Biên khảo

Thế Phong : PHAN KHÔI qua một Chuyện tình trong tù.

PHAN KHÔI qua một ” Chuyện tình trong tù”.


bài viết : Thế Phong

 

Lời dẫn :

 

Một kiện tướng trong lịch sử văn học Việtnam  ở tiền bán thê kỷ XX, người ấy là Phan Khôi –  trọn cuộc đời chiến đấu cho lý tưởng theo đuổi – khi  đã nhập cuộc  thì dấn thân  hết mình vào nghiệp: làm cách mạng, làm  văn chương, báo chí, và  dịch thuật.

 Sinh 1887 ở Gò Nổi , Quảng Nam, cháu ngoại tổng đốc Hoàng Diệu. Đậu Tú tài hán học. Thân sinh từng đậu Phó bảng, làm tri phủ, sau từ quan vào  1936.  Năm 1917, Phan Khôi cộng  tác báo Nam Phong /chủ nhiệm, Phạm Quỳnh ,với tư cách một bỉnh bút.  Từ 1920- 1925 cọng tác với nhiều tờ báo: “ Phụ nữ tân văn””, Đông pháp thời báo”,” Thẩn chung””Thực nghiệp dân báo”, “Hữu thanh”,  chủ bút báo” Sông hương”… vv.. Khi “ Phụ nữ tân văn “, ông mở đầu cuộc bút chiến văn học với  thi  sĩ Tản Đà , khiến Tản Đà bức tức đến  độ, viết trả lời, có câu:”… trừ cái nạn Phan Khôi ở Nam kỳ..”. ( An Nam tạp chí) – một  người  đóng góp vào sự khai sinh” thơ mới” ở Việtnam, qua bài thơ” Tình già”.

 Từ 1919, một kẻ không là tín hữu Cơ đốc ,  có thể được khải thị,  tự nguyện  cọng tác  giáo sĩ W.C Cadman dịch  Thánh kinh – từ bản tiếng hoa sang việt ngữ ( Cựu ước + Tân ước) hoàn tất một cách ( gần như) hoàn hảo . Kể từ  ngày đó đến nay , 1/ 3 thế kỷ-  bản Thánh kinh tái bản rất nhiều lần ( trong và ngoài nước,  chỉ sửa lỗi chính tả)  vẫn được các  giáo sĩ,  mục sư,   Cơ đốc nhân trên toàn thế giới  nghiên cứu, tham khảo , hoặc Cơ đốc nhân   mang theo bên người  trong  buổi thờ phượng.

 Tháng  6 / 2011 tới đây , Tổng  hội Tin lành Việtnam ( miền Nam ) sẽ tổ chức” Lễ Kỷ 3 niệm 100 năm  Tin lành  đến Việtnam” tại thành phồ Đà Nẵng–  hạt giống đầu tiên  được gieo tại  Tourane  ( tên gọi Đà Nẵng cũ) , nơi gần kề quê hương Gò Nổi Phan Khôi.

 Sau khi bản Kinh thánh được xuất bản 1925, Phan Khôi giữ chức chủ bút báo  Thánh kinh được , trả lương  hậu hĩnh.

Một số tác phẩm đã xuất bản: “ Bàn về giao tế” ( 1918),” Nam âm thi thoại” (Hà Nội 1920- 1936 tái bản ở Huế đổi tựa” Chương dân thi thoại”,   “ Học thuyết và đạo đức Khổng phu tử”( 1924),  Tuyển tập Lỗ Tấn (  dịch, 2 tập)  và một  tác phẩm  quan trọng  “ Trở vỏ lửa ra “ ( 1939) vv…

   rất đồng ý cùng Thụy Khê-  bàn về tranh luận văn chương cùng đồng nghiệp,  hoặc bậc trưởng thượng. thì ông ta   tỏ ra thông minh xuất chúng ,  trực tính, quyết đoán, tự chủ, thẳng thắn , bướng bỉnh,   ngang ngạnh , đôi khi pha  chút ngạo mạn đáng yêu- hình như  chỉ  có ở một Phan Khôi mà thôi :

 “…khi  Phan Khôi viết bài tranh luận với  Huỳnh Thúc Kháng, thì có một người viết bài trách Phan Khôi là nhỏ mà hỗn, dám cãi lại bậc cha, chú.( Huỳnh Thúc Kháng là bạn Phan Trân- , cha của  Phan Khôi). Phan Khôi trả lời:”… đã tranh luận thì không có cha chú gì cả, phải có tinh thần dân chủ:  ai đúng thì thắng…”.

                             (Thụy Khê trả lời phỏng vấn Lê Quỳnh Mai – tạp chí “ Hợp Lưu” xuất bản ở Hoa Kỳ-    số tháng 4/ 2011) 

.         Năm 1945, theo cách mạng chống Pháp, năm 1956 chủ trương báo Nhân văn –  đăng thơ “Hồng gai”,” Hớt tóc”, Nắng chiều” vv. truyện ngắn “Ông Năm Chuột”,” Ông Bình Vôi”  (cảm hứng từ  một bài thơ nhỏ  Lê Đạt ),  tiểu luận kháng đối  “ Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, phản đối chuyên chính, đòi dân chủ, tự do chính trị, văn hóa, chống sùng bái cá nhân, đảng trị “… vv…

Nguyễn Công Hoan lên án:

”…Cách mạng tháng 8 cải tử hoàn sinh 25 triệu dân Việtnam, trong đó có Phan Khôi. Nhưng cái tên già này rất vô ơn với CMT8…

                              ( NCHoan: Hành đông và tư tưởng phản động Phan Khôi- tạp chí” Văn nghệ’ số 12,           Hà Nội 1958- chủ nhiệm: Đặng Thai Mai).

“… Ông qua đời ở Hà Nội năm 1956.

T.P.

 

 

Trong bài  này, chúng tôi đề cập Phan Khôi qua văn thơ – về thơ, đó là bài “ Tình già “ ( Phụ nữ tân văn số 132 ngày 10-3-1932) –một bài thơ giường cột hình thành phong trào thơ mới sau này.-  từ đấy trở đi, đến lượt Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Đỗ Huy Nhiệm, J.Leiba, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư vv.  hoàn thiện  – chỉ  riêng một Tản Đà lên án’ thơ mới “ do Phan Khôi đề xướng mà thôi.

 

 

                                                     TÌNH GIÀ

 

                                          Hai mươi bốn năm xưa

                                          Một đêm vừa gió lại vừa mưa

                                          Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nho nhỏ

                                          Hai cái đầu xanh kề nhau than thở

                                           -Ôi đời ta, tình thương nhau thì vẫn nặng

                                          Mà lấy nhau hẳn là không đặng

                                           Đã đến nỗi tình trước phụ sau

                                          Chi nói cho bằng sớm liệu mà buông nhau

                                           -Hay!, mới bạc làm sao chớ ?

                                           Buông nhau, làm sao cho nỡ ?

                                           Thương được chừng nào hay chừng nấy,

                                           Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy !

                                           Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng

                                           Mà tính việc thủy chung

                                           Hai mươi bốn năm sau

                                           Tình cờ đất khách gặp nhau

                                           Đôi cái đầu đều bạc

                                            Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được

                                            Ôi còn chuyện cũ mà thôi, đưa nhau đi rồi

                                            Con mắt có đuôi.

 

                                                             PHAN KHÔI

 

 Đây không hẳn một bài thơ mới – kể cả đúng quan niệm thời kỳ ấy, năm 1932.- nhưng nó vẫn được coi là một bài thơ mới  tiên phong, mở đầu  phong trào thơ mới.  Vậy bài thơ này có được coi “bài thơ mới mẫu mực”hay  chỉ là” một bài thơ tự do phá thể”?

Đến nay, nhìn lại , chúng tôi cho rằng Tình già ít tính chất thơ mới hơn thơ có nhịp điệu tự do-  rất gần với thơ tự do  sau này.

thơ tự do Phan Khôi trong bài này không là thơ tự do phá thể Tản Đà – và thơ mới – đúng ra  thơ mới chỉ thấy ở thơ Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lu, Hàn Mặc Tử, Đỗ Huy Nhiệm,

 J. Leiba vv…

Vậy lý do nào cho Phan Khôi, kẻ khởi xướng  phong trào thơ mới ? Có hai  lẽ:

        .. một : thoát khỏi lề lối bó buộc  thơ Đường.

      -..hai:  thơ mới cởi mở, ý thơ thoát hơn lục bát.

 

Thời đại ấy,  thanh niên, đọc giả có tri thức đã quen văn hóa phương tây; chịu ảnh hưởng  trực tiếp văn chương Pháp mà nền văn chương này đã  ăn sâu tâm não họ.  Từ khi bài thơ mới Tình già Phan Khôi ra đời , phong trào thơ mới có đà khởi điểm tạo  dựng thơ mới, và thơ mới đã thành công trên  tác phẩm các nhà thơ  mới nêu tên ở trên.

Phan Khôi, người am hiểu tận tường luật thơ, từng làm thơ Đường luật, cả thơ lục bát. Tuy rằng tôi chưa được đọc  một  bài luc bát nào Phan Khôi, nhưng thơ bốn, năm,  bẩy chữ , láng giềng lục bát, thì Phan Khôi xử dụng   từ ngữ, âm  vận chặt chẽ , khó chê bai !  Điều này rất khác, so  với nhiều tác giả làm thơ mới lại tưởng rằng luật   không quan trọng, chẳng liên hệ gì đến thơ mới  – như vậy e  là thiếu cơ sở.

 

Trở lại Phan Khôi, qua bút danh Chương Dân ( ký trên  Chương Dân Thi Thoại  bản tái bản) , ông thường cho đăng thơ trên tạp chí Nam Phong– nội dung  một số bài này ( chưa hẳn là thơ mới) như muốn bứt phá khỏi xiềng xích thơ Đường.  Qua bài trích dưới đây , hẳn không mấy ngạc nhiên, tại sao ông sớm trở thành

 

 

tác giả Tình già – và sau được coi  như kẻ công đầu Phong Trào Thơ Mới Việtnam? :

 

                                                              KHAI  BÚT

 

                                                  Cái túi thơ xuân tởn đến già

                                                  Hôm nay có cháu mở bùng ra

                                                  Thật lanh như biến, tết rồi tết

                                                  Ra quái gì đâu , ta với ta !

                                                   Lo phải được như hoa cỏ mới

                                                   Đã đành chơi với vợ con mà !

                                                   Thơ thẩn môn thành ân ai tá ?

                                                   Chất đống trên đầu chục chẵn ba !

 

                                                                PHAN KHÔI

 

Bài thơ sáng tác năm 1917, –  đăng trên báo Nam Phong.  Giọng thơ bất cần đới, tự chủ, tự mãn, pha chút điên ngông , hẳn có liên quan không nhiều thì ít tới một thời đoạn tù ngục sau này. 

Tham gia chống Pháp, với   tư cách đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, ông bị cầm tù ở trại tù quê hương Quảng Nam. Thời kỳ này, người tù có dịp làm quen một thiếu phụ tuổi còn trẻ.  Thiếu phụ là phu nhân môt võ quan  t Nam triều ,hàng tứ phẩm, được coi trông nom nhà tù giam phạm nhân chính trị. . Nếu phu nhân kia là” giai nhân” thì” phạm nhân coi Trời nhỏ  bằng vung” –họ gặp nhau chỉ qua cái liếc nhìn, quà ra mắt “ mớ trầu cay gứi cho phạm nhân –  dẫn tới  phu nhân yêu thầm, nhớ trộm  tên tù  chính trị– hiện do chồng mình cai quản.  Có thể, mệnh phụ phu nhân cảm phục thanh niên khí phách, vào tù, ra khám, chỉ vì yêu nước, dám chống lại chính quyền  Bảo hộ Pháp và quan lại  Nam triều.

Cũng có thể, mệnh phụ phu nhân võ quan  hàng tứ phẩm  kia lấy chồng qua  gả bán, nên tình yêu thực chưa có dịp bùng phát ,tới khi gặp tù nhân  đồng điệu , đồng lứa , tình yêu dễ bùng cháy ?

Nhờ vậy mới có chuyện tình trong tù rất nên thơ này- thơ mộng thì  rất thơ mộng-  nhưng  nước mắt lại đầy nước mắt ,   lại còn đầy nguy hiểm chết người  !

Sau, chính tác giả  tự -sự- kể TÌNH TRONG TÙ -hoặc đó là một  mẩu đời tù Phan Khôi Tự Truyện– đã   đăng trên báo xuân Đông dương  năm 1939.

Cùng nghe lời tâm sự:

 

“…Nếu người ta truy nhận cho chính trị phạm ở xứ ta 30 năm về trước cũng có giá trị, cũng hách dịch như chính trị phạm ngày nay, thì tôi không dại chi mà không khai ra rằng – tôi là một chính trị phạm bị án đồ  tam niên, giam tại Nhà Lao Quảng Nam. Năm 1908, tôi chưa đầy 21 tuổi. Vào tù, thật ra tôi chưa hề thấy mặt một chút gì đáng lo buồn cả, chỉ không an lòng, khi nào nghĩ đến thầy tôi.  Chừng hơn một tháng, tôi được thư thầy tôi ở nhà gửi cho, trong thư có phàn nàn trách mắng gì tôi cho lắm, chỉ có một câu than thở về tôi làm tôi tỉnh người ra, là câu này :” Lập thân nhứt bại, vạn sự ngôn giải” (nghĩa là: “con người ta, hễ lập thân đã hỏng đi một cái là muôn vật tan nát rã rời “).

Người ta mỗi người có một đầu óc, đến lúc cha con không giống nhau thì cũng không giống nhau. Thân thể của tôi dầu không lấy gì làm đáng lo cả, thằng tôi lo hộ cho tôi thì ai cần ? Ấy là cái Tú tài mới đậu xong đã bị tước khử, về sau còn không được đi thi, như thế con đường làm quan hẳn cụt rồi, không khéo về nỗi vợ con sẽ còn lôi thôi nữa, hẳn thằng tôi lo cho  tôi vì thế !.

Mà quả thế: sau một tháng, xảy ra việc thối hôn do cha mẹ của người vợ chưa cưới của tôi tuyên bố : thế là hai chữ ngõa giải đã ứng nghiệm được một phần rồi …”.

 

Trước hết, một người làm cách mạng  giống hệt dân thường – có hai điểm vướng mắc: đại gia đìnhtiểu gia đình.

…-.đại gia đình– đối với Phan Khôi,  thì cha mẹ không vui lòng. Lẽ đương nhiên, vì quyền lợi con cái- cha mẹ không bao giờ không mong cho tương lai con cái sau này thành danh phận. Sự lập chí Phan Khôi

 ( bây giờ) chưa nhìn thấy tốt trước mắt, đã sớm chịu liên lụy – nên sự trách quở (lập thân nhất bại, vạn sự ngõa giải) từ cha mẹ ông, là điều bình thường.  Còn tiểu gia đình, câu chuyện thối hôn gia đình nhà gái đối với phạm nhân chính trị Phan Khôi,” ngõa giải” đã ứng nghiệm, từ lời cảnh báo trước của thân phụ.

Đời sống tù nhân- lần này gặp một” ngõa giải” khác – chuyện tư tình cùng vợ võ quan hàng tứ phẩm. Người vợ võ quan trẻ, đẹp, mặn mà, không mấy dễ đè nén tình cảm bộc phát –thiếu nữ sớm bước vào vai thiếu phụ- có thể được gả bán cho một võ quan già, tuồi không tương ứng. Thiếu phụ khi đã yêu rồi, dễ sinh nhiều mưu mẹo, tới độ sảo quyệt để đạt mục đích – như can thiệp để  người mình yêu có nhiều cơ hội  tiếp cận, tỏ tình qua cử chỉ tế nhị, bóng gió, rất khó kết tội.:

 

“…Tôi mớ cái gói ra trước mắt Trưng.  Đố ai đoán được cái gì ? Trời ơi ! Gói trầu cau ! Mười miếng trầu têm kiểu Huế với mươi miếng cau bửa dính, mỗi dây năm miếng chồng răng sấu lên nhau thêm mươi mụn vỏ  chay và mấy chum hoa sói.  Cái gì lạ ! Thực tình tôi không hiểu, hỏi Trưng:

        Của ai thế này ? … Mà lại đưa cho tôi ?

        – Của bà Ch…

         Trưng vừa nói vừa cười ngỏn ngoẻn:

        – Đưa cho tôi? Tôi biết bà ấy là ai ?

        -Ấy thế mới lạ, Thầy mới có chuyện lạ, tôi đã nói.
Trưng nói câu ấy ra dáng đắc ý lắm, và hắn bắt đầu làm như là hắn là người có công ơn lắm với tôi.

        Liền tay gói cái gói lai, tôi trao trả Trưng, thêm rằng:

        -Anh cầm lấy, tôi không biết.

        Trưng xin tôi cứ nhận và kể đấu đuôi:

        -Lâu nay tôi phục dịch ở nhà bà Ch… và tôi đã được tin cậy nên bà Ch… có đem tình riêng ngỏ với tôi nhiều lần. Bà nói bà thấy thầy thì thương lắm, hôm nay gởi vật nhỏ mọn làm tin, mong ngày khác thầy cho bà gặp mặt để nói chuyện…”

         

                   Ông cho người đọc thấy độ thành khẩn cảm nghĩ về mối tình, sau khi  hình thành  khi phát hiện được mối tình vụng trôm , thì  dễ dàng ám hại tù nhân.  Phan Khôi gợi trong trí sự mơ mộng, liệu có ngày được trả tự do,     tù nhân có nên nhận gói trầu cau từ  mệnh phụ đưa duyên làm tin không    có thể gây cho phạm nhân phiền toái đến mức độ nào?  Vốn bản tính bướng bỉnh, quyết đoán, nghĩ là  làm- tù nhân vẫn nhận, bất chấp hiểm họa. Đọc giả theo dõi chuyện kể tới đây, rất không thể không nhớ tới  hình ảnh một tù nhân trong Người tử tù của Nguyễn Tuân –  đó là nhân vật  Huấn Cao, một vóc dáng oai phong kẻ tù nhân khí phách, tài ba, văn hay, chữ tốt- nằm dài trên phản nhà tù  tô nét bút lông trên tấm lua đào .  Ở đây, Phan Khôi kể cho nghe kinh nghiệm máu xương chính  tác -giả-tù-nhân sát gái, đa duyên, chữ tốt, văn hay, lại  còn toát ra niềm kiêu sa thầm kín một mẫu người  tù rất khác mọi người tù:

                   :

                   “…Số là trước đây, nửa tháng, ông Ch… có sai lính vào lao, hỏi thầy đội, trong đám  tử tù có ai viết chữ tốt thì lấy một người ra viết câu đối cho ông ấy.  Họ cử tôi. Tối hôm ấy hơi nóng lạnh nhưng lấy được sự ra ngoài làm sung sướng nên phụng mạng theo chơn người lính.

                   Đến nơi, thấy một đống cũng đến chín mười cân lụa đỏ bỏ ngổn ngang trên chiếu giảu dưới  đất và một nghiên mực lớn mài sẵn. Một người đàn ông chừng năm mươi tuổi to lớn, mặt đen, mũi to, ngồi trên sập giữa nhà, ấy là ông Ch…hất hàm chào tôi. Một thiếu phụ còn trẻ lắm, trạc tuổi tôi, người trắng trẻo, khuôn mặt trái soan, và đầu lẫn cổ quấn cái khăn nhiễu điều ngồi bên kia sập.

                   Nhà không có cái ghế nào cả, tôi ngồi ngay trên cái chiếu dươi đất, chỗ để nghiên mực. Ông Ch… bảo tôi:

                   – Có biết uống rượu thì – trời lạnh – uống mấy chén mà viết cho dựa tay.

                   -Bẩm có thì cũng được.

                   -Nhà còn rượu không mình ?

                   ông Ch… xây lại hỏi người thiếu phụ. Tôi nghe mới biết người ấy là bà Ch… vợ ông.

                   -Có hiếm mấy !

                   Vừa nói thiếu phụ vừa đứng dậy đi vào bên trong cầm ra một chai rượu thuốc và một cái cốc rót đưa cho tôi một cốc đầy.

                   Tôi uống cạn cốc rượu thì trải lụa ra viết. Ông Ch… sợ tôi viết quất, cứ theo nhắc từng chữ. Tôi lấy làm bực mình mà không tiện nói, thì ông lại còn vẽ cho tôi chữ này viết thế này, chữ kia viết thế kia. Tôi chừng muốn phát cáu. Người thiếu phụ xuống khỏi sập, lại gan nói cùng ông Ch…;

                   -Tôi xem người này cầm bút là người viết thạo, xin ông để cho người ta viết tự do.

                   -Bà nói lạ. Câu đối lụa ít tiền lắm sao ?

                   -Nhưng đã có ai làm hư của ông đâu. Ngồi kiềm lấy một bên thì còn ai viết được nữa chứ ?

                   Ông Ch… hình như chịu vợ nói phải, bước ra khỏi chiếc chiếu, rồi hai vợ chồng đứng coi tôi.

                   Bấy giờ tôi thấy dễ chịu, hưa cây bút như rồng bay phượng múa, hết đôi này đến đôi khác, càng viết càng thấy tốt. Người thiếu phụ cứ đưa con mắt theo ngòi viết tôi. Còn hơn đôi nữa thì hết, ông Ch… bảo vợ:

                   -Minh ơi mình. Rót thêm cho va cốc nữa đi !

                   Người thiếu phụ ngoan ngoãn, rót cốc rươi đặt trước mặt tôi và  nói :

                   -Nghỉ tay uống rượu đã thầy.

                    Tôi vâng lời như cái máy. Viết xong tôi cung kính chào ông Ch…

                   -Bẩm quan lớn,

                   Ông gật. Tôi lùi hướng về người thiếu phụ:

                   -Bẩm bà lớn, tôi vào..

                   Thì người đứng dậy:

                   -Tôi không dám, thầy lên.

                   (………….)

                   Đoạn cuối,. kết thúc câu chuyện tình Phan Khôi trong tù –  có một lần hai người gặp nhau vào một ngày cập xuân năm ấy… Chỉ một lần thôi rồi  biền biệt, sau này biết tin người thiếu phụ  đã qua đời.

                    Hai giả thuyết hiện  ngay trong đầu tác giả:

một :- người thiếu phụ phẫn uất vì bị gả bán cho một người chồng già .

                   hai    -trong một lá thư gửi cho tác giả, người thiếu phụ kia có lời đe dọa:” nếu không được ông yêu lại, người ra sẽ quyên sinh”.

                   Ngoài đời thường, khi người thiếu phụ lâm bệnh rồi qua đời – khiến có nhiều giả thuyết hoài nghi  đem lại.  Với Phan Khôi,  phạm nhân chính trị năm xưa tiết lộ; mối tình này không từ  ông khởi xướng.  Dầu sao đi nữa, dễ mấy ai lại không  bùi ngùi thương cảm  về chuyện tình kỳ thú tuyệt đẹp chỉ  xảy ra có một lần trong đời .  Như bức tranh thời rose của Pablo. Picasso  có tên The Lovers – vẽ  hình ảnh đôi tình nhân có thiên tình sử e ấp, nét dại ngây điên cuồng dâng hiến tình yêu, cả nét duyên dáng thật ngỡ ngàng người tình nữ !

                   Cùng  nghe Phan Khôi kể:

                    

                   “…Nhà có một mình bà Ch…Bà tiếp tôi trong một phòng xép. Tôi ngồi trên cái chõng nhỏ, bà ngồi ghế bên cạnh, tay đặt lên cái gáy trên cổ tôi, êm đềm nói:

                   -Chớ anh làm gì mà họ tù anh ?

                   Tôi gắng mỉm cười nói báng một câu:

                   -Thưa bà, bà còn thương hại tôi nữa sao ? Nỗi một cái hoang tôi dám đến đây cùng bà cũng đủ lắm rồi.

                   Bỗng thằng Trưng chạy thình lình từ ngoài ngõ vào, đứng trước cửa sổ đưa tay cao lên, chẳng nói chi hết. Bà Ch… đứng dậy mở cái cử cho tôi xuống bếp, và bảo tôi đứng yên một lúc sẽ hay. Tôi bấy giờ thấy ngay, nghe có tiếng nói ồ ồ ở nhà trai, tôi mở cửa nhà bếp thoát ra ngõ. Tìm lại người lính, tôi trở về nhà lao một mạch.

                   Ngay đêm hôm ấy, thằng Trưng nói cho tôi biết rằng khi tôi  đến, bà ấy liền cho hắn ra đứng canh ngoài đường, phòng ông Ch… trở lại thì vô báo. Quả nhiên ông trở lại, nói các quan còn nửa giờ nữa mới đi. Nên ông ngồi tội gì mà ngồi chực, về nhà nghỉ cho khỏe. Hắn lại nói bà phân vân về tôi mãi:” sao đã dặn dò một chút nữa mà tôi lạii bỏ về đi”.

                   Từ đó bà Ch… vẫn không tin tức cùng tôi nhưng không còn dịp nào cho hai chúng tôi gặp nhau nữa. Vì ông Ch..,. giữ bà ấy cũng như thầy đội đề lao giữ tôi vậy, hàng ngày không để bà ta   ra khỏi cửa và mỗi lúc ông đi việc quan thì đi rồi về ngay, không để bà ở nàh một mình qua ba giờ đồng hồ.

                   Không biết làm sao được, thỉnh thoảng bà Ch… lại bảo Trưng nói với tôi, kiếm cách đi ngang qua nhà bà một lần, để bà trông thấy. Quia tháng tư năm sau, ông Ch… không ở nhà cũ nữa, dọn về ở cái trại lính cách nhà lao không bao xa. Từ ấy bà ấy cùng tô inăng trông thấy mặt nhau hơn trước, nhưng vẫn khôngc ó dịp gần kề trò chuyện. Đến thằng Trưng mãn tù, giữa hai chúng tôi tin tức cũng thưa dần.

                   Một ngày tháng chạp, thình lình tôi tiếp được lá thư của bà Ch…, ấy là lần đầu bà viết thư cho tôi mà cũng là lần cuối. Trong thư bà nói nhân gần đi chữa lại đồ nữ trang, muốn g85p tôi tại nhà người thợ bạc, câu này tôi nghĩ mãi:

                   ” Dù yêu nhau mà không được gần nhau, thôi thì sống để dạ, chết đem đi”.

                    Tôi đến nhà thợ bạc, thì gặp bà Ch…ở đó nhưng người ta ở trong nhà đông quá, chỉ nhìn nhau mà hai chúng tôi còn sợ tai tiếng, không dám nhìn no nê. Trọn buổi chiều bà ở đó, làm ông cũng tò mò tới.  Khi trông thấy cái sống mũ đỏ chờn vờn trước cửa thì tôi đã đảo ngõ sau, thành ra thủy chung với bà, tôi chẳng trao đổi cùng nhau một lời nào. Tôi không ngờ lần đó lần cuối cung tôi gặp bà Ch… vì sang tháng giêng bà lâm bệnh, được đưa về Huế điều trị, rồi mấy tháng sau có tin bà từ trần…

 

Cũng không cần  nói thêm một lời  bình nào về chuyện tình trong tù Phan Khôi.

Thât hay và thật cao thượng !(*)

 

 THÊPHONG

 

 

(* trích trong” Tản mạn văn chương” ( tiểu luận, phê bình – 1952- 1975)- bản thảo chưa xuất bản.)

===========================================================================

Kỷ niệm 16.01.2005 là ngày giỗ thứ 46
 tưởng nhớ

      nhà văn PHAN KHÔI  (1887-1959)


Nguyễn Quý Ðại    

 

 

  Tiểu Sử

 

            Phan Khôi hiệu là Chương Dân, sinh ngày 20-08-1887 (Ðinh hợi) tại làng Bảo An, quận Ðiện Bàn, tỉnh Quảng Nam, thận phụ là phó bảng Phan Trân (1826-1935), thân mẫu Hòang Thị Lệ (1826-1882) con gái của Tổng đốc Hoàng Diệu (1828-1882). Năm 1906 Phan Khôi ra Huế thi Hương, nhưng rớt cử nhân được sắp vào hạng tú tài. Ông lấy biệt hiệu Tú Sơn (Tout Seul / cô độc) .

 

Phan Khôi xuất thân trong gia đình khoa bảng, ông nội là án sát Phan Nhu. Phan Khôi học Hán văn từ nhỏ, nhờ đọc các sách Tân Thư nên có tinh thần Duy Tân tin ở Dân quyền. Phong trào Duy Tân hoạt động (1906-1908) do Phan Chu Trinh (1872-1926), Hùynh Thúc Kháng (1876-1947) và Trần Quý Cáp (1870-1908) cùng các sĩ phu tại quê nhà lãnh đạo. Phan Khôi hưởng ứng Phong trào ra Hà Nội học chữ Quốc ngữ và Pháp văn, tham gia hoạt động với trường Ðông Kinh Nghĩa Thục mở cửa năm 1907.

 

           Năm 1908 Phong trào bị thực dân Pháp đàn áp, tất cả đều bị bắt bỏ tù hay tử hình. Phan Khôi lúc đó ở Hà Nội, bị bắt đưa về giam ở Huyện Diên Phước (Ðiện Bàn), thời gian ngắn, được ân xá ông ra Huế theo học tại trường Pellerin từ năm (1909 – 1911) (**) Thân phụ mất, ông về quê để tang, mở trường dạy học, hết tang ông lập gia đình (1913), nhạc phụ là ông Lương Thúc Kỳ (1873-1947) giáo viên trường Dục Anh tại Phan Thiết do ông Nguyễn Trọng Lợi thành lập ( Phong Trào Duy Tân).

 

Sinh hoạt viết Báo

 

Phan Khôi  là nhà văn, nhà báo, còn là nhà nghiên cứu sắc nét đã gây dư luận một thời.

 

* Ðăng Cổ  Tùng Báo (1907) của trường Ðông Kinh Nghĩa Thục.

* Nam Phong (1918) của Phạm Quỳnh (1892-1945), nhưng chẳng bao lâu bất đồng ý kiến,  bỏ vào Sài Gòn viết  tờ Lục Tỉnh Tân Văn thành lập từ năm 1907.

Ông ra Hà Nội  tiếp tục viết  :

*  Hà Nội Thực Nghiệp Dân Báo (1920)

*  Hữu Thanh (1921)

Phan Khôi trở về Sài Gòn vào năm 1925 cộng tác  các tờ :

             * Ðông Pháp Thời Báo (1923)

             * Trung Lập Báo (1924)

* Thần Chung (1929)

Tại Sài Gòn ông làm chủ bút :

 * Phụ Nữ Tân Văn (1929)  thời gian vì khủng khoảng tài chánh  đình bản.

Ông ra Hà Nội làm chủ  bút :

 * Phụ Nữ Thời Ðàm (1932)

Ở Huế ông làm Chủ bút :

 * Tràng An  (1934)

 * Phụ Nữ Tân Văn tục bản (1936)

Làm chủ nhiệm kiêm chủ bút :

 * Nhân Văn tại Hà Nội  (ngày 20.9.1956-15.12.1965 )

Trong thời gian nầy ông  viết thêm các tờ :

 *  Giai phẩm  (1956)

* Tuần báo Văn (1957) 

 

 

 

Phan Khôi dịch bộ Thánh Kinh của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Ðạo Tin Lành sang truyền giáo tại Việt Nam, chưa có Kinh Thánh bằng Việt ngữ. Phan Khôi là nhà Nho am hiểu Pháp văn. Ông đối chiếu hai cuốn Kinh viết từ Hán văn và Pháp văn dịch sang chữ Quốc ngữ.(1921),

 

            Phan Khôi gom các bài viết (1917-1945) được đăng tải qua báo chí in thành tập

            Chương Dân Thi Thoại  (chuyện thơ 1936).

Trở vỏ lửa (1939 cuốn tiểu thuyết  ít được nhắc đến)

Việt ngữ nghiên cứu (Biên khảo 1955)

Mộng trung mộng ( Mộng trong giấc mộng . Hán văn truyện ngắn Nam Phong)

Hoạn hải  ba đào ( Sóng gió bể hoạn- Hán văn truyện ngắn Nam Phong)

Lỗ Tấn truyện ngắn và tạp văn dịch  (của Chu Thụ Nhân 1858-1913)

 

Nhà xuất bản Đà Nẳng Trung tâm Văn hoá (Ngôn ngữ Đông Tây), nhà văn Lại Nguyên Ân, người am hiểu Hán văn cũng như Pháp ngữ đã sưu tầm biên soạn về Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928. 

 

Làm Thơ

 

            Bài thơ Ngụ ngôn ông viết vào khoảng năm 1909 sau vụ Trung Kỳ Dân Biến (1908) với thể thơ tự do nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Vì báo chí viết bằng chữ Quốc ngữ còn phôi thai . Sự nghiệp văn chương của Phan Khôi có chỗ đứng vinh quang trong trên văn đàn Việt Nam.

   

Mồng bảy tháng bảy năm Canh  thân

Chiếu lệ bắc cầu qua sông Ngân

Hằng hà sa số cu-ly (cooly) quạ

Bay bổng về trời dường trẩy quân

Hai bên bờ sông đậu lốc ngốc

Con thì kêu đói, con kêu nhọc

Đường sá xa xuôi việc nặng nề,

Phần lũ con thơ ở nhà khóc

Bỗng nghe lệnh trời truyền khởi công

Nào con đầu cúi, con lưng cong

Thêm bầy Lý Bẻo đứng coi việc,

Ðụng đâu đánh đó như bao bông !

Ngán cho cái kiếp làm dân thiệt !

Làm có, ăn không, chết cho hết !

Cắn cỏ kêu Trời, Trời chẳng nghe

Một con bay lên đúng diễn thuyết

Hỏi đồng bào nghe tôi nói đây :

Dân quyền mạnh nhầt là đời nay

Việc mà chẳng phải mà công ích,

Không ai cho phép đem dân đày

Trối kệ Hoàng Ngưu với Chúc Nữ

Qua được thời qua không thời chớ ?

Quốc dân Ô thước tội tình chi ?

Mà bắt xâu bơi làm khổ sở

Anh em ta, hè về quách thôi!

Luôn thể kéo nhau vào cửa trời

Dộng trống đăng văn, ầm đế tọa

Ngai vàng bệ ngọc, rung rinh rơi

Nghe tin dân quạ nổi cách mệnh

Ðường xá sá xuôi, việc nặng nề

Phần lũ con thơ ở nhà khóc !

Trời sai Thiên lôi ra thám thính

Ðầu đen máu đỏ quyết  hy sinh !

Ngừng búa Thiên lôi không dám đánh

Năm nay bỗng thấy chiếu trời ra,

Ðánh chữ đại xá trời ban cho

Dân qụa ở đâu về ở đó

Từ  nay khỏi bắc cầu Ngân hà

Ờ té ra:

Mềm thì ai cũng nuốt,

Cứng thì thời cũng nhả .    

Hằng hà sa số cu-ly quạ

Bay về hạ giới kêu kha! khá !

 Đông Pháp thời báo 2.6.1928

 

            Hai mươi ba năm sau bài thơ Tình Già trình làng, đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn số 122  ngày 10-3-1932. Từ đó phong trào thơ mới được bắt đầu, lối làm thơ tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, Ðường luật nhường chỗ cho phong trào thơ mới. Mở đầu cho thi ca Việt Nam phát triển phong phú hơn. Bài thơ Tình Già của Phan Khôi được đưa vào chương trình giáo dục (trung học) trước 1975  tại miền Nam:

 

Tình già

 

Hai mươi bốn năm xưa,

Một đêm vừa gió lại vừa mưa

Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ

Hai mái đầu xanh kề nhau than thở.

Ôi đôi  ta tình thương thì vẫn nặng

Mà lấy nhau hẳn là không đặng

Ðể đến rồi tình trước phụ sau

Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau

Hay ! Nói mới bạc làm sao chớ !

Buông nhau làm sao cho nở ?

Thương được chừng nào hay chừng nấy

Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy !

Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng

Mà tính việc thủy chung ?

Hai mươi bốn năm sau

Tình cờ nơi đầt khách gặp nhau !

Ðôi mái đầu đều bạc

Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được!

Ôn chuyện cũ mà thôi.

Liếc đưa nhau đi rồi !

Con mắt còn có đuôi

 

Lý luận Phan Khôi

 

Phan Khôi là một kiện tướng của “Quảng Nam hay cãi”. Người xưa nói  “ quân tử hòa nhi bất đồng” người quân tử không đồng nhất với nhau nhưng vẫn giữ tư tưởng sự hòa thuận tôn trọng nhau và cộng tác. Phan Khôi ảnh hưởng nho học và tân học ( say mê khoa luận lý học logique) khả năng lý luận uyên bác. Nhà văn Nguyễn Văn Xuân viết  về gia đình Phan Khôi:

 

 Tôi đã từng biết một gia đình cãi nhau những ba đời. Ðó là gia đình ông Phan Khôi, Cha Phan Khôi, một bậc đại khoa tên là Phan Trân (con án sát Phan Nhu), tôi không rõ giữa ông Phan Nhu và Ông Phan Trân có hay cãi nhau như thế nào không, nhưng giữa ông Phan Trân và Phan Khôi, các cụ vẫn còn kể lại những vụ cãi nhau rất kinh động. Rốt cuộc, cha thường vác roi đuổi con chạy tơi bời. Ðiều ấy dễ hiểu : ông phó bảng Phan Trân bênh vực cổ nhân như các bậc đại khoa thời ấy; ông Phan Khôi chống lại vì ông đọc Tân thư , tin ở Dân Quyền..  (Nguyễn văn Xuân Phong trào Duy Tân sđd trang 93-94 ).

 

Phan Khôi phê bình bộ Nho Giáo của Trần Trọng Kim (1883-1953) xuất bản gây các cuộc bút chiến với Phạm Quỳnh (1892-1945) vào năm 1930. (1). Trên tờ Phụ Nữ Thời Ðàm năm 1932,  bài viết “ Văn minh vật chất và Văn minh tinh thần” của Phan Khôi đưa đến bút chiến với nhà văn cộng sản Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (1908-1954).

 

 Phan Khôi là nhà văn miền Nam có danh tiếng mà gia đình đã tập kết ra Bắc, chính quyền Hà Nội năm 1956, cử ông đi Trung Quốc cùng nhà thơ Tế Hanh dự hội nghị kỷ niệm lần giỗ thứ 20 của Lỗ Tấn (1881-1936) tại Bắc Kinh (Peking), trên đất nước đàn anh cộng sản giáo điều, nhưng Phan Khôi tranh luận với cán bộ Trung Cộng về chủ nghĩa Mác xít (Marxist) , Phan Khôi phê bình khi tới thăm nhà máy An Sơn như sau :

Ngày xưa ông Mác nói:

 

          lao động sáng tạo nhưng tôi nghĩ rằng nên nói trí thức và lao động sáng tạo mới đúng

 

          Cán bộ Tàu lễ phép chửa lại :

 

    Thưa cụ, ông Mác nói là lao động là bao gồm cả trí thức trong đó chứ ạ !

 

Cụ Phan trả lời ngay :

 

      –    Không đâu, ý ông Mác chỉ muốn nói công nhân thôi, còn trí thức thì sau nầy người ta mới thêm thắt vào đó. 

 

Day học và hoạt động chính trị

 

            Năm 1934 dạy Việt Văn ở trường tư thục Hồ Ðắc San tại Huế. Năm 1936 Phan Khôi dạy tại trường Chấn Thanh  Sài Gòn do Phan Bá Lân làm hiệu trưởng. Năm 1941 trường Chấn Thanh dời về Ðà Nẳng. Trong thời đệ nhị thế chiến (1939-1945), có thể đời sống tại Sài Gòn khó khăn, Phan Khôi về Quảng Nam. Cụ lớn tiếng công kích cán bộ địa phương phá hủy nhà thờ Hoàng Diệu, và chính sách khủng bố của Việt Minh bắt thủ tiêu các đảng phái đối lập. Nhất là các đảng viên VNQDÐ. Ông Trương Phước Tường bị Việt Minh bắt tại Tam Kỳ ngày 4-2-1946. Phan Khôi được bầu làm chủ nhiệm tượng trưng cho tỉnh Ðảng bộ. Phan Bá Lân làm Bí thư và ban chấp hành tỉnh Hoàng Tăng, Phan Khoang, phụ trách Tuyên nghiên huấn. Lê Thận phụ trách Ðặc vụ ( Hoàng văn Ðào sđd trang 354).

 

             Hà Nội ngày 13-7-1946,  Võ Nguyên Giáp cho người lục soát trụ sở Ban Tuyên huấn Ðệ thất khu Ðảng Bộ của VNQDÐ tại số 9 phố  Ôn Như  Hầu, trụ sở nầy vốn của quân đội Nhật giao lại cho quân đội Trung Hoa, rồi chuyển cho VNQDÐ. Việt Minh phao tin lên tìm thấy trong khu vực nhà nầy có chôn xác người, lấy đó làm bằng cớ, lập biên bản kết tội VNQDÐ là tổ chức “ hắc điếm” để bắt cóc, giết người . Việt Minh thanh toán VNQDÐ được gọi là vụ án Ôn Như Hầu. Từ đó Việt Minh  thanh toán VNQDÐ trên toàn quốc (Minh vũ Hồ Văn Châm báo đd tr.45).

 

            Cán bộ địa phương không dám thanh toán  Phan Khôi và báo cáo lên cấp trên, vì con trai của Phan Khôi là Phan Thao (1915-1960), lúc bấy giờ làm cán bộ cao cấp trong Ủy Ban Trung Bộ, và Phan Bôi (1910-1949) bí danh Hoàng Hữu Nam (anh em chú bác với Phan Khôi) làm thứ trưởng bộ nội vụ Việt Minh.  Phan Khôi viết thư gởi Huỳnh Thúc Kháng đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Huỳnh Thúc Kháng vội vàng can thiệp với Hồ Chí Minh giàn xếp vấn đề, viết thư mời Phan khôi ra Hà Nội hợp tác, nhưng kỳ thực  giao Phan Bôi để quản thúc.

 

Tại Quảng Nam vào tháng 7-1946, tại Cầu Chiêm Sơn xã Phú Tân huyện Ðiện Bàn Việt Minh lấy cớ Quốc Dân Ðảng mưu toan phá hoại cầu khi có tàu lửa chở vũ khí vào Nam và  thanh toán các đảng viên VNQDÐ. Ngày 20-10-1946 tại Hà Nội Việt Minh tấn công tòa báo của VNQDÐ tại số 80 đường Quan Thánh do nhà văn Khái Hưng (1896-1947) phụ trách, tất cả bị bắt trong hôm đó có  Phan Khôi.

 

Phan Khôi những ngày trên đất Bắc           

 

Phan Thao và Phan Bôi đưa Phan Khôi lên các vùng chiến khu Việt Bắc do Việt Minh hoàn toàn kiểm soát. Sống biệt lập, giao trách nhiệm dịch sách từ Hán văn hay Pháp văn ra Việt ngữ. Phan Khôi tán thành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nên phải đứng chung với chủ nghĩa cộng sản.

 

Hồng nào hồng chẳng có gai

Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa,

Là hồng thì phải có hoa

Không hoa chỉ có gai mà ai chơi ?

Ta yêu hồng lắm hồng ơi !

Có gai mà cũng có mùi hương thơm.

(16.03.1951)

            Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) Phan Khôi đã làm bài thơ Thăm bộ đội, trong Tập văn kháng chiến và cách mạng:

 

Vượt núi trèo non tôi đến đây

Về thăm anh nghỉ dướI chân mây.

Chúc anh mạnh khoẻ rồi ra trận

Máu sức càng hăng để đánh Tậy

Đánh đến bao giờ độc lập thành

Tôi dù già rụi ở quê anh

Cũng nguyền nhắm mắt không ân hận,

Nằm dướI mồ nghe khúc thái bình.

  

  Trong những tháng ngày buồn chán bị cấm đoán cô đơn, Phan Khôi gởi tâm sự qua các bài thơ :

 

Tuổi già thêm bệnh hoạn

Kháng chiến thấy dài ra

Mối sầu như tóc bạc,

Cứ cắt lại dài ra.

 

Trong bài thơ  chữ Nho sáng tác năm 1950 Thế Lữ dịch :

 

Một mình đêm giao thừa

Ðến ngọn đèn làm bầu bạn cũng không có

Ðắp lên thân suy tàn một tấm chăn kép

Chợp mắt  mơ là nhằm miếng chua cay

Có vợ con mà sống chia cách

Không sinh kế  đành phải  ăn nhờ

Nghe tiếng gà mừng vùng dậy

Kháng chiến bốn lần gàp xuân rồi ! 

                       

                       

Một mình trước cảnh xanh núi rừng

Ta ngồi ngạo nghễ với bầy chim bầy vượn

Vì ta chạy loạn mà tình cờ gặp cảnh lâm tuyền

  

            Phan Khôi tự ví mình như con heo sống dưới chế độ cộng sản miền Bắc  :

 

Ðánh đùng một cái

Kêu éc éc ngay

Bịt mồm, bịt miệng

Trói chân , trói tay..  .. ..

Từ dây đến cái đao

Chẳng còn bao xa 

 

Hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954, Việt Nam bị chia đôi, sông Bến Hải ngăn cách hai miền Nam Bắc tại vĩ tuyến 17. Gần 1 triệu người bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Ngược lại Việt Minh cho các cán bộ kết ra Bắc và để lại khoảng 100 ngàn cán bộ nằm vùng. Gia đình Phan Khôi tập kết ra Bắc, được đoàn tụ gia đình về sống trong phòng hội Văn nghệ Hà Nội số 151 đường Trần Hưng Ðạo. Tương truyền rằng trong bữa cơm người bạn mời có thịt gà Phan Khôi cầm đủa, liền chỉ dĩa thịt gà trên mâm nói rằng “chín năm nay tao lại gặp mầy” (Hoàng Văn Chí  sđd tr.11).

 

            Suốt trong thời gian Phan Khôi sống trên các miền Thượng du rất khổ cực không được ăn thịt gà, đời sống về vật chất cũng như tư tưởng bị giới hạn, có thể nói đây là giai đoạn giam lỏng, không muốn Phan Khôi chống lại chế độ. Hồ Chí Minh tặng cho Phan Khôi một chiếc áo, nhưng lòng ông vẫn lạnh lùng vật chất không thể quyến rũ .

 

 Vụ án Nhân văn –  Giai Phẩm

 

             Tết Bính ngọ tháng 2 năm 1956 tại Hà Nội xuất hiện đặc san Giai Phẩm mùa Xuân do nhà xuất bản Minh Ðức (tư nhân), Trần Thiếu Bảo ấn hành (Chính Ðạo Việt Nam niên biểu 1939-1975 NxB  Văn hóa Houton tr. 108).

 

Giai phẩm Xuân nầy tập họp các cây bút sáng tác tự do, không lệ thuộc chính quyền. Không chấp nhận sự “lãnh đạo văn nghệ”.  Trong giai phẩm nầy nổi bậc nhất bài thơ  “Nhất định thắng” của Trần Dần, bị chính quyền kết án chụp mũ phản động, báo bị tịch thâu và ngày mồng 2 Tết Bính thân (13.2-1956).  

 

            Các văn nghệ sĩ sống tại Hà Nội chia làm hai thành phần : theo Ðảng làm bồi bút, hoặc độc lập sống nghệ thuật vì nghệ thuật. Thời bấy giờ dư luận xôn xao trong quần chúng về việc công báo kết quả các “Giải Thưởng Văn Học” năm 1954-1955 trên báo Văn Nghệ Hà Nội số 112 ra ngày 15.3.1956 và báo Nhân Dân ngày 17.3.1956.

 

 Các tác giả vừa có tác phẩm tham dự, vừa được làm giám khảo. Họ là văn thi sĩ  của đảng của chính quyền, nộp bài và tự chấm bài lãnh giải thưởng. (Tố Hữu giải nhất; giải nhì Xuân Diệu .. .) Phan Khôi người cương trực, viết bài phê bình vạch trần sai lầm đó . Tựa bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”  dài 14 trang giấy đánh máy đăng trong Giai phẩm mùa Thu tập 1 ngày 29-8-1965.

 

    -“Lãnh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc với lãnh đạo ?” đưa các vấn đề chính : Sau năm (1954) từ chiến khu trở về Hà Nội, thời gian chấm dứt chiến tranh . Văn nghệ sĩ tiếp tục bị trói buộc trong khuôn khổ của chế độ cộng sản, không có tự do sáng tác, giai phẩm mùa Xuân bị tịch thu (Trần Dần bị tù), Văn nghệ sĩ góp tiếng nói ôn hòa xây đựng xã hội, không xách động bạo hành, nhưng tiếng nói của họ bay vào hư vô .

 

            Phan Khôi viết truyện ông Năm Chuột trong giai phẩm mùa Thu tập 1 (giai phẩm nầy có thêm tập 2, tháng 10.1956 và tập 3 tháng 11.1956 .Giai phẩm mùa Ðông tháng 12-1956 bị đóng cửa cấm phát hành). Trong bài phê bình lãnh đạo văn nghệ  Phan Khôi viết :

 

Dưới chế độ tư sản, sự đối lập là thường nhân dân đối lập với chính phủ, công nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường . Nhưng ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải không đi đến đối lập, hễ còn đối lập là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt… Trường thi phong kiến thưở xưa tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn giữ sạch tiếng : Một người nào đó con em đi thi, thì người ấy có được cắt cử cũng phải “hồi tị”, không được đi chấm thi. Bây giờ  cả đến chính mình đi thi  mà cũng không “hồi tị”, một lẽ ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã “liêm chính”  cả rồi, một lẽ là tráng trơn vì thấy mọi cái “miệng” đã bị “vú lấp”.

 

Bài báo gây dư luận sâu rộng tại Hà Nội “có người thốt lên rằng chín mười năm nay mới nghe tiếng nói sang sảng của cụ Phan Khôi “  (Hoàng Văn Chí sđd 26).

 

            Phan Khôi còn làm bài thơ ngụ ngôn :

 

Một dạo, giữa loài giở cạn giở nước, mở cuộc thi sắc đẹp

Nhân có sự tranh chấp, ba con Ếch , Cóc, Ểnh ương đấu khẩu với nhau

Tiếng cóc nhỏ hơn hết, nhưng mà động đến trời

Trời phán: “chỉ có mày là đồng loại với chúng nó, mày sẽ làm vừa ý ta, không  được từ chối”.

Sau khi cực chẳng đã phải làm trọng tài, Nhái bén tâu kết quả :

Ểnh ương giải nhất, Ếch giải nhì, Cóc không ở giải nào cả?

Trời tỏ dáng không vui, bảo Nhái bén :

“Mày cố hết sức tìm ra ưu điểm Cóc xem”

Nhái bén tâu : Cóc có mụt nằm khắp cả người

Con không tìm ra ưu điểm nào

Trời phán “Thôi cho mày đi về”

Mấy hôm sau, có nghị định của Hà Bá sức về :

Nhái bén bị đày vĩnh viễn ở dưới nước, không được lên cạn nữa

Nhái bén gặp Cá Trê, kể cảnh ngộ của mình , Cá Trê bảo :

“Mày dại lắm đi đâu chẳng biết con cóc là cậu ông Trời”

Tao đây mà cũng còn thua kiện nó nữa là …

 

Nhân Văn

 

            Sau giai phẩm mùa Thu tập 1 Nhân văn ra đời. Phan Khôi giữ chức chủ nhiệm kiêm chủ bút số 1 ra ngày 20.9.1956 đến số 6, đang in tại nhà in Xuân Thu bị tịch thu và đóng cửa ngày 15.12.1956 .Tuổi về già nhưng Phan Khôi tận lực theo đuổi lý tưởng, không sợ bạo quyền đe dọa, dùng ngoài bút đấu tranh mong dành lại cho Văn học Việt Nam, một chỗ đứng trung thực dưới chế độ cộng sản.

 

Nắng chiều tuy có đẹp

Tiếc tài gần chạng  vạng

Mặc dầu gần chạng vạng

Nắng được thì cứ nắng

1956  (Hoàng Văn Chí sđd  tr 57)

 

 Nhân văn và Giai phẩm là những bông hoa hương sắc nở ra trên đất Bắc “Trăm hoa đua nở”  không lâu “Trăm hoa bị vào tù !”

 

Báo Văn

 

Báo Văn 10.5.1958, số 36 ngày 10.1.1958 do nhà Văn Nguyễn Hồng quản lý tòa sọan, đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi trong số 36. ngày 10.11.1958 từ đó bị đóng cửa.  Cộng sản làm cái bẩy “Trăm hoa đua nở “ để bắt toàn bộ văn nghệ sĩ có tư tưởng chống lại chế độ, thanh trừng, bỏ tù đưa đi lao động, cải tạo trên các vùng rừng sâu nước độc.  Các nhà Văn, thi sĩ thời tiền chiến (trước 1945) nổi danh như : Xuân Diệu , Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Tuân họ sống với cái xác trong xã hội cộng sản, hồn thơ, lời văn của họ đã chết từ lâu . Vụ án Nhân Văn Giai phẩm 30 năm sau (1956-1986) Đảng CSVN nhận ra cái sai lầm đàn áp tiêu diệt văn nghệ, cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “cởi trói cho văn nghệ sĩ”. Những người bị kết án hồi năm 1956 được phục hồi danh dự cho vụ Án Nhân Văn nhưng các nhà văn, nhà thơ tiền chiến họ đã ra người thiên cổ.!! Nhà thơ Hữu Loan với bài thơ bất hủ “Đồi tím hoa sim” là nhân chứng cuối cùng đã được đài BBC London phỏng vấn đã cho biết thực tế giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử Việt Nam. Văn nghệ sĩ miền Bắc sống trong đe dọa thường bị kết án phản động giống như Phan Khôi viết:

 

 – Thật là cái tội phản động ở xứ nầy sao mà ghép một cách dễ dàng quá. nhược bằng bắt mọi người phải viết theo lối của mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết . Cụ Ðồ Chiểu ơi! Cụ Ðồ Chiểu ơi ! Ở thời cụ, cụ đã kêu : Ở đây nào phải trường thi, Ra đề hạn vận một khi buộc ràng ! Thế mà  bảy tám mươi năm sau cụ, người ta còn làm ăn gì được nữa cụ ơi ! Tôi đâu còn là tôi đâu được nữa cụ ơi !!

 

Ðầu năm 1956 Phan Khôi dịch cuốn sách trong đó có chữ “Pomme de terre”, ông dịch chữ đó “ khoai nhạc ngựa” . Báo Cứu quốc chê Phan Khôi già lẩm cẩm dịch sai, cho rằng hai chữ trên phải dịch là “khoai tây”, sao dịch là “khoai nhạc ngựa?

            Phan Khôi trả lời :

 

         – Ai cũng biết “pomme de terre” là “khoai tây” nhưng lâu nay cán bộ phụ trách cấm ông dùng chữ  “Tây” và chữ “Tàu” v.v… khi ông viết chữ “chè Tàu” thì bị sửa lại thành “chè Trung quốc”, thịt “kho Tàu” thì đổi thành “thịt kho Trung quốc”. Do đó ông chiều ý lãnh đạo đỉnh cao trí tuệ ông đã dịch chữ  “pomme de terre”  ông không dịch là “khoai tây”  mà dịch là “khoai nhạc ngựa”, vì theo tiếng Trung Quốc gọi là “mã linh thự”. Phan Khôi thông hiểu hai ngôn ngữ Hán văn va Pháp văn. Ông lý luận rõ ràng không thể chê vào đâu được.     

 

Phan Khôi với “Nắng  Chiều

 

            Vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1956 Phan Khôi không bị tập trung cải tạo như các văn nghệ sĩ  trí thức khác, phải đi lao động khổ sai, nhưng cuộc đời của ông là chuổi ngày còn lại cô đơn !

 

Làm sao cũng chẳng làm sao

Dẫu có thế nào cũng chẳng làm sao

Làm chi cũng chẳng làm chi

Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao

(theo  Hoàng văn Chí sđd 58)   

 

            Ngày sinh nhật thất thập của Phan Khôi viết :

 

Lên bảy mươi rồi mẹ nó ơi !

Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai

 

            Tai vách mạch rừng đến tai nhà văn Nguyễn Công Hoan, nhà văn bồi bút đắc lực với chế độ  kiếm miếng đỉnh chung, họa lại bài thơ thật vô lễ, khiếm nhã với nhà thơ đàn anh lão thành  Phan Khôi.

 

Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi !

Thọ mi, mi chúc chớ hòng ai       

Văn chương! Ðù mẹ thằng cha bạc !

Tiết tháo ! Tiên sư cái mẽ ngoài

Lô-dích, trước cam làm kiếp chó

Nhân văn nay lại hít gì voi

Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,

Thêm nhục cơm trời chẳng thấy gai

(Theo Hoàng văn Chí sđd tr.15)

 

            Nắng Chiều là tựa đề tác phẩm Phan Khôi tập họp các bài bút ký, tạp văn viết từ năm 1946. Bản thảo của Phan Khôi đưa cho nhà xuất bản Hội Nhà Văn, bị dìm luôn không được đăng , có thể bản thảo Nắng Chiều được các nhà văn “bồi bút” trong hội đọc. Thế Lữ (1907-1989) viết bài trên báo nhân dân ngày 12-4-1956 số 1501 lên án Phan Khôi:

 

            – Phan Khôi phản cách cách mạng, ngấm ngầm chống đảng lãnh đạo cách mạng từ trong kháng chiến, đó là việc hiện giờ ta đã thấy rõ hiển nhiên. Phan Khôi vẫn khoe là được Hồ Chủ tịch tặng chiếc áo lụa, và kể cho tôi nghe một chuyến gặp Hồ chủ tịch. Chuyện được chiếc áo, tôi không thấy ông ta tỏ ra một ý nào là cảm kích.. (Nguyễn Minh Cần sđd tr. 33)

 

            Trong bài phê bình tiếp tục tác giả Ðoàn Giỏi (1925-1989) tựa đề “tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi” đăng trên báo  Văn Nghệ số 15 tháng 8-1958. Nhờ loạt bài phê bình trên có trích dẫn, những tác phẩm cuối cùng Nắng Chiều của Phan Khôi  gồm có hai phần :

 

Phần một  các truyện : Cầm Vịt  –  Tiếng Chim –  Cây cộng sản

 

Nói về chuyện Cầm Vịt

 

Tôi thấy làm cái nghề này tuy vất vả mà ăn ở như thế thì đầy đủ lắm, giữa chủ và bạn cũng không có chi khác nhau. Ông chủ nói rằng nếu không thế thì không thuê được người chẳng những phải trả tiền thuê mỗi tháng mà cuối mùa còn phải chia hoa hồng cho anh em nữa, vì thế tuy được lãi nhiều mà vào tay người chủ không còn mấy.

 

Tiếng Chim:

 

Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ rình bắt gà con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được cũng bay đi tuốt, nó không hề nói  “Mầy phải cho tao với !”

 

 Cây cộng sản 

 

            – Có một thứ thực vật cũng như sen Nhật Bản ở xứ ta, trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Ðâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy ở Việt Bắc không chỗ nào không có.” Theo Phan Khôi có nơi gọi loại cây trên là “cỏ bù xít” hoặc “cây cức lợn”  hoặc “cây chó đẻ”.  Ông nói rằng những tên cây đó đều không nhã tí nào, người có học không gọi như vậy mà gọi là “cây cộng sản”.

 

            – Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái trình trạng ấy bắt đầu có những năm 1930-1931 đồng thời với Ðông Dương Cộng sản đảng hoạt động. Phong trào cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy, cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là ( herbe communiste), đáng lẽ dịch là cỏ cộng sản. Nó còn một tên rất lạ hỏi ông già Thổ. Tên nó là cây gì ? Ông nói tên nó là (cỏ cụ Hồ) .Thứ cỏ nầy trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường sá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó là như vậy.

 

Phần hai tạp văn các truyện : Thái Văn Thu, Ông Năm Chuột,  chuyện ba ông vua Kiền Long, Quang Trung và Chiêu Thống,  Nguyễn Trường Tộ, được trích dẫn :

 

 Thái văn Thu

 

-Theo lời Thu thì nhà hắn cũng đủ ăn, hắn đi ăn trộm không phải vì túng thiếu mà không muốn làm nghề gì hết. Cái nhân sinh quan hắn đại khái là “người An Nam” phải làm giặc đánh Tây mà không làm được, thì đi ăn trộm, ăn trộm của “Tây”

 

 Nói về Nguyễn Trường Tộ

 

-Tự Ðức có phê vào bổn điều trần của Nguyễn Trường Tộ do quan tỉnh dâng lên một câu:  “Dùng được đấy hay là cho nó một chức quan để lấy lòng nó, dùng sức nó một chức quan. Ông ấy tưởng người ta báu cái chức quan của ông ấy lắm đấy”. Vua thì như thế còn đám quan liêu từ triều đình đến ở các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn cũng đều là hủ nho, dưới vua, hai hạng người nầy nắm quyền lợi một nước trong tay họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi , thì còn ai mà làm gì được ? “ Lấy trường hợp Nguyễn Trường Tộ để ám chỉ xã hội dưới thời cộng sản.”

 

Phan Khôi con người khẳng khái, Sống và Viết trung thực không luồn cúi dưới chế độ Cộng sản để mưu cầu danh lợi. Ông sống  đúng tiết tháo của một nhà nho cho đến cuối cuộc đời. Những bài viết trong tập Nắng Chiều dù không được xuất bản. Nhưng nhờ Ðoàn Giỏi trích dẫn phê bình. Chúng ta thấy Phan Khôi chủ đích chính trong bài chỉ trích  chế độ cộng sản độc tài cai trị tại miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. Phan Khôi một vì sao lạc dưới chế độ cộng sản, đã giết chết cuộc đời văn chương. Nhưng trong tuổi già nắng xế Phan Khôi viết phản ảnh chế độ cộng sản như loại “cỏ bù xít” vì loại cỏ nầy có mùi hôi như con bọ xít. “Hoa cứt lợn” hay là cây “Chó đẻ”. Học giả Đào Duy Anh sống ở miền Bắc sau 1975 vào Sài Gòn đến thăm  nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã tậm sự :

 

         –Xã hội chủ nghiã vài trăm năm nữa cũng chưa xây dựng xong, mình sẽ bị phương Tây bỏ lùi lại sau rất xa nếu không có sự thay đổi mạnh mẽ  (Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê trang 521).

 

           Thiên đường cộng sản từ Liên Sô đã sụp đổ từ năm 1990 làm thay đổi cục diện thế giới, các quốc gia ở Đông Âu đều từ bỏ chủ nghiã cộng sản theo chế độ tự do và dân chủ . Những loại cỏ Phan Khôi đã gọi trong văn chương, hy vọng người Việt Nam nhổ bỏ bớt loại cỏ ấy, trồng những loại hoa xinh đẹp cho quê hương thêm  tươi thắm.

 

 Tình thần sống và hoạt động của nhà văn Phan Khôi thật đáng ngưỡng mộ. Theo lời kể lại, người con trai của ông là Phan Thao khi đó là cán bộ đảng, đã không dám đến dự đám tang cha mà chỉ cải trang làm một người tình cờ, dắt xe đạp đi trên vỉa hè trong lúc đám tang đi dưới lòng đường.!!!

 

 Trong nhiều thập niên sau đó tên tuổi ông bị lãng quêǹ, sự nghiệp báo chí của ông cũng ít được giới thiệu. Văn học miền Nam trước 1975 đều biết Phan Khôi qua bài Tình Già . Nhà văn Thanh Lãng viết về Phan Khôi trong Phê bình Văn học thế hệ 1932 Sài Gòn 1973, Trăm hoa đua nở cuả Hoàng Văn Chí, mãi cho đến năm 1995 , 13 năm tranh luận văn học 1932-1945  in lại  3 tập Tp HCM 1995.  Nhà văn Phan Khôi mất vào lúc 11 giờ sáng ngày 16-1-1959 tại số 73 phố Thuốc Bắc Hà Nội, Phan Khôi sống và mất như nhà thơ Phùng Quán  viết :

 

Tôi muốn làm nhà văn chân thật

Chân thật trọn đời

Ðường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi

Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã

Bút giấy tôi ai cướp giật đi

Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá

(Hoàng Văn Chí sđd 121)

 

            Tố Hữu chủ trương tiêu diệt Văn nghệ sĩ không theo đảng như nhóm Nhân văn Giai phẩm, lúc về già Tố Hữu sống trong cô đơn, tội lỗi hành hạ, lương tâm cắn rức sợ Diêm Vương hỏi tội đã tâm sự với nhà văn Nhật Hoa Khanh trong bài Lời Tâm Sự trang 30 : khen cụ Phan Khôi !!

 

            -Không thể quên được hình ảnh gương mẫu và nồng nhiệt của cụ trong đội quân văn nghệ kháng chiến chống Pháp, không thể bỏ qua được những kết qủa của cụ trong việc đổi mới thơ Việt Nam trước khi xuất hiện phong trào thơ mới. Phan Khôi còn là một học giả về văn học Trung Quốc. Muốn hay không muốn cụ cũng đã có một địa vị xứng đáng trong lịch sử văn học nước ta thế kỷ thứ 20..

 

            Chân thành cảm ơn các tác giả viết về nhà văn Phan Khôi và tôi đã mạn phép trích đăng, dẫn chứng tài liệu và hình ảnh cho bài viết nầy,

 tác giả Nguyễn Quý Đại nguyenquydai@khoahoc.net

 

NGUYỄN QUÝ ÐẠI

 

Chú thích thêm về phần tiểu sử ( **)

 

1/ Quảng Nam Đất nước và Nhân vật của Nguyễn Quyết Thắng trang 598 viết  Phan Khôi bắt giam đến 1911

 2/  Sử gia Trần Gia Phụng viết trong Đất Ngũ Phụng  2001 Huyền thoại Phan Khội trang 89 „có lẽ thời gian ngồi tù Phan Khôi không lâu, vì sau đó người ta thấy ông ghi tên theo học trường Pellerin Huế trong hai năm 1909-1910. Năm 1911 thôihọctrường Pellerin, Phan Khôi về lại quê nhà thọ tang cha, mãn tang ông lập gia đình năm 1913…

 3/ Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến toàn tập của Nguyễn Tấn Long

trang 80 viết „Cuối năm 1907 Phan Khôi bị bắt cần tù tại nhà lao Quảng Nam. Đến cuối năm 1914 thế chiến thú 2 bùng nổ . .. Albert Sarraut ân xá một số thường phạm và chính trị phạm trong đó có Phan Khôi.“ Vậy ghi lại các đoạn trên để rộng đường suy luận

 

1/ Phan Khôi bút chiến

 

Phan Khôi viết bài phê bình trên Phụ Nữ Tân Văn số 54  tháng 6 năm 1930 “ Ðọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim” sau đó Trần Trọng Kim trã lời  cùng tờ báo trên số ngày 10-7-1930 bài “ Mấy lời bàn với tiên sinh về Khổng giáo “ tiếp theo số báo 62 ngày  24-7-1930 Phan Khôi viết tiếp” Sau khi đọc bài trã lời Trần Trọng Kim tiên sinh, cảnh cáo các nhà học phiệt “  Trong bài nầy có đề cập đến Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh trã lời Phan Khôi  số báo 60 ngày 28-8-1930 “ Trã lời bài cảnh cáo các nhà học phiệt của Phan Khôi tiên sinh “ Phan Khôi đáp lại số 70 ngày 18-9-1930 “ Về cái ý kiến lập hội Chấn Hưng Quốc Học của ông Phạm Quỳnh” 

Sau bài viết của Phan Khôi trên báo Ðông Phương (1933) Nguyễn Khoa Văn đả kích Phan Khôi duy tâm Phan Khôi viết lại trên Phụ Nữ Thời Ðàm gây bút chiến sôi nổi về “Duy tâm hay duy vật”

 

– (Sau nầy người con trai Phan Thao viết bài phê bình báo Nhân Văn do thân phụ giữ chức chủ nhiệm kiêm chủ bút ngày 16-12-1956 tại Hà Nội. Bởi vì tư tưởng không đồng nhất Phan Khôi thích  Dân Quyền, ngược lại con ông thích cộng sản. “con cải lại cha“)

 

Tài liệu tham khảo thêm

 Ân tích cộng sản Việt nam của  GS Trần Gia Phụng

 http://www. Freeviet.org/nvth/nhanvan/nchieu.html

 http://www.xuquang.com/links/vanhoc/phankhoi/ )

độc giả có thể đọc toàn bài thơ nhất định thắng của Trần Dần

http:/www.freeviet.org/nvth/nhavan/ndt.html.

Cánh én số 140 tháng 5 và 6 2004