Ngựa Vực Hồn Thơ (Xướng hoạ 1) Đông Anh-Huệ Thu-Hà Thượng Nhân
Kính thưa Quý vị Thi Văn Hữu và Bằng Hữu thân thương
Năm nay con Ngựa lại về. Xin kính chúc Quý Vị một năm mới An Khang và Hạnh Phúc, thể chất luôn luôn khang kiện và tinh thần mãi mãi thảnh thơi cho nguồn sáng tác dồi dào.
Năm Giáp Ngọ chúng tôi vào đời, rời bỏ Hanoi đi Đà Lạt không có ngày quay lại. Tính ra đến nay đã được 60 năm. Bây giờ tuổi đời chồng chất vẫn còn lạc bước lưu vong.
Hôm nay đọc lại những bài thơ về ngựa cũng có nhiều cảm súc, nên xin gửi đến Quý Vị nhân lúc nhàn tản đầu Xuân để cùng thưởng thức những vần thơ xướng họa cho vui.
Chúng tôi sẽ lần lượt gửi đến Quý vị, mỗi ngày một bài của những thi hữu đã họa bài Ngựa Vực Hồn Thơ. Dùng ngựa làm nhịp cầu nối liền năm cũ sang năm mới để gửi đến Quý vị những tâm tình của các tác giả Huệ Thu, Hà Thượng Nhân, Băng Đình, Đỗ Quý Bái, Diệu Tần và Nguyên Hà, mười hai năm về trước.
Nếu Quý vị có nhã ý họa thêm, chúng tôi sẽ tổng kết và chuyển đến Quý Vị sau.
Nhân dịp đầu Xuân, xin Quý vị lượng thứ cho chúng tôi nếu trong năm con Rắn vừa qua có điều gì thất thố làm bận lòng Quý Vị.
Trân trọng
Đông Anh
Lời Thưa Trước
Sau lễ Tạ ơn, nhân một buổi họp mặt có thơ đọc, rượu mời. Huệ Thu gợi ý rằng chúng ta nên có bài xướng họa cuối năm cho vui. Đông Anh được chỉ định làm bài xướng, ngắn dài tùy ý và gửi đến thân hữu họa chơi.
Vì vậy mới có Ngựa Vực Hồn Thơ lấy chủ đề về những năm ngựa đã qua, từ con ngựa 1954 đứng giữa hai bờ sông Hiền Lương mà hý lộng cách ngăn tới năm con ngựa đầu Thiên Niên Kỷ mới 2002 sắp đến nơi xứ người với không khí sửa soạn chiến tranh. Vì là năm lẻ hai cho nên bài thơ mới có lẻ hai câu.
Mạo muội gửi đến quý Thi Hữu đọc chơi và nếu cảm thấy cùng duyên thơ, xin cùng họa, trước là để giải khuây tao nhã, sau là lưu lại chút tình.
Xin đa tạ
đông anh
Ngựa Vực Hồn Thơ (Bài Xướng)
Đông Anh
Xoay vần trời đất năm con ngựa
Cuốn bụi mù tung khắp đất trời
Bốn tám năm qua cuồng bốn vó
Thăng trầm theo gió lướt trần ai
Năm mươi năm trước, năm năm bốn
Háu đá bờm cao sấn tới đời
Thế giới tưởng chừng như hẹp lắm
Bắc Nam phi một nhịp mà thôi
Đông Anh từ giã mùa Xuân sớm
Hà Nội mờ sương khuất núi đồi
Ánh điện Long Biên nhòa nước mắt
Hồng Hà soi bóng lạnh lùng trôi
Bên kia sông Đuống, Loa Thành khuất
Hồn gái Mỵ Châu khóc giữa trời
Một nhát gươm đưa lìa phụ tử
Hoàng bào, lông ngỗng gió chơi vơi
Quê hương bỗng chốc chìm trong tối
Vó ngựa cô đơn giữa đất người
Cương thổ hoàng triều treo vách núi
Mây mờ che khuất ánh trăng soi
Băng hồ Than Thở, đồi Nam Bắc
Lên đỉnh Lâm Viên dựng mặt trời
Mài kiếm rèn quân học chiến trận
Vó câu trui luyện với chông gai
Mai sau chân ngựa bền gang thép
Là lúc tang bồng thỏa chí trai
Bốn mũi tên bay về bốn hướng
Năm Tư chấp cánh chuyển xoay đời
Ruổi rong cuộc sống trên lưng ngựa
Tiến Bắc bình Nam vạn dặm dài
Bến Hải Cà Mâu chừng nhỏ hẹp
Cao nguyên biên trấn thép loang đồi
Sương đêm trĩu nặng trên cành lá
Đợi ánh trăng về thổn thức rơi
Giữa chốn rừng sâu mòn giấc điệp
Vang vang ngựa hí gọi bên trời
Vào năm sáu sáu mùa bom đạn
Chiến trận tung hoành khắp khắp nơi
Ven biển kình ngư tung sóng bạc
Rừng thiêng bạch hổ cũng vươn vai
An pha lâm chiến hồn thiêng dậy
Chiến mã bay ngang động đất Hời
Suốt dãy Trường Sơn bùng chiến địa
Sông Tiền sông Hậu lửa đầy vơi
Phủ Rồng ngơ ngác thay tân chủ
Ngờ nghệch làm dơ cả cánh mai
Ngựa trú thiên di cùng khốc khách
Bỗng dưng tuần triệt cắt làm hai
Kẻ đi cùng cốc mùa lao cải
Người vượt thuyền con giữa biển khơi
Bảy Tám ngựa què tan tác chạy
Đám người lốt khỉ bước lên ngôi
Dưới trên đều trổ tài vơ vét
Khánh tận non sông, bóc lột người
Đưa nước lui về thời lập quốc
Xóm nghèo im bặt tiếng à ơi
Giặc về phố thị dân lên núi
Gió hú hồn oan lạnh núi đồi
Cỏ gục mồ hoang trơ trọi đá
Xoi mòn đến cả khúc xương phơi
Trùng trùng đánh thức căm hờn dậy
Dù chết vong linh vẫn sáng ngời
Ai luận anh hùng trong chiến bại
Kiên cường đâu thẹn chí làm trai
Chiều chiều đứng lặng trên đầu núi
Níu ánh tà dương tận cuối trời
Nhìn cánh sao băng qua đỉnh gió
Kêu sương tiếng vạc suốt đêm dài
Sài gòn vừa đổi tên đau hận
Sôi sục dân tình dậy sóng khơi
Rũ bỏ quê hường lìa bỏ nước
Đường đời ngăn cách nghĩa tàn phai
Ngựa Hồ theo bóng đàn chim Việt
Tìm mãi mùa Xuân ở xứ người
Thập kỷ Chín Mươi mòn mỏi bóng
Đường về biền biệt hỏi cùng ai
Rêu xanh trước ngõ còn chân ngựa?
Hay đã tàn theo những nhánh mai?
Bỗng một ngày Thu mờ khói lửa
Đạn bom hỏa tiễn nổ lưng trời
Công trình vạn cổ nay bình địa
Tro bụi phù du một kiếp người
Thù hận tràn dâng như thác lũ
Oan hồn vất vưởng khắp nơi nơi
Tình thương vun xới bao năm trước
Phút chốc tan tành nước cuốn trôi
Quyết vượt trùng dương đòi nợ máu
Tinh cầu lênh láng máu xương phơi
U buồn đôi mắt bao sương phụ
Dang dở niềm đau suốt cả đời
Chiến mã về cùng thiên kỷ mới
Mở ra trang sử hai ngàn hai
Bao giờ dừng bước giang hồ lại
Tháo gỡ yên cương, cất rượu mời
Thắm má điểm hồng môi thiếu phụ
Trời xuân lại ngọt gió xuân tươi
Không gian trở lại thời gian cũ
Phơi phới nòi tình mọng má môi
Ngựa vực hồn thơ bừng gió cuốn
Tiếng đàn réo rắt khắp muôn nơi
Ta về sửa soạn xe song mã
Để đón đưa em trọn cuộc đời
đông anh
Xuân con ngựa 2002
Ngựa Vực Hồn Thơ
Bài Họa
HT
Họa sỹ Trung Hoa thường vẽ ngựa
Ngựa bay vó đập bụi tung trời
Lại năm Con Ngựa chờ bên cửa
Tuổi ngựa giờ ai nhớ những ai
Năm chục năm rồi chia đất nước
Ngựa cùng năm tháng đổi thay đời
Năm năm mươi bốn, ừ năm ngựa
Bỏ Bắc vào Nam, vận nước thôi
Vận nước nổi trôi từ dạo ấy
Qua bao sông rạch núi qua đồi
Qua bao năm tháng bao lưu lạc
Mà vẫn chưa dừng cuộc nổi trôi
Nay từ đất khách quay nhìn lại
Còn nghe tiếng gió thổi đầy trời
Còn như một thuở trong binh lửa
Giáp mặt đồng bào hận chẳng vơi
Anh bỏ Đông Anh vào trận địa
Ngửng lên không thẹn kiếp làm người
Làm người không thể quên thù nước
Chiến trận trăng tàn lạnh lẽo soi
Anh biết mà anh đành bỏ lại
Quê Hương gò bó một phương trời
Anh vào Đà Lạt vào quân ngũ
Khắp chốn vào ra dựng kẽm gai
Chẳng phải để cho thơ có thép
Mà cho đỡ thẹn kiếp làm trai
Cũng mong đặt lại câu thành bại
Đem tuổi thanh xuân góp với đời
Tôi muốn như ai tung vó ngựa
Sông bao chừng rộng núi bao dài ?
Ngày xưa Trưng Triệu thơm trang sử
Nay mảnh trăng Thu lạnh núi đồi
Tôi chẳng là trang kỳ nữ trước
Tóc mây lau mãi lệ thầm rơi
Tôi từng thẹn đã làm thân gái
Ngậm miệng bầm gan giữa đất trời
Năm Ngựa bỗng dưng anh nhắc tới
Những con ngựa trận rải muôn nơi
Những con ngựa trận tung đôi vó
Tuấn mã cùng nhau lại sánh vai
Tuấn mã giờ không còn chỗ dựa
Canh khuya vẳng lại tiếng ru hời
Canh khuya đối bóng năm tàn lụi
Rượu chẳng cùng say, hận chẳng vơi
Chủ mới học đòi làm kẻ thắng
Rừng mai ngơ ngác cánh hoa mai
Hỡi ơi ! Đất nước Trung Nam Bắc
Là một làm sao lại vẫn hai
Khi lấy “vì dân” làm chiếc bẫy
Nỡ nào ăn nói cứ khơi khơi
Lều tranh vách trống đêm khuya khoắt
Nhớ lúc nhìn lên sao đổi ngôi
Nhớ lúc xênh xang quần áo mới
Tủi cho thân phận kiếp làm người
Làm người giữa lúc cờ nghiêng ngả
Tổ Quốc mình ơi! Bạn hữu ơi !
Tôi thẹn chưa từng cùng chiến mã
Chưa từng đêm lạnh ngủ lưng đồi
Chưa từng ruột quặn, từng cơn đói
Vách núi chiều hôm áo trận phơi
Trước mặt sau lưng mờ mịt khói
Niềm tin thuở ấy sáng ngời ngời
Dẫu sao đã trải nhiều dâu bể
Cũng hả rằng anh một kiếp trai
Không cứu non sông gây đại cuộc
Để thân lưu lạc ở phương trời
Từng đêm gió lạnh ngoài hiên vắng
Xe cộ từng đêm vẫn chảy dài
Ta liệu có ngày nào trở lại
Hò ơi ! Thuyền lớn lại ra khơi
Có ngày trở lại ngôi trường cũ
Màu bức tường xưa đã lợt phai
Năm Ngọ nhắc nhau năm Ngọ trước
Hai lần tỵ nạn ở quê người
Một lần trong nước lần ngoài nước
Ôi tấm lòng ai biết gửi ai ?
Anh có nghĩ gì đêm thức trắng
Liệu còn không nữa những ngày mai
Ngày mai bên chén trà pha đậm
Cánh vạc mù sương lạc cuối trời
Tiếc chẳng được làm thân tuấn mã
Lê la thêm tủi phận làm người
Bạn ta năm hết ngùi thương nhớ
Viết mấy vần thơ gửi mấy nơi
Tôi họa chẳng qua cho đỡ tủi
Biết rằng năm tháng lạnh lùng trôi
Biết rằng chén rượu xưa pha máu
Áo chiến từng đem trước dậu phơi
Nay tuổi đã tri thiên mệnh đó
Mà thơ vẫn cứ dở dang đời
Mà năm lại đến ừ năm mới
Năm một hay là năm lẻ hai
Tôi biết chỉ vì năm của ngựa
Giang hồ dầu chẳng rượu ai mời
Thế nhưng dòng máu giang hồ trước
Cùng với mùa Xuân lại thắm tươi
Lại thấy mơ hồ tung vó ngựa
Bồ đào rượu rót đã mềm môi
Người xưa rượu rót trên lưng ngựa
Ngựa vực hồn thơ, Tết tới nơi
Bạn hỡi! Bạn là trang tuấn mã
Cơn say cũng đủ để quên đời
Huệ Thu
* Huệ Thu tên thật Bùi Huệ Thu
* Chào đời và lớn lên tại Đà Lạt
* Làm thơ từ thời ở Trung Học Bùi Thị Xuân Đà Lạt – bút hiệu Trần Bích Tiên, Thu Huệ, H.T. Man Nương – Được giải thưởng văn chương về luận văn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm niên học 1957 – 1958 toàn Tỉnh Tuyên Đức, Đà Lạt.
* Sở Thích: làm thơ, làm vườn, trồng Bonsai nuôi chim, chó và cá …
* Sáng lập nhà in và nhà Xuất Bản H.T năm 1984 tại Bắc California – Xuất bản nhiều sách về Triết Học – In gần trọn bộ sách triết Lý An Vi của Kim Định…
* Các tập Thơ đã xuất bản:
– Sương Chiều Thu Đọng 1991
– Mở Ngõ Phù Vân 1995
– Lục Bát Huệ Thu 1997
– Đầu Non Mây Trắng 1998
– Tứ Tuyệt Huệ Thu 1999
* Hiện sống cùng gia đình tại San Jose.
Ngựa Vực Hồn Thơ
Bài Họa
HTN
Bài này là bài họa thứ hai. Bài thứ nhất, sau khi họa xong Hà Thượng Nhân gửi Đông Anh qua đường Bưu Điện. Ba tuần, thơ không đến, nhà thơ đành phải họa bài khác thay thế.
Bước sang năm ngựa xem tranh ngựa,
Vó ngựa mù tung rợp bốn trời
Chạnh nhớ thuở nào vừa mới lớn
Cỏ bồng trôi nổi bạn ta ơi?
Bạn ta mười tám hai mươi tuổi,
Hứa lấy thân trai trả nợ đời
Người bỏ Đông Anh vào võ bị
Em yêu ngoảnh mặt cũng là thôi
Chữ tình gặp thuở đời điên hái
Những sớm mùa đông giữa núi đồi
Quên cả phong trần quên tất cả
Coi như bèo nổi bập bềnh trôi
Đã vì Tổ Quốc khinh nguy hiểm
Đâu cũng quê hương cũng đất trời
Ngang dọc miền Nam trăm trận đánh
Nỗi lòng ngày đó tát sao vơi?
Làm sao vơi được thề sông núi
Không hổ cha ông, hổ phận người
Những vắt cơm khô mưa gió lạnh
Những tuần trăng cũ lạnh lùng soi
Những ngày chìm nổi nơi biên địa
Những lúc thơ ngâm lạc giữa trời
Ta bỗng nhớ xưa thời chiến quốc
Mà quên giầy trận đạp chông gai
Kinh Kha dẫu có qua sông Dịch
Cũng để làm tròn bổn phận trai
Ta mới ra ràng, chim bở ngỡ
Vẫn mong chí cả hiến dâng đời
Ở đây, ở đó cùng trang lứa
Ôi những tầm tay cứ nối dài
Bữa rượu lưng đèo vài bốn kẻ
Cơn mưa trở giấc lạnh lưng đồi
Tiếng ca phát tự “ra dô”â cũ
Nghe cứ như mùa lá rụng rơi
Giọng hát giờ nghe còn lạc điệu
Còn nghe vang động bốn phương trời
Vui chưa ngày ấy trong gian khổ
Bạn hữu giờ đây lạc mỗi nơi
Hoa Giáp dẫu tròn chưa bỏ cuộc
Nước nhà hai chữ nặng hai vai
Nhìn về dĩ vãng cau mày nhớ
Cái giá nam nhi tính vẫn hời
Vẫn nhớ như in lời mẹ dặn
Đường nào nỡ bỏ, hận nào vơi?
Nhớ sao đỉnh núi dài Yên Bái
Trơ trụi cành mai những đóa mai
Những đóa mai, trời! im lặng đứng
Bây giờ tổ quốc một mà hai
Ra đi vẫn hẹn rồi quay lại
Ngọn lửa khi tàn, có kẻ khơi
Bạn hữu mình còn đông đảo lắm
Niềm tin ngày ấy lại về ngôi
Lại về sum họp như ngày cũ
Ta vẫn là ta bạn của người
Ôi những đồng bào ta ruột thịt
Còn như réo gọi đó ta ơi
Ta về đòi lại sông kề núi
Điếu thuốc canh sương ngủ dưới đồi
Em bé mắt tròn ngơ ngác hỏi:
“Tấm khăn mẹ giặt có đem phơi?”
Hãy phơi kỷ niệm đi em bé
Cho má hồng em ánh mắt ngời
Cho kẻ vong thân còn nhớ lại
Cho anh vẫn ngỡ thuở làm trai
Quê hương trở lại trong hờn tủi
Dựng lại quê hương! cảm tạ trời!
Hoa bưởi, hoa cau ngào ngạt nhớ
Núi cao thêm mãi dặm đường dài
Núi cao sông rộng vô cùng tận
Biển rộng ta hò giữa gió khơi
Hò để thấy ta còn giữa trận
Ngàn năm kỷ niệm chẳng hề phai
Ngàn năm sông núi ai sang đoạt
Về lại chung vui với mọi người
Ngựa vực hồn thơ, xuân lại tới
Mùa Xuân nào phải của riêng ai
Mùa Xuân “Mã Đáo Thành Công” đó
Hết tối bây giờ đã sáng mai.
Chuyện cũ ta giờ quên tất cả
Mùa Xuân vẫn đó tạ ơn trời
Những ngày khói lửa không còn nữa
Chỉ có người thương số phận người
Em bé lại khoe quần áo mới
Lòng già lòng trẻ chẳng đôi nơi
Chị mừng, chị nắm tay em khóc
Những hận thù xưa thả nước trôi
Lại viết lời thơ mừng bạn hữu
Ấm trà để mốc lại đem phơi
Lại nghe từ đáy hồn cây cỏ
Đem lộc mùa Xuân trả lại đời
Bông cúc, bông mai, bông thược dược
Ngàn ngàn bông thắm sắp hàng hai
Đông Anh dẫu đã xa mù mịt
Quê cũ hôm nay rượu rót mời
Có thấy anh em bè bạn cũ
Nắm tay chào đón mặt hoa tươi?
Bạn ơi! mưa mãi rồi mưa tạnh
Cô gái bây giờ đã đỏ môi
Mái tóc mẹ già sương tuyết đậm
Cũng không còn nữa chuyện đôi nơi
Trăm con ngựa trận về nao nức
Còn tấm lòng son góp với đời
Hà Thượng Nhân