Văn

Túy Hà :CHỖ CUỐI CÙNG

CHỖ CUỐI CÙNG

 

Vẫn la hạt  bụi bơ vơ,

vẫn vần thơ cũ vẫn mơ

dại khờ

Thương em đã cách đôi bờ,

nhớ em

đành phải ôm hờ

gối chăn.

Qua cơn mộng mị trở trăn

giật mình mới biết ăn nằm

liêu trai

Tìm đâu ra liễu chương đài

trong câu thơ cổ trải dài

trăm năm.

Cũng là chiếu cũng là chăn

chỉ còn thiếu ánh trăng cài

song thưa

Làm sao mơ chuyện mây mưa

làm sao níu lại ngày xưa

cận kề.

 

Có phải em quên lối về

hay là

anh lạc vào mê sảng đời

Cho anh hạt bụi tả tơi

trăm thương ngàn nhớ là lời

trối trăn.

Vẫn biết em như trăng rằm

cuốn theo mây gió chiếu chăn

quen rồi.

 

Thì thôi còn lại chỗ ngồi

Đành gom hương nhạt ướp đời

bụi trôi.

 

Túy hà

 

THÁNG TƯ CHUYỆN CŨ HAY LÀ

 

Tôi quá ghét tôi là người lính cũ, bỏ súng bên trời

ứa máu bầm gan. Giận quá đi thôi, đạn dư cấp số

chưa đánh đã thua trước lệnh quy hàng.

Tôi muốn treo tôi trên thành giữa chợ, cho người với người

nguyền rủa tôi thêm.

Tôi thật là tôi tức mình chi lạ, đâu phải tại là đổ lỗi nọ kia.

Ừ thì cứ xem như thằng chết nhát, kẽm gai bao cát

lại chui đầu vào. Mười ngày đáo hạn, mười năm chưa về,

thân như cỏ rác, mọi người khinh chê.

        Tin ngoài nhắn vô: Nhà tan cửa nát, vợ theo cán bộ con đi ăn mày.

Ngoài đời giả vờ vui cùng chế độ, dĩ nhiên có thưởng khỏi làm, mại dô

        Trong tù có chó nhận làm ăng ten.Vệ sinh phòng ốc được phần khoai thêm.

Anh nào không phục lao dộng vinh quang, kể như chết bỏ. đời như trâu bò

Cứ thế ngày qua, hè thu chết dỡ.Đông lạnh xuân tàn,coi bộ đứt hơi.

May mắn làm sao,lệnh tha ra trại,Với điệu kiện nhỏ: Hiến nhà cho quan.

Ừ hiến thì hiến. Nhà chúng cướp rồi, làm sao lấy lại. Chết thằng tây thôi.

Mất nhà được lời ba năm quản chế, ở kinh tế mới nếm khổ với đời.

        Chuyện kể khóc cười, hết con đường sống, đành bước theo người

vượt biển bão giông.

        Giờ nói ai nghe, giữa trời nước bạn đồng minh một thời.Nhắc lại ứa gan.

Đã quên súng đạn từ lúc tan hàng, nhưng sao cứ cảm thấy lòng nát tan.

 

Túy hà

 

NGẬM NGÙI LỤC BÁT SÁU CÂU

 

 

Trăng ngà cỏ biếc tương tư

Nỗi buồn sương phụ ngàn thu không lời.

Ở đâu có sao đổi ngôi

Là luôn có những mộng đời dể thương.

 

Chùm hoa khế rụng bên đường

Cũng đau lòng khách viễn phương không nhà.

Câu thơ như những hồn ma

Tứ than vần oán theo ta không rời.

 

Câu thơ vô ý lỡ lời

Làm đau lòng mực ru hời trăm năm.

Trăng suông rụng xuống chỗ nằm

Cành hoa nương tử trở trăn chiếu giường.

 

Cỏ thèm hoa nắng tơ vương

Ta thèm tiếng thở miên trường xót xa.

Trăng thèm trải lụa sông ngà

Ta thèm nghe tiếng em và môi thơm.

 

Cũng là nhành lúa hạt cơm

Như hương thiếu nữ trổ hoa đòng đòng

Cũng là cành mới đơm bông

Cớ chi chậm nở trải lòng lửa rơm.

 

Hoa chanh hoa bưởi còn thơm

Níu tay kết lại vẫn đơm mâm đầy.

Vẫn là sông nước miền tây

Đò qua bến bắc miệt này buồn tênh.

 

Chim Quyên mê ngủ trên cành

Làm sao đánh thức khói xanh hương nồng.

Đò chiều đưa khách sang sông

Lòng cô lái có chờ trông khách về.

 

Thôi đừng một rủ hai rê

Sáu câu vọng cổ xuống xề gọn bâng.

Tần hoài dạ cổ phân vân

Nửa đêm buông tiếng mấy phần nhớ nhau.

 

Trăng ngà cỏ biếc ngàn sau

Nhớ gần nhau nhé kẻo đau lòng người.

Riêng ta chỉ xin nụ cười

Cho hành trang nhẹ gánh đời ngược xuôi.

 

Túy Hà

 

QUA SÔNG VẪN NHỚ CON ĐÒ

 

Mười năm lính

mười năm tù

mười năm chân đất sức kiệt tàn.

Ba mươi năm ấy còn cân thiếu

gánh nợ quê hương

chút nợ người.

Lý tưởng mười năm đời binh lửa

ngậm đắng mười năm giữa đọa đày.

Muối mặn chát môi, mồ hôi đổ lửa

cho mười năm sống kiếp ngựa người.

Tính nhân bản trong Phong kiều dạ bạc*

đang hỏi hồn Trương Kế về đâu.

Ta như gã hát rong tắt tiếng,

ta như người khất thực mòn chân.

Dẫu vẫn biết từ trong gỗ mục

vẫn còn nguyên cốt lõi trầm hương.

Dẫu vẫn biết đêm trường cô lẻ

vẫn có vầng trăng lạnh soi nghiêng.

Nhưng sao lạ,

giữa trời đất lạ.

Ai thân quen để chia nửa nụ cười

ai thân quen để cùng trao ánh mắt

chắt chiu chia sớt chút tình người.

Hỡi bạn lưu vong

phong trần đất lạ.

Có còn không dấu ấn từ tâm

có còn không nghĩa tình huynh đệ

Của một thời chia lửa gian nan.

Kiếm dựng trường sơn

Đạn ngăn sóng đỏ

Chinh nhân hồ dễ đã ai quên.

Ta tự hỏi ta

Như người mất trí

Ngẫn ngơ giữa phố thị buồn.

Ta tự hỏi ta

Đã quên

Hay vẫn nhớ

Nước mắt mẹ già trước giờ ra trận

Và chiếc khăn tay

Thêu tặng chữ trinh nguyên.

Nước mắt mẹ là mưa rừng nhiệt đới

Chiếc khăn tay là chiếc khăn tang.

Ngày mất nước là mất luôn cả mẹ

Và em tôi tan tác một đời hoa.

Ta tự hỏi ta

lính chưa giải ngũ

Sao lại là thành cựu quân nhân.

Và ta hỏi em

khăn tang chưa chít

sao gọi là cô phụ giữa phù vân.

 

Ta lại hỏi

ngược xuôi tên tuổi

có phải là ngược cả đời nhau.

Câu trả lời là lặng yên như cổ mộ

Lạnh sống lưng người, máu lính còn nguyên.

 

Bạn hữu ta ơi

đổi đời xin nhớ

Ván cờ thế sự chưa xong

Trận đánh cuối vẫn chưa phân thắng bại

Ngày tan hàng-vết chém chẳng liền da.

Và hòn than dưới tro tàn vẫn đỏ.

Tự hỏi mình có được giấc ngủ yên.

Lữ khách sang sông

Làm sao quên được

Bến xưa và những đời thuyền.

 

Túy hà

 

*cổ thi-trương kế