Văn

Huyên Chương Quý : Khát Vọng Tự Do

Khát Vọng Tự Do

 

Huyên Chương Quý

 

Kỷ niệm 35 năm người Việt tị nạn tại hải ngoại. Kính tưởng niệm tất cả vong linh đồng bào Việt Nam đã tử nạn trên biển Đông hay nơi rừng sâu trong cuộc Hành Trình Tìm Tự Do từ sau tháng 4 năm 1975

 

Lời Nói Đầu

           Thời điểm 30 tháng 4 / 1975, kết thúc một cuộc chiến tranh ý thức hệ đẫm máu, “huynh đệ tương tàn”, nhưng để lại bắt đầu một cuộc chiến khác, dai dẳng hơn, trong mấy mươi năm qua, giữa những người dân Việt yêu nước và lý tưởng dân chủ, tự do đối đầu với sự chuyên chế, phi nhân, ngu muội của bạo quyền cộng sản Việt Nam đang làm chủ nhân ông một nước Việt đã liền lạc về một mối từ Bắc đến Nam.

           Đã hàng triệu người dân Việt bỏ nước ra đi để mưu tìm một đời sống mới có được sinh khí của ánh sáng tự do, dân chủ và phồn vinh. Đã có bao lớp người Việt vong thân trong lòng biển mặn ngàn khơi hay nơi rừng sâu, nước độc trong hành trình tìm tự do. Trong bao đớn đau hiểm nghèo, may mắn ngày nay đã có hơn ba triệu người Việt tị nạn đang được sống an bình tại nhiều quốc gia văn minh, tiên tiến tại hải ngoại.

           Trong dòng đời viễn xứ trăm bờ bến lạ, người Việt lưu vong đã với sức cần lao nhẫn nại mưu sinh, vươn cao lên trong xã hội xứ người và lòng vẫn hoài trông về đất Mẹ. Trong hạnh phúc sự nghiệp cuộc đời và tình yêu đôi lứa vuông tròn, người Việt hải ngoại vẫn hằng mong có được một ngày “Chắp đôi cánh tin yêu, hy vọng bay cao, trở về quê hương có dòng sông tuổi thơ êm đềm, dựng lại mái nhà Việt Nam xiêu vẹo, bên đàn trẻ nhỏ, cùng kể chuyện Âu, Cơ, Phù Đổng, dòng Lạc Việt kiêu hùng”. Với khát vọng đó, người Việt hải ngoại đã quần tụ lại thành nhiều cộng đồng vững mạnh để tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, thành lập nhiều hội đoàn, đảng phái, mưu tìm một con đường ánh sáng mới cho một ngày về xây dựng một quê hương không cộng sản. Mỗi năm, đến ngày 30 tháng 4, người Việt ở khắp nơi trên thế giới thường tổ chức ngày Quốc Hận, tưởng niệm các chiến sĩ “vị quốc vong thân” và vong linh những đồng bào đã bỏ mình trên đường vượt biên, kể cho con cháu nghe những chuyện kinh hoàng trong tháng tư đen tại miền Nam, hay những hiểm nguy trong hành trình viễn xứ tìm tự do. Có rất nhiều người đã viết thành truyện, in thành sách, thuật lại những hãi hùng của riêng mỗi người gặp phải trên biển khơi, rừng thẳm trước khi đến được bến bờ tự do, hoặc kể về những lao đao, khốn khổ khi ở trong trại tị nạn chờ ngày được đi định cư. Mỗi câu chuyện là một cảnh đời trắc trở, gian truân gây nhiều xúc cảm; là những kinh nghiệm sống rất quý báu và đáng trân trọng.

            Tôi đã được sống đời an lành tại Hoa Kỳ 28 năm qua. Mỗi năm, tôi vẫn thường làm một người thầm lặng tham dự lễ kỷ niệm tháng tư đen, và nghe, đọc chuyện đời vượt biên của nhiều người. Đến nay, năm 2010, người Việt tị nạn hải ngoại kỷ niệm 35 năm đời lưu vong. Con số 35 năm, ghi dấu một thời gian dài đằng đẵng, tự nhiên tôi thấy có nhiều cảm xúc và sự hứng thú để viết lên chuyện của mình. Chuyện kể chia thành hai truyện khác nhau.: 1 / Khát Vọng Tự Do. 2 / Hành Trình Viễn Xứ. Nhưng nội dung hai truyện có sự nối tiếp, liên kết những chi tiết sống thực từ ngày 28 / 4 / 1975 đến ngày tôi được đặt chân lên nước Mỹ vào cuối tháng 4 / 1982. Mong rằng truyện của tôi sẽ đem đến ít nhiều kỷ niệm nơi mỗi người đọc như thấy có mình trong đó.

 

Chút Tình Mong Manh

            Diệu có dáng vóc mãnh mai với cái eo nhỏ, khuôn mặt trái xoan, đôi mắt lá răm, mủi dọc dừa, cái miệng xinh xinh có cặp môi son đỏ mọng cong cớn như một nụ hồng mới chớm nở. Thêm mái tóc dài uốn dợn xỏa xuống bộ ngực vun cao của cô tăng thêm nét đài các, kiêu sa. Sắc đẹp của cô khiến cho nhiều con trai trong xóm chợ Thị Nghè chết mê, chết mệt. Nhưng “bụt’ nhà không thiêng, chẳng có chàng nào lọt vào mắt xanh của cô. Người ta thường nói con gái có mắt lá răm thì đa tình, lãng mạn lắm. Ở tuổi mới 18, cô đã bồ bịch với nhiều thanh niên dân chơi ở nội thành Sài Gòn. Tôi quen Diệu nhờ thường ngày đến chợ ăn cơm tại hàng cơm của dì Sáu, mẹ cô. Cũng gần một năm rồi. Cô học xong lớp 11 trường Trưng Vương thì nghỉ vì tánh ham chơi theo nếp yêu cuồng sống vội của một số người trẻ trong thời chiến. Khi không đi chơi, cô ra phụ hàng cơm cho dì Sáu. Nhà cô ở gần cầu Thị Nghè. Có nhiều lần, cô đưa tôi về nhà ngồi nghe cô hát. Thích vẻ đẹp của cô và có tình thân với cô như vậy, nhưng tôi không nghĩ là tôi sẽ yêu cô, vì thấy không hợp với cách sống của cô.

          Chiều nay, Diệu mặc áo thun trắng ngắn tay bó sát thân mình, và cái quần Jean xanh ống loa bạc màu thắt dây nịch trắng, trông rất trẻ trung, mi-nhon. Chờ tôi ăn cơm xong, Diệu rủ tôi đi ăn chè đậu ở gần chợ. Thấy tôi nhìn cô chăm chăm, cô để ly chè xuống, nở nụ cười tươi, hỏi :

        Sao anh không ăn mà cứ nhìn em mãi thế ?

        Tại Diệu đẹp quá, không nhìn không được.

        Nhìn gần năm nay rồi chưa chán sao ?

        Có ai chán cái đẹp bao giờ. Nhất là ngưòi đẹp như em, Tây Thi tái thế cũng không bằng.

         Diệu phá lên cười ha hả :

        Anh đang tán em đó phải không ?

          Tôi cười cười :

        Được em cho ăn chè thì cũng phải biết nịnh em chớ.

        Anh thích em như vậy sao nhiều lần em rủ anh đi chơi mà anh không đi ?

        Thì đang đi ăn chè với em nè.

        Xời ! Ở đây, xóm nhà. Đi chơi là đi vô nội thành xem ciné hay bát phố Lê Lợi mua sắm, uống cà phê, nghe nhạc kìa.

        Anh sợ bị quánh.

          Diệu nhăn mặt :

        Anh đàn ông, con trai gì mà nhát vậy ! Mà anh sợ ai quánh ?

        Thì mấy bạn trai của em chớ ai.

          Diệu hứ lên một tiếng rồi nói :

        Anh đừng lo. Mấy tên đó ngán em lắm. Em bảo gì làm đó. Với lại, đi chơi lung tung với họ nhưng em chẳng thấy yêu tên nào cả.

        Vậy người em thật sự yêu là ai, cho biết được không ?

          Diệu mỉm cười :

        Bí mật. Không thèm nói với anh. Rồi với nét tư lự thoáng hiện lên trên khuôn mặt xinh đẹp, Diệu nói tiếp : – Em thích nếp sống hiện sinh vì thấy chiến tranh trên quê hương mình kéo dài quá, chẳng biết ngày mai mình còn sống hay chết, nên chơi cho đã, tới đâu thì tới. Như vậy thấy vui hơn. Chứ ai cụ non như anh vậy.

          Tôi triết lý :

        Hiện sinh không phải là sống bất cần đời đâu. Thuyết hiện sinh đúng nghĩa của nó là sống lạc quan, vui vẻ, hưởng thụ hạnh phúc với những gì khả năng mình có được trong hiện tại, cùng lúc biết lo nghĩ cho tương lai được thăng tiến hơn. Chứ hiện sinh không có nghĩa là sống đua đòi, buông thả không biết ngày mai.

           Diệu lại nhăn mặt :

        Anh giảng đạo đó hở. Thôi, mình đi dạo một vòng đi anh.

          Chúng tôi rời xe chè, sóng đôi nhau đi dọc theo đường Hùng Vương. Đi được một lát, thấy tôi vẫn im lặng, Diệu gợi chuyện :

       Hôm nay em muốn anh được vui chút khi đi chơi với em, để nguôi ngoai nỗi đau vừa mất đi người em trai tuần trước. Em anh tên gì và sao mới 17 tuổi lại đi lính vậy ?

           Tôi xúc động trả lời Diệu :

        Cảm ơn em quan tâm đến chuyện buồn của anh. Em anh tên Hỷ. Nó nói thích đời lính phong sương và oai hùng, nên tình nguyện gia nhập lính Biệt động quân cả năm qua. Không ngờ chiến tranh sắp tàn nó lại hy sinh !

        Anh có mấy anh chị em ?

        Anh có năm anh chị em. Hai người anh và một người em trai đã hy sinh vì đất nước. Riêng thằng út chết vì bệnh năm nó hai tuổi. Còn người chị tên Mùi, lấy chồng là lính Biệt kích Mỹ, có hai con trai. Đơn vị anh rễ bị chuyển qua Campuchia từ năm 1970. Hai tuần nay, cộng sản Khmer Đỏ đã chiếm được Nam Vang. Anh rất lo, không biết chị Mùi và gia đình bây giờ sống chết ra sao nữa.

        Chuyện đời anh nghe não nùng quá. Em chia buồn với anh. Sau câu nói an ủi, Diệu chợt nhìn qua tôi bằng ánh mắt long lanh, ẩn chứa cái vẻ gì rất tha thiết, rồi nói tiếp : – Anh nắm tay em đi. Em muốn mình giống như cặp tình nhân đi hóng mát. Có thể đây là lần cuối mình gần nhau.

          Tôi lưỡng lự một chút rồi mới nắm bàn tay Diệu. Đã hai mươi mốt tuổi, lần đầu tiên tôi mới nắm tay con gái, nhất là con gái đẹp như Diệu. Bàn tay cô mềm mại, mịn màng truyền vào người tôi cái cảm giác xao xuyến, lâng lâng một niềm vui khó tả. Tôi nhìn lại cô, thấy cô đang nở nụ cười rất tươi, có vẻ cũng vui lắm khi tôi nắm tay cô. Tôi hỏi :

        Sao em nói lần cuối mình gần nhau ?

        Hôm nay, Việt cộng đã đến cửa ngõ Sài Gòn. Nước mình sắp mất rồi. Anh không biết sao ?

        Có. Một khách hàng nhà in nói mấy hôm trước Việt cộng pháo nhiều hỏa tiển vào Sài Gòn làm đổ sập nhiều khu nhà, dân chết và bị thương gần trăm người. Người khách khác nói hôm nay, tướng Minh được ông Trần văn Hương trao cho chức Tổng thống thì Việt cộng cũng đã tiến vào gần Chợ Lớn, rồi Bà Quẹo, vành đai Bộ tổng tham mưu, và gần với chổ mình đang đi chơi nè.

        Ở đâu anh ?

      – Ở bên kia cầu Sài Gòn. Nên mình đừng đi xa quá, rủi có đánh nhau ở cầu Sài Gòn là chạy không kịp.

        Có anh đỡ đạn cho em mà sợ gì. Diệu cười khúc khích sau câu nói. Nhưng sau khi dứt cười thì cô lại nói với giọng buồn buồn: –  Vậy là hết cứu nổi !. Việt cộng sẽ vào Sài Gòn nay mai. Bố em đã một lần từ Bắc chạy vào Nam trốn họa cộng sản. Bố nói Việt cộng nó độc tài, gian xảo và tàn bạo lắm. Bố mẹ em tính sẽ rời Việt Nam vài ngày tới để có được đời sống tự do. Nếu đi lọt thì gia đình em sẽ đến Mỹ hay Úc. Vì vậy mà em nói là lần cuối đi chơi với anh.

        Nghe em nói hai chữ lần cuối sao anh thấy buồn quá.

          Diệu khẻ bóp nhẹ tay tôi :

        Anh không còn người thân, hay là anh đi theo gia đình em nhé ?

        Anh cũng chưa biết nữa. Để từ từ xem tình hình ra sao. Bây giờ quay trở lại nhà đi em. Anh Hải Vân chắc đang trông anh lắm.

          Trên đường về, Diệu  hỏi :

        Anh Quý. Anh đã từng yêu cô nào chưa ?

          Tôi cười xòa :

        Anh chưa biết thế nào là yêu. Với lại có quen cô nào đâu để mà yêu.

        Xời ! Anh biết làm thơ, viết truyện, lại là họa sĩ nữa, thiếu gì cô thương anh.

        Anh không phải họa sĩ. Anh chỉ là thợ vẽ học nghề sư phụ Hải Vân. Còn văn, thơ chỉ tập tễnh viết vài bài, có ra gì đâu. Anh mới học lớp 11. Em không biết sao ?

         Vậy sao anh được làm  trưởng bút nhóm Hương Hồng ? Hai phó nhóm lại là sinh viên Văn khoa, Luật khoa năm thứ hai.

        Nhờ anh là người đứng ra vận động sáng lập nhóm. Cả 36 nhóm viên đều do anh liên lạc đưa họ vào nhóm. Nên họ cảm tình bầu anh làm trưởng nhóm thôi.

        Em vào sinh hoạt với nhóm anh một lần là thấy chán. Toàn hát hò chơi trò con nít gì đâu không.

         Tôi bật cười :

        Vui chơi lành mạnh của học sinh, sinh viên mà. Làm sao hợp với tính cách dân chơi hiện sinh thứ thiệt của em.

          Diệu hứ một tiếng :

        Nói xỏ, nói xiên gì đây ? Em giận, nghỉ chơi với anh bây giờ.

          Tôi cười ha hả :

        Cho anh xin can. Không có Diệu cười nói ở bên anh, mặt trời sẽ nguội lạnh; trái đất sẽ ngừng quay; biển, hồ khô cạn; và anh sẽ là thân cây mục nát gục chết ở ven đường !

          Diệu cũng bật cười :

         Anh xuất khẩu thành thơ mấy câu nghe cũng ngộ, vui vui. Em hết giận rồi. Tha anh đó.

           Đến gần xóm chợ, Diệu lại thắc mắc :

         Anh Quý nè. Em thấy trong bút nhóm anh có nhiều cô nữ sinh đẹp lắm mà. Sao anh không yêu cô nào đi.

          Tôi im lặng một lúc rồi tâm sự thật lòng  :

         Những cô nhóm viên đó đều là con nhà giàu. Vui chơi thân thiện trong nhóm với tánh cách anh em, bạn bè trong sáng thì được. Chứ anh không dám nghĩ đến chuyện yêu cô nào, vì anh… mặc cảm là con mồ côi, nhà nghèo.

          Diệu lặng thinh không nói nữa, nhưng bàn tay cô lại khẻ bóp nhẹ tay tôi. Đưa Diệu về đến sân nhà cô thì tôi thả tay cô ra, dù lòng vẫn muốn được nắm mãi bàn tay mềm dịu của cô. Bổng nhiên, cô quàng hai cánh tay trắng nõn nà quanh cổ tôi, đặt lên môi tôi một nụ hôn…rồi vụt chạy vào nhà. Trời đất ! Cũng lần đầu tiên tôi được con gái ôm và hôn môi như vậy. Nụ hôn đầu đời của tôi với con gái không do tôi chủ động. Mùi vị nụ hôn thật ngọt ngào, êm ái, thêm hương thơm con gái từ người Diệu tỏa ra khi cô ôm tôi, làm cả người tôi ngây ngất, rạo rực. Tôi đứng ngẩn tò te một hồi lâu mới quay bước. Trên đường về nhà in, hương vị nụ hôn của Diệu vẫn còn vương vấn trên môi tôi, chếnh choáng hồn tôi.

 

Bỏ Lỡ Cơ Hội

Anh Vân đang ngồi ở ghế dài trước cửa vừa thấy tôi thì quở :

        Mày đi đâu cả buổi chiều ?  Tao chờ mày hoài sốt ruột quá.!

        Em xin lỗi anh. Tại nhỏ Diệu rủ em đi chơi vòng vòng hóng gió.

        Mày với nó sao rồi ?

        Dạ… cũng thường thôi.

        Mấy lần nó đến đây thăm mày, tao thấy nó có vẻ dân chơi bạt mạng quá. Mày dính nó thì khổ cả đời.

        Dạ…em hiểu. Em xem Diệu như bạn thân thôi chứ không có gì. Nói rồi, tôi lãng qua chuyện khác, hỏi anh : –  Anh Vân. Liệu Tổng thống Minh có xoay chuyển được tình thế không anh ?

         Anh Vân lắc đầu :

        Hết rồi ! Quân cộng đang bao vây Sài Gòn. Một, hai ngày nữa là tụi nó vô luôn dinh Độc lập. Bây giờ nhà in họ đóng cửa luôn. Mày không ăn ngủ ở đây được nữa. Về lại nhà Khánh Hội ở. Tao đã lấy túi xách quần áo của mày ra sẵn đây rồi. 

        Dạ. Nhưng em xin anh cho em về cư xá sĩ quan Cửu Long thăm anh chị Hồ Đấu vài ngày, xem tình hình ảnh chỉ ra sao. Rồi em sẽ về nhà Khánh Hội.

        Cũng được. Vậy tao về.

        Dạ.

          Anh Vân là họa sĩ nổi tiếng trong nhóm hoạ sĩ CVD, gồm Kha Thùy Châu, Hải Vân và Lê Đằng. Anh đã nuôi dưỡng và dạy nghề vẽ cho tôi ba năm nay. Có rất nhiều kỷ niệm vui giữa anh và tôi. Anh có tính thích nói chuyện tếu lâm chọc cười em út. Những ngày, những đêm thức trắng phụ anh vẽ quảng cáo cho các đoàn cải lương và vẽ cảnh cho các show ca nhạc truyền hình, tôi thấy vui lắm. Tôi còn được theo anh giúp việc trang trí cho các phim của nữ nghệ sĩ Kim Cương. Kỷ niệm vui nhất là lần cùng với anh chị Vân và ban kịch của nhà báo Tuyết Sĩ đi Đà Lạt trình diễn vở kịch “Những người không chịu chết” của kịch tác gia Vũ khắc Khoan, tại trường Đại học Chính trị kinh doanh, do nữ nghệ sĩ Thanh Lan thủ vai chính. Anh Vân và tôi phụ trách cảnh trí và ánh sáng. Lần đầu tiên tôi mới biết Đà Lạt đẹp thế nào. Ở dọc hai bên những con đường đi lên các đồi thông đều có hoa Dã quỳ nở rộ một màu vàng tươi thắm. Trời lập thu se se lạnh. Gió thổi vi vu; thông reo vi vút; chim hót líu lo. Xa xa là rừng xanh trùng điệp, đồi núi chập chùng, sương mù lãng đãng. Phong cảnh nên thơ, đẹp tuyệt vời. Anh Vân chụp cho tôi rất nhiều hình làm kỷ niệm. Một tuần ở Đà Lạt là thời gian đẹp nhất tôi không bao giờ quên.

            Chờ anh Vân rồ ga chiếc xe Vespa vọt đi, tôi mới chầm chậm dắt xe đạp rời khỏi nhà in với chút lưu luyến. Nơi đây đã là chổ ăn ở, làm việc của tôi hơn một năm qua. Ra tới đường lộ, tôi đạp xe chạy vù vù chỉ hai mươi phút sau về đến cư xá Cửu Long. Vào nhà, thấy anh chị Đấu ngồi ở phòng khách với vẻ buồn trên khuôn mặt, hiểu được sự ưu tư của anh chị, tôi khẻ nói :

         Anh. Chị. Em lo cho anh chị nên về thăm anh chị vài ngày.

           Giọng anh Đấu rầu rầu :

         Ừ. Có em về chơi đỡ buồn. Tắm rửa gì đi em.

           Chị Hương hỏi :

         Anh Hải Vân cho về hả. Ăn uống gì chưa ?

         Dạ. Em mới ăn cơm ở chợ. Mấy cháu đâu rồi chị ?

         Tụi nó đang ở trên gác. Mày lên chơi với tụi nó đi.

          Tôi dạ rồi leo lên gác ngay. Tôi biết anh chị đang cần yên tịnh vì nhiều nỗi lo lắng. Chị Cúc Hương là con của má nuôi tôi hồi tôi còn nhỏ ở Phan Rang. Tôi thương chị như chị ruột. Anh Hồ Đấu, chồng chị Hương, là thiếu tá phục vụ tại Bộ tư lệnh Hải quân ở bến Bạch Đằng

          Trưa hôm sau, 29 tháng 4, vào giờ ăn cơm, anh Đấu cho biết, sáng sớm này Việt cộng đã bắn nhiều hỏa tiển và đạn pháo vào phi trường Tân Sơn Nhất, phá hủy nhiều phi cơ và gây cho đám dân tụ tập nơi đó chờ di tản rơi vào hổn loạn và bị thương nhiều người. Hiện giờ, Việt cộng đã vào tới khu Lăng Cha Cả, tuy có gặp sự kháng cự của quân ta, bị ta  bắn cháy vài xe tăng T54, nhưng chẳng thắm gì với chúng. Cùng lúc, có nhiều cánh quân của Việt cộng từ nhiều hướng áp sát quanh thành phố. Nhiều người báo tin, tòa đại sứ Mỹ sẽ tổ chức di tản tất cả người Mỹ và những người làm việc cho Mỹ ngay trong ngày hôm nay. Tình thế đã tuyệt vọng.

           Ăn trưa xong, tôi đi vòng vòng trong cư xá. Nhiều người thân của các sĩ quan tụ tập bàn tán thời sự. Họ nói có tin đồn Việt cộng đã chuẩn bị hàng vạn đạn pháo, hỏa tiển và sẽ rót vô thành phố Sài Gòn vào sáng sớm 30 tháng 4. Sài Gòn sẽ đổ nát, tan hoang, tử vong vô số. Lòng tôi lo lo. Người dân có tội gì phải chịu cảnh bi đát như thế ?! Đến xế chiều, tiếng trực thăng di tản người vần vũ trên bầu trời gần cư xá Cửu Long. Tôi ra giữa sân nhìn từng chiếc trực thăng bốc người từ hướng tòa đại sứ Mỹ bay ngang qua Bộ tư lệnh Hải quân rồi bay ra biển. Đồng thời, trực thăng từ biển bay đến tòa đại sứ. Xem mãi đến tối, vẫn cứ trực thăng bay ra, bay vào liên tục, chẳng biết bao giờ mới dứt, tôi vào nhà. Nhiều sĩ quan Hải quân trong cư xá Cửu Long dẫn gia quyến tay kéo va li, vai mang túi xách lũ lượt đi qua cầu để đến Bộ tư lệnh Hải quân ở bến Bạch Đằng. Bấy giờ khoảng 9 giờ tối. Tôi hỏi anh Đấu :

        Bộ tư lệnh Hải quân cho di tản hở anh ?

          Anh Đấu lại rầu rầu trả lời :

        Chẳng Bộ tư lệnh nào cho phép cả. Nhưng có nhiều tướng, tá chỉ huy các quân binh chủng giờ này đã chạy tuốt ra hàng không mẫu hạm Mỹ ở ngoài khơi rồi. Khuya nay, vài tàu từ Bộ tư lệnh Hải quân sẽ nhổ neo vượt biển. Những người này qua đó để đi theo tàu.

        Sao anh chị không đi di tản ?

          Anh Đấu nghiêm nét mặt :

        Quân đội chưa thật sự tan hàng. Ai đi thì đi, anh không đi. Anh có danh dự của một sĩ quan, không thể đào ngũ.

          Chị Hương thì nói :

         Má chị và má anh Đấu còn ở Phan Rang. Anh chị đâu thể bỏ người thân mà ra đi. À, Quý, mày nên đi. Mày không còn ai thân thích nữa, ở lại làm gì ?

          Anh Đấu cũng đốc vào :

        Phải đó, Quý. Em nên đi đi. Qua Mỹ có tương lai hơn. Ở lại với đám Việt cộng gian ác này thì cuộc đời em sẽ đen thui.

          Tôi phân vân :

         Em chưa biết sao nữa. Để em suy nghĩ chút.

           Tôi ra ngồi chồm hỗm ở hiên nhà. Nhiều loạt đạn nổ tạch tạch liên hồi ở bên kia sông Bạch Đằng. Không biết của Việt cộng hay quân mình bắn. Nhiều người trong cư xá vẫn lũ lượt đi qua cầu. Tôi nhớ lại thời ở trại Biệt kích Mỹ Bến Sỏi, tỉnh Tây Ninh, tôi thích được đi Mỹ khi có trung úy Bonny xin tôi làm con nuôi anh ổng ở Mỹ. Tiếc là chị Mùi không cho đi. Bây giờ, dịp may trước mắt, sao có thể không đi ?. Nghĩ tới, nghĩ lui một hồi, tôi vào nhà nói với anh chị Đấu :

        Thấy người ta đi nhiều quá, em nôn nao. Thôi thì em cũng đi.

          Chị Hương nói ngay :

        Vậy vào trong lấy cơm ăn một bụng cho no, rồi đi.

          Tôi dạ và đi vào bếp lục cơm, ăn vội vàng một chén. Trở ra phòng khách, thấy anh chị Đấu vẫn  ngồi trầm lặng, không ai nói chuyện với ai. Cả mấy cháu nhỏ cũng ngồi im thin thít trước nỗi buồn của cha mẹ. Tôi ngồi xuống bên anh chị, lòng bịn rịn. Chị Hương hối :

        Đi lẹ đi mày. Chần chờ gì nữa.

        Đi đi Quý. Kẻo hụt chuyến tàu bây giờ. Anh Đấu vừa nói vừa vỗ vỗ tay lên vai tôi. Anh nói tiếp : –  Qua Mỹ được rồi thì viết thư về cho má với chị Hương theo địa chỉ ở Phan Rang, chứ cái nhà này chắc không còn nữa. Thôi, đi lẹ đi em.

          Tôi đến ôm các cháu rồi quay lại lí nhí nói với anh chị Đấu :

         Anh chị ở lại giữ gìn sức khỏe, nhiều may mắn.

          Anh chị Đấu đứng lên tiễn tôi ra ngoài sân. Mắt tôi cay sè :

        Thưa anh chị, em đi.

          Anh chị Đấu cùng nói :

        Em đi bình an.

          Tôi dạ, dạ rồi lủi thủi theo đám người di tản đi qua cầu. Trên người tôi không có một hành lý gì mang theo. Đến Bộ tư lệnh Hải quân, một cảnh tượng hổn loạn hiện ra trước mắt tôi ở bến tàu. Cả mấy trăm người đang nhốn nháo tranh nhau lên tàu. Tiếng la hét của nhiều người hối thúc lẫn nhau, cùng những tiếng gọi cha, gọi mẹ, gọi anh, gọi chị, gọi em hòa lẫn với những tiếng khóc thét đau đớn của nhiều con nít bị cha mẹ kéo lê lên tàu, thêm tiếng bình bịch của trực thăng bay ngang, nghe lùng bùng cả hai tai tôi. Những người đi cùng lượt với tôi chạy ào ào nhập vào đám đông, cũng chen chúc, xô đẩy nhau không khoan nhượng. Trên tàu đã đầy người mà dòng người dưới bến vẫn tràn lên, tràn lên. Phía sau tôi có thêm mấy tốp người từ hướng trường Trưng Vương chạy vào bằng xe gắn máy. Vừa đến nơi, sợ hụt chuyến tàu, họ phóng khỏi xe ngay khi máy xe vẫn còn nổ, quăng đi tất cả va li, túi xách cho nhẹ người để chạy thật nhanh vào đám đông đó. Thấy cảnh hoảng loạn vậy, tôi lừng khừng đứng giữa bến tàu, không dứt khoát nên đi hay ở. Một lúc sau, có tiếng tàu hụ từng hồi báo hiệu chuẩn bị rời bến. Phản xạ tự nhiên khiến tôi chạy vù đến phía trước. Khi đã nhập vào đám đông thì tôi cũng giống như mọi người, cố sức nhào tới. Dù bị nhiều người xô qua phải, qua trái, lấn lui, tôi vẫn luồn lách được tới cầu thang tàu. Chỉ vài bước nữa tôi sẽ lên được trên boong tàu. Trong giờ phút quan trọng đó, bổng trong đầu tôi chớp lên những hình ảnh chị Mùi, ba, má, anh em ruột thịt của tôi. Tôi suy nghĩ thật nhanh trong đầu. Ở lại, biết đâu có ngày chị Mùi từ Campuchia về gặp mình. Còn có thể thỉnh thoảng đi thăm mộ ba, má, anh, em. Thêm chuyện tôi đã hứa với anh Hải Vân sẽ về nhà Khánh Hội. Nếu tôi tiếp tục ở với anh Vân, học giỏi nghề vẽ, đời sống chắc sẽ vui lắm. Qua Mỹ một mình, không có người thân, không có nghề nghiệp, biết sống làm sao ? Còn nụ hôn ngọt ngào của Diệu buổi chiều này nữa…Và, quê hương ! Hai tiếng “quê hương” thân yêu trong giờ phút này tự dưng nổi lên trong đầu tôi, len lỏi vào hồn tôi một thứ tình cảm gì thiết tha, êm đềm lắm khiến tôi thấy lưu luyến không thể xa lìa. Hình ảnh người thân và những suy nghĩ mông lung chớp chớp lên trong đầu khiến tôi không màng đến sự chen lấn nữa. Tôi bị đẩy dần ra phía sau. Cuối cùng, tôi tách khỏi đám đông, ra đứng ở xa xa nhìn cảnh mọi người vẫn đang cơn say men húc ngã nhau ở cầu thang để giành một chổ đứng trên tàu. Tôi cứ đứng như trời trồng giữa bến tàu, không biết đã bao lâu. Rồi tiếng tàu hụ kéo dài từng hồi và từ từ rời bến. Vài người rớt xuống sông kêu la thảm thiết. Còn lại mấy chục người không lên tàu được ngồi gục đầu buồn bã. Có vài người nằm lăn ra đất khóc sướt mướt. Họ khóc đã mất đi cái sinh lộ cho khát vọng được sống đời tự do nơi phương trời xa lạ. Riêng tôi, đáng lẽ đã dễ dàng có được cái sinh lộ đó, nhưng tôi lại bỏ lỡ cơ hội ! Nhiều năm sau, tôi vẫn luôn tự trách mình dại dột.

  

Ngày Tàn Cuộc Chiến

           Tôi lại lủi thủi đi về nhà anh chị Hồ Đấu. Trời đã khuya lắm. Trực thăng vẫn bay qua, bay lại ở đằng xa. Tôi gõ cửa. Trong nhà im lìm. Chắc anh chị Đấu đã ngủ. Đứng lặng một hồi, tôi gõ tiếp vài lần nữa thì được chị Hương ra mở cửa. Thấy tôi, chị ngạc nhiên hỏi :

         Ủa ! Sao mày lại về ?

         Dạ…em… gần lên tàu thì hổng biết sao không muốn đi nữa.

           Chị Hương nói với giọng gay gắt :

         Trời ! Bao nhiêu người muốn đi mà không được. Còn mày một thân, một mình lại bỏ đi cơ hội. Có phải mày điên không ?

           Tôi cười giả lả :

         Dạ…lỡ rồi chị. Tàu đã rời bến.

           Chị Hương dịu giọng :

         Thôi, vào ngủ đi.

         Dạ.

           Tôi nằm trên ghế dài ở phòng khách, trằn trọc mãi. Tiếng phành phạch của trực thăng bốc người di tản vẫn vang động đều đều trong đêm đen cho đến rạng sáng. Tôi chợp mắt được một chút thì có tiếng nhiều bước chân trong nhà. Anh chị Đấu đã thức. Trời đã sáng tỏ. Cả nhà ăn sáng xong thì nghe trên radio có tiếng Tổng thống Dương văn Minh tuyên bố đơn phương ngừng bắn. Sau đó là tiếng chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh yêu cầu binh sĩ chấp hành lệnh của Tổng thống. Thời khắc đó là 8 giờ rưởi sáng ngày 30 tháng 4. Tôi vội đạp xe chạy ào ào ra Thị Nghè để nghe ngóng tình hình. Nhớ đến nụ hôn dịu ngọt của Diệu chiều hôm qua, tôi ghé thăm cô. Nhà không có ai, cửa khóa bên ngoài. Tôi lại đạp xe dọc theo đường Hùng Vương, ra tới ngả tư Hàng Xanh thì nghe nhiều tiếng súng nổ ở phía cầu Sài Gòn. Đi lần về hướng cầu, đứng từ xa xa, tôi thấy lố nhố quân mình ở trên cầu. Có mấy chiếc xe tăng của bên mình đậu chắn giữa cầu. Nhiều người lính lom khom chạy tới, chạy lui khiêng người bị thương. Tiếng súng nổ tạch tạch liên hồi. Đạn pháo của hai bên nổ ầm ầm vang rền khu vực cầu. Khoảng nửa tiếng sau, quân ta rút lui về Hàng Xanh. Tôi hoảng hốt đạp xe chạy thục mạng về Thị Nghè. Tôi lại đến nhà Diệu. May quá, lần này có Diệu ra mở cửa. Nhìn khuôn mặt Diệu bơ phờ, hốc hác, tóc tai rũ rượi, quần áo trên người nhầu nát, rồi nhìn trong phòng khách có vài va li, túi xách, tôi ngạc nhiên hỏi :

        Diệu. Sao trông em thê thảm vậy ? Gia đình mới đi đâu về ?

          Diệu ngồi phịch xuống ghế dài với dáng vẻ mệt mỏi, vừa ngáp vừa nói :

       Gia đình em mới từ tòa đại sứ Mỹ về. Cả bố mẹ và em, suốt đêm đến sáng phải vất vả chen lấn mà không tranh nổi với người khác để vào được tòa đại sứ. Người ta đông quá, xô đẩy mẹ con em té lên, té xuống. Còn mạng mà về lại nhà là may rồi. Em buồn quá.

          Tôi ngồi xuống bên Diệu, an ủi :

        Đừng buồn nữa em. Số mạng khiến mình phải sống với cộng sản thì đành chịu vậy. Còn bố và mẹ đâu ?

        Về tới nhà là bố mẹ đi ngủ liền.

        Sao em không ngủ ?

        Thức trắng đêm em mất ngủ luôn. Nhưng chắc nói chuyện với anh chút rồi em cũng đi ngủ. Mà anh đi đâu vậy ?

        Anh chạy vòng vòng xem tình hình, với lại thấy nhớ em nên đến thăm.

          Diệu mỉm cười :

        Xạo đi ! Anh mà nhớ em. Nhớ mấy cô ở nhà in thì có.

        Mấy cô đó có chồng hết rồi. Đụng vô là toi mạng. Anh còn ham sống lắm. Tôi cười cười nói đùa với Diệu rồi bắt qua chuyện chiến sự: –  Vừa rồi anh ra khu Hàng Xanh thấy lính mình đánh nhau ác liệt với Việt cộng để giữ cầu Sài Gòn. Nhưng lính mình thua, bỏ chạy hết. Bây giờ chắc tụi cộng đang vào Thị Nghè mình đó.

          Diệu lo lắng :

         Liêu chúng nó có làm gì nguy hiểm đến bố em không ? Bố em là công chức.

        Anh không biết nữa. Anh có người anh nuôi là thiếu tá Hải quân ở cư xá Cửu Long. Ảnh cũng đang lo lắng cho số phận người chiến bại.

          Tôi vừa nói dứt câu thì nghe nhiều tiếng súng nổ liên tục.

          Diệu hoảng hốt :

         Có đánh nhau nữa kìa anh. Tụi cộng vào Thị Nghè thật rồi.

          Tiếng súng nổ rát hơn. Tôi vội đứng lên, đến cửa sổ, nhìn về phía cầu Thị Nghè. Tôi thấy một số lính mình ở trên cầu đang chỉa súng, nả đạn hàng loạt về phía đường Hùng Vương. Diệu hiếu kỳ cũng đến cửa sổ, đứng dựa vào người tôi, xem trận đánh. Cô thảng thốt kêu lên :

        Trời ơi ! Có mấy người lính trúng đạn kìa anh.

          Vừa lúc đó, vài người lính khác bỏ chạy. Ổ kháng cự cuối cùng của quân ta để chặn bước tiến của Việt cộng bị bẻ gãy nhanh chóng. Ngay sau đó, mấy chiếc xe tăng Việt cộng với cờ xanh, đỏ, sao vàng chạy rầm rập qua cầu, tiến vào nội thành Sài Gòn. Lúc đó khoảng 10 giờ rưởi sáng. Diệu gục đầu lên vai tôi, mếu máo :

        Vậy là hết rồi anh !

          Tôi dìu Diệu trở lại ghế. Cô nằm dài ra, im lặng nhìn tôi, mắt còn ngấn lệ. Tôi cũng ngồi im lặng nhìn cô. Trong giờ phút này, chẳng có chuyện gì để nói nữa. Chỉ có im lặng nhìn nhau là sự cảm thông tuyệt đối về nỗi buồn mất nước. Khoảng nửa tiếng sau, chợt nhớ đến anh chị Đấu, tôi đứng lên nói với Diệu :

        Thôi, em đi ngủ đi, cho khỏe. Anh phải về xem anh chị Đấu có chuyện gì không.

        Vâng. Em cũng mệt lắm rồi, nằm đây ngủ luôn. Anh đóng cửa lại giùm em.

          Rời nhà Diệu, tôi đạp xe một mạch về nhà anh chị Đấu. Thấy anh Đấu đang ngồi buồn thiu một mình ở phòng khách, tôi nói ngay :

        Vừa rồi em tận mắt thấy quân mình đánh nhau với Việt cộng ở cầu Sài Gòn và cầu Thị Nghè. Mình thua rồi anh. Việt cộng đã tiến vào nội thành Sài Gòn.

          Anh Đấu thở dài :

        Thế cuộc đã vậy, đành chịu !

          Đúng 12 giờ trưa, trên radio vang vang tiếng của ông Dương văn Minh, Tổng thống cuối cùng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Anh Đấu buồn bã nằm dài ra trên ghế, im lặng. Chị Hương rươm rướm nước mắt. Chiến tranh Việt Nam chính thức kết thúc trưa ngày 30 / 4 / 1975 trong sự tức tưởi, nghẹn ngào của toàn thể quân, dân miền Nam Việt Nam. Vào buổi tối, đài phát thanh Sài Gòn phát bài “Nối vòng tay lớn” của Trịnh công Sơn. Còn đài truyền hình Sài Gòn, suốt từ chiều đến khuya, phát hình liên tục các phim chiến đấu của quân Việt cộng, khoe khoang những thành tích chiến thắng của chúng. Thủ đô Sài Gòn đã thật sự đổi chủ. Ngày 30 / 4 / 1975, thời điểm lịch sử mang dấu ấn khắc ghi sâu đậm nỗi đau thương của một chế độ tự do, nhân bản bị sụp đổ vì sự bỏ rơi của đồng minh Mỹ, để có thêm một nửa lãnh thổ của nước Việt Nam hình cong chữ S phải mang vào cổ cái tròng xiềng xích của cộng sản độc tài, phi nhân, bạo tàn, vong bản..

 

Khát Vọng Tự Do

          Ngày hôm sau, từ sáng đến trưa, nhiều vợ con của các sĩ quan cư xá Cửu Long đi lục lọi các nhà đã bỏ đi di tản. Họ khuân nhiều chiến lợi phẩm như bàn, ghế, đồ đạc lỉnh kỉnh mang về nhà. Có người lấy được xe Honda, xe đạp. Sau khi ăn cơm trưa, tôi từ giã anh chị Đấu để về Khánh Hội. Tôi đạp xe đi qua cầu đến Bộ tư lệnh Hải quân rồi vòng ra đường Cường Để, nơi có trường nam trung học Võ trường Toản và trường nữ trung học Trưng Vương. Giấy trắng đầy khắp đường lộ, bay bay theo từng cơn gió. Nhiều người dân đang đua nhau hôi của ở các văn phòng công, tư sở. Tôi đi tới đài truyền hình ở kế bên trường đại học Văn khoa. Dừng xe lại nhìn vào đài truyền hình, tôi thấy có vài bộ đội Việt cộng canh gác. Nơi đây có nhiều kỷ niệm vui trong ba năm qua khi tôi thường phụ giúp anh Hải Vân trang trí cảnh cho các show ca nhạc lớn của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng thời đó. Có nhiều chương trình ca nhạc nhỏ, anh Vân giao cho một mình tôi thực hiện cảnh trí. Tôi thở dài. Những ngày vui nơi đây sẽ không còn nữa ! Chợt nhớ đến Diệu, tôi đạp xe về hướng Thị Nghè. Vẫn là cảnh nhiều người dân đang hôi của và giấy trắng ngập đường bay bay trong gió. Qua khỏi cầu, tôi rợn mình khi thấy ở giữa đường có mấy xác lính nát bét vì bị xe tăng Việt cộng cán. Chưa có ai dọn xác giùm. Nhiều giày, vớ, quần, áo rằn ri của lính mình cởi bỏ, vương vãi cùng khắp trên đường Hùng Vương ra tới ngả tư Hàng Xanh. Tôi xót xa khi nhìn thấy những chứng tích đó của phía bại vong !. Cuộc chiến tranh nào cũng có lúc kết thúc. Nhưng kết thúc trong sự bại vong về phía mình thì bi thảm quá ! Đành phải cam chịu !

           Khi cuộc chiến tàn, buồn vương đôi mắt

           Nụ cười lịm tắt

           Lệ đắng bờ môi

           Máu anh em tôi, máu đồng bào tôi

           Thấm đẫm quê hương này

           Ngày hòa bình về, Tự Do biến mất

           Chỉ còn xích xiềng trói chặc chân tay

           Bao cảnh đời lây lất

           Sống trong đọa đày, chất ngất đau thương !

           Tôi quay xe chạy đến nhà Diệu. Nhà lại cửa đóng, then gài, khóa kỹ. Tôi gõ cửa và gọi Diệu ơi, Diệu ơi nhiều lần, vẫn không ai lên tiếng. Tôi nghĩ thầm, chẳng lẽ mới đây lại đi di tản nữa. Mà giờ phút này Việt cộng đã có mặt ở khắp nơi trong Sài Gòn, Gia Định, còn chổ nào để di tản ?! Trời cũng xế chiều, tôi đạp xe về nhà anh chị Vân ở Khánh Hội. Trên đại lộ Lê Lợi, vài xe Jeep chạy ào ào, chở nhiều thanh niên mặc đồ dân sự, đeo băng đỏ, chỉa súng M16 bắn chỉ thiên liên tục để thị uy với mọi người trên phố. Đó là những tên “cách mạng 30”, thừa lúc thời thế còn đang hổn quân, hổn quan, làm nhiều điều xằng bậy hiếp đáp dân lành. Về sau, chúng cũng bị Việt cộng cho đi “thanh niên xung phong” hết; làm lao động nặng như vét kinh, phá rừng, vác cây, cuốc đất ở các khu “kinh tế mới”.

            Nhà ở Khánh Hội là nhà bác Tươi, má vợ anh Vân. Bác Tươi và các anh chị em vợ của anh Vân rất tốt với tôi, coi tôi như người thân trong gia đình. Hơn một năm qua ăn ở, làm việc tại nhà in Thị Nghè, nhưng mỗi cuối tuần tôi đều về nhà Khánh Hội tắm rửa, ăn cơm với gia đình bác Tươi và ngủ lại. Bây giờ về ở luôn, tôi được bác Tươi cho ở cùng phòng với Minh, con trai út của bác. Trong nhà hiện có sáu bộ đội Bắc Việt ngang nhiên vào “ở ké”. Anh nào cũng trẻ măng, khoảng 18 đến 20 tuổi. Mọi người trong gia đình đều phải giữ gìn lời ăn, tiếng nói, và phải giả vờ tỏ ra thân thiện với chúng. Tôi hỏi anh Vân chừng nào họ đi, anh nói không biết và dặn tôi đừng có nói gì bậy bạ mà mang vạ vào thân. Cũng may, một tuần sau thì các tên bộ đội này rút đi. Cả nhà thở phào nhẹ nhõm.

           Thương xá Rex bao gồm khách sạn, nhà hàng, tiệm café, ba rạp chiếu bóng Rex và Mini Rex A, B, tọa lạc trên góc đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ, ngay đầu tháng 5 đã bị Việt cộng vào tiếp thu theo quy chế hợp doanh với ông bà Ưng Thi. Anh Vân được ông bà Ưng Thi nhận vào làm công việc trang trí cho cả thương xá. Hàng ngày, anh Vân chở tôi đi phụ anh công việc vẽ quảng cáo phim và làm các biểu ngữ treo trong thương xá. Ngày 7 tháng 5, nghe vài người nói Việt cộng tổ chức lễ mừng chiến thắng ở dinh Độc lập, nên sau khi làm xong mấy biểu ngữ, tôi xin anh Vân cho đi xem. Tôi mang theo máy chụp hình. Ra khỏi thương xá, tôi lại nghĩ, Việt cộng mừng chiến thắng thì kệ chúng, mình có gì vui mà đi xem. Thôi thì đi rảo phố xem cảnh người dân buôn bán trong chế độ mới. Phố xá vẫn tấp nập người mua bán. Nhiều toán lính Việt cộng đeo băng đỏ, vai mang súng Ak đi vòng vòng trên phố giữ an ninh. Tôi đi dọc theo đường Nguyễn Huệ, đến bến Bạch Đằng thì nghe một tiếng nổ ầm thật lớn ở bờ sông. Tôi chạy đến xem. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt. Một người vừa tự sát bằng lựu đạn. Bên cạnh anh là tấm bảng có viết mấy hàng chữ : “Đả đảo cộng sản. Tôi là quân nhân, phản đối lệnh đầu hàng của Dương văn Minh. Tự do hay là chết”. Tôi vội lấy máy ảnh chụp lia lịa. Vừa chụp xong thì bổng nhiên có ai phía sau giựt ngay máy ảnh. Tôi quay lại. Hai anh lính Việt cộng đang chỉa súng vào người tôi.

           Tôi bị áp giải về trụ sở an ninh quận nhất đang đặt tạm tại vũ trường Maxim’s gần bến Bạch Đằng. Có nhiều tội phạm khác đang đứng, ngồi lố nhố trong vũ trường. Hai anh lính Việt cộng chỉ tay vào tôi và nói với người chỉ huy :

         A trưởng. Tên này chắc là tình báo CIA. Nó chụp hình lính “ngụy”tự sát ở bờ sông.

         Nhốt nó lại, chờ đìều tra viên đến thẩm vấn nó.

          Tôi chẳng biết A trưởng là chức vụ gì. Chắc lớn lắm. Sau này tôi mới biết chỉ là chức tiểu đội trưởng chỉ huy một tiểu đội. Tôi bị họ còng tay, đẩy vào một phòng nhỏ. Buổi chiều, tôi được cho ăn một chén cơm chan nước muối mở hành. Đến tối, điều tra viên vào phòng hỏi cung :

        Mày thành thật khai báo, sẽ được cách mạng khoan hồng. Mày làm việc cho tổ chức nào ?

        Tôi không có làm cho tổ chức nào cả.

        Mày không có sao lại chụp hình lính “ngụy” tự sát ?

        Tôi chỉ tình cờ đi ngang, thấy chuyện lạ nên vô tình chụp thôi.

         Điều tra viên gằn giọng :

        Mày nói láo. Không ai dám chụp hình này cả. Chỉ có mày chụp. Nói. Tổ chức nào ? Ai chỉ huy mày ?

         Tôi phải tỏ ra vẻ mặt thật thành khẩn :

        Tôi là dân lành, thực tình không biết tổ chức nào. Không có ai chỉ huy tôi cả.

        Mày ngoan cố ! Không khai rõ, tao cho điện giật chết ngay.

          Tôi thấy sợ. Từ nhỏ đến lớn, đây là lần đầu tiên bị dính vào chuyện quân cơ. Trong thời thế nhiễu nhương này, Việt cộng muốn giết ai lại không được. Tôi càng cố tỏ ra thành khẩn hơn :

        Tôi xin thề, tôi hoàn toàn không biết gì hết để khai báo. Tôi là dân thường, vô tình chụp hình thôi.

          Điều tra viên hét lớn :

        Mày nói láo. Mày là nhân viên CIA. Khai ngay. Chỉ huy mày là ai ? Đang ở đâu ?

        Tôi không có.

        Láo ! Láo ! Láo ! Cùng với những tiếng hét là mấy cú đấm liên tiếp như trời giáng vào mặt tôi khiến tôi thấy trời đất quay cuồng. Máu mủi tôi trào ra lênh láng. Điều tra viên hỏi tiếp : –  Mày sợ chưa ? Tụi CIA trả mày bao nhiêu tiền ?

          Tôi mếu máo :

         Anh có đánh tôi chết, tôi cũng không biết gì để khai.

         Mày ngoan cố ! Tao đánh mày chết luôn.

           Tiếp liền câu nói là điều tra viên đấm thêm mấy cái vào mặt tôi và thoi liên tiếp vào bụng tôi. Tôi ngã nằm lăn lóc trên sàn nhà, ôm bụng quằn quại. Thấy tôi đã thấm đòn mà vẫn không khai gì, điều tra viên bỏ ra ngoài. Hôm sau, điều tra viên bắt tôi chui vào thùng phi, ngồi thụp xuống. Anh lấy cây sắt đánh mạnh vào thùng phi từng hồi khiến tôi muốn điếc hai lổ tai. Đầu tôi nghe bưng bưng như muốn nổ tung. Vừa đánh vào thùng phi, anh vừa hỏi cung. Vẫn là những câu hỏi hôm qua và tôi vẫn trả lời không biết gì. Mỗi khi chịu không nổi tiếng binh binh như tiếng sét đánh, tôi thò đầu lên khỏi thùng phi thì anh đấm vào mặt tôi ngay. Bị tra khảo một hồi, tôi ngất đi. Ngày hôm sau nữa, tôi lại bị tra khảo như thế và cũng bị ngất xỉu. Việt cộng thấy tôi thật tình không biết gì nên thả cho về nhà.

           Nghe tôi kể lại chuyện bị bắt và bị tra khảo như vậy, anh Vân cho tôi uống thuốc bổ và ăn cháo gà cho khỏe. Anh Năm, đại úy Địa phương quân, anh em cột chèo với anh Vân, giã cua với rau gì đó rồi vắt ra nước cho tôi uống. Anh nói uống vậy sẽ  tan máu bầm trong những chổ bị đánh. Nghỉ ngơi một tuần, tôi tiếp tục mỗi ngày đến thương xá Rex làm việc với anh Vân. Vài tháng sau, tôi đi học lớp 12 A trường trung học Hưng Đạo. Thời gian này, anh Năm và anh Hồ Đấu đã bị đi tù “cải tạo” cùng với cả trăm ngàn sĩ quan khác của chế độ cũ. Đời sống vừa học vừa làm rất bận, nên dù nhớ Diệu, tôi cũng không có dịp đi thăm cô. Một ngày cuối tháng 11, nhớ Diệu quá, tôi đạp xe đến xóm chợ Thị Nghè. Thật buồn ! Gia đình Diệu đã dời đi nơi khác. Đến ngày lễ giáng sinh, đang đứng trước cửa thương xá Rex ngắm người qua lại trên phố Lê Lợi, tôi chợt nhìn thấy Diệu được một thanh niên ôm eo đi ngang qua. Diệu đang nói cười vui vẻ với người bạn trai nên không thấy tôi. Diệu vẫn trẻ trung, xinh đẹp rực rỡ, và chắc vẫn đang sống theo nếp “hiện sinh” yêu cuồng sống vội của cô như ngày nào, dù chế độ có thay đổi. Tôi biết cô không phải là mẫu người để tôi yêu, nhưng nụ hôn đầu đời tôi có được do cô chủ động ban cho vẫn ám ảnh tôi mãi cho đến ngày có một hình bóng khác thế vào trong tim tôi.

           Bạch, cô bạn học cùng lớp, 19 tuổi, không đẹp như Diệu nhưng có nét dễ thương, duyên dáng, tính dịu dàng, ít nói. Nhờ ngồi chung bàn, sát bên nhau, nên tôi và Bạch trở thành bạn ngay từ những ngày đầu nhập học. Qua Bạch, tôi quen thêm Thủy, Loan và Minh. Chúng tôi thành nhóm bạn chơi thân với nhau, thường rủ nhau đi ăn chè đậu, bò bía sau giờ học, hoặc tụ tập ở nhà Thủy để tâm sự chuyện đời của nhau và nghe Thủy chơi đàn guitar classic. Bạch, Thủy, Loan đều là con sĩ quan cấp tá chế độ cũ từ Quy Nhơn chạy vào Sài Gòn trong biến cố tháng tư đen. Các cô vẫn thường tâm sự, khát vọng của các cô bây giờ không phải là chuyện học hành lên cao trong chế độ mới này, mà là tìm kiếm con đường vượt biên để có được cuộc sống tự do ở Mỹ. Thời gian này, người Sài Gòn cũng hay bàn tán với nhau về chuyện vượt biên. Họ thường tụ tập ở các quán café vỉa hè, rỉ tai cho nhau nghe về những gia đình người quen đã đi thoát, hay gia đình nào bị công an bắt giữ lại, hoặc cho nhau biết về giá cả phải đóng bao nhiêu cây vàng mỗi người cho chủ tàu tổ chức chuyến đi. Họ truyền tai nhau về đời sống ở Mỹ, tự do, vui sướng lắm, vì nước Mỹ văn minh, giàu mạnh nhất thế giới. Qua Mỹ sẽ được chính phủ Mỹ cấp cho tiền và nhà ở, không lo thiếu thốn gì cả. Nghe họ nói chuyện, tôi càng thấy tiếc vì đã bỏ lỡ cơ hội được đi Mỹ “miễn phí” trong đêm 29 tháng 4 tại bến tàu.  

            Sau mấy tháng chơi thân với nhau, Minh cặp bồ với Thủy. Còn tôi, đến đầu năm 1976 thì quên hẳn Diệu để cảm thấy người lý tưởng tôi yêu là Bạch. Tôi thường làm thơ tặng cô và chép bài giùm cho cô. Nhưng tình yêu của tôi là tình đơn phương. Có lần, tôi hỏi dò cô :

         Lâu nay, Quý hay tặng thơ cho Bạch và chép bài giùm Bạch, Bạch đáp lại Quý thế nào nè.

          Bạch ỡm ờ :

         Quý muốn gì Bạch cũng chìu theo hết.

          Tôi hỏi tới :

         Quý muốn gì cũng được, thiệt không ?

           Bạch mỉm cười :

         Thiệt !

          Tôi xem đó là sự đón nhận của Bạch đối với tình yêu của tôi dành cho cô. Tôi mừng quá, muốn ôm cô ngay trong lớp, nhưng kịp kềm chế lại. Tôi định bụng giờ tan học sẽ mời cô đi ăn kem. Tôi tưởng tượng lúc đó sẽ được cô cho tôi nắm tay cùng đi phố, như trước đây tôi với Diệu. Nhưng khi tan học, cô đã nhanh chân lấy xe đạp đi mất tiêu. Đêm đó, tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Hình ảnh cô cứ chập chờn trong đầu tôi. Tình yêu trong tôi cứ lớn dần theo ngày tháng. Trên đường đi, khi ăn uống, lúc làm việc, tôi cứ nhớ đến cô. Nhóm bạn chúng tôi vẫn mỗi tuần cùng đi chơi hay gặp nhau tại nhà Thủy. Những lúc đó, Bạch đối với tôi nửa xa, nửa gần; vừa như đáp lại tình cảm của tôi, vừa như có một khoảng cách nào đó khiến tôi không thể mạnh dạn chính thức tỏ tình với cô. Có một chàng bên lớp 12 B, trưởng ban văn nghệ trường, cũng đang trồng cây si Bạch. Hắn quen cô nhờ cùng sinh hoạt với cô trong ban văn nghệ. Mỗi ngày, vào giờ ra chơi, hắn đến đứng ở cửa lớp nhìn cô chăm chăm. Một ngày cuối tuần trong tháng 5 / 1976, tôi, Minh và Loan đến thăm Thủy, vừa lúc thấy hắn chở Bạch trên chiếc Honda từ nhà Thủy chạy ra. Tôi vỡ mộng tình ! Tôi còn được gặp lại Bạch trong ngày thi tốt nghiệp lớp 12. Chúng tôi vẫn tỏ ra thân thiết và giúp nhau ôn bài trước giờ thi. Nhưng tôi hiểu, tình yêu đã xa tầm tay. Sau lần gặp đó là “nghìn trùng xa cách”. Cả Thủy, Loan và Diệu nữa, tôi cũng không có dịp nào gặp lại. Không biết cái ước mơ của Bạch, Thủy, Loan, Diệu mong được chắp cánh bay đến phương trời tự do có trở thành hiện thực không ? Có lần nhớ về các cô, tôi buồn buồn, khe khẽ hát hai câu nhạc Trịnh : “ Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ. Ôi, những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa…”. Rồi tôi bật cười. Rõ lẩn thẩn, có cô nào dành cho tôi tình yêu đâu mà “người tình” với “hẹn thề” !…

          Từ khi Việt cộng chiếm miền Nam thì tất cả cơ sở thương mại lớn ở Sài Gòn đều bị chúng tiếp thu, biến thành quốc doanh, trở thành tài sản riêng của nhà nước. Nhiều thương gia uất ức nhảy lầu tự tử. Thương xá Rex, sau vài tháng hợp doanh cho có hình thức thì cũng bị chuyển qua quốc doanh. Không những chúng cướp đoạt các cơ sở thương mại lớn mà còn chiếm hữu ngang xương nhà dân nữa. Biệt thự của ông bà Ưng Thi bị Võ văn Kiệt chiếm lấy để ở. Thương xá Rex đổi tên : Khách sạn Bến Thành, thuộc công ty Du lịch thành phố. Nhân viên cũ gọi là lưu dụng. Công nhân viên mới toàn con, cháu của Việt cộng, hay bộ đội chuyển ngành. Có nhiều con cháu của cán bộ đảng viên từ ngoài Bắc được đưa vào giữ các chức tổ trưởng. Nhờ suốt một năm phụ giúp anh Vân vẽ trang trí cho thương xá Rex nên sau khi tốt nghiệp Tú tài, tháng 6 / 1976, tôi được ký hợp đồng chính thức trở thành công nhân viên Khách sạn Bến Thành, cùng với anh Vân lo vẽ quảng cáo cho ba rạp chiếu bóng Rex và Mini Rex A, B. Tôi ăn ở luôn tại khách sạn. Đồng lương công nhân viên không đủ sống, bửa no, bửa đói. Cơ quan này, vừa kinh doanh với khách nội địa vừa chuyên tiếp các phái đoàn nước ngoài của khối cộng sản quốc tế, nên nhân viên nữ nhiều lắm. Cô nào cũng xinh đẹp như hoa xuân. Xui cho các cô, gặp phải ông chủ nhiệm từ rừng về rất háo sắc. Có lần, tôi thấy cô thư ký phòng chủ nhiệm, áo dài bị bung hết hàng nút, ôm ngực chạy ra ngoài. Vài cô bạn thân của tôi làm ở tổ nhà kho hay tổ vũ trường lên phòng vẽ thăm tôi, kể cho tôi biết đã bị chủ nhiệm sàm sỡ, sờ soạng tùm lum. Các cô chống cự thì bị ông đe dọa đuổi. Trong hoàn cảnh nhiều gia đình bị cưỡng ép đi “kinh tế mới”, muốn giữ được hộ khẩu tại thành phố phải có việc làm, nên các cô đành nhịn nhục. Giữa năm 1977, ngay trong cuộc họp toàn cơ quan, tôi mạnh dạn đứng ra phê bình chủ nhiệm về những hành vi không đứng đắn của ông. Thế là bị ông trả thù bằng cách tống cổ tôi đi “nghĩa vụ quân sự” vào ngày 31 / 7 / 1977.

           Sau khi chiếm lấy các cơ sở thương mại lớn, đến năm 1978, Việt cộng tiến hành đánh “tư sản” đợt hai, chiếm giữ các cơ sở thương mại cở vừa. Nhiều nhà dân bị chúng cướp đoạt. Người dân Sài Gòn uất ức, rủ nhau đi vượt biên bằng đường biển hoặc đường rừng. Phong trào vượt biên tìm tự do của người Sài Gòn và cả miền Nam bắt đầu lên mạnh từ năm này. Dẫu biết bỏ nước ra đi là cả sự ngậm ngùi, cay đắng, lại phải chịu đựng những gian truân, nguy hiểm trên đường, có thể bỏ mạng trên biển.khơi ngàn trùng hay nơi rừng sâu nước độc, nhưng với sự thù ghét tận cùng chế độ cộng sản, và với khát vọng được sống cuộc đời mới vui sướng, hạnh phúc nơi miền đất tự do, nhân bản, người dân vẫn hàng hàng, lớp lớp ra đi.

           Cuối năm 1978, đơn vị tôi bị đưa đi đánh Khmer Đỏ ở Campuchia. Trong năm này, tôi nghe tin vợ chồng anh chị Phượng, con thứ bảy của bác Tươi, bị chết trên đường vượt biên. Giữa năm 1979, sau khi chiếm được Nam Vang, đơn vị tôi chuyển về đóng quân ở Kampongcham. Tôi được cho về Sài Gòn nghỉ phép vài ngày. Có người bạn tên Quang rủ tôi đi vượt biên. Quang nói nhờ quen biết với chủ tàu nên chỉ cần nộp hai cây vàng cho chủ tàu là được cho đi. Như bao người dân, tôi đã quá chán ghét cái chế độ độc tài, gian ác của Việt cộng nên cũng thèm lắm cái đời sống tự do, dân chủ ở các nước Âu Mỹ. Nhưng đào đâu ra vàng bây giờ ?. Đành tiếp tục đời bộ đội. Tôi cũng rán học vài câu tiếng Miên, tìm hiểu đường đi, nước bước ở xứ Miên, để có dịp thì đi tìm tự do bằng đường bộ. Tháng 8 / 1980, tôi được cho xuất ngũ nhờ thi đậu vào trường đại học Tổng hợp, phân khoa Văn. Tôi được học tại trường đại học Văn khoa, theo chế độ nội trú, ăn ở miễn phí tại trường, mỗi tháng được cấp 18 đồng. Sau vài tháng học, tôi bị ban giám hiệu kêu lên văn phòng. Cô thư ký, đại diện ban giám hiệu, cho biết tôi là sinh viên xuất sắc về môn sử, nên ban giám hiệu bắt tôi phải chuyển qua học phân khoa Sử. Tôi phản đối. Cô thư ký nói :

        Đây là quyết định của ban giám hiệu, anh không có quyền phản đối.

      – Tại sao không ? Tôi thi khoa Văn, tôi có quyền học theo ngành mà tôi thi đậu.

        Nhưng ban giám hiệu cho biết, trong kỳ thi vào đại học của anh, điểm văn 7 điểm, còn điểm sử tới 8 điểm. Trong mấy tháng học qua, anh lúc nào cũng có điểm sử cao hơn điểm văn. Nên nhà trường muốn đào tạo anh thành cán bộ ngành sử.

          Tôi không đồng ý với cô :

        Tôi có khiếu về sử thật, nhưng tôi rất yêu thích thơ, văn. Tôi muốn học văn để có thể trở thành nhà báo, nhà văn sau này

           Cô thư ký lên lớp :

        Anh dại quá. Học văn thì không viết được sử. Nhưng nếu anh học sử, sau bốn năm, anh là cán bộ sử, được mọi ưu đãi của nhà nước. Ngoài việc trở thành sử gia, anh vẫn có thể làm thơ, viết văn.

          Tôi vẫn cương quyết :

        Tôi không chấp nhận sự cưỡng ép vô lý này. Có chế độ nào lại không cho người dân học hành theo ý muốn ? Tôi phải học văn.

          Cô thư ký gay gắt :

        Nếu anh không chịu thì anh bị đuổi học.

          Tôi nổi nóng :

        Đuổi thì đuổi !

          Thế là tôi bị tống cổ ra khỏi trường đại học ! Bấy giờ là cuối tháng 11 / 1980. Tôi có buồn nhưng tự an ủi : Nhà trường bây giờ là bộ phận của nhà nước cộng sản. Chống lại họ thì phải chịu lấy hậu quả. Nếu có tiếp tục học, cũng bị họ nhồi nhét đầy óc ba mớ lý luận chính trị rác rưởi và triết thuyết Mác lê nin không tưởng của chúng, vài năm sau cũng trở thành tay sai cho chúng đè đầu, cởi cổ dân lành. Làm sao có thể sống nổi với cái chế độ cộng sản phi nhân, vô luân này ?! Cái chế độ gì mà trong tiến hành cách mạng thì đầy sự thù hằn, khắc nghiệt, đấu tố, chôn sống người; trong tiến hành chiến tranh thì tàn bạo, ác độc, vô lương, giết hại vô số đồng bào ruột thịt; trong thống nhất thì tròng lên cả nước cái ách độc tài, chuyên chế, cướp đoạt tất cả tài sản người dân, bắt bỏ tù cả trăm ngàn sĩ quan, văn nghệ sĩ, tu sĩ, cưỡng ép người dân đi “kinh tế mới”, bắt buộc toàn dân sống trong cơ cực, thiếu thốn, nhịn đói, nhịn khát để xây dựng cái thiên đàng cộng sản ảo tưởng của chúng !. Bằng mọi cách tôi phải có được một cuộc sống tự do. Tự do tri, ngôn, hành theo chủ thể của mình. Sống, làm việc và học hành theo ý thích của mình. Tôi phải tự chắp cho mình đôi cánh bay đi tìm một đời sống tự do nơi phương trời viễn xứ. Ỡ Mỹ, Âu, Úc, hay ở bất cứ nơi nào cũng được, miễn không có cộng sản. Không có vàng để vượt biên đường biển thì đi đường bộ. Nhờ học được vài câu tiếng Miên và đã thuộc lộ trình đi qua Miên đến Thái, tôi có thể một mình ra đi. Tôi nhớ đến câu viết của người chiến binh chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã tự sát trên bến sông Bạch Đằng : “Tự do hay là Chết”. Vâng ! Tự Do Hay Là Chết ! Vậy là tôi lên đường.

 

 ………………………………………………………………………………………….

 

Hành Trình Viễn Xứ

 

( Tiếp theo truyện Khát Vọng Tự Do )

 

Huyên Chương Quý

 

 Kỷ niệm 35 năm người Việt tị nạn tại hải ngoại. Kính tưởng niệm tất cả vong linh đồng bào Việt Nam đã tử nạn trên biển Đông hay nơi rừng sâu trong cuộc Hành Trình Tìm Tự Do từ sau tháng 4 năm 1975

 

Chào Biệt Quê Hương

            Sau ba năm thi hành “nghĩa vụ quân sự”, tôi được đơn vị cho xuất ngũ nhờ thi đậu vào trường đại học Tổng hợp, phân khoa Văn. Tôi ở nội trú trong trường, ăn uống miễn phí và được cấp mỗi tháng 18 đồng. Vì chống lại ý ban giám hiệu trường đại học bắt tôi chuyển qua học phân khoa Sử, tôi bị tống cổ ra khỏi trường. Tôi quyết định tiếp nối bước chân những người đi trước tìm tự do bằng con đường vượt biên đường bộ để có thể học hành theo ý thích. Buổi tối trước ngày đi, tôi về nhà Khánh Hội từ giã anh chị Hải Vân, bác Tươi và các anh chị trong gia đình. Chị Mai, vợ anh Vân, và chị Năm, chị vợ anh Vân, mỗi người cho tôi 75 đồng. Nhờ số tiền này, tôi có thể đi xe đò và ăn uống dọc đường. Sáng sớm ngày 29 / 11 / 1980, tôi mặc đồ bộ đội ra bến xe miền Đông đi Tây Ninh. Xe ra khỏi ngã tư Bảy Hiền và vụt chạy nhanh trên đường lộ nhựa. Tôi ngoái đầu nhìn lại thành phố lần cuối. Lần cuối ! Nghe thê lương quá. Rời khỏi quê hương, cảm giác buồn rười rượi. Biết ngày nào trở lại Sài Gòn. Phan Rang, quê sanh đẻ của tôi nữa. Nơi đã cho tôi biết bao kỷ niệm đẹp thời thơ ấu. Kỷ niệm thời thanh niên ở Sài Gòn với những người thân cũng đầy ấp trong tim. Anh Phùng, anh Thiện, em Hỷ ruột thịt của tôi. Giờ đây các anh em của tôi đã vĩnh viễn nằm sâu dưới lòng đất lạnh. Tôi sẽ không còn dịp đi thăm mộ nữa. Chị Mùi có còn sống không ? Có về Sài Gòn tìm tôi không ? Còn anh chị Hải Vân, anh chị Hồ Đấu cũng thương tôi lắm. Và những cô gái xinh đẹp: Bạch, Thủy, Loan, bạn học lớp 12A Hưng Đạo, và Trang, Phượng, Đức, Linh, Hồng ở thương xá Rex coi tôi như người anh, đặc biệt là Diệu “hiện sinh” thời ở Thị Nghè đã cho tôi nụ hôn đầu đời ngọt lịm, thiết tha. Những tình thân thương ơi….Từ nay sẽ xa cách nghìn trùng ! Tôi chợt nhớ đến vài câu trong nhạc phẩm “Sài Gòn vĩnh biệt” đã nghe được trên đài VOA hay đài nào đó ở hải ngoại trong thời gian đầu mất miền Nam ( Ban đầu, người Sài Gòn đồn nhau là của Phạm Duy. Khi đến Mỹ, tôi mới biết là của nhạc sĩ Nam Lộc ) :

            Sài Gòn ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời 

            Sài Gòn ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời

            Giờ còn đây những kỷ niệm sống trong tôi

            Những nụ cười nát trên môi

            Những giọt lệ ôi sầu đắng….

            Những lời nhạc rất thấm thía với tâm trạng tôi bây giờ. Tôi cảm thấy trên hai má nong nóng hai dòng lệ. Vĩnh biệt Sài Gòn từ đây !. Xế chiều, xe đến thị xã Tây Ninh. Tôi mướn một khách sạn rẻ tiền ở qua đêm. Thị xã này cũng có nhiều kỷ niệm giữa tôi với chị Mùi, anh Vọng, và Trung sĩ John, trung sĩ Munoz của Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ B16. Thời tôi ở trại Biệt kích Mỹ Bến Sỏi, từ giữa năm 1969 đến giữa năm 1970, vẫn thường cùng các anh chị đi ăn uống và dạo chơi vòng vòng thị xã. Buổi tối một mình trên sân thượng khách sạn, tôi lặng lẽ nhìn sao trời lấp lánh trong gió đông lành lạnh. Ngôi sao nào là của đời tôi lận đận, cùng tôi đi đến phương trời xa lạ.? Làm cuộc hành trình viễn xứ, tôi sẽ thực hiện được điều gì khi được định cư trên đất nước tự do của trời Âu Mỹ, để có thể góp phần nào đó tâm sức giúp ích cho quê hương mình ngày trở lại ? Trong bóng tối mông lung, hiu quạnh, tôi cảm khái ngâm lên mấy câu thơ Tống Biệt Hành của Thâm Tâm :

           Ly khách ! Ly khách ! con đường nhỏ

           Chí lớn không về, bàn tay không

           Thì không bao giờ nói trở lại

           Ba năm mẹ già cũng đừng mong…

           Người đi ? Ừ nhỉ, người đi thật

           Mẹ ! thà coi như chiếc lá bay

           Chị ! thà coi như là hạt bụi

           Em ! ừ xem như hơi rượu cay….

           Tôi cũng đang là một ly khách với ý chí nung nấu trong lòng như nhà thơ Thâm Tâm. Ngày ly biệt của tôi không một người thân đưa tiễn. Và mai này tôi sẽ độc hành trong gió bụi đường xa !

           Hôm sau, tôi chờ từ sáng đến trưa mới đón được một chiếc xe nhà binh GMC chở hàng đi Kampongcham. Nhờ mặc đồ bộ đội, xuất trình tờ giấy phép của đơn vị cấp hồi tháng bảy cho tôi về Sài Gòn học thi đại học, tôi được tài xế cho quá giang. Con đường từ thị xã Tây Ninh đến Kampongcham đã quen thuộc với tôi trong cả năm qua khi mấy lần được đơn vị cho đi phép về Sài Gòn. Lúc xe chạy qua khỏi biên giới Việt – Miên, tôi quay nhìn các ngôi nhà tranh lẫn trong các vườn chuối, vườn cau của xóm làng người Việt đang xa dần, xa dần trước mắt tôi. Tôi bùi ngùi rơi nước mắt. Xin chào biệt quê hương Việt Nam thân yêu !

 

Dọc Đường Gió Bụi

           Xe đến Kampongcham lúc trời hoàng hôn. Cảm ơn anh tài xế, tôi vác ba lô đi vòng vòng thành phố. Dấu tích chiến tranh giữa bô đội Việt Nam và Khmer Đỏ vẫn còn đầy nơi những dãy nhà loang lổ vết đạn. Người đi thưa thớt. Tôi mua ít thức ăn ở một sạp hàng trên phố vắng. Thời gian cộng sản Việt Nam chiếm đóng Campuchia, người dân Miên mua bán bằng tiền Việt, hoặc trao đổi hàng hóa bằng vàng cắt vụn. Xong bửa ăn tối, tôi lần đến một nhà dân xin ngủ nhờ qua đêm. Người dân Miên rất sợ bộ đội Việt, nên việc xin ngủ nhờ rất dễ dàng. Sáng hôm sau, ăn miếng xôi lót dạ, phì phà hết điếu thuốc, tôi lần mò ra bến sông Mê kông. Khúc sông này rất rộng, chờ phà sốt cả ruột. Đến 9 giờ sáng, tôi mới qua được bên kia sông. Trước mặt là ngã tư, tôi hỏi một người dân Miên đường nào đi PhnomPenh ( Nam Vang ), họ chỉ tay về con đường hướng Tây. Tôi liền đi bộ theo con đường đó. Đường nhựa lồi lõm nhiều ổ gà, leo teo vài người dân chạy xe đạp hay ngồi xe bò ọc ạch đi ngược chiều. Có vài xe đò cũ kỹ từ thời nào chở đầy người chạy về hướng Nam Vang, tôi vẫy vẫy tay, nhưng xe nào cũng thản nhiên chạy luôn. Bụi tung mù mịt cả con đường. Đi bộ hai tiếng đồng hồ vẫn chưa xin được xe nào cho đi ké. Trời nóng như đổ lửa. Mồ hôi tuôn chảy trên mặt và ướt hết áo ở vùng ngực và lưng. Tôi vào một bóng cây nghỉ mệt, lấy bi đông nước uống vài ngụm. Đường còn xa vời vợi, lội bộ kiểu này biết chừng nào đến Nam Vang. Vừa than thầm thì hên thiệt, có chiếc xe GMC từ xa chạy tới. Tôi nhào ra quơ tay loạn lên. Thiệt may, xe ngừng lại. Trên xe toàn lính Hensamrin. Tôi hỏi tài xế bằng tiếng Miên:

        Bòn tu PhnomPenh ? ( Anh đi Nam Vang  ? )

          Người tài xế Miên nhe hàm răng có mấy cái răng vàng, cười, gật đầu. Mừng quá, tôi nhảy ngay lên xe. Chiếc xe phóng ào ào về phía trước. Mấy người lính Hensamrin cùng gật đầu chào tôi. Tôi cũng cười thân thiện, gật đầu chào lại. Hồi còn ở bộ đội, có thời gian tôi làm Văn thư Tiểu đoàn huấn luyện tân binh Campuchia. Những tân binh này rất hiền hậu, dễ dạy. Họ tùng phục bộ đội Việt Nam có lẽ vì thù hận Khmer Đỏ hung tàn đã giết hại người thân của họ. Họ vào lính để trả thù. Mọi người thường gọi họ là lính Hensamrin vì thời kỳ này, Hensamrin là Chủ tịch Hội đồng nhân dân cách mạng nước Cộng hòa nhân dân Campuchia do cộng sản Việt Nam lập lên, sau khi đánh đuổi Khmer Đỏ của tên đồ tể Polpot chạy tuốt về biên giới Miên – Thái.

           Xe tới Nam Vang. Nhìn đồng hồ, đã 3 giờ chiều. Tôi bắt tay từng người lính trên xe, cảm ơn tài xế rồi tà tà đi vào phố. Thấy phiá trước có chợ, tôi lò dò đi tới kiếm món gì ăn qua bửa. Sinh hoạt mua bán của người dân còn vắng vẻ. Trên nét mặt của nhiều người vẫn còn in đậm nét khắc khổ, hoảng loạn vì bốn năm bị đầy ải kinh hoàng trong chế độ Khmer Đỏ. Khi Khmer Đỏ do Polpot lãnh đạo tiến vào Nam Vang chiếm chính quyền, tất cả người dân đủ mọi thành phần bị lùa ra khỏi thành phố. Thủ đô Nam Vang trở nên một thành phố chết, không có cư dân sinh sống. Với quyết tâm nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Khmer Đỏ đã cai trị người dân Campuchia bằng phương cách tàn bạo “vô tiền khoáng hậu”. Họ thành lập các công xã, nông xã, cưỡng ép người dân lao động khổ sai suốt đêm ngày. Bệnh tật, đói khát và bị Khmer Đỏ ác độc thanh trừng, hành hình, người dân Campuchia đã bị chết hết phân nửa dân số thời bấy giờ. Khoảng hai triệu người dân Campuchia có lẽ không tiêu tán linh hồn vì chết đi trong sự sợ hãi, căm hận, uất ức tận cùng. Họ bị giết hại bằng nhiều cách dã man : búa đập vào đầu, mã tấu cứa cổ từng nhát, hay bị quật mạnh thân người vào cây cho đến chết. Sọ người, xương trắng chất đầy đồng. Từ khi bộ đội Việt Nam chiếm lại Nam Vang, ngày 7 / 1 / 1979, người dân mới tứ phương lục tục về lại thủ đô. Đến nay, chỉ hơn năm rưởi, nên thành phố vẫn chưa kịp hồi sinh để trở thành môt thủ đô có sinh hoạt đông vui, nhộn nhịp.

           Ăn xong tô hủ tíu ở chợ, tôi đi vòng vòng. Đường phố vắng ngắt. Những dãy nhà hai bên đường im lìm không có bóng người. Thấy chán, tôi trở lại khu chợ tìm phương tiện đi Batambang. Tôi đã nghiên cứu kỹ bản đồ Campuchia từ hồi còn làm nhân viên Đồ bản ở Tiểu ban tác chiến, Trung đoàn bộ trung đoàn 55. Vì có ý định sẽ vượt biên đường bộ, tôi đã vẽ sẵn và cất kỹ sơ đồ lộ trình từ thành phố Kampongcham đến Poipet, một thị trấn sát biên giới Miên – Thái. Gần chợ có ga xe lửa, nhưng không thấy bán vé cho khách. Một xe lửa đang chuẩn bị khởi hành. Vài người Miên đang chất hàng lên toa xe. Ở một toa khác, một số lính Hensamrin cũng xục rục khiêng các kiện hàng chất lên, rồi cùng nhảy lên toa. Tôi đến hỏi đại, cũng vẫn câu đơn giản : “Bòn tu Batambang ?” ( Anh đi Batambang ? ). Hên quá, họ gật đầu. Tôi định nhảy lên toa của họ nhưng đã chật cứng hàng và người. Tôi liền chạy dọc theo các toa khác. Thấy một toa có nhiều lồng tre nhốt heo, gà, vịt, tôi nhảy lên đại, vừa lúc xe lửa chuyển bánh. Tôi phải chịu đựng mùi hôi của các gia súc này suốt ba tiếng rưởi mới tới Batambang. Trời đã hoàng hôn. Đi vào một dãy phố vắng, còn vài đồng, tôi mua mấy củ khoai mì, khoai lang, ăn hai củ, còn lại cất vào ba lô. Theo lộ trình, phải đi Xixiphon rồi đến thị trấn Poipet. Hay bây giờ, từ Batambang này cứ lội bộ nhắm hướng Tây đi mãi cũng tới Thái. Nghĩ vậy, tôi rời khỏi phố đi dần ra ngoại ô, qua nhiều xóm dân, băng ngang cánh đồng thì một con sông hiện ra trước mắt. Nước sông đen ngòm trong bóng tối. Sông chắc lớn lắm vì không thấy bờ bên kia. Trở ngại rồi đây. Đứng lưỡng lự một hồi, tôi quay về Batambang. Trở lại khu phố vắng, trời đã khuya. Tôi vào một nhà dân Miên xin ngủ nhờ. Người đàn bà Miên lắc đầu từ chối. Chà ! Ở đây dân Miên không sợ bộ đội Việt Nam. Tôi vội lấy ra cái mùng lính đưa cho bà. Có sự trao đổi, bà mới chịu để tôi vào nhà. Nằm trên cái võng mắc giữa hai cột nhà, tôi ăn hết mấy củ khoai rồi ngủ ngon lành tới sáng. Thức dậy, tôi lấy một bộ quần áo dân sự trao đổi với chủ nhà một dĩa cơm ăn tại chổ và một phần cơm mang theo. Rời nhà bà Miên, tôi thong thả ra khỏi phố và đi theo đường lộ nhựa hướng về Xixophon. Nửa tiếng sau đến một trạm kiểm soát của bộ đội Việt. Tôi hồi hộp xuất trình giấy tờ cho kiểm soát viên. Anh xem tới, xem lui, hỏi :

         Anh đi phép gì lâu dữ, từ tháng bảy tới giờ là cuối tháng 11 mới về đơn vị ?

           Tôi hơi bối rối nhưng kịp bịa chuyện :

         Tại má tôi bệnh nặng, tôi phải lo chăm sóc má. Bây giờ về trình diện đơn vị. Đành chịu kỷ luật thôi.

         Được rồi. Anh đi đi.

           Vừa lúc đó, có chiếc xe GMC của bộ đội Việt chạy tới ngừng trước trạm. Tôi hỏi anh tài xế :

         Các anh đi về đâu vậy ?

         Về Siêm Riệp. Anh đi đâu ?

         Tôi đi Xixophon.

           Anh tài xế cười :

         Vậy cũng đỡ cho cái chân anh một đoạn đường dài. Leo lên. Nhanh đi.

           Tôi mừng, leo lên xe ngay. Xe chạy ào ào, gió thổi mát rượi. Một tiếng sau tới ngã ba, xe ngừng lại cho tôi xuống rồi chạy tiếp về hướng Siêm Riệp. Hồi nãy cũng may, kiểm soát viên xem tờ giấy đi phép, chẳng biết trung đoàn 55 đóng quân ở đâu. Nếu anh biết đơn vị tôi đang ở Kampongcham thì sẽ đoán ra ngay tôi đang đi vượt biên. Đi bộ trên con lộ lồi lõm ổ gà thêm một tiếng thì đến Xixophon. Trời đã trưa. Tìm một chổ kín đáo, ngồi ăn nốt phần cơm xong, tôi cởi bỏ đồ bộ đội, mặc vào bộ quần áo dân sự. Chỉ một chặng đường vài chục cây số nữa là tới thị trấn Poipet. Ở đây gần biên giới có nhiều đơn vị bộ đội, không thể mặc quân phục và dùng tiếp tờ giấy phép cũ nữa. Sẽ lộ tẩy. Quăng luôn cái ba lô, tôi nhẹ người, đi theo con đường đất rộng hướng đến Poipet. Mười lăm phút sau, trước mặt tôi có trạm kiểm soát của bộ đội Việt. Chung quanh là đồng ruộng mênh mông. Tôi vòng ra thật xa, cách trạm kiểm soát khoảng 300 mét, rồi lội ruộng lúa, nhắm hướng Tây đi tới. Bì bõm trên ruộng nước ngập đầu gối được nửa tiếng, tôi vòng lại con lộ đất. Đường rộng thênh thang, tôi mãi miết đi. Chẳng biết bao lâu, hai chân rã rời mà chưa thấy thị trấn Poipet đâu. Mặt trời đã ngã hẳn về Tây. Con đường vẫn xa hun hút trước mắt. Tôi rán tiếp tục bước. Trời nhá nhem tối. Đi thêm một quãng nữa, thấy có vài người dân Miên phía trước chạy ngược lại, tôi kêu lên :

         Bòn. Bòn. Bòn tu na ? (  Anh. Anh. Anh đi đâu ? )

          Anh dân Miên đến gần tôi, chỉ tay về hướng Poipet, trả lời :

         Polpot chờ rờn, chờ rờn  ( Lính Polpot nhiều lắm, nhiều lắm )

           Lại trở ngại ! Biết đi ngã nào nữa bây giờ. Đứng tần ngần giữa lộ một hồi lâu, tôi quyết định vòng ra cánh đồng ở bên trái đi tiếp. Lại bì bõm từng bước chân trên ruộng. Bụng đói cồn cào. Thấy có con cò trắng sa dưới nước, tôi chộp ngay. Tiếp tục lội  ruộng một lúc nữa thì lên được bờ ruộng. Trong cơn đói, nhìn con cò trên tay thấy thèm. Nhưng giữa đồng không mông quạnh, không có lửa, không biết cách nào để ăn thịt, tôi lại quăng con cò. Đi hết thửa ruộng, trước mắt tôi lại hiện ra con sông lớn, nước chảy cuồn cuộn. Hết cách, tôi buồn rầu quay trở lại con đường đất. Màn đêm buông xuống. Tôi ngồi bệt bên lề đường, gục đầu, lòng rối bời. Mệt mỏi, tôi nằm dài xuống đất. Chẳng biết bao lâu, bổng có tiếng gọi bên tai : “Bòn. Bòn”. Cùng với tiếng gọi là bàn tay ai cầm cánh tay tôi lay mạnh và gọi nữa : “Bòn. Bòn”. Tôi lồm cồm ngồi dậy. Người đàn ông nhìn mặt tôi cùng cách ăn mặc : áo sơ mi trắng sọc xanh và quần Jean ống loa, đoán ra tôi là người Việt. Anh hỏi bằng tiếng Việt :

         Anh sao vậy ? Phải anh đi vượt biên không ?

           Biết không thể nào chối, lại thấy anh biết tiếng Việt, tôi mừng, gật đầu :

         Vâng. Tôi đi đến đây thì nghe phía trước có lính Polpot cản đường, đi vòng thì có sông chắn lối. Tôi mệt quá nên nằm đây. Anh…Anh đừng cho ai biết nhen.

           Người đàn ông nở nụ cười hiền hậu :

         Anh đừng lo. Tôi là người Việt gốc Hoa. Chuyện người Việt vượt biên đi qua đường này thì tôi gặp nhiều rồi. Về nhà tôi đi.

           Tôi lẽo đẽo theo anh. Nơi anh ở là căn nhà mái tôn xập xệ ở ven đường. Vào nhà, anh ân cần hỏi :

       – Chắc anh đói bụng lắm phải không ? Không đợi tôi trả lời, anh nói : – Anh ngồi đi, tôi lấy cơm cho anh ăn.

           Mười phút sau, anh đem ra cho tôi một dĩa cơm có hai con cá khô. Tôi cảm ơn anh rồi bưng dĩa cơm, ăn ngấu nghiến thoáng cái đã hết sạch. Anh rót nước trà cho tôi, nói :

         Khoảng đường phía trước thường bị lính Polpot mò ra quấy nhiễu, anh không đi được đâu. Nhiều người vượt biên đến đó bị chúng bắt, trấn lột hết vàng, bạc. Con gái thì bị chúng hãm hiếp thê thảm lắm. Ngày mai, tôi sẽ giúp anh đi con đường khác.

           Tôi nắm tay anh lay lay :

         Được anh giúp đỡ, tôi biết ơn anh lắm. Anh cho tôi biết tên anh được không ?

         Tôi tên Cheng. Tôi sanh ở Miên nhưng má tôi người Việt, cha người Hoa. Rồi anh chỉ về cái giường tre ở sát vách đất, nói tiếp : – Thôi, anh ngủ đi cho khỏe. Mai tôi chở anh đi.

         Dạ. Cảm ơn anh.

           Sau một ngày rã rời đôi chân, nằm xuống cái giường tre ọp ẹp, tôi ngủ ngay. Sáng dậy, anh Cheng cũng cho tôi dĩa cơm cá khô. Chờ tôi ăn xong, anh lấy ra một bộ đồ, nói :

         Anh phải mặc đồ cũ này. Chứ mặc đồ thời trang mới toanh vầy, bộ đội Việt hay lính Polpot biết ngay anh là dân vượt biên, bắt giữ ngay.

          Nghe lời anh, tôi thay đồ, mặc cái quần sọt cũ màu xanh rêu đậm rách tưa hai ống và cái áo thung cũ màu xám lốm đốm vết bùn đen. Trông ra vẻ dân Miên lắm. Anh đạp xe chở tôi chạy về lại thị trấn Xixophon, rồi quẹo qua một con đường đất khác. Anh ngừng xe lại, chỉ tay về phía trước :

         Anh cứ đi theo đường này, khoảng mười mấy cây số thì gặp một làng dân ở bên phải. Nơi đó thường tụ tập dân buôn qua Thái. Anh cứ đi theo họ.

           Tôi ôm choàng qua hai vai anh, nói trong xúc động :

         Thật là Ơn Trên thiêng liêng phù hộ tôi nên mới có anh Cheng tận tình giúp đỡ. Tôi sẽ luôn nhớ ơn anh.

         Không có gì đâu. Mình cùng là người Việt mà. Chúc anh đi bình an.

         Dạ. Tôi cũng chúc anh luôn mạnh khoẻ, nhiều may mắn trong đời sống.

           Đã 12 giờ trưa. Theo lời dặn của anh Cheng, tôi rảo bước đi nhanh dưới trời nắng chang chang. Hai bên đường là đồng ruộng mênh mông. Dù mệt, mồ hôi nhễ nhại, tôi vẫn rán bước. Đến xế chiều, quả nhiên có làng dân ở bên phải. Tôi đi vòng vòng trong làng tìm đám dân buôn. Vào khu chợ làng, thấy có đông người tụ tập trao đổi hàng hóa và ăn uống, tôi ngồi ở một mái hiên nhà dân chờ đợi. Trời chạng vạng. Từng người, từng người tản đi hết, mỗi người một hướng. Tôi chẳng biết ai là dân buôn và cũng chẳng biết nên theo ai. Khi chợ làng không còn bóng người, tôi lủi thủi ra khỏi làng. Gặp một đường đất nhỏ, tôi đi đại theo hướng Tây. Tới một khu nhà tranh, chợt nghe có giọng người nói tiếng Việt ở phía trước, tôi đứng lại lắng tai nghe :

         Ê Trung. Con “ghệ” mày còn chung tình với mày không ?

         Chung tình mẹ gì ! Vừa rồi về phép Sài Gòn, rủ đi chơi, nó nói có người yêu mới rồi.

         Sao mày không cho nó vài tát, thoi nó vài thoi cho bỏ ghét.

         Thôi, mình là bộ đội nghèo rớt mùng tơi, nó bỏ cũng phải. Không tiền thì không tình !

           May nghe họ nói chuyện mới biết có bộ đội Việt đóng quân nơi đây. Tôi quẹo qua hướng khác. Trời tối hù, lại đổ mưa. Tôi chạy thật nhanh về phiá trước, gặp được một xóm lều. Chui đại vào một căn lều lụp xụp, tôi gặp một ông già. Nhìn mặt tôi, ông biết ngay tôi là người Việt nên hỏi :

         Cháu vượt biên phải không ?

           Thêm một lần may mắn nữa khi gặp người biết nói tiếng Việt, tôi mừng rỡ trả lời :

         Dạ. Dạ. Xin bác cho con trú mưa, ngủ qua đêm, mai con đi.

         Ờ. Nhưng không có giường cho con nằm. Bác chỉ có cái chõng tre này vừa đủ mình bác.

         Dạ không sao. Con ngồi ngủ cũng được. Sao bác biết tiếng Việt hay vậy ?

         Cha bác người Việt, mẹ người Campuchia

         Dạ. Bác ơi, bác có gì cho con ăn không ? Con đói bụng lắm.

           Ông già lom khom đến giở nồi vét hết cơm, cũng được một tô đầy đưa cho tôi. Ông niềm nở nói :

         Cháu ăn đỡ cơm với muối trắng nhen. Bác đang tị nạn chiến tranh.nên nghèo lắm. Họ đánh nhau làm cháy hết nhà cửa. Bác và nhiều người phải ở tạm nơi đây chờ nhà nước giúp đỡ. Thôi, bác đi ngủ đây.

         Dạ. Con cảm ơn Bác.

           Đói bụng, dù cơm muối trắng ăn vẫn ngon. Trong một thoáng, tôi đã ăn hết tô cơm. Mưa trút nước như thác đổ. Căn lều chao qua, chao lại theo từng cơn gió rít lên trong mưa. Ông già vẫn tỉnh bơ nằm trên cái chõng tre ngáy khò khò. Trên người ông chỉ đắp một cái mền mỏng. Tôi ngồi dựa vào chõng của ông. Thỉnh thoảng có cơn gió mạnh, nước mưa tạt vào ướt cả người. Lạnh buốt. Gần sáng, trời tạnh mưa. Tôi ngồi ngủ luôn một giấc đến trưa. Ông già đã nấu cơm xong, bới cho tôi một tô. Ăn xong, tôi hỏi ông đường đi đến Thái. Chỉ tay về hướng rừng, ông nói ở đó thường có dân buôn tụ tập, đi theo họ sẽ tới Thái. Tôi vòng tay cảm ơn ông rồi vội vã chạy ra khu bìa rừng. Nhiều dân buôn đang đứng tụm lại thành mấy nhóm, cười nói ồn ào. Vài người ngồi chồm hổm ăn uống ở hai gánh hàng rong. Tôi đứng xớ rớ gần đó. Một tiếng sau, vài người nói : “ Tu. Tu “ ( Đi. Đi ). Dân buôn lũ lượt kéo nhau vào con đường mòn trong rừng. Tôi trà trộn vào đoàn người, lầm lủi đi theo. Tiếng rưởi sau, bổng nhiên mấy tốp dân buôn phía trước hốt hoảng chạy ngược lại, vừa chạy vừa la : “Bòn oanh, bòn oanh…Polpot… Polpot chờ rờn, chờ rờn” ( Anh em, anh em…Lính Polpot…Lính Polpot nhiều lắm, nhiều lắm. ). Cả đoàn dân buôn quay người bỏ chạy. Tôi cũng chạy theo họ. Một tiếng sau mới về lại nơi xuất phát. Rồi từng tốp, từng tốp tản mác đi.vào làng. Còn lại một mình tôi chơ vơ ở bìa rừng. Làm sao đây ? Phía trước có lính Khmer Đỏ cản lối, về lại Sài Gòn thì không tiền đi đường. Rối trí quá, tôi nằm dài ra trên đất. Đi đã khó mà về lại cũng khó. Không tiền đi đường đã đành, còn có thể bị bộ đội Việt bắt giữ. Hoàng hôn dần buông. Tới lúc phải dứt khoát định đoạt vận mạng cuộc đời mình. Đã ra đi không thể trở về, phải tiếp tục đi. Hoặc chết, hoặc có được tự do. Nếu trên đường mòn có lính Khmer Đỏ trấn giữ thì nên băng rừng đi, sẽ né được chúng. Tôi đứng dậy, đi qua, đi lại suy nghĩ thêm quyết định vậy có đúng không. Sau cùng, mặc kệ, ra sao thì ra, tôi liều mạng đi thẳng vào rừng. Lúc đó là 7 giờ tối ngày 4 / 12 / 1980.

 

Vượt Biên Giới

           Nước Thái ở hướng Tây Campuchia. Khi mới vào rừng, tôi cứ nhắm hướng Tây đi tới, gần gần con đường mòn, để tránh bị lạc hướng. Lần lần, có nhiều cây rừng rậm rạp che khuất, hoặc nhiều vũng bùn lầy rộng chắn lối, tôi phải đi vòng đến những nơi thưa cây nên xa dần đường mòn, bị lạc luôn trong rừng. Trời không trăng. Trong đêm tối, tôi phải vẹt cây gai, cây dại dầy đặc nên tốc độ đi rất chậm. Thời khắc trôi qua theo từng bước chân, tôi chẳng biết đi được bao xa rồi. Nếu muốn quay về cũng không biết đi theo hướng nào. Thôi, cứ bước tới. Tối nay tìm chổ ngủ sớm, đợi ngày mai xem mặt trời, sẽ dễ định ra hướng Tây. Rán đi tiếng nữa, bụng cồn cào. Tôi chợt nhớ từ xế chiều đến giờ chưa ăn gì. Nhịn đói thôi. Mai tìm trái cây rừng để ăn. Đến một vũng nước, tôi vốc nước uống đầy bụng rồi đi tiếp. Hai năm trước theo đơn vị hành quân, vài lần đóng quân trong rừng, nhưng có đồng đội chung quanh, nên không có gì sợ hay buồn. Bây giờ, một mình trơ trọi, chung quanh là màn đêm thăm thẳm, tôi thấy sợ sợ. Thêm cái cảm giác thật cô đơn, buồn bã khi nhìn lại mình như một bóng ma trơi trong rừng đêm. Thấm mệt rồi, nhịn đói ngủ thôi.

          Tôi bứng nhiều bụi cỏ đem đến lót nơi một lùm cây rậm rạp. Tiết trời mùa đông ban đêm, lúc đi không thấy lạnh, nhưng khi nằm xuống cỏ, thấy lạnh kinh khủng. Chỉ mặc cái quần sọt và áo thun ngắn tay mỏng manh, nên cả người tôi run lên cầm cập. Tôi nằm co quắp người lại cố dỗ giấc ngủ. Cái lạnh, cái đói hành hạ, lại có nhiều tiếng ù u, ù u vang vang ở xa xa, và tiếng sột soạt của thú rừng đi ăn đêm, tôi không thể nhắm mắt. Thao thức đến trời tờ mờ sáng, tôi ngủ luôn một giấc say sưa. Thức dậy, đã 12 giờ trưa. Nắng chang chang chói hai con mắt. Tội tìm vũng nước rửa mặt và vốc nước uống. Mặt trời ngay trên đỉnh đầu. Thế này, biết hướng nào là hướng Tây ? Giải quyết cái đói trước đã. Tôi đi vòng vòng tìm trái cây rừng. Tìm cả tiếng vẫn không thấy một loại cây nào có trái. Mặt trời đã hơi nghiêng về phía Tây. Nhịn đói đi vậy. Tôi phải luồn lách qua nhiều khu cỏ gai, tránh những đám cây rậm, vòng qua những đầm nước rộng, nên có  lúc phải rẽ sang Nam, lúc quẹo qua Bắc, rồi mới tiếp tục đi theo hướng Tây. Mệt thì ngồi nghỉ chút, thấy đói thì uống nước vũng cầm hơi. Đi sáu tiếng rồi vẫn không thấy biên giới Thái đâu.

            Mặt trời dần tắt nắng. Bóng tối dần phủ xuống cả khu rừng. Tôi lại phải dò dẫm  đi từng bước. Gai cào sướt khắp tay, chân, đau buốt. Bao tử, ruột, gan muốn nát vụn vì sự cào cấu của cơn đói. Hai ngày rồi không ăn gì. Lần đầu tiên tôi mới thấm thía cái đói thật sự như thế nào. Thèm cho vào bụng bất cứ cái gì, dù là vỏ cây, lá cây hay cỏ dại để có thể qua được cơn đói. Tôi còn đủ lý trí không làm như vậy vì sợ bị trúng độc, sẽ ngã bệnh. Bệnh nặng trong cảnh một thân, một mình nơi rừng sâu lạnh lẽo thế này đồng nghĩa với cái chết. Sẽ bỏ xác trong rừng sâu không ai biết đến. Chỉ còn biết uống nước vũng dằn bụng. Rán đi thêm hai tiếng nữa, tôi lại bứng cỏ lót chổ nằm trong lùm cây rậm. Vừa chợp mắt ngủ được một chút thì mưa gió trùm phủ khu rừng. Tôi ngồi dậy, co rúm người vì lạnh. Nước mưa tạt xối xả lên người. Tôi chui vào một bụi cây rậm nhất, vẫn không tránh được nước mưa. Người tôi run lên từng hồi như bị mắc kinh phong. Mưa càng lúc càng to. Gió rít liên hồi, cây rừng nghiêng ngã. Đến sáng, mưa bớt dần, không dứt hẳn. Suốt đêm không ngủ, phải chịu đựng mưa gió, tôi mệt quá, nhưng cũng cố gắng lên đường. Đi loanh quanh suốt buổi trong trời mưa rỉ rả. Lại xui, đôi dép bị đứt quai. Đành đi chân không. Rừng thẳm âm u trong cảnh trời tù mù không thấy mặt trời kéo dài năm ngày liền. Tôi không phân biệt được phương hướng, cứ đi lòng vòng mãi. Chỉ thấy rừng tiếp nối rừng. Đi chân không trong rừng là cả một cực hình. Hai chân chảy máu, bắt đầu sưng lên. Tôi đi cà nhắc từng bước một. Nhịn ăn bảy ngày rồi. Bao tử đã tê liệt nên tôi không còn cảm giác biết đói nữa. Nước vũng kéo dài sinh mạng tôi. Thân xác rã rời, nhiều khi ngất xỉu, không biết bao lâu, tỉnh dậy lại loang choạng bước đi. Tôi không còn ý thức ngày và đêm nữa, có lúc cảm thấy tuyệt vọng lắm. Quý ơi ! Mày không thể chết lặng lẽ trong rừng sâu thế này. Phải sống, phải tiến tới để tìm được bến bờ tự do. Tôi quỳ xuống khấn nguyện Ơn Trên thiêng liêng phù hộ cho tôi vượt thoát khu rừng. Với ý chí sinh tồn mạnh mẽ, cùng với niềm tin có Ơn Trên cứu độ, tôi cứ cà nhắc từng bước đi tới.

           Mưa đã dứt hẳn. Tôi có được một đêm ngủ thật say đến 2 giờ trưa hôm sau. Có sức lực, thêm trời nắng tốt và mặt trời chỉ hướng Tây, tôi lần ra được dấu vết xe bò hằn trên cỏ. Đi theo đường xe bò bốn tiếng, rừng thưa dần, và trước mặt tôi là một khu vườn chuối. Đã ra khỏi rừng. Tính ra, tôi bị lạc trong rừng tám ngày, đêm. “Được sống rồi…Được sống rồi !” Tiếng reo to của tôi đem đến sự hiểm nguy. Hai tên lính Polpot không biết từ đâu lù lù hiện ra. Tôi bị chúng chỉa súng đưa đến một căn nhà tranh lụp xụp trong vườn chuối. Lúc đó, có sáu người vượt biên khác cũng đang bị một toán lính Polpot dẫn tới. Chúng tôi bảy người, bốn đàn ông và ba phụ nữ trẻ đẹp bị chúng bắt cởi hết quần áo. Hai tên đứng chỉa súng, bốn tên lục các quần áo tìm vàng, bạc. Còn ba tên lần lượt khám xét từng người chúng tôi để lấy nữ trang, đồng hồ. Tôi chỉ có cái đồng hồ đeo tay bị chúng lột ngay. Ba người phụ nữ bị hai tên lính vừa khám xét lấy nữ trang vừa mò mẫm khắp chổ kín. Lục xét xong, chúng cho bốn đàn ông được mặc đồ lại và ngồi xuống một góc nhà, còn ba phụ nữ vẫn bị bắt đứng trần truồng như nhộng trước mắt mọi người.

          Trời chạng vạng, bọn lính Polpot tụm lại ăn cơm. Họ không cho chúng tôi ăn uống gì. Cơm nước xong, ba tên cầm súng ra đứng canh trước cửa, sáu tên còn lại trong nhà kéo ba cô gái nằm xuống đất để thỏa mãn dục vọng. Các cô dẫy dụa, la hét, van xin. Nghe tiếng nói, tôi nhận ra một cô người Việt, hai cô người Tàu. Mặc cho các cô kêu gào, khóc lóc thảm thiết, chúng vẫn thay phiên nhau hãm hiếp. Thừa lúc lộn xộn, tôi rón rén chui ra một lổ hổng nơi xó nhà và từ từ bò ra vườn chuối. Khi bò khá xa căn nhà tranh, tôi đứng dậy đi cà nhắc theo đường xe bò. Nhiều tiếng súng nổ sau lưng. Với lòng cầu sống, dù chân bị sưng, tôi vẫn chạy thục mạng, nhanh như gió. Không biết bao lâu, đuối sức, tôi nằm ngã ra trên một bãi cỏ. Máu chảy dầm dề ở hai bàn chân, nhức nhối không tả xiết. Trời tối đen. Chung quanh yên tĩnh. Giờ này cũng khuya. Tôi cố gắng vẹt cỏ tranh bò tới. Đường xe bò được tiếp nối bằng một con đường đất khá rộng. Tiếp tục bò theo con đường đất, khoảng tiếng sau, trước mắt tôi hiện ra một bờ hào cao, dài tít tắp, có bóng  người lính cầm súng đứng trên một vọng gác. Tôi đoán đây là biên giới Thái. Lòng mừng rỡ như được thấy cha mẹ sống lại, tôi chậm chạp bò đến gần bờ hào. Nhờ trời tối, lính Thái không nhìn thấy, tôi vượt qua biên giới Thái dễ dàng. Con đường dẫn đến bến bờ tự do đang thênh thang phía trước. Tôi không ngờ… vẫn còn nhiều hiểm nguy đang chờ đón tôi !

 

Vướng Cảnh Lao Tù

           Qua khỏi biên giới, trước mắt tôi là đường lộ nhựa. Quên hẳn cơn đau của hai bàn chân, tôi đứng dậy đi tới. Khoảng 30 phút sau, thấy có nhiều ánh đèn leo lét trong những ngôi nhà ở xa xa hai bên đường, tôi đoán là nhà dân nên quẹo vô một lối mòn, đi đến khu nhà bên trái. Tôi vào trúng một căn nhà bếp, có sẵn cơm, thức ăn trong vài cái nồi trên bếp. Đã nhịn đói suốt tám ngày, nên quên chuyện phải xin phép chủ nhà, tôi vội lấy dĩa, muỗng bới cơm, lấy thức ăn. Trong lúc vội vàng, tôi làm rớt cái nắp nồi gây nên tiếng động lớn trong đêm. Có tiếng người chạy đến. Tôi nhảy ngay xuống đường mương sau bếp. Vài phút sau, một họng súng M16 chỉa xuống đầu tôi. Thì ra đây là trại lính Thái. Tôi bị bắt, đưa vào một ngôi nhà rộng. Tôi nói bằng tiếng Anh là tôi đói bụng lắm, họ lấy cho tôi dĩa cơm với trứng chiên. Tôi ăn ngấu nghiến thoáng cái đã sạch dĩa. Vừa ăn xong, tôi bị một anh lính Thái chỉa súng lục vào đầu, tra khảo :

         Are you vi xi ? ( VC )

           Hiểu họ đoán tôi là bộ đội Việt cộng, tôi vội trả lời :

         No vi xi. I am student from Saigon.

         Why you coming here ?

         I looking for freedom. I just want to go to America

           Anh lính Thái gằn giọng :

         I don’t believe. You are vi xi. Ngay sau câu nói là anh đấm vào mặt tôi, và hét lớn : – You, vi xi., vi xi.

           Tôi cũng hét lên :

         No ! I am not a vi xi.

           Người lính Thái càng tức giận, đấm, đá tôi liên tục, còn lấy súng lục nện vào đầu tôi. Vừa khi thấy máu đầu chảy xuống lênh láng trên mặt, trên áo thì tôi ngất xỉu. Sáng tỉnh dậy, đã thấy một người lính Thái già đứng trước mặt. Ông nói tiếng Việt :

         Tôi là trung tá, tư lệnh ở đây. Sao em bị đánh như vầy ?

           Tôi mếu máo :

         Dạ. Họ nói em là Việt cộng nên đánh em. Em là sinh viên ở Sài Gòn đi tìm tự do. Vừa nói, tôi vừa lấy ra bọc ni long có vài hình ảnh người thân và thẻ sinh viên đưa cho ông, nói tiếp : – Ông xem giùm, em là sinh viên trường đại học Văn khoa. Em vượt biên qua đây để xin đi Mỹ.

           Ông trung tá Thái xem qua giấy tờ, gật đầu :

         Được rồi. Em chờ đây, chút có xe đến chở em vào trại tị nạn. Hồi trước tôi có tham chiến tại miền Nam Việt Nam. Tôi có vợ Việt ở Gia Định. Em an tâm nhé.

           Mừng quá, tôi yên trí ngồi chờ. Khoảng nửa tiếng sau, xe đến chở tôi đi, nhưng không chở đi trại tị nạn mà chở đến Ty công an A Ran. Công an Thái tịch thu hết giấy tờ, hình ảnh trong bọc ni long của tôi và tống tôi vào nhà tù. Sau ba ngày giam giữ, họ chở tôi vào trại lính Khmer Tự do ở trên phần đất Campuchia sát biên giới Thái. Tôi cứ đinh ninh đây là thủ tục phải như vậy trước khi được cho vào trại tị nạn. Ngờ đâu, lính Khmer Tự do đem nhốt tôi vào một cái chuồng gỗ thấp lè tè, phải khom khom người khi xê dịch. Trong chuồng gỗ đã có hai thanh niên người Việt gốc Hoa. Một người có vẻ lớn tuổi hơn cho biết họ là anh em ruột, ở Chợ Lớn, bị bắt nhốt vào đây nửa tháng rồi. Hàng ngày, chúng tôi bị lính Khmer Tự do bắt đi lao động, đào hầm, hố, đốn cây, chẻ củi. Họ cho chúng tôi ăn ngày hai bửa cơm trắng với muối. Mỗi cuối tuần được ăn một bửa cơm với cá hộp. Tôi lo lắng, không biết phải chịu đựng kiếp lao tù này đến lúc nào ?!. Một buổi trưa, sau khi đào xong cái mương, được cho ngồi nghỉ, tôi hỏi một anh lính Khmer Tự do biết tiếng Việt :

         Anh có biết chúng tôi chừng nào được cho vào trại tị nạn không ?

         Không biết nữa. Khi nào “ông lớn” thấy vui thì thả các anh.

           Tôi than thở :

         Tôi bị nhốt ở đây gần tháng rồi. Biết chừng nào “ông lớn” vui đây ? Anh có thể thả tôi đi không ?

         Đâu được. Anh muốn tôi bị nhốt như anh hở ? Ông lớn nghiêm lắm.

          Tôi hỏi dò :

         Hình như trại tị nạn ở gần đây phải không anh ?

         Ừa. Có trại tị nạn NW9 cách đây hai cây số.

          Tôi chỉ ra hướng con đường ở xa xa ngoài trại lính, hỏi :

         Thỉnh thoảng tôi thấy có xe Jeep cắm cờ thập tự đỏ chạy ngang. Họ là ai vậy ?

         Là Hồng thập tự Quốc tế. Họ lo cho dân tị nạn trại NW9, và cũng thường cung cấp gạo cho trại lính chúng tôi để đổi lấy người tị nạn bị “ông lớn” bắt giữ.

         Vậy sao “ông lớn” các anh không trao đổi chúng tôi ?

         Thì vừa rồi tôi có nói, khi nào ‘ông lớn” vui sẽ trao đổi các anh để lấy gạo.

         Được anh nói chuyện cởi mở, tôi hỏi thêm :

         Các anh có phải lính của chế độ Lonnol không ?

         Phải, nhưng bây giờ là lực lương Khmer Tự do của tướng Sonsann.

         Tôi cũng có người anh rễ phục vụ trong chế độ Lonnol từ năm 1970. Anh rễ tôi tên Thạch Vọng, cấp bực sau cùng là thiếu tá.

          Anh lính Miên ngạc nhiên :

        Hả ? Thiếu tá Thạch Vọng hả ? Phải ổng có vợ người Việt không ? Bả tên Mùi, có hai con trai.

          Tôi muốn hét lên, nhưng kịp ngăn lại, nói trong xúc động :

        Đúng rồi. Đúng rồi…Anh chị của tôi đó. Rồi tôi hỏi dồn dập : – Anh quen với ảnh chỉ hở ? Bây giờ ảnh chỉ ở đâu ? Có ở đây không ?

          Người lính Miên lắc đầu :

        Chết hết rồi. Khi Polpot vào Nam Vang, đơn vị do ông Vọng chỉ huy rút vào rừng kháng chiến, đóng trại gần biên giới Thái. Được một thời gian, lính Polpot tấn công vào trại, tiêu diệt tất cả. Ông bà thiếu tá Vọng và hai con trai đều bị chúng giết.

          Tôi sững sờ trước cái tin buồn bất ngờ này. Niềm hy vọng có ngày anh chị em được trùng phùng đã tan thành mây khói ! Tôi bật khóc nức nở. Tối hôm đó, tôi không ngủ được. Hình ảnh chị Mùi, anh Vọng và hai cháu cứ chập chờn trong đầu tôi. Vậy là hết, anh Phùng, anh Thiện, em Hỷ đã mất vì đất nước, bây giờ thêm tin chị Mùi chết thảm cùng với gia đình, tôi thật sự không còn người thân ruột thịt nào nữa ở trên đời !

          Biết được ngoài trại có xe Hồng thập tự thường chạy ngang qua, tôi lập kế hoạch trốn thoát. Sau hơn một tháng bị nhốt, lao động khổ sai, tôi không thể chờ đợi thêm cái ngày được “ông lớn” của trại Khmer Tự do này vui vẻ tha cho. Một buổi chiều, sau giờ lao động gần con đường lớn ngoài trại, tôi giả vờ đau bụng và xin phép người lính Miên cho tôi đi giải quyết. Người lính Miên đứng chờ. Tôi chui vào một lùm cây rậm. Khi thấy người lính Miên châm thuốc hút và lơ đãng nhìn đi nơi khác, tôi vụt chạy ào ào một quãng xa rồi phóng ra khỏi hàng rào trại. Vài tiếng súng nổ ở phía sau, nhưng tôi đã chạy tới đường lớn cách trại khoảng trăm mét. May mắn thay, từ xa có xe Jeep cắm cờ Hồng thập tự chạy tới. Tôi đứng giữa đường, giơ hai tay lên. Xe ngừng lại trước mặt tôi. Hai người Mỹ xuống xe hỏi :

         Are you Vietnamese ?

           Tôi mau mắn trả lời :

         Yes ! I am Vietnamese. I came from Saigon. I looking for freedom. Please help me.

         OK ! We help you.

           Tôi mừng rỡ như chết đi sống lại, nhảy lên xe Jeep. Nghe tôi khai bị đói, lạnh trong rừng suốt chín ngày đêm, Hồng thập tự chở tôi vào một bệnh viện dã chiến trong vùng Khmer Tự do, nằm dưỡng bệnh ba ngày. Tôi được cho uống thuốc, ăn cháo và các trái cây bổ dưỡng. Đươc sự che chở và chăm sóc của Hồng thập tự, tôi đã thật sự hồi sinh, nhìn thấy trước mắt một tương lai tươi sáng. Tôi thầm cảm tạ Trời cao thiêng liêng và Ông Bà , Cha Mẹ, Anh Chị Em linh hiển đã phù hộ cho tôi được chuyển nguy thành an. Sau khi khỏe mạnh, tôi được Hồng thập tự chở vào trại tị nạn NW9. Bấy giờ là giữa tháng 1 / 1980. Tôi mừng rơi nước mắt. Cảm ơn Hồng thập tự Quốc tế. Cảm ơn những tấm lòng nhân ái của nhân viên Hồng thập tự và Cao ủy Liên hiệp quốc.

 

Tình Đầu Đời Tị Nạn

           Trại NW9 là trại tị nạn dành cho người vượt biên đường bộ. Trại nằm trên lãnh thổ Campuchia nhưng ở sát bờ hào biên giới Thái. Một cây cầu nhỏ bắc ngang từ bờ hào biên giới qua đến cổng trại. Hàng ngày, nhân viên Hồng thập tự từ bên đất Thái chỉ bước vài bước trên cầu nhỏ này là vào trại để làm việc. Ngày đầu được vào trại, lòng rộn ràng vui sướng, tôi hớn hở nhìn những người tị nạn khác đang tập trung ở gần văn phòng trại xem bảng niêm yết tin tức hay thư từ. Đồng bào Việt Nam tôi đây. Tôi có cảm giác thân thiết với tất cả mọi người, luôn miệng cười với người này, người nọ. Tôi được xếp cho một chổ ngủ trong một dãy lều dài thuộc khu dân sự. Vài hôm sau, được vài thanh niên cho biết, nếu là bộ đội Việt cộng tị nạn chính trị sẽ được cứu xét cho đi Mỹ nhanh hơn. Tôi lên văn phòng khai mình đã từng là bộ đội, được chuyển ngay qua một dãy lều trong khu bộ đội. Tất cả bộ đội nơi đây đều từ các đơn vị Việt cộng ở gần biên giới đào ngũ chạy qua Thái.

           Dân tị nạn trong trại sinh hoạt rất vui vẻ. Dù việc ăn uống có hơi thiếu thốn, nhất là nước, mỗi người chỉ được bốn lít mỗi ngày để uống và tắm rửa, nhưng ai ai trong trại cũng được yên ổn sống qua ngày. Vài ba tối thì có nhiều người tụ tập liên hoan đưa tiễn người được xuất trại. Chỉ với nước trà và bánh, kẹo đơn sơ, họ mời nhau và đàn ca, nhảy nhót với nhau thật vô tư. Họ an tâm từ nay không còn phải sống với cộng sản nữa. Qua những buổi liên hoan đó, tôi quen thân với một người bạn tên Khúc duy Viễn, cũng là bộ đội tị nạn chính trị.

           Tôi viết thư thăm anh chị Hải Vân và các cô bạn thân ở thương xá Rex như Phuợng, Đức, Linh… Một tháng sau, nhận được thư anh Vân và các bạn, tôi nhảy tưng tưng. Ở trại tị nạn, người ta rất khát khao thư từ người thân. Nhận được thư là người ta vui lắm. Vui nhất là những người có thân nhân ở các nước tự do gửi cho tiền. Nhờ đọc báo Văn nghệ tiền phong, tôi liên lạc được một hội thiện nguyện ở bang Kansas, xin hội làm hồ sơ bảo lãnh. Tháng rưởi sau, tôi nhận được giấy tờ bảo lãnh của bà hội trưởng Mai Liên. Nhờ có hồ sơ bảo lãnh này, sau bốn tháng ở trại NW9, tôi được chuyển đến trại Sikiu, cũng là trại tị nạn đường bộ nhưng ở sâu trong đất Thái.

            Trại Sikiu được chia thành hai khu. Khu gia đình và phụ nữ ở chung. Khu khác dành cho thanh niên độc thân, có hai building giống như nhà tù, bị cách biệt với khu gia đình bằng một vòng rào kẻm gai cao lút đầu. Building 1 gồm nhiều thanh niên ở trại trên một năm vì không có thân nhân bảo lãnh, là building nhà giàu, có bàn đánh ping pong và ai cũng có máy hát nghe nhạc, tiền bạc tiêu xài rủng rỉnh. Đời sống họ sung túc trong hoàn cảnh tị nạn nhờ họ, ai cũng giả tên con gái đăng báo Văn nghệ tiền phong, mục tìm bạn bốn phương, dụ dỗ đàn ông độc thân ở Mỹ gửi tiền, quà cho họ. Tên cô “đực rựa” nào cũng đẹp : Hồng Ngọc, Thu Thảo v.v… Rồi họ gửi hình của thiếu nữ xinh đẹp nào đó mà họ có được, làm cánh đàn ông ở Mỹ chết mê, chết mệt. Thời đó, đàn ông độc thân bên Mỹ chịu cảnh khan hiếm đàn bà,  khao khát tình cảm lắm, nên dốc túi gửi tiền và quà lia chia cho các cô bạn  “đực rựa’ này, hy vọng sẽ bảo lãnh được một cô vợ đẹp như tiên. Building 2 là building nhà nghèo gồm những bộ đội tị nạn chính trị mới đến như tôi. Đa số là dân bộ đội có gốc rễ ở Sài Gòn hay miền Tây, trong hoàn cảnh tị nạn nghèo rớt mùng tơi vẫn còn tánh ăn chơi. Hàng đêm các chàng ta tụ tập thành từng nhóm ca hát, ôm nhau nhảy đầm, rồi kết bè, kết đảng quánh lộn, thường bị an ninh trại kéo ra ngoài building đánh cho một trận. Tôi cứ an phận sống qua ngày tháng. Ban ngày thì lặng lẽ đi vòng vòng trong khu độc thân, nhìn cảnh sinh hoạt mua bán nơi cổng trại, hoặc trò chuyện với Viễn. Mỗi tối, tôi thui thủi một mình trên cái chiếu trải trên sàn nhà ở một góc building. Đi tìm đời sống tự do, không phải là tự do kết bè đảng để đánh người hay bị người đánh !.

           Hai tháng sau, tôi được phái đoàn Mỹ vào trại làm hồ sơ phỏng vấn, chụp hình. Thêm ba tháng rưởi nữa, tôi được chuyển đến trại Phanatnikhom. Được rời trại Sikiu, tôi mừng như người vừa  ở tù ra. Trại Phanatnikhom là trung tâm tị nạn lớn nhất ở Thái Lan, gồm người vượt biên từ các trại đường bộ và đường biển đã có hồ sơ bảo lãnh của thân nhân hay hội đoàn. Họ được chuyển đến đây để chờ được phái đoàn các nước thứ ba phỏng vấn chính thức, quyết định cho đi định cư hay không. Ở trung tâm này có đủ các sắc dân tị nạn : Việt, Miên, Lào. Vì quá đông nên trại không tổ chức phát cơm canh nấu sẵn cho người tị nạn, mà mỗi tuần phát thực phẩm cho từng tổ độc thân hay từng gia đình để tự nấu ăn. Tổ độc thân tôi có năm thanh niên. Cả tổ lãnh thực phẩm về rồi chia nhau ai muốn nấu ăn sao thì tùy. Sinh hoạt ở trung tâm vui nhộn như trong một thị trấn. Có chợ bán đủ loại hàng hóa và nhiều hàng quán bán thức ăn, thức uống như cơm dĩa, hủ tíu, cà phê, bánh mì, nước sinh tố… Dân tị nạn có thân nhân gửi tiền thì tha hồ vui chơi, tiêu xài ở chợ và các hàng quán này. Phượng, Đức ở thương xá Rex giới thiệu tôi với người bạn của hai cô ở bang California tên Nguyễn ngọc Lưu. Tôi được Lưu gửi cho 50 dollars. Nhờ vậy, thỉnh thoảng tôi cũng vào quán phong lưu chút đỉnh sau gần một năm gian truân khổ ải trong hành trình viễn xứ. Giữa tháng 11 / 1980, tôi được phái đoàn INS Mỹ chính thức phỏng vấn và chấp thuận cho tôi đi Mỹ. Nhìn hai chữ OK của nhân viên INS phê vào hồ sơ, tôi mừng quá cỡ, cả người nhẹ hẫng như muốn bay lên trời.

           Nỗi mừng được phái đoàn Mỹ chấp thuận chưa tiêu hóa xong thì qua hôm sau tôi lại có thêm một niềm vui khác không thể nào ngờ trước được. Tôi từ cửa phòng thư tín chen ra khỏi đám đông, vừa đi vài bước thì gặp một thiếu nữ đang đi tới. Cô mặc áo thun trắng ngắn tay bó sát thân mình và cái quần Jean xanh. Nhìn phục sức trẻ trung và khuôn mặt kiều diễm của cô, trông quen quá. Tôi ngẩn người nhìn cô một thoáng và bật reo lên :

          Trời ơi…Diệu !

           Cô gái ngỡ ngàng nhìn tôi rồi cũng reo lên :

          Anh Quý ! Sau tiếng reo là Diệu nhào tới quàng hai cánh tay qua hai vai tôi, ôm chặc lấy tôi và nói trong xúc động : – Anh Quý. Em không ngờ được gặp anh ở đây.

            Tôi cũng ôm chặc cô, lòng bồi hồi, vui sướng. Trong hoàn cảnh tị nạn xa xứ này lại được gặp cố nhân. Người con gái xinh đẹp ở Thị Nghè ngày nào có với tôi tình thân thiết, và một thời gian tôi đã nhớ nhung cô muốn phát điên vì ám ảnh nụ hôn đầu đời do cô chủ động ban cho. Buông nhau ra, tôi mời Diệu vào quán. Chúng tôi ngồi sát bên nhau, vừa ăn uống vừa chuyện trò vui vẻ. Tôi nói :

          Từ sau tháng 4 / 1975, không còn gặp Diệu, anh nhớ quá chừng.

          Sao anh không đến gặp em ?

          Ngay ngày 1 tháng 5 anh có đến tìm Diệu mà cả nhà Diệu đi vắng. Sau đó, phải lo toan đời sống mới nhiều khó khăn, anh không có dịp đến thăm em. Khoảng tháng 11 / 1975, anh nhớ em quá nên đến nhà em ở xóm chợ Thị Nghè thì em đã dọn nhà đi đâu rồi. Thấm thoát đã năm năm rưởi rồi hở Diệu.

          Đời sống mới trong chế độ Việt cộng khó khăn thiệt. Bố em bị đi tù “cải tạo”. Mẹ bán nhà để lấy tiền nuôi Bố, nên dọn đến căn nhà nhỏ khác. Em sống đời con gái nhà nghèo, hết vui chơi phóng túng như trước.

           Tôi nhìn Diệu mỉm cười :

         Đời sống con gái nhà nghèo mà Diệu vẫn đẹp. Bây giờ Diệu đẹp hơn xưa nhiều lắm.

           Diệu cũng mỉm cười, không phủ nhận sắc đẹp của mình :

         Có đẹp hơn mà tình thì thiếu vắng.  Sau câu nói, Diệu nhìn tôi với ánh mắt long lanh. Ăn uống xong, Diệu nói : – Thôi, mình đi anh. Về chổ em chơi nhé. Gặp mẹ em luôn. Mẹ em cũng hay nhắc đến anh.

           Ra tới đường, Diệu nói :

         Anh nắm tay em đi. Như hồi ở Thị Nghè vậy.

           Tôi nắm lấy bàn tay mềm dịu, mịn màng của Diệu, lòng lâng lâng vui sướng. Trời buổi chiều mùa Đông se se lạnh. Diệu đi nép vào tôi như người tình bé bỏng. Diệu hỏi :

         Anh Quý đã có vợ chưa ?

         Đã ai yêu anh đâu mà có vợ.

         Vậy anh đi Úc với em nhé.

         Hôm qua, anh mới được INS phỏng vấn cho đi Mỹ.

         Tiếc quá ! Em cũng thích đi Mỹ lắm. Nhưng em có người chị ruột ở Úc, nên mẹ muốn đi Úc. Vài ngày nữa mẹ và em sẽ được phái đoàn Úc phỏng vấn.

           Về tới chổ Diệu ở, dì Sáu, mẹ Diệu, cũng vui mừng khi bất ngờ gặp lại tôi. Nói chuyện một hồi, dì Sáu nói : “ Hai con cứ nói chuyện đi, mẹ qua thăm bà bạn mới đến trại”. Khi dì Sáu đi rồi, Diệu kéo tấm màn che chổ ngủ của cô. Hai đứa tôi có khoảng không gian riêng tư để tâm tình. Tôi hỏi : –

         Còn bố đâu Diệu ?

           Diệu buồn rầu trả lời :

         Bố em mất rồi. Bố chết rất thảm trên biển. Diệu lấy tay dụi đôi mắt vì xúc động rồi kể  cho tôi nghe hành trình vượt biển của cô : “Bố em đi tù cải tạo về vài tháng thì cùng mẹ và em vượt biên. Thuyền em có 43 người, gồm đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Đi được sáu ngày, tàu chết máy, lênh đênh trên biển. Rồi một tàu hải tặc Thái áp sát. Chúng 13 tên trang bị nhiều vũ khí nhảy sang tàu em. Chúng lục soát tất cả mọi người, cướp hết mọi thứ vàng, bạc, nữ trang. Sau đó, chúng lôi các cô trẻ đẹp ra để thỏa mãn thú tính. Em cũng …” Diệu ngập ngừng không nói tiếp, rồi gục vào vai tôi. Tôi hiểu chuyện gì đã xảy ra cho Diệu. Tôi xúc động nắm chặc bàn tay Diệu, im lặng. Vài phút trôi qua, Diệu kể tiếp “ Bố thấy em bị làm nhục thì nhào tới chống cự, bị hai tên hải tặc túm đánh, lấy súng nện liên tục lên đầu bố rồi ném xác bố xuống biển. Sau khi thỏa mãn, chúng về lại tàu rồi cho tàu húc lủng thuyền em. Nước tràn vào và thuyền lật. Em và mẹ mỗi người may mắn bám được một mảnh gỗ trôi vào bờ, được người Thái đưa vào trại Songkhla. Vào trại rồi em mới được gặp lại mẹ. Nghe mẹ nói, số người trên thuyền bị chết hết 23 người “. Kể xong chuyện buồn, Diệu im lặng, mắt có ngấn lệ. Tôi không biết nói gì để an ủi Diệu, chỉ biết nắm chặc tay Diệu, im lặng cảm thông. Một lát sau, bổng Diệu ôm chặc lấy tôi, đôi mắt lá răm tuyệt đẹp nhìn sâu vào mắt tôi như hớp hồn tôi, rồi hôn tôi say đắm. Lần thứ hai tôi được Diệu chủ động hôn. Nụ hôn lần này kéo dài càng ngọt lịm bờ môi, truyền dẫn vào người tôi cảm giác đê mê, ngây ngất. Không tự chủ được trước hương sắc và sự nồng nàn của Diệu, tôi cũng ôm chặc cô, say sưa hôn lại. Diệu thỏ thẻ ngọt ngào bên tai tôi :

         Anh Quý. Em đã yêu anh từ hồi còn ở Thị Nghè.

           Tôi cảm động :

         Sao em không nói cho anh biết ?

         Tại em thấy anh có vẻ không yêu em. Anh chỉ coi em như bạn. Anh có hỏi em, người em thật sự yêu là ai. Em không nói vì… chính là anh đó.

           Lòng xao xuyến, tôi nói với giọng run run :

         Anh cũng yêu em… Chẳng qua hồi đó… anh có nhiều mặc cảm…

         Vậy bây giờ… anh yêu em đi… Diệu vừa nói với giọng nhiều cảm xúc vừa quàng hai cánh tay trắng nõn nà quanh cổ tôi, kéo tôi cùng nằm xuống. Đôi môi son đỏ mọng cong cớn của Diệu khe khẽ thốt : – Yêu em đi anh Quý… Tôi rạo rực rơi vào lửa tình với Diệu…Đã 27 tuổi, lần đầu tiên tôi mới được biết mùi vị ái ân…Từ hôm đó, tôi luôn khăng khít bên Diệu. Một tuần sau, tôi có tên trong danh sách xuất trại đi đảo Galang, Indonesia. Ngày cuối ở bên nhau, Diệu tha thiết nói :

         Dù tình yêu đến muộn màng, nhưng muộn còn hơn không. Chúng mình đã có với nhau kỷ niệm đẹp tuyệt vời. Mai đây mỗi người một phương trời, chúng mình sẽ vẫn luôn nhớ đến nhau. Nha anh. Em không ràng buộc gì anh cả, miễn trong tim anh luôn có em “

           Tôi xúc động :

         Anh sẽ luôn nhớ đến em. Em là ngưòi đã cho anh có được tình yêu đầu đời nồng cháy.

           Chúng tôi lại đắm đuối trong biển tình. Hôm sau, Diệu tiễn tôi lên đường. Phút biệt ly giữa hai người yêu nhau buồn não nuột. Diêu rươm rướm nước mắt. Chúng tôi ôm chặc nhau thật lâu lần cuối. Tôi hôn lên hai má Diệu rồi lặng lẽ đi theo đoàn người chuyển qua Transit Center, đối diện với Trung tâm Phanatnikhom. Ngoái nhìn lại, thấy Diệu vẫn còn đứng nhìn theo với đôi mắt buồn vời vợi, tôi giơ tay vẫy. Diệu vẫy tay lại. Chào biệt Diệu. Chào biệt cuộc tình đầu đời tị nạn !…

 

Tự Do Ơi…Tự Do !

           Sau bốn ngày ở Transit Center, tôi và nhiều người được xe Bus chở đến một trạm chuyển tiếp gần thủ đô Bangkok, nằm chờ ba ngày. Khi có chuyến bay, chúng tôi được phát mỗi người một túi thức ăn và lên xe Bus đến phi trường Bangkok. Cảnh đêm thủ đô Bangkok thật đẹp với muôn ánh đèn màu. Ngồi chờ ở phi trường hai tiếng thì đoàn người tị nạn lần lượt lên máy bay. Nửa tiếng sau, máy bay cất cánh..Lòng tôi phơi phới, vui như ngày lễ hội. Khoảng ba tiếng sau, máy bay đáp xuống phi trường Singapore. Hôm sau, chúng tôi được chuyển đến đảo Galang, Indonesia bằng thuyền lớn. Tại đảo, tôi gặp lại Viễn, đến trước tôi một tháng. Chúng tôi càng chơi thân với nhau. Rồi Viễn cũng lên đường đi Mỹ trước tôi. Nghe theo lời Viễn, tôi chuyển hồ sơ đi theo bảo lãnh của người anh bà con Viễn là anh Dương minh Hiệp ở bang South Dakota. Sau bốn tháng rưởi ở Galang 2 học văn hóa Mỹ và thêm chút tiếng Anh, tôi được rời đảo ngày 21 / 4 / 1982. Ở thêm ba ngày trong trạm chuyển tiếp Singapore, tôi chính thức được lên đường đi định cư tại Hoa Kỳ ngày 24 / 4 / 1982. Hành trình viễn xứ của tôi đã tới đích. Tôi đã thật sự được đặt bước chân lên miền đất Tự Do mà tôi hằng mong ước từ bao năm qua. Xin chào UNITED STATES Of AMERICA – Đất nước tự do, dân chủ, văn minh, nhân bản và giàu mạnh nhất thế giới. Một lần nữa, tôi thầm cảm tạ Trời cao thiêng liêng, Ông Bà, Cha Mẹ, Anh Chị Em linh hiển đã phù hộ cho tôi, trong hành trình nhiều gian truân, trắc trở, được may mắn chuyển nguy thành an. Tự Do ơi…Tự Do ! Tôi đã có được Người !

          Xin cảm ơn Chính phủ Mỹ, Nhân dân Mỹ đã nhân ái dang rộng vòng tay đón nhận tôi và cưu mang tôi 28 năm qua. Trưa nay, trời cuối thu se se lạnh, tôi đến viếng Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam trong khuôn viên nghĩa trang Westminster, tọa lạc trên đại lộ Bolsa góc đường Hoover, quận Cam. Tôi cúi đầu thật lâu trước Tượng Đài để tưởng niệm tất cả vong linh Đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trong Hành Trình Tìm Tự Do. Đã có khoảng 200 ngàn người Việt tử nạn trên biển cả trùng khơi hay nơi rừng sâu, nước độc bởi đói khát, bão tố, biển động, hay hải tặc hãm hiếp, giết chết. Trước Tượng Đài có tấm bảng đồng ghi : “ Tưởng niệm đến hàng trăm ngàn Thuyền Nhân, Bộ Nhân Việt Nam đã chết trên đường tìm Tự Do, Nhân Phẩm, Nhân Quyền. Gợi nhớ về cuộc hành trình đầy đau thương và khổ nạn của hàng triệu người Việt rời bỏ Quê Hương sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 vì không chấp nhận chế độ Cộng sản. Lưu truyền chứng tích đến các thế hệ mai sau về nguyên nhân sự hiện hữu của người Việt tại Hoa Kỳ và các quốc gia Dân Chủ, Tự Do trên thế giới”.

          Tôi lại cúi đầu thật lâu trước Tượng Đài. Những Thuyền Nhân, Bộ Nhân đã chết trên đường vượt biển hay đường bộ để cho nhiều người thân ruột thịt được sống, được đến bến bờ Tự Do an toàn. Nhờ đó, ngày nay đã có hơn ba triệu người Việt được sống đời an bình, thăng tiến tại hải ngoại. Và mai đây, sẽ có biết bao nhiêu người con ưu tú của Tổ quốc Việt thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba trở về quê hương Việt không cộng sản, đem tài năng, kiến thức học được nơi xứ người để xây dựng nước Viêt nhanh chóng trở thành cường quốc. Cá nhân tôi ngày rời xa quê hương, hành trang lên đường là ý chí của Tống Biệt Hành : “Ly khách ! Ly khách ! con đường nhỏ. Chí lớn không về, bàn tay không. Thì không bao giờ nói trở lại…”. Nên tôi cũng đang âm thầm hoạt động trong một tổ chức chính trị, với hoài bão được đóng góp tất cả tâm trí, tài sức vào công cuộc đấu tranh chung của toàn dân Việt trong và ngoài nước, nhằm xoá tan bóng tối đêm đen trên quê hương Việt Nam. Cho những đau thương, thù hận của một thời nô lệ ngoại bang sẽ bị nhạt nhòa, tiêu tán vào dĩ vãng của lịch sử đã sang trang. Cho những xiềng xích, chuyên chế, hung tàn, bạo ác của cộng nô phải bị sụp đổ, tiêu vong. Cho viết lên trang sử mới của bình minh nước Việt ngày xanh tươi rạng rỡ, huy hoàng, kiến tạo nên một xã hội mới thật sự dân chủ, tự do, văn minh, nhân bản, công bình, bác ái để toàn dân Việt mãi mãi được sống an hòa, vui sướng, hạnh phúc.

           Kính nguyện cầu Đấng Thiên Thựợng Đế tối cao và Hồn thiêng sông núi phù hộ cho toàn dân Việt sớm có ngày “đắc lộ thanh vân”, đưa nước Việt lên đỉnh đài vinh quang thịnh trị ngàn đời.

 

– Ghi dấu 30 năm rời xa quê hương :  1980  – 2010

 

HUYÊN CHƯƠNG QUÝ  ( Lý Nguyễn Thiên Quý )