Văn Thơ

Phan Ni Tấn – Amai B’lan, Nước Mắt Của Rừng

Phan Ni Tấn – Amai B’lan, Nước Mắt Của Rừng

Amai B’Lan là bút hiệu của một cô giáo từng dạy học thiện nguyện ở miền cao. Cô còn rất trẻ và dù chỉ dạy một quãng thời gian ngắn tại một buôn làng heo hút của miền Thượng du nhưng cũng đủ để cô thực hiện được ước mơ nhỏ bé của mình là viết ra tập bút ký mang một cái tên hết sức “miền Thượng”: Nước Mắt Của Rừng (*).

Đọc Nước Mắt Của Rừng, người đọc dễ nhận thấy ngay Amai B’lan viết về Tây nguyên với biết bao thiện chí chân thành như viết về cuộc đời mình: “Tôi mê cao nguyên không đơn thuần chỉ vì vẻ đẹp trinh khôi của nó, mà còn vì trong chuyến đi mạo hiểm đầu đời, tôi được những con người tốt bụng của cao nguyên đùm bọc khi sa cơ lỡ bước. Giờ đây, tôi muốn làm một cái gì đó cho vùng đất đáng yêu này.”

Tuổi 18 là lứa tuổi đẹp như bông hoa vươn lên quãng trời xanh bát ngát mà cũng là một lứa tuổi đầy lý tưởng, tuổi của phiêu lưu mạo hiểm từ trong máu. Đoạn cô tả cảnh thân gái dặm trường, một mình đạp xe đi từ Di Linh lên tận Kontum ròng rã suốt một tháng trời với biết bao may rủi dọc đường mưa nắng, đói khát, mệt mỏi… đủ thấy cô có duyên có nợ từ kiếp nào với cao nguyên đến trời đất cũng phải kinh động.

Với Amai B’Lan, Tây nguyên nói chung hay Cheo Reo, Phú Bổn, Ayunpa, Krông Pa nói riêng là quê hương đất nước, là buôn làng, mà cũng là chỗ dựa tinh thần của cô. Chỉ cần một không gian nhỏ bé là vùng đất hẻo lánh của Ayunpa và một quãng thời gian ngắn ngủi thôi cũng đủ sinh ra Amai B’Lan, đủ để tạo nên số phận cô, duyên nợ cô, con người và cuộc đời cô. Chính cuộc sống nội tâm đã thúc đẩy cô hướng về phía núi, nên qua một hoạt động mục vụ của nhà thờ cô tìm thấy niềm vui trong công việc dạy học để giúp cho các em người Jrai học tốt hơn, dạy cho các em biết phân biệt tốt xấu để tránh bị người đời lừa đảo.

Amai B’Lan đến với người Jrai hoàn toàn không mang theo hoài bão của con người thời đại, như cô nhỏ nhẹ phân trần “Không dám có ước muốn tìm hiểu một dân tộc thẳm sâu và lạ lùng trong quãng thời gian ngắn như thế”. Nhưng sâu trong một tâm hồn hiền hòa, chất phác như nương rẫy, Amai B’Lan đến với Tây nguyên bằng tinh thần thiện chí, bằng hơi thở, bằng nhớ thương, bằng nỗi ám ảnh trước cảnh đời không như cô mơ ước, người đọc mới cảm nhận tự đáy lòng cô dâng lên những gợn sóng u hoài. Chúng ta hãy nghe Amai B’Lan diễn tả tâm trạng này: “Tôi đã tới nơi cần tới sau nhiều ngày mơ tưởng về thủ phủ của người Jrai, về vùng đất của Pơtao Apui, về những căn nhà sàn đêm đêm bập bùng ánh lửa kể akhan, về một dân tộc có đời sống tâm linh vô cùng sâu sắc, nhưng sao cảm giác trong tôi thật lạ, có gì đó như là tan vỡ.”

  Đọc Amai B’Lan, ta thường gặp những lời trần tình biểu hiện lòng biết ơn vô lượng những con người miền cao, cũng như cô bộc lô nhận thức một loại triết lý trăn trở, cảm thông về cuộc đời con người đã mất đất, mất cả chủ quyền. Chia sẽ nỗi trầm luân của người bản địa, Amai B’Lan thổ lộ: “Người Jrai đã từng là chủ vùng đất này (tên Gia Lai đọc từ chữ “Jrai” mà ra). Tổ tiên họ đã sống và đã chết ở đây. Họ có cách sống và văn hóa của riêng họ… Trên đầu họ là bầu trời tự do. Dưới chân họ là đất rừng linh thiêng. Họ sống như thế biết bao thế hệ. Mọi chuyện cứ diễn ra như thuở ban đầu cho tới khi người Kinh tới.”

Chính vì thế mà xuyên qua Nước Mắt Của Rừng, ta thấy cuộc sống của đồng bào miền núi đã bị đồng hóa vào đời sống thành thị đầy hỗn tạp, tục lụy, méo mó, chao đảo, ngụy tạo. Sau cơn bão thời thế, những cái đẹp, những cái bình dị, mộc mạc của con người thuần lương, cái hoang dại nên thơ, cái hào hùng cao cả… đã bị thay thế bằng những cái bi thương, những cái thấp hèn dung tục, cái ác tâm, ác tính. Rõ ràng là bầu không khí thiêng liêng và bí ẩn nằm sâu trong bản chất cuộc sống như biểu tượng tâm hồn dân tộc của đồng bào thiểu số đã hoàn toàn đảo lộn từ gốc rễ.

Tôi xa quê lâu rồi, có hơn nửa đời người chưa từng trở lại nên thầm tiếc cho cái khố thân yêu của người đàn ông Thượng và cái xà-gạc trên vai, hay cái eng truyền thống của người đàn bà Thượng với cái gùi trên lưng có còn theo họ lên rừng lên rẫy, ra chợ búa hay không. Còn những biểu tượng muôn thuở của đại ngàn như cái ná, cái tên, cái tù và có còn treo trên vách nứa?  Còn nữa, con chim ông lão, con chim kơ-tia hay con chim ka-lơi có còn… tức tiếng hót của con chim hoàng anh mà hót vang trên rừng trên núi, và cả cái nai, cái hoẵng dễ gì tồn tại trên nương rẫy thân thương?

Đọc Nước Mắt Của Rừng, người đọc mới xót xa, hoài cảm vì giữa cuộc sống hiện đại đã mọc lên những hàng quán café, quán nhậu, cửa hàng điện thoại và các dịch vụ khác, người đọc không còn tìm thấy nhiều dấu vết hiền hòa, êm ả của buôn làng, không còn bếp lửa nhà sàn ấm áp, không còn tiếng chầy giã gạo ngoài sân, không còn tiếng mõ trâu, không cả những lũy tre làng vươn lên xanh ngát, có những chiếc lá tre rơi trong hiu hiu gió về. Amai B’Lan hết sức chua chát: “Người ta đã thay nhà sàn bằng nhà xây, vật dụng trong nhà cũng là của người Kinh. Giới trẻ thay cái váy truyền thống bằng quần jeans bó sát. Ở một góc của buôn, đàn ông tụ tập gầy sòng bạc, uống rượu và chửi tục. Người trong buôn nói: “Người Jrai bây giờ đã biết học theo người Kinh rồi. Con gái Jrai đã biết làm đĩ còn con trai đã biết ăn cắp rồi.” Chính những ấn tượng nặng nề đó đã ám ảnh Amai B’Lan, làm tâm hồn cô nghiêng xuống nỗi đau trước những nền tảng đạo đức lâu đời đã làm con người băng hoại.

Amai B’Lan, với tâm hồn hoài cổ luôn luôn nuối tiếc quá khứ, thiết tha với con người cũ, yêu mến mảnh đất thiên nhiên màu mỡ của núi của rừng. Chính vì lẽ đó, mang tâm trạng của nghệ sĩ với tất cả rung cảm chân thành, cô đã hết lòng làm cho rừng núi và những con người hoang dã này sống lại trong văn chương miền cao.
Ảnh Trần Thị Trung Thu
Nhìn họ qua những trang giấy trắng, mực đen, người đọc còn có thể “chạm” vào quá khứ để gặp lại một vị thừa sai người Pháp đáng kính trọng là cha Jacques Dournes, người đã hy sinh một đời của mình để mang tình thương Thiên Chúa đến cho những người Thượng hoang sơ, điêu đứng khổ cực, áo quần lam lũ, ánh mắt thì xa xăm. Cũng xuyên qua những trang văn này, ta cũng có thể chuyện trò thân thiết với những con người thông tục như Mơai, Ama H’siu, Ami H’siu, Ơi H’hiam, chị H’nhao, bé H’mái… hoặc người già làng đại diện cho ý chí và quyền lực của cộng đồng sắc tộc, ngay cả những nhân vật tâm linh Pơtao nước (Thủy Xá), Pơtao lửa (Hỏa Xá)… là những con người sinh ra từ cuộc sống sơn lâm huyền bí.

Nhưng mà con người Amai B’Lan cũng lạ lắm. Lạ ở cái chỗ, bằng cái giọng cảm khái thâm trầm, cô đang rưng rưng kể cho chúng ta nghe về những nỗi buồn mênh mông trước cái thế thái nhân tình, rồi đột ngột như một thứ lịch sử sang trang, ta lại gặp, lại nghe cái giọng cà tửng như đùa cợt của cô, khi cô săng sái lên giọng kể về cách sống hòa mình với người bản địa. Hãy lật lại những trang đầu mà coi. Amai B’Lan đã để cho ngòi bút của mình hồn nhiên, thơ thới vẽ nên những con người một thời thuộc về hoang sơ rừng rú làm cho người đọc cảm giác rằng mọi vấn đề của đời sống miền núi vẫn cứ như xưa, sinh sống trong yên bình, tự tại.

Nhà văn trẻ tuổi của chúng ta sầu đời, giận đời, thương đời nhưng không căm hận cuộc đời. Là vì cái vẻ đẹp nhân bản của Amai B’Lan trong Nước Mắt Của Rừng chứa đựng một triết lý thuần khiết mà nồng nàn, thấm đượm một tinh thần lạc quan của phương Đông. Mặc dù cuộc sống hiện nay đã khiến cho mọi vẻ đẹp về tình người của người Jrai bị hao mòn, nhưng chính cái thiện mỹ của cô, dựa trên nền tảng lấy niềm tin hăm hở soi vào vùng hiu hắt nhất, tăm tối nhất để tạo cho sức sống con người một bộ mặt tươi sáng hơn, đáng yêu hơn. 

Nước Mắt Của Rừng là tập bút ký đầu tay của Amai B’lan, qua đó, cô đã vẽ lại một bức tranh phong phú, vừa hoang dại nên thơ vừa khơi dậy một sức sống tiềm tàng của những người con của núi rừng đại ngàn mà tổ tiên của họ đã từng dũng cảm tranh đấu với thiên nhiên và thú dữ, bón vào lòng đất xương máu của mình để hình thành một Tây nguyên mênh mông, hùng vĩ như ngày nay. Chính vì thế, Amai B’Lan sống giữa nền văn minh cơ khí hiện đại, giữa ánh sáng phù phiếm của đô thị đầy vật chất cám dỗ vẫn không chi phối tâm hồn cô. Ở Amai B’Lan, suốt một dẫy cao nguyên hùng vĩ đã được ngòi bút của cô khoanh lại thành một vùng đất hiu quạnh, nhỏ bé mang tên Ayunpa. Ở đó, đất pha cát mọc lên những chóp núi, những cụm rừng, những mái nhà cũ kỹ và những con người Jrai thật thà, chất phác bên cạnh những truyền thuyết, huyền thoại, sử thi, chuyện cổ tích dân gian vô cùng phong phú từ hình thể tới màu sắc.

Tập bút ký được chia ra nhiều tiểu đoạn, nhưng mỗi tiểu đoạn lại là một chuỗi tiếp nối như một bức phác họa bằng tư tưởng nghệ thuật đầy màu sắc và âm điệu, thể hiện niềm đam mê sáng tạo của tác giả mô tả nhiệt tình về cuộc đời, về tình thương, về con người du canh du cư vì thời thế mà trôi theo dòng đời phù vân, tụ tán, dở dang , luôn luôn mất mát, thua thiệt trước những “Yuăn”, những âm mưu toan tính của những loại người ác tính ác tâm.

Đọc Nước Mắt Của Rừng quả là có nhiều niềm vui, nỗi buồn như chính dòng đời trôi nổi những buồn vui, nhưng sáng tác của Amai B’Lan có tâm huyết tự sự bằng chữ nghĩa, đã thả trên trang giấy một thứ tình yêu da diết dành riêng cho những con người từng đến rồi đi, sống và chết trong niềm tự hào được làm người với ý nghĩa đích thực của nó.

P.N.T

(*) Nước Mắt Của Rừng. Bút Ký của Amai B’Lan.Tựa: Phan Ni Tấn.Nhân Ảnh Xuất Bản. Bìa và tranh: Khánh Trường.Trình Bày: Lê Hân & Tạ Quốc Quang.Copyright @ 2013 by Trung Thu. ISBN: 978-0-9811982-9-3.Ấn phí và bưu phí 15 M.K. Sách có thể đặt mua theo địa chỉ sau:

Mr. Lê Hân

375 Destino Circle,San Jose, CA 95133

U.S.A or han.le3359@gmail.com

 

 

 

LGT: Phan Ni Tấn, hiện ở Canada. Cách đây vài năm, HLC có nghe, thích và giới thiệu nhạc phẩm của anh. "Giọt thánh thót mừng", dường như thế! Hôm nay, anh, rất "dễ thương", gửi cho HLC bài này với câu nói cũng thật dễ thương " cho đóng góp vào web của Lan Chi nhé".
Đây là kỷ niệm của anh với nhà văn Doãn Quốc Sĩ. Đọc rất thú vị. HLC sẽ xây một nhà nhỏ cho anh trong web HLC để ai đến thăm nhà HLC thì thăm anh luôn, khỏi phải đi xa.
HLC
 
 
 

BỐ SỸ VÀ CÔ ÚT

Tùy bút Phan Ni Tấn

 

Khoảng giữa năm 1979 tôi đến thăm gia đình nhà văn Doãn Quốc Sỹ nhà ở trong một con hẻm đường Thành Thái, Sài Gòn mới biết bố Sỹ đang ở tù cải tạo trên cao nguyên Gia Rai. Ba mươi ba năm sau, ngồi bình thản dưới mái nhà bình thường của tôi ở Canada, bố Sỹ nhíu mày, cặp mắt xa xăm nhìn vào quá khứ  như lục lại từng trang đời thê thiết, kể: " Năm 76 chúng đến trường Sư Phạm gởi giấy yêu cầu tôi đến Phường trình diện học tập bốn hôm rồi về, nhưng kỳ thực sau đó chúng bắt tôi đưa lên trại Gia Trung mãi trên cao nguyên Gia Rai. Trại này nằm sâu trong một cánh rừng giữa Pleiku – Kontum. Sở dĩ gọi là Gia Trung là vì trại nằm cạnh con suối người Thượng gọi là I-a I-ung, mình nói trại ra là Gia Trung. Chúng giam tôi từ năm 76 đến năm 80 thì được thả về…"

nhà văn Doãn Quốc Sỹ (Toronto 27/7/2012)

"Năm nay bố Sỹ của em gần 90 tuổi rồi, nhưng anh xem, cách ăn mặc vẫn còn gọn gàng, tươm tất lắm. Càng già bố Sỹ càng hiền lành, dễ dãi, đôi lúc ngây thơ như trẻ con", cô Doãn Hương, con gái út của nhà văn cười nhe chiếc răng khểnh nói với tôi thế. 

Tuy già yếu, hom hem như thế, lãng đãng đến thế nhưng khi nói về tình hình đất nước, về vận mệnh dân tộc, về nghiệp dĩ văn chương… Bố trở nên linh hoạt lạ thường.

Nói đến nhà văn Doãn Quốc Sỹ lâu nay người ta thường nghĩ đến hình ảnh của một kẻ sĩ thời đại. Ông là hội tụ của trí tuệ và tình thương, của niềm tin và ước vọng. Bằng một hành động lịch sử, trong lao tù ông đã từng lẫm liệt, khẳng khái chống lại những gì đi ngược với công cuộc tranh đấu cho hòa bình đất nước và nguyện vọng của nhân dân miền Nam. Cuộc đời và con người của kẻ sĩ là như vậy. Có điều con người bất khuất này, dù được người đời ngưỡng mộ và vinh danh cũng chẳng hề làm ông biến dạng đi chút nào. Xưa sao tôi không biết nhưng nay trước mặt tôi, bố Sỹ của tôi vẫn bình thường, giản dị, gần gũi, hồn nhiên như bất cứ ông già nào tôi có thể gặp ở ngoài đời. Cái vẻ đẹp thật kỳ lạ của tâm hồn ấy tỏa rạng lên cả con người ông, ánh lên đôi mắt cười dễ dãi, gương mặt xương xương nhưng phúc hậu. Chính những tinh chất óng ánh đó đã kết hợp thành chân dung con người kẻ sĩ.

nhà văn Doãn Quốc Sỹ và PNT

Chúng tôi ngồi nói chuyện tương đắt với nhau được một lúc thì bố Sỹ ngồi thẳng người, gương mặt kẻ sĩ miền Nam tươi tắn hẳn ra, Bố kể: " Năm 84 đến năm 92 tôi tiếp tục viết gởi tác phẩm qua Pháp cho nhà xuất bản Lá Bối của thầy Nhất Hạnh in và phổ biến ở hải ngoại. Cộng sản tinh ranh lắm, luôn luôn rình rập, theo dõi từng cử chỉ hành động của tôi. Biết thế nhưng tôi vẫn điềm tĩnh. Khi đến bắt tôi lần thứ hai chúng đưa ra những bản photocopy  chụp tất cả những gì tôi viết gởi ra nước ngoài làm bằng cớ để buộc tội. Trong tù, chúng ép tôi nếu ký giấy thú nhận tội trạng tôi sẽ được khoan hồng nhưng tôi quyết liệt khước từ tất cả (Bố nhấn mạnh). Bởi vì tôi luôn quan niệm rằng yêu nước không phải là một cái tội. Cuối cùng trước tòa, chúng ghép tôi vào tội phản động, là một trong mười tên biệt kích văn hóa đã lén lút gởi tài liệu ra nước ngoài tiếp tay với bọn phản động nhằm chống phá Cách Mạng và chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, phán xong chúng kêu án tôi 10 năm tù. Trải qua những năm tháng lao nhọc trong lao tù, cứ đến những ngày lễ lộc, Tết nhất cũng như những lần sinh nhật của Hồ Chí Minh thì chúng ra cái điều khoan hồng giảm án. Cứ thế, trừ những lần được giảm án cho đến hết hạn tù thì tôi ở tù mất 8 năm rưỡi, cộng với 4 năm tù lần trước vị chi là 12 năm rưỡi tôi bị Cộng sản giam cầm". 

Kể đến đây Bố như trút bớt phần tâm sự. Hớp một hớp trà, giọng trở nên trào lộng, Bố tiếp: " Trước ngày mãn hạn tù chúng chuyển tôi đến trại K3 Xuân Lộc. Trại này nằm dưới chân núi Chứa Chan. Nghe thì lãng mạn lắm, chứa chan lắm, nhưng sống trong cảnh tù tội thì Chứa Chan có khác nào Chán Chưa".

Rồi Bố sang sảng đọc thơ: "Nam Nhâm nữ Quí thì sang. Nhược bằng ngược lại gian nan nhiều bề".

Ý nói Bố sinh nhằm mạng nữ Quí nên phải chịu khổ đến hơn 12 năm tù.Chưa hết. Dính dáng tới văn chương thi phú vốn đã ăn sâu trong cuộc sống và bản chất, bố Sỹ thật sự hưng phấn. Bố nói thật hay:

– Cụ Tú Mỡ, bố vợ tôi sanh được 8 người con được Cụ đặt tên theo thứ tự vần: "Năm trai ba gái tám tên. Trung Hiền Thảo Dũng Hùng Chuyên Vỹ Cường". Vợ chồng chúng tôi cũng thế, có tám con – Bố tiếp luôn: " Bốn trai bốn gái tám tên. Thanh Khánh Liên Thái Vinh (liền) Hưng Hiển Hương".

Câu lục bát "phá cách" này làm Bố Sỹ gượng nhẹ cười nói Bố phải thêm chữ  "liền" ở câu bát cho đồng vận với chữ "tên" ở câu lục…

Lắng nghe "ông già" kể chuyện tù, chuyện gia đình thơ thới như kể chuyện cổ tích khiến tôi vừa phục lăn vừa thương Bố quá chừng. Chính thái độ và hành động của một nhà hoạt động chính trị, một kẻ sĩ miền Nam, một người yêu nước, một nhà văn, nhà giáo khẳng khái trước tòa, bất khuất trong lao tù đã làm lay động tận cùng lương tâm những người trí thức trong và ngoài nước.

Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn viết về nghĩa khí của ông qua bài thơ "Tinh Thần Và Bạo Lực":

Công an có cây súng

Bắn hoài không chết ai

Thì sĩ còn ngòi bút

Điểm mặt kẻ vô loài

 

Công an có cây súng

Nện tới tấp tơi bời

Đánh không sờn không ngã

 Giam sao được lòng người

 

Quỷ vương trăm lần chết

Khuyển ưng rụng một bầy

Thở tràn như nước chảy

Như sóng bủa trùng vây

 

Công an hết đường chạy

Vòng đai khép chặt rồi

Trong mỗi lời mỗi chữ

Nghìn gươm phục rạng ngời

 

Công an có cây súng

Bắn hoài không chết ai

Thi sĩ còn ngòi bút

Điểm mặt kẻ vô loài

 

Cong an có cây súng

Cây súng và nhà tù

Thi sĩ còn ngòi bút

Máu chảy hoài thiên thu

 

 

 

 

 

               Út Hương, bố Sỹ, Hồng Thư và Ngự Cầm (Toronto 27/7/2012)

 

 

Bố Sỹ qua Canada ghé nhà tôi tuần rồi có cô út Hương của Bố theo kèm . Cũng trong dịp này bố Sỹ trao cho tôi tập thơ Lục Bát Tùy Bút của Doãn Quốc Vinh gởi tặng. Đây là tập thơ đầu tay của Vinh do Doãn Gia vừa xuất bản sau cuốn "Bác Trai, Bác Gái" của nhà văn Doãn Quốc Sỹ in năm 2011 tại California, Hoa Kỳ. Bố nói: "Trong tám đứa con chỉ có thằng Vinh là vướng vô ngiệp văn chương như tôi. Ngoài làm thơ nó còn biết vẽ vời nữa". Tội nghiệp cô út, lâu nay cũng muốn "vướng" vô nghiệp văn lắm nhưng "mỗi lần cầm bút hay ngồi trước máy là chữ nghĩa nó trốn đi đâu biệt dạng, anh Tấn ơi!".

 

Cũng trong năm 1979, ở bên nhà cô út và tôi có một chút kỷ niệm dễ thương để nhớ. Số là cô Liên, chị cô út biết rõ tình cảnh lang thang đầu đường xó chợ của tôi nên sau cái đêm văn nghệ hát chui với một số anh em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, vợ chồng cô thương tình kéo tôi về nhà nghỉ qua đêm.  

 

Sống lang thang bờ bụi lâu ngày, một hôm nhờ lòng nhân ái mà tôi có một chỗ êm ái để nghỉ lưng, dù chi một đêm thôi cũng không còn gì hạnh phúc hơn. Nửa đêm nằm một mình trong phòng khách vắng lặng, trên bộ sofa màu đỏ, tôi ngẫm nghĩ và  nhận ra một điều: Có lẽ nhờ những mớ tai ương lâu nay tôi gánh chịu mà cái hạnh phúc an bình và hài lòng mình nhận được nó có giá trị tột đỉnh như thế nào. Hé mắt nhìn ra ngoài đời kia với biết bao viễn ly điên đảo mộng tưởng trong khi ở đây, trong căn nhà này, không có gió máy, không có nắng mưa, không có muỗi mồng, chỉ có sự che chở và tình thương của con người đối với con người. Đêm đó tôi ngủ một lèo thẳng thừng mà không hề bị trở giấc.

Sáng hôm sau vừa thức dậy tôi gặp ngay cô út ít trong nhà xẹt tới hồn nhiên dương mắt tò mò nhìn tôi một cái rồi te rẹt xuống bếp mất dạng. Ngoài đường hẻm tiếng người ồn ào qua lại, có cả tiếng trẻ con nô đùa trong xóm. Đã đến lúc mình phải nói lời cảm ơn và chào từ biệt Doãn Gia để tiếp tục lao thân vào nơi vô định. Tôi ra đi lần đó đến nay đã ba mươi ba năm dâu bể mà lòng tôi vẫn âm thầm chịu ơn Doãn Gia, đặc biệt là đôi con mắt đen láy, mở to của cô út dù một thoáng thôi tôi vẫn cảm nhận được cái đẹp hồn nhiên và hồn hậu của cô út mà cho đến tận ngày nay ánh mắt đó vẫn không hề chịu tắt trong tôi.

Năm 2009, ở Canada tôi mừng được tin cô út Hương sang Mỹ đoàn tụ với gia đình. Sau rất nhiều năm bịn rịn với quê nhà, cuối cùng vì gia đình Bố Mẹ, vì anh chị em, vì tương lai cô đành bỏ xứ, bỏ bè bỏ bạn mà đi; cô bỏ cả bài thơ "C ô Út Lìa  Quê"  của Lão Nho đọc lên nghe buồn buồn:

A ha!

Lấy vòng kim cô riệt đôi chân xinh xắn lại

Không cho nó chạy khỏi quê nhà

Không cho nó chạy khỏi quê nhà

 

Chao ôi! Nửa chừng câu thiên lý

Lại mọc ra vó ngựa đường xa

Nhịp nhàng nhịp vấp dây bịn rịn

Làm sao hốt lại giọt lệ nhòa

 

Thôi thì bỏ xứ mà đi trớt

Có nhớ cũng đành mượn bờ môi

Khóc lên một tiếng

Ơi, một tiếng

Một tiếng dài như kiếp mây trôi

 

Thiên lý chạy vòng nửa trái đất

Đói lòng ăn chút bụi quê nhà

Hớp miếng gió quê cay trồng mắt

Hột lệ nào khóc miết không ra.

 

Vậy đó. Vậy mà ba mươi ba năm vèo qua như một giấc mộng. Cô út đã chạy việt dã nửa vòng trái đất để ngày nay hai anh em lại mừng tri ngộ nơi xứ người. Trước mặt tôi là bố Sỹ, ngồi cạnh là út Hương, cách tôi có vài gang tay, nhưng khoảng trống giữa chúng tôi là ba mươi ba năm dâu bể. Tôi nhìn gương mặt út Hương. Vẫn đôi mắt mở to ra đó, nhưng giữa sự rắn rỏi, đậm chắc vẫn pha thêm cái nét trẻ trung, rạo rực, nồng nàn, Rõ ràng út Hương bây giờ ra chiều chững chạc hơn, nhanh nhẹn và tự nhiên hơn. Chính sự gần gũi, thân thiện của cô út, ngoài đôi mắt ngày xưa ấy bây giờ tôi lại được nhận thêm tiếng cười nói dòn dã trên đôi môi tươi tắn để lộ chiếc răng khểnh ra. Cái khểnh của chiếc răng lộ ra mỗi khi cô cười tôi thấy nó giống như cái lõi hoa màu sữa bị mắc kẹt giữa hàm răng trắng ngà, chắc nịch rất có duyên.

 

Không ai biết trước được đường đi nước bước của đời mình. Hôm nay út Hương rắn rỏi mà mềm mại ngồi đây, vậy mà ngày mai ngày mốt hay sang năm, cô lại hớn hở bay qua Hòa Lan lên xe hoa theo chồng về dinh không chừng.  

Hê hê!!!

 

PHAN NI TẤN