Văn Thi Sĩ Dưới Chế Độ Đồng Loại Ăn Thịt Người

Thảo luận trong 'Thảo luận chung' bắt đầu bởi Lu Hà, Thg 6 28, 2012.

  1. Lu Hà

    Lu Hà Active Member

    Tham gia ngày:
    Thg 10 13, 2011
    Bài viết:
    5,006
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    36
    Giới tính:
    Nam
    Nếu muốn trở thành thi sĩ thực sự trong lòng nhân thế, thì hãy quên đi hai chữ danh vọng. Danh vọng tiếng tăm người đời thường ham muốn; nhưng cũng chính nó sẽ giết chết hồn thơ và cảm hứng sáng tác. Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương, Tản Đà, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử v.v đã để lại cho chúng ta những kiệt tác bất hủ lưu danh thiên sử ngàn thu. .Trong khi đó các vị đó lại có một cuộc sống nghèo xác xơ. Có những người làm thơ ra, thiên hạ còn coi thường không thèm đọc. Chỉ còn thời gian là sàng lọc, khi trí tuệ, cảm xúc cảm nhận cuả nhân thế nâng cao thì người ta mới nhớ tới các vị đó. Than ôi, các ông các bà đã là người thiên cổ từ lâu rồi. Nhưng không ai có thể sau một đêm ngủ dậy mà trở thành thi sĩ. Ngày xưa, thường phải học hành lấy sự nghiệp quan trường làm chính. Nhưng khi đã làm quan to thì các ông lại chẳng sáng tác ra được một bài thơ nào cho nên hồn. Chỉ khi đã bị thất sủng, bị đày đoạ ra biên cương, chỉ khi đã bị đẩy xuống tận cùng cuả đau khồ thì tâm hồn các ông mới trỗi dậy, khóc thương, lồng lộn đòi cuộc sống, đòi cơn về văn thơ.

    Thi ca là kho báu tâm hồn cuả những người nghèo, chứ không phải cho người giàu. Người giàu đã có vàng bạc tiền cuả rồi, họ cần thi ca để làm gì? Có chăng chỉ là đua đòi đánh si cho bóng cho cái mặt mình thêm dày thêm bóng mà thôi .Thật nực cười cho cả những tên đao phủ giết người trong nháy mắt, những Gangster, những trùm băng đảng khủng bố, hay những con yêu dâu xanh cũng tự nhận mình là văn thi sĩ, thậm chí còn ăn cắp thơ văn cuả người khác và bắt ép toàn thể dân chúng ca ngợi, học tập trước tác cuả mình như các ông Hồ Chí Mít, Mao Chủ Ịt, Tố Hữu v. v... rất nhẵn mặt với chúng ta ở Việt Nam và Trung Cộng.

    Khi đọc một bài thơ ta thấy những gì? Những câu, những chữ, những vần, những điệu, những ý nó liên kết với nhau như một nhịp cầu, nghe như có hơi thở đều đặn cuả một linh hồn, xa xăm như làn sóng thủy triều mênh mông vô tận... Phương Tây người ta còn phân loại ra các trường phái hiện sinh, siêu hình, hình thức, lãng mạn v. v...Thế mới gọi là thơ. Đọc một bài thơ chỉ thấy chữ thấy câu, những chữ mà ta đã nghe nhàm chán như trong nghị quyết chỉ thị cuả đảng thì đó có phải là thơ đâu. Lắm chữ nhiều từ nhưng rời rạc tối nghiã, cố tạo ra sự mập mờ khó hiểu để người ta nhầm lẫn là cao siêu lắm.

    Ta hãy nghe anh chàng Phạm Tiến Duật làm thơ: „ Xe không có kính, không phải vì xe không có kính- Đạn nổ bom rơi kính vỡ đi rồi“ .Cũng giống như „ Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi- Con cóc nhảy đi, con cóc ngồi đó.“. Họ làm thơ như vậy đó, nó trối tai quá, chẳng có hình ảnh trí tuệ , trí tưởng tượng, ẩn dụ, siêu hình gì cả. Họ còn bảo Phạm Tiến Duật là viện sĩ hàn lâm cuả đảng, cuả dòng thơ cách mạng yêu nước chống Mỹ. Tố Hữu chỉ làm thơ con cóc thôi mà cũng được phong là đại thi hào ngang ngưả với Nguyễn Du. Cái khốn nạn thi sĩ và danh vọng là ở chỗ đó. Làm thơ không phải vì tâm linh tâm hồn vì nghệ thuật sáng tạo mà chỉ vì tuyên truyền chính trị, biến những khẩu hiệu suông tẻ nhạt thành những bài vè có mùi mắm tôm, mắm ruốc, dưa khú mà bọn bút nô ăn theo vẫn phải bịt mũi khen hay do áp lực cuả cường quyền và súng đạn.

    Tôi phê phán thẳng cánh, và rất khó chiụ khi phải đọc những bài thơ như vậy. Ngực họ đã đầy huân huy chương sáng loé lên rồi hoặc với những tấm biến treo cao rất oai chủ tịch đảng, chủ tịch nước, uỷ viên bộ chính trị mà vẫn chưa đủ còn phải nhất quyết kèm theo cái thẻ thi sĩ dán ở túi áo nưã thì mới thoả mãn hay sao? Thật ra tôi chỉ tình cờ nhớ lại khi có đọc những bài bình cuả một số người như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan v. v...viết những bài bình ca ngợi tâng bốc họ. Người ta gọi họ là bọn bồi bút sinh ra chỉ để ăn lương bố thí cuả đảng và ca ngợi đảng và lãnh tụ. Tôi rất thích đọc khi ai đó viết về Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Hồ Dzech và tôi đọc rất say xưa. Nhất là cụ Tản Đà là người tôi ngưỡng mộ như một bậc Thày có một không hai cuả tôi.rất

    Thơ tình là một mảng đề tài mà tôi rất thích, nó là những giọt nước mắt yêu thương cuả tâm hồn. Mình có như thế nào, mình nghĩ những gì thì mình sẽ viết ra như thế đó. Đã là tình yêu thì không thể dối trá, không thể không nói có, có nói không. Nếu chả may nhân vật mà mình viết trong thơ có vô tình đọc được, cô ta sẽ nghĩ về mình như thế nào? Dù cho mình không nói rõ tên là ai. Nếu mình điêu ngoa cố tình viết sai tâm trạng mình? Sau này ai cũng phải chết cả, nhưng tấm lòng chân thành cuả mình hy vọng sẽ được cảm thông, hoá giải cho những buồn đau thương nhớ trên cõi trần gian giả tạm này.

    Người cộng sản họ cũng làm thơ tình. Theo tôi thơ thì có nhưng tình thì không. Nghe nói họ tuyên truyền tôn thờ một anh chàng đồng tính luyến ái cả đời không biết mùi mồ hôi đàn bà, không biết cái slip của đàn bà dày mỏng như thế nào. Chắc các bạn cũng biết tên tuổi anh chàng này như sấm động ngang tai. Anh chàng này họ Xuân tên Diệu. Thú thực thơ anh ta tôi chỉ ngửi thấy mùi húng lìu và thịt chó thôi. Nhưng bộ máy tuyên truyền cuả đảng thi nhau gọi anh ta là hoàng tử thơ tình. Thật là mâu thuẫn khi những bài thơ tình đều viết ra trước năm 1945, thì đảng phê phán là ủy mị tiểu tư sản và chính Xuân Diệu tự đốt đi, nguyền ruả nó. Sau năm 1945 Xuân Diệu rất hiếm làm thơ tình; nhưng cớ sao bộ máy tuyên truyền cuả đảng cứ gọi mãi Xuân Diệu là Hoàng tử thơ tình? Gọi như vậy có phải là háo danh một cách trơ trẽn không?

    Cũng như vậy họ gọi ông Hồ là danh nhân văn hoá, tập thơ Ngục Trung Nhật Ký là do chôm chiả cuả người khác? Trong khi có những chàng hoàng tử đích thực như Nguyễn Bính, Hồ Dzech, Hữu Loan v.v..thì bị gán cho cái tội nhân văn giai phẩm, kẻ đi tù, người về quê đóng gạch, luôn bị rình rập ám toán đến tuyệt đưòng sinh nhai. Nhiều người sống lay lắt dật dờ như cái bóng mà chết dần chết mòn như các ông: Đặng Đình Hưng, Trần Dần, Lê đạt, Hoàng Cầm v.v..Trong số những mảnh đời tài ba bất hạnh này tôi thấy đau xót cho Hữu Loan một nạn nhân thương tâm cuả chế độ cộng sản và tôi đã chuyển thể thơ ông. Nếu các bạn rỗi rãi thì đọc chơi, thưởng lãm cho vui và cho cả linh hồn người quá cố thì tôi cũng lấy làm mãn nguyện lắm rồi. Hoặc ai đó có chê bai coi thường khinh rẻ như kiểu cộng sản thì cũng chẳng sao.

    Tại sao trong bài viết này tôi lại chọn nhân vật Hữu Loan? Thật ra thơ Hữu Loan theo tôi là hay theo trình độ dân gian, theo tôi là trên trung bình với lối viết thự do. Nhưng Hữu Loan là nhân vật phù hợp tiêu biểu nhất cho đề tài tôi muốn viết: Văn thi sĩ dưới chế độ đồng loại ăn thịt người. Vậy tình cảm ,cảm xúc cuả tôi về Hữu Loan ra sao? Với những bài thơ tôi đã chuyển thể hay viết về ông sẽ cắt nghiã cho việc bài viết này.

    28.6.2012 Lu Hà

    Kính Tặng Hương Hồn Hữu Loan

    Có Ai Thắp Nén Hương Sầu Cho Tôi
    chuyển thể thơ Hữu Loan: Màu tím Hoa Sim

    Phận là gái ba anh bộ đội
    Xa gia đình ở mãi chiến khu
    Em trai còn bé ngây thơ
    Vẫn chưa biết nói mẹ già em thương

    Tôi Hữu Loan người chồng vệ quốc
    Đợi chờ em mái tóc còn xanh
    Kết hôn ngày đẹp tháng lành
    Không đòi áo cưới, yêu anh trọn đời

    Tôi tranh thủ mấy ngày vội vã
    Đôi dày đinh tầm tã hành quân
    Bùn lầy lưá tuổi đang xuân
    Em cười xinh xắn tâm hồn ngất ngây

    Chàng độc đáo em say giản dị
    Tình vợ chồng đắm đuối yên vui
    Cưới xong rồi phải ra đi
    Mấy ngày nghỉ phép ngậm ngùi trăng suông

    Vẫn ái ngại tào khang nồng thắm
    Gái có chồng ảm đạm chiến tranh
    Cuộc đời vệ quốc chiến binh
    Biết đâu vĩnh biệt khi mình hy sinh

    Cũng khối kẻ rừng xanh núi đỏ
    Nắm xương tàn cổ độ trăng thu
    Linh hồn lạc lối quê nhà
    Tìm người vợ trẻ sớm chiều mưa rơi

    Nhưng không chết người trai khói lưả
    Mà chết người em gái hậu phương
    Em tôi một buổi bên sông
    Cuốn trôi rờn rợn thê lương não nùng

    Tôi xin phép về làng thăm mộ
    Mẹ tôi ngồi lã chã thương đau
    Chiếc bình hoa cưới ngày xưa
    Muội tàn bám lạnh tối chiều âm u

    Thương mái tóc vẫn chưa tròn búi
    Vội ra đi sầu tủi hoàng hôn
    Ái ân chưa trọn trăng tuần
    Để anh côi cút tấm thân phong trần

    Vẫn chưa thuả lời trăn ý trối
    Dặn gì nhau lần cuối em ơi!
    Ngày xưa đồi tím sương rơi
    Áo em cũng tím lòng tôi ngẹn ngào

    Tôi nhớ lại đèn khuya vắng vẻ
    Một mình em vá áo cho chồng
    Miệt mài trọn cả đêm trường
    Bát cơm miếng nước tình thương dạt dào

    Chiều đông bắc rừng mưa u ám
    Ba người anh thê thảm bi thương
    Cái tin em gái trôi sông
    Đi nhanh hơn cả lấy chồng mừng vui

    Gió thu sớm ngậm ngùi nước chảy
    Dòng sông quê bàng bạc trăng non
    Em trai mới lớn nhìn lên
    Ngỡ ngàng ảnh chị lệ tràn bờ mi

    Gió hiu hắt mây trời bảng lảng
    Chiều hành quân qua những đồi sim
    Cỏ vàng héo uá trong tim
    Nỗi buồn day rứt âm thầm tôi đi

    Muà sim chín lòng tôi tha thiết
    Cảnh chiều hoang biền biệt Ninh ơi!
    Ai hò biển lá xa xôi
    Vô tình ác ý giưã đời thương đau...

    Chiều hoang tím vàng thu không rứt
    Tôi ngân nga da riết lời ca
    Áo anh sứt chỉ đường tà
    Vợ anh chết sớm mẹ già chưa khâu...

    Muà sim chín càng đau rớm lệ
    Gió thông reo tê tái hồn thơ
    Nấm mồ cỏ dại hoang vu
    Có ai thắp nén hương sầu cho tôi!

    20.3.2010 Lu Hà

    Tỏ lòng ngưỡng mộ thương nhớ tới thi sĩ Hữu Loan



    Tôi Khóc Thương Anh
    Kính viếng hương hồn thi sĩ Hữu Loan

    Tôi khóc nhớ anh một nỗi thương
    Hỡi người thi sĩ cuả quê hương
    Vì ai khổ lụy màu hoa tím
    Nga Lĩnh người ơi, dưới suối vàng

    Từ giã cõi đời anh vẫn đau
    Nỗi đau dân nước gói trong thơ
    Giang sơn gấm vóc đang chìm đắm
    Bởi kẻ vô tâm bóng ác tà…

    Anh đã đi rồi theo bóng trăng
    Mênh mông sầu thảm cả đại dương
    Hôm nay u ám trời mây tối
    Tầm tã mưa rơi những suối lòng

    Anh đã thản nhiên trong áo quan
    Rung ring sương rụng những đồi sim
    Ngàn thu yên giấc sầu thiên cổ
    Để lại trên đời những trái tim.

    Vĩnh biệt ra đi hỡi Hữu Loan
    Phiêu diêu cảnh giới những linh hồn
    Nhân văn giai phẩm ngày xưa ấy
    Bè bạn tìm nhau chốn cửu tuyền.

    7 giờ 15 phút 19.3.2010 Lu Hà



    Nhớ Đồi Tím Hoa Sim
    Kính tặng nhà thơ Hữu Loan

    Gió sớm hương về một nắng thu
    Bâng khuâng tâm dạ giọt sương chiều
    Thương chàng thi sĩ dòng sông mã
    Nhớ vợ hồn ma hẹn bóng chờ

    Tôi biết rằng anh khóc đã nhiều
    Nỗi niềm đau khổ xuốt canh thâu
    Trái tim thi sĩ tình trong trắng
    Hồn đã ghi sâu tấm mộng đầu

    Tôi đọc bài thơ của Hữu Loan
    Tấm lòng thương vợ với thi nhân
    Gọi anh như thuở ngày xưa đó
    Khắc ở trong tim một nỗi buồn

    Tôi đọc bài thơ cũng nghẹn ngào
    Thương anh vệ quốc cuả ngày xưa
    Hành quân ngang trái muà xim chín
    Tím cả lòng anh những buổi chiều

    Anh khóc vợ anh em gái yêu
    Tình nàng dấu kín lúc khi nào
    Mẹ Cha dạm hỏi mà chẳng biết
    Như trái tim non trái chín muà

    Từ chiến khu ba anh đã về
    Không đòi áo cưới gái làng quê
    Hương thơm giản dị màu xim tím
    Thơm mái tóc xanh hẹn nỗi thề

    Mấy ngày nghỉ phép cưới là đi
    Đọng lại môi anh một nụ cười
    Thương em gái nhỏ chiều quê ấy
    Trằn trọc mưa rừng nỗi nhớ thôi

    Anh biết làm sao được hở trời
    Dòng sông rờn rợn quấn em đi
    Lưả tình đôi lưá muà xim chín
    Chẳng trọn tuần trăng hẹn lỗi rồi….

    Anh chạy về thăm bóng xế tàn
    Mẹ ngồi mộ tối khóc bên con
    Bình hoa ngày cưới tàn đông lạnh
    Mái tóc còn xanh buí chưả tròn

    Số kiếp loài người bạc thế sao?
    Thương anh vệ quốc thuở khi nào
    Phu thê chăn gối chưa tròn tháng
    Sầu đã rã tan một cánh bèo

    Nặng nghĩa ân tình một trái tim
    Bài thơ muôn thuở nấc nguồn cơn
    Thương đau cho dấu đồi xim tím
    Nhớ hẹn chiều quê lúc xế tàn

    Nếu phải một đời đi vắng xa
    Tình quê nam việt vẫn bao la
    Hôm nay ngồi đọc đồi xim tím
    Vương vấn lòng ai nỗi nhớ nhà….

    ngày 24 tháng 8 năm 2008 Lu Hà


    Vịnh Hữu Loan

    Cuộc thế tàn suy trọn kiếp đời
    Anh thư tiết tháo thuở dong chơi
    Tâm hồn thi sĩ hoàng hôn thảm
    Đồi tím hoang vu gió vẳng lời
    Rờn rợn trăng soi dòng nước chảy
    Bơ vơ tăm cá cánh bèo bơi
    Trúc mai tùng bách còn xanh nở
    Ngào ngạt hương thơm cúc giưã trời

    20.3.2010 Lu Hà



    Tình Quê
    chuyển thể thơ Hữu Loan: Hoa Luá

    Hương ngào ngạt đồng xanh hoa luá
    Đôi mắt nhung chan chưá người ơi!
    Mênh mông thăm thẳm chân trời
    Cay đa giếng nước bồi hồi tình quê

    Trải gió bụi sơn khê vạn nẻo
    Nhạc quê hương cổ độ trăng lên
    Xôn xao chim chóc vang ngân
    Lời ca như thể mưa ngàn suối reo

    Gió thu sớm vi vu thánh thót
    Để lòng anh tha thiết hội muà
    Đánh đu vật trụi cuộc cờ
    Dân ca quan họ mặn mà xa bay

    Trai với gái thôn đoài thôn thượng
    Ván thăm thuyền một mảng trầu cau
    Yêu nhau cởi áo cho nhau
    Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay

    Núi bát ngát sông đầy hương nội
    Khói sương lam phủ mái nhà tranh
    Ngân hà một khoảng trời xanh
    Mười mong chín nhớ cho mình yêu nhau

    Cầm bàn tay đậm đà ân ái
    Tuổi hai mươi một trái tình si
    Ngực căng mắt biếc xa xôi
    Tràn đầy nhưạ sống tuổi đời trắng trong

    Một toà ngọc hiền lương đắm đuối
    Thương quê hương bất diệt tình em
    Tào khang trọn nghiã tình thâm
    Răng long tóc bạc thì thầm thông reo

    22.3.2010 Lu Hà

    Thưa Anh Vương Ngọc Minh, cái điều Anh tâm sự thành thơ và tôi cũng dùng thơ để tâm sự lại cùng Anh. Theo tôi bài thơ Màu Tím Hoa Sim hay là bởi chữ tâm. Lối viết giản dị nông dân cuả Hữu Loan đã khoan sâu vào lòng người dân Việt Nam. Hữu Loan chỉ có một cô Đỗ Thị Lệ Ninh người vợ mới cưới chết đuối trên sông và cũng chỉ có một Màu Tím Hoa Sim độc nhất vô nhị. Hữu Loan không có nhiều cô Lệ Ninh chết đuối nưã để khóc thành thơ. Định mệnh thật trớ trêu, nghe nói vợ Tố Hữu cũng đã từng yêu Hữu Loan. Tố Hữu vì ghen tuông biết vợ chỉ có Hữu Loan trong lòng.Bài thơ Màu Tím Hoa Sim như cái tát vào mặt Tố Hữu. Vì lý do cá nhân và bài thơ này quá bi lụy thương đau . Theo Tố Hữu là tiểu tư sản phản động,cản trở cho cuộc đấu tranh giai cấp. Nên Tố Hữu đày đoạ Hữu Loan để trả thù cá nhân, „Nhất tiễu song điêu „vưà trả thù riêng vưà đánh cả nhân văn giai phẩm. Hữu Loan bị khổ nạn là như vậy đó, đóng gạch, thồ đất, con cái bị trù dập khổ lây là một điều dễ hiểu. Cho nên bài thơ này người ta mua lại với lý do tế nhị để giữ bản quyền chỉ có 100 triệu đồng theo tôi vẫn còn ít. 100 triệu đồng VN khoảng 5 ngàn € tương đương tháng lương cuả một kỹ sư bình thường ở các nước văn minh, ngoài ra còn phải đóng thuế 10 cho nhà nước là 10 triêụ đồng VN. Nhà nước cộng sản đã đày đoạ ông xuống tận cùng cuả kiếp ngưòi còn muốn kiếm chác thêm ở con người khốn khổ này 10 triệu đồng nưã thì thử hỏi là cái giống gì? 90 triệu còn lại chia đều cho 10 đưá con là 60 triệu. Hữu Loan giữ lại 30 triệu để phụng dưỡng tuổi già. 30 triệu khoảng 1500 € (1500 € bằng lương thất nhiệp cuả một ngưòi lao động ở các nước văn minh ). Nghe vậy cũng đủ ưa nước mắt rồi Anh Minh ạ. Câu hỏi cuả Anh rất đúng không sai, và tôi đã làm thơ tâm sự trả lời Anh
    Chúc Anh và Gia Đình bình an

    Ngàn Năm Vẹn Tròn
    Tâm sự cùng Vương Ngọc Minh

    Ông Hữu Loan bước vào lịch sử
    Bởi cuộc đời sầu tủi bi thương
    Giưã bầy lang sói điên khùng
    Tinh thần kẻ sĩ ngang tàng có hay

    Cõi trần thế si mê tăm tối
    Ánh hào quang sáng chói những ai?
    Hữu Loan là một con người
    Trái tim lương thiện ngậm ngùi thương đau

    Màu sim tím xót xa rỏ lệ
    Mái nhà tranh bi lụy tình quê
    Xanh lam dặm nẻo sơn khê
    Ru hồn dân tộc tái tê nỗi niềm

    Thương Hữu Loan thương luôn màu tím
    Tình vợ chồng đỏ thắm trái tim
    Cái hay là bởi chữ tâm
    Phải đâu nghệ thuật ngàn năm vẹn tròn….

    21.3.2010 Lu Hà
     

Chia sẻ trang này

Share