Alexandre de Rhodes và sự tưởng tượng của nền sử học CSVN

Alexandre de Rhodes và sự tưởng tượng về lịch sử cận đại của nền sử học CSVN

Khôi Nguyễn

Gần đây, thành phố Đà Nẵng muốn lấy tên
Alexandre de Rhodes để đặt tên đường phố. Một số trí thức, trong đó có
nhiều người giảng dạy lịch sử trong môi trường đại học, viết thư phản
đối, cho rằng Alexandre de Rhodes là một nhà truyền giáo mang tư tưởng
thực dân, là kẻ có tội với Việt Nam. Lá thư của họ khiến cho thành phố
Đà Nẵng rút lại ý định. 

Từ điển Annamiticum Lusitanum et Latinum của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651. Nguồn: https://vietnamesetypography.com/

Tuy vậy, những người phản đối ấy hoàn toàn dựa theo những niềm tin có
tính tưởng tượng về Alexandre de Rhodes nói riêng và hình ảnh “Tây
phương” nói chung, được kiến tạo từ trước 1975 ở miền Bắc. 

Bài viết này nhắc lại một cách ngắn gọn những tưởng tượng về lịch sử
ấy để gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về sử học, giáo dục và chính trị
đương đại. 

Tưởng tượng về Alexandre de Rhodes

Năm 1971, Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, trong quyển “Lịch sử Việt
Nam”, tập 1, trang 304, trích dẫn lời Alexandre de Rhodes thể hiện một
âm mưu có tính thực dân của mình: 

“Đây là một vị trí cần được
chiếm lấy và chiếm được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được
một nguồn lợi nhuận và tài nguyên phong phú”

“Lịch sử Việt Nam”, tập 1, trang 304

Alexandre de Rhodes. Nguồn: YouTube

Uỷ ban này chú thích rằng câu trích này được trích từ sách “Divers voyages et missions en Chine et autres royaumes de l’Orient” (Những
cuộc hành trình và truyền giáo ở Trung Quốc và các vương quốc khác ở
phương Đông) của Alexandre de Rhodes, Paris, 1653, tr. 109-110. 

Tuy vậy, người ta không thể tìm thấy câu nói ấy trong tài liệu nói trên. 

Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam là một định chế nghiên cứu cấp quốc
gia. Vị thế của nó bảo đảm cho uy tín học thuật của nó. Thành ra từ đó,
người ta cứ trích dẫn và lan truyền niềm tin lệch lạc như vậy
về Alexandre de Rhodes mà không cần kiểm tra lại. Từ lâu, những nhà
nghiên cứu như Vương Đình Chữ (1996), Nguyễn Đình Đầu (2006) đã chỉ ra
lỗi trích dẫn này của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhưng niềm tin ấy
vẫn chưa mất. Lá thư phản đối đặt tên đường của nhóm “trí thức” nói
trên là một ví dụ. 

Cũng trong sách này, Alexandre de Rhodes nói đến việc xin nước Pháp
cung cấp nhiều “soldats” để “chinh phục toàn cõi phương Đông, đem về quy
phục Chúa Jesus”. Cao Huy Thuần coi từ “soldats” là “binh lính” quân
sự, từ đó kết tội Alexandre de Rhodes mở đường cho thực dân xâm lược
Việt Nam, dù nhà truyền giáo ấy chết trước cuộc xâm lược ấy đến hai trăm
năm, còn Nguyễn Đắc Khắc Xuyên (1) coi
“soldats” không phải là “binh lính” theo nghĩa đen mà chỉ “chiến binh
Phúc âm”, tức giáo sỹ truyền đạo. Số người hiểu theo cách hiểu của Cao
Huy Thuần đông hơn hẳn cách hiểu của Nguyễn Đắc Khắc Xuyên, các
cuộc tranh luận, đúng hơn là cãi vã, về nghĩa của từ “soldats” hầu như
không đặt từ này trong toàn bộ văn bản của “Hành trình và truyền giáo”
để xem tinh thần thực sự của khái niệm cũng như của sách này là gì, có
liên quan đến việc đánh chiếm thuộc địa hay không.  

Trí tưởng tượng nói trên về Alexandre de Rhodes sở dĩ khó có thể nhạt
phai vì nó nằm trong một tưởng tượng khác, lớn hơn, về lịch sử cận đại.
Tưởng tượng về lịch sử cận đại này cũng do Uỷ Ban khoa học xã hội Việt
Nam, từ tiền thân của nó là Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, xây dựng nên từ
giữa thập niên 1950, sau khi Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản
Việt Nam) lấy được miền Bắc. 

Tưởng tượng về thế kỷ 19

Tôi có làm những cuộc “phỏng vấn” nhỏ, dành cho những bậc thức giả,
bao gồm cả những người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, một câu hỏi duy
nhất: Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc đối
với Việt Nam là cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy
của quân đội Trung Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó
?

Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược của Mãn Thanh
thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là Tôn
Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang Trung. 

Chỉ có một học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc xâm lược cuối cùng
là vào thế kỷ 19, thời Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy đội quân
xâm lược là Phùng Tử Tài, còn người đánh bại cuộc xâm lược đó của Trung
Quốc là… thực dân Pháp.
 

Tại sao hầu hết những người am tường sách vở ở Việt Nam mà tôi có dịp
được hỏi lại hoàn toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược trong thế kỷ 19
này của Trung Quốc? Vì nó hoàn toàn bị xoá khỏi lịch sử. Nó không được
dạy trong chương trình sử ở cả bậc đại học lẫn trung học. 

Câu chuyện bị lãng quên: Nước Đại Nam trước hai “gọng kìm lịch sử” Pháp – Mãn Thanh

Cuối thế kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai siêu cường, Pháp và Mãn
Thanh, một bên đến từ phương Tây, mang theo nền văn minh của chủ nghĩa
tư bản, một bên là thiên triều ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo giác
mình là trung tâm của thế giới. 

Ngay sau khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch đánh chiếm
miền Bắc. Mãn Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu,
nhằm bảo vệ mô hình thiên triều – chư hầu ngàn năm, còn Pháp quyết lấy
nốt phần còn lại. Hai bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử,
dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua
một loạt trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Tuyên Quang năm
1883. 

Mãn Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực đánh bại Pháp trên đất
liền, chiếm toàn bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu vực đồng bằng
sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế cờ
bằng cách mở ra chiến trường trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ
diệt Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc Châu. 

Pháp – Thanh ký Hiệp ước Thiên Tân 1885. Nguồn: Laurence Oliphant (1860). Narrative of the Earl of Elgin’s Mission to China and Japan in the Years 1857, ’58, ’59. p. 279.

Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ lại vùng Bắc
Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc chấp
nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam. 

Hiệp ước Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả Mãn Thanh và Việt Nam.

Nếu như việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước Anh chỉ khiến Mãn
Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững
niềm tin vào hệ thống thiên triều – chư hầu, thì đến khi mất chư hầu
Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều – chư hầu của
họ bị đánh tận gốc rễ. Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu
trúc thiên triều – chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một
cường quốc, quyết định giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều
Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật Thanh 10
năm sau đó. 

Từ đó, việc cấu trúc và ý thức hệ thiên triều – chư hầu bị sụp đổ
toàn diện trong thế kỷ 19 trở thành một trong những nội dung chủ yếu của
ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại.  

Còn ở Việt Nam, do cuộc chiến Pháp – Thanh ảnh hưởng quá lớn đến số
phận Việt Nam, nên dù xoá cuộc chiến này khỏi Sách giáo khoa sử cho học
sinh phổ thông, ngày nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học sinh về
một số điều liên quan đến cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn
Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân 1885. 

Đó là sự kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu Vĩnh Phúc của Mãn
Thanh đã lập hai chiến công là giết hai chỉ huy của Pháp trong hai trận ở
Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp – Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới của
Việt Nam. Nhưng, nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp – Thanh mà lại
không nói gì về cuộc chiến tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của
hai nước Pháp – Thanh này, các sử gia của chúng ta đã cho học sinh phổ
thông học một bức tranh lịch sử cận đại theo kiểu… Pháp xâm lược Việt
Nam, rồi đột nhiên Mãn Thanh xuất hiện ký một hiệp ước quyết định số
phận chúng ta. 

Lưu Vĩnh Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc, bị triều đình Mãn
Thanh đánh bại, chạy sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số tội ác cho
dân chúng. Triều đình Huế không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh đánh
giúp. Khi triều đình Mãn Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với
Pháp, quân đội triều đình Mãn Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ
Lưu Vĩnh Phúc, ban cho phẩm hàm triều đình, thay vì tiêu diệt nó. 

Sách giáo khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam dùng khái niệm “quân ta”
để gọi Lưu Vĩnh Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn 70 năm trước, khi
sử gia Trần Văn Giàu và Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng bức
tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính của
mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên, ông nói rõ mục đích của cuộc
chiến: Việt Nam là chư hầu của Mãn Thanh, nay Pháp sang chiếm mất chư
hầu của ta, ta và Pháp là kẻ thù không đội trời chung.

Sử gia Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài Hịch này vào bộ sử “Bắc
kỳ kháng Pháp”? Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức hệ và mục
đích chiến tranh của họ Lưu. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân
chương “tình hữu nghị chiến đấu của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh
Phúc. 

Lịch sử của sự phân đôi phải / trái

Xoá bỏ cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp Thanh vào thế
kỷ 19, các sử gia miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô hình phân đôi: một
bên là thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc, một bên
là “dân tộc” anh hùng kháng chiến chống ngoại xâm. Trên cái nền bức
tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương
Tây” và bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các
nhân vật lịch sử sao cho ăn khớp với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes
dĩ nhiên thuộc bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý
niệm về lòng ái quốc mà chỉ chống người theo đạo Thiên chúa giáo để bảo
vệ hệ thống phong kiến nơi họ có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình)
được xếp vào bên phải.  

Vẽ bức tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia của Viện Sử học ở Hà
Nội từ thập niên 1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của giai đoạn tiếp
theo như cách chúng ta thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy anh hùng nhưng không có đường lối đấu
tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho đến khi Đảng Cộng sản ra đời,
mang về Việt Nam vũ khí tối tân là con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng
sản Việt Nam là nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch sử quốc gia thế
kỷ 20 được đồng nhất với lịch sử Đảng. 

Cách học ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ. 

Phục hồi ký ức?

Trần Trọng Kim, người cha của sử học hiện đại Việt Nam, 1883-1953

Cuộc chiến Pháp – Thanh và sự thất bại của Việt Nam khi bị kẹt giữa
hai siêu cường ấy đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt Nam, Trần
Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo
khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam, xuất bản vào 1919-1920. Cuốn
sách đã bị cấm ở miền Bắc sau 1954 và toàn quốc sau 1975. Nếu chấp nhận
phục hồi ký ức về cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp Thanh
thế kỷ 19, chúng ta sẽ phải chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như người cha
của nền sử học Việt Nam đã khắc họa một cách khách quan: Đó là thế kỷ mà
Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm Pháp – Thanh, bị giằng xé giữa hai
mô hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc” và “thuộc địa của thực dân
phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường “Tây phương hoá”
hay “tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hoá chữ Hán”. 

Điều đó có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu thế kỷ 20 cũng cần được
vẽ lại toàn bộ. Trong bức tranh này, vị trí của các lực lựợng chính trị,
các phong trào xã hội, các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như lịch sử
tư tưởng, văn hoá, văn học nghệ thuật… cũng sẽ được tái định vị một cách
căn bản.

Năm 1987, sử gia Nhật Bản  Tsuboi Yoshiharu xuất bản “Nước Đại Nam
đối diện với Pháp và Trung Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng tâm là thời
Tự Đức, như là thời đại Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn sách
được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trân Phượng Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn
Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là người viết lời giới thiệu.
Trần Văn Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên”
mất rằng, cách hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu thế kỷ 20,
trước sử gia Nhật Bản ấy đến bảy thập niên, trong “Việt Nam sử lược”,
cuốn sách mà chính các sử gia kiêm chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán từ
thập niên 1950 để độc quyền một cách kể chuyện lịch sử duy nhất. 

Nhận thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “chúng ta đến đây từ đâu và như
thế nào?”) và lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi “chúng ta làm gì bây
giờ?”) chỉ là hai mặt của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta thấy
qua câu chuyện phản đối đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes nói
trên, những lựa chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn chìm đắm trong một
màn sương mù của tư duy được đình hình từ giữa thế kỷ trước bởi Ban
nghiên cứu Văn Sử Địa.

Lãng quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu lịch sử phải lựa chọn
giữa Pháp – Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế giới, Việt Nam
ngày nay tiếp tục đối diện câu hỏi ấy một lần nữa.  

Đại học Oregon

(1) Nguyễn Khắc Xuyên tên thật của Hồng Nhuệ người dịch cuốn Divers voyages et missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine,& autres Royaumes de l’Orient, Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Tp Hồ Chí Minh xuất bản, 1994.


Nguồn:

Alexandre de Rhodes và sự tưởng tượng về lịch sử cận đại của nền sử học Việt Nam. BY KHOIN ·

THÁNG 11/27, 2019. DCVOnline phụ chú và minh họa bổ túc.