quân-Lực thì mất thì-giờ, tốn nhân-lực, và phí hiệu-năng. Các bộ-phận phụ-dịch thì lấn át chính-nghiệp. Guồng máy Áp-Pháp đã không bắt nguồn mà cũng không bám rễ trong dân-nhân.
Tội tự thấy mình có nhận-thức đúng, như đã từng có nhận-thức đúng về các biến-cố lịch-sử trước đây; và tôi đã biểu-lộ bằng cả lời nói lẫn việc làm công-khai, trong khuôn-khổ trách-nhiệm và quyền-hạn có sẵn, cái nhận-thức “cấp-tiến” và “quá-khích” ấy của mình.
Hồ-sơ nội-vụ còn nằm ít nhất là trong văn-phòng của Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương. Có thể là tôi sắp bị trừng-trị vì sự chống-đối kể trên?
Kế-Hoạch “Cảnh-Sát-Hóa”
Có một điều lạ, là hầu như ít ai biết đến cái-gọi-là “Kế-Hoạch Cảnh-Sát-Hóa”, vốn là một món quà hậu-Việt-Nam-Hóa mà người Mỹ thân tặng cho Việt-Nam Cộng-Hòa để làm “quốc-sách” sau-chiến-tranh.
Các nhà lãnh-đạo Miền Nam chỉ miễn-cưỡng cho thi-hành Kế-Hoạch ấy một cách qua-loa, tại một số Tỉnh, trong một thời-gian ngắn, rồi dẹp bỏ luôn.
Tôi đã tự mình kiếm được bản chính của Kế-Hoạch ấy bằng chữ Anh, đọc kỹ để có ý-niệm chính-xác về ý-nghĩa và mục-đích chiến-lược của nó, hầu có căn-bản lý-thuyết mà đối-chiếu với thực-tế thực-hành.
Tôi là người duy-nhất đã đến các Tỉnh như Ninh-Thuận, Bình-Thuận, v.v… thuộc Vùng II, quan-sát và nghiên-cứu tại chỗ việc thi-hành Kế-Hoạch Cảnh-Sát-Hóa tại Vùng này, sau khi Kế-Hoạch ấy đã được thử-nghiệm có kết-quả tốt tại Tỉnh Gò-Công thuộc Vùng IV, và một số Tỉnh khác của Miền Nam.
Tại Trung-Ương, không có một bộ-phận đầu-não xứng-đáng, để đảm-trách nó.
Kế-Hoạch “Phụng-Hoàng”, vốn là một giai-đoạn của Kế-Hoạch “Cảnh-Sát-Hóa”, không được hiểu đúng, nên các Trung-Tâm Thường-Trực, những khi không có người Mỹ nhúng tay vào, chỉ là những văn-phòng ngoại-vi, tập-trung tin-tức tình-báo đã nguội, và báo-cáo kết-quả hành-quân đã lạnh.
Những vấn-đề chiến-thuật nhất-thời, như: Trại Giam, mà dư-luận trong nước cũng như ngoài nước chỉ-trích nặng-nề, vì chứa quá nhiều người và thiếu tiện-nghi; Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Và Giám-Sát Ngưng Bắn (ICCS), mà trong đó có hai thành-viên cộng-sản Đông-Âu là Hung-Gia-Lợi và Ba-Lan; các Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-Bên và 2-Bên, mà trong đó có các thành-viên cộng-sản Việt-Nam (Cộng-Sản Bắc-Việt Xâm-Lược và Cộng-Phỉ Miền Nam); v.v… đều thuộc phạm-vi chính-trị và phản-gián, thì bị tách rời ra khỏi Ngành Đặc-Biệt là trung-tâm chuyên-môn về các lĩnh-vực này.
Hơn nữa, các bộ-phận chủ-trì biệt-lập kia ở trung-ương thì không có cấp dưới trực-hệ để chấp-hành chỉ-thị của mình tại các địa-phương.
Tôi không chịu nổi cảnh bế-tắc ấy trong công-vụ — sứ-mệnh đa-diện của Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia đối với Quốc-Dân, chứ không phải chức-năng phiến-diện của các cá-nhân nắm giữ chức-vụ chỉ-huy trên mặt giấy-tờ. Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương thì không biết hết các nhiệm-vụ mà cấp dưới đảm-trách ở các địa-phương; Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Vùng thì hễ thấy gì có dính-dáng đến cộng-sản và chính-trị là giao khoán ngay cho Ngành Đặc-Biệt tự lo.
Vì thế nên tôi quyết-định làm liều.
Tôi đã tự ý tổ-chức các đại-hội, tại các Tỉnh lớn và Thành-Phố quan-trọng, như: Bình-Định, Phú-Yên, Khánh-Hòa/Nha-Trang, Cam-Ranh, Ninh-Thuận, Bình-Thuận, Kontum, Pleiku, Darlac, Tuyên-Đức/Đà-Lạt; mời tất cả các cố-vấn Hoa-Kỳ thuộc 4 địa-hạt là Phụng-Hoàng (Phoenix), Cảnh-Sát Sắc-Phục (PSD tức Public Safety Division=An-Ninh Công-Cộng), Tình-Báo (PSB tức Police Special Branch=Ngành Đặc-Biệt, và PRU tức Province Reconnaissance Unit=Thám-Sát Tỉnh), và Cảnh-Sát Dã-Chiến (NPFF tức National Police Field Force), cùng dự với tất cả các đại-diện của các cơ-quan quân-sự và các Bộ khác, các cấp chỉ-huy Cảnh-Sát, từ cấp Vùng xuống đến cấp Quận khắp Vùng II; để tôi thuyết-trình quan-điểm của mình về các vấn-đề sau-chiến-tranh.
Tôi cũng tự-nguyện đảm-trách một số giờ giảng-dạy tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Phụng-Hoàng Quân-Khu II, dành cho các sĩ-quan Quân-Lực (Phòng 2, An-Ninh Quân-Đội, Chiến-Tranh Chính-Trị…), viên-chức các Bộ khác (Thông-Tin, Chiêu-Hồi, Dân-Ý-Vụ, Xây-Dựng Nông-Thôn…), và các cấp cảnh-nhân (Đặc-Cảnh, Cảnh-Sát Sắc-Phục, Cảnh-Sát Dã-Chiến, Thám-Sát Tỉnh…), cũng với các đề-tài nói trên.
Ngoài ra, tôi còn nắm lấy nhiều cơ-hội khác để phổ-biến nhận-thức của mình, thí-dụ: tại Trung-Tâm Tu-Huấn Tình-Báo Sơ-Cấp Vùng II trực-thuộc quyền tôi; tại Trung-Tâm Huấn-Luyện Cảnh-Sát Căn-Bản Vùng II; tại các Khóa Đào-Tạo Trưởng Cuộc CSQG cấp Xã/Phường, dành cho từng đợt sĩ-quan Quân-Lực biệt-phái qua; v.v… là những nơi mà chương-trình giảng-huấn có dành cho tôi nhiều giờ.
Trước năm 1972 thì tôi tham-gia công-tác Phụng-Hoàng với tư-cách Ủy-Viên; từ năm 1972, Giám-Đốc Ngành Đặc-Biệt cấp Vùng không còn là Ủy-Viên Ủy-Ban Phụng-Hoàng cấp Quân-Khu nữa; nhưng vì tôi muốn lợi-dụng tổ-chức này để làm lợi cho công-cuộc chống-Cộng về sau, nên tôi dựa vào uy-tín cá-nhân của mình để vẫn tiếp-tục giảng-dạy tại Trung-Tâm Huấn-Luyện của Ủy-Ban Phụng-Hoàng Quân-Khu II, với tư-cách “chuyên-viên” là một tư-cách do tôi tự-phong và được mọi người hữu-quan cả Việt lẫn Mỹ mặc-nhiên nhìn-nhận.
Tôi lại biên-soạn và ấn-hành nhiều bài tham-luận, xung quanh chủ-đề đã được nêu ra, gửi khắp các cấp, các nơi trên toàn-quốc, cả Việt-Nam lẫn Hoa-Kỳ. Việc này xảy ra sau khi đã có chỉ-thị của Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia dưới thời Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình cấm-chỉ mọi hình-thức báo-chí, tạp-chí, đặc-san, nội-san, báo tường, thư tin, v.v…, ngoại-trừ tờ báo “Bạn Dân” của Trung-Ương.
Nói chung thì tôi đã kiên-trì nuôi-dưỡng, quảng-bá và thực-thi ý-niệm của mình, rằng tất cả các Chương-Trình, Kế-Hoạch riêng-lẻ, tuy có tính-cách chiến-thuật giai-đoạn nhưng đều tương-quan với nhau và có mục-đích chiến-lược trường-kỳ, nhằm chuẩn-bị đối-phó với tình-hình sau-chiến-tranh. Kết-luận của tôi là phải kiện-toàn Lực-Lượng Cảnh-Sát Quốc-Gia, nhất là Ngành Đặc-Biệt, để có đủ sức đảm-nhận vai trò lĩnh-đạo và tiền-phong trong trách-vụ ổn-định tình-hình an-ninh đối-nội và đối ngoại của Quốc-Dân, đúng với tinh-thần và đường-hướng của Kế-Hoạch Cảnh-Sát-Hóa — là một “quốc-sách” đã bị giết non.
Nhưng, Chính-Quyền Trung-Ương thì quyết bảo-thủ tình-trạng hiện-thời.
Có thể nói là tôi sắp bị trừng-phạt vì những ý-kiến phát-biểu ra ngoài chính-sách của Trung-Ương?
Cộng-Sản Trên Đường Phố VNCH
Theo Hiệp-Định Paris thì lĩnh-thổ Việt-Nam Cộng-Hòa được chia ra thành nhiều Khu-Vực, mỗi Khu-Vực có một Tiểu-Ban Quốc-Tế Kiểm-Soát Và Giám-Sát Ngưng Bắn; dưới mỗi Tiểu-Ban có một số Tổ, mỗi Tổ phụ-trách một số Tỉnh.
Các Ban Liên-Hợp Quân-Sự 4-Bên và 2-Bên cũng được tổ-chức tương-tự.
Trụ-sở Khu-Vực II đóng tại Pleiku. Tôi đã đến phi-trường Cù-Hanh ở đây, để chứng-kiến lúc phái-đoàn Cộng-Sản Bắc-Việt bước ra từ một chiếc phi-cơ C-130 do phi-công Không-Quân VNCH và Hoa-Kỳ lái, từ Tân Sơn Nhất lên.
Tôi đã nhìn thấy những bộ mặt khắc-khổ quắt-queo, những bộ quân-phục nhăn nhúm lụng-thụng, những bàn tay luớ-quớ sờ-soạng không biết mở cửa xe-hơi cách nào, và những cái ngoẹo đầu nheo mắt của chính các “đồng-chí” cộng-sản Đông-Âu ngỡ-ngàng nhìn ngó dáng-dấp thô-lậu và điệu-bộ quê-kệch của các sĩ-quan cao-cấp bộ-đội Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa. Nhưng điều quan-trọng nhất là tôi đã ghi nhận được đầy-đủ các đặc-điểm nhận-diện của mỗi phái-đoàn trong bốn nước tham-gia Ủy-Hội Quốc-Tế, và của cộng-sản Bắc-Việt (Việt-Cộng không đến), nhất là màu cờ, kiểu-cách đồng-phục, quân-hàm, phù-hiệu của họ, là những điều mà đáng lẽ mỗi cảnh-nhân đã được Trung-Ương phổ-biến và phải thuộc lòng.
Một thời-gian sau, Chuẩn-Tường Huỳnh Thới Tây gọi điện-thoại ra tôi, cấm toàn-thể nhân-viên CSQG/CSĐB không được tiếp-xúc với cộng-sản Hung-Gia-Lợi và Ba-Lan cũng như CSBV và VC. Tôi nhận lệnh xong, hỏi lại Tướng Tây: Nếu họ ra phố, hỏi Cảnh-Sát về đường đi chẳng hạn, thì Cảnh-Sát có được phép trả lời, tức là nói chuyện với họ, hay không? Chuẩn-Tướng Tây đáp rằng ông chỉ nhận được lệnh của Thiếu-Tướng Bình như thế mà thôi.
Sau ngày Hiệp-Định Paris ra đời hơn nửa năm, có một phái-đoàn của Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia đến Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Vùng II để giải-thích về văn-kiện nói trên.
Sau khi đại-diện Trung-Ương nói xong, tôi nhắc lại với các Chỉ-Huy-Trưởng và phái-đoàn đại-diện Cảnh-Lực của 13 Tỉnh và Thành khắp Vùng II, những điều tôi đã thông-tri cho Ngành Đặc-Biệt nhưng có một số bộ-phận Sắc-Phục chưa rành, về kiểu-thức và màu-sắc quân-phục, cấp-hiệu, đặc-điểm của các phần-tử cộng-sản khác nhau. Tôi cũng nêu lên giả-dụ, nếu cộng-sản hỏi những chuyện thông-thường, thì nhân-viên Cảnh-Sát phải lịch-sự trả lời, như Cảnh-Sát Paris trong thời-gian có Hội-Nghị Quốc-Tế về chiến-tranh Việt-Nam. Phái-đoàn các địa-phương mừng-rỡ tập-trung sự chú-ý về tôi, vì những tin-tức cụ-thể như thế đã đáp-ứng nhu-cầu tìm hiểu thực-tế trước mắt của mọi người. Nhưng, có một viên-chức sở-tại là Đại-Úy Nguyễn Khắc Nghị, đã phát-biểu: “Phái-đoàn Trung-Ương không đề-cập gì đến vấn-đề đó; không ai được phép nói rộng ra ngoài giới-hạn nội-dung đã được thuyết-trình!”
Chắc-chắn chuyện đó không bị bỏ sót trong bản tường-trình về chuyến đi công-tác này của phái-đoàn.
Có thể là tôi sắp bị trừng-phạt về việc ấy, vì đã vượt quyền Cấp Trên?
Một Vở Kịch-Thơ Bị Cấm Xuất-Bản
Suốt mười năm nay, tôi đam-mê công-vụ đến nỗi không còn đầu-óc và thì-giờ để sáng-tác và liên-lạc với các bạn văn thơ.
Nghĩ rằng mình cần trở lại với giới tao-nhân, tôi bèn chuẩn-bị ấn-hành một số tác-phẩm, hoặc đã đăng báo, hoặc còn là bản thảo; và tôi bắt đầu với vở kịch-thơ xã-hội “Lão Ăn Mày”. Kịch viết đã lâu, đã được công-diễn tại sân-khấu “Hội Quảng-Tri” ở Huế, trước năm 1960 là năm tôi bị lưu-đày từ cố-đô lên Cao-Nguyên. Để kỷ-niệm thời-gian sinh-sống và sinh-hoạt văn-nghệ sôi-động ở thủ-phủ của Miền Trung, tôi đã kèm theo phần chính cuốn sách, gửi Bộ Thông-Tin để xin kiểm-duyệt, một phần phụ-lục trong đó có một bức thư của tôi gửi các bạn thân ở Sài-Gòn như nhạc-sĩ Lê Mộng Bảo, thi-sĩ Xuân-Huyền, nữ-sĩ Huyền-Chi, v.v…, tường-thuật vụ trình-diễn vở kịch thơ “Hồ Quý Ly” của tôi tại Huế vào cuối thập-niên 1940.
Thuở đó, Hội-Đồng Kiểm-Duyệt Trung-Việt là một cơ-quan biệt-lập, do cụ Hồ Đắc Định, một nhân-vật trí-thức thức-thời, làm Chủ-Tịch, và nghệ-sĩ Vũ Đức Duy, một kịch-tác-gia kiêm đạo-diễn kiêm diễn-viên tài-danh, làm Tổng-Thư-Ký. Hai vị chủ-chốt này đã ký cấp giấy phép cho tôi công-diễn và xuất-bản vở kịch kia. Thế nhưng ngay đêm đầu tiên, đang diễn dở chừng thì viên Tỉnh-Trưởng địa-phương, là người được mời đến xem trong hàng quan-khách danh-dự, đã ra lệnh ngưng diễn và cấm tiếp-tục, viện lý-do rằng vở kịch ấy đề-cao nhân-vật lịch-sử Hồ Quý Ly đề-kháng Trung-Hoa xâm-lăng, gợi lên liên-tưởng đến Hồ Chí Minh cũng đang chống Pháp ngoại-xâm (quân-đội viễn-chinh Pháp đã đổ bộ lên các Thành Thị lớn từ đầu năm 1947). Hội-Đồng Kiểm-Duyệt, cũng cùng có mặt tại chỗ, liền bác-bỏ quyết-định của Tỉnh-Trưởng, cho rằng đây là một vấn-đề văn-nghệ thuộc quyền-hạn của Hội-Đồng. Các Giám-Đốc Thông-Tin, Công-An, v.v… đều là nhân-vật Quốc-Gia, chống-Cộng nhưng cũng chống Pháp – chống Pháp bằng chính-trị và ngoại-giao – nên tán-thành quyết-định của Hội-Đồng Kiểm-Duyệt. Rốt cuộc vở kịch của tôi đã tạo nên dư-luận sôi-nổi và đã được trình-diễn liên-tiếp nhiều lần…
Chắc Bộ Thông-Tin, vào năm 1973, hốt-hoảng liên-kết vở kịch “Lão Ăn Mày” ngày nay với vở kịch “Hồ Quý Ly” ngày xưa, nên đã đóng vào tập bản thảo của tôi 3 chữ “CẤM XUẤT BẢN” to-tướng.
Tôi đã có nhiều kinh-nghiệm bản-thân về sự phối-hợp giữa Ngành Thông-Tin với Ngành Công-An. Có thể là tôi sắp bị trừng-phạt vì có tác-phẩm như trên?
Nỗ-Lực Cuối-Cùng Của Giới Cao-Cấp Cảnh-Sát Nguyên-Ngành
Ngoài Chuẩn-Tướng Bùi Văn Nhu, được giữ lại với danh-nghĩa Phó Tư-Lệnh Cảnh-Lực Quốc-Gia, các cấp chỉ-huy cao-cấp chính gốc Cảnh-Sát đều bị cất chức, hoặc chuyển qua Bộ Nội-Vụ, hoặc giao cho những phần-vụ thặng thừa.
Trước khi bị tước hết quyền-hành và đẩy ra xa, số nhân-vật ấy đã làm một việc, xem như nỗ-lực cuối-cùng của tập-đoàn lĩnh-đạo cũ, là đề-nghị Tư-Lệnh sử-dụng tôi vào một trách-vụ xứng-đáng hơn. Những tên-tuổi vang-bóng một thời như Bùi Văn Nhu, Trần Vĩnh Đắt, Đàm Trung Mộc, Lê Khắc Duyệt, Lê Sơn Thanh, Bảo Trọng, Nguyễn Bính, Nguyễn Phúc, Cao Xuân Hồng, v.v… Họ muốn thấy tôi qua làm ít nhất cũng là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực một Tỉnh quan-trọng, một chức-vụ mà tôi đã từng đảm-trách và hoàn-thành xuất-chúng từ mười năm xưa.
Hôm Chuẩn-Tướng Tây ra Nha-Trang, Đại-Tá Cao Xuân Hồng, lúc ấy là Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng II, cũng đã gợi ý với ông là nên dùng tôi để thay-thế Nguyễn Văn Long (quân-lai).
Tôi mà được giới-thiệu nồng-nhiệt như thế thì có khác gì hơn là bị vạch mặt chỉ tên rằng tôi là một con gà-nòi của phe kia! Hơn nữa, tôi đã nghe kể về tính tự-ái của Tướng Tây. Một hôm, Thiếu-Tá Nguyễn Văn Độ, Chánh Sở Đặc-Biệt Tỉnh Khánh-Hòa, bị Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương gọi về, vì đã tuân theo một lệnh nào đó của Tỉnh-Trưởng Tỉnh địa-phương. Tướng Tây hỏi: Giữa Trưởng Tỉnh và tôi, anh chọn ai? Độ đáp: Tôi chọn Thiếu-Tướng. Hỏi: Vì sao? Đáp: Vì nếu Trưởng Tỉnh nơi này mà không bằng-lòng về tôi thì tôi còn có thể đến với Trưởng Tỉnh nơi khác; nhưng nếu Thiếu-Tướng mà không vừa-ý về tôi thì tôi không còn đất sống! Thế là Độ được cho về, bình-an.
Bây giờ thì đến phiên tôi. Có thể là tôi bị xem như đã chạy-chọt với giới ngoài Ngành, trong lúc Ngành Đặc-Biệt có tư-cách chuyên-môn, biệt-lập, tự-quản về mặt nhân-viên. Tôi sắp bị khiển-trách về vấn-đề này?…
*
Tôi nghĩ đến những hình-phạt; có thể là khiển-trách ghi hồ-sơ, cất chức, đình thăng-thưởng, thuyên-chuyển, sa-thải, và cao hơn hết là… bỏ tù. Nhưng, tôi thì đã nhiều lần nếm đủ các loại hình-phạt kể trên.
Điều duy-nhất khiến tôi lo-ngại chính là đổi vùng. Mỗi lần thay đổi chỗ ở là một lần cuộc sống đảo-điên: lương tiền ít-oi, vật-giá leo thang; Cảnh-Sát không có cư-xá, Tư-Lệnh Cảnh-Lực cấp Vùng mà còn phải ở nhà thuê…
*
* *
Gặp tôi, Chuẩn-Tướng Huỳnh Thới Tây chỉ nói một câu ngắn gọn:
— Tôi cho anh về Miền Trung, làm Trưởng Cơ-Quan cấp Vùng. Anh có 3 ngày để trả lời tôi.
Nhìn nét mặt ông, tôi biết là tôi không thể trình-bày ý-kiến ngay lúc đó, dù chỉ là một phản-ứng tức-thời.
Tôi đứng dậy chào, đón nhận bàn tay xiết chặt của viên chỉ-huy cao nhất trong Ngành.
Tôi còn gì nữa mà “về Miền Trung”? Miền Trung đối với tôi trước hết là xứ Huế thân-yêu, nơi đã để lại trong tôi biết bao kỷ-niệm vui buồn của một thời trai-trẻ khôn quên. Tôi đã nhẫn-nại kêu xin nhiều năm mong được trở về ngoài đó, nhưng nguyện-vọng đã không thành. Ước-muốn chôn vùi từ mười ba năm về trước, trải qua bao nhiêu tang-thương, đến giai-đoạn này mới được ngó-ngàng. Bây giờ thì ông+bà ngoại tôi, là những người đã nuôi-nấng tôi từ nhỏ, đã mất từ lâu; mẹ tôi đã từ-trần; dì tôi đã ra đi; thân-nhân không còn; bạn-bè kẻ chết, kẻ tha-phương; cảnh-vật đổi khác; tôi có trở về thì cũng chỉ làm một khách viễn-phương. Hơn nữa, tôi cần tiếp-tục ở lại Nha-Trang để giữ cho gia-đình khỏi bị đổ vỡ vì một rạn-nứt đã thành-hình…
Sáng sớm hôm sau, tôi vào gặp Chuẩn-Tướng Tây.
Ông lắng nghe tôi, nhưng không chấp-nhận những gì tôi nói. Viên Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương ôn-tồn bảo tôi:
— Chúng tôi muốn dùng người đúng với kiến-thức, kinh-nghiệm, thiện-chí và tác-phong của mỗi người. Toàn-quốc chỉ có bốn Vùng; Vùng I là Vùng quan-trọng đặc-biệt. Hiện nay thì tôi không thiếu sĩ-quan, kể cả một số cao-cấp hơn anh. Nhưng tôi chọn anh…
Tôi cảm-động vì lời nói ấy. Đó là sự thật.
Nhưng tôi thấy rõ, Vùng I là “Vùng Chiến-Tuyến”. Ngay tại Đà-Nẵng, thủ-phủ mới của Miền Trung, đặc-công cộng-sản vẫn có thể bất-thần ra tay bất-cứ lúc nào. Đại-Tá Nguyễn Văn Thiện, Thị-Trưởng mà cũng bị mất tích; Trung-Tá Nguyễn Đức Am, Chỉ-Huy Cảnh-Lực Thị-Xã mà cũng bị hạ-sát; Đại-Úy Lê Diệp, Trưởng Phòng Đặc-Nhiệm của Ngành Đặc-Biệt toàn Vùng I mà cũng bị gài mìn tử-thương.
Chuẩn-tướng Tây trấn-an tôi:
— Ngoài đó đã có Trung-Tướng* Ngô Quang Trưởng, Tư-Lệnh Quân-Đoàn I và Quân-Khu I. Cộng-sản không phải là vấn-đề đáng lo!
*Trung-tướng: tướng ba sao.
Tôi đâu có lo về vấn-đề cộng-sản. Cả ở núi, rừng, cũng như ở Xã, Thôn, tôi đã chạm trán, chạm súng với chúng nhiều lần. Tôi lo là lo về nội-tình Quốc-Gia với nhau. Thấy tôi vẫn chưa dứt-khoát nhận lời, Tướng Tây thuyết thêm:
— Các anh phải nhận lấy trách-nhiệm của mình. Chúng tôi chỉ qua đây một thời-gian ngắn, để giúp các anh củng-cố, phát-triển; rồi một ngày kia chúng tôi sẽ trở về lại với đời quân-nhân…
Thế là rõ-ràng. Chuẩn-Tướng Tây nhắc đến thái-độ chống-đối của tôi, vừa để chứng-tỏ là mình không kỳ-thị gì, vừa để ngụ-ý là mình chưa hẳn đã bỏ qua. Tuy thế, ông không dồn tôi vào chân tường. Ông đứng dậy, đưa tay ra bắt tay tôi, nói giọng trách-móc một cách thân-tình:
— Tôi cho anh ba ngày cơ mà! Anh đã hội-ý với các Giám-Đốc ở Bộ Tư-Lệnh chưa? Anh đã dò-hỏi tình-hình ở Vùng I chưa? Anh cần những phương-tiện gì thì gặp Trung-Tá Huỳnh Kiêm Thanh…
Tôi không dò hỏi gì nhiều. Tôi chỉ loanh-quanh tìm gặp vài ba nhân-vật cố-tri am-thạo tình-hình là đủ.
Trung-Tá Ưng Du, một sĩ-quan lão-thành xuất-thân từ thời Quân-Đội Quốc-Gia chưa ra đời, bảo tôi: “Anh được cất nhắc lên chức-vụ cao là một dịp may.” Trung-Tá cảnh-nhân Nguyễn Văn Thuận, người từng chứng-kiến nhiều lần đổi nhóm thay phe tại Bộ Tư-Lệnh Cảnh-Sát Quốc-Gia, khuyên tôi: “Anh nên nhận lời, vì Tư-Lệnh có thể đưa anh đi một Tỉnh xa, cũng phải dời đổi chỗ ở, và cương-vị lại có thể thấp hơn, mà còn khiến ông phật lòng.”
Đại-tá Lê Tấn Phước, một người bà-con của tôi, hỏi tôi: “Anh muốn ở yên chỗ cũ, vậy anh có sẵn một triệu đồng không?”
Vài ba bạn khác nửa thật, nửa đùa: “Coi chừng cái tính liêm-khiết của anh. Phải khéo-léo với bọn tham-nhũng: theo chúng thì chúng sẽ che-chở anh, vì sợ rút dây động rừng; chống chúng thì chúng có cả tập-đoàn để tiêu-diệt anh…”
Ngay chiều hôm ấy, tôi vào gặp lại viên Tư-Lệnh của tôi. Tôi định chỉ nói ngắn gọn, nhưng mới mở lời “Thưa Thiếu-Tướng…” thì Tướng Tây đã cười, hỏi chận: “Chịu đi rồi hả?”
Bây giờ thì Tướng Tây vui-vẻ nhưng nghiêm-nghị vào đề:
— Miền Trung xưa nay thì anh đã biết rành rồi. Phong-trào “Phật-Giáo Tranh-Đấu” khởi đầu từ Miền Trung; quân-đội nổi dậy, chính-quyền địa-phương ly-khai chính-quyền trung-ương, chỉ xảy ra ở Miền Trung; các giáo-phái đụng-độ nhau cũng chỉ có ở Miền Trung. Bây giờ thì tình-hình rối-reng hơn: đảng-phái lung-tung, nội-bộ chính-quyền chia-rẽ. Mỗi ngày Trung-Ương nhận được không biết bao nhiêu đơn-từ tố-cáo lẫn nhau; thậm-chí báo-cáo của các cơ-quan đã trái-ngược nhau, mà mỗi cơ-quan có khi lại tự mâu-thuẫn với chính mình. Người dân ngoài đó hầu như ăn rồi chỉ biết có việc thưa-kiện, khiếu-nại lẫn nhau. Nhiệm-vụ của anh là phải ổn-định tình-hình chính-trị nội-bộ, từ trong Cảnh-Sát Quốc-Gia mà ra, đến các cơ-quan chính-quyền, đoàn-thể dân-nhân. Ngoài đó có yên thì trong này mới rảnh tay…
Chuẩn-Tướng Tây đổi giọng, nói về tình-trạng cá-nhân của tôi:
— Cấp-số ở chức-vụ ấy là đại-tá. Trung-Ương sẽ yểm-trợ mọi mặt cho anh. Về nhà-cửa thì tôi sẽ giúp anh mỗi tháng hai chục ngàn đồng. Nếu gia-đình còn ở Nha-Trang, tôi sẽ cho anh vào thăm mỗi tháng một lần. Bao giờ thì anh sẵn-sàng?
— Ngày mai tôi ra Nha-Trang; ngày kia tôi ra Đà-Nẵng, nhận việc ngay trong ngày.
— Tốt! Ngày kia là ngày 26-9-1973. Chúc anh thành-công!
Tôi chưa ra khỏi phòng thì đã nghe Trưởng Ngành Đặc-Biệt Trung-Ương bấm máy nội-đàm bảo Trung-Tá Huỳnh Kiêm Thanh, Giám-Đốc Nha Tiếp-Trợ, làm lệnh cho tôi về “Vùng Chiến-Tuyến”, tức Quân-Khu I, tên mới của Miền Trung.
LÊ XUÂN NHUẬN
Kỷ Vật
Truyện Ngắn – Phong Châu
Bà Mai ngồi lặng lẽ trong căn phòng nhỏ và đóng cửa lại để khỏi nghe những tiếng cười nói ồn ào của những người đến dự đám giỗ chồng bà. Năm mươi năm rồi sao? Hình như chỉ mới đây thôi mà! Bà nghĩ vẩn vơ như vậy. Không! Đúng năm mươi năm! Anh ấy tử trận ngày 19 tháng sáu năm 1974 sau khi hiệp định đình chiến được ký kết hơn một năm trước đó. Những tưởng sau hiệp định Ba Lê 1973 cuộc chiến sẽ chấm dứt để các bên hòa đàm đem lại hòa bình cho dân chúng đôi miền. Nhưng không! Bà nhớ chỉ vài giờ sau khi lệnh đình chiến có hiệu lực thì cộng quân đã tràn vào những vùng xôi đậu vùng nông thôn trước đây để cắm cờ chiếm đất. Cờ của “mặt trận giải phóng miền nam” ngụy trang cho lá cờ máu sao vàng của bắc việt. Rồi cuộc chiến bùng phát dữ dội. Quân bắc việt liên tục được đưa vào miền Nam đông như kiến và các trận đánh diễn ra khắp nơi vô cùng ác liệt. Chẳng những thế Hà Nội còn mời Trung cộng mang quân đánh chiếm đảo Hoàng Sa và hình như có sự đồng tình của đồng minh Hoa Kỳ – sau này bà đọc nhiều bài viết trên mạng nói về sự kiện Hoàng Sa tháng giêng 1974 bà mới biết thêm như vậy. Bà Mai đang miên man nghĩ về quãng thời gian của hơn nửa thế kỷ trước thì cửa phòng sực mở. Con gái bà và hai đứa cháu ngoại xuất hiện. Khi cánh cửa vừa mở ra, hai đứa cháu, một trai một gái vội chạy đến ôm chằm lấy bà. Bà xúc động vì đây là lần đầu tiên bà được gặp hai đứa cháu. Chúng được sinh ra ở bên Mỹ và cả hai vừa mới được nghỉ hè sau năm học dài, con gái bà là Thanh dắt chúng về Việt Nam dự đám giỗ ông ngoại và nhân dịp cho hai con biết quê hương cội nguồn của chúng.
Sau khi nhận hai gói quà từ hai đứa cháu ngoại và đặt ở chiếc bàn nhỏ gần giường ngủ, bà Mai mở cửa bước ra phòng khách và thấy người thân và mấy người bạn đã ra về hết, chỉ còn lại cậu em trai là Tuấn đang ngồi uống bia một mình. Bà quay vào phòng ra dấu cho con gái và hai cháu ngoại trở ra phòng khách. Bà bảo Thanh – con gái của bà và hai cháu ngoại ngồi bên cạnh cậu Tuấn. Bà kéo một chiếc ghế và đặt ngồi đối diện. Bên ngoài có cơn mưa đang đổ xuống, bà đứng dậy đến kéo mấy tấm màn che cửa sổ và khóa chốt cửa chính ra vào. Sau khi thận trọng xem lại các màn cửa đã kéo kín, bà tắt bớt hai ngọn đèn, chỉ giữ lại một ngọn cho vừa đủ sáng nơi có cậu Tuấn và con cháu của bà đang ngồi.
Bà trở lại ghế ngồi. Không nói một lời nào. Không gian im ắng và thời gian hình như cũng không chuyển động. Cậu Tuấn và Thanh nhìn nhau biểu đồng tình “không biết bà Mai làm gì, nói gì? sao có vẻ như có một chuyện gì quan trọng mà bà sắp thông báo cho mọi người cùng biết”. Một lát sau bà Mai đứng dậy và bước tới phía trước bàn thờ đốt ba cây hương cắm vào bát nhang thờ Phật, rồi bà lại đốt thêm ba cây hương khác cắm vào bát nhang đặt trước bài vị và di ảnh của chồng bà. Xong đâu đó bà trở lại ghế ngồi. Cậu Tuấn và Thanh đang chờ bà nói một điều gì đó. Sau vài lần chớp mắt thì cậu Tuấn lẫn Thanh thấy đôi mắt bà đỏ hoe, hình như những giọt nước mắt đâu đó đang chực chờ để chảy xuống đôi gò má nhăn nheo lốm đốm năm bảy vết nám của thời gian. Dằn cơn xúc động, bà Mai nhìn cậu Tuấn, rồi nhìn Thanh và hai đưa cháu đang ngồi trước mặt nói với giọng run run:
– Hôm nay tôi muốn nói với cậu Tuấn và cháu Thanh một chuyện mà suốt mấy chục năm qua tôi chưa hề tiết lộ, chỉ là chuyện trong gia đình mình thôi.
Tuấn và Thanh hơi bàng hoàng, không biết có chuyện gì xảy ra mà bà Mai lại nói như thế. Cả hai gần như nín thở để nghe. Sau khoảnh khắc im lặng bà Mai nói tiếp:
– Chuyện là thế này – bà nhìn thẳng vào mặt cậu em rồi nhìn con gái – mấy chục năm về trước, chắc cũng phải ngoài ba chục năm, cháu Thanh có hỏi tôi về một chiếc hộp đặt trên bàn thờ, phía sau di ảnh của ba cháu và muốn biết thứ gì ở bên trong chiếc hộp đó. Tôi chỉ nói bên trong hộp đựng tờ “phái quy y” của tôi chứ chẳng có gì bên trong ấy nữa. Thưc sự thì không phải như thế.
Bà Mai ngưng nói và đưa mắt nhìn lên bàn thờ. Mùi hương thơm đã lan tỏa cùng khắp căn phòng. Bà đứng dậy bước đến cửa sổ vén màn nhìn ra bên ngoài. Trời vẫn còn mưa và đường phố hình như chẳng còn ai qua lại vì mưa càng lúc càng lớn. Ánh đèn đường hiu hắt phả vào màn mưa mờ đục nhạt nhòa. Bà quay lại, đến trước bàn thờ vái ba vái rồi với cử chỉ nhẹ nhàng, kính cẩn đưa tay ra phía sau tấm di ảnh của chồng để nâng nhẹ chiếc hộp bằng gỗ màu đen, xong đem đặt chiếc hộp ngay giữa bàn trong khi cậu Tuấn và con gái ngơ ngác theo dõi từng cử chỉ của bà. Không một tiếng động. Bà ngồi xuống ghế đưa mắt nhìn cậu Tuấn và con gái cùng hai đứa cháu im lặng tò mò theo dõi. Hai đứa cháu chốc chốc đưa mắt nhìn nhau và hình như ngầm bảo “chẳng hiểu gì”. Chúng nghe những lời của bà Mai vừa nói và loáng thoáng hiểu một vài chữ nhưng nội dung của câu chuyện như thế nào thì chúng hoàn toàn không rõ.
Chiếc hộp màu đen đặt trên bàn là điểm chú ý của mọi người, bà Mai, cậu Tuấn, Thanh và hai đứa cháu. Bà Mai cố nén cơn xúc động và sau vài lần ngập ngừng, bà đưa tay cầm lấy chiếc hộp lên và mở nắp hộp để xuống bàn, chiếc hộp sau đó cũng được bà đặt lại chỗ cũ. Cậu Tuấn, Thanh và hai đứa cháu đưa mắt nhìn vào chiếc hộp đã mở nắp. Có một vật gì đó nằm bên dưới một tờ báo cũ được gấp lại. Thoáng nhìn cậu Tuấn và Thanh đọc được mấy chữ in đậm nét trên một góc của tờ báo “Trận đánh khốc liệt tại Mộc Hóa, Kiến Phong ngày 18 -19 tháng 6 – 1974”. Đó là tờ nhật báo Tiền Tuyến bà Mai còn giữ lạicó ghi rõngày 20 tháng sáu năm 1974, sau khi chồng bà tử trận một ngày. Mộc Hóa là trận địa nơi chồng bà đã chỉ huy một đại đội bộ binh đánh nhau với quân việt cộng suốt hai ngày hai đêm. Đại úy Lê Duy Hà – chồng bà đã anh dũng hy sinh.
Thi thể của chồng bà được ban hậu sự đơn vị đưa về tận nhà và sau tang lễ bà đã giữ lại lá cờ vàng đã được phủ trên nắp quan tài cùng chiếc áo trận bị nhiều vết đạn xuyên thủng. Bà Mai trịnh trọng đặt lá cờ và chiếc áo trận trên bàn thờ, trước di ảnh của chồng. Chỉ trong vòng một năm chiến sự càng ngày càng khốc liệt và những cuộc di tản diễn ra từ cao nguyên và liên tiếp các tỉnh miền Trung rơi vào tay cộng quân. Bà Mai lo âu kèm theo nỗi thất vọng ê chề. Một thân một mình và bụng mang dạ chửa nên bà Mai chỉ biết tụng kinh niệm Phật cầu nguyện. Bà thấy một số gia đình đã mang những thứ có liên quan tới những người lính trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa như giấy tờ, áo quần, giày…ra đốt hoặc mang đi liệng, ngay cả những lá cờ họ cũng dùng dao kéo cắt ra nhiều mảnh để hủy. Nhìn thấy cảnh này bà Mai hết sức đau lòng. Riêng bà, bà đã cuộn nhỏ lá cờ và bọc trong một miếng vải màu trắng, bên ngoài bọc thêm một lớp giấy báo cũ. Chiếc áo trận của chồng cùng lá cờ được bà cho vào một hộp gỗ đặt trên bàn thờ và cứ đến ngày giỗ của chồng, bà – một mình tự tay mở chiếc hộp ra để nhìn chiếc áo trận và lá cờ màu vàng ba sọc đỏ…
Biết cậu Tuấn và Thanh đang chăm chú nhìn bà và đợi một điều gì bà sắp nói nên bà vội vàng lấy gói đồ từ trong chiếc hộp, tháo lớp giấy báo bên ngoài. Bà ôm chiếc áo trận của chồng vào ngực và nước mắt đã chảy thành dòng xuống đôi má nhăn nheo. Bà xúc động không nói được nên lời. Cậu Tuấn và Thanh cũng xúc động và họ đã hiểu chuyện gì xảy ra. Thanh cũng không ngăn được nước mắt. Cậu Tuấn vẫn ngồi bất động. Hai đứa cháu ngơ ngác nhìn bà ngoại, ông cậu rồi mẹ của chúng. Chúng chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Thấy vậy Thanh ra dấu cho hai dứa con rời chỗ ngồi.
Nén cơn xúc động, bà Mai nhìn con gái. Bà nói: “Chiếc áo trận này mẹ đã giữ năm mươi năm rồi. Nay mẹ muốn con mang theo về bên ấy và cũng đặt trên bàn thờ để tưởng nhớ đến người cha đã hy sinh bảo vệ đất nước đến hơi thở cuối cùng, nay mẹ đã già yếu, không biết ra đi ngày nào…con hãy giữ lấy…”
Hình như bà Mai muốn nói thêm điều gì nữa nhưng bà đã nghẹn lời. Thanh đưa hai tay cầm chiếc áo và gục đầu vào chiếc áo khóc nức nở…
Bà Mai đứng dậy và bước đến phía sau lưng con gái, hai tay đặt vào hai bờ vai của con. Cậu Tuấn vẫn ngồi yên lặng.
Phong Châu
TÁC GIẢ CHINH NGUYÊN RA MẮT SÁCH
Thứ bảy, ngày 10 tháng 8/2024
KIỀU MỸ DUYÊN

Chinh Nguyên là một tác giả đa tài, ông viết văn, làm thơ và viết báo. Dù ở lãnh vực nào, tác giả Chinh Nguyên đều có năng lực thiên phú. Thơ Chinh Nguyên được các nhạc sĩ Luynh Phương, Hoàng Khiêm, Khôi Nguyên, Phan Ni Tấn phổ nhạc.
Nỗi niềm của tác giả Chinh Nguyên nơi xứ lạ vẫn dõi về quê nhà:
“Ba mấy năm trời nơi xứ lạ
Tóc mầu tuyêt trắng điểm sương pha
Tơ lòng vẫn rối tình như bão
Nghiêng ngả đôi vai nợ nghiệp nhà.”
“Quê hương hỡi! Biển xâu ngăn cách trở
Sao lòng ngươi sâu thẳm lắm nghiệt oan
Đẩy tôi đi mỗi ngày thêm xa mãi
Cho mẹ buồn đêm trắng tủi khóc than.”
(Niềm riêng- Chinh Nguyên)

Tác giả CHINH NGUYÊN
Ra Mắt Sách
Từ 1pm đến 4pm
Tại Thư Viện Việt Nam, 10872 Westminster Ave, Suites 214 & 215, Garden Grove, CA 92843
Tác giả Chinh Nguyên sẽ đặc biệt giới thiệu về 4 quyển sách:
1/ THORN IN THE HEART: Xuất bản 2018. Truyện dài bằng tiếng Anh, gồm 12 chương, 525 trang.
” War made life short. Also, the youth give their souls to one another for remembering, and nothing is more important than love while they struggle to live and rush their life for a short time.” (page 11)
” Vietnamese youths on both sides had been dying away in the poor living, the threat of war flame, and unjust. They died on the battlefield for the spirit of the loving country.” (page 28)
” Capitalists pushed the young men going to the war to be the killers or die on the battlefield for the new markets as Vietnam, and their ambitions of the model colonialism, which will dominate the whole world in the future. They do not love the people, but they love the dirty smell of the money and power which they can use to control the people softly until dying without a struggle.” (page 29)
” What did you think of the soldiers’ conditions on both sides? They and we were the chessmen in the dirty games of the dishonest politicians and the foreign policies of interference! (page 509)

Tác giả sử dụng từ ngữ dễ hiểu, kể lại sự thật về cuộc sống của những thanh niên Việt Nam thời chiến tranh. Cuộc sống ngắn ngủi, không có ngày mai. Sự thật trần trụi và khốc liệt lôi cuốn độc giả đọc đến trang cuối để nhận ra được rằng những người trẻ trong chiến tranh chỉ là những quân cờ trong ván cờ bẩn thỉu của những chính trị gia bất lương và những chính sách đối ngoại can thiệp! (trang 509).
2/ PLEASE COME IN ( “VÀO ĐI TÌNH ƠI”): Truyện dài song ngữ- xuất bản 2023, 510 trang. Từ đầu đến trang 268, tác giả trình bày bằng tiếng Anh. Từ trang 281 đến trang 510, được viết bằng tiếng Việt.
“Trời đất có lẽ phải mất nhiều triệu tỷ năm để nắn nót, gọt đẽo, đắp thành ngọn đồi mê hoặc ấy, ngọn đồi trên mặt đất địa cầu này chẳng có nơi đâu lại đẹp và lạ lùng đến thế, hoàn chỉnh trong giây phút lạc thần đến như thế. Không gian khô hạn, cỏ vẫn mịn màng chưa có một thứ nhung lụa nào của con người tạo nên được, …” (trang 284)
Tác giả viết văn tả cảnh mà như đang làm thơ với những từ ngữ trau chuốt, tượng hình. Ở nơi tiên cảnh bồng lai đó, cuộc gặp gỡ tình cờ giữa ông lão cô đơn (nhân vật chính) và cô gái rửa chân dưới suối (trang 294).
“Cô gái mặt bầu bầu với cặp mắt to ánh nhìn vừa êm, vừa hết sức tinh anh nhanh nhẹn, có vẻ cô vất vả nhiều và già đi trước tuổi, vóc dáng cô bé nhỏ trong bộ quần áo lính thùng thình.” (trang 297)
“Cô gái lặng lẽ đến ngồi bên cạnh ông, khung cửa hẹp khiến hai người phải ngồi sát vào nhau.” (trang 303)
“Từ ngày cô gái tự nhiên đến ở trong nhà ông, cuộc sống làm cho ông nhiều lúc như được cơ hội để nói, để giải tỏa những suy nghĩ, những câm lặng không có lối thoát …” (trang 304).
“Trăng lại chợt bừng sáng, bàn tay ông thật nhẹ, thật nhẹ đặt lên mái tóc cô, vùng mây óng ả chảy dài xuống, ông cảm thấy vùng mây ấy vương vấn cả vào chân ông …” (trang 328). Ông hành động theo đam mê, thôi thúc hay với bản năng thú rừng chiếm hữu? (trang 329)
“Tình yêu không có tuổi tác, không có không gian, không có thời gian. Nếu chỉ có tình yêu thôi thì có gì phải sợ, tình yêu là tất cả, ngay cả đến oán thù cũng bỏ đi được cả, thế thì còn gì tôi phải sợ ông nữa?” (trang 362)

3/ ANTI-AUTHORITARIAN HANDBOOK (CẨM NANG CHỐNG ĐỘC TÀI): Những truyện ngắn song ngữ viết cùng Phạm Đoan Trang. Xuất bản 2023, dày 320 trang.
Phạm Đoan Trang là nhà hoạt động dân chủ, nhà báo, bị chính quyền Việt Nam bắt giữ ngày 6/10/2020, đẩy cô vào thế đối mặt với bản án 20 năm tù.
Chúc Mừng Đại Hội Không Quân bằng thơ xướng họa
Quý thân hữu thân kính !
Ngày 01/7 /1955 là ngày thành lập Không Quân VNCH .
Thân kính mời quý thân hữu thưởng lãm những bài thơ xướng họa sau :
KHÔNG QUÂN VIỆT NAM UY DŨNG
– Kỷ niệm 54 năm nhập ngũ .
-Thân tặng quý chiến hữu KQ/VNCH .
Thu về nhớ lại tháng năm qua .
Quá khứ vàng son thuở ngọc ngà .
Từ giã thư sinh theo tiếng gọi .
Đăng trình quân chủng thỏa đời ta .
Không Gian Tổ Quốc dân vi quý .
Chiến Thuật Bốn Vùng chính khí ca .
Lịch sử hào hùng danh tỏa khắp .
Việt Nam lừng lẫy ngát hương xa .
Lâm Hoài Vũ
Sept 18 , 2023
+
Họa 1 – Không Quân VNCH
Gợi giấc mơ đầy tháng bảy qua
Không quân một thủa đẹp trăng ngà
Thư sinh xếp bút miền nam Việt
Lính tráng lên đường tổ quốc ta
Phóng vút tầng mây lòng dũng cảm
Dâng chèn núi biển chí hùng ca
Tinh thần bất khuất cùng đồng đội
Nghĩa vụ theo tầm chiến lược xa.
Minh Thúy Thành Nội
June 24 , 2024
………………………
Thân kính mời quý thân hữu thưởng lãm bài thơ xướng họa sau:
LÍNH KHÔNG QUÂN VNCH
Nghe tiếng rền vang chim thép bay
Bồi hồi nhớ lại biết bao ngày
Kề vai với bạn thân thương quá !
Sát cánh bên nàng hạnh phúc thay !
Đêm tối lao mình truy lũ giặc
Hỏa châu tỏa ánh chiếu hình hài
Bốn vùng chiến thuật đoàn phi vụ
Tô điểm sơn hà chính khí say.
Lâm Hoài Vũ
( Trích thi tập GIẤC MƠ HOA)
Họa
MT họa theo
Không Quân VNCH ( hoán vận và 4 vần )
Mây trời rộng lớn trực thăng bay
Nhiệm vụ nào quên tuổi trẻ ngày
Bóng núi bao trùm mờ trước mặt
Làn sương phủ bọc tối lưng mày
Phi hành lực hợp lòng trung giữ
Chiến đấu tâm đồng nghĩa chính say
Được phép dăm chiều thêu lối mộng
Bên nàng dạo phố đẹp tình thay
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 6/29/2024
……………………………………………………………
- Kể Chuyện Tháng Sáu
Tháng sáu mùa tươi vui của khung cảnh hạ, không còn những cơn mưa và khí hậu lạnh rét run nữa. Trời trong sáng, nắng rực rỡ sắc hồng, cây cối xanh tươi, các loài hoa thi nhau khoe đủ sắc màu, nhất là những đóa quỳnh hồng, vàng nở tuyệt đẹp.
Từ đầu tháng đến giờ tôi đi dự lần lượt: trước tiên là “Mừng Ngày Truyền Thống Cảnh Sát Quốc Gia 1 tháng 6”, kế tiếp “Đại Hội Thiết Giáp QLVNCH”, “Lễ Father’s Day” (hội phụ nữ Bắc Cali tổ chức phối hợp cùng các anh lính Thủ Đức trong nhóm “Cà Phê Lính”.
Tiếp theo chiều nhạc “Khúc Tình Ca Của Lính” do ca sĩ Đồng Thảo cũng là xướng ngôn viên của đài radio Quê Hương tổ chức, điều hợp cùng MC Hoàng Tuấn, với sự góp mặt của “Nhóm Hát Cho Giấc Mơ Việt Nam”. Đây là buổi chiều cho tôi nhiều hạnh phúc được quay về quá khứ, được nhập vai những nhân vật trong bản nhạc, ru tôi êm ái giấc mơ ngày nào …
Hát về lính với những ca từ trong bản nhạc đã đưa tâm hồn mọi người trở về, sống lại những năm tháng trước 75, say mê nhưng cũng đầy luyến tiếc. Muôn đời tôi yêu trời tự do của miền Nam ngày ấy, dẫu năm tháng có phôi pha nhạt nhoà, dòng mê vẫn cuồn cuộn chảy ào về miền quá khứ của khung trời thơ mộng…
Còn gì lãng mạn bằng tình yêu trong thời chiến, anh trở về thăm em trong khung chiều ngây ngất mùi hương hoa Soan phảng phất bên thềm thêu màu nắng nhạt, anh thì thầm… (Tuấn Khanh “Hoa Soan Bên Thềm Cũ”)
Cảm xúc vô bờ bến của một thời lòng dân quý mến người lính Việt Nam Cộng Hoà. Quý mến bằng tấm lòng cảm thông, đã viết tên “trên gấm nhung, trên trán, trên tay, trong gió, trong mây, trong lòng biển lớn sông dài”. Hiểu nỗi niềm “Lớp trai chiến đấu oai hùng ngoài biên thuỳ xa, nơi chiến trường đẫm máu đem tự do cho đời.” “Lo lắng lúc trời gió mưa, lúc nhìn hạt nắng lưa thưa, lúc gối ánh trăng thanh.” (Hoàng Thi Thơ “Tôi Nhớ Tên Anh”)
Bồi hồi, sợ hãi lo âu theo người yêu là lính, đêm đêm nàng mất ngủ tự hỏi, nhớ đến các địa danh “Quang Trung nắng cháy da người. Dục Mỹ hay Lam Sơn? Đồng Đế nắng mưa thao trường”. Pleiku gió núi biên thuỳ? Miền Trung hỏa tuyến địa đầu? Miền Tây tiếng sét U Minh rừng. Tây Ninh tiếp ứng biên thành? Giặc tan trên đất Hạ Lào? Trại Hoàng Hoa tung gió cánh hoa dù?” Nhớ với tâm trạng hồi hộp về người lính chiến đang đùa giỡn với tử thần trong lửa đạn mịt mù. (Khánh Băng “Giờ Này Anh Ở Đâu?”)
Trầm lắng se thắt con tim nghĩ đến những người chiến sĩ thầm lặng chiến đấu cho lý tưởng tự do, lòng dũng cảm hy sinh bỏ lại thân xác trên đồi núi rừng sâu âm u. Bao nhiêu anh linh, hồn thiêng sông núi hoà trong tiếng gió hú nghẹn ngào (Phạm Duy “Chiến Sĩ Vô Danh”)
Say sưa theo lời ca tiếng nhạc, trong khi chiều dần buông ánh nắng bên ngoài , ánh nắng nhạt nhoà như phủ màu sương khói xa xăm chập chờn trong trí nhớ không những về Đại uý Nguyễn Văn Đương, vẫn còn những anh hùng như trung tá Nguyễn đình Bảo, Đại uý Trần Thế Vinh, Trung tá Phạm phú Quốc, Trung Tá Ngụy Văn Thà ..v..v…hay những chiến sĩ vô danh đã nằm xuống, nhưng họ vẫn sống mãi trong lòng người dân niềm kính ngưỡng. (Trần Thiện Thanh “Anh Không Chết Đâu Anh”)
Một buổi thưởng thức, thả hồn theo lyric của những nhạc sĩ tài danh, được ca sĩ diễn tả đặt hết tâm hồn vào lời ca tiếng nhạc thật hay, khiến người nghe thấm niềm rung động. Còn nhiều bản nhạc hay nữa đã đề cao tinh thần chiến đấu của người lính khiến tôi miên man sống lại hình ảnh trong ký ức rõ ràng. Cám ơn những nhạc sĩ đã sáng tác tự do, sáng tác theo cảm xúc chứ không như những bản nhạc miền Bắc bị gò bó. Cám ơn cô Đồng Thảo đã tổ chức chiều nhạc về lính đầy ý nghĩa, cám ơn các ca sĩ, MC Hoàng Tuấn cùng tất cả khán giả đã cùng sống lại ký ức đẹp với sự biết ơn sâu dày về người lính VNCH.
Tôi quý mến và suy nghĩ về người lính VNCH rất đáng thương. Dẫu Nam Bắc đã thỏa hiệp ký kết chia đôi hai miền, người dân miền Nam chỉ muốn sống trong yên lành tự do, nhưng miền Bắc đầy tham vọng cứ xâm lấn. Dù ngày ấy tuổi mới lớn nhưng tôi đã chứng kiến cảnh họ hung hiểm tàn bạo pháo kích vào nhà dân khắp nơi, thảm trạng chôn sống Tết Mậu Thân ở Huế còn dấu tích. Trong khi anh lính miền Nam chỉ chiến đấu phòng thủ, chỉ muốn bảo vệ người dân sống an bình.
Còn nỗi buồn gì hơn khi các thanh niên, sinh viên, thầy giáo phải rời ghế nhà trường lên đường tòng quân nhập ngũ. Súng đạn ngoài chiến trường nào biết tránh ai, nhưng tinh thần họ sẵn sàng chiến đấu vì chính nghĩa. Các anh đánh đổi cuộc sống chăn êm nệm ấm bằng những đêm lội suối băng rừng, những buổi nằm gai nếm mật, sự chết trong từng gang tấc như đang đem sinh mạng đùa giỡn với tử thần. Có người vùi thây trong cát bụi biển lửa. Có người thương phế mất đôi chân, mất cánh tay. Có người bình an trở về. Chiến tranh! nhắc đến hai từ này mà hãi hùng khiếp sợ. Những mối tình, những người thiếu phụ trong thời chiến phải chịu cảnh ly tan goá bụa. Hình ảnh chưa thể xoá mờ trong ký ức của tôi khi trên đường phố rất nhiều vành khăn tang quấn trên đầu những khuôn mặt còn rất trẻ vào tuổi thanh xuân.
Nghĩ đến cuộc chiến đấu bằng tham vọng, không có chính nghĩa là tôi cằm ghét thù hận như quân Nga muốn chiếm Ukraine hiện nay, nó khiến tôi liên tưởng vết đau miền Nam ngày trước. Vận nước nổi trôi ai ngờ được, khi tinh thần chiến đấu các anh còn hăng say đầy nhiệt huyết thì ván bài đen trắng lật ngửa, những con mắt miền Nam đều ngơ ngác nghẹn ngào. Phải chi họ đưa được nước VN tự do no ấm thì chẳng nói, đọc tin tức khắp nơi thấy tệ trạng nhiều mặt, dân còn đói khổ lầm than. Hình ảnh các em lội nước qua sông đến trường học, trong khi người giàu quá cỡ. Chống Mỹ chê Mỹ nhưng rồi kẻ có tiền đều tìm cách cho con du học xưa này, con tìm người yêu kết hôn ở lại. Có số còn tính toán kiểu du lịch mang bầu và sinh con tại Mỹ rồi mới về lại VN. Nếu không có tôi chu cấp thì anh chị tôi cũng không biết lấy gì sinh sống, cháu tốt nghiệp đại học, đi làm nhiều nơi chỉ thời gian sau là công ty mắc nợ tiền lương vì không có trả. Càng nghĩ thì càng buồn thôi ….
Mỗi lần dự lễ, trước bàn thờ các vị tướng tá đã tuẫn tiết trong ngày 30 tháng 4, lòng dân không khỏi bùi ngùi đau xót, đồng thời cũng đầy sự hãnh diện về tinh thần bất khuất của những vị anh hùng đã vị quốc vong thân.
Sau 75 bao nhiêu cảnh tang thương, sĩ quan đi tù tội rừng sâu, lớp bệnh hoạn chết trong tù, lớp trở về thân tàn ma dại. Có những anh vẻ mặt đau khổ than vãn với gia đình “nhục quá chẳng muốn sống nữa”. Có số tìm đường bộ hay đường biển liều thân trốn thoát. Rồi số phận các anh được đền bù qua Mỹ theo diện HO, họ đem theo hoài bão tốt đẹp cho tương lai đất nước, nặng lòng về quê hương yêu dấu.
Trên xứ người, các anh luôn tranh đấu, vận động để những lá cờ vàng được tung bay trên thế giới, lá cờ mang ý nghĩa của tự do dân chủ. Sống lưu vong tỵ nạn với niềm hy vọng về tương lai, giữ gìn lá cờ vàng thân yêu. Hàng năm vào tháng tư đen tổ chức ngày Quốc Hận, tháng sáu ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Ngày tháng đi qua trên nỗi buồn của kẻ mất nước sống đời lưu vong, chiếc bóng thời gian không ngừng nghỉ hằn lên mái tóc họ bạc trắng, thể chất bị lão hoá và tinh thần cũng mòn mỏi. Họ yêu bộ quân phục của lính, họ có quá nhiều ký ức vui buồn đời lính, ký ức trong trại tù. Họ tổ chức họp mặt bạn bè, đồng môn để có cơ hội tâm sự, ôn lại quá khứ.
Vì lòng kính mến và thương cảm đời lính, tôi thường đi dự các buổi tiệc. Có nhiều hôm đến sớm, tôi chứng kiến cảnh người già chung nhau khiêng chiếc thang dựng lên, trèo cao treo banner và trang trí vài nơi. Nhìn vóc dáng gầy gò của tuổi lão gắng sức, lòng tôi đầy ngậm ngùi suy nghĩ: tuổi trẻ bây giờ quá bận rộn công việc không thể tham gia phụ giúp? hay là không thèm chơi với tầng lớp già, như các chị thường nói mỗi lúc đến đâu “tụi nhỏ bây giờ đâu thèm chơi với mình nữa, chỉ già chơi với nhau thôi” khi bạn bè hỏi “tụi nhỏ đâu không đi chung tới”.
Tiệc nào cũng thấy đa số mặc quân phục. Tuy cũng có các anh quan niệm khác nhau
– Mất nước rồi mặc lại thêm buồn tủi
– Một thời không quên, mặc để ôn lại kỷ niệm
– Bộ quân phục là hơi thở, là sự sống, là niềm yêu thương hãnh diện thời trai trẻ. Có cơ hội thì mình cứ mặc dẫu trong hoàn cảnh nào.
Tôi thích được nhìn lại bộ quân phục của lính, để sống lại thời chinh chiến điêu linh mà họ đã phải hy sinh chiến đấu. Nhìn để tưởng niệm những người đã nằm xuống, những người đã hy sinh một phần thân thể máu xương, để nhắc nhở mình có trách nhiệm góp phần giúp đỡ dù nhỏ nhoi, cũng an ủi các anh Thương Phế Binh bên quê nhà phần nào.
Giờ đây tuổi các anh đã bước qua giai đoạn lão và chết dần dần. Thời gian còn quá ngắn, họ họp mặt để an ủi, mừng rỡ, ôn lại kỷ niệm năm xưa, mặc bộ quân phục ngày nào trong sự ấp ủ yêu thương, đó là hạnh phúc của người lính đang lưu lạc trên xứ người.
***
Hôm nay Chủ Nhật là Lễ Cha (16/6) và cũng là ngày Lễ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (19/6) được tổ chức nơi tiền đình quận hạt Santa Clara, địa điểm 70 W- Hedding ST- San Jose CA 95110. Đây là nơi các hội đoàn thường tổ chức lễ chào cờ ngày Tết, 30 tháng 4, hay những buổi ca nhạc trình diễn trong hội trường mà hầu hết đều được các vị dân cử thành phố như nghị viên, giám sát viên quận hạt bảo trợ và đến tham dự.
Sáng nắng rực tươi sáng, lái xe gần tới địa điểm đã thấy cờ vàng treo hàng dài trên đường, lòng bồi hồi xúc động cảm tưởng như quê hương VN được dựng lên trên xứ người. Đến nơi cả rừng người mặc bộ quân phục, tôi dấy lên niềm cảm xúc vô biên.
Buổi diễn hành thật oai hùng và đẹp mắt theo từng binh chủng, tim tôi như nén thở mơ mơ màng màng nửa tỉnh nửa mê của ngày xưa và hôm nay. Nhưng rồi phút mặc niệm đánh thức đầu óc tôi tỉnh táo nghe lời đọc của người MC: Tưởng niệm các vị tướng đã vị quốc vong thân “Anh Hùng tử, Khí Hùng bất tử”. Tưởng niệm các anh linh đã hy sinh chiến đấu vì lý tưởng tự do của miền Nam.Tưởng niệm hơn 58 ngàn lính Mỹ đã chết trong trận chiến Việt Nam. Tưởng niệm đồng bào trốn thoát tìm đường vượt biên đã bỏ mình trên biển cả…Ôi tiếng đàn buồn réo rắc, nước mắt chực rơi, cúi mặt lắng nghe và chỉ biết nguyện cầu các vong linh được siêu thoát, sau đó đến thắp hương dâng lời kính cẩn qua màn khói, tinh thần cảm thấy ấm áp dễ chịu sau buổi dự lễ.
Chương trình tiếp theo ông Lê văn Hải (hội trưởng hội Văn Thơ Lạc Việt, Báo Chí và chủ nhiệm báo Thần Mõ) tổ chức ngày “Lễ Cha” và chương trình ca nhạc “Tình Cha, Tình Lính” do đoàn Du Ca Bắc Cali và các nghệ sĩ khác đảm trách. Tôi rất tiếc có hẹn bạn Việt Nam sang chơi, cùng về Sacramento thăm bà hiệu trưởng trường trung học năm xưa nên không tham dự được. Nhưng tôi không lạ gì với cách sống đầy tình nghĩa của người lính Không Quân Lê văn Hải. Ông luôn thực hiện những điều Chúa dạy như làm việc thiện, tổ chức những buổi phát lương thực cho Homeless nhiều lần trong năm, thân thiết tham dự tiệc của các đồng môn khác binh chủng, chung tay dựng đài thuyền nhân, xây tượng lính VNCH nơi vùng Bắc Cali. Ông sống trong tinh thần đoàn kết hài hòa, đó là điểm son nổi bật mà hầu như nơi miền Bắc Cali này ai ai cũng biết và mến mộ ông, đúng là “hữu xạ tự nhiên hương”.
Tuy nhiên tôi cũng có nhiều suy tư về những sự việc xảy ra bên này: Rằng một thời gian trước đây hộp thư tôi nhận rất nhiều bài viết chống nhau. Ban đầu tôi cũng tò mò đọc xem, nhưng càng lúc càng thấy những người lính chụp mũ lẫn nhau, ai cũng bị mang “nón cối Việt Cộng” làm tôi hoang mang chẳng biết hư thực ra sao. Sau thì tôi cảm thấy sợ hãi và xoá liền không dám đọc. Bạn bè cũng có tâm trạng như tôi trong trạng thái thất vọng chán nản. Nhóm “ếch ngồi đáy giếng” chúng tôi cũng bày tỏ chút bình loạn “Bên này nếu mất sự đoàn kết, nghi ngờ nhau thì chắc VC giờ này đang ngồi uống trà rung đùi thích thú, vì chiến dịch “đâm bì thóc, thọc bị gạo” của họ đã thành công.
Mọi lần nhận thư mời từ các hội đoàn tổ chức nhiều nơi dự lễ “Tháng Tư Đen”. Tôi vẫn chọn nơi đường Hedding, vì ở đó có parking đậu xe rộng nhất, thoải mái địa điểm, phục vụ phương tiện vệ sinh đầy đủ. Tôi từng mơ ước những hội đoàn chung tay tổ chức một địa điểm, các dân cử hội đồng thành phố khỏi mất thì giờ tham dự nhiều nơi. Họ sẽ chứng kiến người VN tập trung một chốn thật đông đảo, trong tinh thần đoàn kết của người dân VN tỵ nạn Cộng Sản thật đẹp mắt. Mơ lắm thay…
Ngồi nhìn ra khoảng sân sau, nắng chiều nhẹ nhàng hôn lên những khóm hoa là đà theo gió. Trước mặt tôi là hai tấm vé dự tiệc hội ngộ của binh chủng Không Quân ngày cuối tháng. Xem như những sinh hoạt tháng sáu trong cộng đồng VN tôi đã kể xong
Tháng sáu của người Cha đã qua đời, tưởng nhớ với nỗi buồn sâu lắng. Tháng sáu của những người lính Cộng Hoà được ưu ái tổ chức nhiều chương trình mang ý nghĩa kính mến và biết ơn.
Minh Thúy Thành Nội
Tháng 6/2024
*** Trong bài viết xin mạn phép mượn những từ ngữ của bản nhạc
Lối Cũ Vẫn Trong Tim | Thơ Yên Sơn
Những sự kiện & nhân vật đáng nhớ của Tháng 6
Cướp biển từ phía bắc đổ bộ vào Anh và cướp bóc tu viện Lindisfarne, ở phía nam Scotland. Sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu của Thời đại Viking.
-18/06/1429- Joan of Arc đánh bại quân đội Anh tại Patay. Jeanne xứ Arc là một nữ anh hùng người Pháp, sinh sống trong khoảng năm 1412 – 30 tháng 5 năm 1431.[4] Trong tiếng Pháp, tên cô thường được gọi là Jeanne d’Arc ( phát âm tiếng Việt là Gian-đa, có biệt danh “Trinh nữ xứ Ooc-lê-an” (tiếng Pháp: La Pucelle d’Orléans). Cô nổi tiếng vì là một lãnh chúa, người chỉ huy quân sự và anh hùng trong các cuộc chiến đấu ở Chiến tranh Trăm Năm giữa Pháp và Anh, và đã được Giáo hội Công giáo La Mã phong thánh.
– (15/6/1479 –15/7/1542)-Lisa, còn được gọi là Mona Lisa, Lisa di Antonio Maria (Antonmaria) Gherardini và Lisa del Giocondo trong tiếng Ý, là một thành viên của gia đình Gherardini ở Firenze. Cô sẽ là người mẫu của Mona Lisa, một bức chân dung do chồng cô ủy quyền và được vẽ bởi Leonardo da Vinci.
-25/06/1498-Bàn chải đánh răng do người Trung Quốc phát minh. Nó chỉ đến Pháp vào thế kỷ XIX. Năm 1984, theo một cuộc khảo sát, cứ ba người Pháp thì có một người không có bàn chải đánh răng.
– 24/06/1519- Ngày mất của Lucrezia Borgia (sinh ngày 14 tháng 4 năm 1480), người có cuộc đời truyền cảm hứng cho các nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, điện ảnh và sân khấu, ví dụ như với vở kịch của Victor Hugo.
-09/6/1547 Giáo hoàng Paul III ban hành Sublimus Deus -Đấng Toàn Năng Cao Cả -cấm chế độ nô lệ của người Mỹ da đỏ.
-10/06/1549-Catherine de Medici được trao vương miện Nữ hoàng Pháp. Bà sinh mười người con, ba người là vua của Pháp.
-19/06/1623 Ngày sinh của Blaise Pascal (mất năm 1662), nhà toán học và triết học, người phát minh ra máy tính.
-20/06/1720-Tàu Grand-Saint-Antoine đã đến Marseille vào ngày 25 tháng 5 năm 1720 từ Syria và mang theo bệnh dịch. Tàu này đã không tuân thủ các biện pháp phong tỏa nghiêm ngặt được yêu cầu bởi các quy định y tế. Bệnh dịch này đã giết chết hơn 100.000 người và được gọi là Đại dịch cúm Marseille
-03/06/1899-Ngày mất của nhạc sĩ người Áo Johann Strauss (sinh ngày 25/10/1825), nhà soạn nhạc của những điệu waltz nổi tiếng như “The Blue Danube” và vở ca kịch nhẹ “Colin-Maillard”.
-24/06/1901-Năm 19 tuổi, họa sĩ trẻ người Andalucia (Tây Ban Nha) Pablo Picasso đã trưng bày 64 tác phẩm của mình tại Paris.
04/06/1919-André Citroën biến nhà máy sản xuất nắp van lốp xe ô tô của mình thành một công ty sản xuất xe hơi. Mẫu xe đầu tiên được sản xuất là Citroën 10 HP Type A được sản xuất cho đến năm 1921, tối đa 100 xe mỗi ngày.
28/06/1919-Hiệp ước Versailles chính thức kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất. Đức trả lại Alsace và Lorraine cho Pháp và phải trả 132 tỷ mark vàng cho các đồng minh, tức là hơn 45.000 tấn vàng, một món nợ mà họ chỉ trả một phần.
–29/06/1900 Ngày sinh của nhà văn và phi công Antoine de Saint-Exupéry (mất 31/07/1944), tác giả của các tác phẩm “Hoàng tử bé” và “Cõi Người Ta”-
– Ngày lễ của Cha là một ngày lễ tôn vinh người cha trông gia đình , hoặc có liên quan đến vài trò làm cha, liên hệ đến người cha và ảnh hưởng của người cha trong xã hội. Ngày lễ Hiền Phụ trên thế giới là ngày Chủ nhật thứ ba của tháng 6, được Sonora Smart Dodd thành lập tại bang Washington, Hoa Kỳ vào năm 1910. Sonora Smart Dodd (18/2/1882 – 22/3/1978) là con gái của cựu chiến binh Nội chiến Hoa Kỳ William Jackson Smart,
-Marilyn Monroe – Norma Jeane Mortenson; (01/6/1926 – 05/8/1962) là một nữ diễn viên, người mẫu và ca sĩ người Mỹ. Năm 1999, Viện phim Mỹ xếp Monroe ở vị trí thứ sáu trong danh sách những nữ minh tinh màn ảnh vĩ đại nhất của Hollywood thời kỳ Hoàng kim.Đời tư của Monroe nhận được nhiều sự chú ý. Bà phải vật lộn với chứng nghiện ngập và rối loạn tâm trạng. Cuộc hôn nhân của bà với cựu ngôi sao bóng chày Joe DiMaggio và nhà viết kịch Arthur Miller được nhắc tới rất nhiều, và cả hai đều dẫn đến kết cục ly hôn. Vào ngày 4 tháng 8 năm 1962, bà qua đời ở tuổi 36 do dùng thuốc an thần quá liều tại nhà riêng ở Los Angeles- . Bà giành được giải Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất với bộ phim Some Like It Hot (1959), một thành công về mặt phê bình và thương mại. Tác phẩm cuối cùng của Monroe là bộ phim truyền hình The Misfits (1961).
Ernesto Guevara (14/6/1928 – 9/10/1967), thường được biết đến với tên Che Guevara, El Che hay đơn giản là Che, là một nhà cách mạng Mác-xít nổi tiếng người Argentina. Ông là một lý thuyết gia quân sự, nhà lãnh đạo phong trào cách mạng Cuba cùng đội quân du kích. Bức ảnh khuôn mặt ông đã trở thành một biểu tượng văn hóa phản kháng tượng trưng cho sự nổi dậy và một biểu hiệu toàn cầu trong văn hóa phổ thông.
–07/06/1929- Ngày thành lập nước Vatican mà Giáo hoàng là người có quyền tuyệt đối
— Eric Carle (25 /6/1929 – 23/5/2021) là một tác giả và họa sĩ minh họa cho văn học thiếu nhi Mỹ. Ong minh họa bộ sách của mình theo phong cách c riêng (kỹ thuật cắt dán). Các tác phẩm của ông đã đạt được thành công lớn và được dịch sang nhiều ngôn ngữ.
— Jean Lefèvre d’Ormesson, bá tước d’Ormesson, Jean d’Ormesson, Jean d’O, là một nhà văn, nhà báo và triết gia người Pháp, sinh ngày 16/6/1925 tại Paris và mất 2017. Ông là tác giả của khoảng bốn mươi cuốn sách, từ những bức bích họa lịch sử tưởng tượng lớn đến các bài tiểu luận triết học trong đó ông chia sẻ những suy tư của mình về sự sống, cái chết hoặc sự tồn tại của Thiên Chúa (Tôi sẽ nói bất chấp mọi thứ rằng cuộc sống này thật đẹp, & Một Ngày tôi sẽ Ra Đi mà chưa nói hết Mọi Điều -). Ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp năm 1973. Từ năm 1974-1977, ông cũng là giám đốc điều hành của báo Le Figaro. Được xem là đại sứ truyền thông của Viện Hàn Lâm Pháp trong hơn bốn mươi năm, ông đã có mặt rất nhiều trong các chương trình truyền hình văn học hoặc tổng quát, ông thường xuyên được mời vì sự uyên bác và nghệ thuật trò chuyện của mình.
–Anne Frank, sinh 12 /6/1929 tại Frankfurt am Main, Đức thuộc Cộng hòa Weimar, và mất năm 1945 tại Bergen-Belsen, Đức Quốc xã, là một cô gái người Đức nổi tiếng về nhật ký của cô (1947), được viết trong hai năm sống ẩn náu cùng gia đình ở Amsterdam, Hà Lan, khi đó đang bị Đức chiếm đóng, để thoát khỏi lệnh trục xuất mà sau này là bị tiêu diệt (Shoah).
–10/06/1934-Giải vô địch bóng đá nam thế giới lần thứ hai diễn ra tại Rome, Ý. Nó đặt Ý chống lại Tiệp Khắc. Đội tuyển Italia giành cúp với tỷ số 2-1.
–Đêm 29-30/6/1934, Hitler đã sát hại hơn một nghìn người. Các đội sát thủ SS nhận được lệnh nhiệm vụ của họ để loại bỏ đối thủ của nó: đó là “đêm của những con dao dài”.
— 21/06/1935- Ngày sinh của Françoise Quoirez, nhà văn Françoise Sagan, với tiểu thuyết đầu tay của cô biểu lộ một tài năng lớn, “Bonjour tristesse”(Buồn Ơi , Chào Mi) được chuyển thể cho điện ảnh, truyền hình, truyện tranh và thậm chí cả đài phát thanh.
–06/06/1941 Hoảng loạn trong hầm trú bom giết chết 4.000 người ở Trùng Khánh, Trung Quốc.
–18/06/1942 Ngày sinh của ca sĩ kiêm nhạc sĩ đa năng Paul McCartney, cựu thành viên của The Beatles do ông thành lập cùng với John Lennon, George Harrison và Ringo Starr.
–06/ 6/1944 156.000 binh sĩ thuộc quân đội Mỹ, Anh và Canada đổ bộ vào Normandy, trên các bãi biển Sword beach, Juno Beach, Gold beach, Omaha beach và Utah beach. Ngày lịch sử này được gọi là “D-Day” ở Hoa Kỳ, “Jour J” và “Longest Day” Ngày Dài Nhất – ở Pháp.
The Longest Day là bộ phim chiến tranh dựa trên cuốn sách lịch sử The Longest Day của Cornelius Ryan, về D-Day, bờ biển Normandy vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là trận đánh đưa đến bước ngoặt của Thế chiến thứ II, đánh dấu sự bắt đầu của những thất bại của quân Đức sau này. Phim này khác những phim về thế chiến thứ hai ở chỗ là khán giả sẽ hiểu về cuộc chiến từ cả hai phía là quân Đồng minh và Phát xít Đức. Khi xem xong phim thì sẽ thấy nội dung của phim cực kỳ sâu sắc, đã thể hiện chân thực nhất những gì diễn ra ở trận Normandy lịch sử. Phim giành 2 giải Oscar và 5 đề cử, và đứng vị trí thứ nhất trong top 50 phim chiến tranh hay nhất mọi thời đại. (theo wiki)
— Benazir Bhutto sinh 21/6/1953 tại Karachi, bị sát hại ngày 27/12/2007 tại Rawalpindi, là một nữ chính khách Pakistan. Bà là Thủ tướng từ năm 1988 -đến 1990 và từ 1993 đến 1996.
— Tháng 6/1949: Pháp đưa cựu hoàng Bảo Đại lên làm quốc trưởng.
15/06/1954- Thành lập Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) tại Basel, Thụy Sĩ. Cơ quan này đã tổ chức giải vô địch bóng đá châu Âu bốn năm một lần kể từ năm 1960.
–11/06/1955- Tại giải Le Mans 24 giờ, một chiếc Mercedes lao xuống đường khiến 82 người thiệt mạng.
— 11/6/1963: Hòa Thượng Thích Quảng Đức 73 tuổi, thế danh Lâm Văn Tức, là một nhà sư Phật giáo Đại thừa người Việt Nam, đã tẩm xăng tự thiêu tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng, Sài Gòn (nay là ngã tư đường Cách Mạng Tháng 8 và Nguyễn Đình Chiểu, Q 3) nhằm phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính quyền Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, khiến các Phật tử khác cũng làm theo trong những tuần sau đó. Lòng tin vốn đã suy giảm của Hoa Kỳ đối với sự lãnh đạo của ông Diệm lại tiếp tục trượt dốc. Tấm ảnh chụp ông tự thiêu đã được truyền đi khắp thế giới và gây nên sự chú ý đặc biệt tới chính sách của chế độ Ngô Đình Diệm. Phóng viên Malcolm Browne đã giành Giải thưởng Ảnh Báo chí Thế giới năm 1963 nhờ bức hình chụp cảnh Thích Quảng Đức tự thiêu, và nhà báo David Halberstam được trao giải Pulitzer, cũng đã có bản tường thuật sự kiện. Sau khi chết, thi hài của ông đã được hỏa táng, nhưng trái tim của ông thì vẫn còn nguyên. Đây được coi là xá lợi biểu tượng của lòng từ bi, dẫn đến việc giới Phật tử suy tôn ông thành một vị Bồ Tát.
–12/6/1964 Tại Nam Phi, Nelson Mandela bị kết án tù chung thân. Ông sẽ được trả tự do vào ngày 11 tháng 2 năm 1990.
— Chiến tranh Việt Nam–9 ->13/6/1965.Trận Đồng Xoài: Khoảng 1.500 Việt Cộng tấn công bằng súng cối vào Đồng Xoài, đánh chiếm sở chỉ huy quân sự và khu dân quân liền kề.
— Tháng 6 năm 1965: Tướng Nguyễn Văn Thiệu của Quân Lực Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa (ARVN), trở thành tổng thống của miền Nam Việt Nam.
– Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa được tổ chức hàng năm, lần đầu tiên vào ngày 19 tháng 6 năm 1965. Đó là ngày mà tập thể chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa chính thức lên nắm giữ vai trò cùng một lúc cả nhiệm vụ quân sự lẫn vai trò hành chánh tại Miền Nam Việt Nam qua buổi lễ ra mắt trước quốc dân và quốc tế Ủy ban Lãnh Ðạo Quốc gia (do Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch) và Ủy ban Hành Pháp Trung ương (do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch) tại thủ đô Sài Gòn.
Sau Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 khi chinh phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và từ ngày 2 tháng 7 năm 1976, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nắm quyền, Ngày này được tổ chức tại các thành phố ở các quốc gia nơi có đông người Việt tị nạn Cộng sản sinh sống, như ở thành phố Westminster, Nam California.
Ngày Cựu Chiến Binh QLVNCH:
Thông cáo báo chí của Thượng nghị sĩ Tom Umberg cho biết Quốc hội California qua Nghị Quyết SCR 86 công nhận và kỷ niệm ngày 19 Tháng Sáu, 2019, là Ngày Cựu Chiến Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhằm tưởng niệm sự hy sinh dũng cảm và những đóng góp to lớn của những cựu chiến binh người Mỹ gốc Việt ở California và ở nước ngoài.
–29/06/1966- Hoa Kỳ tiến hành các cuộc không kích đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam.
–Tháng 6, 1968-1972: Tướng William Westmoreland, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, được thay thế Tướng Creighton Adams.
-06/6/1968: Ứng cử viên tổng thống của đảng Dân chủ Robert F. Kennedy bị sát thủ đơn độc ám sát ở California.
–08/6/1969- Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Tổng thống Nam Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu gặp nhau tại Đảo Midway. Nixon tuyên bố rằng 25.000 lính Mỹ sẽ được rút về vào tháng Chín.
–03/6/1969: Quân đội Bắc Việt Nam bắt đầu tiếp cận thủ đô Phnom Penh của Campuchia, nhưng bị chặn lại bởi các cuộc không kích của Hoa Kỳ.
– Tháng 6 năm 1971: Thời báo New York đăng một loạt bài chi tiết về các tài liệu bị rò rỉ của Bộ Quốc phòng về cuộc chiến, được gọi là Hồ sơ Lầu Năm Góc. Báo cáo cho thấy chính phủ Hoa Kỳ đã nhiều lần và bí mật gia tăng sự can dự của Hoa Kỳ vào cuộc chiến.
–08/06/1972-Bức ảnh mang tính biểu tượng về một cô gái bị bỏng nặng do bom napalm và khỏa thân chạy trên một con đường đã được truyền đi trên khắp thế giới, mô tả sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam hơn bất cứ điều gì.
–10/6/1977-Tập đoàn Apple phát hành Apple II, máy tính cá nhân đầu tiên được giới thiệu trên thị trường đại chúng.
–22/06/1986 -Trong trận tứ kết World Cup 1986 giữa Argentina và Anh, Diego Maradona đã đi vào lịch sử bóng đá nhờ hai bàn thắng: bàn đầu tiên, từ bàn tay, nhưng được xác nhận bởi trọng tài, mà chính ông mô tả là ” Bàn tay của Chúa”, bàn thắng thứ hai, kỳ diệu, được bình chọn là đẹp nhất trong lịch sử Giải bóng đá thế giới và là “bàn thắng của thế kỷ”.
–04/06/1989-Trên quảng trường Thiên An Môn, quân đội Trung Quốc đã đàn áp đẫm máu phong trào biểu tình diễn ra từ ngày 15/4. Số người chết liên quan đến các sự kiện này dao động trong khoảng từ 241 đến 7.000 tùy vào các nguồn.
–21/06/1990-Tại Iran, một trận động đất mạnh 7,7 độ richter đã khiến từ 35.000 đến 50.000 người chết và 400.000 người mất nhà cửa. Chính phủ buộc phải chấp nhận sự giúp đỡ từ kẻ thù Iraq và Hoa Kỳ.
–22/06/1990-Sáu tháng sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, trạm kiểm soát “Checkpoint Charlie” nằm giữa phía đông và phía tây thành phố chính thức bị dỡ bỏ.
–30/06/1991-Sau 43 năm, chế độ phân biệt chủng tộc apartheid đã bị xóa bỏ ở Nam Phi nhờ quyết tâm của Nelson Mandela, được ra tù vào ngày 11/02/1990.
–25/06/1997- Ngày mất của Jacques-Yves Cousteau, nhà thám hiểm và làm phim dưới đáy biển, –Jacques-Yves Cousteau (11/6/1910 – 25/6/1997) là một sĩ quan hải quân và nhà thám hiểm hải dương học người Pháp, đạo diễn năm 1976 của bộ phim tài liệu “Cuộc thám hiểm dưới Đáy Biển”, ông thuật lại chuyến thám hiểm của mình tới Nam Cực trên tàu Calypso. Với biệt danh ” thuyền trưởng Cousteau”, “JYC” hoặc “Pasha” hạm trưởng, ông được biết đến vì đã cải tiến với Émile Gagnan nguyên lý của bộ đồ lặn tự động với việc phát minh ra bộ giảm áp mang tên họ, một bộ phận thiết yếu của thợ lặn hiện đại.
–19/06/2000 -Thi thể của 58 người Á Đông (Việt Nam) nhập cư bất hợp pháp chết vì ngạt thở được phát hiện trong một chiếc xe tải ở Dover, Vương quốc Anh.
— 01/06/2008 – Ngày mất của nhà sản xuất quần áo nữ nổi tiếng người Pháp Yves Saint-Laurent, công ty của ông bao gồm cả những công ty may mặc thời trang cao cấp ở Paris và quần áo may sẵn; ông bị vỡ nợ, và năm 1993 Elf đã mua lại, công ty do nhà nước Pháp sở hữu 80%.
–21/06/2008-Bão Fengshen gây sóng lớn ở Philippines, đánh chìm phà Princess of the Stars-Công Chúa của những Vì Sao- ngoài khơi đảo Sibuyan. Số người chết là hơn 800 nạn nhân.
— 01/06/2009-Một chiếc Airbus A330 bay từ Rio de Janeiro đến Paris đã biến mất giữa Đại Tây Dương, làm 228 người thiệt mạng. Chỉ có 153 thi thể được tìm thấy hai năm sau đó. Một tấm bia tưởng nhớ các nạn nhân được dựng ở Nghĩa địa Père-Lachaise.
–25/6/2009- Ngày mất của ca sĩ, nhà soạn nhạc, vũ công và diễn viên người Mỹ Michael Jackson (sinh ngày 29/8/1958), tác giả của các albums “Thriller”, “Bad”, “Dangerous” và “Invincible”.
–18/06/2015 – Kỷ niệm 200 năm Trận chiến Waterloo, với sự tái tạo ngoạn mục tại chính địa điểm diễn ra sự kiện.
–06/03/2016- Ngày mất của võ sĩ quyền anh người Mỹ Mohamed Ali (tên khai sinh là Cassius Clay vào ngày 17 tháng 1 năm 1942), được biết đến nhờ những thành tích thể thao cũng như sự tỏ thái độ rõ rệt chống lại Chiến tranh Việt Nam và nạn phân biệt chủng tộc.
-28/06/2019- Giữa một đợt nắng nóng, kỷ lục nhiệt độ cao ở Pháp là Gallargues-le-Montueux, vùng Gard, với nhiệt độ 45,9°C lúc 4:21 chiều.
-06/12/2020- Cảnh sát Garett Rolfe giết người Mỹ gốc Phi Rayshard Brooks -đang cố chạy trốn sau khi bị bắt. Thảm kịch này khơi lại các cuộc biểu tình của phong trào “Black Lives Matter”.
-15/06/2020-COVID-19: Tại Trung Quốc, thủ đô Bắc Kinh, tình hình được ghi là “cực kỳ nghiêm trọng” với thêm 27 ca. Tại Pháp, tình hình được coi là đã được kiểm soát với 152 ca mới được xác nhận trong 24 giờ. Tại Ấn Độ, 11.000 ca mới được ghi nhận trong ngày 15/6.
–17/06/2022 -Tại Clisson, từ 17 đến 19/6 và từ 24 đến 26/6/2022, lễ hội Hellfest của âm nhạc kích động mạnh (hard rock, heavy metal, black metal, hardcore punk, v.v.) trở thành lễ hội lớn nhất nước Pháp với 420.000 mục.
–27/06/2022- Khoảng 50 người di cư được phát hiện chết trong một chiếc xe tải ở San Antonio, Hoa Kỳ, chết ngạt đó nắng nóng quá mức.
–Tháng 6 năm 2026 Giải vô địch bóng đá nam thế giới lần thứ 23 sẽ diễn ra vào tháng 6 và tháng 7 năm 2026, tại Bắc Mỹ, tại 16 thành phố khác nhau của Hoa Kỳ, Canada và Mexico. Sẽ có 48 đội tham dự thay vì 32 như trước đây.
Tháinữlan sưu tầm & dịch
Đường Đến D Day
Phong Châu
Có lẽ mưa đã đổ xuống thành phố Paris vào lúc ban khuya nên khi tôi choàng tỉnh dậy lúc năm giờ sáng, ra khỏi giường để bước tới cửa sổ vén màn che nhìn ra ngoài thì thấy trời vẫn còn mưa. Mưa không lớn. Mưa lất phất khiến tôi nhớ đến những cơn mưa âm ỉ kéo dài lê thê suốt ngày đêm vào mùa hạ ở Đà Lạt cách nay hơn nửa thế kỷ. Nhìn xuống mặt đường nhựa xám xịt ướt đẫm, tôi nhẹ mở hé cánh cửa, đưa tay ra ngoài và thấy có gió nhẹ. Tôi nghĩ đến chuyện phải mang theo chiếc dù và mặc áo lạnh lát nữa đây khi rời khách sạn.
Chúng tôi rời khách san lúc 6 giờ sáng khi trời vẫn còn mưa. Theo chỉ dẫn của nhân viên khách sạn, chỉ chừng hai mươi phút sau là chúng tôi đến ga xe lửa Austerlitz. Chúng tôi vào phòng vé mua hai vé đi đến ga Garancières – một thị trấn nhỏ với chỉ hơn hai nghìn dân nằm về hướng đông bắc của thủ đô Paris chừng hơn bốn mươi cây số. Chúng tôi sẽ xuống ga Garancières như đã hẹn với Dũng để được Dũng đưa vợ chồng chúng tôi đi thăm Normandy, nơi đã diễn ra cuộc đổ bộ của quân đội Hoa Kỳ và đồng minh vào ngày 6 tháng 6 – 1944 để giải phóng nước Pháp đang bị quân phát xít Đức chiếm đóng. Hôm tình cờ gặp vợ chồng Dũng trong một quán ăn ở quận 13 và làm quen để hỏi thăm cách đi metro và được đôi vợ chồng rất tử tế này chỉ dẫn cặn kẽ và rất ưu ái với vợ chồng chúng tôi những ngày sau đó. Tôi có ngỏ ý muốn đến thăm Normandy thì Dũng đã vui vẻ hứa là sẽ đưa chúng tôi đến đó. Nhà Dũng ở trong ngôi làng nhỏ Garancières gần trên đường đi đến Normandy. Lý do chúng tôi phải đáp chuyến tàu đi đến ga Garancières là như thế.
Cầm hai chiếc vé tàu hỏa trên tay, chúng tôi khá vất vả mới tìm ra được chuyến tàu chạy đến Garancièces vì ở ga Austerlitz có cả hàng trăm chuyến tàu chạy đi khắp các ngả đông tây nam bắc của thủ đô Paris. Cuối cùng chúng tôi cũng bước lên được toa cuối của đoàn tàu và tìm chỗ ngồi trên những dãy ghế còn rất nhiều chỗ trống. Lúc đó đồng hồ chỉ 7 giờ 25. Đúng 7 giờ 30 tàu chuyển bánh dưới mưa. Trên toa tàu chúng tôi ngồi, ngó lui dòm tới thấy có chừng hơn mười hành khách vừa Tây đầm trắng vừa Tây đầm đen cùng với vợ chồng tôi – mít vàng. Chắc họ theo chuyến xe lửa để đi làm ở ngoài khu vực Paris. Mặt người nào trông cũng lạnh lùng. Khi đã yên vị chỗ ngồi, họ lập tức mở sách hoặc báo ra đọc, vài người vẫn còn kẹp ổ bánh mì bên nách. Họ không nói chuyện ồn ào. Họ cũng chẳng cười hay chào hỏi ai. Họ rất lặng lẽ. Tôi ở Paris cả tuần, đi nhiều nơi như vào các cửa hàng hoặc tiệm ăn nhưng chưa bao giờ nghe được hai chữ “bonjour” hay nhận được một nụ cười trừ các nhân viên ở khách sạn.
Bầu trời đen nghịt. Tàu có cửa kính trong suốt nên có thể nhìn ra bên ngoài để thấy cảnh vật hai bên cứ chạy thụt lùi ra phía sau đoàn tàu. Những lâu đài, dinh thự màu xám cổ điển bám chặt dưới nền bê tông cả mấy thế kỷ trước cũng lùi dần rồi biến mất, để lại những ruộng lúa, vườn cây xanh tươi cùng với những khu nhà mái thấp màu đỏ tân thời. Ngoài việc nhìn cảnh vật bên ngoài, chúng tôi cũng chăm chú để tìm bảng đề tên ga Garancièces hầu xuống cho đúng chỗ như lời dặn của Dũng. Khoảng chừng ba mươi phút sau chúng tôi nhìn thấy bảng ghi Garancièces và vài phút kế thì tàu chạy chậm lại và dừng hẳn trước sân ga. Một cảm giác thật lạ đến với tôi là thị trấn Garancièces chỉ cách Paris chừng bốn chục cây số mà sao lại vắng vẻ đến thế! Dưới sân ga không có lấy một bóng người. Chúng tôi vội bước xuống tàu cùng với ba hành khách khác, đảo mắt nhìn ra xa tứ phía cũng chẳng thấy có người qua lại. Ba hành khách đi về phía bên trái đoàn tàu để đi ra con đường nhựa bên ngoài mấy hàng cây rồi biến mất dưới cơn mưa.Tôi đi về hướng nhà ga và nhận ra có một dãy nhà năm căn trong đó có một căn treo bảng bán cà phê sandwishes. Kế đó là một nhà nhỏ màu xám hình chữ nhật cửa đóng kín mà khi vào gần thì thấy phía trước có một tấm bảng dán thông cáo yết thị của nhà ga. Chiếc đồng hồ gắn phía trước tường nhà ga chỉ tám giờ rưởi. Tôi nhìn quanh không thấy trạm điện thoại đâu, đến gần dãy nhà năm căn cũng không thấy nên quay lại nơi có dán bảng yết thị thì thấy cửa văn phòng nhà ga đã mở và một phụ nữ chừng năm mươi tuổi nhìn ra hỏi tôi cần gì. Tôi nhờ bà ta chỉ nơi có trạm điện thoại, bà chỉ ra phía trái, bên hông văn phòng. Tôi gọi điện thoại cho Dũng để báo là chúng tôi đã đến ga Garancièces. Dũng bảo chừng bảy phút nữa sẽ có mặt để đón chúng tôi. Thời gian chúng tôi có mặt trên sân ga Garancièces khoảng chừng hai mươi phút nhưng tuyệt nhiên vẫn không thấy có một bóng người nào lai vảng ở khu vực nhà ga. Còn sớm quá chăng?

Ga Garancières
Dũng đến đúng giờ đã hẹn và mời chúng tôi lên xe lái đi một quãng rồi ghé vào một trạm xăng để đổ. Tôi dành trả tiền nhưng Dũng không chịu. Dũng bảo với chúng tôi “trên đường đến Normandy, sẽ ghé viếng hai nơi”. Chúng tôi rất mừng được vợ chồng Dũng không những hướng dẫn cách di chuyển bằng các phương tiện giao thông tại Paris mà còn đón chúng tôi để chở đi thăm vài nơi vào các ngày trước đó.
Trước tiên Dũng đưa chúng tôi đến một ngôi làng mang tên Boissy-Sans-Avoir. Xe chạy quanh co bên ruộng vườn cây trái sâu vào trong làng. Đến khi xe dừng lại thì Dũng cho chúng tôi biết là sẽ ghé thăm ngôi mộ của nữ minh tinh điện ảnh người Đức (sinh ở Áo) đã làm vang danh cho nền điện ảnh Pháp vào những thập niên 50 – 60 -70. Đó là minh tinh Romy Schneider, sinh năm 1938 và bước vào ngành điện ảnh lúc mới 15 tuổi. Tài năng và danh vọng của cô đồng hành với sự hâm mộ của khán giả khắp năm châu. Đặc biệt với bộ phim có tựa đề “Nữ hoàng Áo – Syssi” và nhiều phim khác đã từng được chiếu tại Miền Nam Việt Nam trước đây. Nhưng về mặt tình cảm thì hạnh phúc không đồng hành với Romy Schneider. Cô lập gia đình và có hai người con. Mối tình giữa cô và tài tử đẹp trai Alain Delon mang lại cho cô lắm đắng cay nghiệt ngã. Cho đến khi người con trai của cô chết vì tai nạn thì cô đã đi đến tận cùng của sự thất vọng ê chề để rồi nghiện ngập và đau bệnh chết trong sự vật vã cô đơn. Mưa rơi nhẹ trên ngôi mộ làm bằng đá marble màu xám. Một tấm hình đen trắng đặt giữa những chậu hoa hãy còn tươi. Hình như ngôi mộ thường xuyên có người chăm sóc và đặt hoa. Chúng tôi rời mộ phần của Romy Schneider với lòng thương cảm cho giai nhân “tài hoa bạc mệnh”.

Romy Schneider và mộ phần ở Boissy-Sans-Avoir
Rời Boissy-Sans-Avoir Dũng tiếp tục lái xe chạy vào các con đường làng được trang điểm bằng những ngôi nhà nhỏ kiểu thời trung cổ ở các miền quê Âu Châu cùng với những vườn cây xanh và vô số những loài hoa leo bám vào tường làm thành một bức tranh màu sắc hài hòa nhưng cũng không kém phần rực rỡ. Những con đường vòng rẻ trái rẻ phải, lúc bám lên dốc, lúc đổ xuống đồi thật thơ mộng chỉ vừa đủ cho hai chiếc xe nhỏ tránh nhau. Đến ngôi làng có tên Lisieux Dũng hướng dẫn chúng tôi thăm ngôi nhà của vị nữ thánh công giáo Sainte Thérèse. Dũng kể cho chúng tôi nghe về vị nữ thánh này. Đây là ngôi nhà nơi Marie Francoise – Thérèse Martin (Maison De Ste.Thérèse) chào đời năm 1873. Bà đi tu năm 15 tuổi và hiểu biết sâu sắc về đời sống tâm linh và thường nhắc đến Thiên đàng. Chưa đến giờ mở cửa nên chúng tôi chỉ đi quanh bên ngoài bức tường gạch đỏ có dàn cây leo che phủ. Bên ngoài tường rào có một khoảng đất nhỏ dựng tượng của vị nữ thánh màu trắng, dưới chân tương thấy có cả hàng trăm tấm bảng nhỏ ghi những lời tạ ơn và nhiều bó hoa vẫn đang còn tươi.


Từ giã ngôi nhà của nữ thánh Thérèse, Dũng tiếp tục lái trên đoạn đường còn lại để đến Normandy. Đoàn đường này dài khoảng 140 km và với tốc độ vừa phải nên phải mất hơn hai tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới đến Normandy – vào khoảng hai giờ chiều. Bầu trời trong vắt và nắng chan hòa khắp nơi. Dọc đường Dũng kể cho chúng tôi nghe về một số sinh hoạt của người Việt tại Pháp và một vài mẫu chuyện về thân thế của Dũng – là cháu thuộc dòng tộc của hoàng hậu Nam Phương. Dũng cho biết có một người cậu định cư ở Texas nhưng chưa liên lạc được. Đó là bác sĩ Nguyễn Văn Thơ từng là bộ trưởng bộ giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, cũng là hội trưởng Hội Hướng Đạo Viêt Nam trước tháng tư năm 1975. Tôi nói tôi biết gia đình bác sĩ Nguyễn Văn Thơ, ông đã mất năm 2001 và tôi chơi thân với một người con của bác sĩ là anh Phillip Thọ. Dũng có nhờ tôi về Texas gặp gia đình bác sĩ Thơ rồi cho anh biết để nối lại liên lạc. Tôi đã làm đúng như lời hứa và về sau Dũng đã liên lạc đều đặn với gia đình bác sĩ Thơ.
Ghé vào quán nước giải khát nghỉ ngơi chừng ba mươi phút, hai vợ chồng tôi bắt đầu đi bộ dọc theo bãi biển Normandy để xem tận mắt những gì còn lưu giữ dọc theo bãi biển, leo lên vùng đồi cao xem những pháo đài kiên cố của Đức và những nòng súng đại bác còn chỉa thẳng xuống bãi biển, các tượng đài, khu vực hầm hố phòng thủ, chiến xa…cùng các phương tiện chiến tranh của phát xít Đức cũng như của quân đội đồng minh để lại sau ngày D Day. Dũng ngồi nghỉ trong quán nước.
Bãi biển Normandy chạy dài cả chục cây số nhưng chúng tôi chỉ đi xem khu vực chính ở Omaha Beach dài chừng hơn một cây số dưới ánh nắng gắt. Xem các chứng tích lịch sử nhân loại diệt phát xít, hồi tưởng bài học lịch sử đã học thời trung học, nay mới thấy được cảnh vật của một trận chiến lớn nhất trong lịch sử nhân loại ở thế kỷ 20 với cả ngàn máy bay xe tăng tàu chiến cùng với hai trăm ngàn quân của các nước Mỹ, Anh, Canada, Úc, New Zealans, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Hy Lạp, Hà Lan, Ba Lan và Tiệp Khắc… Có hơn bốn ngàn binh sĩ chết trên bãi biển và đồi núi để tiến vào các thành phố, làng mạc giải phóng nước Pháp và toàn cõi Âu Châu. Hai chữ “giải phóng” thực sự có ý nghĩa chứ không phải là “giải phóng” bằng cách đưa quân đi xâm lăng như trường hợp quân bắc việt xâm lăng Miền Nam Việt Nam và gần đây nhất là Nga đã đưa hai trăm nghìn quân sang xâm lăng Ukraine vào tháng hai năm 2022. Cả hai cuộc xâm lăng này chúng gọi là “giải phóng”. Khoảng bốn giờ chiều Dũng hướng dẫn chúng tôi vào xem bảo tàng viện Normandy trưng bày các tài liệu, sơ đồ, khí tài xử dụng trong cuộc đổ bộ Normandy. Qua đó cá nhận tôi nhận ra được bài học vô nghĩa của chiến tranh đã gieo bao tang tóc cho nhân loại. Ra khỏi bảo tàng viện chúng tôi đi xem nghĩa trang của người Mỹ (Normandy American Cemetery) nơi chôn cất những quân nhân Mỹ đã hy sinh trong cuộc đổ bộ Normandy vào mùa hè 1944. Hàng hàng những chiếc thánh giá màu trắng trên có ghi tên và nơi sinh quán cùng ngày tử trận của các binh sĩ Hoa Kỳ tại Normandy được dựng trên nền cỏ xanh mướt và mịn như thảm nhung nằm bên bờ Đại Tây Dương với những hàng thông xanh rì rào gió thoảng tựa như những tiếng thở ai oán của muôn ngàn hồn tử sĩ quanh quất đâu đây…
Đúng năm giờ chiều chúng tôi được chứng kiến cảnh “hạ kỳ” với đầy đủ nghi thức của quân đội Mỹ. Nghi lễ thật trang nghiêm và cảm động. Lại lan man nghĩ tới nghĩa trang Biên Hòa, nơi an nghỉ của những người đã chiến đấu để bảo vệ Miện Nam Tự Do đã biến thành bãi đất hoang bởi bàn tay của những kẻ xâm lược.

Trước khi rời Normandy, vợ chồng tôi mời Dũng đến một quán ăn để ăn chiều trước khi trở lại Paris. Có vài chục quán ăn nằm san sát bên nhau. Vào quán nghe các nhân viên lúc thì nói tiếng Pháp (dĩ nhiên) có lúc nói tiếng Anh với thực khách. Hỏi chuyện thì mới biết là các quán ăn nơi đây đều do vợ của những người lính Mỹ đã tử trận trên trận địa Normandy ngày nào. Sau khi chiến tranh chấm dứt họ đã xin sang định cư tại nơi đây để gần với những người chồng, người yêu đã hy sinh và được chôn cất trong nghĩa trang Normandy. Phần lớn thức ăn trong quán là các món hải sản vùng Đại Tây Dương hoàn toàn nấu theo kiểu của người Pháp. Du khách sau chuyến viếng thăm hầu như không quên ghé các quán để thưởng thức hương vị đặc sản miền biển nước Pháp. Đặc biệt những du khách từ Hoa Kỳ đến – như vợ chồng chúng, vừa được thương thức các món ăn ngon lại vừa biết được câu chuyện rất cảm động chứa chan tình người, tình vợ chồng của phụ nữ Mỹ đã bỏ quê hương xứ sở để được sống gần với những ngôi mộ của người thân. Họ đã có ba thế hệ cùng sống trên mảnh đất Normandy này.
Trên đường về Dũng kể cho chúng tôi nghe thêm vài mẫu chuyện về hoàng hậu Nam Phương và vua Bảo Đại. Dũng trả chúng tôi về lại khách sạn. Thủ đô Paris rực sáng và phản chiếu trên dòng sông Seine lấp lánh…
Tôi quen và biết nhiều người đã từng đi du lịch Ân Châu trong đó có nước Pháp, có người đi nhiều lần. Họ đi thăm nhiều nơi nhưng khi tôi hỏi họ có bao giờ đến thăm Normandy chưa. Họ đều trả lời: chưa bao giờ!

Phong Châu
Vịt Mồng Năm
Phong Châu
Vịt Mồng Năm
Tôi và Hà Thái Trường cùng dạy học tại trường tư thục Việt Anh mà hiệu trưởng là thầy Lê Phỉ, cũng là một Trưởng Hướng Đạo. Tôi là Thiếu trưởng Thiếu đoàn Lê Lợi, còn Trường là bầy trưởng Ấu đoàn Lê Lai. Sau khi thành phố Đàlạt giao cho Hướng Đạo Lâm Viên căn nhà bằng gỗ ở hồ Xuân Hương để đổi ngôi nhà lâu nay là Đạo quán ở số 28 đường Lý Thái Tổ thì tôi và Trường được anh Đạo trưởng lúc bấy giờ là Trưởng Phan Như Ngân và các Trưởng trong Đạo giao cho hai chúng tôi ở tại đó để trông coi Đạo quán.
Người Đàlạt và những ai đã từng đặt chân đến đây chắc chắn không thể nào không nhớ đến căn nhà màu xanh nằm ngay bùng binh gần Đồi Cù ở đầu con đường chạy lên Viện Đại Học Đàlạt, đường Phù Đổng Thiên Vương. Cũng có một con đường chạy từ bùng binh đến một ngả ba thì chia làm ba nhánh, nhánh trái là đường Phan Bội Châu chạy lên khu Hòa Bình, nhánh giữa là đường Cộng Hòa – một con đường thơ mộng chạy ôm theo hai bên sườn đồi lúc nào cũng rợp bóng mát của rừng thông. Đường Cộng Hòa được nhiều người Đàlạt cho là con đường đẹp và thơ mộng nhất của thành phố Hoa Anh Đào dẫn đến tư dinh của các vị thị trưởng thành phố. Nhánh thứ ba nằm dưới thấp là đường Võ Tánh, quanh co mấy khúc rồi chạy ngang đến trường nữ trung học Bùi Thị Xuân để giáp với đường Phù Đổng Thiên Vương nằm dưới chân đồi của Viện Đại Học Đàlạt.
Những khách nhàn du dạo Bờ Hồ đi từ khu Hòa Bình xuống hay từ trong chợ ra đều phải đi ngang qua nhà hàng Thanh Thủy nằm ẩn mình dưới những tàn cây tùng già vươn ra mặt hồ soi bóng nước. Đi thêm khoảng trăm mét sẽ là bùng binh phun nước và chỉ cần bước xuống mạn hồ chừng năm bước là đến Đạo quán của Hướng Đạo Lâm Viên sơn màu xanh và các cửa chung quanh đều được lắp bằng kiếng. Đứng bên ngoài Đạo quán nhìn vào cũng có thể thấy những hình ảnh hoa văn Hướng Đạo với nhiều màu sắc tươi vui được vẽ trên kiếng.
Các Trưởng Hướng Đạo thường có mặt tại Đạo quán trong những lần họp định kỳ hàng tháng hoặc những ngày lễ hội Hướng Đạo. Đặc biệt các Trưởng trẻ đồng thời với tôi và Trường thường xuyên ghé lại thăm chơi, trò chuyện, ăn uống và còn ở lại đêm với chúng tôi. Thật là một địa điểm lý tưởng để bọn trẻ chúng tôi túm tụ chơi đùa, nghịch phá và thỏa thích bày nhiều trò chơi trên mặt nước hồ Xuân Hương. Có hai người thường xuyên có mặt với chúng tôi tại Đạo quán là Nguyễn Đức Quang và Đoàn Chiêm. Quang là Akela bầy Ngàn Thông và Chiêm là Baloo. Bốn chúng tôi (Trường – Chiêm – Châu – Quang) là anh em kết nghĩa. Thực ra chúng tôi có đến năm anh em. Anh Cả là Nguyễn Ngọc Phước cũng từng là bầy trưởng Ngàn Thông trước khi nhập ngũ vào Thủ Đức. Chúng tôi tạo được một tiểu gia đình để sinh hoạt với nhau trong tình huynh đệ Hướng Đạo.
Tôi nhớ rất rõ, hôm ấy nhằm ngày chủ nhật giữa tháng sáu – 1964, nhằm ngày mồng năm tháng năm âm lịch tết đoan ngọ năm Giáp thìn. Vào khoảng một giờ trưa, bốn anh em chúng tôi đang ngồi ăn cơm, vừa ăn vừa chuyện trò vừa nhìn ra ngoài khung cửa kiếng ngắm mặt hồ trong xanh. Bên kia hồ là con đường nhựa chạy về hướng sân vận động thị xã, con đường này còn chạy thẳng tới ga xe lửa và tiếp với con đường đưa đến ấp Cô Giang, đi tiếp sẽ đến ấp Chi Lăng, hồ Than Thở. Vào giờ đó người đi trên đường còn khá tấp nập dưới bầu trời mùa hè nắng ấm. Hơn nữa lại là ngày chủ nhật và cũng đúng vào ngày “tết đoan ngọ” nên người ta đi chợ mua sắm khá đông. Những chiếc áo dài và những chiếc dù đủ màu di động càng làm cho cảnh sắc ven hồ trở nên vui tươi sinh động thêm.
Ở Đàlạt dạo ấy rất nhiều gia đình còn giữ lệ cúng tết đoan ngọ nên các bà các chị đi chợ mua sắm lễ vật rất đông. Số lượng người đi chợ gia tăng thấy rõ và hầu hết là đi bộ. Từ nhà lội bộ đến chợ năm ba cây số là chuyện rất thường đối với các bà nội trợ vì thời gian đó chưa có phương tiện chuyên chở công cộng như xe lam chạy trên các nẻo đường đến năm 1965 mới có (chương trình của ông Nguyễn Cao Kỳ giúp dân có phương tiện xe lam để làm ăn). Riêng xe đò chỉ có các đoạn đường xa mới có như Chi Lăng, Tùng Lâm, Tùng Nghĩa. Chủ nhật cũng là ngày nam thanh nữ tú kéo nhau ra dạo phố, lại thêm các sinh viên trường Võ Bị Quốc Gia, trường Đại Học Quân Sự, các nữ sinh trường Couvent des Oiseaux, trường Franciscan…khiến cho ngày chủ nhật trở thành một ngày vui của đám trẻ thời bấy giờ. Họ đi để mà đi, thang lang quanh phố Hòa Bình hay vào lầu chợ, mua sắm thì ít mà để ngắm nhau thì nhiều. Có nhiều anh chị cứ đi vòng vòng khu Hòa Bình từ sáng đến chiều mà không biết chán, đi một mình cũng có, đi toàn phái nam cũng có, toàn phái nữ cũng có. Đi để ngắm nhan sắc của nhau là một điều thú vị. Họ đi như đang đuổi bắt nhau, chạm mặt nhau, nhìn nhau cười cười nói nói, liếc nhau hay ngắm trộm nhau cũng vui. Các cô thiếu nữ má hồng lúc nào cũng duyên dáng dễ thương và kín đáo trong những chiếc áo dài tha thướt với chiếc áo laine bên ngoài. Các bà nội trợ đi chợ lúc nào cũng áo dài tươm tất chẳng khác nào những cô gái đang tuổi thanh xuân.
Đối diện với căn nhà nhỏ của chúng tôi, bên kia hồ là ngôi biệt thự màu trắng ẩn mình trên triền dốc đồi thông. Đó là biệt thự của dược sĩ Trang Hai, sau trở thành dân biểu hạ viện. Trên đường chúng tôi thấy có nhiều bà nhiều cô đi chợ về tay xách những giỏ thức ăn đầy ắp. Trong đám người đó, có một bà trông chừng lớn tuổi mặc áo dài màu lam nhạt, tay phải xách giỏ thức ăn và tay trái xách một cặp vịt màu trắng. Bà đi về hướng sân vận động. Khi đến trước ngôi biệt thự thì bà dừng lại, để giỏ thức ăn xuống vệ đường và loay hoay với cặp vịt không hiểu để làm gì. Chúng tôi đoán có lẽ dây buộc cặp vịt bị lỏng sao đó nên bà phải dừng chân, ngồi xuống buộc lại cho chặt. Rồi chẳng biết bà làm ăn thế nào mà một chú vịt đã vuột khỏi tay bà, chạy vài bước rồi nhảy tỏm xuống hồ. Bà lính quýnh đứng dậy định rượt bắt chú vịt và chỉ trong giây lát, chú vịt thứ hai cũng “xổng chuồng” và nhảy tòm xuống nước luôn! Hai chú vịt kêu lên mấy tiếng cạp cạp, bơi lại gần bên nhau và cùng vỗ cánh ra điều khoái chí, quay đầu ra giữa hồ và bắt đầu bơi một cách khoan thai nhẹ nhàng. Trên hồ nước trong xanh của mùa hè Đàlạt có hai chú vịt trắng thong thả bơi tạo thêm cảnh nên thơ, an bình. Chúng tôi cũng vừa ăn cơm xong. Bên kia hồ có nhiều người hiếu kỳ bu quanh bà nội trợ mất vịt và dĩ nhiên họ chẳng làm gì được để giúp bà ta. Bà phân bua gì đó một lát rồi đành xách giỏ thức ăn đi lẩn vào trong đám đông.
Dạo đó chúng tôi còn quá trẻ. Tôi và Quang ở tuổi hai mươi, Chiêm hai mươi mốt và Trường hai mươi hai. Tất cả đều ham vui và hiếu động. Chúng tôi đoán già đoán non rằng thế nào bà nội trợ khéo tay này cũng về kêu con cháu ra hồ để bắt lại hai chú vịt nhưng chúng tôi đã đoán sai vì gần hai tiếng đồng hồ sau chúng tôi vẫn còn thấy hai chú vịt bơi nhởn nhơ trên mặt hồ trong xanh. Chợt Trường nãy ra ý kiến và nói: “Tại sao chúng ta không bơi ra hồ bắt cặp vịt lên để chiều nay có một bữa tiệc đoan ngọ nhỉ…”. Chiêm, Quang và tôi cườirộ lên như biểu đồng tình lời đề nghị “rất sáng suốt” và thực tế của Trường. Có một điều éo le là cả ba chúng tôi đều biết bơi, còn Trường thì không. Cũng chả sao! Ba tay bơi cũng đủ rồi. Thế là với sự hăng hái, ba đứa nhanh nhẹn cởi áo, mặc xà loỏng nhảy xuống hồ vào khoảng ba giờ chiều. Chúng tôi nhắm thẳng hướng giữa hồ mà bơi, nơi đó đang có hai chú vịt vừa thoát ra khỏi lưỡi dao “đoan ngọ” của bà nội trợ và đang nhởn nhơ trên mặt hồ. Lúc còn ở trên bờ chúng tôi những tưởng chỉ cần bơi ra là tóm cổ hai chú được ngay rồi bơi vào, sau đó sẽ ngửi thấy mùi thơm của nồi cháo trên bếp và những miếng thịt vịt vàng ngậy chấm vào chén nước mắm gừng…Ôi! khoái khẩu làm sao…
Nào ngờ đâu khi ba chúng tôi xoải tay bơi ra giữa hồ, khi gần đến đích, chỉ còn cách khoảng ba bốn sải tay thì hai chú vịt đồng cất tiếng kêu cạp cạp như thể chào đón chúng tôi. Chúng tôi nhìn nhau cười đắc chí và thấy đã chắc ăn như bắp! Chỉ cần một cái với tay nữa là chúng tôi vớ được cả hai chú ngay. Khi cả ba vừa đưa những cánh tay lên định vồ lấy cổ chúng thì lập tức…hai chú chúi đầu xưống nước và biến dạng. Cả ba chúng tôi vô cùng bàng hoàng, ngẩn tò te ra một lúc rồi cười ầm lên như ba gã khùng. Lúc đó chúng tôi mới chợt ngộ ra rằng loài vịt chẳng những biết bơi mà chúng là con vật biết lặn rất tài tình! Chẳng thấy hai chú vịt đâu cả. Chẳng lẽ chúng đã rủ nhau chui tọt xuống đáy hồ! Không phải thế! Chừng vài giây sau hai chú vịt đã trồi lên khỏi mặt nước cách chỗ chúng tôi độ chục thước. Cả ba quay đầu về hướng hai chú vịt rồi lại nhìn nhau cười vì bị hai chú vịt chọc quê. Hai chú lại cất tiếng kêu cạp cạp thật lớn như ra điều thách đố chúng tôi. Trên bờ, Trường nhìn chúng tôi và cười ngặt nghẽo, đưa tay ra dấu cho chúng tôi nhào tới. Thế là ba đứa nhắm hướng hai chú vịt sải tay vươn người tới. Chưa bao giờ chúng tôi lại bơi lẹ làng như thế. Cũng như lần đầu tiên, hai chú vịt mắc gió chờ cho chúng tôi đến gần chỉ còn vài sải tay, chúng lại chui đầu xuống nước và biến mất. Vài giây sau chúng ở ngay phía sau chúng tôi và cất tiếng cạp cạp để chọc quê và báo cho chúng tôi biết chúng đang ở đâu. Chúng tôi xoay mình lại và mặc dầu đang ngâm mình dưới nước, chúng tôi cũng cảm thấy nực nên cố trườn mình với tốc độ nhanh hơn trước, thế mà lần này chúng tôi vẫn phải nhìn hai chú vịt khuất dạng dưới làn nước trong xanh. Ba đợt tấn công đều thất bại! Ba thằng cùng có ý nghĩ bỏ cuộc vì mười phần đã thấy đến chín phần thua. Trời về chiều, gió hiu hiu, sóng lăn tăn trên mặt hồ đã khiến cho chúng tôi thấy lạnh. Mặt đứa nào cũng tái, môi bắt đầu chuyển sang “màu tím hoa sim”. Chúng tôi đã từng bơi ngang qua hồ Xuân Hương nhiều lần nhưng chưa bao giờ lại có cái kiểu bơi vòng vòng mãi trên hồ như thế.
Mặt trời chìm xuống đụng Đồi Cù. Còn nước còn tát! Còn nước còn bơi! Chúng tôi hội ý thay đổi chiến thuật là ba thằng không xuất phát cùng một chỗ mà chia ra làm ba mũi để tấn công, ngoài ra khi vịt lặn xuống nước thì chúng tôi cũng lặn theo rượt đuổi để uy hiếp tinh thần. Từ độ xa gần chục thước, chúng tôi đồng loạt sải tay bơi tới, hai chú vịt lại rúc đầu xuống nước, chúng tôi phóng theo. Nhờ nước trong nên chúng tôi nhìn thấy rõ hai chú đang đạp chân chúi đầu xuống, thân mình chúng hình như được thu nhỏ lại để lao xuống cho nhanh. Chúng thấy được sự an nguy cận kề nên cũng lách mình lia lịa, lúc về hướng phải, lúc về hướng trái, lúc trườn mình lên, lúc nhủi đầu xuống.
Cuối cùng thì hai chú vịt cũng trồi đầu lên mặt nước. Chúng tôi mừng vì thấy khoảng cách giữa chúng tôi và hai chú vịt khá gần. Rút kinh nghiệm, chúng tôi liên tục phóng mình rượt đuổi cốt gây ra tình trạng hoảng loạn và sau ba bốn đợt tấn công liên tiếp như thế, hai chú vịt mất tinh thần thấy rõ. Chúng vừa trồi đầu lên mặt nước là chúng tôi đã nhào tới khiến chúng bị tách ra làm hai. Đến lúc này chúng tôi nghĩ cách là phải dứt điểm từng chú một. Một số người đi đường thấy trò chơi bắt vịt lạ lùng nên dừng chân đứng xem và còn đưa tay chỉ chỏ như muốn bảo chúng tôi làm theo cách của họ. Vài người đang ngồi trong nhà thủy tạ cũng dồn ra phía ngoài đứng xem. Mặt trời đã khuất sau Đồi Cù, chẳng còn tia nắng nào rọi xuống mặt hồ, chúng tôi bắt đầu thấm lạnh. Chúng tôi ra dấu để cả ba cùng lao vào một chú đang kêu quang quác như để cầu cứu. Chú chúi đầu xuống nước, hai chân duổi thẳng, mình lách qua lách lại nhưng không còn nhanh như trước. Chỉ sau vài đợt liên tiếp tấn công, chúng tôi tóm được chú vịt đã đuối sức. Tôi cầm chú vịt nhấc lên cao ra dấu cho Trường đang đứng trên bờ vỗ tay. Nguyễn Đức Quang tải chú vịt vào bờ giao cho Trường. Tôi và Chiêm dứt điểm chú thứ hai.
Tội nghiệp cho chú này, thấy bạn mình bị hốt đưa lên cạn, chú lại càng gào to hơn nữa. Vẫn chiến thuật cũ, liên tục và nhanh nhẹn, chúng tôi lặn hụp rượt đuổi khiến cho chú càng lúc càng mất tinh thần, không còn định hướng được nữa để rồi phóng ngay vào hướng chúng tôi. Chú vịt đã dính chặt trong tay của Chiêm. Chúng tôi cười đắc thắng. Trời đã sụp tối. Sau khi trao chú vịt thứ hai cho Trường, ba chúng tôi mặc quần áo xong băng qua đường, leo lên Đồi Cù gom lá thông khô đốt lên để sưởi ấm.
Nhẩm lại, chúng tôi mất gần ba tiếng đồng hồ để quần thảo với hai chú vịt tưởng đã thoát được vòng dây oan khiên của bà nội trợ, nào ngờ đâu lại lọt vào thủy cung oan khiên của ba chàng “ngự lâm pháo thủ”! Tối hôm đó bốn đứa chúng tôi phải mất thêm cả tiếng đồng hồ nữa để cắt cổ nhổ lông hai chú vịt can trường.
Trời đã tối, những ngọn đèn rọi quanh hồ đã bật sáng. Hà Thái Trường được giao cho công việc là đạp xe đi gọi thêm ba bốn đứa bạn thân đến thưởng thức món vịt luộc chấm muối tiêu và những cà mèn cháo bốc mùi thơm của hồ nước Xuân Hương trong mùa tết đoan ngọ “vô tiền khoáng hậu”.
Phong Châu

Giọt Lệ Của Mẹ – Minh Thúy Thành Nội
Vừa xong buổi cơm tối thì phone reng. Mở phone thấy chị Phương Hoa gọi. Tôi “A lô nhưng không nghe chị nói gì. Tôi hỏi lại
– Chị Phương Hoa hở?
Vẫn im lặng tiếp tục, tôi bắt đầu hồi hộp linh tính như có chuyện gì bất thường, sau đó một phút nghe tiếng khóc nức nở của chị
– Calvin, con đầu mình bị bệnh ung thư, bác sĩ bệnh viện Stanford đã “chạy làng”
Tôi hốt hoảng
– Bệnh hồi nào?
– Cháu bệnh cũ tái phát, hơn hai năm rồi
Nghẹn ngào tôi không biết tìm lời gì để an ủi, cổ họng cứng đơ, lưỡi dường như tê cóng, bên kia vẫn tiếp tục những tiếng nấc nghẹn ngào. Hồi lâu tôi mới gắng hỏi
– Bây giờ chị tính sao?
– Còn nước còn tát, mình định đem cháu về VN chữa trị thuốc Nam xem có tiến triển không?
Chị nói đôi tiếng nữa rồi cúp phone. Tôi sững sờ không còn xem phim mỗi tối từ 8 giờ tới 10 giờ nữa.
Lặng lẽ đi nằm, nhìn trước mặt là bóng tối, đầu óc suy nghĩ mông lung về sống chết, về sự vô thường trong cuộc sống. Dù định luật là Sinh, Lão, Bệnh, Tử nhưng con ma tử thần vẫn không chừa một ai, luôn rình rập người ta, từ một tuổi, năm tuổi, hai mươi tuổi cho đến bốn mươi, năm mươi … Sinh tử quay cuồng như điệu múa say ngà, con người số mỏng manh như đùa chơi với dòng thác lũ.
Tôi quen chị Phương Hoa từ năm 2015, khi gia nhập vào hai diễn đàn Tình Nghệ Sĩ, Tình Bằng Hữu của Nha Sĩ Cao Minh Hưng (nơi sinh hoạt của văn, thơ, nhạc, họa). Năm 2016 trong cuộc thi của Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt tổ chức, tôi may mắn được giải nhì, chị Phương Hoa đoạt giải nhất (về văn). Ông hội trưởng bấy giờ là nhà thơ Chinh Nguyên đã tuyên bố “Các cô từ nay đều là thành viên của Văn Thơ Lạc Việt, hãy tham gia sinh hoạt thường xuyên nghe”.
Từ đó tôi mới gần gũi chị hơn qua những buổi sinh hoạt, ra mắt sách, giới thiệu sách cho các văn thi sĩ thành viên VTLV và trong cộng đồng. Tôi luôn thấy chị hoạt bát, nhiệt tình với mọi người và có tâm rất tốt. Thấy chị rành thơ Đường Luật tôi kéo chị gia nhập hội thơ Đường Xướng Họa, nơi đất dụng võ để tiến bộ hơn.
Chị thúc giục tôi viết bài gởi Việt Báo dự thi Viết Về Nước Mỹ, nhưng tôi lại mê thơ hơn nên cứ say sưa xướng họa thơ ĐL. Chị hăm he liên tục, có lúc tỏ ra giận, có lúc nói dai dẳng, “Minh Thúy là một cây bút rất có tương lai, hãy viết đi!” Tôi hẹn lần hẹn lựa mãi, cuối cùng hai năm sau tôi mới nghe lời chị, ngoài ra chị cũng kêu gọi thành viên trong hai hội phụ nữ Cô Gái Việt và Minh Châu Trời Đông gởi bài cho Việt Báo nữa.
Lúc chị em trong MCTĐ và CGV thắng giải, chị đánh phèn la báo tin ầm ĩ như chính bản thân chị trúng giải. Sau này chị giữ vai trò trong Ban Biên Tập của VTLV nên bận tối mặt, không có thì giờ vào Việt Báo đọc bài của ai, nhưng khi đọc được thì lại thúc giục “viết tiếp đi, viết tiếp nữa, viết nhiều vào…”, tôi buồn cười “đề tài đâu mà viết dữ vậy trời”.
Điều tôi nể phục nhất là anh chị ăn chay trường và tham gia nhiều khoá thiền Vipassana khắp các tiểu bang, thời hạn có khi tới nửa tháng. Về văn chương thơ phú thì chị rất xuất sắc, nhất là về văn đã đoạt hết mọi giải thưởng của Việt Báo, đến nay không còn giải nào nữa để lãnh.
Trở lại câu chuyện buồn, tôi không ngờ hai năm nay chị đã đè nén nỗi sầu lo, che kín chịu đựng sống trên đống lửa từng ngày, cả bạn bè gần gũi nhất cũng không hề biết để an ủi. Cách nay nửa tháng chị đã về VN lo chuyện giấy tờ nhà cửa và dẫn vợ chồng Dũng, cháu thứ nhì qua Mỹ theo diện bảo lãnh. Chị nói “Con trưởng thành dù khôn ngoan cỡ nào đi nữa, nhưng dưới mắt người mẹ luôn xem còn nhỏ dại như ngày nào, nên mình phải thông qua đường tour du lịch ghé VN vài ngày để giúp đưa tụi nó qua.”
Vừa lo ổn định xong cho gia đình cháu Dũng nơi quê hương mới, chị lại chuẩn bị dẫn Calvin về quê hương để chữa bệnh bằng cây thuốc Nam truyền thống, với niềm tin và tràn đầy hy vọng. Chị kể trước đây tình cờ ai gởi Youtube, xem thì biết ở Trà Vinh có Linh Mục Nguyễn văn Tường chữa trị bằng thuốc Nam, ăn toàn gạo lức nấu với nước kiềm (nước từ máy lọc của Nhật đã thải bỏ chất acid) và đã chữa trị rất nhiều bịnh nhân cancer lành bệnh sau khi bệnh viện chê.
Tôi hiểu và đồng cảm, trong bóng tối chợt tìm ra chút ánh sáng cuối đường hầm, chị tin tưởng và cầu nguyện ơn trên may ra còn hy vọng. Đồng thời cũng thở dài lo lắng đến sức khỏe chị có bảo đảm không, trong khi mới vừa xong chuyến đi xa và qua lại Mỹ chỉ thời gian ngắn. Nhưng chị nói chỉ cần chữa được bệnh cho cháu thì khó khăn gian khổ nào cũng là chuyện nhỏ mà thôi.
Được biết chị có bốn cháu, cháu thứ nhì tên Dũng cùng gia đình nhỏ mới qua định cư. Ba cháu ở đây đều ăn học thành tài, Calvin Liên Trịnh là cháu trưởng nam đang làm cho hãng Broadcom (Photonic Layout Design Engineer) ở San Jose. Gần đây bác sĩ tuyên bố bệnh cháu không còn chữa trị được nữa, cháu mới xin nghỉ để về VN cùng mẹ; cháu thứ ba tên Brian làm việc tại bệnh viện Stanford; cháu út tên Billy làm cho Google, tất cả đều lập gia đình, có con cái, và cuộc sống ổn định.
**********
Về Trà Vinh một lần chị liên lạc với tôi qua điện thoại, vừa nói vừa khóc giọng đầy lo âu, có khi tôi không nghe rõ vì sóng yếu. Chị kể, về nơi chốn hẻo lánh miền quê an bình, có rất đông người đến chữa bệnh mà toàn là bị cancer. Hằng ngày chị không dám động tiếng ồn, ngồi canh giấc ngủ con, hoặc con thức thì xoa bóp tay chân cho đỡ mỏi, không dám liên lạc nói chuyện hay than thở với ai, không bày tỏ sự lo âu, sợ con nghe được sẽ buồn làm mất tinh thần chữa trị. Chị cố giấu những giọt nước mắt đau đớn tột cùng, không muốn con thấy mà phải nuốt vào trong. Mặt khác chị cũng tràn đầy niềm tin, vì những người bị bệnh ung thư ở các phòng trọ xung quanh thường qua lại thăm hỏi, cho Calvin và chị biết bệnh tình của họ khi mới đến rất trầm trọng, bác sĩ chê, bệnh viện bỏ, nhưng sau vài tháng điều trị bây giờ một số người đã lành, chuẩn bị được cho về.
Em rể cột chèo bên vợ là bác sĩ giỏi ở Sài Gòn, xem Calvin như máu mủ, cũng nóng ruột về Trà Vinh theo dõi bệnh tình của anh. Thấy Calvin có vẻ yếu và than mệt, em rể tức tốc đưa vào bệnh viện Trà Vinh khám, kết quả tình trạng không mấy khả quan sau một thời gian uống thuốc Nam chữa trị, nên khuyên chị PH đưa cháu về Mỹ và mang theo thuốc Nam tiếp tục uống “Tâm trí mình hoảng loạn quá, cháu lại là bác sĩ giỏi nói sao làm theo vậy, chắc là “phước thầy không may chủ”. Chị nghẹn ngào nói với tôi trên điện thoại. Lên Sài Gòn các em vợ thương quý anh rể, cuống cuồng chăm lo đủ thứ. “Sẽ cố gắng đưa cháu về Mỹ sớm, mình hết biết làm gì rồi, sự căng thẳng hồi hộp chỉ sợ mình hay cháu gục nửa chừng trên đường về. Bây giờ miệng mình khô đắng, mắt mỏi nhừ, cầu xin ơn trên cho mình đem Calvin về đến nơi đến chốn, Thúy ơi”.
***********
May mắn chị đã đưa Calvin về Mỹ an toàn. Khi nào có chút thì giờ chị lại gọi phone kể cho vơi sự lo âu tột cùng. Sau một thời gian an dưỡng nghỉ ngơi ở nhà, Calvin vào bệnh viện Stanford khám lại. Bác sĩ bệnh viện Stanford bao vậy khám bệnh, thử máu và cho uống thuốc, hình ảnh “lương y như từ mẫu” chăm sóc tận lực, thật cảm động tình người. Chị nghĩ một phần cũng nhờ Calvin làm hãng lớn có bảo hiểm tốt, nên cháu được hưởng những gì tốt nhất có lẽ vậy.
Phương Thảo vợ Calvin bận rộn đi làm, cháu nội Jenny, đứa con độc nhất của Calvin, học nội trú UC Berkeley, nên thời gian này chị Phương Hoa và chồng túc trực trong bệnh viện lo cho cháu. Chị kể hai người chẳng hề biết no đói là gì nhưng cũng cố gắng mua bánh mì không trong bệnh viện nhai lấy sức để kề cận chăm sóc Calvin. Tình thương con như có “energy” tăng cường lên, nên anh chị không hề thấy mệt.
– Nhìn con mà ứa nước mắt hoài. May mắn bệnh không hành, nên Calvin chỉ mỏi mệt chứ không có những cơn đau oằn oại, nhưng con ngày càng ốm đi lòng mình như tan nát. Calvin thương vợ thương con hơn cả bản thân, sau giấc ngủ chiều dậy, nhìn ra trời sụp tối, cháu hỏi mẹ mấy giờ rồi “mẹ vào bếp xem cơm còn hay không, nấu dùm Thảo nghe mẹ”, bữa khác cũng y vậy “mẹ ơi, nhờ mẹ nấu món gì để Thảo đi làm về có ăn kẻo đói”. Mình nghe con nói mà quặn thắt cả lòng, nước mắt muốn trào ra. Con trai thương vợ như vậy, gia đình hạnh phúc như vậy, sao ông trời lại nỡ đưa vào hoàn cảnh xót xa. Nhìn dâu hiền còn trẻ, nếu trở thành góa phụ thì còn nỗi đau nào bằng …
Tôi nghe tiếng chị như run rẩy nên vội khuyên lơn:
– Thôi chị bớt suy nghĩ, tuổi anh chị đã lớn, cứ bị xúc động quá sẽ ảnh hưởng sức khỏe rất nguy hiểm, chị nghỉ ngơi đi để còn lo cho cháu.
Nói thật, càng nghe chị kể tôi càng thấy buồn thấm thía với cuộc đời đầy bể khổ. Khổ nhất là khi phải chứng kiến cảnh người thân đang bước dần vào nơi vô định. Tôi nhớ những lần đi họp nơi hội VTLV, có lúc chị tới chở tôi đi sớm, ghé lại nhà Calvin đem vào khay bánh xèo đầy ngập, hoặc những khi ghé nhà tôi giao sách, chưa kịp mời uống nước chị đã lật đật kiếu từ.
– Mình nấu nồi canh chua đem đến đứa con ở gần đây, dâu thích món này lắm, và một nồi tôm thịt kho mặn nữa.
Vừa nói chị vừa kéo tay tôi ra mở cốp xe sau dở nắp vung khoe thức ăn. Tôi được biết rất nhiều lần chị nấu cho dâu này, dâu kia chụp hình khoe lắm món.
– Đừng tưởng mình ăn chay rồi không biết nấu mặn đó nghe. Dâu con cày bừa bận rộn thấy thương quá, thỉnh thoảng rảnh mình nấu cho con cháu chút gì cảm thấy rất vui.
– Chị ăn chay trường làm sao nếm
– Nêm ít cầm chừng, tụi nó nêm lại sau
Ngày có đám giỗ chị bày dọn một bàn chay nhiều thức ăn, chụp hình gởi khoe, sau đó chat với tôi “Buồn ghê, thức ăn nhiều như vậy mà các con ở quá xa, đi làm về trễ, đường xá kẹt cứng khó khăn không tới được, nhìn các món thật tiếc. Ở Mỹ này mơ ước một buổi con cháu tụ về đông đủ trong ngày giỗ thật khó, nhưng thông cảm vì hiểu đất nước Mỹ này tuổi trẻ luôn phấn đấu và tận lực bộ óc, tài năng phục vụ cho công việc là quan trọng trước”. Tình thương của người mẹ thật bao la vô bờ bến, cùng những quan điểm “Mẹ chồng cảm thông thoải mái”, tôi vô cùng cảm mến.
*******
Tối Mồng Hai Tết Nhâm Thìn chị Phương Hoa gọi phone:
– Đầu năm MT có kiêng cử gì không?
Tôi linh tính điều không lành:
– Không chị, nhỏ lớn em cứng đầu, cứng cổ ít tin những chuyện mê tín dị đoan lắm
Chị oà khóc.
– Calvin mất rồi!
Tôi lặng người, dẫu đã chuẩn bị tinh thần, đoán trước những điều xấu sẽ đến, nhưng vẫn bàng hoàng ngơ ngẩn trước sự sinh ly tử biệt. Những giọt lệ của người mẹ nhoà nhạt, đau đớn, tâm trạng ví như những chiếc lá vàng vẫn còn dính trên cây phải đưa tiễn lá xanh rụng xuống. Chị cho biết những ngày gần Tết cháu còn ăn uống được chút chút, chủ yếu ăn yến sào và uống sữa ensure, vui vẻ tỉnh táo khỏe hơn. Ngày Mồng Một Tết, cả nhà nội ngoại quây quần chúc Tết và chụp hình kỷ niệm, Calvin còn nhắc vợ đi chùa cùng cha mẹ hai bên để cầu nguyện đầu năm mới.
Vậy mà, sáng Mồng Hai Tết cháu Calvin đã nhắm mắt trong giấc ngủ yên lành, giấc ngủ… nghìn thu vĩnh biệt.
******
Thứ Hai ngày bốn tháng ba. Đám tang cháu Calvin Liên Trịnh diễn ra tại Oak Hill Funeral Home Memorial Park nằm trên đường Curtner thuộc thành phố San Jose. Tôi gặp một số em gái trẻ thường sinh hoạt chung trên Chùa Phổ Từ, và em trai họ bên chồng đến thăm viếng. Hỏi ra giới trẻ ấy là bạn học của Calvin trường UC Davis ở Sacramento. Khoảng trưa bạn bè từ xa hẹn nhau đến cùng lúc rất đông, họ lên bày tỏ cảm tưởng tiếc nuối, ôm đàn hát đưa tiễn, và nhắc nhở chuyện vui buồn thời sinh viên trọ học gần trường UC Davis thật cảm động. Họ khóc nghẹn ngào kể bao nhiêu kỷ niệm, họ không ngờ lá xanh lại vội lìa cành. Tôi nhìn đôi vai chị Phương Hoa rung lên hàng ghế trước mặt, có lẽ chị đang cố đè nén tiếng nấc chỉ để những giọt lệ chảy âm thầm.
Nói đến đám tang là nói đến nỗi buồn đau chia lìa, nhưng nếu tuổi thọ như chuối chín rục xuống thuận theo luật tạo hoá còn giảm chút buồn phần nào. Đằng này tóc xanh đã rụng trước hình ảnh người mẹ già đứt từng đoạn ruột. Đoàn người lặng lẽ theo sau quan tài trong một ngày không có nắng, bầu trời mây xám giăng màu ảm đạm. Lòng tôi đầy thương tiếc ngậm ngùi nhìn hình ảnh người cha, người mẹ già héo hắt, từng bước chậm tay đặt trên quan tài con trai yêu quý. Người vợ và đứa con thơ, cùng các em trai quấn vành khăn tang, ôm di ảnh Calvin quá cố, bát hương, bình hoa…Thật quá não lòng
Một Đám Tang
Ngậm ngùi một đám tang
Trời buồn mây lang thang
Đưa người về cát bụi
Cảnh tang tóc diễn màn
Ngậm ngùi một đám tang
Hương khói cuộn gió ngàn
Sắc đen sầu tiễn biệt
Nén cảm xúc khóc than
Bạn UC Davis
Hung tin khiến ngỡ ngàng
Từ Sac-To đến chật
Nhắc kỷ niệm đầy mang
Thủa sinh viên hiếu học
Clip chiếu đẹp thời vang
Bạn bè buồn thương tiếc
Lời ca nghẹn tiếng đàn
Các em khăn vải chế
Vợ con quấn vành tang
Tứ thân phụ mẫu nghẹn
Họ hàng thắt ruột gan
Dẫu biết SINH và TỬ
Ơn pháp những lời vàng
Vô thường câu Phật dạy.
Đường trần luôn dỡ dang.
Cớ sao lòng thổn thức
Bởi lá xanh rụng tàn
Âm dương tách đôi ngả
Bóng mùa Xuân mới sang
“A DI ĐÀ PHẬT” niệm
Từng bước chậm theo hàng
Hương linh về Tịnh Độ
Ngậm ngùi một đám tang
MTTN
Mỗi cuối tuần vào sáng Chủ Nhật. Chị Phương Hoa và ông xã vẫn lên chùa An Lạc, San Jose, dự cúng thất tuần, hộ niệm cho Calvin nương vào tiếng gỏ mõ, tiếng kinh kệ cầu sớm được siêu sanh tịnh độ. Con đã hết nhân duyên với mẹ trong kiếp này, mẹ mong con đầu thai vào kiếp khác có đời sống dài hơn, khỏe mạnh hơn. Hiện tại mẹ cố bám víu những suy nghĩ về sự sống, sự chết, về lẽ vô thường thay đổi từng phút, từng giờ, từng ngày để ý thức sự hiện hữu của mình, nhắc nhở mình phải tập trung tu tập, làm những điều lợi ích cho đời, để sống thật xứng đáng lúc đang còn hơi thở.
Chị đã san sẻ những suy nghĩ tích cực để tự trấn tĩnh tinh thần đang yếu đuối, hụt hẫng và đau thương. Tôi hy vọng thời gian sẽ là liều thuốc xoa dịu, chị sẽ thấm nhuần Phật pháp nhiều hơn để tư tưởng thoát ra vòng luẩn quẩn, không còn vướng mắc vào sự bế tắt mà cần được giải thoát.
Dẫu sao tôi biết chắc một điều, là dù thời gian bao lâu, những giọt lệ của người mẹ vẫn còn lặng lẽ rơi trên nỗi đau mất con mỗi lúc đêm về…
Minh Thúy Thành Nội
Người Em Sầu Mộng | Mấy Dặm Sơn Khê
LỄ CẦU NGUYỆN CHIẾN SĨ TRẬN VONG
KIỀU MỸ DUYÊN

Lễ Chiến Sĩ Trận Vong do Hội Đồng Liên Tôn tổ chức tại Thánh Thất Cao Đài – Châu Đạo, California, 14072 Chestnut St., thành phố Westminster ngày 25/5/2024
Chánh Trị Sự Ngô Thiện Đức, thay mặt cho Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam tại Hoa Kỳ, gởi thiệp mời cho báo chí truyền thông tham dự lễ tưởng niệm chiến sĩ trận vong ở Thánh Thất Cao Đài Tộc Đạo Orange County, Châu Đạo California, đường Chestnut, thành phố Westminster, vào ngày thứ bảy 25/5/2024. Thư mời được gởi đi trong thời gian thật ngắn nhưng báo chí truyền thông, truyền hình đến tham dự rất đông.
Thành viên của Cao Đài mặc áo dài trắng, phụ nữ nhiều hơn nam giới, các bà đặc trách nấu ăn là những phụ nữ lớn tuổi. Ban tiếp tân rất ân cần niềm nở với quan khách tham dự lễ tưởng niệm các chiến sĩ trận vong.

Chánh Trị Sự Hà Vũ Băng, quyền Đầu Tộc Đạo Orange County, Châu Đạo California, đang phát biểu và Chánh trị sự Ngô Thành Thảo phụ trách lễ vụ của Tộc Đạo Cao Đài Orange County, đứng kế bên.
Chánh Trị Sự Hà Vũ Băng, quyền Đầu Tộc Đạo Orange County, Châu Đạo California nói: “Đối với những tín đồ của Đạo Cao Đài, lễ Chiến Sĩ Trận Vong thì chúng tôi cũng như Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam tại Hoa Kỳ có bổn phận phải trang trọng tổ chức hằng năm. Vì những chiến sĩ trận vong là những người con yêu của đất nước trên toàn thế giới, trong đó có những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã vị quốc vong thân, nhờ họ mà hôm nay, chúng ta mới có cuộc sống an bình, hạnh phúc. Vì thế, chúng ta phải tôn kính và luôn nhắc nhở cho những thế hệ sau này biết rằng, nhờ sự hy sinh của các chiến sĩ trận vong, thì chúng ta mới còn tồn tại đến bây giờ.”

Linh mục Phạm Ngọc Hùng, linh mục chánh xứ của nhà thờ St. Bonaventure, Huntington Beach (linh mục Phạm Ngọc Hùng nguyên là giám đốc trung tâm Công Giáo, giáo phận Orange County gồm có 16 cộng đoàn), tuyên bố khai mạc buổi lễ tưởng niệm các chiến sĩ trận vong hôm nay với bài nói chuyện rất sâu sắc và đầy ý nghĩa. Ngài nói về sự hy sinh cao cả của chiến sĩ Hoa Kỳ, trong đó có chiến sĩ người Mỹ gốc Việt đã hy sinh cho Tự Do, Dân Chủ cho đất nước. Ngài không quên cầu nguyện cho các chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh vì tổ quốc, và đồng bào bỏ mình trên biển cả vì hai chữ Tự Do.

Linh mục Phạm Ngọc Hùng, linh mục chánh xứ của nhà thờ St. Bonaventure, Huntington Beach
Kế đến là giáo sư Nguyễn Thanh Giàu, hội trưởng Ban Trị Sự Trung Ương Hải Ngoại Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo, phát biểu cảm tưởng. Giáo sư Giàu cũng tưởng niệm các chiến sĩ anh hùng và cầu nguyện thế giới hòa bình, nhất là cầu nguyện cho các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh vì tổ quốc.
Chánh trị sự Ngô Thành Thảo phụ trách lễ vụ của Tộc Đạo Cao Đài Orange County: lễ chiến sĩ trận vong có ý nghĩa cho người sống phải biết ơn những chiến sĩ đã hy sinh.

Phần lễ dâng hương và lễ tế chiến sĩ, do Tộc Đạo Orange County, Châu Đạo Cao Đài California đảm trách. Ban Thường Vụ Hội Đồng Liên Tôn, đại diện chức sắc các tôn giáo, cùng hiệp dâng lời cầu nguyện trước bàn thờ của chiến sĩ trận vong.
Các diễn giả phát biểu với trái tim chân thành của mình làm xúc động người nghe. Các anh chiến sĩ linh thiêng về đây phù hộ cho mọi người, phù hộ thế giới hòa bình, chấm dứt chiến tranh.
Ngày lễ chiến sĩ trận vong (Memorial Day) chính thức được công bố vào ngày 5 tháng 5 năm 1868 bởi Tướng John Logan, người đứng đầu tổ chức có tên là Đại quân của nền Cộng hòa (Grand Army of the Republic), một hội ái hữu của các cựu chiến binh thuộc quân đội Miền Bắc trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Vào ngày này hàng năm, những bó hoa tươi được dân chúng đặt trên các ngôi mộ của các chiến sĩ quân đội Liên Bang Thống nhất tại nghĩa trang quốc gia Arlington.
Lễ tưởng niệm các chiến sĩ trận vong năm nay, ngoài sự tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn đối với các quân nhân đã hy sinh đấu tranh dựng nước và giữ nước, nhân dân Hoa Kỳ còn tưởng nhớ đặc biệt đặc biệt dành cho các chiến sĩ Hoa Kỳ đã và đang phải tiếp tục hy sinh trong các cuộc chiến tranh bên ngòai Tổ quốc.

Trong quân đội Hoa Kỳ đã có mặt những quân nhân người Mỹ gốc Việt và trong các cuộc chiến tranh bên ngòai đất nước, đã có rất đông người Mỹ gốc Việt thuộc thế hệ thứ nhất cũng như thứ hai đã chiến đấu và hy sinh cho đất nước Hoa Kỳ. Cộng đồng người Việt đã được cưu mang, thụ hưởng nhiều quyền lợi từ quốc gia Hoa Kỳ vĩ đại, nên khi cần chúng ta vẫn phải có bổn phận và trách nhiệm chiến đấu và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ quốc gia này.
Nhân dịp này, người Việt tị nạn hiện đang sống trên đất nước Hoa Kỳ cũng không quên tưởng niệm và tri ân các anh hùng hào kiệt của lịch sử Việt Nam, các chiến sĩ quân nhân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu, hy sinh.

Hàng năm cứ vào ngày thứ hai của tuần lễ cuối cùng của tháng năm là ngày lễ tưởng niệm các chiến sĩ trận vong mà người Mỹ gọi là “Memorial Day”. Năm nay, lễ chiến sĩ trận vong vào thứ hai ngày 27/5/2024, vậy mà ngày thứ sáu, thứ bảy và Chúa nhật, hoa màu đỏ tràn ngập trước mộ các chiến sĩ. Bức tường tưởng niệm anh hùng hy sinh vì Tổ Quốc ở Washington D.C tràn ngập hoa tươi. Người địa phương, du khách đến đây dâng hoa cho chiến sĩ. Bức tường tưởng niệm 58,000 chiến sĩ đã hy sinh ở Á Châu cũng dâng hoa. Ngày chiến sĩ trận vong, các cửa hàng, tiệm ăn có giá đặc biệt cho chiến sĩ.

Tôi còn nhớ cách đây 26 năm, binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ làm lễ kỷ niệm 200 năm thành lập ở Disneyland Hotel, 2 hàng bàn dài từ cửa chính đến sân khấu, hoa rực trời, nhưng không có ai ngồi. Khi tướng lãnh Thủy Quân Lục Chiến lên bắt đầu khai mạc buổi lễ cũng không có ai ngồi vào ghế của hai dãy bàn đó, vì để chỗ cho chiến sĩ trở về cùng tham dự buổi lễ với chiến hữu của mình. Đèn tắt hết chỉ có đèn cầy lấp loáng trong không khí trang nghiêm, hồn thiêng các anh hùng tử sĩ về đây chứng giám cho chiến hữu của mình không quên người đã hy sinh vì Tổ Quốc.
Kèn thổi lên não nùng, những bước chân của người lính chiên hào hùng trong quân phục Thủy Quân Lục Chiến từ từ bước lên sân khấu theo tiếng kèn, không khí yên lặng, ánh đèn cầy lấp loáng.

Tướng Thủy Quân Lục Chiến là người Mỹ gốc Pháp, Joe Morgan, khuôn mặt rất cảm động khi đọc diễn văn và trân trọng nhắc đến người đã hy sinh. Đã 26 năm rồi, tôi tham dự ngày chiến sĩ trận vong, mà tôi nhớ mãi như mới ngày hôm nay hay ngày hôm qua.
Cách đây mấy năm, một luật sư quân pháp, Anthony Nguyễn, mời tôi ăn cơm vào ngày chiến sĩ trận vong. Trước khi đến tiệm ăn, chúng tôi đến đài chiến sĩ trận vong ở Long Beach, trước căn cứ quân sự của quân đội Hoa Kỳ. Tên của các chiến sĩ anh hùng đã hy sinh ở chiến trường khắc trên bia đá, gió thổi cờ quốc gia Hoa Kỳ lồng lộng trong gió như hồn thiêng các chiến sĩ anh hùng về đây chứng kiến lòng của người dân không quên các anh. Dưới tường đầy hoa tươi, và tượng nào cũng có cắm cờ của nhiều binh chủng khác nhau. Tôi nghe tiếng thì thầm của đồng bào đến đây cầu nguyện cho thân nhân của mình. Tôi không quên bức tường đen khắc tên 58,000 chiến sĩ Mỹ và đồng minh để ghi trên tường để lưu động ngừng lại ở Orange County, và chúng tôi đến chiêm ngưỡng ngày nào đó.

Chuẩn bị cơm chay do Thánh Thất Cao ĐàI khoản đãi.

Chuẩn bị cơm chay do Thánh Thất Cao ĐàI khoản đãi.
Hỡi các chiến sĩ anh hùng đã hy sinh vì Tổ Quốc, chúng tôi không quên các anh. Xin các anh linh thiêng về đây phù hộ cho chúng ta có ngày về quê hương của chúng tôi khi quê hương thật sự có Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Tự Do Tôn Giáo.
Xin vong linh các anh phù hộ thế giới hòa bình, chấm dứt chiến tranh, để cho máu của chiến sĩ và máu của người dân vô tội không đổ ra.
Orange County, 27/5/2024
KIỀU MỸ DUYÊN
(kieumyduyen1@yahoo.com)
LỄ PHẬT ĐẢN Ở CÁC CHÙA Ở MIỀN NAM CALIFORNIA
Đại lễ Phật Đản là dịp tôn vinh Đức Phật với lòng từ bi vô tận, cứu độ chúng sanh. Mừng kính đại lễ Phật Đản, các Phật tử làm việc thiện không chỉ là cách giúp người khác mà còn giúp chính mình được thanh thản.
Orange County, 27/5/2024
KIỀU MỸ DUYÊN
(kieumyduyen1@yahoo.com)

Đại Lễ Phật Đản Phật Lịch 2568- Dương Lịch 2024, do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ tổ chức trong hai ngày thứ bảy và chủ nhật, 4 và 5 tháng 5/2024, tại Garden Grove Park, thành phố Garden Grove. (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Đại Lễ Phật Đản ngày 4 và 5/5/2024 tại Garden Grove Park (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Đại Lễ Phật Đản ngày 4 và 5/5/2024 tại Garden Grove Park (Ảnh của Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Điều Ngự, trụ trì Hòa Thượng Thích Viên Huy, tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 12/5/2024. Hòa Thượng Thích Viên Huy ban đạo từ. (Ảnh: Thu Anh)

Chùa Điều Ngự, tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 12/5/2024 (Ảnh: Thu Anh)

Hòa Thượng Chơn Trí và Hòa Thượng Tâm Thành dự lễ Phật Đản tại chùa Điều Ngự. (Ảnh: Thu Anh)

Thi sĩ Thái Tú Hạp, chủ báo Saigon Times, ca sĩ Phương Hồng Quế, dự lễ Phật Đản tại chùa Điều Ngự (Ảnh: Thu Anh)

Tịnh xá Giác Lý, trụ trì Hòa Thượng Thích Minh Tâm, tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 12/5/2024. (Ảnh: Christina Lê)

Đại Đức Thích Minh Tâm, trụ trì Tổ Đình Tịnh Xá Giác Lý (Ảnh: Christina Lê)

Tịnh xá Giác Lý, tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 12/5/2024 (Ảnh: Christina Lê)

Tịnh xá Giác Lý, tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 12/5/2024 (Ảnh: Christina Lê)

Tịnh xá Giác Lý, tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 12/5/2024 (Ảnh: Christina Lê)

Tịnh xá Giác Lý, tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 12/5/2024 (Ảnh: Christina Lê)

Chùa Liên Hoa, thành phố Garden Grove, trụ trì là Hòa Thượng Thích Chơn Thành, tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 19/5/2024 (Ảnh: Triều Lam)

Phật tử Diệu Minh và 1 Phật tử lo thực phẩm cho các Phật tử đến dự lễ Phật Đản tại chùa Liên Hoa. (Ảnh: Triều Lam)

Phật tử Lê Hiếu Nghĩa đang ôm con chó ở sau vườn, chùa Liên Hoa. (Ảnh: Triều Lam)

Chùa Dược Sư, đường Magnolia, thành phố Garden Grove, trụ trì là ni trưởng Thích Nữ Như Hòa tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 19/5/2024. (Ảnh: Triều Lam)

Chùa Dược Sư ở thành phố Garden Grove, tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 19/5/2024 (Ảnh: Triều Lam)

Chùa Bảo Quang, thành phố Santa Ana, trụ trì Hòa ThượngThích Như Hải, hàng trăm chư tôn đức tham dự, ban nhạc của nhạc sĩ Nam Hưng, tổ chức lễ Phật Đản vào thứ bảy ngày 25/5/2024. (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Bảo Quang tổ chức lễ Phật Đản vào thứ bảy ngày 25/5/2024 (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Bảo Quang tổ chức lễ Phật Đản vào thứ bảy ngày 25/5/2024 (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Bảo Quang tổ chức lễ Phật Đản vào thứ bảy ngày 25/5/2024 (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Bảo Quang tổ chức lễ Phật Đản vào thứ bảy ngày 25/5/2024 (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Bác sĩ Tâm Nguyễn- giáo sư Cal State Fullerton (thứ nhất bên trái), cô Thu Hà- cựu phó thị trưởng thành phố Garden Grove (thứ ba từ trái sang), dự lễ Phật Đản tại chùa Bảo Quang. (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Bác sĩ Tâm Nguyễn- giáo sư Cal State Fullerton (thứ nhất bên trái), cô Thu Hà- cựu phó thị trưởng thành phố Garden Grove (thứ ba từ trái sang), dự lễ Phật Đản tại chùa Bảo Quang. (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Bảo Quang tổ chức lễ Phật Đản vào thứ bảy ngày 25/5/2024 (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Bảo Quang tổ chức lễ Phật Đản vào thứ bảy ngày 25/5/2024 (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Giác Nguyên tổ chức tại Thư Viện Việt Nam, thành phố Garden Grove, tổ chức lễ Phật Đản vào chủ nhật ngày 26/5/2024. Hòa Thượng Thích Viên Lý, chủ tọa buổi lễ. (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Giác Nguyên, tổ chức lễ Phật Đản tại Thư Viện Việt Nam, chủ nhật ngày 26/5/2024. Hòa Thượng Thích Viên Lý, chủ tọa buổi lễ. (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Giác Nguyên, tổ chức lễ Phật Đản tại Thư Viện Việt Nam, chủ nhật ngày 26/5/2024. (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Giác Nguyên, tổ chức lễ Phật Đản tại Thư Viện Việt Nam, chủ nhật ngày 26/5/2024. (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Giác Nguyên, tổ chức lễ Phật Đản tại Thư Viện Việt Nam, chủ nhật ngày 26/5/2024. (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)

Chùa Giác Nguyên, tổ chức lễ Phật Đản tại Thư Viện Việt Nam, chủ nhật ngày 26/5/2024. (Ảnh: Kiều Mỹ Duyên)
KHI TÔI CHẾT của TRÀM CÀ MAU & THANH-THANH
(thơ song ngữ)

Memories of the Refugee Journey – April Vomited Blood
Lễ Mãn Khóa Cao Đẳng Phật Giáo Thực dụng 05-12-24
(thơ song ngữ Ngày Hiền Mẫu) HẠT BỤI TRONG TIM

TỰ BẠCH của THANH-THANH
TỰ-BẠCH
Đây là những vần thơ tha-thiết nhất
Tôi đã làm trong đáy ngục trần-gian.
Mẹ Việt-Nam càng khốn-đốn nguy-nan
Càng đau xót lòng con, dân hiếu-tử.
Ấy là lúc lương-tâm mình tự-xử
Dù cho mình chẳng có tội-tình chi!
(Thà gian-tham, nhũng-nhiễu, bạo-tàn đi!
Hay dốt-nát, biếng-lười, ham hưởng-lạc!)
Nhưng, đại-nghiệp đã lâm thời mục-rạc:
Oán trách gì thì cũng đã long-đong!
Tổ-Quốc ơi! Day-dứt lẽ hưng-vong*,
Sầu hận ấy biết ngày nào rửa sạch?
“Quốc-Gia hưng vong, thất-phu hữu-trách!”
*
Gửi về đâu, niềm cô-trung thiết-thạch,
Khi biển trời khuất bặt bóng cờ thiêng?
Gác nợ chung, về bám níu tình riêng;
Chính tổ ấm: đường cùng, nhưng lối thoát.
Vâng! Giữa cảnh thân tàn, đời dập nát,
May-mắn thay! tôi đạt được thiên-đường:
Một gia-đình với vợ qúy, con thương,
An-ủi, dưỡng nuôi tinh-thần, vật-chất.
Nên tôi dệt những vần trìu-mến nhất
Dành cho con, cho vợ, cho người thân,
Để phần nào ghi nhớ mối thâm-ân
Đã nâng đỡ, nếu không thì đã qụy!
*
Trong đày-đọa, trong tận cùng thế-lụy,
Giữa đàn cừu dưới móng vuốt sài-lang,
Có những bạn tù khí-phách hiên-ngang
Đã đứng dậy, khinh lờm phường độc giống.
Họ đã chết để cho mình được sống,
Được tự-hào mà ngửng mặt, vươn lên.
Thà ở nơi nào, không tuổi, không tên;
Chứ đã biết, làm sao quên họ được?
Nên tôi chép một đôi lời tóm lược
Để di-lưu cho họ với gia-đình,
Và để họ dưới mồ đỡ tủi vong-linh
Đã xả thân lót đường cho mình tiến tới!
*
Thơ tôi đó: có người xưa, cảnh mới,
Từ trong tù ra đất rộng, trời cao;
Có nghiã mẹ hiền bát-ngát trăng sao;
Có tình chị qúy bao-la đất nước;
Có anh, có bạn, có em… lỡ bước
Theo đường tà rồi mới thấy sa chân;
Có chàng “đối-lập” ngưỡng-vọng thù-quân
Đợi địch đến mới vỡ lòng, sáng mắt;
Có nàng thiếu-phụ, tay bồng, tay dắt,
Tìm Tự-Do mơ ước vượt trùng-dương;
Có chú tu-hành cũng vướng tai-ương
Phải nhập-thế để giành quyền sống đạo;
Và, chế-độ, với ngu đần, ngược-bạo;
Và, đồng-bào, trong kìm kẹp, lầm-than…
*
Ở trong tù, có những lúc bầm gan:
Không chỉ giặc, mà còn do phía “bạn”!
Tôi đã dùng thơ mài gươm, đúc đạn…
(Nhưng, hiện-thời xin tạm gác sang bên)
*
Có những bài thơ mà trí lụn vùi quên
Nên tiếc mãi, khôn vãn-hồi chính-xác:
Những ý xuất-thần, những vần tuyệt-tác,
Những con yêu phiêu-lạc của tinh-thần…
*
Thơ cũng ào vào mạch máu, luồng gân
Với tin-tức về bà-con hải-ngoại:
Hoàng Cơ Minh, Võ Đại Tôn… thắp sáng lại
Ngọn đuốc soi đường giải-cứu Quê-Hương,
Và có em tôi, Lý Tống thân thương,
Với cuộc vượt ngục lừng danh thế-giới .
*
Tôi hãnh-diện là không hề động tới
Hồn Thơ mình khi ở dưới búa, trên đe .
(Sao có người đem Nghệ-Thuật ra khoe
Làm của đút dâng cho loài ghẻ gớm!)
*
“Cơn Ác-Mộng” tuy không ra mắt sớm
(Vì thiếu tiền!) song muộn vẫn hơn không.
Nó vẫn là chứng-tích của thuở gai chông
Mà Đất Nước rơi vào trong bất-hạnh.
*
Xin cầu nguyện cho trời quang, mây tạnh,
Chôn chuyện buồn theo Thế-Kỷ Hai Mươi …
THANH-THANH
LeXuanNhuan.com
