Văn

Những truyện ngắn trúng giải thi Văn Thơ Lạc Việt năm 2008

GHI CHÚ: Nhằm mục đích bảo tồn và phát triển văn học dân tộc nơi hải ngọai, đồng thời cũng nhằm khuyến khích tinh thần sáng tác của mọi tầng lớp người Việt yêu thích văn thơ. Cơ sở Văn Thơ Lạc Việt xin trân trọng thông báo đến đến quý vị, cuộc thi văn thơ của Cơ Sở Văn Thơ Lạc Việt năm 2010 lấy tên là Giải Văn Thơ Lạc Việt, và sẽ phát động vào trung tuần tháng 5, năm 2010.

Thi Thơ Văn 2008 Văn Thơ Lạc Việt

Giải nhất cho bài văn

 

Thị trấn Chula Vista

Nguyễn Trung Tây

 

Thị trấn sa mạc Chula Vista tháng Mười Hai năm nay tự nhiên tuyết đổ trắng xóa phố phường. Thiên hạ Chula Vista trăm người là cả trăm,

– Trời ơi! Khùng ơi là khùng!

Cứ thế, gặp nhau, người dân Chula Vista bật ra ngay cửa miệng câu than nghe đến là nhàm, nhưng vẫn đều đặn phát ra như chuông đồng hồ điện tử sáng sớm rú lên từng hồi, “Tít! Tít! Tít!”. Thôi đủ rồi, đừng rơi tuyết nữa, bởi dân du lịch trốn tuyết của Bắc Mỹ và Âu Châu giờ đã rục rịch dọn đồ bỏ đi trống hoắc phố phường. Nền kinh tế của thị trấn nằm sát ngay đường biên giới giữa Mỹ và Mễ chỉ trông mong vào số lượng khách du lịch vào mấy tháng mùa đông, giờ này tanh banh chỉ vì tuyết bất ngờ đổ dầy từng tảng. Thì đấy, ai bảo chế cho lắm xe hơi vào, xăng dầu cứ đổ ồng ộc vô miệng như người chết khát. Giờ thán khí bốc lên xám đen bầu trời, thế là global warming.

                – Hả? Nói cái gì?

                – Điếc hả? Global warming chứ còn nói cái gì nữa. Không tin thì cứ leo hẳn lên nóc tháp chuông nhà thờ mà nom cho rõ, khói xăng bốc cao đục ngầu cả cái bầu trời San Diego rồi. Sống ở đó, đố mà có nom thấy mặt người&

                – Global warming! Rồi thì sao?

                – Ơ hay! Có đọc báo nghe đài hay không mà mặt cứ ngớ ngẩn ra như gái Tijuana mới vượt đường biên giới vậy? Thì cứ thử nghĩ coi, cả trăm năm nay rồi, có bao giờ Chula Vista với San Diego đổ tuyết. Thế mà giờ này San Diego tuyết cũng rơi ngập đường!

                Bà vợ gốc Ý ngồi trong góc quán rượu HOLA thì thào với ông chồng gốc Pháp,

                – Thằng cha ấy nói đúng đó. Chula Vista mùa xuân quanh năm từ hồi tạo thiên lập địa. Giờ tự nhiên vạ trời đổ xuống. Rõ khổ!

                Thiên hạ cứ than, tuyết vẫn chẳng màng cứ thản nhiên đổ xuống từng tảng bông tuyết trắng xóa, sáng trưa chiều tối, bốn cữ đủ cả bốn. Tuyết rơi bám trắng tháp chuông nhà thờ Chula Vista vươn cao sừng sững. Cha Quang, người gầy gò ốm yếu nom như dân bàn đèn thuốc phiện, thế mà sáng trưa chiều tối lại cứ lom khom xách cái xẻng mới mua ngoài tiệm Home Depot ra sân nhà thờ rộng mênh mông cào tuyết. Dân Mễ sùng đạo đi ngang qua ái ngại,

                – Sao cố không gọi ông Bõ làm cho?

                Cha Quang nhìn lên, ánh mắt hấp háy như người mắt toét dưới cặp kính cận dầy cộm,

                – Ông Bõ nào?

Ông đứng thẳng người, hơi thở đứt quãng,

– Hay là ông chịu làm Bõ thì ghé vào văn phòng ký giấy, nhà xứ trả lương hẳn hoi.

                Anh chàng thanh niên cười cười bỏ đi, nhưng nghĩ sao đứng lại,

                – Cố trả nhiêu một giờ?

                Cha Quang chép miệng,

                – Chắc cũng chỉ lương căn bản mà thôi&

                Người thanh niên ái ngại nhìn “cố” Quang gầy ốm như cò ma và căn nhà thờ mái ngói bạc phếch, ngần ngại nói cám ơn, rồi bỏ đi thẳng một mạch.

Sơ Bề Trên gốc Anh, hiệu trưởng trường Mẫu Giáo nằm cách nhà thờ đúng hai góc đường ghé vào nói dấm dẳng,

                – Thì cha xúc tuyết ngày một lần thôi. Việc gì mà cứ phải vất vả ngày đủ bốn cữ!

                Cha Quang không nói chi, tiếp tục gặm bánh mì sandwich có kẹp miếng thịt nguội đỏ lờ lợ, cọng rau sà lách xanh úa, vài lát cà chua đỏ bầm, và một miếng cheese vàng khô queo.

                Có người thương cảm,

                – Đến là khổ. Cứ như người đi tu dòng khó khăn.

                Có giọng tố khổ,

                – Chỉ có vẽ chuyện! Tớ Việt Nam, ông cha Quang này hồi xưa ở gần nhà trên khu Little Saigon, lại học chung trường. Chuyện gì của ông mà tớ lại không rành. Hồi xưa cũng lăng nhăng lắm, hết gái Mỹ lại tới Mễ, rồi bẵng đi một dạo, giờ tự nhiên lại lạc xuống dưới đây làm cha xứ. Thật đúng là thời thế đảo điên&

                Có âm thì thào,

                – Thì đã gọi là chuyện phường chèo mà! Thế giới năm 2000 rồi, mở banh mắt ra mà coi, cha cụ người ta, năm thay xe một lần, thế mà đằng này cứ xe đạp cọc cạch. Rõ dở hơi!

                Có lời chửi thề,

                – Ừ, ông nói đúng đó. Mẹ kiếp! Tối tối tôi còn nghe thấy tiếng phụ nữ ở trong nhà xứ nữa cơ.

                Có tiếng bênh vực,

                – Đừng có mà nói nhảm!

                – Sao lại nói nhảm? Tớ là nói có sách, mách có chứng. Thì đấy, mới tuần trước, tớ dẫn con Ki ra ngoài đường cho nó đi ị. Con Ki tối hôm đó cuồng chân chạy toáng cả lên, vớ vẩn làm sao lại đâm sầm vào ngay sân sau của nhà xứ. Bởi thế tớ mới rõ chuyện&

                – Ông có nhìn thấy ba năm rõ mười hay không?

                – Cần gì phải nhìn thấy, đứng ngay bên cạnh hàng rào mà vẫn nghe rõ tiếng thì thào trong nhà bếp thì đủ rồi, mà đây lại là giọng đàn bà, thế mới chết chứ lị&

                 Tuyết vẫn rơi nhưng vẫn không che cản nổi hàng rào biên giới giữa Chula Vista và Tijuana. Từ bao lâu rồi, dân nghèo Nam Mỹ cứ nườm nượp kéo lên thành phố địa đầu biên giới Tijuana của Mễ Tây Cơ ăn chực nằm chờ, rình rình giây phút cắt đứt được hàng rào biên giới vượt thoát vào thiên đàng. Tá túc tại thị trấn địa đầu Tijuana, hết tiền, nhỡ độ đường, vậy là gái Tijuana bán mình cho khách du lịch. Con trai chân cẳng cứng hơn, chạy vượt thoát đường biên giới, lần đường hương lộ xó xỉnh trốn lên tới Los Angeles đi rửa chén cho nhà hàng Tàu hay là đi cắt cỏ cho người Việt. Nhưng đấy là hên, còn phần nhiều đều bị cảnh sát rượt đuổi, bắn què chân. Mỹ mà, tử tế ra mặt. Bắn què lọi giò con nhà người ta ra rồi, nhưng vẫn gọi xe cứu thương chở vào bệnh viện rịt thuốc hẳn hoi. Cẩn thận, đồn biên phòng còn gửi tới một người thông dịch viên đàng hoàng. Chân vừa lành ngày hôm trước, ngày hôm sau xe cảnh sát hú còi ầm ĩ, mang người vượt biên tống thẳng về lại bên kia đường biên giới.

Có lần ông Đại úy Trưởng đồn biên phòng ngờ ngợ, ngón tay điểm mặt người vừa bị ông bắn què đang nằm lăn lộn trên nền đất,

                – Lại tên này, đúng là hắn rồi.

                Ông lật ống quần jean bạc thếch của người thanh niên lên, vết sẹo của cùng một viên đạn súng lục hiện lên, còn mới tươi. Bởi tuyết, có lần ông Đại úy hụt chân té lăn quay. Lồm cồm ngồi dậy, bấm đèn pin, ông nhận ra dấu chân biến mất ngay tại sân nhà thờ Chula Vista. Ông gõ cửa nhà xứ. Cha Quang bước ra, ho sù sụ như người ho lao. Ông Đại úy gốc Irish con nhà đạo gốc gỡ nón cầm tay, lúng túng cất tiếng,

                – Chào cha…        

Cha Quang tránh sang một bên,

                – Mời ông Đại úy vào trong nhà uống ly café Mocha của quán Starbucks.

                Ông Đại úy kín đáo quan sát tình hình, nhã nhặn cúi chào,

                – Cám ơn cha, đang trong giờ làm việc, e không tiện&

                Cha Quang nhìn theo bóng dáng của ông Đại úy, rồi nhẹ nhàng đóng lại cánh cửa nhà xứ. Ông Đại úy quay lại nhìn, bóng cha xứ khẳng khiu ngồi lặng lẽ bên khung cửa, lời kinh nho nhỏ bắt đầu vọng ra. Ông Đại úy tay làm dấu thánh giá, bỏ đi về đồn biên phòng. Cũng có lần ông nhìn thấy vết máu dừng lại ngay cửa nhà xứ. Ông Đại úy lưỡng lự lắm. Con nhà đạo nòi cả mấy trăm năm nay rồi. Giờ chẳng lẽ lại đi hạch xách cha cụ. Nhưng còn tên tội phạm vượt biên. Rõ ràng là vết máu còn rành rành ngay trước sân nhà xứ. Ông Đại úy đã tính dợm chân bước hẳn vào trong nhà xứ uống một ly café Mocha của Starbucks, nhưng nhớ tới áo chùng thâm đen và viền cổ trắng của cha Quang, ông lại lưỡng lự, rồi thôi.

Nhưng ông Thiếu úy Phó đồn thì không. Ngài Thiếu úy dân Tin Lành, nửa đêm về sáng dộng cửa ầm ĩ, đòi cha Quang dắt đi xem xét từng ngõ ngách. Chưa hết, ông còn bắt ông cha xứ mở cửa dẫn vào gian cung thánh của nhà thờ lục tìm dưới chân bàn thờ và ngay dưới bệ Nhà Tạm&

                Tối hôm nay, hai mươi bốn tháng Mười Hai, lễ Giáng Sinh. Như thông lệ đã có gần hai trăm năm từ hồi lập giáo xứ, năm nay nhà thờ Chula Vista lại tổ chức thánh lễ nửa đêm vào lúc mười hai giờ. Sáu giờ chiều, cha Quang mở cửa bước vào nhà thờ. Ông vui vẻ nhận ra mọi sự đã sẵn sàng cho thánh lễ nửa đêm. Ông huýt sáo nho nhỏ, khoác vào người áo len dầy cộm. Nhìn tuyết trắng trơn trợt mặt đường, ông quyết định không đạp xe, nhưng đi bộ ra tiệm tạp hóa Đại Hàn mua thùng mì cay Nongshim. Tiện đường, ông ghé vào quán café Starbucks móc tiền ra trả cho mấy gói café Mocha loại thượng hảo hạng. Vừa bước ra khỏi cửa tiệm quán café Starbucks, ông bị một bóng đen nhỏ thó bất ngờ xuất hiện cản lối. Cha Quang nhận ra khuôn mặt một cô gái, người Nam Mỹ, chắc khoảng mười tám, hai mươi. Trời chiều mùa đông nhờ nhợ tô thêm đậm màu da bánh mật căng căng và đôi mắt đầm đậm của cô gái. Thoang thoảng đâu đây mùi nước hoa rẻ tiền bốc mùi hăng hắc. Cô gái ngọng nghịu cất tiếng chào. Người đàn ông nhìn sâu vào đôi mắt xanh đậm nước biển, ông gật đầu chào lại. Cô gái cúi xuống, chỉ phiá dưới, giọng chắc nịch,

                – Bốn chục…

                Người đàn ông hụp một nhịp thở, tim đập thật nhanh. Bình bịch! Rồi ông bỏ đi. Cô gái chạy theo, tay chỉ vào bộ ngực căng tròn,

                – Hai chục đô.

                Người đàn ông vẫn bỏ đi, cô gái đuổi theo,

                – Mười, chỉ mười đô thôi& Rẻ lắm rồi!

                Ngay tới dưới gốc cây dừa cành lá rậm rạp che kín mặt người, bước chân người đàn ông chậm lại. Ông thở hơi mạnh, dồn dập, cởi cởi bao tay, móc móc hai tay vào trong túi quần. Cô gái yên lặng bất động, kiên nhẫn chờ đợi. Người đàn ông móc ra tờ giấy đôla mười đồng. Cầm được tiền, cô gái cúi đầu chậm chạp cởi ra những nút áo len& Ngẩng đầu lên, cô chưng hửng nhận ra người đàn ông đã bỏ đi. Bóng ông ta khuất sâu vào màn đêm đông dầy đặc của đêm Giáng Sinh có tuyết trắng đổ.

Về tới nhà thờ, cha Quang nhận ra bóng một người đang đứng ngay trước cửa nhà xứ. Tưởng ai, hóa ra là anh thanh niên người Mễ đã từng hỏi ông về số tiền lương làm Bõ cho nhà thờ Chula Vista.

– Mời anh vào uống ly café Mocha&

Người thanh niên lắc đầu,

– Cố cho con mượn cái xẻng xúc tuyết&

Cha xứ phá ra cười,

– Tôi đã nói rồi, nhà xứ chỉ có đủ tiền trả lương căn bản mà thôi&

Người thanh niên lắc đầu quầy quậy,

– Không, con không nộp đơn xin việc. Từ nay cố cứ để việc xúc tuyết mặc cho con&

Người thanh niên ngần ngừ, hai tay xoa xoa vào nhau, rồi lại đưa lên đầu vuốt vuốt tóc,

– Con vừa mới gặp Sơ Bề Trên, Sơ nói cha xúc tuyết ngày đủ bốn lần sáng trưa chiều tối cho nên bị sưng phổi, ho sù sụ như người ho lao. Sơ còn nói&

Anh dừng lại, nuốt nước miếng, ánh mắt nhìn về trạm biên phòng ánh đèn sáng chưng một góc trời. Cha Quang nghiêm mặt lại, không nói chi, bỏ đi thẳng vào nhà. Còn lại người thanh niên bên ngoài khung cửa, anh cầm xẻng bắt đầu xúc tuyết, miệng nói nho nhỏ,

– Thì mình cũng phải xúc tuyết để cho giáo dân đi lễ nửa đêm không trợt chân té đau chứ cố.

Lại thêm tiếng gõ cửa. Cha xứ ôm ngực ho sù sụ đi ra mở cửa. Tưởng ai, hóa ra Sơ Bề Trên, trên tay ôm mấy bọc café Mocha thơm lừng của Starbucks,

– Merry Christmas. Qua thăm cha, tiện dịp tặng cha món quà Giáng Sinh.

Cha xứ cau mày nhìn Sơ Bề Trên,

– Sao lại là café Starbucks?

                Sơ Bề Trên nói ngay,

                – Sao lại không? Cha cứ bày vẽ mua café loại mắc tiền mời khách khứa cho thiên hạ khỏi đàm tiếu nói thế kỷ hai mươi mốt rồi, mà cha vẫn sống khó nghèo kiểu cổ. Nhưng mà thôi, cái đó là tùy cha. Tuy tôi không đồng ý với cách sống khó nghèo như vậy, nhưng tôi vẫn ủng hộ cha.

                Sơ Bề Trên đứng lên, tính đi về, nhưng lại ngồi xuống,

                – Xin lỗi nếu tôi có đụng chạm. Nhưng đâu có phải là cha bán xe hơi phun khói ngập trời, lấy tiền cho người nghèo, rồi cứ cọc cạch đạp xe đạp thì thế giới thôi không bị global warming đe dọa… Cả hằng vạn người vẫn cứ tỉnh bơ lái xe hơi vậy thôi!

                Nói xong, Sơ Bề Trên đứng lên bỏ đi. Cha xứ đóng cửa phòng lại. Bên khung cửa, ông vẫn thấy bóng dáng lum khum của người thanh niên Mễ đang xúc tuyết trước cửa nhà thờ. Ông ngồi xuống, tính coi lại bài giảng cho thánh lễ nửa đêm hôm nay. Nhưng chợt ông nghe tiếng động sột soạt dẫm đạp trên sân vườn phiá sau nhà?! Ông dừng lại, nghiêng tai nghe ngóng, mắt nhìn thật nhanh về trạm biên giới, chân lẹ làng bước xuống nhà bếp. Mở cửa, nhưng không bật đèn sân vườn, ông cẩn thận nhìn ra bên ngoài. Bóng một người phụ nữ đứng lù lù ngay bên khung cửa không làm ông giật mình. Ông đứng tránh sang một bên, nhường chỗ cho cô gái bước vào. Dưới ánh đèn vàng tối tù mù của căn nhà bếp, ông nhận ra cô gái đang ôm trong lòng một đứa bé đang ngủ say, mặt thằng bé xám ngoét lại vì lạnh. Cha Quang vội vàng đóng lại cánh cửa, bật máy sưởi, đưa tay mời cô gái lạ mặt ngồi xuống ghế nệm cạnh bên lò sưởi. Cha Quang cất tiếng,

                – Cô ăn mì nhé&

                Cô gái mệt mỏi gật đầu. Cha Quang đã bước đi nhưng ông dừng lại, cặp mắt của cả cô gái và cha Quang đều trợn tròn nhìn nhau& Cô gái ngại ngùng cúi mặt nhìn xuống. Cha Quang quay lưng, đi thẳng tới bếp nổi lửa nấu mì Nongshim. Không quay lại, ông hỏi,

                – Cô ăn cay được không?

                Cô gái vẫn cúi mặt, miệng nói nho nhỏ,

                – Ngày nào mà tôi chẳng ăn cay&

                – Còn thằng bé?

                – Nó mới bú sữa mua ngoài tiệm. Mười đôla, ba bình sữa.

                Cô gái yên lặng ngồi ăn hết thật nhanh tô mì cay, tô lớn. Cô đứng dậy,

                – Cám ơn cha. Cha tử tế quá, hèn chi họ cứ gọi cha là ông cha tử tế.

                Cha Quang gật đầu không nói chi. Cô gái ngần ngừ,

                – Nhờ cha giúp cho một chuyện&

                Cô gái trao thằng bé cho ông. Cha Quang trợn tròn mắt,

                – Giờ này tối khuya rồi, cô còn đi đâu?

                Khuôn mặt cô gái xa xầm lại, giọng nhỏ rưng rức,

                – Còn đi đâu nữa& Không làm, lấy tiền đâu mua sữa cho con?

                Cô gái cau mày khó chịu, buông lời thẳng thừng,

                – Có được hay không?

                Cha Quang gật đầu thật nhanh, tay ôm đứa bé vào lòng,

                – Được chứ. Chắc chắn là được rồi.

                Rồi ông nói luôn,

                – Tôi cũng có một chuyện.

                Cô gái ngần ngừ,

                – Chuyện gì?

                Cha Quang nhìn đồng hồ trên tường, chép miệng,

– Còn một tiếng đồng hồ nữa thôi là lễ nửa đêm rồi. Cô đi đâu thì đi, nhớ quay về lại đây dự lễ Giáng Sinh&

                Cô gái bỗng dưng cúi gập người xuống như cây bị sét đánh dính ngay giữa thân. Hai tay cô ôm mặt bật tung tiếng khóc, tóc dài quăn lọn buông rơi tung tóe. Bởi tiếng khóc, thằng bé giật mình cựa quậy, nhưng lại nhoẻn đôi môi bé tí ti mầu hồng hồng cười tươi, nụ cười thiên đàng. Cha xứ cúi xuống vỗ nhè nhè bàn tay vào lưng thằng nhỏ, miệng cũng cười,

– Đêm nay Giáng Sinh. Dù có chuyện gì đi nữa thì mình cũng vẫn phải đốt nến ăn mừng sinh nhật chứ.

Cô gái ngưng tiếng khóc, ngạc nhiên hỏi lại,

– Sinh nhật của ai?

– Thì còn của ai nữa. Đêm nay là đêm Giáng Sinh, cô quên rồi sao?

Cô gái ngẩng lên nhìn. Cô nhận ra ông cha xứ đang bước từng bước lên bậc thang gỗ mỏng manh ọp ẹp, vừa đi ông vừa nói,

– Cho thằng nhỏ lên phòng ngủ trước. Hẹn gặp cô lúc nửa đêm. À, tối nay sau thánh lễ, tôi mời cô ăn tiệc Revillion với Mẹ Bề Trên và ông Bõ mới của nhà thờ.

Bên ngoài tuyết bông vẫn đổ trắng xóa hằn soi bóng ông Bõ đang cắm cúi xúc tuyết trên sân gạch mênh mông của nhà thờ, bên trong lò sưởi cháy đỏ than hồng vẫn nổ tí tách tô hồng đôi má cô gái Tijuana đang nhắm mắt ngủ say. Đàn dương cầm từ trong nhà thờ Chula Vista nhè nhẹ nổi lên những nốt đầu tiên của bản nhạc Giáng Sinh bất hủ, “Silent night! Holy night!”. Hồi chuông Giáng Sinh bắt đầu vang dội từ trên nóc tháp chuông. Kính koong! Kính koong! Tiếng chuông sinh nhật của hân hoan và mừng vui tiếp tục vang xa xé rách toang màn đêm của sầu tủi và nước mắt. Kính koong! Kính koong!

Thị trấn tuyết trắng Chula Vista bắt đầu nửa đêm.

 

Nguyễn Trung Tây

 

Thi Thơ Văn 2008 Văn Thơ Lạc Việt

Giải nhì cho bài văn

Kẻ mạnh – kẻ yếu

Trần Bình Minh

  

 

Con nhà tông giống lông cùng… lá (!) lời các cụ dạy cấm có sai. Với riêng bốn anh em tôi lại khác nhau một trời một vực, như hai cực của sự vơi đầy, nóng – lạnh; Bất hạnh – đào hoa, trước sau, tròn – méo v.v…

Anh Nhân tôi lạc từ năm lên bốn. Ngoài ba mươi, gia đình mới tìm lại được. Hai sáu năm làm con nuôi cho đồng bào Mường, nói tiếng "tông giật" giỏi hơn tiếng mẹ đẻ. Suốt ngày mời bạn bè họ hàng, khách khứa ở lại nhà mình… ngủ chơi(!). Lúc hứng lên kể chuyện bản, chuyện làng, gọi trưởng thôn là "tằng ấy", gọi dân nghiện là "các tồng chí". Lỏng chun quần muốn luồn lại nhưng ngắc ngứ mãi không biết người kinh ta gọi thế nào đành làm điệu bộ diễn tả “Mẹ mua cho con… cái mà… lúc (tì) nó dài, lúc (tì) nó ngắn, nó vẫn hay nằm ở (tong) quần tùi ấy”(!). Về lại Hà Nội, theo học bổ túc văn hoá lớp 7, nửa năm trời không phân biệt được công thức hoá học của đồng với sắt, suốt ngày lẩm nhẩm: “Không biết Cu là sắt hay là đồng nhỉ?” Nghe tôi giảng giải chán chê rồi bỗng hớn hở reo lên: Ờthế ra Cu là đồng hả?  Mày là em tao mà giỏi hơn cả cô Hoài chủ nhiệm. Nửa năm trời cô ấy dậy, nào tao có biết Cu là gì?

Săn bắt con ron, con rím, cũng như các cô váy chàm,  váy tím trên nương rẫy đều giỏi. Suốt ngày cởi trần, vật lộn với thiên nhiên, trông anh to lớn, vạm vỡ chẳng khác nào anh chàng húi cua "khoẻ như lực sĩ" chuyên quảng cáo bao cao su "ôkê" trên vô tuyến tàng hình. Đôi bàn tay nặng nề đầy bắp thịt cuồn cuộn của anh,  chạm vào con gái, con gái nghe, chạm vào con trai, con trai lắc. Lắm kẻ còn sợ rúm ngũ túc, vãi linh hồn ra (!)

Cả nhà, trừ mẹ tôi đã già, con bé Thái trở thành xinh gái nhất (!) sợ "tam nam bất phú" bố mẹ tôi đuổi mãi mới bắt được nó ở xó cửa nhà bà, nhân dịp hai người về quê ăn cưới chú thím, ngủ lại trên chiếc giường hẹp, ọp ẹp qua đêm. "Giàu con út, khá cũng con út"… sao nó đã xấu người còn xấu nết. Học chỉ hết lớp bảy đã nhảy ra vỉa hè kiếm sống, khắp hang cùng ngõ hẻm, ngóc ngách, xó xỉnh nào trên đường phố Hà Nội cũng biết tìm đến để mua bán quần áo si đa hàng thùng… Hết thời, nó chuyển sang làm nghề "đồ tể" chung vốn với anh em chồng bán thịt lợn. Cả chợ từ người dân trong khu tập thể đến dân buôn thúng bán mẹt, có thâm niên trong lĩnh vực tôm cá cũng sợ "ba hồn bảy vía" của nó. Lơ tơ mơ nó chửi liền, vén váy quai cồng lên mà chửi, theo bài bản hẳn hoi. Trầm bổng du dương… chẳng khác gì dân ca và nhạc cổ truyền dân tộc…

Cậu Thế trái lại, mềm mỏng, dịu dàng nhất nhà, đã thế lại được hưởng sái của "cụ bô", đi lao động xuất khẩu rồi ngồi bệt ăn vạ ở Đức hàng chục năm. Tiền của, tín phiếu,  thẻ ATM chật ních tủ, hòm. Cả nhà sống bám vào sự thơm tho kênh kiệu của nó, dù suốt ngày phải nghe nó ca bài ca "bất hủ":

-Đô la… là cha mọi thằng.

-Đô la… lân la xin chữ ký.

-Đô la… vật ngã thủ trưởng.

-Đô la… hoá ra cường quyền.

-Có đô mới đỗ ông nghè,

-Không Đô chúng bạn cười chê mọi bề.

Cần tiền chỉ cần "niệm" một câu "thần chú": – Vừng ơi! trong cái mớ ngôn ngữ rác rưởi, hàng chợ ấy là cánh cửa đã mở ra, tha hồ nhặt đồng rơi đồng vãi, đãi bạn bè, bồ bịch, khách khứa.

Cả nhà độc một mình tôi theo đuổi ăn học đến nơi đến chốn. Năm nào cũng là học sinh tiên tiến xuất sắc được cử đi thi cấp quận, thành phố… Ngày trúng tuyển đại học, bố mẹ mừng chảy nước mắt: "Nhà ta có phúc lớn rồi các con ơi… hừ hừ… cả cây lành chỉ sinh độc một quả lành… cố gắng học hành đỗ đạt sau này ra trường bố mẹ còn nhờ cậy, còn mát  mặt ngẩng đầu lên với thiên hạ Tình ơi!..

Thật tình tôi không có ý định so sánh sự mạnh yếu, may mắn giữa bốn anh em tôi, nếu như không có sự trùng hợp ngẫu nhiên xảy ra.

Hôm ấy… chó má thế, cái tủ lạnh nhà tôi lại hỏng. Đã quen dùng những thứ nước mát tinh khiết hảo hạng như ngón tuyệt vời, "sự lựa chọn của thế hệ mới" "hương vị chanh của nhịp sống mới" v.v… Tôi không sao "sài nổi" cái thứ nước lã không màu, không mùi, không vị thông thường, bèn bỏ ra phố… Quýnh quáng tránh thằng bé con thế nào, tôi vấp vào hòn đá, ngã đè người lên gánh chè đỗ đen đá, bao cốc chén, khay đá, lọ tinh dầu của bà hàng chè vỡ tan, cả nồi chè đổ lênh láng. Tôi chưa kịp hoàn hồn đứng dậy, đã bị bà chủ túm lấy áo, chửi ngập ngụa, khiến tôi không kịp ngáp:

– Á à, thằng mù dở. Đi đứng thế à? Cả nhà bà trông vào gánh chè cháo của bà, giời ơi là giời!

– Dạ dạ… tôi lắp bắp, điệu bộ hết sức thảm thương… một tay quờ quạng tìm hai mắt kính vỡ, tay kia lần sờ túi ngực… rủi thế, hôm nay tôi không niệm thần chú "vừng ơi" làm sao có đô để xoá tội, phá luật, vật ngã bà thủ trưởng chè đây(!).

– Thế nào? Khôn hồn thì đền đủ, bà tha cho về… còn không… Bà trợn ngược lòng trắng mắt lên quát. Từ trong cái miệng nanh nọc của bà, hàng trăm  món "đặc sản" ghê người xối xả tuôn ra.

Tôi cố tìm kế hoãn binh. Móc túi trên túi dưới… tất cả chưa đầy năm chục ngàn. Ôi ước gì có tờ năm mươi đô la ở đây, có phải tôi sẽ "hoá cường quyền", "cóc thèm sợ ai" không? Còn với năm chục lẻ này, có nói hết hơi khản cổ, rã cả bọt mép ra cũng chẳng làm sao đậy được cái miệng hũ, miệng vò chứa đầy những lời xằng bậy, hỗn hào kia. Thằng Thái nhận định thế mà sát. Đô la đi trước, mực thước theo sau(!).

Không có "đô" Hổ cũng thành… thỏ xám. "Cụp đôi tai dài rũ rượi", chán chường, tôi thu hết can đảm cuối cùng, ấn vào tay bà chỗ tiền lẻ nhàu nát.

– Cháu… cháu chỉ có ngần này… biếu bác… uống nước.

– Tiên sư thằng mù dở, Bà ta quẳng đống tiền tung toé dưới chân tôi – Cả "cơ nghiệp" nhà bà… mày định giả có… năm mươi ngàn à? Bà sửa soạn hàng họ hùng hục từ sáng, chưa bán được cho ai, mày lại định… cho tiền uống nước lã suông hở rồ… Hôm nay, ngày mai… cả nhà bà sống bằng gì? hở! hở?..

Thật may, ông trời có mắt. Nhìn bộ dạng nhún nhường, thảm hại của tôi. Trán vã mồ hôi, toàn thân rét run cầm cập, hai đầu gối reo hát trên nền chợ, miệng ú ớ chẳng gọi lên lời… ông động lòng trắc ẩn, lia mắt sang hàng thịt trong chợ, chỗ con Thái ngồi… thế là "ba máu sáu cơn” nổi lên. Tay nắm dao bầu, tay "vén váy quai cồng" nó nhảy bổ vào túm lấy áo mụ già  nanh nọc mà lắc lấy lắc để. Vừa thí thêm cho năm chục ngàn lẻ, vừa xỉa xói quơ tay, vung dao chửi. Ý thức danh dự và truyền thống gia đình  trở thành chất men kỳ diệu xúc tác cho cơn giận hừng hực bốc cao… trào tuôn khắp đầu, cổ, khiến mụ hàng chè im bặt. Than ôi! Cái thứ ngôn ngữ đanh đá truyền thống của mụ làm sao địch nổi vốn… đa sinh ngữ, ngoa ngôn, lộng óc, học đòi, hiện đại của nó? Trời cao xấu hổ đỏ mặt lùi lũi chui vào trong mây. Đất dày thất thế lặng lẽ áp sát mặt xuống nhờ cỏ che đậy.

Mụ già lủi thủi xếp lại một trăm ngàn đồng bỏ túi, nước mắt chứa chan rơi trên đống đồ vỡ nát. Đám đông tản đi, tôi khép nép theo bước chân hùng hổ của cô em gái ra khỏi khu vực chợ… Từ đâu, thằng con trai quý tử của mụ, bộ dạng quỷ quái lưu manh, đúng như ngòi bút của Nam Cao miêu tả "có đầu, có đuôi" lại thiếu khúc giữa, trông rõ ra quân trộm cướp, xông ra chặn đường:

– Đứng lại!

Nghe tiếng hét, tôi sởn gai ốc, ngã quay lơ ra vỉa hè…

Trở thành vật hy sinh cho những cú đạp, đấm, lắc vô cùng ngoạn mục, tai tôi nổ đom đóm, mắt nở hoa cà hoa cải, hai đầu gối vỡ vụn trên nền chợ nhớp nhúa. Toàn thân biến thành nắm giẻ rách nhầy nhụa bùn, chè, và máu. Thay vì cầu khấn ông bà ông vải, tôi gắng hết sức bình sinh, kêu lên:

– Anh Nhân ơi, cứu… cứu với…

Tai quen nghe mọi tiếng động lạ trong rừng, từ tiếng "tác" gọi "đực" của nai mẹ, tiếng súng nổ, thú kêu, cành cây gẫy… Như một phản xạ tự nhiên, từ trong nhà anh tôi quăng mình qua phố phường đông nghịt, rẽ đám đông lao lên vỉa hè nơi đang xảy ra trận hội chiến tương tàn:

– Á à… dám trêu vào anh em nhà ông hả…?

Sau mỗi tiếng "hả…" anh nghiến răng, trợn mắt, bổ xuống mặt, xuống đầu thằng oắt con những cú trời giáng… Hiểu ra cơ sự, nó sụp xuống, quềnh quàng van lạy "đại ca" như tế sao… Mặc, những cú đấm thôi sơn liên tiếp nhằm vào mặt vào bụng, thằng quý tử bật ngửa, giãy đành đạch sõng soài trên đất… Thêm vài cú nắn, bóp, đá móc nhẹ nhàng vào ngực, đã nghe tiếng than khóc ‘hự hự" của các dẻ xương sườn.

Rời trận địa, anh tôi gửi lại câu "chào" nhẹ:

– Mẹ mày. Biết thế nào là "ô kê" – khoẻ như lực sĩ chưa? Lần này ông tha, lần sau ông cấu đầu, rút ruột làm dây phơi, nhớ chưa? Nhà ông chỉ còn thiếu mỗi loại dây phơi ấy thôi.

Tiếng lành bỏ qua, tiếng dữ đồn xa. Gia đình thằng bé đâm đơn kiện, đòi bồi thường… tám dẻ xương sườn cùng nồi chè loãng. Nhận được thông báo, nay mời mai họp. Bố mẹ tôi ôm nhau khóc thút thít.

– Ối con ơi là con… các con bênh nhau kiểu ấy bằng… hại giết bố mẹ rồi… hờ hờ… thời đại này biết ai mua bán ký gửi xương sườn mà đền đây… hư hư.

Ba anh em tôi xanh xám mặt mày, không cẩn thận phen này ra toà như bỡn, chỉ thằng Thế rung đùi cười ha hả, coi như mọi sự đã an bài:

– Bố yên tâm… băm lăm năm công tác của bố, con đã kịp "quy đổi"  thành vài chục ngàn USD rồi, con sẽ dùng đô la để mở mọi cánh cửa như Người Đức bảo.

– Không được đâu con ơi. Bố tôi rên rỉ, việc gì cũng phải có nguyên tắc, lý lẽ của nó cả.

-Bố yên tâm. Nó bảo, giọng chắc nịch: – Một trăm đô bằng một lô lý thuyết, bằng một huyện lời hứa, và ngược lại: – Một trăm nguyên tắc không vững chắc bằng một xấp đô la. Con sẽ chứng minh điều đó. Nói rồi nó quay ngoắt người làm điệu bộ như ảo thuật miệng lẩm bẩm: "úm ba la,  ba ta cùng lợi".

Mẹ tôi ngơ ngác:

– Thế là thế nào? Sao lại "ba ta" ở đây?

Thằng Thế cười, nụ cười kiêu bạc của kẻ có tiền:

– Thì nhà ta… "nhà địch" và nhà… Uỷ ban… mẹ quên à? Rồi mọi việc sẽ êm như ru…

Thấu tình, đạt lý lại có tí… màu mè. Quả là mọi việc êm như ru thật. Ngày UBND phường gọi hai nhà ra hoà giải. Không khí cứ vui như hội. Thằng Thế trao vào tay "kẻ thù" một phong bì mỏng quẹt chứa ba tờ 100 USD. Nhà Uỷ ban mỏng hơn nữa, chỉ 200 USD. Sau cú lừ mắt của vị lãnh đạo, những lời ân hận xin lỗi, cám ơn từ miệng bà hàng chè tuôn ào ào như suối. Gia đình tôi cũng nở mặt, nở mày, mũi phồng to như hai chiếc… bánh rán.

Ôm chúng tôi vào lòng, như mẹ gà xoà cánh ấp ủ bày con thơ bé, mẹ nghẹn ngào:

– Ôi! Nhân, Tình, Thế, Thái của mẹ ơi… bốn cái gậy chống của mẹ đây… các con giỏi quá.

Chứng kiến cảnh hai gia đình "hoà giải", đoàn tụ, một vị trong Uỷ ban tủm tỉm:

Đã có "Nhân" có "Tình" lại có "Thế" nữa thì làm gì thiên hạ chả… Thái bình.

 

Hà Nội 4-2008

 T.B.M

 

Thi Thơ Văn 2008 Văn Thơ Lạc Việt

Giải ba cho bài văn

 

HỒN MA ĐÒI ÁO QUAN

Lưu Thái Dzo

 

                Đêm đã khuya lắm . Cang nằm trằn trọc, không sao chợp mắt. Căn phòng của hắn lạnh vắng khác thường. Để tiết kiệm điện, hắn tắt luôn cả bóng đèn ngủ, chỉ để ngọn đèn dầu leo lét. Bên ngoài, trời tối đen như mực. Gió lạnh thổi từng cơn. Cứ mỗi cơn gió, hằng ngàn hạt mưa bị đánh bạt đi, rơi nhanh hơn và không theo hướng nhất định.

                Cang là Thiếu Tá Công An, Trại Trưởng một trại tù cải tạo miền Bắc. Chiều nay, trại hắn lại thêm một tù chết vì bệnh kiết lỵ : Anh H. thuộc Đội 9 Nông Nghiệp. Hắn đã cho chôn cất xong. Trước đây, trại hắn đã xảy ra hai trường hợp tù cải tạo chết . Trong cả hai lần, hắn đã không đến xem cái gọi là lễ nhập quan. Hắn giao toàn bộ hậu sự cho sĩ quan trực trại với sự tiếp tay của hai tù hình sự và một tù cải tạo. Nhưng lần nầy, không hiểu sao hắn lại đích thân xuống trạm xá trại xem liệm xác. Phải chăng hắn bị ám ảnh bởi hình ảnh một tử thi da bọc xương gói trong chiếc mền cũ rách , do đó, trong đêm nay, hắn trằn trọc, không sao chợp mắt ?

                Hình ảnh anh H., người tù cải tạo đã chết vì bạo bệnh, làm Cang nổi da gà. Hắn đưa tay vặn to thêm ngọn đèn dầu , và nhìn ra phía cữa chính căn phòng đã được đóng chặt. Hắn nghe mưa rơi nặng hạt bên ngoài. Thỉnh thoảng có tiếng gió rít. Hắn kéo chăn trùm kín đầu và nhắm mắt cố tìm giấc ngủ. Hắn vừa thiếp đi trong mỏi mệt thì có tiếng ai gọi từ phía cữa sổ bên cạnh giường nằm của hắn. Tiếng gọi được lặp đi lặp lại nhiều lần và rõ ràng là gọi đích danh hắn. Sau đó, hắn nghe tiếng khóc rên ai oán, run rẩy:

                -Ôi, rét quá ! Trả lại áo quan &Rét quá ! Mau trả lại&áo quan ! Rét

 quá &

                Những tiếng khóc than đập vào tai hắn, rời rạc, ngắt quảng, nhưng rõ ràng. Hắn hoảng sợ, muốn la lên, nhưng tay chân cứng đờ như có ai đè chặt lấy, không nhúc nhích, cọ quậy được. Cơn hoảng sợ tột cùng đã làm hắn toát mồ hôi, ướt đẩm cả chiếc mền đỏ Trung Cộng, mặc dầu lúc đó, căn phòng của hắn đã chìm ngập trong bầu không khí lạnh buốt của một đêm đông miền rừng núi Bắc Việt .

                Tiếng than khóc tiếp tục vang lên. Hắn nghe như có tiếng chân ai chầm chậm đi về phía giường hắn. Tuy sợ, nhưng hắn cố hé mắt nhìn qua ánh đèn dầu, thấy một bóng trắng nhờ nhờ , cao, gầy. bước xiêu vẹo, đôi chân như cọng sậy di động trong không khí, đôi cánh tay khẳng khiu, quờ quạng, chới với như tay người sắp chết đuối& Hắn thét lên một tiếng, đạp

 

 —2—

tung chiếc mền đẩm ướt mồ hôi. Hắn dụi mắt, nhìn quanh căn phòng .Ngọn đèn dầu vẫn cháy leo lét. Thì ra hắn vừa trải qua một cơn ác mộng .

 

                xxx

 

                Năm 1981, tôi và nhiều anh em tù ở các trại miền Bắc được chuyển vào miền nam, phân phối đến trại Z30 D ( Hàm Tân ) hoặc Z30 C ( Xuân Lộc ) . Tôi ở Z30 D / K2 , Đội Lâm Sản. Cùng chung Đội, có anh V. nguyên là tù trại T.L. do Thiếu Tá Cang làm Trại Trưởng . Anh nói với tôi là lúc còn ở trại T.L., không hiểu sao anh em toàn trại đều biết chuyện tên Cang nằm mơ thấy hồn anh H. hiện về . Có lẽ một thân nhân nào đó của lão Trại Trưởng vô tình tiết lộ, nên anh em tù nghe lóm. Họ bèn kể cho nhau nghe với những chi tiết bịa đặt, thêm bớt, có khi rất nghịch lý&

                Anh V. không có ý kiến, nhận xét gì về “giấc mơ” của tên Cang . Anh chỉ cho biết là , lúc bấy giờ, chính anh đã được chỉ định tham dự “Lễ An Táng” của anh H. Trên thực tế, việc chôn cất anh H. đã không được bình thường , nếu không muốn nói việc đó đã gây xúc động mạnh mẽ và căm phẩn tột cùng cho toàn thể anh em tù cải tạo, sau khi họ được biết chuyện chôn xác tù có hòm mà coi như không có.

                Sau khi nhập quan, Tổ mai táng đã đậy nắp quan tài, nhưng không đóng đinh để gắn chặt nắp. Anh V. lấy làm lạ, nhưng không dám hỏi trực trại hoặc mấy anh tù hình sự trong Tổ mai táng. Anh là người Công Giáo, nên nghĩ rằng có lẽ theo thủ tục Phật Giáo ( vì anh H. là Phật Tử ), trại chưa đóng chặt nắp quan tài bằng những chiếc đinh , vì cần phải thực hiện những nghi thức Tôn Giáo cuối cùng trước khi hạ huyệt . Anh chú ý theo dõi diễn tiến việc chôn cất           . Huyệt đã được đào sẵn, sâu không đến một thước. Chiếc quan tài đã nằm bên miệng huyệt. Nắp đậy vẫn chưa được đóng đinh. Anh V. hồi hộp, tiếp tục theo dõi . Giờ hạ huyệt đã điểm. Anh há hốc mồm, suýt rú lên khi chính mắt anh nhìn thấy bốn anh tù hình sự nghiêng quan tài, giở nắp ra,, cố hất xác anh H. ( bó gọn trong chiếc mền cũ ) xuống huyệt . Anh V. quay mặt đi, cố giấu những giọt lệ thương cảm và đè nén ngọn lửa căm phẩn sắp bừng lên trước hành động vô cùng man rợ của bọn cai tù mặt người dạ thú đã cho chôn tù một cách quái dị để lấy lại quan tài dành cho những xác chết kế tiếp./.

 

Lưu Thái Dzo

 

 

Thi Thơ Văn 2008 Văn Thơ Lạc Việt

Giải KK cho bài văn

 

Ảnh Hưởng Nghề Nghiệp

Phạm thị Thu Hiền

 

Giọng cái Hoà đọc thơ ông ổng:

“… Phổi đầy phấn và dạ dày… toàn cháo

Tính dân tộc ngân trong mỗi câu thơ”

Chị Hường túm lấy:

– Này, mày là giáo viên dạy sinh, mày có hiểu thế nào là Tính dân tộc không?

Con bé giãy nảy:

-Ối giời, em biết đâu đấy, em đọc trộm mấy câu trong “Sổ tay – giáo viên… nhăn răng” của chị đấy mà… và con bé cười lên khanh khách… hí hí chị viết hay quá

“Cuộc đời giáo bài ca tôi hát mãi

Hát suốt đời, phổi… đọng phấn… hàng cân (!).

Thật đúng là “Bài ca nhà giáo” trong giai đoạn hiện thực  xã hội chủ nghĩa chị nhỉ (!)… “Ôi cái nghề… cấu phổi… để mà nhai (!).

Chị Hường buồn hẳn:

– Còn chị, hình như chị tìm thấy nó – cái Tính dân tộc ấy trong bài giảng của mình cách đây…bốn tháng, đúng vào đợt giáo viên phải tự túc lương thực ấy*.

Mắt con bé sáng lên:

– Bà này… “đổi mới tư duy… thơ” nhỉ. Vì đói mà thành thi sĩ, tìm ra Tính dân tộc ngân trong mỗi câu thơ cả đấy. Thế mà các nhà thơ thứ thiệt lại bẩu cuộc đời khốn khó giơ nanh vuốt. Cơm áo không đùa với khách thơ (!). Thật là những con người… do cơm áo… sinh ra (!).

Chị Hường hỏi bằng chất giọng buồn bã của mình:

– Từ nhỏ, em đã phải ăn bánh rau muống hoặc sắn trừ bữa bao giờ chưa? Nếu đã ăn… chắc biết thế nào là “Tính dân tộc” đấy!

– Ôi dào! … môi nó bĩu dài – Chị nói như thể một phần ba dân số nước Việt Nam, tất tật mọi tầng lớp, lứa tuổi. Nhất là ông bà tổ tiên ta đều đã biết thế nào là tính dân tộc ấy?

Chị cười nhẹ:

– Chị không rõ, nhưng quả thật chị đã tìm thấy nó trong cảnh cơ hàn vừa rồi. Kể em nghe lại “huyền thoại một ngàn chín trăm…” đã lâu này nhé! Hôm ấy, sáng ra chị nhịn đói đi dạy bốn tiết liền… trớ trêu thay, bài giảng của chị lại là bài “Thánh Gióng”. Lúc phân tích đến đoạn dân làng gom góp thóc gạo và gánh đến kìn kìn để nấu một bữa bảy nong cơm, ba nong cà cho Gióng ăn đi đánh giặc… chị cứ phải tự ý quay mặt đi nuốt nước bọt không dám nhìn thẳng vào ánh mắt cũng đang hau háu của học sinh…Bỗng chị chiêm nghiệm rõ một điều: “Khi người ta đói, người ta ước được ăn no”.

– Quy luật của muôn đời mà chị – Hoà cắt ngang.

– Dân tộc Việt Nam ta cũng vậy. “bao đời nay… đời ông lặp lại đời cha, đời con cháu giống mãi đời cụ kỵ. Quý khoai sắn như là sâm với quế… tháng tám, tháng ba càng dài trận đói. Rau muống ơi xin hãy muộn mùa hoa”(1)…. Đói cồn cào, đói khắc khoải, đói triền miên. Sự ám ảnh của cái đói vì thế theo họ vào từng bữa ăn giấc ngủ… đói đến nỗi bản thân họ chỉ còn biết tìm sự no lòng trong những câu chuyện hoang đường, thần thoại, cổ tích (!) Gióng chính là một hình tượng của sự no lòng, là sản phẩm của trí tưởng tượng của cả dân tộc sau những cơn đói cồn cào, dai dẳng, triền miên ấy. Cùng một nội dung bài giảng, sao trước đây chị thấy nó ngớ ngẩn và thậm xưng quá. Làm gì có cậu bé nào ăn một lúc hết bảy nong cơm, ba nong cà rồi vươn mình đứng dậy thành Phù Đổng Thiên Vưng. Cưỡi ngựa sắt, áo giáp sắt, nhổ hàng chục búi tre đập vào đầu giặc? Thì ra có ăn nhạt mới biết thương mèo, em ạ… Ba tháng tự túc lương thực để hôm ấy đứng nhịn đói trên bục giảng, chị hiểu: “Nếu cho mình bảy nong cơm, ba nong cà, mình cũng đủ sức phát quang cả một quả đồi trọc để canh tác. Gióng là nhân vật huyền thoại, ăn hết một bữa, còn chị là người trần mắt thịt, ước gì có được niêu cơm Thạch Sanh để… dạ dày cứ đói lại được ùn đầy.

Thôi thôi em hiểu rồi, con bé cười phá lên… Mô típ cổ tích, thần thoại của nhiều nước trên thế giới thường na ná giống nhau: “Ở hiền gặp lành, cái thiện quy phục cái ác, chính nghĩa thắng gian tà”… riêng trong hai bài này nó bộc lộ bản sắc dân tộc Việt Nam rõ nét nhất mà trên thế giới không nơi đâu có được…

Đúng đấy em ạ, chị Hoà phụ hoạ.

Con bé lúc lắc cái đầu, vẻ âu sầu nói tiếp:

– Ôi thế thì dẫu có là giáo viên dạy sinh, em cũng xin đọc chị nghe bốn câu thơ này – mà em tin bản sắc dân tộc Việt Nam còn rõ nét hơn cả hai hình tượng trên:

                “Con đường hàng Tỉnh tôi đi

                Ba  mươi năm ấy có gì đổi thay

                … “Ông lão đánh trâu đi bừa

                Là con ông lão ngày xưa… đi cày”

… Ước chi chỉ là con mà không phải là cháu, chắt, chút, chít, chịt chị nhỉ.

– Và hôm nay, em biết không. Chị Hường chống gối đứng dạy – chị vẫn tiếp tục lặp lại “tính dân tộc” của ông bà tổ tiên xưa. Ăn rau muống nấu với khoai lang trừ bữa.

– Ôi! Ôi!.. con bé trợn mắt – nó không ngờ “tính dân tộc” từ bốn ngàn

năm lịch sử giờ phút này còn nhảy nhót quanh đây, ngay trong môi trường giáo viên này (!).

– Lương lậu, em biết rồi, bốn tháng liền trường toàn trả bằng gạch mộc, bằng bát, thậm chí cả xi măng, phân đạm. Đem đổi ngoài thị trường, tháng đầu 1 kg đạm đổi được 1,5 – 2 kg gạo chợ đen, sau phân đạm và bát ngập thị trường, chỉ đổi bằng, bằng nửa, nhưng bây giờ chẳng ai dại gì mà nhịn ăn mãi… Thôi thì “Sắn khoai, rau cũng nuôi nổi con người” em ạ. Phần gạo ít ỏi anh chị nhường cho hai cháu, chỉ cần sau này chúng hiểu “tính dân tộc” qua lời kể của bố mẹ và biết quý trọng cuộc sống đầy đủ sung túc của mình là được rồi.

Thị trấn Bưng – Mùa giáp hạt

 

Phạm thị Thu Hiền ( Hà Nội)

 

 

*Thời kỳ 1985-1986 nhà nước cộng sản chưa xoá bỏ quan liêu bao cấp, giáo viên tỉnh xa phải tự túc lương thực, ăn khoai sắn trừ bữa.